LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 29
download
Từ khi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng việc tổ chức, lãnh đạo và phát triển các tổ chức hội. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định: trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sông của nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
- LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ khi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng việc tổ chức, lãnh đạo và phát triển các tổ chức hội. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định: trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sông của nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật (1) Hiện nay, các tổ chức hội đã phát triển nhanh với số lượng lớn và được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng: hội, tổng hội, liên hiệp hội, hiệp hội... Hoạt động của hội ngày càng phong phú và có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: xoá đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên, môi trường, nâng cao dân trí, tham gia vào việc xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, thể dục thể thao, từ thiện nhân đạo. Nhiều hội đã và đang tham gia cung cấp dịch vụ công do Nhà nước chuyển giao, tham gia tư vấn, phản biện các đề án, chính sách, góp phần nâng cao vai trò quản lý và hoàn thiện về thể chế, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách pháp luật và áp dụng pháp luật về Hội trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa phù hợp với tình hình phát triển của các tổ chức hội. Một số hội hoạt động còn mang tính hình thức, nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại và hành chính hoá, chưa phản ánh được nguyện vọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên. Hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về hội còn hạn chế do các biện pháp, chế tài chưa đủ mạnh, nhiều lĩnh vực quản lý, nhất là những lĩnh vực có yếu tố nước ngoài còn chưa được quy định. Nhiều vấn đề lý luận về tổ chức hội trong điều kiện đặc thù ở nước ta trong mối quan hệ với vị trí, vai trò của hội trong xu thế toàn cầu hoá và bối cảnh hội nhập quốc tế chưa được làm sáng tỏ. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ và tăng cường
- xã hội hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay cũng chính là đòi hỏi cần hoàn thiện pháp luật về hội nhằm tạo hành lang pháp lý giúp các tổ chức hội có điều kiện phát triển thuận lợi, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Để khắc phục những bất cập, hạn chế của văn bản pháp luật hiện hành về hội, đồng thời thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì việc hoàn thiện pháp luật vê hội là một yêu cầu khách quan và cấp thiết. Chính vì thế, tôi chọn vấn đề “Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Những năm qua, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về hội nói chung, tổ chức và hoạt động của hội nói riêng, như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Thực trạng và giải pháp quán lý nhà nước với các tổ chức phi chính phủ " do Vụ các tổ chức phi chính phủ - Ban tổ chức cán.bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) chủ trì thực hiện năm 2000; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ đối với hội và tổ chức phi chính phủ trong thời kỳ đổi mới” do Vụ Tổ chức phi chính phủ - Bộ Nội vụ thực hiện, hoàn thành tháng 10/2004; Báo cáo tổng hợp của dự án “Điều tra thực trạng về hội và tổ chức phi chính phủ ở nước ta hiện nay” do Viện Nghiên cứu khoa học Nhà nước thuộc Bộ Nội vụ chủ trì thực hiện, hoàn thành tháng 3/2006; Báo cáo “Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam” do dự án CIVICUS CSI-SAT (công cụ đánh giá nhanh chỉ số xã hội dân sự) thực hiện, hoàn thành tháng 01/2006; Tài liệu hướng dẫn về Luật liên quan đến các tổ chức dân sự của Viện Xã hội mở, NewYork, do Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam dịch; Tuyển tập “Ý kiến đóng góp về quyền lập hội” do Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam xuất bản tháng 5/2006. Tác giả Thang Văn Phúc (chủ biên), Nguyễn Xuân Hải, Nguyễn Ngọc Lâm, Nguyễn Quốc Tuấn đã xuất bản cuốn sách “Vai trò của các hội trong đổi mới và phát triển đất nước" (Nhà xuất bản Chinh trị quốc gia, Hà Nội , năm 2002), trong đó tập trung
- phân tích các vấn đề: nhận thức chung về hội và đặc điểm của hội ở Việt Nam, các hội ở Việt Nam trong đôi mới và phát triển đất nước, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước với các hội quân chúng. Thạc sỹ Nguyễn thị Hồng, giảng viên Trường chính trị tỉnh Phú Thọ có luận án tốt nghiệp khoá 9 Học viện Chính trị QG HCM về “Cơ sở lý luận xây dưng pháp luật về tổ chức và hoạt động cua hội Ở miệt Nam hiện nay”. Tác giả đã phân tích khái niệm, đặc điểm của hội; vị trí, vai trò của hội trong đời sống xã hội và phát triển đất nước; thực trạng pháp luật về tô chức và hoạt động của hội Ở Việt Nam hiện nay để từ đó kiến nghị một số giải pháp cơ bản xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động của hội ở Việt Nam hiện nay. Bện cạnh đó, còn có Kỷ yếu hội thảo "Khung pháp lý tổ chức, hoạt động và quản lý tổ chức phi chính phủ Việt nam trong tình hình hiện nay” do Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Viện KAS tổ chức tháng 12-2000; Tài liệu tập huấn về “Tổ chức, quản lý hội và tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam” do Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ tổ chức tháng 11-2000 tập hợp các bài viết của các chuyên gia của Bộ Công an và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ; Kỷ yếu hội thảo “Trao đổi kinh nghiệm xây dựng pháp luật về các tổ chức xã hội” do Ban Công tác lập pháp của Quốc hội tổ chức tháng 8/2004 tại Hạ Long; Kỷ yếu hội thảo “Pháp luật về hội” của Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức tháng 11/2004; . Các bài viết và tham luận tại các cuộc hội thảo phân tích Ở nhiều khía cạnh khác nhau song đều có điểm thống nhất chung là sớm ban hành Luật về hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Các công trình nghiên cứu nêu trên nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hội và kiến nghị nhiều giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà n ước về hội dưới nhiều góc độ, trong đó có một giải pháp quan trọng là xây dựng Luật về hội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chưa tập trung nghiên cứu sâu vào vấn đề hoàn thiện pháp luật về hội gắn với những so sánh với pháp luật quốc tế với vai trò là một nội dung nghiên cứu chính. Vì vậy, đề tài luận văn thạc sỹ luật học "Hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay" sẽ góp phần giải quyết được vấn đề nêu trên.
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các chủ trương, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về hội. - Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tốt nghiệp cao học, luận văn tập trung nghiên cứu sâu về những vấn đề lý luận cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về hội nhằm điều chỉnh, định hướng tổ chức và hoạt động của hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thời gian nghiên cứu từ thời kỳ sau cách mạng tháng 8 đến nay và kinh nghiệm xây dựng pháp luật về tổ chức xã hội của một số tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế giới, Trung tâm quốc tế về luật phi lợi nhuận) và một số nước trên thế giới (Pháp, Đức, Trung Quốc...) 4. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn Mục đích của Luận văn là tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hội đáp ứng việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, đồng thời phù hợp với đặc thù chính trị-xã hội ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau: - Phân tích khái niệm, đặc điểm của hội, phân tích tính đặc thù, vị trí, vai trò của hội ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế. - Phân tích thực trạng pháp luật về hội ở nước ta từ giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến nay, tập trung vào thời kỳ đổi mới. - Đề xuất, luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hội đáp ửng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và phù hợp với đặc thù chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển hội; những học thuyết, tinh hoa tư tưởng của nhân loại về tổ chức và hoạt động của hội. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp của triệt học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp
- phân tích và tổng hợp, phương pháp của luật học so sánh; phương pháp của lý thuyết hệ thống. 6. Nhũng điểm mới của Luận văn Luận văn phân tích có hệ thống về quá trình phát triển của pháp luật về hội ở nước ta; đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về hội trong mối quan hệ so sánh với pháp luật về các tổ chức xã hội của một số nước trên thế giới và tổ chức quốc tế để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hội theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước ta, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức hội trên cơ sở phù hợp với đặc thù về chính trị - xã hội của nước ta và pháp luật quốc tế. 7. Ý nghĩa của Luận văn: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm của hội ở Việt Nam hiện nay; bổ sung những quan điểm, định hướng trong tổ chức và hoạt động cũng như quản lý nhà nước về hội, nhất là trong điều kiện có nhiều ý kiến, quan điểm không thống nhất về vấn đề này. - Góp phần hoàn thiện pháp luật về hội trong bối cảnh mở rộng dân chủ XHCN, tăng cường xã hội hoá và chủ động hội nhập quốc tế. 8. Kết cấu của Luận văn: Luận văn ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm 3 chương, 10 tiết.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Mặc dù Sắc lệnh số 52/SL ngày 22-4-1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30-7-2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sau đây gọi là Nghị định 88) đã đưa ra khái niệm về hội, song để đáp ứng nhận thức, tư duy mới về “hội” trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng dân chủ xã hội cũng như đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước trong tình hình mới, thì cần một cách tiếp cận toàn diện hơn, đầy đủ hơn về khái niệm “hội”. Đi tìm một khái niệm mới về “hội”, trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng dự thảo Luật về hội, các học giả, các chuyên gia pháp luật và cán bộ làm công tác hội đã tranh luận sôi nổi ở nhiều diễn đàn, đưa ra nhiều quan điểm trái chiều với những cách thức tiếp cận đa diện. Cho đến nay, ở Việt Nam, xét ở khía cạnh học thuật và pháp lý, chưa có khái niệm “Hội” theo một cách nhìn toàn diện, thống nhất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý đều đồng tình rằng, hội là một trong những thành tố của Xã hội dân sự. Chính vì vậy, việc nghiên cứu khái niệm về hội cũng như các vấn đề liên quan đế hội cần phải đặt trong tổng thể của một tập hợp các chủ thể xã hội, phi nhà nước dưới khái niệm chung là Xã hội dân sự; đồng thời cần xem xét quan hệ của “hội” với tư cách là một thành tố trong xã hội dân sự với các thành tố khác. 1.1. XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ - QUAN NIỆM CỦA THẾ GIỚI VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm xã hội dân sự và mối quan hệ với nhà nước, thị trường trong cấu trúc xã hội 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xã hội dân sự
- Theo ngôn ngữ tiếng Việt, có 2 cụm từ được sử dụng cho Xã hội dân sự, đó là: xã hội công dân và xã hội dân sự. Tuy nhiên, tương tự như các nước khác, hiện nay, ở Việt Nam, khuynh hướng sử dụng cụm từ Xã hội dân sự phổ biến hơn do được dịch đúng theo nghĩa đen cụm từ tiếng Anh Civil Society. Về khái niệm xã hội dân sự, Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa: Xã hội công dân là hệ thống các tổ chức của công dân, các cộng đồng công dân và các quan hệ giữa chúng, nhằm hiện thực hoá các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời thông qua các cộng đồng, xã hội công dân phối hợp hoạt động với nhà nước, bảo đảm cho quan hệ giữa nhà nước và xã hội cân bằng, ổn định, tạo các điều kiện tối ưu cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.(2) Cũng theo giáo trình này, “các thể chế xã hội công dân độc lập tương đối, không phụ thuộc, không phải là các tổ chức nhà nước, cũng không phải là các tổ chức (cơ sở) sản xuất kinh doanh”(2) Trung tâm xã hội dân sự của Trường kinh tế Luân Đôn đưa ra định nghĩa: Xã hội dân sự được hiểu là khu vực của hoạt động tập thể, tự nguyện nhằm chia sẻ những mối quan tâm, mục đích và giá trị chung. Về lý thuyết, hình thức tổ chức của xã hội dân sự là sự khác biệt với nhà nước, gia đình và thị trường; trong khi trên thực tiễn, ranh giới giữa nhà nước, xã hội dân sự, gia đình và thị trường thường là rất phức tạp và mờ nhạt. Xã hội dân sự nhìn chung bao gồm sự đa dạng về không gian, nhân sự và dạng thức tổ chức; đồng thời, tồn tại sự linh hoạt trong những thoả thuận về hình thức, vấn đề tự quản và quyền hạn. Xã hội dân sự thường được biết tới thông qua các tổ chức, như các tổ chức từ thiện có đăng ký, các tổ chức phi chính phủ phát triển, các nhóm cộng đồng, các tổ chức phụ nữ, các tổ chức tín ngưỡng, các hội nghề nghiệp, các tổ chức công đoàn, các nhóm tự giúp đỡ, các phong trào xã hội, các hiệp hội kinh tế, các nhóm t ư vấn và liên hiệp.(3) Ngân hàng thế giới dùng thuật ngữ Xã hội dân sự như sau:
- Xã hội dân chủ để chỉ lực lượng đông đảo các tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ đang hiện diện trong đời sống công chúng, biểu hiện những lợi ích và giá trị của các thành viên của tổ chức mình hoặc các lợi ích khác, dựa trên sự quan tâm về dân tộc, văn hoá, chính trị, khoa học, tôn giáo hoặc từ thiện. Các tổ chức xã hội dân sự, do đó, được hiểu là bao gồm các nhóm cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, các liên đoàn lao động, các nhóm bản địa, tổ chức từ thiện, các tổ chức tín ngưỡng, các hiệp hội nghề nghiệp và các quỹ. (4) Tổ chức phi chính phủ quốc tế CIVICUS (Liên minh Thế giới về sự Tham gia của người dân) định nghĩa xã hội dân sự là “môi trường bên ngoài Gia đình, Nhà nước và Thị trường, là nơi quần chúng liên hiệp với nhau để phát triển những quyền lợi chung”(5) Tuy nhiên, xét về mục đích của các chủ thể tham gia các hoạt động trong xã hội dân sự, TS Hoàng Ngọc Giao cho rằng: Trong phạm vi không gian này, không chỉ có các chủ thể dân sự thuần tuý là những liên kết chính thức, không chính thức của những cá nhân, tổ chức xã hội với những mục đích tương thân, tương ái, hoặc chia sẻ sở thích, hoặc đáp ứng các mối quan tâm đời thường, dân sự. Trong không gian quan hệ này, còn có thể có những sự liên kết của những cá nhân có cùng tín ngưỡng, hoặc có cùng niềm tin và/hoặc mối quan tâm tới quyền lực Nhà nước. Nói cách khác, Xã hội dân sự, hiểu theo nghĩa rộng, sẽ bao hàm cả những tổ chức dân sự ‘đặc biệt’ – đó là các tổ chức tôn giáo, và các đảng chính trị. (6) Bên cạnh việc xem xét Xã hội dân sự trên phương diện một khu vực, một môi trường xã hội được thiết kế và vận hành không có yếu tố nhà nước, khái niệm Xã hội dân sự còn được được hiểu theo phương diện với ý nghĩa là xã hội văn minh. PGS.TS Nguyễn Như Phát cho rằng: Tiếp cận cấp độ này cho ta thấy, không phải tất cả những gì nằm ngoài nhà n ước đều là văn minh và ngược lại, tất cả những gì thuộc khu vực nhà nước là không hay có văn minh. Khi tiếp cận theo cách này, Dieter Rucht muốn khẳng định xã hội dân sự là một xã hội văn minh và điều quan trọng, không phải mọi yếu tố ngoài nhà nước đều được nhìn nhận như những thành tố của xã hội dân sự. Những thiết chế mafia, những tổ chức
- khủng bố quốc tế…chắc chắn không nằm trong cơ cấu của bất kỳ quốc gia nào, song đó không phải là những yếu tố của xã hội dân sự. (7) Qua những khái niệm trên, có thể thấy rằng, xã hội dân sự khá đa dạng về bản chất và các thành tố của chính nó, dựa trên sự khác nhau về kiểu khái niệm, cách tiếp cận, nguồn gốc lịch sử và bối cảnh quốc gia. Tuy nhiên, những khái niệm này đều chỉ ra rằng, Xã hội dân sự là một không gian quan hệ rộng rãi, bên ngoài Gia đình, Nhà nước và Thị trường. Như vậy, có thể hiểu xã hội dân sự là xã hội của những người dân với những giao dịch, những liên kết, hay các mối quan hệ tương tác ngoài Gia đình, Nhà nước và Thị trường, nhằm đáp ứng những sở thích, sự quan tâm, lợi ích của các thành viên. Tổ chức xã hội dân sự bao gồn nhiều loại hình tổ chức khác nhau, song không bao gồm các tổ chức mafia, khủng bố quốc tế và các tổ chức tội phạm. Một cách khái quát, có thể nhận dạng xã hội dân sự theo những đặc điểm như sau: - Là một không gian quan hệ xã hội nằm ngoài Gia đình, Nhà nước và Thị trường, vận hành độc lập tương đối với Nhà nước và Thị trường; - Bản chất là một xã hội với những giá trị văn minh, hợp tác và hoà bình. Quan hệ phát sinh trong xã hội dân sự là những mối quan hệ không nhằm mục đích lợi nhuận, tự nguyện, mang tính chất tương hỗ dân sự, hoặc vì lợi ích công cộng, lợi ích xã hội; các mối quan hệ này không mang tính chất quyền lực công; - Các hoạt động của xã hội dân sự được thể hiện thông qua nhiều hình thức đa dạng tuỳ thuộc vào điều kiện, đặc thù của mỗi quốc gia, như: các tổ chức từ thiện, các nhóm cộng đồng, các hiệp hội nghề nghiệp, các liên đoàn lao động, các tổ chức tín ngưỡng… thường được gọi là các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức phi lợi nhuận. 