ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ _____________________________________
NGUYỄN THỊ THU HOÀI
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU :
ỨNG PHÓ CỦA THẾ GIỚI VÀ CỦA VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ : 62.31.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS Vũ Văn Hiền
HÀ NỘI 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là của riêng Tôi, không sao chép các
công trình nghiên cứu của ngƣời khác. Các thông tin thứ cấp sử dụng trong
luận án đều có nguồn gốc và đƣợc trích dẫn rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận án.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thu Hoài
1
MỤC LỤC
TRANG
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
1
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT…..............................
3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ.…….......................................................
4
MỞ ĐẦU……………………………………………................………....
8
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU…………................……….
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU VÀ NHẬN DIỆN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU 2008…………………….......................................................
27
1.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Quan niệm, bản chất, đặc
trƣng…………..................................................................................
27
1.1.1 Quan niệm về khủng hoảng tài chính và khủng hoảng tài chính
toàn cầu…………………….......................................................
27
1.1.2 Những biểu hiện ban đầu, bản chất và tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu….........................................................
37
1.1.3 Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù…………………... 46
1.2 Nhận diện cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.................. 47
1.2.1 Diễn biến, đặc điểm, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008....................................................................
49
1.2.2 Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đối với
nền kinh tế nói chung và các quốc gia nói riêng………….........
65
1.3 Các giải pháp chung nhằm ứng phó với khủng hoảng tài chính
toàn cầu..............................................................................................
80
1.3.1 Ứng phó bằng chính sách tài khóa và tiền tệ....……………….. 82
1.3.2
Sử dụng các chính sách nhằm ổn định kinh tế và tạo việc làm..
84
1.3.3
Quan tâm đến chính sách bảo đảm an sinh xã hội......................
85
1.3.4
Phối hợp và hợp tác giữa các Nhà nƣớc trong việc ứng phó với
khủng hoảng...............................................................................
86
2
Chƣơng 2: ỨNG PHÓ TOÀN CẦU VÀ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
TIÊU BIỂU VỚI KHỦNG HOẢNG TÀI CH ÍNH TOÀN CẦU 2008.....
88
2.1 Khái quát thực trạng việc ứng phó toàn cầu với khủng hoảng
tài chính 2008………………………………………...................….
88
2.1.1 Chính sách tài khóa và tiền tệ…………………………………. 89
2.1.2 Chính sách kích thích kinh tế và tạo việc làm………………… 96
2.1.3 Chính sách bảo đảm an sinh xã hội……………………………. 100
2.1.4 Phối hợp quốc tế để ứng phó........…………………………….. 103
2.2 Ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của một số quốc gia
tiêu biểu….........................................................................................
106
2.2.1 Các giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của
Chính phủ Hoa Kỳ…..................................................................
106
2.2.2 Các giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của
Chính phủ Trung Quốc…………………………………….......
116
2.2.3 Giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của các nƣớc
ASEAN………...................................................................................
128
2.3 Đánh giá chung về kết quả ứng phó khủng hoảng tài chính toàn
cầu của các nƣớc và những kinh nghiệm rút ra.............................
136
2.3.1 Đánh giá chung về các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài
chính toàn cầu của các nƣớc……………………........................
136
2.3.2 Những kinh nghiệm qua việc ứng phó với khủng hoảng............ 137
Chƣơng 3: VIỆT NAM VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU................................................................................................
148
3.1 Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền
kinh tế Việt Nam và giải pháp ứng phó của Chính phủ…………
148
3.1.1 Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế
Việt Nam.....................................................................................
148
3.1.2 Các giải pháp của Việt Nam trong việc ứng phó với khủng
hoảng tài chính toàn cầu toàn cầu................................................
156
3
3.2 Những vấn đề mới đặt ra sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và
giải pháp nhằm tạo sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài
và tạo sức bật mới cho nền kinh tế đất nƣớc.........................................
172
3.2.1 Những vấn đề mới đặt ra sau khủng hoảng tài chính toàn cầu ... 172
3.2.2 Giải pháp nhằm tạo sức đề kháng với những tác động từ bên
ngoài và tạo sức bật mới cho nền kinh tế đất nƣớc............…….
179
3.3 Một số bài học bổ ích........................................................................ 191
3.3.1 Phân tích, dự báo đúng tình hình; khi khủng hoảng xảy ra cần
có những phản ứng chính sách mạnh mẽ và liên tục. Tăng
cƣờng kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng........................
191
3.3.2 An sinh xã hội phải đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và
thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế.....................................
193
3.3.3 Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nƣớc
và thị trƣờng. Xác định rõ thể chế kinh tế và cơ chế kinh tế thị
trƣờng..........................................................................................
194
3.3.4
Nâng cao tính độc lập và tự chủ của nền kinh tế đất nƣớc.........
196
3.3.5
Kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm
của Chủ nghĩa Mác- Lênin về phát triển kinh tế.........................
197
KẾT LUẬN……………………………………………...............……….
198
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ...................
202
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................
204
PHỤ LỤC 1……………………………………………................………
211
PHỤ LỤC 2…………………………………………................…………
214
PHỤ LỤC 3………………………………………................……………
218
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
AMC Công ty quản lý tài sản
APEC Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dƣơng
ASEAN Hiệp hội các nƣớc Đông Nam á
ASEAN+3 Là một cơ chế hợp tác giữa ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc
và Nhật bản
BOJ Ngân hàng Trung ƣơng Nhật Bản
CLEEP Tên gọi của chƣơng trình kế sinh nhai toàn diện và việc làm khẩn
cấp của Philippines
CNTB Chủ nghĩa tƣ bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTT Chính sách tiền tệ
CSVC Cơ sở vật chất
CSVC Cơ sở vật chất
EC Ủy ban Châu Âu
ECB Ngân hàng Trung ƣơng Châu Âu
Eurozone Khu vực đồng tiền chung Châu âu
FAO Tổ chức lƣơng nông của Liên hợp quốc
FED Cục dự trữ Liên bang Mỹ
G-20 Diễn đàn của 20 nền kinh tế lớn gồm 19 quốc gia có nền kinh tế
lớn nhất (tính theo GDP) và Liên mnh Châu Âu (EU)
G7 Bao gồm 7 vị bộ trƣởng tài chính của bảy nƣớc kỹ nghệ tiên tiến
trên thế giới: Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Anh, Hoa Kỳ
G8 Nhóm 8 quốc gia dân chủ và công nghiệp hàng đầu của thế giới
bao gồm Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh, Hoa Kỳ, Canada và Nga
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IDA Hiệp hội phát triển quốc tế
5
Tổ chức lao động quốc tế ILO
Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF
Ngân hàng tái thiết và phát triển Quốc tế IRBD
Kinh tế KT
Kinh tế thị trƣờng KTTT
KT-XH Kinh tế- xã hội
Khủng hoảng kinh tế KHKT
Khủng hoảng tài chính KHTC
Lực lƣợng sản xuất LLSX
Nhà xuất bản NXB
Tổ chức phi chính phủ NGOs
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD
Tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động trong lĩnh vực viện trợ Oxfam
nhân đạo.
Ngân hàng Trung ƣơng Trung Quốc PBC
Chƣơng trình quốc gia về phát triển quyền năng con ngƣời của PNPM
Indonesia.
Sản xuất SX
SXKD Sản xuất kinh doanh
TB Tƣ bản
TBCN Tƣ bản chủ nghĩa
TBSX Tƣ bản sản xuất
TTCK Thị trƣờng chứng khoán
WB Ngân hàng Thế giới
6
DANH MỤC BẢNG, BIỂU SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 1.1
Suy giảm trong tăng trƣởng ở khu vực Mỹ Latin và
68
Caribe/2009
Bảng 1.2
Tăng trƣởng, lạm phát năm 2008-2009 (IMF)
70
Bảng 1.3
Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới tăng
71
trƣởng GDP, thất nghiệp, ngân sách ở các nƣớc Bắc Âu
Bảng 1.4
Bảng thống kê nợ một số quốc gia trên thế giới
74
Bảng 1.5
Chỉ số để đánh giá nợ bền vững của một số quốc gia
75
đang phát triển
Bảng 2.1
Các gói kích thích kinh tế của các nƣớc
98
Biểu đồ 1.1 Tăng trƣởng kinh tế trong quý I/2009 tại Châu Âu
67
Biểu đồ 1.2 Tình trạng thất nghiệp tại Châu Âu trong quý I/2012
76
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 nhƣ một cơn “siêu địa
chấn” kinh tế với sức tàn phá trầm trọng nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái 1929-
1933. Chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc khủng hoảng đã để lại những hậu quả rất
nghiêm trọng, từ sự sụp đổ hoặc khó khăn trầm trọng của hàng loạt định chế tài chính
lớn, cho đến việc ngừng trệ các hoạt động thƣơng mại, sụt giảm tăng trƣởng xuất khẩu,
đầu tƣ và tăng trƣởng kinh tế toàn cầu.
Để ứng phó với “siêu địa chấn” đó, bằng tất cả ý chí, nghị lực và sức mạnh
cùng với hàng loạt các giải pháp tổng hợp, cả thế giới và từng nền kinh tế để từng
bƣớc khắc phục những tổn hại và di chứng mà cuộc khủng hoảng đó đã gây ra. Vừa
phối hợp tiến hành hàng loạt các giải pháp khẩn cấp chống đỡ với cơn khủng hoảng,
vừa nhanh chóng tổ chức nhiều chƣơng trình nghiên cứu, hội thảo, tranh luận và cả
đại tranh luận trên quy mô toàn thế giới, chƣa bao giờ vấn đề đi tìm những giải pháp
cứu nguy cho nền kinh tế toàn cầu, khu vực và đối với từng nền kinh tế lại đƣợc đặc
biệt quan tâm đến thế.
Có rất nhiều sách báo, kỷ yếu của các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã
viết và bàn về cuộc KHTC toàn cầu này nhƣng dƣờng nhƣ vẫn chƣa đủ và ngƣời ta
vẫn buộc phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hƣởng và tác động mạnh
mẽ đến đời sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và toàn
thế giới. Các tổ chức tài chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế và nhiều học giả
nổi tiếng vẫn tiếp tục đƣa ra dự báo về những di chứng dai dẳng của cuộc đại khủng
hoảng này và nguy cơ của các cuộc khủng hoảng mới có thể tiếp tục xảy ra.
Tuy không nằm trong trung tâm của “siêu địa chấn” đó, nhƣng đối với Việt
Nam, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã có những tác động không nhỏ
đến tình hình kinh tế xã hội trong nƣớc. Bằng những nỗ lực cao của chính phủ, của
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và tổng lực toàn xã hội, chúng ta đã
ứng phó khá thành công đối với cuộc khủng hoảng. Nền kinh tế mặc dù đang gặp
rất nhiều khó khăn nhƣng về cơ bản vẫn tƣơng đối ổn định, xã hội vẫn giữ đƣợc
bình yên.
8
Cho đến nay, ở những mức độ khác nhau, các nền kinh tế trên thế giới đã có
những chuyển biến bƣớc đầu, một số nền kinh tế đã tăng trƣởng trở lại nhƣng rất
chậm. Kinh tế thế giới vẫn đứng trƣớc những thách thức to lớn, vẫn tiếp tục diễn
biến phức tạp, khó lƣờng. Đó là sự suy thoái kinh tế và nạn thất nghiệp chƣa từng
có ở Mỹ, là quốc nạn nợ công ở nhiều nƣớc Tây Âu, thậm chí làm chia rẽ cộng
đồng kinh tế Châu Âu về giải quyết vấn đề đó; là sự suy yếu hầu hết các nền kinh tế
trên thế giới và sự sụt giảm nghiêm trọng thƣơng mại toàn cầu. Chính điều đó làm
cho nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan niệm, cuộc khủng hoảng này có phần dịu đi
nhƣng dƣờng nhƣ vẫn tiếp tục với những biến thái mới. Có nhiều vấn đề lớn hết sức
bức thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn đang đặt ra. Một là, những đặc trƣng cơ bản
nhất của cuộc khủng hoảng này là gì và tại sao lại nhƣ vậy? Hai là, việc ứng phó
vừa qua với cuộc khủng hoảng đó đã kịp thời và hiệu quả chƣa, nguồn lực đổ vào
việc đó là lớn hay nhỏ, là thừa hay thiếu? Ba là, kết quả ứng phó cuộc khủng hoảng
đã thật chắc chắn chƣa, hiệu quả nhƣ vậy là cao hay thấp? Bốn là, qua việc ứng phó
với đầy quyết tâm và cố gắng nhƣ thế, có thể rút ra những kinh nghiệm gì, đặc biệt
là cách thức để ứng phó với những di chứng của cuộc khủng hoảng này? Và vấn đề
cần hết sức quan tâm là từ kinh nghiệm ứng phó với khủng hoảng vừa qua ở thế
giới và ở cả trong nƣớc, có thể rút ra bài học gì đối với Việt Nam?
Để góp phần lý giải những điều rất bức thiết lại cơ bản đó, vấn đề “Khủng
hoảng tài chính toàn cầu: Ứng phó của thế giới và của Việt Nam " đƣợc chọn
lựa làm luận án nghiên cứu của tác giả.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu đặc điểm, nguyên nhân và tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 cũng nhƣ cách thức cơ bản để ứng phó với nó, từ đó
phân tích, đánh giá những kết quả ứng phó với khủng hoảng của cộng đồng quốc tế
và của nƣớc ta để rút ra kinh nghiệm chung, đặc biệt là những bài học quý cho Việt
Nam trong việc phòng, chống khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhằm ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc.
9
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
Luận án sẽ giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản.
- Làm rõ quan niệm, bản chất, biểu hiện, đặc trƣng của khủng hoảng tài chính toàn
cầu nói chung và nhận diện cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
- Phân tích những giải pháp cơ bản để ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu
cũng nhƣ đánh giá hiệu quả của các giải pháp đó và rút ra những kinh nghiệm chung.
- Đề xuất một số giải pháp đối với Việt Nam trong việc ngăn ngừa và ứng phó với
khủng hoảng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008 và việc ứng phó với cuộc khủng hoảng 2008 của cộng đồng quốc tế và của
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về nội dung
- Luận án không nghiên cứu toàn bộ nội dung của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu mà chỉ nghiên cứu bản chất, đặc điểm, diễn biến, tác động và di
chứng của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 để xem xét hƣớng ứng phó với nó.
- Không nghiên cứu toàn bộ quá trình ứng phó với cuộc khủng hoảng này ở tất
cả các nƣớc và tất cả các ngành nghề mà chỉ nghiên cứu thực trạng ứng phó của
quốc tế nói chung, đặc biệt là của các nƣớc tác động lớn trực tiếp đến sự ổn định
của kinh tế thế giới và nền kinh tế nƣớc ta nhƣ Mỹ ( nước đầu tiên xảy ra khủng
hoảng tài chính 2008); Trung Quốc (nước có vai trò to lớn trong việc ứng phó với
khủng hoảng, lại có thể chế tương đồng với Việt Nam); và một số quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á.
3.2.2. Về không gian
Nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và quá trình ứng phó trong
phạm vi quốc tế và nƣớc ta.
3.2.3. Về thời gian
Nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra từ năm 2008 và ảnh
hƣởng của nó cho tới thời gian hiện nay.
10
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận án vận dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
Mácxít và những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin để nhận diện những nét
chính yếu nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và phân tích, đánh giá các
giải pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu.
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống để xem xét khủng hoảng tài chính toàn cầu
nhƣ là một chỉnh thể bao gồm nhiều chủ thể, nhân tố gắn kết hữu cơ với nhau nhƣ
thể chế, cơ chế, chính sách, tiền tệ, hàng hóa…
- Phƣơng pháp phân tích và phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng trong luận
án để đánh giá những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới kinh tế thế
giới và nền kinh tế Việt Nam. Phân tích định tính để đƣa ra các nhận xét, đánh giá,
làm rõ những hệ quả mà khủng hoảng đã gây ra.
- Luận án phân tích và tổng hợp kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc ứng
phó với khủng hoảng và có sự đối chiếu với Việt Nam để từ đó đƣa ra các nhận xét
và khuyến nghị cần thiết.
5. Những đóng góp mới của luận án.
- Làm sáng tỏ tính toàn cầu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và
vai trò điều tiết của Nhà nƣớc trong việc ứng phó trƣớc những tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
- Hệ thống hóa những giải pháp ứng phó khủng hoảng của cộng đồng quốc tế
và đúc rút những kinh nghiệm chung từ việc ứng phó với những tác động của khủng
hoảng.
- Đề xuất một số giải pháp để nền kinh tế nƣớc ta phát triển bền vững, tăng
cƣờng khả năng phòng vệ trƣớc các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
6. Kết cấu của luận án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các chữ viết tắt, luận án đƣợc trình bày gồm 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chính toàn cầu và nhận diện
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Chƣơng 2: Ứng phó toàn cầu và của một số quốc gia tiêu biểu đối với cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Chƣơng 3: Việt Nam với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những tác động của nó đến nền kinh tế
thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đã đƣợc nhiều học giả trong
và ngoài nƣớc quan tâm, nghiên cứu. Cã thÓ chia thµnh hai nhãm c«ng tr×nh nh
sau: Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài về khủng
hoảng tài chính toàn cầu nói chung đặc biệt là cuộc khủng hoảng 2008 và tác động
của nó đối với đối với từng khu vực, đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và
những giải pháp ứng phó với khủng hoảng. Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu
của các tác giả trong nƣớc về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tác động của nó
tới kinh tế Việt Nam và các biện pháp ứng phó của Việt Nam.
1. Công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài.
Có thể chia các công trình của các tác giả nƣớc ngoài thành 5 nhóm
1.1. Về nhận dạng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Cuốn sách đầu tiên kể đến trong danh sách này là cuốn “The global financial
crisis” (Khñng ho¶ng tµi chÝnh toµn cÇu) của tác giả Noah Berlatsky và Greenhaven
Press; tác phẩm “So sánh suy thoái hiện nay và Đại suy thoái 1930” và tác phẩm
The Ascent of Money (Sự đi lên của tiền ) của Ferguson.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã trình bày một cách cô đọng và dễ
hiểu nhất về dáng dấp của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các tác giả cho rằng, sự
ra đời của trái phiếu (bắt nguồn từ việc một đất nƣớc thuộc đế chế La Mã cần tiền
chi trả cho chiến tranh) và thị trƣờng cổ phiếu (do ngƣời Hà Lan tạo ra đầu thế kỷ
XVII), tài chính, vừa là ngọn nguồn của sự tiến bộ (đƣa tiết kiệm vào đầu tƣ sinh
lợi), vừa là mầm mống của sự bất ổn định. Kể từ khi “bong bóng” South Sea và
“bong bóng” Mississippi nổ ra ở Anh và Pháp đầu thế kỷ XVIII, sự hoang mang tài
chính, sự tăng đột biến trong hoạt động rút tiền gửi và sự sụp đổ của thị trƣờng dần
dần trở thành sự kiện thƣờng xuyên của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các tác giả đã
nhận diện cuộc khủng hoảng gần đây khác các cuộc khủng hoảng trong quá khứ.
Mặc dù vậy, các tác giả vẫn chƣa chỉ rõ cuộc khủng hoảng gần đây là không bình
thƣờng về tốc độ và bề rộng của nó và loại quốc gia bị ảnh hƣởng. Bởi lẽ, các cuộc
khủng hoảng trong quá khứ, cuộc khủng hoảng đã đƣợc giới hạn phần lớn trong các
vùng cụ thể hoặc các loại nền kinh tế các nƣớc Bắc Âu trong đầu những năm 1990,
12
châu Mỹ La tinh vào giữa những năm 1990, châu Á vào cuối những năm 1990, và
các nền kinh tế thị trƣờng mới nổi của đầu những năm 2000. Cuộc khủng hoảng gần
đây là không bình thƣờng trong bản chất toàn cầu, ảnh hƣởng đến các quốc gia với
một tốc độ và tính độc hại chƣa từng thấy kể từ cuộc Đại suy thoái, với các nƣớc
lớn và các nƣớc tiên tiến gần đây đã tích hợp với Liên minh châu Âu (EU) ảnh
hƣởng nhiều nhất.
1.2. Về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
Hàng loạt tác phẩm có thể coi là cuộc “Đại phẫu khủng hoảng kinh tế hiện nay”
viết về nguyên nhân cuộc khủng hoảng diễn ra gần đây, đó là các tác phẩm The
Trillion Dollar Meltdown: Easy Money, High Rollers and the Great Credit Cash
( Hàng ngàn tỷ đô la đã bốc khói…) của Charles R. Morris. Là cây bút có trên dƣới
10 cuốn sách viết về kinh doanh và tài chính, Morris là một trong những ngƣời đầu
tiên nhận ra chính sự nở rộ của hoạt động thế chấp nhập nhằng là đòn kích, châm
ngòi cuộc khủng hoảng.
Trong những cuốn sách viết về nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu này, có một phần không nhỏ tập trung phân tích ảnh hƣởng của bong bóng
bất động sản đối với cơn sóng gió mà thế giới đang phải chống chịu. Điển hình
trong những cuốn sách thuộc dòng này là Financial Shock: Global Panic and
Government Bailouts (Cú sốc tài chính: Sự hoảng sợ của toàn cầu và những biện
pháp cứu trợ của Chính phủ) của Mark Zandi và The Housing Boom and Bust ( Sự
bùng nổ và phá sản của thị trƣờng nhà ở) của Thomas Sowell. Với cách viết xúc
tích và dễ hiểu, Zandi đã đƣa ra những thông tin hết sức thú vị về nỗi ám ảnh của
ngƣời dân Mỹ đối với quyền sở hữu nhà đất. Nếu nhƣ ngƣời Nhật chỉ tiêu xài 1/7
thu nhập cho nhà ở thì tỉ lệ này ở Mỹ là 1/3. Sự ám ảnh thái quá đã khiến Mỹ tiêu
dùng nhiều hơn vào bất động sản và là nguyên nhân trực tiếp khiến thị trƣờng địa ốc
bùng nổ và dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Nếu nhƣ Financial Shock chỉ dành một phần để nói về sự sụp đổ của thị
trƣờng bất động sản thì The Housing Boom and Bust của Sowell lại thực hiện cuộc
đại phẫu toàn bộ những ngóc ngách sâu kín nhất của thị trƣờng ấy. Theo ông, những
chủ ngân hàng đầu tƣ và môi giới thế chấp tham lam là nguyên nhân chính đã gây ra
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
13
Hầu hết những cuốn sách kể trên đều nặng về phân tích thì các tác phẩm đầy
kịch tính khi tìm hiểu về cuộc khủng hoảng hiện thời nhƣ: House of Cards: A Tale
of Hubris and Wretched Excess on Wall Street (Ngôi nhà làm bằng những quân bài:
Câu chuyện về sự ngạo mạn và sự khốn cùng tột độ ở phố Wall) của William
D.Cohan; cuốn “Nguồn gốc Khủng hoảng tài chính” của George Cooper, xuất bản
bởi NXB Lao Động-Xã Hội, tháng 10/2008; tác phẩm: “Xã hội mở- Cải cách chủ
nghĩa tƣ bản toàn cầu” của George Endangered và cuốn “Khủng hoảng: Sự thất bại
của chủ nghĩa tư bản?” của tác giả Francis Fukuyaman đã phân tích rằng cuộc
khủng hoảng hiện nay không phải là sự thất bại của chủ nghĩa tƣ bản, mà là sự thất
bại của khuynh hƣớng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội. v.v…
Quan điểm chủ đạo của các cuốn sách trên là lý giải nguyên nhân tại sao nền
kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Mỹ nói riêng lại bị mắc kẹt trong đám
bong bóng giá tài sản tƣởng chừng nhƣ vô tận do các cuộc khủng hoảng tín dụng gây
ra, đồng thời miêu tả quá trình tạo nên những vòng quay luẩn quẩn và sau đó, chỉ ra
lý do đằng sau những sai lầm trong chính sách đã làm trầm trọng thêm những chu kỳ
ấy. Hệ thống tài chính không vận hành theo các quy luật của thuyết thị trƣờng hiệu
quả, nhƣ nhận thức phổ biến về kinh tế hiện nay. Hệ thống tài chính vốn bất ổn,
không hề có trạng thái cân bằng ổn định và thƣờng thiên về hƣớng tạo nên những
chu kỳ bùng vỡ nguy hại. Các tác giả cho rằng tình trạng không ổn định này đòi hỏi
các ngân hàng trung ƣơng phải quản lý quá trình tạo tín dụng. Tuy nhiên, các tác giả
cũng lý giải việc các chính sách của ngân hàng trung ƣơng theo thời gian đã trƣợt từ
mục tiêu bình ổn các hoạt động kinh tế sang thái cực ngƣợc lại, khuyếch đại các chu
kỳ bùng – vỡ, làm bất ổn thêm nền kinh tế gây nên khủng hoảng.
1.3. Về đặc điểm của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu..
Những cuốn sách đầu tiên thuộc dạng này của các tác giả nƣớc ngoài đã
đƣợc dịch sang tiếng Việt là: “The Great Crash 1929” của John Kenneth Galbraith
(Ác mộng đại khủng hoảng 1929, Alpha Books & NXB Trí Thức phát hành). Hay
“The Return of Depression Economics and the Crisis 2008” ( Sự trở lại của kinh tế
học suy thoái và khủng hoảng năm 2008) của nhà kinh tế đoạt giải Nobel Paul
Krugman. Một loạt cuốn sách kinh điển và nổi tiếng của George Soros nhƣ cuốn
14
“The Alchemy of Finance” (Giả kim thuật tài chính) của George Soros và Paul A.
Volker (1987); Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu của George Soros,
1998 với việc vạch rõ những nguy cơ tiềm ẩn của xã hội mở và các cách thức ứng
phó với nó; cuốn (Mô thức mới cho thị trường tài chính) (2007). Cuốn sách kế tiếp
viết về đặc điểm các cuộc khủng hoảng đã đƣợc dịch sang tiếng Việt là: “Manial,
Panics and Crashes” ( Hoảng loạn, Hỗn loạn và Cuồng loạn) của tác giả Charles
P.Kindleberger và Robert Z.Aliber, do công ty Sách Alpha dịch và phát hành tháng
9/2009. Súc tích, giàu thông tin. Kindleberger đã tiếp cận chủ đề khủng hoảng theo
cách thức khác biệt mà rất ít ngƣời lựa chọn. Hay Tính bất ổn của hệ thống tài
chính quốc tế của Oliver Davanne, 2000,v.v… Để nhận rõ đặc điểm của cuộc khủng
hoảng lần này, các tác giả đã đƣa đến cái nhìn tổng quan sáng tỏ về các cuộc khủng
hoảng có ảnh hƣởng lớn trong những năm gần đây. Đó là cuộc khủng hoảng nợ ở
Mỹ La tinh trong những năm 1980, một thập kỷ đình trệ của kinh tế Nhật Bản trong
những năm 1990, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á năm 1997-1998 và
cuộc khủng hoảng hiện nay. Thay vì liệt kê hàng loạt phƣơng trình toán học phức
tạp, các tác giả lại lý giải các cuộc khủng hoảng xác thực hơn bằng những giai thoại
và ví dụ thực tiễn. Chẳng hạn, Hoảng loạn, Hỗn loạn và Cuồng loạn thâu tóm gần
400 năm lịch sử tài chính thế giới với 10 cuộc khủng hoảng lớn. Xuyên suốt cuốn
sách, tác giả đƣa ra một câu hỏi mấu chốt là liệu những ngƣời cho vay cuối cùng có
xuất hiện trong các cuộc khủng hoảng đó không, và nếu không thì liệu thực tế có
khác đi. Việc tăng luồng tiền từ một quốc gia nƣớc ngoài hầu nhƣ luôn dẫn đến giá
giao dịch chứng khoán trong nƣớc đó tăng khi những nhà đầu tƣ bán chứng khoán
trong nƣớc cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài sử dụng phần lớn tiền thu đƣợc để mua
các chứng khoán trong nƣớc khác từ những nhà đầu tƣ nội địa. Những ngƣời bán
này lại làm tƣơng tự, sử dụng số tiền thu đƣợc để mua chứng khoán từ những ngƣời
bán trong nƣớc khác. Các giao dịch chứng khoán này đạt mức giá cao chƣa từng có
dẫn tới bong bóng cổ phiếu. Khi bong bóng nổ lập tức hàng loạt vụ sụp đổ và dẫn
đến Đại suy thoái? Theo tác giả, khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với một tổ chức
là biến cố đặc biệt đe dọa đến sự tồn tại của tổ chức đó. Ít nhất nó cũng gây ra
những tổn thất về tài sản, tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh và uy tín của tổ chức
15
đó. Hay trong “Mô thức mới cho thị trường tài chính” của Soros, tác giả đã dùng
kinh nghiệm và lý luận của mình để phân tích một cách sâu sắc và thẳng thừng cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Theo tác giả, nền kinh tế toàn cầu không thể
thoát khỏi quy luật tăng trƣởng rồi suy tàn. Khi khủng hoảng xảy ra, ngƣời ta coi đó
nhƣ quy luật tất yếu sau một thời kỳ tăng trƣởng nóng và là dấu hiệu tốt cho thấy
một sức sống mới sắp bắt đầu. Từ đó khủng hoảng đƣợc coi là biện pháp đào thải
hiệu quả để loại bỏ một số phần tử yếu kém, lạc hậu và chỉ có những gì thực sự
khỏe mạnh mới có thể tồn tại. Những cá nhân, tổ chức và xã hội vƣợt qua đƣợc các
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã rút ra cho mình những bài học lớn, thậm chí
họ còn vƣơn dậy mạnh mẽ và bền vững hơn. Nhƣng họ sẽ thực hiện nhƣ thế nào để
vƣợt qua đƣợc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bài học lớn rút ra cho mình sau
khủng hoảng là gì thì các tác phẩm trên chƣa chỉ ra giúp họ.
1.4. Về những giải pháp ứng phó và bài học kinh nghiệm.
Tác phẩm: The global economic and financial crisis – Regional impacts,
responses and solutions, United Nations publication. (Kinh tÕ toµn cÇu vµ khñng
ho¶ng tµi chÝnh - ¶nh h ëng theo khu vùc, ph¶n øng vµ gi¶i ph¸p). Cuốn sách lý giải
cuéc khñng ho¶ng tµi chÝnh ở Mü ®· nhanh chãng më ra mét cuéc khñng ho¶ng
kinh tÕ mµ hiÖn nay cã nguy c¬ lµm thôt lïi c¸c tiÕn bé ph¸t triÓn cña nh÷ng thËp kû
võa qua vµ kết ®äng thµnh bi kÞch cña con ng êi ë c¸c n íc ®ang ph¸t triÓn. VÊn ®Ò
nµy mang tÝnh toµn cÇu: nã ¶nh h ëng tíi mäi quèc gia ph¸t triÓn ë khắp c¸c khu
vùc vµ ®iÒu nµy ®ßi hái mçi quèc gia ® a ra mét chiÕn l îc ®Ó gi¶i quyÕt nh÷ng
th¸ch thøc. §ång thêi hîp t¸c liªn chÝnh phñ, c¶ toµn cÇu vµ khu vùc tËp trung ®¶m
b¶o c¸c gi¶i ph¸p c«ng bằng vµ hiÖu qu¶. Mçi khu vùc ®èi mÆt víi nh÷ng th¸ch thøc
kh¸c nhau, nh ng tác giả x¸c ®Þnh nh÷ng c¬ héi xa h¬n cho hîp t¸c vµ phèi hîp
chÝnh s¸ch ë cÊp khu vùc vµ liªn vïng.
Ngày 16-6-2010 nhà kinh tế Edwin Truman, công bố báo cáo nghiên cứu với
tựa đề "Khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Bài học và thách thức đối với các nước đang
phát triển". Nhà kinh tế Edwin Truman nhận định nguyên nhân của khủng hoảng có
thể gồm một vài hoặc cả bốn yếu tố: chính sách kinh tế vĩ mô; điều tiết và giám sát
lĩnh vực tài chính; kỹ thuật tài chính; các thiết chế tài chính tƣ nhân lớn. Trong đó,
hai nguyên nhân lớn nhất là sự thất bại của chính sách kinh tế vĩ mô và trong điều
16
tiết, giám sát tài chính. Cơ chế liên kết tài chính và toàn cầu hóa tuy không phải là
nguyên nhân trực tiếp, cũng góp phần làm khủng hoảng trầm trọng hơn. Chính sách
kinh tế vĩ mô của Mỹ và các nƣớc phát triển đóng góp vào việc châm ngòi khủng
hoảng. Tại Mỹ, chính sách tài chính đã làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và cho phép duy trì
trong một thời gian dài các chính sách tiền tệ lỏng lẻo. Hậu quả là bùng nổ về nhà ở,
kéo theo bùng nổ tín dụng toàn cầu, làm tăng giá cổ phiếu tài chính. Sự lỏng lẻo
trong quản lý và điều tiết đối với lĩnh vực tài chính, cùng với môi trƣờng kinh tế, tài
chính thiếu lành mạnh góp phần làm khủng hoảng trầm trọng hơn... Nhƣng dù
nguyên nhân đƣợc xác định là gì, thì cũng có thể thấy cuộc khủng hoảng kinh tế -
tài chính đang diễn ra khác với các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra trong lịch sử
ở hai điểm chính. Thứ nhất, chính Mỹ đã châm ngòi cho khủng hoảng, chứ không
phải quốc gia nào khác nhƣ những lần khủng hoảng trƣớc. Thứ hai, các nhà hoạch
định chính sách và chuyên gia kinh tế chƣa hề đƣợc chuẩn bị trƣớc việc Mỹ rơi vào
khủng hoảng, nên chậm đƣa ra giải pháp cứu nền kinh tế đầu tàu này của thế giới.
Sau gần 3 năm kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: Crisis
Management and Resolution: Early Lessons from the Financial Crisis (Quản lý và
giải pháp cho khủng hoảng. Những bài học đầu tiên từ cuộc khủng hoảng tài chính)
là một công trình nghiên cứu công phu của IMF năm 2011. Trong đó IMF nhấn
mạnh 3 bài học quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách để tránh nguy cơ sa
trở lại vào khủng hoảng đó là:
Thứ nhất, IMF tin rằng ổn định tài chính nên tập trung vào việc duy trì sử
dụng những chính sách thận trọng vĩ mô nhằm tìm kiếm sự đảm bảo ổn định tài
chính bằng cách giảm thiểu sự tích tụ các nguy cơ mang tính hệ thống. Các công cụ
thận trọng vĩ mô bao gồm các đòi hỏi về vốn, khả năng dự báo thất thoát, khả năng
thanh toán tiền mặt... Báo cáo của IMF cũng cho rằng tất cả các thể chế hệ thống
tiềm năng và thị trƣờng nên hoạt động trong phạm vi điều hành của sự thận trọng vĩ
mô. Các ngân hàng Trung ƣơng nên đóng vai trò chủ đạo cho dù họ có hay không
đóng vai trò điều tiết chính.
Thứ hai, IMF khẳng định rằng ổn định giá nên tiếp tục là mục tiêu chủ đạo
của chính sách tiền tệ. Báo cáo cho biết "Ngân hàng trung ƣơng phải duy trì sự ổn
17
định về lòng tin đối với ổn định về giá mà họ có đƣợc trƣớc khi xảy ra khủng hoảng
và lòng tin này phải đƣợc bảo vệ. Việc kiểm soát và phân tích diễn biến và rủi ro
của hệ thống tài chính có thể hòa nhập tốt hơn trong việc hình thành thực thi chính
sách tiền tệ".
Thứ ba, IMF tin rằng việc ngân hàng trung ƣơng cần có những thay đổi đối
với hoạt động tiền mặt và cơ cấu quản lý khủng hoảng. Theo cơ quan này, "thay đổi
để tăng cƣờng sự linh hoạt trong cơ cấu tổ chức của các hoạt động của ngân hàng
trung ƣơng sẽ cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống". Tuy vậy IMF chƣa tiến
hành thống kê những phản ứng chính sách tiêu biểu mà các quốc gia đã vận dụng
trong quá trình ứng phó với cuộc khủng hoảng .
1.5. Những bài viết tiêu biểu đăng trên các tạp chí đề cập đến nhiều khía cạnh
của cuộc khủng hoảng này.
Có thể kể đến nhƣ: On the political economy of the Financial crisis and
bailour of 2008, (Về vấn đề kinh tế chính trị của cuộc khủng hoảng tài chính và giải
pháp cứu trợ của năm 2008) của Roger D.Congleton đăng trên tạp chí Newsweek.
Bµi viÕt nµy cung cÊp c¸i nh×n tæng quan vÒ quyÕt ®Þnh kinh tÕ vµ chÝnh trÞ g©y ra
cuéc khủng hoảng tài chính toàn cầu n¨m 2008. Nã b¾t ®Çu víi c¸c nỗ lùc cña Mü
thóc ®Èy quyÒn së h÷u nhµ ®Êt vµ nh÷ng chÝnh s¸ch nµy cïng víi quy ®Þnh cña ng©n
hµng cuèi nh÷ng n¨m 1990 đầu nh÷ng n¨m 2000 t¹o ra gãi ®Çu t quèc tÕ chøng
kho¸n thÕ chÊp ®ßn bẩy cao vµ rñi ro cao. Gi¸ nhµ gi¶m t¸c ®éng chÝnh tíi b¶ng c©n
®èi vµ danh môc ®Çu t cña c¸c tæ chøc tµi chÝnh trªn toµn thÕ giíi bëi rñi ro cña
chøng kho¸n thÕ chấp bÞ ®Þnh gi¸ qu¸ thÊp. Nh÷ng ¶nh h ëng cña chøng kho¸n thÕ
chÊp gÊp ®«i hiÖu lùc th«ng th êng cña sù næ bong bãng nhµ ®Êt. Bµi nghiªn cøu kÕt
luËn bằng sù th¶o luËn tÝnh cần thiÕt cña lùa chän c«ng céng, kinh tÕ chÝnh trÞ hiÕn
ph¸p vµ häc thuyÕt điều chØnh ®Ó gi¶i thÝch sù ®iÒu tiÕt khñng ho¶ng theo chøng
kho¸n thÕ chÊp.
Bài viết: The financial crisis and the policy responses: An empirical analysis of
what went wrong (Khủng hoảng tài chính và các chính sách ứng phó- một phân tích
toàn diện về nguyên nhân đến thất bại) của John B.Taylor trên
http://www.stanford.edu. Bµi viÕt nµy lµ cuéc ®iÒu tra thùc nghiÖm vÒ vai trß cña sù
can thiÖp vµ hµnh ®éng cña chÝnh phñ trong khủng hoảng tài chính toàn cầu th¸ng 8
18
n¨m 2007. Nã tÝch hîp vµ tãm t¾t mét sè dù ¸n nghiªn cøu thùc nghiÖm ®ang diÔn
ra víi môc ®Ých häc tËp tõ chÝnh s¸ch tr íc ®ã vµ tõ ®ã c¶i thiÖn chÝnh s¸ch trong
t ¬ng lai. Bằng chøng ® îc tr×nh bµy qua mét sè b¶ng ® îc hç trî b»ng ph©n tÝch sè
liÖu trong dù ¸n nghiªn cøu nµy. Nguyªn nh©n cña khñng ho¶ng tµi chÝnh lµ g×?
Điều g× lµm nã kÐo dµi vµ t¹i sao nã trë nªn tåi tÖ h¬n mét n¨m sau khi nã b¾t ®Çu?
Tác giả cho rằng, nh÷ng nguyªn nh©n cña khñng ho¶ng tµi chÝnh hiện nay là; cho
vay thÕ chÊp thiÕu thËn träng; hiện tƣợng bong bãng nhµ ®Êt; sự mÊt c©n b»ng toµn
cÇu; sù thiÕu minh b¹ch vµ tr¸ch nhiÖm trong tÝn chấp tµi chÝnh; sù láng lÎo cña
ph¸p luËt và thÊt b¹i cña hÖ thèng qu¶n lý rñi ro. Cùng đề cập đến vấn đề này, bài:
Causes of the Financial Crisis ( Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính) của tác
giả Mark Jickling trên http://www.au.af.mil đã đƣa ra những nhận định khá xác
đáng. Tác giả cho rằng những mắc mớ tài chính hiện nay chứng tỏ rằng, các khiếm
khuyết của thị trƣờng tự do phải đƣợc sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động và tích
cực của Nhà nƣớc, để các quy luật kinh tế khách quan vận động có lợi nhất cho xã
hội. Đây là một quan niệm đúng, song vấn đề là hiện nay cả thị trƣờng và Nhà nƣớc
đều khác trƣớc. Theo tác giả, thế giới đang cần một hƣớng đi mới trong hành trình
tìm kiếm vai trò, xác định liều lƣợng và các công cụ can thiệp của mô hình Nhà
nƣớc kiểu mới, mang tính đại diện cao hơn cho các lợi ích chung của nhân loại.
Trong đó, sẽ có yêu cầu cao hơn về tăng cƣờng vai trò của luật pháp, chế tài, điều
tiết Nhà nƣớc, kiểm soát các thể chế thị trƣờng và cho vay tín dụng, thiết lập hệ
thống thông tin công khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và
trừng phạt các sai trái và gian lận… sao cho vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị
trƣờng, vừa không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi
ích trong quá trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh
nặng khủng hoảng lên ngƣời dân, ngƣời tiêu dùng. Ngoài ra, có thể kể đến hàng loạt
các bài viết và công trình nghiên cứu nhƣ; The Current Financial Crisis: Causes
and Policy Issues ( Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay: Nguyên nhân và các giải
pháp) của Adrian Blundell- Wignall, Paul Atkinson and Se Hoon Lee đăng tải trên
http://www.oecd.org.pdf.
Bài: Financial Crisis: Paulson Panics as UK, Germany find own solution (
Khủng hoảng tài chính: Paulson lo ngại khi Anh, Đức tìm giải pháp cho riêng mình)
19
của F.William Engdahl đăng tải trên http://tinyurl.com/. Bài viết: “Long Term
Solutions to the Economic Crisis” (Các giải pháp dài hạn đối với khủng hoảng tài
chính) của DavidJ.Shestokas đăng tải trên Bank blogs. Worldbank.org. Bài viết:
“Posible’s Solution to the Economic Crisis. What Is to be Done” (Các giải pháp có
thể đối với khủng hoảng tài chính) của tác giả Paul Craig Roberts, bài: “The
U.S.economic crisis: Causes and solutions”
(Khủng hoảng tài chính Mỹ: Nguyên nhân và giải pháp) của Fred Moseley đƣợc
đăng trên tạp chí Newsweek. Bài “Global Economic Prospects 2010: Crisis,
Finance and Growth.” ( Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2010; khủng hoảng, tài
chính và tăng trƣởng, Washington D.C ) trên tạp chí Worl Bank 2010. Bài: “
Economics is in crisis; it is time for a profound revamp” (Kinh tế học đang bị khủng
hoảng: Đây là thời điểm cho một cuộc đại phẫu sâu rộng) của Grauwe, P.2009 đăng
tải trên tạp chí Financial Times, 21/07/2009, London. Bài: “A crisis for the center of
the system” ( Một cuộc khủng hoảng vì trung tâm của hệ thống) của tác giả Kliman,
đăng tải trên , International Socialism, No 120, 10/2008. Bài: “Face it: Marx was
partly righ about capitalism” ( Đối mặt với nó: Trong chừng mực nào đó Mác đã có
lý về CNTB) của Wiliam, R. 2009. đăng trên Spectator, 24/09/2008. Bài:
“Financial Crisis: Contending Explanations” ( Khủng hoảng tài chính: Những sự lý
giải gây tranh cãi) của McIntyre R.2008 đăng trên Tạp chí điện tử Rethinking
Marxism. Bài: “Capitalist crisis, Marx’s shadow” ( Khủng hoảng CNTB, cái bóng
của Mác) của Wolff đăng tải trên Tạp chí điện tử MR Zine, 09/2008. Bài:
Understanding Subprime Mortgage Crisis” ( Hiểu biết về khủng hoảng cầm cố và
thế chấp) của Federal Reserve Bank of St Louis trên tạp chí của Wordl Bank…
Cuốn s¸ch tËp hîp hàng loạt nh÷ng bµi viÕt vÒ khñng ho¶ng tµi chÝnh Ch©u ¸,
nguyªn nh©n vµ gi¶i ph¸p có thể kể đến các bài viết nhƣ: The Asian Financial Crisis
: Origins, implications, and solutions của William C. Hunter, Geotge G. Kaufman,
and Thomas H. Krueger, Edotors (khñng ho¶ng tµi chÝnh Châu Á: Nguồn gốc, tác
động và giải pháp). Bài : The Asian Financial Crisis: causes, contagion and
consequences (Khñng ho¶ng tµi chÝnh Châu Á- Nguyên nhân lây lan và hậu quả).
Bài : Lessons from the financial crisis: causes, consequences, and our economic
20
future ( Bài học từ khñng ho¶ng tµi chÝnh: Nguyên nhân, hậu quả và nền kinh tế
tƣơng lai của chúng ta). Bài : “The Asian Financial Crisis: lessons for a resilient
asia” (Khñng ho¶ng tµi chÝnh Châu Á: Bài học cho một Châu Á có sức bật mạnh
mẽ). Bài: “Asian financial crisis: The role of China and Japan in the post- Asian
crisis era (or solution)”
(Khñng ho¶ng tµi chÝnh Châu Á- Vai trò của Trung Quốc và Nhật Bản trong kỷ
nguyên hậu khủng hoảng (giải pháp)) của tác giả Pettway, Richard H. Bài viết: Is
China headed towards an economic crisis ( Liệu Trung Quốc đang tiến về một cuộc
khủng hoảng kinh tế) của Jordon Cooper. Bài: The Global Financial Crisis:
Analysis and Policy Implications ( Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Phân tích và
các chính sách tác động) của Dick K. Nanto, Coordinator đƣợc đăng tải trên trang
http://www.fas.org/spg/crs/misc.
Ý tƣởng chung cho hàng loạt các tác phẩm và bài viết trên là một nƣớc nào
đó trải qua càng nhiều chấn động kinh tế, càng nhiều điểm yếu đƣợc loại bỏ, và khi
kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, càng mạnh hơn trƣớc. Hơn nữa, khủng hoảng có
thể làm tiền đề cho nền kinh tế những nƣớc công nghiệp phát triển chuyển đổi khoa
học kỹ thuật và kinh tế - xã hội lên cấp độ mới. Nhìn một cách khách quan cuộc
khñng ho¶ng tµi chÝnh toàn cầu bên cạnh việc đã gây ra một loạt các tác động xấu
nhƣng trong một chừng mực nào đó cũng mang lại những tác động tích cực, đó là
đem toàn bộ nền kinh tế Châu Á nói chung và Đông Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng
sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng nóng trƣớc đó.
2. Công trình nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc.
Có thể chia các công trình của các tác giả trong nƣớc thành 2 nhóm;
2.1. Nhóm công trình dưới dạng sách, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học đề cập
lý thuyết chung về khủng hoảng tài chính toàn cầu và nhận dạng cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu lần này.
Cuốn sách đầu tiên đƣợc kể đến là: “Chủ nghĩa tư bản hiện đại - khủng
hoảng kinh tế và điều chỉnh” (NXB Lao động xã hội, 2002) của PGS.TS Lê Bộ
Lĩnh. Công trình tiếp theo là: “Cuộc khủng hoảng kinh tế 2007-2009 nhìn từ quan
điểm về khủng hoảng kinh tế của C.Mác” của nhóm nghiên cứu Vũ Thùy Linh,
Bạch Hồng Vân, Hoàng Thị Huyền Trang trƣờng ĐH kinh tế, ĐHQG Hà Nội. Tiếp
21
đó là cuốn “ Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng trong kinh tế học” của GS. Trần
Hữu Dũng do NXB lao động ấn hành. Tác phẩm “Khủng hoảng kinh tế theo quan
điểm lịch sử” của nhiều tác giả do Học viện tài chính biên soạn và phát hành năm
2008. Ngoài các nghiên cứu dƣới dạng sách trên, ở Việt Nam cũng đã có nhiều bài
nghiên cứu, bài viết có liên quan đến vấn đề này nhƣ; “Khủng hoảng tài chính toàn
cầu từ góc nhìn lợi ích” đăng trên tạp chí Cộng sản tháng 5.2009 của tác giả Tạ
Ngọc Tấn. Bài “Khñng ho¶ng tµi chÝnh toàn cầu và suy thoái kinh tế- Những thách
thức về lý thuyết kinh tế” bài đăng trong Kỷ yếu kỳ họp thứ 9 Hội đồng lý luận
trung ƣơng tháng 9/2009 của T.S Lê Đăng Doanh. Bài viết “Một vài suy nghĩ về
cuộc khñng ho¶ng tµi chÝnh - suy thoái toàn cầu hiện nay và các lý thuyết kinh tế”
đăng trong trong Kỷ yếu kỳ họp thứ 9 Hội đồng lý luận trung ƣơng tháng 9/2009
của PGS.TS Phí Mạnh Hồng. Bài “Một số lý thuyết kinh tế chính trên thế giới hiện
nay qua cuộc khñng ho¶ng tµi chÝnh toàn cầu và những vấn đề đặt ra cho Việt
nam”( Báo cáo đề dẫn tại Kỳ họp thứ 9 Hội đồng lý luận trung ƣơng tháng 9/2009)
của GS.TS Đỗ Hoài Nam và bài viết: “Một số quan điểm cơ bản của C.Mác và
V.I.Lênin về kinh tế thị trường tự do cạnh tranh và việc vận dụng vào điều kiện thực
tiễn của Việt Nam”. đăng trên website Đảng cộng sản 12/2009 của GS.TS Đỗ Thế
Tùng. Bài “Kinh tế thị trường Mỹ, hậu quả và giải pháp đối với Việt Nam” của Bùi
Kiến Thành đăng trên http:// www.ecna.gov.vn/ht/List/Baiviet . Bài “Đánh giá tổng
quan về tình hình kinh tế thế giới, khu vực sau KHTC và những tác động đến kinh tế
Việt Nam ” của Lê Văn Đƣợc đăng trên http:// www.ecna.gov.vn/ht/List/Baiviet
Quan điểm chủ đạo trong các bài viết này là
Xuất phát từ các tác giả cho rằng khủng hoảng tài chính h
K
Theo quan điểm của hầu hết các tác giả, khủng hoảng tài chính là một thời điểm
quan trọng trong tiến trình phát triển, là điểm nút làm bộc lộ rõ những mâu thuẫn
hoặc mất cân bằng của một hệ thống nhất định do sự tác động của những yếu tố nội
tại cũng nhƣ bên ngoài quy định sự phát triển của hệ thống đó. Đồng thời, hầu hết
22
các tác giả đã nhận định đúng rằng, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 xảy ra,
khi nghiên cứu về khủng hoảng, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng
tài chính toàn cầu và các giải pháp để phòng ngừa khủng hoảng, ngƣời ta nhìn lại và
nhận thấy những lý thuyết của C.Mác không hề lỗi thời, mặc dù tình hình đã thay
đổi và có nhiều biểu hiện khác thƣờng nhƣng những nguyên lý cơ bản vẫn đúng.
Tuy vậy, trong các công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đã không đồng nhất
khi nhận diện, đánh giá nguyên nhân và bản chất của cuộc khủng hoảng toàn cầu,
thậm chí có ngƣời còn đồng nhất nguyên nhân và bản chất của cuộc khủng hoảng.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu đối với Việt Nam và các biện pháp ứng phó của Chính phủ.
Cuốn sách đầu tiên kể đến thuộc nhóm này là: “Khủng hoảng tài chính toàn
cầu và giải pháp của Việt Nam”của NXB Tổng hợp TP.HCM tháng 11/2009. Cuốn
sách này không chỉ cung cấp thông tin về sự kiện khủng hoảng tài chính nói chung
mà còn đƣa ra những phân tích, đánh giá thực trạng cũng nhƣ triển vọng của các
giải pháp khắc phục khủng hoảng tài chính toàn cầu qua các bài viết đã đăng trên
"Thời báo kinh tế Sài Gòn" của các chuyên gia kinh tế uy tín ở trong và ngoài nƣớc
nhƣ: GS Trần Văn Thọ, TS Vũ Quang Việt, TS Lê Đăng Doanh... đặc biệt là các
cuộc phỏng vấn hai nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới Paul Krugman và Michael
Porter nhân dịp hai ông đến Việt Nam. Với cách đề cập vừa bao quát vừa mang tính
chuyên sâu, nội dung cuốn sách này đã giải đáp nhiều câu hỏi của độc giả về cuộc
khủng hoảng tài chính đã làm chao đảo toàn cầu.
Cuốn sách " Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính - Tiền tệ ở Việt
Nam" của Học viện Tài chính xuất bản năm 2003. Nội dung chính của cuốn sách là
trên cơ sở phân loại, hệ thống hoá các quan điểm trong và ngoài nƣớc về khủng
hoảng tài chính - tiền tệ, phân tích đánh giá nền tài chính tiền tệ Việt Nam để làm rõ
những nguyên nhân, mầm mống có thể gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt
Nam hoặc/và chịu tác động nặng nề từ khủng hoảng trong khu vực và toàn cầu từ
đó đề xuất xây dựng hệ thống giải pháp khả thi nhằm tiêu diệt các " mầm mống " có
thể gây ra khủng hoảng có tác dụng thiết lập hệ thống phòng ngừa, miễn dịch đối
với khủng hoảng cho Việt Nam tƣơng lai...
23
Tiếp đó là cuốn sách; “Giảng dạy kinh tế sau khủng hoảng 2008” của
Nguyễn Hoài Bảo, Đại học kinh tế TP.HCM. Một trong những nội dung đƣợc trình
bày trong cuốn sách này là những tranh luận về sự thất bại của lý thuyết kinh tế với
cuộc khủng hoảng 2008. Đề tài mã số B0011 “Khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu
á & tác động của chúng đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam”
đã nghiên cứu nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và
những tác động của chúng đến hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam,
những thuận lợi, vƣớng mắc và yếu kém trong việc thu hút FDI, từ đó đề xuất một
số giải pháp cho việc ổn định và phát triển kinh tế trong nƣớc.
"Mở mắt ra thấy khủng hoảng, nhắm mắt lại nghe khủng hoảng, chiêm bao
màng đƣợc khủng hoảng, tỉnh dậy ngộ ra khủng hoảng..." đó là tựa đề của cuốn
sách “Đi tìm bóng ma khủng hoảng” của TS. Nguyễn Đức Hƣởng, Phó Chủ tịch
HĐQT - Tổng Giám đốc Ngân hàng Liên Việt, tác giả chủ biên cuốn " Khủng
hoảng tài chính toàn cầu - Thách thức với Việt Nam" (Nhà Xuất bản Thanh Niên -
2010). Cuốn sách thể hiện sự công phu của ngƣời biên tập trong việc chọn lọc, hệ
thống hóa một cách lôgic các sự kiện đƣợc quan tâm. Điểm trong đó, là lịch sử của
các cơn khủng hoảng. Qua đó, nhóm tác giả đã tìm ra mối liên kết, phân tích sức
ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng này với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và
năm 2009, đặc biệt là trong 3 lĩnh vực: bất động sản, chứng khoán và ngân hàng.
Cuốn sách “Khủng hoảng tài chính toàn cầu…, một năm nhìn lại” của GS.TS Đỗ
Hoài Nam, NXB Khoa học xã hội, 2010 đã tổng hợp và đánh giá thực chất của
khủng hoảng tài chính toàn cầu và những chính sách đã thực thi của Chính phủ Việt
Nam trƣớc khủng hoảng.
Cuốn “Giấc mơ trứng vàng” của Ngô Sơn Dƣơng do Alpha Book ấn hành.
Cuốn sách mô tả góc nhìn thực tế về thị trƣờng chứng khoán Việt Nam và những
mánh khóe trên thị trƣờng. Những ai ngủ quên trên đỉnh vinh quang của chứng
khoán Việt Nam đều từng trải qua cơn bĩ cực khi con tim đập loạn nhịp với đà tụt
dốc không phanh của giá trị các cổ phiếu khi nền kinh tế trải qua những thăng trầm.
Ngoài các cuốn sách kể trên, có thể kể đến các bài viết nhƣ; “Khủng hoảng tài
chính và suy giảm kinh tế thế giới tác động và ảnh hưởng đến khu vực ASEAN và hệ
24
thống tài chính Việt Nam” của Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm trong hội thảo ASEAN CSK/2009.
Bài viết nhận định khủng hoảng không thể hoạch định trƣớc bởi ai đó đƣợc. Chúng là
cấu thành khăng khít của hệ thống chủ nghĩa tƣ bản thế giới. Điều chủ yếu là phải rút
ra đƣợc những kết luận đúng từ lịch sử và không phí thờì gian vô ích.
Đề tài: “Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những tác động đến Việt nam:
Nhìn từ góc độ Ngân hàng và Chứng khoán” của TS Lê Vũ Nam khoa kinh tế-
ĐHQG TP. HCM. Tƣ tƣởng xuyên suốt của công trình là cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đang diễn biến hết sức phức tạp với sức công phá nặng nề, là nổi ám
ảnh đối với nền kinh tế của nhiều nƣớc. Việc ngăn chặn sự tàn phá khủng khiếp của
cơn bão Tsunami tài chính này không còn nằm trong phạm vi khả năng của một
quốc gia mà trở thành trách nhiệm và sự nỗ lực chung của tất cả các nƣớc, trƣớc hết
là các nƣớc có nền kinh tế lớn. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia, tùy theo đặc thù
của nền kinh tế nhƣ mức độ hội nhập và trình độ phát triển mà có thể có những giải
pháp riêng. Trong đó, các giải pháp liên quan đến hệ thống ngân hàng và thị trƣờng
chứng khoán – vốn là tâm điểm của cuộc khủng hoảng là rất quan trọng.
Ngoài các sách và đề tài nêu trên còn có hàng loạt bài viết đƣợc đăng tải trên
các báo, tạp chí và trên các diễn đàn hội thảo liên quan đến chủ đề khủng hoảng
nhƣ; “Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số vấn đề đặt ra với Việt nam” của Vũ
Khoan đăng trên tạp chí Cộng sản tháng 5.2009. Bài viết trong hội thảo lý luận lần
thứ năm giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam tháng
12/2009 “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nhìn từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu” của GS.TS Vũ Văn Hiền. Bài “Công nghiệp Việt Nam
ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu” của PSG.TS Phan Đăng Tuất tại hội
thảo lý luận lần thứ năm giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt
Nam tháng 12/2009. Bài viết “Thấy gì qua cách ứng phó với khủng hoảng tài chính
toàn cầu của các nước Asean” của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh và Phạm Thị Thanh
Bình đăng trên tạp chí cộng sản tháng 3/2010. GS.TS Phùng Hữu Phú với bài viết
“Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến lĩnh vực xã hội của Việt
nam và giải pháp ứng phó”, tại hội thảo lý luận lần thứ năm giữa Đảng cộng sản
Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12/2009. Trần Văn Thọ, Trần Lê
25
Anh với loạt bài “KHTC Mỹ và những ảnh hưởng với Việt Nam” đăng tải trên
thanhnien.com.vn. Bài “Tsunami tài chính Mỹ và bài học cho Việt Nam”của Trần
Sỹ Chƣơng đăng trên httt//www2.sanotc.com. TS. Nguyễn Trọng Nghĩa với bài
“Khủng hoảng tài chính phố Wall: nguyên nhân và mức độ tác động có thể tới Việt
Nam” đăng trên tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 11/2008…
Tóm lại, qua các công trình, tƣ liệu trong và ngoài nƣớc có nội dung liên quan
đến chủ đề khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể khái quát ở các nội dung sau:
Một là: C¸c c«ng tr×nh cña c¸c t¸c gi¶ n íc ngoµi t ¬ng ®èi ®a d¹ng vµ ®·
ph©n tÝch lý gi¶i nhiÒu néi dung quan träng liªn quan ®Õn khủng hoảng tài chính
toàn cầu . Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính của các học giả về khủng hoảng
tài chính toàn cầu:
+ Quan điểm thứ nhất, cho rằng, khủng hoảng tài chính toàn cầu là do sự
hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co hẹp cung tiền
tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tƣ. Họ bỏ qua những
nguyên nhân thực nhƣ: sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều
doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ sự can thiệp của Chính phủ là không cần thiết, và
thậm chí có hại, bởi vì những doanh nghiệp muốn phải để cho bị phá sản lại đƣợc
cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và dẫn tới lạm phát. Nhóm này
là những ngƣời theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View).
+ Quan điểm thứ hai có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền
tệ, bao gồm sự sụt giảm hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài
chính và phi tài chính, nạn giảm phát đi kèm với sự rối loạn của thị trƣờng ngoại
hối. Những yếu tố này gây nên sự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tƣ và tiêu dùng, vì
thế cần phải có sự can thiệp của nhà nƣớc. Điều đáng nói là họ không đƣa ra một
đặc trƣng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách
kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của Chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát
và trì trệ, nhƣ những ngƣời theo chủ thuyết tiền tệ đã lƣu ý. Nhóm thứ hai này đối
lập với chủ thuyết tiền tệ mà đại diện là Kindleberger (1978) và Misky (1972).
+ Quan điểm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính,
theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do
26
ngân hàng đầu tƣ hay tổ chức cho vay thƣờng không nắm rõ thông tin về khả năng
sinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tƣ bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là
những ngƣời chủ dự án. Sự khác biệt về thông tin (asymetry of information), hay sự
thiếu minh bạch về thông tin dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề,
bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù
cho rủi ro mất vốn có thể xảy ra.
Cho dù thuộc nhóm nào thì c¸c t¸c gi¶ đều kh¼ng ®Þnh nguyên nhân trực tiếp
nổ ra các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là do chính sách kinh tế vĩ mô sai
lệch, kinh tế ảo mở rộng quá mức, thiếu sự giám sát, quản lý của Chính phủ các
nƣớc tƣ bản. Đó là thời kỳ tới giới hạn, là một thời điểm lịch sử nguy hiểm, trong
đó ngƣời ta sẽ tránh đƣợc sự kết thúc thông qua các điều chỉnh mới bằng cách đƣa
ra các quyết định và thực hiện sự chuyển đổi. Hầu hết những nghiên cứu của các
học giả nƣớc ngoài về khủng hoảng tài chính đều hƣớng đến việc tìm ra cách thức,
giải pháp nhằm giúp các nền kinh tế vƣợt qua khủng hoảng, hƣớng đến thiết lập mô
thức mới bảo đảm cho sự vận hành hiệu quả hơn của hệ thống trong thời kỳ hậu
khủng hoảng và trong tƣơng lai.
Có thể nói, về cơ bản, những nghiên cứu của các học giả nƣớc ngoài dù dƣới
dạng lý thuyết hay thực tiễn đều đã hàm ý giải quyết những nguy cơ khủng hoảng;
trong các nghiên cứu dù khác nhau về phƣơng diện tiếp cận hay khác nhau về tính
chất, thời gian và không gian diễn ra cuộc khủng hoảng nhƣng việc đi đến các đề
xuất vƣợt qua khủng hoảng luôn đƣợc đề cao trong hầu hết các công trình nghiên
cứu. Các kết luận đƣợc đƣa ra trong những nghiên cứu này có giá trị khoa học cao,
một mặt nó là kết quả của việc sử dụng các phƣơng pháp phân tích hiện đại, mặt
khác nó đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về khủng hoảng tài chính toàn cầu với
cách tiếp cận, giải quyết thực tế và khoa học.
Tuy nhiên, cách phân tích và các quan điểm của các tác giả nƣớc ngoài phần
nhiều vẫn căn cứ vào các lý thuyết của các học giả tƣ sản về chính sách bảo thủ
hoặc thuyết tự do mới...cũng đi vào luận giải căn nguyên của khủng hoảng ở những
giác độ khác nhau nhƣng để có thể đƣa ra các giải pháp vƣợt qua khủng hoảng các
tác giả đã thƣờng tiếp cận dƣới dạng khái quát thành những lý thuyết hay đúc rút
27
tổng quát. Điều dễ nhận thấy là, cuối cùng hầu hết các tác giả đều thừa nhận vai trò
điều tiết kinh tế của Nhà nƣớc là vô cùng quan trọng trong việc giải quyết hậu quả
do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra. Các nghiên cứu đều tập trung vào việc
tìm kiếm cơ sở cho việc điều tiết kinh tế vĩ mô cũng nhƣ việc vận hành các chính
sách khác của nhà nƣớc. Trong lựa chọn điều tiết kinh tế vĩ mô thì việc cân nhắc vai
trò của nhà nƣớc và vai trò của thị trƣờng luôn là trọng tâm của các nghiên cứu.
Hai là: Những nghiên cứu của c¸c t¸c gi¶ trong n íc ®· b íc ®Çu ph©n tÝch
nguyên nhân và t¸c ®éng cña khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 tới nền kinh tế
nƣớc ta, tuy vậy do còn có tính khác biệt về quan niệm hoặc khác biệt về cách thức
tiếp cận nên có những ký giải khác nhau về bản chất của cuộc khủng hoảng này hay
đánh giá những tác động kinh tế, xã hội của chúng…nhƣng dƣờng nhƣ các kết quả
nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc đều trực tiếp, hoặc gián tiếp thừa nhận khủng
hoảng tài chính là một thực tế khách quan trong quá trình phát triển kinh tế, nó đƣợc
hình thành, tồn tại cùng với sự vận hành của các quá trình kinh tế và bùng nổ khi
nền kinh tế hoặc một khu vực kinh tế trọng yếu rơi vào trạng thái “quá nóng”. Hầu
hết các nghiên cứu đều cho rằng, khủng hoảng tài chính toàn cầu là một hiện tƣợng
kinh tế có hình thái biểu hiện đa dạng và không nhất thiết gắn với một không gian
địa lý nhất định; đó là sự thay đổi các trạng thái của cùng một sự vật dẫn đến sự
biến thái của nó, hay nói cách khác đó là hệ quả tất yếu của những biến đổi trong
các điều kiện kinh tế. Nó có thể diễn ra với những mức độ khác nhau ở từng quốc
gia và từng thời điểm nhƣng đều có thể quy về là sự biểu hiện của những dạng thức
cơ bản của khủng hoảng nhƣ khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu hay hỗn hợp
nhiều dạng thức khủng hoảng. Quan điểm tiếp cận này đƣợc áp dụng phổ biến trong
các nghiên cứu ®Ó tõ ®ã ® a ra ph ¬ng h íng, gi¶i ph¸p h¹n chÕ t¸c ®éng tiªu cùc
của khủng hoảng nhằm góp phần duy trì việc làm và sự ổn định vĩ mô của nền kinh
tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy vậy, ở Việt Nam, do ít nhiều có sự ảnh hƣởng của yếu tố hệ tƣ tƣởng nên
những nghiên cứu về khủng hoảng của các học giả trong nƣớc còn ít và dƣờng nhƣ
đó là một chủ đề có tính chuyên biệt cao và thƣờng đƣợc gắn với bản chất của
CNTB hay thuộc tính cố hữu của nền sản xuất khủng hoảng tài chính.
28
Ba là, mặc dù cách tiếp cận có khác nhau nhƣng các tác giả trong và ngoài
nƣớc đều cho rằng, do khủng hoảng tài chính toàn cầu là hiện tƣợng đồng hành của
tiến trình phát triển xã hội, nên khủng hoảng trở thành mối quan tâm chung của các
nhà nghiên cứu ở khắp mọi nơi. Cho dù thuộc trƣờng phái kinh tế nào, thì vẫn có
một sự nhất trí rằng, hệ thống tài chính cần phải đƣợc giám sát chặt chẽ, do tính
phức tạp và rủi ro của hoạt động này. và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn
đến bong bóng đầu cơ. Tuy nhiên, chỉ khi việc mất cân đối vĩ mô trỡ nên rất nghiêm
trọng thì bong bóng đầu cơ mới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế
trên quy mô lớn. Những nhà đoạt giải thƣởng Nobel kinh tế đã phát biểu quan điểm
này bao gồm: Paul Krugman, Edmund S.Phelps, Reinhard Selten, và Josep Stiglitz.
Họ nhấn mạnh rằng, khủng hoảng có thể tránh đƣợc nếu có một hệ thống giám sát
tài chính và cảnh báo rủi ro tốt. Vì vậy, họ cho rằng, không phải cứ tự nhiên mà có
sự can thiệp của Chính phủ thông qua các gói kích thích, nếu nhƣ không hiểu rõ
khiếm khuyết gì trong thể chế tài chính đã đẩy đến khủng hoảng.
Hơn nữa, ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu hƣớng chủ đạo chi phối
các quá trình phát triển kinh tế, bởi vậy khủng hoảng tài chính trong điều kiện toàn
cầu hóa thƣờng là khủng hoảng tài chính khu vực hay khủng hoảng tài chính toàn
cầu. Điểm khởi đầu của khủng hoảng thƣờng là những trung tâm kinh tế năng động
xét trong tổng thể nền kinh tế khu vực hay toàn cầu. Trong đó nhân tố “kinh tế ảo”
đƣợc coi là những căn nguyên trực tiếp làm khủng hoảng “bùng phát”. Khi khủng
hoảng tài chính nổ ra thì suy giảm kinh tế nhanh chóng lan rộng trên phạm vi toàn
cầu và hệ lụy của nó là không thể dự liệu trƣớc.
Bốn là, các công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đã nêu ở
trên mặc dù có nhiều cách tiÕp cËn d íi c¸c gãc ®é kh¸c nhau nhƣng ®· cung cÊp
mét sè t liÖu cÇn thiÕt cho luËn ¸n. Các nghiên cứu có nhiều nội dung phong phú,
sâu sắc, đã ít nhiều đề cập đến nguyên nhân, diễn biến, bản chất và các giải pháp
ứng phó khủng hoảng nhƣng chƣa có nghiên cứu nào tập trung tổng hợp và phân
tích sâu về giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của các quốc gia và
của Việt Nam. Vậy nên, trên cơ sở nghiªn cøu, ph©n tÝch vÒ nguyên nhân, bản chất,
tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu nói chung và cuộc khủng hoảng tài
29
chính toàn cầu 2008, luận án sẽ phân tích, đánh giá các giải pháp ứng phó với
khủng hoảng tài chính toàn cầu của các quốc gia trên thế giới (đặc biệt là Mỹ, Trung
Quốc và Asean) và giải pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu ở Việt
Nam để từ đó rút ra bài học hữu ích cho việc dự báo, chống đỡ khủng hoảng nhằm
ổn định và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Đề tài luận án “ Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Ứng phó của thế giới và
Việt Nam” có sự kế thừa, tiếp thu một cách chọn lọc những kết quả nghiên cứu của
các công trình kể trên. Mặc dù vậy, đây là đề tài có nội dung không trùng lặp với
các công trình đã đƣợc công bố. Vì thế, đề tài này là một công trình khoa học có
tính độc lập và có những đóng góp mới cả về lý luận và thực tiễn.
30
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ NHẬN
DIỆN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008
1.1. Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Quan niệm, bản chất, đặc trƣng
1.1.1. Quan niệm về khủng hoảng tài chính và khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Khủng hoảng kinh tế (tiếng Anh: economic crisis), là sự suy giảm các hoạt
động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Suy thoái
kinh tế (tiếng Anh: recession/economic downturn) đƣợc định nghĩa trong Kinh tế
học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc
hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trƣởng kinh tế âm liên
tục trong hai quý). Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đƣa ra
định nghĩa về suy thoái kinh tế “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo
dài nhiều tháng”. Suy thoái kinh tế liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số
kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế nhƣ việc làm, đầu tƣ, và lợi nhuận doanh
nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngƣợc
lại tăng nhanh giá cả (lạm phát).
Khủng hoảng tài chính (KHTC) xảy ra khi nhu cầu tiền vƣợt quá nguồn cung
của xã hội, nhu cầu về tiền của dân cùng với các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc lớn
hơn khả năng đáp ứng đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính
khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính
thƣờng gây ra thiệt hại lớn vì trong điều kiện tự do thƣơng mại, nguồn vốn đƣợc di
chuyển qua những nƣớc khác nhau nên khủng hoảng tài chính xảy ra tại một nƣớc
sẽ lây lan đến nhiều nƣớc trên thế giới vào những thời điểm tiếp đó.
Xét về nguồn gốc, KHTC có một lịch sử khá dài gắn với sự ra đời và phát
triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa (TBCN). Nếu tính từ
“khủng hoảng bong bóng hoa Tuylip Hà Lan” năm 1636 đến KHTC toàn cầu năm
2008 thì KHTC nói chung đã có lịch sử gần 400 năm. Với cả chiều dài thời gian mà
các cuộc KHTC đã nổ ra và cũng có rất nhiều các nghiên cứu về khủng hoảng tài
chính đã đƣợc công bố nhƣng cho tới nay lại có rất ít các định nghĩa về KHTC.
Các kết quả nghiên cứu về KHTC thƣờng đƣợc tiếp cận và xem xét theo những khía
31
cạnh chủ yếu sau: Một là, xem xét KHTC dựa trên những số liệu biến động của các
chỉ số kinh tế đang diễn ra. Hai là, KHTC nhƣ một tất yếu trong chu kỳ phát triển
kinh tế của CNTB nên mặc nhiên không định nghĩa về nó. Ba là, chỉ tiếp cận những
khía cạnh riêng biệt của từng cuộc khủng hoảng diễn ra trong lịch sử, từ đó phân
tích diễn biến, nguyên nhân và tác động ảnh hƣởng của nó đến đời sống xã hội.
Theo quan niệm truyền thống, KHTC là “Tình trạng sản xuất hàng hóa quá
thừa dẫn đến những rối loạn lớn trong thị trường tài chính, trong đời sống kinh tế,
nạn thất nghiệp và sự bần cùng trầm trọng của nhân dân lao động” 43, tr.47 . Đã
có một số nghiên cứu theo cách tiếp cận chỉ số hoạt động định nghĩa KHTC là sự
kết hợp của nhiều loại khủng hoảng khác nhau. Theo Azis và cộng sự (2000) thì
KHTC có thể gồm: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng
nợ. Một định nghĩa khác lại cho rằng KHTC là “…những rối loạn trầm trọng trên
các thị trường tài chính và cản trở sự vận hành hiệu quả của hệ thống này và gây
nên những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế…” 26 . Theo TS Lê Hồng Nhật1,
KHTC đƣợc hiểu là sự sụp đổ của thị trƣờng tài chính, khiến cho nó không thể thực
hiện đƣợc hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản
tài chính nhƣ một phƣơng tiện giao dịch, cất trữ tài sản; (2) Là trung gian chuyển
vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tƣ có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy
ra khỏi quỹ đạo tăng trƣởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lƣợng,
việc làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
Có thể sơ bộ chia ra bốn quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
* Quan niệm về khủng hoảng tài chính trong hệ thống lý luận Mácxit
Trong Bộ Tƣ bản ở chƣơng 34; mục Nguyên lý lƣu thông tiền tệ và đạo luật
Ngân hàng Anh năm 1844, … C.Mác đã viết: “KHTC tiền tệ trước tiên là ở chỗ tất
cả “của cải” bỗng nhiên bị mất giá” 8, tr.168 . Theo học thuyết của Marx, trong
hệ thống tƣ bản, hoạt động kinh doanh thành công đem lại cho các công nhân một
lƣợng tiền lƣơng ít hơn so với giá trị của hàng hóa đƣợc các công nhân này sản xuất
ra. Vì thế nền kinh tế TBCN là nền kinh tế vô chính phủ do lợi nhuận là mục tiêu
hàng đầu cho mọi hành vi kinh tế, đây là nguyên nhân gây ra nguy cơ khủng hoảng
1 Giảng viên khoa kinh tế- ĐHQG TP Hồ Chí Minh
32
tiềm tàng bên trong CNTB. K.Marx đã chỉ ra rằng, để tạo ra nhiều lợi nhuận, tăng
vòng quay của đồng vốn, CNTB sẽ phát triển việc phát hành cổ phiếu, tín phiếu và
trái phiếu để kích thích gia tăng giá trị của tƣ bản giả. Kinh doanh tƣ bản giả, một
loại tƣ bản không trực tiếp sản xuất ra giá trị hàng hóa nhƣng có khả năng tích trữ
giá trị của hàng hóa sản xuất đƣợc của xã hội, có thể chuyển hóa thành tiền trong
những điều kiện thuận lợi, vừa có khả năng làm giàu nhanh chóng, vừa có điều kiện
phòng chống rủi ro cao hơn là làm nhà tƣ bản sản xuất. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận
mà các nhà đầu tƣ trở thành các nhà đầu cơ (những nhà đầu tƣ chạy theo lợi nhuận
bất chấp rủi ro) trên các thị trƣờng phi sản xuất nhƣ là thị trƣờng tài chính, thị
trƣờng bất động sản. Chỉ đến khi một mắt xích nhỏ nào đó bị trục trặc, chẳng hạn,
một doanh nghiệp mất khả năng chi trả hay một cá nhân bị thất nghiệp, thì nhà kinh
doanh không thu đƣợc tiền từ tín dụng thƣơng mại, nhà ngân hàng không có tiền để
chi trả và mất khả năng thanh toán, lúc này tƣ bản giả đã phình to quá mức, trở
thành “bong bóng” dẫn đến khủng hoảng kinh tế và kéo theo là khủng hoảng tài
chính. K.Marx đã viết: chế độ tiêu dùng đẩy nhanh tốc độ phát triển các lực lượng
sản xuất (LLSX) vật chất và sự hình thành một thị trường thế giới đến một mức độ
nhất định với tư cách là cơ sở vật chất (CSVC) của một hình thái sản xuất mới và
lịch sử của nền sản xuất TBCN. Tín dụng đẩy nhanh sự bùng nổ dữ dội của mỗi
mâu thuẫn, tức là những cuộc khủng hoảng đó cũng làm tăng thêm những yếu tố
làm tan rã phương thức sản xuất cũ 9, tr.674 . Đây là nguyên nhân của các cuộc đổ
vỡ, mất cân bằng ở tất cả các thị trƣờng, từ thị trƣờng tài chính đến thị trƣờng sản
xuất, thị trƣờng hoàng hóa đến thị trƣờng tiền tệ, từ cung đến cầu, từ sản xuất đến
tiêu dùng.
Theo Mark, biểu hiện của khủng hoảng rất đa dạng từ vấn đề trắc trở trong
việc mua và bán đến việc mất cân đối trong sản xuất; từ việc vi phạm quy luật về
lƣu thông tiền tệ dẫn đến rối loạn hệ thống tín dụng, đến việc mất cân đối giữa sản
xuất và nhu cầu có khả năng thanh toán; từ việc xây dựng nhà ở không theo đơn đặt
hàng mà chạy theo thị trƣờng và mang tính chất đầu cơ đến việc chứng khoán
không đại biểu cho tƣ bản thực tế, không có bảo đảm ngày càng đƣợc phát hành
nhiều hơn…các loại của cải giả tƣởng nêu trên nếu đột nhiên hệ thống tín dụng bị
33
trục trặc thì những chứng từ ảo ấy sẽ lộ rõ bộ mặt thật và vỡ nhƣ “bong bóng”, tất
yếu xảy ra khủng hoảng 9, tr.32,34,64 . Theo ông, nguyên nhân cuối cùng của mọi
cuộc khủng hoảng thật sự bao giờ cũng là sự nghèo khổ của quần chúng và tính hạn
chế của sự tiêu dùng của họ.
Có thể là chƣa đầy đủ, và mặc dù không nghiên cứu KHTC một cách trực tiếp
và hệ thống chung trong một tác phẩm, tuy nhiên qua những phát hiện và phân tích
của Mark và Ăngghen về KHTC cho thấy những nhận định đó hoàn toàn phù hợp
với CNTB thời kỳ ông đang sống và cho cả CNTB hiện nay, cho dù có một số thay
đổi. Chẳng hạn, hiện vẫn có khủng hoảng cơ cấu, nhƣng không phải là sản xuất thừa
một thứ hàng hóa nào đó mà là thiếu dẫn đến giá cả một số mặt hàng tăng cao. Hiện
nay, KHTC cũng tự phát nổ ra, và các chủ thể thị trƣờng cũng phải tự điều chỉnh, tự
cân đối, chỉ có điều khác biệt là nhà nƣớc phải can thiệp để đẩy nhanh sự điều chỉnh
và giảm bớt tác hại. Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính đến nay cũng vẫn là
mâu thuẫn giữa tính tƣ nhân và xã hội của quá trình sản xuất, tuy cũng đã có sự
khác biệt. Tính tƣ nhân đã không chỉ thuộc một công ty gia đình mà thuộc những
tập đoàn xuyên quốc gia; tính xã hội cũng không chỉ trong một nƣớc mà đã là xã hội
toàn cầu. Chính vì vậy, nhà sử học Êrin Hốpxbao khi trả lời phỏng vấn trên báo Sin
Permisso (Achentina) đã nói “Chúng ta không chút ngạc nhiên rằng các nhà chính
trị cũng nhƣ các doanh nhân thành đạt nhất phƣơng Tây, nhất là những ngƣời hoạt
động trong lĩnh vực tài chính toàn cầu giờ đây đang quay trở lại nghiên cứu học
thuyết Mark và đang tìm thấy trong đó lời giải thích về nguyên nhân dẫn đến sự sụp
đổ của hệ thống tài chính của thế giới đƣơng đại”.
* Quan niệm về khủng hoảng tài chính trong Lý thuyết “cầu hiệu quả của
J.M.Keynes”.
Cuộc KHTC vừa qua đã làm cho cả thế giới bƣớc vào thời kỳ suy thoái
nghiêm trọng và có thể kéo dài trong nhiều năm tiếp theo buộc chính phủ các quốc
gia không thể khoanh tay đứng nhìn. Hàng loạt các gói giải cứu kinh tế ở khắp các
nƣớc trên thế giới đổ ra khiến ngƣời ta nhớ đến một nhà kinh tế vĩ đại John
Maynard Keynes trong những năm 30 của thế kỷ trƣớc: Quan điểm bao trùm nhất
của lý thuyết J.Keynes cho rằng những mất cân đối kinh tế vĩ mô có nguồn gốc
34
chính ở sự giảm sút “cầu hiệu quả” tức là cầu có khả năng thanh toán. “Cầu có hiệu
quả” theo ông bao gồm cả cầu về tiêu dùng cá nhân và cầu đầu tƣ. Nếu khuynh
hƣớng tiêu thụ và đầu tƣ với tƣ cách là hai bộ phận trong thu nhập quốc dân không
có sự kết hợp để tạo ra một lƣợng cầu có hiệu quả đầy đủ, nạn thất nghiệp sẽ xuất
hiện, khủng hoảng tất yếu sẽ diễn ra.
Tuy nhiên, trong thời kỳ của Keynes đã có thay đổi lớn trong tính chất và vai
trò của cầu, giá cả không còn là cơ chế lý tƣởng xác lập cân bằng giữa cung và cầu.
Cầu luôn luôn tụt lại so với cung do ngƣời ta có xu hƣớng “muốn tiêu dùng một
phần thu nhập ít hơn dần khi thu nhập thức tế tăng” 27, tr.25 . Do đó phát sinh
“cầu hiệu quả”, cung trở nên thừa và điều này tạo điều kiện giảm đầu tƣ vào sản
xuất, tức là thất nghiệp và khủng hoảng xuất hiện. Nhận định này dẫn đến sự khẳng
định Nhà nƣớc là lực lƣợng duy nhất có khả năng tác động vào “số cầu bị gác lại”,
tức là tạo ra “cầu có hiệu quả”. Ngƣợc lại, thông qua các chính sách duy trì, khuyến
khích đầu tƣ tƣ nhân và mở rộng tiêu dùng xã hội, Nhà nƣớc có thể đảm bảo cầu
vững chắc, không để nổ ra khủng hoảng và có khả năng loại trừ khủng hoảng. Sau
cuộc đại suy thoái kinh tế 1929-1933, Keynes đã cảnh báo rất đúng rằng: “chúng ta
có thể thấy rõ ràng cái đích nguy hiểm của con đƣờng chúng ta đang đi. Nếu chính
phủ không hành động, chúng ta sẽ thấy sự suy đổ của cơ cấu hợp đồng hiện có và
các công cụ nợ, cùng với sự mất lòng tin hoàn toàn vào hệ thống tài chính và chính
phủ. Chúng ta sẽ không dự đoán đƣợc hậu quả cuối cùng.” Nói theo cách phân tích
của J.Keynes, cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu là hậu quả của “cầu hiệu quả
yếu” trên quy mô thế giới. Điều này đƣợc ngƣời ta viện dẫn nhiều khi giải thích tình
hình suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay.
Thời đại ngày nay rất khác với thời đại của J.Keynes, khi mà nền kinh tế thế
giới đã toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, vì thế suy thoái kinh tế đồng nghĩa với
thiếu hụt cầu trên quy mô toàn thế giới chứ không phải là sự thiếu hụt cục bộ ở một
số nhóm nƣớc, vì thế các thể chế toàn cầu và khu vực có vai trò quan trọng trong
việc phối hợp ngăn chặn sự suy giảm…Mặc dầu vậy, các nguyên tắc “cầu hiệu
quả”, “cầu có khả năng thanh toán” bằng các gói cứu trợ, kích thích kinh tế bằng chi
ngân sách, mở rộng thị trƣờng Nhà nƣớc và thực hành tín dụng rẻ để kích thích đầu
tƣ và tiêu dùng…do Keynes đề xuất, ít nhiều vẫn còn nguyên giá trị.
35
* Quan niệm về khủng hoảng tài chính dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do mới
Chủ nghĩa tự do mới ( Neoliberalism), còn gọi là trƣờng phái cổ điển mới
(Neoclassical) có nguồn gốc sâu xa từ những tƣ tƣởng kinh tế của trƣờng phái kinh
tế học tƣ sản cổ điển với đặc trƣng nổi bật của nó là đề cao chủ nghĩa tự do kinh tế
đƣợc ra đời khoảng từ thế kỷ XVIII.
Mặc dù có những xuất phát điểm khác nhau, phƣơng pháp luận khác nhau với
trình độ, cấp độ phản ánh khác nhau nhƣng nói chung lý luận kinh tế của các trƣờng
phái tự do mới đều xoay quanh và bảo vệ tự do kinh tế theo quan điểm: “Thị trƣờng
tối đa và Nhà nƣớc tối thiểu”. Họ chủ trƣơng: tự do cho thị trƣờng, nhƣng có sự
điều tiết của Nhà nƣớc. Những ngƣời đứng đầu trƣờng phái này là Milton Friedman,
Schwartz, Henry Simons, Geogre Stiglr…Lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới
đã phát triển ở Mỹ với chủ nghĩa bảo thủ mới, ở CHLB Đức với hình thức kinh tế
thị trƣờng (KTTT) xã hội, ở Anh với chủ nghĩa cá nhân mới, ở Áo và Thụy Điển
với chủ nghĩa giới hạn mới…
Những chính sách chủ yếu do trƣờng phái này đề xuất là: giảm thuế, thu hẹp
phạm vi hành động của Nhà nƣớc về tài chính, tƣ nhân hóa- giảm công cụ kinh tế
quốc doanh trong tay Nhà nƣớc- giảm điều tiết, giảm bớt sự can thiệp của Nhà
nƣớc, tự do hóa kinh tế- gia tăng phạm vi tác động của thị trƣờng…Tuy nhiên, mức
độ tự do hóa kinh tế, mức độ can thiệp của Nhà nƣớc nặng, nhẹ khác nhau tùy theo
từng nƣớc. Theo quan điểm của trƣờng phái này, KHTC là do sự hoảng loạn của hệ
thống ngân hàng gây nên, do sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng
cầu tiêu dùng và đầu tƣ. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực, nhƣ sự sụt giảm hiệu
quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ, sự can
thiệp của Chính phủ là không cần thiết, và thậm chí có hại, vì những doanh nghiệp
đáng ra phải để cho bị phá sản, lại có thể đƣợc cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá
mức về cung tiền tệ và gây lạm phát.
Do dựa trên nền tảng là sở hữu tƣ nhân, coi nó là trung tâm chi phối các cơ
chế, chính sách kinh tế, lại bị chi phối bởi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên Nhà
nƣớc đƣợc xác định chỉ có vai trò tối thiểu trong can thiệp vào các quá trình vận
hành kinh tế. Trong khi đó, các hoạt động kinh tế đƣợc chi phối và vận hành bởi
36
những sở hữu tƣ nhân- cá thể, do đó, nền kinh tế vận hành mang tính cục bộ, rời
rạc; mọi cá thể trong nền kinh tế cùng hƣớng tới mục tiêu lợi nhuận nhƣng là lợi
nhuận của từng cá thể và đƣợc tiến hành với những cách thức khác nhau…kết cục là
nền kinh tế đƣợc dẫn dắt bởi lợi ích cục bộ, vận hành tự phát và thiếu sự kiểm soát,
giám sát cần thiết, nên khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.
Theo đánh giá của George Soros2, KHTC đó là hệ quả của nhiều trạng thái
mất cân bằng tiềm tàng âm thầm trong bản thân nội tại mỗi nền kinh tế, là thế bất ổn
của tài chính quốc tế và khủng hoảng nổ ra- đó là sự cáo chung của một mô hình
kinh tế…Các lý thuyết về chu kỳ kinh doanh điển hình nhƣ: Lý thuyết mô hình gia
tốc- số nhân của P.Samuelson, lý thuyết tiền tệ của M.Friedman, lý thuyết chu kỳ
kinh doanh thực tế của P.Long…tiếp cận lý giải KHTC do các yếu tố bên ngoài hệ
thống kinh tế gây ra nhƣ chiến tranh, những phát kiến mới về khoa học, công nghệ,
do những vấn đề nội tại của nền kinh tế…Theo cách tiếp cận này thì mọi sự mở
rộng của sản xuất, kinh doanh tự nó đã tiềm ẩn khả năng suy thoái, thu hẹp và mọi
sự thu hẹp sản xuất lại nuôi dƣỡng sự phục hồi và mở rộng sản xuất kinh doanh theo
một chu kỳ lặp đi, lặp lại. Họ thừa nhận “khủng hoảng thừa” là có thật và là vấn đề
khó giải quyết của nền KTTT phƣơng Tây hiện đại. Nhƣng trƣờng phái chính sau
Keynes đƣa ra cách giải thích khác hẳn Mác về nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.
Theo họ “khủng hoảng thừa” là do các ngành sản xuất một số loại hàng hóa nào đó
biến động không bình thƣờng, các khoản chi phúc lợi xã hội tăng quá giới hạn chịu
đựng của nền kinh tế, do cơ cấu thị trƣờng lao động và kỹ thuật thay đổi…, ngoài
ra, còn do các xí nghiệp độc quyền và tổ chức công đoàn thay nhau kiểm soát vật
giá và tiền công, từ đó nạn thất nghiệp và tiền công đều tăng lên, đồng thời lạm phát
cũng nảy sinh, lan rộng. Lý thuyết sóng dài của Kondrachep và những biến thái của
nó cho rằng cùng với các chu kỳ kinh tế bình thƣờng còn có các chu kỳ lớn với thời
gian từ 48-55 năm (các chu kỳ này thƣờng đƣợc gọi là sóng dài). Tất cả các biến đổi
của một loạt các quá trình về kinh tế nhƣ sản lƣợng, giá cả, lãi suất, tiền lƣơng…đều
“một tay che cả bầu trời”, là người có thể làm mất giá bất cứ một thứ tiền tệ nào trên thế giới,
hoặc thậm chí gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn với quy mô toàn cầu.
2 Chủ tịch của Soros Fund Manegeman, là nhân vật số một trong giới tài chính, được coi là người
37
có ảnh hƣởng tƣơng tác hình thành nên những chuyển biến kinh tế, chính trị, xã hội
dẫn đến KHTC.
Với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, không ít ngƣời đã lên án chủ
nghĩa tự do mới gay gắt, coi đó là căn nguyên về mặt tƣ tƣởng và lý luận dẫn đến
cuộc khủng hoảng và cho rằng nó đã thất bại. Thế nhƣng, tại sao chủ nghĩa tự do mới
lại thắng thế cùng với sự thắng thế của khuynh hƣớng thực dụng diễn ra bên trong
nền KTTT thế giới trong suốt một thời gian dài từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX
đến sát nút cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 là một vấn đề đáng đƣợc lƣu tâm.
* Quan niệm về khủng hoảng tài chính trong học thuyết của Hyman Minsky.
Hyman Minsky (1972) một nhà kinh tế Mỹ, đã đề xuất một cách giải thích hậu
Keynes và học thuyết do Minsky đề xuất áp dụng chủ yếu đối với một nền kinh tế
đóng cửa. Cùng nhóm theo chủ thuyết tiền tệ với Minsky là Kindleberger (1978), họ
có quan niệm rộng hơn về KHTC và tiền tệ, mà nó bao gồm sự sụt giảm của hầu hết
giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính, nạn giảm phát, đi kèm với sự
rối loạn của thị trƣờng ngoại hối. Những yếu tố này gây sự sụt giảm mạnh về tổng
cầu đầu tƣ và tiêu dùng, nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nƣớc. Minsky cho rằng
tính dễ vỡ của nền kinh tế là một đặc điểm đặc trƣng của nền kinh tế TBCN. Tính dễ
vỡ cao dẫn đến nguy cơ xảy ra khủng hoảng tài chính cao. Để củng cố cho phân tích
của mình, Minsky đã đƣa ra 3 cách tiếp cận mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn tùy
theo mức độ rủi ro mà doanh nghiệp có thể chấp nhận. Đó là: tài chính bao vây
(hedge finance), tài chính đầu cơ (speculative finance), và tài chính Ponzi (Ponzi
finance), trong đó tài chính Ponzi dẫn đến tình trạng nền kinh tế dễ vỡ cao nhất.
Trong mô hình tài chính bao vây, dòng thu nhập đƣợc dự đoán là đáp ứng
đƣợc các nghĩa vụ tài chính trong các thời kì, bao gồm cả gốc và lãi của khoản vay.
Trong mô hình tài chính đầu cơ, một công ty phải đảo nợ vì dòng thu nhập dự kiến
chỉ có thể chi trả cho các khoản lãi. Các doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán các khoản gốc vay. Trong mô hình tài chính Ponzi, dòng thu nhập dự kiến
thậm chí còn không đủ để chi trả bất cứ một khoản lãi nào, do đó công ty phải vay
thêm hoặc bán bớt tài sản để chi trả các khoản nợ. Ngƣời vận hành mô hình tài
chính này hi vọng giá trị thị trƣờng của tài sản hoặc thu nhập có thể tăng lên đủ để
trả cả gốc và lãi vay.
38
Mức độ dễ vỡ của nền kinh tế sẽ vận hành tƣơng ứng với chu kì kinh doanh.
Sau quá trình suy thoái, các công ty sẽ bị hao hụt tài chính và họ sẽ chỉ chọn mô
hình tài chính bao vây để đảm bảo tính an toàn. Khi nền kinh tế phát triển, lợi nhuận
dự kiến tăng lên, các công ty có xu hƣớng tin tƣởng rằng họ có thể áp dụng mô hình
tài chính đầu cơ. Trong trƣờng hợp này, họ biết rằng lợi nhuận sẽ không đủ để chi
trả tất cả các khoản lãi. Tuy nhiên, các công ty lại tin tƣởng rằng doanh thu sẽ tăng
và khoản nợ sẽ đƣợc thanh toán sau một thời gian ngắn. Vay nhiều sẽ dẫn đến đầu
tƣ nhiều và nền kinh tế sẽ tăng trƣởng nhanh hơn. Bên cho vay bắt đầu tin tƣởng
rằng họ có khả năng thu lại khoản vay.
Vì vậy, họ sẵn sàng cho vay mà không cần đảm bảo hoàn toàn về sự thành
công trong đầu tƣ. Bên cho vay biết rằng các công ty này sẽ có vấn đề trong việc
thanh toán khoản vay. Tuy nhiên, họ vẫn tin tƣởng rằng các công ty này sẽ tái huy
động vốn đƣợc từ nơi khác vì lợi nhuận ƣớc tính đang tăng. Đây chính là mô hình
tài chính Ponzi. Theo đó, nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng rủi ro tín dụng. Không
phải công ty nào cũng có khả năng tái thu xếp vốn, rất nhiều công ty sẽ vỡ nợ. Nếu
không có luồng tiền mới đi vào trong nền kinh tế để phục vụ cho quá trình tái thu
xếp vốn, một cuộc KHTC thực sự sẽ nổ ra. Và trong suốt thời kì suy thoái này, các
công ty lại bắt đầu với mô hình tài chính bao vây.
Nhƣ vậy, KHTC là một chủ đề chiếm một vị trí quan trọng trong nội dung
nghiên cứu của rất nhiều học giả kinh tế. Mặc dù những nghiên cứu về KHTC tòa cầu
còn có những khác biệt nhất định về quan niệm hay các cách thức tiếp cận nhƣng
dƣờng nhƣ các kết quả nghiên cứu đều hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thừa nhận
KHTC là một thực tế khách quan trong các quá trình phát triển kinh tế TBCN. Các
công trình nghiên cứu đã công bố của các học giả dù dƣới dạng lý thuyết hay thực
tiễn đều đã hàm ý giải quyết những nguy cơ của khủng hoảng; các nghiên cứu đều
xem xét KHTC nhƣ một hiện tƣợng tiềm ẩn, gắn liền với quá trình phát triển, vì thế
dù khác nhau về cách thức tiếp cận hay tính chất, thời gian, không gian diễn ra cuộc
khủng hoảng nhƣng có thể thấy rằng, các nghiên cứu của các học giả về khủng hoảng
có giá trị khoa học cao, đã cung cấp cho mọi ngƣời một nhận thức và cái nhìn tƣơng
đối toàn diện về KHTC với cách tiếp cận và giải quyết vấn đề thực tế và khoa học.
39
Từ cách tiếp cận những quan niệm khác nhau về KHTC, cho thấy “KHTC hiểu
theo nghĩa chung nhất là sự đổ vỡ trầm trọng của thị trường tài chính kéo theo sự
vỡ nợ của hàng loạt ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng mà kết quả cuối
cùng của nó là sự sụt giảm nghiêm trọng các hoạt động kinh tế, kích thích những
bất ổn về xã hội”.
KHTC là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc
đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Trong nền kinh tế thế giới
hiện đại, khi những bất ổn của nền kinh tế phình đại, trở thành những “bong bóng”
dễ vỡ và khi gặp những yếu tố kích phát thì khủng hoảng sẽ nổ ra và suy giảm kinh
tế nhanh chóng lan rộng trên phạm vi toàn cầu với những tác động và hệ lụy của nó
không thể tiên liệu trƣớc đƣợc.
Dƣới tác động của toàn cầu hóa, sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của
các công ty xuyên quốc gia, sự vận động liên tục của các luồng tài chính, sức ép
cạnh tranh, vai trò của các tổ chức phi chính phủ, cùng những quy tắc, luật lệ của
các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế chi phối các hoạt động kinh tế toàn cầu. Bằng
sức mạnh của mình, chúng thao túng, khống chế, thu hẹp quyền lực, phạm vi và
hiệu quả tác dụng của các chính sách kinh tế của các Nhà nƣớc quốc gia riêng rẽ.
Nó ràng buộc các Chính phủ trƣớc những lựa chọn về chính sách trong nƣớc của họ,
hƣớng tới sự hội tụ chính sách trong một thế giới có nhiều điều kiện cực kỳ đa dạng.
Nó làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của mỗi quốc gia là tất yếu
bất kể trình độ phát triển hay tƣơng quan kinh tế, chính trị trên trƣờng quốc tế. Vì
thế, sự vận hành của mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia là một bộ phận cấu thành sự
vận hành nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế là chủ đạo, khi nền kinh tế thế giới hay
khu vực đứng trƣớc những bất ổn thì tất yếu mỗi nền kinh tế quốc gia đều chịu
những tổn thất nhất định. Mặt khác, dƣới tác động của toàn cầu hóa, cấu trúc kinh tế
toàn cầu đang định hình, bên cạnh việc gia tăng mạnh mẽ các quan hệ tài chính, đầu
tƣ, thƣơng mại toàn cầu thì những rủi ro tiềm ẩn trong cấu trúc kinh tế đồ sộ này
cũng tăng lên, trong khi năng lực kiểm soát của các quốc gia là có hạn. Trong bối
cảnh đó, KHTC cùng những ảnh hƣởng, tác động của nó tất yếu mang tính chất
quốc tế.
40
Do vậy, “ Khủng hoảng tài chính toàn cầu là sự đổ vỡ và suy sụp phần lớn thị
trường tài chính thế giới và sự vỡ nợ, phá sản của hàng loạt các ngân hàng lớn trên
phạm vi toàn thế giới, gây nên sự bế tắc và sụt giảm nghiêm trọng các hoạt động
kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng tài chính toàn cầu thể hiện rõ ràng nhất những mâu
thuẫn và bất cập của thể chế và cơ cấu kinh tế của CNTB hiện đại trong điều kiện
toàn cầu hóa”.
1.1.2. Những biểu hiện ban đầu; Bản chất và tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu
1.1.2.1. Những biểu hiện ban đầu của khủng hoảng tài chính toàn cầu
Thứ nhất, sự xuất hiện các “bong bóng” kinh tế với nhiều dạng thức khác
nhau đặc biệt là việc xây dựng nhà ở không theo đơn đặt hàng mà chạy theo thị
trường và mang tính chất đầu cơ là một trong những dấu hiệu cơ bản nhất của
KHTC toàn cầu. Biểu hiện của những “bong bóng” kinh tế này chính là sự tăng giá
bất thƣờng của một số loại hàng hóa, nhất là các hàng hóa tiền tệ, chứng khoán và
bất động sản. Trƣớc đây, ở thời kỳ phát triển thấp của CNTB, thông thƣờng nhà ở
đƣợc xây theo đơn đặt hàng, tƣ nhân ứng trƣớc một phần tiền xây nhà cho nhà thầu
khoán và trả tiền cho ngôi nhà từng phần một theo mức độ hoàn thành ngôi nhà.
Thời kỳ CNTB phát triển, khối lƣợng tƣ bản lớn tích tụ trong tay một số ngƣời và
hoạt động tín dụng phát triển mạnh mẽ thì việc xây nhà theo đơn đặt hàng là rất
hiếm mà hoạt động của nhà thầu khoán chủ yếu là vay tiền của ngân hàng và các tổ
chức tín dụng rồi xây nhà theo từng dãy để bán, mang tính chất đầu cơ. Từ sự tăng
giá đột biến kéo theo sự thay đổi trong hành vi kinh tế, trong đó “đầu cơ” trở thành
hành vi chính đem lại sự giàu có một cách nhanh chóng, đồng thời nó cũng là nhân
tố làm lũng đoạn thị trƣờng và đến một thời điểm nào đó “bong bóng” sẽ vỡ, khi đó
sẽ dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng của các đồng tiền ngoại hối kéo theo là sự tụt
dốc thê thảm của thị trƣờng cổ phiếu và cũng từ đó sẽ xảy ra hàng loạt những sự sụp
đổ có tính chất dây chuyền trên các lĩnh vực khác.
Thứ hai, sự xuất hiện các lỗ hổng của thị trường tài chính đặc biệt là các
khoản vay đầu tư tài chính dẫn đến sự mất cân đối giữa tài sản và nợ vay cũng như
rối loạn hệ thống tín dụng. Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp nợ lẫn nhau,
41
nên khả năng thanh toán của ngƣời này lại do khả năng thanh toán của ngƣời kia
quyết định. Việc thanh toán các món nợ lẫn nhau đó là do sự vận động quay về của
tƣ bản quyết định. Chừng nào quá trình tái sản xuất vẫn diễn ra liên tục do việc tƣ
bản quay về vẫn đƣợc đảm bảo, thì chừng đó tín dụng vẫn còn đƣợc duy trì và mở
rộng. Nhƣng nếu xảy ra một sự đình trệ, do việc tƣ bản quay trở về bị chậm lại, do
thị trƣờng ứ trệ, do giá cả tụt xuống thì sẽ có tình trạng một khối lƣợng tƣ bản –
hàng hóa rất lớn không bán đƣợc, lòng tin tƣởng vào tiến trình đều đặn của quá
trình tái sản xuất tan vỡ, ngƣời ta không muốn mua, bán chịu nữa, lƣợng cầu về tín
dụng tụt xuống. Việc không có khả năng thanh toán không chỉ xuất hiện ở một điểm
mà ở nhiều điểm. Hơn nữa, sự mất cân đối này xảy ra khi các mối tƣơng quan giữa
thu nhập và số vay nợ không tƣơng xứng. Khi một ngân hàng nhận gửi những
khoản tiền gửi không kỳ hạn, có thể rút ra bất kỳ lúc nào, rồi lấy số tiền thu đƣợc để
cho vay những khoản vay dài hạn. Sự không tƣơng xứng giữa những khoản nợ ngắn
hạn của ngân hàng và các khoản vay dài hạn là một trong những lý do khiến ngân
hàng dễ phá sản ở những thời điểm khách hàng có nhu cầu rút tiền ồ ạt. Khi đó
khủng hoảng tài chính tất yếu xảy ra
Thứ ba, sự xuất hiện các lỗ hổng trong vai trò quản lý doanh nghiệp của Nhà
nước dẫn đến các hiện tượng gian lận của các tập đoàn tài chính, đó là khi các tập
đoàn này lôi kéo các nhà đầu tƣ bằng những tuyên bố sai lệch về chiến lƣợc đầu tƣ,
hoặc khi lợi nhuận bị biển thủ. Một ví dụ của sự sụp đổ tài chính ở quy mô nhỏ,
trƣờng hợp lừa đảo của Charles Ponzi trong đầu thế kỉ 20. Charles Ponzi là một
ngƣời nhập cƣ Italia đến Hoa Kỳ và đã trở thành một trong những ngƣời lừa đảo
siêu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, là một trùm lừa đảo tín dụng đa cấp. Trong vòng 2
năm (1919 - 1920), Ponzi đã huy động đƣợc 15 triệu USD, một con số khổng lồ vào
thời điểm đó từ hàng vạn khách hàng đã bị mất tiền thông qua "kế hoạch Ponzi". Từ
năm 1906, trên thế giới áp dụng cơ chế chuyển đổi phiếu bƣu chính trả tiền trƣớc
(IRC). Chúng đƣợc bán ra ở nƣớc này và có thể đổi thành tem thƣ ở nƣớc khác. Bản
thân chúng không phải là tiền, nhƣng nếu bán tem thƣ đã đƣợc đổi ra ở nƣớc khác
đi thì lại có thể thu về đƣợc tiền. Một thƣơng gia Tây Ban Nha đã gửi thƣ cùng với
một phiếu bƣu chính nhƣ thế cho Ponzi. Ponzi phát hiện ra rằng phiếu bƣu chính ấy
42
chỉ có giá 1 cent ở Tây Ban Nha, nhƣng lại có thể đổi về đƣợc một tem thƣ giá 6
cent ở Mỹ. Sự chênh lệch đó chẳng khác gì tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền với
nhau. Từ đó, Ponzi phát triển thành ý tƣởng kinh doanh: mua IRC ở đâu rẻ và đem
đến đổi thành tem ở nơi giá cao hơn, rồi bán tem thu tiền. Ponzi đã trở thành nhà
đầu cơ IRC nhƣ thế. Rất nhiều ngƣời đã tin vào cách kinh doanh của Ponzi, tin vào
lời hứa của Ponzi rằng sẽ nhận đƣợc gấp đôi số tiền gửi trong vòng có 90 ngày.
Ponzi đã thành lập công ty Securities Exchange Company vào năm 1919 để làm thủ
tục chuyển đổi thành tem thƣ, rồi lại phải bán tem thƣ thu tiền, tuy nhiên hoạt động
này không hề dễ dàng. Vậy mà vẫn có hơn 40.000 ngƣời vẫn giao cho Ponzi 15
triệu USD - tƣơng đƣơng với 150 triệu USD bây giờ. Từ đầu cơ IRC, Ponzi trở
thành kẻ lừa đảo khi chỉ còn tập trung huy động tiền của kẻ khác để trả lãi nhƣ đã
hứa cho ngƣời góp tiền trƣớc. Phá sản là chuyện không tránh khỏi khi chỉ một
ngƣời gửi tiền muốn rút vốn về mà Ponzi không trả đƣợc. Toàn bộ hệ thống kinh
doanh của Ponzi bị sụp đổ khi những ngƣời gửi tiền đồng loạt muốn rút vốn về. Khi
bị bắt, ngƣời ta chỉ thu về đƣợc có 1,5 triệu USD và ở sổ sách chỉ có 27.000 IRC
trong khi lẽ ra phải có tới 160 triệu IRC.
Đƣợc đánh giá là mô hình Ponzi khổng lồ và có mức độ ảnh hƣởng và thiệt
hại lớn hơn là sự sụp đổ của hãng đầu tƣ chứng khoán Bernard L. Madoff vào năm
2008. Vụ gian lận liên quan đến Madoff đƣợc ƣớc tính gây ra thiệt hại lên tới 50 tỷ
11 USD tiền mặt và chứng khoán. Các ngân hàng tại Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ,
Italia, Hà Lan, Nhật Bản và một số quốc gia khác đã tuyên bố họ có khả năng mất
hàng tỷ đô la Mỹ trong vụ lừa đảo này. Đây đƣợc coi là vụ gian lận tài chính lớn
nhất trong lịch sử bị quy cho một nhân vật duy nhất 79 .
Thứ tư, trắc trở trong việc mua và bán hay sự mất cân đối giữa sản xuất và
nhu cầu có khả năng thanh toán. Chúng ta đã biết tƣ bản cũng nhƣ mỗi hàng hóa
riêng biệt đều phải trải qua quá trình lƣu thông, tức là trải qua hai khâu, từ hàng hóa
chuyển thành tiền và từ tiền lại chuyển thành hàng hóa. Sản xuất hàng hóa luôn có
sự thống nhất, không tách rời giữa hai khâu này. Nói cách khác, việc tƣ bản này
tham gia vào quá trình sản xuất phải phù hợp, đồng thời với việc tƣ bản khác rời
khỏi quá trình sản xuất. Đó là mối quan hệ chằng chịt, gắn liền trong sản xuất hàng
43
hóa TBCN nói chung. Sự phụ thuộc ấy diễn ra chặt chẽ, nên khi không bán đƣợc
hàng hóa, quá trình chuyển hàng hóa thành tiền bị gián đoạn, nhà sản xuất không đủ
tiền để thanh toán nợ đến hạn cũng nhƣ thiếu tiền để tái sản xuất vòng sau. Mặt
khác, trong nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trƣờng, sản xuất ra sản phẩm là nhằm
để bán, nên cung phải đáp ứng cầu có khả năng thanh toán cả về số lƣợng và chất
lƣợng. Ở đây có một mối liên hệ chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng. Một khi có sự
trắc trở trong một khâu bất kỳ thì khủng hoảng là điều tất yếu có thể xảy ra.
Thứ năm, sự thất bại của các quy định của Chính phủ cũng là dấu hiệu của
KHTC toàn cầu. Các chính phủ nỗ lực loại bỏ khủng hoảng tài chính bằng cách đặt
ra các quy định đối với các tổ chức tài chính. Một trong các quy định đó là tính
minh bạch: các tổ chức phải công khai tình hình tài chính thông qua các báo cáo kế
toán theo mẫu chuẩn. Nhằm bảo đảm các tổ chức có đủ tài sản để đối ứng cho các
nghĩa vụ của các tổ chức này, các chính phủ cũng đã đặt ra các yêu cầu về dự trữ tín
dụng, yêu cầu về vốn và các giới hạn về vay nợ. Việc thiếu các quy định này sẽ có
thể dẫn đến khủng hoảng.
Một số cuộc KHTC toàn cầu xảy ra là do các quy định không đủ và dẫn đến
sự thay đổi trong quy định nhằm tránh sự lặp lại. Ví dụ, Giám đốc điều hành của tổ
chức Tiền tệ Quốc tế (IMF) Dominique Strauss-Kahn cho rằng cuộc khủng hoảng
tài chính 2008 xảy ra là do các quy định đã không kiểm soát đƣợc tình trạng chấp
nhận rủi ro quá cao trong hệ thống tài chính, đặc biệt là tại Mỹ. Tƣơng tự, tờ New
York Times đã chỉ ra rằng việc thiếu các quy định về trao đổi tín dụng cũng góp
phần gây ra khủng hoảng.
Tuy nhiên, việc quy định quá nhiều cũng là dấu hiệu gây ra KHTC toàn cầu.
Cụ thể, Hiệp ƣớc Basel II - một hiệp ƣớc đƣợc ký kết nhằm giám sát hoạt động của
hệ thống ngân hàng - đã bị chỉ trích khi yêu cầu các ngân hàng tăng vốn khi mức độ
rủi ro tăng lên, điều này khiến cho các ngân hàng phải giảm hoạt động cho vay khá
nhiều trong khi vốn trên thị trƣờng lại đang thiếu càng làm trầm trọng thêm tình
trạng khủng hoảng. Hầu hết các ngân hàng sẽ bị thua lỗ, điều này ảnh hƣởng tới
toàn bộ hoặc phần lớn các ngân hàng và tổ chức tài chính trong từng quốc gia, khu
vực và thế giới. Thiệt hại do tác động của khủng hoảng tài chính trong khối ngân
hàng rất nặng nề, nó sẽ tác động trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh
44
dẫn đến kìm hãm tỷ lệ tăng trƣởng kinh tế quốc gia, làm phá sản, gia tăng tỷ lệ thất
nghiệp và gây hiệu ứng tâm lý hoảng loạn trong dân chúng.
Thứ sáu, sự bất cân xứng đã đến điểm tới hạn của quá trình toàn cầu hóa kinh
tế và thể chế quản trị tương ứng. Toàn cầu hóa kinh tế diễn biến nhanh, mạnh, song
lại thiếu hụt một thể chế quản trị tƣơng ứng. Bởi thực tế cho thấy vai trò quan trọng
bậc nhất của các thể chế quản trị nền kinh tế toàn cầu là đảm bảo tính ổn định trong
hoạt động của hệ thống tài chính, ngăn ngừa các rủi ro…Song, trải qua hàng trăm
cuộc khủng hoảng lớn nhỏ đã xảy ra, những gì mà các thiết chế tài chính quốc tế
hiện hành làm đƣợc có chăng chỉ là “ứng cứu” và giải quyết hậu quả, đôi khi còn
làm trầm trọng thêm tình hình và nó dƣờng nhƣ chƣa có những thay đổi trong hơn
60 năm qua. Trong khi đó, nền kinh tế thế giới đã chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới- giai đoạn toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới- tạo nên sự ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong cấu trúc toàn cầu, theo đó đòi hỏi phải có
một thiết chế quản trị toàn cầu tƣơng ứng.
Tóm lại, tự do hóa tài chính gắn liền với đầu cơ vô độ luôn dẫn đến những
“bong bóng” kinh tế, từ đó gây bất ổn kinh tế vĩ mô trong toàn hệ thống. Khi các
yếu tố này tác động đồng thời, chúng làm xuất hiện sự đổ vỡ trên quy mô lớn. Nhƣ
vậy, chính từ những diễn biến ban đầu ngày càng lan rộng đã dẫn tới các cuộc
KHTC toàn cầu.
1.1.2.2. Bản chất của khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Hầu hết các cuộc KHTC toàn cầu đã tác động sâu sắc tới các lý thuyết kinh tế
ở cả tầm vĩ mô và vi mô làm xuất hiện những suy lý khác nhau về bản chất của
khủng hoảng do sự tác động và ảnh hƣởng sâu rộng cùng những biến thái phức tạp
của nó. Trên thực tế, những gì đã xảy ra từ những cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã vƣợt xa những quan niệm thông thƣờng về khủng hoảng tài chính. Bản chất
của khủng hoảng tài chính toàn cầu đƣợc thể hiện ở một số điểm căn bản sau.
Thứ nhất, sự đổ vỡ, mất cân bằng ở tất cả các thị trường từ thị trường tài
chính, đến thị trường sản xuất kinh doanh, đến thị trường lao động.
Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, các nhà tƣ bản lớn, những nhà tƣ bản
khôn ngoan đã tìm cách chuyển từ nhà tƣ bản sản xuất, sang làm nhà tƣ bản kinh
doanh các công cụ tài chính. Vì rằng, việc kinh doanh các công cụ tài chính vừa có
45
khả năng làm giàu nhanh chóng, vừa có điều kiện phòng chống rủi ro cao hơn là
làm nhà tƣ bản sản xuất. Kinh doanh các công cụ tài chính, mà nhƣ Mác từng nói,
đó là kinh doanh tƣ bản giả, một loại tƣ bản không trực tiếp sản xuất ra giá trị hàng
hóa – dịch vụ nhƣng nó có khả năng tích trữ giá trị của hàng hóa- dịch vụ sản xuất
đƣợc của xã hội, nó có thể là đại diện của khối tài sản đang chứa đựng trong các
doanh nghiệp, nó có thể chuyển hóa thành tiền một cách nhanh chóng, và tất nhiên
nó cũng có thể là không có giá trị gì, hoặc có giá trị thấp khi nền kinh tế suy thoái.
Khi làn sóng đầu tƣ vào các thị trƣờng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là sự tăng lên
của các thị trƣờng phi sản xuất nhƣ thị trƣờng tài chính, thị trƣờng ngoại tệ, thị
trƣờng nhà đất…tính ảo của thị trƣờng sẽ xuất hiện. Lúc này, ngƣời mua không còn
là ngƣời “tiêu thụ” sản phẩm mà chủ yếu là những nhà đầu cơ, kể cả trong thị
trƣờng sản xuất cũng mang nặng tính đầu cơ. Toàn bộ động lực của kinh tế thế giới
dựa vào khu vực sản xuất đã bị tách khỏi sản xuất của cải vật chất để tập trung vào
buôn bán những khế ƣớc nợ của tƣ bản tài chính. Tổng tài sản của các khế ƣớc nợ
đƣợc buôn bán đã nhiều hơn gấp nhiều lần tổng tài sản thực tế khi mà kinh tế thế
giới thực sự sản xuất đƣợc. Mọi giá cả hàng hóa trên thế giới đều dựa trên nền kinh
tế ảo của các khế ƣớc nợ này, thoát ra khỏi giá trị thật của nó đến hàng chục, thậm
chí vài chục lần. Quá trình này phát triển đến lúc sự mất cân bằng tăng lên đỉnh
điểm và thị trƣờng không thể tiếp tục chứa đựng những hàng hóa- dịch vụ mà nó
phải chứa đựng là các “bong bóng” bất động sản, “bong bóng” tài chính, “bong
bóng” dầu…các “bong bóng” này đồng loạt nổ tung; hơn nữa, do sự mất cân đối đã
đạt mức quá sức chịu đựng của thị trƣờng tất yếu sẽ đẩy khu vực sản xuất rơi một
cách tự do và làm cho tƣ bản tài chính đi đến sụp đổ.
Thứ hai, khủng hoảng tài chính với quy mô ngày càng lớn sẽ kéo theo sự suy
thoái kinh tế toàn cầu và dễ lây lan từ nước này sang nước khác bởi trong nền kinh
tế hiện đại, đầu cơ tài chính chiếm một khối lƣợng giá trị cao nhất và mọi hoạt động
của các thị trƣờng khác đều chịu sự chi phối của thị trƣờng tài chính.
Ngƣời ta cho rằng các trục trặc tài chính có thể lây lan từ tổ chức này sang tổ
chức khác giống nhƣ các căn bệnh truyền nhiễm vậy. Chẳng hạn nhƣ khi một ngân
hàng bị rơi vào tình trạng tháo chạy thì các ngân hàng khác cũng có nguy cơ bị rơi
vào tình trạng tƣơng tự. Khi sự sụp đổ của một tổ chức tài chính nào đó đe dọa đến
sự ổn định của nhiều tổ chức tài chính khác, ngƣời ta gọi đó là rủi ro hệ thống.
46
Tính dễ lây lan từ nƣớc này sang nƣớc khác của khủng hoảng tài chính diễn ra
theo nhiều cách khác nhau, bao gồm hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các
loại hàng hóa hay chứng khoán và sự biến động của các loại tiền khác nhau (tiền
kim loại, tín dụng ngân hàng, hối phiếu), sự hợp tác giữa các nhà chức trách về tiền
tệ…Ví dụ, khi giá bông tăng vụt vào thập niên 1930 ở một quốc gia, thì giá bông
cũng tăng ở tất cả các quốc gia khác, tƣơng tự, khi giá bông giảm sau năm 1964 thì
giá bông trên toàn thế giới cũng giảm. Khi giá của một loại hàng hóa nào đó, đặc
biệt là loại hàng hóa đƣợc mua bán rộng rãi, có thể khiến các doanh nghiệp đi đến
phá sản và các ngân hàng sụp đổ thì điều đó không phải do sự thay đổi cung hay cầu
và giá cả, mà phụ thuộc vào tính lây lan của thị trƣờng và lƣợng đòn bẩy của các
nhà đầu cơ trong mỗi thị trƣờng.
Tƣơng tự, các thị trƣờng chứng khoán ở các quốc gia khác nhau cũng có mối
liên kết với nhau, vì giá của các loại chứng khoán đƣợc giao dịch quốc tế có ở các
thị trƣờng này rõ ràng phải giống nhau sau khi quy đổi giá từ đồng tiền này sang
đồng tiền khác theo tỷ giá hối đoái hiện thời. Giá các loại chứng khoán đƣợc giao
dịch quốc tế niêm yết tại sở giao dịch của các quốc gia khác nhau cùng tăng hoặc
cùng giảm. Giá các loại chứng khoán nội địa thƣờng có xu hƣớng vận động cùng
hƣớng với giá các loại chứng khoán đƣợc giao dịch quốc tế, dù trên thực tế có thể
có một giao dịch đƣợc thực hiện bắt nguồn từ yếu tố tâm lý hay chịu tác động của tỷ
lệ lãi suất đƣợc truyền qua sự luân chuyển vốn ngắn hạn. Do mối tƣơng quan chặt
chẽ giữa các biến động giá cổ phiếu tại các quốc gia, nên khi có sự biến động nhỏ
trong giá cổ phiếu, mối tƣơng quan giữa giá cổ phiếu ở các quốc gia khác nhau sẽ bị
ảnh hƣởng.
Thị trƣờng chứng khoán và tài sản ở nhiều quốc gia liên thông với nhau thông
qua những biến động của tiền tệ vì thế sự bùng nổ tài chính của một quốc gia sẽ kéo
theo sự suy giảm các hoạt động kinh tế và tài chính của các quốc gia khác.
Sự lây lan còn mang tính chất quốc gia, ở đó sự khủng hoảng tài chính từ quốc
gia này có thể lây lan sang quóc gia khác. Chẳng hạn khi có khủng hoảng tiền tệ, sự
vỡ nợ quốc gia, hay sự sụp đổ của thị trƣờng chứng khoán nó ngay lập tức sẽ lan
sang các thị trƣờng tài chính ở các quốc gia khác dẫn đến KHTC toàn cầu một cách
nhanh chóng.
47
Nhƣ vậy, bản chất của KHTC toàn cầu chính là cuộc khủng hoảng về thể chế và
cơ chế của hình thái kinh tế tƣ bản trong đó các tập đoàn tƣ bản tài chính gồm các
công ty đầu cơ, ngân hàng đầu tƣ lũng đoạn nền kinh tế. Với tính dễ lây lan, KHTC
toàn cầu là sự bộc lộ rõ nét mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa giá cả và giá
trị của hàng hóa, giữa quyền lợi của các giai cấp trên phạm vi toàn thế giới.
1.1.2.3. Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu, nói chung, thƣờng gây ra những tác động lớn
đối với cả xã hội. Bởi kinh tế đóng vai trò then chốt trong việc ổn định trật tự xã
hội, nên khi nền kinh tế bị tác động mạnh, nó sẽ kéo theo những ảnh hƣởng (cả tích
cực lẫn tiêu cực) trong mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của đời sống. Đa phần các cuộc
khủng hoảng tài chính thƣờng lây lan từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong
cuốn Hoảng loạn, hỗn loạn và cuồng loạn Kindleberger đã chỉ ra rằng các cuộc
khủng hoảng tài chính có xu hƣớng quốc tế hóa, hoặc là nó ảnh hƣởng tới nhiều
quốc gia cùng một lúc hoặc là sẽ ảnh hƣởng lần lƣợt bắt đầu từ các quốc gia trung
tâm rồi lây lan sang các quốc gia khác. Khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra,
trong trƣớc mắt, nó tác động đến nền kinh tế các nƣớc theo 2 mặt;
Xét về mặt tiêu cực: Trong ngắn hạn, KHTC toàn cầu tác động không nhỏ tới
việc đảo lộn trật tự xã hội. Trƣớc hết, đó là sự sụt giảm nghiêm trọng trên các thị
trƣờng chứng khoán, giá các cổ phiếu sẽ tụt dốc thê thảm, tiếp đến là việc mất giá
trầm trọng của các đồng tiền trên thị trƣờng ngoại hối. Trong giai đoạn này, giá cả
của một vài loại hàng hóa nhƣ vàng, dầu,…sẽ thay đổi đến mức đáng kinh ngạc.
Hầu hết ngân hàng sẽ bị thua lỗ, điều này ảnh hƣởng tới toàn bộ hoặc phần lớn các
ngân hàng và tổ chức tài chính trong từng quốc gia, khu vực và thế giới. Thiệt hại
do tác động của KHTC toàn cầu trong khối ngân hàng rất nặng nề. Khoản thua lỗ
của các ngân hàng thuộc mỗi nƣớc ảnh hƣởng trực tiếp tới tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), đồng thời, những thua lỗ này tác động trực tiếp tới các hoạt động sản xuất,
kinh doanh dẫn đến kìm hãm tỷ lệ tăng trƣởng kinh tế quốc gia. Các hiện tƣợng phá
sản, giảm việc làm, thất nghiệp gia tăng và đời sống của ngƣời dân trở nên khó khăn
hơn trong khủng hoảng, tâm lý lo lắng, hoảng loạn ẩn hiện trong đời sống xã hội.
Trong tất cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đề cốt lõi nhằm duy trì sự hoạt
48
động của doanh nghiệp và cuộc sống của ngƣời lao động. Khi gặp phải KHTC toàn
cầu, các doanh nghiệp khó có khả năng mở rộng đầu tƣ và phát triển, gây sự đình
trệ trong công việc; thậm chí còn có thể phá sản. Sự phá sản của doanh nghiệp này
sẽ tác động tới các doanh nghiệp khác, và cao hơn nữa là tác động tới toàn bộ nền
kinh tế, theo một hiệu ứng dây chuyền (tùy theo quy mô của doanh nghiệp). Không
những thế, KHTC toàn cầu còn góp phần gây ra những bất ổn về xã hội do lƣợng
ngƣời thất nghiệp gia tăng.
Trong dài hạn, hệ lụy của các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu còn là
hàng loạt vấn đề mà các tổ chức quốc tế, các chính phủ, các doanh nghiệp và cả xã
hội cần phải hành động để tìm cách giải quyết. Đó là: sau khủng hoảng, khả năng
đầu tƣ của các dòng vốn sẽ suy giảm nghiêm trọng; nhu cầu tiêu dùng, một trong
những động lực chủ yếu thúc đẩy kinh tế phục hồi và tăng trƣởng tiếp tục giảm ở tất
cả các nƣớc; thƣơng mại thế giới tiếp tục trì trệ do nhu cầu tiêu dùng giảm; đó là
vấn đề thất nghiệp kèm theo nguy cơ bất ổn xã hội; đó là làn sóng “bảo hộ mậu
dịch” sẽ diễn ra ở nhiều nƣớc sau khi các quốc gia sử dụng các biện pháp và chính
sách để ứng phó với khủng hoảng. Tất cả những vấn đề đó sẽ là bi kịch đối với nền
kinh tế toàn cầu nói chung và mỗi quốc gia nói riêng vì chúng sẽ làm trầm trọng
thêm khủng hoảng, hạn chế khả năng phục hồi kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, KHTC toàn cầu cũng có những tác động tích cực. Nó
báo hiệu sự suy giảm thế độc tôn của các tập đoàn, công ty lớn trên thị trƣờng, góp
phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế. Đồng thời, KHTC toàn cầu cũng buộc
ngƣời ta ngƣời ta phải xem xét, sửa đổi các nguyên tắc tài chính đã quy định lên nền
kinh tế từ trƣớc tới nay, loại bỏ những nguyên tắc đã không còn thích hợp để theo
kịp những biến đổi trong xã hội, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn và chủ động ứng
phó với những cuộc khủng hoảng trong tƣơng lai.
Các cuộc KHTC toàn cầu diễn ra đã gây tổn thƣơng cho toàn bộ nền kinh tế
thế giới, đặc biệt trong giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế thì hậu quả của cuộc KHTC
toàn cầu là không ai có thể lƣờng trƣớc đƣợc. Song, từ sự sụp đổ này, ngƣời ta hoàn
toàn có thể hy vọng rằng sự tính toán và điều chỉnh của các quốc gia và hàng tỷ con
ngƣời trên thế giới sẽ khiến cho nền kinh tế toàn cầu nhanh chóng tạo ra những sản
49
phẩm mới, dịch vụ mới, hệ thống quản lý và mô hình mới tốt hơn và hiệu quả hơn
để thay thế những cãi cũ, cái lạc hậu hiện tại. Nhờ đó, thế giới sẽ nhanh chóng
chuyển sang một giai đoạn phát triển mới.
Tóm lại, có nhiều cách để đánh giá tác động của các cuộc KHTC toàn cầu,
nhƣng dù cách nào đi chăng nữa thì cũng cho thấy các cuộc KHTC toàn cầu đã tác
động tồi tệ trên nhiều phƣơng diện đến nhân loại. Có những tác động đƣợc nhìn
thấy trực tiếp, đƣợc phân tích một cách trực diện với những số liệu thống kê, nhƣng
chắc chắn sẽ có không ít hệ lụy từ các cuộc KHTC toàn cầu mà chúng ta chƣa nhận
thức đƣợc. Tuy vậy, có một điều cần phải thấy rõ đó là sẽ không có một quốc gia
nào có thể “miễn nhiễm” trong cuộc “thảm sát” kinh tế tài chính khổng lồ này bởi
thế giới “toàn cầu hóa” ngày nay, sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy tăng trƣởng kinh
tế tại các quốc gia vào những thời điểm tốt đẹp. Nhƣng cũng đồng thời do những
phụ thuộc, do những ràng buộc thƣơng mại, tài chính mà tăng trƣởng yếu đi ở nơi
này sẽ kéo theo suy giảm tăng trƣởng ở nơi khác.
1.1.3. Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tƣợng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa
vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc Chính phủ
phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội
tệ mất uy tín nhanh chóng.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tƣ cách là đỉnh cao của KTTT, thị
trƣờng chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị
trƣờng chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay
“không phanh” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho
chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trƣờng bị “đông cứng” vì không có giao
dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trƣờng chứng
khoán (quỹ chứng khoán)
Khủng hoảng ngân hàng: rất hay xảy ra do ngân hàng là trung gian tài chính
nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số
lƣợng, thời hạn cũng nhƣ chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng
do cho vay quá mức và không thu hồi lại đƣợc dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm
50
ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ
thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống ngân
hàng. Trong trƣờng hợp khủng hoảng, các Ngân hàng thƣơng mại thƣờng có xu
hƣớng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả
là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn
do thiếu nguồn tài chính để hoạt động, khủng hoảng khi đó sẽ bùng phát nhanh hơn.
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được
gọi là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng
xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù
đắp. khủng hoảng cán cân vãng lai thƣờng xảy ra khi cán cân thƣơng mại (nhập trừ
đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các luồng ngoại tệ
ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại KHTC ở trên liên quan
tới cả ba mặt số lƣợng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống nhƣ tiền) thì khủng
hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng
loại của “giống nhƣ tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
Khủng hoảng nợ quốc gia: trƣờng hợp một quốc gia vay nợ nƣớc ngoài (vay
chính thức, vay thƣơng mại) quá nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không trả
đƣợc nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm chí
phải tuyên bố vỡ nợ (nhƣ trƣờng hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng nợ xảy
ra khá nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nƣớc Châu Phi vừa qua) cùng với tiến
trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nƣớc ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Trên đây là những dạng KHTC cơ bản và trong tƣơng lai có thể xuất hiện
nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Nhận diện cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Cuộc khủng hoảng bất động sản và cho vay dƣới chuẩn bắt nguồn tại Mỹ từ
cuối năm 2007, ban đầu là sự suy giảm mạnh của thị trƣờng thế chấp sau đó khủng
hoảng đã lan nhanh và sâu hơn trong toàn bộ thị trƣờng tài chính. Hậu quả của bùng
nổ tài chính kết hợp với đòn bẩy quá mức cùng với những thiếu sót về quản lý rủi ro
51
đã dẫn đến hiện tƣợng tăng giá không kiểm soát đƣợc. Trong điều kiện các thị
trƣờng tài chính trên thế giới có sự liên kết chặt chẽ, cuộc khủng hoảng đã nhanh
chóng lan rộng thành cuộc KHTC toàn cầu trong năm 2008 và trở thành cuộc suy
thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2009. Theo đánh giá của các chuyên gia, đây
không chỉ là cuộc KHTC mà là một cuộc tổng khủng hoảng, trên tất cả các phƣơng
diện tài chính, sản xuất, thƣơng mại, dịch vụ, và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay
đƣợc đánh giá là trầm trọng nhất kể từ tám mƣơi năm qua. Bởi lẽ:
Thứ nhất, hiện nay tốc độ phát triển và mở rộng dòng chảy của nguồn vốn
nhanh hơn nhiều so với tăng trƣởng trong hoạt động kinh tế, dẫn đến kết quả tổng
phƣơng tiện thanh toán tăng đáng kể. Theo đó, khi xuất hiện khủng hoảng tài chính,
sự rối loạn trong thị trƣờng và vấn đề suy giảm thanh khoản sẽ trở nên nghiêm trọng.
Thứ hai, các tổ chức tài chính, đóng vai trò là trung gian đối với các dòng
chảy vốn trên toàn cầu, đã mở rộng hoạt động kinh doanh của mình và gánh lấy rủi
ro thanh khoản cao hơn. Điển hình nhƣ các ngân hàng châu Âu đã gia tăng hoạt
động tín dụng thông qua việc sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn bằng đôla Mỹ đƣợc
huy động từ các ngân hàng khác để đầu tƣ vào những sản phẩm tài chính dài hạn
của các tổ chức phi tài chính. Kết quả là rủi ro thanh khoản gia tăng vì không phù
hợp thời hạn thanh toán giữa nguồn vốn huy động và đầu tƣ dài hạn của ngân hàng.
Thứ ba, trong thập kỷ những năm 2000, dòng chảy vốn trên toàn cầu tăng
nhanh chóng cùng sự gia tăng mật độ mạng lƣới tài chính. Trong mạng lƣới tài
chính đã có sự liên kết chặt chẽ về số lƣợng các nƣớc đối tác và giá trị giao dịch tài
chính. Kết quả là, thị trƣờng tài chính đã đóng góp hiệu quả cho sự tăng trƣởng kinh
tế trên toàn thế giới đến năm 2007. Ngƣợc lại, cú sốc của cuộc khủng hoảng vay thế
chấp dƣới chuẩn trên thị trƣờng Mỹ đã nhanh chóng lan rộng ra ngoài biên giới
nƣớc Mỹ, gây khó khăn cho việc sử dụng đôla Mỹ tài trợ cho các tổ chức tài chính
châu Âu.
Thứ tư, các thị trƣờng tài chính đã vƣợt ra ngoài lãnh thổ của các quốc gia và
tầm kiểm soát của hệ thống quy tắc nội địa. Giá trị các nghĩa vụ quốc tế của hệ
thống ngân hàng toàn cầu đã từ 6 nghìn tỷ USD năm 1990 lên tới 35 nghìn tỷ USD
năm 2008. Những dòng tiền khổng lồ không chỉ xuất hiện trên thị trƣờng trái phiếu
52
quen thuộc, mà còn trên thị trƣờng liên ngân hàng, chứng khoán hóa, sản phẩm phái
sinh và các thị trƣờng cho vay xuyên quốc gia. Rất nhiều hiệu ứng tích cực đƣợc tạo
ra. Nhƣng đồng hành với nó là nguy cơ rủi ro vô cùng lớn, có khả năng lan truyền
nhanh chóng giữa các quốc gia. Một kết cục bất lợi chƣa đƣợc tính tới trong chính
sách điều hành và giám sát vận hành hệ thống tài chính của quốc gia sẽ sớm có tác
động tới phần còn lại của thế giới.
1.2.1. Diễn biến, đặc điểm, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008.
1.2.1.1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Xuất phát điểm của khủng hoảng bắt đầu từ năm 2001 khi bong bóng bất động
sản đƣợc bắt đầu hình thành từ kết quả của việc Cục Dự trữ Liên bang (FED) duy trì
chính sách lãi suất thấp để kích thích đầu tƣ trong nền kinh tế sau sự kiện khủng bố
11/9/2001. Lãi suất thấp cộng với các điều kiện cho vay nới lỏng đã khuyến khích
ngƣời đi vay đầu tƣ bất động sản. Trong khoảng thời gian từ 2002-2004, để mua
nhà, ngƣời mua chỉ cần trả ngay khoảng 20% giá trị căn nhà, còn lại sẽ trả góp trong
vòng 20 năm (hoặc lâu hơn) với lãi suất thấp 79 . Điều này đã làm giá cả hàng hóa
ở các bang Arizona, California, Florida, Hawaii và Nevada tăng trên 25% một năm.
Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu. Thông qua việc nới lỏng điều kiện cho vay của
các ngân hàng, ví dụ nhƣ những ngƣời có xếp hạng mức độ tín dụng kém cũng dễ
vay tiền mua nhà, những ngƣời có ít hoặc không có giấy tờ chứng minh thu nhập,
thậm chí không có thu nhập, không nghề nghiệp, không tài sản cũng có thể vay để
mua nhà với tài sản thế chấp chính là những căn nhà đó…dẫn tới các khoản vay
dƣới chuẩn của ngân hàng tăng cao. Trong những năm 2004-2006, cho vay thế chấp
dƣới chuẩn chiếm khoảng 21% tổng các khoản vay thế chấp, tăng so với mức 9%
giai đoạn 1996-2004. Chỉ tính riêng năm 2006, tổng giá trị các khoản vay thế chấp
lên tới 600 tỷ đôla, bằng 1/5 thị trƣờng cho vay mua nhà ở Mỹ 77 . Lãi xuất thấp,
điều kiện cho vay dễ dàng…, làm cho việc mua nhà không phải vì nhu cầu sử dụng
mà trở thành cơ hội đầu tƣ; cho thuê kiếm lời hoặc đợi giá nhà tăng lên bán kiếm
lời. Điều này làm tăng cầu về bất động sản, hiện tƣợng đầu cơ bất động sản làm giá
nhà đất đƣợc đẩy lên theo kiểu “bong bóng”.
53
Để giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản đã đóng
gói các khoản nợ thành những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (CDO:
Collaterised Debt Obligation). Các CDO này đƣợc bán lại cho các nhà đầu tƣ. Làm
nhƣ vậy, ngân hàng đã biến những nhà đầu tƣ (mua chứng khoán) trở thành những
ngƣời cho vay. Ngân hàng lúc này chỉ đóng vai trò trung gian và thu phí dịch vụ để
kiếm lời và đẩy toàn bộ rủi ro sang cho nhà đầu tƣ chứng khoán. Không những dân
chúng mua nhà mà các ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tín dụng, nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài cũng tin tƣởng vào tƣơng lai của thị trƣờng bất động sản.
Vào cuối mùa hè năm 2005, khi lãi suất tăng từ 1% lên đến 5,35%, món nợ
mua nhà bỗng tăng vọt, ngƣời đi vay mua nhà mất khả năng chi trả vì không dễ
dàng bán đƣợc nhà, thị trƣờng nhà đất rơi vào tình trạng đóng băng. Thị trƣờng bất
động sản tiếp tục đóng băng và suy giảm trong năm 2006. Giá giảm, kinh doanh
đình trệ dẫn đến một lƣợng nhà dƣ thừa đáng kể. Chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ hồi
tháng 8/2006 giảm hơn 40% so với một năm trƣớc đó. Đến lúc này, các ngân hàng
mới nhận thấy các khoản nợ xấu, nợ khó đòi tăng vọt. Từ tháng 3/2007, số lƣợng
nhà tồn cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25
tổ chức cho vay dƣới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị
tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006; nhiều tập đoàn tài chính cho vay thế
chấp bất động sản tuyên bố những khoản thua lỗ khoảng 150 tỷ đôla từ các khoản
nợ xấu, trong đó có hơn 50% liên quan đến các khoản cho vay mua nhà 77 .
Sự hoảng loạn của thị trƣờng nhà đất, lan sang thị trƣờng chứng khoán, rồi
lan sang hệ thống ngân hàng. Ngày 5/02/2007, công ty Mortage Lenders Network
USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dƣới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng
dƣ nợ 3,3 tỷ đôla thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản. Sau đó, hàng loạt
các ngân hàng lớn ở phố Wall nhƣ Bears Stearns, Merill Lynch, Citigroup, Morgan
Stanley công bố những khoản thâm hụt tài chính nhiều tỷ đôla. Cụ thể: Citigroup
thông báo lợi nhuận thuần quý 3 giảm 60% so với năm 2006 (khoảng 2 tỷ đôla), lỗ từ các khoản cho vay bất động sản đƣợc chứng khoán hóa khoảng 1,3 tỷ đôla3. Theo
tập đoàn bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) báo cáo về thực trạng ngành ngân 3 Tổn thất một số ngân hàng ở Mỹ, Châu Âu sau khủng hoảng và thị trƣờng cho vay dƣới chuẩn và những cảnh báo. http://www.sbv.gov.vn/nghiencuutraodoi.html.
54
hàng Mỹ ngày 26/02/2009: số ngân hàng đối mặt với khả năng bị giải thể tính tới
quý IV năm 2008 đã lên tới mức cao nhất trong vòng 15 năm kể từ năm 1997 gồm
225 ngân hàng, chiếm khoảng 3% trong tổng số khoảng 8500 ngân hàng và tổ chức
tiết kiệm mà FDIC đứng ra bảo hiểm.
Do các khoản nợ xấu này đƣợc chứng khoán hóa thành các loại cổ phiếu đem
giao dịch trên thị trƣờng chứng khoán, vì thế sự đổ vỡ của thị trƣờng nhà đất Mỹ
làm cho các chứng khoán này mất giá dẫn tới sự phá sản của hàng loạt ngân hàng
lớn ở Mỹ, châu Âu. Theo hiệu ứng đôminô, cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất ở
Mỹ đã lây lan và tàn phá nặng nề hệ thống tài chính toàn cầu. Theo quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF), thiệt hại của KHTC hiện nay lên tới hàng nghìn tỷ đôla. Tình trạng khó
khăn, đổ vỡ trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng đã lan tỏa sang các ngành sản xuất
kinh doanh nhƣ công nghiệp ô tô, xây dựng..v.v. kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy
thoái với tốc độ nhanh, mức chi tiêu của ngƣời tiêu dùng Mỹ bị suy giảm mạnh nhất
kể từ năm 1980. Sự vỡ nợ của một loạt tổ chức trong lĩnh vực tài chính, địa ốc làm
một số lƣợng lớn nhân viên làm việc thuộc lĩnh vực này bị sa thải. Sự sụt giảm
mạnh giá địa ốc, chứng khoán, làm tài sản của giới trung lƣu, trụ cột của sức tiêu
thụ của nền kinh tế Mỹ bị giảm mạnh, dẫn đến sự co thắt về tổng cầu tiêu dùng
hàng hóa cao cấp và lâu bền nhƣ xe hơi, cũng nhƣ các dịch vụ giải trí. Điều này tiếp
đến làm các công ty xe hơi lớn nhƣ GM và một số lớn các nhà thầu phụ bị phá sản.
Việc rất nhiều các công ty tài chính và phi tài chính bị phá sản làm gia tăng số
lƣợng đội quân thất nghiệp, kéo theo sự co hẹp tổng cầu về tiêu dùng và đầu tƣ,
diễn ra theo đƣờng xoáy ốc đi xuống.
Từ khi bùng nổ KHTC do khủng hoảng tín dụng nhà đất đất dƣới chuẩn ở Mỹ
gây nên, cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng từ cục bộ lan rộng ra toàn cầu, từ các
nƣớc phát triển lan tỏa tới các thị trƣờng mới nổi và các nƣớc đang phát triển, từ lĩnh
vực tài chính lan tới lĩnh vực kinh tế thực. Chỉ trong một thời gian ngắn, mức tăng
trƣởng kinh tế thế giới chậm lại rõ rệt, các nền kinh tế phát triển sa sút nghiêm trọng;
thị trƣờng tài chính – tiền tệ quốc tế dao động, hệ thống tiền tệ ở Mỹ và châu Âu lâm
vào tình trạng bế tắc, chức năng huy động vốn mất hiệu quả nghiêm trọng và thiếu
tính linh động; các sàn chứng khoán của các nƣớc giảm mạnh. Trên một số thị
55
trƣờng mới nổi và tại các nƣớc đang phát triển, dòng vốn chảy ra ngoài ồ ạt, tình
hình kinh tế xấu đi nghiêm trọng. Việc tắc nghẽn của dòng vốn đầu tƣ lại kéo theo sự
suy giảm của sản xuất, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, làm cho hàng triệu ngƣời thất
nghiệp, đƣa tới những xáo trộn chính trị xã hội không phải chỉ ở một nƣớc mà ở
nhiều nƣớc. KHTC tại Mỹ đã kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu (Xem thêm phụ lục)
1.2.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của cuộc KHTC toàn cầu 2008.
Cuộc KHTC toàn cầu 2008, về thực chất, đó là một cuộc khủng hoảng về thể
chế và kết cấu kinh tế với biểu hiện rõ nhất là: thể chế kinh tế nói chung và đặc biệt
là thể chế tài chính và tiền tệ của thế giới hiện đang bất cập với yêu cầu phát triển
của thực tế, và đang là một lực cản đối với quá trình phát triển kinh tế thế giới; kết
cấu kinh tế của nền kinh tế thế giới hiện nay về cơ bản vẫn là kết cấu kinh tế dựa
trên nền văn minh công nghiệp sử dụng tài nguyên có hạn không tái tạo, gây ô
nhiễm môi trƣờng. Nhìn một cách khái quát, có thể lƣợng hóa cuộc KHTC toàn cầu
vừa qua ở những đặc điểm cơ bản sau;
Thứ nhất: Một cuộc khủng hoảng về cả cơ cấu và thể chế quản lý kinh tế- tài
chính toàn cầu, trước hết là của CNTB thế giới.
Trƣớc hết, có thể nhìn nhận cuộc khủng hoảng lần này mang tính tất yếu
kinh tế do sự bất cập của thể chế và cơ cấu kinh tế của toàn bộ hệ thống TBCN thế
giới do sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất xã hội mâu thuẫn với sự lạc hậu của
quan hệ sản xuất lỗi thời. Đây là hệ quả của việc đầu tƣ quá nhiều, quá tập trung
vào lĩnh vực bất động sản và thị trƣờng chứng khoán, trong khi lĩnh vực nghên cứu
khoa học, phát triển sản xuất không đƣợc đầu tƣ đúng mức. Hậu quả là thị trƣờng
chứng khoán, bất động sản và tín dụng ngân hàng “tăng trƣởng nóng”, giá trị ảo lớn
gấp nhiều lần giá trị thật, dẫn đến mất cân đối cơ cấu tài chính, khủng hoảng cơ cấu
kinh tế vĩ mô. Điều nguy hiểm ở chỗ, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quy mô
hoạt động tài chính ngân hàng đã vƣợt ra khỏi biên giới quốc gia, các tập đoàn tài
chính- ngân hàng hoạt động và phát triển trong sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau
trên phạm vi toàn cầu. Do đó, khi một tập đoàn tài chính sụp đổ hay một ngân hàng
tại một quốc gia phát triển phá sản đã ảnh hƣởng trực tiếp đến an ninh tài chính của
hàng loạt quốc gia khác.
56
Thể chế quản lý kinh tế đƣợc áp dụng từ nhiều năm nay tại các nƣớc phát
triển, đặc biệt là Mỹ và cộng đồng chung Châu âu (EU), bó hẹp trong phạm vi một
nền kinh tế, trong khi các hoạt động tài chính liên thông trên quy mô toàn cầu. Vai
trò điều tiết của nhà nƣớc giảm dần trong xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hóa, chính
phủ không kiểm soát đƣợc các hoạt động đầu cơ quốc tế, việc theo đuổi chính sách
phát triển kinh tế thị trƣờng với quan điểm tự do tuyệt đối, buông lỏng vai trò quản
lý, điều tiết của nhà nƣớc đối với thị trƣờng...Do đó, khi thị trƣờng phát triển quá
nóng, không còn tuân theo quy luật cung- cầu, đã dẫn đến sự rối loạn trong hoạt
động của hệ thống tài chính- ngân hàng.
Giới học giả và hoạch định chính sách ở hầu hết các nƣớc trên thế giới đã rất
lo ngại về quy mô và tính chất đặc biệt nghiêm trọng của cuộc KHTC toàn cầu lần
này. Nhiều ngƣời cho rằng chỉ có thể so sánh cuộc khủng hoảng lần này với cuộc
Đại khủng hoảng 1929-1933- cuộc khủng hoảng đƣợc nhấn mạnh nhƣ là điểm nút
của sự phá hủy và sáng tạo khi đƣa đến sự ra đời của một CNTB có sự điều tiết và
sự gia tăng vai trò kinh tế của các Nhà nƣớc tƣ sản. Lần này, cuộc khủng hoảng bắt
đầu từ KHTC- tiền tệ, xuất phát điểm ở Mỹ- trung tâm phát triển nhất của hệ thống
kinh tế TBCN, bắt đầu từ các lĩnh vực bất động sản rồi từ đó lan rộng sang các lĩnh
vực khác nhƣ hệ thống tài chính ngân hàng, các ngành công nghiệp và dịch vụ,…và
tác động với cƣờng độ rất mạnh đến các nƣớc. Cùng với tiến trình gia tăng mạnh
mẽ của toàn cầu hóa và hội nhập toàn cầu và theo đó là sự lệ thuộc lẫn nhau ngày
càng sâu sắc giữa các nền kinh tế, tác động của cuộc khủng hoảng đã mang tính phổ
biến, lây lan rộng khắp và không loại trừ bất kỳ quốc gia nào.
Thứ hai: Một cuộc khủng hoảng trong một thế giới toàn cầu hóa nên diễn ra
một cách dai dẳng gây ra nhiều hệ lụy rộng lớn.
Cũng giống nhƣ Đại suy thoái 1929-1933 đã kéo dài hàng chục năm. Cuộc
KHTC lần này cũng là cuộc khủng hoảng kéo dài vì nó bắt đầu từ lĩnh vực bất động
sản rồi lan sang lĩnh vực tài chính, ngân hàng, dần dần cuốn trôi theo tất cả các
ngành kinh tế, lần lƣợt kéo theo tất cả các nƣớc lâm nạn với mức độ khác nhau.
TS. Justin Lin, kinh tế trƣởng của Ngân hàng thế giới đánh giá “Cuộc khủng
hoảng đã ảnh hƣởng sâu sắc hầu nhƣ tất cả các nền kinh tế thế giới, và mặc dù tốc
57
độ tăng trƣởng đã trở lại, nhiều tiến bộ trong cuộc chiến chống đói nghèo đã bị mất.
Thêm nhiều điều kiện khó khăn quốc tế trong những năm tới và có nghĩa là các
nƣớc đang phát triển sẽ phải chú trọng nhiều hơn cho việc cải thiện điều kiện kinh
tế trong nƣớc để đạt đƣợc những phƣơng thức tăng trƣởng có thể xóa nghèo một
cách lâu bền” 95 .
Cuộc khủng hoảng lần này cũng khó dự đoán vì các Chính phủ đã đồng thời
tung ra các gói cứu trợ kích thích kinh tế, do vậy, có thể suy thoái kinh tế sẽ tạm
lắng trong hiện tại nhƣng lại có nguy cơ bùng phát bất cứ lúc nào khi các Chính phủ
hết tiền cứu trợ và nhƣ vậy cuộc khủng hoảng chƣa thể kết thúc.
Thứ ba: Một cuộc khủng hoảng về lý thuyết điều tiết kinh tế.
Trong và sau cuộc khủng hoảng lần này, các học giả bắt đầu bàn nhiều đến sự
trở lại của học thuyết Keynes, vì sự bất lực của chủ nghĩa tân tự do, mà về thực chất
là đi tìm cơ sở lý luận cho việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và thị trƣờng
trong bối cảnh mới. Do coi thƣờng vai trò quản lý, điều hành, điều tiết kinh tế của
Nhà nƣớc. Mô hình thị trƣờng tự do mới căn bản đều dựa trên nền tảng kinh tế học
trọng cung, kinh tế học cổ điển mới và kinh tế học trọng tiền, mà tất cả các trƣờng
phái này đều đề cao quá mức sức mạnh của thị trƣờng, coi thị trƣờng tự điều tiết là
trên hết còn vai trò của Nhà nƣớc chỉ là thứ yếu với xu hƣớng muốn gạt vai trò của
Nhà nƣớc ra ngoài để thị trƣờng tự do phát triển hết cỡ. Đến khi khủng hoảng kinh
tế- tài chính bùng nổ, các nhóm nƣớc lớn liên tục bàn và thống nhất: Chính phủ các
nƣớc phải hợp sức lại để cứu nguy nền kinh tế. Lúc này, hơn lúc nào hết, chúng ta
thấy rõ vai trò của Nhà nƣớc trong điều hành nền kinh tế đã phải xuất hiện, nhƣng
quá muộn.
Nhƣ vậy, rõ ràng là cuộc KHTC toàn cầu lần này có nhiều đặc trƣng, bên cạnh
những đặc điểm tƣơng đồng với cuộc Đại suy thoái 1929-1933 nhƣ; Cả hai cuộc
đều bùng nổ ở khâu nhạy cảm nhất là thị trƣờng chứng khoán, tài chính tiền tệ. Cả
hai cuộc đều nổ ra tại nƣớc Mỹ - một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cả hai cuộc đều
bắt nguồn từ những nguyên nhân na ná giống nhau. Nếu ta “cắt lớp” chúng ra thì
nguyên nhân trực tiếp là những sự bất ổn trong sự vận hành của hệ thống tài chính -
tiền tệ, cho vay bừa bãi; ở lớp sâu hơn là chính sách tài chính dễ dãi kéo dài đƣa tới
58
tình trạng “xài quá cái làm ra” và ở tầng sâu kín bên trong là nghịch lý của nền kinh
tế TBCN (hay nền KTTT tự do) thể hiện trong sự chiếm hữu và hoành hành của
một số ít ngƣời vì những lợi ích ích kỷ trong một nền kinh tế đƣợc xã hội hóa cao.
Diễn biến của cả hai cuộc đều theo một kịch bản đại thể nhƣ nhau: hệ thống
tài chính - ngân hàng rung chuyển, gây tắc nghẽn đối với dòng vốn đầu tƣ, kéo theo
sự suy giảm sản xuất, tiêu dùng, xuất - nhập khẩu, làm cho hàng triệu ngƣời thất
nghiệp, đƣa tới những xáo động chính trị - xã hội. Phác đồ chữa trị hai cuộc khủng
hoảng tƣơng tự nhƣ nhau, trong đó có hai vị thuốc nổi trội là sự can thiệp của Nhà
nƣớc và mở hầu bao kích cầu nội địa đi liền với các biện pháp bảo hộ công khai
hoặc trá hình.
Cả hai cuộc khủng hoảng đều dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong cơ cấu kinh
tế và tài chính tiền tệ. Lần trƣớc, chế độ bản vị vàng bị thay bằng các khu vực tiền tệ
và sau Thế chiến thứ hai đã hình thành hệ thống Bretton Wood. Lần này, đang xuất
hiện những ý tƣởng về việc nâng cao vai trò của cơ chế quyền rút vốn đặc biệt (SDR),
“đồng tiền quốc tế”, dùng nội tệ của nƣớc này hay nƣớc khác để thanh toán xuất -
nhập khẩu, thậm chí có nơi còn quay về cơ chế cổ lỗ sĩ là “hàng đổi hàng”
Tuy vậy, khác với tất cả các cuộc khủng hoảng trƣớc đó, kể cả cuộc Đại khủng
hoảng 1929-1933, cuộc KHTC lần này có nhiều đặc trƣng mới. Lần này, KHTC-
kinh tế diễn ra đồng thời với những xáo động về năng lƣợng, lƣơng thực và cả khí
hậu, môi trƣờng. Do đó, giải quyết khủng hoảng ở mỗi nƣớc và trên phạm vi toàn
cầu phải tính đến đặc điểm này và mang tính tổng thể. Khác trƣớc, với xu thế toàn
cầu hoá và công nghệ thông tin, một lƣợng khổng lồ các phi vụ giao dịch tài chính
đƣợc thực hiện qua mạng toàn cầu với tốc độ cực nhanh, tạo nên đồng tiền ảo có giá
trị gấp trăm ngàn lần giá trị đồng tiền thật và không một ai có thể kiểm soát nổi.
Ngày nay, những xáo động chính trị - xã hội chƣa nghiêm trọng nhƣ lần trƣớc,
mới chỉ có vài Chính phủ ở các nƣớc nhỏ bị sụp đổ do KHTC, chính quyền ở các
nƣớc lớn chƣa bị thay đổi nhƣ những năm 30 thế kỷ trƣớc và đặc biệt khó có khả
năng nổ ra chiến tranh thế giới. Nay cũng sẽ diễn ra quá trình cải tổ hệ thống tài
chính- tiền tệ song có nhiều khả năng không đƣa tới những biến động cơ bản nhƣ
lần trƣớc. Một khác biệt lớn nữa là lần này đã xuất hiện một cơ chế xử lý khủng
59
hoảng đại diện cho cả các nền kinh tế phát triển lẫn các nền kinh tế đang phát triển;
đó là G-20. Điều đó chứng tỏ tính tuỳ thuộc lẫn nhau sâu sắc giữa các nền kinh tế
trong một thế giới bị toàn cầu hoá rất cao, mọi nền kinh tế đều ở trên một con
thuyền. Cho dù cơ chế này chứa đựng
không ít khuyết tật, song nó là một “hiện tƣợng” mới của thời đại.
1.2.1.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Trong nền kinh tế TBCN, lợi nhuận luôn là động lực chủ yếu và tối cao của
quá trình sản xuất. Bởi lẽ, lợi nhuận thúc đẩy mọi hoạt động của con ngƣời, nhờ nó
mà các quá trình kinh tế đƣợc khởi động và mọi cơ chế kinh tế đƣợc hình thành.
Tuy nhiên, khi mục tiêu chạy theo lợi nhuận không chỉ thấm sâu vào máu thịt của
các nhà tƣ bản, mà còn khuyếch tán vào xã hội biến thành lòng tham thấm vào hành
vi của mọi ngƣời, kể cả những ngƣời không có năng lực vật chất để hiện thực hóa
lợi nhuận, thì khủng hoảng không còn là nguy cơ tiềm ẩn trong hàng hóa mà bùng
phát thành thảm họa toàn cầu. Cho đến nay, trên các sách báo kinh tế hiện hành đã
có khá nhiều những báo cáo phân tích, đánh giá về nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng. Những phân tích này tuy có khác nhau về chi tiết, nhƣng về cơ bản thống
nhất với nhau ở cùng một góc độ tiếp cận, đó là những “lỗi kỹ thuật” trong sự vận
hành và quản lý nền tài chính của hệ thống kinh tế thế giới hiện nay.
Nhìn lại diễn biến của cuộc khủng hoảng 2008, có thể nêu bật các nguyên
nhân chính của khủng hoảng, đó là;
Thứ nhất: Sự hình thành và đổ vỡ của “bong bóng” thị trường bất động sản
bắt nguồn từ việc cho vay tín dụng nhà đất dưới chuẩn trái quy định với mức lớn
cũng như “bong bóng” sản phẩm tài chính phái sinh bị phá vỡ, dẫn đến khủng
hoảng tín dụng toàn diện.
Nợ dƣới chuẩn đƣợc hiểu là các khoản cho vay các đối tƣợng có mức tín
nhiệm thấp. Những đối tƣợng đi vay này thƣờng là những ngƣời nghèo, không có
công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng
không tốt trong quá khứ. Những đối tƣợng này tiềm ẩn rủi ro không khả năng thanh
toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng
truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tƣợng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dƣới
60
chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp
dẫn. Tại Mỹ, nợ dƣới chuẩn đƣợc thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp
mua nhà (mortgate), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng,…các đối tƣợng tín
dụng dƣới chuẩn phần nhiều là ngƣời dân nhập cƣ vào Mỹ.
Sự bùng nổ của cho vay nợ dƣới chuẩn bắt nguồn sâu sa từ sự mất cân đối về
nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín
dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh
nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ nhƣ Enron, Worldcom và khủng hoảng các
công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày
càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất
cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trƣờng không sử
dụng hiệu quả. Cho vay nợ dƣới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa
vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dƣới chuẩn một cách thái quá trong
một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lƣợng tín dụng, chính là nguyên
nhân tạo nên cuộc KHTC.
Thông thƣờng theo hình thức cổ điển, muốn vay nợ ngân hàng để trả góp mua
nhà thì ngƣời đi vay cần có một số vốn để trả trƣớc một phần giá trị căn nhà và
đồng thời phải chứng tỏ là mình phải có đủ khả năng tài chính để trả nợ đều đặn
trong suốt thời gian đi vay. Chính sách cho vay của ngân hàng thay đổi tùy tình
hình thị trƣờng, tuy nhiên, ngân hàng thƣờng buộc ngƣời vay phải có ít nhất 10%
nghĩa là chỉ cho vay tối đa 90% trị giá căn nhà. Số tiền trả góp hàng tháng thì không
nên vƣợt quá mức an toàn là 1/3 mức thu nhập trƣớc khi tính thuế. Khi xét đơn vay
nợ thì các ngân hàng Mỹ lại còn căn cứ vào “điểm tín dụng” của ngƣời đi vay. Đây
là thang điểm do công ty Fair Isaac Corp thiết lập, gọi là điểm số FICO, từ 300-900
điểm. Điểm tín dụng này đƣợc thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên năm yếu tố mà
quan trọng nhất là “tiểu sử tín dụng”, hễ ngƣời nào xƣa nay càng trả nợ trễ hạn bao
nhiêu thì điểm tín dụng của ngƣời ấy càng thấp bấy nhiêu. Điểm tín dụng càng cao
thì càng dễ vay và ngƣời đi vay lại còn đƣợc cho vay với lãi xuất nhẹ hơn. Thông
thƣờng theo hình thức cổ điển này thì ngƣời vay sẽ gặp khó khăn với điểm tín dụng
thấp hơn 620. Thế nhƣng trong những năm vừa qua, để khuyến dụ nhiều ngƣời mua
nhà thì các công ty tài trợ địa ốc Mỹ đã dùng nhiều thủ thuật tài chính và tung ra
61
những sản phẩm vay trả góp mới mà thông dụng nhất là cái gọi là “Option ARM”
(Adjustable Rate Mortgage). Với giá nhà liên tục gia tăng và lãi suất cho vay thấp
cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trƣờng, nhiều công ty tài trợ địa ốc đã sẵn
sàng cho vay không cần tiền đặt cọc, cũng chẳng cần đòi hỏi ngƣời đi vay phải
chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, và lại không hề quan tâm đến “điểm tín dụng”.
Với cách cho vay quá dễ dàng này thì những ngƣời trƣớc đây bị ngân hàng loại vì
không đạt tiêu chuẩn, nay có thể vay trả góp thoải mái. Vậy là vô số những khách
hàng chƣa hề có lý lịch vay mƣợn, hoặc có lý lịch yếu vì đã từng chậm trả nợ, hoặc
không đủ khả năng trả góp hàng tháng cho đến những ngƣời đã bị phá sản,…cũng
có thể trở thành chủ nhân của những ngôi nhà to lớn. Tất cả những món nợ cho
khách hàng này đều xếp vào cái gọi là “nợ dƣới chuẩn”.
Thứ hai: do sự khiếm khuyết, yếu kém của hệ thống ngân hàng ở Mỹ và các nền
kinh tế chủ chốt khiến cho chúng đã không còn tương thích, thiếu thiết chế và mất
khả năng kiểm soát đối với hiệu ứng đổ vỡ ở các khâu yếu trong hệ thống tài chính
toàn cầu
Cuộc khủng hoảng nợ dƣới chuẩn đƣợc thực hiện thông qua một công cụ tài
chính hiện đại rất tinh vi trong lĩnh vực ngân hàng đƣợc gọi là nghiệp vụ chứng
khoán hóa (securitisation). Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại
Mỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90.
Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử
dụng các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát
hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình
phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tƣơng lai sẽ thu
đƣợc từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tƣ mua chứng khoán
nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo đƣợc đem ra chứng
khoán hóa.
Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao
gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thƣơng mại, các khoản
phải thu thƣơng mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dƣới
chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield) hay các khoản cho vay bất động sản.
62
Nhƣ vậy, với nghiệp vụ chứng khoán hóa, ngƣời cho vay không nhất thiết phải
nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển sang cho ngƣời khác một cách dễ dàng
thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản đảm
bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tƣ đã tự tin bơm vốn vào hoạt
động cho vay nợ dƣới chuẩn một cách dễ dàng. Quá trình này đƣợc thực hiện một
cách cơ bản nhƣ sau:
Trƣớc tiên, ngân hàng đầu tƣ tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài chính
chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dƣới chuẩn. Các công ty tài chính thực hiện
cho vay mua nhà thông qua mạng lƣới các đại lý cho vay. Các đại lý cho vay là
ngƣời trực tiếp làm việc với khách hàng, thẩm định tín dụng theo các mẫu hồ sơ
chuẩn của công ty tài chính và chuyển hồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau
khi phê duyệt, công ty tài chính sẽ làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải
ngân. Các công ty tài chính sẽ gom các khoản vay lại thành một danh mục tín dụng
gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tƣ mà thực chất là thanh toán số
tiền ngân hàng đầu tƣ đã cung ứng trƣớc cho công ty tài chính. Sau khi đã mua danh
mục tín dụng dƣới chuẩn, các ngân hàng đầu tƣ thực hiện chứng khoán hóa chúng.
Danh mục tín dụng đƣợc bán sang cho một công ty có mục đích đặc biệt (special
purpose vehicle) do ngân hàng đầu tƣ lập nên và công ty này phát hành chứng
khoán nợ cho nhà đầu tƣ. Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên
mà chỉ có tài sản là danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả
các hoạt động nhƣ theo dõi, thu, đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều đƣợc
thuê ngoài cho công ty dịch vụ (thƣờng chính là công ty tài chính thực hiện cho
vay). Trong điều kiện lý tƣởng, khi các danh mục cho vay đƣợc thu hồi toàn bộ và
thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhà đầu tƣ thì công ty đặc biệt này hoàn thành
nhiệm vụ và đƣợc giải thể.
Với cách quản lý lỏng lẻo này, nhà đầu tƣ có rất nhiều lựa chọn gói trái phiếu
hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là
động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa
và làm bùng nổ cho vay dƣới chuẩn. Vì thế, khi có tình thế xấu xảy ra, hệ thống
ngân hàng Mỹ bị hoảng loạn, lan ra toàn thế giới, gây nên sự co hẹp cung tiền tệ,
63
dẫn tới sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tƣ. Cụ thể là, sự phát triển của
hệ thống tài chính phi ngân hàng gồm các ngân hàng đầu tƣ, các quỹ đầu cơ, các tổ
chức cho vay địa ốc không nằm dƣới sự giám sát của các quy chế chặt chẽ nhƣ
đƣợc áp dụng cho các ngân hàng thƣơng mại. Do khả năng sáng tạo quá cao của các
tập đoàn tài chính trong việc phát triển những công cụ mới để phục vụ nhu cầu tìm
kiếm lợi nhuận của các nhà đầu tƣ làm cho hệ thống tài chính không đƣợc kiểm soát
này phình to rất nhanh, đến nỗi chúng trở nên quá lớn và ràng buộc, có vai trò quan
trọng không kém hệ thống ngân hàng thƣơng mại có kiểm soát trong hệ thống tài
chính, khiến cho việc đổ vỡ diễn ra là tất yếu.
Thứ ba: do chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ và nhiều nước vốn đã có những
khiếm khuyết lại được thực hiện thiếu nhất quán, không đầy đủ và thiếu cải cách cơ
cấu, kinh tế ảo mở rộng quá mức, thiếu sự giám sát, quản lý của Chính phủ dẫn đến
kinh tế vĩ mô mất cân bằng và thiếu bền vững.
Trong những năm qua, nền kinh tế Mỹ khá thành công với mô hình thúc đẩy
tăng trƣởng kinh tế thông qua khuyến khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Tiêu
dùng của hộ gia đình chiếm tỷ trọng cao trong GDP và chiếm tới 70% trong cơ cấu
GDP. Tiêu dùng của ngƣời dân Mỹ dần dần trở nên lạc quan quá mức và đƣợc
khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho vay tiêu dùng. Chính
quyền khuyến khích dân chúng tiêu thụ để tránh rơi vào suy thoái. Từ 2003-2005,
ngân hàng Trung ƣơng giảm lãi suất chỉ đạo từ 6% xuống còn 1%. Kết quả là với lãi
suất quá thấp, đầu tƣ và tiêu thụ trở nên quá dễ dàng. Thị trƣờng tài chính của Mỹ
tăng nhanh trở lại và tạo nên “quả bóng địa ốc”. Từ 2001-2007, thị trƣờng tài chính
Hoa Kỳ vẫn đƣợc coi là nơi kiếm tiền an toàn nhất, cho nên tất cả các nƣớc có tài
sản đều mua trái phiếu của Mỹ. Trong số này có cả các nƣớc Đông Nam Á vừa
thoát khỏi KHTC 1997. Trung Quốc cũng bỏ trên 400 tỷ đôla để tham gia vào vốn
Fanny Mae. Khi mà thấy “tiền rẻ”, ngoại tệ ở nơi khác tiếp tục đổ về, các tổ hợp đầu
tƣ tài chính Mỹ phát huy nhiều sáng kiến: thứ nhất họ mang vốn ra đầu tƣ, thay vì
chỉ làm nghiệp vụ trung gian; thứ hai, là đi vay thêm ở bên ngoài để đầu tƣ thêm với
tỷ số nợ gấp mấy chục lần vốn có thực trong tay; thứ ba là chia các khoản nợ nói
trên thành từng gói và dùng chính những gói nợ đó coi đấy là tài sản để có thể vay
64
thêm. Chính điều đó đã tạo ra khoản thâm hụt thƣơng mại cực lớn và có dấu hiệu
ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế dễ bị tổn thƣơng hơn bao giờ hết bởi các
mối quan hệ vay nợ dễ dãi và chồng chéo. Chiến lƣợc này trong thời gian dài đã tỏ
ra hiệu quả nhƣng đồng thời nó cũng tạo ra một lỗ hổng lớn trong nền kinh tế, tạo ra
sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, cơ sở nảy sinh khủng hoảng sau này. Xin
trích nguyên một đoạn trong Văn bản của Hội nghị của Liên hợp quốc đánh giá
nguyên nhân của khủng hoảng. Văn bản này do ban chuyên gia, đứng đầu là Joseph
Stiklit chuẩn bị: “ Các nguyên nhân cơ bản của tình trạng hiện nay bao gồm các
chính sách vĩ mô không được phối hợp nhất quán, đầy đủ và thiếu những cải cách
cơ cấu dẫn đến những kết cục kinh tế vĩ mô toàn cầu thiếu bền vững. Các nhân tố
này trở nên sâu sắc hơn do những thiếu sót lớn trong công tác điều tiết tài chính,
giám sát và quản lý khu vực tài chính, cũng như việc thanh kiểm tra và cảnh báo
sớm chưa thật đầy đủ. Những thất bại trong công tác quản lý cộng với sự quá tin
tưởng vào sự tự điều tiết của thị trường, sự thiếu vắng toàn diện tính minh bạch và
liêm chính tài chính và hành vi vô trách nhiệm đã dẫn đến tình trạng chấp nhận rủi
ro quá mức, giá tài sản cao quá mức, vay nợ bất chấp trách nhiệm trả và tiêu dùng
ở mức quá cao nhờ có nguồn tín dụng dễ dàng và giá tài sản tăng cao. Các cơ quan
điều tiết thị trường tài chính, các nhà hoạch định chính sách và các nhà định chế tài
chính đã thất bại trong việc đánh giá chưa đầy đủ những rủi ro trong hệ thống tài
chính hoặc chỉ ra những khu vực dễ bị tổn thương và những mối liên kết xuyên biên
giới của nền kinh tế. Việc không chú trọng đúng mức việc phát triển con người một
cách công bằng đã góp phần gây nên tình trạng bất bình đẳng lớn giữa các quốc
gia và trong mỗi quốc gia. Những yếu kém mang tính hệ thống khác cũng góp phần
làm cho cuộc khủng hoảng lan rộng”.
Thứ tư: Sự suy giảm của đồng USD và khủng hoảng chế độ tiền tệ không bản vị.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ I, thế giới TBCN áp dụng “chế độ bản vị
vàng hối đoái”, mà về thực chất, đó là chế độ tiền tệ quốc tế lấy một đồng tiền của
một nƣớc làm bản vị, thay cho vàng. “Các đồng tiền khác, tuy không trực tiếp
chuyển đổi đƣợc ra vàng, nhƣng vẫn có thể đạt tới vàng thông qua đồng tiền chủ
chốt kia. Tính chất chuyển đổi đƣợc ra vàng của đồng tiền chủ chốt trở thành cái
cuống rốn nối liền cả cái cơ thể tiền tệ quốc tế đồ sộ với mạch sống của nó là vàng ”
65
43, tr64 . Đồng tiền “bản vị” đƣợc thế giới dùng làm phƣơng tiện thanh toán và cất
trữ (tƣơng đƣơng nhƣ vàng). Trong giai đoạn từ chiến tranh thế giới thứ I đến chiến
tranh thế giới thứ II, vai trò của đồng tiền “bản vị” thuộc về đồng bảng Anh, từ
chiến tranh thế giới thứ II (Hội nghị Bretton Woods tháng 7/1944), vai trò đó đƣợc
chuyển đổi sang đôla Mỹ. Hàm lƣợng vàng của đồng đô la đƣợc ấn định là 35 đôla
= 1 ounce vàng, hay 1 đôla = 0,888.671 gam vàng 54, tr.308 .
Chế độ “bản vị vàng hối đoái ” bằng đồng đô la Mỹ tồn tại đến năm 1971.
Từ tháng 3 năm 1971, khi kho vàng của Mỹ đã không còn đủ để đảm bảo cam kết
có thể đổi đô la ra vàng bất kỳ khối lƣợng bao nhiêu và vào bất kỳ thời điểm nào,
tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tuyên bố đóng cửa thị trƣờng vàng, cắt đứt mối
dây ràng buộc giữa đô la và vàng, không còn dùng vàng làm thƣớc đo giá trị nữa.
Từ đó đồng USD đƣợc phát hành, “từ năm 1913 đến 2001, trong vòng 87 năm, Mỹ
đã phát hành lƣợng công trái trị giá khoảng 6.000 tỷ đôla. Còn từ năm 2001-2006,
trong thời gian hơn 5 năm, Mỹ đã phát hành thêm một lƣợng công trái trị giá gần
3.000 tỷ đôla. Tổng lƣợng công trái của Mỹ đã lên tới 8.600 tỷ đôla,… mỗi năm trả
lãi gần 400 tỷ đôla, chiếm 17% tổng thu nhập tài chính của nƣớc này.”,… “trong
lịch sử loài ngƣời vẫn chƣa có một mức chi nào mà mức dự chi tƣơng lai lại vƣợt
giới hạn cho phép một cách nghiêm trọng nhƣ vậy. Mỹ không những đã chi tiêu tài
sản của ngƣời dân nƣớc mình mà còn chi tiêu tài sản tƣơng lai của ngƣời dân các
nƣớc khác” 54, tr.308 . Nhƣ vậy, ngay từ khi đồng đôla Mỹ chiếm quyền của đồng
bảng Anh để trở thành đồng tiền quốc tế, nƣớc Mỹ đã “biến thành Ngân hàng phát
hành” của thế giới. “Khi trao cho nƣớc Mỹ đặc quyền phát hành giấy bạc cho cả thế
giới thì chế độ bản vị vàng hối đoái cũng trao luôn cho nó đặc quyền lạm phát, lạm
phát để chi ở nƣớc ngoài” 49, tr.64 .
Trƣớc đây có vàng làm bản vị đã vậy, bây giờ không cần vàng làm bản vị, lạm
phát đôla do chế độ phát hành trái phiếu (vay nợ) để chi tiêu trong hoàn cảnh đồng
đôla mất giá so với nhiều đồng tiền lớn khác, Cục dự trữ Liê n bang (FED) liên tục
tăng lãi suất, nhiều nhà đầu tƣ rút vốn khỏi thị trƣờng Mỹ và chuyển hƣớng sang đầu
tƣ hay dự trữ bằng các đồng tiền có giá khác là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.
66
Thứ năm: do kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn giữa quá trình xã hội hóa
vô cùng mạnh mẽ, rộng lớn của sức sản xuất xã hội với quan hệ chiếm hữu tư nhân
chật hẹp, ích kỷ, vô trách nhiệm tại các nền kinh tế lớn, đặc biệt là ở Mỹ và các
nước phát triển lại được cộng hưởng do quá trình toàn cầu hóa hết sức mạnh mẽ
của hệ thống kinh tế thế giới.
Để đảm bảo mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, giới chủ tƣ bản và các tập đoàn
tƣ bản bằng mọi giá thúc đẩy tƣ nhân hóa, tự do hóa thị trƣờng, cổ vũ chủ nghĩa
thực dụng, khuếch đại chính sách tƣ bản giả và kinh tế ảo, lũng đoạn chính sách
kinh tế- xã hội của các quốc gia. Chính vì thế, gần nhƣ toàn bộ quá trình sản xuất,
phân phối sản phẩm đều nằm trong tay giới tƣ bản tài phiệt, bất khả xâm phạm,
không thể kiểm soát những huyệt điểm chết ngƣời do chính họ tạo ra; hay nhƣ cách
khái quát của
C. Mác: CNTB đã không thể điều khiển đƣợc các âm binh do chúng triệu lên.
Tuy vậy, những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp nêu trên bắt nguồn từ một
điều cốt lõi nhất dẫn tới cuộc khủng hoảng này, đó chính là việc nhận thức và thực
hiện sai lệch vai trò của Nhà nước trong KTTT. Cuộc khủng hoảng lần này rõ ràng
bắt nguồn trực tiếp từ việc Chính phủ Mỹ và các Chính phủ khác ở các nƣớc phát
triển đã không thấy rõ quan hệ giữa Nhà nƣớc và thị trƣờng, trao quá nhiều quyền
cho cơ chế thị trƣờng tự do, buông lỏng sự quản lý và giám sát của Nhà nƣớc. Cụ
thể hơn ở Mỹ là Cục Dự trữ liên bang đã thả lỏng tín dụng trong một thời gian dài,
dẫn đến bùng nổ thị trƣờng bất động sản; thị trƣờng ảo và kinh tế “bong bóng” đã tự
do phi mã đến lúc vỡ tung ra. Lỗi quan trọng ở đây là quá ít vai trò của Nhà nƣớc,
quá nhiều thị trƣờng tự do.
Để cắt nghĩa từ cội nguồn vấn đề này, cần khái lƣợc lại cơ chế vận hành của
nền kinh tế Mỹ và các nƣớc phát triển. Đã có một thời gian dài, nền KTTT (kinh tế
thị trƣờng) TBCN đƣợc vận hành theo cơ chế hoàn toàn tự do dựa trên học thuyết
của nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”
(1776), Adam Smith đã đƣa ra quan điểm có tính triết lý là: hãy để cho thị trƣờng
vận hành dƣới sự dẫn dắt của bàn tay vô hình, cơ chế thị trƣờng tự do sẽ dẫn tới kết
quả cuối cùng là sự hài hòa xã hội. Tuy nhiên, cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933 đã
làm cho tất cả các nƣớc TBCN phát triển buộc phải từ bỏ lý luận về bàn tay vô hình
67
của cơ chế thị trƣờng để chuyển sang thuyết kinh tế của Keynes với lý lẽ ngƣợc lại
rằng: để thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp và nguy cơ bùng nổ xã hội, Nhà nƣớc
phải điều tiết kinh tế. Lý thuyết kinh tế của Keynes đã chiếm vị trí chi phối ở các
nƣớc phƣơng Tây từ năm 1945-1973.
Tới nửa cuối những năm 1970, khi cuộc khủng hoảng năng lƣợng thế giới nổ
ra, các nƣớc tƣ bản phát triển lại rơi vào suy thoái kinh tế và lý thuyết Keynes bị coi
là nguyên nhân gây ra tình trạng trên để thay vào đó là chủ nghĩa tự do mới.
Từ đầu những năm 1980, chủ nghĩa tự do mới đƣợc Thủ tƣớng Anh
Thatcher, Tổng thống Mỹ Reagan cùng với Ngân hàng thế giới (WB), IMF nhiệt
liệt tán thƣởng và áp dụng ngay tại Mỹ, các nƣớc Tây Âu và hàng loạt nƣớc khác.
Phƣơng châm của lý thuyết tự do mới là thị trƣờng nhiều hơn, Nhà nƣớc ít hơn với
năm điểm chủ yếu (1) tăng thị trƣờng; (2) giảm nhà nƣớc; (3) phi điều tiết hóa; (4)
tự do hóa; (5) tƣ nhân hóa. Theo quan điểm của thuyết tự do mới, tăng trƣởng kinh
tế phải đi trƣớc, công bằng xã hội sẽ đi sau, ngƣời nghèo hãy kiên tâm chờ đợi. Do
việc áp dụng chủ nghĩa tự do mới, khoảng cách giữa các nƣớc giàu và các nƣớc
nghèo cũng nhƣ giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo ngày càng gia tăng.
Chỉ khoảng trên dƣới một thập niên áp dụng mô hình kinh tế theo thuyết tự do
mới, các cuộc khủng hoảng kinh tế lần lƣợt nổ ra ở Mêhicô, một số nƣớc ở Đông
Nam Á, Nga, Acshentina…trong những năm 1990 và lần này nổ ra ngay tại Mỹ,
nƣớc đi đầu trong việc áp dụng cơ chế này. Cuộc khủng hoảng đó đã nhanh chóng
dẫn đến phản ứng dây chuyền, đẩy kinh tế thế giới lún sâu vào cuộc suy thoái tồi tệ
nhất kể từ những năm 30 của thế kỷ XX. Rõ ràng, cuộc KHTC toàn cầu lần này đã
giáng một đòn chí tử vào lý thuyết chủ nghĩa tự do mới, vào quan điểm coi nhẹ vai
trò của Nhà nƣớc trong nền KTTT. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của giáo sƣ Joseph
Stiglitz, ngƣời đƣợc giải thƣởng Nobel kinh tế năm 2001 rằng: … “Mỹ đã xuất khẩu
triết lý KTTT tự do, xuất khẩu một thứ văn hóa doanh nghiệp vô trách nhiệm đối
với xã hội…, và cuối cùng đã xuất khẩu sự suy thoái đi bốn phƣơng…”.
Nhƣ vậy, từ những phân tích trên cho thấy: nguyên nhân trực tiếp, biểu hiện
ra bên ngoài của khủng hoảng là do những bất ổn trong quy định, kiểm soát, giám
sát dẫn tới sự đổ vỡ của hệ thống tài chính tiền tệ; nguyên nhân sâu sa hơn, đó là
sự mất cân đối giữa cung và cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế; cội
68
nguồn của những nguyên nhân này đều xuất phát từ hạn chế của nền kinh tế TBCN
tin tưởng thái quá vào cơ chế tự điều chỉnh của thị trường, không cần bàn tay của
nhà nước. Tất cả các nguyên nhân đó gây nên khủng hoảng tài chính trong nền kinh
tế, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ, nhanh chóng biến thành
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
1.2.2. Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đối với nền kinh tế nói
chung và các quốc gia nói riêng.
Hoa Kỳ là thị trƣờng nhập khẩu quan trọng của nhiều nƣớc, do đó khi kinh tế
suy thoái, xuất khẩu của nhiều nƣớc bị thiệt hại, nhất là những nƣớc phát triển theo
hƣớng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây nhƣ Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trƣởng
chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm
trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức
trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nƣớc nhƣ Iceland, Nga. Các nền kinh tế
lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái. Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều
giảm tăng trƣởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu
tiên kể từ ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ,
nên cũng bị ảnh hƣởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi
giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ… Tác
động của KHTC 2008 đƣợc thể hiện cụ thể trên các mặt sau:
1.2.2.1. Kinh tế thế giới nói chung và ở các nước bị suy thoái nghiêm trọng
Ngay sau khi cuộc KHTC toàn cầu xảy ra, hầu hết các dự báo trên thế giới đã
khá thống nhất khi cho rằng mức độ suy thoái của nền kinh tế toàn cầu là nghiêm
trọng, sâu sắc và kéo dài. Nhiều dự báo thậm chí đã tỏ ra bi quan khi nhận định rằng
phải mất nhiều năm, nền kinh tế thế giới mới có thể ra khỏi suy thoái. Ngay trong
năm 2007, khi thị trƣờng bất động sản Mỹ “đóng băng”, thị trƣờng tài chính có dấu
hiệu trì trệ do thiếu thanh khoản, thì thế giới lại chứng kiến một “cơn bão lửa” về sự
tăng giá đột biến của ba nhóm hàng hóa thiết yếu của con ngƣời: lƣơng thực, thực
phẩm, nhiên liệu và kim loại. Sau sự sụp đổ của Lehman Brother, ngân hàng đầu tƣ
69
lớn nhất của Hoa Kỳ, ngày 15/9/2008 thì cuộc KHTC ở Hoa Kỳ đã lộ rõ thành một
cuộc KHTC toàn cầu hết sức nghiêm trọng, cả về phạm vi, cấp độ, sức lan tỏa và
tính phức tạp của nó (tổng số nợ thế chấp nhà ở đƣợc chứng khoán hóa vào năm
2006 đã lên tới 14.000 tỷ đô, tƣơng đƣơng GDP của Hoa Kỳ) 10 . Tính đến đầu
tháng 12/2008, thiệt hại do cuộc KHTC gây ra đã lên tới hàng ngàn tỉ USD, trong
đó các định chế tài chính lớn (chủ yếu ở Hoa Kỳ và Châu Âu) thiệt hại tới 967 tỉ
USD; khoảng 176.000 chuyên gia, nhân viên tài chính bị sa thải 95 . Do đó, khi
cuộc KHTC dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu từ quý IV năm 2008 thì hệ quả trở
thành yếu tố tiêu cực kép. Đây là điểm khác biệt của cuộc khủng hoảng lần này so
với cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933.
Sự bùng nổ của khủng hoảng lan nhanh sang nền kinh tế lớn thứ hai thế giới:
Nhật Bản đã chính thức công bố lâm vào suy thoái kinh tế ngày 18/11/2008. Đây là
lần đầu tiên kể từ năm 2001 kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái. Khu vực đồng tiền
chung Euro cũng rơi vào suy thoái ở mức độ trầm trọng. Theo số liệu thống kê cho
thấy, GDP của 15 nƣớc sử dụng đồng tiền chung Euro đã tăng trƣởng âm liên tiếp
trong quý II và III năm 2008. Đặc biệt trầm trọng đối với những nền kinh tế lớn
trong khối nhƣ Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thức ba thế giới chính
thức rơi vào suy thoái. Kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, năm 2009 kinh tế Anh
chịu mức suy giảm tồi tệ nhất kể từ hai thập niên qua, số ngƣời thất nghiệp lên tới
xấp xỉ ba triệu ngƣời vào năm 2010.
Biểu đồ (1) sử dụng số liệu của Eurostat cho thấy tất cả các nền kinh tế trong
khu vực eurozone đều tăng trƣởng âm trong năm 2009. Nếu so sánh với giai đoạn
này, kinh tế châu Âu hiện đã đƣợc cải thiện đôi chút. GDP toàn khối tăng 0,2%
trong quý I/2009, tuy nhiên, nếu nhìn vào từng nền kinh tế riêng biệt, nguy cơ suy
thoái kép vẫn hiển hiện tại Cộng hòa Ireland, Hy Lạp, Đảo Síp và Luxembourg.
70
Ở các nƣớc Trung và Đông Âu, tăng trƣởng năm 2008 chỉ còn 3,2%, so với
Biểu đồ1.1: Tăng trưởng kinh tế trong quý I/2009 tại châu Âu. 83
mức 5,4% năm 2007. Đồng tiền của nhiều quốc gia ở đây vì thế đã sụt giảm mạnh tỉ
giá so với Euro, khiến lƣợng nợ Euro mà các nƣớc này đang mang càng thêm khổng
lồ. Chẳng hạn, đồng Zloty của Ba Lan đã mất giá 48% so với Euro.
Sau sáu năm tăng trƣởng nhanh không bị gián đoạn, GDP của khu vực Châu
Mỹ Latinh và Caribe giảm 1,8% trong năm 2009 (GDP bình quân đầu ngƣời giảm
2,9%). Khủng hoảng quốc tế lần này tấn công khu vực này mạnh nhất vào cuối năm
2008 và đầu năm 2009. Khủng hoảng tác động khác nhau lên tăng trƣởng ở các
quốc gia khác nhau (xem bảng 1). Tốc độ tăng GDP của cả khu vực giảm xuống còn
7,5% trong giai đoạn 2007-2009. Năm nền kinh tế lớn nhất có tốc độ tăng trƣởng
kinh tế giảm hơn 10%, phần còn lại GDP giảm trong khoảng từ 5 đến 10%. Chƣa
nền kinh tế nào thoát khỏi suy thoái.
71
Bảng 1.1: Suy giảm trong tăng trưởng ở Khu vực Mỹ Latin và Caribe/ 2009
Thay đổi âm trong tăng
trƣởng GDP, giai đoạn 2007- Quốc gia
Mexico, Paraguay, Venezuela, Antigua và
2009
Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Costa
Trên 10% Barbuda
Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras,
Panama, Peru, Uruguay, Cuba, Dominica, Từ 5-10% Dominican Republic, Granada, St Kitts and
Nevis, St Vincent and Grenadines, St Lucia,
Bolivia, Ecuador, Nicaragua, Bahamas,
Trinidad and Tobago
Từ 0 - 5% Belize, Guyana, Haiti, Jamaica, Suriname
(Nguồn: theo tính toán của Preliminary Overview of the Economies of Latin
America and the Caribbean (ECLAC (2009)).
Mexico, Trung Mỹ và các nƣớc vùng Caribe bị tác động nặng nề nhất do quan hệ thƣơng mại khá chặt chẽ của các nƣớc này với nền kinh tế Mỹ. Nhìn chung,
cuộc khủng hoảng lần này đã đẩy trung tâm kinh tế chính trị của khu vực Mỹ Latinh
xuống phía Nam, củng cố sự trỗi dậy của Brazil nhƣ là một sức mạnh nổi bật trong
khu vực. Phân chia Nam-Bắc cũng nhìn thấy khá rõ trong nền kinh tế Mexico, nơi
mà các bang miền Bắc phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh tế Mỹ thông qua hoạt
động sản xuất, thƣơng mại và đầu tƣ, vì thế mà các bang này chịu nhiều tác động
hơn khi suy thoái xảy ra.
Tổng giá trị xuất khẩu của khu vực Mỹ Latin và Caribe năm 2009 giảm 24%
so với năm 2008 do kim ngạch xuất khẩu giảm 9% và giá giảm 15%. Ngành khai
khoáng và dầu mỏ giảm nhiều nhất 40%. Venuezela, nƣớc phụ thuộc vào xuất khẩu
72
dầu mỏ là nƣớc chịu ảnh hƣởng nặng nề nhất, với tổng giá trị xuất khẩu giảm tới
42% 77 .
Dƣới tác động của KHTC toàn cầu, kinh tế Trung Quốc vốn đƣợc coi là một
động lực tăng trƣởng của kinh tế thế giới và Châu Á, sau nhiều năm tăng trƣởng ở
mức hai con số, cũng đã giảm chỉ còn 9% trong quý III năm 2008 và cả năm chỉ đạt
7,56%, mức thấp nhất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ tăng trƣởng công nghiệp đã
giảm sút nghiêm trọng từ 16% xuống còn 8,2% năm 2009 và 8,6% năm 2010, thấp
nhất trong bảy năm qua 44 . Xuất khẩu suy giảm do KHTC, kéo theo sự sụt giảm
nhiều nghành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Trên khắp Châu Á và
Thái Bình Dƣơng, GDP giảm liên tiếp trong hai năm 2008 và 2009. Trung và Đông
Nam Á đặc biệt là khu vực ASEAN-5 (ASEAN-5 bao gồm các nƣớc Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, ThaiLand ) chứng kiến mức giảm mạnh nhất.
Ở Đông Á và Đông Nam Á, hầu hết các nền kinh tế lớn phát triển dựa vào
xuất khẩu, thƣơng mại quốc tế và đầu tƣ nƣớc ngoài. Do vậy, dù ở mức độ khác
nhau các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á đều bị tác động của xu hƣớng giảm sút
thƣơng mại và đầu tƣ trên thế giới. Lĩnh vực xuất khẩu, thị trƣờng chứng khoán và
thị trƣờng tiền tệ khu vực chịu ảnh hƣởng mạnh của cuộc KHTC toàn cầu.
Singapore là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á rơi vào suy thoái trong
năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nƣớc này là: xuất khẩu hàng công nghiệp
chế tạo; dịch vụ tài chính ngân hàng và du lịch đều bị ảnh hƣởng nặng nề của cuộc
KHTC toàn cầu. Ở những mức độ khác nhau, Thái Lan và Hàn Quốc cũng chịu ảnh
hƣởng của cuộc khủng hoảng này. Trong bối cảnh đó, Pakixtan là nƣớc Châu Á đầu
tiên kêu gọi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trợ giúp 6,5 tỉ USD,…
Ở Nga, KHTC cũng ảnh hƣởng trầm trọng khi đồng Rúp mất giá mạnh,
Chính phủ đã phải chi tới 58 tỉ USD năm 2008 để giữ giá đồng tiền này. Trong khi
đó, nguy cơ thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng do giá dầu lửa sụt giảm mạnh
xuống dƣới 50 USD/thùng.
Dƣới tác động của khủng hoảng, hệ thống tài chính toàn cầu lung lay; một số
nƣớc đã yêu cầu sự giúp đỡ của IMF (Iceland; Ukraine; Hungary; Pakistan). Cuộc
73
KHTC cũng tác động tiêu cực đến kinh tế thực, nhất là trong quý IV-2008; năm
2009 và sáu tháng đầu năm 2010. Năm 2009, quy mô thâm hụt ngân sách của Mỹ
đã vƣợt qua con số 1400 tỷ USD, tƣơng đƣơng với 11,2% GDP. Đây là quy mô
thâm hụt ngân sách lớn nhất của Mỹ trong 60 năm qua 77 . Dƣới tác động của
KHTC, kinh tế Hoa Kỳ và kinh tế toàn cầu tăng trƣởng năm 2009, 2010 chậm lại
đáng kể so với năm 2007; Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, Hồng Kông-
Singapore,…đã thực sự có suy thoái (tăng trƣởng âm trong nhiều quý liền). Thất
nghiệp tăng mạnh.
Bảng 1.2. Tăng trƣởng, lạm phát năm 2008-2009 (IMF)- đơn vị tính %
Tăng trƣởng Lạm Phát
2008 2009 2008 2009
Hoa Kỳ 1,2 -0,7 4,0 1,6
Khu vực đồng Euro 1,0 -0,5 3,3 1,9
Nhật Bản 0,4 -0,2 1,6 -0,3
Hàn Quốc 4,0 2,0 4,7 3,0
Trung Quốc 9,3 8,5 6,1 3,4
Ấn Độ 6,9 6,3 9,6 4,3
Singapore 2,0 2,0 6,5 3,1
Thái Lan 4,3 3,0 5,9 3,0
Nguồn: Consensus Economics, IMF (Theo Teo 2009)
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hƣởng mạnh đến các nền kinh tế Bắc
Âu, khiến khu vực này chịu nhiều rủi ro. Là những nền kinh tế mở cửa, có quy mô
nhỏ, các nƣớc Bắc Âu đƣợc hƣởng lợi mạnh mẽ từ tăng trƣởng thƣơng mại và đầu
tƣ toàn cầu, do vậy trong bối cảnh thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế giảm trong ba năm
qua, các nền kinh tế Bắc Âu chịu nhiều tác động nặng nề.
74
Bảng 1.3: Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới tăng trưởng GDP, thất
nghiệp, ngân sách ở các nước Bắc Âu
Nƣớc 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tăng trƣởng GDP (%)
Đan Mạch 3,4 1,7 -0,9 -5,1 1,2 1,1
Phần Lan 4,4 4,8 1,2 -7,8 1,5 2,4
Na Uy 2,3 2,7 1,8 -1,5 0,7 1,4
Thụy Điển 4,5 2,7 -0,5 -4,4 2,3 4,0
NORDIC 3,7 2,9 0,4 -4,4 1,7 2,5
EU 3,2 2,8 0,7 -4,2 0,8 -0,2
Thất nghiệp (%)
Đan Mạch 3,8 2,8 1,8 3,5 5,2 6,2
Phần Lan 7,7 6,9 6,4 8,2 10,0 7,8
Na Uy 3,5 2,5 2,6 3,2 3,7 3,3
Thụy Điển 7,1 6,1 6,2 8,3 9,7 7,5
NORDIC 5,5 4,6 4,3 6,0 7,3 6,2
EU 8,5 7,4 7,2 9,3 10,5 11,3
Ngân sách chính phủ (%)
Đan Mạch 5,0 4,4 3,4 -3,0 -5,8 -5,67
Phần Lan 4,0 5,2 4,5 -2,2 -4,0 -4,5
Na Uy 18,5 17,7 18,8 9,7 9,3 7,8
Thụy Điển 2,2 3,4 3,1 -1,6 -3,0 -2,8
NORDIC 7,5 7,8 7,6 0,9 -0,5 -0,34
EU -1,4 -7,3 -8,1 -8,6 -0,6 -2,0
Nguồn: Nordic Council of Ministers (2011), Global Pressure - Nordic
Solutions, Nordic Outlook 2012 - Danske Bank
75
Sự suy thoái kinh tế toàn cầu do cuộc KHTC với ngòi nổ là cuộc khủng hoảng
thị trƣờng cho vay dƣới chuẩn gây ra tƣởng chừng đã tạm lắng vào năm 2009 nhƣng
kinh tế thế giới không vì vậy mà phục hồi ổn định và tăng trƣởng mạnh mẽ một
cách thuận lợi. Đã gần bốn năm, Châu Âu vẫn bị bao vây bởi cuộc KHTC. Dù Hy
Lạp là điển hình của việc quản lý tài chính yếu kém dẫn đến cuộc khủng hoảng,
nhƣng Chính phủ Hy Lạp không phải là Chính phủ duy nhất bị “Bộ tam” bao gồm
Ủy ban Châu Âu (EC), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Trung ƣơng Châu
Âu (ECB), theo dõi chặt chẽ mà các thành viên khác của “PIIGS” là Bồ Đào Nha,
Italia, Ailen và Tây Ban Nha cũng đang khó khăn về kinh tế, thâm hụt ngân sách
tăng cao, nợ nần chồng chất và căng thẳng xã hội gia tăng đến mức ngƣời ta ngày
càng lo ngại rằng khả năng vỡ nợ nhƣ Hy Lạp sẽ lan rộng ra các nền kinh tế khó
khăn này.
1.2.2.2. Khủng hoảng nợ công diễn ra phổ biến với quy mô chưa từng có.
Cuộc khủng hoảng của khu vực đồng tiền chung Châu Âu bùng phát từ đầu
năm 2010 và kéo dài đến nay cũng nhƣ cuộc hủng hoảng nợ của Mỹ xuất hiện giữa
năm 2011, chồng lên nhau hình thành cuộc khủng hoảng nợ của Mỹ và Châu Âu,
dẫn tới sự bất ổn mới của nền kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng nợ của Mỹ và
Châu Âu sẽ còn kéo dài trong vài năm tới, từ đó có những ảnh hƣởng lớn tới hiện
thực và tiềm tàng đối với cục diện kinh tế toàn cầu. Theo chỉ số thống kê về dịch vụ
bán hàng của JPMorgan Global Manufacturing and Sirvice đƣợc công bố ngày
6/6/2012, kinh tế thế giới đã tăng trƣởng chậm nhất trong 2 năm trở lại đây. Chỉ số
này thực tế đã chuyển từ 52,5 trong tháng 5/2012 xuống mức 51,5 vào tháng 6/2012
(mức phân chia giữa tăng trƣởng và suy thoái). Trên thực tế chỉ số này giảm mạnh
kể từ đầu năm 2012.
Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất, chế biến đã giảm xuống mức thấp nhất trong
2 năm trở lại đây trong khu vực đồng Euro và hiện tƣợng tƣơng tự cũng xảy ra vào
Ấn Độ trong 27 tháng trở lại đây. Theo thống kê của tập đoàn tài chính Makit, chỉ
số về hoạt động sản xuất chế biến của khu vực đồng euro đã giảm xuống mức 49
76
trong tháng 6/2012, đây đƣợc coi là hiện tƣợng suy thoái đầu tiên trong 2 năm trở
lại đây của khu vực đồng Euro.
Ngoài ra, khủng hoảng cũng đặt ra vấn đề về khả năng thanh khoản của nhiều
Ngân hàng Châu Âu trong hiện tại.
Có thể nói chƣa bao giờ các nƣớc trên thế giới lại vay nợ nhiều nhƣ bây giờ kể
từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II năm 1945. Việc vay nợ nhiều đã trở thành một
vấn đề ngay từ bây giờ không phải là câu chuyện trƣớc mắt. Nếu nhƣ sau chiến
tranh thế giới thứ II với kế hoạch Mashall của mình, Mỹ là chủ nợ của các nƣớc
châu Âu thì hiện tại tất cả đều là những ngƣời đang phải chịu nợ, bởi lẽ:
Thứ nhất; ở các nƣớc phát triển đứng trƣớc tình thế là đảm bảo an sinh xã hội.
Khi mà ở các nƣớc này tình hình dân số già và việc phải trả một khoản tiền lớn cho
lƣơng hƣu hay trợ cấp sẽ khiến tình hình nợ công trở nên khó khăn hơn. Đơn cử
Nhật Bản với tuổi thọ bình quân khoảng 86 tuổi thì việc đáp ứng nhu cầu của ngƣời
dân sẽ là thách thức lớn. Cộng thêm khoản trợ cấp thất nghiệp khi mà tình hình thất
nghiệp đang ngày càng cao.
Thứ hai; với các gói kích cầu của từng quốc gia, với những số tiền lớn nhƣ
vậy cũng tạo nên khoảng thâm hụt ngân sách của mình dẫn đến nguy cơ vỡ nợ ở các
quốc gia yếu. Điều đó đã đƣợc minh chứng tại Ireland và Rumani hay một số các
quốc gia Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD), nếu so tỷ lệ nợ với tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Nhật Bản là nƣớc nợ
nhiều nhất với số nợ cao hơn gấp đôi GDP hàng năm. Còn Mỹ mặc dù đến cuối
năm 2011 tổng số nợ đã vƣợt qua con số 15 nghìn tỷ đô với số nợ chiếm khoảng
72% GDP vẫn còn khả quan hơn một số nƣớc công nghiệp phát triển khác nhƣ Hy
Lạp, Italia và Ireland- các nƣớc Châu Âu mà nợ nần khiến các nhà chức trách phải
đau đầu trong thời gian gần đây. Dƣới đây là bảng cho thấy tình trạng nợ công của
các nƣớc theo báo cáo của OECD năm 2011.
77
Bảng 1.4: Bảng thống kê nợ một số quốc gia trên thế giới
Nợ bình Thay đổi Nợ trên quân Quốc gia Tổng nợ (USD) so với năm GDP đầu ngƣời trƣớc (USD)
Nhật Bản 12.642.984.699.454 220% 100.158,71 2%
35.433,93 14% Mỹ 11.110.645.901.639 72%
34.227,90 0% Đức 2.795.357.923.497 83%
2.490.597.814.208 121% 40.893,97 -1% Italy
36.471,97 4% Pháp 2.316.762.295.082 89%
34.307,32 11% Anh 2.161.772.131.148 89%
43.837,30 5% Canada 1.516.260.109.290 87%
6.708,45 9% Brazil 1.302.275.956.284 54%
955,61 17% Trung Quốc 1.267.922.950.820 16%
21.587,91 7% Tây Ban Nha 998.658.469.945 72%
776,22 13% Ấn Độ 942.687.431.694 49%
-7% Hy Lạp 423.741.530.055 159% 37.501,57
7% Australia 394.522.950.820 17.334,49 27%
880,44 12% Indonesia 217.795.081.967 25%
2.491,43 15% Thái Lan 170.985.792.350 47%
5.612,28 16% Malaysia 162.098.360.656 56%
1.111,03 13% Nga 156.985.245.902 8%
2.890,74 11% Nam Phi 141.275.409.836 36%
1.176,11 9% Philippines 121.373.224.044 50%
756,92 11% Việt Nam 67.588.524.590 50%
343,63 -18% Lybia 2.061.202.186 3%
1.182,71 25% Estonia 1.538.797.814 7%
(Nguồn:theo buttonwood.economist.com)
78
Một trong những nguyên nhân khiến tình hình thâm hụt ngân sách của các
Chính phủ trở nên trầm trọng là vì các gói kích thích kinh tế đƣa ra để chống đỡ
khủng hoảng. Dù là sử dụng giải pháp nào, cũng có thể dự đoán sau khủng hoảng,
các chính phủ sẽ cần gia tăng thu thuế hoặc vay nợ để cố gắng đƣa ngân sách về cân
bằng. Hầu hết các quốc gia khi đi vay nợ nƣớc ngoài đều nhằm mục tiêu đầu tƣ
nhằm tăng trƣởng kinh tế nhƣng kết quả cuối cùng lại rất khác nhau ở mỗi quốc gia.
Vay nợ một cách không khôn ngoan và sử dụng đồng vốn không hiệu quả sẽ làm
mất khả năng thanh toán quốc tế và dự trữ của quốc gia dẫn tới làm sụp đổ nền kinh
tế. WB và IMF đã đƣa ra hệ thống các chỉ số để đánh giá nợ bền vững của một quốc
gia đang phát triển nhƣ sau:
Bảng 1.5: Chỉ số để đánh giá nợ bền vững của một quốc gia đang phát triển
Chỉ số (%) Mạnh Trung bình Yếu
Tổng nợ/tổng thu nhập quốc dân (GNI) 50 40 30
Tổng nợ/thu ngân sách 300 250 200
Nợ phải trả hàng năm/thu ngân sách 35 30 25
Tổng nợ/xuất khẩu 200 150 100
Nợ phải trả hàng năm/xuất khẩu 25 20 15
Nguồn: theo buttonwood.economist.com.
Trong đó: “Mạnh” là tình trạng nợ nghiêm trọng và “Yếu” là không gặp vấn
đề về nợ. Theo quy định, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên của
khối sử dụng đồng euro là 60% GDP trong khi thâm hụt ngân sách hàng năm không
đƣợc vƣợt quá 3%. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có 2 trong số 16 quốc gia thuộc khu
vực đồng tiền chung đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này là Phần Lan và
Luxembourg. Chính sự vƣợt rào “tập thể” này là một nguyên nhân quan trọng khiến
châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ hiện nay.
79
1.2.2.3. Giá cả biến động, thất nghiệp gia tăng, các vấn đề xã hội nảy sinh phức tạp
tại nhiều nước trên thế giới.
Sự biến động của giá cả: Cuộc KHTC lần này đã gây suy thoái kinh tế toàn
thế giới và điều đặc biệt là làm cho giá cả hàng hóa có nhiều biến động. Đáng kể nhất
là giá dầu. Từ năm 2010, giá dầu tăng trở lại sau nhiều năm tƣơng đối ổn định. Đầu
năm 2011, giá dầu thô ở Mỹ đã tăng 4,3% so với cuối năm 2010 và tăng 26,1% so với
cùng kỳ 2010. Giá dầu thô bình quân toàn cầu trong năm 2011 ở mức 106,3 USD/
thùng so với mức 79,03 USD/thùng năm 2010. Năm 2011 và sang năm 2012, sự biến
động giá cả của nhiều loại nguyên liệu đã gây khó khăn cho hầu hết các nền kinh tế.
Tình trạng thất nghiệp: Kể từ khi cuộc khủng hoảng xảy ra, đến hết năm
2011, hơn 60 triệu ngƣời bị đẩy ra khỏi thị trƣờng lao động. Ở Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp
năm 2009 là 10%, năm 2010 là 9,8%. Tính đến tháng 3/2012, tỷ lệ thất nghiệp trong
khu vực Eurozone đạt 10%. Tây Ban Nha là quốc gia khó tìm việc nhất cho giới trẻ
khi tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm này lên tới 40%. Tỷ lệ này cũng lên tới 2 con số tại
Slovakia, Cộng hòa Ireland, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Pháp. Hà Lan là quốc gia có
thị trƣờng lao động dễ chịu nhất với mức thất nghiệp chỉ là 4,1%. Biểu đồ (2) cho
thấy tỷ lệ thất nghiệp của ngƣời lao động toàn thời gian tại châu Âu trong quý 1
năm 2012 (đơn vị: %, số liệu của Eurostat).
Biểu đồ 1.2: Tình trạng thất nghiệp tại châu Âu trong quý I/2012. 88
80
Tỷ lệ thất nghiệp ở các nƣớc Bắc Âu trong những năm KHTC toàn cầu cũng
tăng mạnh, từ mức 4,3% năm 2008 lên mức 6% năm 2009, 7,3% năm 2010 và 6,2%
năm 2011. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Đan Mạch, năm 2010 có 164,5
nghìn ngƣời Đan Mạch lâm vào tình trạng thất nghiệp. Ngày càng nhiều ngƣời phải
rời khỏi thị trƣờng lao động do không có việc làm. Riêng quý I năm 2012, Đan
Mạch mất 9.000 việc làm, trong đó 4.000 việc làm ở khu vực công cộng và 5.000
việc làm tại khu vực tƣ nhân, khiến thị trƣờng lao động chịu áp lực ghê gớm. Tại
Thụy Điển, tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh, từ mức 6,2% năm 2008 lên mức 8,3% năm
2009, 9,7% năm 2010 và 7,5% năm 2011. Phần Lan là nƣớc có tỷ lệ thất nghiệp cao
nhất khu vực Bắc Âu, ở mức 8,2% năm 2009 so với mức 6,4% năm 2008, tăng lên
ở mức 10% vào năm 2010 78 .
Những biến động xã hội: Suy thoái kinh tế, giá cả leo thang trong khi tình
trạng thất nghiệp diễn ra phổ biến càng khoét sâu những mâu thuẫn xã hội tại nhiều
nƣớc phát triển, đặc biệt là những nƣớc Tây Âu. Quần chúng nhân dân không thể
chủ động đƣợc tình trạng lạm phát và thất nghiệp trầm trọng đã phản kháng bằng
cách liên tiếp tổ chức các cuộc biểu tình gây rối loạn xã hội. Nhà đầu cơ nổi tiếng
George Soros cho rằng: Cuộc KHTC toàn cầu này “không phải chỉ là cuộc KHTC
mà là cuộc khủng hoảng chính trị xã hội”.
1.2.2.4. Xu hướng “tái cấu trúc kinh tế toàn cầu”
Tái cấu trúc nền kinh tế là vấn đề luôn đƣợc đặt ra đối với mỗi quốc gia sau
những biến động lớn của kinh tế thế giới. Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu
2008 và khủng hoảng nợ công hiện nay đã làm bộc lộ rõ khiếm khuyết của mô hình
kinh tế tài chính tự do Âu Mỹ, những tác động của nó đặt ra yêu cầu cấp thiết đối
với tái cơ cấu nền kinh tế ở các nƣớc nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hƣớng
tới sự phát triển bền vững hơn sau khủng hoảng.
C. Mác đã từng chỉ rõ: khủng hoảng tuy có sức phá hoại lớn nhƣng lại là
khởi điểm cho một chu kỳ phát triển mới cao hơn, nhƣ đổi mới tƣ bản cố định, đổi
mới công nghệ, tái cấu trúc lại cơ cấu kinh tế v.v...
Joseph Schumpeter nhà kinh tế học tại Đại học Havad (Mỹ) gọi khủng hoảng
chu kỳ là “một sự phá hủy sáng tạo”, sau mỗi cuộc khủng hoảng lớn đều có bƣớc
81
phát triển đột phá của lực lƣợng sản xuất thế giới, đồng thời xuất hiện những thể
chế kinh tế mới.
Khác với các đợt tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng trƣớc đây, trong bối
cảnh toàn cầu hóa, tính cấp thiết của quá trình tái cơ cấu kinh tế trên thế giới trong
và sau khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đƣợc thể hiện qua ba xu hƣớng sau:
Thứ nhất, xu hƣớng tự do hóa và vai trò điều tiết của nhà nƣớc, tái cơ cấu
kinh tế đi đôi với cải cách thể chế. Chiến lƣợc hƣớng ra thị trƣờng quá mức có thể
đƣa tới những khó khăn nghiêm trọng vì thế các quốc gia sẽ cơ cấu lại nền kinh tế
theo hƣớng cân bằng hơn giữa thị trƣờng trong nƣớc và nƣớc ngoài. ăng cƣờng vai
trò của Nhà nƣớc nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trƣờng, giám sát
mạnh mẽ để kiểm soát kinh tế vĩ mô, cắt giảm chi tiêu và kiểm soát chi tiêu ngân
sách, thâm hụt tài chính, nâng cao năng lực theo dõi và ứng phó với khủng hoảng,
chú trọng giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua cho thấy, trong xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập, tài chính – tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị tác động
mạnh nhất. Xuất phát từ những yếu kém về quản lý, giám sát tài chính là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu, do đó vấn đề tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng là một trọng tâm trong tái cơ cấu kinh tế của nhiều nƣớc, đặc biệt
là Mỹ và Châu Âu. Các nƣớc đều phải tìm cách củng cố lại an ninh tài chính- ngân
hàng, trong đó cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính, thực thi
nghiêm ngặt những quy định về chế độ quản lý toàn bộ hệ thống tài chính, hạn chế
tỉ lệ đòn bẩy, tăng cƣờng giám sát các định chế tài chính phi ngân hàng có chức
năng hoạt động nhƣ ngân hàng.
Thứ ba, xu hƣớng xanh hóa nền kinh tế. Lấy tăng trƣởng xanh làm trung tâm
trong tái cơ cấu kinh tế và duy trì năng lực cạnh tranh sau khủng hoảng thay cho
tăng trƣởng chủ yếu dựa vào thâm dụng vốn, nguồn nhân lực và tài nguyên. Các
nƣớc sẽ chú trọng sử dụng các chính sách đòn bẩy để khuyến khích chuyển dịch cơ
cấu sản xuất và tiêu dùng sang các ngành, lĩnh vực và sản phẩm xanh, phát triển dựa
vào năng lƣợng tái tạo, các sản phẩm tiết kiệm năng lƣợng và thân thiện với môi
trƣờng sẽ đƣợc quan tâm hơn.
82
Tóm lại, bắt đầu từ Mỹ, sự bùng nổ của KHTC đã lan sang các nền kinh tế lớn
và bao trùm gần khắp các nƣớc trên thế giới. Các ngành kinh tế nhƣ ngân hàng, tài
chính, công nghiệp chế tạo ô tô và bất động sản vốn đƣợc coi là siêu lợi nhuận trong
thời đại ngày nay đã bị gục ngã khi mà phát triển liên tục qua nhiều thập kỉ và tƣởng
nhƣ không thể thất bại.
Đến thời điểm này, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế cũng nhƣ lãnh
đạo các nền kinh tế lớn, khủng hoảng vẫn chƣa chấm dứt. Kinh tế thế giới và nền
kinh tế của nhiều khu vực có thể đƣợc dự báo phát triển khả quan hơn, những dự
báo cho những năm tiếp theo là rất khác biệt, phần nào thể hiện tính bất định trong
các diễn biến kinh tế hiện nay. Điều đó cho thấy dƣờng nhƣ sự phục hồi của nền
kinh tế toàn cầu mới chỉ dừng lại ở sự ổn định tạm thời của khu vực tài chính và
dựa vào sự tăng mạnh chi tiêu công của các Chính phủ cũng nhƣ sự khôi phục nhu
cầu bên trong của các quốc gia.
Hiện tại, nhìn tổng quát, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang phải đối mặt với hàng
loạt bất ổn lớn: sự phát triển yếu của các khu vực sản xuất; tình trạng cầu xuất, nhập
khẩu thế giới còn rất thấp và mỏng manh; dòng FDI tiếp tục giảm mạnh; đồng USD
tiếp tục yếu và giá vàng biến động bất thƣờng; nghịch lý của vấn đề giá năng lƣợng
và nguyên liệu tăng trong khi nhiều nền kinh tế của nhiều nƣớc vẫn còn suy
thoái,...Đây chính là những bằng chứng xác đáng để khẳng định mức độ tác động
phức tạp và có thể còn tiếp tục lây lan sâu rộng hơn của cuộc KHTC toàn cầu lần này.
Tƣơng tự nhƣ vậy, khi các thị trƣờng chủ chốt, nơi tập trung các nguồn lực
đầu tƣ và công nghệ chƣa ra khỏi suy thoái, dòng đầu tƣ giảm đồng nghĩa với tình
hình bi đát cho khu vực sản xuất ở các quốc gia mà ở đó FDI là một bộ phận quan
trọng của tổng đầu tƣ xã hội. Hơn nữa, đằng sau tình trạng giảm sút về tăng trƣởng,
đầu tƣ, thƣơng mại, mất việc làm là sự bất ổn vĩ mô, là nguy cơ tái nghèo, sự gia
tăng các xung đột xã hội và đặc biệt là sự mất niềm tin to lớn của các nhà đầu tƣ
kinh doanh cũng nhƣ của mọi ngƣời dân trong xã hội.
Cuộc khủng hoảng đã tạo ra những kết quả tồi tệ cho ngƣời dân ở khu vực
nông thôn. Trƣớc tiên, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng, thứ hai lƣơng giảm, thứ ba
những ngƣời còn đƣợc hƣởng lƣơng thì thƣờng nhận lƣơng không đúng thời hạn
83
bởi vì các công ty không còn đủ khả năng trả lƣơng cho họ nữa. Nhiều quốc gia trở
nên dễ tổn thƣơng hơn bởi họ đã trải qua cuộc khủng hoảng về giá lƣơng thực trƣớc
đó. Khi làn sóng khủng hoảng cứ tiếp nối, thì những thiệt hại giáng xuống thƣờng
đƣợc tích hợp lại. Nếu mọi ngƣời không có cơ hội để xây dựng lại tài sản của họ (tài
sản cá nhân, tài sản vật chất, tài sản tinh thần) giữa các cú sốc, thì số phận của họ sẽ
bị vùi dập giữa các con sóng khủng hoảng với nguồn lực ngày càng co hẹp và tính
tổn thƣơng ngày càng tăng. Đối với nhiều ngƣời sống trong nghèo đói, những áp lực
tách biệt của từng cuộc khủng hoảng không khác gì những cơn đau buốt kéo dài
phát sinh từ một cuộc khủng hoảng đa diện kinh niên duy nhất.
Khủng hoảng tài chính kéo dài lần này đã và đang làm giảm khả năng của
ngƣời nghèo trong việc mƣu cầu một cuộc sống ổn định, ngoài ra nó còn đe dọa
phúc lợi của thế hệ tƣơng lai cũng nhƣ tạo nên áp lực lớn trong mối quan hệ gia
đình. Các phản ứng của Chính phủ, các nhà tài trợ nhân đạo và các tổ chức khác là
rất cần thiết để củng cố lấp đầy nguồn lực tạo nên sức chịu đựng cho ngƣời dân mỗi
khi khủng hoảng tới (và vì chúng ta đang tiến tới thời đại của sự khan hiếm nguồn
lực nên cuộc khủng hoảng lần này chắc chắn chƣa phải là lần cuối).
Chính Paul Krugman, chủ nhân giải Nobel kinh tế năm 2008, cũng nhận định
rằng kinh tế thế giới vẫn còn bị đe dọa bởi nhiều đợt suy thoái mới. Điều này đang
đặt ra nhiều câu hỏi cần tìm lời giải đáp.
1.3. Các giải pháp chung nhằm ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Có nhiều giải pháp thƣờng đƣợc áp dụng để vƣợt qua KHTC toàn cầu. Trải
qua những biến cố khủng hoảng lịch sử, ta thấy có một số giải pháp chống KHTC
toàn cầu chung thƣờng đƣợc áp dụng. Tuy nhiên, tùy từng cuộc khủng hoảng khác
nhau, các nhà hoạch định chính sách lại bổ sung thêm giải pháp chống KHTC toàn
cầu đặc trị phù hợp với hoàn cảnh. Giải pháp chống KHTC toàn cầu giống nhƣ một
đơn thuốc mà những thầy thuốc là nhà hoạch định chính sách có thể gia giảm thêm
một số loại thuốc phụ trợ bên cạnh những loại thuốc chính để điều trị hiệu quả nhất
cho căn bệnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế vào từng giai đoạn khác nhau.
Những bài học kinh nghiệm đắt giá trong việc ứng phó với cuộc Đại khủng
hoảng 1929-1933, đã chỉ rõ, sẽ không thể giải quyết đƣợc KHTC hiện nay nếu
84
không hiểu đƣợc nó. Chính vì thế, nên ngay từ khi xảy ra KHTC, thậm chí ngay từ
khi có dấu hiệu cảnh báo KHTC có khả năng nổ ra, hầu hết các tổ chức toàn cầu lẫn
các quốc gia đã tiến hành rộng rãi các cuộc hội thảo, các hội nghị, các nhóm nghiên
cứu chuyên sâu quy tụ từ cả những ngƣời đứng đầu nhà nƣớc và chính phủ, đến các
quan chức chính phủ quốc gia và toàn cầu, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu,
cùng các tổ chức tƣ vấn nhằm nhanh chóng tìm hiểu thực chất, sự tiến triển, hy
vọng có thể có đƣợc những đánh giá chính xác nguyên nhân và tác động có thể của
cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế toàn cầu, khu vực, quốc gia và từng ngành
cũng nhƣ từng doanh nghiệp và đối với mọi khía cạnh của đời sống kinh tế, xã hội
và chính trị, để từ đó đề ra các giải pháp nhằm tránh, thoát ra hay giảm nhẹ đƣợc
các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng này.
Nhìn lại lịch sử các cuộc KHTC toàn cầu cho thấy, không một quốc gia nào
vƣợt qua khủng hoảng tài chính mà không có sự can thiệp của Nhà nƣớc. Vai trò và
sự can thiệp của Nhà nƣớc tỷ lệ thuận với mức độ trầm trọng của khủng hoảng.
Điều đó cho thấy nếu Nhà nƣớc bỏ mặc thị trƣờng, để thị trƣờng tự do chi phối thì
sớm muộn nền kinh tế sẽ lâm vào tình trạng bất ổn và khủng hoảng.
Vận dụng những lý luận và thực tiễn trên vào nghiên cứu các cuộc KHTC cho
thấy: các học thuyết về thị trƣờng tự do phi điều tiết đã thất bại. Cuộc khủng hoảng
đã phủ định các giá trị lý luận mà CNTB vốn đề cao một cách cực đoan về khả năng
tự điều chỉnh của cơ chế thị trƣờng. Thực tế ấy đã bác bỏ luận điệu khi cho rằng
trong nền KTTT không cần đến vai trò của Nhà nƣớc mà phải tự do hóa thị trƣờng
và tƣ nhân hóa kinh tế nhƣ nhiều ngƣời đã hăng hái ủng hộ. Thực tế cũng đã và
đang cho thấy: sức mạnh khó kiểm soát của thị trƣờng đang tàn phá nền kinh tế thế
giới khi thiếu hoặc chậm sử dụng bàn tay nhà nƣớc.
Điểm lại các cuộc KHTC đã diễn ra, để đối phó với khủng hoảng, giải pháp
đầu tiên đƣợc áp dụng một cách phổ biến ở hầu hết tất cả các quốc gia trực tiếp
hoặc gián tiếp chịu ảnh hƣởng của khủng hoảng là sự can thiệp của Nhà nƣớc ở cấp
độ quốc gia, cấp độ quốc tế và cấp độ khu vực.
Trong từng quốc gia, tùy thuộc vào thực lực của nền kinh tế và năng lực của
Chính phủ mà mỗi quốc gia có cách ứng phó khủng hoảng tƣơng ứng. Các Nhà
85
nƣớc thƣờng nỗ lực thực hiện các giải pháp cấp bách nhƣ: Cải cách hệ thống tài
chính, thắt chặt tiền tệ, tiết kiệm chi tiêu, điều chỉnh cơ cấu danh mục đầu tƣ hoặc
thực hiện các chính sách hỗ trợ và công bố các gói kích thích kinh tế cho từng lĩnh
vực cụ thể theo các mức ƣu tiên.
Đối với các khu vực, việc đối phó KHTC hiện nay đƣợc tiến hành trên cơ sở
phối hợp với nhau để tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng đoàn kết hợp tác vƣợt qua
KHTC toàn cầu hoặc sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp của các tổ chức tài chính và cộng
đồng quốc tế nhƣ WB, IMF, OECD, FAO, v.v…
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và
sự phụ thuộc ngày càng gia tăng giữa các nền kinh tế, thì sự đổ vỡ xảy ra ở bất cứ
nƣớc nào, vùng nào cũng sẽ nhanh chóng lan tỏa ra các nƣớc khác, vì vậy, việc khắc
phục hậu quả để khôi phục và phát triển kinh tế của các nƣớc cũng phụ thuộc lẫn
nhau. Kinh tế thế giới sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro ở mức độ lớn hơn khi KHTC xảy ra.
Do đó, từng quốc gia phải chủ động phòng ngừa, đồng thời phải tăng cƣờng hơn
tính cộng đồng, liên kết trong phòng ngừa và trong giám sát, cảnh báo kịp thời các
dấu hiệu bất ổn. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thực lực của nền kinh tế và năng lực của
chính phủ mà mỗi quốc gia có cách ứng phó khủng hoảng tƣơng ứng. Nhìn lại việc
ứng phó các cuộc khủng hoảng tài chính trong lịch sử có thể thấy các giải pháp
chung nhất trƣớc mắt mà các chính phủ sử dụng để nhằm ứng phó với KHTC toàn
cầu là:
1.3.1. Ứng phó bằng chính sách tài khóa và tiền tệ
Từ việc nhận thức rõ nguồn gốc và nguyên nhân sinh ra cuộc KHTC bắt đầu
từ khu vực tài chính, ngân hàng nên giải pháp đầu tiên cần thực hiện là phải đổi
mới, cải cách chính sách tài khóa và tiền tệ, trong đó cần đặc biệt chú ý đến vai trò
của Nhà nƣớc, nhƣ: Thắt chặt tiền tệ: đây là biện pháp đƣợc dùng đầu tiên và chính
yếu trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Các
ngân hàng cho vay quá nhiều dẫn đến tình trạng thiếu lƣợng vốn cần thiết để duy trì
hoạt động hay nói cách khác là thiếu tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng thể hiện sức khỏe của nền kinh tế, khi nó ốm yếu có nghĩa là nền kinh tế
đang lâm nguy; Tiết kiệm chi tiêu: trong lúc khó khăn, tiết kiệm đƣợc coi là quốc
86
sách. Tại sao mỗi khi khó khăn, con ngƣời mới nghĩ đến tiết kiệm nhƣ một giải
pháp chứ không phải là một thói quen. Khi khủng hoảng, con ngƣời mới nhận thấy
rõ nhất giá trị thực tài sản của mình và bắt đầu biết quý trọng, tiết kiệm những đồng
tiền mồ hôi nƣớc mắt khi chi tiêu; Cơ cấu lại danh mục đầu tư: hơn lúc nào hết,
trong thời kỳ KHTC, nền kinh tế suy thoái, các nhà đầu tƣ và tổ chức cần phải xem
xét lại danh mục đầu tƣ, duy trì những khoản đầu tƣ mang lại hiệu quả cao, và cắt
giảm một số khoản không cần thiết. Thông thƣờng, các nhà đầu tƣ sẽ chuyển đổi từ
những dạnh mục đầu tƣ đã phát triển nóng nhƣ bất động sản, chứng khoán sang
những khoản mục an toàn hơn là vàng, đô la, trái phiếu Chính phủ và tiết kiệm.
Nhƣ trên đã phân tích, chính tự do hóa kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tài
chính- ngân hàng, đi quá giới hạn Nhà nƣớc cho phép trong khi Nhà nƣớc thiếu sự
định hƣớng, giám sát nên càng duy dƣỡng việc hình thành và thỏa sức hoạt động, tự
tƣơng, tự tác vì mục tiêu ích kỷ của các tập đoàn tài chính siêu quốc gia. Những tập
đoàn này hoạt động thiếu minh bạch và kinh doanh mạo hiểm để hòng kiếm lợi
nhuận tối đa, nên dẫn tới sự đổ vỡ hàng loạt và hoảng loạn. Vì thế, giải pháp quan
trọng đầu tiên là Nhà nƣớc phải có chính sách điều chỉnh cơ cấu, cơ chế và phƣơng
thức hoạt động của các tập đoàn tài chính này, kể cả những giải pháp nhằm ứng cứu
những đơn vị cần phải giữ và giải thể những ngân hàng không thể cứu vãn. Các giải
pháp chính trong lĩnh vực tài chính đã đƣợc các nƣớc thực hiện, cơ bản theo trình tự
nhƣ sau:
Thứ nhất: Hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp, tập trung hỗ trợ các lĩnh vực, khu vực
dễ bị tổn thƣơng bởi KHTC và có nguy cơ phá sản nhằm ngăn chặn suy thoái kinh
tế, đảm bảo an sinh xã hội và tạo cơ sở phát triển bền vững.
Thứ hai: Mở rộng mạng an toàn tài chính thông qua thực hiện chính sách tiền
tệ linh hoạt, cụ thể nhƣ liên tục hạ lãi suất cho vay, can thiệp và bơm vốn vào các tổ
chức tài chính thông qua các gói kích thích kinh tế.
Thứ ba: Tái cấu trúc các tổ chức tài chính nhằm từng bƣớc khôi phục và thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh- thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
87
1.3.2. Sử dụng các chính sách nhằm ổn định kinh tế và tạo việc làm.
Về cơ bản, đối với những quốc gia là tâm điểm của khủng hoảng hay những
quốc gia chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ khủng hoảng thì đầu tiên Nhà nƣớc quan tâm
tới giải quyết những điểm yếu nội tại, Nhà nƣớc trực tiếp sử dụng biện pháp tài
chính để cứu nguy đối với các lĩnh vực kinh tế đứng bên bờ vực phá sản nhƣ công
bố các gói kích thích kinh tế phát triển. Đây là một phƣơng thức không thể thiếu
trong việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ KHTC. Việc thắt chặt chính sách
tiền tệ và những hệ lụy do khủng hoảng hệ thống tài chính gây ra, đã ảnh hƣởng
trực tiếp tới mọi doanh nghiệp, ngƣời dân đặc biệt là ngƣời nghèo. Các phƣơng thức
tiếp cận nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, sinh hoạt thƣờng nhật của
ngƣời dân với những mặt hàng thiết yếu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Đây là
lúc Chính phủ cùng IMF, WB hỗ trợ cho vay một lƣợng tiền lớn để phát triển đầu tƣ
công, nâng cao đời sống an sinh xã hội của ngƣời dân đặc biệt là những ngƣời
nghèo hoặc thất nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp trƣớc đây làm ăn hiệu
quả, có thang điểm tín dụng an toàn và những doanh nghiệp có ảnh hƣởng lớn đến
nền kinh tế -xã hội (KT- XH) đƣợc vay vốn để vƣợt qua khó khăn. Điều khác biệt
của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung
tiền để kích thích xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất
cũng nhƣ tinh thần của toàn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo
nhƣ đất đai, chứng khoán nhƣ trƣớc.
Tiếp đến là Nhà nƣớc sử dụng các chính sách điều tiết kinh tế nhằm ngăn
chặn và cải thiện sự suy giảm kinh tế. Mục tiêu mà những điều tiết của Nhà nƣớc
hƣớng tới trong bối cảnh khủng hoảng là nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những tác
động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế đồng thời trên cơ sở điều chỉnh và cấu
trúc lại nền kinh tế nhằm làm lành mạnh hóa các thể chế tài chính theo hƣớng bền
vững hơn sau khủng hoảng.
Các chính phủ đã thực thi các chính sách can thiệp kinh tế theo các bƣớc sau đây:
Một là, công bố các gói kích thích kinh tế nhằm tạo việc làm thông qua chi
tiêu cho xây dựng hạ tầng cũng nhƣ việc giảm thuế và trợ cấp.
Hai là, khởi động một loạt các chƣơng trình hỗ trợ việc làm bao gồm: Tăng
cƣờng các chƣơng trình việc làm có đối tƣợng là ngƣời nghèo và mở rộng các biện
pháp đào tạo và dạy nghề cho giới trẻ.
88
1.3.3. Quan tâm đến chính sách bảo đảm an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội đƣợc định nghĩa theo nghĩa rộng là các hành động
công khai đƣợc thực hiện bởi Nhà nƣớc hoặc khu vực tƣ nhân, những hành động
này cho phép mọi ngƣời có thể đối phó hiệu quả hơn với các rủi ro và tổn thƣơng,
giúp họ chống lại tình trạng nghèo đói cùng cực và kinh niên. An sinh xã hội bao
gồm việc phân phối những dịch vụ thiết yếu (điện, nƣớc, thông tin), thúc đẩy dịch
vụ y tế và giáo dục miễn phí, cũng nhƣ các trợ giúp xã hội ngắn hạn khác 86 . Khi
sự tổn thƣơng là hoàn toàn không dự đoán đƣợc thì những quốc gia với hệ thống an
sinh xã hội rộng lớn và linh hoạt sẽ có khả năng tốt hơn trong việc hỗ trợ trực tiếp
đến những vùng cần hỗ trợ nhất. Khi phần lớn các nƣớc đang phát triển có hệ thống
phúc lợi xã hội yếu kém, nhiều nƣớc trong số đó phải sử dụng các chính sách chi
tiêu chủ động để hạn chế ảnh hƣởng xã hội và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp của khủng
hoảng, trong khi đó ở các quốc gia đã phát triển, nhiều nội dung trong việc hỗ trợ xã
hội đã đƣợc xây dựng thành một hệ thống dƣới dạng cơ chế tự ổn định. Ví dụ trợ
cấp thất nghiệp và nó sẽ đƣợc khởi động ngay lập tức khi khủng hoảng xảy ra mà
không cần một quyết định từ phía Chính phủ. Sự thiếu vắng hoặc hạn chế của cơ
chế tự ổn định ở các nƣớc thu nhập thấp dễ nhận ra ở nhiều đối tƣợng dễ bị tổn
thƣơng nhất khi khủng hoảng xảy ra bao gồm lao động nam, nữ ở khu vực phi chính
thức và ngƣời nhập cƣ. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm suy giảm sản xuất
kinh doanh, đƣa tới tình trạng thất nghiệp gia tăng và an sinh xã hội ở các nƣớc bị
báo động. Mất việc làm, khó khăn về đời sống, vô vọng, trầm cảm, trạng thái tâm lý
bất an, giảm niềm tin vào tƣơng lai…xuất hiện ở số đông dân cƣ sẽ đƣa tới những
mâu thuẫn và bùng nổ xã hội ngày càng phức tạp, sâu sắc trên quy mô lớn.
Rõ ràng, để ứng phó với những tác động kinh tế- xã hội do cuộc KHTC toàn
cầu gây ra, một trong những điều bức thiết là trong các giải pháp chung, phải tính
đến việc quan tâm hơn nữa đối với việc bảo đảm an sinh xã hội ở tất cả mọi quốc
gia trên thế giới. Các biện pháp để thực hiện an sinh xã hội thƣờng đƣợc sử dụng là:
Thứ nhất: Bảo đảm việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo.
Thứ hai, Trợ giúp xã hội thƣờng xuyên và đột xuất, cho các nhóm có hoàn
cảnh khó khăn nhằm bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu
cho ngƣời dân.
89
1.3.4. Phối hợp và hợp tác giữa các Nhà nước trong việc ứng phó với khủng hoảng.
Từ các cuộc KHTC toàn cầu, với sức lan tỏa rộng khắp và sự phá hủy “cực
lớn” của nó nhất là những thiết chế về tài chính, tiền tệ là một nhân tố kinh tế quan
trọng và nhạy cảm nhất trong sự vận hành kinh tế toàn cầu cho thấy, hơn bao giờ
hết, sự phối hợp quốc tế để chia sẻ rủi ro, tổn thất và hƣớng tới một giải pháp chung
nhằm xây dựng và duy trì sự cộng tác phát triển lâu dài là cấp thiết để vƣợt qua cơn
bão tài chính này. Lý do chính khiến các nƣớc phải cùng nhau thảo luận là vì quan
hệ chính trị và ảnh hƣởng qua lại ràng buộc giữa các nền kinh tế. Trong thời đại
toàn cầu hóa, hệ thống tài chính, đầu tƣ, chứng khoán...của các nƣớc liên kết với
nhau khá chặt chẽ và sâu rộng. Một tập đoàn đa quốc gia bị sụp đổ tại một chi
nhánh thì lập tức toàn bộ tập đoàn bị ảnh hƣởng. Toàn cầu hóa chính là lý do cấp
thiết để các quốc gia cùng nhau hợp tác chống khủng hoảng.
Theo đánh giá của IMF, quá trình toàn cầu hóa hiện nay diễn ra trên nền tảng
các công cụ mới, với sự xuất hiện của những nhân vật mới, những thị trường mới,
giá trị mới và vận động dựa trên khuôn khổ những quy tắc điều chỉnh mới 88 .
Chính những yếu tố này đã và đang tạo ra những tác động sâu sắc tới vai trò điều
tiết kinh tế của Nhà nƣớc đồng thời đặt ra một nhu cầu cần thiết tất yếu về sự hình
thành một cơ chế phối hợp điều tiết chung giữa các Nhà nƣớc mỗi khi nền kinh tế
xảy ra khủng hoảng tài chính.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có sự gia tăng mạnh mẽ, diễn ra
toàn diện trên nhiều lĩnh vực: thƣơng mại, tài chính, đầu tƣ, cũng nhƣ các lĩnh vực
văn hóa, xã hội, môi trƣờng…, cùng với nó là sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức
và cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với các hình thức đa dạng và mức độ
khác nhau, tạo ra những mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, sâu sắc và tác động qua lại
hết sức nhanh nhạy giữa các nền kinh tế trên thế giới. Xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đƣợc biểu hiện thông qua sự mở rộng thƣơng mại hàng hóa, dịch vụ và
lao động, hình thành mạng lƣới sản xuất quốc tế và các cơ chế điều hành hoạt động
kinh tế toàn cầu đang lan rộng chƣa từng thấy dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế. Sự lƣu chuyển vốn quốc tế dƣới tác động của toàn cầu hóa là tiền
đề trực tiếp hoặc gián tiếp cho phát triển của mọi nền kinh tế, vì thế KHTC toàn cầu
90
nổ ra thì vấn đề không phải chỉ là giải quyết ứng phó với khủng hoảng ở phạm vi
quốc gia mà còn cần tới sự phối hợp điều tiết chung giữa các Nhà nƣớc. Do đó,
quan tâm tới việc hình thành một cơ chế phối hợp điều tiết quốc gia trong cấu trúc
kinh tế toàn cầu và phối hợp điều tiết kinh tế Nhà nƣớc trong khủng hoảng là đặc
biệt cần thiết. Quá trình phối hợp và hợp tác giữa các Nhà nƣớc trong việc ứng phó
với khủng hoảng đƣợc thực hiện chủ yếu thông qua các bƣớc sau:
Thứ nhất: Tổ chức khẩn cấp các diễn đàn khu vực và quốc tế để họp bàn xoay
quanh việc tìm kiếm các giải pháp ứng phó với khủng hoảng và vực dậy nền kinh tế
toàn cầu sau khủng hoảng.
Thứ hai: Thành lập các Quỹ chống khủng hoảng khu vực để giải cứu bất kỳ
nƣớc thành viên nào gặp nạn vỡ nợ.
Thứ ba: Các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF) cho các quốc gia chịu tổn
thất nặng nề từ khủng hoảng vay thông qua các chƣơng trình cứu trợ trọn gói.
Tóm lại: Trong chƣơng 1, luận án đã nêu bật cơ sở lý luận về KHTC toàn
cầu nói chung và nhận diện cuộc KHTC toàn cầu năm 2008 nói riêng. Luận án đã đi
đến việc làm rõ khái niệm về khủng hoảng tài chính, KHTC toàn cầu, nêu bật bản
chất, đặc trƣng, nguyên nhân và tác động của cuộc KHTC toàn cầu 2008 đối với
nền kinh tế thế giới nói chung, với từng khu vực và với một số nƣớc.
Một điều quan trọng nữa trong chƣơng 1 là luận án đã phân tích, tổng hợp và
đƣa ra những giải pháp chính yếu nhất đối phó với cuộc KHTC toàn cầu. Đó là các
giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, ứng phó bằng chính sách tài khóa và tiền tệ.
Hai là, ứng phó bằng chính sách kinh tế và tạo việc làm
Ba là, quan tâm đến chính sách bảo đảm an sinh xã hội
Bốn là, phối hợp quốc tế để cùng ứng phó với tác động của khủng hoảng.
.
91
CHƢƠNG 2
ỨNG PHÓ TOÀN CẦU VÀ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TIÊU BIỂU VỚI
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008
KHTC toàn cầu 2008 với những di chứng của nó sẽ ảnh hƣởng đến toàn cầu
chƣa biết còn kéo dài đến bao lâu nữa. Trong chƣơng 1, luận án đã khái quát trên
phƣơng diện lý thuyết những phƣơng thức và cách ứng phó chung với cuộc khủng
hoảng. Để làm rõ thực tế sự ứng phó đó, trong chƣơng này, luận án sẽ nêu bật
những vấn đề cơ bản nhất của thực trạng việc ứng phó toàn cầu với KHTC bằng các
giải pháp chính yếu, phổ biến, cũng nhƣ xem xét các giải pháp ứng phó với cuộc
khủng hoảng này của một số quốc gia tiêu biểu, để từ đó rút ra một số đánh giá sơ
bộ và nêu bật những kinh nghiệm thực tiễn đáng để lƣu tâm.
2.1. Khái quát thực trạng việc ứng phó toàn cầu với khủng hoảng tài chính 2008.
Cuộc KHTC toàn cầu 2008 chủ yếu là khủng hoảng về thể chế, cơ chế kinh tế
thể hiện trƣớc hết là thể chế quản lý tài chính ngân hàng nên việc thiết lập thể chế
quản lý tài chính mới và khắc phục hậu quả sẽ diễn ra lâu dài và rất khó khăn. Đến
nay, các quốc gia đã không thể tự giải quyết tình hình bằng các biện pháp đơn lẻ mà
đang phải phối hợp hành động và đƣa ra các biện pháp khẩn cấp và mạnh mẽ. Điều
đó đƣợc thể hiện qua số tiền khoảng 3,2 nghìn tỷ USD mà các quốc gia trên thế giới
đã cam kết chi để ngăn chặn những tác động của cuộc KHTC tệ hại nhất trong nhiều
thập kỷ qua, đồng thời tìm cách thay đổi thể chế quản lý tài chính – ngân hàng ở các
quốc gia cũng nhƣ khu vực và thế giới.
Nhằm ngăn chặn sự suy giảm kinh tế trong nƣớc, hạn chế thấp nhất tác động,
ảnh hƣởng của KHTC toàn cầu, nhiều nƣớc đã thành lập ủy ban hoặc tổ công tác
chống khủng hoảng và đƣa ra các kế hoạch khẩn cấp với nhiều biện pháp và khối
lƣợng tiền lớn chƣa từng có tiền lệ so với các cuộc khủng hoảng trong quá khứ
trong bối cảnh KHTC toàn cầu vẫn tiếp tục gây hậu quả nghiêm trọng.
Các kế hoạch ứng phó khủng hoảng, kích thích nền kinh tế của các quốc gia
cũng giống nhƣ các cuộc KHTC trƣớc đó đều tập trung chủ yếu vào bốn nhóm giải
pháp chính sách cơ bản sau:
92
2.1.1. Chính sách tài khóa và tiền tệ
Cũng nhƣ các cuộc khủng hoảng trong quá khứ, đối với cuộc KHTC 2008,
giải pháp chính sách trong lĩnh vực tài chính là cố gắng ngăn chặn tình trạng hoảng
loạn của các thành viên tham gia thị trƣờng và của đông đảo công chúng và khôi
phục sự ổn định tài chính. Các phản ứng của KHTC trong quá khứ bao gồm: đầu
tiên là ngăn chặn, để đối phó với sự căng thẳng thanh khoản và ổn định nghĩa vụ tài
chính; thứ hai, xây dựng nghị quyết và bảng cân đối kế toán chuyển dịch cơ cấu,
trong đó bao gồm việc loại bỏ các tổ chức mất khả năng thanh toán tài chính từ hệ
thống và tái cấu trúc vốn những thể chế khả thi, và cuối cùng, tái cơ cấu hoạt động
để khôi phục lại sức mạnh tài chính và lợi nhuận của các tổ chức hữu hiệu và quản
lý tài sản. Cuộc khủng hoảng gần đây theo mô hình này thông qua giai đoạn đầu
tiên là ngăn chặn, để đối phó với sự căng thẳng thanh khoản và ổn định nghĩa vụ tài
chính, nhƣng phản ứng chính sách tiếp theo ít mạnh mẽ hơn, ít nhất là cho các nƣớc
chính. Các trình tự và phạm vi phản ứng chính sách trong cuộc khủng hoảng trong
quá khứ khác nhau ở khía cạnh quan trọng so với sự phản ứng chính sách trong
cuộc khủng hoảng gần đây. Cũng nhƣ trong cuộc khủng hoảng trong quá khứ, hỗ
trợ thanh khoản và đảm bảo đã đƣợc triển khai trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên,
trong cuộc khủng hoảng gần đây, điều này đã đƣợc theo sau nhanh chóng hơn bởi
tái cơ cấu vốn trên diện rộng ở nhiều nƣớc so với các cuộc khủng hoảng trong quá
khứ, điều này đã giảm nhẹ các tác động thực sự của các cuộc khủng hoảng. Sau các
biện pháp can thiệp chung, phƣơng pháp tiếp cận chính sách trong các cuộc khủng
hoảng gần đây trở nên ít mạnh mẽ hơn so với những phƣơng pháp trong quá khứ.
Đặc biệt, sự tiến bộ với chuyển dịch cơ cấu hoạt động và cơ cấu tài sản toàn diện
diễn ra chậm hơn. Tuy nhiên, ở một số các nƣớc bị ảnh hƣởng bởi cuộc khủng
hoảng gần đây, cụ thể là Iceland, và Ukraine, trình tự và loại phản ứng giống nhƣ
những cuộc khủng hoảng trong quá khứ, bao gồm cả sự tích cực của khả năng tồn
tại của các tổ chức tài chính và chất lƣợng tài sản, tái cơ cấu vốn công, loại bỏ các
tài sản nợ xấu, cơ cấu lại hoạt động, và thông qua các chƣơng trình IMF.
Ba nhóm giải pháp chính trong lĩnh vực tài chính đã đƣợc các nƣớc thực hiện,
cơ bản theo trình tự nhƣ sau:
93
2.1.1.1. Hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp, tập trung hỗ trợ các lĩnh vực, khu vực dễ bị
tổn thương bởi KHTC và có nguy cơ phá sản nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế,
đảm bảo an sinh xã hội và tạo cơ sở phát triển bền vững.
Với tổn thất lớn về vốn, thiệt hại về tài sản chứng khoán hóa, các điều kiện
kinh tế xấu đi một cách nhanh chóng, thể hiện rõ trên các bảng cân đối kế toán của
các tổ chức. Sự giảm giá và giảm thứ hạng của tài sản chứng khoán trong thời gian
2007- 2008 một cách nhanh chóng đã ảnh hƣởng đến vốn của doanh nghiệp thông
qua xác định giá trị thiệt hại. Các ngân hàng trung ƣơng đã phản ứng nhanh chóng
với sự hỗ trợ thanh khoản trên một quy mô lớn hơn và phổ biến rộng rãi hơn trong
các cuộc khủng hoảng trong quá khứ 79 . Họ kéo dài thời gian của các cơ sở thanh
khoản và giảm bớt yêu cầu đối tác và tài sản thế chấp. Cơ sở mới đƣợc thành lập để
làm giảm bớt sự thiếu hụt thanh khoản tại các thị trƣờng cụ thể. Hỗ trợ thanh khoản
cho các tổ chức tài chính đã đƣợc đi kèm bằng cách mua tài sản quy mô lớn và các
can thiệp khác về số lƣợng. Ví dụ, bảo lãnh các khoản nợ ( Đức: 545 tỷ USD; Hà
Lan: 200 tỷ Euro; Pháp: 40 tỷ Euro, tháng 10/2008, Chính phủ Hàn Quốc cam kết
bảo lãnh 100 tỷ USD cho các khoản nợ nƣớc ngoài của các ngân hàng Hàn Quốc,
đồng thời hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng thƣơng mại 30 tỷ USD, hỗ trợ thị
trƣờng bất động sản 9,2 tỷ USD…), mua lại cổ phần hoặc cấp vốn trực tiếp cho các
ngành sản xuất then chốt ( Mỹ: 17,4 tỷ USD cho 2 tập đoàn “Genaral Motor” và
“Chrysler”, EU hỗ trợ 30 tỷ Euro cho các doanh nhiệp vừa và nhỏ, Canada: 3 tỷ
USD, Pháp: 19 tỷ Euro để hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô và đầu tƣ vào kết cấu
hạ tầng,…), lập quỹ bảo đảm tín dụng ngắn hạn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (Nhật
Bản: 275 tỷ USD), thành lập ngân hàng, quỹ đầu tƣ dành riêng cho doanh nghiệp và
và nhỏ, các dự án nhỏ nông thôn (Indonexia, Malaixia), hỗ trợ các doanh nghiệp
Nhà nƣớc trong các lĩnh vực giao thông, điện, dầu khí, viễn thông, truyền thông
(Nga: 340 tỷ USD), Cục Dự trữ Liên bang và Ngân hàng Anh mua số lƣợng lớn
chứng khoán, Ngân hàng Trung ƣơng châu Âu (ECB) đã giới thiệu một chƣơng
trình đƣợc bảo hiểm trái phiếu,… 79 . Phản ứng chính sách phối hợp chƣa từng có
trong nhiều cách, sau đó bao gồm cả cơ sở trao đổi ngân hàng trung ƣơng. Từ đó,
bảng cân đối của ngân hàng trung ƣơng mở rộng nhiều hơn trong cuộc khủng hoảng
94
trƣớc đó và hỗ trợ linh hoạt hơn. Trong các giai đoạn gần đây, việc bảo lãnh chính
thức đã đƣợc phần lớn áp dụng cho các ngân hàng cụ thể (chẳng hạn nhƣ Northern
Rock) hoặc chỉ phát hành nợ mới. Với chƣơng trình bảo hiểm tiền gửi đã sẵn sàng,
các nƣớc cũng nhanh chóng tăng giới hạn bảo hiểm đáng kể trong một số trƣờng
hợp. Ngoài ra, bảo lãnh đã đƣợc mở rộng tới một số tổ chức tài chính phi ngân
hàng, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nơi mà kinh doanh trên các quỹ thị trƣờng tiền tệ, sau
đó là một ngành công nghiệp trị giá 3 nghìn tỷ, đã dẫn đến cung cấp bảo hiểm một
cách truyền thống nhằm để bảo vệ tiền gửi ngân hàng. Và các chính phủ đã thực
hiện báo cáo bày tỏ sự ủng hộ của họ cho toàn ngành. Bỉ, Luxembourg và Hà Lan
tăng giới hạn từ 20.000 đến 100.000 Euro nhƣ là một phần của quyết định toàn EU,
Hoa Kỳ tăng hơn gấp đôi họ, và một số quốc gia đảm bảo tất cả các khoản tiền gửi
bán lẻ.
2.1.1.2. Mở rộng mạng an toàn tài chính thông qua thực hiện chính sách tiền tệ linh
hoạt, cụ thể như liên tục hạ lãi suất cho vay, can thiệp và bơm vốn vào các tổ chức
tài chính thông qua các gói kích thích kinh tế.
Vì sự ổn định hệ thống và trong một số trƣờng hợp, do những quan ngại về
cạnh tranh, phần lớn các quốc gia có thu nhập cao đã đƣa ra hình thức bảo đảm mở
rộng dành cho khách hàng gửi tiền và chủ nợ của các ngân hàng và, trong một số
trƣờng hợp, dành cho cả những khách hàng gửi tiền và chủ nợ của các tổ chức tài
chính phi ngân hàng. Một số hình thức bảo đảm bao gồm đảm bảo toàn bộ đối với
tiền gửi và đảm bảo các khoản phát hành nợ ngân hàng nhằm duy trì nguồn vốn,
khôi phục niềm tin nhà đầu tƣ, và nhằm có thêm thời gian cho các giải pháp chính
sách khác phát huy hiệu lực. Một số ít các nền kinh tế mới nổi – đặc biệt là khu vực
mới nổi tại châu Âu và Đông Á đã nỗ lực thích ứng với chính sách của các quốc gia
phát triển bằng việc tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi và thực hiện đảm bảo toàn bộ
nhằm mục đích ngăn chặn luồng vốn chảy ra ngoài hoặc tình trạng rút tiền hàng loạt
gây bất ổn hệ thống. Các hình thức đảm bảo đã đƣợc thực hiện là chƣa từng có tiền
lệ về quy mô và phản ánh sự chuyển đổi sang mô hình mới từ mô hình chỉ có vai trò
truyền thống là ngăn ngừa tình trạng rút tiền hàng loạt tại các ngân hàng của các nhà
đầu tƣ nhỏ lẻ, thiếu thông tin. Mặc dù một số quốc gia ban đầu cũng tuyên bố rằng
các hình thức bảo đảm chỉ kéo dài từ 18 đến 36 tháng, chúng có thể đƣợc duy trì
95
cho đến khi sự ổn định tài chính đƣợc củng cố và dòng vốn tín dụng chảy vào một
cách bền vững, do vậy thời gian thực hiện có khả năng kéo dài hơn so với dự kiến.
Chính sách mở rộng tiền tệ đƣợc coi là quan trọng trong việc hỗ trợ các ngân
hàng và thị trƣờng. Chính sách tiền tệ đƣợc nới lỏng đáng kể bằng cách điều chỉnh
lãi suất ngắn hạn xuống mức thấp lịch sử, với sự phối hợp hành động của các ngân
hàng trung ƣơng (Mỹ còn 0-0,25%, Nhật 0,1%, Anh 1,5%...), điều chỉnh tỷ giá
(đồng Rúp của Nga giảm 20%, đồng Won của Hàn Quốc giảm 35%), đồng Bat của Thái Lan giảm 15%,…)4, và bơm tiền vào hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo tính
thanh khoản, thúc đẩy lƣu thông tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, nhất là các
ngành kinh tế then chốt nhƣ xuất khẩu, sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ bản.
Tháng 10/2008, lãnh đạo các nƣớc công nghiệp G7 đề xuất việc tái cấp vốn cho hệ
thống ngân hàng. Tại Mỹ, Bộ tài chính đã bỏ ra 250 tỉ đô la bơm vốn vào 9 ngân
hàng lớn nhất, Anh bỏ ra 88 tỉ đô la trong một gói cứu nguy 350 tỉ đô la để “quốc
hữu hóa” ba ngân hàng lớn nhất (RBS, Lloyds và HBOS), Đức cũng chi ra 68 tỉ đô
la để giải cứu ngân hàng Hypo Real Estate, Hàn Quốc bỏ ra 130 tỉ đô la công bố gói
cứu nguy các ngân hàng, tiếp theo là Hà Lan 13,4 tỉ cứu ngân hàng ING, Thụy Điển
205 tỉ đô la, và liên minh ngân hàng của Bỉ- Hà Lan- Luxembourg thì phải lo giúp
đỡ tập đoàn tài chính Fortis vốn là một đối tác kinh doanh ngoại tệ và không lạ lẫm
gì với các ngân hàng của Việt Nam,… 94 . Lợi dụng tình trạng đồng tiền dự trữ
của họ, một số ngân hàng trung ƣơng cam kết, ít nhất là có điều kiện, để duy trì mức
lãi suất thấp trong thời gian dài. Những động thái này trái ngƣợc với những nỗ lực
của ngân hàng trung ƣơng trong cuộc khủng hoảng trong quá khứ, ở đó tỷ giá danh
nghĩa đƣợc giữ cao hoặc đôi khi thậm chí còn tăng lên để hỗ trợ tiền tệ. Trong cuộc
khủng hoảng gần đây, lãi suất chính sách thấp và thanh khoản cho phép các ngân
hàng duy trì lợi nhuận trung gian của họ mặc dù chi phí cao hơn các kinh phí khác.
Chính sách tiền tệ cũng giúp hỗ trợ giá trị tài sản tổng thể, làm giảm nguy cơ của nợ
giảm phát bất lợi, và các khoản nợ xấu hạn chế, ít nhất là ở bƣớc đầu, từ đó bảo vệ
một số các dòng lợi nhuận của các ngân hàng và bảng cân đối mặc dù thua lỗ về
chứng khoán giao dịch.
4 Tổng hợp của Thời báo kinh tế Sài Gòn trên New York Times, 25/12/2009
96
Chính sách hỗ trợ tài khóa có ý nghĩa quan trọng trong việc duy trì tổng cầu và
giá trị tài sản, do đó gián tiếp hỗ trợ các tổ chức tài chính. Cải thiện điều kiện ban
đầu cho phép thâm hụt tài chính lớn hơn trong cuộc khủng hoảng trong quá khứ, hầu
hết các nhà hoạch định chính sách đã lựa chọn cho phép tự động ổn định để hoạt
động. Bằng cách hỗ trợ tổng cầu, kích thích tài chính đã giúp giảm dự kiến vay ngân
hàng và do đó các ngân hàng giảm nhu cầu tái cơ cấu vốn. Cách tiếp cận này cũng
khác nhau so với cách tiếp cận trong cuộc khủng hoảng trong quá khứ, khi chính
sách tài khóa thất thƣờng. Hơn nữa, phản ứng chính sách tài chính đƣợc phối hợp
nhiều hơn giữa các quốc gia hơn trong quá khứ, tiếp tục giúp để hỗ trợ nền kinh tế.
2.1.1.3. Tái cấu trúc các tổ chức tài chính nhằm từng bước khôi phục và thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh- thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong một cuộc khủng hoảng điển hình, nợ xấu tăng lên mạnh, thậm chí trƣớc
khi khởi phát của nó, vì các ngân hàng thừa nhận sự suy giảm dự kiến trong khả
năng trả nợ của công ty và hộ gia đình. Trong khi cuộc khủng hoảng gần đây bộc lộ
các đặc tính của một sự sụp đổ điển hình sau một sự bùng nổ, sự gia tăng trong
khoản nợ xấu đƣợc thể hiện ít rõ ràng hơn. Một phần vì lý do này, cơ cấu lại tài sản
trong cuộc khủng hoảng gần đây đã đƣợc hạn chế hơn trong quá khứ. Chuyển dịch
cơ cấu đề cập đến hai quá trình. Thứ nhất, chẩn đoán giá trị của các khoản vay và
đầu tƣ của ngân hàng, nêu rõ giá trị của chứng khoán tại mức giá thị trƣờng chứ
không phải là chi phí mua lại, trích lập dự phòng và dự kiến một phần của các
khoản vay không trả đƣợc, cũng có thể bán ra chứng khoán và các khoản vay, và
giảm nợ của các tổ chức. Thứ hai, đảm bảo rằng các điều kiện tài chính của khách
hàng vay là an toàn và đáng tin cậy. Điều này thƣờng liên quan đến cả việc cơ cấu
lại tài chính (gia hạn đáo hạn vốn vay, giảm lãi suất và số tiền nợ) và chuyển dịch
cơ cấu hoạt động (bán tài sản, giảm lao động và chi phí hành chính và các loại
tƣơng tự).
Ví dụ: Tại Thụy Điển, các cơ quan chức năng phản ứng với các dấu hiệu ban đầu
của sự căng thẳng tài chính vào mùa thu năm 1990 với một loạt các biện pháp can
thiệp đặc biệt. Khi những biện pháp không thể khôi phục lại sự ổn định, một cơ
quan giải quyết về ngân hàng mới đƣợc thành lập nhằm đối phó toàn diện với cuộc
97
khủng hoảng. Cơ quan đánh giá tình hình tài chính của các ngân hàng gặp khó khăn
trên cơ sở hƣớng tới tƣơng lai, phân loại ngân hàng thành 2 loại là có khả năng
thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán, buộc các cổ đông phải tái cơ cấu vốn ở
các ngân hàng có khả năng thanh toán và nắm quyền kiểm soát các ngân hàng
không có khả năng thanh toán. Công ty quản lý tài sản (AMC) đã đƣợc thiết lập cho
hai ngân hàng quốc hữu hoá, và vấn đề tài sản, đặc biệt là bất động sản vay vốn,
đƣợc chuyển giao cho AMCs. Quá trình này tạo điều kiện cho sự trở lại của nhà đầu
tƣ, đầu năm 1993, sự tự tin trong hệ thống tài chính bắt đầu hồi phục.
Kinh nghiệm của Thụy Điển cung cấp các bài học hữu ích cho cuộc khủng
hoảng gần đây nhƣng cần phải đƣợc đặt trong ngữ cảnh (xem thêm Klingebiel,
2000).Chi phí tài chính cuối cùng tƣơng đối nhỏ, tổng cộng chỉ có 4% của GDP,
một phần là do sự phục hồi kinh tế toàn cầu và những lợi ích cạnh tranh của sự mất
giá 30% của đồng tiền này. Vấn đề tài sản chủ yếu là các khoản cho vay bất động
sản thƣơng mại và dân cƣ tƣơng đối đơn giản, và các ngân hàng hoạt động trong
nƣớc hơn là qua biên giới. Những tính năng này tạo điều kiện cho sự xác định giá trị
nhanh chóng và sự tiếp cận tập trung chuyển dịch cơ cấu và quản lý tài sản do Nhà
nƣớc tài trợ, đó không phải là đặc điểm của cuộc khủng hoảng gần đây.
Tại Nhật Bản, một cuộc KHTC đã đƣợc kích hoạt vào năm 1995 khi một số
ngƣời gửi tiền khu vực thất bại. Các nhà chức trách phản ứng với tính thanh khoản
khẩn cấp và chính phủ bảo lãnh các khoản nợ ngân hàng. Đề án tái cơ cấu vốn trong
năm 1998 và 1999 không thể khôi phục lại sự tự tin, và trong khi chính sách tỷ lệ lãi
suất bằng không (thông qua trong tháng 2 năm 1999) và nới lỏng định lƣợng (giới
thiệu vào đầu năm 2001 và tăng lên đáng kể trong năm 2002) cuối cùng nới lỏng
vấn đề thanh khoản, chúng lại không giải quyết đƣợc nguyên nhân gốc rễ của cuộc
khủng hoảng – về khả năng thanh toán chắc chắn của các ngân hàng.
Vào mùa thu năm 2002, chính quyền cuối cùng đã phải thiết lập các mục tiêu
định lƣợng cho việc xử lý các khoản nợ xấu và tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt với
dự phòng tiêu chuẩn. Cùng với hai AMCs đƣợc thành lập để củng cố giá tài sản, các
biện pháp này cuối cùng đã giúp phục hồi sự ổn định.
98
Dù hoàn cảnh đặc biệt của họ, những kinh nghiệm tƣơng phản của Thụy
Điển và Nhật Bản đƣa ra hai cảnh báo quan trọng về quản lý các cuộc KHTC: một
là chậm trễ trong việc công nhận các khoản vay có thể làm trầm trọng thêm cuộc
KHTC, hai là việc hoãn thu hồi. Thực hành kế toán yếu kém, sự cho hoãn nợ theo
quy định có thể làm giảm sự khuyến khích cho hành động khắc phục hậu quả, duy
trì sự không chắc chắn về giá trị tài sản và khả năng thanh toán, và cản trở việc hình
thành giá. Việc cung cấp tính thanh khoản có thể giảm thiểu những tác động trực
tiếp của một cuộc khủng hoảng hệ thống, trong khi đó lại che lấp đi những vấn đề
cơ bản trong hệ thống ngân hàng. Nếu không có biện pháp toàn diện để nhận ra thiệt
hại và giải quyết sự thiếu hụt vốn, việc cung cấp mở rộng khả năng thanh khoản đặc biệt có thể trì hoãn việc chuyển dịch cơ cấu cần thiết5.
Trong những giai đoạn gần đây, nhiều nƣớc áp dụng cơ cấu lại tài sản trên cơ
sở từng trƣờng hợp cụ thể, với sự cứu trợ đƣợc cung cấp chủ yếu thông qua bảo
lãnh đối với một suy giảm lớn trong giá trị tài sản (nhƣ Đạo luật phục hồi và tái đầu
tƣ nƣớc Mỹ, trị giá 787 tỷ USD). Trong cuộc khủng hoảng gần đây so với giai đoạn
trƣớc, chẳng hạn nhƣ các cuộc khủng hoảng ở Bắc Âu và châu Á, có ít tài sản hơn
đã đƣợc loại bỏ khỏi bảng cân đối của các tổ chức tài chính thông qua công ty quản
lý tài sản công (AMC công cộng) hoặc các chƣơng trình khác. Một ngoại lệ quan
trọng là Ireland, nơi các khoản cho vay với giá trị sổ sách tƣơng đƣơng với 44%
GDP đã đƣợc chuyển giao cho một AMC công cộng. Chịu ảnh hƣởng của tình trạng
gia tăng việc giảm giá trị sổ sách và thua lỗ tín dụng, Mỹ và một số quốc gia châu
Âu đã theo đuổi chiến lƣợc can thiệp vào các ngân hàng trong đó có giải pháp sắp
xếp để các đối tác mạnh tiếp quản các công ty yếu kém (nhƣ Bear Stearns, HBOS,
Wachovia), hỗ trợ bảo hộ (nhƣ Fannie Mae, Freddie Mac), tịch biên thế nợ (nhƣ
Lehman Brothers, Washington Mutual), và quốc hữu hóa (nhƣ Northern Rock,
Bradford & Bingley). Trong khi Cục Dự trữ Liên bang và các ngân hàng trung ƣơng
khác cũng mua số lƣợng lớn chứng khoán tƣ nhân để hỗ trợ thị trƣờng mục tiêu,
những nỗ lực này không nhằm mục đích trực tiếp vào việc tái cơ cấu tài sản mà ban
đầu chỉ là giải pháp mang tình tình thế để ứng cứu các tổ chức cụ thể- đƣợc các
thành viên tham gia thị trƣờng cho là sẽ có rủi ro đổ vỡ xảy ra với niềm tin rằng hệ 5 Theo Reuters 4-8-2010
99
thống tài chính về cơ bản vẫn đủ khả năng chi trả. Tuy nhiên, sau đó, đặc biệt từ
cuối năm 2008, những can thiệp kiểu nhƣ vậy mang dáng dấp các gói cứu trợ cho
toàn ngành. Trong một số trƣờng hợp, hình thức cứu trợ này dẫn đến việc Chính
phủ trở thành cổ đông chính của các tổ chức tài chính hiện vẫn thuộc khu vực tƣ
nhân (ví dụ nhƣ AIG, Citigroup, Royal Bank of Scotland).
Một số quốc gia đã tuyên bố các chƣơng trình giải quyết những vấn đề lộ diện
trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Phần lớn các quốc gia đều hƣớng mục
tiêu đến các tài sản chất lƣợng cao hơn và do vậy không đặc biệt nỗ lực làm sạch
ngân hàng khỏi các vấn đề này. Chỉ một số nƣớc nỗ lực giải quyết các tài sản gặp
vấn đề một cách trực diện. Ví dụ, Mỹ gần đây đã tuyên bố Chƣơng trình Đầu tƣ
Công- Tƣ qua đó Chính phủ sẽ đồng tài trợ và bảo đảm cho các nhà đầu tƣ tƣ nhân
mua lại các tài sản gặp vấn đề (cả vốn vay và chứng khoán) của các ngân hàng. Đức
tuyên bố một kế hoạch phân tách các tài sản xấu thành các phƣơng tiên riêng biệt tại
từng ngân hàng bằng việc áp dụng các hình thức bảo đảm Nhà nƣớc. Ai Len dự tính
thiết lập riêng một “ngân hàng xấu” của ngành để tiếp nhận các khoản vay gặp vấn
đề của các ngân hàng Ai Len. Một vài quốc gia khác đã chuyển những tài sản nhƣ
vậy thành các phƣơng tiện riêng biệt nhƣ một phần trong nỗ lực làm sạch các ngân
hàng trong nƣớc (nhƣ trƣờng hợp UBS tại Thụy Sĩ).
So với các cuộc khủng hoảng khác, chi phí để ứng phó và khắc phục những
tổn thất của cuộc khủng hoảng 2008 cho đến nay là rất lớn. Hiện tại, tổng số tiền
các nƣớc đƣa ra cho các kế hoạch đã vƣợt quá 10.000 tỷ USD. Chi phí của cuộc
khủng hoảng có thể đƣợc đánh giá theo những cách khác nhau. Chúng bao gồm các
chi phí tài chính trực tiếp, bao gồm chi tiêu trực tiếp để hỗ trợ hệ thống tài chính và
giải quyết các tài sản nợ xấu, chi phí tài chính rộng lớn hơn, đó là sự gia tăng nợ
công trên một số mức đƣợc chọn (trong đó bao gồm chi phí tài chính trực tiếp), và
sản lƣợng thực tế thiệt hại.
2.1.2 Chính sách kích thích kinh tế và tạo việc làm
Thứ nhất: Công bố các gói kích thích cầu nhằm ổn định kinh tế, cố gắng duy
trì và tạo việc làm thông qua chi tiêu cho xây dựng hạ tầng cũng như việc giảm thuế
và trợ cấp.
100
Quy mô và mục tiêu của các gói kích cầu cũng nhƣ là chi tiêu chống chu kỳ là
khác nhau tại mỗi quốc gia, nó bao gồm việc tăng chi tiêu công, đầu tƣ cho kết cấu
hạ tầng cũng nhƣ cắt giảm thuế và trợ cấp cho nhu cầu của các cá nhân, các hãng.
Giữa cuối năm 2008 đến nay, các gói kích cầu đầu tƣ và tiêu dùng nội địa đƣợc
thông qua ở 59 quốc gia bao gồm cả những nƣớc đã và đang phát triển (Mỹ, Nhật,
Pháp, Anh là những quốc gia đứng đầu trong việc chi tiền mặt để kích cầu nền kinh
tế). Ở Mỹ, tối ngày 17/2/2009, Tổng thống Mỹ đã ký đạo luật Phục hồi và tái đầu tƣ
nƣớc Mỹ với gói kích thích kinh tế khổng lồ trị giá 787 tỷ USD; Ở Nhật Bản: tháng
12 năm 2008, Chính phủ thông qua gói kích cầu 235 tỷ USD nhằm giúp đỡ cho các
công ty tài chính vừa và nhỏ, đồng thời hỗ trợ tài chính cho các hộ gia đình, hỗ trợ
chính quyền địa phƣơng. Trƣớc đó, Chính phủ đã công bố gói hỗ trợ các hộ gia đình
trị giá 20 tỷ USD; Ở Đức: tháng 2/ 2009, Chính phủ công bố gói kích thích 36 tỷ
USD hỗ trợ các công ty sản xuất ô tô, hỗ trợ các gia đình có con nhỏ (130 Usd/trẻ
nhỏ); Ở Trung Quốc: Ngày 9/11/2008, Chính phủ đã công bố gói kích thích kinh tế
trị giá 586 tỷ USD nhằm ngăn chặn tác động của KHTC. Mục đích là cân bằng lại
động cơ tăng trƣởng của nền kinh tế, giảm dần sự phụ thuộc vào xuất khẩu mà thay
vào đó là tập trung kích cầu nội địa; Ở Ấn Độ: Từ tháng 1 năm 2009, Chính phủ
quyết định áp dụng gói kích thích kinh tế 61 tỷ đô la trong đó có 4 tỷ USD nhằm hỗ
trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu, hỗ trợ việc tìm kiếm thị trƣờng mới, hỗ trợ
doanh nghiệp sản xuất ô tô, khuyến khích các cơ quan Nhà nƣớc thay xe cũ bằng xe
mới; tại Malaixia: tháng 2/ 2009, Chính phủ công bố gói kích thích 2 tỷ USD để cải
cách thủ tục hành chính và một phần hỗ trợ cho ngƣời dân; Ở Thái Lan: tháng
2/2009, Chính phủ thông qua gói kích thích kinh tế trị giá 13 tỷ USD, chủ yếu hỗ
trợ các tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc, một phần hỗ trợ tiền điện, nƣớc cho công nhân
có thu nhập thấp, tăng thêm lƣơng hƣu… 84
101
Bảng 2.1: Các gói kích thích kinh tế của các nước
Nƣớc Gói kích thích GDP 2007 Tỷ lệ/GDP (%)
kinh tế (Tỷ USD) (Tỷ USD)
Mỹ 878 13.483 6,0
Trung Quốc 586 3.218 18,2
Nhật 275 4.384 6,3
Nga 250 1.289 19,4
Đức 81 3.197 1,2
Ấn Độ 61 1.099 5,6
Anh 30 2.773 1,1
Pháp 26 2.560 1,3
Tây Ban Nha 14 1.439 1,0
(Nguồn: IMF, tháng 2/2009)
Nhìn chung, các khoản chi trong gói kích cầu có thể chia thành ba dạng, dạng
đầu tƣ vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đào tạo, nhằm tăng việc làm, thu nhập cho
lao động, tăng sức mua hàng hóa nhƣng lâu dài là để tạo nền tảng hạ tầng vững chắc
và nhân lực cho phát triển kinh tế trong tƣơng lai. Dạng thứ hai, bảo lãnh tín dụng,
mua lại các tập đoàn quan trọng đối với nền kinh tế có nguy cơ phá sản, nhằm tránh
tạo ra phản ứng dây chuyền nguy hại cấp bách đến nền kinh tế. Dạng thứ ba, cho
không ngƣời dân, thông qua giảm thuế, trợ cấp, tăng nhu cầu có khả năng thanh
toán cho tầng lớp này, về mặt xã hội qua đó đảm bảo an sinh, khắc phục hậu quả
suy thoái kinh tế đe dọa tầng lớp thu nhập thấp.
(Ví dụ, trong vòng hai năm 2009-2010 Mỹ chi tới 819 tỉ đô la, Nhật 95 tỉ đô la,
Đức 49,25 tỉ euro, Pháp 26 tỉ euro, Anh 23 tỉ euro… Trung Quốc cắt giảm khoảng
17,6 tỷ USD thuế giá trị gia tăng đối với các ngành công nghiệp,…), giảm thuế nhập
khẩu các nguyên liệu đầu vào sản xuất (Malaixia giảm 5% thuế nhập khẩu đối với 7
loại phân bón, bỏ thuế nhập khẩu xi măng, sắt thép), giảm thuế cho các ngành dịch
vụ sử dụng nhiều lao động (EU), kích thích thị trƣờng bất động sản tăng trƣởng trở
lại thông qua nới lỏng các quy định xây dựng các khu chung cƣ (Hàn Quốc), mở
rộng điều kiện cho ngƣời nƣớc ngoài mua bất động sản và xây dựng căn hộ dành cho
102
ngƣời có thu nhập thấp (Malaixia, Trung Quốc), mở rộng các khoản cho vay miễn
thuế để mua nhà (Nhật Bản), nâng tỷ lệ cho vay bất động sản, giảm và miễn thuế
kinh doanh nhà ở (Nhật Bản, Trung Quốc). Chi tiêu công đa phần chiếm tỷ trọng lớn
trong các gói kích cầu ở các nƣớc đang phát triển trừ trƣờng hợp Zambia tập trung
vào giảm thuế mạnh cho ngành khai mỏ. Tại Châu Phi, mặc dù nhiều nƣớc phản ứng
với một cách thức tƣơng tự nhƣ trong cuộc khủng hoảng lần trƣớc nhƣng lần này họ
đã tránh việc can thiệp vào hoạt động thƣơng mại.
Chi tiêu cho xây dựng hạ tầng chiếm phần lớn trong chi tiêu của Chính phủ
Mỹ (chủ yếu để đầu tƣ vào xây dựng cầu đƣờng và các công trình công cộng), Nhật,
Đức (xây dựng đƣờng giao thông liên bang, trƣờng học, bệnh viện, các cơ sở công
cộng địa phƣơng ), Anh (chủ yếu dành cho xây dựng nhà ở), Argentina, Trung
Quốc, và các quốc gia đƣợc mệnh danh là con hổ châu Á. Ví dụ, từ năm 2009-2010
riêng chỉ chƣơng trình tạo 100.000 việc làm đã tốn hàng tỉ euro của Anh, Tây Ban
Nha đã chi tới 8 tỉ trong 11 tỉ euro kích cầu cho dự kiến tạo ra 300.000 việc làm
trong năm 2009 trong các lĩnh vực xây dựng và công trình công cộng 84 . Việc duy
trì chi tiêu cho kết cấu hạ tầng là rất quan trọng (nhƣ tạo việc làm, tránh các sửa
chữa tốn kém cho hạ tầng cứng trong tƣơng lai, duy trì thị trƣờng và khả năng tiếp
cận thông tin cho cuộc sống của ngƣời dân ở khu vực xa xôi), đồng thời những dạng
chi tiêu nhƣ vậy lại làm lợi trực tiếp cho những cộng đồng bị ảnh hƣởng.
Trong phần lớn các trƣờng hợp, chi tiêu cho kết cấu hạ tầng đƣợc thực hiện ở
quy mô rộng, không nhằm vào những nhu cầu cụ thể của cộng đồng hoặc không
đƣợc thiết kế riêng để tạo việc làm cho ngƣời phụ nữ. Kế hoạch quốc gia đảm bảo
lao động nông thôn ở Ấn Độ và Chƣơng trình nâng cao sức mạnh cộng đồng ở
Indonesia (PNPM) là những ngoại lệ đáng chú ý. Tổ chức ILO tính toán rằng, nếu
nhƣ những gói kích cầu hiện tại đƣợc duy trì và tập trung tốt hơn cho những dạng
việc làm thích hợp (nhƣ khuyến nghị của báo cáo Global Job Pact của ILO
(International Labour Organization)) thì việc làm toàn cầu sẽ tăng thêm 7% 88 .
Thứ hai: Khởi động một loạt các chương trình hỗ trợ việc làm bao gồm: Tăng
cường các chương trình việc làm có đối tượng là người nghèo và mở rộng các biện
pháp đào tạo và dạy nghề cho giới trẻ.
103
Tại khu vực Mỹ La Tinh các quốc gia đã khởi động một loạt các chƣơng trình hỗ
trợ việc làm bao gồm: Tăng cường các chương trình việc làm có đối tượng là người
nghèo: Uruguay (đối tƣợng: ngƣời lao động có tuổi thất nghiệp trong thời gian dài)
Peru (ngƣời trẻ tuổi thu nhập thấp) Mexico (vùng nghèo đói), Chile (vùng có mức thất
nghiệp cao), Cộng hòa Dominica (các hộ gia đình thu nhập thấp). Mở rộng các biện
pháp đào tạo và dạy nghề cho giới trẻ: các chƣơng trình đào tạo của Argentina,
Colombia, và Cộng hòa Dominica cùng với chƣơng trình nghề của Peru 95 .
Các gói kích cầu và chính sách đối phó khác ở khu vực Đông Nam Á tập trung
tƣơng đối mạnh vào tạo việc làm. Đầu tƣ vào kết cấu hạ tầng là cách chung để tạo
việc làm ở tất cả các quốc gia. (Campuchia, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Đông
Timor đã đƣợc nhận các khoản vay từ ADB để tài trợ cho các dự án xây dựng chủ
yếu là đƣờng sá, hệ thống nƣớc và các dự án sử dụng nhiều lao động và ở quy mô
vừa phải ).
Theo nhƣ ILO (International Labour Organization) dự đoán, một sự rút lui
sớm của các gói kích cầu sẽ trì hoãn quá trình tạo việc làm và làm tăng rủi ro mất
việc trong dài hạn cũng nhƣ tăng rủi ro về sự loại trừ khỏi thị trƣờng lao động hay
phi chính thức hóa việc làm (ngƣời lao động mất việc chuyển sang các dạng công
việc trên thị trƣờng phi chính thức nhƣ bán dạo, lau dọn nhà cửa...). Một số chính
phủ đã khởi động những dịch vụ đào tạo và học nghề nhằm hỗ trợ cho các công
nhân bị thôi việc, mặc dầu các hoạt động này tính thực tiễn chƣa cao.
2.1.3. Chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
Thứ nhất: Bảo đảm việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo.
Xây dựng một nền an sinh xã hội cơ bản bao gồm từ việc tiếp cận dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, bảo đảm thu nhập cho ngƣời già, ngƣời tàn tật, lợi ích của trẻ
em, và các chƣơng trình việc làm công cộng cho những ngƣời thất nghiệp hoặc ít có
việc làm là mục tiêu đặt ra trong chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trong
cuộc KHTC toàn cầu 2008. Chƣơng trình Bolsa Familia của Brazil là một ví dụ khi
mà nó đã mở rộng phạm vi đối tƣợng tới gần 1 triệu hộ gia đình trong tổng số 12
triệu hộ ở Brazil.
104
Ngay cả trong thời kỳ tốt đẹp thì một hệ thống an sinh xã hội dựa trên bình
đẳng giới và phân tích kỹ càng tác động đến những ngƣời nghèo là vô cùng cần
thiết. Đối với một số ngƣời, họ phải đấu tranh dai dẳng với đói nghèo và tổn thƣơng
do thiếu lƣơng thực và những thứ cơ bản do nó gây ra, và những cơn sốc đại loại
nhƣ cuộc khủng hoảng lần này sẽ chồng chất thêm những tổn thƣơng mà họ đang
phải chịu. Cuộc khủng hoảng lần này nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục các
chƣơng trình an sinh xã hội không chỉ giúp mọi ngƣời vƣợt quá thời kỳ đau buồn
trƣớc mắt mà còn giúp tiếp tục hỗ trợ những khu vực nghèo khổ chỉ cần sống sót
ngày này qua ngày khác. Nhiều chính phủ trong các khu vực khác nhau đã thực hiện
một chính sách kết hợp giữa trợ cấp tiêu dùng và hỗ trợ cho các gia đình nghèo. Trợ
cấp tiêu dùng bao gồm trợ cấp các khoản chi cho năng lƣợng, lƣơng thực, giao
thông và điện năng. Hỗ trợ hộ gia đình nghèo chủ yếu hƣớng đến các nhóm dễ bị
tổn thƣơng với các hỗ trợ về nhà ở, chăm sóc sức khỏe và giáo dục
Một đánh giá của WB lƣợng hóa những tác động của khủng hoảng lên Châu Á
phát hiện ra rằng, ngoại trừ trƣờng hợp của Mông Cổ nơi mà gia đình có trẻ em đều
đƣợc trả tiền trợ cấp theo tháng và quý thì những hộ gia đình với thu nhập thấp
dƣờng nhƣ không thể tiếp cận với các cơ chế bảo vệ xã hội chính thức. Các chƣơng
trình hỗ trợ tiền học phí hoặc miễn phí cho bậc giáo dục tiểu học đã giúp các hộ gia
đình trong việc tiếp tục cho con đi học ở các quốc gia nhƣ Indonesia, Thailan, Việt
Nam và Campuchia 95 . Có nguy cơ cho thấy những chƣơng trình mới đƣợc xây
dựng để đối phó với cuộc khủng hoảng lần này có thể sẽ hủy hoại những đối tƣợng
dài hạn, vì thế một kết quả có lợi hơn sẽ ra đời nếu các chính sách có thể vừa tập
trung vào nhóm đối tƣợng trong dài hạn đồng thời giải quyết những tác động tức
thời của khủng hoảng, di chuyển một cách tiến bộ từ chính sách đối phó ngắn hạn
sang các chính sách an sinh dài hạn hơn.
Thứ hai: Trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất, cho các nhóm có hoàn
cảnh khó khăn.
Việc phát triển nền tảng an sinh xã hội phổ cập đã đƣợc triển khai ở vài khu
vực, và những biện pháp an sinh xã hội với độ bao phủ đến cả khu vực kinh tế phi
chính thức mới chỉ tồn tại ở 1/3 các quốc gia đang phát triển 89 . Nghiên cứu gần
105
đây của ODI trên 10 quốc gia đang phát triển cho thấy các điều luật về an sinh xã
hội hiện tại ở các quốc gia này rất manh mún với độ bao phủ thấp chỉ đến đƣợc với
một tỷ lệ nhỏ những ngƣời nghèo. Mặc dù vậy, nhiều Chính phủ đã nỗ lực mở rộng
phạm vi hoặc tiến hành các dự án an sinh xã hội mới nhằm đối phó với khủng
hoảng. Mỹ đã chi khoảng 257 tỉ đô la cho việc giảm thuế và trợ cấp ngƣời nghèo,
đồng thời số giờ làm việc bình quân đã giảm xuống 33,3 giờ (thấp nhất kể từ năm
1964), Đức chi gần 17 tỉ Euro trợ cấp lao động nghỉ việc do thời vụ, tăng nhân viên
quản lý Nhà nƣớc, đào tạo nhân công, giảm thuế thu nhập, giảm phí bảo hiểm sức
khỏe, Anh là nƣớc đầu tiên trong EU tiến hành tăng thuế nhà giàu và giảm thuế thu
nhập cho ngƣời nghèo. Chính phủ Nhật tiến hành giảm thuế để khuyến khích doanh
nghiệp chuyển công nhân “hợp đồng” thành công nhân “biên chế”, đƣa những
ngƣời thất nghiệp ở đô thị về nông thôn làm việc ở các trang trại, trả tiền cho chủ
công ty để những công nhân bị mất việc có thể tiếp tục cƣ trú trong các ký túc xá
công nhân và giúp vốn để những ngƣời này khởi xự doanh nghiệp mới. 88 . Tại
khu vực Trung Mỹ và Caribe, các khoản trợ cấp tiêu dùng thông thƣờng (tiêu dùng
cho lƣơng thực, nhiên liệu, vận tải và năng lƣợng) đã trở thành nhân tố quan trọng
trong các chính sách đối phó, trong khi đó ở Nam Mỹ các chƣơng trình này hƣớng
tới giúp đỡ các nhóm dễ bị tổn thƣơng và hộ gia đình nghèo. Trong một bản khảo
sát về việc làm và các biện pháp an sinh xã hội đƣợc triển khai để đối phó với
KHTC vào giữa tháng 6 năm 2008 đến tháng 7 năm 2009 ở 54 quốc gia, ILO phát
hiện ra rằng tất cả các quốc gia này đều ƣu tiên cho đầu tƣ cơ sở hạ tầng để kích cầu
thị trƣờng lao động. Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình cũng đầu tƣ cho
các dự án xã hội mở rộng, trong khi các quốc gia thu nhập cao hơn lại chi nhiều cho
các chính sách về lao động. Ở các nƣớc thu nhập thấp và trung bình thấp có tăng trợ
giúp cho các hộ nghèo, những khoản chuyển giao thu nhập thêm theo ILO, có xu
hƣớng nhắm tới đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng nhất bao gồm ngƣời tàn tật, những ngƣời túng quẫn, di cƣ lao động trở về, góa phụ và những ngƣời phụ nữ cùng khổ.6
6 'Protecting People. Promoting Jobs’, ILO report at the G20 Leader’ Summit, Pittsburgh, 24-25 September 2009.
106
2.1.4. Phối hợp quốc tế để ứng phó.
Thứ nhất: Tổ chức khẩn cấp các diễn đàn khu vực và quốc tế để họp bàn xoay
quanh việc tìm kiếm các giải pháp ứng phó với khủng hoảng và vực dậy nền kinh tế
toàn cầu sau khủng hoảng.
Do quá trình toàn cầu hóa, các nền kinh tế ngày càng mang tính tƣơng thuộc
và có ảnh hƣởng lẫn nhau, nên không ai là ngƣời ngoài cuộc. Trong các cuộc khủng
hoảng quá khứ, chính sách của các tổ chức tài chính quốc tế đôi khi làm trầm trọng
thêm các tác động của khủng hoảng, ví dụ nhƣ việc áp đặt cắt giảm chi tiêu để đảm
bảo cân bằng ngân sách, điều kiện cho vay khắc nghiệt và các chính sách không phù
hợp khác. Lần này, ở cấp độ khu vực, các quốc gia thuộc từng khu vực khác nhau
đều nỗ lực phối hợp cùng nhau trong phạm vi khu vực thông qua các thiết chế khu
vực đang hiện hữu hoặc thiết lập mới để ứng phó với khủng hoảng.
Thực tế trong bốn năm qua, từ khi dấu hiệu của một cuộc KHTC toàn cầu xuất
hiện, thì đã có nhiều hoạt động thể hiện sự nỗ lực phối hợp giữa các quốc gia, khu
vực, tổ chức quốc tế ngăn chặn đà suy thoái kinh tế và mức độ lan rộng của KHTC.
Ngay sau khi cuộc KHTC toàn cầu bùng phát tại Mỹ, hầu nhƣ tất cả chính phủ các
nƣớc và các tổ chức quốc tế đã nhanh chóng vào cuộc, đƣa ra hàng loạt các biện
pháp khẩn cấp cứu nguy nền kinh tế đồng thời tìm mọi giải pháp có thể để khắc
phục hậu quả của nó.
Tiêu biểu trong số đó, phải kể đến các Diễn đàn kinh tế thế giới, các Hội nghị
thƣợng đỉnh của G8, G20, của WTO, OECD, IMF, WB, các Hội nghị chống khủng
hoảng của Liên hợp quốc, APEC, EU, ASEAN và ASEAN+3,…Mặc dù, cho đến
tận bây giờ, không phải các tổ chức tài chính và quốc gia trên thế giới đã hoàn toàn
hiểu rõ và có đƣợc nhận thức thống nhất hoàn toàn về bản chất, quy mô, nguyên
nhân và tác động của cuộc khủng hoảng nhƣng những ý kiến trao đổi, phân tích tại
các hội thảo, diễn đàn đã góp phần đáng kể, tích cực và thực sự trong việc định hình
các quan điểm, các chính sách và hành động của các tổ chức toàn cầu, các chính
phủ và các doanh nghiệp trong việc tránh, khắc phục, giảm nhẹ tác động hay thoát
ra khỏi các khó khăn và khủng hoảng hiện nay.
Các thể chế khu vực cũng đang chứng tỏ sự nổi bật của mình một cách nhanh
chóng với ASEAN đảm nhận vai trò dẫn dắt ở Châu Á, và Liên đoàn Châu Phi ở
Châu Phi, tất cả đều gắn kết với G20.
107
Ngày 15/11/2008 G20 đã tổ chức cuộc họp triển khai các biện pháp ổn định hệ
thống tài chính quốc tế, và kiện toàn khung pháp lý quản lý hành chính. Ngày
02/04/2009 lãnh đạo các nƣớc G20 đã nhóm họp tại London đề xuất hai nhiệm vụ
chính là: kiềm chế cuộc hủng hoảng, và định hình thế giới sau khủng hoảng. Nghị
quyết của G20 xác định: “Chúng tôi cam kết sẽ làm tất cả những gì cần thiết để khôi
phục lại phát triển và tạo việc làm; chỉnh sửa hệ thống tài chính để khai thông nguồn
tín dụng; kiện toàn các quy chế tài chính để khôi phục lại lòng tin; cải cách các định
chế tài chính để khắc phục cuộc khủng hoảng hiện nay và tránh những cuộc khủng
hoảng về sau; thúc đẩy thƣơng mại toàn cầu và chống lại chủ nghĩa bảo hộ”.
Cho đến nay, đã có hàng trăm các diễn đàn khu vực và quốc tế đƣợc tổ chức
để họp bàn xoay quanh việc tìm kiếm các giải pháp ứng phó với khủng hoảng và
vực dậy nền kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng.
Thứ hai: Thành lập các Quỹ chống khủng hoảng cấp khu vực để giải cứu bất
kỳ nước thành viên nào gặp nạn vỡ nợ.
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và nhiều nền kinh tế thế giới đã phải phối hợp nguồn
lực tài chính lớn chƣa từng có và tất cả những biện pháp mạnh nhất để hỗ trợ thanh
khoản, ứng cứu hệ thống tài chính khỏi sụp đổ. Các nhà quản lý của 20 nền kinh tế
hàng đầu trên thế giới đã nhất trí với kế hoạch sử dụng hàng nghìn tỷ USD nhằm
khơi thông dòng chảy thƣơng mại, vực dậy đà tăng trƣởng của kinh tế thế giới.
Các gói cứu trợ và kích thích kinh tế khổng lồ của các nƣớc đã đƣợc thực thi.
Gói cứu trợ của Mỹ lên tới hơn 2.000 tỷ USD, Anh hơn 850 tỷ USD, Liên minh
châu Âu hơn 200 tỷ USD, Nhật Bản gần 260 tỷ USD, Hàn Quốc gần 150 tỷ USD.
Đặc biệt, các nƣớc ASEAN đã phối hợp cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ chung trị giá 80 tỷ USD vào cuối tháng 6 năm 2009 để
đối phó với khủng hoảng.
Hàng loạt các gói giải pháp đƣợc các tổ chức quốc tế, khu vực đƣa ra nhƣ;
Liên minh Châu Âu thành lập Quỹ chống khủng hoảng hay còn gọi là Quỹ bình ổn
Châu Âu, có sự hỗ trợ của IMF trị giá gần 1.000 tỷ USD để giải cứu bất kỳ nƣớc
thành viên nào gặp nạn vỡ nợ. Đồng thời, thông qua “Chiến lƣợc Châu Âu 2020” về
việc làm và tăng trƣởng kinh tế, cùng một loạt quyết định quan trọng tại Hội nghị
108
thƣợng đỉnh EU; FED và 4 ngân hàng Trung ƣơng lớn của các nƣớc phát triển
(Ngân hàng Trung ƣơng Anh (BOE), Ngân hàng Trung ƣơng Nhật Bản (BOJ),
Ngân hàng Trung ƣơng châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ƣơng Thụy Sĩ) thống
nhất hoán đổi tiền tệ mới với tổng trị giá 290 tỉ đô la, cho phép FED có khả năng
thanh toán bằng ngoại tệ cho các định chế tài chính Mỹ. 94 .
Thứ ba: Các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF) cho các quốc gia chịu tổn
thất nặng nề từ khủng hoảng vay thông qua các chương trình cứu trợ trọn gói.
Để ứng phó với khủng hoảng 2008, IMF, WB, G8, G20 đã thực hiện các
chƣơng trình hỗ trợ tài chính khẩn cấp cho các quốc gia chịu tác động mạnh của
khủng hoảng. Phân tích của Oxfam ở 40 quốc gia nghèo nhất cho thấy IMF bằng
nhiều cách đã giúp những nƣớc thu nhập thấp đối phó tốt hơn với khủng hoảng. Các
quốc gia tài trợ sẽ tăng lƣợng vốn khả dụng cho IMF lên 750 tỷ đôla Mỹ, mặc dầu
vậy số tiền này đƣợc dành phần lớn cho các nƣớc thu nhập trung bình chủ yếu là ở
Đông Âu. Các cải cách khác bao gồm tăng gấp đôi số tiền cho vay ƣu đãi đối với
các nƣớc thu nhập thấp và tiếp tục cải thiện các điều khoản cho vay đối với các
nƣớc nghèo nhất.
WB đã chuyển một lƣợng lớn tiền cho những nƣớc thu nhập trung bình bị tác
động bởi khủng hoảng. Một chi nhánh của WB là Ngân hàng tái thiết và phát triển
Quốc tế (IRBD) đã cho vay 33 tỷ đôla Mỹ trong năm 2009, so với 14 tỷ của năm
trƣớc đó 95 . Tuy nhiên, bất chấp việc đƣợc bơm thêm vốn trƣớc đó, ngân hàng
này đã không thể tăng đƣợc quy mô các khoản vay cho các nƣớc có thu nhập thấp.
Một phần là do tắc nghẽn về mặt kỹ thuật ở các nƣớc nhận, nhƣng phần lớn là do hệ
thống phân phối và giải ngân quá phức tạp của Ngân hàng này. Trong khi đó G8 và
G20 (cổ đông lớn của IRBD) lại đang nỗ lực cho phép củng cố các chƣơng trình an
sinh xã hội và giải quyết vấn đề lƣơng thực ở những nƣớc thu nhập thấp. Để thay
đổi điều này, ban giám đốc IRBD thời gian gần đây đã thông qua chính sách "cửa
số khủng hoảng" mới dành cho một chi nhánh cấp dƣới đó là Hiệp hội phát triển
quốc tế (IDA). Tổ chức này sẽ cho vay tiền rất nhanh mà không cần điều kiện, chỉ
cần nhìn vào nhu cầu và hƣớng tới những quốc gia có tốc độ tăng trƣởng bị tác
động nhiều nhất.
109
Hàng nghìn tỷ USD đã đƣợc các tổ chức tài chính quốc tế cho các quốc gia
chịu tổn thất nặng nề từ khủng hoảng vay thông qua các chƣơng trình cứu trợ trọn
gói. Hoặc để ngăn chặn cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đe dọa sự ổn định
của thị trƣờng tài chính toàn cầu, EU đã phê chuẩn gói cứu trợ với giá trị lên tới 750
tỷ Euro, IMF cũng đƣa ra gói cứu trợ tài chính gần 1 nghìn tỷ USD để ngăn chặn
khủng hoảng nợ của Hy Lạp. Về phía châu Âu, ngân hàng trung ƣơng châu Âu
(ECB) đã tiến hành những giải pháp đáng kể để chống lại cuộc khủng hoảng nợ và
thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Từ tháng 5/2010, ECB đã mua gần 220 tỷ Euro trái
phiếu quốc gia của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nƣớc gặp khó khăn
khác. Hiện nay, với mức vốn lên đến hơn 700 tỷ USD, các quan chức tài chính thế
giới cho rằng, họ sẽ tạo ra một “bức tƣờng lửa toàn cầu” nhằm ngăn cản cuộc khủng
hoảng nợ châu Âu…Cuộc họp G.20 gần đây cho thấy dấu hiệu của những nỗ lực
nhằm tái cấu trúc thị trƣờng toàn cầu, xác định lại vị trí của đồng đôla Mỹ, ngăn
chặn xu hƣớng bảo hộ dƣới nhiều hình thức của các nƣớc phát triển…Tuy nhiên, do
khủng hoảng vẫn chƣa chấm dứt, vì thế nhiệm vụ chính yếu là cần có sự phối hợp
mang tính cộng đồng nhằm đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới; một nền tài
chính toàn cầu dựa trên nền tảng một đời sống “kinh tế thực”, ngăn chặn sự lũng
đoạn của các tổ chức tài chính- tín dụng xuyên quốc gia tạo môi trƣờng thuận lợi
cho hoạt động đầu cơ trên thị trƣờng tài chính quốc tế.
Tóm lại, trong cuộc KHTC lần này, thành công lớn nhất trong việc phối hợp
hành động cho đến nay là đã giảm vai trò “điều hành” kinh tế thế giới của nhóm
“G8” sang vai trò của nhóm “G20”, và sự trỗi dậy liên tục về kinh tế cũng nhƣ
chính trị của Trung Quốc cùng tiếng nói của các nền kinh tế “mới nổi” nhƣ Ấn Độ,
Inđônêxia, Braxin, Nam Phi,…. (Xem thêm phụ lục 2)
2.2. Ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của một số quốc gia tiêu biểu
2.2.1. Các giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của Chính phủ
Hoa Kỳ
2.2.1.1. Bối cảnh nền kinh tế Mỹ trước tác động của KHTC toàn cầu.
Hầu nhƣ không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào, khủng hoảng cho vay thế
chấp dƣới chuẩn ở Mỹ đã bất ngờ nổ ra vào giữa năm 2007. Cuộc khủng hoảng này
110
có tác động mạnh đến cả hệ thống tài chính lẫn nền kinh tế thực đã kéo tốc độ tăng
trƣởng GDP của Mỹ năm 2008 xuống 1,1%. Đây là lần thứ ba trong vòng 10 năm
qua tốc độ tăng trƣởng GDP của Mỹ thấp hơn 2% sau sự kiện khủng bố 11/9. Trong
2 quý đầu năm 2008, tốc độ tăng GDP vẫn ở mức dƣơng (quý I: 0,9%; quý
II:2,8%). Dấu hiệu suy thoái kinh tế bắt đầu xuất hiện khi tốc độ tăng của hai quý
cuối năm 2008 tăng trƣởng ở mức âm (Biểu đồ 2). Dấu hiệu về một đợt suy thoái
kinh tế toàn cầu mới đã hiện hữu, khi tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế lớn thứ
nhất thế giới này trong quý IV/2008 tụt xuống mức -6,2%, là mức tăng trƣởng trong
Quý tồi tệ nhất trong suốt 20 năm qua.
Thua lỗ của hệ thống tài chính Mỹ có thể lên tới 3000 tỷ USD, với số lƣợng
các ngân hàng bị đổ vỡ, sáp nhập, giải thể hoặc quốc hữu hóa tăng nhanh chóng
(tính từ đầu năm 2008 đến 6/1/2009, ở Mỹ đã có 23 ngân hàng). Số ngƣời thất
nghiệp trong năm 2008 liên tiếp tăng qua các tháng. Chỉ tính riêng trong tháng
12/2008, số lao động mất việc làm ở Mỹ lên tới 11.108.000 ngƣời, tăng 6,03% so
với tháng trƣớc.
Giá cả bất động sản suy giảm mạnh mẽ, trong tháng 11/2008 giá bất động sản
giảm từ 21-51%. Số lƣợng nhà rao bán tăng do nhiều ngƣời không có khả năng
thanh toán khiến các ngân hàng bán ra mạnh hơn, tăng từ 15-90% 94 .. Trƣớc tác
động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế, các cơ quan điều tiết tài
chính của Mỹ, từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ủy ban Chứng khoán (SEC)
cho tới Bộ Tài chính đều đã phải vào cuộc nhằm giải quyết khủng hoảng.
2.2.1.2. Phản ứng của Cục dự trữ Liên bang (FED)
Thứ nhất: Bơm tiền giải cứu các ngân hàng và tổ chức tín dụng
Theo số liệu đƣợc công bố của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đăng tải trên
các phƣơng tiện thông tin đại chúng, cơ quan này đã phát hiện đƣợc vấn đề nóng
của hệ thống ngân hàng nên đã có các giải pháp xử lý tình trạng mất khả năng thanh
khoản của các ngân hàng lớn từ tháng 3/2008. Là cơ quan trực tiếp quản lý, điều
hành hệ thống tài chính của Mỹ, ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ
ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Để ngăn chặn một
cuộc KHTC toàn cầu hình thành nhanh chóng, ngân hàng trung ƣơng bơm ra thị
111
trƣờng tài chính của mình những khoản tiền khổng lồ. Ngày 17/3/2008, FED đã có
chính sách hỗ trợ nợ qua đêm của các tổ chức tài chính lớn. Ngày 27/3/2008 lại có
chính sách hỗ trợ cho vay chứng khoán kỳ hạn. Cũng trong tháng 3/2008, FED đã
cứu Bear Stearns (một ngân hàng đầu tƣ lớn) khỏi phá sản và thu xếp để J.P.
Morgan Chase (một ngân hàng với bảng cân đối kế toán lành mạnh) mua lại. Để
giao dịch này diễn ra thuận lợi, FED cùng với Bộ trƣởng Bộ Tài chính Henry
Paulson đã đứng ra đảm bảo cho khoản nợ tƣơng đƣơng 29 tỷ USD chứng khoán
của Bear Stearns. Nhƣ vậy, lần đầu tiên, việc cứu một ngân hàng tƣ nhân đã khiến
bảng cân đối kế toán của FED cũng nhƣ tiền thuế của ngƣời dân bị rủi ro. Trong
khuôn khổ của khoản cứu trợ cả gói, FED cũng đã mở cửa sổ chiết khấu cho các
ngân hàng đầu tƣ và các công ty môi giới chứng khoán. Đây là một quyết định chƣa
từng có trong lịch sử bởi vì điều lệ chỉ cho phép FED cho các ngân hàng thành viên
(chủ yếu là các ngân hàng thƣơng mại và các tổ chức tín dụng khác) vay. Các ngân
hàng đầu tƣ chƣa bao giờ là thành viên của FED kể từ khi Cục này đƣợc thành lập
vào năm 1913. Sự cứu nguy bất ngờ của FED đối với Bear Stearns và việc can thiệp
sâu của FED và Bộ Tài chính đã ngay lập tức khiến cho thị trƣờng “bình tĩnh” lại.
Thứ hai, tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các
tổ chức tài chính
Khi tình hình phát triển thành KHTC từ tháng 8 năm 2007, Cục dự trữ Liên
bang Hoa Kỳ đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh
khoản cho các tổ chức tài chính. Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra
và giao cho Fed chủ trì chƣơng trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay
ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài
chính trả qua đấu giá. FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất nhiều lần, từ mức 5,25%
vào tháng 8/2007 xuống còn 2% vào tháng 4/2008, lãi suất này sau đó còn tiếp tục
giảm tới mức chỉ còn 0,25%. Ngày 22/9/2008 Fed ban hành chính sách cho vay dựa
trên thƣơng phiếu đƣợc bảo đảm bằng tài sản. Ngày 1/10/2008 ban hành chính sách
trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng bắt đầu từ ngày 3/10/2008. Đây
đƣợc xem là bƣớc đi mới của Fed trong quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân
hàng. Đến 27/10/2008 Fed đã thành lập Quỹ thƣơng phiếu để mua lại một khối
112
lƣợng khổng lồ các thƣơng phiếu nhằm khai thông thị trƣờng vay vốn ngắn hạn của
các doanh nghiệp với mức mua mỗi tháng khoảng 150 tỷ đô la. Sau đó, FED đã
tuyên bố tạm dừng giảm lãi suất và thực hiện việc đánh giá những tác động của
chính sách tới thị trƣờng. FED cũng đã bơm một lƣợng tiền lớn vào lƣu thông qua
kênh nghiệp vụ thị trƣờng mở bằng cách mua trái phiếu kho bạc và tổ chức các
chƣơng trình đấu giá cho vay kỳ hạn để các ngân hàng có thể có đƣợc nguồn tiền
mặt cần thiết, tránh thiếu hụt thanh khoản. Điều này đã khuyến khích các ngân hàng
thƣơng mại vay mƣợn tự do thông qua cửa sổ chiết khấu bằng cách mở rộng danh
mục tài sản đảm bảo. Việc mở rộng danh mục tài sản đảm bảo đƣợc chấp nhận
giống nhƣ một hình thức hỗ trợ. FED cho phép một số ngân hàng đầu tƣ đƣợc phép
huy động vốn nhƣ ngân hàng thƣơng mại (NHTM) để giảm căng thẳng về vốn; nới
lỏng các quy tắc giao dịch giữa các ngân hàng và các nhà giao dịch môi giới
(broker- dealers). Đặc biệt, các chứng khoán đƣợc đảm bảo bởi các khoản cho vay
thế chấp cũng đƣợc chấp nhận vào danh mục tài sản đảm bảo. Tính đến tháng 11
năm 2008, đã có 300 tỷ dollar đƣợc FED đem cho vay theo chƣơng trình này. FED
còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng
tới 1,6 nghìn tỷ USD. Thực hiện các cam kết hoán đổi tiền tệ với các ngân hàng
Trung ƣơng các nƣớc phát triển nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Australia, Thụy
Sĩ…để đảm bảo thanh khoản USD trên thị trƣờng tiền tệ các nƣớc.
Từ ngày 01/01/2009 đến ngày 12/01/2009, Fed đã tập trung vào việc thu hẹp
chênh lêch lợi tức giữa Trái phiếu Kho bạc Mỹ và lãi từ hoạt động mƣa lại các
khoản nợ của doanh nghiệp và tiêu dùng do việc cắt giảm lãi suất xuống gần bằng
0% đã không có tác dụng gì trong việc kích thích tín dụng. Fed cũng có những biện
pháp mới kích thích tín dụng thông qua việc mua lại những khoản nợ và trái phiếu
mà các nhà đầu tƣ không muốn mua. Ngày 05/01/2009, Fed đã bắt đầu mua lại
những chứng khoán có tài sản đảm bảo do Fannie Mae, Freddie Mac phát hành.
Một trong những giải pháp gần đây mà Fed thực hiện là kế hoạch mua lại tài sản
trong chƣơng trình TARP (chƣơng trình hỗ trợ các tài sản xấu) trị giá 700 tỷ USD
kết hợp với việc bơm thêm vốn vào các ngân hàng, đồng thời gúp các chủ sở hữu
nhà đất tránh nguy cơ bị tịch biên.
113
Nhƣ vậy, tình trạng hệ thống tài chính - ngân hàng Mỹ gặp khó khăn và phải
nhận trợ giúp của FED đã xuất hiện ngay từ cuối năm 2007 và bắt buộc phải có
chính sách hỗ trợ từ đầu năm 2008. Khi Lehman Brothers tuyên bố phá sản ngày
16/9/2008 thì bức tranh tài chính mới đƣợc công khai một phần, vì còn những mảng
tối trong việc phân định tổ chức nào thì đƣợc nhận cứu trợ, tổ chức nào thì phải phá
sản.... Tuy vậy, lúc này sự việc đã trở thành KHTC mang tính toàn cầu do các tài
sản đã đƣợc chứng khoán hóa và đã đƣợc bảo lãnh hoán đổi nợ xấu tại ngân hàng.
2.2.1.3. Phản ứng của Chính phủ
Thứ nhất: Sử dụng chính sách tài khóa, tiền tệ
Nới lỏng chính sách tài khóa, với hàng loạt gói cứu trợ kinh tế giá trị hàng
trăm tỷ USD đƣợc ký thành Luật là biện pháp cấp thiết của Chính phủ Mỹ nhằm
cứu nền kinh tế thoát khỏi nguy cơ suy thoái.
Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush ký Economic
Stimulus Act of 2008 (Luật cứu trợ kinh tế 2008), theo đó Chính phủ sẽ áp dụng một
chƣơng trình kích cầu tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dƣới hình thức hoàn
thuế thu nhập cá nhân cho 128 triệu ngƣời dân Mỹ và thực hiện chế độ thuế quan ƣu
đãi (tax incentives) nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo
thêm công ăn việc làm cho ngƣời dân trị giá 152 tỷ USD. Để tránh tình trạng đổ vỡ
dây chuyền, cuối năm 2008 Chính phủ Mỹ đã trình và đƣợc Quốc hội thông qua gói
hỗ trợ khẩn cấp trị giá 700 tỷ USD và Chƣơng trình tăng chi tiêu Chính phủ, giảm
thuế cho ngƣời dân, doanh nghiệp. Nội dung chính của gói hỗ trợ khẩn cấp là cho
phép Bộ Tài chính Hoa Kỳ đƣợc phép mua các nợ xấu hoặc bảo hiểm tài sản xấu
lên đến 700 tỷ USD. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ do Đảng Dân chủ Hoa Kỳ chiếm đa
số bác bỏ vì cho rằng không thể phí tiền để cứu không đƣợc quá nhiều tổ chức tài
chính gặp khó khăn. Song sau khi kế hoạch sử dụng 700 tỷ đôllar đƣợc điều chỉnh
sang hƣớng chi cho cả các chƣơng trình phục vụ đông đảo ngƣời dân nhằm kích
thích tiêu dùng (nhƣ trợ giúp cho ngƣời thất nghiệp, hỗ trợ dinh dƣỡng cho ngƣời
nghèo và ngƣời thu nhập thấp, phát triển kết cấu hạ tầng), qua đó vực dậy nền kinh
tế, nó đã đƣợc Thƣợng viện thông qua. Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống
Bush đã ký Emergency Economic Stabilization Act of 2008 cho phép thực hiện gói
114
kích thích 700 tỷ dollar này. Bên cạnh đó, còn cho phép thế chấp nhà ở hoặc thế
chấp thƣơng mại nhằm nâng cao tính ổn định của thị trƣờng tài chính. Chính phủ
cũng cho phép các thể chế tài chính đƣợc sử dụng bất cứ công cụ tài chính nào cũng
nhằm mục tiêu ổn định thị trƣờng tài chính. Thực hiện chính sách trên, 250 tỷ USD
đƣợc sử dụng mua cổ phiếu của các ngân hàng lớn; 450 tỷ USD tiếp theo đƣợc sử
dụng trong những trƣờng hợp cụ thể; điển hình là gói hỗ trợ cho ngành công nghiệp
ôtô khoảng 65,2 tỷ USD (điển hình là GM và Chrysler đƣợc Chính phủ quyết định
cấp cho khoản vay trị giá 13,4 tỷ USD để duy trì hoạt động cho tới tháng 3/2009);
hỗ trợ cho các tổ chức tài chính – ngân hàng 181,2 tỷ USD; Tập đoàn bảo hiểm AIG
có trị giá gần 70 tỷ USD; tăng mức bảo hiểm tối đã cho một khoản bảo hiểm tiền
gửi 100.000 USD lên 250.000 USD; giảm thuế cho dân chúng 94 . Gói kích thích
sản xuất này đã đạt đƣợc kết quả, tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế Hoa Kỳ đã đạt
tốc độ dƣơng từ quý 1/2009, thị trƣờng chứng khoán đã hồi phục.
Tiếp đó, Barack Obama, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, sau khi trúng cử đã đề
ra một chƣơng trình kích thích kinh tế trong đó Hoa Kỳ tiến hành kích cầu bằng:
Những dự án phát triển kết cấu hạ tầng chƣa từng có kể từ thập niên 1950; Nâng cấp
hệ thống sử dụng năng lƣợng của các văn phòng cơ quan Chính phủ Hoa Kỳ theo
hƣớng tiết kiệm năng lƣợng; đầu tƣ lớn cho phát triển công nghệ nhất là thông tin y
tế điện tử, hệ thống máy tính cho các trƣờng phổ thông và phát triển mạng Internet
băng thông rộng; cấp thêm ngân sách cho chƣơng trình bảo hiểm y tế; cấp thêm 50
tỷ dollar ngoài khoản 20 tỷ dollar đã đƣợc đồng ý cho ngành công nghiệp ô tô.
Thứ hai: Sử dụng các chính sách kinh tế nhằm tạo việc làm và thực hiện an
sinh xã hội
Chƣơng trình nghị sự phục hồi kinh tế của Tổng thống và Phó Tổng thống có
nội dung: Hành động khẩn cấp để tạo việc làm cho ngƣời Mỹ; Trợ giúp khẩn cấp
cho các hộ gia đình gặp khó khăn; Trợ giúp trực tiếp và khẩn cấp cho ngƣời sở hữu
nhà, thay vì cứu trợ các tổ chức tài chính cho vay nhà ở thế chấp vô trách nhiệm.
Phản ứng nhanh, mạnh với KHTC bằng tất cả các công cụ mà nƣớc Mỹ có.
Ngày 17 tháng 2 năm 2009, Barack Obama đã ký American Recovery and
Reinvestment Act (Đạo luật phục hồi và tái đầu tư nước Mỹ). Đạo luật này cho
115
phép Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ hai kể từ khi khủng hoảng nổ ra. Kế
hoạch này có mục đích cứu vãn và tạo dựng 3,5 triệu công ăn việc làm, cũng nhƣ
thúc đẩy tiêu thụ và kiến thiết kết cấu hạ tầng. Gói kích thích này trị giá 787 tỷ
dollar lần này sẽ chia ra 36% là giảm thuế và 64% là chi tiêu và các chƣơng trình xã
hội với hai nội dung: (1) Tăng chi ngân sách cho một số lĩnh vực, trong đó ƣu tiên
đầu tƣ cơ sở hạ tầng, giáo dục và an sinh xã hội; (2) Thực hiện giảm thuế kết hợp
với đầu tƣ mới để tăng cƣờng các hoạt động bảo vệ môi trƣờng, thức đẩy tiết kiệm
năng lƣợng và tìm kiếm các nguồn năng lƣợng thay thế, khuyến khích dùng hàng
nội địa 110 . Việc ký kết gói cứu trợ kinh tế thành Luật đƣợc hy vọng sẽ khơi
thông dòng chảy tài chính của Liên bang vào các dự án kết cấu hạ tầng, y tế, phát
triển năng lƣợng tái tạo và bảo tồn thiên nhiên. Cụ thể gói cứu trợ nhƣ sau: 240 tỷ
USD tiền giảm thuế cho cá nhân và doanh nghiệp; 40 tỷ USD cho y tế; 100 tỷ USD
cho giáo dục; 48 tỷ USD cho các dự án giao thông. Ngày 17/03/2009, trong chiến
lƣợc vự dậy nền kinh tế, tạo công ăn việc làm, Tổng thống Obama đã ký quyết định
chi 15 tỷ USD trong gói cứu trợ kinh tế 787 tỷ USD để hỗ trợ các doanh nghiệp và
và nhỏ trong việc tiếp cận vốn vay và công nghệ sản xuất. Chính quyền Obama tin
rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp 70% mức tăng trƣởng việc làm mới
trong 10 năm qua sẽ đƣa nền kinh tế Mỹ thoát khỏi tình trạng suy thoái 94 .
Một năm sau khi gói hỗ trợ đƣợc thực hiện, Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ
phải tập trung xử lý các vấn đề nảy sinh: việc sử dụng vốn để mua các ngân hàng và
định chế tài chính là nhằm mục đích nâng cao vốn vay hay trả bớt nợ của ngân
hàng. Bên cạnh đó, việc kiểm soát đặc biệt chƣơng trình này nhằm ngăn chặn việc
thanh toán vƣợt mức đối với tài sản, việc lập các báo cáo kế toán riêng về sử dụng
vốn hỗ trợ, vấn đề đền bù cho ngƣời điều hành…Một phần của các vấn đề nêu trên
đã đƣợc thể hiện trong Luật Kiểm soát tài chính (còn gọi là Luật phố Wall) theo
hƣớng bảo vệ đầu tƣ của Chính phủ thông qua bán tài sản khi hoạt động giao dịch
phục hồi, cho phép Bộ Tài chính mua và bán bảo lãnh cổ phần, nợ lâu năm thu lãi
cho ngân sách nƣớc Mỹ, hạn chế đền bù và tiền thƣởng của bộ máy điều hành…Các
vấn đề mới trong quá trình khắc phục khủng hoảng đã làm nảy sinh vấn đề xây
dựng một khung pháp lý mới cho hoạt động của Bộ Tài chính, đóng cửa một số quỹ
cho vay mới (từ ngày 1/2/2010) và tiếp tục duy trì lãi suất hiện tại trong một thời
gian nữa.
116
2.2.1.4. Đánh giá về các biện pháp ứng phó KHTC toàn cầu của Mỹ
Qua các số liệu đƣợc công bố, có thể nhận thấy là Chính phủ Hoa Kỳ, mà ở
đây là FED, đã phát hiện đƣợc những bất ổn ban đầu của hệ thống tài chính - tiền tệ
nên đã có những động thái đối phó sớm ngay từ tháng 3/2008. Tuy nhiên, do tính
không nhất quán trong chính sách đối với các công ty cùng gặp khó khăn tài chính
nên sự sụp đổ bắt đầu từ khâu yếu nhất. Lúc này, hiệu ứng domino xuất hiện, tình
hình tuột ra ngoài sự kiểm soát của các cơ quan quản lý tạo thành cơn lốc xoáy tàn
phá nền kinh tế Hoa Kỳ và lan tỏa ra khắp thế giới với mức độ ảnh hƣởng khác
nhau.Việc sử dụng các gói kích thích kinh tế với quy mô lớn mặc dù giúp giải quyết
đƣợc một số tắc nghẽn trong hoạt động kinh tế tuy nhiên về lâu dài có thể dẫn đến
nợ công tăng cao.
Từ năm 2011 đến nay, Hoa Kì vẫn đang còn chật vật để thoát ra khỏi những
thất bại thị trƣờng và hàng loạt các vấn đề kinh tế- xã hội mang tính cơ cấu nhƣ thất
nghiệp, bất bình đẳng thu nhập. Nền kinh tế Mỹ phục hồi khá chậm mà một trong
những nguyên nhân là do kinh tế, thƣơng mại, tài chính Hoa Kì có sự ràng buộc với
các nƣớc Eurozone- nơi mà cuộc khủng hoảng nợ công vẫn ám ảnh và các nƣớc vẫn
đang loay hoay để cứu đồng euro. Tổng thống Obama trƣớc thềm hội nghị G20 diễn
ra tháng 11/2011 đã phát biểu: “Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu rõ ràng đang
có một tác động lên Hoa Kỳ. Nếu nền kinh tế châu Âu tiếp tục suy thoái và không
tăng trƣởng, chúng tôi với tƣ cách là đối tác thƣơng mại lớn nhất của châu Âu sẽ
gặp rất nhiều khó khăn”. Hiện tại Hoa Kì đã phải chịu những ảnh hƣởng nhất định
từ khủng hoảng đồng euro thông qua ba kênh chính.
Một là, các ngân hàng thƣơng mại ở Mỹ có sự liên kết chặt chẽ với các ngân
hàng ở châu Âu và do đó phải đối diện với các nguy cơ lây lan trực tiếp từ các ngân
hàng EU. Chính những định chế tài chính lớn nhất Hoa Kì lại đang sở hữu hàng
ngàn tỉ USD nợ xấu từ cả năm quốc gia đang gặp khốn đốn bao gồm Hy Lạp, Bồ
Đào Nha, Ireland, Ý và Tây Ban Nha. Các ngân hàng Mỹ đã phải đối phó bằng cách
mua bảo hiểm hoặc dần giảm thiểu sự hiện diện của mình tại châu Âu. Ngoài ra,
ngân sách Mỹ càng điêu đứng khi IMF ra tay cứu giúp khối đồng euro tái cơ cấu nợ,
vì khoản đóng góp lớn nhất cho thể chế tài chính này cũng do Mỹ gánh vác.
117
Hai là, khối Eurozone từ lâu đã là thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất đối với Mỹ, vì
thế khi nợ công châu Âu chƣa đƣợc giải quyết và với chính sách “thắt lƣng buộc
bụng ” của các Chính phủ châu Âu sẽ ảnh hƣởng mạnh đến thƣơng mại của Hoa Kì.
Trong số 20% tổng giá trị xuất khẩu sang châu Âu của Mỹ, có đến 14% là xuất khẩu
sang các nƣớc thuộc Eurozone.
Kênh tài chính là kênh thứ ba mà cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu tác
động lên nền kinh tế Hoa Kì. Các dao động của thị trƣờng tài chính một phần phụ
thuộc vào niềm tin và mong chờ của các nhà đầu tƣ. Giá cổ phiếu Mỹ đã sụt giảm
đáng kể từ đầu năm 2012 đến nay, chính là bắt nguồn từ những lo ngại gia tăng về
tƣơng lai của eurozone.
Đứng trƣớc nguy cơ khủng hoảng nợ công, ƣu tiên hàng đầu của Mỹ hiện nay
là cải cách tài chính nhằm tái cân bằng ngân sách và cắt giảm nợ công. Ủy ban về
cải cách tài chính thuộc lƣỡng đảng đã đề xuất kế hoạch gồm 6 nhóm giải pháp lớn
nhằm giải quyết vấn đề này. Ngày 2/08/2011, Tổng Thống Obama đã ký ban hành
Luật nâng trần nợ công thêm tối đa 2.400 tỷ USD, với khoản tăng ngay lập tức là
900 tỷ USD và khoản tăng bổ sung 1.500 tỷ USD, sẽ đƣợc thực hiện sau khi Chính
phủ cắt giảm đƣợc chi tiêu công; nếu không mức tăng chỉ là 1.200 tỷ USD. Đổi lại,
chi tiêu Chính phủ sẽ bị cắt giảm khoảng 2.500 tỷ USD trong vòng 10 năm.
Bên cạnh đó, tái cấu trúc kinh tế gắn với việc làm và tăng trƣởng đã đƣợc coi
trọng. Chính phủ Mỹ đã chú trọng đầu tƣ tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng
cho các lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao, nhanh chóng ký kết các hiệp định tự
do thƣơng mại (FTA), nhất là Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lƣợc xuyên Thái Bình
Dƣơng (TPP) để thúc đẩy xuất khẩu. Ngay sau khi Mỹ thông qua luật tăng trần nợ
công, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã tuyên bố giữ nguyên lãi suất cơ bản 0-
0,25% năm ít nhất đến giữa năm 2013 để kích thích tăng trƣởng kinh tế. Tuy nhiên,
tăng trần nợ công chỉ là giải pháp cấp thời, không giải quyết tận gốc vấn đề thâm
hụt ngân sách và nợ công cao của Mỹ.
Một trong những bài học lớn nhất mà Mỹ học đƣợc từ khủng hoảng nợ châu
Âu là: “Đừng để nƣớc đến chân mới nhảy”, điều này đồng nghĩa với việc những
hành động ngân sách phải đến trƣớc khi thị trƣờng tài chính đòi hỏi điều đó. Việc
118
cắt giảm chi tiêu khổng lồ một cách đột ngột không phải là cách tốt nhất để giảm
thâm hụt và các ngân hàng trung ƣơng luôn phải sẵn sàng hành động để có thể bù
đắp sự thiếu hụt vốn cho nền kinh tế.
Alice Rivlin, Giám đốc Văn phòng Quản lý và Ngân sách Nhà Trắng cho biết:
“Bài học từ châu Âu là không chờ đợi cho đến khi khủng hoảng hình thành mới bắt
đầu đƣa ra hành động. Hãy hành động ngay. Một bài học khác là chính sách thắt
lƣng buộc bụng không phải là đơn thuốc tốt cho các nền kinh tế yếu kém”.
Ngân sách Mỹ đã rơi vào tình trạng thâm hụt 11 năm liên tiếp, đáng chú ý
mức thâm hụt trong 4 năm gần đây là trên 1.000 tỷ USD. Hệ quả là nợ công của Mỹ
trong năm 2011 tăng vọt lên 67% GDP so với mức chỉ 36% vào năm 2007. Theo số
liệu từ Văn phòng Quản lý và Ngân sách Mỹ, thâm hụt ngân sách trong năm tài
khóa 2012 kết thúc ngày 30/09 tƣơng đƣơng với 7% GDP.
Tuy nhiên, may mắn hơn các nƣớc đang ngập chìm trong khủng hoảng tại châu
Âu, lợi tức trái phiếu của Mỹ không tăng “phi mã” do nền tảng kinh tế vững chắc đƣợc
xây dựng từ lâu và trái phiếu Mỹ vẫn luôn đƣợc coi là một loại tài sản an toàn bậc nhất.
Tổng thống Barack Obama cũng đã xem mục tiêu giảm thâm hụt là ƣu tiên
hàng đầu trong số những thách thức mà ông cần giải quyết trong 4 năm tiếp theo tại
Nhà Trắng. Trong phiên họp đầu tiên sau khi tái đắc cử, ông Obama cho biết sẽ cân
nhắc những yêu cầu từ đảng Cộng hòa trong thỏa thuận chung nhằm ngăn chặn
“vực thẳm tài khóa” vào đầu năm sau. Ông cho rằng “Mỹ cần phải kết hợp việc cắt
giảm chi tiêu với thu ngân sách”.
Trƣớc đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố chƣơng trình hỗ trợ tăng
trƣởng kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp bằng cách tung ra gói QE3 với kế hoạch chi
ra 40 tỷ USD mỗi tháng để mua chứng khoán thế chấp. Chƣơng trình sẽ đƣợc thực
hiện đều đặn cho tới khi kinh tế Mỹ xuất hiện dấu hiệu phục hồi đáng kể.
Jack Ablin, Giám đốc đầu tƣ của BMO Private Bank quản lý khoảng 65 tỷ
USD tài sản cho rằng: “Thị trƣờng chứng khoán sẽ đƣợc hƣởng lợi nếu Mỹ có thể
tránh đƣợc “vực thẳm tài khóa” vào cuối năm và các lãnh đạo chính trị đạt đƣợc
thỏa thuận để cắt giảm thâm hụt ngân sách. Một kế hoạch đáng tin cậy sẽ vực lại
lòng tin của giới đầu tƣ”.
119
Đến thời điểm hiện tại, cả Mỹ đã nhìn thấy tầm quan trọng của việc đƣa ra
một kế hoạch dài hơi và đáng tin cậy nhằm giải quyết vấn đề thâm hụt cũng nhƣ
tránh “vực thẳm tài khóa” mà nhiều khả năng sẽ đẩy kinh tế Mỹ vào vòng xoáy suy
thoái mới. “Vực thẳm tài khóa” đƣợc kích hoạt vào nửa đêm ngày 31/12/2012 -
thời điểm các điều khoản của Đạo luật kiểm soát ngân sách trong năm 2011 chính
thức có hiệu lực. Khi đó, Mỹ đã phải chấm dứt cắt giảm thuế lƣơng và tăng thuế đối
với ngƣời lao động lên 2%. Các điều luật cắt giảm thuế đƣợc áp dụng trong giai
đoạn 2001-2003 cũng đƣợc hủy bỏ, trong khi đó các loại thuế liên quan đến luật
chăm sóc y tế của Tổng thống Barack Obama bắt đầu đƣợc áp dụng. Cũng trong
đêm 31/12, chƣơng trình cắt giảm chi tiêu của chính quyền Tổng thống Obama -
một phần trong thỏa thuận nâng trần nợ trong năm 2011 - cũng bắt đầu có hiệu lực.
Nếu chƣơng trình tăng thuế và cắt giảm chi tiêu có hiệu lực vào năm 2013,
ảnh hƣởng của nó tới nền kinh tế có thể vô cùng nặng nề. Dù việc tăng thuế và giảm
chi tiêu có thể giúp Chính phủ Mỹ giảm thâm hụt khoảng 600 tỷ USD, song Văn
phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) ƣớc tính chƣơng trình này cũng sẽ khiến tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) Mỹ giảm gần 4% trong năm 2013, đồng nghĩa kinh tế
Mỹ sẽ rơi vào suy thoái do tăng trƣởng âm. Bên cạnh đó, chƣơng trình cũng khiến
tỷ lệ thất nghiệp tăng gần 1%, đồng nghĩa nƣớc Mỹ sẽ mất thêm 2 triệu việc làm. Vì
vậy, nƣớc Mỹ cần có chiến lƣợc củng cố tài chính toàn diện, cân đối, mạnh mẽ và
đáng tin cậy hơn nhằm bình ổn và cắt giảm nợ công.
2.2.2. Các giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của Chính phủ
Trung Quốc.
2.2.2.1. Bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc trước tác động của khủng hoảng tài chính
toàn cầu.
Năm năm trƣớc khi cuộc KHTC bùng nổ, chịu ảnh hƣởng của các nhân tố nhƣ
môi trƣờng kinh tế thế giới tƣơng đối nới lỏng, hiệu ứng Trung Quốc gia nhập
WTO hiện rõ, nền kinh tế Trung Quốc đã trải qua giai đoạn năm năm liền (2003-
2007) tăng trƣởng trên 10%. Thế nhƣng, đằng sau thành tựu này, vấn đề cơ cấu tăng
trƣởng kinh tế Trung Quốc mất cân đối càng bộc lộ rõ hơn nữa, nhất là biểu hiện ở
việc tăng trƣởng kinh tế quá phụ thuộc vào nhu cầu bên ngoài và vấn đề đầu tƣ.
120
Trong năm 2008, cuộc KHTC toàn cầu đã gây cho nền kinh tế Trung Quốc những
khó khăn và thách thức chƣa từng có: nhu cầu bên ngoài thu hẹp rõ rệt, năng lực sản
xuất của một số ngành nghề dƣ thừa, số đơn đặt hàng của doanh nghiệp giảm, xuất
khẩu sản phẩm của các ngành chế tạo truyền thống nhƣ dệt may, gang thép giảm đi;
giá cả năng lƣợng, lƣơng thực trên toàn cầu tăng cao đã đẩy vật giá trong nƣớc lên
cao hơn nữa, tiêu thụ không thuận lợi, lợi nhuận sụt giảm. Lúc này, một số mâu
thuẫn và vấn đề tồn tại trong việc vận hành nền kinh tế trong nƣớc càng trở nên nổi
cộm: vật giá leo thang mạnh, lạm phát gia tăng. Những hiện tƣợng này từ vùng
duyên hải lan rộng vào nội địa, từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ lan tới các doanh
nghiệp lớn, từ ngành xuất khẩu lan sang các ngành nghề khác, số doanh nghiệp thua
lỗ tăng lên, một loạt doanh nghiệp hƣớng ngoại phải đóng cửa. Số lao động thất
nghiệp tăng lên, nhiều nông dân làm thuê nghỉ việc, thất nghiệp về quê. Sức ép suy
thoái kinh tế gia tăng rõ rệt. Theo thống kê, CPI (Consumer Price Index- Chỉ số giá
tiêu dùng) sáu tháng đầu năm 2008 tăng 7,9%, PPI (Producer Price Index – Chỉ số
giá cả sản xuất) tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trƣớc, mức tăng GDP quý I chậm lại,
giảm xuống còn 6,1%, là mức thấp nhất trong 17 năm qua, tốc độ tăng trƣởng xuất
khẩu tụt xuống còn 5,7%. Là quốc gia xuất khẩu lớn thứ ba thế giới sau Đức và Mỹ,
trong khi tỷ giá giữa đồng NDT và USD không thay đổi, tốc độ tăng trƣởng xuất
khẩu của Trung Quốc suy giảm một cách trầm trọng; tháng 11/2008 (-2,2%); tháng
12/2008 (-2,8%); tháng 01/2009 (-17,5%). Cả năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu chỉ đạt 2.561,6 tỷ USD, tăng 17,8% so với năm 2007, đây là mức tăng trƣởng
thấp nhất dƣới 20% trong vòng 5 năm trở lại. Năm 2008, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của Trung Quốc đạt 30.067 triệu Nhân dân tệ, tăng 9% so với năm 2007-
mức tăng trƣởng thấp nhất dƣới 10% trong vòng 5 năm của Trung Quốc. kinh tế
Trung Quốc tiếp tục không sáng sủa trong năm tài khóa 2009. Theo thống kê, trong
tháng 2/2009, số lao động mất việc làm ở Trung Quốc lên tới 20 triệu ngƣời, tăng
gấp 2 lần con số thống kê vào tháng 12/2008; khu vực nông thôn có thêm 6-7 triệu
ngƣời bị mất việc. Chỉ số giá xuất xƣởng (The factory-gate price index) trong tháng
1/2009 giảm 3,3% và giảm 6,3% trong tháng 2/2009. Tốc độ tăng trƣởng của cầu
nội địa của Trung Quốc trong năm 2009 giảm 1,3%, tốc độ tăng trƣởng kinh tế
121
chậm lại 94 . Trung Quốc đang đứng trƣớc những khó khăn trƣớc tác động của
cuộc KHTC.
2.2.2.2. Quan điểm của Chính phủ Trung Quốc để đối phó với khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Đứng trƣớc tác động nghiêm trọng của cuộc KHTC toàn cầu, Đảng và Chính
phủ Trung Quốc đã bình tĩnh phân tích tình hình trƣớc mắt và xu thế phát triển kinh
tế lâu dài để đƣa ra nhận định chung “bốn thay đổi và không thay đổi”: cục diện
tăng trƣởng kinh tế thế giới sẽ có thay đổi, nhƣng xu thế toàn cầu hóa kinh tế phát
triển theo chiều sâu sẽ không thay đổi; chức trách của Chính phủ trong việc bảo
đảm thị trƣờng vận hành bình thƣờng sẽ đƣợc tăng cƣờng, nhƣng vai trò nền tảng
trong phân bổ nguồn lực của thị trƣờng sẽ không thay đổi; đa nguyên hóa đồng tiền
toàn cầu sẽ đƣợc thúc đẩy, nhƣng địa vị đồng tiền toàn cầu chủ yếu của đồng đôla
Mỹ sẽ không có sự thay đổi căn bản; thực lực tổng thể của các nƣớc đang phát triển
sẽ đƣợc nâng lên, nhƣng cục diện các nƣớc phát triển dẫn đầu về thực lực tổng hợp
và sức cạnh tranh then chốt sẽ không thay đổi.
Trung ƣơng Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành phân tích một cách biện
chứng cuộc khủng hoảng này, chỉ ra rằng, khủng hoảng đặt ra thách thức song cũng
đem lại “ba cơ hội lớn” cho sự phát triển của Trung Quốc: khủng hoảng dẫn tới nhu
cầu bên ngoài giảm nhiều, về khách quan tạo ra áp lực rất lớn đối với Trung Quốc
trong việc mở rộng nhu cầu trong nƣớc và điều chỉnh cơ cấu; tăng trƣởng kinh tế
thế giới giảm tốc độ rõ rệt khiến giá cả tài nguyên và tài sản năng lƣợng toàn cầu
giảm xuống, tạo thuận lợi cho Trung Quốc khai thác tận dụng nguồn tài nguyên
năng lƣợng và thực lực khoa học kỹ thuật cao của nƣớc ngoài; khủng hoảng tạo ra
áp lực to lớn đối với các nƣớc phát triển, đặt ra yêu cầu phải tăng cƣờng hợp tác
toàn cầu để giữ ổn định thị trƣờng tài chính toàn cầu, cải cách hệ thống tài chính
toàn cầu, tạo thời cơ thuận lợi cho Trung Quốc tăng cƣờng hợp tác toàn cầu, mang
lại nhiều lợi ích hơn cho đất nƣớc.
Trên cơ sở bình tĩnh phân tích và nhận định chuẩn xác tình hình trong và
ngoài nƣớc, đứng trƣớc tác động nghiêm trọng của cuộc KHTC toàn cầu, Đảng và
Chính phủ Trung Quốc đã xác định tƣ tƣởng tổng thể: “ra tay phải nhanh, quả đấm
122
phải mạnh, giải pháp phải chuẩn, công tác phải thiết thực”. Trung ƣơng Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã đề ra đƣờng lối cơ bản ứng phó với khủng hoảng: kiên trì
quan điểm phát triển khoa học, nắm bắt cơ hội chiến lƣợc phát triển đất nƣớc, biến
áp lực thành động lực, biến thách thức thành cơ hội, một lòng một dạ tìm kiếm cơ
hội phát triển; kiên trì phƣơng hƣớng cải cách theo hƣớng KTTT định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, tăng cƣờng tính chủ động và đẩy nhanh tốc độ, thúc đẩy thay đổi phƣơng
thức phát triển và điều chỉnh cơ cấu, thực hiện phát triển vừa tốt vừa nhanh; điều
chỉnh trọng điểm, phƣơng hƣớng và cƣờng độ điều tiết vĩ mô, chú trọng bảo đảm
tăng trƣởng, bảo đảm dân sinh, bảo đảm ổn định, kết hợp giữa bảo đảm tăng trƣởng
với mở rộng nhu cầu trong nƣớc, điều chỉnh cơ cấu; kiên trì quốc sách cơ bản về mở
cửa đối ngoại, tính toán tổng thể tình hình trong nƣớc và toàn cầu, song song với
mở rộng nhu cầu trong nƣớc, ổn định nhu cầu bên ngoài, tăng cƣờng điều phối và
hợp tác toàn cầu, phản ánh tốt lợi ích của các nƣớc đang phát triển, bảo vệ và phát
triển tối đa lợi ích của Trung Quốc.
Xuất phát từ việc lấy quan điểm phát triển khoa học làm quan điểm chỉ đạo,
tính toán tổng thể các biện pháp ứng phó trong nƣớc và toàn cầu. Từ “hai phòng
ngừa” đến “một duy trì, một khống chế” là sự điều chính chính sách vĩ mô lần thứ
nhất của Trung Quốc năm 2008 với quyết đoán chuyển điểm nhấn của điều tiết vĩ
mô sang ngăn ngừa tốc độ tăng trƣởng kinh tế sụt giảm quá nhanh, thực thi chính
sách tài chính tích cực và chính sách nới lỏng tiền tệ thích hợp, yêu cầu áp dụng một
loạt các biện pháp lớn, mở rộng hơn nữa nhu cầu trong nƣớc, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển vững chắc, tƣơng đối nhanh. Ngày 5/11/2008, Hội nghị Ủy ban Thƣờng
vụ Quốc vụ viện quyết định áp dụng 10 giải pháp nhằm mở rộng hơn nữa nhu cầu
trong nƣớc, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, bao gồm đẩy nhanh xây dựng các công
trình an cƣ mang tính an sinh xã hội, kết cấu hạ tầng nông thôn, kết cấu hạ tầng lớn
nhƣ đƣờng sắt, đƣờng bộ và sân bay. Tiếp đó, từ đầu năm 2009 đến nay, Trung
Quốc không ngừng hoàn thiện và bổ sung kế hoạch cả gói ứng phó KHTC toàn cầu
với đặc điểm là “tính toán thống nhất bên trong và bên ngoài, trị cả gốc lẫn ngọn,
kết hợp xa gần, tiến hành song song cả kích thích tổng thể và điều chỉnh cơ cấu, vận
dụng tổng hợp chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, đầu tư và chính sách ngành nghề”.
123
Chính phủ Trung Quốc coi kế hoạch cả gói vừa là giải pháp ứng phó khẩn cấp
nhằm bảo đảm tăng trƣởng, bảo đảm dân sinh, bảo đảm ổn định, vừa là sách lƣợc
lâu dài nhằm thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc thực hiện phát triển khoa học. Mục
tiêu trực tiếp nhất, quan trọng nhất của kế hoạch cả gói là xoay chuyển xu thế tụt
dốc của tốc độ tăng trƣởng kinh tế, duy trì kinh tế tăng trƣởng vững chắc, tƣơng đối
nhanh nhằm nâng cao toàn diện chất lƣợng và trình độ phát triển kinh tế.
2.2.2.3. Các giải pháp của Trung Quốc trong việc ứng phó với khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Để ứng phó với tác động của cuộc KHTC toàn cầu, kể từ quý IV năm 2008 đến
nay, Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng đƣa ra và thực thi có hiệu quả hàng loạt
kế hoạch và biện pháp ứng phó khủng hoảng, khiến nên kinh tế Trung Quốc ổn định
trở lại trƣớc tiên trên toàn cầu. Song song với việc ổn định nền kinh tế trong nƣớc,
Trung Quốc cũng tích cực tham gia vào hợp tác quốc tế để ứng phó với KHTC toàn
cầu, thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu khôi phục. Các giải pháp quan trọng và hiệu quả
của Trung Quốc trong việc ứng phó với KHTC toàn cầu có thể kể đến nhƣ:
Thứ nhất, kịp thời thực thi toàn diện kế hoạch kích thích kinh tế cả gói ứng
phó với khủng hoảng.
Để ứng phó với ảnh hƣởng bất lợi của cuộc KHTC toàn cầu, Chính phủ Trung
Quốc đã kịp thời điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô, thực thi một cách quyết đoán
chính sách tài chính tích cực, chính sách nới lỏng tiền tệ thích hợp, chính sách tăng
đầu tƣ, chính sách tăng nhu cầu tiêu dùng, chính sách ổn định thị trƣờng vốn, chính
sách điều chỉnh cơ cấu, chính sách làm lợi dân sinh, chính sách ổn định xuất khẩu
và chính sách tăng cƣờng nâng đỡ khoa học kỹ thuật. Đồng thời, đẩy mạnh hoàn
thiện thể chế, thúc đẩy toàn diện việc cải cách mô hình thuế giá trị gia tăng, thúc
đẩy doanh nghiệp đầu tƣ thiết bị và cải tạo kỹ thuật, ban hành phƣơng án cải cách
thể chế y tế, y dƣợc, cải thiện tiêu dùng của dân cƣ, khơi dậy tiềm lực tiêu dùng;
thực thi cải cách giá cả và thuế dầu thành phẩm, thúc đẩy tiết kiệm năng lƣợng,
giảm chất thải và tiêu dùng ô tô.
Thứ hai, chính sách tài chính tích cực. Chính sách tài chính tích cực chủ yếu
tập trung vào năm mặt dƣới đây: tăng đầu tƣ công của Chính phủ, ra sức tăng cƣờng
124
xây dựng trọng điểm (tháng 10/2008, Chính phủ Trung Quốc thông qua gói cứu trợ
kinh tế trong hai năm trị giá khoảng 4000 tỷ nhân dân tệ (tƣơng đƣơng 586 tỷ USD)
vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng và công trình dân sinh); gói cứu trợ kinh tế này tập
trung vào 6 lĩnh vực, bao gồm: đầu tƣ của Chính phủ; thay đổi thuế; tái cấu trúc lại
ngành công nghiệp; nghiên cứu khoa học; phúc lợi xã hội và giải quyết thất nghiệp.
Chính phủ Trung Quốc thực thi toàn diện việc chuyển đổi thuế giá trị gia tăng, ban
hành chính sách ƣu đãi thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, giao dịch bất động
sản (xóa bỏ và ngừng thu hơn 100 mục lệ phí có tính hành chính sự nghiệp, thực
hiện giảm thuế mang tính chất kết cấu khoảng 500 tỷ nhân dân tệ); nâng cao thu
nhập của nhóm ngƣời thu nhập thấp, thực hiện chính sách trợ cấp giá đồ điện gia
dụng đƣa về nông thôn, ra sức thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng; tối ƣu hóa hơn nữa kết
cấu chi ngân sách, bảo đảm và cải thiện dân sinh; ra sức hỗ trợ sang tạo khoa học kỹ
thuật và tiết kiệm năng lƣợng, giảm ô nhiễm, thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế và
thay đổi phƣơng thức phát triển.
Thứ ba, thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ thích hợp. Tăng cƣờng điều tiết tài
chính vĩ mô, duy trì mức độ linh hoạt hợp lý về tính chất lƣu động trên thị trƣờng,
nhấn mạnh điều chỉnh kết cấu tín dụng, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả tín dụng,
tăng cƣờng hỗ trợ đối với các khâu yếu nhƣ nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ,
cố gắng tăng cƣờng tính cân đối và tính bền vững của công tác tín dụng trong việc
hỗ trợ kinh tế- xã hội. Kể từ khi bùng nổ cuộc KHTC toàn cầu đến nay, cùng với
chính sách kinh tế của Chính phủ, Ngân hàng Trung ƣơng Trung Quốc (PBC) đã
thực thi CSTT nới lỏng bắt đầu từ nửa cuối năm 2008. Với gói kích thích kinh tế 4
nghìn tỷ NDT của Chính phủ, các NHTM Nhà nƣớc (SBOs) đẩy mạnh cho vay nền
kinh tế mà không phải lo về các khoản nợ xấu trong tƣơng lai. PBC đã bốn lần giảm
lãi suất tiền gửi bằng đồng nhân dân tệ, tổng cộng đã giảm 1,89% lãi suất tiền gửi;
năm lần giảm lãi suất sàn cho vay bằng đồng nhân dân tệ, tổng cộng đã hạ 2,16% lãi
suất cho vay, giảm mạnh chi phí tài chính doanh nghiệp. Ngân hàng Trung ƣơng
còn liên tục bốn lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi, các tổ chức tài chính lớn
tổng cộng giảm 2%, các tổ chức tài chính vừa và nhỏ tổng cộng giảm 4%, tổng cộng
giải phóng khoảng 800 tỷ nhân dân tệ trong hai năm 2008-09; từ chỗ khống chế quy
125
mô cho vay tiến tới xóa bỏ việc khống chế quy mô cho vay tại các ngân hàng
thƣơng mại. Tính tới cuối tháng 1/2009, các khoản cho vay bằng NDT và ngoại tệ
đạt 33,6 nghìn tỷ USD, tăng 19,78% so với cùng kỳ năm 2008. tổng dƣ nợ cho vay
NDT đạt 31,99 nghìn tỷ, tăng 21,33% 41 .
Thứ tư, chính sách đầu tư mở rộng. Trong hai năm 2009-2010, đầu tƣ tăng
mới của Trung ƣơng là 1.180 tỷ nhân dân tệ và thúc đẩy kế hoạch đầu tƣ với tổng số
vốn 4.000 tỷ nhân dân tệ. Trong đó, đầu tƣ nhà ở an sinh xã hội nhƣ nhà cho thuê
giá rẻ, cải tạo khu ổ chuột chiếm khoảng 400 tỷ nhân dân tệ; đầu tƣ cho công trình
dân sinh và kết cấu hạ tầng nhƣ điện, nƣớc, đƣờng, khí đốt, nhà ở nông thôn khoảng
370 tỷ nhân dân tệ; đầu tƣ cho xây dựng kết cấu hạ tầng lớn nhƣ đƣờng sắt, đƣờng
bộ, sân bay, thủy lợi và cải tạo lƣới điện thành thị đạt khoảng 1.500 tỷ nhân dân tệ;
đầu tƣ cho phát triển sự nghiệp xã hội nhƣ y tế khám chữa bệnh, giáo dục, văn hóa
đạt khoảng 150 tỷ nhân dân tệ; đầu tƣ cho tiết kiệm năng lƣợng, giảm chất thải và
công trình sinh thái đạt khoảng 210 tỷ nhân dân tệ; đầu tƣ cho tự chủ sáng tạo và
điều chỉnh cơ cấu đạt khoảng 370 tỷ nhân dân tệ; đầu tƣ cho khôi phục tái thiết sau
động đất đạt khoảng 1.000 tỷ nhân dân tệ; ra sức thực thi kế hoạch đầu tƣ khoa học
kỹ thuật khoảng 100 tỷ nhân dân tệ để đẩy mạnh việc thực hiện quy hoạch các hạng
mục khoa học kỹ thuật chuyên ngành, tăng thêm sự đóng góp của khoa học kỹ thuật
vào tăng trƣởng kinh tế.
Thứ năm, chính sách mở rộng nhu cầu tiêu dùng. Trung Quốc đã tích cực
hoàn thiện chính sách tiêu dùng, ra sức mở rộng tiêu dùng sinh hoạt. Năm 2009,
ngân sách trung ƣơng đã dành 25 tỷ nhân dân tệ hỗ trợ chính sách “đƣa đồ điện gia
dụng, ô tô, xe máy về nông thôn”, “công trình sản phẩm tiết kiệm năng lƣợng làm
lợi cho dân” và ô tô, đồ điện gia dụng “lấy hàng cũ đổi hàng mới”, đã áp dụng các
giải pháp nhƣ giảm nhẹ gánh nặng mua nhà của dân cƣ, giảm một nửa tiền thuế mua
sắm ô tô phân khối nhỏ. Trọng điểm là xoay quanh việc tăng năng lực tiêu dùng của
dân cƣ, cải thiện tiêu dùng của cƣ dân, cố gắng nâng cao thu nhập của cƣ dân, đặc
biệt là tăng mạnh trợ cấp đối với nhóm ngƣời có thu nhập thấp.
Thứ sáu, chính sách ổn định thị trường vốn. Kiên trì thúc đẩy thị trƣờng vốn
phát triển ổn định, lành mạnh, áp dụng thuế giao dịch chứng khoán đối với bên bán;
126
công ty hối đoái tuyên bố tự mua cổ phiếu của ba ngân hàng là Ngân hàng Công
thƣơng, Ngân hàng Trung ƣơng và Ngân hàng Xây dựng tại thị trƣờng cấp hai; Ủy
ban giám sát quản lý tài sản Nhà nƣớc hỗ trợ các doanh nghiệp Trung ƣơng nắm giữ
thêm hoặc mua lại cổ phần của công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán; đẩy
mạnh xây dựng thị trƣờng vốn, xây dựng thị trƣờng sách báo nói về lập nghiệp để
phục vụ và khuyến khích lập nghiệp.
Thứ bảy, chính sách điều chỉnh kết cấu. Thực thi quy hoạch chấn hƣng ngành
nghề trên phạm vi lớn, thúc đẩy toàn diện việc điều chỉnh kết cấu và tối ƣu hóa việc
nâng cấp ngành nghề. Thực hiện sáp nhập và sắp xếp lại, đào thải các kỹ thuật sản
xuất lạc hậu, ngăn ngừa xây dựng trùng lặp, phát triển LLsản xuất tiên tiến. Lần
lƣợt ban hành 11 quy hoạch điều chỉnh, chấn hƣng ngành nghề trong đó có gang
thép, ô tô, tàu thuyền, hóa dầu, dệt may, công nghiệp nhẹ, kim loại màu, chế tạo
trang thiết bị, thông tin điện tử, vận tải và lƣu thông hàng hóa, đồng thời ban hành
một số quy định về ngăn chặn tình trạng dƣ thừa năng lực sản xuất và xây dựng
trùng lặp trong một số ngành, hƣớng dẫn các ngành phát triển lành mạnh, thúc đẩy
điều chỉnh kết cấu, định hƣớng các ngành mới phát triển ổn định và có trật tự.
Thứ tám, chính sách làm lợi dân sinh. Thực thi chính sách việc làm ngày càng
tích cực hơn, trọng điểm là xoay quanh vấn đề tạo việc làm cho sinh viên tốt nghiệp
đại học, nông dân làm thuê và nhóm ngƣời khó tìm việc làm ở thành phố, đề ra và
thực thi một loạt chính sách nâng đỡ, tăng mạnh mức bảo hiểm xã hội, tiếp tục nâng
cao tiêu chuẩn tiền dƣỡng lão cơ bản cho ngƣời nghỉ hƣu, tiền bảo hiểm thất nghiệp
và tiêu chuẩn bảo hiểm thƣơng tật lao động, nâng cao mức bảo hiểm cho những
ngƣời có mức bảo hiểm thấp ở thành thị và năm loại bảo hiểm ở nông thôn, triển
khai thí điểm bảo hiểm xã hội nông thôn kiểu mới trên toàn quốc, tích cực thúc đẩy
cải cách thể chế y tế; tiếp tục tăng cƣờng các dịch vụ công cơ bản nhƣ giáo dục, văn
hóa, y tế khám chữa bệnh. Chính quyền Trung ƣơng cấp 130 tỷ USD cho việc khôi
phục và tái thiết lại các khu vực bị ảnh hƣởng bởi trận động đất ngày 12/5/2008.
Chính quyền địa phƣơng chi 12 tỷ NDT để tăng quỹ lƣơng cho 12 triệu giáo viên
trung học và tiểu học. Năm 2009, Chính phủ Trung Quốc thực hiện gói hỗ trợ an
sinh xã hội vào các chƣơng trình phúc lợi xã hội, nhƣ quỹ hƣu trí, bảo hiểm y tế,
127
bảo hiểm thất nghiệp và tăng tiền trợ cấp cho bộ phận dân cƣ thu nhập thấp với tổng
giá trị 293 tỷ NDT (42,84 tỷ USD); Gói phát triển kinh tế nông nghiệp trị giá 716,1
tỷ NDT (104,6 tỷ USD) đƣợc sử dụng để hỗ trợ các cơ sở sản xuất ở nông thôn,
tăng tiền trợ cấp cho ngƣời nông dân, trợ cấp cho việc mua sắm máy móc sản xuất
nông nghiệp, các công cụ lao động và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp; Gói cứu trợ 42 tỷ NDT để tạo thêm 9 triệu việc làm ở khu vực thành
thị; gói cứu trợ 146,1 tỷ USD cho việc nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ
nhằm nâng cao đời sống nhân dân 88 .
Thứ chín, chính sách ổn định xuất khẩu. Xóa bỏ thuế xuất khẩu đối với một bộ
phận sản phẩm, kể từ tháng tám năm 2009 đến nay lần lƣợt tám lần điều chỉnh nâng
tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với một bộ phận sản phẩm, có hơn 8.000 mặt hàng nằm
trong diện đƣợc hoàn thuế xuất khẩu, nhƣng tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu tổng cộng
không đến 14% (thấp hơn tỷ lệ giảm thuế giá trị gia tăng theo luật định là 17%). Gia
tăng mức cho vay xuất khẩu và mức hỗ trợ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 41 .
Đặc điểm nổi bật của Trung Quốc trong việc thực thi kế hoạch kích thích kinh
tế cả gói là kết hợp mục tiêu ngắn hạn ứng phó khủng hỏng với chiến lƣợc lâu dài
về chuyển đổi phƣơng thức phát triển, kết hợp hữu cơ việc gia tăng nhu cầu trong
nƣớc, bảo đảm tăng trƣởng, điều chỉnh cơ cấu, coi trọng dân sinh với nhau, từ đó
tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Trung Quốc phát triển vững chắc, tƣơng đối
nhanh, bền vững trong một thời kỳ dài hơn.
Thứ mười: Bắt tay hợp tác với cộng đồng quốc tế ứng phó với khủng hoảng,
làm dịu tác động của khủng hoảng. Khởi xướng và tích cực tham gia vào cải cách
hệ thống tài chính toàn cầu.
Đứng trƣớc áp lực kinh tế trong nƣớc, Chính phủ Trung Quốc đã tích cực
khởi xƣớng thông qua hợp tác quốc tế cùng ứng phó với KHTC, dùng hành động
thực tế để ổn định kinh tế toàn cầu. Sau khi KHTC bùng nổ, trong quãng thời gian
chƣa đầy một năm, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã ba lần dự Hội nghị Thƣợng đỉnh tài
chính các nhà lãnh đạo G20, đƣa ra chủ trƣơng của Trung Quốc về việc hợp tác ứng
phó với khủng hoảng và thúc đẩy cải cách hệ thống tài chính toàn cầu, cung cấp các
giải pháp giúp đỡ thiết thực cho kế hoạch ứng cứu trong khuôn khổ các tổ chức toàn
128
cầu, đƣợc cộng đồng thế giới chấp nhận một cách phổ biến. Chính phủ Trung Quốc
đã tăng cƣờng phối hợp chính sách vĩ mô với các nƣớc khác, áp dụng đồng bộ, rộng
rãi chính sách tài chính- tiền tệ, đã phát huy tác dụng tích cực trong việc làm dịu tác
động của khủng hoảng và khôi phục niềm tin thị trƣờng. Là nƣớc nắm giữ nhiều
nhất trái phiếu của Chính phủ Mỹ, Trung Quốc có vai trò hết sức quan trọng đối với
sự ổn định của hệ thông tiền tệ dự trữ toàn cầu. Trong khi tỷ giá hối đoái của nhiều
nƣớc giảm mạnh, đứng trƣớc áp lực to lớn về đồng đôla mất giá, Trung Quốc không
bán tháo với quy mô lớn, kiên trì nắm chắc số đôla Mỹ hiện có, đã duy trì ổn định tỷ
giá đồng nhân dân tệ, tránh đƣợc cọ xát thƣơng mại quy mô lớn thể hiện sự gánh
vác trách nhiệm của Trung Quốc đối với việc làm dịu áp lực xuất khẩu của các nƣớc
châu Á. Khi cuộc KHTC toàn cầu trở nên sâu sức hơn, Chính phủ Trung Quốc đã tổ
chức đoàn mua sắm quy mô lớn tới các khu vực, trong đó có châu Âu, để tiến hành
mua sắm, hỗ trợ tín dụng 10 tỷ USD cho các nƣớc thành viên trong Tổ chức hợp tác
Thƣợng Hải; cùng với nhiều nƣớc nhƣ Nga, Braxin ký kết các thỏa thuận hợp tác
năng lƣợng, tài chính; tham gia kế hoạch huy động vốn thƣơng mại của công ty tài
chính toàn cầu và quyết định cung cấp 1,5 tỷ USD tiền huy động vốn đợt đầu tiên;
tích cực tham gia giữ gìn ổn định tình hình kinh tế tài chính khu vực, thúc đẩy hợp
tác tài chính và phát triển thƣơng mại khu vực; đóng góp 38,4 tỷ USD vào quỹ dự
trữ ngoại tệ khu vực; cung cấp 200 triệu USD cho quỹ bảo lãnh tín dụng và quỹ đầu
tƣ của khu vực; tích cực thúc đẩy hoàn thành xây dựng Khu vực mậu dịch tự do
Trung Quốc- ASEAN đúng thời hạn 89 ; Ngân hàng Trung ƣơng Trung Quốc đã
ký với Ngân hàng Trung ƣơng và tổ chức tiền tệ của sáu nƣớc và lãnh thổ là Hàn
Quốc, Hồng Kông, Malaixia, Nga, Inđônêxia, Áchentina, ký kết nhiều thỏa thuận
hoán đổi tiền tệ song phƣơng với tổng kim ngạch lên tới 650 tỷ nhân dân tệ. Sự cố
gắng của Chính phủ Trung Quốc đã có tác dụng quan trọng đối với việc khôi phục
niềm tin, thúc đẩy kinh tế toàn cầu phục hồi.
Song song với việc trong nƣớc thực thi chính sách kích thích kinh tế cả gói,
Chính phủ Trung Quốc khởi xƣớng và tích cực tham gia vào việc phối hợp chính
sách và hợp tác toàn cầu nhằm ứng phó với cuộc KHTC. Các nhà lãnh đạo Trung
Quốc đã nhiều lần tham dự hội nghị toàn cầu và đi thăm nƣớc ngoài, đƣa ra đề nghị
129
chống chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và đầu tƣ, tăng cƣờng hợp tác quốc tế, cùng ứng
phó với thách thức; nhấn mạnh rằng để phòng ngừa KHTC toàn cầu, các nƣớc cần
nỗ lực xây dựng trật tự tài chính toàn cầu mới; nâng cao quyền đƣợc biết thông tin,
quyền phát ngôn và quyền đề ra nguyên tắc của các nền kinh tế mới nổi và các nƣớc
đang phát triển; thực hiện đầy đủ lợi ích của các nền kinh tế mới nổi và các nƣớc
đang phát triển. Tại các Hội nghị thƣợng đỉnh thị trƣờng tài chính và kinh tế thế giới
các nhà lãnh đạo nhóm G20, lãnh đạo Trung Quốc đã đề xuất ý kiến kiên trì nguyên
tắc tính toàn diện, tính cân bằng, tính tiệm tiến, tính hiệu quả thực tế để tiến hành
cải cách hệ thống tài chính toàn cầu.
2.2.2.4. Hiệu quả các chính sách ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu của
Trung Quốc.
Đứng trƣớc cuộc KHTC toàn cầu hiếm thấy trong vòng 100 năm qua, Chính
phủ Trung Quốc đã phát hiện sớm, quyết đoán đúng, đề ra phƣơng án ứng phó
mạnh, giải pháp thiết thực, việc thực thi chính sách đƣợc tiến hành nhanh, hiệu suất
cao. Hiệu ứng chính sách của kế hoạch cả gói từng bƣớc thể hiện rõ, các nhân tố
tích cực trong vận hành nền kinh tế Trung Quốc tăng lên, đà phục hồi và ổn định
ngày một rõ rệt. Điều này thể hiện nổi bật ở bốn mặt: kinh tế tăng trƣởng ổn định
trở lại, tăng trƣởng nhu cầu trong nƣớc nhanh hơn, điều chỉnh cơ cấu kinh tế đƣợc
thúc đẩy tích cực, đời sống nhân dân tiếp tục đƣợc cải thiện. Số việc làm tăng mới
vƣợt quá mục tiêu dự kiến; công nghiệp tăng trƣởng rõ rệt, tình hình sản xuất nông
nghiệp về tổng thể giữ đƣợc ổn định, sản lƣợng lƣơng thực gia tăng; đà xuất khẩu
tụt dốc đƣợc chặn lại, việc điều chỉnh kết cấu và sự nghiệp khoa học kỹ thuật tiến
triển tích cực. Tín dụng tiền tệ tăng mạnh, tính lƣu động tƣơng đối dồi dào, tạo chỗ
dựa vững chắc cho kinh tế thực ổn định và chuyển biến theo hƣớng tốt. Niềm tin thị
trƣờng tăng lên. Chỉ số sức sống doanh nghiệp, chỉ só niềm tin của nhà doanh
nghiệp, chỉ số mua sắm trong ngành chế tạo đều đang tăng ổn định.
Tuy vậy, những chiến lƣợc của Chính phủ Trung Quốc hàm chứa nhiều rủi ro
bởi lẽ cơn lũ tiền tệ đổ vào nền kinh tế đang tràn tới các thị trƣờng chứng khoán và
bất động sản, thổi bùng những quả bong bóng mới. Và sự tích tụ các món nợ xấu,
các dự án vô tích sự có thể kìm hãm đà tăng trƣởng và tài chính công. Ngoài ra, sự
130
phụ thuộc của nền kinh tế vào đầu tƣ và tín dụng của chính phủ có nghĩa là bất kỳ
sự trục trặc nào về chính sách cũng có thể làm trật đƣờng ray công cuộc gặt hái
niềm tin. “Tôi nghĩ có một nguy cơ rõ ràng và đang gia tăng về một bong bóng tài
sản và một sự lên xuống thất thƣờng trong sự tăng trƣởng”, bà Vƣơng Đào (Wang
Tao), một nhà kinh tế học ngƣời Trung Quốc đang làm việc cho Ngân hàng Thụy Sĩ
USB, nhận định. Vì thế, điều khẩn cấp là Chính phủ Trung Quốc phải sáng tạo ra
những phƣơng thức kiến tạo sự tăng trƣởng bền vững trong khu vực kinh tế tƣ nhân.
Bên cạnh các giải pháp ngắn hạn, cần có sự suy nghĩ trung hạn về việc thay đổi mô
hình tăng trƣởng.
Thật vậy, cũng giống nhƣ các nƣớc khác đang làm với nỗ lực kích cầu của
mình, Trung Quốc đang vay mƣợn từ sự tăng trƣởng tƣơng lai để hỗ trợ nền kinh tế
hôm nay. Vì thế, trƣớc những dự đoán “khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể sẽ lâu
dài”, Phó Thủ tƣớng Trung Quốc phụ trách giám sát lĩnh vực tài chính, ông Vƣơng
Kỳ Sơn đã khẳng định rằng Trung Quốc nhất thiết phải có những biện pháp cải tổ
tài chính chặt chẽ hơn để ứng phó. Phát biểu trƣớc báo giới ông Vƣơng Kỳ Sơn cho
biết “Hiện tại, tình trạng của nền kinh tế toàn cầu đã vô cùng nghiêm trọng và vào
thời điểm bất ổn này, điều duy nhất chúng ta có thể chắc chắn là suy thoái kinh tế
toàn cầu do hậu quả của cuộc khủng hoảng quốc tế sẽ còn lâu dài”. kinh tế Trung
Quốc đã tăng trƣởng 9,1% trong quý II năm 2012, chậm hơn mức 9,5% của quý
trƣớc nhƣng là một tỷ lệ tăng trƣởng đáng ghen tị tại thời điểm khi nhiều quốc gia
đang chới với trƣớc suy thoái.
Tăng trƣởng trong hoạt động xuất khẩu tới các thị trƣờng Phƣơng tây chủ
chốt đang chậm dần và thị trƣờng bất động sản quá nóng của Trung Quốc gần đây
đã chứng kiến sự sụt giảm mạnh trong những giao dịch cho thấy xây dựng nhà ở,
một động lực tăng trƣởng chính của quốc gia này đang “xẹp dần”. Dự kiến kinh tế
Trung Quốc sẽ tăng khoảng 8% trong năm 2012 và 8,25% năm 2013, thấp hơn dự
báo đƣa ra trƣớc đó. Lạm phát trong khi đó khoảng 3% đến 3,5% năm 2012 và còn
2,5% vào năm sau. Thâm hụt ngân sách của Trung Quốc năm 2012 ƣớc tính khoảng
1,25% GDP, không đổi so với năm ngoái trong khi dự trữ ngoại hối dự kiến đạt
khoảng 3.300 tỉ USD 71 .
131
2.2.3. Giải pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của ASEAN.
2.2.3.1. Bối cảnh nền kinh tế ASEAN trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu và quan điểm của các Chính phủ.
Ở ASEAN, hầu hết các nền kinh tế lớn phát triển dựa vào xuất khẩu, thƣơng
mại quốc tế và đầu tƣ nƣớc ngoài và thuộc 50 nƣớc xuất khẩu lớn nhất thế giới,
trong đó Malayxia (bằng 122% GDP), Xingapore (260% GDP), Thái Lan (60%
GDP). Vì thế, đ ASEAN
khi các đối
tác nhập khẩu chính của ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc và một số nƣớc Tây Âu
đang đối mặt với khó khăn do khủng hoảng.
KHTC 1997- 1998, các nền kinh tế
ASEAN có sự chuẩn bị ứng phó với cuộc KHTC toàn cầu 2008 trong điều kiện tốt
hơn nhiều. Trƣớc khi tiến hành các giải pháp cụ thể ứng phó KHTC toàn cầu, Hội
nghị các nhà lãnh đạo ASEAN+3, Hội nghị Hội đồng Thống đốc SEACEN, Hội
nghị cấp cao ASEAN đã họp và đánh giá: tuy trƣớc mắt cuộc khủng hoảng mới chỉ
tác động một phần đến châu Á, nhƣng khu vực cũng sẽ phải đối phó với các nguy
cơ nhƣ sụt giảm nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thu hẹp thị trƣờng xuất khẩu, bất lợi
cho đầu tƣ, mở rộng sản xuất, tăng trƣởng kinh tế, phúc lợi xã hội…vì thế các nhà
lãnh đạo đã cùng thống nhất quan điểm: các nƣớc cần có những biện pháp ứng phó
và phố
từng nƣớc ASEAN cần tiếp tục đẩy mạnh củng cố thiết chế tài chính- ngân hàng
của mình, tăng cƣờng tính an toàn của hệ thống tài chính trong nƣớc, củng cố niềm
132
tin của giới đầu tƣ, kinh doanh. Mặt khác, các nƣớc ASEAN và ASEAN+3 cần xác
định tăng cƣờng hợp tác, tự cƣờng khu vực; tăng cƣờng phối hợp chính sách kinh tế
vĩ mô, đi đôi với áp dụng giải pháp kích thích kinh tế thông qua công cụ ngân sách,
nới lỏng tín dụng tiền tệ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, nhất
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nƣớc nhấn mạnh cần tiếp tục tự do hóa thƣơng
mại trên thế giới, không áp dụng các biện pháp bảo hộ, hàng rào phi thuế quan và
nỗ lực hợp tác và kêu gọi các nƣớc phát triển phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các
nƣớc đang phát triển nhằm khôi phục và bảo đảm hoạt động của thị trƣờng tài chính
và kêu gọi cộng đồng quốc tế nhanh chóng tìm bi
2.2.3.2. Các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của các nước ASEAN
Để đối phó với khủng hoảng, các Chính phủ ở khu vực Đông Nam Á đã tiến
hành những biện pháp tài khóa, kinh tế xã hội, trọng tâm tập trung vào đầu tƣ kết
cấu hạ tầng, tạo công ăn việc làm, an sinh xã hội. Những cải tiến trong chính sách
cơ cấu kinh tế vĩ mô, sự chặt chẽ hơn trong cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng, sự
điều hành doanh nghiệp tốt hơn và quản lý rủi ro hiệu quả hơn trong khu vực tƣ
nhân đã giúp Đông Nam Á chống đỡ đƣợc phần lớn tác động của cuộc khủng hoảng
toàn cầu. Bốn giải pháp của Đông Nam Á rút ra từ cuộc KHTC toàn cầu bao gồm:
Thứ nhất, kịp thời đưa ra các gói kích thích kinh tế thông qua những chính
sách tài chính linh hoạt, thường xuyên cắt giảm lãi suất và bơm một khối lượng lớn
tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại.
Để đối phó với tác động của cuộc khủng hoảng, đầu tiên, hầu hết các quốc gia
thắt chặt chính sách tiền tệ vào đầu năm 2008 để chống lại sự tăng lên chóng mặt
của giá hàng hóa. Đến cuối năm 2008, các Chính phủ lại đồng loạt nới lỏng chính
sách tiền tệ bằng cách giảm lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất tái cấp vốn, tăng tính
thanh khoản bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Các quốc gia Đông Á đều
phải thực hiện các gói kích cầu từ quy mô lớn: Malaysia 9% GDP, Singapore 8%
GDP, Việt Nam 8,3% GDP đến các quy mô nhỏ hơn Thái Lan 3,4% GDP,
133
Philippines 3,1% GDP, Indonesia 1,4% GDP 89 . Cơ quan quản lý tiền tệ của Xin-
ga-po (MAS) lần đầu trong hơn 4 năm qua quyết định cắt giảm lãi suất. Cam-pu-
chia quyết định dành 100 triệu USD để thành lập Quỹ hỗ trợ các ngân hàng nhằm
đối phó với khủng hoảng và duy trì hoạt động. Nửa đầu năm 2009, Thái Lan thực
hiện chƣơng trình kích thích kinh tế trị giá 116,7 tỉ bạt, trong đó ƣu tiên lĩnh vực
xuất khẩu nhằm đạt chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2009 lên 184,7 tỉ USD. Thái
Lan quyết định chi hơn 54 tỉ USD trong vòng 4 năm (2009 - 2013) để khôi phục
tăng trƣởng kinh tế và ngăn chặn tình trạng bất ổn trong nƣớc, tiếp tục duy trì lãi
suất cơ bản đồng bạt ở mức 1,25%. In-đô-nê-xi-a cũng chi 6 tỉ USD trợ giúp tài
chính, ngân hàng khắc phục khủng hoảng và kích thích kinh tế phát triển. Các gói
kích cầu và chính sách đối phó khác ở khu vực Đông Nam Á tập trung tƣơng đối
mạnh vào việc tạo việc làm. Đầu tƣ vào kết cấu hạ tầng là cách chung để tạo việc
làm ở tất cả các quốc gia Campuchia, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Đông
Timor đã nhận đƣợc các khoản vay từ ADB để tài trợ cho các dự án xây dựng hạ
tầng chủ yếu là đƣờng sá và hệ thống nƣớc 105 . Hầu hết các dự án xây dựng đều
là các dự án lớn, chỉ có 2 quốc gia ở Đông Nam Á là Indonesia và Philippines có
các tiêu chuẩn về việc làm để đảm bảo các dự án sử dụng nhiều lao động và ở quy
mô vừa phải.
Thứ hai, khuyến khích đầu tư, tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xuất
khẩu thông qua các công cụ ngân sách. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tiếp cận thị trường tín dụng nhằm tạo việc làm cho người lao động.
Để khuyến khích tiêu dùng của ngƣời dân, tháng 3-2009 Chính phủ Thái Lan
trợ cấp 2.000 bạt/tháng cho những viên chức Nhà nƣớc có thu nhập dƣới 15.000
bạt/tháng (khoảng 9 triệu ngƣời đƣợc nhận khoản trợ cấp này) và mở rộng diện trợ
cấp nhằm kích thích tiêu dùng của ngƣời dân. Singgapore tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp mở rộng thị trƣờng xuất khẩu và cam kết dành 1,5 tỉ USD
để giúp các doanh nghiệp nhỏ đƣợc tiếp cận tín dụng trong bối cảnh kinh tế không
tăng trƣởng nhằm khuyến khích sản xuất. In-đô-nê-xi-a nỗ lực tìm kiếm cơ hội xuất
khẩu và đầu tƣ, tăng cƣờng hợp tác giữa Chính phủ, ngân hàng trung ƣơng với các
ngân hàng và khu vực tƣ nhân. Bên cạnh hoạt động khuyến khích xuất khẩu,
134
ASEAN cũng tăng cƣờng hội nhập kinh tế nội khối và coi tiêu thụ nội địa làm trụ
cột của sự phát triển. Nhờ các khoản kích thích tài chính lớn và tình trạng tài chính
của khu vực tƣ nhân tốt nên tiêu dùng nội địa đã tăng lên. Các Chính phủ cũng đã
tài trợ cho các dự án sản xuất quy mô lớn. Ở Philippines, Thái Lan, Campuchia,
chính sách này đã làm tăng đầu tƣ cho nông nghiệp 83 . Ở Thái Lan, gói kích cầu
tập trung vào nông dân và những ngƣời nghèo với những dự án thực hiện trong
vòng một năm. Tại Philippines, Chính phủ nƣớc này thực hiện Chƣơng trình kế sinh
nhai toàn diện và việc làm khẩn cấp (Comprehensive Livelihood và Emergency
Employment Programme- CLEEP), chƣơng trình này yêu cầu các bộ ban ngành
phải đề xuất những dự án có thể bảo vệ các khu vực dễ bị tổn thƣơng nhất trong nền
kinh tế nhƣ những ngƣời nghèo, lao động xa xứ trở về, công nhân trong lĩnh vực
xuất khẩu, thanh niên bỏ học khỏi sự đe dọa và tác động của việc suy giảm hoặc
mất nguồn thu nhập do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây nên . Ngày 25 tháng 9
năm 2009, số liệu thống kê chính thức chỉ ra rằng có hơn 300 000 việc làm đã đƣợc tạo ra (70% con số theo kế hoạch)7. Ở nhiều nƣớc, một phần khu vực tƣ nhân, đặc
biệt là khu vực gắn liền với sản xuất hàng xuất khẩu đã phản ứng khủng hoảng bằng
cách thay thế công nhân lâu năm bằng những ngƣời trẻ tuổi ít kinh nghiệm nhƣng chấp nhận mức lƣơng thấp hoặc giảm giờ làm hay điều kiện làm việc. Ngƣợc lại, ở
Việt Nam, các doanh nghiệp cố gắng đa dạng hóa bằng cách vƣơn lên chuỗi giá trị
sản xuất cao hơn, cải thiện điều kiện làm việc, tăng thị phần trong nƣớc hoặc mở
rộng sang thị trƣờng mới bao gồm Ai Cập, Trung Đông, ASEAN và Hồng Kông.
Những nỗ lực nhƣ vậy rất dễ thực hiện ở các doanh nghiệp lớn khi họ đã có kinh
nghiệm từ trƣớc và đƣợc hỗ trợ về mặt tài chính 83 . Những doanh nghiệp ở quy
mô nhỏ hơn bằng những cách khác nhau cũng đã thể hiện đƣợc sức chống chịu
trƣớc tác động của khủng hoảng. Chính phủ đã khởi động những dịch vụ đào tạo và
học nghề nhằm hỗ trợ cho các công nhân bị thôi việc, mặc dầu các hoạt động này
tính thực tiễn chƣa cao. Ở Campuchia, Chính phủ đã dành ra 7,5 triệu đôla Mỹ để
giúp đỡ các công nhân bị sa thải trong vòng từ một đến bốn tháng, sau đó sẽ cung
cấp tín dụng vi mô cho họ để họ có thể bắt tay vào việc kinh doanh với quy mô nhỏ.
7 Government of the President to All Cabinet Member dated 6 January 2009
135
60% học viên tƣơng đƣơng với 29.250 cá nhân đều là công nhân may mặc chủ yếu
là phụ nữ.
Thứ ba, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trợ cấp nông nghiệp, giải quyết đời
sống cho người có thu nhập thấp.
Phát triển nông nghiệp không chỉ là yêu cầu bảo đảm cải thiện đời sống cho
nông dân mà còn là nền tảng quan trọng cải thiện thu nhập, nâng cao mức sống cho
khu vực nông thôn các nƣớc ASEAN bởi vì nông nghiệp thu hút tới 161 triệu lao
động trong khu vực Đông Nam Á (44,5% tổng lực lƣợng lao động khu vực). Nông
nghiệp đóng vai trò vừa là động lực của tăng trƣởng kinh tế, vừa là hàng rào bảo vệ
chống nghèo đói. Vì thế, Thái Lan đã triển khai gói kích cầu nông nghiệp bằng các
biện pháp hỗ trợ trực tiếp nhƣ phát phiếu gạo, phiếu ăn cho hộ nghèo, trợ cấp trực
tiếp cho ngƣời thất nghiệp, bù lƣơng cho ngƣời mất việc và khuyến khích nông dân
gieo trồng lúa vụ 3 trong năm trên diện tích đất canh tác. In-đô-nê-xi-a hỗ trợ ngƣời
nghèo thông qua mức kinh phí cho mỗi xã là 3 tỉ ru-pi, mỗi cá nhân đƣợc vay vốn
ngân hàng không phải ký quỹ tới 5 triệu ru-pi và phân phát tiền mặt trực tiếp tới
mỗi hộ gia đình nghèo 100.000 ru-pi/tháng trong vòng 18 tháng. Phi-lip-pin dành
6,8 tỉ USD từ ngân sách năm 2009 cho chƣơng trình phát triển đầu tƣ kết cấu hạ
tầng và an sinh xã hội, dành khoản kinh phí lớn để cải thiện hệ thống thủy lợi, nâng
cao năng suất lúa và đƣa 300.000 ha đất không sử dụng đƣợc trƣớc đây vào canh
tác. Ngoài ra, Chính phủ cấp thêm một khoản kinh phí 120,5 triệu USD đầu tƣ cho
nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông. Cam-pu-chia tăng gấp đôi ngân sách cho hệ
thống giao thông, hệ thống tƣới tiêu và các kết cấu hạ tầng khác trong năm 2009.
Ma-lai-xi-a đƣa ra kế hoạch đầu tƣ 1,9 tỉ USD để mở rộng diện tích trồng lúa nƣớc,
đầu tƣ thâm canh tăng năng suất lúa gạo. Việt Nam đã thành công trong việc giảm
nghèo tại nông thôn là do có quyết sách bảo vệ ngành nông nghiệp trƣớc những
biến động bất ngờ của thị trƣờng lƣơng thực và thực phẩm. ASEAN dự định thành
lập Quỹ và kho dự trữ thóc gạo ở mức khoảng 3 triệu tấn nhằm ngăn chặn khả năng
thiếu gạo trong khu vực 84 . Mỗi nƣớc thành viên sẽ đóng góp vốn hoặc thóc gạo
cho quỹ này và chủ động tự túc lƣơng thực thông qua đầu tƣ cho tăng trƣởng nông
nghiệp bền vững, hỗ trợ an sinh xã hội nhiều hơn cho nông dân.
136
Phần lớn các Chính phủ cố gắng duy trì múc chi tiêu xã hội nhƣ trƣớc khủng
hoảng; tiếp tục duy trì và mở rộng những chƣơng trình hiện có.
+) Chƣơng trình bảo hiểm y tế của Indonesia Jamkesmas hƣớng tới đối tƣợng
là những ngƣời nghèo, giúp cho những ngƣời này có thể tiếp cận dịch vụ y tế miễn
phí. Số tiền dành cho chƣơng trình này vẫn đang tăng lên so với kế hoạch trƣớc
khủng hoảng. Indonesia trƣớc đó đã thực hiện chƣơng trình chuyển tiền mặt không
điều kiện gọi tắt là BLT và tiến hành thử nghiệm chƣơng trình chuyển tiền mặt có
điều kiện khủng hoảng. Chính phủ cũng đang lên kế hoạch đã tăng nguồn tài trợ cho
các cộng đồng bị ảnh hƣởng nhiều nhất thông qua chƣơng trình PNPM 83 .
+) Ở Campuchia, theo khảo sát của Oxfam có khoảng 30% hộ gia đình cho
biết họ có nhận đƣợc vài dạng hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ hoặc các tổ chức phi
Chính phủ NGOs kể từ khi khủng hoảng bắt đầu. Trong số đó có 35% số ngƣời
đƣợc hỏi nhận đƣợc thuốc men và dịch vụ y tế miễn phí từ Chính phủ. Chính phủ
nƣớc cũng tiếp tục hỗ trợ các chƣơng trình hƣớng tới những ngôi làng nghèo nhất
khắp cả nƣớc. Chƣơng trình của các NGOs, ngƣợc lại lại tập trung vào dân nghèo
thành thị 84
+) Thái Lan duy trì thu nhập chi trả cho ngƣời già, một chƣơng trình đƣợc
thực hiện trƣớc khủng hoảng, nhƣng nghiên cứu của Oxfam chỉ ra rằng bố mẹ của
nhiều công nhân may mặc vẫn chƣa nhận đƣợc bất cứ khoản thanh toán nào từ
chƣơng trình này. Ngoài ra, nhiều công nhân ở khu vực nông thôn ra thành phố xin
việc và vừa mới bị mất việc làm có bố mẹ dƣới 60 tuổi, bố mẹ họ cũng chƣa đƣợc
xét vào đối tƣợng của chƣơng trình 88 .
+) Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì chƣơng trình trợ cấp thất nghiệp mới đƣợc
ban hành nhƣng độ bao phủ của chƣơng trình này còn hạn chế ở một số đối tƣợng
nhất định trong khu vực lao động chính thức, và tác động của chƣơng trình sau một
năm thực hiện từ 2009 là không rõ ràng.
+) Ở Indonesia, một phần của gói kích cầu lại dành cho việc tăng lƣơng công
chức, quân đội, cảnh sát, cán bộ về hƣu và giáo viên 88
+) Nhiều gia đình hƣởng lợi từ các chƣơng trình miễn giảm học phí ở
Indonesia và Thái Lan. Tuy nhiên, trong cả hai trƣờng hợp, hộ gia đình lại gặp phải
137
khó khăn khác đến từ các khoản kèm theo tiền học nhƣ thức ăn, chi phí đƣa đón,
sách vở, đồng phục đƣợc nhà trƣờng gọi là các khoản đóng góp tự nguyện.
Trong vài trƣờng hợp, Chính phủ sẽ hành động nhiều hơn và giới thiệu thêm
các chƣơng trình mới để đối phó với khủng hoảng. Chính quyền cấp xã ở Việt Nam
đã mở rộng chƣơng trình cho học sinh nghèo vay tiền tới tất cả các hộ dân nhằm
giúp con em của họ vẫn tiếp tục đi học.
Thứ tư, gia tăng hợp tác khu vực và quốc tế, kịp thời thành lập Quỹ dự phòng
khẩn cấp, Quỹ tài chính khu vực và Quỹ hợp tác đầu tư.
Để đối phó với cơn bão tài chính và giúp các nƣớc cần tiền mặt, ASEAN
thống nhất thành lập một Quỹ dự phòng khẩn cấp với sự hỗ trợ 10 tỉ USD của Ngân
hàng Thế giới. Quỹ này sẽ đƣợc sử dụng mua các tài sản xấu và hỗ trợ về vốn đối
với các tổ chức tài chính cũng nhƣ các công ty tƣ nhân. Các lãnh đạo ASEAN đã
cam kết phối hợp hành động và chống lại xu hƣớng bảo hộ mậu dịch để đối phó với
khủng hoảng tài chính, thỏa thuận hợp tác để đảm bảo an ninh năng lƣợng, thành
lập đề án lƣu trữ gạo để đối phó với tình trạng khủng hoảng lƣơng thực. Ngoài ra,
ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3) quyết định
nâng Quỹ tài chính khu vực cứu trợ khẩn cấp với tổng trị giá từ 80 tỷ USD lên 120
tỉ USD do các thành viên đóng góp nhằm hỗ trợ tài chính cho những quốc gia gặp
khó khăn. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thống nhất tỷ lệ đóng góp 2:2:1 cho
quỹ khu vực. Theo đó, Trung Quốc và Nhật Bản mỗi nƣớc sẽ đóng góp 38,4 tỉ
USD, Hàn Quốc sẽ đóng góp 19,2 tỉ USD. Các khoản đóng góp của 3 nƣớc đối tác
chiếm 80% giá trị của quỹ. Còn lại 20% giá trị quỹ do các nƣớc thành viên ASEAN
đóng góp. Cụ thể, đối với 4 nƣớc: In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Xin-ga-po và Ma-lai-xi-
a, mỗi nƣớc sẽ đóng góp 4,76 tỉ USD; Phi-lip-pin đóng góp 3,68 tỉ USD. Các nƣớc
Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma và Bru-nây đóng góp tùy theo dự trữ ngoại
tệ của mỗi nƣớc. Bên cạnh đó, ASEAN còn thành lập Quỹ hợp tác đầu tƣ với Trung
Quốc trị giá 10 tỉ USD để đối phó với cuộc KHTC toàn cầu và nhận sự hỗ trợ của
Nhật Bản - nền kinh tế lớn nhất khu vực Châu Á - hơn 6 nghìn tỷ yên (61,54 tỉ
USD) để khắc phục suy thoái kinh tế 83 .
138
Tại cuộc họp thƣờng niên của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng phát triển Châu
Á (ADB) diễn ra ở Philippines diễn ra tháng 5/2012, các nƣớc ASEAN +3 đã quyết
định tăng gấp đôi Quỹ hoán đổi tiền tệ ngăn ngừa KHTC theo sang kiến Chiang
Mai từ 120 tỷ USD lên 240 tỷ USD. Các bên đã tái khẳng định cam kết tăng cƣờng
hợp tác tài chính ba bên và thúc đẩy các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phƣơng
giữa 3 nƣớc nhằm góp phần ổn định các thị trƣờng tài chính trong khu vực 83 .
Tóm lại, từ kết quả của các biện pháp ứng phó với cuộc KHTC toàn cầu của
ASEAN, có thể rút ra hai nét chính cốt lõi: Thứ nhất, đẩy mạnh củng cố thiết chế tài
chính - ngân hàng, tăng cƣờng tính an toàn của hệ thống tài chính, củng cố niềm tin
của giới đầu tƣ, kinh doanh. Thứ hai, ASEAN tăng cƣờng phối hợp chính sách tài
chính tiền tệ trong nội bộ khu vực và với các nền kinh tế có quy mô lớn, vững mạnh
và dự trữ dồi dào trong khu vực nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Những cải tiến trong chính sách cơ cấu kinh tế vĩ mô, sự chặt chẽ hơn trong cơ
chế giám sát hệ thống ngân hàng, sự điều hành doanh nghiệp tốt hơn và quản lý rủi
ro hiệu quả hơn trong khu vực tƣ nhân đã giúp Đông Nam Á chống đỡ đƣợc phần
lớn tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu so với cuộc khủng khoảng tài chính
năm 1997. Các Chính phủ Đông Nam Á giờ đây có dự trữ tiền mặt lớn, thâm hụt
thấp so với thời kỳ trƣớc. Nhiều Chính phủ đã kịp thời áp dụng kế hoạch nhằm hỗ
trợ tăng trƣởng kinh tế. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với những nƣớc phụ thuộc
vào xuất khẩu nhƣ các nƣớc thuộc khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, các nhà đầu
tƣ lớn nhƣ Nhật Bản, EU - những quốc gia phát triển - đang có chiến lƣợc đầu tƣ
dài hạn vào khu vực này trong 10 năm tới, trong đó có Việt Nam. Trong các nƣớc
ASEAN, Xin-ga-po có thể đƣợc coi là có nhiều dấu hiệu phát triển lạc quan nhất và
sẽ vƣợt qua đƣợc cuộc khủng hoảng một cách an toàn nhất, nhờ một số ƣu thế
nhƣ: Thứ nhất, tỷ lệ thất nghiệp thấp; Thứ hai, nền kinh tế đa dạng, năng động. Một
số lĩnh vực sản xuất (cơ khí hàng hải, xây dựng...) vẫn tạo ra các sản phẩm có giá trị
cao; Thứ ba, vị thế tài chính của Chính phủ vững mạnh. Các hoạt động tài chính,
ngân hàng và việc quản lý tài sản của các ngân hàng tƣ nhân duy trì đƣợc hoạt động
tốt. Singapore có khả năng thực hiện những hành động cần thiết nếu tình hình trở
nên xấu hơn và hiện Chính phủ Singapore đang tập trung vào những lĩnh vực có
139
tiến triển tốt nhƣ giáo dục, đào tạo, thu hút đầu tƣ mới và công nghiệp mới. Trong
Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tháng 3-2009, Singapore đƣợc xếp vị
trí thứ 1/134 (châu Á) và thứ 5 (thế giới) về chỉ số cạnh tranh toàn cầu. Mặc dù chỉ
số niềm tin của ASEAN bị giảm, nhƣng vẫn cao hơn mức trung bình (32,3) trong
cuộc khủng hoảngkinh tế tài chính 1997 -1998.
2.3. Đánh giá chung về kết quả ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu của
các nƣớc và những kinh nghiệm rút ra.
2.3.1. Đánh giá chung về các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài chính toàn
cầu của các nước.
Mặc dù có sự khác nhau về quan điểm nhìn nhận nguyên nhân của KHTC toàn
cầu hiện nay, nhƣng thực tế KHTC toàn cầu đã xảy ra và tác động ảnh hƣởng của
nó đến nền kinh tế thế giới là rất lớn. Sự lan rộng của khủng hoảng khiến cho Chính
phủ nhiều nƣớc phải bắt tay vào đối phó khủng hoảng nhằm hạn chế tác động xấu
của KHTC. Có thể nói, trong lần khủng hoảng này, các Chính phủ đã can thiệp vào
nền kinh tế theo ba giai đoạn sau: Trƣớc hết, tiến hành các biện pháp cứu trợ khẩn
cấp nhằm cứu vớt các tổ chức tài chính tín dụng tránh cho chúng khỏi bị đổ vỡ hàng
loạt, hạn chế sự lan rộng của KHTC, cố gắng không để cho KHTC tín dụng có thể
bùng phát thành khủng hoảng tài chính toàn cầu nghiêm trọng. Tiếp theo, là tiến
hành các gói cứu trợ quy mô lớn nhằm kích thích tiêu dùng trong nƣớc và phục hồi
sản xuất kinh doanh. Và cuối cùng là có những giải pháp để thúc đẩy quá trình cải
tổ cơ cấu kinh tế và doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình tăng trƣởng, nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp, giúp họ có thể thoát khỏi khủng
hoảng, trụ vững và phát triển bền vững sau khủng hoảng. Điểm đáng chú ý là gói
kích thích kinh tế của các nƣớc bạn hàng (cùng nhập khẩu hàng của một nƣớc) hoặc
của các nƣớc là đối thủ cạnh tranh (cùng xuất khẩu một loại hàng hóa) đều có tác
động làm tăng thêm những thách thức trong cạnh tranh xuất- nhập khẩu và có dấu
hiệu tăng cƣờng bảo hộ dịch. Tuy nhiên, chƣa nên lạc quan vì còn quá nhiều tiềm ẩn
đằng sau những thành công bƣớc đầu, ví nhƣ sự tăng trƣởng còn phụ thuộc quá
nhiều vào vốn với chất lƣợng thấp. Mặt khác, mặc dù nƣớc nào cũng tung ra các gói
kích thích khổng lồ, nhƣng tăng trƣởng lại giảm sút mạnh, sẽ dẫn đến nguy cơ tiềm
140
ẩn lạm phát cao sau khi hoàn tất việc thực hiện. Tuy ở các mức độ khác nhau, hầu
hết các nƣớc đều đang tích cực đối phó với lạm phát, khi nền kinh tế đi vào phục
hồi, do nhu cầu hàng hóa và dịch vụ tăng. Với các nền kinh tế phát triển, do tốc độ
phục hồi kinh tế còn thấp nền mức độ căng thẳng trong ngắn hạn là không lớn.
Trong khi đó, nguy cơ lạm phát lại rất lớn đối với các nền kinh tế đang phát triển, vì
sự phục hồi nhu cầu ở các nƣớc này nhanh hơn, mạnh hơn, trong khi năng lực sản
xuất hạn chế. Khi thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với khủng hoảng
thƣờng dẫn đến sản xuất và xuất khẩu đình trệ, đồng nội tệ mất giá và lạm phát cao,
đời sống kinh tế ngƣời dân gặp khó khăn có thể dẫn đến những bất ổn về chính trị
và xã hội. Đó là những hệ lụy tất yếu cần luôn đƣợc đề phòng và cảnh giác.
2.3.2. Những kinh nghiệm qua việc ứng phó với khủng hoảng.
Nhìn nhận về các biện pháp ứng phó với khủng hoảng của thế giới và các
nƣớc cho thấy những kết quả nhƣ nêu trên đáng đƣợc ghi nhận. Từ thực tế của
những thành công đó, có thể đúc rút những kinh nghiệm sau:
Thứ nhất: Cần sớm nhận rõ để cảnh báo những lỗ hổng trong thị trường
tài chính và tính minh bạch của các thông tin phản ánh.
Từ việc ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua cho thấy, một hệ
thống tài chính mạnh và đƣợc quản lý tốt sẽ là bƣớc phòng thủ đầu tiên trƣớc bất kỳ
cơn bão tài chính nào. Một nền kinh tế càng có độ mở bao nhiêu thì việc dự báo
những lỗ hổng của thị trƣờng tài chính và giám sát thị trƣờng, giám sát các tổ chức
tài chính càng phải chặt chẽ bấy nhiêu vì nền kinh tế thị trƣờng mở cũng đồng nghĩa
với nguy cơ doanh nghiệp thất bại cao kèm theo đó là những rủi ro lớn của các tổ
chức tín dụng và các nhà đầu tƣ thực hiện hoạt động đầu tƣ và cho vay đối với các
doanh nghiệp đó. Những cuộc khủng hoảng trong quá khứ và cuộc khủng hoảng
vừa qua cho thấy rằng sự ứng phó liên tục ( bằng các chính sách) của chính phủ
trƣớc những vấn đề nảy sinh của thị trƣờng tài chính là điều thiết yếu để bù đắp
những thiếu sót của nền kinh tế và ngăn chặn giảm phát.
Kinh tế thế giới tăng trƣởng mức bình quân 4,7% giai đoạn 2003 - 2007.
Tháng 4-2007, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán tăng trƣởng kinh tế toàn cầu tiếp
tục tăng mức 4,9% trong các năm 2007 và 2008. Tháng 4-2008, tiếp tục dự báo mức
141
tƣơng tự năm 2008 và 3,8% năm 2009. Đến tháng 4-2009, IMF dự báo, kinh tế toàn
cầu tăng trƣởng âm 1,3% năm 2009 và phục hồi nhẹ năm 2010. Trên thực tế, các
con số trên đều sai lệch. Dự báo của IMF cùng chung nhận định với các thể chế
kinh tế, tài chính và tổ chức dự báo quốc tế khác. Điều này cho thấy, hầu hết các
nhà kinh tế không dự đoán đƣợc sự đảo chiều của chu kỳ kinh tế. Khi kinh tế thế
giới tăng trƣởng nhanh và liên tục trong nhiều năm, thì sự đảo chiều là tất yếu và
gây ra hậu quả nặng nề. Toàn cầu hóa thƣơng mại và tài chính đã liên kết các quốc
gia ở mức độ cao hơn nhiều so với mƣời năm trƣớc. Mọi cuộc khủng hoảng tác
động đến một nƣớc, hoặc một nhóm nƣớc này cũng tác động đến một nƣớc, hoặc
một nhóm nƣớc này khác vì thế cần cảnh báo và phản ánh chính xác thông tin để có
những dự liệu trƣớc nhằm ngăn chặn suy thoái.
nổi cộm
ản xuất
lại cho rằng do có cuộc khủng hoảng mà một số ngân hàng “đục nƣớc béo cò”, thu
đƣợc những khoản lớn do cho vay nặng lãi quá sức chịu đựng của doanh nghiệp. Về
phía những ngƣời lao động, tâm lý lo ngại tăng lên, lòng tin vào sự phục hồi, phát
triển
Xuất phát từ quan điểm mọi quốc gia, mọi nền kinh tế đều "bình đẳng" trƣớc
khủng hoảng, tác giả luận án cho rằng, việc đối phó một cách hiệu quả với KHTC
toàn cầu có vai trò chính là các chính sách kinh tế - tài chính của các nƣớc. Nếu
đƣợc chuẩn bị tốt hơn và có khả năng đối phó các cú sốc từ bên ngoài thông qua
việc sử dụng các công cụ chính sách trong nƣớc, thì các nƣớc có thể vững vàng đối
phó khủng hoảng. Cần xây dựng khuôn khổ chính sách tài chính - tiền tệ lành mạnh.
Việc các chính phủ cất giữ lƣợng dự trữ ngoại tệ lớn không có lợi cho sự vận hành
142
của hệ thống tài chính và nền kinh tế toàn cầu. Việc này chỉ giúp hạn chế, chứ
không bảo đảm để một quốc gia có thể đứng vững trong khủng hoảng, khi thƣơng
mại quốc tế suy giảm, giá cả hàng nhập khẩu tăng mạnh và nguồn vốn đầu tƣ bị rút
về. Vì thế, các nƣớc cần tự bảo hiểm đề phòng khủng hoảng bằng cách xây dựng
khuôn khổ chính sách tài chính - kinh tế lành mạnh.
Thứ hai: Cần có sự kịp thời và tính thực tiễn của các chính sách.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này, c
Vấn đề rút ra là
Dù rằng cho đến thời điểm hiện nay, Chính phủ các nƣớc đã đổ rất nhiều tiền
vào các gói giải pháp ứng phó khủng hoảng. Tuy nhiên, niềm tin vào hiệu quả do
các chính sách đó mang lại đối với đầu tƣ và ngƣời dân chƣa thật sự cao. Thị trƣờng
tài chính thế giới vẫn ảm đạm: thị trƣờng chứng khoán sụt giảm, thị trƣờng bất động
143
sản không khởi sắc và thiếu tính thanh khoản, thị trƣờng tiền tệ ngân hàng vẫn còn
trong giai đoạn chờ đợi phục hồi.
vẫn còn nhiều di chứng
phức tạp, kinh nghiệm rút ra là
Điểm nổi bật trong việc thực hiện các gói kích thích kinh tế ở các nƣớc là: các
nƣớc đều sử dụng phối hợp nhiều công cụ khác nhau, trong đó nổi lên hai nhóm
công cụ chủ yếu là tăng chi ngân sách và miễn giảm thuế. Các nƣớc đều xác định
khâu yếu nhất trong hệ thống kinh tế của mình để hỗ trợ. Việc hỗ trợ của Chính phủ
đối phó với khủng hoảng nợ cho vay thế chấp dƣới tiêu chuẩn đã đƣợc thực thi
thông qua nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức tài
chính và ngân hàng nhƣ quốc hữu hóa ngân hàng, khuyến khích sáp nhập ngân
hàng, mua lại các khoản nợ của các ngân hàng có vấn đề hoặc bị phá sản,…
Biện pháp này đã và đang phát huy tác dụng về mặt ngăn ngừa tác động ảnh
hƣởng đỗ vỡ hệ thống tài chính. Thế nhƣng chi phí cho gói giải pháp này vẫn đang
tiếp tục tăng lên và chƣa có dấu hiệu kết thúc, điển hình là danh sách ngân hàng và
các tổ chức tài chính cần đƣợc hỗ trợ không ngừng tăng lên và mức độ bơm tiền của
Chính phủ vào hệ thống tài chính lại tùy thuộc vào khả năng của từng Chính phủ
khi thi hành biện pháp này.
144
sau
nền kinh tế hoàn toàn phụ thuộc đối tƣợng chi, tuy nhiên tiền Nhà nƣớc
Kinh nghiệm thu đƣợc là
145
Thứ ba: Cần đảm bảo tính minh bạch của các sản phẩm tài chính
Theo nghiên cứu của Patrick Butler- Giám đốc McKinsey London- Financial
Services Practice- McKinsey, nằm ở trung tâm của cuộc khủng hoảng là hàng loạt
các sản phẩm đƣợc gọi tên bằng ba chữ viết tắt nhƣ ABS, CDO, MSB, CDS. Không
ai trong số những ngƣời thiết kế và ngƣời mua các sản phẩm này hiểu đầy đủ về
chúng. Những sản phẩm này “đầu độc” hệ thống tài chính, lặng lẽ lan tỏa khắp toàn
cầu nhƣ một thứ viruts đáng sợ, liên tục biến đổi trong quá trình di chuyển và đạt tới
nguy cơ phá hủy cả hệ thống mà không hề phát đi tín hiệu cảnh báo nào. Các cơ chế
quản lý và giám sát vẫn can thiệp rất rụt rè vào quá trình phát triển và lan tỏa những
sản phẩm này do lo ngại tác động cản trở tính năng động của thị trƣờng vốn. Những
sản phẩm này đƣợc “sáng tạo” nhằm khai thác các kẽ hở và né tránh rào cản của các
quy định chứ không phải tìm cách thỏa mãn nhu cầu ngƣời tiêu dùng. Và đó là
nguyên nhân trực tiếp của các bất ổn trên thị trƣờng. Vì vậy, cách tốt nhất để kiểm
tra rủi ro hệ thống với khu vực tài chính là hãm bớt hăng hái sáng tạo của các tổ
chức và đặt ra yêu cầu giao dịch trên sàn với các sản phẩm có lƣợng giao dịch vƣợt
quá một mức giới hạn định trƣớc, hoặc hình thành một trung tâm thanh toán bù trừ
buộc với các sản phẩm này. Cách tiếp cận nhƣ vậy giúp các sản phẩm tài chính trở
nên đơn giản, chuẩn mực và minh bạch hơn, giảm thiểu các rủi ro về tính thanh
khoản- biểu hiện đầu tiên và trực tiếp nhất của các cuộc khủng hoảng tài chính.
Thứ tư: Nhận thức rõ và phát huy vai trò của Nhà nước đối với thị trường
nói chung, với thị trường tài chính nói riêng và sự giám sát của Nhà nước đối với
thị trường tài chính .
Từ thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008 cho thấy: các học
thuyết về thị trƣờng tự do phi điều tiết đang thất bại. Cuộc khủng hoảng đã xóa bỏ
các giá trị mà Hoa Kỳ vốn đề cao một cách cực đoan về khả năng tự điều chỉnh của
cơ chế thị trƣờng. Thực tế ấy đã bác bỏ luận điệu khi cho rằng trong nền kinh tế thị
trƣờng không cần đến vai trò của Nhà nƣớc mà phải tự do hóa thị trƣờng và tƣ nhân
hóa kinh tế nhƣ nhiều ngƣời đã hăng hái ủng hộ. Thực tế cũng đã và đang cho thấy:
sức mạnh khó kiểm soát của thị trƣờng đang tàn phá nền kinh tế thế giới khi thiếu
hoặc chậm sử dụng bàn tay Nhà nƣớc. Với sự phát triển lớn mạnh của các thị
146
trƣờng tài chính, bao gồm sự vận động ngày càng gia tăng của các luồng vốn quốc
tế, nhà nƣớc phải thực hiện chức năng đặc biệt quan trọng đó là giám sát và điều
chỉnh. Chức năng này không thể hoặc không nên để cho tƣ nhân đảm nhận mà nhà
nƣớc cần thực hiện nó một cách nghiêm túc.
Một thực tế cho thấy việc ứng phó khủng hoảng trong thời gian qua của các
chính phủ đã không lƣờng hết tính liên thông thị trƣờng của hệ thống tài chính.
Khủng hoảng cho vay cầm cố dƣới chuẩn làm năng lực tài chính của hệ thống ngân
hàng và các quỹ đầu tƣ bất động sản trở nên yếu kém. Các tổ chức tài chính và ngân
hàng liên tiếp tuyên bố lỗ và trông chờ ứng cứu của chính phủ hoặc phải sáp nhập
trong tình trạng giá trị thị trƣờng của các đơn vị này bị sụt giảm nghiêm trọng. Cuộc
khủng hoảng sau đó đã lan nhanh sang các nƣớc khác và ảnh hƣởng của nó không
chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên cả thế giới với nhiều mức tác động khác nhau
tùy theo tình hình cụ thể của từng quốc gia. Mặt khác, GDP của đa số các quốc gia
đều bị các chuyên gia tài chính dự đoán là sẽ suy giảm, các gói chính sách hỗ trợ
mở rộng tín dụng, tăng chỉ tiêu của chính phủ và hạn chế nhập kh
bài học ở đây là
lƣờng hết tính liên thông thị trƣờng của hệ thống tài chính và
147
Bài học là Nhà nƣớc
cùng
chuyên gia. Quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng là công việc khó khăn. Tuy
vậy, khi thị trƣờng bƣớc vào giai đoạn tăng trƣởng nóng, nếu các ngân hàng vi
phạm yêu cầu về vốn đã đƣợc thống nhất và ban hành từ trƣớc, những phản ứng
cƣơng quyết và không thể thƣơng lƣợng sẽ phải đƣợc cơ quan giám sát thực thi. Cơ
quan giám sát có thể ban hành những điều kiện quản lý chặt chẽ, hạn chế các khoản
chia cổ tức và tiền thƣởng, hoặc yêu cầu cải thiện tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần cho tới
khi trạng thái an toàn đƣợc phục hồi.
Thứ năm: Tăng cường sự phối hợp các chính sách trong từng quốc gia và
quốc tế trong việc ứng phó với khủng hoảng.
Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể đứng cô lập, tách biệt
khỏi hệ thống kinh tế, chính trị toàn cầu. Sức ép quốc tế đang ngày càng đòi hỏi mỗi
quốc gia phải có những chính sách không chỉ phù hợp với điều kiện trong nƣớc mà
còn phải tính đến những yếu tố quốc tế. Mỗi chính sách, mỗi chiến lƣợc phát triển
mà một quốc gia đƣa ra đều phải đƣợc xem xét, cân nhắc trong sự phụ thuộc, ràng
buộc chặt chẽ với các thông lệ quốc tế, với các đƣờng lối, chính sách của nhiều quốc
gia khác và với các diễn biến của các quá trình vận động trên phạm vi toàn cầu.
Tuy vậy, trong cuộc khủng hoảng này, t
148
Từ thực tế đối phó với cuộc khủng hoảng, có thể nhìn nhận IMF vẫn đóng vai
trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho các chính phủ thành viên. Nhóm G20
đã thông qua quỹ cho vay 250 tỷ USD để bảo đảm IMF có đủ nguồn lực hỗ trợ các
nƣớc trong trƣờng hợp khẩn cấp; hệ thống tài chính mang tính toàn cầu, do đó các
nƣớc đang phát triển cần phối hợp IMF để điều tiết và kiểm soát tài chính, giám sát
việc các nƣớc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã đƣợc thông qua, nhằm giữ ổn định
hệ thống tài chính quốc gia, cũng nhƣ lƣu chuyển dòng tiền tệ quốc tế. Thứ nhất,
việc cần làm là tăng cƣờng vai trò của các thể chế quốc tế, nhƣ IMF hay WB và các
ngân hàng phát triển khu vực; đồng thời cũng phải chống sự áp đặt đối với các
nƣớc. Vì trên thực tế, tình hình chắc chắn xấu đi, nếu hệ thống thƣơng mại quốc tế
và lƣu chuyển tài chính sụp đổ. Và, hậu quả của khủng hoảng đối với kinh tế các
quốc gia và hệ thống tài chính toàn cầu sẽ càng trầm trọng.
Không thể phủ nhận việc ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính đã tác động
không nhỏ đến vấn đề an sinh xã hội nhƣ làm cho thất nghiệp gia tăng, thu nhập của
dân cƣ giảm và đầu tƣ hạn chế. Vấn đề này đã khiến cho chính phủ các nƣớc ngoài
149
việc thực thi các biện pháp ứng phó khủng hoảng còn phải chi thêm tiền cho các tác
động ảnh hƣởng của khủng hoảng, cụ thể: Ứng cứu ngân hàng và các tổ chức tài
chính còn phải tăng thêm chi phí cho bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những ngƣời bị thất
nghiệp; Hỗ trợ thanh khoản cho các khoản nợ dƣới tiêu chuẩn ngoài việc tăng tính
thanh khoản và tăng năng lực tài chính cho ngân hàng, còn là việc giãn nợ cho
ngƣời dân đang nợ tiền ngân hàng để mua nhà nhƣng không trả đƣợc nợ, góp phần
hạn chế sự tiêu cực của cuộc KHTC lên nhóm đối tƣợng đang gặp khó khăn này;
Tăng cƣờng chi tiêu cho hoạt động tái dạy nghề cho những ngƣời bị thất nghiệp
nhằm giúp họ chuyển hƣớng nghề nghiệp mới trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thất
nghiệp gia tăng.
Mặc dù đã có biết bao sự quyết tâm đầy ý chí và cả những chấp nhận đau
đớn để ứng phó với cơn khủng hoảng nhƣng thế giới dƣờng nhƣ vẫn chƣa thoát
khỏi khủng hoảng, vì vậy, vẫn cần lên kế hoạch cho một đợt đánh giá đầy đủ các
giải pháp chính sách. Tuy nhiên, giống nhƣ các cuộc khủng hoảng trƣớc, mức độ
nghiêm trọng đã không ngừng bị xem nhẹ trong cuộc khủng hoảng này và các giải
pháp ban đầu vẫn chỉ mang tính tình thế và chƣa đủ do phạm vi tính chất của các
vấn đề tồn tại. Cho đến nay, nhìn chung những nỗ lực của các nƣớc thực hiện các
gói kích thích kinh tế đã mang lại kết quả khá rõ nét, đặc biệt là ngăn chặn sự sụp
đổ của hệ thống tài chính- tín dụng và ngăn chặn xu hƣớng suy thoái kinh tế. Có thể
thế giới đang trong giai đoạn phục hồi nhƣng điều đó không có nghĩa là tránh đƣợc
nguy cơ tái suy thoái khi tỷ lệ thất nghiệp còn rất cao ở Mỹ và khu vực đồng EURO
và nhiều khu vực khác. Nhƣng nếu nhìn ở giác độ khác, với xu hƣớng bảo hộ kinh
tế nội địa của các nƣớc phát triển, khi nền kinh tế toàn cầu “ấm” lên cùng với tác
động do độ trễ của các gói kích thích kinh tế khổng lồ, mà các nƣớc đã và đang thực
hiện, thì lại chính là nguy cơ đối với các nền kinh tế nhỏ dựa vào xuất khẩu. Có thể
nói, tác dụng phụ của các gói giải pháp kích thích kinh tế, mà các nền kinh tế lớn
thực hiện, sẽ gây ra hậu quả tiêu cực không phải cho chính mình, mà chảy vào
những nền kinh tế vốn lâu nay chịu sự lệ thuộc vào các thị trƣờng này. Do đó, sẽ
tăng thêm sự phân cực giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển, hạn chế cơ hội
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa của các quốc gia này. Vì thế bài học cho vấn
150
đề này là cần có sự phối hợp mang tính quốc tế và khu vực lâu dài để giải quyết vấn
đề chung mang tính toàn cầu, tránh nguy cơ kéo doãng sự phân cực giữa các quốc
gia và khu vực, mà chính quá trình toàn cầu hóa đã và đang gây ra, chuyển khó
khăn cho các nƣớc nghèo.
Tóm lại: Lịch sử phát triển của KTTT từ thế kỷ XV đến nay có thể khẳng định
KTTT là thành quả phát triển của nhân loại, việc vận dụng phát triển nó nhƣ thế nào
để có lợi nhất cho mỗi quốc gia là một nhiệm vụ của các chính thể đó. Tuy nhiên,
thị trƣờng nếu không có sự quản lý và điều hành hợp lý thì sẽ nhƣ con ngựa bất
kham đƣa đến nhiều hậu quả khó lƣờng, khủng hoảng kinh tế sẽ có thể xảy ra và
bùng phát bất cứ lúc nào, đặc biệt tron thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Khi khủng hoảng bùng phát, nhà nƣớc và sự can thiệp của nhà nƣớc là vô
cùng quan trọng để hạn chế khuyết tật của thị trƣờng trong quá trình phát triển kinh
tế. Nhƣng, thực tiễn cũng nhƣ qua đúc kết của các lý thuyết cho thấy, Nhà nƣớc
không phải mọi lúc, mọi nơi đều mạnh và sáng suốt nhƣ nhau mà ở mỗi quốc gia
khác nhau có các Nhà nƣớc khác nhau, sự mạnh yếu của các Nhà nƣớc cũng khác
nhau, điều hành và quản lý kinh tế cũng không giống nhau. Nếu Nhà nƣớc mạnh, có
trí tuệ sẽ có chính sách sáng suốt để phát triển kinh tế - xã hội thì kinh tế xã hội sẽ
phát triển và ngƣợc lại. Hơn nữa, Nhà nƣớc vốn dĩ là do con ngƣời điều hành và
quản lý nên sẽ rất nhiều yếu tố chủ quan chứa đựng trong việc hoạch định chính
sách vì nhận thức của con ngƣời về vạn vật xung quanh là hữu hạn, nhiều vấn đề
con ngƣời chƣa thể nhận thức đầy đủ, do đó không tránh khỏi sai lầm. Điều đó cho
thấy cần phải kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa thị trƣờng và Nhà nƣớc trong mỗi giai
đoạn phát triển với các mức độ và liều lƣợng khác nhau. Trong ứng phó với KHTC
toàn cầu thì ở mọi cấp độ, vai trò của Nhà nƣớc là không thể thay thế, và sự thành
công hay thất bại trong việc ngăn ngừa, ứng phó với KHTC phụ thuộc vào năng lực
của Nhà nƣớc trong thực hiện vai trò của mình, đồng thời phụ thuộc vào khả năng
gắn kết và thích ứng của Nhà nƣớc đó trong thể chế kinh tế toàn cầu.
151
CHƢƠNG 3
VIỆT NAM VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt
Nam và giải pháp ứng phó của chính phủ.
3.1.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam
3.1.1.1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Từ điểm xuất phát của một nƣớc nông nghiệp còn lạc hậu, lại trải qua hai
cuộc chiến tranh oanh liệt nhƣng cũng vô cùng thảm khốc gây nhiều hậu quả khắc
nghiệt, cùng với những hạn chế trong quản lý điều hành, nền kinh tế Việt Nam là
một nền kinh tế còn nhiều khó khăn, yếu kém. Sau hơn 25 năm thực hiện đƣờng lối
đổi mới đất nƣớc, Việt Nam về cơ bản đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, từng bƣớc hình thành nền KTTT định hƣớng
xã hội chủ nghĩa.
Với quyết tâm và sự đồng lòng chung sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã
hội, trong nhiều năm trƣớc khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng
trƣởng khá cao, năm sau cao hơn năm trƣớc. Bộ mặt đất nƣớc đã có những thay đổi
khá toàn diện. Tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP) năm 2010 gấp 3,26 lần năm 2000.
Tốc độ tăng trƣởng kinh tế bình quân 5 năm 2006-2010 đạt trên 7%. Thu ngân sách,
kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 5 lần so với năm 2000 39 . Những thành tựu trong
phát triển nông nghiệp đặc biệt là xuất khẩu gạo, xuất khẩu nhiều mặt hàng nông
sản đã đạt đƣợc những thành tích kỳ diệu. Từ chỗ trƣớc đây Việt Nam mỗi năm
phải nhập tới 1-2 triệu tấn lƣơng thực, thì những năm qua Việt Nam đã xuất khẩu
gạo đứng thứ nhất, nhì thế giới. Nhìn chung lại, trong những năm trƣớc KHTC toàn
cầu, Việt Nam đã thực hiện bƣớc đầu thành công công cuộc đổi mới đất nƣớc, đất
nƣớc ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, thông qua việc thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với
những thành công và chƣa thành công, những khiếm khuyết, hạn chế của Việt Nam
đã bộc lộc rõ. Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam có những biểu hiện bất
ổn nghiêm trọng bắt nguồn từ cơ cấu kinh tế với sự phân bổ nguồn lực kém hiệu
quả, không ăn khớp với nhau và mô hình tăng trƣởng bất hợp . Doanh nghiệp đầu tƣ
152
tràn lan do chính sách tiền tệ quá lỏng lẻo; thiếu tầm nhìn dài hạn và thiếu nhất quán
trong quy hoạch dẫn đến quy hoạch chắp vá; các thể chế, quy tắc thị trƣờng chƣa
tạo lập đồng bộ dẫn đến lợi ích của doanh nghiệp bị vi phạm, nhiều doanh nghiệp
chƣa tiếp cận đƣợc các nguồn vốn; chi tiêu thƣờng xuyên lớn, đầu tƣ công kém hiệu
quả dẫn đến kinh tế phát triển chƣa bền vững, “chất lƣợng tăng trƣởng, năng suất,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chƣa vững
chắc, …Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng nguồn nhân lực
hạn chế, kém hiệu quả, đầu tƣ còn dàn trải, quản lý Nhà nƣớc đối với doanh nghiệp
nói chung còn yếu kém; việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
Nhà nƣớc còn bất cập” 12, tr.93 . Trong khi đó, nền kinh tế chƣa tạo đƣợc những
tiềm năng để vƣơn xa phát triển theo hƣớng chất lƣợng, bội chi thƣờng cao hơn kế
hoạch. Hoạt động của một số tổ chức tín dụng chƣa thật an toàn, việc thực hiện lộ
trình giá thị trƣờng với một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu rất chậm, chƣa tạo
đƣợc sự đồng thuận cao trong xã hội. Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn,
nhiều ngành, sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp, chƣa gắn đƣợc nhiều với mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, công nghiệp tăng trƣởng chậm. Đổi mới công nghệ
còn rất chậm, quản trị doanh nghiệp yếu, chất lƣợng quy hoạch và quản lý quy
hoạch còn nhiều hạn chế. Tăng trƣởng kinh tế còn dựa vào yếu tố phát triển theo
chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã
hội có một số yếu kém chậm đƣợc khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo nguồn
nhân lực cho phát triển. Cải cách thể chế và cải cách hành chính chƣa đồng bộ, chƣa
có cơ chế chính sách đột phá thúc đẩy phát triển. Quy trình xây dựng, chất lƣợng và
tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách còn nhiều bất cập. Công tác giám sát, thanh
tra còn nhiều hạn chế gây bức xúc trong dƣ luận. Hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn chƣa
đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, chƣa có cơ chế chính sách hiệu quả để thu hút mạnh
đầu tƣ từ khu vực ngoài nhà nƣớc. Lĩnh vực văn hóa xã hội còn nhiều hạn chế, yếu
kém. Khoảng cách giàu- nghèo còn lớn. Tác động của mặt trái cơ chế thị trƣờng và
hội nhập quốc tế chƣa đƣợc ngăn chặn có hiệu quả, nhiều biểu hiện xấu về đạo đức,
lối sống gây bức xúc trong xã hội. Chính những hạn chế và yếu kém đó làm cho nền
kinh tế Việt Nam dễ bị tổn thƣơng khi khủng hoảng tài chính toàn cầu ập tới.
153
3.1.1.2. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế
Việt Nam
Khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến tất cả các nƣớc nhƣng với mức
độ khác nhau. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chia ra 3 nhóm nƣớc. Nhóm thứ
nhất chịu tác động nặng nề hơn cả là những nƣớc bành trƣớng tín dụng quá mức,
nhƣ Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Ireland...Nhóm thứ hai chịu tác động nhẹ hơn, gồm
những nƣớc hƣớng vào xuất khẩu sang các thị trƣờng thuộc nhóm trên nhƣ Nhật
Bản, Trung Quốc, Đức, Singapo, Hàn Quốc, Việt Nam...Nhóm thứ ba là những
nƣớc phụ thuộc vào vay nợ và viện trợ nƣớc ngoài, nhƣ các nƣớc Trung Đông Âu
(Latvia, Estonia, Hungari...).
So với nhiều nƣớc trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam dù đã phát triển khá
ngoạn mục trong những năm trƣớc khủng hoảng, nhƣng về cơ bản vẫn ở mức khiêm
tốn. Mặc dù Việt Nam không nằm trong trung tâm của cuộc khủng hoảng nhƣng là
một nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập sâu, rộng vào kinh tế thế giới, có độ
mở lớn. Trong những năm qua, xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức 150-170
tỷ, gấp 1,5 đến 1,7 lần GDP của cả nƣớc.
Đối với Việt Nam, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến mọi
mặt có tính ngắn hạn và dài hạn trên những khía cạnh sau.
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm: Năm 2007 tăng trƣởng kinh tế
Việt Nam đạt 8,16%, đƣợc xem là một trong những đỉnh cao tăng trƣởng kinh tế
trong những năm qua. Tới năm 2008, mức tăng trƣởng chỉ còn 6,31%; Tổng sản
phẩm trong nƣớc (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 thấp hơn 8%. Các chỉ tiêu
tăng trƣởng quý I năm 2009 đều thấp hoặc giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2008.
Tốc độ tăng GDP trong quý I năm 2009 đạt 3,1% chỉ bằng 42% so với cùng kỳ năm
2008 (7,49%); tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2009 chỉ
đạt 4% (tháng 4/2009 tăng 3,3%), trong khi cùng kỳ năm trƣớc tỷ lệ này là 16,4%
(trong đó, khu vực kinh tế Nhà nƣớc giảm 0,1%, khu vực kinh tế ngoài Nhà nƣớc
tăng 7,3%, khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng 3,7%); tốc độ tăng tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ đạt 21,5%, cùng kỳ năm trƣớc là
29,5%; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu âm 6,8% (cùng kỳ năm trƣớc kim ngạch
xuất khẩu đạt 22,9 tỷ USD), trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có
154
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (không kể dầu thô) đạt 8,3 tỷ đô la, giảm 10,2% so với cùng
kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu bao gồm: cao su giảm 49,2%, dây điện và dây cáp điện
giảm 41,7%, sản phẩm gốm sứ giảm 23,7%, sản phẩm mây tre, cói và thảm giảm
20,7%, than 18,8%, đặc biệt tốc độ kim ngạch nhập khẩu giảm một cách trầm trọng
(-37%, cùng kỳ năm trƣớc tăng 71%), vốn đầu tƣ nƣớc ngoài thực hiện chỉ bằng
khoảng 70,9% so với cùng kỳ năm trƣớc (2.800 triệu USD); tạo việc làm mới cũng
thấp hơn cùng kỳ năm trƣớc ở mức 4/5 (42,7/53 vạn lƣợt ngƣời), trong khi số ngƣời
mất việc làm từ tháng 10 năm 2008 đến hết tháng 2 năm 2009 là 74,5 nghìn ngƣời,
37,7 nghìn ngƣời thiếu việc làm; các chỉ tiêu thu và chi Ngân sách Nhà nƣớc cũng
đạt thấp (31,4% / 38,6% và 28,5% / 33%) 68 , năm 2009 tăng trƣởng kinh tế chỉ
đạt 5,32%; năm 2010 có dấu hiệu phục hồi, đạt 6,78%; năm 2011 lại tụt xuống chỉ ở
mức 4,73%, và dự báo cả năm 2012 chỉ đạt khoảng 5,2% 37, 41 .
Thứ hai, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam suy giảm
mạnh: Cuộc KHTC khiến nƣớc ta rơi vào tình trạng thiếu vốn cho quá trình phát
triển kinh tế- xã hội bởi trong điều kiện khủng hoảng, bản thân các nhà đầu tƣ quốc
tế cũng có xu hƣớng rút vốn về các nƣớc phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ, nhằm bảo
toàn vốn. Năm 2007 thu hút đầu tƣ đạt xấp xỉ 72 tỷ USD, chỉ tính riêng vốn FDI
thực hiện đã chiếm tới 24,8% tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội của Việt Nam và tăng lên
29,8% trong năm 2008. Cụ thể: Năm 2008: 21,48 tỷ USD; Thu hút đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài trong năm 2009 giảm 79,6% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó: vốn
đăng ký mới giảm 85,7% về vốn và giảm 57,3% về số dự án so với cùng kỳ năm
trƣớc. Trên thực tế, mặc dù đã thực thi rất nhiều biện pháp khuyến khích đầu tƣ,
nƣớc ta cũng chỉ thu hút đƣợc khoảng 6,68 tỷ USD vốn FDI đăng ký trong 5 tháng
đầu năm 2009, giảm khoảng 76,3% so với cùng kỳ năm 2008, cả năm 2009 có
nhích lên nhƣng chỉ đạt ở mức xấp xỉ 30 tỷ USD … năm 2010 giảm xuống chỉ còn
14,696 tỷ USD; năm 2012 chỉ đạt hơn 12,13 tỷ USD. Các luồng vốn vào khác (nhƣ
kiều hối cho đầu tƣ, đầu tƣ gián tiếp, vay thƣơng mại) cũng giảm, khả năng huy
động vốn bằng ngoại tệ cho các dự án lớn, nhƣ các nhà máy điện, thăm dò và khai
thác dầu khí gặp nhiều khó khăn 64 . Do ảnh hƣởng của suy giảm kinh tế, việc tiêu
thụ sản phẩm của nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thu hẹp sản xuất là điều khó
tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
155
Thứ ba, cuộc khủng hoảng làm bộc lộ những yếu kém của hệ thống tài chính,
ngân hàng Việt Nam. Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu xuất phát từ nƣớc Mỹ nêu trên, có thể khẳng định là cuộc khủng
hoảng này sẽ không có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam bởi lẽ;
mức độ hội nhập của các ngân hàng Việt Nam nói chung và của hệ thống ngân hàng
nói riêng vơi nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới chƣa sâu sắc. Các
ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán, bảo
lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lƣợng
vốn của các ngân hàng Việt Nam vay trên thị trƣờng quốc tế là không lớn nên có
thể loại trừ khả năng xuất hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản
của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt
Nam không sở hữu các MBS của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ
phát sinh do công cụ này giảm giá. Mặt khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt
Nam còn khá đơn giản, các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chƣa phát triển, chƣa có
sự liên thông ở mức tinh vi giữa thị trƣờng bất động sản và thị trƣờng chứng khoán
thông qua các công cụ phái sinh tƣơng tự nhƣ BMS của Mỹ. Các ngân hàng Việt
Nam đầu tƣ vào bất động sản chủ yếu thông qua hình thức trực tiếp là cho vay có
đảm bảo bằng tài sản hoặc bằng chính bất động sản hình thành từ vốn vay nên khả
năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất động sản giảm giá là khó xảy ra. Tuy
nhiên, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 nhƣng không phải là không có vấn đề
phát sinh từ những yếu tố nội tại. Do trong thời kỳ hiện tại, chúng ta vẫn chƣa có sự
phân biệt rõ ràng về chức năng của từng loại ngân hàng, vì thế đã tạo điều kiện cho
các ngân hàng thƣơng mại và các tổ chức tà chính đầu tƣ vào bất động sản và chứng
khoán nên đã gây ra không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc
đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua. Với sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng
và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc biệt là các tổ chức tài chính trong thời
gian vừa qua chủ yếu dựa trên vốn góp từ các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà
nƣớc lớn cho nên dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực cần thiết của hoạt động tín
dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự án của các tập đoàn và tổng
156
công ty điều đó không những làm cho rủi ro tín dụng tăng lên mà còn tăng nguy cơ
hiệu ứng dây chuyền khi thị trƣờng tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh của tập đoàn,
tổng công ty có biến động mạnh. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu gia tăng do tăng trƣởng
tín dụng khá cao, vì thế trong thời kỳ khủng hoảng, hệ thống ngân hàng, tài chính,
lúng túng trong việc ban hành các chính sách: khi thì cấm đoán, thắt chặt việc giao
dịch ngoại tệ, lúc thì cấm giao lƣu vàng miếng; khi thì thả nổi lãi suất, lúc lại kiềm
chế với những quy định ngặt nghèo…Tác động của khủng hoảng cộng với việc ứng
phó ban đầu còn lúng túng đã làm cho thị trƣờng tài chính tiền tệ biến động mạnh,
lãi suất ngân hàng những tháng đầu năm 2009 chạy đua cùng lạm phát; lãi suất cơ
bản của Ngân hàng Nhà nƣớc tăng đến 13%/năm, trong khi lãi suất huy động của
các ngân hàng thƣơng mại có lúc lên tới 21%/ năm 38 . Lƣợng kiều hối có dấu
hiệu giảm mạnh vì nguồn thu nhập của Việt kiều và xuất khẩu lao động Việt Nam bị
tác động bởi nền kinh tế sở tại lâm vào suy thoái. Ngoài ra, một khi xuất khẩu giảm,
nguồn cung USD cũng giảm đi tƣơng ứng và gây sức ép giảm giá đối với đồng nội
tệ. Hơn nữa, việc Fed đƣa ra một số lƣợng tiền lớn vào lƣu thông qua gói kích thích
kinh tế khổng lồ 787 tỷ USD cùng với thâm hụt ngân sách lớn dẫn đến tiềm ẩn lạm
phát lớn và lãi suất sẽ tăng cao, gây khó khăn cho việc trả nợ nƣớc ngoài của Chính
phủ, các doanh nghiệp, các ngân hàng. Mặt khác, do quy mô ngân sách của Việt
Nam vốn nhỏ bé lại phải chi đột xuất khoản tiền lớn cho việc ứng phó với khủng
hoảng chắc chắn dẫn đến bội chi ngân sách tăng cao và việc tìm nguồn bù đắp bội
chi cũng rất khó khăn…gây tác động xấu đến nền kinh tế.
Thứ tư, thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù không chịu ảnh hưởng trực
tiếp nhưng cũng có nhiều biến động. Mặc dù sự liên thông và hội nhập của thị
trƣờng tài chính Việt Nam với thị trƣờng tài chính thế giới chƣa cao nhƣng khủng
hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc gia vốn là thị
trƣờng xuất khẩu hàng hóa của nhiều doanh nghiệp chính yếu ở các nƣớc nhƣ Mỹ,
Hàn Quốc, liên minh Châu Âu, Nhật Bản...làm sức mua của các thị trƣờng trên
giảm sút nghiêm trọng ảnh hƣởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi nhuận của
các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt
giảm lại khó có khả năng phục hồi. Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính đã làm cho
157
các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài bán ròng cổ phiếu, trái phiếu, điều đó làm cho chỉ số
VN-Index và Hastc- Index sụt giảm nhanh chóng. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến
tháng 10/2008 các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng trị
giá trên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5 ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu 70 . Tác
động rõ nhất của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam là yếu tố tâm lý. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc xem là
nhân tố dẫn dắt thị trƣờng. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng làm cho giá
chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Tâm lý này đã trở thành một rào cản không nhỏ
cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy thị TTCK.
Thứ năm, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khốn khó, bị đổ vỡ hàng loạt. Do khủng hoảng, hầu
hết các ngành sản xuất cho nhu cầu trong nƣớc hoặc xuất khẩu đều gặp khó khăn.
Nền kinh tế nƣớc ta coi xuất khẩu là một trong những đầu tàu tăng trƣởng chính,
nên gặp khá nhiều ảnh hƣởng từ sự sụt giảm nhu cầu nhập khẩu ở các nƣớc bạn
hàng truyền thống cùng với xu hƣớng quay lại chủ nghĩa bảo hộ của một số đối tác
thƣơng mại quan trọng. Chỉ tính riêng trong quý I -2009, xuất khẩu của nƣớc ta chỉ
tăng khoảng hơn 2,4% so với cùng kỳ năm 2008. Năm 2009, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu giảm 14,3% so với cùng kỳ 2008, trong đó kim ngạch của các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài giảm 6,3%; kim ngạch hàng hóa nhập khẩu giảm
25,2% so với cùng kỳ 2008, trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài giảm 19%. Đã vậy, lãi suất vay của ngân hàng có lúc lên tới
22-25%/ năm nên không ngành sản xuất và đơn vị sản xuất nào chịu nổi 7 . Bởi
vậy, chƣa bao giờ sự đổ vỡ các doanh nghiệp lại nhiều nhƣ thời kỳ sau khủng hoảng
vừa qua. Do ảnh hƣởng của suy giảm kinh tế, việc tiêu thụ sản phẩm của nhiều
doanh nghiệp gặp khó khăn, thu hẹp sản xuất là điều khó tránh khỏi đối với các
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sản xuất ngừng trệ dẫn đến
nhiều ngƣời lao động bị mất hoặc thiếu việc làm, thất nghiệp gia tăng, đời sống của
một bộ phận lớn nhân dân giảm sút. Do đình đốn sản xuất, hàng loạt các doanh
nghiệp bị phá sản nên tình trạng thất nghiệp ở thành thị gia tăng đột biến.
158
Thứ sáu, xã hội có những biểu hiện phức tạp. Từ cuối năm 2007, kinh tế và
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao và suy giảm kinh tế;
trong năm 2008 và 2009, thiên tai, dịch bệnh lại liên tiếp xảy ra với cƣờng độ và
mức độ lớn hơn những năm trƣớc. Giá nguyên liệu nhập khẩu tăng vọt, tỷ giá luôn
biến động, lãi suất dâng cao, đầu tƣ, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều sóng gió, hàng
chục nghìn doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, hàng loạt doanh nghiệp bị phá sản.
Nhiều công nhân thiếu hoặc mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, thu nhập
của công nhân, lao động giảm sút. Thêm vào đó, giá sinh hoạt đắt đỏ ảnh hƣởng lớn
đến đời sống nhân dân, đặc biệt là những ngƣời làm công ăn lƣơng, những gia đình
chính sách, ngƣời dân vùng thiên tai, đồng bào các dân tộc thiểu số, ngƣời
nghèo…Tình trạng tái nghèo có xu hƣớng tăng, quan hệ xã hội có những diến biến
phức tạp.
Nguyên nhân tác động ngắn hạn của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
đến kinh tế- xã hội Việt Nam không lớn đó là vì:
Một là, ở nƣớc ta sản xuất hàng hóa nhỏ còn chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh
tế quốc dân, khả năng tiếp cận hệ thống tín dụng còn hạn hẹp, và chủ yếu hƣớng
vào thị trƣờng địa phƣơng. Gần chục triệu hộ nông dân và hơn 1 triệu hộ thủ công
nghiệp với số ngƣời lao động chiếm tới 77% vẫn tự tạo việc làm, chỉ có 23% tổng
số ngƣời lao động Việt Nam làm công hƣởng lƣơng.
Hai là, mức độ hội nhập tài chính tín dụng quốc tế và khu vực của Việt Nam
chƣa sâu rộng.
Ba là, nhà nƣớc ta đã có một số chính sách kịp thời ứng phó với cuộc khủng
hoảng (nhƣ: nới lỏng chính sách tiền tệ, kích cầu, giảm nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giảm thuế giá trị gia tăng cho 19 nhóm
hàng và dịch vụ v.v...).
Mặc dầu hiện nay kinh tế thế giới đang cố gắng phục hồi, nhƣng rất mong
manh và còn nhiều bất ổn. Nhƣng hầu nhƣ tất cả các chính phủ ở các nƣớc đều ra
sức cấu trúc lại nền kinh tế, khắc phục hậu quả của khủng hoảng, tìm những giải
pháp để phát triển bền vững hơn.
Trong bối cảnh đó, trong dài hạn, trƣớc tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu nƣớc ta phải cấu trúc lại nền kinh tế nếu không muốn tụt hậu xa hơn
so với các nƣớc.
159
3.1.2. Các giải pháp của Việt Nam trong việc ứng phó với khủng hoảng tài chính
toàn cầu.
Xuất phát từ bối cảnh kinh tế- xã hội trong nƣớc và trên cơ sở nhận định đúng
diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới và khu vực, Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam đã ngay lập tức chuyển đổi mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm từ ƣu tiên tập
trung chống lạm phát sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế, đồng thời coi
trọng bảo đảm an sinh xã hội và quan tâm chăm lo cuộc sống của ngƣời dân, nhất là
cho ngƣời nghèo, các đối tƣợng chính sách và những vùng khó khăn.
Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế-xã hội quý I năm
2009 đã xác định rõ: “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế,
phấn dấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an
ninh; giữ vững ổn định chính trị xã hội, trật tự an toàn xã hội, trong đó mục tiêu
hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”. Đây chính là tầm nhìn sáng suốt, sự lãnh
đạo kịp thời và đề ra những định hƣớng chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nƣớc ta
về một vấn đề cấp bách và ở vào một thời điểm hết sức khó khăn. Để thực hiện các
nhiệm vụ trên, cuối năm 2008, trên cơ sở Nghị quyết số 23/2008/QH12 về kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội năm 2009; Nghị quyết số 21/2008/QH12 về dự toán ngân
sách Nhà nƣớc năm 2009; Nghị quyết số 22.2008/QH12 về phân bổ ngân sách
Trung ƣơng năm 2009, ngày 11/12/2008 Chính phủ đã ra Nghị quyết số
30/2008/NQ-Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế, duy trì tăng trƣởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội với 5 nhóm giải pháp
chủ yếu, bao gồm; thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu; kích cầu đầu tƣ và
tiêu dùng; chính sách tài chính tiền tệ; bảo đảm an sinh xã hội.
Trong các tháng đầu năm 2009, Thủ tƣớng Chính phủ tiếp tục ban hành các
quyết định tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và ngăn chặn suy giảm kinh tế nhƣ:
Quyết định số 12/2009/QĐ-TTg ngày 19/01/2009 về kế hoạch triển khai thực hiện
Nghị quyết số 30/2008/NQ-Chính phủ, phân công cụ thể từng nội dung công việc
cho các Bộ, ngành, địa phƣơng triển khai thực hiện; Quyết định số 16/2009/ QĐ-
TTg ngày 21/01/2009 về một số giải pháp về thuế nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn
160
cho doanh nghiệp, kích cầu đầu tƣ và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế; Quyết
định số 239/2009/QĐ-TTg ngày 20/02/2009 về hoãn thu hồi 3.383,7 tỷ đồng vốn
ngân sách đã ứng các năm trƣớc nhằm phục vụ thực hiện mục tiêu kích cầu đầu tƣ
và khắc phục tình trạng ứ đọng, tồn kho nguyên, nhiên, vật liệu từ những tháng cuối
năm 2008; Quyết định số 443/QĐ/TTg ngày 04/04/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho
các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tƣ mới để
phát triển sản xuất- kinh doanh; Quyết định số 58/2009/QĐ-TTg ngày 16/04/2009
bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trƣơng kích cầu đầu tƣ và tiêu
dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp; Quyết
định số 497/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 về hỗ trợ lãi suất vay vốn mua máy
móc thiết bị, vật tƣ phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu
vực nông thôn.
Việc ban hành các chủ trƣơng, chính sách kể trên cho thấy Chính phủ Việt
Nam đã nhận thức rõ tính chất nghiêm trọng của cuộc KHTC toàn cầu và những tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng này tới đời sống kinh tế - xã hội nƣớc ta, từ đó
đã chủ động tìm các giải pháp khắc phục.
Trƣớc những diễn biến của tình hình kinh tế thế giới và nguy cơ khó khăn
ngày càng tăng đối với nền kinh tế là hiện hữu, để ứng phó với tác động của KHTC,
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế và khắc phục những bất lợi do tác động của cuộc
KHTC toàn cầu đến tình hình kinh tế - xã hội trong nƣớc, Chính phủ Việt Nam đề
ra và tiến hành đồng bộ các nhóm giải pháp cấp bách sau;
3.1.2.1. Sử dụng chính sách tài khóa thông qua kích cầu đầu tư và tiêu dùng nội địa.
Kích thích tiêu dùng trong nƣớc đƣợc xác định là một lựa chọn hiệu quả.
Thực hiện giải pháp này ngày 25/01/2009, Chính phủ đã quyết định các phƣơng án
sử dụng khoản kích cầu 1 tỷ USD (lấy từ nguồn dự trữ ngoại hối) để hỗ trợ 4% lãi
suất vốn vay cho một số đối tƣợng doanh nghiệp. Ngày 4/4/2009, Thủ tƣớng Chính
phủ ban hành quyết định cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung và dài hạn, đƣợc
Nhà nƣớc hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay cho một số đối tƣợng doanh nghiệp (các giải
pháp hỗ trợ lãi suất là một biện pháp mang lại hiệu quả cao trong các giải pháp kích
cầu giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn về tài chính, duy trì sản xuất kinh doanh
161
và tạo việc làm cho ngƣời lao động,…). Chính phủ ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-Chính phủ ngày 11/12/2008 quy định về biện pháp kích cầu đầu tƣ,
kích cầu tiêu dùng và các chính sách tài chính- tiền tệ. Trong đó quy định giảm 30%
số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008 và cả năm 2009 cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 70% số thuế thu nhập doanh nghiệp còn lại đƣợc giãn
thời hạn nộp trong thời gian chín tháng. Tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu
vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong trƣờng hợp doanh nghiệp chƣa có chứng
từ thanh toán qua ngân hàng và sẽ hoàn nốt 10% khi đã có chứng từ thanh toán;
Giảm thuế suất, thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu
vào của sản xuất, trong nƣớc chƣa sản xuất đƣợc hoặc có sản xuất nhƣng không đáp
ứng đủ nhu cầu, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức
cạnh tranh; Cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa
xuất- nhập khẩu, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên
liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu
Tổng cộng đến năm 2009, Chính phủ Việt Nam đã dành 2 tỷ USD để kích cầu,
tập trung vào các lĩnh vực sau: Giảm thuế VAT đối với một số mặt hàng, giãn và
miễn thuế thu nhập cá nhân đến tháng 5/2009, chƣa thu thuế đầu tƣ chứng khoán;
Tổ chức lại hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu, trong đó tập trung vào các
mặt hàng: lƣơng thực, xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng và thuốc chữa bệnh
theo hƣớng thuận tiện, tiết kiệm và hiệu quả trong việc vận hành của hàng hóa và
thời gian của ngƣời tiêu dùng; Đƣa toàn bộ các mặt hàng: điện, than, nƣớc sạch,
cƣớc vận chuyển xe buýt sang vận hành theo chế thị trƣờng; Tăng cƣờng các biện
pháp quản lý thị trƣờng, giá cả, chất lƣợng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm;
Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các đợt hạ giá bán hàng để kích thích tiêu
dùng, tập trung vào các dịp lễ hội, tết; Hỗ trợ cho ngƣời nghèo ăn Tết Nguyên đán
với tổng số tiền trên 3.800 tỷ đồng (việc hỗ trợ một khoản tiền nhất định cho ngƣời
nghèo trong dịp Tết là một trong các nội dung chính của chính sách xã hội đã khích
lệ và tạo niềm tin để ngƣời dân chung sức vƣợt qua khó khăn, trong chừng mực
nhất định cũng góp vào việc ổn định đời sống và kích thích tiêu dùng); Tháo gỡ khó
khăn về vốn, mặt bằng, thời gian thực hiện các thủ tục xuất, nhập khẩu, nộp thuế, cơ
162
cấu lại thời hạn vay, miễn, giảm lãi suất các khoản vay có lãi suất cao cho các
doanh nghiệp và ngƣời sản xuất kinh doanh; Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng
phục vụ nhu cầu trong nƣớc, nhất là thực phẩm, đồ uống, hàng dệt may, thuốc chữa
bệnh, hàng sử dụng nguồn nguyên liệu trong nƣớc, sử dụng nhiều lao động nhƣ: các
doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế tạo,
đóng tàu, phân bón,…Hỗ trợ việc tiêu thụ một số sản phẩm công nghiệp tồn đọng
do tác động của khủng hoảng nhƣ: phôi thép, thép xây dựng, xi măng, phân bón,
giấy, hóa chất,…Thực hiện các biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thƣơng mại, khuyến
khích tiêu dùng hàng nội địa; hỗ trợ kinh phí cho công tác xúc tiến xuất khẩu và
khai thác thị trƣờng nội địa; Tăng cƣờng tiếp xúc cấp cao để mở rộng thị trƣờng,
quan hệ buôn bán, vận động theo các kênh chính thức và không chính thức, tạo chủ
động trong việc ứng phó với chính sách bảo hộ mậu dịch, dỡ bỏ các rào cản thuế và
phi thuế để tăng xuất khẩu….
Thực hiện các biện pháp về đơn giản thủ tục, tăng khả năng tiếp cận vốn để
thúc đẩy đầu tƣ cơ sở hạ tầng công cộng và xây dựng nhà ở cho ngƣời nghèo, ngƣời
lao động ở khu công nghiệp, nhà ở cho học sinh, sinh viên. Doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tham gia đầu tƣ các dự án, công trình đầu tƣ hạ tầng quan trọng
nhƣ: cảng biển, điện, đƣờng cao tốc, thủy lợi, trƣờng học, cơ sở y tế đƣợc tạo điều
kiện thuận lợi tối đa về đất đai, tiếp cận nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lãi suất để
góp phần đẩy nhanh tiến độ và kế hoạch thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
và xã hội. Hỗ trợ lãi suất vay vốn cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để
sản xuất, kinh doanh với ba thời hạn bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các
giải pháp hỗ trợ lãi suất là một biện pháp mang lại hiệu quả cao trong các giải pháp
kích cầu giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn về tài chính, duy trì sản xuất kinh
doanh và tạo việc làm cho ngƣời lao động.
Có thể thấy rằng việc quyết định thực hiện các nhóm giải pháp nhƣ trên là
một sự cố gắng rất lớn và là một hành động quyết đoán, kịp thời của Chính phủ đối
với nền kinh tế và cuộc sống của nhân dân trƣớc những thảm họa của cuộc KHTC
toàn cầu. Gói kích cầu của Việt Nam tuy có quy mô nhỏ so với các quốc gia khác,
nhƣng so với quy mô nền kinh tế Việt Nam và điều kiện hạn hẹp của ngân sách Nhà
nƣớc thì nó không hề nhỏ, mà có ý nghĩa rất lớn, thể hiện rõ hơn tính đúng đắn, kịp
163
thời trong các quyết sách của Chính phủ. Thực thi gói kích cầu là hành động đúng
quy luật, hết sức cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng. Gói
kích cầu đƣợc tập trung vào cơ sở hạ tầng, nhất là nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tập
trung vào hỗ trợ doanh nghiệp kích cầu đầu tƣ, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển
mạng lƣới bán lẻ vào thị trƣờng nội địa; tập trung vào vấn đề an sinh xã hội, hỗ trợ
ngƣời nghèo và ngƣời mất việc làm, cứu trợ những vùng bị thiệt hại do thiên tai bão
lũ để ổn định cuộc sống,…Các định hƣớng tập trung kích cầu nhƣ vậy đã đáp ứng
đúng những khâu yếu của nền kinh tế và kịp thời với những tình huống xảy ra trong
thực tế, cho nên đã có tác dụng rõ rệt. Cụ thể:
(1) Cung cấp một lƣợng tài chính đủ lớn để giúp các doanh nghiệp, tổ chức
và cá nhân có vốn đầu tƣ phát triển sản xuất và kinh doanh, cung cấp thêm cho xã
hội một lƣợng hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng, tạo nguồn thu nhập cho
nền kinh tế. Việc tăng vốn đầu tƣ phát triển từ nguồn ngân sách Nhà nƣớc và trái
phiếu Chính phủ, tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, năng lƣợng,
vào nông nghiệp và nông thôn, các công trình văn hóa xã hội, chủ yếu là y tế, giáo
dục đã góp phần tăng GDP trong ngành xây dựng, có tác dụng lan tỏa sang các
ngành sản xuất khác trong nền kinh tế.
(2) Các biện pháp hỗ trợ khuyến khích đầu tƣ, tăng cƣờng xúc tiến đầu tƣ,
thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài và vốn viện trợ phát triển cùng với gia tăng đầu tƣ Nhà
nƣớc đã tác động tích cực tới gia tăng tổng vốn đầu tƣ. Trong điều kiện khó khăn do
khủng hoảng gây ra, việc tăng đƣợc vốn đầu tƣ toàn xã hội là rất có ý nghĩa cả trƣớc
mắt và lâu dài. Lƣợng tiền lớn bơm ra thị trƣờng sẽ giúp cho mọi đối tƣợng trong xã
hội có thêm thu nhập và trên cơ sở đó làm tăng sức mua của thị trƣờng, kích thích
khả năng tiêu thụ hàng hóa và đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Đây chính là giải
pháp giúp tạo ra cầu nội địa mới.
(3) Gói kích cầu đƣa ra đã làm cho các tổ chức, cá nhân bớt khó khăn do sự
thiếu vốn sản xuất kinh doanh do suy thoái kinh tế toàn cầu tác dụng đến. Đồng
thời, gói kích cầu đã làm cho các tổ chức và cá nhân có điều kiện đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh nên đã tạo ra việc làm mới giúp làm giảm bớt sự căng thẳng do mất việc
làm gây ra. GDP quý sau cao hơn quý trƣớc, thu hút các nguồn vốn đầu tƣ vẫn đạt
kết quả khá.
164
(4) Gói kích cầu cũng đã tạo điều kiện bảo đảm an sinh xã hội thông qua hình
thức giảm, hoãn và miễn thuế, hỗ trợ cho ngƣời nghèo trong những dịp lễ tết quan
trọng hay cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, nhƣ đồng bào 61 huyện nghèo. Điều đặc
biệt quan trọng trong gói kích cầu là sự hỗ trợ 4% lãi suất đã làm cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân có điều kiện vay đƣợc nguồn vốn rẻ để đầu tƣ sản xuất
kinh doanh, trên cơ sở đó để hạ giá thành sản xuất nhằm vƣợt qua khó khăn khi giá
cả hàng hóa giảm mạnh.
Những thuận lợi và hiệu ích mang lại của các gói kích cầu và chính sách nêu
trên đã rất rõ ràng. Tuy nhiên, hạn chế của chính sách này chính là định hƣớng của
việc kích cầu thiếu cụ thể, không rõ ràng và không có sự phân định giữa các khái
niệm kích cầu hay kích cung, kích cầu hay giải cứu,…tất cả các gói chính sách đều
đƣợc gộp vào dƣới cái tên kích cầu trong khi tác động thực tế của nó chƣa làm tăng
tổng cầu trong nền kinh tế. Gói kích cầu của Việt Nam thực chất là gói giải cứu tình
huống. Khác với gói kích cầu của Mỹ và Châu Âu, Chính phủ không bơm tiền vào
nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM. Ở Việt Nam, các NHTM chỉ là trung gian
thay mặt Nhà nƣớc phân bổ vốn lại cho nền kinh tế thông qua các gói hỗ trợ lãi
suất. Do đó, gói kích cầu không gắn trực tiếp với quyền lợi của NHTM và dễ dẫn
đến tiêu cực do chính phủ khó có khả năng kiểm soát đƣợc sự phân bổ vốn của các
NHTM. Hơn nữa, khi áp dụng các gói kích cầu, bên cạnh việc giúp cho các doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận nguồn vốn rẻ để sản xuất kinh doanh thì cũng sẽ xuất
hiện hiện tƣợng tiêu cực xin, cho. Đã vậy lại thiếu quan tâm đến giám sát hoạt động,
nhất là vấn đề giảm chi phí sản xuất, không quan tâm đến vấn đề tái cơ cấu lại
doanh nghiệp và nền kinh tế để nâng cao hiệu quả kinh tế và sản xuất kinh doanh.
Hơn nữa, việc kích cầu với nguồn vốn thực chất là ƣu đãi (đây chính là thực chất
Nhà nƣớc cho không 4% lãi suất) rất dễ tạo ra tâm lý các doanh nghiệp trông chờ
vào Nhà nƣớc. Hơn nữa, nếu không cẩn thận sẽ dễ bị lợi dụng và sử dụng không
hiệu quả đồng tiền của Nhà nƣớc hoặc một lƣợng tiền sẽ tập trung vào các ngƣời
giàu trong khi tiền này là do ngƣời dân đóng góp mà có.
Gói kích cầu cũng làm tăng bội chi ngân sách lên cao, bởi lẽ nguồn vốn dành
cho kích cầu phải đi vay bằng hai nguồn nhƣ: vay trong nƣớc và vay nƣớc ngoài.
165
Nếu vay nƣớc ngoài thì phải chuyển đổi từ ngoại tệ ra đồng Việt Nam mà thực tế có
thể lại dùng tiền phát hành để chuyển đổi lƣợng ngoại tệ này nên nguy cơ làm tăng
lƣợng tiền trong lƣu thông. Đây là bài toán khó cho việc cân đối Ngân sách Nhà
nƣớc trong các năm tiếp theo, vì để bảo đảm trả nợ đòi hỏi phải cắt giảm chi đầu tƣ
phát triển và chi thƣờng xuyên. Nếu cắt giảm chi đầu tƣ phát triển thì không có tăng
trƣởng, cắt giảm chi thƣờng xuyên quá mức sẽ không duy trì đƣợc các hoạt động
bình thƣờng hiện nay.
Mặt khác, do phải ứng phó với tình hình suy thoái kinh tế, việc gia tăng mức
cung tiền vào nền kinh tế thông qua các gói hỗ trợ lãi suất và cho vay ƣu đãi là cần
thiết. Song, đƣa một lƣợng tiền lớn vào thị trƣờng sẽ dẫn đến nguy cơ lạm phát lớn
nếu không có giải pháp dài hạn hơn để đảm bảo chắc chắn nguồn vốn tới đƣợc
nguồn sinh lời hiệu quả và có khả năng tái tạo nguồn thu trong tƣơng lai; rủi ro thu
hồi vốn vay và sự giảm sút khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ khác của doanh
nghiệp khi nguồn vốn tự điều chỉnh dòng chảy sang các lĩnh vực đầu tƣ rủi ro. Thực
tế số doanh nghiệp đƣợc vay vốn hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 131/2009/QĐ-
TTg không nhiều (chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp đƣợc vay vốn hỗ trợ lãi
suất). Điều này đã gây ra sự thiếu bình đẳng trong quan hệ kinh tế giữa các doanh
nghiệp và làm giảm ý nghĩa của chủ trƣơng kích cầu.
Hơn nữa bất kỳ một khoản chi lớn nào của Chính phủ đều sẽ làm trầm trọng
hơn tình trạng thâm hụt ngân sách (ít nhất là trong ngắn hạn vì độ trễ của chính
sách), đặc biệt khi các khoản chi không tạo ra giá trị gia tăng một cách tƣơng ứng.
Bởi lẽ, khác với nhiều nƣớc- mà điển hình là Trung Quốc, khả năng ngân sách của
Việt Nam rất có hạn vì thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã ở mức rất cao (7%
GDP theo IMF và ADB, nếu bao gồm cả các khoản chi ngoài ngân sách). Trong khi
Chính phủ cần tăng chi tiêu cho mục tiêu kích thích kinh tế và chính sách xã hội thì
nguồn thu ngân sách lại có nguy cơ bị thu hẹp do tác động của khủng hoảng tài
chính. Hơn nữa, mặc dù kích cầu đầu tƣ có thể là một chính sách hợp lý trong hoàn
cảnh hiện nay, nhƣng nếu kích cầu đầu tƣ thông qua việc nới lỏng tín dụng cho các
tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nƣớc mà thiếu những sự thẩm định và
giám sát thận trọng nhƣ trong thời gian qua thì kết quả rất có thể là nền kinh tế vẫn
tiếp tục đình trệ, trong khi lạm phát bị kích hoạt trở lại.
166
3.1.2.2. Nới lỏng chính sách tiền tệ
Ngay sau khi cuộc KHTC toàn cầu nổ ra, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển
hƣớng từ mục tiêu chống lạm phát sang mục tiêu chống suy thoái. Với gói kích thích
kinh tế thứ nhất trị giá 1 tỷ USD và chính sách hỗ trợ lãi suất 4%, Việt Nam đã cùng
lúc áp dụng chính sách mở rộng tài khóa và chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm mở
rộng cầu nội địa, khôi phục sản xuất kinh doanh, ngăn chặn nguy cơ phá sản của một
số doanh nghiệp. Thủ tƣớng Chính phủ đã ra quyết định về hỗ trợ lãi suất cho các tổ
chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn để đầu tƣ phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngân
hàng Nhà nƣớc đã cùng các tổ chức tín dụng theo dõi sát diễn biến và dự báo của các
nƣớc cũng nhƣ các tổ chức tài chính quốc tế, xây dựng và triển khai các biện pháp
điều hành chính sách tiền tệ phù hợp chuyển hƣớng từ mục tiêu chống lạm phát sang
mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế. Ngành ngân hàng đã tập trung rà
soát các khoản tiền gửi của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở nƣớc ngoài, chuyển tiền
sang gửi ở các ngân hàng có hệ số tín nhiệm cao và đặc biệt là gửi tại Ngân hàng
Trung ƣơng các nƣớc để phòng ngừa rủi ro. Kết quả tiền gửi của hệ thống ngân hàng
đƣợc đảm bảo an toàn, đồng thời Ngân hàng Nhà nƣớc cũng đã chỉ đạo các ngân
hàng thƣơng mại thực hiện nghiêm các quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động kinh
doanh, đẩy mạnh huy động vốn để mở rộng tín dụng có hiệu quả, tiếp tục phát triển
các dịch vụ tiện ích ngân hàng. Quốc hội cho phép các tổ chức tín dụng điều hành lãi
suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản Nhà nƣớc quy định, nhƣng đƣợc phép cho vay
lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án. Do đó, để hƣớng tới đảm bảo mục tiêu tăng
trƣởng GDP, ngăn chặn đà suy giảm do ảnh hƣởng của KHTC, kể từ tháng 10/2008
đến tháng 02/2009 Ngân hàng Nhà nƣớc đã sáu lần giảm lãi suất cơ bản bằng VNĐ;
từ 14%/năm giảm xuống còn 7%/ năm và kéo dài việc thực hiện lãi suất cơ bản này
cho đến hết tháng 11/2009. Mức lãi suất cho vay tối đa bằng đồng Việt Nam giảm từ
12,75%/ năm xuống còn 10%/ năm, kèm theo đó lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/
năm xuống còn 8%/ năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/ năm xuống 6%/ năm;
lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp
thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nƣớc đối với các ngân hàng
giảm từ 9,5%/ năm xuống 8%/ năm. Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng
thƣơng mại xuống còn 5%; lãi suất của tín phiếu bắt buộc giảm mạnh từ 13%/ năm
167
xuống 4,5%/ năm, thúc đẩy các ngân hàng thƣơng mại rút về số tiền đó mua tín
phiếu, tăng thêm cung tiền cho nền kinh tế.
Tuy vậy, lãi suất VNĐ sau khi đƣợc giảm trừ 4% và lãi suất cho vay ngoại tệ
gần nhƣ tƣơng tƣơng nhau, dẫn đến nhu cầu vay VNĐ tăng, làm mất cân đối trên thị
trƣờng tiền tệ (VNĐ), gây sức ép tăng lãi suất VNĐ và tăng tỷ giá, ảnh hƣởng đến
cán cân thanh toán. Ngân hàng Nhà nƣớc đã phải can thiệp thị trƣờng nhằm ổn định
tỷ giá làm dự trữ ngoại tệ giảm. Bên cạnh đó, khó kiểm soát hiệu quả thực chất của
các khoản tín dụng, có hiện tƣợng dùng vốn vay để đảo nợ, đầu tƣ vào chứng khoán
hoặc đầu tƣ vào bất động sản; lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay nên có
doanh nghiệp vay vốn hỗ trợ lãi suất thấp tại ngân hàng này và gửi sang ngân hàng
khác để hƣởng chênh lệch, có doanh nghiệp có vốn gửi vào ngân hàng thƣơng mại
để hƣởng lãi suất cao nhƣng vẫn vay vốn VND để hƣởng hỗ trợ lãi suất. Việc cho
vốn kích cầu lãi suất hỗ trợ 4% của Chính phủ, các ngân hàng chủ yếu cho khách
hàng thân quen chí cốt với ngân hàng để vay với tiêu chí trả nợ đi rồi cho vay lãi
suất hỗ trợ thấp. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ nông dân không “thân, quen”
yêu cầu xin vay thì khó và nhiều khi không đƣợc giải quyết cho vay đã nảy sinh yếu
tố tiêu cực và gây bức xúc. 7
Ví dụ như từ ngày 10/06 đến cuối tháng 8/2009, phát hiện những món cho vay có
sai sót như báo chí loan tin là 3.900 món và với số tiền 8.300 tỷ đồng. Sai sót này
chủ yếu là thiếu hồ sơ, thủ tục và cho vay sai đối tượng, trong đó có cho vay thông
thường. Trong số sai sót này có phần hỗ trợ lãi suất sai là 46 tỷ; 4000 trường hợp
vi phạm cho vay kích cầu. Công an Đồng Tháp khởi tổ phó phòng giao dịch
Vietcombank thị xã Hồng Ngự về hành vi nhận hối lộ. Cán bộ ngân hàng này được
cho là đã sử dụng sổ đỏ của các hộ nông dân để làm thủ tục vay 5,6 tỷ đồng ở
Ngân hàng Vietcombank và Ngân hàng cổ phần Kiên Long. Tuy nhiên, số tiền các
hộ dân thực vay chỉ là 2,615 tỷ đồng. Thanh tra của ngân hàng Nhà nước cho biết
có việc sử dụng vốn sai như đầu tư vào lĩnh vực không thuộc đối tượng được hỗ
trợ, có hiện tượng trùng lắp hoặc nhận nợ hai lần hoặc tại hai tổ chức tín dụng
khác nhau, vay để trả nợ cũ,….Phổ biến nhất là cho vay sai đối tượng, vốn vay
không phải dùng để đầu tư dự án mới hoặc để kinh doanh hàng tiêu dùng có nguồn
gốc nhập khẩu.
Nguồn: http/:wwwdantri/diendandoanhnghiep
168
Nhìn từ góc độ kinh tế vĩ mô, chính sách hỗ trợ lãi suất đã đƣa đến một số hệ
quả không mong muốn. Thứ nhất, đó là tình trạng gia tăng dƣ nợ tín dụng ảo- tức là
mặc dù dƣ nợ tín dụng tăng nhƣng vốn lại không đi vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh nhƣ mong muốn mà lại quay trở lại hệ thống ngân hàng hay đổ vào các hoạt
động có tính đầu cơ. Thứ hai, chính sách bù lãi suất khiến lãi suất thực tế thấp hơn
nhiều so với lãi suất cân bằng thị trƣờng sẽ làm xói mòn hiệu lực của chính sách
tiền tệ. Hơn nữa, nếu phối hợp không khéo thì chính sách hỗ trợ lãi suất, chính sách
lãi suất cơ bản và chính sách tỷ giá không tƣơng thích với nhau. Chẳng hạn nhƣ
nếu Ngân hàng Nhà nƣớc tiếp tục hạ lãi suất cơ bản thì mỗi khi lãi suất cơ bản hạ
1%, lãi suất hỗ trợ sẽ giảm 1,5% nên ngân hàng thƣơng mại sẽ rất khó duy trì đƣợc
tính thanh khoản và có lãi nếu tham gia tích cực vào chƣơng trình hỗ trợ lãi suất.
Hay nhƣ nếu tỷ giá đô la Mỹ/ đồng Việt Nam tiếp tục tăng thì doanh nghiệp sẽ
có thêm động cơ lợi dụng khe hở của chính sách để vay tiền đồng với lãi suất hỗ trợ
rồi chuyển sang đô la để hƣởng lợi. Vì những lý do này, chính sách tỷ giá và lãi suất
cần đƣợc thực hiện hết sức thận trọng vì nếu không khéo thì chính sách hỗ trợ lãi
suất sẽ trở thành một ràng buộc cho chính sách tiền tệ vốn đã thiếu tính tự chủ của
Ngân hàng Nhà nƣớc, và do vậy cản trở khả năng sử dụng chính sách tiền tệ một
cách linh hoạt để kịp ứng phó với tình hình vẫn đang biến động hiện nay.
3.1.2.3. Bảo đảm an sinh xã hội
Trong điều kiện nền kinh tế đất nƣớc gặp nhiều khó khăn, Đảng, Nhà nƣớc
vẫn chủ trƣơng bảo đảm phúc lợi xã hội, tăng cƣờng nguồn lực hợp lý để phát triển
hạ tầng giáo dục, y tế, nhà ở…Chính phủ đã dành một phần đáng kể nguồn trái
phiếu để đầu tƣ xây dựng ký túc xá cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ tín dụng để nông
dân cải tạo, xây dựng nhà ở, phòng trừ dịch bệnh, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi
cho đồng bào vùng bị thiên tai khôi phục sản xuất sau lũ, lụt.
Theo quyết định số 169/2008/QĐ-TTg ngày 15/12/2008; Nghị định số
83/2008/NĐ-Chính phủ ngày 31/7/2008; Nghị định số 89/2008/NĐ-Chính phủ ngày
13/08/2008, Chính phủ đã áp dụng các chính sách hỗ trợ đầu tƣ nhằm thực hiện
giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo; Tổ chức triển khai chế độ bảo
hiểm thất nghiệp theo quy định của luật bảo hiểm xã hội; Thực hiện trợ cấp khó
169
khăn cho ngƣời hƣởng lƣơng từ ngân sách Nhà nƣớc có đời sống khó khăn, thu
nhập thấp; Thực hiện chƣơng trình tín dụng đối với hộ nghèo, học sinh, sinh viên
nghèo, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nƣớc sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; Huy động các nguồn lực xã hội và bố trí tăng
ngân sách để phát triển mạnh các hình thức dạy nghề cho ngƣời lao động thuộc hộ
nghèo, góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo.
Việc xây nhà giá rẻ cho cán bộ và ngƣời có thu nhập thấp cũng là một biện
pháp quan trọng nhằm giúp cho ngƣời có thu nhập thấp có cơ hội có đƣợc ngôi nhà
để ở và cũng là một trong những biện pháp kích thích trở lại của thị trƣờng bất động
sản. Theo Nghị quyết số 18/NQ-Chính phủ ngày 20/04/2009 và Quyết định số
66/2009/QĐ-TTg ngày 24/04-2009 của Thủ tƣớng Chính phủ, thì theo báo cáo của
các địa phƣơng, giai đoạn 2009-2015 là 264 dự án với quy mô xây dựng khoảng
15.742.973m² sàn, và tổng số vốn đầu tƣ là 60.581 tỷ đồng, trong đó huy động từ
các doanh nghiệp khoảng 54.982 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phƣơng huy động
khoảng 60.581 tỷ đồng, đáp ứng cho khoảng 2.728.000 ngƣời. Trong giai đoạn
2009-1010 đã hoàn thành 141 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 3.191.243 m²
sàn, tổng số vốn đầu tƣ là 12.060 tỷ đồng, trong đó huy động từ các doanh nghiệp
khoảng 11.056 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phƣơng huy động khoảng 1.004 tỷ đồng,
đáp ứng cho khoảng 547.400 ngƣời.
Với những chính sách đảm bảo an sinh xã hội cụ thể, thiết thực và kịp thời
cùng với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành từ Trung ƣơng đến địa
phƣơng và sự tham gia tích cực của doanh nghiệp Nhà nƣớc và các tập đoàn kinh tế
Nhà nƣớc (24/28 doanh nghiệp), vấn đề đảm bảo an sinh xã hội đã đạt đƣợc những
kết quả tích cực, góp phần ổn định kinh tế- xã hội. Diện mạo của các huyện nghèo
đã có sự thay đổi rõ rệt. Tính đến hết tháng 11/2010, các huyện đã khởi công xây
dựng hơn 60.000 căn nhà, trong đó trên 37.000 căn nhà đã hoàn thành, bàn giao cho
hộ nghèo. Đã tạo đƣợc việc làm tính đến hết năm 2010 khoảng 150.000 ngƣời, đƣa
tổng số ngƣời đƣợc giải quyết từ đầu năm 2009 là 1.340.000 ngƣời. Chi điều chinh
tiền lƣơng, phụ cấp khoảng 36.700 tỷ đồng. Trợ cấp cứu đói giáp hạt và thiên tai
42.580 tấn gạo 37 . Tổng dƣ nợ của 18 chƣơng trình cho vay hộ nghèo và các đối
170
tƣợng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ƣớc đến cuối năm 2011
đạt 96 nghìn tỷ đồng. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 2000 tỷ
đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân, đặc biệt là đối với ngƣời nghèo.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có bƣớc phát triển tích cực, quy mô giáo dục,
đào tạo các cấp học đều tăng. Hệ thống pháp luật và các định hƣớng phát triển về
giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học- công nghệ và môi trƣờng tiếp tục đƣợc
hoàn thiện.
Tuy vậy, các chƣơng trình, dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo dù đã đƣợc
chú trọng hơn nhƣng chƣa đƣợc lồng ghép tốt nên hiệu quả còn hạn chế. Phản ánh
thực tế tại một số tỉnh cho thấy: có nhiều đầu mối quản lý chƣơng trình, dự án,
nhƣng thiếu chỉ đạo phối hợp từ một trung tâm nên việc phân bổ vốn dàn trải,
chậm, kém hiệu quả. Chẳng hạn, chƣơng trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 62 huyện nghèo theo NQ30a/2008/NQ-Chính phủ đã thực hiện một
cách lúng túng, tình hình triển khai chậm, tiến độ giải ngân thấp (Lào Cai: 5%,
Ninh Thuận: 5%, Nghệ An: 20%). Chính sách bảo đảm an sinh xã hội còn chung
chung, chƣa tính hết các yếu tố vùng, miền, phong tục tập quán, văn hóa. Khi áp
dụng vào thực tiễn phát huy hiệu quả không đều. Ví nhƣ, việc triển khai thực hiện
một số chính sách cụ thể trong gói giải pháp kích thích kinh tế còn nhiều hạn chế,
vƣớng mắc. Khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân đƣợc hƣởng từ chính sách
này còn ít. Suất đầu tƣ cho Chƣơng trình xóa đói giảm nghèo đối với 63 tỉnh,
thành còn quá eo hẹp. Bởi vì, chính các huyện nghèo không thể có điều kiện
nguồn vốn để đối ứng, lồng ghép, do đó hiệu quả chƣơng trình còn kém. Ví nhƣ
rất nhiều quy định trong thủ tục không đồng bộ, rƣờm rà. Việc triển khai vay vốn
trong nông dân ở nông thôn quá nhiều khó khăn do quá nhiều thủ tục và điều kiện.
Ở Vĩnh Phúc, 52% số ngƣời dân bị từ chối hỗ trợ lãi suất do không có thủ tục hợp
lý theo quy định. Ruộng đất manh mún, ngƣời dân không mặn mà với máy móc,
phƣơng tiện cơ giới, việc sử dụng các vật tƣ với số lƣợng ít, do vậy ngƣời dân
không muốn tham gia các gói hỗ trợ.
171
Theo quy định, ngƣời nông dân ở nông thôn muốn đƣợc vay vốn thì phải
thỏa mãn các điều kiện:
(1) Phải đảm bảo thủ tục vay vốn ngân hàng
(2) Phải làm dự án vay vốn đƣợc thẩm định
(3) Có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã
(4) Phải có thế chấp
(5) Phải có dự án trả nợ
(6) Phải mua máy móc, hàng hóa, vật liệu trong nƣớc
(7) Phải có hóa đơn giá trị gia tăng
(8) Phải là nông dân cƣ trú ở nông thôn
Do thủ tục nhƣ vậy, cho nên Quyết định số 497/QĐ-TTg ban hành nông dân
với tay không tới, khó tiếp cận nguồn vốn này. Từ đó, dự án cho vay theo Quyết
định số 497/QĐ-TTg đến nay nông dân vay đạt thấp. Thủ tục, điều kiện vay thì nhƣ
vậy, song vốn tín dụng cho vay thì quá nhỏ. Ví dụ: cho vay 50 triệu xây cất nhà
thực tế là chƣa phù hợp và chỉ 7 triệu cho vay mua phân bón 1 ha đất sản xuất, trong
khi đó nông dân cần khoảng 15 triệu và thực tế nông dân mua đại lý ở ngoài khoảng từ 10-15 triệu thì 3 tháng sau mới phải trả tiền không lấy lãi 8. Hơn nữa, thủ tục,
điều kiện đƣợc xem là quá khắt khe, không phù hợp với nông dân, bắt nông dân
mua máy móc, hàng hóa trong nƣớc, nhƣng thực tế không ở đâu bán máy móc, hàng
hóa trong nƣớc. Đã thế, mua hàng hóa phải có hóa đơn giá trị gia tăng, trong khi
nông dân mua bán, vay sản xuất lẻ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa làm sao có hóa
đơn giá trị gia tăng, chƣa nói hỗ trợ 4% nhƣng nếu có hóa đơn giá trị gia tăng là bà
con phải đóng 10%, nông dân sẽ lỗ trƣớc mắt là 6%.
Nguyên nhân của tình trạng trên có từ nhiều phía, có thể nói một mặt do sự
phát triển hệ thống quản lý xã hội của nƣớc ta còn bất cập, mặt khác, nhiều vấn đề
còn chồng chéo, thiếu minh bạch cả trong hệ thống và chính sách cũng nhƣ tổ chức
thực hiện. Vì thế, việc tìm ra các giải pháp khắc phục cho những năm tiếp theo, đặc
biệt là việc giải quyết các vấn đề “sau khủng hoảng” kinh tế đóng vai trò vô cùng
quan trọng.
8 Theo nghiên cứu của TS. Nguyễn Minh Quang/ TS. Đoàn Xuân Thủy – HVHC Quốc Gia Hồ CHí Minh
172
3.1.2.4. Phối hợp cùng cộng đồng quốc tế để ứng phó với khủng hoảng.
Với tƣ cách là thành viên chính thức và không chính thức của các tổ chức hợp
tác khu vực, quốc tế, Việt Nam luôn nỗ lực thúc đẩy quan hệ hợp tác để hƣớng đến
sự đồng thuận, cùng chung tay chia sẻ khó khăn để vƣợt qua khủng hoảng.
Ngay khi khủng hoảng xảy ra, Việt Nam đã tham dự nhiều Hội nghị, Hội
thảo và các Chƣơng trình Nghị sự quốc tế để bàn về các biện pháp ứng phó khủng
hoảng. Tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 diễn ra từ ngày 28-2 đến ngày
1-3-2009 tại Hua Hin- Cha Am, Thái Lan; tham gia Diễn đàn hợp tác Á- Âu về ứng
phó với khủng hoảng- Hội nghị Bộ trƣởng Ngoại giao 45 nƣớc thành viên ASEM
(FMM) mở rộng diễn ra tại Hà Nội từ chiều 25 đến ngày 27-5-2009; Việt Nam cũng
đã tham gia và ủng hộ tích cực cho các kết luận đạt đƣợc tại Hội nghị Bộ trƣởng Tài
chính ASEAN+3 lần thứ 12 diễn ra tại Bali (Inđônêxia) vào ngày 30-5-2009. Trong
năm 2010, trên cƣơng vị chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã tích cực tổ chức thành công
Hội nghị Bộ trƣởng Tài chính ASEAN 14, Hội nghị Thống đốc Ngân hàng Trung
ƣơng ASEAN; tiếp tục phát huy vai trò và vị thế của mình, Việt Nam tích cực ủng
hộ, thúc đẩy và thực hiện các biện pháp, chủ trƣơng mà các Hội nghị đã thông qua
nhƣ: biện pháp nhằm tăng cƣờng hợp tác, đặc biệt trong ứng phó với khủng hoảng
tài chính toàn cầu đang tác động tiêu cực tới khu vực; tăng cƣờng hợp tác, phối hợp
chính sách kinh tế vĩ mô, đi đôi với áp dụng giải pháp kích thích kinh tế thông qua
công cụ ngân sách, tiền tệ,v.v…
Ngoài các hoạt động hợp tác khu vực, nỗ lực vƣợt qua khủng hoảng và thúc
đẩy nền kinh tế tăng trƣởng bền vững , với tƣ cách là khách mời của nƣớc Chủ tịch
Hội nghị thƣợng đỉnh G20 tại Toronto (Canada) ngày 26 và 27-6-2010 và Hội nghị
G20 tổ chức tại Seoul ngày 12-11-2010 với chủ đề “Tăng trƣởng đều khắp sau
khủng hoảng”, Việt Nam đã có những đề xuất đáng chú ý trong Hội nghị này nhƣ:
chống chủ nghĩa bảo hộ và thúc đẩy tự do hóa thƣơng mại và đầu tƣ; các vấn đề
phát triển, tăng cƣờng sự phối hợp và hợp tác quốc tế...một số vấn đề chung trong
phối hợp quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết nhƣ:
+ Thống nhất nhận thức về thị trƣờng tài chính thế giới đang ngày càng liên
kết chặt chẽ với nhau và trách nhiệm của mỗi nền kinh tế trƣớc tình hình chung phải
tăng cƣờng năng lực đối phó với khủng hoảng khôi phục lòng tin của thị trƣờng, ổn
định các thị trƣờng tài chính và thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế toàn cầu.
173
+ Cam kết tăng cƣờng phối hợp, ban hành các chính sách quản lý tiền tệ, tài
chính, ngân sách một cách có trách nhiệm; nâng cao tính minh bạch, củng cố tầm
giám sát và tăng cƣờng cơ chế quản lý khủng hoảng; xử lý một cách hợp lý mối
quan hệ giữa sáng tạo và quản lý tài chính, đồng thời duy trì chính sách kinh tế vĩ
mô lành mạnh, cải thiện việc giám sát và quản lý đối với tất cả các chủ thể tài chính,
đặc biệt là tính minh bạch của các chủ thể đó.
+ Khẳng định tầm quan trọng của việc tăng cƣờng các biện pháp mở cửa
thƣơng mại, đầu tƣ và một hệ thống thƣơng mại đa phƣơng mở và tiến trình toàn
cầu hóa kinh tế công bằng, ổn định, vận hành theo luật của Tổ chức Thƣơng mại
Thế giới WTO.
Tóm lại: Với phƣơng châm: Chủ động biến khó khăn, thử thách thành thời
cơ để phát triển, Đảng, Nhà nƣớc luôn bám sát diễn biến tình hình thế giới, đất
nƣớc, dự báo các xu thế, khả năng có thể xảy ra; Kiên định các định hƣớng lớn, linh
hoạt trong điều chỉnh các mục tiêu, nhiệm vụ, quyết liệt trong triển khai các giải
pháp cụ thể; vừa triển khai các biện pháp phòng ngừa, vừa táo bạo đầu tƣ vào
những lĩnh vực xã hội trọng yếu có tác động lan tỏa và khả năng tạo ra cơ hội phát
triển lâu dài. Đảng, Nhà nƣớc xác định ứng phó với tác động của cuộc KHTC toàn
cầu đến tình hình đất nƣớc nói chung, đến đời sống xã hội nói riêng, là nhiệm vụ
trung tâm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân tộc. Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng, Bộ Chính trị đã dành nhiều thời gian và trí tuệ, tiến hành nhiều cuộc họp để
đánh giá, dự báo tình hình, đề ra những quan điểm, định hƣớng quan trọng; Quốc
hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội kịp thời ban hành các nghị quyết, xác định các
chủ trƣơng lớn, tạo khuôn khổ pháp lý để Chính phủ xây dựng, chỉ đạo thực thi
những quyết sách nhạy bén, kịp thời bằng những chƣơng trình, giải pháp cụ thể.
Trong thử thách khắc nghiệt, sự đồng thuận xã hội và khối đại đoàn kết dân
tộc đã đƣợc củng cố. Đó là sức mạnh để đất nƣớc Việt Nam mặc dù vẫn còn muôn
vàn khó khăn, nhƣng đã là một trong một số nƣớc sớm, về cơ bản, ra khỏi khủng
hoảng. Kết quả là, Việt Nam đã ngăn chặn đƣợc đà suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng
trƣởng khá và có đƣợc nguồn lực cho đầu tƣ phát triển, tào đà cho thời gian tới.
Tình hình mọi mặt đã đƣợc cải thiện một cách tích cực.
174
Thành công bƣớc đầu của Việt Nam trong việc ứng phó với khủng hoảng theo
tác giả luận án đã thể hiện rõ một cách đúng đắn mang tính tổng hợp sau:
Thứ nhất, đã huy động và tận dụng tốt năng lực nội sinh của nền kinh tế hợp lý.
Thứ hai, đã sử dụng một cách khá linh hoạt các chính sách, công cụ điều tiết
vĩ mô nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa việc đối phó những tác động kinh
tế với kiên quyết bảo đảm an sinh xã hội.
Thứ ba, sử dụng tốt hai nhóm chính sách tài khóa và tiền tệ để vừa chống lạm
phát, vừa ổn định, phát triển kinh tế.
Thứ tư, luôn gắn việc giải quyết vấn đề cấp bách kịp thời với mục tiêu dài hạn,
chiến lƣợc.
Thư năm, luôn biết tạo sức “đề kháng” cho nền kinh tế bằng chính sức mạnh
của mình.
Mặc dù các nhóm giải pháp và các gói kích cầu của Việt Nam, dù khó kiểm
đếm đƣợc kết quả cụ thể, nhiều biện pháp thực hiện khó có thể phát huy ngay tác
dụng trong một thời gian ngắn nhƣng cũng nhƣ nhiều nƣớc khác, Chính phủ Việt
Nam đã hành động một cách quyết đoán với những chính sách thiết thực, kịp thời.
Với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành từ trung ƣơng đến địa phƣơng và
sự tham gia tích cực của doanh nghiệp Nhà nƣớc và các tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc,
cùng với những chính sách tài chính, tiền tệ tín dụng và đầu tƣ góp phần đẩy lùi suy
thoái kinh tế, bƣớc đầu đƣa nƣớc ta thoát khỏi khủng hoảng, tạo đà phát triển cho
những năm tiếp theo. Đây là điều hết sức cần thiết đối với nền kinh tế trƣớc những
thách thức to lớn của cuộc KHTC toàn cầu đã và đang diễn ra, đe dọa sự đổ vỡ cả
về kinh tế và xã hội. Điều quan trọng là cần có sự đồng lòng để tăng cƣờng các biện
pháp trong tổ chức thực hiện; tăng cƣờng các công cụ và biện pháp giám sát để biến
những quyết sách của Chính phủ thành kết quả cụ thể và đạt hiệu quả cao hơn, vì sự
ổn định và phát triển kinh tế của đất nƣớc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.
Theo đánh giá của ADB và IMF, Việt Nam đã thành công đáng kể trong việc
thực hiện các giải pháp chống khủng hoảng; tốc độ tăng trƣởng vẫn duy trì đƣợc ở
số dƣơng (3,1% trong quý I và 3,9% sáu tháng đầu năm 2009, là một trong 12 nƣớc
có chỉ số dƣơng trên tổng số 170 nƣớc); dƣ nợ Chính phủ và quốc gia trong giới hạn
cho phép; cán cân thanh toán bảo đảm an ninh tài chính; môi trƣờng đầu tƣ vẫn duy
trì đƣợc sức thu hút.
175
3.2. Những vấn đề mới đặt ra sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và giải pháp
nhằm tạo sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài và tạo sức bật mới cho
nền kinh tế đất nƣớc.
3.2.1. Những vấn đề mới đặt ra sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
3.2.1.1. Những vấn đề mới đặt ra đối với kinh tế thế giới
Nhƣ ở chƣơng 1 và chƣơng 2 đã nêu rõ, cuộc KHTC toàn cầu 2008 và những
di chứng của nó vẫn vô cùng nặng nề và phức tạp. Hệ thống kinh tế thế giới còn
mang đầy thƣơng tích và rạn nứt sau khủng hoảng và những biến động tiếp theo của
nó, lại phải hứng chịu những biểu hiện mới của căn bệnh trầm kha khó có thể cứu
chữa. Đó là sự rối loạn về thể chế kinh tế và sự bất công dẫn tới bất lực của những
đợt ứng phó với quy mô chƣa từng thấy để chặn đứng sự suy thoái và hàn gắn
những tổn thƣơng trong những năm qua. Những dấu hiệu rõ nhất là khủng hoảng nợ
công và sự thất vọng của hàng trăm triệu ngƣời dân Tây Âu với các giải pháp chỉ đè
nặng nỗi thống khổ lên vai ngƣời lao động. Trong bối cảnh nợ công đƣợc coi là
nghiêm trọng, có thể dẫn tới các bất ổn khó lƣờng nên phản ứng chung của nhiều
nƣớc Châu Âu là thúc đẩy thực hiện các biện pháp thắt lƣng buộc bụng, cắt giảm
chi tiêu. Những bất ổn tài chính cũng khiến các ngân hàng trên toàn cầu thắt chặt
hơn cho vay và đẩy mạnh hoạt động giảm nợ. Điều này khiến cho tín dụng từ Châu
Âu trở nên khan hiếm hơn, hạn chế tăng trƣởng và khó giảm tỷ lệ thất nghiệp vốn
đã cao. Trong bối cảnh nhƣ thế, ngày càng có biểu hiện đậm nét hơn về nguy cơ của
cuộc chiến tranh tiền tệ. Khi đồng đôla đã không còn là chúa tể của các loại tiền, thì
đồng Euro cũng đang bị chao đảo trong cơn hỗn loạn…
Sau cuộc KHTC toàn cầu, kết cấu kinh tế thế giới đang bƣớc vào thời kỳ
điều chỉnh nhanh chóng. Mô hình tiêu dùng và nợ quá mức hình thành lâu dài tại
các nƣớc phát triển đã bị phá vỡ, muốn khắc phục phải mở rộng đầu tƣ và xuất
khẩu, chấn hƣng ngành chế tạo để hồi phục tăng trƣởng kinh tế. Mô hình của các
nền kinh tế mới nổi lấy xuất khẩu lôi kéo tăng trƣởng kinh tế gặp trở ngại, bên cạnh
việc nỗ lực ổn định thị trƣờng nhu cầu bên ngoài, muốn thông qua mở rộng nhu cầu
trong nƣớc để thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Tăng cƣờng mô hình phát triển tự mình
khai thác, sử dụng tài nguyên, mở rộng các dây chuyền sản xuất công nghiệp, mong
176
muốn thay đổi mô hình phát triển đơn thuần chỉ dựa vào xuất khẩu tài nguyên. Sự
điều chỉnh lớn này trong kết cấu kinh tế thế giới sẽ đem lại những ảnh hƣởng to lớn
đối với kết cấu nhu cầu thị trƣờng và kết cấu cung cầu quốc tế. Về mặt nhu cầu, tiêu
dùng sẽ tiếp tục sụt giảm; về mặt cung cầu, cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn.
Tình hình nhƣ thế làm xuất hiện một số động thái tiêu cực trong nền kinh tế toàn
cầu và hội nhập sâu rộng.
Thứ nhất là chủ nghĩa bảo hộ đang nhƣ một bệnh dịch lây lan. Hầu nhƣ tất cả
các nƣớc kể cả Mỹ và những nƣớc thành viên trong cộng đồng kinh tế Châu Âu đều
tìm những lí do và các luận cứ tự bảo vệ mình bằng bảo hộ mậu dịch, bảo vệ một số
sản phẩm hàng hóa của mình trƣớc sự cạnh tranh gay gắt của các đối tác kinh tế.
Thứ hai là các dòng vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đang bị suy giảm nghiêm trọng.
Nhiều tập đoàn kinh tế hầu hết bị tổn thất nặng nề trong cơn địa chấn kinh tế vừa
qua nên đều có xu hƣớng thu hẹp sản xuất kinh doanh, tạm thời co cụm để tìm cách
thích nghi trƣớc những thách thức khó khăn đang bao phủ cả các môi trƣờng đầu tƣ.
Thứ ba là do sự sụp đổ của nhiều ngân hàng lớn trên thế giới làm cho việc
thanh khoản, giải quyết nợ đọng và lƣu thông các nguồn vốn sẽ gặp khó khăn.
Thứ tư là những yếu kém bất cập của các tổ chức kinh tế thế giới, nhất là
IMF, WTO và WB. Qua cơn sóng gió vừa qua càng thấy các tổ chức này không đủ
tầm vóc và khả năng ứng cứu đối với các biến động lớn và phức tạp của nền kinh tế
toàn cầu.
3.2.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Di chứng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hƣởng đến mọi nƣớc
với những mức độ khác nhau. Nhƣ đã phân tích ở trên, cuộc khủng hoảng này cũng
gây cho nƣớc ta nhiều khó khăn, nhƣng hậu quả chƣa đến mức trầm trọng. Tuy
nhiên, hệ thống kinh tế thế giới vẫn đang tổn thƣơng nặng vì những di chứng dai
dẳng sau khủng hoảng và vẫn chƣa thể giải quyết đƣợc các vƣớng mắc nảy sinh nên
sẽ có nhiều thách thức gay gắt đặt ra cho Việt Nam.
Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta cũng đã dự báo: “Sau
cuộc khủng hoảng- tài chính kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bƣớc vào một giai đoạn
phát triển mới…Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài
177
chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bƣớc tiến mới về khoa học, công
nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lƣợng, tài nguyên…”. Trong bối cảnh ấy nƣớc ta
“phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lƣợng và hiệu quả cao hơn; đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức…”, phải “Đổi
mới mô hình tăng trƣởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả,
phát triển nhanh, bền vững”.
Những biến động của kinh tế thế giới đã và đang tạo ra một số cơ hội cho
kinh tế nƣớc ta nhƣng những tác động tiêu cực của nó thật to lớn.
Thứ nhất là dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt Nam trong hai
năm vừa qua liên tục giảm thì sắp tới vẫn tiếp tục suy giảm.
Thứ hai là quan hệ thƣơng mại của Việt Nam với thế giới sẽ gặp nhiều cản
trở, khó khăn, nhất là việc xuất khẩu. Chúng ta vừa chịu tác động của cuộc cạnh
tranh khốc liệt về xuất khẩu các mặt hàng thông dụng với các nƣớc cùng khu vực,
cùng trình độ sang các thị trƣờng Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc, Nhật Bản; đồng thời lại
gặp phải rào cản bảo hộ mậu dịch của các nƣớc cùng với nhu cầu giảm đi.
Thứ ba là việc tham gia quá trình hợp tác, phân công lao động quốc tế cũng
gặp nhiều trở ngại. Ngay cả việc xuất khẩu lao động là thế mạnh của Việt Nam,
trong thời gian tới cũng sẽ bị suy giảm thậm chí có thị trƣờng bị đóng lại rất nghiêm
trọng. Điều đó có cả nguyên nhân từ phía chủ quan của đội ngũ lao động và công
tác quản lý của chúng ta, nhƣng có lẽ phần quan trọng hơn là ở các thị trƣờng xuất
khẩu lao động truyền thống của chúng ta cũng đang gặp nhiều vấn đề nan giải.
Những tác động tiêu cực từ bên ngoài nhƣ vậy cộng thêm những khó khăn và
yếu kém bên trong làm cho nền kinh tế nƣớc ta đứng trƣớc nhiều trở ngại to lớn.
Những trở ngại đó làm suy giảm sức chống đỡ với ảnh hƣởng tiêu cực của những di
chứng sau khủng hoảng vừa qua, vì thế nếu không cẩn trọng rất có thể dẫn đến nguy
cơ xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Việt Nam. Đó là:
Một là, hoạt động chung của hệ thống tài chính ngân hàng còn nhiều bất cập,
hậu quả của lạm phát cao vẫn chƣa đƣợc khắc phục và vẫn có nguy cơ tái lạm phát.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với hệ thống vẫn đang ở mức thấp. Theo thông lệ
quốc tế thì tỷ lệ vốn tự có tối thiểu của ngân hàng phải đạt 8%. Tuy nhiên, ở Việt
178
Nam nhiều ngân hàng lớn đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chƣa đƣợc 5%. Hiệu
quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời của các NHTM nhà nƣớc đạt ở mức
thấp, không tƣơng xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô hoạt động. Chất lƣợng
các khoản cho vay tín dụng của hệ thống ngân hàng vẫn còn nhiều vấn đề nghiêm
trọng. Những vấn đề nổi cộm nhƣ nợ xấu, nợ đọng, việc quản lý ngoại tệ, quản lý
vàng có nhiều lúng túng. Nợ xấu của ngân hàng đã tới mức báo động. Theo báo cáo
của các tổ chức tín dụng thì số lƣợng nợ xấu chỉ là 117.700 tỷ (chiếm khoảng 4,47%
dƣ nợ) nhƣng thanh tra NHNN lại công bố số liệu gấp hai lần, tới 202.000 tỷ đồng
(bằng 8,6% dƣ nợ), theo các tổ chức tín dụng quốc tế con số này có thể lên tới 13%.
Rủi ro tín dụng còn có thể tăng lên do thu nhập của các NHTM chủ yếu dựa trên
nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay, mặc dù nhiều loại hình
dịch vụ ngân hàng đã có bƣớc phát triển. Áp lực cho vay theo chỉ định của “Chính
phủ ” trên thực tế và vấn đề “rủi ro đạo đức” vẫn tồn tại. Phần lớn các khoản vay lại
đƣợc thế chấp bằng bất động sản, trong khi thị trƣờng bất động sản biến động bất
thƣờng. Các khoản vay đƣợc thế chấp bằng chứng khoán tuy có tỷ trọng chƣa lớn
song cũng đáng lo ngại khi năng lực các nhà đầu tƣ cá nhân còn thấp và thị trƣờng
chứng khoán còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn về giá cả.
Năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều hạn chế, chƣa bao quát hết
đƣợc toàn bộ các định chế tài chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc và do mô hình quản lý hệ
thống tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Trong bối
cảnh mở cửa kinh tế- tài chính, tình trạng yếu kém năng lực về vốn, quản trị, công
nghệ, cùng với những rủi ro hệ thống còn cao, sẽ đặt hệ thống tài chính Việt Nam
vào vị thế dễ bị tổn thƣơng nếu không có những biện phá điều hành quản lý vĩ mô
thích hợp. Rủi ro này gia tăng trong bối cảnh Việt Nam mở cửa tài khoản vốn trong
cán cân thanh toán quốc tế và cho phép đồng tiền Việt Nam đƣợc chuyển đổi hoàn
toàn. Tình hình trên đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng tái cấu trúc hệ thống tín dụng-
ngân hàng để ổn định tình hình kinh tế- xã hội.
Hai là, mô hình kinh tế trong quá trình phát triển khi gặp phải khủng hoảng
đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, thiếu tính hệ thống, thiếu bền vững còn mất cân đối
179
trong cán cân thƣơng mại, thâm hụt ngân sách có xu hƣớng tăng. Tình hình nhập
siêu của Việt Nam trong những năm qua liên tục diễn ra. Riêng năm 2012 tuy đã
xuất siêu một chút song không bền vững và khả năng nhập siêu lại tiếp tục diễn ra
trong những năm tới. Nguyên nhân của nhập siêu là do Việt Nam tăng nhập khẩu
máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu trong khi
giá cả của hầu hết hàng hóa nhập khẩu tiếp tục tăng hoặc đứng ở mức cao. Ngoài
nguyên nhân xuất khẩu tăng chậm, tính gia công hàng xuất khẩu còn lớn, công
nghiệp phụ trợ chƣa phát triển, xuất khẩu chủ yếu vẫn là nguyên liệu thô hoặc nông
sản chƣa qua chế biến hay mới sơ chế. Nhƣ nhận định của Đại hội ĐBTQ lần thứ
XI: kinh tế phát triển chƣa bền vững. Chất lƣợng tăng trƣởng, năng suất, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối vĩ mô chƣa vững chắc…Các lĩnh
vực văn hóa xã hội có một số yếu kém, nhất là giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức lối
sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trƣờng ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm
nặng, tài nguyên, đất đai chƣa đƣợc quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả.
Trong những năm qua, Ngân sách nhà nƣớc (NSNN) mặc dù có thâm hụt nhƣng
vẫn ở mức cho phép dƣới 5% GDP. Tuy vậy, con số mà Kiểm toán Nhà nƣớc phát
hiện, thể hiện sai sót, thu không đúng, không đủ cho NSNN, chi sai chế độ, vƣợt dự
toán, lãng phí, thậm chí là gian lận của các tổ chức cá nhân, có thể nói đã đáng báo
động và xảy ra ở hầu hết các đơn vị đƣợc kiểm toán.
Ba là, nợ công và nợ nƣớc ngoài của Việt Nam tăng nhanh là một nguy cơ
gây bất ổn định kinh tế-xã hội. Theo tính toán, năm 2012 Việt Nam phải trả nợ nƣớc
ngoài cả gốc lẫn lãi là 1,33 tỷ USD; năm 2013 sẽ là 1,492 tỷ USD. Ƣớc tính trong
giai đoạn tới mỗi năm sẽ mất khoảng 15% tổng thu ngân sách, chỉ để trả nợ gốc và
lãi trong nƣớc. Trong thời điểm hiện nay, ở nƣớc ta an ninh tài chính chƣa thực sự
vững vàng, bội chi ngân sách còn cao, nhập siêu vẫn lớn, dự trữ ngoại tệ chƣa
nhiều, hiệu quả đầu tƣ thấp…thì các khoản nợ công với lãi suất cao và kỳ hạn ngắn
đang gây sức ép lớn đối với việc đảo nợ.
Bốn là, cơ cấu kinh tế quốc dân còn nhiều điểm chƣa hợp lý, công nghiệp
chế tạo, chế biến và kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém không theo kịp nhịp độ phát
triển của đất nƣớc, gia công lắp ráp chiếm tỷ trọng cao. Phần lớn các ngành công
180
nghiệp có trình độ công nghệ thấp; dịch vụ phát triển chậm; nông nghiệp vẫn chủ
yếu là sản xuất nhỏ, phân tán. Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ và chƣa đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế- xã hội, nhất là sự lạc hậu của giao thông vận tải đã hạ thấp
sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trƣờng thế giới (90% vận tải bằng
container hiện nay nƣớc ta phải thuê của nƣớc ngoài), tình trạng thiếu điện, thiếu
nƣớc phục vụ sản xuất, sinh hoạt và ô nhiễm môi trƣờng….Chất lƣợng xây dựng và
thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, nhất là quy hoạch sử dụng
đất đai, tài nguyên khoáng sản thấp gây lãng phí, thất thoát lớn không chỉ làm giảm
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế đang hoạt
động mà còn tác động đến triển vọng phát triển kinh tế của đất nƣớc cả trung và dài
hạn, bởi kết cấu hạ tầng là một trong những nhân tố quan trọng hấp dẫn đầu tƣ; có
ảnh hƣởng quyết định đến hiệu quả đầu tƣ và góp phần bảo đảm dân sinh, chất
lƣợng môi trƣờng.
Năm là, quản lý nhà nƣớc còn yếu kém; tổ chức bộ máy cồng kềnh; điều
hành chính sách Tiền tệ- tỷ giá của Chính phủ còn nhiều bất cập; một bộ phận công
chức yếu cả về năng lực, phẩm chất, tổ chức thực hiện kém hiệu quả. Trong những
năm qua, Chính phủ tuy đã nhìn thấy và đƣa ra một số chính sách kiềm chế lạm
phát nhƣng điều quan trọng là vẫn chƣa nhận thức đúng những nguyên nhân rất cơ
bản dẫn đến lạm phát ở Việt Nam. Ở lĩnh vực tiền tệ, đó là tăng cung tiền và tín
dụng. Trong gia đoạn vừa qua, Việt Nam tiếp nhận khá nhiều nguồn vốn FDI,
ODA, đầu tƣ gián tiếp và kiều hối…từ nƣớc ngoài. Dòng ngoại tệ chảy vào Việt
Nam rất lớn gây sức ép tăng giá VND, và do đó có nguy cơ làm giảm xuất khẩu,
tăng nhập khẩu, làm cho tình trạng thâm hụt cán cân thƣơng mại thêm nghiêm
trọng. Lo ngại điều này, Chính phủ liên tục thúc đẩy tăng tín dụng, đặc biệt là tín
dụng cho các DNNN, nơi mà đồng vốn sử dụng hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, Chính
phủ còn bơm tiền đồng để mua USD dự trữ. Tính trung bình, tốc độ tăng trƣởng tín
dụng trong những năm qua khoảng 30%/năm. Với tốc độ tăng trƣởng tín dụng cao
trong nhiều năm liền, đồng thời, cung tiền tăng đột biến, lạm phát xảy ra là tất yếu.
Lạm phát cao, CPI tăng nhanh làm giảm mức sống của bộ phận dân cƣ, đăc
biệt là những ngƣời có thu nhập thấp và hƣởng lƣơng cố định theo NSNN. Vì mức
181
lạm phát cao hơn lãi suất tiết kiệm nên tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế những năm
qua chảy vào nơi có khả năng sinh lời cao nhƣ bất động sản hay chứng khoán. Việc
đầu tƣ quá mức vào bất động sản hay chứng khoán đã làm xuất hiện “bong bóng tài
sản” và nếu “bong bóng” vỡ thì nhiều khoản vay sẽ trở thành nợ xấu, gây bất ổn
định cho hệ thống ngân hàng.
Hơn nữa, cùng với việc đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ của kinh tế
tƣ nhân, những tập đoàn, Tổng công ty nhà nƣớc cũng mắc phải nhiều sai lầm
nghiêm trọng. Trong 4 tháng đầu năm 2012 cả nƣớc có trên 17,7 nghìn doanh
nghiệp đã làm các thủ tục giải thể và ngừng hoạt động chủ yếu tập trung ở các lĩnh
vực bán buôn, bán lẻ (chiếm 26,1%); ngành công nghiệp khai khoáng (chiếm
14,7%); ngành xây dựng và bất động sản (chiếm 10,7%); ngành vận tải kho bãi
chiếm 9,9% 119 .
Sáu là, nguồn nhân lực chất lƣợng cao đáp ứng nhu cầu phát triển còn thiếu,
đặc biệt là chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, do chƣa thực hiện đúng chủ trƣơng coi phát triển giáo
dục, đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Hiện nay những ngƣời
lao động trong độ tuổi có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nƣớc ta chiếm tỷ lệ rất
thấp, chỉ có 13,3%, trong đó có trình độ từ Cao đẳng, Đại học trở lên mới đạt 6% .
Khoa học công nghệ chƣa trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Tỷ
lệ nhóm ngành công nghệ cao của Việt Nam mới đạt khoảng 20%, trong khi
Singapore là 73%, Malayxia là 52% và Thái Lan là 31%. Năm 2012 Tổ chức Sở
hữu trí tuệ Toàn cầu (WIPO) xếp hạng 141 nƣớc theo chỉ số sáng tạo toàn cầu,
trong đó Việt Nam đứng ở mức dƣới trung bình trong khi Singapore đứng thứ ba.
Tình hình trên tạo nên một bối cảnh mới với nhiều vấn đề hết sức bức xúc
đối với nền kinh tế nƣớc ta mà nếu không vƣợt qua đƣợc thì kinh tế nƣớc ta sẽ lâm
vào nguy cơ bị hệ lụy nặng nề với những di chứng sau khủng hoảng cũng nhƣ dễ bị
tụt hậu xa với khu vực và thế giới. Nếu nhƣ những nguy cơ từ bên trong xuất phát
từ nội tại nền kinh tế, đặc biệt là sự yếu kém của hệ thống tài chính thì những nguy
cơ từ bên ngoài lại xuất phát từ tự do hóa tài chính, hoặc do lây nhiễm khủng hoảng.
Nguy cơ tháo chạy tiền đầu tƣ do thiếu các biện pháp kiểm soát dòng vốn ngắn hạn,
182
nguy cơ mất giá đồng nội tệ do chính sách tỷ giá hối đoái không hợp lý, nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài dễ dàng chuyển vốn ra nƣớc ngoài, nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay
ngắn hạn dùng vào đầu tƣ dài hạn…
Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện những bất ổn về kinh tế vĩ mô,
chính vì thế, để giải quyết đƣợc những vấn đề đó, cần có những giải pháp hợp lý,
vừa đáp ứng vấn đề thời sự đang đặt ra là ứng phó với những biến thái sau KHTC
toàn cầu, vừa tạo nền tảng lâu dài để nền kinh tế đất nƣớc phát triển.
3.2.2. Giải pháp nhằm tạo sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài và tạo
sức bật mới cho nền kinh tế đất nước.
3.2.2.1. Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát ở mức hợp lý, cải
thiện môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút đầu tư
Trong bối cảnh ngày càng gia tăng tự do hóa và hội nhập quốc tế, Chính phủ
và các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nhận thức đầy đủ, khách quan và
chuẩn bị những đối sách cần thiết nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực, khai
thác những cơ hội từ các chấn động chu kỳ và KHTC thế giới. Để giảm thiểu những
tác động tiêu cực của các chấn động chu kỳ từ bên ngoài, trƣớc hết Việt Nam cần
phát triển hệ thống thông tin thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế, nâng cao năng lực
phân tích, dự báo quốc gia, nhất là về các dự báo chiến lƣợc, tổng hợp; cần có lộ
trình và sự chuẩn bị chu đáo các điều kiện mọi mặt và phƣơng án cụ thể về các khả
năng có thể cho sự hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực, đặc biệt là tài chính - tiền tệ;
phát triển đội ngũ lao động chất lƣợng cao, coi trọng đào tạo các nhà doanh nghiệp
có bản lĩnh và năng lực kinh doanh quốc tế, tạo mọi thuận lợi cho khu vực doanh
nghiệp phát triển, đi đôi với tăng cƣờng hệ thống cảnh báo sớm và giám sát an ninh,
an toàn kinh tế - tài chính của quốc gia cũng nhƣ của doanh nghiệp. Ngoài ra, Việt
Nam còn cần đặc biệt quan tâm xúc tiến đổi mới công nghệ, cải thiện danh mục,
mẫu mã chất lƣợng, giá cả sản phẩm trong nƣớc để tăng sức hấp dẫn và khả năng
cạnh tranh với hàng ngoại nhập, đáp ứng thị hiếu nhu cầu thị trƣờng.
Về lâu dài, việc phát triển trình độ, năng lực nghiên cứu khoa học, nhất là
khoa học ứng dụng, phát triển và hoàn thiện nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị
trƣờng mở, tích cực hội nhập sâu, đầy đủ vào các tổ chức khu vực và quốc tế, phát
183
triển hệ thống các định chế thị trƣờng (trong đó có hệ thống tài chính - tiền tệ, thị
trƣờng vốn, thị trƣờng hàng hoá chuyên ngành), và các hoạt động Marketing,
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, (bao gồm cả cơ cấu ngành, sản phẩm, quy mô,
thành phần,...) theo hƣớng kinh tế tri thức và cải cách toàn diện hệ thống chính trị
theo hƣớng dân chủ trực tiếp hơn, cải cách nâng cao năng lực quản lý bộ máy nhà
nƣớc, giảm thiểu các thủ tục hành chính theo cơ chế xin - cho, nới lỏng chính sách
thuế để “khoan sức dân và doanh nghiệp”, phát triển hệ thống phúc lợi và bảo đảm
xã hội, nâng cao thu nhập thực tế của ngƣời dân... đều là những việc cần làm ngay
và phải làm thực sự triệt để. Cụ thể:
Về chính sách tiền tệ: Để có sức đề kháng với những tác động tiêu cực do
biến chứng của cuộc KHTC toàn cầu vừa qua, đồng thời thực hiện mục tiêu đến
năm 2020 Việt nam cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại,
nhiệm vụ trƣớc mắt đối với Việt Nam là tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Phấn đấu tăng thu trên cơ sở đẩy mạnh phát triển
sản xuất của các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế; đồng thời triệt để tiết
kiệm, chống lãng phí, thất thoát để nâng cao hiệu quả thu chi NSNN. Bên cạnh yếu
tố suy giảm kinh tế tại nhiều quốc gia trên thế giới đang làm ảnh hƣởng tới dòng
vốn FDI thu hút và giải ngân tại Việt Nam thì cần phải tính đến sự cản trở đáng kể
do môi trƣờng đầu tƣ ở Việt Nam từ đầu năm 2012 đến nay không thuận lợi. Lạm
phát cao, lãi suất cao, tiêu dùng sụt giảm…đang là yếu tố khiến thị trƣờng Việt Nam
kém hấp dẫn. Vì vậy, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ nhƣ giảm lãi suất Nhà nƣớc cần
kiên định giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát ở mức hợp lý, điều
này vừa để giữ chất lƣợng cuộc sống ngƣời dân không giảm thêm, vừa tạo môi
trƣờng ổn định để doanh nghiệp có thể phát triển kinh doanh.
Giải pháp ngắn hạn thay vì cho phép đảo nợ, các ngân hàng nên xem xét cấu
trúc lại danh mục các khoản nợ vay trƣớc đây của các doanh nghiệp có lãi suất cao.
Đối với hợp đồng có nhiều khoản lãi suất cố định, ngân hàng cần tiến hành rà soát
và đánh giá lại các phƣơng án vay vốn, tái thẩm định các dự án đầu tƣ theo các tiêu
chí hiện tại. Chỉ những dự án nào đƣợc đánh giá hiệu quả theo những tiêu chí mới,
có triển vọng trả nợ thì đề xuất Chính phủ xem xét đƣa vào diện đƣợc hỗ trợ lãi
184
suất. Khoãn lãi suất hỗ trợ sẽ chỉ đƣợc hoàn lại cho ngân hàng khi doanh nghiệp trả
đƣợc nợ đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng theo cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Những dự án gặp khó khăn tạm thời thì cần phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ, cho phép
doanh nghiệp đƣợc gãn, hoãn trả nợ gốc và/hoặc lãi trong một giai đoạn nhất định
hay thực hiện ân hạn, gia hạn nợ vay cho doanh nghiệp.
Về sử dụng các gói kích cầu kinh tế: Từ việc phân tích những lợi ích và hạn
chế của các gói kích cầu mà Chính phủ các quốc gia đã vận dụng cho thấy việc sử
dụng các gói kích cầu chỉ mang tính chất hỗ trợ tạm thời vì thế bài học rút ra là chỉ
nên đƣa ra gói kích cầu khi thực sự cần thiết và nên duy trì trong ngắn hạn nhằm
tránh mất cân đối hàng tiền, vi phạm quy luật lƣu thông tiền tệ, dẫn đến lạm phát.
Để đảm bảo gói kích cầu phát huy đƣợc tác dụng, Chính phủ cần thiết kế gói
kích cầu đúng mục tiêu, cần có sự giám sát chặt chẽ sự phân bổ nguồn lực của gói
kích cầu, tạo điều kiện cho nguồn lực đƣợc phân bổ đúng đối tƣợng, tránh tạo ra sự
cạnh tranh không lành mạnh và bất bình đẳng giữa các chủ thể trong nền kinh tế,
đặc biệt là các doanh nghiệp. Để tránh sự bùng phát của những nguy cơ sau khủng
hoảng, khi nền kinh tế vƣợt qua đƣợc giai đoạn khó khăn, Chính phủ cần điều hành
chính sách tiền tệ linh hoạt, tái cấu trúc nền kinh tế theo hƣớng phát triển bền vững.
Về tỷ giá: Thời gian qua, lạm phát cao đã tác động khiến tỷ giá không ổn
định là một trong những yếu tố khiến nhiều doanh nghiệp bị thiệt hại lớn mỗi khi tỷ
giá bị thay đổi. Một phần không nhỏ doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam đều phải
nhập khẩu nguyên vật liệu từ nƣớc ngoài. Nếu khi nhập khẩu về với một tỷ giá cao,
khi xuất khẩu hàng ra lại có một tỷ giá thấp so với giá tiền Việt Nam thì sẽ khiến
doanh nghiệp khó có thể trụ vững. Trong bối cảnh xuất khẩu sang EU đang tiếp tục
gặp khó khăn, cần chuyển hƣớng mạnh hơn sang xuất khẩu sang các thị trƣờng
khác, mặc dù áp lực cạnh tranh vẫn có thể còn rất lớn, do tổng thể thị trƣờng bị co
hẹp. Vì vậy, vẫn cần duy trì mức tỷ giá hợp lý tạo điều kiện cho đẩy mạnh xuất
khẩu, khuyến khích sử dụng máy móc, thiết bị, vật tƣ, hàng hóa sản xuất trong nƣớc
để giảm nhập khẩu, nhất là những mặt hàng không thiết yếu.
Kinh tế toàn cầu khó khăn đã rõ, nhƣng trong khó khăn chung không phải
không có những cơ hội. Khi nền kinh tế Mỹ, Châu Âu có những rủi ro tài chính lớn,
185
khủng hoảng và suy thoái vẫn đang rình rập thì Châu Á và đặc biệt là Đông Nam Á
đang đƣợc xem là động lực ổn định kinh tế thế giới. Các nhà đầu tƣ đang xem Đông
Nam Á nhƣ là nơi “tránh bão” bởi những nhân tố tiềm năng và khả năng tăng
trƣởng, phát triển cao của khu vực. Việt Nam là nƣớc vẫn đón nhận đƣợc luồng đầu
tƣ quan trọng trong số vốn chảy vào Đông Nam Á. Vì vậy, việc tiếp tục cải thiện
môi trƣờng kinh doanh, giảm thủ tục hành chính, đặc biệt là giảm tên thực tế những
khó khăn, phiền hà trong thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hối đất,…sẽ tạo điều kiện
cho luồng vốn FDI vào Việt Nam mạnh hơn, tăng sự sống động cho nền kinh tế
đang bị giảm sức cầu.
Về thu chi ngân sách: Cần tăng nguồn thu ngân sách bằng việc nâng cao chất
lƣợng thu thuế (thay vì tăng thuế suất) đối với thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng,
các loại phí khác. Hạn chế các khoản chi chƣa thực sự cần thiết. Tập trung đẩy
mạnh đầu tƣ có hiệu quả trên cơ sở rà soát, sắp xếp lại các danh mục dự án theo thứ
tự ƣu tiên, các dự án cấp bách buộc phải triển khai. Bên cạnh đó cần tăng cƣờng
quản lý hoạt động đầu tƣ có sử dụng vốn ngân sách và vốn vay nƣớc ngoài. Rà soát,
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn một cách sát sao, cần thiết có thể thuê tƣ vấn quản lý
tài chính quốc tế đối với các dự án lớn, trọng điểm. Giải pháp tối ƣu là Chính phủ
nên điều chỉnh và thay thế ngay chính sách “bù lãi suất” bằng một chính sách tín
dụng với lãi suất thấp cho mọi đối tƣợng, mà không tạo ra thâm hụt ngân sách. Đây
là hƣớng đi mà hầu hết các nền kinh tế thị trƣờng trên toàn thế giới đang triển khai.
Tức là ngân hàng Nhà nƣớc hạ lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn cho hệ thống
NHTM đến mức thấp nhất có thể (đề nghị là từ 1% đến 2%), tạo điều kiện cho
NHTM cho doanh nghiệp vay với lãi suất từ 4% đến 5% mà không làm mất cân
bằng tài chính vĩ mô. Các NHTM sẽ đƣợc giám sát thực hiện đúng quy định của
“Luật các tổ chức tín dụng và Quy chế cho vay”. Khách hàng phải có dự án đầu tƣ,
phƣơng án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc có dự án đầu tƣ, phƣơng án phục vụ
đời sống khả thi và có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật. Tất cả mọi đối
tƣợng doanh nghiệp sẽ đƣợc đối xử bình đẳng. Việc cho vay vốn dựa trên các tiêu
khách quan của từng dự án để cho vay ngắn hạn hay dài hạn tùy theo lịch trình phát
triển kinh doanh. Xóa bỏ cơ chế “xin cho” và những tiêu chí phức tạp làm nảy sinh
tiêu cực.
186
Về đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại: Theo dõi thƣờng xuyên và thu thập
đầy đủ thông tin về tình hình cung cầu các mặt hàng trọng yếu trên thị trƣờng thế
giới, những mặt hàng có khối lƣợng hàng hóa lớn, những mặt hàng mà Việt Nam có
thế mạnh; đón đầu những thị trƣờng đang phục hồi, để tăng kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu. Kiểm soát chặt chẽ cơ cấu hàng nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu với các hàng
hóa xa xỉ, hạn chế đến mức thấp nhất các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc “bán phá
giá” để xâm chiếm thị trƣờng nội địa nhằm hạn chế thâm hụt thƣơng mại.
Về quản lý thị trường trong nước: Tăng cƣờng kiểm tra, giám soát việc thực
hiện các quy định về giá, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết. Kiên quyết xử lý
các trƣờng hợp lợi dụng tình hình để đầu cơ, ép giá, găm hàng, đƣa tin thất thiệt
nhằm đẩy giá bán hàng lên cao gây bất ổn định thị trƣờng, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô, chống lạm phát.
Hỗ trợ các hoạt động phát triển thị trƣờng nội địa: Với hơn 80 triệu dân, thị
trƣờng nội địa là không gian sinh tồn của đất nƣớc đang cần đƣợc cung ứng sản
phẩm tiêu dùng. Thị trƣờng nội địa cũng là chiến trƣờng chính mà các thế lực tài
chính thế giới tập trung để tấn công chúng ta. Vì thế giải pháp tốt nhất là cần
nghiên cứu các mặt hàng thay thế các hàng nhập khẩu. Nghiên cứu các chủng loại
hàng có khả năng phát triển mạnh trên thị trƣờng nội địa. Áp dụng những chính
sách khuyến khích đầu tƣ thích hợp. Không để cho một dự án nào khả thi bị thiếu
vốn phát triển.
3.2.2.2. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Đây là vấn đề hệ trọng hàng đầu nhằm tạo ra bƣớc nhảy vọt về trình độ công
nghệ và quản lý, cải thiện vƣợt bậc sức cạnh tranh quốc tế, nâng cao đƣợc vị trí của
nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong những năm qua, nền kinh tế nƣớc ta
từng bƣớc phát triển theo kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nƣớc, kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân. Quy mô kinh tế ngày một lớn dần.
Tuy vậy, hiệu quả tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam còn thấp, chủ yếu còn dựa vào
đầu tƣ, trong đó đầu tƣ nƣớc ngoài luôn chiếm tỉ trọng cao; kinh tế phát triển theo
chiều rộng là chủ yếu; nhiều sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ… còn phụ thuộc
187
bên ngoài. Năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp, hàng hóa…còn thấp. Vì
vậy, việc thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế là cấp bách, đồng thời chuyển đổi mô hình
tăng trƣởng kinh tế theo chiều rộng sang mô hình tăng trƣởng theo chiều sâu với
động lực là khoa học công nghệ và tiêu dùng trong nƣớc.
Tƣ duy mới về bàn tay Nhà nƣớc đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét, bao
quát và chi phối toàn diện các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế -
xã hội quốc gia và quốc tế, với các biểu hiện và yêu cầu chủ yếu sau:
Thứ nhất, không duy ý chí, giáo điều, cực đoan, hoặc quá nhấn mạnh và tuyệt
đối hóa vai trò chỉ huy tập trung, mang tính áp đặt một chiều của Nhà nƣớc, hoặc
thả nổi hoàn toàn và đặt toàn bộ quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt có tính
đầu cơ, mù quáng, “bầy đàn” cao của các tín hiệu và sức mạnh thị trƣờng tự do,
nhấn mạnh lợi ích tƣ nhân, cục bộ và ngắn hạn…Vấn đề then chốt cho một nền kinh
tế thành công là mô hình phát triển đƣợc lựa chọn phải phù hợp cả với bối cảnh
quốc tế, lẫn các điều kiện lịch sử cụ thể trong nƣớc, cho phép khai mở, cộng hƣởng
cao nhất các tiềm năng và hiệu quả các nguồn lực phát triển trong và ngoài nƣớc,
tham gia sớm, ngày càng chặt chẽ và hiệu quả vào “chuỗi giá trị gia tăng toàn
cầu”… Đặc biệt, sự phát triển các tiềm năng và tự do cá nhân; sự hợp tác và thịnh
vƣợng về kinh tế; sự đồng thuận, dân chủ và gắn kết về xã hội trong một thế giới
ngày càng “phẳng”, hòa hợp và thân thiện hơn với môi trƣờng đang và sẽ ngày càng
đƣợc coi là 3 trụ cột hợp thành chủ yếu, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
của văn minh nhân loại. Chủ động tham khảo, đan xen và phối hợp chính sách giữa
các quốc gia trong phạm vi khu vực, cũng nhƣ toàn cầu với mức tăng tiến cùng
chiều với sự gia tăng khối lƣợng trao đổi quốc tế song phƣơng và đa phƣơng, trƣớc
hết trong các lĩnh vực thƣơng mại, đầu tƣ, dịch vụ và lao động; coi trọng các yêu
cầu và thúc đẩy hoàn thiện các định chế quốc gia và quốc tế quản lý các quá trình
phối hợp và trao đổi đó, để gia tăng sức mạnh, khả năng và hiệu quả giải quyết các
vấn đề quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Hƣớng tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
nếu tiếp tục phát triển theo chiều rộng sẽ gặp phải trở ngại do tài nguyên thiên nhiên
ngày càng cạn kiệt; công nghệ lạc hậu nên sức cạnh tranh yếu; lao động rẻ không
188
còn ƣu thế do thu nhập thấp, đời sống khó khăn khiến ngƣời lao động bất bình.
Theo tác giả, mô hình tăng trƣởng mới của Việt Nam là mô hình tăng trƣởng tiên
tiến từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tƣ , khai thác tài nguyên và
nguồn lao động chất lƣợng thấp sang mô hình tăng trƣởng theo chiều sâu trên cơ sở
áp dụng những hành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lƣợng
cao và kỹ năng quản lý hiện đại; gắn tăng trƣởng nhanh với phát triển bền vững, bảo
đảm phát triển toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trƣờng.
Trọng tâm của quá trình chuyển đổi này là con ngƣời, là nâng cao năng lực và phẩm
chất của nguồn lực nhân lực vì con ngƣời là chủ thể sáng tạo, sử dụng khoa học
công nghệ và thực hiện chức năng quản lý. Muốn vậy phải vừa phát triển kinh tế,
vừa phát triển mạnh giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài.
Để tái cấu trúc nền kinh tế cần đặc biệt quan tâm ba điểm trọng yếu sau đây:
Một là, phải coi trọng việc tái cấu trúc nền kinh tế đất nƣớc là nhiệm vụ
trọng tâm, trọng đại hiện nay, vừa đáp ứng những yêu cầu cấp bách, vừa phục vụ
chiến lƣợc phát triển lâu dài. Tái cấu trúc không chạy theo trào lƣu của toàn thế
giới, không chạy theo thành tích và tốc độ tăng trƣởng bằng mọi giá mà phải hƣớng
vào chất lƣợng và hiệu quả, tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng, bảo vệ môi
trƣờng, cải thiện dần đời sống của nhân dân để phát triển bền vững. Một số nƣớc
gọi là tăng trƣởng GDP xanh hay là chuyển từ phát triển bẩn sang phát triển sạch,
tận dụng các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Muốn vậy phải thực hiện bằng đƣợc
chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc coi giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá quan trọng.
Hai là, nội dung căn bản của tái cấu trúc là làm tăng hiệu quả toàn diện của
toàn bộ nền kinh tế đất nƣớc bằng việc sắp đặt, điều chỉnh hợp lý cơ cấu các ngành
nghề sản xuất hiện có; vừa đầu tƣ thích hợp để phát triển các ngành kinh tế theo
hƣớng “kinh tế xanh” với việc ứng dụng công nghệ cao, phát triển kinh tế những
ngành kinh tế mũi nhọn đi thẳng vào hiện đại, tạo lập những điều kiện để đi vào
kinh tế tri thức. Thực hiện một chiến lƣợc hội nhập quốc tế phù hợp, bổ sung lẫn
nhau giữa nội lực và ngoại lực, kết hợp chiến lƣợc hƣớng về xuất khẩu với chiến
lƣợc thay thế nhập khẩu, không quá dựa vào bên ngoài mà coi nhẹ nguồn lực trong
nƣớc, bỏ trống thị trƣờng trong nƣớc cho tƣ bản nƣớc ngoài.
189
Ba là, không ngừng củng cố và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của hệ
thống tài chính, tiền tệ, tín dụng, bảo đảm lành mạnh, công khai, minh bạch, chống
lại các hoạt động đầu cơ. Khi thực hiện tái cấu trúc, cần có giải pháp quyết liệt nhất
để bảo vệ môi trƣờng; việc khai thác sử dụng, xuất khẩu tài nguyên cần đƣợc quản
lí chặt chẽ hơn. Cần đặc biệt quan tâm đến kinh tế vùng thông qua đẩy mạnh việc
quy hoạch vùng, đầu tƣ mạnh cho vùng trong điểm và nhất là phải có bộ máy chỉ
huy điều hành kinh tế vùng.
Tóm lại, tái cấu trúc kinh tế Việt Nam phải đƣợc thực hiện ở tất cả các khâu
của nền kinh tế, mang tính liên kết với nhau nhƣ một hệ thống, tác động qua lại với
nhau nhằm nâng cao hiệu quả, chất lƣợng và sức cạnh tranh theo hƣớng phát triển
bền vững.
3.2.2.3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là một trong những khâu đột phá đã đƣợc Đại hội XI của Đảng xác định.
Thực tiễn vừa qua quan hệ giữa thể chế Nhà nƣớc và thể chế thị trƣờng, đặc biệt là
trong vấn đề đất đai, trong quản lý các doanh nghiệp Nhà nƣớc…còn nhiều vƣớng
mắc, gây ách tắc lớn đối với quá trình phát triển. Tăng cƣờng hơn nữa tình hiệu lực
của hệ thống luật pháp, trong đó quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thị
trƣờng từ Nhà nƣớc, doanh nghiệp đến ngƣời lao động, ngƣời tiêu dùng cần đƣợc bảo
đảm một cách nghiêm túc. Tiếp tục cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả công
tác của bộ máy cán bộ, công chức. Trƣớc những nguy cơ mới, và cũng là vận hội
mới, giải pháp trƣớc mắt là Việt Nam cần có quyết tâm cải cách quản lý nhà nƣớc, bố
trí nhân sự đúng ngƣời, đúng việc, xây dựng mọt môi trƣờng kinh doanh thông
thoáng, triệt để giải quyết nạn tham nhũng, quan liêu, tiêu cực. Trên thế giới cũng
nhƣ trong khu vực, những quốc gia có nền quản lý nhà nƣớc thông thoáng với nạn
tham nhũng, quan liêu, tiêu cực đƣợc đẩy lùi là những nền kinh tế phát triển mạnh,
những quốc gia chìm đắm trong tiêu cực sẽ suy tàn và đi đến diệt vong, đó là quy luật
khách quan. Các chuẩn mực quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính ngân hàng cần
đƣợc đổi mới và tiếp cận với điều kiện và quy định chung của thế giới. Sau khi hoàn
tất tiến trình gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới, Việt Nam tiến tới cấp độ hội
nhập sâu hơn với kinh tế thế giới nên phải học tập, vƣơn lên về năng lực ứng phó với
các tình huống xấu do di chứng trái chiều của nền kinh tế thế giới gây ra.
190
Mức thâm hụt ngân sách của ta tăng tƣơng đối cao trong hiện tại do việc thực
hiện chính sách kích cầu, do đó cần phải có các biện pháp thắt chặt tài khoá, quản lý
chi tiêu tiết kiệm và hợp lý hơn nữa trong thời gian tới để kiềm chế thâm hụt ngân
sách. Tƣơng tự nhƣ vậy, chính sách quản lý nợ công và kế hoạch vay để bù đắp
thâm hụt ngân sách cần phải đƣợc tính toán cẩn trọng và phù hợp. Về cơ cấu nợ
công, Việt Nam có điểm thuận lợi là hiện các khoản vay trong nƣớc, mặc dù chi phí
vay có cao hơn, nhƣng đang chiếm tỷ trọng nhiều hơn so với các khoản vay nƣớc
ngoài. Tuy nhiên, về lâu dài, việc khai thác thị trƣờng vốn quốc tế là việc khó tránh
khỏi. Do đó, ta cần phải hết sức cẩn trọng trong việc xây dựng kế hoạch vay nợ để
tài trợ thâm hụt ngân sách.
Trƣớc mắt, Việt Nam cần phấn đấu hoàn thành vƣợt nhiệm vụ thu và tiết kiệm
chi để hạn chế thâm hụt ngân sách; vốn kích cầu nên hƣớng về các ngành xuất khẩu,
dƣới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng; tạm thời chƣa tăng giá các mặt hàng chiến
lƣợc nhằm ổn định mặt hàng giá chung tạo lập mặt bằng lạm phát thấp. Bên cạnh
đó, tăng cƣờng tính minh bạch cho thị trƣờng tài chính nhƣ sớm hoàn thiện thị
trƣờng bất động sản, tăng cƣờng thông tin trên thị trƣờng chứng khoán...
Những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới đã, đang
và sẽ còn chứng tỏ, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nƣớc hoặc nắm quá chặt, hoặc
bị buông lỏng quá mức, và cả khi “bàn tay vô hình” của thị trƣờng bị lạm dụng và
đề cao thái quá, thì đều có nguy cơ dẫn đến những cực đoan, có thể trực tiếp và gián
tiếp làm tích tụ ngày càng đậm những xung lực gây ra khủng hoảng, đồng nghĩa
với quá trình gây hao phí và tổn thất nặng nề cho đời sống kinh tế-xã hội và môi
trƣờng, cho mỗi quốc gia và toàn nhân loại.
Để các quy luật kinh tế khách quan vận động có lợi nhất cho xã hội, các khiếm
khuyết của thị trƣờng tự do phải đƣợc sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động và tích
cực của Nhà nƣớc kiểu mới, mang tính pháp quyền và đại diện cao hơn, sử dụng các
công cụ hiệu quả hơn cho các lợi ích chung của quốc gia và nhân loại. Trong mô
hình kết hợp đó, sẽ có yêu cầu cao hơn về tăng cƣờng vai trò của cạnh trạnh thị
trƣờng lành mạnh với luật pháp, chế tài, điều tiết, kiểm soát, giám sát nhà nƣớc về
hiệu năng và trách nhiệm các thể chế thị trƣờng, thiết lập hệ thống thông tin công
khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và trừng phạt các sai trái
191
và gian lận…, sao cho vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trƣờng, vừa không làm
xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá trình phát
triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng khủng hoảng lên
ngƣời dân, ngƣời tiêu dùng. Đặc biệt, cần sớm khắc phục những bất cập về nhận
thức và lạm dụng trong thực tế về quyền lực chủ quan của nhà nƣớc, về sức mạnh
thị trƣờng khách quan, về tính ôm đồm đa mục tiêu của chính sách, cũng nhƣ của
nếp tƣ duy nhiệm kỳ và lợi ích cục bộ, địa phƣơng, của sự “vận động hành lang” và
cơ chế quan liêu, hình thức. Cần nâng cao chất lƣợng xây dựng các quy hoạch, dự
án; thực hiện nghiêm túc các quy định về đấu thầu thực chất, chống thông thầu, ép
thầu và các gian lận thầu khác gây tổn hại lợi ích chung và dài hạn; tăng cƣờng
kiểm toán độc lập, xây dựng và áp dụng rộng rãi hệ thống chỉ tiêu hiệu quả, cũng
nhƣ chế độ đánh giá hệ số tín nhiệm tập thể và cá nhân.
Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nƣớc – nhà đầu tƣ lớn nhất” và
phát triển chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nƣớc – nhà quản lý
công” và phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển dịch nguồn động lực chính
trong đầu tƣ phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nƣớc sang khu vực kinh tế
ngoài nhà nƣớc; cần sớm thông qua và thực hiện nghiêm túc Luật đầu tƣ công và
dũng cảm cắt giảm các chi tiêu công không vì mục tiêu bảo đảm và nâng cao hiệu
quả chung, duy trì sự ổn định xã hội, cũng nhƣ cần ngăn chặn kịp thời “sự liên minh ma
quỷ” giữa các doanh nghiệp-ngân hàng và quan chức có liên quan trong cho vay và đầu
tƣ mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị trƣờng và lãng
phí các nguồn lực quốc gia.
Nhằm hoàn thiện thể chế KTTT định hƣớng XHCN, cần nâng cao năng lực và
hiệu quả trên thực tế của chính phủ trong công tác giám sát, kiểm soát và xử lý sự
độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan;
ngăn chặn hiện tƣợng lạm dụng trục lợi cá nhân, thậm chí biến độc quyền nhà nƣớc
thành độc quyền doanh nghiệp, phƣờng hội và phe nhóm.
3.2.2.4 Cơ cấu lại nền kinh tế.
Đây là vấn đề đƣợc đặt ra một cách cấp bách. Hội nghị Trung ƣơng 3 khóa XI
của Đảng đã xác định 3 hƣớng ƣu tiên tái cơ cấu kinh tế là “cơ cấu lại đầu tƣ với
trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nƣớc; cơ cấu lại thị trƣờng tài
192
chính với trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thƣơng mại và các tổ chức tín
dụng” 53 (Xem thêm phụ lục 3).
Cơ cấu lại đầu tư là việc đổi mới căn bản cơ chế huy động, phân bổ, quản lý
các nguồn vốn đầu tƣ, đặc biệt là đầu tƣ công, nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn,
bảo đảm đầu tƣ có trọng điểm, theo đúng kế hoạch, tập trung, đồng bộ, dứt điểm.
Chính việc phân bổ nguồn lực cho đầu tƣ phát triển không hợp lý thời gian qua đã
tạo ra cơ cấu kinh tế không phù hợp, kém hiệu quả, năng suất lao động xã hội thấp,
khả năng cạnh tranh quốc gia chƣa đƣợc nâng lên. Vì vậy, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực này phải là yêu cầu của mọi cấp quản lý ở mọi giai đoạn phát triển. Mục
tiêu của tái cơ cấu đầu tƣ là nhằm giảm dần chỉ số ICOR (hiện vẫn đang ở mức
cao). Riêng tái cơ cấu đầu tƣ mà trọng tâm là đầu tƣ công cần phân bố vốn đầu tƣ
tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn chƣơng trình mục tiêu quốc gia theo kế
hoạch trung hạn nhằm khắc phục tình trạng đầu tƣ dàn trải, vƣợt quá khả năng cân
đối của ngân sách. Cần kiểm soát chặt chẽ và tập trung vốn cho các công trình, dự
án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng cho các dự án ODA, đồng thời đẩy mạnh
thu hút đầu tƣ xã hội và tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tƣ, bảo đảm
quản lý thống nhất của trung ƣơng, tăng cƣờng trách nhiệm của địa phƣơng và chủ
đầu tƣ.
Cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hƣớng làm cho doanh nghiệp Nhà
nƣớc có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, nâng cao sức
cạnh tranh, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu, tăng cƣờng trách
nhiệm của tổ chức và cá nhân quản lý; kiên quyết sáp nhập, giải thể các doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả; không nhất thiết phải có nhiều doanh nghiệp Nhà
nƣớc nhƣ hiện nay mà phải kiên quyết cổ phần hóa. Tập trung tháo gỡ các vƣớng
mắc về chể chế, cơ sở hạ tầng, nhân lực nhằm tạo môi trƣờng thuận lợi và có chính
sách đòn bẩy thúc đẩy các doanh nghiệp tự tái cơ cấu doanh nghiệp, theo đuổi phát
triển các sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao, đổi mới công nghệ, quá trình sản
xuất, chuẩn bị tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đề cao trách nhiệm, phát huy
tính tự chủ và công khai minh bạch của doanh nghiệp trong nền kinh tế theo quy
định của pháp luật và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới quản
193
lý doanh nghiệp Nhà nƣớc theo hƣớng tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc và xác định rõ
quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nƣớc tại doanh nghiệp. Đối với
các tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc, đề nghị Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành một
pháp lệnh riêng cho mỗi tập đoàn kinh tế, trên nguyên tắc xác định rõ ngƣời thực
hiện quyền chủ sở hữu, nâng cao trách nhiệm ngƣời đứng đầu và tập thể quản trị
điều hành, cấu trúc quản trị doanh nghiệp các tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc...
Cơ cấu hệ thống tài chính đƣợc thực hiện theo hƣớng lành mạnh hóa các ngân
hàng thƣơng mại và các tổ chức tín dụng, giải quyết dứt điểm vấn đề nợ xấu, hoàn
thiện thể chế các thị trƣờng tài chính theo các chuẩn mực tiên tiến của quốc tế; tăng
cƣờng giám sát, thanh tra, đánh giá và xử lý rủi ro của toàn hệ thống ngân hàng. Về
tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín dụng, và sáp nhập các tổ
chức tín dụng yếu kém cần xem xét, đánh giá thực chất hoạt động sáp nhập này. Để
có một hệ thống ngân hàng thƣơng mại thực sự lành mạnh và hiệu quả cần làm rõ
vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống, xác định chính xác tổng nợ xấu và sớm có
phƣơng án xử lý thích hợp. Cần gắn tái cơ cấu các tổ chức tín dụng với việc xử lý
các sự việc cố ý làm trái để thu lợi của một số tổ chức, cá nhân nhằm từng bƣớc đƣa
hoạt động tài chính tiền tệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Bên cạnh
đó, cần có giải pháp chính sách để sử dụng hiệu quả thị trƣờng vốn (đặc biệt là thị
trƣờng trái phiếu) để chia sẻ gánh nặng về vốn của nền kinh tế hiện chủ yếu tập
trung vào hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Tiến hành rà soát, và thực
hiện cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán, bảo
hiểm. Muốn xử lý đƣợc vấn đề này cần đƣợc thực hiện nghiêm túc và toàn diện để
có nhận định chính xác về tình hình, làm cơ sở đƣa ra các giải pháp cụ thể và kịp
thời nhằm giải quyết gốc rễ vấn đề.
Cần tiếp tục phát triển các mối quan hệ kinh tế đa phƣơng và song phƣơng,
đồng thời đẩy mạnh đầu tƣ vào các nguồn lực trong nƣớc nhƣ cơ sở hạ tầng, nguồn
vốn con ngƣời, vốn xã hội. Vai trò của nhà nƣớc sẽ phải đẩy mạnh ở hai mặt: chủ
động hơn trong các hoạt động phối hợp quốc tế và nâng cao năng lực quản lý và
giám sát hệ thống tài chính ngân hàng. Các nỗ lực xoá đói giảm nghèo của Việt
Nam cần đƣợc tiếp tục đẩy mạnh, song song với việc gia tăng các khoản trợ cấp và
194
bảo hiểm xã hội. Điều này có thể sẽ làm tăng kích cỡ và vai trò của nhà nƣớc trong
nền kinh tế. Việc xây dựng đề án tái cơ cấu phải gắn liền với công tác quy hoạch
cán bộ, bổ nhiệm cán bộ để những cán bộ xây dựng đề án cũng là những ngƣời thực
hiện, qua đó giúp cho công tác đánh giá cán bộ gắn liền với hiệu quả công việc
đƣợc giao.
3.3. Một số bài học bổ ích.
Cuộc KHTC toàn cầu lần này khiến cả thế giới đều tìm thấy những điều hệ
trọng và đối với chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích. Theo quan điểm của
tác giả, những bài học kinh nghiệm vừa có tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù với
Việt Nam có thể tổng hợp lại nhƣ sau:
3.3.1. Phân tích, dự báo đúng tình hình; khi khủng hoảng xảy ra cần có những
phản ứng chính sách mạnh mẽ và liên tục. Tăng cường kiểm soát rủi ro trong
hoạt động ngân hàng.
Vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là
an toàn hệ thống tài chính- ngân hàng, là hết sức quan trọng và không thể coi nhẹ
trong bất luận trƣờng hợp nào và vào thời điểm nào... Cần luôn tỉnh táo với các tác
động lan tỏa, dây chuyền có tính hai mặt của các biến cố và chính sách kinh tế trên
thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế. Cần dập ngòi khủng hoảng từ khi nó còn nhen
nhúm, thay vì khi nó đã thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì việc cứu chữa là vô
cùng khó khăn, phức tạp, nhất là với một nƣớc còn nghèo và các thiết chế thị trƣờng
còn chƣa phát triển, hoàn thiện.
Cần nâng cao chất lƣợng công tác và dịch vụ thông tin, dự báo, phản biện và
chủ động các phƣơng án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng; phân
biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ
quan; coi trọng các phản biện xã hội và các đánh giá tác động chính sách (định kỳ
hoặc đột xuất) trƣớc và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp và độc lập
thực hiện theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền khách quan; thể chế hoá các phát
ngôn và cung cấp thông tin chính thức có chất lƣợng và trách nhiệm pháp lý cao.
Phát hiện và trừng phạt kịp thời, nghiêm khắc các cá nhân và tổ chức tung tin đồn
thất thiệt hoặc thông tin thiếu trách nhiệm nhằm mục tiêu phá hoại chính sách, đầu
195
cơ và cạnh tranh không lành mạnh. Tăng cƣờng giáo dục dân trí, nâng cao nhận
thức về kinh tế thị trƣờng và hiểu biết pháp luật, tăng khả năng tự nhận thức và cảnh
giác, tránh hành động kiểu bầy đàn, vô tình hoặc cố ý tiếp tay và trở thành nạn nhân
của tin đồn.
Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, đƣợc cụ thể
hoá thành cơ chế tổ chức thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng bộ,
nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các
vi phạm chính sách trên thực tế; giảm thiểu các lạm dụng công cụ quản lý hành
chính, mệnh lệnh và hiện tƣợng “vận động hành lang”, “chạy chính sách” vì lợi ích
nhóm, cục bộ, ngành độc quyền. Các biến động chính sách phải tƣờng minh và có
thể dự báo đƣợc trong xu hƣớng ổn định, nhất quán, phù hợp các nguyên tắc kinh tế thị
trƣờng và yêu cầu cam kết hội nhập, các thông lệ thế giới, cũng nhƣ các tín hiệu thị
trƣờng khách quan.
Bàn tay điều chỉnh của Nhà nƣớc cần bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá
trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng khủng
hoảng lên ngƣời dân, ngƣời tiêu dùng. Tăng cƣờng vai trò các loại quỹ bình ổn thị
trƣờng và sử dụng linh hoạt các công cụ nợ, biến nợ xấu thành chứng khoán có thể
mua - bán trên thị trƣờng nợ là một trong các lựa chọn cần thiết và hiệu quả trong
trƣờng hợp này. …
Vì thế khi khủng hoảng xảy ra chính phủ cần có những phản ứng chính sách
mạnh mẽ và liên tục. Tăng cƣờng quản lý, giám sát nhằm ổn định giá cả bất động
sản. Thực hiện tỷ giá linh hoạt, mở rộng hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc
đối phó với khủng hoảng tài chính. Việt Nam cũng nên rút kinh nghiệm từ cuộc
khủng hoảng này để thận trọng hơn trong các hoạt động tài chính, đặc biệt là cho
vay kinh doanh bất động sản.
Các cơ quan quản lý nhà nƣớc phải giám định chặt chẽ hoạt động của các định
chế tài chính, tránh "ngủ gục" trên "tay lái" của mình. Ngân hàng cần rút kinh
nghiệm vỡ “bong bóng” của thị trƣờng bất động sản Nhật trong những năm 1990 để
đƣa ra những chiến lƣợc kinh doanh hợp lý. Ngân hàng Nhà nƣớc có vai trò quan
trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả của quản lý nợ công, từ khâu xây dựng
196
chiến lƣợc quản lý nợ công đến khâu thực hiện. Vì thế, nên có định chế nghiêm
ngặt, chặt chẽ hơn trong quản lý tín dụng. NHNN cần đẩy mạnh công tác kiểm tra,
giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động ngân hàng và các tổ chức tín dụng theo quy định của Luật các tổ chức tín
dụng. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây dựng và giám sát chặt chẽ hạn mức tín dụng đối
với các lĩnh vực nhạy cảm nhƣ cho vay đầu tƣ bất động sản, đầu tƣ chứng khoán...
Về lâu dài, NHNN cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ
quốc tế, rà soát và xây dựng mới các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro... Chính phủ và Bộ Tài chính, cần quản lý và kiểm soát
nguồn vốn Nhà nƣớc trong các CTTC Nhà nƣớc, ngăn chặn tình trạng lạm dụng đầu
tƣ tài chính bằng nguồn Nhà nƣớc của các tổ chức này góp phần làm lành mạnh hóa
thị trƣờng tiền tệ. Có thể nói là những thị trƣờng đƣợc những nhà đầu cơ Việt Nam
quan tâm nhất đó là thị trƣờng vàng, ngoại tệ, thị trƣờng địa ốc và sau đó là thị
trƣờng chứng khoán. Do đó cần phải có một sự chấn chỉnh và giám sát chặt chẽ
những thị trƣờng này và có giải pháp quản lý, điều tiết sao cho những thị trƣờng này
không mang tính ảo cao.Chúng ta có thể hình dung ra rằng khi một phần lớn nguồn
vốn tiền tệ của chúng ta, kể cả tín dụng đƣợc đem đầu tƣ vào các thị trƣờng phi sản
xuất nói trên, thì rõ ràng đầu tƣ vào sản xuất và tiêu dùng trong nƣớc sẽ bị hạ thấp là
điều chắc chắn.
3.3.2. An sinh xã hội phải đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện
đồng bộ với phát triển kinh tế.
Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để
phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải
đƣợc đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh
tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ.
Chính sách xã hội phải đƣợc thực hiện đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm; ƣu
tiên thực hiện tốt chính sách đối với ngƣời có công; bảo đảm mức sống tối thiểu và
hỗ trợ kịp thời ngƣời có hoàn cảnh khó khăn.
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Ðảng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị và truyền thống tốt đẹp, tƣơng thân, tƣơng ái của dân tộc ta. Nhà nƣớc giữ vai trò
197
chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời huy
động sự tham gia mạnh mẽ của toàn xã hội
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch phát triển phù
hợp, có chƣơng trình hành động cụ thể, khả thi và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng
thời làm tốt công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã hội.
3.3.3. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị
trường. Xác định rõ thể chế kinh tế và cơ chế kinh tế thị trường.
Nếu nhà nƣớc bỏ mặc thị trƣờng, để thị trƣờng tự do chi phối nền kinh tế thì
sớm muộn cũng sẽ lâm vào tình trạng mất cấn đối cơ cấu kinh tế vĩ mô, bất ổn định
và cuối cùng là đổ vỡ, khủng hoảng. Trong điều kiện toàn cầu hóa, vai trò của nhà
nƣớc càng đƣợc chú ý nhiều hơn.
Hội nghị G20 ngày 2 tháng 4 năm 2009 tại Luân Đôn đã xác định, sự can
thiệp của Nhà nƣớc đối với nền kinh tế là cần thiết và quan trọng. Nhà nƣớc nói
chung cần can thiệp vào kinh tế bằng việc đảm bảo môi trƣờng kinh doanh để
KTTT hoạt động có hiệu quả. Đó là việc tổ chức cung ứng các hàng hóa công, giám
sát sự tuân thủ pháp luật của các thể chế KTTT, bảo đảm an sinh xã hội và có các
công cụ, cùng những giải pháp cần thiết để can thiệp khi nền kinh tế có sự cố.
Quan điểm chung là nhƣ vậy nhƣng khó khăn nhất lại là việc xác định mức
độ can thiệp của Nhà nƣớc vào thị trƣờng nhƣ thế nào là vừa, thế nào là thuận. Thực
tế đã chứng tỏ việc coi nhẹ vai trò của Nhà nƣớc đã dẫn tới hậu quả trực tiếp không
chỉ ở cuộc KHTC lần này, mà cả ở các cuộc khủng hoảng trƣớc đây nhƣ cuộc Đại
khủng hoảng 1929-1933. Còn ở một thái cực khác, nếu Nhà nƣớc can thiệp quá
mức cũng sẽ dẫn đến phản tác động, dễ quá đà, trái quy luật, kìm hãm sự phát triển
tự nhiên của nền kinh tế. Kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một bằng chứng sai lầm
trong chính sách và điều hành của Chính phủ, cũng là tác nhân gây ra các vấn đề
kinh tế và cuộc khủng hoảng Đông Á là những ví dụ điển hình.
Vì thế, tuy rất thống nhất về vai trò của Nhà nƣớc can thiệp vào thị trƣờng
không chỉ trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng mà ngay cả những thời điểm nền
kinh tế đang vận hành thuận lợi, song các nhà kinh tế vẫn có ý kiến khác nhau về
quy mô và mức độ can thiệp. Nếu can thiệp quá sâu sẽ dẫn tới có những chính sách
198
kinh tế chủ quan duy ý chí, gây cản trở sản xuất kinh doanh, dễ dẫn tới thâm hụt
ngân sách lớn, lạm phát và khủng hoảng. Những ý kiến khác cho rằng: nếu can
thiệp của Nhà nƣớc quá hời hợt, không đủ liều lƣợng sẽ dẫn tới việc thị trƣờng vận
hành hoàn toàn tự do; sản xuất, phân phối lƣu thông vô hạn độ, mất cân đối, phân
cực và có tính đối đầu kinh tế; bất ổn xã hội và cuối cùng là đổ vỡ. Tùy theo mô
hình và điều kiện cụ thể của nền kinh tế mà dự liệu mức độ và giải pháp can thiệp
của Nhà nƣớc một cách hợp lý, hài hòa. Nhà nƣớc chỉ nên làm những gì thị trƣờng
không làm đƣợc và tuyệt đối không làm thay những gì mà thị trƣờng có thể đảm
đƣơng. Đây là vấn đề khó khăn nhất trong điều hành kinh tế.
KTTT là thành tựu phát triển kinh tế của nhân loại, là một tất yếu khách
quan. Nhà nƣớc có vai trò quan trọng trong việc điều tiết KTTT cũng là một nguyên
tắc không thể phủ nhận. Từ đó, việc phát triển mô hình KTTT định hƣớng XHCN ở
Việt Nam là sự phát triển có tính quy luật đƣợc vận dụng vào điều kiện cụ thể của
đất nƣớc. Ở đây, cũng cần nhấn mạnh: định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong nền
KTTT cũng chính là sự quản lý của Nhà nƣớc một cách có định hƣớng, hợp quy
luật, khoa học và sáng tạo. Sự quản lý và can thiệp này vừa nhất quán, vừa mềm
dẻo, linh hoạt; quản lý ở tầm vĩ mô, sao cho giải phóng tất cả năng lực sản xuất của
xã hội, đồng thời tiên lƣợng đƣợc những xu thế phát triển đƣợc của nền sản xuất.
Nền KTTT định hƣớng xã hội chủ nghĩa phải là nền kinh tế vừa vận hành theo quy
luật khách quan, vừa có tính tự giác rất cao, đồng thời phải có một cơ chế vận hành
sáng tạo và đổi mới không ngừng.
Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập toàn cầu, việc bảo đảm phát triển nhanh
chóng, bền vững, an toàn càng cần thiết. Để làm đƣợc điều đó, cần phải xác định rõ
thể chế kinh tế và cơ chế, chế tài thực hiện; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc; hiện đại hóa bộ máy quản lý kinh tế, nâng cao chất
lƣợng đội ngũ cán bộ quản lý cũng nhƣ trình độ quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong quá trình vận hành và hoàn thiện thể chế KTTT định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo của Đảng đặc biệt quan trọng. Trí tuệ, năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền của Đảng đƣợc thể hiện trƣớc hết và quan trọng hàng đầu trong
việc lãnh đạo phát triển kinh tế, kinh tế gắn liền với chính trị và xã hội, gắn chặt với
an ninh, quốc phòng, gắn chặt với an sinh xã hội và bình ổn đất nƣớc.
199
3.3.4. Nâng cao tính độc lập và tự chủ của nền kinh tế đất nước.
Qua cơn bão này ta nhận thấy rõ mình hơn, thấy rõ thế mạnh và điểm yếu
của nền kinh tế đất nƣớc, thấy rõ điều cần làm và phải làm, điều nên tránh và phải
tránh. Đặc biệt, nhân cơ hội này cần cấu trúc lại nền kinh tế, cân bằng giữa nội lực
và ngoại lực, phải coi nội lực là nhân tố quyết định.
Muốn cân bằng giữa nội lực và ngoại lực, trƣớc hết, cần xây dựng nền kinh
tế có tính độc lập, tự chủ cao. Đó là nền kinh tế có đủ lực, đủ sức bảo đảm phát triển
tƣơng đối ổn định cho mọi vùng, miền; bảo đảm cung ứng những sản phẩm hàng
hóa đáp ứng nhu cầu của toàn thể nhân dân. Đó cũng là nền kinh tế đƣợc chú trọng
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, từng bƣớc đáp ứng cho nhu cầu quốc
phòng, an ninh.
Trong các chính sách phát triển cụ thể cũng cần có sự điều chỉnh hợp lý hơn.
Trong nhiều năm qua, phát triển kinh tế của Việt Nam có xu thế hƣớng ngoại, dựa
nhiều vào xuất khẩu và đầu tƣ từ nƣớc ngoài. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có tăng về
số lƣợng nhƣng chất lƣợng và hiệu quả đầu tƣ còn thấp, chất lƣợng tăng trƣởng
chƣa thỏa đáng, chủ yếu tăng trƣởng chiều rộng và chƣa tăng trƣởng vững chắc, có
chiều sâu. Xuất khẩu tuy có nhiều khởi sắc nhƣng chƣa phải là xuất khẩu những mặt
hàng có phẩm chất, trí tuệ Việt Nam mà chỉ là xuất khẩu nguyên liệu hoặc hàng gia
công chế biến. Bởi vậy, các doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu chƣa đổi mới công
nghệ, vẫn là các công xƣởng gia công lắp ráp là chủ yếu.
Cần có những chính sách phát triển kinh tế không cần nhanh, nhƣng cơ bản
và bền vững. Trong đó cần phải quan tâm đến phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ
tầng giao thông, đặc biệt là giao thông của các đô thị mới, giao thông nông thôn.
Để nền kinh tế phát triển bền vững và hiệu quả hơn, cần phát huy tối đa sức
mạnh nội lực, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, coi tiêu dùng và đầu tƣ trong
nƣớc là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế và là nhân tố thúc đẩy tăng
trƣởng bền vững. Bên cạnh đó, cần tiếp tục sử dụng có hiệu quả ngoại lực, tăng
cƣờng thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài nhƣng phải có chọn lọc công nghệ tiên tiến, thân
thiện với môi trƣờng. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa có thƣơng hiệu Việt Nam, từng
bƣớc chuyển từ mô hình kinh tế sản xuất gia công sang các công xƣởng sản xuất để
xuất khẩu, tăng cƣờng xuất khẩu các loại hàng hóa đã qua chế biến, đƣợc thị trƣờng
thế giới chấp nhận.
200
3.3.5. Kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lênin về phát triển kinh tế.
Qua cơn khủng hoảng, chúng ta càng thấy học thuyết kinh tế Mác xít cắt nghĩa
quá trình sản xuất, phân phối lƣu thông và những mâu thuẫn, bế tắc vô phƣơng cứu
chữa của nền kinh tế TBCN là học thuyết khoa học đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa
thời đại. Từ những thành công của công cuộc mở cửa hội nhập quốc tế cũng nhƣ
những thành tựu của hơn 25 năm đổi mới kinh tế của nƣớc ta, chúng ta càng tự tin
hơn với việc xây dựng nền KTTT định hƣớng XHCN, một nền kịnh tế trong đó vai
trò của Nhà nƣớc trong việc vận hành, điều tiết kinh tế ngày càng đƣợc thực hiện
một cách khoa học, hợp lý; trong đó thị trƣờng đƣợc phát triển tự nhiên theo quy
luật kinh tế và có sự định hƣớng đảm bảo cho sự ổn định, bền vững, hài hòa. Đó là
mô hình phát triển kinh tế đúng đắn dựa trên cơ sở lý luận khoa học và đã đƣợc thực
tiễn kiểm nghiệm.
Tuy nhiên, vẫn cần nhận thức rõ là sự phát triển kinh tế thế giới cũng nhƣ của
đất nƣớc có xu thế phát triển đi lên nhƣng với những bƣớc đi dích dắc, có cả những
bƣớc phát triển đột biến, có cả những thụt lùi, thậm chí đổ vỡ. Vậy nên, trong khi
vận dụng những nguyên lý mác xít cơ bản vào thực tiễn, cần có sự nghiên cứu
nghiêm túc, khoa học và không ngừng hoàn thiện, phát triển các nguyên lý đó. Cách
mạng là sáng tạo. Cuộc cách mạng về phát triển kinh tế Việt Nam càng phải sáng
tạo vì vừa hội nhập theo nhịp bƣớc của kinh tế thế giới, vừa giữ vững định hƣớng
XHCN và không bị chao đảo trƣớc những thách thức và sóng gió của thời cuộc nhƣ
cuộc KHTC toàn cầu vừa qua và những di chứng của nó tiếp tục phát triển hôm nay.
201
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 nhƣ một “siêu địa chấn” tàn phá
nền kinh tế trên thế giới. Đây là cuộc khủng hoảng vừa do sự sai lầm của cơ chế
chính sách kinh tế bắt đầu từ một nƣớc lan tỏa ra thế giới, vừa là sự đổ vỡ mang tính
tất yếu của nền kinh tế thị trƣờng TBCN trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều quốc
gia đã và vẫn đang gánh chịu những tổn thất nặng nề do cuộc khủng hoảng này gây
ra: đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế, lạm phát,
thất nghiệp. Tuy nhiên, cùng với những nỗ lực đối phó mang tính toàn cầu của các
nƣớc, kinh tế thế giới đã bƣớc đầu có những dấu hiệu phục hồi, nhƣng vẫn còn đó
rất nhiều công việc để chúng ta phải nhìn nhận sự yếu kém trong khâu quản lý và
quá tin tƣởng vào thị trƣờng đã làm phát sinh quá nhiều điểm yếu và bất ổn trong hệ
thống tài chính của Mỹ nói riêng và thế giới nói chung.
Xu thế toàn cầu hóa có tác động hai mặt đối với nền kinh tế thế giới, cơ hội
tạo ra cũng nhiều và thách thức cũng lớn. Đó là vấn đề cần đƣợc nhiều quốc gia
xem xét để có một chiến lƣợc phát triển hợp lý. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã chỉ ra quá nhiều điểm yếu kém cần phải đƣợc cải tổ và khắc phục, sẽ không
dễ một sớm một chiều để làm đƣợc điều đó bởi ngay sau lƣng nó là một khoản nợ
khổng lồ mà nhiều nƣớc châu Âu đang phải gánh chịu, tình trạng thất nghiệp lan
rộng, sự thiếu lòng tin của các nhà đầu tƣ vào tình hình tài chính trong tƣơng lai…
1. Nhìn nhận về bản chất, “Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một dạng bậc
cao của khủng hoảng tài chính, nó không dừng lại ở phạm vi một quốc gia hay khu
vực mà lan tỏa và tác động đến toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới. KHTC toàn
cầu là sự đổ vỡ và suy sụp phần lớn thị trƣờng tài chính thế giới và sự vỡ nợ kể cả
phá sản của hàng loạt các ngân hàng trên phạm vi toàn thế giới, gây nên sự bế tắc và
sụt giảm nghiêm trọng các hoạt động kinh tế toàn cầu. KHTC toàn cầu thể hiện rõ
ràng nhất những mâu thuẫn và bất cập của thể chế và cơ cấu kinh tế của CNTB hiện
đại trong điều kiện toàn cầu hóa”.
Đặc điểm dễ nhận diện của cuộc khủng hoảng này là; Thứ nhất, một cuộc
khủng hoảng về cơ cấu thể chế kinh tế toàn cầu, trƣớc hết là của CNTB thế giới;
Thứ hai, đó là cuộc khủng hoảng chu kỳ; Thứ ba, là cuộc khủng hoảng trong điều
202
kiện nền kinh tế toàn cầu hóa nên diễn biến dai dẳng, gây nhiều hệ lụy kế tiếp; Thứ
tư, đó là cuộc khủng hoảng về lý thuyết điều tiết kinh tế. Tất cả các đặc điểm nêu
trên là cơ sở nêu bật những tác động có sức tàn phá lớn, rõ nét của cuộc khủng
hoảng đối với nền kinh tế thế giới và từng khu vực cũng nhƣ một số nƣớc đặc thù.
2. Trƣớc những tai họa vô cùng to lớn do cuộc KHTC toàn cầu 2008 gây ra,
cả thế giới đã tìm mọi phƣơng kế để ứng phó. Từ những kinh nghiệm ứng phó
chung với các cuộc khủng hoảng kinh tế trƣớc đây và những đặc thù của cuộc
khủng hoảng lần này, thực tế đã chứng tỏ một số giải pháp hữu hiệu để khắc phục
những hiểm họa của cơn điạ chấn này. Một số giái pháp nổi bật là: (1), sử dụng
chính sách tài khóa và tiền tệ; (2), ứng phó bằng thúc đẩy, kích thích kinh tế và giải
quyết việc làm; (3), chính sách bảo đảm an sinh xã hội; (4), phối hợp quốc tế để
cùng ứng phó.Việc vận dụng các phƣơng thức chung trên quy mô toàn cầu, thực
trạng việc thực hiện các nhiệm vụ và từng giải pháp cụ thể đối với từng quốc gia
trong khi ứng phó với cuộc khủng hoảng đã cho thấy đó là cả một khối lƣợng khổng
lồ các nhiệm vụ phức tạp. Kết quả của việc ứng phó bằng các giải pháp cụ thể đó
cùng với nhiều vấn đề vẫn còn ngổn ngang chƣa thể tháo gỡ đã và đang đƣợc minh
chứng trong đời sống kinh tế thế giới.
Qua nghiên cứu, tổng hợp kết quả của việc ứng phó trên phạm vi toàn cầu và ở
các quốc gia, cho thấy, những vẫn đề quan trong nổi bật. Đó là: việc khôi phục, ổn
định thị trƣờng tài chính và đặc biệt là khôi phục niềm tin của xã hội, của các đối
tƣợng kinh tế; là những kết quả của các chƣơng trình kích cầu kinh tế; là sự phối
hợp trong chính sách giữa các nƣớc để hỗ trợ lẫn nhau giải quyết khủng hoảng; là
việc bảo đảm an sinh xã hội. Từ đó càng có thể khẳng định: thị trường là thành quả
vĩ đại trong sự phát triển kinh tế của nhân loại. Việc vận dụng nó như thế nào là có
lợi nhất cho mỗi quốc gia là nhiệm vụ của từng nước cụ thể. Trong việc ứng phó với
cuộc khủng hoảng vừa qua, vai trò của Nhà nước là không thể phủ nhận.
3. Nhìn nhận từ bối cảnh kinh tế Việt Nam trƣớc khủng hoảng, ảnh hƣởng trực
tiếp của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế nƣớc ta, Chính phủ Việt Nam đã nêu
ra quan điểm, giải pháp nhằm ứng phó đối với cuộc khủng hoảng này.
203
Các giải pháp ứng phó của Việt Nam đã có những kết quả rõ rệt, về cơ bản
kinh tế nƣớc ta đã vƣợt qua đƣợc những thách thức do cuộc khủng hoảng gây ra.
Tuy nhiên, những di chứng của cuộc khủng hoảng vẫn còn ngổn ngang trên khắp
các châu lục trong nền kinh tế thế giới và cả ở nƣớc ta. Một số vấn đề cần đúc rút
sau cuộc khủng hoảng này là: Thứ nhất, cần phân tích, dự báo đúng tình hình; khi
khủng hoảng xảy ra cần có những phản ứng chính sách mạnh mẽ và liên tục; Thứ
hai, an sinh xã hội phải đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ
với phát triển kinh tế; Thứ ba, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa Nhà nƣớc và KTTT. Xác định rõ thể chế kinh tế và cơ chế KTTT; Thứ tư, nâng
cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế đất nƣớc; Thứ năm, kiên định vận dụng và
phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về phát triển kinh tế
trong điều kiện hiện nay.
4. Từ cuộc KHTC toàn cầu lần này đƣa tới cho cả giới học thuật cũng nhƣ
những nhà hoạch định chính sách nhiều suy nghĩ trăn trở liên quan đến những vấn
đề to lớn và đòi hỏi phải có những thay đổi lớn lao trong tƣ duy và trên thực tế.
Thứ nhất, đây là cuộc khủng hoảng khẳng định các thể chế kinh tế toàn cầu
đã lỗi thời nên phải thay đổi và cấu trúc lại các thể chế kinh tế quốc tế. Các định chế
kinh tế quốc tế hiện nay nhƣ: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) đều tỏ ra những yếu kém, bất lực trong việc
cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý, đối phó với cuộc khủng hoảng vừa qua. Nhiều những
quy định, chuẩn mực quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, trao đổi
thƣơng mại đã không phải là vô tƣ và khách quan mà nhiều hơn thế và lớn hơn thế
là những cơ quan này chủ yếu phục vụ những hành vi cơ hội, ích kỷ của các thế lực
tài phiệt. Muốn cho nền kinh tế thế giới phát triển ổn định hơn và giải quyết những
tình huống nảy sinh hiệu quả hơn, cần phải cải tổ một cách căn bản các thể chế và tổ
chức kinh tế quốc tế nói trên.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng cũng làm bộc lộ sâu sắc một trật tự kinh tế trong
thế giới đƣơng đại hết sức bất bình đẳng. Hầu nhƣ nền kinh tế toàn cầu phải tùy
thuộc vào những tổ hợp tài chính – kinh tế- quân phiệt khổng lồ và sự chi phối của
những đồng tiền nhƣ đồng đô la càng ngày càng mất giá trị. Vậy nên, trật tự kinh tế
204
quốc tế sau khủng hoảng cần thiết và nhất định sẽ có sự chuyển dịch theo hƣớng đa
cực với sự hợp tác và cạnh tranh gia tăng giữa các nƣớc phát triển với các nƣớc mới
nổi, đòi hỏi mọi quốc gia phải có ý thức về điều đó.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng lần này cũng khẳng định mâu thuẫn ngày càng gay
gắt giữa sức sản xuất xã hội ngày càng phát triển vƣợt bậc với quan hệ sản xuất
TBCN ngày càng lỗi thời. Ngay cả có những hình thức phát triển mới nhƣ Cộng
đồng châu Âu- một tổ hợp CNTB tập thể, cũng tỏ ra bất lực trƣớc những biến thái
mới của kinh tế toàn cầu. Vậy nên, xã hội nhất định phải tiến lên với một phƣơng
thức sản xuất văn minh dù cho việc xác lập phƣơng thức đó không phải dễ dàng và
con đƣờng đi không bằng phẳng.
205
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Hoài (2005), "Vai trò của thị trƣờng chứng khoán và các ngân
hàng thƣơng mại trong quá trình huy động vốn trong nƣớc của Việt Nam", báo
cáo tại hội nghị khoa học nữ lần thứ 10 ĐHQG Hà Nội, nhà xuất bản ĐHQG Hà
Nội, tr. 299-304.
2. Nguyễn Thị Thu Hoài (2005), “ Một số thách thức đối với hệ thống Ngân hàng
Công thƣơng Việt Nam trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Tài
chính Tiền tệ (8), tr. 23-25.
3. Nguyễn Thị Thu Hoài (2011), “Giải pháp xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN ở nƣớc ta trong giai đoạn “hậu khủng hoảng”, Tạp chí Quản lý
Nhà nước (189), tr. 32-35.
4. Nguyễn Thị Thu Hoài (2011), “Một số giải pháp nhằm xây dựng thể chế kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn “hậu khủng hoảng”, báo
cáo tại hội thảo khoa học “Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội ĐCSVN lần
thứ XI vào việc giảng dạy các môn LLCT trong các trường ĐH&CĐ”, ĐHQG
Hà Nội & ĐHQG T.P Hồ Chí Minh, tr. 315-320.
5. Nguyễn Thị Thu Hoài (2012), “Biện pháp ứng phó khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu của các nƣớc khu vực Châu Á- Thái Bình Dƣơng”, Tạp chí Quản lý
Nhà nước (199), tr. 71-74.
6. Nguyễn Thị Thu Hoài (2012), “Từ khủng hoảng nợ công trên thế giới bàn về vấn
đề nợ công của Việt Nam”,Tạp chí Quản lý Nhà nước (193), tr. 18-21.
7. Nguyễn Thị Thu Hoài (2012), “Khủng hoảng đã làm thay đổi ngôi nhà, mái ấm
của những ngƣời nghèo”, báo cáo tại hội thảo khoa học “Tăng trưởng kinh tế
gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở VN trong điều
kiện hội nhập quốc tế”, Trung tâm ĐT GVLLCT- ĐHQG HN, tr. 133-137.
8. Nguyễn Thị Thu Hoài (2012), “Những bất ổn của kinh tế thế giới hiện nay”, báo
cáo tại hội thảo khoa học “Bối cảnh thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra
với Việt Nam”, chương trình KX04/11-15, đề tài cấp Nhà nước KX04-20/11-15
phối hợp cùng Trung tâm ĐT GVLLCT- ĐHQG Hà nội, tr. 215-224.
206
9. Nguyễn Thị Thu Hoài (2012), “Sự cần thiết phải phối hợp điều tiết kinh tế giữa
các Nhà nƣớc trong việc ứng phó với những vấn đề “Hậu khủng hoảng” tài chính
hiện nay”, báo cáo tại hội thảo khoa học “ Bối cảnh thế giới hiện nay và những
vấn đề đặt ra với Việt Nam”, chương trình KX04/11-15, đề tài cấp Nhà nước
KX04-20/11-15 phối hợp cùng Trung tâm đào tạo giảng viên lý luận chính trị-
ĐHQG Hà nội, tr. 225-229.
110. Nguyễn Thị Thu Hoài (2013), Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009: Các
giải pháp ứng phó của Việt Nam và tác động của chúng trong giai đoạn hậu
khủng hoảng, đề tài cấp ĐHQG do trung tâm quản lý, mã số TTCT.08.11 /13.
111. Nguyễn Thị Thu Hoài (2013), “Đánh giá chung về các giải pháp ứng phó
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 của các nƣớc và bài học rút ra”, báo cáo tại
hội thảo khoa học dành cho học viên cao học và Nghiên cứu sinh, Trung tâm
đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, ĐHQG Hà nội, tr. 186-195.
12. Nguyễn Thị Thu Hoài (2013), “Những vấn đề mới đặt ra đối với Việt Nam sau
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và giải pháp nhằm tạo sức bật mới cho nền
kinh tế đất nƣớc”, báo cáo tại hội thảo khoa học dành cho học viên cao học và
Nghiên cứu sinh, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị,
ĐHQG Hà nội, tr. 196- 208.
13. Nguyễn Thị Thu Hoài (2013), Kinh nghiệm ứng phó khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu của các nƣớc và bài học rút ra, Tạp chí Quản lý Nhà nước,
(214), tr.46-51.
207
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1 Adam Smith (1997), Của cải của các dân tộc, NXB Giáo dục, Hà nội.
2 Amartya Sen (2009), CNTB vượt xa hơn khủng hoảng, The New York
Review of Books .
3 Lê Đình Ân (2009), Dự báo KT thế giới sau KH và tái cơ cấu các nền KT,
Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế- Xã hội Quốc gia.
4 Vũ Tuấn Anh (1994), Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
5 Lê Vân Anh (2008), “Khủng hoảng tài chính – Mô hình lý thuyết và
những nguy cơ đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay”,
Tạp chí khoa học ĐHQG Hà Nội (24), tr. 55-56.
6 Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2010), Báo cáo một số nét chủ yếu tình hình
sản xuất- kinh doanh, dịch vụ và đầu tư tháng 3 và quý I năm 2010.
7 Bộ Kế hoạch và đầu tƣ (2009), Báo cáo số 7446/BC-BKH ngày
29/9/2009.
8 Các Mác (1984), Tư bản, NXB Tiến bộ Matxcova- NXB Sự thật, Hà Nội.
9 C.Mac & Ph.Ăng-ghen (1984), C.Mac và Ph.Ăng-ghen toàn tập, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
10 Cơ quan nghiên cứu của Ngân hàng ANZ (2008), Điểm lại tình hình KT
Thế giới, Global Wrap.
11 Lê Quang Cƣờng (2008): “Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ”, Tạp chí phát triển Kinh tế (18),
tr.23-35.
12 Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13 Daniel Yergin & Joseph Stanislaw (2006), Những đỉnh cao chỉ huy-
208
Cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới, NXB Tri thức.
14 Lê Đăng Doanh (2009), “KHTC toàn cầu và suy thoái KT- Những
thách thức về lý thuyết kinh tế”, báo cáo tại kỳ họp thứ 9 Hội đồng lý
luận Trung ương, tr. 47-57.
15 Lê Văn Đƣợc (2011), “Đánh giá tổng quan về tình hình kinh tế thế giới, khu
vực sau khủng hoảng và những tác động đến kinh tế Việt Nam”,
http//www.ecna.gov.vn/ht/List/Baiviet.
16 George Cooper (2008), Nguồn gốc khủng hoảng tài chính, NXB Lao
động.
17 Nguyễn Văn Giàu (2010), “Nhận định về công tác điều hành chính sách
tiền tệ năm 2009 và định hƣớng phát triển hệ thống NH, thị trƣờng tiền
tệ VN năm 2010”, Tạp chí Phát triển kinh tế (228), tr.13-17.
18 Gilles Dostaler (2008), Chủ nghĩa tự do của Hayek, NXB Tri thức.
19 Nguyễn Văn Hậu, Nguyễn Thị Nhƣ Hà (2009), Hoàn thiện thể chế
KTTT định hướng XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20 Henry Hazlitt (2008), Hiểu KT qua một bài học, NXB Tri thức.
21 Vũ Văn Hiền (2009), “Vai trò của NN trong nền KT thị trƣờng nhìn từ
cuộc KHTC toàn cầu”, Báo cáo tại Hội thảo lý luận lần thứ năm giữa
Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, tr. 218-232.
22 Phí Mạnh Hồng (2009), “Một vài suy nghĩ về cuộc KHTC- suy thoái
toàn cầu hiện nay và các lý thuyết”, Báo cáo tại kỳ họp thứ 9 Hội đồng
lí luận Trung ương, tr. 94-100.
23 Lê Hùng (2009), “Điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (8), tr. 21-23
24 Võ Hƣơng (2012), “Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những giải pháp
của BOJ”, Tạp chí Tài chính (18) , tr.12-15.
25 Ian.I.Mitroff (2010), Hùng mạnh hơn sau khủng hoảng, NXB Tri thức.
26 IMF (1998), Triển vọng kinh tế thế giới, NXB Sự thật, Hà Nội.
27 J.Keynes (1979), Lý thuyết chung về việc làm lãi xuất và tiền tệ,
209
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28 John Kenneth Galbraith (2009), Ác mộng đại khủng hoảng 1929, NXB Tri
thức, Hà Nội.
29 Kindleberger Charles P, Aliber Robert Z (2009), Hoảng loạn, hỗn loạn và
cuồng loạn, lịch sử 300 năm các cuộc KHTC, NXB Lao động-Xã hội.
30 L.Alan Winters & Shahid Yusuf (2007), Vũ điệu với người khổng lồ-
Trung Quốc, Ấn Độ và nền kinh tế toàn cầu, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
31 Trần Du Lịch (2009), “KHTC và suy thoái KT toàn cầu: Sự cần thiết
phải phối hợp những biện pháp ứng phó trong thời kỳ “hậu khủng
hoảng”, báo cáo tại Hội thảo lý luận lần thứ năm giữa Đảng cộng sản
Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, tr.128-139.
32 Litan (2008), Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp, NXB Trẻ, Hà Nội.
33 Machael Beaud & Gilles Dostaller (2008), Tư tưởng kinh tế kể từ
Keynes, NXB Tri thức, Hà Nội.
34 Đỗ Hoài Nam (2010), Khủng hoảng TCTC và ứng phó chính sách của
Việt nam, một năm nhìn lại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
35 Đỗ Hoài Nam (2009), “Một số lý thuyết KT chính trên thế giới hiện nay
qua cuộc KHTC toàn cầu và những vấn đề đặt ra cho Việt nam”, Báo cáo
đề dẫn tại Kỳ họp thứ 9 HĐLL Trung ương, tr. 3-32.
36 Lê Vũ Nam (2008), “Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những tác động
đến Việt Nam: Nhìn từ góc độ Ngân hàng và chứng khoán”, báo cáo tại
Hội thảo khoa học Tác động của KHTC toàn cầu đối với nền kinh tế
Việt Nam, ĐHQG TP Hồ Chí Minh, tr. 34-37.
37 Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2009), Báo cáo số 105/BC-NHN ngày
24/09/2009.
38 Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2010), Báo cáo số 183/BC-NHNN
ngày 24/12/2010.
39 Ngân hàng Thế giới (2009), “Tổn thất ở một số ngân hàng ở Mỹ, châu
Âu sau khủng hoảng thị trƣờng cho vay dƣới chuẩn và những cảnh
210
báo”, http://www.sbv.gov.vn/nghiencuutraodoi.html.
40 Nguyễn Hữu Nghĩa (2010), “Một số vấn đề KT- tiền tệ- ngân hàng năm
2009 và 2010”, Tạp chí Ngân hàng (2+3), tr. 34-37.
41 Nguyễn Văn Nhã (2009), Trung Quốc sau khủng hoảng – dưới con mắt
nhà báo và chuyên gia kinh tế, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
42 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2009), Từ lý thuyết trò chơi đến giải
quyết Khủng hoảng của 7 nhà KT đoạt giải Nobel.
43 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2003), Từ điển tiếng Việt.
44 Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Khủng hoảng
kinh tế toàn cầu và giải pháp của Việt Nam.
45 Oliver Davanne (2000), Tính bất ổn của hệ thống tài chính quốc tế, NXB Tri
thức, Hà Nội.
46 Paul Krugman (2010), Sự trở lại của kinh tế học suy thoái và khủng
hoảng năm 2008, NXB Tri thức, Hà Nội.
47 Trần Phƣơng (1998), “Sự vùng dậy của Vàng”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
(44), tr. 64.
48 Phạm Văn Phƣợng (2009), “Tác động của KHTC toàn cầu dến KT Việt
Nam và các giải pháp ứng phó”, Báo cáo tại Hội thảo lý luận lần thứ
năm giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và ĐCS Việt Nam, tr. 63-82.
49 Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị Trung
ương 3 khóa XI.
50 Lƣơng Xuân Quỳ (2009), “Quan điểm chiến lƣợc hoàn thiện thể chế KT
của NN Việt Nam trong quá trình chuyển sang KTTT định hƣớng
XHCN và hội nhập quốc tế”, Tạp chí KT phát triển (148), tr.8-12.
51 Đỗ Đức Bình & Lƣơng Xuân Quỳ (2010), Thể chế kinh tế của Nhà
nước trong nền KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
52 Robert Wade (2005), Điều tiết thị trường: Lý thuyết KT và vai trò của
Chính phủ trong Công nghiệp hóa ở các nước Đông Á, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
211
53 Tô Huy Rứa (2009), “ Cuộc KHTC toàn cầu và những vấn đề đặt ra với
Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo lý luận lần thứ năm giữa Đảng cộng
sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, tr.43-62.
54 Song Hongbing (2008), Chiến tranh tiền tệ, nhà xuất bản Trẻ, tr.308.
55 Soros (2007), Mô thức mới cho thị trường tài chính, NXB Trí thức , Hà Nội.
56 Steven Pressman (2003), 50 nhà KT tiêu biểu, NXB Lao động, Hà Nội.
57 Stiglitz Joe (2009), “ Một cuộc khôi phục toàn cầu cho một cuộc suy
thoái toàn cầu”, Stox.vn 21-7-2009.
58 Teo, Leslie (2009), “Tác động của cuộc KHTC toàn cầu đối với Châu
Á- Ánh sáng hay con tàu cuối đƣờng hầm”, Báo cáo trình bày tại Diễn
đàn triển vọng khu vực, Singapore.
59 Nguyễn Hồng Thắng (2008), “Chống lạm phát từ chính sách tài khóa”,
Tạp chí phát triển KT (9), tr.16-17.
60 Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Chính sách tiền tệ năm 2009 và định
hƣớng 2010 ”, Tạp chí chứng khoán (1+2), tr.22-25.
61 Đinh Văn Ân, Võ Chí Thành (2002), Thể chế- cải cách thể chế và phát
triển: Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam, NXB Thống kê.
62 Bùi Kiến Thành (2010), “ Khủng hoảng tài chính Mỹ, hậu quả và giải
pháp đối với Việt Nam”, www.ecna.gov.vn/ht/List/Baiviet/html.
63 Todd. G. Buchhold (2007), Ý tưởng mới từ các KT gia tiền bối, NXB
Tri thức.
64 Tổng cục Thống kê (2009), Báo cáo về tình hình kinh tế- xã hội các
tháng và cả năm 2009, NXB Lao động, Hà Nội.
65 Tổng cục Thống kê (2010), Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2010:
Khủng hoảng, tài chính và tăng trưởng, NXB Chính trị QG, Hà Nội.
66 Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế- Xã hội Quốc gia (2010), Kinh
tế Việt Nam năm 2009 và dự báo năm 2010 , NXB Thống kê, Hà Nội.
67 Đào Thế Tuấn (2008), KHKT thế giới và CNXH của thế kỷ XXI,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68 Phan Đăng Tuất (2009), “ Công nghiệp Việt Nam ứng phó với KHTC
212
toàn cầu”, Báo cáo tại Hội thảo lý luận lần thứ năm giữa Đảng cộng
sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, tr. 232-256.
69 Đỗ Thế Tùng (2009), “Một số quan điểm cơ bản của C.Mác và
V.I.Lênin về KT thị trƣờng tự do cạnh tranh và việc vận dụng vào điều
kiện thực tiễn của Việt Nam”, Báo Điện tử ĐCS Việt Nam (2), tr3-5.
70 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2009), Các báo cáo số 3, số 5-2009 về
KHKT- tài chính toàn cầu và tác động đến Việt Nam gởi các phiên họp
thường kỳ hàng tháng của Chính phủ, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội.
71 Viện Khoa học XH Việt Nam (2009), Báo cáo kinh tế 6 tháng đầu năm
2009 của nhóm nghiên cứu đặc biệt, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
72 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (2008), Hoàn thiện thể chế
KTTT định hướng XHCN, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
73 Viện thông tin KHXH- Trung tâm KHXH và NVQG (1998), Vai trò
của Nhà nước trong kinh tế thị trường, NXB Chính trị QG, Hà Nội.
Tiếng Anh
74 Dee, Philippa (2006), “ East Asian economic integration and its
impact on future growth”, The World Economy forthcoming, pp.34-
38.
75
Elson, D (2009) “Gender and the Economic Crisis in Developing
174. Countries: A Framework for Analysi”’ paper presented at the
Gender and the Economic Crisis Workshop, Oxford, UK (15-16),
pp.12-19.
76
Friedman and Schwartz (1963), A Monetary History of the United
States, Princeton Univercity Press, Princeton.
77 Grauwe. P (2009), “Economics is in crisis; it is time for a profound
revampa, Financial Times, London, pp.23-27.
78
IMF (2008), Crisis Management and Resolution, International
monetary fund.
79
IMF (2010), Crisis Management and Resolution: Early Lessons from
the Financial Crisis, International monetary fund.
213
80
International Evaluation Group IEG (2010), “ The global jobs crisis
and bayond’”, World of Work Report, pp. 22-31.
81 Kliman, A (2009), Policy Options from the 175, World Bank’s Human
Deverlopment Network.
82 Martin Wolf (2008), “Keynes Offers Us the Best Way to Think
About the Financial Crisis”, Financial time ( 23), pp.112-114
83 Oxfam International (2009), OI Policy Compendium Note on Social
Protection, Oxfam International UK.
84
Pacific Economic Monnitor (2009), Asian Development Bank, Oxfam
International UK.
85
Paul Krugman (2008), “Moment of truth”, The New York time (09),
pp.16-21.
86
Paul Krugman (2007), Who Was Milton Friedman?, The New York
Review of Books.
87
Paul Krugman (2008), The Return of Depression Economics and the
Crisis of 2008, New Your: Norton: 0393071014.
88
Praparpun, Y (2010), Women Paying the Price: The impact of the
global economic crisis on women in Southeast Asia, Oxfam GB.
89 Rosien, J (2009), The Asian Deverlopment Bank’s Response to the
Financial Cisis, Oxfam Australia, unpublished.
90
Selten (2008), “Regulation of financial market is important”, Spiegel
Online International (12), pp.45-48.
91
Steven Levitt (2008), The pFinancial Crisis and the Chicago School,
Oxfam UK.
92
Stiklis (2009), "Obama Warns of Further Economic Pain", The New
York Times, pp.112-115
93 Wiliam, R (2009), Face it: Marx was partly righ about capitalism,
The US Credit Union National Association.
94 Worl Bank (2010), Global Economic Prospects 2010: Crisis,
Finance and Growth, Washington D.C.
214
95 World Bank (2009), “Protecting People, Promoting Jobs”, ILO report
at the G20 Leader Summit”, Pittsburgh (24-25), September.
PHỤ LỤC 1
NHỮNG MỐC SỰ KIỆN CHÍNH CỦA CUỘC KHTC 2008 TẠI HOA KỲ
(Sưu tầm http//www.ecna.gov.vn)
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trƣờng bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi
suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá
thấp thị trƣờng.
Năm 2006: Thị trƣờng bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lƣợng nhà dƣ thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ
hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trƣớc đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lƣợng nhà tồn ƣớc tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức
cho vay dƣới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi tịch thu
để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
- Ngày 05/02 Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các
nhà cho vay dƣới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dƣ nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý
3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
- Ngày 02/04 New Century Financial, nhà cho vay dƣới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên
bố phá sản.
- Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong
lịch sử.
- Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên
các khoản nợ thế chấp dƣới chuẩn, đƣợc phát hiện trong các danh mục vốn đầu
tƣ và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc.
Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho
các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
215
- Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất
nƣớc Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm
các ngân hang khác.
- Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ
bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.
- Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả
năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dƣới chuẩn.
- Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ đƣợc hỗ trợ bởi chính phủ thông
báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán đƣợc đảm bảo
bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trƣờng đã bị sụt giảm do khủg hoảng vay dƣới
chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trƣởng Bộ tài chính Mỹ
đều đƣa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5%
- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19
tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
Năm 2008:
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ
phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp
các khoản lỗ của Bear Stearn.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage)
làm đơn phá sản.
- Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng
nghìn đơn của ngƣời dân xin phá sản
- Thị trƣờng chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
- Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ
ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo
thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage)
216
làm đơn phá sản.
- Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng
nghìn đơn của ngƣời dân xin phá sản
- Thị trƣờng chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
- Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie Mae
và Freddie Mac
- Ngày 14/09: Merrill Lynch đƣợc bán cho Bank of America với giá 50 tỷ$
- Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ
bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự
kiện Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty
này tránh phá sản.
- Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trƣởng tài chính Paulson trị giá
700 tỷ đô la đƣợc công bố sau một tuần bất ổn trên thị trƣờng tài chính và nợ tín
dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ
đƣợc chính phủ tiếp quản và sau đó đƣợc bán lại cho JP Morgan Chase& Co với giá
1.9 tỷ đôla
- Ngày 29/09: QH Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trƣờng tài chính Mỹ do bộ Tài
chính Mỹ đề xuất.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho
vay dƣới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ
- Ngày 23/11 trong một động thái chƣa từng có, cả 3 cơ quan quản lý tài chính quan
Citigroup.
trọng nhất của Mỹ đồng thuận đƣa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ USD và bảo lãnh
toàn bộ nợ của Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh hƣởng toàn cầu này khỏi nguy
cơ sụp đổ.
- Ngày 25/11: Fed tuyên bố sẽ mua lại những khoảng cầm cố chứng khoán trị giá
khoảng 500 tỷ USD của Fannie Mae, Fredddie Mac và cả Ginnie Mae. Thêm vào
đó, khoảng 100 tỷ USD đã đƣợc bỏ ra để mua lại các khoảng nợ của Fannie,
Fredddie và Federal Home Loan Banks.
217
PHỤ LỤC 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT KHỦNG HOẢNG G20
( Dịch theo báo cáo của IMF năm 2011).
Lãnh đạo và minh bạch: Chỉ định một cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm với một
nhiệm vụ rõ ràng cho sự ổn định tài chính và các thoả thuận chính thức để hợp tác
với các cơ quan khác. Thông báo các biện pháp và thủ tục một cách kịp thời. Các
quốc gia đã có một loạt các sắp xếp khác nhau để phối hợp giữa các cơ quan nhƣng
sự cải tiến là cần thiết. Các bất cập đã đƣợc bộc lộ trong tất cả các chế độ đối với
việc xác định các rủi ro hệ thống, quản lý luồng thông tin, giao trách nhiệm quyết
định và minh bạch, truyền thông kịp thời. Ở hầu hết các quốc gia, trách nhiệm rõ
ràng cho sự ổn định tài chính là không đƣợc giao cho các cá nhân hay cơ quan tập
thể nào. Pháp luật ở một số nƣớc gần đây đã đƣợc soạn thảo / ban hành để thiết lập
các cơ quan cụ thể để xác định và phản ứng trƣớc rủi ro ổn định tài chính (chẳng
hạn nhƣ Hội đồng giám sát ổn định tài chính ở Hoa Kỳ).
Phối hợp quốc tế: Đối với các cuộc khủng hoảng xuyên biên giới, phản ứng chính
sách cần đƣợc phối hợp càng nhiều càng tốt từ can thiệp vào các tổ chức cá nhân,
thông qua các chƣơng trình khu vực rộng rãi và phản ứng chính sách kinh tế vĩ mô.
Biện pháp ngăn chặn cuộc khủng hoảng bƣớc đầu chƣa đƣợc phối hợp, và trong khi
phối hợp cải thiện ở cấp độ chính sách vĩ mô, nghị quyết qua biên giới vẫn còn có
nhiều vấn đề. Đảm bảo tiền gửi đƣợc nâng lên cấp độ khác nhau trên cơ sở không
phối hợp giữa các quốc gia vào mùa thu năm 2008. Tuy nhiên, nó đã đƣợc sớm
đƣợc theo sau bởi cắt giảm lãi suất bởi một số ngân hàng trung ƣơng và công bố của
G20 kích thích tài chính phối hợp. Hạn mức hoán đổi tiền tệ đã đƣợc cung cấp bởi
Cục Dự trữ Liên bang cho các ngân hàng trung ƣơng của 14 quốc gia. Nghị quyết
của các công ty xuyên biên giới đƣợc chứng minh là rất khó khăn, trong nhiều
trƣờng hợp dẫn đến quyết định không hợp tác và kết quả tối ƣu.
Chẩn đoán và phân tích: Thực hiện các chẩn đoán toàn diện và thâm nhập vào các
218
vấn đề về chiều sâu và chiều rộng trong lĩnh vực tài chính và xác định các ngân
hàng mất khả năng thanh toán. Tiếp tục theo dõi thông qua các cuộc khủng hoảng,
bao gồm cả báo cáo quy định tăng cƣờng cần thiết. Công bố các kết quả của cuộc
kiểm tra toàn hệ thống là một đặc điểm mới của cuộc khủng hoảng gần đây. Tuy
nhiên, nhiều công ty ở Hoa Kỳ và Châu Âu đã nhận đƣợc sự bơm vốn từ khu vực
công cộng trƣớc khi có các bài kiểm tra căng thẳng, điều này cho thấy họ có thể đã
đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ ngăn chặn cuộc khủng hoảng để giải quyết sự bất
đối xứng thông tin và không chắc chắn hơn sự chẩn đoán để thông báo cho những
ngƣời ra quyết định.
Bảo vệ người gửi tiền: Ngoài việc bảo vệ ngƣời gửi tiền có bảo hiểm, sự bảo đảm
nhắm mục tiêu và đáng tin cậy của các chủ nợ có thể là cần thiết để ngăn chặn sự
lây lan và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đóng cửa các ngân hàng yếu kém. Đảm
bảo nợ phải chịu rủi ro cho nhà nƣớc. Các sự đảm bảo mục tiêu đã đƣợc triển khai
rộng rãi. Tất cả 12 nƣớc đã công bố các biện pháp tăng cƣờng bảo vệ cho ngƣời gửi
tiền bán lẻ. Các quốc gia hoặc là hoàn toàn đảm bảo phần lớn tiền gửi bán lẻ hoặc
tăng vùng phủ sóng của chƣơng trình bảo hiểm tiền gửi. Tám trong số mƣời hai
nƣớc bổ sung đảm bảo nghĩa vụ tài sản khác nhƣ tiền gửi bán buôn.
Chia sẻ gánh nặng công bằng và phù hợp thời gian: liên quan đến giữ gìn sự ổn
định tài chính, các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cách đối xử phù hợp của
các chủ nợ không dựa vào kích thƣớc, độ phức tạp, và quyền sở hữu của các công ty
không thành công. Điều này đòi hỏi chế độ giải quyết hiệu quả, giám sát xâm nhập,
và lập kế hoạch dự phòng hiệu quả. Cũng nhƣ với cuộc khủng hoảng trong quá khứ,
sự đối xử của các chủ nợ là không phù hợp với chính sách cũ, với những hậu quả
nguy hiểm về đạo đức đang diễn ra.Mặc dù có một số ít trƣờng hợp ngoại lệ đáng
chú ý, nhiều tổ chức tài chính lớn đã bị quốc hữu hoá với các chủ nợ (không phải là
cổ đông) thực hiện toàn bộ.Các nghiên cứu cho rằng khoản tiền trợ cấp quá lớn
không thể không hỗ tăng do kết quả của các gói cứu trợ.
Điều kiện: Hỗ trợ công cộng nên bao gồm các điều kiện để giải quyết thất bại trong
hoạt động và đảm bảo ƣu đãi thích hợp, bao gồm cải thiện quản lý rủi ro của ngân
hàng; thay thế quản lý và chủ sở hữu; kiểm toán nghiêm ngặt theo sau là thận trọng
219
ghi giảm tài sản, các biện pháp để cắt giảm chi phí và loại bỏ dƣ thừa công suất, và
khi cần thiết, đóng cửa hoặc chuyển nhƣợng một phần hoặc công ty đã mất khả
năng thanh toán cho một công ty khác. Điều kiện thuộc chƣơng trình tái cơ cấu vốn
dƣờng nhƣ ban đầu ít rộng rãi hơn so với việc áp dụng chúng trong cuộc khủng
hoảng trong quá khứ, ngoại trừ rƣờng hợp ở nơi viện trợ Nhà nƣớc quy định áp
dụng. Giới hạn đƣợc quy định bồi thƣờng với quản lý và các cổ đông, nhƣng các
biện pháp chuyển dịch cơ cấu truyền thống nhƣ các biện pháp cắt giảm chi phí, tinh
giản biên chế, và bị buộc phải viết xuống của cổ đông ít đƣợc phổ biến hơn ít nhất
là giai đoạn đầu. Trong các nƣớc EU, những điều kiện nhƣ vậy sau đó đã bị áp đặt
nhƣ là một phần của phê duyệt viện trợ nhà nƣớc. Những gì là mới trong cuộc
khủng hoảng gần đây nằm ở các điều kiện đƣợc đặt vào các ngân hàng để mở rộng
cho vay mới nhằm hỗ trợ nền kinh tế, bao gồm cả mục tiêu cho khách hàng kinh
doanh vay ròng.
Quản lý tài sản suy giảm: Những hành động sớm về tài sản suy giảm là điều cần
thiết để ngăn chặn chủ nợ tiếp tục làm xói mòn. Một loạt các tổ chức thể chế và kỹ
thuật có thể đƣợc lựa chọn để cân bằng cách giải quyết và phục hồi nhanh chóng giá
trị tài sản suy giảm. Loại bỏ các khoản nợ xấu từ bảng cân đối của các ngân hàng có
thể là cần thiết để giải quyết vấn đề cổ phiếu của ngân hàng. Các công ty quản lý
tài sản truyền thống đã triển khai ít thƣờng xuyên hơn trong các cuộc khủng hoảng
gần đây so với quá khứ. Tuy nhiên, giai đoạn quản lý tài sản của cuộc khủng hoảng
gần đây đƣợc cho là không đầy đủ và sự quản lý của AMC có thể ít có liên quan
hơn đến việc đối phó với các sản phẩm cấu trúc phức tạp. Thay vào đó, đảm bảo tài
sản đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong cuộc khủng hoảng gần đây. Bảo đảm tài sản đã
đƣợc cung cấp trên cả hai loại tài sản'tốt' và 'xấu'; và dƣờng nhƣ đƣợc triển khai
chủ yếu nhƣ một công cụ ngăn chặn cuộc khủng hoảng để trấn an các chủ nợ rằng
các ngân hàng đủ vốn chứ không phải cơ cấu lại các bảng cân đối của ngân hàng.
Chế độ giải quyết: Tăng cƣờng chế độ giải quyết để đảm bảo rằng các tổ chức tài
chính thất bại (bao gồm cả tổ chức phi ngân hàng quan trọng), có thể đƣợc giải
quyết kịp thời và theo những cách giảm thiểu rủi ro cho sự ổn định tài chính và chi
phí khu vực công. Công cụ giải quyết để đối phó với không các công ty tài chính là
220
không đầy đủ. Hầu hết các nƣớc không có chế độ quản lý đặc biệt, cho phép can
thiệp sớm trƣớc khi để mất khả năng thanh toán. Do đó việc tùy chọn sự giải quyết
hạn chế cứu trợ tài chính, thanh lý hoặc quốc hữu hóa khu vực tƣ nhân mà bị thất
bại. Chế độ giải quyết đặc biệt đã tồn tại nói chung đã không mở rộng đến các thực
thể phi ngân hàng. Do đó, các nhà chức trách Mỹ không thể ngăn chặn Lehman
thanh lý sau khi nỗ lực bán công ty không thành công, và đã buộc phải quốc hữu
hóa AIG những ngày sau đó.
Chế độ mất khả năng thanh toán của công ty: chế độ mất khả năng thanh toán có
trật tự và hiệu quả là cần thiết để đảm bảo kết quả dự đoán và bình đẳng. Cải cách
có thể cần thiết trong cuộc khủng hoảng để thiết lập nhanh các thủ tục nhằm đối phó
với nhiều thất bại. Chế độ mất khả năng thanh toán của công ty phần lớn đƣợc
chứng minh đầy đủ cho đến nay. Phần lớn các tiên tiến bị khủng hoảng có hệ thống
tƣ pháp cũng đƣợc thành lập và tài trợ. Tuy nhiên, kinh tế phục hồi là không đầy đủ
và khả năng không thể thanh toán của doanh nghiệp cũng có thể xảy ra sau đó
221
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ KẾT QUẢ HỘI NGHỊ TRUNG ƢƠNG 3, KHÓA XI
(Trích Văn kiện Hội nghị Trung ƣơng 3 khóa XI)
Thực hiện Chƣơng trình làm việc toàn khóa, Hội nghị Trung ƣơng lần thứ ba họp
từ ngày 06 đến 10-10-2011. Hội nghị đã thảo luận và thông qua các vấn đề quan
trọng sau:
1. Phƣơng hƣớng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011-2015;
2. Tình hình kinh tế-xã hội năm 2011;
3. Quyết định việc ban hành Quy định thi hành Điều lệ Đảng;
4. Hƣớng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng (trong Chƣơng VII và Chƣơng VIII Điều lệ Đảng);
5. Quy định những điều đảng viên không đƣợc làm.
Ngoài ra, Hội nghị cũng thảo luận và cho ý kiến các nội dung quan trọng khác.
Với tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, Hội nghị Trung ƣơng 3 đã
nhất trí thông qua Kết luận Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Đảng khóa XI về tình hình
kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nƣớc 5 năm 2006 - 2010 và năm 2011;
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nƣớc 5 năm 2011 -
2015 và năm 2012.
Sau đây là một số nội dung cơ bản đƣợc Hội nghị Trung ƣơng thông qua:
I. Về tình hình kinh tế- xã hội, tài chính- ngân sách nhà nước 5 năm 2006 -
2010 và năm 2011
- Tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010
Đánh giá chung 5 năm 2006 - 2010, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn
dân đã phấn đấu vƣợt qua nhiều khó khăn thách thức và đạt đƣợc nhiều thành tựu
quan trọng; ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế
thế giới và trong nƣớc; cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì đƣợc tốc độ
222
tăng trƣởng kinh tế khá, bình quân trong 5 năm đạt 7% (kế hoạch là 7,5 - 8%);
tiềm lực và quy mô nền kinh tế, tài chính - ngân sách nhà nƣớc tăng lên, nƣớc ta đã
ra khỏi tình trạng kém phát triển; các ngành đều có bƣớc phát triển; đời sống nhân
dân tiếp tục đƣợc cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 15,5% năm 2006 xuống
còn 9,45% năm 2010 (theo chuẩn cũ); đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu thiên
niên kỷ cam kết với quốc tế; thể chế kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục đƣợc hoàn thiện; chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh,
nhất là những khu vực trọng yếu đƣợc giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập
quốc tế đƣợc mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế đƣợc nâng cao; phát huy dân chủ có
tiến bộ; khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục đƣợc củng cố;... tạo môi trƣờng hòa
bình, ổn định cho phát triển đất nƣớc.
- Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011
Trong 9 tháng đầu năm và ƣớc thực hiện cả năm 2011, tình hình kinh tế vĩ
mô có chuyển biến bƣớc đầu tích cực: chỉ số giá tiêu dùng theo xu hƣớng giảm
dần, từ mức 3,32% vào tháng 4 năm 2011 xuống còn 0,82% vào tháng 9 năm
2011. Tỷ giá ngoại tệ cơ bản ổn định; đã khắc phục một bƣớc kinh doanh ngoại tệ
trái pháp luật và đầu cơ ngoại tệ. Xuất khẩu tăng cao; ƣớc tổng kim ngạch xuất
khẩu 9 tháng tăng 34,8% và ƣớc cả năm tăng 31,6% cán cân thanh toán đƣợc cải
thiện và tăng đáng kể quỹ dự trữ ngoại tệ của Nhà nƣớc. Tăng cƣờng kiểm soát tín
dụng; cơ cấu tín dụng đƣợc phân bổ hợp lý hơn, chất lƣợng hơn theo hƣớng giảm
tỷ trọng cho vay các hoạt động phi sản xuất, tăng tỷ trọng cho vay phát triển nông
nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu.
Thu ngân sách ƣớc vƣợt 13,4%, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu và
giảm bội chi ngân sách xuống 4,9% GDP, giảm 0,4% so với dự toán (5,3% GDP).
Tốc độ tăng GDP 9 tháng đầu năm 2011 đạt 5,76%; ƣớc thực hiện cả năm
đạt 6% (năm 2010 tăng 6,8%).
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ; lao động việc làm, bảo
đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo đã đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực, đặc
biệt là trong điều kiện khó khăn do lạm phát cao gây ra. Công tác y tế, chăm sóc
sức khỏe tiếp tục đƣợc cải thiện và từng bƣớc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh
223
của nhân dân. Các hoạt động thông tin tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của
Đảng, thông tin kinh tế-xã hội, các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao có bƣớc
phát triển. Công tác cải cách hành chính và đấu tranh phòng, chống tham nhũng
tiếp tục đƣợc đẩy mạnh. Công tác đối ngoại có nhiều cố gắng và đạt đƣợc một số
kết quả. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đƣợc giữ vững. Quốc phòng đƣợc
tăng cƣờng, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc nêu trên, cũng còn một số hạn chế yếu kém
cần phải tiếp tục khắc phục:
Kinh tế vĩ mô chƣa ổn định; lạm phát tuy có giảm nhƣng vẫn ở mức cao. Nền kinh
tế tăng trƣởng chậm, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều
kiện nguồn vốn tín dụng hạn hẹp, lãi suất đã bắt đầu giảm nhƣng vẫn còn cao. Một
số doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, giảm hiệu quả, thậm chí bị thua lỗ. Thị
trƣờng chứng khoán và thị trƣờng bất động sản giảm sút và đang gặp nhiều khó
khăn. Đời sống của nhân dân, nhất là ngƣời nghèo, công nhân ở các khu công
nghiệp, vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ
nghèo năm 2011 giảm chậm so với kế hoạch đề ra. Tai nạn và ùn tắc giao thông
chƣa giảm, còn xảy ra nhiều vụ nghiêm trọng. Các tệ nạn xã hội và trật tự xã hội,...
còn nhiều bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có những nguyên nhân khách quan do tác
động của những bất ổn của kinh tế và khủng hoảng nợ công cao ở nhiều nƣớc trên
thế giới, nhƣng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan trong nội tại nền kinh
tế đã tích tụ từ nhiều năm trƣớc.
II. Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, tài chính-ngân sách nhà nước 5 năm
2011- 2015 và năm 2012
- Về mục tiêu tổng quát:
Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trƣởng và
cơ cấu lại nền kinh tế theo hƣớng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả, sức cạnh tranh.
Bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Bảo vệ tài nguyên, môi trƣờng và chủ động ứng phó với tác động
của biến đổi khí hậu. Tăng cƣờng hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội
224
nhập quốc tế. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tạo
nền tảng để đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng
hiện đại.
- Về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong thực hiện kế hoạch 5 năm tới là:
Trong tình hình kinh tế thế giới biến động nhanh và khó lƣờng, vì vậy việc
điều hành thực hiện phải sát với thực tế và linh hoạt: Phải nắm vững và giải quyết
tốt mối quan hệ biện chứng giữa tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng phát triển; giữ
tăng trƣởng cao và ổn định kinh tế vĩ mô; giữ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô với đổi mới mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại nền kinh tế; giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo dảm an sinh xã
hội; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong quản lý điều
hành cần phấn đấu để đạt kết quả toàn diện, song tùy tình hình mà xếp thứ tự ƣu
tiên sao cho hợp lý nhất. Trong năm 2012 và những năm tiếp theo, tiếp tục thực
hiện Kết luận 02-KL/TW của Bộ Chính trị, ƣu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội gắn với đổi mới mô
hình tăng trƣởng, cơ cấu lại nền kinh tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trƣởng cao
hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.
Để ứng phó với tình hình trong nƣớc, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
khó lƣờng, đi đôi với việc nâng cao năng lực phân tích, dự báo, cần phát huy tốt
hơn nữa vai trò của Nhà nƣớc trong kiến tạo, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nƣớc trên cơ sở tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy
luật, nguyên tắc của kinh tế thị trƣờng, xem nhu cầu thị trƣờng, cơ chế thị trƣờng
và hiệu quả, lợi ích là căn cứ chính để quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho
phát triển; đồng thời có biện pháp tích cực ngăn ngừa và khắc phục những hạn chế,
mặt trái của cơ chế thị trƣờng. Ƣu tiên huy động và phân bổ nguồn lực bảo đảm
thực hiện thành công 3 khâu đột phá chiến lƣợc mà Đại hội XI đã xác định; chú
trọng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát triển văn hóa-xã hội, y tế,
giáo dục-đào tạo, khoa học - công nghệ và chủ động ứng phó với thiên tai, dịch
225
bệnh, nƣớc biển dâng do biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Về các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 –
2015:
- Dự kiến tốc độ tăng trƣởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015 tăng khoảng
6,5% - 7%/năm.
- Nhân tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trƣởng đến năm 2015 ít nhất là
31%.
- Giảm tiêu tốn năng lƣợng tính trên GDP từ 2,5-3%/năm.
- Năng suất lao động xã hội đến năm 2015 tăng 32% so với năm 2010.
- Nhập siêu khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu.
- Bội chi ngân sách nhà nƣớc dƣới mức 4,5%GDP.
- Dƣ nợ công đến cuối năm 2015 không quá 65%GDP.
- Tỷ trọng đầu tƣ toàn xã hội 5 năm 2011 - 2015 khoảng 35% GDP.
- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đến năm 2015 ở mức khoảng 5 - 7%.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012 với mục tiêu tổng quát là: Ƣu
tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trƣởng ở mức hợp lý
gắn với đổi mới mô hình tăng trƣởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm phúc lợi xã hội và an
sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc
phòng, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế.
Hội nghị đã nhất trí dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2012:
- Tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP) tăng khoảng 6,0 – 6,5%.
- Tỷ lệ nhập siêu 11 - 12% tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nƣớc dƣới 4,8% GDP.
- Chỉ số tăng giá tiêu dùng tăng dƣới 10%.
Trong báo cáo chính về Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 đã nêu 11 nhóm nhiệm
vụ định hƣớng và giải pháp lớn, trong đó tập trung tái cơ cấu nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trƣởng theo hƣớng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh.
226
Trong giai đoạn 5 năm tới, Hội nghị nhất trí cần tập trung 3 lĩnh vực quan
trọng nhất là: tái cấu trúc đầu tƣ, trong đó trọng tâm là đầu tƣ công; cơ cấu lại thị
trƣờng tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống các ngân hàng thƣơng mại
và các tổ chức tài chính khác; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nƣớc mà trọng tâm là
các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nƣớc.
Việc tái cơ cấu đầu tư phải dựa trên các nguyên tắc chủ yếu sau:
- Nhằm bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nƣớc (NSNN), đi đôi với việc thực
hiện thu đúng, thu đủ theo các quy định của pháp luật, cần phải quán triệt nguyên
tắc giảm động viên, khuyến khích phát triển sản xuất, trên cơ sở đó tăng nguồn thu
ở những ngành, những vùng có lợi thế so sánh và tiềm năng phát triển, có hiệu quả
cao, khắc phục tình trạng tạo ra nguồn thu và tăng thu bằng mọi giá.
- Đối với nhiệm vụ tái cơ cấu đầu tƣ, trƣớc hết phải thay đổi tƣ duy về đầu tƣ công,
nhất là trong lĩnh vực đầu tƣ kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục...; từng bƣớc điều chỉnh
cơ cấu theo hƣớng giảm dần đầu tƣ công; thực hiện các biện pháp để huy động các
nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nƣớc của các thành phần kinh tế trong và ngoài
nƣớc để đầu tƣ vào các công trình, dự án hạ tầng kinh tế - xã hội có khả năng thu
hồi vốn.
- Đối với nguồn vốn NSNN, trái phiếu Chính phủ phải tập trung đầu tƣ xây dựng
kết cấu hạ tầng không thu hồi đƣợc vốn, trƣớc hết là các công trình lớn trọng điểm
của cả nƣớc và địa phƣơng có tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội rộng
lớn trong từng vùng và cả nƣớc, đầu tƣ cho các lĩnh vực giáo dục đào tạo, phát
triển khoa học công nghệ, quốc phòng an ninh, an sinh xã hội.
- Trong điều kiện nguồn lực có hạn, lại phải ƣu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô phải thắt chặt chính sách tiền tệ, tài khóa; giảm mạnh đầu tƣ
công,... nên việc điều hành bố trí vốn đầu tƣ sẽ rất khó khăn; phải đình hoãn, giãn,
cắt giảm nhiều công trình, dự án để bố trí vốn tập trung cho các công trình dự án
cấp thiết, sớm hoàn thành, đƣa vào sử dụng phát huy hiệu quả.
- Ban hành Luật Đầu tƣ công và mua sắm công. Sửa đổi lại quy chế phân cấp quản
lý đầu tƣ công, trƣớc hết là đầu tƣ từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ, phải
bảo đảm nguyên tắc chỉ quyết định đầu tƣ khi đã xác định rõ nguồn vốn và khả
227
năng cân đối nguồn vốn ở từng cấp ngân sách. Việc xác định nguồn và cân đối vẫn
phải đƣợc coi là nội dung quan trọng trong hồ sơ dự án và thẩm định dự án trƣớc
khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thực hiện cơ chế cân đối nguồn vốn cho toàn bộ thời gian thực hiện dự án,
ít nhất từ 3 - 5 năm trong kế hoạch đầu tƣ phát triển trung hạn thay vì bố trí kế
hoạch vốn từng năm nhƣ hiện nay.
Đối với nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ƣơng thông qua các chƣơng
trình mục tiêu quốc gia và các khoản hỗ trợ có mục tiêu khác, việc quyết định phê
duyệt, thực hiện dự án phải đƣợc kiểm soát chặt chẽ đảm bảo thực hiện đúng mục
tiêu và nội dung đã đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Ban hành quy định phê duyệt danh mục dự án và tổng mức đầu tƣ của các
bộ, ngành, địa phƣơng và các tập đoàn, tổng công ty nhà nƣớc phù hợp với các
mục tiêu, nhiệm vụ, định hƣớng kế hoạch 5 năm và cân đối nguồn vốn của từng
cấp. Chủ động sắp xếp, bố trí nguồn để hoàn trả nợ xây dựng cơ bản theo đúng
phân cấp.
- Đối với cho vay tín dụng ƣu đãi cho đầu tƣ, thực hiện soát xét theo hƣớng thu gọn
các ngành nghề lĩnh vực ƣu tiên cho phù hợp với yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế.
Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm những
trƣờng hợp vi phạm cơ chế quản lý đầu tƣ cả đối với tập thể và cá nhân bằng
những chế tài cụ thể, đủ mạnh để lập lại trật tự kỷ cƣơng trong đầu tƣ công.
Để cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác, cần phải:
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng
chứng khoán, thị trƣờng bất động sản, thị trƣờng tiền tệ, đặc biệt là thị trƣờng vàng
và thị trƣờng ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hóa;
- Kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nƣớc, vay trả nợ nƣớc
ngoài, các nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, nhất là đầu tƣ vào lĩnh vực bất động sản,
thị trƣờng chứng khoán và các nguồn vốn nóng khác;
- Thực hiện tái cơ cấu theo hƣớng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thƣơng mại và các tổ chức tài chính khác. Từng bƣớc mở rộng kênh huy
228
động vốn qua thị trƣờng chứng khoán; đến năm 2015, dự kiến cơ cấu huy động
vốn của doanh nghiệp từ vay ngân hàng khoảng 76 - 80%, từ thị trƣờng chứng
khoán khoảng 20 - 24% (năm 2010, các tỷ lệ tƣơng ứng là 88,7% và 11,3%).
- Phân loại ngân hàng tổ chức tín dụng theo quy mô, chất lƣợng tín dụng, năng lực
cạnh tranh, hiệu quả hoạt động. Đối với các ngân hàng thƣơng mại, việc tái cơ cấu
thực hiện theo hƣớng giảm số lƣợng, tăng quy mô và nâng cao chất lƣợng tín dụng
và hoạt động của ngân hàng. Tăng tỉ trọng doanh thu dịch vụ ngân hàng. Nghiên
cứu để xác định nhu cầu số lƣợng và quy mô cần thiết của các tổ chức tín dụng gắn
với đặc điểm huy động vốn tín dụng của các doanh nghiệp nƣớc ta. Trên cơ sở đó
hoàn chỉnh và tổ chức triển khai thực hiện các đề án tái cơ cấu cả hệ thống ngân
hàng thƣơng mại quốc doanh, ngân hàng thƣơng mại cổ phần. Đồng thời thực hiện
các biện pháp đồng bộ để tái cơ cấu các tổ chức tài chính khác, nhƣ: quỹ tín dụng
nhân dân, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các quỹ tài chính, công ty chứng
khoán,...
Để việc tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế
và tổng công ty nhà nước được tốt trong thời gian tới phải tập trung thực hiện các
giải pháp chủ yếu sau:
- Quán triệt thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới,
nâng cao hiệu quả DNNN đã đƣợc xác định trong các nghị quyết của Đảng.
- Kiên quyết chấm dứt các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nƣớc đầu tƣ dàn trải
ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính trƣớc năm 2015.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý các doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc, trƣớc
hết là làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu và ngƣời
quản lý; cơ chế quản lý vốn, tài sản nhà nƣớc tại doanh nghiệp; cơ chế giám sát và
chế tài xử lý,...
- Thực hiện sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa các DNNN phù hợp với đặc điểm của
từng tập đoàn, tổng công ty, công ty. Thực hiện thoái vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp đã cổ phần hóa không thuộc diện nhà nƣớc phải nắm quyền chi phối.
- Đối với những DNNN thuộc diện nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn, cần tiếp tục hoàn
thiện cơ cấu, mô hình tổ chức theo quy định của Luật doanh nghiệp.
229
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nƣớc đi đôi với việc chú trọng
bồi dƣỡng đào tạo đội ngũ cán bộ quản trị đủ sức quản lý doanh nghiệp; thí điểm
việc thuê chuyên gia trong nƣớc và nƣớc ngoài để quản lý doanh nghiệp.
- Rà soát đánh giá toàn diện về hoạt động và hiệu quả của các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty lớn; làm rõ những nguyên nhân thua lỗ lớn ở một số tập đoàn, tổng công ty
nhà nƣớc trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, sửa đổi hoàn thiện các đề án tái cơ cấu
các tập đoàn và Tổng công ty lớn, bảo đảm nâng cao vai trò của DNNN trong việc
ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt chủ trƣơng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
- Công khai tài chính doanh nghiệp nhà nƣớc. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm
toán bắt buộc đối với các Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty nhà nƣớc.
Trung ƣơng còn lƣu ý, nhấn mạnh định hƣớng chính sách, biện pháp bảo
đảm an ninh lƣơng thực gắn với bảo vệ môi trƣờng sinh thái, bảo đảm an ninh
năng lƣợng và giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Để bảo
đảm an ninh lƣơng thực gắn với bảo vệ môi trƣờng sinh thái, cần tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7 (khóa X) về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; kiên quyết giữ 3,8 triệu ha đất trồng lúa, có chính sách điều
tiết ngân sách hợp lý đối với vùng đồng bằng, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu
Long để các vùng này chuyên tâm sản xuất, chế biến lúa gạo và các mặt hàng nông
sản, thực phẩm khác, đáp ứng nhu cầu trong nƣớc và xuất khẩu... Cần áp dụng
đồng bộ các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc
làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo bền vững, giảm chênh lệch giàu
nghèo; giải quyết những vấn đề gây bức xúc của nhân dân, nhất là trong việc giải
tỏa đền bù, thu hồi đất và những tiêu cực trong giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức
khỏe nhân dân…; siết lại trật tự kỷ cƣơng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực xã hội, tai nạn giao thông; phòng,
chống các loại tội phạm; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia.
230
231