intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI

Chia sẻ: Carol123 Carol123 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:151

224
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với một nền văn hóa đa dạng trong thống nhất. Văn hóa là dòng chảy xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai của một dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi dân tộc đã tạo dựng cho mình một lâu đài văn hóa đồ sộ, một truyền thống văn hóa riêng để phân biệt với các dân tộc khác. Những giá trị văn hóa đó tạo nên bản sắc văn hóa tộc người, làm thành những chuẩn mực để phân biệt tộc người này với tộc người kia. Nếu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHAN THỊ HẰNG LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thiện luận văn đều đã đượ c cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả Phan Thị Hằng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Duy Tiến, cùng các thầy cô trong tổ lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào Cai, UBND huyện Bảo Thắng đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tác giả hoàn thành luận văn. Trong thời gian đi thực tế luận vă n, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các già làng, trưởng bản, thầy cúng và những người cung cấp thông tin ở nhiều xã trong huyện Bảo Thắng. Tác giả chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Cuối cùng, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tác giả Phan Thị Hằng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 0 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 0 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 3 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ........................................... 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4 3.3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 5 4. Phương pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn ................................ 5 4.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 5 4.2. Nhiệm vụ của luận văn ..................................................................... 5 5. Nguồn tài liệu ......................................................................................... 5 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 6 7. Bố cục luận văn....................................................................................... 6 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI .......................................................... 7 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên huyện Bảo Thắng ............................ 7 1.2. Người Dao Tuyển ở Bảo Thắng ...................................................... 12 1.2.1. Địa bàn cư trú và nguồn gốc lịch sử của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng ..................................................................... 12 1.2.2. Đời sống kinh tế, xã hội của người Dao Tuyển ở Bảo Thắ ng .... 15 Chương 2. LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI ............. 30 2.1. Lễ tục cấp sắc của người Dao Tuyển .................................................. 30 2.1.1. Quan niệm về sự trưởng thành ..................................................... 30 2.1.2. Lễ cấp sắc của người Dao Tuyển ................................................. 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 1 2.1.3. Ý nghĩa của lễ cấp sắc .................................................................. 78 2.1.4. Một số biến đổi ngày nay ............................................................. 80 2.2. Lễ tục tang ma của người Dao Tuyển ................................................. 81 2.2.1. Quan niệm về hồn và cái chết ...................................................... 81 2.2.2. Lễ tục tang ma ............................................................................. 82 2.2.3. Để tang và những kiêng kỵ ........................................................ 103 2.2.4. Một số biến đổi trong tang ma ................................................... 105 Chương 3. NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN .................................................................... 108 3.1. Giá trị trong lễ cấp sắc và tang ma ................................................... 108 3.1.1. Giá trị lịch sử ............................................................................. 108 3.1.2. Giá trị nhân văn ......................................................................... 109 3.1.3. Giá trị nghệ thuật ....................................................................... 115 3.1.4. Giá trị cố kết cộng đồng ............................................................. 118 3.2. Những yếu tố phi giá trị ................................................................... 118 3.3. Bảo tồn và phát huy những giá trị trong đời sống ............................. 119 KẾT LUẬN ............................................................................................... 123 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 127 Phụ lục ..................................................................................................... 131 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với một nền văn hóa đa dạng trong thống nhất. Văn hóa là dòng chảy xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai của một dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi dân tộc đã tạo dựng cho mình một lâu đài văn hóa đồ sộ, một truyền thống văn hóa riêng để phân biệt với các dân tộc khác. Những giá trị văn hóa đ ó tạo nên bản sắc văn hóa tộc người, làm thành những chuẩn mực để phân biệt tộc người này với tộc người kia. Nếu dân tộc nào để mất đi văn hóa truyền thống của mình thì nó không còn là một cộng đồng tộc người riêng biệt nữa. Dân tộc Dao là một trong số 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong các tộc người thiểu số ở nước ta, người Dao có dân số khá đông, xếp vào hàng thứ 9 với khoảng 620.538 người [45, tr. 21], cư trú phân tán ở nhiều địa phương chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc như Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn… Người Dao có nhiều nhóm ngành khác nhau lại cư trú trên địa bàn nhiều tỉnh nên đã tạo nên những sắc thái văn hóa phong phú và đa dạng. Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở phía Nam Trung Quốc di cư sang nước ta theo nhiều đợt bằng đường bộ, đường sông và đường biển. Trong số 7 nhóm người Dao địa phương thì ở Lào Cai có 3 nhóm là: Dao Tuyển, Dao Đỏ và Dao Nga Hoàng. Bảo Thắng là một trong hai huyện có người Dao Tuyển sống tập trung đông nhất của tỉnh Lào Cai. Bảo Thắng là vùng bảo tồn được nhiều loại hình văn hóa dân gian và nếp sống của cộng đồng có tính chất tộc người. Trong đó có những lễ nghi theo chu kỳ đời người hết sức độc đáo của người Dao Tuyển. Những lễ nghi theo chu kỳ đời người như sinh đẻ, cấp sắc, cưới xin, ma chay là một trong những biểu hiện cụ thể vừa mang tính xã hội vừa mang tính tôn giáo . Đó là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 2 những giá trị văn hóa điển hình phản ánh về cái mốc đáng nhớ nhất trong đời người mà bất kỳ người Dao Tuyển nào cũng phải trải qua. Những phong tục tập quán theo chu kỳ đời người đó vẫn được đồng bào Dao Tuyển ở đây lưu giữ đến tận ngày nay trong những cuốn sách cổ. Hiện nay, trong xu thế hội nhập mở cửa, quốc tế hóa với sự du nhập của nhiều dòng văn hóa ngoại lai, người Dao Tuyển cũng n hư nhiều dân tộc anh em đang đứng trước những biến đổi sâu sắc trong đời sống văn hóa, xã hội. Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đang là việc làm cấp thiết. N ghiên cứu về các tập tục chủ yếu trong chu kỳ đời người ngườ i Dao Tuyển ở Bảo Thắng, Lào Cai là đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của người Dao nói chung theo chủ trương Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề ra: “Chúng ta cần nỗ lực xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thừa nhận các dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng và chủ trương tạo điều kiện cho các giá trị và các sắc thái văn hóa đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em”. [51, tr.206]. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn là nguồn tài liệu làm cơ sở cho các nhà quản lý có thể xây dựng các chính sách phù hợp với chủ trương kế thừa và phát huy những mặt tích cực trong lĩnh vực phong tục tập quán của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng nói riêng và của người Dao Tuyển cũng như của cả cộng đồng người Dao ở Việt Nam nói chung. Chính từ những lý do trên nên em chọn vấn đề “Lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai” làm luận văn thạc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 3 sỹ của mình. Mục đích nhằm góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng và của dân tộc Dao nói chung. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Cho đến nay, nhiều vấn đề về người Dao ở nước ta đã được đề cập trong nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu của không ít nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Ngay dưới thời phong kiến, trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn không chỉ đề cập đến nguồn gốc mà còn mô tả khái quát về cách ăn mặc và cuộc sống di cư của một số nhóm người Man (Người Dao) ở nước ta. Từ đầu thập kỷ 60 đến nay xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về người Dao, trong đó đáng chú ý là công trình của Phan Hữu Dật và Hoàng Hoa Toàn “Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam”. Các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề từ nguồn gốc lịch sử, dân số, kinh tế, văn hóa của các ngành Dao cũng như của người Dao Tuyển. Tuy nhiên, trong đó chưa đề cập đến tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển. Trong cuốn “Người Dao ở Việt Nam” của các tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến đã đề cập đến các vấn đề như dân số, nguồn gốc lịch sử, phân loại các ngành Dao, các hình thái kinh tế, phong tục, tôn giáo tín ngưỡng. Ở công trình nghiên cứu này, lần đầu tiên diện mạo người Dao được trình bày khá toàn diện cả về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa. Tuy nhiên, lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển chỉ được trình bày rất sơ lược. Trong cuốn “Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người - ngôn ngữ Mông - Dao”, Th.s Đỗ Đức Lợi đã trình bày về các tập tục trong chu kỳ đời người của dân tộc Dao nói chung. Trong đó cũng có vài dòng về những lễ nghi theo chu kỳ đời người của người Dao Tuyển. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 4 Công trình “Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang” cũng đề cập khá chuyên sâu về văn hóa cổ truyền trong đó có các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của hai nhóm Dao ở tỉnh Hà Giang là Dao Đỏ và Dao Áo Dài (Dao Tuyển). Cuốn “Lễ cưới người Dao Tuyển” của TS. Trần Hữu Sơn trình bày chi tiết về quan niệm, nguyên tắc hôn nhân, tiến trình của lễ cưới người Dao Tuyển. Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến những lễ nghi trong chu kỳ đời người của người Dao Tuyể n trong đó có lễ cấp sắc và tang ma. Song phần lớn các tác phẩm nghiên cứu trên một phạm vi rộng với những đặc trưng văn hóa của người Dao và Dao Tuyển nói chung, chưa làm rõ được những sắc thái phong phú, đa dạng, đặc trưng của văn hóa Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng để từ đó rút ra những giá trị tiêu biểu của tộc người. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu trước đây giúp cho chúng tôi có cơ sở, phương pháp và một số tư liệu cần thiết để có thể hoàn thành vấn đề mà chúng tôi đề ra. 3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu về lễ tục cấp sắc và lễ tục tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng - Lào Cai. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng t ỉnh Lào Cai. Lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển có nhiều vấn đề nhưng do thời gian có hạn nên luận văn chỉ tập trung tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến lễ tục cấp sắc như: tên gọi, tiến trình, ý nghĩa lễ cấp sắc trong đời người; Một số vấn đề liên quan đến lễ tục tang ma như: Quan niệm về hồn và cái chết, lễ làm ma, lễ làm chay, những kiêng kỵ và để tang. Từ đó rút ra một số giá trị tiêu biểu của tộc người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 5 3.3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm tìm hiểu sâu hơn về lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Lào Cai, rút ra những giá trị tiêu biểu. Từ đó làm cơ sở giúp các nhà quản lý hoạch định những biện pháp, chính sách để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng nói riêng và của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnh Lào Cai nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 4.1. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng trong luận văn các phương pháp như: Phương pháp điền dã dân tộc học, phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,… 4.2. Nhiệm vụ của luận văn - Tìm hiểu vài nét về người Dao Tuyển ở Bảo Thắng, Lào Cai như: tên gọi, lịch sử cư trú, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. - Đi sâu tìm hiểu các lễ nghi liên quan đến lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai. - Nêu lên những quan niệm của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng về vị trí, vai trò của lễ tục cấp sắc và tang ma trong đời sống xã hội và tâm linh của họ. - Tìm hiểu những biến đổi trong lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ngày nay. - Qua đó rút ra những giá trị văn hóa tiêu biểu của tộc người Dao Tuyển. 5. Nguồn tài liệu + Tài liệu thành văn - Các tác phẩm, công trình lý luận về vấn đề văn hóa và văn hóa tộc người như: Về các giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam của Trường Chính, Một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 6 số phong tục tập quán trong các dân tộc thiểu số góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người của Nguyễn Từ Chi… - Các tác phẩm thông sử và chuyên khảo trong đó có tài liệu chính sử của nhà nước phong kiến như: Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí…; Các sách chuyên khảo và các bài viết đề cập đến lịch sử, văn hóa của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học như: Tập tục theo chu kỳ đời người của nhóm ngôn ngữ Mông - Dao của Th.s Đỗ Đức Lợi, Tục cấp sắc của người Dao Quần Chẹt ở Bắc Thái… + Tài liệu điền dã Lời kể của người già, thầy cúng dân tộc Dao Tuyển, trực tiếp quan sát lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển để ghi chép, miêu thuật một cách cụ thể. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối hệ thống về lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển từ đó rút ra những giá trị văn hóa tiêu biểu tộc người. Qua đó góp phần tìm hiểu sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn hóa và việc bảo tồn những nét văn hóa riêng của người Dao Tuyển. Luận văn góp phần làm phong phú nguồn tài liệu lịch sử văn hóa địa phương. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Khái quát về ngƣời Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai Chương 2: Lễ cấp sắc và tang ma của ngƣời Dao Tuyển ở Bảo Thắng Chương 3: Những giá trị trong lễ cấp sắc và tang ma của ngƣời Dao Tuyển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 7 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên huyện Bảo Thắng Bảo Thắng là huyện biên giới cửa ngõ của tỉnh Lào Cai, phía Bắc giáp huyện Hà Khẩu (Vân Nam - Trung Quốc) với đường biên giới dài 6,5 km, phía Đông và Đông Bắc giáp giới với huyện Bắc Hà và Mường Khương, phía Nam giáp huyện Bảo Yên và Văn Bàn, phía Tây giáp huyện Sa Pa và Tây Bắc giáp thành phố Lào Cai. Dưới thời Hùng Vương, Bảo Thắng thuộc đất Tây Âu của Thục Phán, thời Bắc thuộc là châu Cam Đường quận Giao Chỉ, đến đời Lý thuộc Châu Đăng, đời Trần thuộc Quy Hóa. Từ thời nhà Lê đến khi thực dân Pháp chiếm đóng (1428 - 1886), Bảo Thắng thuộc châu Thủy Vĩ, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Năm 1905 thực dân Pháp lấy phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ Vỹ. Từ đó địa danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng, ổn định đến khi lập tỉnh Lào Cai (1907). Khi đó châu Bảo Thắng có 11 xã, phố trại và 30 làng, bản, phố: Lào Cai, Phố Mới, Trại Mới, Soi Mười, Sơn Mãn, Giang Đông, Cánh Chín, Thái Niên, Phố Lu, Xuân Quang, Phong Niên.Còn châu Thuỷ Vĩ có 4 xã là xã Nhạc Sơn (16 thôn bản), xã Xuân Giao (14 thôn bản), xã Cam Đường (137 thôn, bản) và xã Gia Phú (16 thôn bản). Ngày 9-3-1944, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành nghị định bãi bỏ châu Thuỷ Vĩ, châu Bảo Thắng để thành lập phủ Thuỷ Vĩ, phủ Bảo Thắng, 3 châu Bát Xát, Sa Pa, Bắc Hà và khu đô thị Lào Cai. Phủ Bảo Thắng gồm 17 xã, làng: Nhạc Sơn, Cam Đường, Gia Phú, Xuân Giao, Pha Long, Mường Khương, Bản Lầu, Phong Niên, Xuân Quang, Phố Mới, Trại Mới, Soi Mười, Sơn Mãn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 8 Cánh Chín, Giang Đông, Thái Niên, Phố Lu. Lỵ sở của phủ đặt tại Lào Cai. Từ 1944 mới gọi là huyện. Tuy địa giớ i đã điều chỉnh nhiều lần nhưng địa danh “Bảo Thắng” thì giữ nguyên cho đến ngày nay. Hiện nay, Bảo Thắng là một trong 9 huyện, thành của tỉnh Lào Cai với diện tích tự nhiên là 682,19 km2 và dân số là 102. 519 người [4, tr.12]. Bảo Thắng có 15 xã và thị trấn, phía hữu ngạn sông Hồng có 5 xã và 1 thị trấn: Sơn Hà, Sơn Hải, Phú Nhuận, Xuân Giao, Gia Phú, thị trấn Tằng Loỏng; p hía tả ngạn sông Hồng có 7 xã và 2 thị trấn bao gồm: thị trấn Phố Lu, xã Phố Lu, Trì Quang, Xuân Quang, Phong Niên, thị trấn Nông trường Phong Hải, Bản Cầm, Bản Phiệt, Thái Niên. Huyện Bảo Thắng là một vùng thung lũng nằm ven hai bên sông Hồng với độ cao phổ biến từ 80m đến 400m. Địa hình bao gồm dải thung lũng hẹp chạy dài ven sông Hồng, phía Tây là dải núi thấp của dãy Phan Xi Păng - Pú Luông, phía Đông là dải núi thấp của dãy thượng nguồn sông Chảy án ngữ. Đoạn sông Hồng chảy qua huyện dài 38 km, chia huyện thành hai khu vực hữu ngạn và tả ngạn. Khu vực hữu ngạn có nhiều suối lớn đều bắ t nguồn từ dãy núi Phan Xi Păng tạo thuận lợi cho giao thông đường thủy như ngòi Bo, ngòi Nhù, suối Chát… Tổng nhiệt độ của Bảo Thắng trong một năm là 8.000 0C, nhiệt độ trung bình/năm từ 220C đến 240C. Lượng mưa toàn huyện thuộc loại trung bình khoảng 1.600 mm - 1.800 mm. Phần lớn đất đai của huyện Bảo Thắng là đất lâm nghiệp với 56.303 ha. Đất nông nghiệp toàn huyện có khoảng hơn 8.600 ha, nhưng chỉ có hơn 3.000 ha trồng cây lương thực, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Số còn lại phần lớn ở Bảo Thắng là đất ferarit màu đỏ, vàng hoặc vàng đỏ thuận lợi cho việc trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả. Huyện Bảo Thắng có nhiều tài nguyên khoáng sản quý. Mỏ Apatit với trữ lượng lớn, hàm lượng cao, chạy dài hàng chục kilômét bên hữu ngạn sông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 9 Hồng thuộc các xã Cam Đường, Tả Phời, Hợp Thành… Apat it ở đây hầu như nguyên chất, trỉa rộng không những là tài nguyên quý mà còn làm giàu cho đất rất thuận tiện cho trồng trọt. Bảo Thắng còn có các mỏ cao lanh, mi ca, đất sét trắng… Về lâm sản có các loại gỗ quý như lát, đinh, lim, sến… Đặc biệt có khu công nghiệp Tằng Loỏng chuyên chế biến, sản xuất các chất hóa học và phân bón phục vụ sản xuất công - nông nghiệp làm giàu cho tổ quốc, góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và của tỉnh Lào Cai nói chung. Về đường giao thông, từ đầu công nguyên đến nay, Bảo Thắng đều nằm trên con đường huyết mạch, nối liền nước ta với Vân Nam (Trung Quốc). Đó là hệ thống đường sông Hồng và đường bộ. Nằm ở vị trí đầu mối giao thông này, “cửa quan Bảo Thắng” luôn luôn là cửa ngõ tiền đồn trọng yếu ở vùng Tây Bắc tổ quốc. Nhưng hơn một thế kỷ qua, tuyến giao thông đường bộ dọc hữu ngạn sông Hồng ít được đầu tư phát triển. Trước cách mạng tháng Tám 1945, đường giao thông chủ yếu ở Bảo Thắng là tuyến đường xe lửa nối liền Vân Nam (Trung Quốc) với Hà Nội, Hả i Phòng, đoạn đường xe lửa qua Bảo Thắng dài 40 km. Từ thời phong kiến Việt Nam và đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, đường s ông Hồng mới được tận dụng triệt để. Từ năm 1966 đường quốc lộ 70 được xây dựng, nối thông các huyện, thị biên giới phía Bắc với các huyện phía Nam Lào Cai và xuôi về trung tâm Hà Nội, Bảo Thắng là đầu mối giao thông tỏa đi 5 huyện, thị của khu vực. Tuyến đường từ phía Tây và phía Nam hu yện dọc theo hữu ngạn sông Hồng. Trong thập kỷ qua, cũng được mở rộng và phát triển nối liền thị xã Cam Đường (Thị xã Cam Đường thành lập 1964 nằm trong phần đất xã Cam Đường của Bảo Thắng. Năm 1979 sáp nhập vào thị xã Lào Cai, 1991 tách khỏi thị xã Lào Cai và ngày 1/4/2002 lại sáp nhập vào thị xã Lào Cai nay là thành phố Lào Cai), thành phố Lào Cai với khu công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 10 nghiệp Tằng Loỏng và Văn Bàn. Hiện nay Bảo Thắng đã có đường ô tô xuống tất cả 15 xã, thị trấn trong huyện. Đặc biệt tuyến đường sắt mới mở ở phía hữu ngạn sông Hồng nối liền Phố Lu với Tằng Loỏng - Cam Đường góp phần vào việc thúc đẩy kinh tế Bảo Thắng phát triển mạnh. Bảo Thắng trở thành huyện có hệ thống giao thông phát triển nhất tỉnh Lào Cai. Các địa hình, tài nguyên Bảo Thắng rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế cơ cấu nông - lâm - công nghiệp - thương mại - dịch vụ trong đó đặc trưng chủ yếu là trồng chè, mía, nhãn, vải, buôn bán hàng hoá và dịch vụ. Là cửa ngõ biên cương của tổ quốc, từ ngàn xưa Bảo Thắng đã là vùng đất cổ lịch sử. Trên vùng đất này, khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của văn hóa Sơn Vi, nền văn hóa hậu k ỳ đá cũ, cách ngày nay khoảng 30.000 - 11.000 năm. Ở Phú Nhuận, Xuân Giao đã tìm thấy những chiếc rìu đá có những vết sứt, mẻ, mòn, vẹt, dấu hiệu của việc chặt, cắt của người xưa, dấu vết người nguyên thủy thời đại đồ đá mới cách ngày nay khoảng 7000 - 8000 năm cũng được tìm thấy ở Bảo Thắng. Qua các bộ sưu tầm về công cụ, ta có thể thấy được rõ, vào thời kỳ này, các bộ lạc nguyên thủy ở đây đã có trình độ về kinh tế và kỹ thuật tương đương với các vùng khác trên đất nước t a. Ở Phố Lu và Phú Nhuận còn tìm thấy một số rìu đồng và mũi dao đồng. Các công cụ này là loại hình công cụ đồng thau của văn hóa Đông Sơn thời các vua Hùng dựng nước. Như vậy, cách ngày nay hàng vạn năm trên mảnh đất Bảo Thắng đã có con người đến định cư sinh sống. Tính liên tục của các hiện vật khảo cổ càng minh chứng địa bàn cư trú lâu đời (Từ hậu kỳ đá cũ đến thời đại Hùng Vư ơng) của con người chủ nhân vùng Bảo Thắng. Và khi nhà nước Văn Lang ra đời, miền đất biên cương này đã trở thành một bộ phận của dân tộc Việt Nam trong buổi đầu dựng nước. Bên cạnh đó còn có di tích lịch sử văn hóa và danh thắng như: Bến Đền (Gia Phú) - nơi nghĩa quân Gia Phú phục kích nổ súng bắn chết nhiều tên Pháp ngày 25/3/1886; đồn Phố Lu - nơi diễn ra cuộc chiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 11 đấu quyết liệt suốt 5 ngày 6 đêm (từ 8/2/1950 - 13/2/1950) của bộ đội chủ lực (trung đoàn 102) và quân dân địa phương mở đầu chiến dịch Lê Hồng Phong màn 1… Những di tích lịch sử đó đã chứng tỏ nhân dân Bảo Thắng đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ cùng biên cương của tổ quốc. Thời phong kiến, cư dân ở Bảo Thắng gồm nhiều dâ n tộc cư trú theo từng bản, từng mường. Có các mường lớn như Mường Bo, Mường Cái… Đứng đầu mỗi mường là chủ mường. Các chủ mường này đều thuần phục quan cai trị của các triề u đình phong kiến Việt Nam. Thời Minh Mạng cả Bảo Thắng mới có khoảng 2000 người, chủ yếu là đồng bào các dân tộc: Tày, Thái, Dao, Phù Lá (cả nhóm Xá Phó), Giáy, Nùng… Ở ngay cửa quan có các binh lính người Kinh và một số thương nhân Hoa Kiều, năm 1928 Bảo Thắng có 5000 khẩu. Đến năm 1945, Bảo Thắng có khoảng 8000 dân có 1.200 người Kinh còn chủ yếu là người các dân tộc thiểu số. Năm 1960 có trên 13.000 người. Năm 1989 Bảo Thắng có 86.633 người. Năm 1999 có 99.819 người. Đến năm 2008 Bảo Thắng đã có 102.519 người… Gồm 17 dân tộc anh em, trong đó người Kinh chiếm 72,99 %, người Tày chiếm 16%, người Dao chiếm 9,6%, người H’mông chiếm 4,4%, người Giáy chiếm 3,2%... [4, tr.20]. Các dân tộc cư trú ở Bảo Thắng dù ít hay nhiều người, đến Bảo Thắng vào những thời gian khác nhau nhưng đều đoàn kết, chung lưng đấu cật bảo vệ và xây dựng vùng biên cương của tổ quốc. Các dân tộc Bảo Thắng còn giữ được nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như lễ Lập tịch người Dao Họ ở Khe Mụ, lễ Trừ tà đón xuân người Xá Phó làng An Thành (Gia Phú), hội Xuống đồng của đồng bào Tày với sinh hoạt hát then, hát giao duyên trong những đêm xuân. Với quá trình công nghiệp hóa đất nước, cơ cấu dân cư trong những thập kỷ qua có nhiều biến đổi theo xu hướng đô thị hó a. Thời kỳ phong kiến, Bảo Thắng tuy là một cửa quan, là đầu mối giao thông, nhưng do nền kinh tế tự cung tự cấp quá nặng nề, nên chưa có một điểm dân cư nào mang tính chất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 12 đô thị. Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, chúng tuy có mở đồn điền, phát triển giao thông, khai thác mở Apatit, nhưng cư dân ở thành thị rất ít. Sau hơn 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bảo Thắng đã từng bước chuyển nền kinh tế từ tự cung, tự cấp sang nền kinh tế mang tính chất sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Trong huyện đã xuất hiện 3 thị trấn, thị trấn Phố Lu tr ở thành một trung tâm kinh tế buôn bán, giao dịch khá sầm uất. Cư dân thành thị tăng lên nhanh chóng. Sự thay đổi cơ cấu dân cư góp phần làm phát triển nền kinh tế - xã hội ở Bảo Thắng. Với quá trình phát triển và vị trí địa lý như trên, Bảo Thắng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc từ lâu đời trong đó có tộc người Dao Tuyển. Trong quá trình sinh sống nơi đây họ đã tạo dựng được những nét văn hóa riêng biệt mang đậm bản sắc dân tộc mình, phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện xã hội của một huyện miền núi. 1.2. Ngƣời Dao Tuyển ở Bảo Thắng 1.2.1. Địa bàn cư trú và nguồn gốc lịch sử của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng Dao là tên gọi chính thức của cộng đồng Dao ở Việt Nam. Trước đây mang nhiều tên gọi khác nhau như: Mán, Động, Trại, Xá,… Người Da o tự gọi mình là Kềm Miền, Kìm Mùn hoặc Dìu Miền. Theo tiếng Dao thì Kềm hoặc Kìm là rừng, còn Miền hoặc Mùn là người. Bởi vậy, Kềm Miền hay Kìm Mùn có nghĩa là người của núi rừng. Hiện nay tộc người Dao ở nước ta được nhà nước công nhận chính thức và được các nhà khoa học xếp vào nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao thuộc ngữ hệ Nam Á. Dựa vào kết quả tổng điều tra dân số năm 1999 thì người Dao ở nước ta có 620.538 nhân khẩu, chiếm 0,8% tổng dân số cả nước, đứng vào hàng thứ 9 trong bảng danh mục các tộc người ở Việt Nam. [45, tr.21]. Người Dao cư trú tập trung ở 18 tỉnh như: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn , Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 13 Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lai Châu, Hòa Bình, Sơn La, Phú Thọ, Bắc Giang, Thanh Hóa, Đắc Lắc, Đồng Nai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Người Dao ở Việt Nam thuộc về hai phương ngữ: Phương ngữ thứ nhất gồm hai ngành lớn là Đại Bản và Tiểu Bản. - Ngành Đại Bản có các nhóm Dao Đỏ (Hùng Thầu Đào, Dao Coóc Ngáng, Dao Quý Lâm), Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng), Dao Thanh Phán (Dao Coóc Mùn, Dao Đội Ván, Dao Lô Giang). - Ngành Tiểu Bản có Dao Tiền (Dao Đeo Tiền) Phươ ng ngữ thứ hai gồm có hai ngành: Dao Quần Trắng (Dao Họ , M án Đen) và Dao Làn Tiẻn. Trong đó Dao Làn Tiẻn có hai nhóm nhỏ là D ao Thanh Y và Dao Tuyển (Dao Áo Dài, Dao Chàm, Dao Bằng Đầu, Dao Slán Chỉ) [48, tr.30 - 37]. Như vậy, Dao Tuyển là một nhóm nhỏ của ngành Dao Làn T iẻn thuộc về phương ngữ thứ hai. Dao Tuyển là tên gọi địa phương ở vùng Lào Cai. Người Dao Tuyển ở Việt Nam cư trú tập trung tại Lào Cai, Hà Giang và rải rác ở một số tỉnh khác. Bảo Thắng và Bảo Yên là hai huyện tập trung người Dao Tuyển đông nhất của tỉnh Lào Cai. Tại huyện Bảo Thắng, người Dao Tuyển cư trú tại các xã Xuân Quang, Trì Quang, Phong Niên, Phong Hải, Bản Cầm, Bản Phiệt với dân số 6378 người chiếm 6,2% dân số toàn huyện (Nguồn UBND huyện Bảo Thắng). Người Dao Tuyển di cư đến Lào Cai nói riêng và Việt Nam nói chung bằng đường bộ là chính. Trong cuốn “Tín ca thiên di” của người Dao Tuyển ghi rất rõ từng chặng đường thiên di “Người Dao từ Lưỡng Quảng đến Lào Cai. Năm Giáp Thân triều Minh kết thúc (1644), Người Dao từ Quảng Tây di cư đi Vân Nam. Họ định cư ở Giám Yên, Mông Tự đến năm Nhâm Thân, Quý Dậu (1812 - 1813) lại đi tiếp vào rừng sâu phương Nam. Mãi đến năm Tân Dậu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 14 triều Thanh (1871), người Dao Làn Tiẻn mới tới Hà Khẩu, Quỳnh Sơn và sau đó vào Lào Cai” [37, tr.58]. Như vậy người Dao Tuyển thiên di đến Lào Cai nói chung và huyện Bảo Thắng nói riêng qua hai tuyến: - Tuyến thứ nhất: Vào cuối triều đại nhà Minh (thế kỷ XV II), người Dao Làn Tiẻn từ Quảng Đông vào Móng Cái (Quảng Ninh) qua Lục Ngạn sông Đuống đến vùng Yên Bái ngược sông Chảy lên Lào Cai. - Tuyến thứ hai: Vào năm Mậu Thân đầu triều Thanh (1668), người Dao Tuyển đến Vân Nam ở hai vùng Vân Sơn và Mông Tự. Năm Tân Dậu triều Thanh (1801) người Dao từ Mông Tự đến Kiến Thủy, Hà Khẩu theo sông Hồng vào châu Thủy Vĩ (Lào Cai) và châu Chiêu Tấn (Lai Châu). Như vậy, đến đầu thế kỷ XIX người Dao Tuyển đã có mặt ở vùng sông Hồng Lào Cai [37, tr.9 -10]. Tiếp đó trong các thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Dao Tuyển có một số đợt thiên di đến vùng Tam Đường, Phong Thổ, Sìn Hồ ( Lai Châu) và Bát Xát (Lào Cai). Nguyên nhân di cư của người Dao nói chung và người Dao Tuyển nói riêng là do sự đàn áp các phong trào khởi nghĩa người Dao của các triều đình phong kiến Trung Quốc. “Sách “Tín ca thiên di” của người Dao Tuyển có ghi: Triều Minh điều binh 16 vạn Phân binh 4 đường, 12 nhánh Đánh qua 26 ngày Không rút động binh, tự rút binh… Giết người, đốt nhà không để gì lại Khắp trời, rợp đất đầy lửa khói Quan phủ ra lệnh giết người Dao… Giết chết người Dao hơn 5 vạn Từ đây người Dao ly tán tứ phương” [37, tr.55] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 15 Nguyên nhân thứ hai là do thời đó Trung Quốc hạn hán, đất chật người đông lại thấy Việt Nam đất tốt, dễ làm ă n nên người Dao di cư vào Việt Nam. “Sách “Diệu Thảo sình chà lầy” ghi rõ: Nhân vì người đông đất lại hẹp Cùng nhau phân tán khắp núi sông Phần lên Quảng Tây, ở Hồ Quảng Phần đến Quý Châu để an cư Một phần về phía đạo Vân Nam Lại một phần đến Giao Chỉ” [37, tr.56] 1.2.2. Đời sống kinh tế, xã hội của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng 1.2.2.1. Đời sống kinh tế Người Dao Tuyển là cư dân nông nghiệp canh tác nương rẫy và làm ruộng lúa nước. Trước đây nương rẫy là hình thức canh tác chủ yếu và phổ biến nhưng từ thập niên 60 người Dao Tuyển đã biết khai phá làm ruộng lúa nước hoặc ruộng bậc thang. Trong canh tác nương rẫy đồng bào Dao rất chú trọng khâu chọn đất. Để có nương tốt phải chọn đất có nhiều mùn và ở phía mặt trời mọc vì sẽ đón được nhiều ánh nắng mặt trời. Đồng bào ở đây chỉ làm nương trong 3 vụ sau đó bỏ hoang từ 4 - 6 năm rồi mới quay lại gieo trồng tiếp. So với việc canh tác nương rẫy thì việc khai phá ruộng lúa công phu hơn cần có sự tham gia của cả dòng họ, cả làng. Làm ruộng lúa nước năng su ất cao và đời sống ổn định hơn nên đồng bào Dao Tuyển ngày nay canh tác ruộng lúa nước phổ biến hơn trước. Người Dao Tuyển có tục ngữ: Làm nương không bằng làm ruộng Làm ruộng trời hạn không lo Làm nương trời hạn không được ăn Ở Bảo Thắng, người Dao Tuyển còn phát triển trồng quế. Đồng bào đã biết kết hợp trồng quế với làm ruộng lúa nước, trồng quế xen canh với lúa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1