1.1.1.2. Mối quan hệ của xã hội dân sự với nhà nước và thị trường Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của xã hội dân sự cũng như các tổ chức xã hội càng được khẳng định và có bước phát triển mạnh mẽ. Trải qua các giai đoạn phát triển, nhiều tổ chức xã hội dân sự được coi là đối tác đầy đủ trong các diễn đàn của Liên hiệp quốc nhờ những đóng góp đáng kể vì một thế giới hoà bình và thịnh vượng. Phát biểu tại Diễn đàn thế giới về xã hội thông tin (The World Summit on the
- Information Society) tổ chức tại Tunisia từ ngày 16-18/10/2005, ông KofiAnan, nguyên Tổng thư ký liên hiệp quốc đã khẳng định: Liên hiệp quốc trước kia chỉ quan hệ chính thức với các Chính phủ. Nhưng giờ đây chúng tôi hiểu rằng hoà bình và thịnh vượng không thể đạt được mà không có đóng góp của các đối tác, bao gồm các chính phủ, các tổ chức quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội dân sự. Trong thế giới ngày nay, chúng tôi tin cậy vào vai trò của từng đối tác.(8) Tuy nhiên, không chỉ ngày nay, tầm quan trọng của xã hội dân sự mới được khẳng định. C. Mác đã từng khái quát vai trò của xã hội dân sự là: “Xã hội công dân đó là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử” (9). Ý nghĩa của nhận định này là ở chỗ, giai cấp nào, lực lượng xã hội nào, đảng chính trị nào muốn chiến thắng đều phải chiến thắng ở xã hội công dân. Trong mỗi quốc gia, cấu trúc xã hội bao gồm chủ yếu 3 thành phần là: Nhà n ước, Thị trường và Xã hội dân sự. Dưới giác độ nghiên cứu phát triển, Nhà nước pháp quyền – kinh tế thị trường – xã hội dân sự được coi là 3 trụ cột của sự phát triển. Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Sơ đồ 1: Lý thuyết “tam giác phát triển” Mô hình trên miêu tả quá trình phát triển của “tam giác phát triển”. Theo đó, ba yếu tố nhà nước, thị trường và xã hội dân sự là ba cạnh của một tam giác. Nguồn lực của một quốc gia do 3 yếu tố đó hợp lại bằng chu vi của tam giác (tổng ba cạnh) và không đổi tại thời điểm khảo sát. Hiệu quả của sự phối hợp giữa 3 yếu tố đó được thể hiện bằng diện tích tam giác, ký hiệu là S. Nếu giải quyết 3 mối quan hệ đó không cân đối, chúng ta
- có một tam giác thường với các cạnh không bằng nhau; khi đó, diện tích tam giác sẽ là nhỏ nhất (S1). Nếu ba cạnh của “tam giác phát triển” bằng nhau thì xã hội sẽ phát triển cân đối. Diện tích do ba cạnh của tam giác đều tạo thành là lớn nhất (S2 > S1). Ở trình độ lý tưởng, khi nhà nước, thị trường và xã hội dân sự xâm nhập vào nhau, chuyển hoá cho nhau đến mức một chủ thể tham gia vào đời sống xã hội có thể đại diện cho nhà nước, cho thị trường và cho xã hội dân sự; khi đó, “nhà nước không còn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”(10). Nhà nước mất tính chính trị, thị trường mất tính hàng hoá, xã hội dân sự mất tính nhóm. Ở trình độ này, các quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội thay đổi về chất. Nhà nước tiêu vong, các quan hệ thị trường thay đổi, con người được giải phóng triệt để; đó là “khi mọi người đã học được cách quản lý xã hội” – “khi đó nói chung bất cứ việc quản lý nào cũng đều trở nên không cần thiết nữa” (11). Các cạnh của tam giác đã chuyển hoá thành đường tròn và diện tích tam giác lúc này đã chuyển thành diện tích hình tròn, tạo nên hiệu quả cực đại: S3 > S2 > S1. Xét về mối quan hệ giữa xã hội dân sự với Nhà nước và Thị trường, có thể thấy rằng, 3 yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó Nhà nước với ưu thế là quyền lực chính trị, với các thiết chế quyền lực công, luôn giữ vai trò chi phối. Nhà nước là một thiết chế quyền lực công, có quyền hạn quyết định mức độ, phạm vi của ‘không gian dân sự ngoài nhà nước’- xã hội dân sự. Nhà nước thông qua luật pháp và các thiết chế hành chính của mình có thể công nhận, tôn trọng và đảm bảo sự vận hành độc lập, sự phát triển của xã hội dân sự. Nhưng, đồng thời, cũng chính Nhà nước có thể, bằng quyền lực chính trị, hạn chế, thu hẹp hoặc thậm chí triệt tiêu xã hội dân sự. Với chức năng duy trì trật tự công cộng, Nhà nước có quyền đưa ra những hạn chế cụ thể đối với quyền lập hội, lập phường của nhân dân. Tuy nhiên những hạn chế này chỉ được coi là chính đáng về mặt thể chế chính trị, và phù hợp pháp luật quốc tế, khi có lý do chính đáng do việc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, và vì sự đảm bảo quyền và tự do cơ bản của các công dân khác. Bên cạnh đó, Nhà nước với chức năng xã hội, tạo điều kiện để phát huy quyền lập hội, quyền hội họp, quyền tham gia các công việc của nhà nước và xã hội theo đúng
- quy định của pháp luật. Công chức, cơ quan quyền lực được đặt vào vị trí ‘công bộc’ của nhân dân, chứ không là ‘quan cai trị’. Bộ máy Nhà nước phục vụ hoạt động theo các nguyên tắc minh bạch, công khai, có trách nhiệm. Do vậy việc hình thành một xã hội dân sự mạnh không chỉ là một nhu cầu của nhân dân, mà cũng đồng thời là một mong muốn của nhà nước pháp quyền. Trong trường hợp này nhà nước và xã hội dân sự có mối liên hệ mật thiết, bổ sung lẫn cho nhau. Về mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước, thực tiễn cho thấy, mặc dù xã hội dân sự rất quan trọng, nhưng trong mọi trường hợp xã hội dân sự cũng chỉ là một trong 3 bộ phận cấu thành của một xã hội quốc gia. Xã hội dân sự dù có mạnh mẽ tới đâu cũng không thể thay thế Nhà nước. Nhà nước và xã hội dân sự có vai trò và sứ mệnh riêng trong tiến trình phát triển xã hội. Để phát triển bền vững, lành mạnh, giữa xã hội dân sự và nhà nước phải có quan hệ bổ sung lẫn nhau. Nhà nước lấn lướt, o ép xã hội dân sự thì dễ trở thành chuyên quyền độc đoán. Xã hội dân sự đối lập với Nhà nước, cạnh tranh với Nhà nước về quyền lực thì dễ đưa tới tình trạng vô chính phủ. Với Thị trường, xã hội dân sự là không gian quan hệ phi lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, sản xuất nhằm bảo vệ lợi ích của các ngành nghề, chia sẻ thông tin... thông qua các hội, phường, hiệp hội. Khi tham gia thị trường, các cá nhân, doanh nghiệp cũng có nhu cầu liên kết, lập hội, lập phường vì những mối quan tâm chung về sản phẩm, về thị trường, giá cả… Bên cạnh những hội, phường kinh doanh sản xuất, xã hội dân sự còn được biết đến thông qua những tổ chức của những người tiêu dùng, những tổ chức môi trường... là những tổ chức có nhiều quan tâm tới tác động của thị trường về giá cả, chất lượng hàng hoá đối với người tiêu dùng, cũng như về tác động môi trường của những hoạt động sản xuất, kinh doanh. Một xã hội dân sự mạnh sẽ là điều kiện tốt để đảm bảo kinh doanh bình đẳng, thân thiện với môi trường và xã hội. Và ngược lại, nếu xã hội dân sự yếu thì sẽ là cơ hội cho sự thăng hoa của chủ nghĩa lợi nhuận thuần tuý. 1.1.1.3. Đặc điểm của xã hội dân sự ở Việt Nam Trong một thời gian dài, thuật ngữ xã hội dân sự được xem là nhạy cảm, đặc biệt sau khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Do vậy, việc tiếp cận và nghiên cứu về xã hội dân sự ở nước ta chưa được quan tâm đúng mực, dẫn đến nhận thức về vấn
- đề này chưa đầy đủ, đôi khi có những quan điểm phiến diện về vai trò, tác động của xã hội dân sự trong xây dựng và phát triển đất nước. Bắt đầu từ năm 2005, với sự giúp đỡ của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Liên minh toàn cầu vì sự tham gia của công dân (CIVICUS), Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV), lần đầu tiên tại Việt Nam, vấn đề xã hội dân sự đã được Viện Những vấn đề phát triển (VIDS – thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) tiến hành nghiên cứu thông qua Dự án CIVICUS-CSI-SAT và vừa xuất bản báo cáo đánh giá ban đầu. Theo đánh giá của báo cáo này thì bối cảnh lịch sử của xã hội dân sự tại Việt Nam trải qua bốn giai đoạn phát triển: - Trước năm 1945: với đặc điểm là một xã hội mà trong đó cộng đồng làng xã ít phụ thuộc vào Nhà nước. tư duy người dân hình thành tinh thần đấu tranh chồng ngoại xâm đã góp phần vào tình trạng khép kín trong hệ thống hành chính quan liêu của Việt Nam; - Sau năm 1945: xã hội dân sự được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ chuyển thành những tổ chức quần chúng; - Sau 1975: Công cuộc đổi mới (1986) và sự sụp đổ của các nước XHCN Đông âu đã làm cho Việt Nam mỏ cửa cải cách cho khu vực hợp tác xã, khuyến khích kinh tế hộ gia đình, cho thành phần tư nhân, đầu tư nước ngoài, cải cách tổ chức kinh tế và tài chính, hợp tác với nước ngoài, đặc biệt là bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (1995); - Giai đoạn cuối cùng hình thành trong thập niên 90 với sự bùng nổ của nền kinh tế Việt Nam, các cải cách pháp luật và hành chính song hành với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với bối cảnh lịch sử như trên, xã hội dân sự Việt Nam được hình thành. khôi phục, phát triển và mở rộng không ngừng. Nếu trước nám 1986, các tổ chức xã hội chủ yếu bao gồm các tổ chức quần chúng (cá c tổ chức chính trị-xă hội) như Công đoàn, Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, thì từ đầu thập niên 90 việc mở của xã hội cho các thành phần kinh tế khác cũng tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội và việc phục hồi các tập quán liên quan đến sinh hoạt hàng ngày, một phần theo các hình thức mới. Một xã hội dân sự rộng lớn hơn đã xuất hiện và nở rộ các tổ chức.
- Mặc dù dự án đưa ra 7 nhóm chính để cung cấp một cái nhìn khái quát về Xã hội dân sự ở Việt Nam (bao gồm cả các tổ chức tín ngưỡng và các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam), nhưng phạm vi nghiên cứu, khảo sát chính thức về xã hội dân sự ở Việt Nam được thông qua 4 nhóm sau đây: 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức quần chúng trực thuộc; 2. Các hội nghề nghiệp, bao gồm cả các tổ chức liên hiệp hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 3. Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam (cũng được gọi là các tổ chức khoa học và công nghệ nếu đăng ký thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam); 4. Các nhóm không chính thức tại cộng đồng Nói cách khác, tổ chức xã hội ở Việt Nam bao gồm 4 nhóm như kể trên. So với cách tiếp cận của thế giới thì có 2 điểm lưu ý thể hiện đặc thù của Việt Nam. Đó là: thứ nhất, nhóm 1 gồm Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng trực thuộc mặc dù có mối quan hệ rất chặt chẽ với Đảng và Chính phủ nhưng vẫn được coi là những tổ chức xã hội dân sự; thứ hai, đảng chính trị, các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài không được coi là thành phần thuộc xã hội dân sự Việt Nam. Đánh giá tổng quan về xã hội dân sự ở Việt Nam, dự án CIVICUS-CSI-SAT đã đưa ra sơ đồ Hình thoi xã hội dân sự thể hiện bốn bình diện Xã hội dân sự ở Việt Nam; đó là: cấu trúc xã hội, môi trường xã hội, tác động xã hội và các giá trị xã hội với thang điểm cho mỗi bình diện là từ 0-3 điểm.
- Cấu trúc 3 2 1.6 1 1.4 1.7 0 Các giá trị Môi trường 1.2 Tác động Sơ đồ 2: Hình thoi Xã hội dân sự ở Việt Nam (nguồn: dự án CIVICUS CSI-SAT) Kết quả điều tra, khảo sát của dự án cho thấy, Hình thoi Xã hội dân sự ở Việt Nam có độ lớn vừa phải và khá cân bằng, nó cũng phản ánh quan điểm đánh giá tương đối lạc quan khi so sánh với các đánh giá của các chuyên gia quốc tế. Bình diện “Tác động” có giá trị thấp hơn ba bình diện còn lại. - “Cấu trúc” của Xã hội dân sự có cả điểm mạnh và yếu điểm (điểm số là 1,6). Quy mô của Xã hội dân sự đặc biệt rất rộng lớn do bao gồm các Tổ chức quần chúng, nhưng ngay cả không kể đến các tổ chức quần chúng, thì Xã hội dân sự cũng đã to lớn. Có đến “74% số công dân là thành viên của tối thiểu một tổ chức, 62% là thành viên của từ 2 tổ chức Xã hội dân sự trở lên, và tính bình quân mỗi công dân tham gia 2,3 tổ chức” (12). Các tổ chức quần chúng có khi giảm đi phần ý nghĩa của nó ở chỗ các hội viên tham gia mang tính hình thức hơn là hoạt động một cách tích cực, tuy nhiên họ lại tạo ra một khuôn khổ quan trọng từ trung ương tới cấp độ cộng đồng trong các hoạt động tùy theo nhu cầu và mối quan tâm của từng địa phương. Một loại hình tổ chức mới, đó là các tổ chức phi chính phủ Việt Nam, đã được thành lập trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, chủ yếu ở các thành phố và đã mở ra một bình diện mới cho đời sống. Các tổ chức này có ít hội viên, nhưng lại phục vụ cho những nhóm người thiệt thòi mà trước đây ít được quan tâm. Trong những năm gần đây các nhóm cộng đồng đã bắt đầu nở rộ tại vùng nông thôn để hỗ trợ cho các hoạt động đời sống, các nhóm văn hóa và vui chơi giải trí cũng được
- mở rộng đáng kể. Cho dù có rất nhiều tổ chức bao trùm lên các cơ cấu tổ chức, nhưng nhiều khi còn mang tính hình thức và ít điều phối các hoạt động giữa các tổ chức với nhau. - Bình diện yếu thứ hai trong số bốn bình diện trên là “Môi trường” xã hội (điểm số là 1,4), đặc trưng bởi các hạn chế về chính sách, thiếu quy định và còn tồn tại những thủ tục minh bạch cho việc thành lập và hoạt động. môi trường để xã hội dân sự hoạt động đã được thúc đẩy trên văn bản, nhưng trên thực tế yếu tố khích lệ phát huy sự tham gia của xã hội dân sự trong công cuộc phát triển còn yếu. Tuy nhiên, thập kỷ vừa qua đã chứng kiến một số cải thiện, không gian hoạt động cả Xã hội dân sự đã được mở rộng theo hướng tích cực, nhưng vẫn còn một chặng đường dài trước khi có thể nói về một môi trường khuyến khích cho các tổ chức xã hội dân sự. Dự án cũng thấy được một đặc điểm khác biệt của bối cảnh Việt Nam, nơi mà môi trường dành cho xã hội dân sự, một mặt phụ thuộc rất nhiều vào không gian mà Nhà nước dành cho các tổ chức xã hội, và mặt khác là vào chính sách không can thiệp tới các dạng tổ chức mới. - Các giá trị trong Xã hội dân sự được dự án đánh giá là tích cực và ở mức độ tương đối cao (điểm số là 1,7). Đặc biệt mạnh là các giá trị giảm nghèo, phi bạo lực, và bình đẳng giới, và theo đánh giá thì tất cả các tổ chức xã hội dân sự đều tăng cường các giá trị này. Dữ liệu thống kê cho thấy vai trò và thành phần của phụ nữ và các cán bộ lãnh đạo là nữ giới cao hơn nhiều trong các tổ chức xã hội dân sự so với khu vực nhà nước. Đánh giá ở mức độ thấp hơn, nhưng vẫn ở cấp độ trung bình, đó là các giá trị về dân chủ, lòng vị tha và môi trường bền vững trong các tổ chức, nhưng các giá trị này được đánh giá là đã được tăng cường trong xã hội. - Tác động của Xã hội dân sự tại Việt Nam đã trở thành bình diện khó khăn nhất để đánh giá (điểm số là 1,2). Tuy nhiên, người ta phát hiện thấy rằng tất cả các loại hình tổ chức xã hội dân sự tiếp cận tốt hơn đến tận cấp cơ sở so với các chương trình và chính sách của chính phủ. Theo cách đó, các tổ chức xã hội đã có tác động mạnh mẽ hơn nhằm đảm bảo cho những người bất hạnh và những người nghèo được quan tâm tới trong các chính sách cơ bản, như HIV/AIDS, quyền trẻ em và các vấn đề giới. Còn ít các tổ chức tiếp cận với vùng sâu vùng xa. Các Tổ chức quần chúng và các tổ chức khác chưa có ảnh rõ rệt đối với việc phát triển tri thức bản địa. Tác động đối với các chính sách quốc gia
- trực tiếp là do kết quả của các Tổ chức quần chúng, và mới đây là do một số hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp, có khả năng đóng góp ý kiến cho các bộ luật được Quốc hội thông qua. 1.1.2. Tổ chức phi chính phủ - quan niệm của thế giới và thực tiễn Việt Nam 1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức phi chính phủ Qua việc tìm hiểu khái niệm xã hội dân sự, có thể thấy rằng, dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng có một “nhân vật chính”, cũng là cụm từ được biết đến khá nhiều khi đề cập tới khu vực xã hội dân sự; đó là Tổ chức phi chính phủ. Tổ chức phi chính phủ được dịch ra tiếng Việt từ tên tiếng Anh – Non Govermental Organization. Tuy nhiên, cũng giống như khái niệm về Xã hội dân sự, khái niệm về Tổ chức phi chính phủ rất đa dạng, phụ thuộc vào lịch sử, cách tiếp cận và bối cảnh của từng quốc gia. Ngân hàng thế giới định nghĩa Tổ chức phi chính phủ là: tổ chức tư nhân theo đuổi những hoạt động làm giảm bớt thiệt hại, thúc đẩy những lợi ích cho người nghèo, bảo vệ môi trường, cung cấp những dịch vụ xã hội cơ bản, hoặc thực hiện phát triển cộng đồng. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, thuật ngữ Tổ chức phi chính phủ có thể được áp dụng đối với bất kỳ tổ chức phi lợi nhuận nào độc lập với chính phủ. Những tổ chức phi chính phủ điển hình là những tổ chức dựa trên, một phần hoặc toàn bộ, những giá trị từ thiện và tự nguyện. Mặc dù khu vực các tổ chức phi chính phủ đã phát triển theo hướng chuyên nghiệp hoá trong 2 thập kỷ vừa qua nhưng những nguyên tắc về chủ nghĩa vị tha và tự nguyện vẫn là những đặc tính nhận biết quan trọng (13) Từ điển bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia cho rằng: Thuật ngữ Tổ chức phi chính phủ được sử dụng rất đa dạng trên thế giới, phụ thuộc vào ngữ cảnh sử dụng, có thể được hiểu là nhiều dạng khác nhau của các tổ chức. Ở nghĩa rộng nhất, một tổ chức phi chính phủ là tổ chức mà không phải là bộ phận trực tiếp thuộc cấu trúc chính phủ.
- Vì thuật ngữ phi chính phủ được đề cập với nghĩa quá rộng nên nhiều tổ chức phi chính phủ hiện nay thích dùng thuật ngữ tổ chức tự nguyện tư nhân (private voluntary organization - PVO) hoặc tổ chức phát triển tư nhân (private development organization - PDO) hơn. (14) Từ điển bách khoa toàn thư Britannica định nghĩa tổ chức phi chính phủ là: tổ chức không thuộc cơ cấu của chính phủ. Một khác biệt quan trọng để nhận biết là giữa các nhóm phi lợi nhuận và nhóm vì mục đích lợi nhuận; đại đa số các tổ chức phi chính phủ là hoạt động không vì lợi nhuận. Mục đích của các tổ chức phi chính phủ bao gồm các lĩnh vực liên quan đến quyền và lợi ích của con người trong phạm vi một quốc gia hoặc quốc tế. Tổ chức phi chính phủ có thể được tài trợ bởi các nhà tài trợ tư nhân, các tổ chức quốc tế, các chính phủ hoặc một hình thức kết hợp các hình thức này.(15) Sách “Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh” của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) có đưa ra khái niệm về tổ chức chức phi Chính phủ là: các tổ chức tình nguyện tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức tự nguyện phát triển. Hiểu theo cách thông thường, các tổ chức phi chính phủ có bốn đặc trưng là: tổ chức tình nguyện, độc lập, phi lợi nhuận, mục đích nâng cao điều kiện sống của những người bị thiệt thòi hoặc vì những vấn đề chung rộng lớn của cộng đồng... (16) Qua các khái niệm trên về Tổ chức phi chính phủ, có thể thấy rằng, mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng hiểu theo nghĩa rộng nhất, Tổ chức phi chính phủ là tổ chức không thuộc cấu trúc của chính phủ. Theo cách hiểu hẹp hơn, Tổ chức phi chính phủ là tổ chức không thuộc cơ cấu của chính phủ, được thành lập và hoạt động trên cơ sở tự nguyện, từ thiện và phi lợi nhuận nhằm mục đích bảo vệ, nâng cao chất lượng sống của con người và phát triển cộng đồng. Các đặc trưng của tổ chức phi chính phủ:
- - là tổ chức tự nguyện của cá nhân hoặc tổ chức, không thuộc cơ cấu của chính phủ; tổ chức này được thành lập một cách chính thức, về mặt pháp lý độc lập với nhà nước, mặc dù có thể được nhà nước hỗ trợ; - hoạt động không vì mục đích lợi nhuận: có thể tạo nên thặng dư tài chính nhưng không với mục đích thu lợi riêng cho người quản lý hoặc điều hành; - theo đuổi những mục đích liên quan đến việc thúc đẩy quyền lợi của hội viên, phát triển con người và phát triển cộng đồng; - được tài trợ bởi các nhà tài trợ tư nhân, các tổ chức quốc tế, chính phủ hoặc bao gồm cả 3 nguồn tài trợ nói trên. 1.1.2.2. Phân loại tổ chức phi chính phủ Dựa trên những tiêu chí khác nhau, tồn tại nhiều cách phân loại các tổ chức phi chính phủ. Theo Từ điển bách khoa toàn thư trực tuyến Wikiapedia, có một danh sách dài những từ viết tắt được phát triển xung quanh thuật ngữ NGO - Tổ chức phi chính phủ: - INGO (international NGO) là tổ chức phi chính phủ quốc tế, như CARE, Helvetas (Swiss Association for International Cooperation - Hiệp hội phát triển quốc tế Thuỵ Sỹ), International Alert (tổ chức cảnh báo quốc tế)... - BINGO (business-oriented international NGO) là viết tắt của tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ; - RINGO (religious international NGO) là tổ chức phi chính phủ quốc tế về tôn giáo, như Catholic Relief Services - ENGO (environmental NGO) là tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực môi trường, như Global 2000; - GONGO (government-operated NGOs) là tổ chức phi chính phủ do chính phủ thành lập để có tư cách hoạt động đối với những trợ giúp bên ngoài; - QUANGOs (quasi-autonomous NGOs) là tổ chức bán phi chính phủ. Loại tổ chức này do chính phủ tài trợ kinh phí nhưng lại hoạt động độc lập với chính phủ, như the International Organization for Standardization (ISO) - Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, mà
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tại Công ty liên doanh cơ khí xây dựng
75 p | 2186 | 774
-
Luận văn: Hoàn thiện kế toán thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam
79 p | 826 | 274
-
Luận văn: Hoàn thiện quy trình bán hàng nhằm nâng cao hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty TNHH Phát triển Thương mại Newstar
78 p | 916 | 215
-
Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun
49 p | 535 | 187
-
Luận văn: Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần LILAMA 10
64 p | 887 | 174
-
Luận văn: Hoàn thiện quy trình xuất khẩu hàng hoá tại công ty xuất nhập khẩu Hà Thiên – Galaxy
121 p | 1173 | 170
-
Luận văn: Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối sản phẩm Bảo hiểm tại Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam
85 p | 277 | 93
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về hải quan đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
95 p | 343 | 87
-
Luận văn Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay
130 p | 542 | 85
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
123 p | 330 | 81
-
Luận văn: Hoàn thiện quản lý vốn đầu tư Xây dựng cơ bản của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
81 p | 309 | 79
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo dân chủ trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
98 p | 207 | 56
-
Luận văn: Hoàn thiện các giải pháp thu hút khách hàng tổ chức của Công ty Cổ phần Xi măng COSEVCO Đà Nẵng
71 p | 170 | 42
-
Luận văn: Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong hệ thống thi hành án dân sự Việt Nam
120 p | 270 | 35
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty cổ phần giải pháp mạng và phân phối máy tính
73 p | 146 | 28
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện các giải pháp MARMIX xuất khẩu hàng may mặc của công ty May 10 sang thị trường EU
89 p | 103 | 27
-
Luận văn: Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
107 p | 138 | 27
-
Luận văn hoàn thiện công tác kế toán bán hàng tại công ty Hà Bắc - Dương Thùy Mai - 1
10 p | 99 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn