Luận văn "Khiếm khuyết thị trường cạnh tranh và giải pháp của chính phủ để sửa chữa các khiếm khuyết đó"
lượt xem 337
download
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều phải đối mặt với một vấn đề kinh tế cơ bản là việc quyết định phải sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? trong một thế giới mà các nguồn tài nguyên bị hạn chế. Trong thế kỷ XX, nhìn chung có hai cơ chế kinh tế đối chọi nhau đã mang những kết quả rất khác nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy được định hướng từ chính phủ trung ương và nền kinh tế thị trường được dựa trên doanh nghiệp tư nhân. Vào thời...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn "Khiếm khuyết thị trường cạnh tranh và giải pháp của chính phủ để sửa chữa các khiếm khuyết đó"
- 7TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH KHOA KINH TêEÁ PHAÙT TRIEÅN TIEÅU LUAÄN KINH TEÁ VI MOÂ Ñeà taøi: Khieám khuyeát cuûa heä thoáng thò tröôøng caïnh tranh Vaø giaûi phaùp cuûa chính phuû ñeå söûa chöõa caùc khieám khuyeát ñoù Giaùo vieân höôùng daãn: Traàn Thöøa Nhoùm thöïc hieän: Tröông Thò Leä Haèng Lôùp 71 Nguyeãn Thò Anh Phöông Lôùp 71 Nguyeãn Daân Taøi Lôùp 72 Phaïm Khaùnh Tröôøng Lôùp 72 Phaïm Sôn Tuøng Lôùp 72 Traàn Thanh Phong Lôùp 72 Nguïy Taán Taøi Lôùp 72 Mai Theá Anh Lôùp 71 TPHCM – 2010
- Muïc luïc Trang A. MỞ ĐẦU..........................................................................................2 B. NỘI DUNG ......................................................................................4 Chương I : Khiếm khuyết của hệ thống thị trường cạnh tranh ......................4 1. Các tác động ngoại vi.........................................................4 2. Thiếu hàng hóa công cộng .................................................4 3. Sự gia tăng quyền lực độc quyền .......................................5 4. Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư .............................6 5. Chu kỳ kinh doanh .............................................................7 6. Thông tin thị trường lệch lạc ..............................................8 Chương II : Giải pháp của chính phủ ........................................................... 10 1. Các tác động ngoại vi....................................................... 10 2. Thiếu hàng hóa công cộng ............................................... 12 3. Sự gia tăng quyền lực độc quyền ..................................... 13 4. Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư ........................... 14 5. Chu kỳ kinh doanh ........................................................... 17 6. Thông tin thị trường lệch lạc ............................................ 18 C. KẾT LUẬN .................................................................................... 20 Tài liệu tham khảo........................................................................................ 21 1
- A - MỞ ĐẦU. Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều phải đối mặt với một vấn đề kinh tế cơ bản là việc quyết định phải sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? trong một thế giới mà các nguồn tài nguyên bị hạn chế. Trong thế kỷ XX, nhìn chung có hai cơ chế kinh tế đối chọi nhau đã mang những kết quả rất khác nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy được định hướng từ chính phủ trung ương và nền kinh tế thị trường được dựa trên doanh nghiệp tư nhân. Vào thời kì đầu của thế kỷ XXI, một điều rõ ràng đối với toàn thế giới là nền kinh tế chỉ huy, tập trung đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế, trong việc đạt được sự thịnh vượng, hoặc thậm chí trong việc bảo đảm an ninh kinh tế cho các công dân của mình. Nền kinh tế thị trường giải quyết ba vấn đề cơ bản và đã đạt được những thành tựu nhất định trong sự phát triển kinh tế của xã hội loài người, nhất là các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển. Kinh tế thị trường ra đời từ trong phương thức sản xuất tư bản chủ, phần lớn nằm trong lãnh vực tư. Người sản xuất, người tiêu dùng, mọi thành viên trong xã hội tự chủ hoạt động trên thị trường, nhưng lại bị chi phối bởi các quan hệ thị trường (lợi ích và sáng kiến cá nhân, cung - cầu, cạnh tranh ...). Nhà nước điều chỉnh một vài giá cả trong lĩnh vực công, thiếp lập các tiêu chuẩn môi trường, sức khỏe và lao động,. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước vào giá cả và hoạt động kinh tế ở mức độ tối thiểu. Kinh tế thị trường không hoàn toàn đồng nhất ở các nước có chế độ chính trị - kinh tế - xã hội khác nhau, nó chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thuộc phương thức sản xuất chủ đạo, và chịu sự chi phối, điều tiết, quản lí của nhà nước và mang những đặc điểm và truyền thống của mỗi nước. Ưu điểm của hệ thống kinh tế thị trường là rõ ràng, thể hiện ở chỗ thông qua các hoạt động cạnh tranh trên thị trường, các nhà sản xuất tìm mọi cách để phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế để theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Người tiêu dùng được tự do thỏa mãn tối đa lợi ích của mình trên giới hạn nguồn lực của họ. Như vậy, thị trường là “bàn tay vô hình” dẫn dắt đến chỗ đạt được lợi ích cho mọi người. Thế nhưng chúng ta cũng không được quên rằng “bàn tay vô hình” đôi khi cũng dẫn nền kinh tế đi lầm đường lạc lối. Nó có những khuyết điểm không thể tránh khỏi. Đó là: Các tác động ngoại vi Thiếu hàng hóa công cộng Sự gia tăng quyền lực độc quyền Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư 2
- Chu kì kinh doanh Thông tin thị trường lệch lạc Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại. Bài tiểu luận này sẽ tập trung làm sáng tỏ những khiếm khuyết của hệ thống thị trường cạnh tranh, tác động của nó đến sự phát triển kinh tế và giải pháp của chính phủ để sửa chữa các khiếm khuyết đó. 3
- B - NỘI DUNG Chương I - Khiếm khuyết của hệ thống thị trường cạnh tranh 1. Các tác động ngoại vi Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay không tốt do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, các chi phí hoặc lợi ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích ngoại vi) lại không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Vì phía thứ ba không được đền bù cho những khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn sản xuất không được tính đến trong hệ thống giá. Trong nền kinh tế thị trường tự do, người ta chỉ mưu toan sử dụng tối đa những phương tiện hay lợi nhuận riêng của mình, và nhưng chi phí hay lợi ích ngoại vi sẽ không được phản ánh trong giá cả của các đồ vật. Người sản xuất và người tiêu dùng bỏ qua ảnh hưởng của yếu tố ngoại vi, vậy nên giá cả của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị thực của sản phẩm,chi phí thực trong cả quá trình sản xuất. Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nước sông đã bị ô nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Để cải tạo môi trường cần một khoản chi phí khá lớn. Vd: công ty Vedan đã sản xuất và bán các sản phẩm của mình nhưng chưa bao gồm khoản “xử lý rác thải”. Mà khoản này được tính vào “chi phí xã hội” . Như vậy sẽ có sự chênh lệch giá với các hẵng bột ngọt khác vì những hãng khác phải tính thêm khoản “xử lý rác thải” và như vậy sẽ tăng mức độ cạnh tranh của hãng. 2. Thiếu hàng hóa công cộng Hàng hoá công cộng là hàng hoá do nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Điều này có nghĩa là tiêu dùng của một người không phải giảm số lượng hoặc chất lượng của hàng hoá đã có sẵn cho những người tiêu dùng khác. Theo cách phân ngành hay lĩnh vực, dịch vụ công cộng bao gồm các dịch vụ công quyền và các dịch vụ công dân. Các dịch vụ công quyền gắn liền với chức năng quản lý xã hội của Nhà nước (gồm dịch vụ lập pháp, quốc phòng, an ninh, 4
- ngoại giao…) và các dịch vụ hành chính công (gắn liền với các hoạt động hành pháp như cấp phép, xử lý tranh chấp…). Dịch vụ công dân là những dịch vụ phục vụ trực tiếp đời sống của cá nhân công dân (chăm sóc sức khỏe, giáo dục, …). Một đặc điểm quan trọng khác của dịch vụ công cộng là tính cộng đồng. Tính cộng đồng ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: dịch vụ này là dịch vụ có thể dùng chung và do đó, nó liên quan đến cộng đồng người tiêu dùng, cộng đồng dân cư; phần lớn các dịch vụ công cộng là những dịch vụ phục vụ chung, liên quan đến nhu cầu cơ bản, thiết yếu của đời sống cộng đồng dân cư, mọi người đều có quyền tiếp cận, có quyền thụ hưởng và bình đẳng trong tiếp cận, như: chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, thể dục thể thao… Chính do đặc điểm này, người ta thường xác định dịch vụ công cộng là một lĩnh vực chính sách. Hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng đều thuộc danh mục kiểm soát của Nhà nước. Đầu tư cho dịch vụ công cộng thường khó thu hối vốn qua các quan hệ thị trường thông thường, do đặc tính loại trừ của dịch vụ công cộng, việc thu phí dịch vụ rất khó khăn; ngoài ra, do phần lớn các dịch vụ công cộng đều là các dịch vụ cơ bản, thiết yếu đối với đời sống nhân dân, thuộc phạm trù phúc lợi công cộng, phạm trù chính sách. Vì vậy, các nhà đầu tư tư nhân thường ngại bỏ vốn đầu tư theo các quan hệ thị trường thông thường. Vấn đề với hàng hoá công cộng là không cá nhân nào có động lực để chi trả cho hàng hoá công cộng. Do nó không có hiệu quả và luôn không khả thi, để ngăn chặn mọi người không tiêu dùng một hàng hoá công cộng, mọi người có thể tiếp tục sử dụng nó thậm chí cho dù họ không trả tiền. Trong một tình huống như vậy, mỗi người có động cơ trở thành "người hưởng thụ miễn phí" và để những người khác trả tiền cho hàng hoá công cộng. Tất nhiên vấn đề là hàng hoá sẽ vừa không được sản xuất đủ hoặc vừa không được sản xuất tí nào nếu quyết định cung cấp hàng hoá do thị trường quyết định dẫn đến tình trạng thiếu hàng hóa công cộng. 3. Sự gia tăng quyền lực độc quyền Thị trường độc quyền là cấu trúc thị trường của một ngành kinh doanh mà trong đó chỉ có một người bán ( Doanh ngiệp, Công ty) duy nhất. Độc quyền cung cấp một loại sản phẩm độc nhất (không có sản phẩm thay thế gẩn đúng. Công ty duy nhất đó gọi là công ty độc quyền & sản lượng sản phẩm nó chiếm toàn bộ sản phẩm của ngành kinh doanh. Những ngành công nghiệp điện lực, cấp nước, thông tin liên lạc, giao thông công cộng,… thường có cấu trúc thị trường độc quyền. Các công ty độc quyền ít có động cơ cải tiến, đổi mới vì nó không chịu sức ép cạnh tranh thường xuyên như trong điều kiện thị trường cạnh tranh, làm chậm sự phát triển xã hội. Đối với các doanh nghiệp thì”tối đa hóa lợi nhuận”được đặt lên 5
- trên hết, với các doanh nghiệp độc quyền cũng vậy, do không có ai cạnh tranh nên số lượng sản phẩm và mức giá đem ra của các doanh nghiệp này khiến cho “lợi nhuận” thu vào là lớn nhất. Nên điều tất yếu là người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu. Nhà nước có giải quyết nhưng vấn đề này vẫn còn lỏng lẻo, quản lý còn chưa chặt. Ngoài ra các doanh nghiệp lớn thường bắt tay nhau để thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao, nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các Công ty nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ, điều khiển thị trường,cùng nhau “độc quyền”thị trường đó. Vd: Về nghành điện,chính phủ chỉ định tập đoàn điện lực độc quyền sản xuất. Trong các năm gần đây, giá điện tăng liên tục và hậu quả phải gánh chịu là người tiêu dùng. Đầu năm 2010 nhà nước đã ra quyết định tăng giá điện trong khi nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế thế giới vừa bước qua khủng khoảng. 4. Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư Lao động ở những ngành “độc quyền” thu nhập rất khác, ví dụ như thu nhập bình quân ở các ngành than, thép, hoá chất, xăng dầu, ngân hàng, điện lưc…cao gấp khoảng 4 lần các ngành dệt may, da giày hay cơ khí. Theo đó, sự phân hoá về thu nhập của người lao động trong các khu vực và trong các ngành tuỳ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, vào lợi thế độc quyền làm cho chênh lệch mức sống ngày càng cao. Thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước Trung ương và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thường cao hơn doanh nghiệp nhà nước địa phương và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cụ thể, thu nhập của NLĐ trong các đơn vị về xăng dầu, bảo hiểm, ngân hàng, điện lực thường cao hơn thu nhập của các ngành nghề khác; các ngành như than, thép, hoá chất, xăng dầu, thuốc lá, rượu, bia, nước giải khát, sữa nhựa… có thu nhập bình quân từ 4-5,4 triệu đồng//tháng; trong khi lao động trong các ngành dệt may, da giày, cơ khí chỉ thu nhập từ 800 nghìn đồng- 1,2 triệu đồng/tháng. Sự bất bình đẳng về thu nhập và phân phối thu nhập giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn, điều đó đã tác động lớn đến chất lượng dân số. Tỉ lệ trẻ béo phì và người lớn thừa cân tập trung ở thành thị và những người có thu nhập cao, trong khi đó ở nông thôn, vùng sâu vùng sa trẻ bị suy dinh dưỡng, tỉ lệ người lớn chưa biết chữ và số hộ nghèo vẫn chiếm tỉ lệ cao. Ở mức độ doanh nghiệp, các doanh nghiệp lớn quá chênh lệc vốn với các doanh nghiệp nhỏ. Sự chênh lêch vốn đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn chiếm thị phần mua và bán nhiều hơn trên thị trường.khiến cho các doanh nghiệp nhỏ chết dần chết mòn do không có nguyên liệu và cũng không có đơn đặt hàng 6
- Vd: ở An Giang, trong ngành chế biến thủy hải sản các doanh nghiệp nhỏ bị các doanh nghiệp lớn chèn ép bằng cách : doanh nghiệp lớn ưu đãi cho khách hàng của doanh nghiệp nhỏ mua hàng giá rẻ, cho kéo dài thời gian thanh toán... cùng đi với nó là doanh nghiệp lớn chiều chuộng người nuôi cá để gom hàng: trả tiền mặt ngay khi mua cá, đặt cọc với giá cao, mua cá cao hơn giá thị trường . Như vậy, nếu các doanh ngiệp có tiềm lực kinh tế kém hơn,muốn phát triển trên thị trường thì điều bắt buộc đó là phải sát nhập hoặc liên kết với các doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó có tiềm lực kinh tế lớn ,các doanh nghiệp lớn đã chiến thắng trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Giá cả tăng cũng đã ảnh hưởng mạnh đến khu vực hành chính, sự nghiệp. Lương thấp, ngày lại càng nhiều khoản đóng góp, tiêu dùng khiến đời sống cán bộ, công chức gặp nhiều khó khăn. Đã xảy ra tình trạng "chảy máu" chất xám ở các cơ quan hành chính nhà nước. 5. Chu kì kinh doanh Chu kỳ kinh doanh (hay còn gọi là chu kỳ kinh tế) là sự biến động của GDP thực tế, theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Quá trình thay đổi liên tiếp này thường xuyên diễn ra nhưng không mang tính định kỳ, độ dài của các chu kỳ kinh doanh thường từ hơn 1 năm tới 10 hoặc 20 năm; chúng không thể chia được thành các chu kỳ ngắn hơn mà những chu kỳ này có những đặc tính tương tự với biên độ dao động xấp xỉ của chính chúng . Các pha của chu kỳ kinh doanh: Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. 7
- Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy. Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh. Chu kỳ kinh doanh là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh doanh nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ. Chính vì vậy chu kỳ kinh doanh, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn thu hẹp, lạm phát, … dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội. Vd: cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ vào cuối năm 2008 làm cho hàng loạt ngân hàng nước này phá sản hoặc lâm nguy, thị trường chứng khoán suy sụp, sản lượng công nghiệp sụt giảm, số lượng việc làm bị mất cũng gia tăng,… tăng trưởng kinh tế trong quý 3 và quý 4 của năm 2008 và quý 1 của năm 2009 đều tăng trưởng ở số âm. 6. Thông tin thị trường lệch lạc Thông tin thị trường lệch lạc là một trong những tồn tại lớn nhất của thị trường cạnh tranh. Người tung tin đồn sẽ khiến cho thị trường suy chuyển và có những hoạt động giao dịch mang tính thao túng thị trường sau đó. Các tin đồn chủ yếu xuất phát từ các cá nhân, cơ quan báo chí, …… đánh vào yếu tố tâm lý và việc tiếp cận thông tin của người dân không đúng đắn tạo ra nhưbg4 quan điểm sai lầm về thị trường. Từ việc ai cũng muốn có lợi nên xảy ra những hành động tuy nhỏ nhưng xâu chuỗi lại thì sẽ có tác động ảnh hưởng đến nguồn cung hoặc cầu tạo nên những cơn sốt ảo trong thị trường. Hiện tượng đầu cơ là một trong những biến tướng phát triển sau thông tin sai lạch nhằm trục lợi cho cá nhân, doanh nghiệp. Bài học sốt gạo năm 2008 là 1 ví dụ điển hình cho việc thông tin sai lệch gây ra biến động lớn cho xã hội: trong khi Chính phủ chỉ chủ trương là tạm dừng xuất khẩu gạo thì một số báo lại đưa tin là “cấm” xuất khẩu gạo, thậm chí còn có thông tin là thiếu gạo nên đã gây hiểu nhầm không chỉ cho người dân trong nước (lo thiếu gạo) mà cả nước ngoài (họ quy Việt Nam thiếu trách nhiệm vì trong khi thế 8
- giới đang thiếu gạo thì Việt Nam lại cấm xuất khẩu gạo). Dân ùn ùn đổ nhau tìm mua gạo, các tiểu thương thì găm hàng khiến cho tình trạng thêm hỗn loạn. Tình trạng tr6en chỉ chấm dứt khi có 2 tổng công ty lương thực lớn tham gia vào việc ngăn chặn, tung gạo ra thị trường nhằm bình ổn lòg tin của ng` dân. Ngoài ra, loại thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, …… hoạt động chủ yếu qua những tay trung gian, môi giới là mảnh đất béo bở để trục lợi cá nhân qua những tin đồn. Khối lượng giao dịch của thị trường này là rất lớn nên diễn biến của nó đc theo dõi sát sao. Nhũng nhiễu thôg tin nhằm đánh lạc hướng dư luận phát sinh rất nhiều, từ việc lớn đến nhỏ của côg ty hay chính sách của chính phủ. Rất khó để giải quyết những thôg tin này vì không tìm ra được xuất phát của thông tin đó, nó đến từ cá nhân, tổ chức hay chính nội bộ công ty. Cách giải quyết nên thực hiện là việc chú trọng việc đẩy mạnh thông tin tuyên truyền để nhà đầu tư hiểu là nên nghe theo các thông tin chính thống và có phản ứng công khai ngay nếu thông tin không chuẩn. Cần phải có hành lang pháp lý về vấn đề này và kiểm soát chặt chẽ các rủi ro, tránh gây ảnh hưởng đến thị trường, đến công ty chứng khoán cũng như nhà đầu tư. Ngoài ra, một mặt tồn tại khác là những hiện tượng lường gạt, lừa đảo, sx hàng giả … trong thị trường cạnh tranh có tác động tiêu cực đến kinh tế xã hội. Lừa đảo là hành vi làm ăn bất chính, vi phạm luật pháp, gây ảnh hưởng cho nạn nhân. Nhỏ thì là bán sản phẩm ko đúng chất lượng như giới thiệu, bán giá cắt cổ. Lớn thì chiếm đoạt tài sản, chiếm đoạt có chủ ý, kế hoạch từ trước gây tác hại cho người khác. Hành vi này chủ yếu đánh vào lòng tham của đối tượng, muốn kiếm được nhiều lợi nhuận nhanh chóng, nên ko kiểm soát nổi nhận thức lý trí để rồi bị lừa. Ở đây chúng ta nên đề cập đến vấn đề phổ biến trog giới sinh viên hiện nay, đó là việc tham gia vào các mạng lưới bán hàng đa cấp. Hình thức kinh doanh đa cấp hiện nay đã bị biến tướng để trở thành 1 mạng lưới lừa đảo có tổ chức lớn ở VN. hàng đa cấp bất chính được coi là một hình thức lừa đảo trong đó lợi nhuận không thực sự được xuất phát từ giới thiêu sản phẩm mà từ việc tuyển mộ các thành viên mới. Thuật ngữ "đa cấp" ám chỉ việc những người khởi xướng và phát động hệ thống (nằm ở đỉnh tam giác-kim tự tháp) lợi dụng và bóc lột những thành viên bên dưới (đáy tam giác). Bán hàng đa cấp là phương pháp bán sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng, người tiêu dùng ở đây chính là những nhà phân phối & người thân của họ. Bán hàng đa cấp có thể gây mất lòg tin của người thân xung quanh. Các sản phẩm được phân phối theo mạng KDĐC đều được phù phép, “thần bí hóa” hoặc “đa năng hóa” các tác dụng và tiện ích khác thường mà sản phẩm đem lại cho người tiêu dùng, theo kiểu “có 1 nói 10”, khoe vống lên các tác dụng “3 trong 1”, thậm chí rất khác nhau của sản phẩm. 9
- Đặc biệt nguy hiểm là hình thức kinh doanh này dạy cho những người trong hệ thống một hình thức gỉa tạo, xa hoa về bề ngoài để dễ dàng chiếm đc lòg tin của người khác. Đa phần những người này là các sinh viên, những người chủ tương lai của đất nước, kể cả sinh viên các trường đh lớn nhưg ko có kinh nghiệm, cả tin nên bị các đối tượng này lợi dụng. Sau đó họ lại tiếp tay cho các đối tượng này lôi kéo người khác vào công ty. Nếu tỉnh táo chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra đó là các màn kịch đc tổ chức chi li nhằm chiêu dụ khác hàng. Các hình thức này cần nhanh chóng đc dẹp bỏ, chúng ta phải mất rất nhiều con người, thời gian và công sức cho những màn kịch vô nghĩa và trái phái luật như vậy. Sản xuất tiền giả, hàng nhái cũng là một thực trạng hết sức phức tạp trong xã hội hiện nay. Nó làm giảm giá trị của đồng tiền trog nước, là một trong những nguyên nhân khiến cho ta mất uy tín nặng nề với các nước khác. Hàng giả về thực phẩm, thuốc chữa bệnh gây tác động về sức khỏe cho con người chính là suy thoái về đạo đức. Nó là 1 điểm khuyết lớn trog thị trường cạnh tranh tồn tại qua nhiều thời kì và cần được kiểm soát nghiêm minh chặt chẽ, cần có mộthàng rào pháp lý mạnh tay để giải quyết triệt để các vấn đề này. Chương II : Giải pháp của chính phủ 1. Các tác động ngoại vi Các tác động ngoại vi làm ô nhiễm môi trường, gây ra sự giảm sút về phúc lợi cho nhưng người khác. Và do vậy, vai trò kinh tế của Nhà nước là điều chỉnh lại sự bất hợp lý đó: Áp dụng thu thuế môi trường đối với các doanh nghiệp: Thuế môi trường là đánh thuế vào một số sản phẩm, hàng hoá gây tác động xấu lâu dài đến môi trường và sức khoẻ con người:xăng dầu,than,túi ni-lông… Số tiền doanh nghiệp phải trả dựa trên thành phần chất thải và tải lượng ô nhiễm của doanh nghiệp xả vào môi trường. Với những doanh nghiệp vi phạm mức độ nghiêm trọng (có khí thải, nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5 lần trở lên) hoặc tái vi phạm nhiều lần bị buộc tạm ngưng hoạt động nhưng cố tình không chấp hành, thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế như cắt điện, không cung cấp nước sạch. Đã đến lúc cần có những biện pháp cương quyết như vậy thì mới giảm thiểu đước sự ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp gây ra. Quản lý ô nhiễm công nghiệp: Các cơ sở công nghiệp phải lắp đặt và vận hành các hệ thống và biện pháp xử lý chất thải các loại do hoạt động của mình gây ra. Cưỡng chế các doanh nghiệp phải định kỳ tiến hành 10
- quan trắc, đánh giá mức độ ô nhiễm để có biện pháp xử lý, giảm thiểu, phòng chống sự cố, tai biến môi trường có thể xảy ra Đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất mới cần quy hoạch, thiết kế và xây dựng cơ sở hạ tầng tiêu thoát, xử lý nước thải, nước mưa, đường sá, cây xanh phù hợp với quy hoạch chung của thành phố. Chỉ cho phép đầu tư dự án khi các khu công nghiệp, khu chế xuất đã hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng xử lý chất thải. Các cơ quan quản lý cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát sự phát thải để có biện pháp xử lý kịp thời, thích đáng đối với các cơ sở sản xuất, các cảng, khu công nghiệp, các kho chứa, các phương tiện vận chuyển cửa hàng kinh doanh hoá chất... nhằm hạn chế tối đa sự phát tán ô nhiễm và sự cố môi trường. Điều tra thống kê và có kế hoạch giảm thiểu các nguồn phát sinh và xử lý các chất hữu cơ khó phân huỷ trong môi trường. Tăng cường áp dụng công nghệ môi trường: cần đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng các công nghệ thân thiện với môi trường (công nghệ sử dụng tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, nước và ít chất thải), các giải pháp về vật liệu thay thế tài nguyên, vật liệu sinh thái (dễ phân huỷ và không gây ô nhiễm môi trường sau khi sử dụng), áp dụng sản xuất sạch.Thông qua những cuộc thi sáng tạo bảo vệ nguồn nước toàn quốc hằng năm…cần xem xét và đưa vào hoạt động nếu như đó là một dự án khả quan và mang lại tính hiệu quả khi thức thi. Tăng cường quản lý đối với chất thải công nghiệp, đặc biệt chất thải nguy hai.Tổ chức tốt hệ thống thu gom chất thải công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích tái sử dụng chất thải công nghiệp.Ở các điểm tập trung khu công nghiêp,có thể xây dựng khu tái chế,xử lý rác thải.Đây là hành động có thể mang lại hiệu quả cao khi mà tài nguyên ngày càng hạn hẹp thì việc tái sử dụng không những mang lại lợi ích kinh tế mà còn giảm thiểu được 1 khối lượng lớn các chất thải ra bên ngoài,gây ảnh hưởng đến môi trường và không gian sống của người dân quanh đó. Tổ chức di dời các hộ gia đình ra khỏi nơi ô nhiễm.Đây là một dự án mang tính chất thực thi cao và đòi hỏi nhiều chi phí cũng như diện tích đất ,trong khi mỗi doanh nghiệp chỉ đảm bảo được số lượng cụ thể nhà ở 11
- cho dân chứ chưa hoàn toàn đáp ứng đầy đủ.Nhưng đó là việc làm cấp bách nhằm tái tạo lại khu vực ô nhiễm và đồng thời cách ly người dân ra khỏi khu vực mang mầm mống của bệnh tật . Tuyên truyền,phát động và khuyến khích phong trào giữ gìn vệ sinh nơi ở cũng như nơi làm việc của mỗi cá nhân hoạt động trong doanh nghiệp.Đề cao tính chất của các cuộc thi bằng những phần thưởng khuyến khích và tuyên truyền bằng những hình ảnh và đánh vào tâm lý lo sợ hậu mọi sự nguy hiểm có thể xảy ra khi chúng ta đang gián tiếp phá hủy môi trường.Nhưng quan trọng nhất,ý thức của mỗi người luôn luôn tồn tại.Sống đúng với lương tâm và trách nhiệm của mỗi con người.Đó là chìa khóa đầu tiên về việc mở ra cánh cửa tươi sáng với một không gian sống không bị ô nhiễm. Trong các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, trong chừng mực một sán phẩm nào đó có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, Nhà nước cần xem xét vấn đề trợ cấp tối ưu để khuyến khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường. 2. Thiếu hàng hóa công cộng Chính phủ cố sửa chữa thất bại này của thị trường bằng việc cung cấp hoặc trợ cấp cho việc sản xuất hàng hoá công cộng. Ngoài ra, xã hội hóa dịch vụ công cộng cũng là giải pháp mang tính hiệu quả cao. Xã hội hóa dịch vụ công cộng là quá trình mở rộng trách nhiệm của một hay một số thành phần xã hội thành trách nhiệm của nhiều thành phần xã hội hay của toàn xã hội trong việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng. Xã hội hóa dịch vụ công cộng nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất, phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo các dịch vụ công cộng mà trước hết là sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách và người nghèo, được thụ hưởng dịch vụ công cộng. Xã hội hóa dịch vụ công cộng không đơn thuần chỉ là huy động nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính của xã hội. Nội dung không kém phần quan trọng, thậm chí còn có thể quan trọng hơn là phát huy được trí lực và tinh thần trách nhiệm của xã hội đóng góp cho sự nghiệp chung nhằm phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng. Trong xã hội hóa, việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội là một nội dung rất quan trọng vì nhiều lẽ: một là, phát triển dịch vụ công cộng là sự nghiệp của toàn dân, 12
- cho nên cần tăng cường huy động lực lượng trong dân và doanh nghiệp để phát triển các dịch vụ công cộng; hai là, nhu cầu về dịch vụ ngày càng cao, ngày càng phong phú và đa dạng, nếu chỉ dựa vào các cơ sở công lập thì không thể nào đáp ứng được; ba là, tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở ngoài công lập với các cơ sở công lập nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ công cộng. Chủ trương xã hội hóa dịch vụ công cộng có ý nghĩa về nhiều mặt, tạo thêm nguồn kinh phí cần thiết cho sự phát triển các dịch vụ công cộng phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, xóa bao cấp tràn lan; chi phí của các đơn vị dịch vụ công cộng không chỉ do ngân sách nhà nước gánh vác, mà còn có phần thu từ những người được hưởng dịch vụ và từ cộng đồng; xóa bỏ các khoản thu không chính thức, không minh bạch đang tồn tại khá phổ biến và nặng nề đối với những người hưởng dịch vụ công cộng đi liền với sự phân phối không công bằng trong nội bộ các đơn vị làm dịch vụ, hạn chế và ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trái đạo đức nghề nghiệp; tạo thêm nguồn thu để cải cách chế độ tiền lương, trước hết là bảo đảm thu nhập thỏa đáng hơn cho trên một triệu người đang làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là những người có tay nghề cao, cống hiến lớn; phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng, để các cơ quan hành chính tập trung thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước. Chính phủ có nhiều biện pháp để tăng cường các hàng hóa công cộng, từ chống lũ lụt cho đến việc phòng chống vũ khí nguyên tử, nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ vai trò của Nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô. Thật vậy, một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu hết các nước, Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hoá công cộng. 3. Sự gia tăng quyền lực độc quyền Các biện pháp điều tiết của chính phủ: Đánh thuế: thuế đánh vào các công ty độc quyền gần như là một phương thức luật định ở nhiều quốc gia. Chính phủ đánh thuế vào các công ty độc quyền để thu bớt phần lợi nhuận siêu ngạch của công ty độc quyền, như vậy sẽ hạn chế bớt quyền lực của công ty độc quyền. 13
- Chính phủ dùng những nguồn thu thuế của những công ty độc quyền để đầu tư phát triển các công trình công cộng cung cấp cho dân chúng. (Phân phối thu nhập) Điều tiết giá cả và sản lượng của các công ty độc quyền: chính phủ áp dụng biện pháp này đối với các công ty độc quyền trong những ngành phục vụ công cộng như ngành điện, cung cấp nước sạch, thông tin liên lạc, giao thông công cộng, ngân hàng, bảo hiểm,… Giá điều tiết nhỏ hơn giá cân bằng của công ty, với giá này công ty không có lợi nhuận trên bình nhưng vẫn có lợi nhuận bình thường. Sản lượng điều tiết lớn hơn sản lượng cân bằng của công ty. Phá vỡ công ty độc quyền thành các công ty cạnh tranh: ở một số quốc gia, những luật lệ chống độc quyền cho phép chính phủ có thể phá vỡ công ty độc quyền thành các công ty cạnh tranh. Để buộc chúng cải thiện những dịch vụ phục vụ khách hàng tốt hơn, hoặc là hạn chế bớt quyền lực độc quyền. Xác lập quyền sở hữu cùa chính phủ: tronng một số ngành cung cấp các dịch vụ công cộng. Chính phủ thường lập ra cấc công ty độc quyền hoạt động trong những ngành đó. Chính hình thức sở hữu nhà nước mà chình phủ dễ dang điều tiết và kiểm soát các công ty độc quyền này hơn. (thông qua việc bổ nhiệm hoặc thay thay đổi giám đốc…) Ban hành luật lệ chống độc quyền: nhiều quốc gia chính phủ ban hành những luật lệ để điều tiết và kiểm soát các công ty độc quyền. Những luật lệ này cho phép các cơ quan luật pháp hoặc cơ quan quản lý nhà nước giám sát về giá cả, sản lượng, và việc gia nhập hoặc rời bỏ một số ngành công nghiệp. Nhất là các ngành cung cấp các dịch vụ công cộng. Mục tiêu hàng đầu của luật chống độc quyền là xúc tiến một nền kinh tế có tính cạnh tranh, bằng cách cấm các hoạt động hạn chế hay có thể hạn chế sự cạnh tranh và bằng cách giới hạn những hình thức cấu trúc thị trường có thể chấp nhận được. 4. Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư 4.1 - Đánh giá, đưa ra các lĩnh vực thích hợp để các hình thức phân phối thu nhập phát huy tác dụng. Trong lĩnh vực sản xuất như doanh nghiệp, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất Xã Hội Chủ Nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều 14
- thành phần theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Còn trong xã hội, thông qua phúc lợi xã hội nâng cao, cải thiện đời sống của những người cao tuổi, người gặp khó khăn, cải thiện đời sống của người lao động làm cho mọi người có cuộc sống tốt hơn, va không còn người nghèo trong xã hội. 4.2 - Giải pháp trong quá trình sản xuất. Phương thức phân phối, ngoài tính chất của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất còn do số lượng sản phẩm có thể phân phối quyết định. Do vây, muốn thực hiện được ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối thu nhập của mỗi cá nhân thì cần phải sản xuất ra càng nhiều sản phẩm. Thực hiện sự phân phối bình đẳng trong điều kiện của cải vật chất quá nghèo nàn chỉ là sự chia đều nghèo khổ. Để tiến lên sự bình đẳng trong phân phối thu nhập cá nhân, điều kiện tiên quyết đối với nước ta là phát huy mọi tiềm năng vật chất và tinh thần của đất nước, ra sức phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân. Tiền lương tối thiểu phải đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người lao động ( ăn, ở, mặc, nuôi dậy con cái…). Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất chất lượng và hiệu quả sẽ đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề. 4.3 - Điều tiết và nâng cao thu nhập trong dân. Sự chênh lệch về mức thu nhập của các tập thể, cá nhân trong thời kì quá độ ở nước ta là một tất yếu khách quan. Tuy vậy chúng ta cần ngăn chặn sự chênh lệch quá đáng về thu nhập, sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập.Đối với nước ta, việc điều tiết thu nhập cá nhân nhằm mục tiêu trợ giúp những người có thu nhập quá thấp hoặc không có thu nhập vượt qua những khó khăn nhất thời, giải quyết những vấn đề chung theo yêu cầu phát triển xã hội, thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời, điều tiết thu nhập cá nhân phải đảm bảo duy trì được động lực phát triển kinh tế, khuyến khích mọi thành viên trong xã hội có sức lao động , có vốn và tài sản tích cực đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp để làm giàu chính đáng. Vì thu nhập cá nhân được hình thành từ nhiều hình thức phân phối, nên sự điều tiết đòi hỏi phải nắm vững tính chất và mức độ của từng loại thu nhập để khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng. Nhà nước làm giảm thu nhập cá nhân bắng các hình thức thuế thu nhập cá nhân và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội, từ thiện… trong đó, thuế thu nhập cá nhân là quan trọng nhất, chủ yếu nhất đối với mọi nhà nước trong nền kinh tế thị trường, tuy thế cũng không làm triệt tiêu động lực tăng thu nhập hơn nữa của 15
- bộ phận dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh đó nhà nước có các biện pháp làm tăng thu nhập thông qua ngân sách nhà nước, các quỹ như quỹ bảo hiểm,…, các điều luật giúp cho những người có ý chí, có thể vay vốn để làm giàu. Nhà nước điều tiết bớt thu nhập của người giàu lên nhờ lợi thế nghề nghiệp vị trí địa lý, có sự đãi ngộ thích hợp đối với những người có cống hiến cho xã hội chứ không phải cho sản xuất. Đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đồng thời chủ trương mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận động xoá đói giảm nghèo, trong đó cần tập trung xoá đói, giảm nghèo ở vùng nông thôn nhất là nông thôn miền núi, vùng các dân tộc ít người, vùng căn cứ kháng chiến cũ, giảm nghèo ở cả nông thôn và thành thị. 4.4 – Giải pháp xây dựng, phát triển quan hệ giữa các hình thức phân phối thu nhập. Có chính sách khuyến khích thành lập công ty tư nhân bằng cách hỗ trợ vốn, có các chính sách ưu đãi để làm ăn dễ hơn, khi công ty gặp khó khăn có thể giúp công ty hoẵn nợ, thuế nộp cho nhà nước giảm,… để thành lập các công ty có thể bằng nhiều cách như góp vốn người nào góp nhiều thì có cổ phần cao hơn, có quyền hạn cao hơn, và có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất nên phân phối thu nhập theo lao động, ai có sáng tạo, chăm chỉ thì có thu nhập cao hơn, như vậy đã kết hợp các hình thức phân phối thu nhập , có tác dụng kích thích sản xuất. Trong quá trình sản xuất ngoài phân phối theo lao động cần tổ chức, thành lập các quỹ phúc lợi xã hội, các quỹ bảo hiểm xã hội giúp cho công nhân có thể vững tin làm việc, để năng suất lao động cao hơn. Các hình thức phân phối thu nhập có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn liền với nhau và chỉ khi đó mới phát huy hiệu quả tốt nhất. Mỗi hình thức phân phối chỉ biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy. Phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới. 4.5 – Phát huy các nguồn lực khác. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là tiêu chí quyết định tính tính định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa của sự phát triển kinh tế. Đồng thời phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và cơ chế kế hoạch mới- cơ chế kế hoach hướng dẫn, những đòn bẩy kinh tế (lương, tiền, giá..). Đồng thời khuyến khích thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm tăng cường và phát triển kinh tế bền vững, từng bước thực hiện công bằng xã hội, nâng cao mức sống của người dân.Phân phối thu nhập phải được thực hiện trên thị trường thông qua hoạt động của hệ thống cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định nhằm bảo đảm tính linh hoạt. Nhà nước thông qua các chính sách và công cụ kinh tế để tác 16
- động vào phân phối thu nhập phân bổ nguồn lực đầu vào và điều tiết thu nhập cuối cùng của chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Tăng cường nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các công cụ kinh tế để điều tiết phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường, phải chú ý cả chính sách công cụ tác động vào đầu vào, đầu ra để tác động vào phân phối nguồn lực. Nhà nước đóng vai trò tích cực trong việc phân bổ tài nguyên, đất đai, phân bổ lực lượng sản xuất, có chương trình giáo dục đào tạo, chính sách lãi suất cho vay vốn, chính sách xuất nhập khẩu. Để tác động vào phân phối thu nhâp cuối cùng nhà nước phải tác động tích cực vào tiền lương, thuế, thanh toán, chuyển khoản để điều hoà thu nhập. Nhà nước nắm vững thu nhập của mỗi người bằng cách hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, xây dựng hệ thống luật pháp và hệ thống luật phù hợp. 5. Chu kì kinh doanh Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường đóng một vai trò rất lớn trong việc tạo ra các điều kiện kinh tế để thị trường tư nhân có thể phát huy hết hiệu quả hoạt động của mình. Một trong các vai trò đó là tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và đồng thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thông qua các chính sách hạn chế lạm phát. Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường luôn rơi vào tình trạng bị đe doạ bởi khi thì đồng tiền tăng giá đột ngột, khi thì nạn thất nghiệp tăng cao, khi thì vừa có tình trạng thất nghiệp, vừa có tình trạng lạm phát. Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm ngược lại. Để cân bằng lại những biện pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo ra nhưng cái gọi là cơ chế ổn định, như thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp. Chính sách tài chính được điều hành một cách độc lập với chính sách tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc cung ứng tiền. Nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở. 17
- Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm. Khi cả thất nghiệp và lạm phát xảy ra đồng thời, chính phủ có thể rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Bởi vì, các chính sách tài chính và tiền tệ đều điều chỉnh lại mức chi tiêu của cả một nền kinh tế quốc dân, nhưng lại không thể đối phó với sự giảm đột ngột về cung - một nhân tố có thể đẩy nhanh cả lạm phát lẫn thất nghiệp. Như vậy, sự giảm cung sẽ dẫn đến tình trạng giá cả tăng nhanh trong khi đó thì sản xuất và việc làm lại giảm. Để đối phó với cú sốc cung này đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có thể tăng cường các biện pháp khuyến khích sản xuất, tiết kiệm và đầu tư, tăng hiệu quả cạnh tranh băng cách giảm sự độc quyền, khắc phục sự trì trệ và kìm hãm của các nguồn lực quan trọng. Ngoài ra, thuế là công cụ tài chính quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hệ thống thuế của chính phủ có thể điều chỉnh chu kì kinh tế, giữ nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo công bằng xã hội. Đồng thời cải thiện mối quan hệ đối với nước ngoài ,tạo cơ hội thuận lợi cho kinh tế phát triển,mở rộng quan hệ đầu tư. 6. Thông tin thị trường lệch lạc Trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không diễn ra bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ, chứng từ về đất đai, nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với quan hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu như không có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự thực thi của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có thể thực hiện. Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, cung như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải 18
- những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi thu về lại có thể rơi vào Nhà nước hoặc các tập đoàn khác. Sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ ràng đối với đất đai, nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác. Thế nhưng, sự bảo hộ đó còn được áp dụng cho cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là một sự can thiệp rất quan trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, khuyến khích việc phát huy khả năng trí tuệ của họ. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
ĐỀ TÀI: Vấn Đề Lựa Chọn Nghịch Và Các Công Cụ Giải Quyết
17 p | 565 | 142
-
LUẬN VĂN: Các giải pháp tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở Việt Nam hiện nay
25 p | 151 | 50
-
Luận văn thạc sỹ " Mô hình khí hậu khu vực (Regional Climate Model - RCM) trong mô phỏng và dự báo khí hậu"
87 p | 152 | 25
-
Luận văn: Phân tích tác động của lãi suất, tỷ giá tới giá CP thông qua các mô hình định giá
85 p | 118 | 21
-
Đề tài: "Vận dụng quan điểm trong triết học Mác - Lê Nin để phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam"
18 p | 80 | 11
-
LUẬN VĂN: Tác dụng tích cực và hạn chế những khiếm khuyết của cả hai yếu tố thị trường và sự can thiệp của nhà nước
14 p | 90 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
103 p | 38 | 10
-
Khoá luận tốt nghiệp: Xây dựng cơ sở học liệu hỗ trợ dạy học hòa nhập cho học sinh khiếm thị một số kiến thức quang hình học – Vật lí 11 (cơ bản)
120 p | 19 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về đăng ký đất đai, nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế
34 p | 11 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chiến lược phát triển kinh doanh của Công ty TNHH một thành viên Phát triển và Kinh doanh nhà đến năm 2015
119 p | 13 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu khả năng áp dụng phương pháp Rađa đất để phát hiện hang rỗng trong thân đê, đập ở Việt Nam
82 p | 31 | 5
-
Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ đi lên một nền sản xuất lớn.
24 p | 71 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền lao động trong pháp luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam
14 p | 33 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền lao động trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
118 p | 21 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn