intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Một vài kiến nghị xung quanh vấn đề đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam..MỞ ĐẦUSau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước t

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

87
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước ta đặc biệt nhấn mạnh và đề cao hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể (thực chất chỉ là một) mà không nói tới các thành phần kinh tế khác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV thừa nhận sự tồn tại của 3 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể ở miền Bắc và 5 thành phần kinh tế ở miền Nam. Có thể nói Nghị quyết Đại hội...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Một vài kiến nghị xung quanh vấn đề đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam..MỞ ĐẦUSau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước t

  1. LUẬN VĂN: Một vài kiến nghị xung quanh vấn đề đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
  2. MỞ ĐẦU Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước ta đặc biệt nhấn mạnh và đề cao hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể (thực chất chỉ là một) mà không nói tới các thành phần kinh tế khác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV thừa nhận sự tồn tại của 3 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể ở miền Bắc và 5 thành phần kinh tế ở miền Nam. Có thể nói Nghị quyết Đại hội Đảng IV, Đại hội Đảng V đều khẳng định sự tồn tại của 5 thành phần kinh tế ở nước ta trong đó nhấn mạnh cải tạo theo hướng xoá bỏ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, không nói tới sự phát triển kinh tế thị trường đa dạng tức là xoá bỏ cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường. Điều này chẳng những làm giảm khả năng đóng góp của các thành phần kinh tế chung của đất nước mà còn làm kìm hãm khả năng tạo công ăn việc làm cho nhân dân. Đó là thời kỳ chúng ta thiếu một cơ sở khoa học về sự tồn tại một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam (6/1991) khẳng định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, xác định phương hướng cơ bản chỉ dạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh của Đảng khẳng định: “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) Đảng ta lại khẳng định tiếp tục sự nghiệp đổi mới theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Thực tiễn trải qua hơn 10 năm đổi mới cho thấy việc thực hiện
  3. phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã mang lại những kết quả to lớn. Qua đó chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Do đó việc nghiên cứu vai trò của thành phần kinh tế nhà nước (một bộ phận trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam) cũng có những ý nghĩa to lớn góp phần phát triển hơn nữa thành phần kinh tế nhà nước và nền kinh tế Việt Nam. Cuối cùng, để quán triệt sâu sắc các Nghị quyết của Đảng về: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với thành phần kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, xin được phép nêu một số vấn đề như sau: Phần I: Nội dung thành phần kinh tế nhà nước Phần II: Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Phần III: Một vài kiến nghị xung quanh vấn đề đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
  4. PHẦN I NỘI DUNG THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Cơ sở để xem xét một thành phần kinh tế với tư cách là quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sở hữu có vai trò quyết định, còn quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò tác động tích cực. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì các quan hệ sở hữu không tồn tại dưới dạng thuần khiết cô lập mà chúng đan xen lẫn nhau. Người ta dễ dàng nhận thấy trong một tổ chức kinh tế có nhiều quan hệ sở hữu khác nhau như: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân... Do đó thành phần kinh tế dù chỉ được biểu hiện ra dưới các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cụ thể song lại không trùng khớp với một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh xác định nào đó. Để xem xét một tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế nào cần phải xem xét cụ thể xem lực lượng kinh tế nào kiểm soát và chi phối chúng. Chính dựa trên cơ sở xem xét khoa học như thế, chúng ta mới có thể hiểu được tại sao cùng là các công ty cổ phần mà công ty này thì thuộc thành phần kinh tế tư nhân, còn công ty kia lại thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. Để tránh những hiểu biết hạn chế, những quan niệm sai lầm trước kia, chúng ta cần phải phân biệt được nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế, kiểm soát kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường với nhà nước là một lực lượng chính trị cùng các phương tiện vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó. Chỉ có sở hữu nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế, một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Với quan niệm như vậy, thành phần kinh tế nhà nước gồm các yếu tố cấu thành như sau: - Yếu tố thứ nhất: là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước.
  5. Đây là tổ chức kinh tế mà sở hữu của nhà nước có thể là 100% hay chỉ là cổ phần khống chế, riêng cổ phần đặc biệt có quyền phủ quyết. Các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động theo luật riêng như hiện nay, cũng có thể hoạt động theo luật doanh nghiệp chung nhưng điểm cốt lõi của nó là nhà nước thông qua các đại diện sở hữu của mình tiến hành kiểm soát, chi phối được hoạt động của doanh nghiệp nhằm lấy đó làm công cụ can thiệp tích cực vào nền kinh tế, định hướng những cân đối lớn và kết quả chung. - Yếu tố thứ hai: là hệ thống tài chính của nhà nước. Ngày nay khi mà xu thế mở rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, thì ở nước ta do nhà nước có vai trò rất to lớn trong vấn đề đảm bảo công bằng nên tài chính nhà nước trở thành một lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có thể hình thành các luồng tài chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phải nhà nước để sinh lãi, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội hoặc cho vay tín dụng.... Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi vốn trở thành một trong những nguồn lực sản xuất chủ yếu thì một phần tài chính nhà nước, kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên sẽ trở thành lực lượng kinh tế lớn. - Yếu tố thứ ba: là tất cả hệ thống dự trữ, tài nguyên, đất đai, vùng biển, vùng trời thuộc sở hữu nhà nước. Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đất đai, mặt biển, không phận đều thuộc sở hữu nhà nước. Có những bộ phận đất đai nhà nước giao cho nhân dân sử dụng lâu dài, cũng có bộ phận đất đai, mặt biển, tài nguyên, không phận... nhà nước cho thuê và có thu nhập theo định kỳ. Thu nhập đó có thể đem tái đầu tư, cũng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công dân dưới hình thức nào đó. Dù mục đích sử dụng khác nhau, song không thể phủ nhận rằng sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời... cùng với dự trữ quốc gia đã
  6. làm cho nhà nước thực sự trở thành chủ thể kinh tế mạnh, không những có khả năng tham gia vào các quá trình kinh tế mà có thể đóng vai trò điều tiết, định hướng và kiểm soát các quá trình kinh tế đó. - Yếu tố thứ tư: là hệ thống dịch vụ nhà nước kể cả dịch vụ thu phí và dịch vụ không thu phí. Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cải chỉ đơn thuần tồn tại dưới dạng vật chất hàng hoá hữu hình, ngày nay kinh tế học hiện đại khẳng định thêm rằng của cải còn là những dịch vụ với tư cách hàng hoá vô hình nhưng có vai trò làm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và làm tăng chất lượng của cuộc sống cũng được tính vào GDP. Một số dịch vụ nhà nước có thể kể ra như sau: dịch vụ ngân hàng nhà nước, dịch vụ hải quan, dịch vụ thủ tục hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát thị trường tiền, thị trường chứng khoán, thị trường vốn... Với việc cung cấp các dịch vụ này nhà nước có thể tác động vào thị trường đồng thời qua thị trường tác động tới nền kinh tế. Có thể thấy rằng yếu tố này đã góp phần làm cho tiềm lực kinh tế của nhà nước tăng lên gấp bội. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng rãi hơn nhiều so với quan điểm cho rằng chỉ nên giới hạn thành phần kinh tế ở hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Cách hiểu cũ vô hình chung đã làm thu hẹp thành phần kinh tế nhà nước từ đó có thể dẫn đến những quyết định thiếu hợp lý, có thể làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế. Chỉ có cách hiểu đầy đủ như vậy chúng ta mới có cơ sở để tìm tòi các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hợp lý để một mặt tái sản xuất được quan hệ sở hữu nhà nước trong quá trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác, thông qua sự lớn mạnh của nó mà giữ vững định hướng xã hội chư nghĩa đồng thời cải tổ nền kinh tế trên cơ sở tiềm lực kinh tế nhà nước vững chắc.
  7. Bên cạnh đó, thành phần kinh tế nhà nước còn thể hiện rõ bản chất chủ nghĩa xã hội của nó: Nếu như các phương thức sản xuất khác thực hiện sự áp bức, bóc lột đối với quảng đại quần chúng nhân dân lao động thì phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới lại giải phóng quảng đại quần chúng nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Do đó nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước phải là lực lượng đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động đồng thời phải bảo vệ được quyền lợi cho họ. Cũng chính từ bản chất vì số đông, vì quảng đại nhân dân lao động nên thành phần kinh tế nhà nước buộc phải lựa chọn và tìm tòi bước đi để trở thành nền tảng của chế độ mới ngoài ra còn phải thể hiện được sự khác biệt với việc bành trướng đi đến sự thống trị như kinh tế tư bản chủ nghĩa hay kinh tế phong kiến trước kia.. Nếu như sự thống trị của các thành phần kinh tế đó chủ yếu dựa trên sự chuyển giao quyền chiếm hữu do đó mà có quyền kiểm soát kinh tế từ giai cấp này sang giai cấp khác thì thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện khi đại đa số nhân dân lao động giành được quyền chiếm hữu dưới hình thái nhà nước hay sở hữu toàn dân, chứ không phải dưới hình thái một giai cấp. Và từ sự chiếm hữu dưới hình thái nhà nước đó thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân mà nhân dân lao động có thể tiến hành kiểm soát các quá trình tổ chức quản lý và phân phối của nền kinh tế. Có nghĩa là ẩn giấu đằng sau hình thái sở hữu nhà nước, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta vẫn là chế độ sở hữu toàn dân, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Đây là đặc trưng cần phải được nhận thức rõ và quán triệt đầy đủ trong cán bộ quản lý và nhân dân lao động, nhất là người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước để mỗi người đều có thể nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển vững mạnh thành phần kinh tế nhà nước. Mặt khác, cũng cần phải lưu ý hai điểm sau đây: - Thứ nhất, thành phần kinh tế nhà nước được hiểu theo nội dung trên là giai đoạn thấy, giai đoạn khởi đầu của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
  8. Trước kia chúng ta đã thất bại khi đẩy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi quá xa, ngay lập tức thiết lập sở hữu toàn dân trực tiếp với quan hệ bao cấp và trao đổi bằng hiện vật. Trong mô hình cũ, chúng ta đã thiết lập nhà nước như một tổ chức tự quản với giả định rằng người lao động có đủ khả năng để kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua chế độ bầu cử, bãi miễn trực tiếp. Ngày nay, với việc thừa nhận cơ chế thị trường, thừa nhận sự trao đổi sản phẩm thông qua giá trị như là hành vi phổ biến thì thiết chế nhà nước cũng trở nên xa cách với người dân hơn, có tính độc lập tương đối hơn và người dân không thể “tự quản nhà nước” mà chỉ có thể tiến hành kiểm tra giám sát theo luật, theo hình thức chính trị của nhà nước (bầu cử) hay cũng có thể đóng góp ý kiến để những người đại diện làm tốt hơn công việc của mình. Chính vì thế, tính sở hữu toàn dân thể hiện rõ ở sở hữu nhà nước và được thể hiện một cách gián tiếp hơn qua một số khâu trung gian mang tính chính trị trực tiếp nhiều hơn tính kinh tế trực tiếp. Tính gián tiếp của sở hữu toàn dân đó được thể hiện rõ ở giai đoạn thấp của quan hệ sản xuất XHCN. - Thứ hai, do trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhà nước không chỉ đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động mà còn đại diện cho lợi ích của quốc gia. Về mặt kinh tế, lợi ích của một quốc gia trước hết được biểu hiện ở khả năng giải phóng sức sản xuất hiện có, ở việc sử dụng tốt nhất các nguồn lực phục vụ cho nhân dân của đất nước mình. Do lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay đòi hỏi phải phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất_kinh doanh phù hợp với trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất. Thực tế tình hình đổi mới trong những năm qua đã chứng tỏ rằng chỉ bằng cách đó chúng ta mới thoả mãn được nhu cầu của người dân ở mức tốt nhất. Cho nên, nhà nước ta không những phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước phát triển mà hơn lúc nào hết phải tạo mọi điều kiện cũng như bảo vệ cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển. Do vậy không thể nói đến sự chi phối của thành phần kinh tế nhà nước bởi thực chất chúng ta không muốn
  9. nói đến một sự áp đặt kinh tế bằng bạo lực, hay bằng cách lấn át các thành phần kinh tế khác. Quan điểm có tính nguyên tắc của chúng ta là tạo ra môi trường hoạt động bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác hết nội lực và nhân tố hiệu quả của chúng, đồng thời phải cố gắng tìm tòi, thể nghiệm trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm cũng như khái quát lý luận để tìm ra những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trong đó không những lực lượng sản xuất có thể tìm thấy nguồn động lực để phát triển mạnh mẽ mà quan hệ sản xuất XHCN cũng không ngừng được tái sinh và hoàn thiện. Và đây mới là nội dung cốt lõi, tư tưởng xuyên suốt của công cuộc đổi mới quản lý để thành phần kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo của nó.
  10. PHẦN II VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM Việc đề ra quan điểm: “thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với các thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân” là một trong những thành tựu to lớn của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và nhà nước ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như về các yếu tố cơ bản cấu thành nền kinh tế đó. Về mặt lý luận, vai trò chủ đạo do thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới đang dần thay thế phương thức sản xuất cũ để đảm nhiệm vai trò đó. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vai trò chủ đạo đó tất yếu được đặt lên vai thành phần kinh tế nhà nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo đồng thời trở thành đòn bẩy đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ để các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Và tư tưởng này một lần nữa được khẳng định và nhấn mạnh tại Hội nghị trung ương 4 (khoá VIII). Tuy nhiên cho đến nay vẫn không ít ý kiến cho rằng vai trò chủ đạo này nên đặt cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước hơn là cho thành phần kinh tế nhà nước. Nhưng nếu chỉ riêng hệ thống doanh nghiệp nhà nước thôi thì sẽ gặp phải những khó khăn khi đảm đương vai trò chủ đạo vì:
  11. - Hệ thống doanh nghiệp nhà nước khó chiến thắng hệ thống các doanh nghiệp tư nhân trong điều kiện cạnh tranh thị trường thuần tuý. - Các doanh nghiệp nhà nước sẽ gặp khó khăn trong việc định hướng, dẫn dắt và cải tạo các thành phần kinh tế khác theo định hướng kinh tế tư bản nhà nước vì vậy cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước với tư cách là một chủ thể kinh tế mạnh. - Bản thân các hình thái tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa chứng tỏ được bản chất xã hội chủ nghĩa của nó, mà bản chất đó chỉ được khẳng định bằng chính bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước. Như nguyên tổng bí thư Đỗ Mười đã nói trong hội nghị trung ương 4 (khoá VIII): “chúng ta không để cho quan hệ sản xuất tự phát triển, nếu để tự phát thì nền sản xuất của chúng ta hàng ngày hàng giờ sẽ đi vào chủ nghĩa tư bản”. Và hơn nữa chúng ta kỳ vọng và sự tìm tòi và những thử nghiệm để có thể sáng tạo ra những hình thức tốt nhất, trong đó vừa duy trì và tái sản xuất quan hệ sản xuất mới_quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, vừa tạo ra những phạm vi rộng lớn cho sự tăng trưởng nhanh, có hiệu quả của lực lượng sản xuất. Chính đó là cốt lõi của luận đề: “thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng, đủ sức trở thành lực lượng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở ra những cơ hội mới, những phạm vi rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Cũng vì lý do đó mà nó có ưu thế hơn hẳn các thành phần kinh tế khác ở nước ta. Mặt khác, thông qua vai trò điều tiết, định hướng, dẫn dắt, thành phần kinh tế nhà nước góp một phần lớn trong việc chi phối và biến đổi các thành phần kinh tế khác trong quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  12. Về thực tiễn, điểm qua vai trò của các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay chúng ta thấy: 1. Trước hết, nói về kinh tế hợp tác xã: Kinh tế hợp tác xã trước đây gồm những loại hình sau:  Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp  Hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp  Các hợp tác xã khác mà phần lớn là hợp tác xã nông nghiệp. Những hợp tác xã trên đây có đặc trưng là tập thể hoá tư liệu sản xuất và tập thể hoá lao động. Nó cũng bị chi phối bởi nhiều cơ chế đặc biệt là cơ chế kế hoạch hoá tập trung lạc hậu trước đây. Kinh tế hộ gia đình bị “hoà tan” vào kinh tế tập thể. Trong nông nghiệp, chỉ từ sau chỉ thị 100 của Ban bí thư trung ương Đảng (1981) và nghị quyết 10/Bộ chính trị, ban chấp hành trung ương Đảng (4/1988), kinh tế hộ nông dân mới được thừa nhận, hộ gia đình được coi là đơn vị kinh tế tự chủ. Còn trong công nghiệp phần lớn hình thức hợp tác xã đã được thay thế bằng hình thức hộ gia đình. Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ và hướng dẫn các loại hình hợp tác xã trong các ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Việc hợp tác như vậy sẽ kết hợp được sức mạnh của tập thể và sức mạnh của hộ xã viên. Bên cạnh vốn cổ phần do xã viên đóng góp và tài sản không chia của tập thể, hợp tác xã có thể huy động vốn và sức lao động ngoài các thành viên của mình. Xã viên được hưởng thu nhập từ hợp tác xã theo lao động và theo cổ phần đã đóng góp. Hợp tác xã có thể kinh doanh tổng hợp nhiều nghành nghề trên nhiều địa bàn mà không bị ràng buộc bởi ranh giới hành chính.
  13. Kinh tế hợp tác xã so với nền kinh tế quốc dân chung tuy là đóng góp đáng kể nhưng nhỏ không thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 2. Kinh tế cá thể, tiểu chủ (tư nhân) hoạt động phần lớn dưới hình thức hộ gia đình, hộ tiểu chủ, xí nghiệp hoặc công ty tư doanh. Tư nhân thực hiện toàn bộ hay một công đoạn của quá trình đầu tư. Kinh tế tư nhân sản xuất và kinh doanh trên phạm vi rộng lớn: cả nông thôn và thành thị, trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong thời gian qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều nghị quyết tạo điều kiện cho loại hình kinh tế này phát triển. Hiện nay loại hình này đang là một bộ phận đông đảo và có tiềm năng to lớn,có vị trí quan trọng và có khả năng tồn tại lâu dài. Song do đặc điểm kinh tế tư nhân là kinh doanh nhỏ vì vậy nó cũng không thể đẩm nhận được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. 3. Kinh tế tư bản tư nhân: Trong những năm qua loại hình doanh nghiệp tư nhân đã xuất hiện ở nhiều ngành khác nhau như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, vận tải, thủ công nghiệp... Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đang phát triển và đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế_xã hội của đất nước. Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò tích cực, lâu dài của thành phần kinh tế tư nhân trong sự nghiệp xây dựng đất nước và luôn luôn khuyến khích cũng như tạo mọi điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển trong những nghành, những lĩnh vực mà pháp luật cho phép; đồng thời nhà nước còn bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tư nhân, đầu tư và phát trên cơ sơ thoả thuận, đảm bảo lợi ích các bên. Ngoài ra nhà nước còn chú ý động viên các chủ doanh nghiệp tư nhân dành cổ phần ưu đãi để bán cho công nhân làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp tạo
  14. động lực để người lao động gắn bó lâu dài với sự phát triển của doanh nghiệp, coi lợi ích của doanh nghiệp là lợi ích của bản thân. Một mặt nhà nước khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển, mặt khác phải tăng cường các biện pháp quản lý vĩ mô đồng thời phải luôn điều tiết, kiểm kê, kiểm soát cũng như định hướng để các doanh nghiệp này cùng phát triển. Như vậy, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hoạt động trong điều kiện, trong môi trường kinh tế_xã hội; trong khuôn khổ các luật kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra và chỉ được hoạt động trong những nghành, những lĩnh vực nhà nước cho phép không dễ gì tự phát lên tư bản chủ nghĩa và nó chỉ có thể được coi là một mắt xích để cấu thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Tuy thành phần kinh tế này cũng nắm giữ một vị trí quan trọng nhưng không thể giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn nước ngoài (tại Đại hội Đảng IX đã tách ra thành một thành phần kinh tế độc lập): Theo Lênin, kinh tế tư bản nhà nước được coi là hình thái kinh tế quá độ trung gian nhằm đưa những cơ sở sản xuất nhỏ, lạc hậu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp, thiếu thốn về mọi mặt: thiếu vốn, thiếu kỹ thuật công nghệ, thiếu kinh nghiệm để có thể xây dựng một nền sản xuất lớn, hơn nữa chúng ta lại tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên gặp rất nhiều khó khăn. Và tư bản nhà nước là hình thức kinh tế trong đó có sự liên doanh giữa nhà nước với tư nhân. Ở nước ta chủ yếu là nhà nước liên doanh với tư nhân nước ngoài. Theo luật đầu tư nước ngoài của ta, tuỳ theo từng lĩnh vực mà người nước ngoài có thể chọn một trong 3 hình thức đầu tư ở Việt Nam, đó là những hình thức sau:
  15.  Hợp đồng, hợp tác kinh doanh thu theo phương thức chia sản phẩm hoặc theo phương thức khác  Xí nghiệp hoặc công ty liên doanh với bên ngoài góp ít nhất không dưới 30% vốn pháp định nhưng không hạn chế mức góp tối đa.  Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài Nhà nước liên doanh với tư nhân nước ngoài ở một số ngành chính như: khai thác khoáng sản (chủ yếu là dầu khí), thực phẩm, chế biến nông sản, cơ khí, du lịch... Ở nuớc ta do mới thực hiện chính sách mở cửa, hơn nữa cơ sở hạ tầng của sản xuất còn nhiều hạn chế, hệ thống pháp luật chưa thông thoáng và thiếu đồng bộ nên khả năng thu hút vốn đầu tư của tư bản nước ngoài còn hạn chế. Trong tương lai với chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, khuyến khích đầu tư của nhà nước thì khả năng thu hút đầu tư và thu hút vốn sẽ ngày càng tăng hơn. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước sẽ dần dần trở thành một trong những thành phần kinh tế có khả năng đem lại sự đóng góp to lớn đối với sự nghiệp phát triển của nền kinh tế đất nước. Mặc dù vậy, kinh tế tư bản nhà nước chỉ là sự liên doanh giữa nhà nước với tư nhân, kể cả tư nhân là người nước ngoài. Sự liên doanh ấy chỉ giới hạn ở một số lĩnh vực theo sự quản lý của nhà nước vì vậy việc phát triển hơn nữa thành phần kinh tế này có nhiều hạn chế. Do đó trừ thành phần kinh tế nhà nước nằm trong thành phần kinh tế này (phần vốn của nhà nước dùng để liên doanh); phần còn lại của kinh tế tư bản nhà nước cũng như kinh tế có vốn của nước ngoài tuy cung cấp trên 10% tổng sản phẩm quốc dân nộp vào ngân sách nhưng cũng không thể giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
  16. 5. Thành phần kinh tế nhà nước là thành phần mà nội dung đã được nêu ở mục: “Nội dung thành phần kinh tế nhà nước”. Thông qua những vấn đề đã nêu ở mục trên chúng ta có thể tự tin mà khẳng định rằng: đây là thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất so với các thành phần kinh tế khác, về mặt hình thức, quan hệ sản xuất cũng cao hơn và bình đẳng hơn. Nó đại diện cho lợi ích quốc gia và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. Thành phần này nắm những khâu, những ngành, những cơ sở, những lĩnh vực then chốt và quan trọng nhất của nền kinh tế đất nước. Đồng thời kinh tế nhà nước còn gắn trực tiếp với mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nó cùng với kinh tế tập thể hợp thành nền tảng kinh tế cho chế độ xã hội mới. Hơn thế nữa kinh tế nhà nước còn mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế quốc dân, là chỗ dựa kinh tế của nhà nước. Vì thế, kinh tế nhà nước chính là thành phần nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Sau đây là một số biểu hiện về vai trò chủ đạo của thành phần này có thể kể đến là:  Thông qua việc cung cấp điều kiện gắn với đầu vào hoặc đầu ra của sản xuất thuộc thành phần kinh tế khác mà kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế này hoạt động theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.  Kinh tế nhà nước thông qua vai trò gương mẫu của mình trong việc chấp hành các chính sách và luật pháp từ đó nêu một tấm gương để hướng các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác làm theo.  Kinh tế nhà nước không ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ dựa trên quy mô vừa và lớn do đó có điều kiện để kinh doanh có lãi mà vẫn chấp hành đúng việc nộp thuế vào ngân sách nhà nước đồng thời định hướng cho các thành phần kinh tế khác trên 3 phương diện: nộp thuế đầy đủ, đúng thời hạn; hiệu quả kinh tế cao; coi trọng việc đổi mới thị trường công nghệ
  17. Cuối cùng cũng không thể không nhắc đến: sự vật sẽ tự phát triển và dẫn đến những mô hình ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn. Đó là quy luật của lịch sử, không ai có thể nóng vội đốt cháy giai đoạn. Song cũng có những vấn đề có tính nguyên tắc không thể xa rời:  Một là, phải giữ gìn và thể hiện trên thực tế bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước. Do vậy phải kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và nâng tầm lãnh đạo của Đàng ngang mức thực tế đòi hỏi.  Hai là, phải củng cố và phát triển thành phần kinh tế nhà nước để nó thực sự trở thành thành phần kinh tế mạnh và hoạt động thực sự có hiệu quả hơn. Cải tổ khu vực kinh tế nhà nước không có nghĩa là thu hẹp vai trò của thành phần kinh tế này.  Ba là, tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân đối với thành phần kinh tế nhà nước để hạn chế tối đa xu hướng quan liêu, tham ô, tham nhũng của những cán bộ đại diện cho sở hữu nhà nước. PHẦN III MỘT VÀI KIẾN NGHỊ XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO CHO KINH TẾ NHÀ NƯỚC GIỮ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chủ trương của Đại hội Đảng VIII đối với kinh tế nhà nước là phải tăng cường việc chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế thực sự có hiệu quả để có thể
  18. làm tốt vai trò chủ đạo của nó đồng thời trở thành đòn bẩy đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, tạo cơ hội, điều kiện và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới phát triển. Thêm vào đó phải tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế_xã hội, hệ thống tài chính_ngân hàng, bảo hiểm những cơ sơ sản xuất, thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp liên quan đến quốc phòng an ninh. Đồng thời phải tiếp tục đổi mới trong cách quản lý của doanh nghiệp nhà nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong sản xuất_kinh doanh. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng, đồng thời có thể giảm bớt một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả, không phải để tư nhân hoá như một số người quan niệm. Phải tổ chức hợp lý các tổng công ty đảm bảo vừa tránh tình trạng phân tán và tình trạng cục bộ vừa chống được tình trạng độc quyền trong sản xuất_kinh doanh hoặc đơn thuần trở thành cấp hành chính trung gian vừa không mang lại lợi ích thiết thực vừa thêm cồng kềng nặng nề và tốn kém. Thực hiện tốt chủ trương trên đã đủ đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Về cá nhân chỉ xin nêu thêm một số vấn đề nhỏ trong việc làm thế nào để doanh nghiệp nhà nước (là một bộ phận trong thành phần kinh tế nhà nước)
  19. vươn lên mạnh mẽ hơn nữa, thực sự cùng với các bộ phận khác của thành phần kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần Thực trạng cho thấy trong những năm qua các doanh nghiệp nhà nước bước đầu đã được sắp xếp lại, đã giảm bớt được một số lượng lớn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, số lượng những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả cao ngày càng tăng lên, tỷ trọng GDP từ khu vực kinh tế này cũng ngày một nâng cao. Tuy vậy nhưng kinh tế quốc doanh vẫn chậm được đổi mới, chưa làm được tốt vai trò chủ đạo cả trong sản xuất và lưu thông. Thương nghiệp quốc doanh còn bỏ trống nhiều thị trường và địa bàn trọng yếu, để cho một bộ phận tư thương thao túng các địa bàn này đã làm phương hại không nhỏ cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Thực trạng tình hình kinh doanh đó làm cho các doanh nghiệp nhà nước không còn giữ vững được vai trò của mình là mở đường, hướng dẫn cũng như hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. Một số nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến tình hình trên là:  Thứ nhất: không có người làm chủ thực sự, cụ thể, trực tiếp, không có người có quyền hạn và trách nhiệm, lợi ích và nghĩa vụ đầy đủ đối với việc sử dụng có hiệu quả, bảo tồn và phát triển tài sản của nhà nước nên đã dẫn đến tình trạng bàng quan, thờ ơ, coi đó không phải việc của cá nhân mình. Trên thực tế nhiều trường hợp tài sản thuộc sở hữu nhà nước đã và đang trở thành những tài sản vô chủ.  Thứ hai: công nhân viên chức trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước có động lực thường xuyên và bền vững để gắn bó với sự nghiệp phát triển của doanh nghiệp nhưng lại không có quyền hạn và tổ chức đủ mạnh để tham gia định đoạt các quyết định làm ăn, ngăn chặn từ gốc các tệ nạn tham ô, lãng phí, làm thất thoát, hư hỏng tài sản. Vì thế vấn đề chủ
  20. yếu hiện nay là khắc phục bằng được tình trạng vô chủ, làm cho mỗi tài sản nhà nước đều có chủ trực tiếp là những người hoạt động trong doanh nghiệp với việc sử dụng có hiệu quả tài sản, tiền vốn của nhà nước và sự phát triển của doanh nghiệp. Muốn thực hiện được những vấn đề trên cần phải đổi mới tổ chức và cơ chế doanh nghiệp nhà nước theo hướng:  Tiếp tục thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất_kinh doanh nhằm thu hút thêm các nguồn vốn, tạo điều kiện để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đồng thời làm xuất hiện cơ sở kinh tế để tổ chức hội đông quản trị_một hình thức tổ chức quản lý gắn liền trách nhiệm của người chủ sở hữu với việc sử dụng có hiệu quả tài sản của mình. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách nhưng cũng rất khó khăn, phức tạp. Vì vậy phải thận trọng nghiên cứu xác định rõ những loại doanh nghiệp nào cần phải giữ 100% vốn nhà nước, loại nào chuyển sang doanh nghiệp nhà nước cổ phần. Trong khi thực hiện chủ trương cổ phần hoá đối với doanh nghiệp nhà nước, phải hết sức chú trọng ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực, lợi dụng, xâm phạm tài sản của nhà nước vì những lợi ích cá nhân.  Áp dụng từng bước vững chắc phương thức chia lợi nhuận theo lương cơ bản và bán một tỷ lệ cổ phần với điều kiện ưu đãi của doanh nghiệp nhà nước cho công nhân, cán bộ nhân viên trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp và mục tiêu phát triển từng thời kỳ mà có các biện pháp thích hợp.  Nhà nước đại diện cho toàn xã hội vẫn nắm giữ phần lớn cổ phần thông qua việc phân phố lại những lợi ích thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà đảm bảo lợi ích chung cho xã hội. Đó là cách giải quyết tương tự đối với vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp. Là
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
18=>0