LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ
lượt xem 57
download
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đường lối đổi mới, mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương của Đảng là phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân); hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ
- LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đường lối đổi mới, mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương của Đảng là phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân); hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các thành phần kinh tế trên đều hoạt động theo pháp luật và là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạch tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. ở các thành phần kinh tế nêu trên thì kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là những loại hình kinh tế mới thực sự xuất hiện và phát triển như là những thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là những thực thể kinh tế sống động và luôn có sự nhạy cảm cao trong sự phát triển của mọi nền kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Các loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các nhóm công ty… Dù tên gọi có khác nhau, nhưng các doanh nghiệp ngoài nhà nước luôn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và còn tồn tại lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, các doanh nghiệp ngoài nhà nước luôn được Đảng ta cùng các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách quan tâm khảo sát, đánh giá, phân tích nguyên nhân và tính hiệu quả của nó đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước, để từ đó các nhà lãnh đạo và các chuyên gia nghiên cứu đề ra chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trước xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng sâu, thì vấn đề kinh tế thị trường
- nói chung, các doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng đã và đang trở thành vấn đề quan tâm chung của nhiều quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Chúng ta có thể khẳng định rằng: trong thời gian qua, các doanh nghiệp ngoài nhà nước đã đóng góp một phần rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, làm cho công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thu được nhiều thành tựu khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Bởi lẽ, các doanh nghiệp ngoài nhà nước ra đời đã tạo điều kiện khai thác tối đa nhiều nguồn lực trong và ngoài nước, của mọi người dân, mọi tổ chức và các thành phần kinh tế trong sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, góp phần ổn định chính trị - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Tuy nhiên, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng là một mô hình mới chưa có trong tiền lệ lịch sử. Do đó có nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng chứa đựng nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chủ động tìm cách phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế tiêu cực, kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, hướng mọi hoạt động của các thành phần kinh tế nói chung, trong đó có các doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trước hết cần phải đi sâu nghiên cứu một cách tỷ mỷ, thận trọng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp ngoài nhà n ước để hiểu biết thật đầy đủ và toàn diện về tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp ngoài nhà nước; phân tích rõ vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, nhất là thực trạng công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Từ đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm tăng cường công tác phát triển đảng viên, xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhất quán chủ trương phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Đảng, phải coi trọng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện tốt giữa xây dựng và thường xuyên chỉnh đốn Đảng.
- Kể từ khi Đảng được thành lập cho đến nay, trong cả lý luận và thực tiễn Đảng ta luôn coi trọng xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với nâng cao chất lượng đảng viên, coi đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Những năm gần đây, Trung ương Đảng luôn có sự quan tâm đặc biệt tới nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, chú trọng đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên cả về số lượng và chất lượng ở tất cả các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Việc phát triển đảng viên đã được tăng cường chỉ đạo chặt chẽ, nhất là những vùng trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, những nơi ít hoặc chưa có đảng viên, đặc biệt là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước; chú trọng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước cho cán bộ, đảng viên, tạo sự chuyển biến cơ cấu đội ngũ đảng viên theo hướng tích cực. ở tỉnh Phú Thọ, công tác phát triển đảng viên nói chung, công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng trong những năm qua đã được các cấp uỷ đặc biệt quan tâm, chú trọng. Công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước đã được Tỉnh uỷ Phú Thọ xác định có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có sự quản lý của Nhà nước. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có đến được với công nhân lao động hay không; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ , văn minh thực hiện có kết quả cao hay thấp, tổ chức cơ sở đảng có thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là hạt nhân chính trị lãnh đạo trong doanh nghiệp hay không… đều phụ thuộc vào đội ngũ đảng viên, cũng như chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên. Công tác phát triển đảng viên bao gồm những nội dung, quy trình rất chặt chẽ, là những thành tố rất quan trọng tạo nên chất lượng đội ngũ đảng viên, chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức cơ sở đảng, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị trong doanh nghiệp . Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ đã ra nhiều nghị quyết chuyên đề về tăng cường công tác phát triển đảng viên ở nhiều loại hình tổ chức cơ sở đảng để tập trung chỉ đạo. Do đó,
- nhận thức của cán bộ, đảng viên và người lao động nói chung, trong doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng đã được nâng lên một bước; một số doanh nghiệp ngoài nhà nước đã kết nạp được đảng viên và thành lập được tổ chức cơ sở đảng, chi bộ; hoạt động của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước từng bước được khẳng định tốt, góp phần quan trọng giúp hội đồng quản trị, giám đốc doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạch những kết quả đã đạt được, công tác phát triển đảng viên ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ thời gian qua vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, hạn chế cần phải khắc phục; số lượng các doanh nghiệp ngoài nhà n ước phát triển được đảng viên và thành lập được tổ chức đảng nhìn chung chưa tương xứng với tốc độ phát triển của doanh nghiệp; chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà n ước ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là vấn đề rất cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Doanh nghiệp ngoài nhà nước nói chung, công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước, các cấp uỷ, cơ quan làm công tác tổ chức, các nhà nghiên cứu, các doanh nhân... thường xuyên quan tâm, chú trọng bởi đây là loại hình doanh nghiệp được ra đời trong quá trình đổi mới đất nước theo chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng, thời gian hoạt động thực tế chưa nhiều và cũng bởi tính nhạy cảm của chính vấn đề này trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, cũng như yêu cầu đòi hỏi cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế ngoài tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp ngoài nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước cần phải tập trung đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố và phát triển các tổ chức đảng, trong đó vấn đề ưu tiên hàng đầu là phải tăng cường phát triển đảng viên ở tất cả các loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước, để từ đó đưa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động đúng hướng, hiệu quả.
- Những năm gần đây, trên các phương tiên thông tin đại chúng đã có khá nhiều bài viết xung quanh vấn đề này. Nhiều văn bản chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh uỷ và ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ; các đề tài khoa học cấp nhà nước, đề tài khoa học cấp tỉnh nghiên cứu, viết về đề tài này như: - Chỉ thị 07- CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ”; - Quy định 15- QĐ/TW ngày 26/11/1996 của Bộ Chính trị về “ Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ”; - Quy định 16- QĐ/TW của Bộ Chính trị về “ Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ trong các doanh nghiệp tư nhân ”; - Quy định số 99- QĐ/TW ngày 4/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “ Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các doanh nghiệp có vốn Nhà nước liên doanh với nước ngoài”; - Quy định số 100- QĐ/TW ngày 4/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “ Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân”; - Quy định số 140- QĐ/TW ngày 16/5/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “ Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước ”; - Quy định số 141- QĐ/TW ngày 16/5/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “ Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ”; - Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28/8/2008 của bộ chính trị về đảng viên làm kinh tế tư nhân. Một số nhà xuất bản đã cho ra những cuốn sách đề cập về các doanh nghiệp ngoài nhà nước như: - Tổ chức đảng ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh và phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay của tác giả Trần Trung Quang (Nxb Lao động, Hà Nội, 1999);
- - Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Công ty cổ phần của tác giả Phùng Văn Chỉ ( Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2000 ). Tại tỉnh Phú Thọ, đã có một số văn bản chỉ đạo của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh; các đề tài khoa học cấp tỉnh của một số tác giả đã nghiên cứu về công tác cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở đảng, củng cố các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, kết nạp đảng viên như: - Kết luận số 195-KL/TU, ngày 11/12/2001 về "Tăng cường công tác lành đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước". - Nghị quyết số 22-NQ/TU ngày 1/11/2007, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở tỉnh Phú Thọ trong tình hình mới”. - Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 21/08/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “Về tiếp tục tăng cường công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2006-2010”. - Nghị quyết số 24 -NQ/TU, ngày 20/10/2008, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh " Về tiếp tục củng cố, phát triển tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đến năm 2015". - Quyết định số 3239/2004/QĐ- UB ngày 22/10/2004 của ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ quy định về phối hợp và trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc quản lý hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh. - Đề tài khoa học "Thực trạng và những giải pháp củng cố, phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở tỉnh Phú Thọ" của tác giả Nguyễn Thị Va (1997). - Đề tài khoa học "Một số giải pháp cơ bản tạo nguồn kết nạp đảng viên ở vùng núi khu vực III tỉnh Phú Thọ" của tác giả Nguyễn Hữu Trí (2004). - Đề tài khoa học "Thực trạng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay" của tác giả Phạm Ngọc Quỳnh (2006). Nhìn chung, các bài viết, các cuốn sách, các công trình khoa học nêu trên, nhất là các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy Phú Thọ đã đề cập đến nhiều khía cạch
- về công tác xây dựng Đảng nói chung, trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng với những nội dung rất phong phú. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống về công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, một loại hình doanh nghiệp rất mới mẻ, có nhiều tiềm năng và đang có xu hướng phát triển ngày càng mạnh trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài, luận văn đi sâu phân tích nhằm đánh giá thực trạng công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ, qua đó đề xuất các giải pháp có tính khả thi để thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà n ước ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ đặc điểm, vị trí, vai trò của các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ hiện nay. - Đưa ra quan niệm về công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ. - Khảo sát, phân tích thực trạng công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ từ n ăm 2005 đến nay. Chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm hạn chế, phân tích nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm. - Đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn chỉ nghiên cứu về công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian từ năm 2005 đến nay. Đề xuất các giải pháp định hướng đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- 5.1. Cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, những quan điểm, nguyên tắc của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác phát triển đảng viên là cơ sở lý luận và phương pháp luận để thực hiện đề tài luận văn 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, tổng kết thực tiễn... 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Bước đầu đưa ra quan niệm về công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ. - Chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Phú Thọ. - Đánh giá đúng thực trạng công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian từ năm 2005 đến nay. - Đưa ra những dự báo về những nhân tố tác động ảnh hưởng và những giải pháp chủ yếu góp phần thực hiện có hiệu quả công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới đất nước giai đoạn hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần vào việc tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển một số vấn đề lý luận về công tác phát triển đảng viên nói chung và công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh Phú Thọ và các huyện, thành, thị uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ Phú Thọ trong công tác chỉ đạo thực tiễn nhằm tăng cường công tác phát triển đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên hoặc có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo giúp cho việc giảng dạy và học tập bộ môn xây dựng Đảng ở trường chính trị tỉnh, các lớp trung cấp lý luận chính trị... 8. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương 7 tiết.
- Chương 1 công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh phú thọ hiện nay -những vấn đề lý luận và thực tiễn 1.1. khái quát về các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh phú thọ 1.1.1. Doanh nghiệp ngoài nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn 1.1.1.1. Quan niệm của C.Mác, Ăngghen, Lênin về doanh nghiệp ngoài nhà nước Khái ni ệm doanh nghiệp ngoài nhà nước ch ưa được C. Mác, Ăngghen đề cập một cách rõ ràng, cụ thể d ưới dạng t ường minh trong các tác phẩm kinh điển. Tuy nhiên, C. Mác, Ăngghen đ ã có nhi ều tác phẩm phân tích sâu sắc về hình th ức "đa chủ sở hữu" trong doanh nghiệp, tức là dạng doanh nghiệp cổ phần - một trong những loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị tr ường hiện nay, trong đó có các doanh nghiệp ngoài nhà n ước. Theo C. Mác, Ăngghen doanh nghiệp đa chủ sở hữu bao gồm nhiều loại, có loại cổ đông là tư nhân, những nhà tư bản, nhưng đều thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Trong một số tác phẩm của mình, Ph. Ăng ghen đã gọi các doanh nghiệp đa sở hữu đó là" công ty cổ phần của nhà tư bản tập thể" hoặc "công ty cổ phần trực tiếp mang hình thức tư bản xã hội, đối lập với tư bản tư nhân" [47, tr.667]. Khi nghiên cứu về chế độ sở hữu, phương thức sản xuất của chế độ tư bản, Ăngghen đã khẳng định: ngay trong chế độ tư bản cũng đang có sự chuyển đổi về hình thức sở hữu, phương thức sản xuất; Ăngghen cho rằng các "xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa cũng như những nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể" [33, tr.673]. Như vậy, các doanh nghiệp đa hình thức sở hữu nêu trên thực chất được coi là thành phần kinh tế nào? doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân? doanh nghiệp nào thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nào là doanh nghiệp ngoài nhà nước? Hợp tác xã có phải là một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ (là người lao động), cổ đông là các xã viên hợp tác xã thì có phải thuộc loại hình kinh
- tế tập thể hay không? Đó là những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Trong chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I Lênin khởi xướng và soạn thảo đã được Đại hội X Đảng Cộng sản (b) Nga biểu quyết thông qua ngày 08/3/1921. Đây là một quyết định vô cùng sáng suốt của V.I Lênin và những người Cộng sản Nga vì NEP đã đề cập một cách tổng thể những giải pháp về cải cách kinh tế, chính trị, xã hội nhằm nhanh chóng phục hồi đất nước sau chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế mới có nhiều nội dung, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng biểu hiện tập trung nhất trên năm vấn đề cơ bản sau: Một là, thực hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán lúa mì, coi thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa thành thị với nông thôn và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân. Hai là, áp dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đó là mắt xích trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là, Sử dụng các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Bốn là, thực hiện điện khí hóa nước Nga, coi đó như một trong những điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năm là, củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế, thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước chuyên chính vô sản đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, xã hội; trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về chính trị. V.I Lênin phân tích sâu s ắc năm thành phần kinh tế đ ang tồn tại ở n ước Nga khi đó: Kinh t ế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa t ư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà n ước; chủ nghĩa xã hội. Trong đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước với tư cách là một thành phần kinh tế đ ược V.I Lênin luận giải rất cặn kẽ, đồng thời khẳng định có thể sử dụng chủ nghĩa t ư b ản nhà n ước vào mục đích xây
- dựng đất n ước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, không được tự hạn chế ở chỗ đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu t ượng với chủ nghĩa xã hội. Lê- nin kêu gọi "phát triển sự trao đổi bằng đủ mọi phương tiện và làm cho bằng được, không sợ chủ nghĩa t ư b ản, vì cái phạm vi đã quy đ ịnh cho nó ở trong n ước ta (về mặt kinh tế, thì do t ước quyền sở hữu của đ ịa chủ và tư sản; về mặt chính trị, do có chính quy ền công nông) cũng đủ nh ỏ hẹp, đ ủ "vừa phải''[47, tr.278-279]. Chủ tr ương của Lênin là đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị tr ường, có sự quản lý của Nhà n ước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Mở rộng việc " để cho nông dân đ ược tự do trao đổi, cả việc phát tri ển tiểu công nghiệp, để cho chủ nghĩa t ư bản - là chủ nghĩa lớn lên trên cơ sở tiểu tư hữu và tiểu thương n ghi ệp - đ ược đôi chút tự do; chúng ta không sợ nó, vì đối với chúng ta, chủ nghĩa t ư bản đó hoàn toàn không đáng sợ gì cả"[47, tr.375]. 1.1.1.2. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí minh về doanh nghiệp ngoài nhà nước Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và có sức lan toả ra thế giới. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thực dân Pháp liền quay trở lại nhằm nô dịch nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong điều kiện mới. Nhanh chóng triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới theo hướng nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, cùng bình đẳng với nhau. Tư tưởng về phát triển kinh tế nhiều thành phần của Người được thể hiện rất sớm, ngay trong bài viết "Toàn dân kháng chiến" năm 1946, Người kêu gọi các nhà giàu có mau mau góp vốn lại để mở các công ty kinh doanh công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, giao thông, tích cực tăng gia sản xuất, lưu thông buôn bán và chính phủ mới sẽ bảo đảm không tịch thu một cách vô điều kiện các cơ sở kinh tế tư nhân. Trong sách "Thường thức chính trị" gồm 50 bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh Đ.X đăng trên nhiều số báo Cứu quốc năm 1953, Người đã chỉ ra ở nước ta
- thời điểm đó đang tồn tại sáu thành phần kinh tế: kinh tế địa chủ phong kiến; kinh tế quốc doanh; kinh tế hợp tác xã; kinh tế cá thể; kinh tế tư bản của tư nhân và kinh tế tư bản quốc gia. Đồng thời, phân tích rõ những mặt tích cực, mặt hạn chế của từng thành phần kinh tế đối với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; chỉ ra những thành phần kinh tế cần phải nhanh chóng loại bỏ vì không còn phù hợp với chế độ xã hội mới, những thành phần kinh tế cho phép tồn tại và phát triển nhưng phải được Nhà nước quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần xây dựng kinh tế"còn" kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh, và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội" [36, tr.221]. Người đánh giá cao những đóng góp của kinh tế tư nhân và chỉ ra chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải ủng hộ, khuyến khích sự phát triển đối với thành phần kinh tế này " Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân" [36, tr.222]. Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước còn tạm thời bị chia cắt, miền Nam còn nằm dưới sự thống trị của chính quyền tay sai của Mỹ. Đất nước chuyển sang một thời kỳ mới đã mở ra những điều kiện thuận lợi cho miền Bắc đi vào khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1955-1957), đồng thời chuẩn bị tốt mọi điều kiện thuận lợi để bước vào kế hoạch triển kinh tế - xã hội ba năm đầu tiên (1958-1960). Trong quá trình thực hiện kế hoạch, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng vấn đề cải tạo các thành phần kinh tế theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối với thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và những người lao động riêng lẻ khác, Người chủ trương bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, ngày 18/12/1959, trong "Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi" do Người trình bày đã xác định rõ, hiện nay trong nước ta có bốn hình thức sở hữu chính về t ư liệu sản xuất, đó là: Sở hữu của Nhà nước tức là của
- toàn dân; Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Sở hữu của người lao động riêng lẻ; Sở hữu của nhà t ư bản. Với các thành phần kinh tế công thương nghiệp tư bản tư doanh và đối với tư sản dân tộc, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa khẳng định chủ trương nhất quán về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở n ước ta, trong đó có các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đối với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước thì dùng phương pháp hoà bình cải tạo mà không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công t ư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. Cụ thể là: Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện" [38, tr.598]. Đối với những nhà tư sản công thương "Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công t ư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác"[38, tr.598]. 1.1.1.3. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về doanh nghiệp ngoài nhà nước Việt Nam trong lịch sử là một quốc gia với sản xuất nông nghiệp lúa n ước là chính. Cuối thế kỷ thứ XIX, kinh tế tư nhân mới được bắt đầu hình thành và phát triển nhưng chủ yếu còn rất sơ khai, ngành nghề còn khá đơn điệu, chủ yếu là tiểu - thủ công nghiệp và được phân bố tập trung thành các làng nghề và ở một số đô thị lớn. Đến đầu thế kỷ thứ XX, kinh tế tư nhân được quan tâm phát triển với quy mô lớn hơn, ngành nghề cũng đa dạng hơn trên một số lĩnh vực chính như: thương mại, công nghiệp, giao thông… Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, Đảng ta chủ trương tập trung vào khôi phục hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, tiến hành cải cách ruộng đất, xây dựng cơ sở vật chất cho miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam đánh Mỹ.
- Thời kỳ này, hầu như chưa có kinh tế quóc doanh, kinh tế tập thể chưa phát triển, nền kinh tế - xã hội ở nước ta giai đoạn này chủ yếu là kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ. Do đó, tháng 5-1955, Đảng và Chính phủ đã ban hành tám chính sách nhằm khuyến khích đẩy mạnh phát triển sản xuất, cụ thể là: Bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất; bảo hộ tài sản của nông dân và các tầng lớp khác; khuyến khích khai hoang, phục hóa bằng miễn giảm thuế ba năm cho ruộng khai hoang. Không phải đóng thuế phần tăng vụ, tăng năng xuất; tự do thuê mướn nhân công, thuê mướn trâu bò, vay và cho vay; khuyến khích phát triển tổ đổi công; khuyến khích phát triển những ngành nghề phụ và nghề thủ công trong nông dân và nông thôn; bảo hộ và khuyến khích, khen thưởng những hộ nông dân làm ăn giỏi; nghiêm cấm phá hoại sản xuất. Với những chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ, nhân dân rất phấn khởi tăng gia sản xuất, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, góp phần hoàn thành giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh, chuẩn bị mọi điều kiện cho miền Bắc bước vào kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, với nội dung chủ yếu là biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ gồm hai hình thức sở hữu: quốc doanh và tập thể. Xây dựng mô hình kinh tế tập trung cao độ nhằm huy động mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ước giải phóng dân tộc, đấu tranh thống nhất nước nhà. Sau ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất cùng bước vào thời kỳ phát triển kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, đồng thời tiếp tục duy trì mô hình kinh tế tập trung, bao cấp trong cả nước ở thời bình. Do đó, đã không huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế và tính tích cực, chủ động của mọi người dân hăng say lao động sản xuất, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy, đã diễn ra khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong cả nước, hàng triệu người không có việc làm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là làm sao mở đường tạo điều kiện cho phát triển để mọi người có việc làm, thu nhập, đồng thời động viên mọi người dân, mọi tổ chức huy động vồn vào sản xuất kinh doanh, kích thích phát triển sản xuất là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, Đảng ta đã ban hành một số chính sách mới nhằm tạo cho sản
- xuất phát triển; Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Khóa IV (tháng 9-1979) ra đời với chủ trương cho sản xuất bung ra, nhất là sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế (Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 20 tháng 9 năm 1979 về tình hình và nhiệm vụ cấp bách và Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20 tháng 9 năm 1979 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương). Các Nghị quyết trên có ý nghĩa đột phá trong tư duy, nhận thức mới của Đảng ta, là bước chuyển có ý nghĩa to lớn trong việc mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, huy động mọi nguồn lực đầu tư cho sản xuất kinh doanh, góp phần đưa nền kinh tế ở nước ta từng bước thoát khỏi cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, tạo điều kiện cho công cuộc cải cách kinh tế những năm sau này. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Khóa V đã tập trung phân tích, phê phán cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp không còn thích hợp, cần phải chuyển sang cơ chế mới cho phù hợp. Đồng thời, tiếp tục khẳng định công cuộc đổi mới là yêu cầu tất yếu và cấp thiết. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; hoạch định chiến lược, sách lược quan trọng trong cải cách kinh tế nhằm nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nước ta. Đại hội chỉ rõ, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau. Đó là những quan điểm đổi mới, dũng cảm của Đảng ta, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thầt. Những quan điểm có tính chiến lược, sáng tạo của Đảng là phương châm chỉ đạo hành động xuất phát từ quy luật khách quan và yêu cầu thực tiễn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ trương của Đảng là "coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ"[3, tr.56- 57]. Coi phát triển kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với quy luật khách quan; sử dụng đúng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, nhất là kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng ta chỉ rõ sử dụng có chọn lọc một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân. Việc cải tạo đối với thành phần kinh tế này được tiến hành theo phương châm " cải tạo để sử dụng, sử dụng để cải tạo tốt hơn. Đối với một số ngành, nghề nhất định trong
- khu vực sản xuất và dịch vụ, ở những nơi cần thiết, tư nhân được dùng vốn và kỹ thuật của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh và đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Quy mô của cơ sở sản xuất và phạm vi hoạt động được quy định tuỳ theo ngành nghề và mặt hàng được phép kinh doanh"[16, tr.241]. Năm 1987 là năm mở đầu việc thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã có ba hội nghị quan trọng để giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông nhằm thực hiện “4 giảm” (giảm lạm phát, giảm bội chi ngân sách, giảm tốc độ tăng giá, giảm khó khăn về đời sống) và tạo thuận lợi cho sản xuất phát triển. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương quyết định “chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế”. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương quyết định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước ba năm 1988-1990 và năm 1988, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, nhằm tập trung cho ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Ngày 15/7/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 16- NQ/TW về "Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh", và tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu, khóa VI (tháng 3 năm 1989) "Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng nhiệm vụ ba năm tới", Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới với chủ trương phát triển nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất khác nhau. Trong đó xác định, kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo, đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng lớn ở mọi ngành nghề; tư nhân được phép kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động và những ngành nghề mà luật pháp không cấm. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng tiếp tục một lần nữa khẳng định những quan điểm đổi mới do Đại hội VI vạch ra, đồng thời nhấn mạnh"Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức"[17, tr.101].
- Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội VII thông qua (tháng 6-1991) xác định rõ về quan điểm của Đảng ta đối với phát triển các thành phần kinh tế ngoài nhà nước "Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh" [17, tr.141]. Tại Đại hội VII đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trong đó chỉ rõ quyền tự do, tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền sản xuất xã hội. Mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật [17, tr.159]. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng như: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế gia đình. Trong đó " Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm. Nhà nước có thể liên doanh bằng nhiều hình thức với tư nhân trong và ngoài nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước"[17, tr.163-164]. Ngày 06 tháng 11 năm 1995, Ban Bí thư có Thông báo số 130-TB/TW, đánh giá về kinh tế tư nhân, khẳng định quan điểm của Đảng ta trong phát triển thành phần kinh tế tư nhân giai đoạn hiện nay Kinh tế tư bản tư nhân đang có đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất. Bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.
- Khuyến khích các chủ doanh nghiệp dành cổ phần ưu đãi để bán cho người lao động tại doanh nghiệp. Xây dựng quan hệ hợp tác giữa chủ và thợ trên cơ sở bảo đảm lợi ích hợp pháp của cả hai bên. Cần phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài[18, tr.603]. Đại hội VIII của Đảng (1996) xác định rõ một số chủ trương, chính sách lớn đối với các thành phần kinh tế, tiếp tục cụ thể hóa chủ trương nhất quán xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển, hợp tác, liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế ở cả trong và ngoài nước. Đại hội IX của Đảng (2001) đề ra việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Nhà nước bảo đảm " Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau..."[13, tr.98-99]. Đại hội khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân. Nhà nước cho phép doanh nghiệp tư nhân cũng được dùng giá trị quyền sử dụng đất đai để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài; thực hiện bình đẳng trong các quan hệ kinh tế, nhất là chính sách về tài chính, tín dụng giữa các thành phần kinh tế. Bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: “Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình”
89 p | 728 | 285
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư Và Phát triển Việt Nam
10 p | 394 | 149
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Công ty Tài chính Dầu khí
76 p | 270 | 76
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An
94 p | 203 | 68
-
Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng khi cho vay Doanh nghiệp Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực Đống Đa
92 p | 227 | 66
-
Luận văn Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
77 p | 152 | 41
-
Luận văn: "Nâng cao chất lượng giống cây trồng ở Công ty cổ phần giống cây trồng Thanh Hóa"
83 p | 233 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế tại Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Hà Nội
121 p | 44 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Sở giao dịch
121 p | 28 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng điều dưỡng viên tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung Ương
106 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng nhân lực tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Eikoh Việt Nam
110 p | 23 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Đầu tư Nước sạch Sông Đà
113 p | 31 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
116 p | 21 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức tại Tổng cục Quản lý thị trường
126 p | 25 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
142 p | 18 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hưng Yên
132 p | 22 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng giám định viên bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng
144 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố Nam Định
90 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn