ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
NG TH H A
TH GI I NHÂN V T TRONG S NG T C CỦA
NGU N TUÂN SAU C CH MẠNG TH NG T M
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà N i - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
NG TH H A
TH GI I NHÂN V T TRONG S NG T C CỦA
NGU N TUÂN SAU C CH MẠNG TH NG T M
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822903004
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức
Hà N i - 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài: .......................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 4
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu: ............................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................. 8
5. Cấu trúc của Luận văn: .................................................................................. 8
Chương . S CHU N I N CỦA C I T I VÀ QUAN NI M THẨM
M CỦA NGU N TUÂN SAU C CH MẠNG THÁNG TÁM .................... 9
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân ............................... 9
1.2. Sự chuy n i n của cái t i ........................................................................ 13
1.3. Sự chuy n i n về quan niệm th m m .................................................... 26
Chương . C C LOẠI H NH NHÂN V T TI U I U TRONG S NG
TÁC CỦA NGU N TUÂN SAU C CH MẠNG TH NG T M ............ 36
2.1. Nh n vật người ao động m i ................................................................. 38
2.2. Nh n vật người chi n s .......................................................................... 52
2.3. Nh n vật kẻ thù x m ược ....................................................................... 58
2.3.1. Tên chúa đất Đèo Vân Long ................................................................. 58
2.3.2. Những tên phi công Mỹ ......................................................................... 64
Chương . NGH THU T XÂ NHÂN V T TRONG S NG T C CỦA
NGU N TUÂN ........................................................................................... 70
3.1. Nghệ thuật miêu t .................................................................................. 70
3.2. Giọng điệu.............................................................................................. 75
3.3. Ngôn ngữ ................................................................................................. 82
K T LU N .................................................................................................... 91
TÀI LI U THAM KHẢO ............................................................................ 93
1
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Nguyễn Tu n à một tài năng n, một ng i sao sáng trên ầu trời văn
học d n tộc. Ông à một trong số ít nhà văn đạt được những thành tựu nổi ật
trong c hai giai đoạn trư c và sau cách mạng tháng Tám, được nhiều nhà
nghiên cứu, phê ình đánh giá cao. Ông được xem như “hòn đá tảng” trong
“cái nền còn mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta”. Trong suốt chặng đường
dài hơn năm mươi năm cầm út cùng v i tinh thần ao động nghệ thuật
nghiêm túc, ền ỉ và h t mình, Nguyễn Tu n đã khẳng định được một
phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên ác, kh ng th nhầm ẫn v i
ất kỳ một nhà văn nào khác được. V i y mươi y năm tuổi đời và hơn
năm mươi năm tuổi nghề, Nguyễn Tu n đã đ ại cho văn học hiện đại Việt
Nam nói riêng và nền văn học nư c nhà nói chung một sự nghiệp đồ sộ,
phong phú, đa dạng trên nhiều th oại như: truyện ngắn, ti u thuy t, phóng
sự, tùy út, kịch, phê ình văn học, … Ở mỗi th oại, mỗi tác ph m của ng,
chúng ta ại tìm thấy những điều ý thú, những dấu ấn đặc iệt riêng. Ông
còn à một tác gi tiêu i u được ựa chọn gi ng dạy trong chương trình phổ
th ng và đại học.
Trư c Cách mạng Nguyễn Tu n thường có những nh n vật đ àm nổi
ật cái "t i" cá nh n của mình, đ đối ập v i cái xã hội trọc, đ tách mình
ra khỏi đám chúng nh n tầm thường, tẻ nhạt và kh ng có n nh. Vào
những ngày cuối cùng của ch độ thuộc địa Pháp và Nhật, cũng như nhiều
nghệ s úc ấy giờ, Nguyễn Tu n rơi vào tình trạng khủng ho ng s u sắc về
quan đi m nghệ thuật. Chính Cách mạng Tháng Tám đã giúp Nguyễn Tu n
thoát khỏi những tắc trong cuộc sống và trong sáng tác nghệ thuật, đem
đ n cho ng một nguồn c m hứng sáng tạo m i. Nguyễn Tu n đã hồi sinh,
say mê trong niềm vui n của đất nư c. Nguyễn Tu n đ n v i cách mạng và
3
kháng chi n, hăng hái đi thực t , dùng ngòi út đ ca ngợi đất nư c và con
người Việt Nam trong chi n đấu và trong ao động s n xuất. N u như nh n
vật trung t m trong tác ph m trư c cách mạng à những ng Nghè, ng Cử,
ng Tú, những con người tài hoa ất đắc chí, thì giờ đ y, hình tượng chính
trong sáng tác của ng à nh n d n ao động và chi n s trên mặt trận vũ
trang, những con người ình thường mà v đại: Đường vui (1949), Tình chiến
dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (tập I – 1955, tập II –
1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),.. đánh dấu những
chặng đường m i của Nguyễn Tu n trên con đường nghệ thuật gắn ó v i
d n tộc, v i nh n d n và đất nư c.
Mặc dù đã có khá nhiều ài vi t và những nhận định khái quát th
gi i nh n vật trong sáng tác của Nguyễn Tu n sau Cách mạng tháng Tám
1945. Tuy nhiên đó chỉ à những ài vi t đơn ẻ, chưa thành hệ thống và
chưa thực sự chuyên s u nghiên cứu về đề tài. Riêng đối v i n th n từ khi
còn học trong trường phổ th ng, t i đã rất yêu thích các tác ph m của
Nguyễn Tu n. T i xin ph p góp chút năng ực nhỏ của mình vào việc đi
s u tìm hi u, nghiên cứu về th gi i nh n vật của Nguyễn Tu n sau Cách
mạng tháng Tám 1945 đ àm rõ hơn phong cách một c y đại thụ của văn
học hiện đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề:
Ngay từ khi m i xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Tu n đã à một c y
út hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của độc gi cũng như gi i nghiên cứu phê
ình. Cho đ n tận h m nay và có th mai sau nữa, tác ph m của Nguyễn
Tu n vẫn à niềm say mê khám phá, nguồn c m hứng v tận của các th hệ
yêu văn chương. Đã có rất nhiều c ng trình đi s u nghiên cứu về cuộc đời,
con người và tác ph m của Nguyễn Tu n trong những thời kỳ ịch sử khác
nhau, trong phạm vi uận văn này chúng t i s đi s u vào thời kỳ từ sau Cách
4
mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 945 đến năm 975:
Cách mạng tháng Tám thành c ng, Nguyễn Tu n hăng hái nhập cuộc
và tham gia kháng chi n, rất nhiều tác ph m được ra đời từ đ y như: Chùa
đàn, Đường vui, Tình chiến dịch, … Giai đoạn này cũng có hàng oạt những
ài vi t về Nguyễn Tu n khen có chê có, ài vi t đánh giá về tác ph m có,
ài vi t nhận x t về con người cũng có. Qua hồi ức của Nguyễn Vỹ, Nguyễn
Tu n hiện ên hóm hỉnh dễ m n v i ài vi t “Nguyễn Tuân gàn hay chú mày
gàn”. Còn đối v i Vũ Bằng, nhà văn gọi Nguyễn Tu n à “đứa con nuông
của Thiên thần và Ác quỷ”, trong con người Nguyễn cái tài và cái tật u n
đồng hành song song, con người đó cũng thật phức tạp v i nhiều mặt của đối
ập m u thuẫn.
Vi t về Nguyễn Tu n trong giai đoạn này cũng ph i k đ n Trương
Chính. Trương Chính quan t m nhiều đ n phong cách Nguyễn Tu n và ng
đã có khá nhiều ài vi t phê ình về các sáng tác của Nguyễn Tu n có th k
t i như: Tùy bút kháng chiến – tùy bút kháng chiến – hòa bình, đăng trên báo
Văn nghệ số 5 (7-5-1957); Đọc sông Đà của Nguyễn Tuân, đăng trên Tạp chí
Văn nghệ số 10- 1960, Nguyễn Tuân và Vang bóng một thời (1989), … Qua
các tác ph m của Nguyễn Tu n, Trương Chính thấy “hiện lên hình ảnh một
con người tài hoa, nhiều tình cảm, kinh lịch nhiều, sống kỹ lưỡng, sống rộng
rãi, không bao giờ chịu gò bó vào một khuôn khổ nào nhất định. Con người
ấy rất có ý thức về khả năng của mình và luôn khao khát sống được một cuộc
đời thật đầy đủ. Nhưng trong xã hội cũ, một người như thế không thể tìm
được một chỗ đặt chân. Thành ra, ông phải sống héo hắt, chật hẹp, rồi đâm
ra khinh bạc với đời. Mà đã khinh bạc thì không còn căm phẫn sâu sắc được
nữa. Khinh bạc là con đường đi đến thoát ly, thoát ly vào một thứ cá nhân
chủ nghĩa tột bực”.
5
Cách mạng tháng Tám thành c ng có ý ngh a n ao àm thay đổi con
người Nguyễn Tu n hư ng ngòi út của ng nhận đường, tin yêu và đi theo
cách mạng. Năm 1960, sau chuy n đi thực t T y Bắc, Nguyễn Tu n cho ra
đời tập tuỳ út Sông Đà. Tác ph m ra đời thu hút được nhiều sự chú ý quan
t m của nhiều nhà nghiên cứu, phê ình. Nguyên Ngọc trong ài Cảm tưởng
đọc Sông Đà đăng trên áo Văn học số 113 ngày 23-9-1960, đã khẳng định
giá trị đặc sắc của tuỳ út và coi đ y à ư c chuy n m i về đề tài. Nhà văn
coi Sông Đà là “một cuốn tiểu thuyết viết theo lối riêng… là tác phẩm về non
sông đất nước Tây Bắc. Khi nói cảm tưởng về Sông Đà, trước hết tôi muốn
chào mừng ở anh Nguyễn Tuân một cách đứng mới, một vị trí mới”.
Nguyễn Đăng Mạnh trong ài Con đường đi đến bút ký chống Mỹ,
đăng trên Tạp chí văn học số 8 – 1968 đã khẳng định: “Nhân tố tư tưởng cốt
yếu làm nên phần giá trị chân chính của tác phẩm Nguyễn Tuân từ sau Cách
mạng đến nay là tình yêu đất nước, tinh thần dân tộc”, và những y u tố tinh
thần ấy tuy đã i n đổi qua thời gian nhưng “vẫn giữ lại ít nhiều màu sắc
riêng của nó, có mầm mống từ trước Cách mạng”. Vì dù sao đi chăng
nữa, các sáng tác của Nguyễn Tu n trư c Cách mạng có thoát y vào con
đường nào thì ở mỗi con đường đó vẫn còn ánh sáng của một trái tim luôn
hư ng về quê hương đất nư c.
Từ 975 đến nay:
Số ượng những ài vi t nghiên cứu về Nguyễn Tu n thật phong phú
đa dạng kh ng chỉ có những ài vi t của các nhà văn, nhà nghiên cứu trong
nư c mà còn có c những ài vi t của các nhà văn, nhà nghiên cứu nư c
ngoài có th k đ n như: Vương Trí Nhàn với “Nguyễn Tuân, huyền thoại
một thời” (1994), “Nhà văn Nguyễn Tuân”, Hà Văn Đức v i “Nguyễn Tuân
– một bậc thầy về ngôn ngữ” (1991), “Nguyễn Tuân về cái đẹp” (1994),
“Nguyễn Tuân và quá trình nhận đường trong văn học của ông”…
6
Trên cơ sở k thừa và ti p thu c ng trình nghiên cứu của những người
đi trư c, t i s cố gắng tìm hi u chuyên s u hơn về th gi i nh n vật trong
sáng tác của Nguyễn Tu n sau Cách mạng tháng Tám. Luận văn hi vọng s
góp thêm những n t m i mẻ và àm phong phú hơn những đặc sắc trong sáng
tác sau Cách mạng của nhà văn.
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu:
3.1. Đối tượng:
Trong uận văn này, chúng t i nghiên cứu tập trung vào một số ki u
nh n vật được tác gi khắc họa trong các sáng tác tiêu i u sau Cách mạng
tháng Tám theo đó àm nổi ật những đặc sắc về nghệ thuật th hiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Cầm út từ những năm đ i mươi của cuộc đời và vẫn miệt mài ao
động nghệ thuật cho đ n những năm cuối đời, Nguyễn Tu n đã đ ại một di
s n văn học đồ sộ v i hàng trăm tác ph m n nhỏ trên nhiều th oại và cũng
phong phú về đề tài sáng tác. Chúng t i kh o sát các tác ph m sau Cách
mạng tháng Tám của Nguyễn Tu n nhưng trong khu n khổ của một uận văn
thạc s , chúng t i xin tập trung đi s u vào một số tác ph m chính đó à: Tùy
bút kháng chiến, Sông Đà , Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi… đ qua đó àm nổi ật
đặc sắc về nội dung và nghệ thuật th gi i nh n vật của nhà văn.
3.3. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung tìm hi u và khắc họa hình tượng nh n vật của
Nguyễn Tu n sau Cách mạng. Từ đó có cái nhìn ao quát và toàn diện hơn
về sáng tác của Nguyễn Tu n sau Cách mạng về cuộc đời và con người của
ng, góp phần khẳng định ại một phong cách độc đáo mang tên Nguyễn
Tuân.
7
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đ uận văn được thực hiện trọn vẹn, chúng t i sử dụng các phương
pháp sau:
Phương pháp ịch sử - xã hội.
Phương pháp hệ thống.
Phương pháp so sánh, đối chi u.
Phương pháp oại hình.
Phương pháp ph n tích, tổng hợp.
5. Cấu trúc của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, uận văn của chúng t i ao gồm có
3 chương cụ th v i các nội dung như sau:
Chương . S chuy n iến về cái t i và quan niệm thẩm m của
Nguy n Tu n sau Cách mạng Tháng Tám.
Chương . Các loại hình nh n vật tiêu i u trong sáng tác của
Nguy n Tu n sau Cách mạng tháng Tám.
Chương . Nghệ thuật y d ng nh n vật trong sáng tác của
Nguy n Tu n sau Cách mạng tháng Tám.
8
NỘI UNG
Chương 1. S CHU N I N CỦA C I T I VÀ QUAN NI M THẨM
M CỦA NGU N TUÂN SAU C CH MẠNG THÁNG TÁM
1.1. Cu c đời và s nghiệp văn chương của Nguy n Tuân
Nguyễn Tu n sinh ngày 10 tháng 7 năm 1919, tại phố Hàng Bạc, Hà
Nội. Quê ng ở àng Mọc, tức Nh n Mục, nay thuộc huyện Từ Liêm, ngoại
thành Hà Nội. Th n sinh ng à cụ Nguyễn An Lan, đỗ tú tài khoa thi Hán học
cuối cùng, thường gọi à cụ Tú H i Văn, một nhà nho oại tài hoa, suốt đời m
mối ất đắc chí trong c nh đi àm một viên chức nhỏ ở tòa sứ các tỉnh dư i
thời Pháp thuộc. Cụ Tú H i Văn đã có nhiều nh hưởng đ n tư tưởng và
phong cách Nguyễn Tu n.
Là người Hà Nội nhưng Nguyễn Tu n từ thuở nhỏ đã sống nhiều năm ở
các tỉnh miền Trung, nơi cha mình àm việc như Khánh Hòa, Phú Yên, Hội
An, Đà Nẵng, Hu , Hà T nh và u nhất à ở Thanh Hóa. Ông n ên trong
m i trường gia đình nhà nho, viên chức nghèo, v i những nề n p sinh hoạt và
phong cách văn hóa cổ truyền đã ắt đầu tàn và i n đổi trư c sự x m nhập
văn hóa văn minh phương T y thời thuộc Pháp. Ông đi học ở các trường của
nhà nư c thuộc địa, ng học đ n ậc trung học ở thành phố Nam Định. Năm
1929, ng tham gia một cuộc ãi khóa ph n đối mấy giáo viên người Pháp nói
xấu người Việt Nam và ị đuổi học. Sau đó, ng trốn sang Thái Lan nhưng rồi
ị ắt ở Băng Cốc và gi i về giam tại nhà ao Thanh Hóa năm 1930.
Ở tù ra, Nguyễn Tu n ư c vào nghề àm áo và vi t văn. Ông vừa
soạn những n tin ngắn cho tờ Trung Bắc t n văn, vừa gửi đăng một số ài
thơ, truyện ngắn, út kí trên các áo Đ ng T y, An Nam tạp chí, Ti u thuy t
thứ y v i các út danh như Ngột L i Quật, Thanh Hà, Tuân, Nguyễn Tu n,
An Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc,.. Ông ắt đầu sống v i ngòi út từ năm 1937,
9
được ạn đọc chú ý ởi tập Một chuyến đi đăng áo năm 1938. Ông ắt đầu
nổi ti ng v i tập truyện ngắn Vang bóng một thời đăng áo năm 1939, xuất
n thành sách năm 1940. Tập truyện ngắn này v i nội dung và phong cách
độc đáo, v i giọng văn tài hoa đặt Nguyễn Tu n vào một vị trí nổi ật trên
văn đàn c ng khai ấy giờ, có phong cách riêng kh ng ẫn ộn v i nhà văn
nào khác. Hoạt động nghệ thuật của Nguyễn Tu n có nhiều mặt. Ngoài vi t
văn, ng còn say mê v i hoạt động nghệ thuật điện nh s n khấu. Ông à một
trong những diễn viên điện nh đầu tiên của nư c ta. Năm 1938, ng đã theo
ạn sang Hồng K ng đóng phim Cánh đồng ma và nh n chuy n đi này ng đã
vi t tập du ký Một chuyến đi. Ông cũng đã đóng nhiều vai chính trong nhiều
vở kịch diễn ở Hà Nội và vài thành phố khác những năm 1942 – 1943, trong
đó có vai chính của vở kịch Kim Tiền nổi ti ng của Vi Huyền Đắc.
Chi n tranh th gi i ần thứ hai ùng nổ năm 1939, thực d n Pháp và
triều đình Hu tăng cường chính sách óc ột và đàn áp khủng ố hơn trư c.
Các chi n s cách mạng, những người d n yêu nư c ị ắt tù đày, ch m
gi t khắp nơi. Nhà văn Nguyễn Tu n ị thực d n Pháp x p vào oại “Thành
tích ất h o”, ị ắt ại ần thứ hai ở Hà Nội năm 1941 và đưa đi tập trung tại
Vụ B n, Ninh Bình hơn một năm trời.
Ở trại tập trung về, Nguyễn Tu n ti p tục hoạt động văn học, ng cho
xuất n các tập Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Thiếu quê hương (1943), Tùy
bút I, Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943), tập truyện Nguyễn (1945).
Những tác ph m thời gian này ộc ộ rõ rệt những căn ệnh tư tưởng và nghệ
thuật cố hữu của Nguyễn Tu n như ệnh duy mỹ, chủ ngh a vị nghệ thuật,
chủ ngh a xê dịch, thái độ sống phóng túng, trụy ạc, chủ ngh a cá nh n cực
đoan, v trách nhiệm. Chính Nguyễn Tu n trong bài Vô đề 1945 (sau này đổi
là Lột xác) cũng đã nói đ n ý định tự tử trong những ngày đầu xu n 1945 úc
thành phố Hà Nội đầy óng người ăn xin và ch t đói, úc c miền Bắc đang có
10
hai triệu người ch t đói do tội ác của ọn Pháp, Nhật g y ra. Nhưng may thay,
phong trào Việt Minh an rộng và Cách mạng tháng Tám đã ùng nổ kịp thời
cứu v t toàn d n tộc và các văn nghệ s đang tắc, trong đó có Nguyễn
Tuân. Nguyễn Tu n đã từ ỏ ý định tự tự mà say sưa nhìn ngắm cuộc sống
m i đang đ n v i toàn d n tộc, ng tìm thấy một nh n sinh quan m i mẻ, ng
quy t chí tự ột xác đ đi vào cuộc sống m i trong cách mạng.
Năm 1946, ng nhận ời mời của nhà thơ Tố Hữu tham gia vào đoàn
sáng tác văn nghệ đi vào mặt trận Nam Trung Bộ đang chi n đấu chống Thực
d n Pháp trở ại x m ược nư c ta. Đấy à chuy n đi đầu tiên của ng trong
một cuộc đời m i, cuộc đời cách mạng, àm quen v i những năm tháng gian
khổ nhưng hào hùng của qu n và d n Nam Trung Bộ đánh giặc. Kháng chi n
toàn quốc ùng nổ, Nguyễn Tu n tham gia đoàn văn hóa kháng chi n àm
kịch ở thị xã Vinh, thị xã Thanh Hóa đ tuyên truyền kháng chi n. Năm 1948,
ng ên đường ra Việt Bắc dự đại hội văn hóa và hội nghị văn nghệ Việt Nam.
Hội nghị đã ầu ng àm Tổng thư ký Hội văn nghệ Việt Nam. Từ đấy, ng
đã cùng nhiều văn nghệ s khác ăn ộn trên các nẻo đường kháng chi n, sống
cùng các đơn vị ộ đội, các đoàn d n c ng, tham dự các chi n dịch ịch sử,
chia sẻ mọi nỗi vui uồn của d n tộc trong cuộc kháng chi n thần thánh.
Năm 1950, Nguyễn Tu n gia nhập Đ ng cộng s n Đ ng Dương tại chi
ộ Hội văn nghệ Việt Nam. Năm 1952, ng vào c ng tác tại vùng địch hậu
Bắc Ninh. Năm 1953, ng tham gia hai đợt phát động quần chúng gi m t .
Trong mọi chuy n đi, mọi chuy n c ng tác, ng vẫn kh ng ngừng sáng tác
phục vụ kháng chi n. Những tập tùy út Đường vui (1949), Tình chiến dịch
(1950) đánh dấu quá trình “ ột xác” của Nguyễn Tu n về mặt tư tưởng nghệ
thuật trong những năm kháng chi n chống Pháp.
Sau ngày hòa ình ập ại 1954, đất nư c tạm thời ị chia cắt hai miền,
Nguyễn Tu n rất nhạy c m v i vấn đề đấu tranh thống nhất nư c nhà. Ông đã
11
sát cánh v i nh n d n V nh Linh ngay từ những ngày m i ắt đầu cắm mốc
gi i tuy n ở v tuy n 17, cho đ n hàng chục năm ti p theo, ng vẫn ti p tục đi
về vùng gi i tuy n này, sát cánh v i nh n d n V nh Linh trong các hầm, địa
đạo đ đánh tr máy ay Mỹ phá hoại miền Bắc và đ chi viện cho đồng chí,
đồng ào miền Nam đánh Mỹ ên kia gi i tuy n. Những ài vi t của ng về
khu V nh Linh sau đã in thành tập Sông Tuyến nói ên tấm òng của Nguyễn
Tuân day dứt yêu thương miền Nam không nguôi.
Vừa ám sát khu tuy n V nh Linh ở phía Nam, nhà văn Nguyễn Tu n
còn ám sát một vùng đất khác của Tổ quốc ta ở phía Bắc, đó à vùng núi
rừng T y Bắc. Ông đã đi khắp các tỉnh iên gi i phía Bắc, xu i ngược trên
s ng Đà và dọc hai ờ s ng, ặn ội hàng tháng trời giữa núi rừng s ng suối
hi m trở v i những người chi n s mở đường, v i những người thăm dò địa
chất, v i những chi n s iên phòng. Tập tùy út Sông Đà ra đời năm 1960 à
k t qu của những chuy n đi T y Bắc của Nguyễn Tu n, được đánh giá à tập
tùy út rất thành c ng, chứng tỏ độ chín về tư tưởng và nghệ thuật của
Nguyễn Tu n theo út pháp hiện thực xã hội chủ ngh a.
Từ 1964 trở đi, đ quốc Mỹ trực ti p đánh phá miền Bắc ằng kh ng
qu n, ngòi út của Nguyễn Tu n ại ch a thẳng vào kẻ địch à ọn giặc ái Mỹ.
Thời gian giặc Mỹ n m om B52 mười hai ngày đêm ở Hà Nội. Nguyễn Tu n
vẫn kh ng rời trận địa Hà Nội. Những ài này được tập hợp ại trong tùy út
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), được ạn đọc yêu thích vì tính chi n đấu, sắc
s o của ngòi út Nguyễn Tu n.
Từ ngày đất nư c thống nhất, tuy đã cao tuổi ng vẫn hăng say đi
những chuy n đi suốt từ Bắc vào Nam và ng vẫn ti p tục sáng tác đ ca ngợi
những đổi thay của đất nư c khắp hai miền đi ên chủ ngh a xã hội.
Sau hơn 50 năm trời hoạt động nghệ thuật nghiêm túc, đi và vi t kh ng
mệt mỏi, nhà văn Nguyễn Tu n đã mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 sau một
12
cơn đau tim đột ngột tại ệnh viện ở Hà Nội, thọ 77 tuổi. Ông đã đ ại cho
nền văn học Việt Nam hiện đại một di s n h t sức quý hóa v i hơn hai chục
tác ph m văn xu i v i một út pháp tài hoa và phong cách nghệ thuật độc đáo
“phong cách Nguyễn Tu n” kh ng th ẫn v i ất kỳ nhà văn nào khác.
1.2. S chuy n iến của cái t i
Đầu tiên, chúng ta cần ph i thấy rằng Nguyễn Tu n à một nhà văn
thuộc trào ưu ãng mạn. Chủ ngh a ãng mạn phát tri n ở Pháp, từ những năm
30 – 40 của th kỷ XIX. Sau đó, cơn gió ấy thổi vào xã hội Việt Nam ở uổi
giao thời những năm đầu th kỷ trư c (XX). Chủ ngh a ãng mạn đã hình
thành vào kho ng năm 1932 v i Tự ực văn đoàn và phong trào Thơ m i.
Nguyễn Tu n à nhà văn xu i ãng mạn tiêu i u của thời kì 1940 – 1945.
Như chúng ta đã i t, n chất của trào ưu ãng mạn à cất ên ti ng
nói của cái t i cá nh n giàu c m xúc; ức ối ngột ngạt, ất hòa v i thực tại
và muốn thoát y khỏi thực tại đó ằng mộng tưởng hoặc chìm đắm, đi s u
vào th gi i nội t m cá nh n. Nguyễn Tu n à nhà văn t n thờ chủ ngh a ãng
mạn, cho nên sáng tác của ng – dẫu à ở th oại tùy út – trư c h t vẫn là
nơi đ ộc ộ cái t i tự do, phóng túng, muốn được khẳng định n ngã.
Nhưng dường như ng còn đi xa hơn, vượt xa hơn cái “quỹ đạo” chung ấy đ
cho cái “t i” của mình trở nên ất trị, “phóng đại và nổi oạn”. N u ai đã từng
đọc kỹ, đọc s u những tác ph m của Nguyễn Tu n, hẳn chưa quên được ời
tuyên ố của nhà văn này: “…Không giống ai và không cho ai bắt chước
được mình, chết là mang cả cái bản chính đi chứ không phải để lại một bản
sao nguyên cảo nào” (Quê hương). Chính vì th cho nên, đối v i những
người ình thường ở xung quanh, “Nguyễn là một cái bướu nhọn, nếu chưa
hẳn là một cái đinh, một cái gai chướng mắt” (Nguyễn).
13
Bởi tính chất kiêu kỳ, tự phụ này mà trư c cách mạng, khi đề cập đ n
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tu n, người ta hay nói đ n chữ ng ng.
Ng ng chính à cái khinh đời, ngạo đời, muốn tỏ ra ập dị, khác người… dựa
trên tài hoa, sự uyên ác và nh n cách hơn đời của mình. Nguyễn Tu n thực
sự đã chơi ng ng một cách cực đoan. Mọi sở thích, quan niệm đều được đ y
ên đ n tận cùng đầu mút ên kia của nó; từ trong sinh hoạt đời thường – đ n
sự th hiện trong sáng tác. Phong cách chơi ng ng một cách cực đoan ấy, độc
gi hoàn toàn có th tìm thấy trong ch n dung của nh n vật Nguyễn. Cực
đoan ở đ y được hi u à hoặc à ng về phương diện này, hoặc ng về phương
diện khác; chứ kh ng chấp nhận cái trung gian, cái “mờ mờ”, “nhạt nhạt”,
“xam xám” ở giữa. Cũng giống như thái độ của nh n vật Nguyễn “chốc buồn
đấy rồi lại vui đất, ngủ lúc đứng ăn lúc nằm, đi tản bộ trong cơn mưa rào; khi
không giữa tiệc thọ vui lại khóc rống lên vì thương nhớ một người bạn đã
khuất bóng tự bao giờ và toàn lôi ra những chuyện xe đòn, mù mẩn, áo trám
giữa một tiệc cưới mà thực khách toàn mặc áo gấm trầm” (Nguyễn).
Nguyễn Tu n là th ! Trong đời sống cũng như trong nghệ thuật, ng
u n u n sống khác người – n u kh ng muốn nói à khá “ương ngạnh” và có
phần trái khoáy. Kh ng còn nghi ngờ gì nữa, th oại tùy út v i đặc trưng
của nó đã cho ph p tác gi tha hồ ộc ộ cái t i, phóng to cái t i của mình như
vốn có và muốn có. Bởi vậy, trong hệ thống tùy út của Nguyễn Tu n trư c
Cách mạng tháng Tám, chúng ta thấy hiện ên hàng oạt các nh n vật: Bạch và
Sương (Thiếu quê hương), Hoàng, Nguyễn (Nhà Nguyễn), Vi Bạch, Th ng
Phu (Chiếc lư đồng mắt cua)… đều mang dấu ấn tác gi đậm n t. Dù họ khác
nhau trong cử chỉ, trong ngoại hình, ời nói, hành động… thì vẫn à sự hội tụ
ch n dung tự họa của một con người: vừa ập dị, vừa phá phách, vừa cực
đoan.
14
Bên cạnh một Nguyễn Tu n v i cái t i vừa phá phách, vừa ập dị, vừa
cực đoan; chúng ta thấy trư c cách mạng còn à một cái t i Nguyễn Tu n ưa
giang hồ, xê dịch. Cái sự đi của Nguyễn Tu n được đ y ên đ n mức mà
người ta gọi nó à chủ ngh a xê dịch – giang hồ. Thực ra, đ y à một chủ đề
phổ i n trong văn học ãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Vì đó là
một trong những cách đ thoát y khỏi hiện tại tù túng, tối tăm và phong .
Tuy nhiên, ở Nguyễn Tu n, nó đậm n t, tỏa sáng, được n ng ên thành hẳn
một tri t ý sống: “đòi cho được đi à một cứu cánh”; đi à “hình thức tốt đẹp
nhất của sự thoát y”; “đi đ thay đổi thực đơn cho giác quan”; “đi m i gợi
được ý ngh a của đời sống đích đáng”, “đi à hạnh phúc”…
V i tri t ý sống này, Nguyễn Tu n đã đ ại nhiều tùy út sắc s o, độc
đáo, đọc ên thấy ngay cái n ngã người vi t, ví như: Thèm đi, Lại đi nữa,
Cửa Đại, Chiếc va – ly, Những ngày ở Thanh Hóa, Một lần đi thăm nhau…
(được tập hợp trong Tùy bút I, Tùy bút II); Thiếu quê hương, Một chuyến đi…
Hãy ắt đầu những chuy n xê dịch của Nguyễn Tu n từ thiên tùy út
Chiếc va – ly mới. Ở đ y, ta thấy hiện ên ch n dung chàng Nguyễn v i khát
khao cháy ỏng à được ang thang, phiêu ạt, ngao du trên khắp các chốn quê
hương đất nư c mình. Ở tác ph m này, tác gi đứng ng i thứ nhất, xưng “t i”
đ ày tỏ những suy ngh , những t m tư, những xúc c m còn ắng s u, còn
u n khúc, còn n náu trong tận đáy òng mình. Qua đó, nh n vật t i có một
mong muốn duy nhất à “được đi đ vi t” – Vì “chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ
có trường đời v thường định m i dạy cho người ta i t được những c u đẹp
đ ”.
Ph i vậy chăng mà đối v i Nguyễn Tu n, chi c va – y kia ph i nhuốm
màu ụi ặm của chất ãng tử phong trần, của kẻ n a phơi mình nơi đường
trường nắng gió… thì đó m i à cái va – ly đẹp? Dễ hi u tại sao, Nguyễn
15
Tu n ày tỏ suy ngh của mình: “Cái va – y đẹp nhất ở đời này vẫn à cái va
– y chứa toàn n th o của những năm, tháng đi àm việc thui thủi ở phương
xa trở về”.
V i phương ch m, v i tri t ý sống như vậy, cho nên nh n vật
Nguyễn – cái “t i” tác gi trong Chiếc va – ly mới đã àm một cuộc hành trình
dài vươn tầm mắt t i những ch n trời m i ạ, những kho ng không gian mênh
m ng rộng n đ tìm những c m giác m i, những c m giác ất thình ình và
kh ng chờ đợi. Nguyễn Tuân cứ đi, đi mãi, đi hoài – đi “đ tìm nh n oại, đ
tìm mình trong nh n oại, đ thấy nh n oại trong mình”. Đó m i à mục đích
của kẻ giang hồ. Rồi cứ th , cái anh chàng Nguyễn được ý tưởng hóa ấy của
văn học ãng mạn, cứ đi mãi đ n những vùng trời thăm thẳm, những miền quê
hương gợi c m, đẹp đ , mênh mang đ nhấm nháp những c m giác m i ạ:
“Đó à một cái đẹp thoát y của một kẻ giang hồ ữ thứ đã trư c ạ cuộc đời
mình vào địa dư của Trái Đất”.
Bởi vậy nên, dấu ấn ấy, những ư c ch n ấy cứ hằn ên, in dấu v t đậm
n t trên các trang tùy út Nguyễn Tu n trư c Cách mạng… Tuy nhiên, ph i
đ n tác ph m Thiếu quê hương, chủ ngh a xê dịch của Nguyễn Tu n m i
được th hiện tập trung và nhất quán.
Nh n vật chính trong tùy út này à Bạch, một t m hồn phiêu ưu ộng
gió, một c m giác thèm muốn và khao khát đ n cháy ỏng đi được, chủ
trương đi kh ng cần mục đích. B n th n sự đi đã à cứu cánh: “người ta i t,
người ta chống gậy ên đường đ àm gì. Người ta đi đ vui vẻ àm việc mỗi
khi ph i ngừng ch n cắm ều trại, đốt ửa trên một kho ng đất nào”. Những
t m sự trên của Bạch thấy toát ên trong anh một c m giác “thèm đi” đ n tột
độ, coi đó như một “cái thú ở đời”. Càng đi, càng mở rộng t m hồn, càng thấy
thích thú và khoái ạc. đ i khi, vẫn à con người ấy – khung c nh ấy – rất đỗi
16
quen thuộc th i: “Nhưng c nh ấy, đời anh còn đi, anh còn được thấy nó hùng
v tráng ệ gấp ội”. Thật à v số những c m giác. Bởi theo Bạch: “Cuộc
sống đầy những ất thình ình nguy nga chưa phụ người ta ao giờ, n u người
ta i t tận tụy xê dịch và tìm sống của mình trong cái thú àm người giang
hồ”. V i Bạch, “hình nh một n nư c, một s n ga, một ti ng còi tàu, một
người ạn ra đi, thậm chí c mùi của khói than đá chợt tho ng đ n cũng đã
khơi ên nỗi nh , nỗi khát khao được đi của chàng” [13, 113]. Cho nên, trong
tùy bút của Nguyễn Tu n trư c Cách mạng, xuất hiện v i tần số cao những
hình nh: con đường, n tàu, s n ga,… Chúng cứ ặp đi ặp ại nhiều ần trên
trang văn của Nguyễn Tu n, trở thành những m tip mang tính i u tượng cao,
th hiện những khát vọng được đi và thèm đi trong n p c m, n p ngh của nhà
văn. Những hình nh cũng s được ặp ại ở tùy út của Nguyễn Tu n sau
Cách mạng, nhưng mang hơi thở m i, sức sống m i của thời đại m i.
Vậy nên nhìn nhận như th nào về cuộc đời và văn nghiệp của Nguyễn
Tu n trư c cách mạng qua hàng oạt những tác ph m của ng?
Thực chất, người đọc nhận ra trong óng cái “t i” Nguyễn Tu n có mang
đậm màu sắc của chủ ngh a ãng mạn đương thời. N u nhìn ại các thi nh n
thuộc phong trào Thơ m i, chúng ta s thấy rõ hơn điều này. Họ đều à con
người có mối ất hòa v i thực tại, ằng cách này hay cách khác đều cố gắng
thoát khỏi thực tại đó theo cách của riêng mình. Th Lữ nu i giấc mộng thoát
ên tiên; Huy Cận chìm vào quá khứ hoặc cõi v tận của trăng sao – vũ trụ;
Vũ Đình Liên ại hoài cổ v i “Mỗi năm hoa đào nở, ại thấy ng đồ già”; Ch
Lan Viên chìm đắm trong th gi i Chiêm Thành xưa hoang ph , đổ nát… V i
một dòng ch y, một suối nguồn c m hứng, một quỹ đạo chung như vậy – thì
Nguyễn Tu n – gương mặt sáng giá và tiêu i u của chủ ngh a ãng mạn sao
có th thoát ra khỏi những t m trạng u uất, tù túng đương thời? Chỉ có điều, ở
17
nhà văn này, nó được đ y ên đ n mức cực đoan của chủ ngh a duy mỹ, coi
trọng cái đẹp “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Bởi đó, trong suốt hành trình dài
trên con đường tìm ki m và th hiện con người cá nh n, Nguyễn Tu n u n
đặt “cái tôi” ấy trên h t th y mọi thứ ở đời. Đó à cái “t i” cực đoan, phá
phách, ng ng cuồng, cái “tôi” giang hồ ạc phách. Cái “tôi” của kẻ “tài tử mắc
ệnh mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp
những c m giác m i ạ” [14, 537].
Trong hoàn c nh xã hội ta những năm Đại chi n th gi i ần thứ II, “cái
t i” đã i u hiện một thái độ ất hòa v i hoàn c nh, một “cái t i” chống tr
ại xã hội “ối a a phèng” – dù đó à một thái độ ph n ứng mang màu sắc cực
đoan, v chính phủ.
Song tạm ỏ qua những ý do đó, mà nhìn xuyên thời gian, ở ên kia
của vấn đề - đ nhận ại những “di s n ị mất giá” – và đánh giá khách quan
hơn, c ng ằng hơn cho nhà văn tài hoa này – cánh hạc vàng “nhất khứ ất
phục ph n” của văn học Việt Nam hiện đại, thì chúng ta thấy rằng phía sau
những trang vi t của ng vẫn n chứa một t m sự yêu nư c thầm kín, một tinh
thần d n tộc thẳm s u. Tinh thần ấy, t m sự ấy được nhà văn gửi gắm qua
những trang vi t về c nh trí thiên nhiên trên khắp mọi miền quê hương – nơi
ng đặt ch n đ n. Và c thái độ c m th ng v i những ki p người ầm than cơ
cực nơi Cửa Đại. Đ y chính à nh n tố quan trọng dẫn đ n sự chuy n i n của
cái t i Nguyễn Tu n sau Cách mạng. Tất nhiên, quá trình chuy n i n ấy diễn
ra h t sức phức tạp và đầy đau khổ.
Cách mạng tháng Tám thành c ng đã mang ại nhiều sự thay đổi m i.
N u trư c kia, vào những năm tháng đầu tiên của th kỷ XX, chúng ta từng
đươc chứng ki n sự “thay da đổi thịt” của c một nền văn học d n tộc trư c
sự “c ng phá” dữ dội của uồng gió mạnh từ trời Âu thổi t i; thì giờ đ y,
18
trong gia đoạn này, chúng ta ại một ần nữa thấy được sự chuy n mình n
ao của văn học – khi ịch sử nư c nhà chuy n sang trang sử m i. Đó à cuộc
Cách mạng tháng Tám thành c ng và người Việt Nam từ th n phận n ệ sau
tám mươi năm ti n ên àm chủ đất nư c độc ập.
Cách mạng tháng Tám à một cột mốc quan trọng kh ng chỉ v i ịch sử -
xã hội đất nư c, mà nó còn in đậm dấu ấn v i nền văn học Việt Nam thời hiện
đại. Nhà văn Nguyễn Đình Thi từng ày tỏ niềm h n hoan và tự hào, xúc
động: “Cách mạng tháng Tám như một ưỡi cày khổng ồ đào x i m nh đất
Việt Nam đau thương đ gieo sự sống trở ại trên những uống đất đẫm máu
và nư c mắt”. Cũng chính ng từng thay mặt c th hệ nhà văn s khẳng định
tuổi tên trong kháng chi n trường kỳ, vi t nên một quy t t m thư ất hủ vào
cái thời khắc thật thiêng iêng và v cùng đáng nh : “vài giờ nữa, năm dân
chủ cộng hòa thứ tư rồi. Đêm nay yên tĩnh. Nhưng ngay bên kia sông Cái, các
anh bộ đội mặt vàng sốt rét, đang lội bùn quần nhau với chúng nó ở những
nơi thăm thẳm tên là Thu Cúc, Nghĩa Lộ, Đồn Vàng, Tú Lệ,…” (Nhận
đường).
Nguyễn Tu n, cũng như Nam Cao, Xu n Diệu, Kim L n và i t ao
nhà văn ưu tú, ch n chính khác nữa của chúng ta, ở “Cái uổi an đầu d n
quốc ấy” đã hăm hở nhập cuộc, dấn th n vào khói ửa a nghìn ngày mà
không hề mặc c , kh ng hề “c n đo”. Ấy th nhưng, nói cho chính xác thì quá
trình phục sinh – sống ại của họ giữa òng d n tộc, ít khi xu i gió thuận
uồm; thậm chí v cùng phức tạp. Bởi phần n các nhà văn tên tuổi, có tài
năng và cá tính của ta đều thành danh trư c Cách mạng tháng Tám - phong
cách, tư tưởng, quan đi m nghệ thuật, ý tưởng th m mỹ mà họ x y dựng đều
khá ổn định. Tuy cá nh n và d n tộc đã gặp nhau trên chi n trường, song quá
trình đ mỗi nhà văn à một con người m i, tiêu i u cho thời đại thì thật
19
chẳng dễ dàng. Xu n Diệu “nhanh tay” vi t hai thi ph m: Ngọn quốc kỳ, Hội
nghị non sông, nhưng nhìn nhận c ng ằng thì nó chưa xứng đáng v i tên tuổi
người cầm út. N u đ ý kỹ, nhận thức ại giai đoạn này, chúng ta s thấy khá
nhiều văn nh n thi sỹ “im hơi ặng ti ng” vì họ chưa th chuy n mình; số
khác vi t ra rất thường, rất nhạt. Cũng ph i th i, đời sống xã hội hay kh ng
gian nghệ thuật hiện tại kh ng th à àng quê yên có giậu mồng tơi; càng
kh ng có chỗ dành cho kho ng trời riêng của trăng – hồn – máu, rồi cõi tiên
mơ màng, rừng thu xào xạc, đêm ma Hời sờ soạng, con đường nho nhỏ ngất
ng y hương tình…
Kh ng ph i ngẫu nhiên c một th hệ các nhà văn, nhà thơ nổi danh thời
tiền chi n đang ph i vật ộn v i quá trình chi n thắng n th n, những mong
tìm ra con đường đi m i. Hình như, họ vẫn chờ mong, vẫn đợi gi y phút cách
mạng ùng nổ, nhưng sao nó đ n nhanh và ất ngờ quá – đ n độ họ chưa kịp
chuy n i n cùng thời đại m i. Quá trình chuy n i n từ cái “t i” đ n cái
“ta”; “từ ch n trời của một người đ n ch n trời của tất c ” nói chung đều diễn
ra h t sức khó khăn đối v i các nhà văn ãng mạn đi theo cách mạng. V i nhà
văn Nguyễn Tu n, quá trình sám hối, hồi sinh, ột xác, tuy thời gia có ngắn
hơn, nhưng hẳn là không kém phần quy t iệt. Chúng ta kh ng th đ m xu à
có ao nhiêu ần, Nguyễn đã tự đưa ra những kh u hiệu nhằm tiêu diệt cái con
người cá nh n khệnh khạng của mình đi; nhưng đó thực à một “cuộc cách
mạng kh ng triệt đ ” trong c tư tưởng, t m hồn ẫn ối vi t. Bởi , xưa nay
vẫn th , những thiên tài, tên tuổi tầm cỡ về văn chương ao giờ cũng mang
trong mình “một khối m u thuẫn n”. Tự n th n họ u n ăn khoăn, day
dứt – khó tìm được một ối ra, đường đi “kh ng mất mát”. Đương thời v i các
ng, T Hanh ph i mượn t i ti ng gà gáy nọ đ chính thức “giã iệt” ngày
hôm qua: Sang bờ tư tưởng ta lìa ta/ Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà.
20
Qu thực, đang à một nhà “duy m chủ ngh a”, sống chìm đắm v i th
gi i của những “ngày xưa vang óng” – nơi đó, có những ng Tú, cụ đồ và
i t ao thú chơi tao nhã, kì thú, kh ng trần tục…; hoặc tự mình cuốn theo
n năng: àm gì, đi đ u tùy thích – theo ki u hiện sinh “toàn phần” – thì
Nguyễn Tu n àm sao nhập cuộc nhanh v i một đời sống m i hãy còn ngổn
ngang, chưa trọn vẹn, và nhất à nó đòi hỏi mỗi con người ph i có trách nhiệm
và ổn phận v i cộng đồng? Một th gi i từng ất tử trong văn Nam Cao, đầy
đủ những con người nh ch nhác, quê mùa, “ngố và nhặng xị”, nhưng hăng hái
àm cách mạng… qu à khó hình dung n u ọt vào “mắt xanh” của Nguyễn.
Song có th nói, ở thời kháng chi n hay ất kì giai đoạn nào khác, một
ng đường đều dẫn t i cách ựa chọn vị d n tộc. Làm sao một con người yêu
quê hương tha thi t, từng x y dựng một nhà o tàng văn hóa cổ truyền d n
tộc ằng ng n ngữ (qua Vang bóng một thời) ại có th thờ ơ v i ối đi dẫn t i
tương ai, tiền đồ đất nư c? Cho nên, dẫu khó khăn thiên nan vạn nan, vất v
hơn ất cứ chuyến đi nào khác Nguyễn từng tr i qua, thì ng vẫn kh ng ạc
ối, “ ay theo đường d n tộc đang ay”, trở thành cánh chim kh ng mỏi,
người mở đường của văn học cách mạng. Đáng chú ý hơn, trong gian khó, cơ
cực mu n vàn, văn ng vẫn sang trọng, ịch ãm – thứ ịch ãm, sang trọng
được chưng cất, an tỏa từ một t m hồn n, một trái tim n.
Trong dặm dài kháng chi n chín năm, có th nói, ư c ch n nhà văn in
dấu trên mọi nẻo đường cách mạng. Sau khi được ầu àm Tổng thư kí Hội
văn nghệ kháng chi n (năm 1948), thì từ đó trở đi, Nguyễn Tu n tự x p mình
vào hàng ngũ cách mạng và kháng chi n. Ông ên Việt Bắc, khi ở khu Bốn,
úc ại ở khu Ba; năm 1952, ng vào c ng tác trong vùng địch ở Bắc Ninh;
năm 1953, tham gia hai đợt phát động quần chúng gi m t … Ph i nói rằng,
“Nguyễn Tu n đã có những chuy n đi kh ng th nào quên”. Và nhờ những
21
chuy n đi ấy, mà “Nguyễn Tu n kh ng ngừng kh ng mỏi, u n u n có những
tùy út m i, vẫn v i phong cách kh ng th ẫn của ng nhưng nay hào hứng,
c m xúc, vui uồn m i trong những c nh sống u n thay đổi nhiều thử thách
giữa thiên nhiên đẹp hùng v và kì ạ của đất nư c” [48, 506]. N u như trong
Chùa Đàn hai con người m i – cũ của nhà văn “cặp kè” ên nhau có phần
gượng gạo – chưa ăn nhập trong một vai diễn hoàn h o trên s n khấu ng n từ,
ở Lột xác vẫn à những dòng độc thoại nội t m đầy giằng co đ từ ỏ u đài
nghệ thuật chỉ t n thờ cái đẹp duy m … thì đ n Ngày tuổi tôi đầy cách mạng
– cho dẫu chưa h t những mơ hồ về vận mệnh m i của d n tộc – ta đã c m
nhận rõ được niềm vui m i của nhà văn: “Mê say v i ánh sáng trắng vừa gi i
phóng, t i đã à một dạ ữ khách kh ng mỏi, quên ngủ của một đêm phong hội
m i. Ban ngày n u kh ng đi i u tình thì ra Hàng Đào xem người ta dọn hàng
đỏ, đ ng cứ như đi họp chợ tơ. Cờ nh n, cờ nhỏ. Phố Hàng Đào đã mang tên
phố Hàng Cờ, đỏ rực một góc trời… Lòng khỏe chưa đủ. Th n hình cũng ph i
khỏe nữa. T i iền đi cạo r u. Tình cờ gặp ại anh ạn cũng đi cạo phăng ộ
r u quai nón xanh rậm mọi ngày. Chúng t i đã m ấy nhau mà mừng ra nư c
mắt như hai con ệnh già đã uống iều thuốc c i tử hoàn sinh”… Và t i
Đường vui, Nguyễn thực sự à Nguyễn mà nh n d n và Tổ quốc tr ng chờ.
Nguyễn vẫn đi, nhưng kh ng còn những chuy n dài ê thê, v ngh a í, v
định thui thủi một mình như trư c; thay vào đó, Nguyễn “mình cưỡi ên mình
và trườn qua núi s ng dầm mùi thuốc súng”. Một hành trình qua thống khổ
đầy rẫy những ch ng gai, cuối cùng m i kh ng ị chệch hư ng. Dọc đường đi
có c d n c ng, ộ đội, cán ộ trên đường c ng tác. Quý hóa i t ao nhiêu
cái ng y thơ, nhìn cuộc sống m i v i tất c tình c m nồng nàn! Đường vui
chính à niềm h n hoan nhà văn tìm được trên những nẻo ộ hành kháng
chi n. Đáng nói hơn nữa, hành trình của Đường vui chủ y u à … hai ch n -
Nguyễn ấy àm t m đắc và thích thú vì di chuy n kh ng cần xe cộ cũng à
22
một cách “thủ tiêu được một thứ mại n”; “chu nh choáng mùi thơm, đã đầy
ánh sáng”. Đ y à ức tranh hiện ên qua n t v tài tình của Nguyễn: “Rừng
mai, rừng trúc, chậm ại mà thắm ấy phong quang c nh sắc của quê hương.
Chỗ nào à núi đất, rừng nứa, ta nhanh ư c ên, muỗi vắt nhiều ắm đấy. Suối
trong mời ta tắm, vò giặt u n quần áo trên những t ng đá tranh thủy mặc
Tàu. Rồi vừa đi vừa phơi quần áo trên ung mình, trên đầu mình, ta hãy dành
một phút mà mặc niệm những người thợ giặt cũ”. Thật kh ng th tin được!
Phía sau những c u chữ, trang văn à c một niềm tin ấm áp, tươi vui, h n hở.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh rất tinh t khi nhận thấy trong tập tùy
bút Đường vui có “chất men cách mạng pha ẫn v i rượu giang hồ” [28, 46].
Quy t t m tự đổi m i chính mình, Nguyễn dứt khoát chia tay v i chi u chèo
s n đình hay ki u thơ văn thù tạc của một thời xưa cũ, sẵn sàng ti p thu cái
m i – ch n thành học hỏi, cầu thị. Vào thời đi m “Ngày tuổi t i đầy cách
mạng”, thiên nhiên, cỏ c y, m y khói – trong mắt nhà văn – có một sức hút
thật mãnh iệt: “Chưa có thu nào mà m y mù, khói mùa đẹp được như m y
khói mùa này. S m cũng như h m, ốn chiều tám hư ng ch n trời Việt Nam
nổi ồng ên những hình m y khỏe mạnh và những sắc m y ộng ẫy”.
Cũng cần ph i nói thêm à Đường vui ra mắt ạn đọc vào úc kh ng ít
văn nghệ s đồng ứa Nguyễn Tu n đi theo Cách mạng vì có sự muốn thay
đổi, chán gh t cuộc đời cũ, chứ chưa hẳn à giác ngộ “trăm phần trăm”. Cho
nên, một thái độ kiên quy t y khai con người h m qua của chính mình thật
đáng ghi nhận: “Ph i ấy h t trí tuệ đ kìm ch thiên tính, thú tính, ph i suy
tưởng và nhiều úc cứ ị ịm ngất đi như ai ỏ mình vào một cái hũ n mà ắc
mạnh đủ trăm chiều”. C m hứng của Đường vui à c m hứng của ân tình, ân
ngh a. Chỉ một ời chào thoáng qua từ người du kích kh ng tên th i, cũng đủ
gợi cho nhà văn một i u tượng như gạch nối giữa hiện tại và tương ại, vang
hưởng mãi đ n mai sau. Kh ng ph i kh ng có í khi nhận định: thời gian sau
23
cách mạng à ư c trung chuy n cần thi t đ nhà văn định vị ại chỗ đứng của
mình rồi ti p tục ên đường tìm đ n xứ sở của Ch n – Thiện – M . Và khi tìm
được hư ng, thấy ối đi, Nguyễn tha hồ mà tung út khoe màu, tha hồ tìm
ki m khai thách “mỏ Đẹp”; thậm chí khai thác khá “thuận ợi” trên c ề rộng
ẫn chiều s u – ởi tất c đều phơi ph i, hi n hiện trư c mắt, sống động v
cùng!
Sau Đường vui một thời gian ngắn, Nguyễn Tu n n duyên ngay v i
Tình chiến dịch. Giữa hai văn ph m, à sự ồi đắp nhiều hơn giữa nh n sinh
quan, th gi i quan của người nghệ s . Cần nh ại ối c nh úc ấy giờ: văn
nghệ nư c nhà vừa tr i qua cuộc tranh uận khá s u sắc và ý ngh a về sứ mệnh
của nó trong thời đại cách mạng ở chi n khu Việt Bắc; n áo cáo “chủ
ngh a Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam” đã được th ng qua, văn nghệ s hăng
hái thực t vùng địch hậu. Trong nguồn chung đó, Nguyễn Tu n đã thực hiện
“ a cùng” v i nh n d n, x ng pha khói ửa nơi hỏa tuy n. Quên sao được
hình nh nhà văn đọc ời đi u trư c nấm mồ chi n s . Ông thấy: “chưa đeo số
hiệu đơn vị, nhưng òng t i đã ùn ên một mối tình đơn vị”, “nhiều đồng ào
đã nh tên t i và c người t i đã thấm s u vào c nh và người mộc mạc đáng
yêu nhất”. Nguyễn c m nhận rõ hơn ao giờ h t cái ch n í thời đại: “Sống
trong tranh đấu à một điều vinh dự cho xúc c m mình”.
Khi òng người h n hoan phơi ph i, kh ng có gì ngạc nhiên khi cũng
chính tấm òng ấy phác họa những khung c nh thật kì v , đáng yêu về đất và
người chi n khu: “đầu các chỏm núi hai bên sống vươn lên cái màu đỏ của
những cây coỏng đang lung linh lá thắm. Một dòng lá thắm, một đàn chim
lam, thiên nhiên buổi đò ngang sớm mai thênh thang ấy được tô lục chuốt
hồng từ bến tự do này qua bến giải phóng nọ, hong hóng như chờ coỏng nở.
Đàn chim lam ấy ríu rít nhìn lá đỏ chòm núi không chớp mắt…”. Như trên đã
24
nói, so v i thời đi m trư c cách mạng, Nguyễn xách va i đi du ịch khắp th
gian, thì hình nh nhà văn n m mật nằm gai, khoác a đi kháng chi n, tìm
vẻ đẹp trên mọi nẻo đường chi n khu thật à một đối cực giàu ý ngh a. Từ một
nhà văn chỉ i t đ n cá nh n và sống cho n th n, giờ đ y Nguyễn i t sống
cho cộng đồng và thấy nh : “nh miên man, t i nh một úc mươi, mười hai
người. T i nh hàng trăm người một úc, nh người mà kh ng nh ra tên, nh
cái không khí sinh hoạt u n chuy n chỗ như nư c ch y, kh ng ao giờ tụ
u…”. Trong ài Cháy bản thảo cũng vi t trong kho ng thời gian đó,
Nguyễn Tu n thấy cần thi t một thứ chủ ngh a hiện thực c ng phá đ tấn c ng
mạnh m thù trong giặc ngoài – thù trong à cái ích kỉ của n thân; giặc
ngoài à è ũ x m ược. Chủ ngh a hiện thực c ng phá ấy, chính Nguyễn sau
này th hiện rất tốt, sắc s o, hoạt ng n khi cùng d n tộc chống đ quốc M .
Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc kháng chi n thần thánh của d n tộc đã sinh
ra Nguyễn Tu n một ần nữa. Trong sự tái sinh ấy, v i những khó khăn gian
khổ của nư c nhà đã “thử thách”, t i uyện nhà văn Nguyễn Tu n. Đ y cũng
à dịp đ nhà văn ki m tra ại mình, t dần những cái ập dị, hoài nghi, khinh
ạc , ti n dần t i hòa nhập cái t i của mình và cái ta chung của d n tộc. “Cách
mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt” đã đưa Nguyễn Tu n về v i
nh n d n. Trong quá trình ấy, nhà văn vừa có những đóng góp cụ th của
mình, vừa học hỏi ti p thu đ c i tạo và tự n ng mình ên. Chưa ph i đã h t
những thói tật cũ, nhưng về cơ n, ở Nguyễn Tu n đã hình thành nên một cái
t i m i – đó à cái t i c ng d n nghệ s ”. [16, 10+11].
Rõ ràng, kh ng th định ượng một cách cơ học rằng: trư c Cách mạng
tháng Tám, có một cái tôi Nguyễn Tu n nghệ sỹ; sau đó vài năm, cái t i nghệ
sỹ này chuy n hóa thàng cái t i công dân. Bởi chỉ đơn thuần à cái t i c ng
d n th i thì kh ng đủ, nó ph i à một gạch nối hài hòa, k t hợp c hai y u tố
trên. Chính chất nghệ sỹ tài hoa như một nh n tố của phong cách cùng v i cái
25
tôi công dân của một kẻ “Phá c đơn ta hòa hợp v i người” đã nâng cánh,
giúp Nguyễn Tu n tin tưởng và vững ư c ti n về phía trư c. Và k t qu à,
n u như trư c cách mạng, Nguyễn Tu n đã trư c ạ trong òng văn học d n
tộc và độc gi những thiên tùy út còn mãi v i thời gian như: Một chuyến đi,
Thiếu quê hương, Tùy bút I, Tùy bút II,…; thì giờ đ y, những trang tùy út
sau cách mạng của ng như Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Tùy bút kháng
chiến… đã hoàn thiện hơn cá tính, con người và phong cách nghệ thuật của
một c y út suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật.
1.3. S chuy n iến về quan niệm thẩm mĩ
Nói đ n quan niệm th m m tức à nói đ n quan niệm của người sáng tác
về cái đẹp. Và việc tìm đ n cái Đẹp đ chiêm ngưỡng và th hiện nó à sứ
mệnh từ ao đời nay của văn chương. Nhà văn nào trư c khi cầm út cũng
muốn hư ng t i cái đẹp. Nói như Lep T nxt i ên trời Nga: “T i à người
nghệ s và c cuộc đời t i tr i qua à đ đi tìm cái Đẹp”. V i một người nghệ
s đầy cá tính như Nguyễn Tu n, thì điều đó càng trở nên th i thúc. Nguyễn
Đình Thi nhận định rằng: “Nguyễn Tu n à người suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái
Thật”. N u có điều kiện theo dõi chặng đường văn của ng k o dài từ trư c
đ n sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta đều thấy đ y à nhà văn say sưa cái
Đẹp.
Trư c Cách mạng, do hoàn c nh ịch sử xã hội, mà thời kì trư c cách
mạng, trong quan niệm của Nguyễn Tu n cái Đẹp đối ập v i hiện tại, kh ng
đồng nhất v i cái hữu ích, tư ợi,… Một cách tự giác, quan niệm về cái đẹp
kh ng chỉ được Nguyễn Tu n th hiện trong việc khắc họa các hình tượng
nh n vật; mà còn được nhà văn phát i u dư i dạng ki u như à tuyên ng n
nghệ thuật. Ông vi t: “Mỹ thuật vốn kh ng à à con v i u n ý thời đại. Một
thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đ v cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất
nhanh” (Chiếc xe tình). Đối v i Nguyễn Tu n, nghệ thuật đích thực ph i à cái
26
đối ập v i cái hữu ích, ph i đặt trên mọi thứ thiện ác ở đời. Quan niệm này
một phần à do Nguyễn Tu n chịu nh hưởng của một số tác gi nư c ngoài
như Kant, Andre Gide và chi phối mạnh m trong sáng tác của ng trư c cách
mạng như Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài… Bởi vậy
nên, khi đọc tùy út Nguyễn Tu n giai đoạn này, tính chất duy m in đậm n t
trên trang văn của ng. Trong Tóc chị Hoài, nhà văn say sưa miêu t mái tóc
của người phụ nữ mà như đặt c t m hồn mình trong đó: “Chị Hoài mỗi úc
vừa nằm xuống rất nhẹ nhàng thì c một m tóc tr n cuốn rất chắc ấy đổ tung
xuống như một trận mưa rào đen nhánh. Rồi m tóc m y dài như một s i rưỡi
m ấy gáy, ấp ấy vai”. Thật à vẻ đẹp hi m thấy! Kh ng chỉ độc gi ngỡ
ngàng, mà chính n th n Nguyễn Tu n cũng khẳng định: “cái người nào
trong suốt một đời mà kh ng được ngắm một m tóc cho tử t thì cái th m m
quan của người ấy còn ung ay ắm” (Tóc chị Hoài). Trong ý ngh a ấy,
Nguyễn Tu n thực sự à một c y út t n thờ cái đẹp, à c y út nghệ thuật vị
nghệ thuật. ng “thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những
c m giác m i ạ. Đó à cái đẹp thoát y của một kẻ giang hồ ữ thứ đã trư c ạ
cuộc đời mình vào địa dư của trái đất” [36, 106]. Cũng do xuất phát từ quan
niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, mà ngay trong thái độ phê phán của nhà văn
đối v i xã hội, nhãn quan của Nguyễn Tu n cũng mang sắc màu th m m , chứ
kh ng từ quan đi m giai cấp. Sự ên án của ng đối v i ọn người xấu xa ởi
vì chúng đã chà đạp ên cái đẹp: “Nguyễn Tu n ch m i m ọn trọc phú, đã
giàu sụ ên một cách hỗn áo, ất ương nhưng ại cứ tự xưng à tài hoa, rồi
cũng ắt chư c mọi người khinh th ngạo vật, phỉ áng đồng tiền” [36, 107]
Do kh ng tìm được cái đẹp trong thực tại, trong cái xã hội ối a a phèng,
mà Nguyễn ại quay ại v i vẻ đẹp của quá khứ và vẻ đẹp của c nh sắc thiên
nhiên trên mỗi ư c đường “xê dịch”. Do vậy, quan niệm th m m của
Nguyễn Tu n trư c cách mạng dẫu còn cực đoan, nhưng ở phương diện nào
27
đó, cũng th hiện tinh thần d n tộc s u ắng. Đó chính à nh n tố quan trọng,
tạo tiền đề cho sự chuy n i n tích cực của nhà văn sau cách mạng.
Đ n sau 1945, khi cái t i nghệ s và cái t i c ng d n có sự gặp nhau, thì
ý tưởng th m mỹ Nguyễn Tu n hằng đeo đuổi à cái Đẹp của đời sống h m
nay, gắn ó v i thiên nhiên đất nư c quê nhà và nó có mu n hình nghìn vẻ ộ
thiên hoặc tiềm n trong nh n d n, trên tất c vùng miền Tổ quốc. Mọi thứ
như u n được ng n ng niu, ngắm nghía kh ng i t mệt mỏi – đ rồi k t tinh
thành những trang hoa, tờ hoa kh ng k m phần đặc sắc, mang nặng tình quê
hương xứ sở, chở nặng phù sa, n tình n ngh a đối v i m nh đất đã sinh
thành và n ng niu mỗi ư c ch n nhà văn.
Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tu n sau cách mạng có th tìm thấy
trong Xòe. M i đọc qua, tưởng Nguyễn Tu n ại an man àn về những n t
đẹp đã thuộc về ngày xưa, thuộc về miền cổ tích của truyền thống d n tộc,
ph ng phất điệu nhạc đã ng n ên từ Vang bóng một thời. Nhưng kh ng, đó à
“cái hạt đau, hạt xót”, à ti ng nấc nghẹn ngào, kh n ngu i của người nghệ s
trư c cái Đẹp ị vùi dập. Xòe à thiên tùy út k về nghệ thuật múa mà người
Thái T y Bắc gửi ại v i thời gian, một di s n nghệ thuật độc đáo, được chắt
chiu, gìn giữ từ ao đời nay, trong òng một đất nư c đã từng chịu “hàng ngàn
năm n ệ giặc Tàu” và gần “trăm năm đ hộ giặc T y”; nó ắng đọng trong
ề trầm tích của tầng s u văn hóa. Trong sự giàu có, đẹp đ của “một khu
vườn nở ra rất nhiều hoa và trái” ấy, nghệ thuật múa xòe của người Thái T y
Bắc à một át cắt mỏng nhưng đặc sắc và tinh t . Vậy mà n t đẹp ấy đã ị chà
đạp, ị vùi dập, đem phụng sự những kẻ tanh h i, n thỉu, t m hồn u n chứa
đựng những góc tối tăm như ọn chúa đất, phìa tạo. V hình chung, “Xòe…
kh ng còn à vui múa của n ng d n ao động Thái nữa, mà rõ ràng à một thứ
t nghệ thuật d n cày miền núi ph i đóng hàng năm cho địa chủ quan ại…”.
Và “Trong cái đêm dài của T y Bắc chưa có ửa sáng cách mạng, xòe chẳng
28
qua cũng à một hình thức phu phen tạp dịch” mà th i. Ta c m thấu rõ tấm
lòng trăn trở, đ n đau của người nghệ s Nguyễn Tu n trư c cái Đẹp ị đặt
kh ng đúng vị trí. N u chỉ dừng ại ở phương diện này th i, cũng đã thấy sự
chuy n i n tích cực trong tư tưởng Nguyễn Tu n, vì con mắt ng giờ đ y đã
nhìn ra xung quanh, tấm òng ng hư ng về ngoại c nh, òng ng rộng mở đ
“đón ấy những vang động của đời”. Kh ng th , sao ngòi út của ng có th
ghi ch p ại ch n thực, sinh động cuộc đời và số phận của những ki p người
con gái “hồng nhan mệnh ạc” đã ph i hi sinh c tuổi thanh xu n và hạnh
phúc ứa đ i của mình đ i n thành “toán người khổ sai”, thành “cái đệm
sống” đ cho ao quan khách đè ên. Nhà văn cũng như người đọc chẳng th
nào che giấu nỗi niềm đau xót khi chứng ki n cái c nh các đội múa xòe i u
diễn trong đêm: “máu đồng trinh cứ rỏ theo ư c đi của đ i ch n khiêu vũ, c
gái xòe cứ giẫm ên máu mình mà múa, rồi máu tươi ấy cứ kh dần một đống
trên một cuộc đời đã i n thành một cái đệm, p máu đêm sau đóng v y ên
p máu đêm đầu, và cứ th cứ th …”. Cho đ n một ngày kia, cách mạng gi i
phóng cho T y Bắc; thì đồng thời cũng “tr ại uy n ái cho trai n gái
mường… Xòe và c xòe y giờ kh ng à cũ nữa, xòe được n ng ên thành
những ư c m i rồi”.
Cách mạng kh ng chỉ cứu ấy và gi i phóng cho cái Đẹp đã ị dập vùi
trong quá khứ, mà đã àm cho chính n th n con người Nguyễn Tu n thay da
đổi thịt, đặc iệt à sự thay đổi về th gi i quan. Nói như nhà nghiên cứu Phan
Cự Đệ thì: “Trong sự thay đổi về th gi i quan, ý tưởng th m m à kh u
chuy n i n chậm nhất và cũng phức tạp nhất. Nhưng một khi quan niệm về
cái đẹp, sự xúc động th m m đã thay đổi về cơ n thì đó à úc nhà văn có
đủ điều kiện đ chuy n mình sang một phương pháp sáng tác m i, phương
pháp hiện thực xã hội chủ ngh a” [14, 541].
V i Xòe, quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tu n đã thay đổi. Hoài cổ
29
giờ đ y chỉ còn như thứ mùi vị ph ng phất trên trang văn ng hoặc nó chỉ à
cái giá đ mắc áo, cái giàn cho hoa eo… nhường chỗ cho những vẻ đẹp dung
dị của đất và người trong thực tại. Cánh cửa t m hồn tài hoa, ãng tử, đầy chất
nghệ s của anh chàng Nguyễn thuở nào đ n úc này được mở toang ra đ cho
cái đẹp của đời sống m i ùa vào; trong đó kh ng th kh ng nhắc t i những
trang vi t Nguyễn Tu n dành riêng tái hiện, rồi đặc t đất và người T y Bắc.
C nh sắc thiên nhiên nơi đ y như àm Nguyễn Tu n mê đắm, “ch t đuối”đ n
tận cùng. Trong th gi i tùy út của ng sau cách mạng, chẳng th nào đ m
cho xu những ần ng ngợi ca về xứ sở hoa an, hoa đào. Bởi vì v i Nguyễn
Tu n hiện nay: “Đời sống T y Bắc à một tấm òng tin tưởng kh ng ờ n,
tin mình, tin người, mấy chục d n tộc miền cao và đồng ằng tin cậy ẫn
nhau, và nhất à tin chắc vào cái ch độ đẹp do tay mình đắp cao mãi lên trên
chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này”.
Có ph i vậy chăng, có ph i vì cái niềm mơ ư c cháy ỏng vi t về một
cuốn ti u thuy t Mở đường: mở đường vào thiên nhiên T y Bắc đ tìm nguồn
tài nguyên giàu có cho đất nư c, và mở đường vào òng nh n d n ao động đ
phát hiện những cái quý áu trong t m hồn họ - cùng niềm khao khát kèm
theo những mơ ư c ch n thành ấy đã thêm một ần nữa đem ại vinh quang
cho tùy út của Nguyễn Tu n sau cách mạng tên Sông Đà. Đ y à tác ph m
ng vi t về kho ng thời gian a năm (1958 – 1960) đánh dấu một mốc quan
trọng, mở ra một đỉnh cao m i trong cuộc đời nhà văn khi cái t i nghệ s đã
gặp cái t i c ng d n trên c ng trường x y dựng miền Bắc xã hội chủ ngh a.
Trong toàn ộ tùy út Sông Đà, có th nói Người lái đò sông Đà là áng văn
inh diệu nhất. Đọc tùy út này, chúng ta thấy văn ph m dạt dào những xúc
c m, niềm h n hoan v tận mà nhà văn có được trong việc ca ngợi con người
m i, khung c nh m i của đất nư c và con người m i ở miền T y Bắc xa x i.
Có hai nguồn mỹ c m nổi ật, đầy ắp nhựa sống và hơi thở thời đại m i – nó
30
như an tỏa, m trùm, ồng trên khắp các trang văn của Nguyễn Tu n: vẻ đẹp
s ng Đà và vẻ đẹp của hình tượng người ái đò trên dòng s ng ấy. Vẫn giữ
được cốt cách ưa sự độc đáo khác thường của người nghệ s , nên dư i ngòi
út của tác gi , s ng Đà mang vẻ đẹp đối ập cùng tồn tại: hung ạo và trữ
tình. Sự hung ạo của con s ng khi n độc gi dẫu kh p ại trang văn mà vẫn
kh ng h t nỗi kinh hoàng; nhưng đó cũng chỉ à cái nền đ nhà văn khắc họa
sâu hơn, đậm n t hơn hình nh người ái đò tài hoa nghệ s cùng n t trữ tình
của dòng s ng mang màu nắng tháng a Đường thi “yên hoa tam nguyệt hạ
Dương Ch u”. Đ n đ y, đặc đi m th oại v i sự inh hoạt, tính đa năng và
sắc màu trữ tình đã giúp ngòi út Nguyễn Tu n đạt t i mức i n hóa kh n
ường: hình nh con s ng vốn chỉ mang “giá trị…thủy điện”, ỗng trở nên
mang dáng hình như ch n dung người thi u nữ đang độ tràn đầy, viên mãn
nhất. Nào à c nh ven s ng: “C nh ven s ng ở đ y ặng tờ. hình như từ đời
Lý, đời Trần, đời Lê, quãng s ng này cũng ặng tờ đ n th mà th i”; rồi đ y
nữa à c nh ờ s ng: “Bờ s ng hoang dại như một ờ tiền sử. Bờ s ng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Đặc iệt, những so sánh, ví von
iên tục được ngòi út tài hoa của Nguyễn Tu n đưa đ y mang ại chất thơ
cho con s ng, khi n nó mang sức sống, hơi thở t m trạng và xúc c m của một
con người v i những n t chuy n i n tinh t . Nào là : “Muà xu n dòng xanh
ngọc ích. Mùa thu nư c s ng Đà ừ ừ chín đỏ như da mặt một người ầm đi
vì rượu ữa”; “S ng Đà như một cố nh n”; “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt ên
mặt s ng ụng trắng như ạc rơi thoi”… Kèm theo ối vi t ví von, so sánh đó
à hệ thống những cấu trúc điệp iên ti p, những ng n từ m ệ và gợi c m:
“đúng th , chao i…”. Ta nghe trong mỗi c u văn, mỗi con chữ à hơi thở
nồng ấm, sự hòa quyện, quấn quýt của tình đời, tình người, tình yêu đ i ứa
thẳm s u. Có th nói phần miêu t con s ng ở góc nhìn trữ tình của tác gi tựa
như ài thơ đẹp, vừa ay ổng ãng mạn ại giàu chất iệu hiện thực. Đọc văn
31
Nguyễn Tu n vi t về c nh sắc quê hương đất nư c qu thấy Tổ quốc mình
giàu đẹp v cùng. N u như ở Tình rừng, chúng ta được i t đ n một th gi i
khổng ồ của rừng vàng, i n ạc được “phơi tãi ra trên quá hai phần a ề
mặt của Tổ quốc”; thì đ n tùy út Sông Đà ại thấy những khung c nh khác.
Nào à vùng đất Than Uyên v i mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh àm thủy
tinh ngũ sắc và đồ dứ, mỏ than mỡ, mỏ n tinh, mỏ đồng, mỏ chì; và mỏ
vàng ở dọc s ng Nậm Nưa. Nhưng đẹp nhất, ãng mạn nhất có vẫn à c nh
s ng nư c trên s ng Đà. Qua n t út của Nguyễn Tu n, người đọc nhiều úc
có c m giác như đang được chiêm ngưỡng ức tranh hoàn m của nhà họa s
danh ti ng v i n t chấm phá có hồn. Ông đã sử dụng gam màu thật ạo, thật
tài hoa v i sắc độ i n hóa đáo đ như cách pha màu của các danh họa chuyên
nghiệp.Cho nên, đọc những trang văn vi t về s ng Đà, chúng ta như ạc vào
kh ng gian rất đỗi ch n thực ấy – song ại tiềm n chất ãng đãng, huyền o
của sương khói, nư c non, trời m y nơi địa đầu Tổ quốc. Chúng ta cũng dễ
dàng c m nhận được sự thay đổi của con s ng qua thời gian và trong kh ng
gian ung inh sắc màu, chập chờn dáng vẻ. Những trang vi t như th có được
bao nhiêu trên văn đàn Việt Nam úc ấy giờ và c mai sau – mặc dù à các
văn nghệ s đi thực t của ta thời nào cũng kh ng ph i ít – càng không qua
hi m hoi các c y út tìm đ n v i thác nư c và s ng Đà. Ấy th nhưng, hình
như chỉ có Nguyễn Tu n đã đ ại nhiều dấu ấn nhất. Bởi , ngoài tài năng và
ph ng văn hóa s u rộng về dòng s ng này, Nguyễn Tu n còn có một tấm tình
yêu thiên nhiên, đất nư c s u nặng và đằm thắm, i t vui chung niềm vui
dựng x y cuộc sống m i của nh n d n. Đọc tùy út Sông Đà, chúng ta thấy
thấp thoáng óng dáng của một hành trình T y du kí trên đất Việt Nam đầy
háo hức trong việc khám phá những c nh ạ - có dáng dấp của những khoái
thú thưởng ngoạn dọc đường xê dịch của anh chàng Nguyễn trư c cách mạng.
Nhưng có một cái khác: chuy n đi ần này à đ t đi m, àm đẹp hơn cho
32
c nh và người T y Bắc.
Qu đúng như vậy, trong Người lái đò sông Đà, chúng ta kh ng chỉ
thấy hiện ên vẻ đẹp của con s ng vừa hung ạo, vừa trữ tình; mà nổi ật hơn
c à hình tượng người ái đò kh ng tên trên dòng s ng. V i ư c muốn “đi tìm
cái thứ vàng của màu sắc s ng núi T y Bắc và nhất à cái thứ vàng mười
mang sẵn trong t m trí tất c những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn
ó v i c ng cuộc dựng x y cho T y Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và vững
ền”…đ n nơi đ y, Nguyễn Tu n đã tìm được thứ “vàng mười” đó. Vẫn từ
góc nhìn nghệ s , song giờ đ y, Nguyễn Tu n đã nhận ch n giá trị những vẻ
đẹp ở ngay mỗi con người ao động ình thường; thậm chí còn n khuất trong
nh n d n đại chúng – mà n u thi u con mắt “tinh đời”, kh ng th nhận ra…
Đặc iệt, v i hình tượng người ái đò s ng Đà, Nguyễn Tu n đã dựng nên
thành công chân dung người nghệ s trên s ng nư c. Ông ái đò hiện th n cho
khát vọng sinh tồn gần như n năng, vừa khỏe khoắn, can đ m, vừa mềm
dẻo, hòa điệu v i thiên nhiên của người d n nơi thượng nguồn T y Bắc.
Trư c h t, ng ái đò được nhà văn miêu t h t sức dung dị đời thường như
mu n ngàn, mu n vạn con người khác, có th gặp ở ất cứ đ u trên đất nư c
này. Thậm chí, ng còn à một người v danh, già y mươi tuổi v i “cái đầu
ạc quắc” đã dành phần n đời mình cho nghề ái đò dọc vùng s ng nư c.
Hơn chục năm àm c ng việc nguy hi m và gian khổ này, ng trở thành người
ái đò ão uyện: “Trên dòng s ng Đà, ng xu i, ng ngược trên một trăm ần
rồi, chính tay giữ ái độ sáu chục ần…”. Bởi vậy, ng am hi u tường tận cái
nghề này cũng như “k t cấu”, quy m của con s ng: “S ng Đà đối v i ng ái
đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ng đã thuộc đ n c những dấu
chấm than, chấm c u và c những đoạn xuống dòng”.
Tuy nhiên, do hoàn c nh ịch sử, đối v i Việt Nam ta úc này, xây
dựng chủ ngh a xã hội u n gắn v i độc ập d n tộc. Nguyễn Tu n v i tư cách
33
vừa à một người c ng d n, vừa à một người nghệ s đã nhanh chóng và kịp
thời đi theo ti ng gọi non s ng. N u như ở tùy út Sông Đà, nhà văn nghiêng
về miêu t và ngợi ca quá trình x y dựng chủ ngh a xã hội ở T y Bắc – cũng
à miền Bắc Việt Nam; thì đ n Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Nguyễn Tu n ại ch a
mũi nhọn vào kẻ thù d n tộc. Như chúng ta đều i t, ngày 05/08/1964, đ
quốc M điên cuồng đem kh ng qu n đánh phá miền Bắc nư c ta. Và trư c
tình hình đó, thì cái “Lòng yêu nư c, tinh thần d n tộc, huyệt thần kinh nhạy
c m nhất của ng ị kích thích mạnh, ng đã phát huy đ n cao độ sở trường
phong cách mình, tạo nên nhiều trang út kí có giá trị” [28,5]. Sự chuy n i n
về quan niệm th m m , đã giúp Nguyễn Tu n nhìn đúng kẻ thù, vạch rõ tội ác
và n chất xấu xa của chúng. Một mặt, chúng muốn th n tính nư c ta “ ằng
khoa học gi t người và kỹ thuật gi t người t n kì” đ đáp ứng m mưu toàn
cầu háo của chúng; nhưng cái miệng eo ẻo nói t i hòa ình. Nguyễn Tu n đã
v thẳng vào mặt ọn khốn ki p ấy ằng thái độ kh ng thương xót: “Vừa
đánh phá, vừa chối cãi, vừa dọa nạt qu n sự ại vừa ừa phỉnh thương ượng
hòa ình”. Hơn nữa, Nguyễn Tu n còn vạch mặt uận điệu x o trá ấy ằng ời
l ch m i m h t sức s u cay: “Xem ra, người Mỹ các anh à hay đùa ỗng
v i hai chữ hòa ình” (Ở mặt trận Hà Nội).
Song song v i quá trình đó, ng còn ày tỏ niềm tự hào n ao về d n
tộc, về đất nư c trong tương quan so sánh v i M . Nhà văn đã kh o o đặt sự
đối sánh trong chiều dày của thời gian đ thấy rằng so v i ịch sử nư c M có
từ th kỉ XV; thì Việt Nam ta có ề dày văn hóa hàng mấy nghìn năm hun đúc
mà thành: “Tính từ khi ta có ịch sử ghi ch p ằng út mực, thì nư c ta ra đời
từ mấy ngàn năm. Còn ịch sử truyền miệng thì u hơn, và cái ánh chưng ra
đời từ thời kì ịch sử Việt Nam truyền miệng đó. Đem ịch sử Hoa Kỳ ra mà
so, thì Hoa Kỳ dựng nư c cũng m i từ th kỉ XV… Rồi trên Bắc M , người
ch u Âu di cư sang, v khối à người phiêu ưu mạo hi m, à trốn chúa ộn
34
chồng, u n án cáo cùng, ục m xổng ngục, cùng à các thứ thất cơ ỡ vận,
đánh ạc chạy àng, nay cùng k o sang đất m i đ àm ại một cái hồ sơ ịch
sử cho nó m i hơn. Cái xã hội tìm vàng át nháo đó ị đ hộ năm tao y ti t,
rồi mãi cho đ n cuối th kỉ XVIII m i tuyên ố được độc ập và chính thức
thành ập Liên ang Hoa Kỳ. Rồi từ đó àm giàu, và qua hai cuộc đại chi n
th gi i, cứ giàu sụ ên một cách tàn ạo và tr ng tráo. Cho đ n nỗi văn hào
Béc Na S ph i thốt ên rằng: “Nư c Hoa Kỳ đã đi một èo từ man rợ thẳng
t i đọa ạc mà kh ng có th ng qua giai đoạn văn hi n văn minh nào” (Cho
giặc Mĩ nó ăn một cái Tết ta). Do vậy, trong cuộc chi n tranh v i kẻ thù hung
hãn này của d n tộc, chúng chỉ như những thú vật muốn uống máu người.
Còn ta chi n đấu v i chúng kh ng chỉ ằng chính ngh a và sức mạnh; mà còn
đứng trên ề dày của truyền thống cha ng và giành chi n thắng một cách
đàng hoàng, h t sức văn hóa. Cho nên, “những con người hiền hòa tài giỏi đó
có quyền được yên vui giữa ờ cõi nư c họ. Và khi mà họ ị kẻ cư p Mỹ
x m phạm t i sự yên ành, thì họ có quyền đánh Mỹ kì cho t i úc Mỹ xin
hàng thì m i t i” (Cho giặc Mĩ nó ăn một cái Tết ta). V i cội nguồn ấy, gốc
rễ ền s u ấy, nên ta đã có chi n thắng kẻ thù một cách chính đáng và vẻ
vang.
Như vậy, rõ ràng à tùy út của Nguyễn Tu n sau cách mạng đã có
nhiều chuy n i n so v i trư c cách mạng, mà quan trọng nhất à sự chuy n
i n về tư tưởng và phương pháp sáng tác. Tuy nhiên, ph i thừa nhận rằng,
trong quá trình chuy n i n ấy, mạch tư duy và ối vi t cũng như quan niệm
th m m kh ng ph i à hoàn toàn đoạn tuyệt v i cái cũ mà có tính k thừa, đ
tạo nên một mạch nguồn thống nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tu n c trư c và sau cách mạng.
35
Chương . C C LOẠI H NH NHÂN V T TI U I U TRONG S NG
TÁC CỦA NGU N TUÂN SAU C CH MẠNG TH NG T M
Sự vận động, đổi m i trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song
v i tính thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy uật sáng tạo đòi
hỏi người nghệ s ph i i t vượt ên chính mình và kh ng được dẫm ên dấu
ch n người khác.
Phong cách Nguyễn Tu n cũng có sự vận động theo chiều hư ng tích
cực ấy. Trư c và sau cách mạng à c một sự thay đổi kì diệu trong văn ng.
Cách mạng đã gi i thoát cho t m hồn và nghệ thuật Nguyễn Tu n, hư ng nhà
văn t i cuộc sống và nh n d n.
Trư c cách mạng, Nguyễn Tu n tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao
cái đẹp thuần tuý, kh ng vụ ợi. Ông n ng niu, tr n trọng và khao khát cái
đẹp. Nhưng trong đêm tối trư c cách mạng, cái đẹp đ u dễ tìm, v y ủa xung
quanh người nghệ s toàn cái xấu xa, ừa ọc, v i xã hội "kim tiền, chó đ u"
(Vũ Trọng Phụng). Nguyễn đã quay ngược thời gian tìm cái đẹp trong quá
khá, ít quan t m đ n thực tại mà chỉ chú trọng t i c m giác chủ quan của
mình. Ông tìm đ n những con người mang n t tài hoa thiên về nh vực nghệ
thuật. Ngợi ca cái đẹp nhưng ng vẫn v ên một ức tranh h o úa, tàn tạ, hắt
hiu về một th gi i tàn ụi trong Chữ người tử tù. Vui say v i cái đẹp của
nghệ thuật thư pháp, tr n trọng cái thiên ương, trong sáng, nh n cách hơn đời
của Huấn Cao nhưng nhà văn vẫn trầm ng m nuối ti c ởi Huấn Cao s ph i
chịu án và ìa xa cõi đời. Bi t ao m n thương, uy n ti c khi Nguyễn Tu n đ
qu n ngục "chắp tay nói một c u mà dòng nư c mắt rỉ vào k miệng àm cho
nghẹn ngào". Có ph i giọt ấp ánh ấy, cái nghẹn ngào kia cũng chính à của
Nguyễn Tu n, cái đau xót của òng Nguyễn đã tràn ra c u chữ?
Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tu n kh ng còn nhấm nháp, say sưa
chắt chiu cái đẹp trong những ti u th gi i tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn c m
36
nhận được cái khoẻ đẹp, rộng rãi, ao a của đất trời đổi m i. Có ởi
Nguyễn sinh ra đ t n thờ cái đẹp, mà cách mạng chính à cái ch n - thiện -
m , ch n chính nhất. Cái nhìn của nhà văn v i cuộc sống, con người trở nên
đ n hậu hơn. Quan niệm của ng về cái đẹp vì th mà t đi sự phù phi m,
phi n diện, từng ư c ti p cận v i cái đẹp ch n chính và ti n ộ. Tuỳ út
Sông Đà à một trong những cái mốc quan trọng của Nguyễn Tu n trong quá
trình chuy n từ phương pháp sáng tác ãng mạn sang phương pháp hiện thực
xã hội chủ ngh a. Ông đi tìm cái đẹp trong con người ao động ình thường.
Ông ái đò trong tuỳ út này à một con người như th . Miêu t tư th vượt
thác hiên ngang, anh dũng của ng ái đò, Nguyễn Tu n ca ngợi ph m chất
của người ao động thời đại m i, chủ động trư c thiên nhiên, dám tấn c ng
vào những th ực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đ y à khám phá m i mẻ, độc
đáo của Nguyễn về hình nh con người m i.
N u như trư c cách mạng, Nguyễn Tu n có cái ng ng, khinh ạt, ngạo
đời v i xung quanh thì nay ng dùng cái nhìn ấy đ đ kích, tấn c ng kẻ thù.
Mượn ời Huấn Cao, Nguyễn Tu n gián ti p ộc ộ thái độ của mình. Đó à
ối ngh "cố ý àm ra khinh ạt đ n điều" đ đợi "một trận i đình áo thù”.
Có cái thói ng ng ngạo của Nguyễn sở d vấn được người đọc yêu m n ởi
trư c khi à một nhà văn ng đã à một con người có nh n cách n. Sau cách
mạng, nhà văn đ dành ối khinh ạt ấy cho những tên chúa đất độc ác, ạo
tàn hay những tên giặc ái M ... Sự thay đổi sắc s o trong ngòi út Nguyễn
Tu n cũng à k t qu của quá trình " ột xác" đầy đau đ n của ng.
Trư c và sau cách mạng có sự thay đổi n trong th oại văn Nguyễn
Tu n. N u như trư c cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn được coi à
ậc thầy v i những n t độc đáo, riêng iệt thì n t phong cách này được th
hiện rõ trong Chữ người tử tù - một truyện ngắn "gần đạt t i sự toàn m " (Vũ
Ngọc Phan). Sau cách mạng, th oại tuỳ út phát tri n mạnh m hơn, Sông
37
Đà là một trong những thành c ng xuất sắc của tuỳ út Nguyễn Tu n. Sự
chuy n hư ng này phù hợp v i cái t i, n nh Nguyễn Tu n. Có th nói
trong th oại tuỳ út trong àng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ
Bằng, Bàng Sơn… nhưng chưa ai theo kịp được "th phách Nguyễn Tu n".
Chỉ từ những năm 60, đặc iệt à những năm chống Mỹ, nhà văn m i ư c
vào thời kỳ chuy n i n thực sự trên hành trình nghệ thuật theo ý tưởng
th m mỹ m i. Ấy à do k t qu của những tr i nghiệm thực t , thực t m đi
vào đời sống ao động, s n xuất và c ti p cận v i hoạt động chi n đấu qua
cuộc kháng chi n hào hùng vào ậc nhất của ịch sử d n tộc.
2.1. Nh n vật người lao đ ng mới
Xuất hiện vào đầu th kỷ XX, Nguyễn Tu n à một trong những c y cổ
thụ n nhất trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. C cuộc đời ng ặn ội
“đi tìm cái đẹp và cái thật” nên ng đã đ ại cho đời một sự nghiệp văn học
đồ sộ mà đỉnh cao à những ài tùy út v i phong cách riêng iệt kh ng ẫn
v i ất kì ai. Có th nói đi m nổi ật nhất trong các tác ph m đó à hình nh
những con người ao động trong thời kì đổi m i ở tập tùy út Sông Đà (1960).
Tập tùy út Sông Đà vi t về cuộc sống đổi thay đi ên chủ ngh a xã hội
ở vùng T y Bắc sau khi cách mạng thành c ng. Tác ph m à thành qu nghệ
thuật đẹp đ mà Nguyễn Tu n thu hoạch được trong chuy n đi gian khổ mà
đầy hứng khởi. Kh ng chỉ thỏa mãn niềm đam mê xê dịch, khám phá những
miền đất ạ, đ n v i T y Bắc, Nguyễn Tu n còn khao khát đi tìm ki m “chất
vàng mười” của thiên nhiên và “thứ vàng mười đã qua thử ửa”, t m hồn của
những con người ao động mà chi n đấu trên miền núi s ng hùng v và thơ
mộng. Qu thật ng kh ng những v nên một ức tranh thiên nhiên vừa thơ
mộng hữu tình vừa hoang sơ dữ dội của thiên nhiên T y Bắc mà còn tìm được
thứ vàng mười của con người nơi đ y.
Đọc Sông Đà thấy Tổ quốc ta thật giàu đẹp. Chỉ nói riêng Than Uyên
38
có mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh àm thuỷ tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏ
than mỏ n tinh, mỏ đồng, mỏ chì… Dọc s ng Nậm Hu người đãi vàng có
khi được hàng ạng v.v... C nh T y Bắc thì tuyệt đẹp, ở đ u tác gi cũng nổi
hứng nghệ s muốn cắm ngay giá v mà v . Núi p p mênh m ng như i n
s ng trắng xoá, như từng d i ụa tr i ra những thung ũng úa chín vàng cho
trên đó m y trắng đi m ơ ửng như thêu nổi hoa. Bao nhiêu à thứ hoa gạo
đỏ, hoa an, hoa mận trắng, hoa au gia tía, hoa chấu, hoa đào, hoa A phi n,
“những vạt nương phù dung A phi n Mèo, hoa xanh, hồng ph n, tím, và đỏ
cánh sen, đỏ ửa ựu đang gọi ong mùa xu n đ n ấy nhuỵ cao nguyên uyện
mật”. Đẹp nhất à Sông Đà “tu n dài như một áng tóc tình, đầu tóc ch n tóc
n hiện trong m y trời T y Bắc ung nở hoa an, hoa gạo”.
Nhưng Sông Đà không chỉ nói vẻ đẹp thiên nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp
của òng người. Ông gọi đò à chất vàng mười của t m hồn con người T y
Bắc. Ông ngược dòng ịch sử tìm chất vàng đó ở những chi n s cách mạng
kiên cường theo gương ất khuất nhà tù Sơn La, ở những cán ộ hoạt động í
mật hồi T y Bắc ị giặc chi m đóng, đã vượt qua những thử thách khủng
khi p đ g y cơ cách mạng, ở những chi n s qu n đội, những anh chị em d n
c ng hồi ti n qu n vào Điện Biên. Ông trở về hiện ại, tìm đ n những người
đi mở đường suốt ngày suốt đêm, nắng cũng như mưa “kh ng ao giờ đ kỷ
ục nằm quá hai tư ti ng”, những chi n s iên phòng T y Trang sống heo hút
trong nắng thiêu, trong gió Lào, những người c ng nh n T y Bắc dũng c m
vượt thác S ng Đà vận t i hàng mậu dịch, những đồng chí ộ đội cùng chi n
đấu đ gi i phóng Điện Biên, nay ại tự nguyện đem c gia đình ên Điện Biên
ập nghiệp, những cán ộ địa chất trẻ tuổi đi tìm quặng mỏ. Những con người
ao động và người ao động trong thời kì đổi m i tuy ình thường nhưng rất v
đại.
39
Trư c Cách mạng tháng Tám, trong các sáng tác của Nguyễn Tu n,
chúng ta ắt gặp một th gi i nh n vật luôn có tâm trạng uồn chán, cô đơn,
tắc trư c cuộc sống. Họ muốn thoát y thực tại cuộc sống, tìm về quá khứ
lang thang trong những chuy n đi v định hoặc tìm quên, tìm vui, tìm say
trong đời sống trụy ạc. Sau Cách mạng tháng Tám người đọc ắt gặp những
con người m i v i niềm hân hoan trư c cuộc sống m i. Đ n v i T y Bắc qua
tập tùy út Sông Đà, nhà văn ý thức đi tìm vẻ đẹp tài hoa ở những con người
rất đỗi bình thường. Chính nhà văn đã từng nói, đ n T y Bắc à đ “tìm cái
thứ vàng mười của màu sắc sông núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười
mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn
bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và vững bền”.
Và Nguyễn Tu n cho rằng “đã là văn thì trước hết phải là văn” tức à văn
ph i đẹp, ph i trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác gi trên
toàn ộ tác ph m. Con người và sự vật, qua ngòi út Nguyễn Tu n, đều được
khai thác trên phương diện mỹ thuật và tài hoa nghệ s . Những con người ao
động m i được x y dựng dung dị và ấn tượng. Sinh thời Nguyễn Tu n u n
đề cao con người ở ph m chất tài hoa, nghệ s . Trư c Cách mạng nó chỉ có ở
một số nhóm nhỏ. Sau Cách mạng, cách nhìn nhận của Nguyễn Tu n có nhiều
n t đổi thay rõ rệt. Ông quan niệm nghệ s kh ng chỉ à những người àm
nghệ thuật mà nghệ s à tất c những ai tỏ ra thành thạo, điêu uyện trong
c ng việc và nghề nghiệp của mình. Nguyễn Tu n tìm được những người
nghệ s trong đời sống thường nhật. Những con người ao động trong thời kì
đổi m i, những anh hùng ao động. Qua ngòi út của nhà văn Nguyễn Tu n,
họ hiện ên v i một số đặc đi m nổi ật như sau:
Thứ nhất à người ao động v danh, kh ng tên, kh ng tuổi. Trong c
tập tùy út, những con người được nhắc đ n một cách rất chung chung. Tên
gọi của họ hầu h t mang tính phi m chỉ hoặc gọi tên theo nghề nghiệp. C
40
tập tùy út có rất ít nh n vật được nhà văn đặt tên. Tuy nhiên ở họ ta vẫn
nhưng ở họ ại toát ên đầy vẻ tài hoa nghệ s . Trong cuộc sống họ vẫn ngày
đêm cống hi n sức mình cho tổ quốc đẹp giàu. Ta có th gặp anh ộ đội trai
trẻ của n ng trường Điện Biên trong Đường lên Tây Bắc, hay những chiễn s
khu kinh t Sơn La – Nà S n àm việc v i phương ch m “h t đèn trời, có
trăng, h t trăng đã có đuốc”, hay ng ái đò trong Người lái đò sông đà, rồi
những người c ng nh n àm đường, trồng cao su ... Tất c những con người
ao động m i được đề cập trong tùy út Sông Đà có th à những người chi n
s , ộ đội năm xưa hay những người n ng d n thuần chất. Họ thuộc nhiều
thành phần khác nhau trong xã hội và đều có chung niềm tin yêu vào cuộc
sống m i. Thực sự đó là những anh hùng ao động. Qủa thật, cách mạng đã
đem ại cho Nguyễn Tu n một quan đi m m i trong cách nhìn nhận người và
việc. Nguyễn Tu n muốn khẳng định v i chúng ta rằng trong đau khổ người
d n nơi đ y đã ừng sáng ên ph m chất anh hùng ất diệt. Đó chính là vẻ
đẹp t m hồn xứ sở mà nhà văn đã khám phá ra. Đ n khi hòa ình chính họ
ại đem cái c ng sức của mình đ góp phần ki n thi t đất nư c, trở thành
những anh hùng ao động. Nh ại trư c kia, có Nguyễn Tu n đã rất thích
thú và vui sư ng khi đặt ch n ên v i m nh đất này. Ông hòa mình vào v i
dòng người đi ên T y Bắc, những anh ộ đội iên phòng, anh chị em c ng
nh n mỏ than, những chi n s àm đường xã hội chủ ngh a, v i c ng nh n
m trường cao su hay ngồi tỉ tê t m sự v i ng ái đò Lai Ch u có “tay lái ra
hoa”…vv.. những nh n vật của Nguyễn Tu n họ đều là những con người rất
ình thường, gi n dị chứ kh ng ph i là những con người “đặc tuyển” mà
Nguyễn Tu n ph n ánh trong “Vang bóng một thời” nữa. Cuộc sống vốn
kh ng cần khoa trương, đơn gi n cũng đủ đ ay động òng người; và những
con người cần cù ao động kia chính à những viên ngọc sáng mà Nguyễn
Tu n đã phát hiện ra như một chi n c ng trên con đường ên v i T y Bắc.
41
Nhà văn đã tr n trọng và ca ngợi họ trong những trang tuyệt út của mình
như một niềm tự hào của đất nư c.
Thứ hai à người ao động ình dị nhưng tiềm tàng nhiều vẻ đẹp.
Trư c h t à vẻ đẹp ngoại hình. Qua ngòi út của Nguyễn Tu n, họ đã toát
ên vẻ khỏe mạnh, dẻo dai. Có việc x y dựng dất nư c, x y dựng vùng
kinh t m i đòi hỏi ph i có những con người như vậy. Cách tác gi x y dựng
nh n vật được gắn iền v i hoàn c nh đất nư c, gắn iền v i thời kì x y
dựng cuộc sống m i. Ở họ kh ng còn à những n t th kệch, cục mịch mà
mang vẻ đẹp của tự nhiên, tạo hóa. Cách mạng tháng Tám thành c ng đã tạo
nên một ti ng vang n, nó khi n cho tư tưởng và cách nhìn người, nhìn đời
của tác gi cũng có sự thay đổi. Đó à quá trình nhận đường của nhà văn, quá
trình ấy giúp Nguyễn Tu n thay đổi cái nhìn về người ao động. Hãy nhìn
ng ái đò “tay ông lều nghều như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh ghì lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như
tiếng nói trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi lúc nào cũng mong
một cái bến xa xa đó trong sương mù”. Trên cái mênh mang của d i s ng Đà
ọt nư c ênh đênh, giữa p trùng v y thạch trận, nư c x đá, đá x sóng,
sóng xô gió cuồn cuộn gùn ghè ta thấy ng ái đò quắc thư c và con thuyền
sáu tay chèo đang dũng mãnh ăng ăng ư t qua.
Thứ a à những con người có nhiều ph m chất tốt đẹp như dũng c m,
tài trí nhưng ại rất khiêm tốn. Tác gi quan niệm “cuộc sống ở ta là một sự
lớn lên không ngừng”, trái tim Nguyễn Tu n hoà cùng nhịp đập của nh n d n
ao động. Ông nhận thấy giá trị của cuộc sống là sự ao động kh ng chỉ ằng
sức ực cơ ắp của tay ch n mà còn ao động ằng trí óc tạo ra những s n
ph m tinh thần đầy nh n văn. Mặt khác ng c ng nhận và tự hào cái công
ao của những người kh ng àm văn nghệ, nhưng họ cũng góp mồ h i c ng
sức của mình vào c ng cuộc x y dựng đất nư c. Chính sự cần cù sáng tạo
42
cu những anh chị c ng nh n n ng d n Quỳnh Nhai đã àm Nguyễn Tu n rất
xúc động: “Tôi quý mến những con người đang tạm thời lấy tay lấy chân
mình ra mà moi mà cuốc những vỉa than mỡ đang chờ cơ giới kéo lên”.
Nguyễn Tu n đã trao tặng người ái đò ao chi c huy chương anh hùng ao
động trên ngực như một sự i u dương cho tài trí, òng dũng c m và sự
khiêm tốn đáng quý của ng. “Ngực, vú, bả vai người lái đò chống sào
ngược thác hay bầm lên một khoanh củ nâu nó là vết nghiệp của đầu con sào
gửi lại đời đời cho người lái đò Sông Đà”. Vượt ngàn dặm xa x i Nguyễn
Tu n tìm đ n v i các chi n s ở đồn iên phòng T y Trang. Nguyễn Tu n đã
ph i thốt ên rằng: “Chao ôi, hình như từ muôn thuở, biên giới vẫn có một
sức hút đối với tình cảm con người”. Nhà văn vừa đi vừa ngẫm ngh về một
thời xa x i khi mà d n T y Bắc ph i mở đường ên T y Trang ằng, xương
ằng máu của mình đ đánh đổ thực d n Pháp. Trên đường ên đồn T y
Trang vừa đi vừa ị cỏ gianh cứa vào mặt Nguyễn Tu n càng thấm thía cái
c nh đen tối của một thời đã đi qua. Đ n khi gặp các chi n s v i cái mũ
ng có hai quai ịt tai, ng ại thấu hi u những nỗi vất v khó khăn của anh
em nơi đ y. V i một niềm tự hào, òng n phục v ờ v i những con người
ình thường nhưng ại àm được những việc mà kh ng ph i ai cũng àm
được. Nguyễn Tu n đã tạc nên những hình tượng đẹp đ về chi n s đồn iên
phòng T y Trang đang ngày đêm tay m súng, đầu đội mũ sao vàng phóng
tầm mắt ra xa mà canh giữ đất trời tổ quốc Việt Nam. Họ chính à những anh
hùng đẹp nhất trong mắt chúng ta, họ đã góp phần c ng sức của mình vào đ
dựng x y chủ ngh a xã hội Việt Nam. Sự hi sinh cao c của họ cho đất nư c
đã truyền cho chúng ta nhiều xúc c m cũng cố gắng đ àm những việc có ý
ngh a cho đất nư c th n yêu. Đ u chỉ có trèo đèo, vượt gió mà Nguyễn Tu n
còn dầm mưa mà hồ hởi ên Điện Biên thăm “Tỉnh cao su”. Lên đ n n ng
trường Điện Biên mà òng Nguyễn Tu n rất đỗi vui mừng khi được tận mắt
43
ngắm “Vườn ươm cao su Điện Biên trông thật là vui mắt thân cao su cao
quá tầm với, lá đã xanh um”. Những c ng nh n nơi đ y đang ngày đêm thử
nghiệm các giống cao su, đang dày c ng chăm sóc những c y cao su được
coi là mũi nhọn của Điện Biên. Nguyễn Tu n có th hãnh diện mà nói rằng:
“Vườn cao su Điện Biên không ngừng ra lá già lá non, tất cả những cái lá
cao su, giữa vườn này đang múa trong nắng thu, đang nhí nhảnh trong gió,
núi Điện Biên. Tất cả những cái cười lá, tất cả những lá tươi cao su vườn
Điện Biên như là một trận cười âm vang lên mà chế nhạo cái nhận thức giáo
điều của kỹ sư nông học Mỹ dám khẳng định bố láo rằng cao su chỉ tươi tốt
từ vĩ tuyến 10 trở vô thôi”.
Thứ tư là hình nh những con người ao động mang vẻ đẹp tài hoa
nghệ s . Một trong những thay đổi quan trọng của Nguyễn Tu n, đó là
những chuy n i n đậm n t trong tư tưởng người nghệ s từ cái t i tài tử gai
góc, kiêu ạc trở thành người nghệ s v i cái t i c ng d n gắn v i cuộc sống
của nh n d n, của đất nư c. Dư i ngòi út của Nguyễn Tu n, hình nh của
những c ng d n T y Bắc hiện ên vừa ình dị, vừa cao c , n ao đẹp đ ;
ại tài hoa nghệ s . Hình nh dũng mãnh của ng ái đò s ng Đà và đặc đi m
riêng iệt của ng kh ng th ẫn ộn v i ai. Hi u i t của ng ái đò ại càng
kh m phục hơn nữa. “Trí nhớ của ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy
mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất
cả con thác hiểm trở. Sông Đà đối với ông lái đò ấy như một trường thiên
anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái dấu chấm than, chấm câu
và những đoạn xuống dòng”. Lái đò ở miền cao thì cần sào chống … ái đò
ở miền xu i thì cần uồm. Hình nh ông lái đò được Nguyễn Tuân hun
đúc không chỉ ằng ời văn tài hoa nhiều màu v mà còn ởi ề s u kinh
nghiệm và hi u i t mà ng thu ượm được. Ông ái đò qua ngòi út
Nguyễn Tu n hiện ên như một vị dũng tư ng trư c trận th của đá, trư c
44
những uồng nư c hung dữ, trư c con nư c reo, nư c s ng, nư c ặc ặc... Và
trong cái đẹp đ , thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như
một nghệ s tài hoa. Ông ái điều khi n con thuyền một cách chủ động và
thuần thục. Ông ao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà ắt chúng ph i
quy hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh,
mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tu n miêu t hình
nh ng ái điều khi n chi c thuyền cứ như một nhạc s k o đàn vio ong.
“Người lái đò Sông Đà” là ư c chuy n n trong phong cách Nguyễn
Tu n. Trư c cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác ph m ằng
cách quay về v i quá khứ, v i một thời vang óng đã qua. Nh n vật của ng
là những con người tài hoa, ất đắc chí, những con người siêu việt, hi m hoi
đ mà ngưỡng mộ và đem đối ập họ v i ọn trưởng gi hãnh ti n, ngu dốt
v i thái độ khinh ỉ. Đó là những Huấn Cao, qu n ngục, Nguyễn… mang
t m trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nh n vật “Vang bóng một thời”
là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách
mạng Nguyễn Tu n đã tìm thấy chất tài hoa nghệ s ở những con người ao
động h t sức ình dị, gần gũi. Ông cũng xu i ngược nhiều nơi nhưng v i
tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào c ng cuộc
x y dựng tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói, đ n T y Bắc à đ “tìm cái
thứ vàng mười của màu sắc sông núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười
mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình
gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và vững
bền” [43; 59].
Tập tuỳ út Sông Đà của Nguyễn Tu n qua kh o sát, chúng ta thấy xoay
quanh một chủ đề duy nhất, th hiện nhiều c m quan văn hoá về phương diện
ca ngợi thiên nhiên, cuộc sống trong ch độ m i. Tuy nhiên, kh ng hạn ch ở
45
những điều đó, nhà văn đã hoà mình vào thực tiễn đời sống nh n d n, đồng
hành, th ng c m trư c những khó khăn, vất v như niềm tin vào ý chí, nghị
ực phi thường của con người miền T y Bắc và u n u n gắn v i s ng Đà
trong dòng ch y của thời gian: quá khứ, hiện tại, tiềm năng trong tương ai.
Tất c hòa trộn vào nhau tạo nên thiên tuỳ út xứng đáng trở thành một cuốn
ịch sử của kh ng gian văn hoá T y Bắc trên đường phát tri n của nó. Vì vậy,
nói Sông Đà có c ề rộng và c ề s u qu kh ng ngoa. Trong ài Đi mở
đường, tác gỉa đã đưa ra một c u văn ý ngh a: “…các chị công nhân làm
đường Phú Yên, các anh chiến sỹ làm đường Điện Biên và tôi đây, tất cả
chúng ta đều là những con người đầy nhiệt tình, đầy thiện chí, mỗi người đều
muốn đem lại một chút đến với cuộc sống. Đóng và góp vào đời sống, thật là
nhiều cách đấy. Có người cả đời chỉ hát một câu, một câu hát lịch sử nó lai
cuộc sống vọt lên. Có người cả đời chỉ toàn múa, càng múa thì cuộc đời lao
động quanh ta càng thêm thâm thuý và cao cả. Có người góp vào vài trăm
trang sách gọi là gởi gắm một đôi điều suy nghĩ độc lập của mình…” [54;
472]. Đó à ti ng òng cất ên đầy tự hào của người àm văn nghệ đồng thời
cũng muốn c ng nhận cái c ng ao, sức ao động của toàn th nh n d n ao
động. Ph i chăng, nhờ có cách mạng mà Nguyễn Tu n đã c m nhận tinh t
được đ n th .
Nhắc đ n Sông Đà, Nguyễn Tu n đã kh o o đưa độc gi ti p nhận cái
ăng kính c m quan về sự náo nức, s i nổi của một người vừa thấy ày ra
trư c mắt mình một cuộc sống m i cuồn cuộn của những con người m i ào ạt
đi t i. Ông ham muốn tột cùng k t giao, ng vội ắt quen v i người này, theo
gót người kia, t m tư v i người này, suy ngẫm cùng người nọ rồi hoà mình đi
theo họ, cùng ư c t i con đường ki n thi t Tổ quốc đang diễn ra. Cách mà
ông đang vi t như à một cuốn sổ ghi ch p, cất ên ti ng nói như muốn tham
gia c ng cuộc n kia cùng v i nh n d n ao động. Đ y kh ng ph i à ần đầu
46
tiên ng nói đ n họ v i tất c sự tho i mái của một tấm òng cởi mở, dễ dàng,
vui vẻ và có trách nhiệm đ n th . Giờ đ y, Nguyễn Tu n mang đ n c một
khung c nh ộn rộn những nh n vật đang hăng say c ng tác trên nhiều mặt.
Có người đi đắp đường giao th ng, có người đi x y dựng n ng trường trồng
úa, trồng ng , trồng cao su… Có người cầm súng gác đồn iên phòng… Nhà
văn đ n v i họ, vui vẻ, sung sư ng đang thay đổi và n ên. Sống, ao động,
đóng góp àn tay nhỏ vào sự nghiệp chung của d n tộc như thành thiên
anh hùng ca u n vang vọng trong trái tim mỗi người đã và đang thậm chí s
sống ch t cùng T y Bắc v i tình yêu quê hương thi t tha. Họ vượt qua mọi nề
hà, sợ hãi, ỏ qua những o ắng trư c mọi khó khăn, gian khổ , thử thách
trong c ng tác mở đường: “mở đường trên Tây Bắc thật là nhiều gian lao
nhưng đã thấy ầm ầm lên cái vui của người đắp đường cho xe cách mạng xã
hội chủ nghĩa tiến hàng ngang vào Tây Bắc sâu hơn nữa, đông hơn nữa,
nhanh hơn nữa. Anh chị em đi mở đường nhộn nhịp người cuốc, người xúc,
người đẩy, người gánh, người đào, người xẻ, người đánh gốc rừng, người cạp
bờ trên vực, cả bằng tay chân mình, cả máy húc máy ngoạm núi, máy dũi đồi,
tất cả đang hăm hở cúi xuống mặt đường ngổn ngang” [54; 462]. Sự gắn ó
v i T y Bắc, nhà văn thấu hi u và chia sẻ v i những người Đi mở đường và
tr n trọng, ca ngợi tinh thần, nghị ực của họ trư c sự hăng say ao động đối
v i ý ngh a n ao, s u sắc của sự tất y u mở đường xã hội chủ ngh a ở T y
Bắc và phát hiện được những cái quý áu trong t m hồn của người chi n sỹ,
người c ng nh n đi mở đường. Nguyễn Tu n y giờ ấm áp, đ n hậu, dùng
ngòi út tài hoa đ nói h t nỗi vui sư ng trong suy ngh , tình c m, c m xúc
của mình đồng thời nhà văn ngợi ca nghị ực phi thường, cái ý chí sắt đá, tinh
thần, trách nhiệm của những con người m i u n u n vươn ên, u n u n
khát khao, hy vọng vào cuộc sống m i. Đó à những cặp vợ chồng, con cái,
anh con trai, chị con gái, cứ từng đ i, từng tổ, toàn những con người quy t
47
t m quy t chí v i quê hương Điện Biên: “quê hương không còn là một cái
làng cũ nhỏ bé nào nữa. Quê hương ngày nay là nững cái ấp xã hội chủ nghĩa
do bàn tay chúng ta dựng lên khắp nơi trên Tổ quốc quê hương vĩ đại của mọi
người Việt Nam Bắc Nam một nhà chúng ta” [54; 493]. Chính nhờ c ng sức
của mỗi người như vậy mà c ng cuộc x y dựng xã hội chủ ngh a trên quê
hương T y Bắc ngày càng rộng mở hơn.
Phong c nh thiên nhiên Điện Biên trở nên tươi sáng, nhiều màu sắc, hình
khối hơn à nhờ c ng sức chăm o, vun v n của ao con người nơi đ y: “Điện
Biên trở nên đẹp chính là nhờ có công lao võ công của con người đã quyết
tâm chiến thắng xâm lược và ngày nay dũng cảm mở mang xây dựng trên
chiến trường lịch sử, biến nó thành một khu vực nhiều hoa nhiều quả nhiều
hạt nhiều cây, dựng lên nhiều công trình gạch đá và điểm tô thêm cho sông
núi nơi đây, càng ngày càng cải tạo thiên nhiên quanh mình cho nó đẹp hơn”
[54; 517]. Những người chi n sỹ, c ng nh n x y dựng của c ng trường dù
hoàn c nh nghèo khó nhưng ại rất giàu có về nhiệt tình ao động. Ngh a à
tri n vọng của qu n d n T y Bắc à rất n nhưng khó khăn trư c mắt thật ra
à kh ng ph i ít, con người nơi đ y tự vượt ên chính mình, vượt qua khó
khăn đ mang ại hơi ấm của cuộc đời m i. Chúng ta nhận thấy ở đ y, từ khi
tuyên ố từ ỏ cái “t i”, Nguyễn Tu n đã quan t m hơn đ n việc đi nắm ắt
cái quy uật th m mỹ chung nhất, phù hợp v i quan niệm của nh n d n, của
d n tộc và thời đại. Tuy vậy, cái nhiệm vụ của người nghệ s ch n chính như
tác gi vẫn được giữ ại, nó à cái Ch n – Thiện – Mỹ khai phá đồng hành
cùng Cách mạng.
C m quan của Nguyễn Tu n qua tuỳ út Sông Đà về cái đẹp của cuộc
sống m i, tình thần, ý chí của con người trong ch độ m i đã được nhà văn
i u hiện v i tình c m xúc động, tình yêu tha thi t, ch n thành, đáng tr n
trọng. Nhà văn đã gặp Phương – cán ộ địch hầu vùng cao Mèo cũ, nay à cán
48
ộ n ng trường àm giao th ng. Ông chưa kịp h t ỡ ngỡ thì Phương đã o
ng: “Ở Tây Bắc anh không nên ngạc nhiên với bất cứ cái gì nhất là từ nay
trở đi, trên cái đất quê hương thứ hai này sẽ còn nhiều cái chuyển biến đấy.
Nếu một lần nào sau này anh có dịp cứ leo dốc núi mà ví dụ có gặp tôi phụ
trách một cửa hàng mậu dịch nào thu mua xương khỉ, gấu, hổ, thu mua những
con sóc hay con trăn hoa gấm, mật ong cánh kiến, huyết bình, một mặt khác
bán ra muối, vải, nồi đồng, thì nhôm… thì cũng không nên ngạc nhiên… Cán
bộ Đảng ta, nhất là ở Tây Bắc, nhất là đối với một đồng chí gây cơ sở địch
hậu cũ, cán bộ Đảng nó cứ như là con dao pha ấy. Vứt đâu cũng được, cái gì
rồi cũng làm. Loay hoay ngày đầu nhưng có ý thức trách nhiệm, rồi cũng tìm
ra, vừa làm, vừa học…” [54 ; 600]. Hay một anh cán ộ địch hậu khác, nay
chuy n về àm giám đốc mỏ than Quỳnh Nhai vì ti p thu tư tưởng như trên
mà ngày đêm ui cui tự học thêm về địa chất. Nhà văn tìm thấy ở những nơi
heo hút của Tổ quốc những con người gan dạ trong chi n đấu và gan dạ c
trong những c ng tác m thầm ấy. Đêm ở c ng trường àm đường, Nguyễn
Tu n đã thao thức cùng hai chi n sỹ đang hừng hực khí th mai phá kỷ ục
đào đất 85 m t khối mỗi ngày. Ông say sưa k về việc các anh em thức đêm
đóng xe cút kít đ gi i phóng đ i vai ằng c niềm quý m n, tr n trọng vô
cùng: “những con người đang tạm thời lấy tay lấy chân mình ra mà moi mà
cuốc những than mỡ đang chờ cơ giới kéo lên” [54; 641]. Những con người
gặp gỡ trên các nẻo đường T y Bắc ngày nay, Nguyễn Tu n đã dành cho họ
một tấm òng thương yêu, kính trọng cho nên qua thiên tuỳ út chúng ta c m
nhận cái điều tốt đẹp nhất trong những người ấy đó à: òng hy sinh cao c
cho sự nghiệp x y dựng xã hội chủ ngh a, ki n thi t Tổ quốc.
Dừng ch n ở Tù Bú trong một đêm, Nguyễn Tu n gặp một đoàn kh o sát
địa chất trung ương, ng nhìn những anh ạn trẻ đoàn viên kh o sát kia thấy
họ thật à hạnh phúc, ở họ dường như kh ng ị phủ ên những u ám của quá
49
khứ miền T y Bắc này. Ông trìu m n gọi đó à “đoàn người triệu phú của
nhân dân” những “người phiêu lưu có phương hướng qua non sông Tây
Bắc”… Rõ ràng, càng đi rộng ra các miền đất nư c, các kho ng kh ng gian,
thời gian chi n đấu và x y dựng, hoà nhập vào nhịp sống hừng hực khí th
miền T y T y Bắc, Nguyễn Tu n càng hi u t m tư, tình c m cũng như sự khổ
đau, mất mát của con người ình dị nơi đ y. Chính ởi vậy, con mắt c m
quan của tác gi cũng dần thoáng đãng, phóng khoáng và rộn ti ng vui ên
nhiều.
Ti p nối theo mạch tư tưởng của Tổ quốc dư i ánh sáng của Đ ng, nhà
nư c và chủ ngh a xã hội, đ y à một c m quan văn hoá mà Nguyễn Tu n đã
dành rất nhiều c ng sức của n th n đ nhìn về những con người ao động ở
miền T y Bắc. Xuất phát từ í do đó, mà dẫu cuộc chi n giữa người ái đò ấy
v i dòng s ng ấy rất kh ng c n sức – ởi một ên à dòng s ng hung ạo v i
ao th ực áp đ o; ên kia, ng đò già v i vũ khí duy nhất à cái ơi chèo v i
chi c thuyền con. Th nhưng, trong tương quan chênh ệch ấy ại khi n hình
tượng người ái đò s ng Đà trở nên n ao, kì v hơn v i nhiều ph m chất
tuyệt vời. Người ta thường nhắc đ n vẻ đẹp của một con người có ý chí kiên
cường: “Cưỡi lên song thác sông Đà là phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”. Và
vẻ đẹp tỏa sáng, ộng ẫy m trùm ên khắp các trang văn à vẻ đẹp của sự
mưu trí, tài hoa. Riêng ở ph m chất này của người ái đò, Nguyễn Tu n đã tập
trung miêu t khá chi ti t và cụ th a vòng thạch trận đầy cam go, căng
thẳng. Vòng một: song nư c tấn c ng ở th chủ động, nên khá hung hãn và dữ
dội. Người ái đò đành dũng c m và chịu trận: “Ông cố nén vết thương” để
chuẩn bị cho chiến thuật của vòng vây thứ hai. Đến vòng hai: dòng sông vẫn
rất khôn ngoan, hiểm trở với các cửa tử, cửa sinh lập lờ, song người lái đò đã
nhanh trí mưu mẹo “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở cửa đường tiến”. Đ n vòng thứ a, người ái đò
50
đã ở th chủ động. Trí tuệ, tài hoa của người ái đò th hiện rõ nhất ở nghệ
thuật “phá thành vượt i”. Thắng trận qua a vòng v y, ng trở thành người tự
do trên s ng nư c; đồng thời cũng à một nghệ s chèo đò tay ái ra hoa. Hình
như, v i người ái đò ấy, vượt thác, đánh thạch trận trên s n đã kh ng còn à
nỗi ấm nh đeo đẳng “sinh nghề tử nghiệp” mà đã trở thành c ng việc ao
động h t sức ình thường: “Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái
bến cát có hang lạnh. Sóng thác xòe xòe tan trong trí nhớ. Sông nước lại
thanh bình”.
Rõ ràng, v i vẻ đẹp dũng c m mưu trí, tài hoa, hình nh người ái đò s ng
Đà nằm trong hệ thống những nh n vật của Nguyễn Tu n – ởi họ đều gặp
nhau ở khí chất tài hoa nghệ s . Song n u như trư c cách mạng, Nguyễn Tu n
chỉ thấy cái Đẹp ở những qu n tử ất đắc chí, tài tử đào nương, k p hát, nhà
nho cuối mùa… thì sau cách mạng, ng đã khám phá ra vẻ đẹp ấy tiềm n
ngay trong những người ao động ình thường. Một ng ái đò v danh ở nơi
núi rừng heo hút trong phút chốc, dư i ng kính – ngòi út nhà văn ỗng trở
thành nghệ s ; một c ng việc ái đò ình thường được n ng cao ên như một
thứ nghệ thuật siêu phàm. V i ý ngh a ấy, tùy út Sông Đà mang đậm chất
ãng mạn cách mạng. Và mỗi trang văn, như ng n ên ài ca ca ngợi con
người và cuộc sống m i. Hình nh người ái đò như gợi ại trong t m trí độc
gi hoài niệm về người anh hùng Uy ixơ của thiên anh hùng ca Homerơ vi t
thuở nào. Cũng ại có dánh dấp của hình nh ng già nơi i n c trong tác
ph m Ông già và biển cả của một No en văn học – nhà văn người M
Heminway ởi sự chinh phục và chi n thắng sức mạnh của thiên nhiên. Và
chúng ta đều hi u rằng, ài ca người ái đò ấy chính à sự k t hợp giữa tấm
òng yêu thiên nhiên s u sắc và thái độ i t n ng niu, tr n trọng ph m chất
của người ao động trong quá trình x t dựng cuộc sống m i – x y dựng chủ
ngh a xã hội ở miền Bắc. Do vậy, toàn ộ thiên tùy út Sông Đà nói chung và
51
Người lái đò sông Đà nói riêng thực sự “đánh dấu ư c chuy n i n cơ n
của t m hồn Nguyễn Tu n sau ần nhận đường thứ hai của các nhà văn đi vào
xã hội chủ ngh a” [14, 542].
Suốt một đời cầm út Nguyễn Tu n đã say sưa đi trên hành trình tìm
ki m cái đẹp cho mình và cho đời; cái đẹp chính à c m hứng th i thúc ng
ên v i núi rừng, v i con người T y Bắc đ rồi có được tập tùy út Sông Đà.
Nguyễn Tu n kh ng chỉ nhìn và vi t về vẻ đẹp ên ngoài, mà ng còn chú
trọng khám phá, ki m tìm vẻ đẹp tiềm n ên trong c sự vật và con người;
đó m i chính là vẻ đẹp thực sự, vẻ đẹp tồn tại u dài chứ kh ng hẳn là cái vẻ
ề ngoài dễ phai tàn. Vẻ đẹp T y Bắc kh ng chỉ có thiên nhiên hoang sơ,
mộng o n chứa nhiều tiềm năng; mà còn có những con người sáng ên
ph m chất anh hùng vẫn ngày đêm cống hi n sức mình đ ki n thi t đất
nư c. Mỗi n t đẹp mà Nguyễn Tu n khám phá ra đều góp phần àm nên vẻ
đẹp toàn th của non s ng đất Việt.
2.2. Nh n vật người chiến sĩ
N u như trư c Cách mạng tháng Tám trong các sáng tác của Nguyễn Tu n,
chúng ta ắt gặp một th gi i nh n vật u n có t m trạng uồn chán, c đơn,
tắc trư c cuộc sống. Họ muốn thoát y thực tại cuộc sống, tìm về quá khứ
ang thang trong những chuy n đi v định hoặc tìm quên, tìm vui, tìm say
trong đời sống trụy ạc. Thì Cách mạng tháng Tám à cơn ão may mắn đã
àm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của mỗi con người, àm thay đổi tình c m
của mỗi cá nh n. Người đọc ắt gặp những con người m i v i niềm h n hoan
trư c cuộc sống m i. Đ n v i T y Bắc, Nguyễn Tu n ý thức đi tìm vẻ đẹp tài
hoa ở những con người rất đỗi ình thường. Đó à những người d n ao động
ình thường, nhỏ nhưng ại toát ên vẻ đẹp tài hoa nghệ s đang ngày đêm
cống hi n sức mình cho tổ quốc đẹp giàu.
52
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
(Tiếng hát con tàu – Ch Lan Viên)
Trong những ngày tháng c nư c rộn ràng ên đường theo ti ng gọi của
“tâm hồn Tây Bắc” đ x y dựng tương ai của miền T y Bắc, của tổ quốc Việt
Nam, có i t ao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình ột xác đ đ n v i
cách mạng. Một trong những nghệ s yêu nư c ấy à Nguyễn Tu n – c y độc
huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang ại những c y hoa
thơm th o cho đời.
Một quy uật tất y u của cuộc sống đó à nơi nào có áp ức, óc ột thì
ắt có đấu tranh. Người d n T y Bắc đã sống trong đau khổ, trong tăm tối vì
th khi ánh sáng của Đ ng ên đ n núi rừng T y Bắc này thì người d n ở đ y
nhiệt tình hưởng ứng. Tiêu i u à Đất cũ Sơn La một m nh đất mà theo
Nguyễn Tu n “có thể gọi là cái tỉnh của công nông và trí thức cách mạng,
của những người tù chính trị bị đế quốc phát vãng lên cho chết mòn trên
đường rừng” [54; 214]. Lịch sử đã ghi nh n nhiều đồng chí yêu nư c ph i ỏ
mạng ở nơi rừng thiêng nư c độc này. D n gian từng có c u “Nước Sơn La
ma Tà Pú” qu kh ng sai. Nơi đ y kh t ti ng à địa ngục trần gian, giam giữ
những chi n s cộng s n, đàn áp óc ột nh n d n địa phương. Nhưng cho dù
có đàn áp, có khủng ố đ n đ u đi chăng nữa cũng kh ng có tác dụng đối v i
người cộng s n ị cầm cố trong nhà ngục Sơn La: “Chi bộ Sơn La vẫn hoạt
động mạnh, sự lãnh đạo của chi bộ nhà tù vươn ra đến cuộc sống ngoài giới
hạn nhà tù. Đã có những người thanh niên Thái cảm tình với Đảng, và chính
những người quần chúng này lại là những người không ngày nào ta thấy cổng
đề lao mở đóng luôn luôn trên đồi tỉnh Sơn La” [54; 223]. Tiêu i u à đồng
53
chí Lò Văn Giá, người K n – Xô – M n Thái đen đầu tiên được giác ngộ tư
tưởng cách mạng và đã trở thành “cánh tay phải của Đảng” [54; 225], à một
người “vui tính nhưng điềm đạm, linh lợi và kín đáo” [54; 225], đã đưa đường
cho các đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Tr n,
Lưu Hi u về v i phong trào cách mạng đang rực cháy năm 1943, sau khi các
đồng chí vượt ngục Sơn La. Hình nh đồng chí Lò Văn Giá hiện ên thật ch n
thật và đẹp đ , một chàng thanh niên ưu tú đại diện cho hàng ngàn người d n
T y Bắc đã nghe theo ti ng gọi của Đ ng và Bác Hồ đ đứng ên gi i phóng
quê nhà. Nguyễn Tu n đã dùng những từ ngữ đẹp nhất đ nói về anh như một
niềm tự hào của người d n T y Bắc. Đó à một n t đẹp kh ng th phai mờ.
Ngoài ra tổ chức “Thanh niên cứu quốc Thái” được thành ập đã góp phần
tăng thêm sức mạnh cho Đ ng ti n ên gi i phóng d n tộc. Đủ đ chúng ta tự
hào rằng ở giữa nơi tối tăm tù ngục này, ừng sáng ên cái ph m chất toàn
diện cái khía cao nhã của người cộng s n, trở thành hình mẫu ý tưởng cho
các d n tộc anh em đứng ên mà iên k t v i nhau chống giặc.
Du hành quá các trang văn của thiên tuỳ út, Nguyễn Tu n như thủ thỉ
v i người đọc về một quá khứ đáng tự hào, đáng học tập noi theo. Thời gian
chưa th xóa h t những đau thương nhưng đã àm ngời sáng ph m chất cách
mạng của đồng ào T y Bắc. Nguyễn Tu n cứ say sưa m i mi t mà nói về
T y Bắc, nói về cái đẹp tiềm n mà nhỡn quan nhà văn m i khám phá ra,
“chất vàng mười” mà ng đang đi tìm. Chất vàng đó ở những người cán ộ
thời kì chống Pháp được t i uyện qua ò ửa địch hậu miền T y, ở những
người cộng s n kiên cường hoạt động trư c Cách mạng tháng Tám đã nêu cao
tấm gương ất khuất ở nhà tù Sơn La mà tiêu i u à đồng chí T Hiệu “một
bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái vui hoa quả xã hội
chủ nghĩa của Sơn La thủ phủ Tây Bắc ngày nay” [55, 208]. Nguyễn Tu n đã
dành những trang vi t h t sức trang trọng thành kính đ vi t về đồng chí T
54
Hiệu trong tùy út Đào cộng sản: “Giữa ngục tù này, người cộng sản đã
giồng hoa đào giữa một chỗ toàn có sự đầy đọa giết mòn kiếp người” [55,
230], đủ đ thấy một người chi n s cách mạng có t m hồn nghệ s , ý chí sắt
đá nhưng vẫn th hồn theo trăng vượt ra khỏi cái kh ng gian tù ngục mà sống
chi n đấu, mà ngh phương ch m, đường ối đ àm cách mạng. Đồng chí T
Hiệu úc đó àm í thư nhà tù Sơn La đã vi t ra a cuốn sách nêu rõ các mặt
inh vận, d n vận đ tuyên truyền cho các thanh niên yêu nư c d n tộc Thái
úc ấy giờ. Th rồi dần dần từng chút một người d n đã hi u tấm ch n tình
của Đ ng, thấm nhuần tư tưởng yêu nư c “Bà con nghèo ở phố bản rất
thương người tù chính trị. Từ chỗ thương yêu kính trọng rồi đến chỗ nhớ
mong”. Đủ đ thấy c ng ao giác ngộ của đồng chí T Hiệu đối v i à con
d n tộc n đ n nhường nào. Nhà văn ph i à một người yêu T y Bắc, am hi u
ịch sử, địa ý, phong tục tập quán… nơi đ y thì m i có th vi t chi ti t cặn k
về T Hiệu và Sơn La đ n như vậy. Và Nguyễn Tu n chắc chắn rất tự hào về
những anh hùng trên miền T y Bắc ởi những gì mà nhà văn đã chuy n t i
đ n v i ạn đọc đã nói ên tất c ; một kh ng khí thiêng iêng mà hào hùng.
Còn chúng ta, những th hệ đi sau kh ng chỉ tự hào về T y Bắc mà chúng ta
còn tự hào vì có Nguyễn Tu n, người chi n s – nghệ s tài hoa và giàu òng
yêu nư c.
Mỗi ần đ n Sơn La, Nguyễn Tu n ại “hăm hở trèo ngay một cái dốc
giữa tỉnh cốt để thăm một gốc đào, gốc đào lịch sử” [55; 205]. Đứng ngắm
c y đào mà òng Nguyễn Tu n tưởng nh đ n người chi n sỹ ất diệt T
Hiệu: “Gốc ngoài tường đào nở bung, cành nào hoa cũng mãn khai, trông mà
có cảm tưởng như đó là một người đứng ở ngoài nghển cao lên mà quan sát
hộ hai người bạn bên trong, và đang hớn hở báo những tin vui cho bạn cách
tường” [55; 206]. Hoa đào vốn à i u tượng của mùa xu n, trên cái đỉnh đá
T y Bắc, giữa kh ng gian ịch sử Nguyễn Tu n đã “cảm động như một người
55
đã trót nhỡ ăn tết sớm quá và đón tuổi xuân của mình nhanh tay hơn bao
nhiêu người bạn khác ở đồng bằng – đồng bằng lúc này chắc chắn là chưa nở
hoa đào” [55; 206]. Người đọc tìm thấy cái mạch nối iền từ những anh hùng
T Hiệu, Lò Văn Giá, qua những anh hùng T V nh Diện, Phan Đình Giót…
của Điện Biên Phủ.
Trong cái đêm dài tăm tối mà ọn thực d n và tên vua họ Đèo phủ ên
T y Bắc, tác gi soi ên ánh sáng của những hoa đào cộng s n, ánh sáng đ i
mắt của người chi n sỹ cộng s n. Nguyễn Tu n đã ph i thốt ên rằng: “Nghĩ
mà thấy yêu ông Tô Hiệu quá đấy, yêu ông như mọi con người ta vẫn kính yêu
một nhà thơ hay và lớn… ông thì đã khuất núi rồi, nhưng người đi vẫn còn để
lại một gốc đào. Trên hoang tàn gạch đá và sắt lạnh của ngục, còn như vẳng
thấy ông trước khi khuất đi còn quay lại mà lấy cái câu Kiều đào đông cười
gió, với cái ung dung tự tại của một người thật là lạc quan cách mạng, với cái
tiên tri bình tĩnh của một người biết thấu đến cái vận hội tươi vui trong hai
mươi năm sau này tỉnh Sơn La đây và Tây Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội” [32;
206 – 207].
Tác gi n ại chuyện hoa đào nhà pha giăng xà im Sơn La cũng à đ
chứng tỏ thêm phần nào cái ph m cách toàn năng của con người cộng s n
nhiều trí tuệ, chính trị nhưng cũng rất đa tình đa c m đối v i đồng oại, đối
v i cõi tự nhiên. T y Bắc được gi i phóng nhưng kèm theo đó à những hy
sinh mất mát. Nguyễn Tu n đã đ n thăm ngh a trang Điện Biên gặp gỡ các
ki n trúc sư đang v ki u cho đài iệt sỹ và cho ngh a trang. Đ nh ơn những
ậc anh hùng đã hy sinh, và đ tưởng tượng ên hàng c y gạo s trồng ở ối
vào ngh a trang “Hoa gạo nghĩa trang sẽ vẩy lên trời, sẽ điểm lên bầu trời
Điện Biên một thứ mầu thắm tươi nó đúng là cái mầu nhiệt huyết của anh
hùng và chiến sỹ, những người không chết được, những người sống vĩnh cửu
trong lòng chúng ta” [32; 141]. Một t m hồn nghệ sỹ ch n chính, nên đi đ n
56
đ u Nguyễn Tu n cũng có th a cà ắt chuyện, nói h t chuyện này chuyện
kia đ mà hòa mình vào cuộc sống đ mà vi t cho hay cho ch n thực.
Lật giở từng trang tùy út của Nguyễn Tu n ta c m nhận được một con
người m i khác hẳn v i Nguyễn Tu n trư c cách mạng. N u Nguyễn Tu n
trư c cách mạng, đ khiêu khích v i cái xã hội kim tiền nhố nhăng, cái t i của
Nguyễn đã “lượm những hòn đá thực to ném lung tung, bất kể là trúng đích
hay trật sang bên cạnh”. Ng n ngữ của Nguyễn do đó cũng à một thứ ng n
ngữ khinh ạc, kênh kiệu “dấm hẳn cứ như đấm vào họng” người ta. Bởi vì
“đời nó ngu thế không bướng bỉnh thì sao có được” (Đôi tri kỷ gượng).
Cách mạng đã hư ng ngòi út của nhà văn kh ng ph i à sự nổi oạn của
cái t i “ ất đắc chí” mà à một vũ khí tấn c ng của người chi n thắng.
Nguyễn Tu n đã i t dùng ngòi út của mình đ mở rộng trí tưởng tượng, àm
phong phú thêm tình c m, năng khi u th m mỹ và vốn tri thức cho người đọc.
Nguyễn Tu n chọn việc tìm về quá khứ đau thương đề từ đó say mê c y đào
T Hiệu, trầm ng m trư c ngh a trang iệt sỹ… Mục đích cao c hơn c à
nhắc đ n họ đ ấy đi m tựa cho mình, àm gương đ sống đ thay đổi n
th n mình phù hợp v i cuộc sống m i. Dường như Nguyễn Tu n muốn ạn
đọc đừng ãng quên quá khứ, cho dù cuộc sống m i có tốt đẹp hơn trăm ngàn
ần thì cũng nên nh rằng T y Bắc đã từng đau thương, từng hi sinh rất nhiều
m i có được ngày h m nay. Đ những trang văn này đ n được v i ạn đọc,
Nguyễn Tu n đã tr i qua ao khó nhọc, nguy hi m. Số à trên con đường đ n
v i T y Bắc, mặc dù gi i phóng rồi nhưng Lai Ch u vẫn còn thổ phỉ hoành
hành, đoạn từ Quỳnh Nhai sang Than Uyên đ u có đường cái, ng ph i xin
hẳn một con ngựa và một d n qu n cứ theo đường mòn mà đi, a ngày kh ng
gặp người đi ngược. V i hoàn c nh úc ấy giờ đi và vi t về T y Bắc ph i nói
à một chi n c ng.
Nguyễn Tu n có cái tài à vi t về vấn đề gì cũng tìm hi u vấn đề đó đ n
57
nơi đ n chốn. Ông trèo đèo, ội suối đi đ n từng nơi hỏi han từng người đ ấy
tư iệu vi t văn; chính vì th mà nhiều trang tùy út của ng như : Một tý lịch
sử về một bản lí lịch, những trang vi t về Đất cũ Sơn La, Phố núi, Đào cộng
sản, Xòe…phần n à những m nh chuyện vụn vặt nghe k ại nhưng dư i
ngòi út của Nguyễn Tu n nó đã trở nên sống động và ch n thực hơn. T m
hồn cao đẹp của người d n T y Bắc, các anh hùng kháng chi n… được
Nguyễn Tu n đưa vào tác ph m của mình một cách trang trọng nhất.
Cuộc sống quanh ta vốn cũ k , tầm thường. Ngày ại qua ngày, m y vẫn
ay, gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn à người mang ại cho chúng ta một
th gi i m i, tinh kh i, kì diệu. Nguyễn Tu n à một nhà văn, một người góp
phần sáng tạo ại th gi i. Văn chương của Nguyễn Tu n mang đ n cho
chúng ta một ch n trời m i, huyền í, riêng iệt, hấp dẫn và độc đáo đó à
ch n trời của cái đẹp của sự tài hoa uyên ác. Dư i ngòi út của Nguyễn Tu n
các anh hùng d n tộc Mèo, Thái, Kinh,…đang ngày đêm tỏa sáng dẫn đường
cho th hệ sau ư c ti p con đường họ đã đi, góp phần àm đẹp trang sử vàng
của d n tộc . Qua đ y, chúng ta đã c m nhận được c m quan văn hoá đầy i
tráng của nhà văn dành cho thiên tuỳ út của mình.
2.3. Nh n vật kẻ thù m lược
. . . Tên chúa đất Đèo V n Long
Kh ng ph i ngẫu nhiên Nguyễn Tu n tạt vào Lai Ch u đ tìm hi u Một
tí về lịch sử và một bản lý lịch về tên Đèo Văn Long và đội xòe của hắn.
Nguyễn Tu n dùng ối văn của tòa án truy một tên tội phạm, v i tội danh rất
n tr i dài qua vài tuỳ út. Đèo Văn Long hiện ên như à một nh n vật ph n
diện sắc n t của tập “tùy út – ti u thuy t” S ng Đà, hình nh tăm tối của nó
có tác dụng của những đường viền đen àm sáng rõ thêm màu sáng của cuộc
đời T y Bắc ngày nay. Tác gi như muốn khắc s u vào t m trí người đọc một
58
quá khứ đau khổ, sầu th m mà nh n d n T y Bắc đã ph i tr i qua. “Tôi nói
đến một cái xấu có tên có tuổi và có tội ở Tây Bắc… Cái xấu ấy tên là Đèo
Văn Long. Cái xấu ấy đã được Tây phong vương cho. Thực dân Pháp và vua
An Nam Bảo Đại đã công nhận cho Đèo Văn Long làm vua ở Tây Bắc” [32,
152].
Đ y à một hiện thực ịch sự k về việc sau khi chi m được Lai Ch u,
thực d n Pháp dựng ên một ộ máy quan ại người n xứ. Cha con người
Thái Đèo Văn Long chia nhau cai qu n các ch u ị. Tự tin vào chỗ dựa o
trợ tinh thần cũng như sức mạnh qu n sự của Pháp. Đèo Văn Long tho sức
đàn áp và óc ột thậm tệ nh n d n ta. Dinh thự của Đèo Văn Long à nơi ăn
chơi trụy ạc của ọn thống trị, à nơi giam cầm, tra tấn dã man những người
yêu nư c. Kh ng những th “Họ Đèo đã bán đi bán lại Tây Bắc cho đế quốc
Pháp tới hai lần” [32, 159]. Bằng giọng văn của một người đang truy x t, như
một quan tòa. Nguyễn Tu n đã thẳng thắn chỉ ra tội ác mu n đời kh ng rửa
sạch được của cha con họ Đèo đã g y ra cho nh n d n T y Bắc. “Đèo Văn
Long đục dân Thái Trắng đến tận tủy, đẽo dân chỉ còn có xương, tính tham
lam vô độ, của Đèo Văn Long đã thành câu cửa miệng của người Thái người
Hoa Kiều, người kinh phố Lai Châu” [32, 163 – 164].
Nguyễn Tu n cho ta chiêm nghiệm cuộc sống thê th m của người d n
dư i ch độ cũ mà ng đã dày c ng tìm hi u v i một sự quan t m h t sức tỉ
mỉ như chính ng à một chứng nh n ịch sử. Có những việc còn ám nh trong
òng người đọc như “Những tảng đá đen đầu cổng nhà Đèo Văn Long đã có
những lúc lênh láng máu người… Không thể nhớ hết được những vụ mổ bụng
moi gan ăn sống” [32, 169 – 170]. Bằng sự tài hoa, vốn học hi u i t và sự
nghiên cứu tỉ mỉ, Nguyễn Tu n đưa đ n cho đọc gi sự ghê rợn về một giai
đoạn ịch sử khắc nghiệt, càng khi n ta căm gh t ch độ cũ tàn ạo và độc ác.
Chúng ta càng s i sục ởi tội ác của cha con họ Đèo thì ta ại càng thêm yêu
59
cuộc sống m i, ch độ m i.
Có trên đời này kh ng có cái đẹp gọi à toàn diện và hoàn h o c , cho
nên Nguyễn Tu n đã thốt ên rằng: “Chao ôi, núi và sông Lai Châu đẹp lắm,
các bà các chị Thái trắng Mường Lay đẹp lắm, hiền lắm, nhưng bóng tối vua
quan Thái và tội ác Pháp ở đây cũng trùng trùng điệp điệp như núi rừng
quanh đây” [32, 183]. Nguyễn Tu n cho chúng ta thấy ên cạnh những t m
hồn đẹp của những con người thánh thiện vẫn có một vài đi m u tối của
những con người ạc ư c. K về tên vua họ Đèo, như một v t xư c của trang
sử vàng T y Bắc s àm cho người đọc nhận ra rõ hơn n t đẹp dịu dàng của
những c gái Thái và sự mạnh m của những chàng trai d n tộc trên quê
hương T y Bắc.
Tùy út vi t về T y Bắc à một c ng trình nghệ thuật mà Nguyễn Tu n
đã sáng tạo ra ên cạnh vẻ đẹp tuyệt ph m của tạo hóa thì vẫn còn những
m nh màu u tối mà nhìn vào đó người đọc s thấy hiện ên cái vẻ thê th m
đau thương của con người thời kỳ tối tăm, chìm trong đêm trường trung cổ.
Cái đêm tối đó đã trở thành nỗi ám nh v i mỗi người d n T y Bắc và c
chúng ta hôm nay.
“Trước đây, trong vườn Tây Bắc vắng hoang, cỏ cây một màu khổ não.
Đau khổ ngày xưa, một trong năm ngàn câu hát Mèo còn vẳng lại:
Em nắm ba nắm cơm tiễn anh
Ví có thương em thì ăn cơm em nắm
Bằng không thương em
Thì lội ba cái suối để cơm lại
Múc ba bát nước đổ xuống
Xóa hết đi những vết chân này” [32; 186 – 187].
Nguyễn Tu n k ại một chuyện tình đau khổ của một đ i trai gái Mèo
khi n ta iên tưởng đ n Vợ chồng A Phủ, chỉ có điều cái k t kh ng giống
60
nhau. Khi mà đêm dài T y Bắc chưa được ánh sáng của Đ ng chi u rọi, thì
những con người đau khổ nhất có à những người phụ nữ. Mị à một c gái
trẻ đẹp yêu đời, chăm chỉ ao động, nhà nghèo những rất hi u th o. Đang tuổi
yêu đương nàng chở đợi người yêu trong một đêm hội mùa xu n, ỗng ị con
quan thống ý à A Sử ừa ắt về àm vợ, àm d u gạt nợ cho nhà thống ý Pá
Tra. Từ đó Mị đã ị óc ột sức ao động đ n cùng cực, chịu khổ nhục triền
miên: quay sợi, dệt v i, chẻ củi, đi cõng nư c dư i khe suối… Mị ị giam
hãm trong một kh ng gian chật hẹp và tù túng, căm uồng úc nào cũng m u,
cửa sổ à một ỗ vu ng ằng àn tay. Cô nhìn thời gian ngưng đọng như
kh ng d vãng, kh ng hiện tại và kh ng tương ai, Mị ùi ũi như con rùa nu i
trong xó cửa. Gia tăng thêm cái ách áp ức nặng nề ấy còn à sự mê tín thần
quyền: đã ị trình ma nhà thống Lý thì chỉ còn i t đợi ngày rũ xương ở đ y
th i. Con người sống như n ệ, còn chúa đất ộng hành. N u như T Hoài
dựng ên ức tranh ch n thực về số phận i th m của người d n nghèo miền
núi dư i ách áp ức của phong ki n và thực d n thì Nguyễn Tu n ại ật dở
từng trang đau khổ của con người nơi đ y. Người d n T y Bắc đ u chỉ đẹp về
hình thức mà t m hồn cũng đẹp. Chính vì sự thánh thiện, chân chất, thật thà
của họ đã à nguồn cơn cho mọi tội ác của những kẻ gian x o.
Đèo Văn Long đ u chỉ à tên tay sai của thực d n khát máu người, hắn
còn à một tên háo sắc ưa thích gái đẹp và có đời sống sa đoạ, đ y chính à
nguyên nh n của mọi đau khổ, của những chuyện tình tan vỡ, của nỗi ất
hạnh của gia đình tan tác…. Đó à xòe “một thứ tô nghệ thuật dân cày miền
núi phải đóng hàng năm cho địa chủ quan lại” [32, 190]. Mà người nắm giữ
thứ t này kh ng ai khác chính à chúa đất phong ki n Đèo Văn Long. “Đèo
Văn Long thì không biết bao nhiêu là đôi xòe, muốn bao nhiêu đội cũng được,
nó là ngoại lệ… trước khi ngủ là sở tại phải có xòe. Xòe trong tiệc rượu, Đèo
Văn Long ngủ luôn với xòe… y như cú vọ qua đâu là hau háu tìm phụ nữ để
61
phát triển các đội xòe y chọn những cô nào tốt vóc đẹp mã, trắng, có duyên
có dáng, giọng tốt điệu mền, da sáng. Y nắm lấy danh sách rồi về dinh, cho
lệnh đi tróc nã xòe” [32, 190 – 191]. Con người ở đ y đã trở thành món đồ
chơi đ thực d n, chúa đất hành hạ ộng quyền, còn gì đau khổ hơn th nữa.
Vẫn à một Nguyễn Tu n ngày trư c, nhạy c m v i cái đẹp và nhìn sự
vật nghiêng về góc độ th m mỹ. Nhưng kh ng còn à Nguyễn Tu n nghệ
thuật vị nghệ thuật nữa. Nhà văn đã nhìn cái đẹp dư i ánh sáng của quan đi m
giai cấp, dư i góc độ của những vấn đề xã hội. Những đội xòe Thái trư c đ y
chỉ à những toán khổ sai đàn à chung th n ị chúa đất T y Bắc cầm tù. Xòe
à một đề tài có tính chất nghệ thuật, nhưng ở đ y Nguyễn Tu n ại tập trung
ghi “một số c m xúc nặng nề về mặt xã hội hơn à kỹ thuật vũ đạo và vũ
thuật”. Trong tùy út Xòe t m hồn nghệ s của Nguyễn Tu n đã xúc động s u
sắc trư c những cuộc đời oan trái ị đày đọa, ị cầm tù trong u đài của ọn
chúa đất. Ông nghe rõ cái ti ng thở dài não nuột của à mẹ Thái có c con gái
đẹp ị ắt đi múa hát nhà người: “nó buồn hơn cả cái tiếng vật mình của cối
nước giã gạo đêm…”.
Nguyễn Tu n đã dành rất nhiều t m sức của mình dùng ngòi út vi t ên
những áng văn đ th ng c m đ xối xa v i những tài sắc ị cưỡng ức àm n
tì hầu đệm hầu chăn và hát múa mua vui cho ọn ạo chúa: “Ở nhà Xòe Đèo
Văn Long, cô gái Xòe đêm lạnh chỉ quấn một cái chăn, đúng cái chăn đế quốc
ngày xưa vẫn phát cho tù, nhưng đã có nhiều đêm có tiệc rượu tiệc nhảy, cô
Xòe đội Xòe Đèo Văn Long đã bị cưỡng bức biến thành một cái đệm sống để
cho quan khách nhà họ Đèo nằm lên” [32, 192].
Còn gì thê th m hơn, khi con người kh ng được àm người, nói như Mỵ
trong Vợ chồng A Phủ của T Hoài con tr u con ngựa àm việc còn có úc
nghỉ, ở đ y ki p người mà kh ng ằng ki p tr u ngựa. Nguyễn Tu n vi t ài
Xòe v i nỗi niềm xót xa v hạn, tình c m chủ quan của người nghệ s kh ng
62
n n được qua từng c u văn như nức nở nghẹn ngào, như ti c thương cho
những cuộc đời, nhan sắc ị tàn phai hủy hoại: “Sau khi cả bố cả con nhà nó
đã tranh nhau mà đè lên thì nghệ thuật Xòe đã thành một cái nệm lót từ tay
Đèo Văn Long đưa đến cho các quan tướng bù nhìn dưới xuôi và nhất là đưa
đến cho các cố vấn chính trị Pháp, cố vấn quân sự Mỹ” [32, 192]. Kh ng chỉ
ị hành hạ về th xác mà còn ị hành hạ về c tinh thần, khi n cho những
ng hoa núi rừng như ị đốt cháy “Đèo Văn Long bắc vạc dầu lên bên cổng
lớn để luộc xôi gỗ sàn nhảy. Chân cô Xòe đã bỏng cháy trên sàn này để tim
cô càng giá buốt đi” [32, 193].
Trư c đ y trong tác ph m, Nguyễn Tu n đã có người đánh đổi c cuộc
đời mình cho nghệ thuật “Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay” mà vẫn cứ sẵn
sàng ch t trên c y đàn oan nghiệt (Chùa Đàn). Đã à kẻ coi nghệ thuật thuần
túy à sống cao nhất của đời mình, à con người nghệ thuật vị nghệ thuật
được ý tưởng hóa. B y giờ mỗi ần múa à một ần ch n c gái Xòe rỏ máu,
người con gái cứ giẫm ên máu tươi của mình mà múa. Cái m tuýp “rỏ máu”
trong nghệ thuật được dùng trở ại nhưng đã mang một ý ngh a tố cáo s u sắc.
Nguyễn Tu n dùng ối văn của tòa án truy một tên tội phạm. Đèo Văn Long
hiện ên như một nh n vật ph n diện sắc n t của tùy út. Hình nh tăm tối của
hắn có tác dụng của những đường viền đen àm sáng rõ thêm màu sáng của
cuộc đời T y Bắc sau này: "Ngoài sân múa Xòe kia, tiếng thác Sông Đà vẫn
xô đá ào ào và trong đêm tiệc, máu đồng trinh cứ rỏ theo bước đi của đôi
chân khiêu vũ, cô gái Xòe cứ giẫm lên máu mình mà múa, rồi máu tươi ấy khô
dần một đống trên một cuộc đời đã biến thành một cái đệm, lớp máu đêm sau
đóng vảy lên lớp máu đêm đầu là cứ thế, cứ thế” [32, 193]. Mười tám trang
sách nói về Xoè, chứa đựng tài iệu của một cuốn ti u thuy t não nùng i t
ao cho đời cũ của các d n tộc T y Bắc, từ những ngày vùi dập đau thương
cho những ngày ắt đầu chi u rọi ánh sáng của đ ng. Hình nh những c xoè
63
Thái của Đèo Văn Long đọng ại trong t m trí chúng ta như những c “Kiều
Thái”. Có những chị em văn c ng ca vũ nên đọc những trang sách ấy, nên
i t cuộc đời những vũ nữ múa Xoè trên cái sập gỗ mà ên dư i à một cái
hầm kín nhốt tù của tên vua họ Đèo. Bư c ch n của các chị chắc s đậm đà
mà ý ngh a hơn: “Cuộc đời những cô gái Xòe chỉ thực sự thoát khỏi cảnh con
đòi khi có ánh sáng cách mạng, cách mạng giải phóng đất nước Tây Bắc,
cách mạng giải phóng cho tình yêu, cho nghệ thuật Xòe múa” [32; 203].
2.3.2. Những tên phi c ng M
N u như ở tùy út Sông Đà, nhà văn nghiêng về những con người ao
động m i tài hoa, nghệ s thì đ n v i Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Nguyễn Tu n
ại ch a mũi nhọn vào kẻ thù d n tộc. Như chúng ta đã i t, ngày
05/08/1964, đ quốc M điên cuồng đem kh ng qu n đánh phá nư c ta. Và
trư c tình hình đó, thì cái “Lòng yêu nước, huyệt thần kinh nhạy cảm nhất
của ông bị kích thích mạnh, ông đã phát huy cao độ sở trường phong cách
của mình, tạo nên nhiều trang bút kí có giá trị” [28, 5]. Sự chuy n i n về
quan niệm th m m , đã giúp Nguyễn Tu n nhìn đúng kẻ thù, vạch rõ tội ác
và n chất xấu xa của chúng. Một mặt, chúng muốn th n tính nư c ta
“ ằng khoa học gi t người và kỹ thuật gi t người t n kì” đ đáp ứng m
mưu toàn cầu hóa của chúng nhưng cái miệng ại eo ẻo nói t i cái hòa
ình. Nguyễn Tu n đã v thẳng vào mặt ọn khốn ki p ấy ằng thái độ
kh ng thương xót: “Vừa đánh phá, vừa chối cãi, vừa dọa nạt quân sự lại
vừa lừa phỉnh thương lượng hòa bình”. Hơn nữa, Nguyễn Tu n còn vạch
mặt uận điệu x o trá ấy ằng ời ch m i m h t sức s u cay: “Xem ra,
người Mĩ các anh là hay đùa bỗng với hai chữ hòa bình” (Ở mặt trận Hà
Nội).
Rõ ràng, so v i những tùy út vi t sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội ta
64
đánh Mỹ giỏi có một vị trí đặc iệt. Cũng vì trong tác ph m, Nguyễn Tu n đã
dành phần n dung ượng (kho ng 2/3) đ vi t về những tên giặc ái x m
ược – đó à những “đòn đánh” h t sức ợi hại. Ông đánh vào cái “ngu Mỹ và
ác Mỹ”, vào tính chất phát xít, những n t ti tiện thấp hèn nấp dư i vỏ ề ngoài
“yêng hùng” và s diện của ọn giặc ái. Đ gọi máy ay Mỹ ngày đêm quấy
phá trời Hà Nội, Nguyễn Tu n gọi: Con thần sấm phản lực Hoa Kỳ, con đại
bàng Mỹ B52, cục Mỹ to chềnh ềnh, đầu lâu Đuy ra khổng lồ, cục Mỹ giết
người… những cái tên đó thật cạnh sắc, đ m trúng tim gan kẻ thù. Gọi đúng
n chất của chúng ra đ mà đánh, chê ai, giễu cợt. Đ chỉ phi c ng Mỹ,
Nguyễn Tu n sử dụng những danh xưng thật “đắt” như: thằng bay, giặc bay,
phi công Mỹ, kẻ cướp Mỹ, giặc trời, tù dây, thần chết, thứ khắm khối Hoa Kỳ,
khuôn mặt tội ác của Hoa Kỳ, kẻ cướp Mỹ vân phỉ, lũ điên rồ hiếu chiến, bầy
quỷ sống phi công Mỹ, thằng phản lực Hoa Kỳ, tù Hoa Kỳ gãy cần lái…
Kh ng chỉ gọi một nhóm người v i các cách gọi khác nhau, Nguyễn Tu n
còn đặt ra cách gọi cho tên riêng. Như khi gọi thi u tá Mích Kên, nhà văn
cũng dùng nhiều tên gọi như: thằng Kên, thằng quan tư Kên, quan tư Kên,
Mích Kên, quan không lực Hoa Kỳ, thiếu tá tội phạm, Bóng Tối Hoa Kỳ, quan
tư tàu bay Hoa Kỳ… Nguyễn Tu n đã gợi những hình nh cụ th vừa mang
tính hài hư c vừa kiêu ạc: “Tôi cắm một điếu thuốc Điện Biên vào mồm
thằng giặc. Nó cám ơn. Tôi bật diêm châm vào mặt nó, nó nghển nghển đầu
xin cảm ơn. Tôi đặt cái gạt tàn thuốc lá lên ngực nó đầy lông rậm dầy như cái
ức của một con thú dữ nào. Nó rít khói thuốc, cái tàn trắng dài ra gần một đốt
tay mà chưa chịu gạt tàn” [11, tr. 696]. Trên đất nư c Việt Nam, cái ngu, cái
ác của chúng kh ng còn gì có th che phủ được nữa, chúng hiện nguyên hình
oài ang sói: “Một oài chó sói m i, hổ áo m i, m i xích từ rừng nguyên
sinh i tuột về đ y” (Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất kì lúc
nào). Những khu n mặt tội ác của chúng thật à i đát. Đ u còn nữa vẻ ng ng
65
cuồng hi u chi n, ý chí hung hăng muốn dạy cho Việt Nam một ài học.
Kh ng ực Hoa Kì ập đ n quê hương ta ằng con dường trời m y thì y giờ
ại “ ay” trên ộ, chúng chỉ còn à “một đám ộ inh đang ư c những ư c
của kẻ ại inh” (Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội). Đ quốc Mỹ đưa ra
thuy t “chi n tranh sạch s ”, cho rằng đánh ằng máy ay à một ki u đánh
gọn gàng, tránh được ụi, ùn dư i mặt đất. Bằng đòn út của mình, Nguyễn
Tu n cho chúng thấy được cái phi đội “chi n tranh sạch s ” của chúng khi ị
đánh ộn nhào xuống m nh đất Việt Nam, chúng đã àm nhiễm, v n đục ầu
kh ng khí trong ành của người Việt như th nào. Chúng à cái thứ “mùi thịt
sống khắm nồng”, mùi của oài ợn òi, chó sói và hổ áo, à cái thứ “khắm
thối Hoa Kỳ mà kh ng nư c đ quốc nào t y tan được”. Người Hà Nội nóng
ỏng căm hờn đòi t y rửa chúng đi. Trên trời giật giật những cái ch p mùa hè
gi ng ũ, dư i đường rền như sấm à những ti ng đ đ o: “Đ quốc Mỹ cút
đi”. Đường Hà Nội ngùn ngụt ốc ên ửa giận, mưa Hà Nội nổi tràn như cố
qu t sạch đi cái mùi của “hơi hư ng Hoa Kỳ”.
Ph i nói rằng, v i tùy út Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Nguyễn Tu n đã phát
huy được thứ ng n ngữ đầy trí đức sắc s o của ng. Ngòi út ch m i m trào
phúng của Nguyễn Tu n giờ đ y được dịp tung hoành tấn c ng vào ọn giặc
ái Mỹ vừa ngu ngốc ại vừa hi u chi n. Thành c ng của ng à đã ột t một
cách toàn diện ộ mặt thật của tính cách Mỹ, từ cái ngu Mỹ, ác Mỹ, cái xấu xa
đê tiện Mỹ… cho đ n cái m u thuẫn đ n nực cười, cái tính chất hài kịch nằm
ngay trong n chất của chúng. Bộ máy tuyên truyền hung hăng của Mỹ
kh ng th huênh hoang được nữa khi các “anh hùng”, “thần tượng” mà chúng
ra sức thổi phồng úc ị ắn rơi ph i nh y dù xuống đã vội xòe ngay c m
nang cờ ni ng th ng ng n đ xin ăn, xin uống. Th m i i t rằng, cái uy th
kh ng ực Hoa Kỳ “ ừng danh” à th , mà cũng “kh i hài, nhục nhã àm sao”.
N u như trong các tập tùy út Tình chiến dịch, Sông Đà ta thấy c m
66
hứng ãng mạn của Nguyễn Tu n thật dồi dào, thì ở tập Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi, Nguyễn Tu n đã sử dụng một út pháp hiện thực tỉnh táo đ v đúng
ch n dung kẻ thù đ vạch mặt, chỉ trán chúng, đi vào gan vào ruột chúng mà
đ kích. Đ y à hình nh giặc ái Mỹ ị gi i qua phố Hà Nội, trư c ống kính
điện nh, chúng vẫn cố giữ ấy cái “s diện Hoa Kỳ”, nhưng sự gi taọ của
chúng kh ng thoát khỏi đòn út của Nguyễn Tu n: “không lực Hoa Lỳ mà đi
bộ ngay giữa cái “mục tiêu” Hà Nội: thua rồi, trên con đường thua rồi. Có
thằng thấy đèn pha điện ánh hắt vào, vụt nhớ đến một thứ thể diện gì đấy của
Mỹ, vội ngẩng cao đầu lên, ưỡn ngực, thẳng lung, thẳng cẳng. Nó diện, nó
định làm hiên ngang chưa mất tự tin, nhưng qua khỏi quầng sáng đèn đường,
cả người nó lại thỉu xuống” (Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi). Hình nh ũ giặc ái
ại trận được Nguyễn Tu n miêu t thật rõ n t, từ dáng đi, n t mặt, quần áo…
đ n c từng trạng thái tinh thần, từng động tác của chúng đều hiện ra một cách
chi ti t trư c “xê-ri đặc t ” của Nguyễn Tu n: “Ở ngã tư đầu tiên, mấy thằng
còn nhơn nhơn cả mặt, cả cổ, giờ thì mắt nó chỉ còn nhìn xuống chân nó…”
(Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội). Và đ y à hình nh ọn giặc ái tại
phòng hỏi cung, kh ng một đưa nào chịu ng ng mặt ên, nhìn vào sự thật tội
ác của chúng. Chúng ngồi x p xuống, co mình ại như muốn thu t đi cái tội
ỗi của mình: “mắt thằng nào dán đúng vào ngón tay, bàn tay và ngón chân
cái thằng ấy… những bàn tay ngón tay đã từng ấn nút tên lửa và cắt dây bom!
Chúng cựa quậy ngón tay, cổ tay, chúng bẻ khớp ngón tay, miệng mím, mắt
nhìn vu vơ. Chúng nó co chân rụt chân lại, theo một thói quên người phương
Tây sợ phô trần bàn chân không bít tất lộ liễu, nhưng chính là vì chúng vụt
nhớ đến những việc man rợ mà tay chân chúng đã làm” (Hà Nội giải tù Mỹ
qua phố Hà Nội). Chúng đã thua rồi còn cố tạo vẻ ình th n, tự tin, đã g y tội
ác mà còn định giấu di m. Đ y chính à n chất ngu ngốc, đê hèn của tính
cách Mỹ. V i út pháp hiện thực đ n từng chi ti t k t hợp v i sử dụng nhiều
67
thủ pháp nghệ thuật điện nh đ miêu t ọn giặc ái từ nhiều kho ng cách và
góc độ khác nhau, Nguyễn Tu n đã àm nổi ật cái n t “ngu Mỹ và ác Mỹ”,
cái n chất của uy th kh ng ực Hoa Kỳ.
Vi t về những kẻ thù x m ược, Nguyễn Tu n còn khắc họa ch n dung
kẻ thù thực d n Pháp. Tuy nhiên, hình nh kẻ thù thực d n Pháp kh ng nổi
ật như Đèo V n Long hay những tên phi c ng Mỹ. Chính vì vậy, trong phạm
vi nghiên cứu uận văn, chúng t i kh ng đi s u tìm hi u, nghiên cứu về kẻ thù
thực d n Pháp mà tập trung khai thác tên chúa đất Đèo V n Long và những
tên phi c ng Mỹ. N u tập tùy út Sông Đà được xem à tác ph m tiêu i u
của nhà văn Nguyễn Tu n về đề tài x y dựng Chủ ngh a Xã hội thì tập tùy út
Xòe, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi ại được xem à tác ph m tiêu i u về đề tài đấu
tranh o vệ Tổ quốc. Nói về đóng góp của Nguyễn Tu n qua tập tùy bút Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi, nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: “Tập tùy út ấy à
đóng góp của Nguyễn Tu n trực ti p đánh Mỹ”. Trong khi đó, nhà phê ình
văn học Phan Cự Đệ cho rằng: “V i Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Nguyễn Tu n
đã "đánh địch v i tư th của một d n tộc đi tiên phong trên tuy n đầu chống
Mỹ, v i òng tự hào của một d n tộc đang chi n thắng”. Tập tùy út Hà Nội
ta đánh Mỹ giỏi à ư c trưởng thành cao hơn về tư tưởng và tình c m cách
mạng về òng yêu nư c và căm thù giặc cao độ k t hợp v i c ng phu ao động
nghệ thuật kh ng mệt mỏi của nhà văn Nguyễn Tu n. Tập kí này vừa mang
chất ãng mạn của tinh thần chi n thắng, vừa sắc n như một vũ khí ợi hại
đánh gục uy th của kh ng ực Hoa Kì.
Nh n tố con người u n à một vấn đề mà văn học hay nhiều ngành
khoa học xã hội và nh n văn đặc iệt quan t m, và Nguyễn Tu n cũng kh ng
nằm ngoài hệ thống này… N u như, c ức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ và
cuộc sống mà nhà văn đã dành h t t m sức đ khắc hoạ ra kia n u kh ng có
chủ th à con người thì khó có th tạo thành một tuyệt tác hoàn h o. Bởi vậy,
68
y u tố con người à một điều quan trọng khi n Nguyễn Tu n dành nhiều t m
sức đ phác th o ên nó. Mối quan hệ giữa con người và văn học cũng à một
mối quan hệ gắn ó. Những nh n vật dư i c m quan văn hoá của Nguyễn
Tu n ở trên th hiện cái nhìn, thái độ của tác gi về con người gắn v i thiên
nhiên và cuộc sống trong chiều kích của văn hoá – ịch sử – xã hội, tất c đã
tạo nên những đặc trưng mà chỉ Nguyễn Tu n m i có.
69
Chương . NGH THU T XÂ NHÂN V T TRONG S NG T C
CỦA NGU N TUÂN
3.1. Nghệ thuật miêu tả
Đặc sắc nhất trong tác ph m Nguyễn Tu n àm cho ta i t nhìn,
đấy kh ng ph i à cái nhìn như một họa s . Nguyễn Tu n nhìn một
đi m trên một hình cầu mà nhìn ra ốn phương tám hư ng trên trời
dư i đất và s u dư i i n… cái nhìn ấy có khi à sự chiêm ngưỡng từ
đi m nhìn cố định, có khi thì xê dịch. Vì xê dịch như th nên cái nhìn
ấy vưà quay theo mình vừa đi ên và cái nhìn trong kh ng gian cũng
hòa ẫn v i cái nhìn theo thời gian. Hơn nữa, vì kh ng chỉ nhìn ên
ngoài mà còn nhìn c ên trong gắn iền v i kh ng gian hình cầu xê
dịch vào thời gian hình cầu khi xu i, khi ngược, khi nhanh, khi chậm.
Con người trong tác ph m nghệ thuật kh ng ở trong các c ng
thức về “đi n hình toàn diện” vì tùy út thường thường à xê dịch, nên
con người kẻ địch cũng như nh n d n ta, người ao động thường cũng
như anh hùng chỉ được m t chỉ ằng vài n t chấm phá nhưng cũng
rất sắc s o. Nguyễn Tu n chẳng những chứng tỏ tài hoa của mình
ằng nghệ thuật ng n ngữ mà ng còn sử dụng một cách rộng rãi kh
năng của các ngành nghệ thuật khác nữa nhà văn muốn hay kh ng ít
nhiều vẫn ph i vận dụng cái nhìn của các ngành nghệ thuật khác sử
dụng đ àm giàu cho ng n ngữ văn học. Chính vì vậy, những trang
tùy út của ng có một sức hấp dẫn th m m riêng mà các nhà văn
khác không có.
Vốn hi u i t về hội họa, có óc tưởng tượng phong phú và sự
nhạy c m của các giác quan nên Nguyễn Tu n có một kh năng đặc
iệt trong việc tạo hình, tạo nh và tạo kh ng khí ằng ng n ngữ và
70
út pháp miêu t của mình. Khi ng tập trung vi t về các tên giặc ái
máy ay, ngay trong miêu t ngoại hình ọn giặc ái này, Nguyễn
Tu n cũng đã chen vào những nhận x t rất tinh t , sắc s o. Ví dụ như:
“Môi nó rề hẳn ra, không phải vì dè bỉu ai ở đây (bố nó cũng chẳng
dám nữa) nhưng vì cái mặt nó sinh ra với cái tật môi như thế” hay
“Có thằng thấy đèn pha điện ảnh hắt vào, vụt nhớ đến một thứ thể
diện gì đó của Mỹ, vội ngẩng cao đầu lên, ưỡn ngực, thẳng lung,
thẳng cẳng. Nó điệu, nó định làm hiên ngang chưa mất tự tin nhưng
qua khỏi quầng sáng đèn đường cả người nó lại thỉu xuống” (Hà Nội
ta đánh Mỹ giỏi).
Cống thần (in trong tập Đường vui) à chợ u n ậu nổi ti ng miền
Bắc trong thời kì kháng chi n chống Pháp. V i con mắt quan sát tinh
t và sắc s o của một nhà áo, một nhà quay phim, Nguyễn Tu n đã
miêu t rất thành c ng chợ Cống thần. Ở đó, người ta kh ng chỉ u n
án trên ờ, trong phố vào an ngày mà còn u n án c trong đêm,
trên thuyền. Đi đ n chợ, Nguyễn Tu n ý thức rất rõ sự khác iệt giữa
mình và những người xung quanh: “T i à người khách ạc điệu giữa
một chuy n đò đ ng. Chuy n đò chợ này à một cái chợ tiền nổi trong
dòng kênh. Bờ kênh ập òe ửa đèn pin u n ậu, ửa ậu đ ng như
đom đóm”. Vi t Cống thần, mặc dù Nguyễn Tu n chỉ nói đ n những
cái trái th m mỹ, những thứ t m í tiêu cực của thời đại nhưng người
đọc ại thấy một quan niệm về cái đẹp. Đối ập v i sự khinh ỉ về
những cái tầm thường, th thi n, phàm tục à những tình c m quý
trọng của Nguyễn Tu n v i những anh ộ đội cụ Hồ, những người
kh ng ti c th n mình, dám hi sinh đ gi i phóng d n tộc, gi i phóng
đất nư c. Hành động cao quý của học à một i u tượng của cái đẹp.
Văn ng giàu iên tưởng, từ chuyện này ng chuy n sang chuyện khác
71
àm cho vấn đề càng được mở rộng, khơi s u thêm và cũng khêu gợi
hơn. Những iên tưởng miên man tưởng như kh ng ao giờ dứt,
nhưng chúng được dẫn dắt một cách rất nghệ thuật àm cho người đọc
kh ng c m thấy nhàm chán. Cái ối văn ấy tạo nên cái duyên của
phong cách Nguyễn Tu n.
V i Người lái đò sông Đà, ng ái đò được nhà văn miêu t h t sức
dung dị đời thường như mu n ngàn, mu n vạn con người khác, có th gặp ở
ất cứ đ u trên đất nư c này. Thậm chí, ng còn à một người v danh, già
y mươi tuổi v i “cái đầu ạc quắc” đã dành phần n đời mình cho nghề
ái đò dọc vùng s ng nư c. Hơn chục năm àm c ng việc nguy hi m và gian
khổ này, ng trở thành người ái đò ão uyện: “Trên dòng s ng Đà, ng xu i,
ng ngược trên một trăm ần rồi, chính tay giữ ái độ sáu chục ần…”. Bởi
vậy, ng am hi u tường tận cái nghề này cũng như “k t cấu”, quy m của
con s ng: “S ng Đà đối v i ng ái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca
mà ng đã thuộc đ n c những dấu chấm than, chấm c u và c những đoạn
xuống dòng”.
Xuất phát từ í do đó, mà dẫu cuộc chi n giữa người ái đò ấy v i dòng
s ng ấy rất kh ng c n sức – ởi một ên à dòng s ng hung ạo v i ao th
ực áp đ o; ên kia, ng đò già v i vũ khí duy nhất à cái ơi chèo v i chi c
thuyền con. Th nhưng, trong tương quan chênh ệch ấy ại khi n hình tượng
người ái đò s ng Đà trở nên n ao, kì v hơn v i nhiều ph m chất tuyệt vời.
Người ta thường nhắc đ n vẻ đẹp của một con người có ý chí kiên cường:
“Cưỡi ên song thác s ng Đà à ph i cưỡi đ n cùng như cưỡi hổ”. Và vẻ đẹp
tỏa sáng, ộng ẫy m trùm ên khắp các trang văn à vẻ đẹp của sự mưu trí,
tài hoa. Riêng ở ph m chất này của người ái đò, Nguyễn Tu n đã tập trung
miêu t khá chi ti t và cụ th a vòng thạch trận đầy cam go, căng thẳng.
Vòng một: song nư c tấn c ng ở th chủ động, nên khá hung hãn và dữ dội.
72
Người ái đò đành dũng c m và chịu trận: “Ông cố n n v t thương” đ chu n
ị cho chi n thuật của vòng v y thứ hai. Đ n vòng hai: dòng s ng vẫn rất
kh n ngoan, hi m trở v i các cửa tử, cửa sinh ập ờ, song người ái đò đã
nhanh trí mưu mẹo “đứa thì ng tránh mà r o ơi chèo ên, đứa thì ng đè
sấn ên mà chặt đ i ra đ mở cửa đường ti n”. Đ n vòng thứ a, người áo đò
đã ở th chủ động. Trí tuệ, tài hoa của người ái đò th hiện rõ nhất ở nghệ
thuật “phá thành vượt i”. Thắng trận qua a vòng v y, ng trở thành người
tự do trên s ng nư c; đồng thời cũng à một nghệ s chèo đò tay ái ra hoa.
Hình như, v i người ái đò ấy, vượt thác, đánh thạch trận trên s n đã kh ng
còn à nỗi ấm nh đeo đẳng “sinh nghề tử nghiệp” mà đã trở thành c ng việc
ao động h t sức ình thường: “Th à h t thác. Dòng s ng vặn mình vào một
cái n cát có hang ạnh. Sóng thác xòe xòe tan trong trí nh . S ng nư c ại
thanh ình”.
Trong Tùy bút kháng chiến, cũng có những hình nh h t sức mộc mạc,
gi n dị nhưng nhà văn ại đem so sánh chúng v i những cái mà người đọc ít
khi ngờ t i. Nói về những “vị huấn đạo” dạy ình d n học vụ Nguyễn Tu n đã
nói đ n sự quý giá của những con chữ đ n mức t n sùng như “thần thánh”:
mặt con chữ cái đã trở nên “mặt Chúa” và “bờ cõi nước ta có đến đâu thì ở
đấy đã có sẵn những người vẽ phấn lên bảng đen”. Hay hình nh “những
người anh hùng” của thời đại nay ại đẹp như những “lá bài cao quý”. Rồi khi
lên Tam Đ o trư c c nh đổ nát, tan hoang của một nơi vốn là khu nghỉ mát du
ịch mà thực d n Pháp xây dựng trư c kia nay trong c m nhận của nhà văn chỉ
còn ại là những: “mùi hoang phế”, “niềm tàn lạnh”, cỏ gianh mọc trên sân
cuội như “có mả mới”, một cửa sổ vắng cánh thì như “con mắt khuyết đồng
tử”, “con mắt thông manh” nhìn qua đó thấy “liên chi hồ điệp những tội ác”
của giặc. Những ngôi nhà thưa th t ánh đèn trông ại giống như “thuỷ tinh
cung”. Đêm tối thì nhà văn miêu t “như trát hắc ín”, còn ánh ngày thì hơn
73
một ần nhà văn dùng từ “bạch nhật”: “đêm nay hành quân đến hẳn sáng bạch
nhật”; “than hồng rừng rực đến bạch nhật ngày khác”... V i cái ối miêu t
như th chỉ có ở Nguyễn Tuân m i đặc iệt tạo cho người đọc những ấn tượng
mạnh đúng như ông luôn mong muốn: mỗi một con chữ vi t ra ph i giống như
một nhát dao sắc ngọt trổ vào từng th gỗ, th đá của người nghệ s điêu khắc
ngôn từ vậy. Cũng như ở tuỳ bút vi t trư c cách mạng, cách ựa chọn, sử dụng
từ ngữ trong miêu t vẫn mang đậm nét phong cách Nguyễn Tuân chỉ có điều
người đọc dễ dàng nhận ra đó là sự thay đổi trong cách c m nhận của nhà văn
trư c những hình nh được miêu t : gần gũi v i cuộc sống, đậm không khí của
cuộc kháng chi n hơn và c m xúc của tác gi cũng phấn khởi, hồ hởi hoà điệu
v i nhịp sống kháng chi n.
Nguyễn Tuân vốn là một người có tâm hồn nghệ s tài hoa, đồng thời
ng cũng là một người cầu kì trong việc ựa chọn từ ngữ khi miêu t . Ông từng
quan niệm “Nghề văn à nghề của chữ. Chữ v i tất c mọi ngh a mà chữ ph i
có được trong một c u, nhiều câu. Nó là cái nghề dùng chữ ngh a mà “sinh sự”
mà “sinh sự thì sự sinh”. Nguyễn Tuân coi nghề văn là nghề sáng tạo chữ,
sáng tạo từ ngữ. Điều này luôn chi phối các đặc đi m ng n từ của nhà văn và
ám nh ng suốt cuộc đời sáng tác. V i ng “chữ” rất quan trọng, vì mọi tư
tưởng đều được th hiện ằng chữ. Khái niệm chữ mà Nguyễn Tu n dùng
chính là từ. “chữ đ y cụ th là những từ”, là vốn từ phong phú đa dạng, diễn
đạt được đúng cái Thần, cái Hồn của c nh, của tình người. Và một trang sách
vi t ra bao giờ câu, từ cũng ph i đẹp, ph i giàu ý ngh a. Hi m có ai thận trọng
đ n mức ph i đem c ngũ giác của mình ra mà tự ki m nghiệm văn mình
(nhìn, nghe, ngửi, n m, sờ) rồi m i ưng ra cho người khác thưởng thức như
Nguyễn Tu n. Điều ấy chứng minh cho ý thức nghệ thuật s u sắc và òng yêu
nghề, thận trọng trong sáng tác của Nguyễn Tu n trong quá trình ng ựa chọn
và sử dụng từ ngữ miêu t .
74
3.2. Giọng điệu
Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là y u tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, là phương tiện i u hiện quan trọng của tác ph m văn học mà còn là y u tố
có vai trò thống nhất mọi y u tố khác của hình thức tác ph m vào một chỉnh
th . Giọng điệu ph n ánh ập trường xã hội, thái độ tình c m và thị hi u của tác
gi và có tác dụng truyền c m cho người đọc. Thi u một giọng điệu khó có th
nhận ra một nhà văn. Nhưng cần phân iệt giọng điệu nghệ thuật v i ngữ điệu
(là phương tiện i u hiện của ời nói, th hiện qua cách ên giọng xuống
giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu...).
Giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Tu n đặc iệt chính ở sự inh
hoạt, phong phú. Có nhiều chi ti t tưởng rất ình thường nhưng ằng giọng
điệu độc đáo, kh năng quan sát sắc s o, th ng minh, hóm hỉnh cộng v i hệ
thống ý khúc chi t, những tri t ý có chiều s u - nhà văn đã khi n nó trở
nên ung inh kỳ o, gợi mở nhiều iên tưởng m i ạ. Giọng điệu của tùy út
Nguyễn Tu n thường à giọng k . Người dẫn chuyện u n đóng vai trò quan
trọng, trực ti p tham gia vào c u chuyện và có quan hệ th n mật, tin cậy v i
các nh n vật khác. Người ấy thường có giọng ịch ãm, đ i khi tỏ ra hoài nghi,
đùa ỡn nhưng vẫn đ m o độ mãnh iệt của c m xúc và tầm cao tư tưởng
ằng rất nhiều từng tr i. Sau Cách mạng tháng Tám, cùng v i sự i n đổi về
nhận thức, th gi i quan, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tu n cũng có
những chuy n i n quan trọng. Cái chất phù phi m, kiêu ạc và khinh thị mất
dần đi, nhường chỗ cho sự gi n dị trong văn chương, trong c u chữ của
Nguyễn Tu n. Giọng văn của ng ấm áp, n tình và dễ hi u hơn nhất à khi
ng k về những người ao động như ng ái đò, người c ng nh n cao su,
người c ng nh n àm đường.
75
Đặc đi m nổi ật của giọng điệu tùy út Nguyễn Tu n chính à sự phong
phú, đa thanh, thỏa mãn đ n hoàn h o những sắc thái tình c m tinh t nhất.
Trong mọi tình huống nhà văn u n có cách nói phù hợp, kh ng chung chung,
tạo được kh ng khí cần thi t cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường như một
khi đã ắt đúng giọng thì kh ng còn gi n đơn à vi t nữa, nhà văn trở thành
nghệ s , mặc sức vẫy vùng múa ượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Có th
thấy, trư c Cách mạng tháng Tám, giọng điệu văn chương Nguyễn Tu n có
úc trang nghiêm, có úc i ụy, tắc, cũng có khi ng n ngạo, kiêu ạc.
Nhưng từ những tùy út kháng chi n, giọng điệu của nhà văn có sự chuy n
i n mạnh m . Thống nhất v i hình nh con người c ng d n – nghệ s ,
Nguyễn Tu n đã tạo cho mình chất giọng ch n tình, ấm áp và chia sẻ.
Khi khắc họa t m ý giành chi n thắng của những người ám trụ thủ đ ,
Nguyễn Tu n đã đặt mình vào c m xúc, suy ngh của họ. Nhà văn tái hiện
những c m xúc thật cụ th , mộc mạc: “Trên giữa trời thượng tầng thủ đô
bùng nổ một đám khói năm sắc. Rồi là khắp các mặt hầm hố hào, người ta
đều nhảy cẫng mà reo “Trúng rồi”. Bi t à thằng Mỹ đã trúng tên ửa một
người thành thạo: “Khôn hồn nó phải bấm dù vọt ra ngay thì may ra còn
sống” [11, tr. 759]. Cũng ở tùy út, Nguyễn Tu n đã ngồi xuống cùng à cụ,
thủ thỉ những điều mà à cụ còn đang thắc mắc: “Một bà cụ hai tay giữ hai
gốc đào phai chèo kéo mời tôi cứ xem kỹ gốc đào ta rất có thế đó, cứ ngồi hẳn
xuống mà ngắm: Bà cụ trông nhẹ nhõm, hồn hậu níu tôi lại bằng lời chào mời
ân cần, chính ra không phải vì lo hoa ế” [11, tr. 732]. Khi nhắc đ n sự mất
mát, Nguyễn Tu n đã th hiện sự đồng c m, sẻ chia. Khác hoàn toàn v i con
người ng ng ngạo, đứng trên và đứng ngoài mọi hiện thực đời sống trư c
Cách mạng. Giờ đ y, nhà văn đau nỗi đau của những con người đang ngày
ngày ph i gánh chịu nỗi đau, nơi tội ác của kẻ thù đang vấy n: “Buổi sáng
mùa hè đời đời nguyền rủa Mỹ đó, hàng chục hàng chục người phố Huế đã
76
không được làm người Hà Nội nữa. Cô Dung mậu dịch vẫn đong rượu cho
tôi, anh Hóa cà phê chõng nức tiếng vỉa hè Hà Nội cũng mất tích giữa một
vùng tội ác Mỹ nơi phố Huế bay nóc mất gác” [11, tr. 774].
Trở về v i ng n ngữ gi n dị, đời thường, Nguyễn Tu n ộc ộ giọng điệu
m i mẻ. Nhà văn th hiện tình c m của mình v i những xúc c m miên man
về cuộc chi n đấu thần thánh của d n tộc: “Giữa phố Huế của Hà Nội sơ tán,
thấy dòng phố như một dòng sông Hương, và thấy xe đạp chậm của mình
đang như một con đò trôi miết trên dòng. Chao ôi, quên sao được sáu nhịp
cầu Thành Thái và quên sao được những tiếng súng giờ giấc của thành Huế
thanh bình giả vờ thủa đó” [11, tr. 775]. Cũng có khi, Nguyễn Tu n đặt mình
v i vai trò thật gi n dị. Ông đ n v i đám cư i của một đ i trẻ dù kh ng nhận
được ời mời của gia đình. Nhưng sự hồ hởi, gắn ó v i quần chúng, ng sẵn
sàng đ n đám cư i đ chia sẻ niềm vui v i những người trẻ của thủ đ : “Phải
nói ngay rằng đơn vị nhà trai nhà gái, cả cô dâu chú rể không ai gởi thiếp
cho tôi cả. Tôi là một người khách không ai mời nhưng mọi người vui vẻ nhận
tôi được có phần vào ngày vui này của một trận địa ven thành Hà Nội. Quà
mừng cưới của tôi chỉ vẻn vẹn một bó hồng nhung và, một tấm lòng Hà Nội
cả tin Hà Nội và lớp trẻ của nó” [11, tr. 805].
Nhà văn cũng pha chút hài hư c khi nhắc đ n “kẹo đồng” trong đám
cư i của đ i trẻ. L thường, uổi tiệc ngọt chỉ có ánh kẹo đ mừng cho đ i
ạn trẻ. Nhưng trong hoàn c nh đặc iệt, sự xuất hiện của “kẹo đồng” như
một thứ quà cư i ất đắc d mà người Hà Nội u n sẵn sàng đối diện: “Một
buổi chiều ngoại thành Hà Nội. Nó lâng lâng một nỗi niềm tin yêu sự sống
trước mắt và bao la sau này. Từ buổi kẹo liên hoan đây, cho tới một ngày mai
kia và ngày đánh Mỹ nào mà có súng tầm cao tầm thấp phối hợp với không
quân cùng tên lửa, tôi tưởng rằng tôi có thể nhận ra cái tiếng “kẹo đồng” nổ
riêng của lứa đôi Hân Hiền này đang xây hạnh phúc. Và cùng mọi trận địa
77
miền Bắc, bảo vệ lấy hạnh phúc mình và hạnh phúc của tất cả” [11, tr. 806,
807]. Có th thấy, giọng điệu ch n tình, ấm áp, chia sẻ trong Hà Nội ta đánh
Mỹ giỏi cũng đưa Nguyễn Tu n đ n gần v i người đọc đại chúng hơn. Kh ng
còn à ối văn chương khó đọc, k n độc gi như trư c, nhà văn đã hòa vào
cuộc sống của tập th những con người đang chi n đấu, o vệ thủ đ . Cũng
từ đó, khẳng định sự đổi thay trong phong cách tác gi v i vai trò của một
công dân – nghệ s hăm hở tìm ki m cái đẹp giữa cuộc sống ao động, chi n
đấu thường nhật.
Ngoài những thay đổi m i, Nguyễn Tu n vẫn giữ cho mình những giọng
điệu chủ ưu. Đó à ối vi t trang nghiêm, mẫu mực khi nhà văn nói về những
sự kiện mang tính trang trọng. Giọng điệu này, Nguyễn Tu n từng sử dụng
khi nhắc đ n đề tài thời quá khứ vang óng trư c Cách mạng. Trong tùy út
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Nguyễn Tu n cũng thường sử dụng ối văn trang
nghiêm, mẫu mực khi ng nhắc đ n quy t t m đánh giặc của những người thủ
đ . Đó có th à hình nh của c d u sau ngày cư i trở về v i nhiệm vụ của
nữ chi n s phòng kh ng: “Cũng có thể trong đêm tân hôn này, nửa đêm về
sáng, súng Hà Nội lại nổ rền, và hai bàn tay cô dâu lại đeo một thứ găng tay
khác nó vẩn màu dầu mỡ để chính súng nòng 14 ly năm” [11, tr. 806]. Nhắc
đ n cuộc chi n à nhắc đ n tư th của một d n tộc. Và Nguyễn Tu n đã sử
dụng giọng điệu trang nghiêm cần thi t khi nhắc đ n cuộc chi n đấu o vệ
thủ đ : “Từ khi Hà Nội chống Mỹ, „Thăng Long phi chiến địa” (phi chiến
hiểu theo nghĩa đánh tàu bay) (đánh bằng tàu bay) và rồng bay trên Thăng
Long (nhân dân hay gọi tên lửa là rồng lửa bay) người ta vẫn không ngớt dạo
hồ” [11, tr. 645]. Nguyễn Tu n cũng kh ng quên hồi cố ại những chi n thắng
vẻ vang của d n tộc. Đó à động ực hỗ trợ tinh thần chi n đấu cho những
người ngày đêm o vệ thủ đ : “Vậy là ngay trong đêm đầu tiên đánh Huế
dịp Tết vừa qua, trên thành Huế mình, ta đã cắm được cờ của ta lên chính
78
giữa kỳ đài. Lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng rộng chín mươi sáu thước
vuông, thượng lên từ trong đêm, đã lồ lộ vào lúc tan sương trên mặt thành nổ
súng. Gió phá ngoài Cửa Thuận càng thổi vào phía núi, càng phất mạnh khí
thế cách mạng, và lá cờ mẹ phần phật trên mặt thành càng vẫy gọi ngàn vạn
lá cờ con cùng một lúc dựng lên khắp các chợ, các bến, các phố, các cầu, các
chùa” [11, tr 779]. V i giọng văn trang nghiêm, mực thư c, Nguyễn Tu n đã
khẳng định giá trị của cuộc chi n đấu o vệ thủ đ . Khi sử dụng giọng điệu
này, nhà văn dùng nhiều ng n ngữ Hán Việt đ tăng thêm sự trang trọng. Qua
đó, àm nổi ật cuộc chi n chính ngh a của d n tộc ta.
Giọng điệu mỉa mai, hài hư c, kiêu ạc tưởng khó sử dụng trong các tùy
út kháng chi n và thực t Nguyễn Tu n rất ít khi sử dụng. Nhưng trong văn
chương Nguyễn Tu n vẫn xuất hiện giọng điệu này nhưng chủ y u nhà văn
dùng nó đ nói về những mặt tiêu cực của xã hội và đ nói về kẻ địch. Như
trong bài Nấm miền xuôi ông nói về những con buôn v i giọng đầy mai mỉa:
“Trong khoảng đó, nhiều đèn pin cũng bắt đầu sáng chói. Người ta thò tay
xuống dòng cọ đôi dép cao su con Hổ con Nhạn con Bướm vừa gỡ ở chân ra.
Tôi thừa biết rằng những cái pin đang cháy ở trên bờ kia và trong khoảng này,
đôi dép cao su đang kì cọ kia, người ta sẽ bán cho người khác sau khi dùng
giả vờ một hồi để che mắt thuế quan ”[43; tr.239]. Thậm chí, nhà văn còn miêu
t c nh mua án quần áo, xống váy ngay trên thân th của c người án ẫn
người mua. “khoang đò chật thế mà cũng có người cố cởi được cái váy ra để
bán luôn cho người khác vừa ăn giá xong” [43; tr.239], đó là những c nh u n
bán ch p nhoáng nhà văn chỉ miêu t thoáng nhanh như đúng những gì mình
nhìn thấy song đủ cho thấy sự “nhầy nhụa” của đồng tiền và ũ cơ hội tranh thủ
ki m tiền mà ở thời nào cũng có. Trong một đoạn văn khác ông còn nói: “Hãy
tới đây sau một đêm đò thúng để mà chán sự đời để mà mạt sát sự sống. Gian
nào cũng tô hô ra mặt phố; mặt giời rọi ngang vào cái lộ liễu của những giấc
79
ngủ nặng nề co rúm của sau những tối đếm, tính, điều tra lừa đảo ” [43;
tr.240], hay “Ở những nơi quần tụ tứ chiếng chung chạ này - nó mọc lại, hiện
ra, rồi tàn lụi chuyển lên đi xuống theo cái đà của chiến sự lan tràn - ở những
thị trấn nấm, ở những phố cao su ở những chợ cóc nhảy này, tha hồ cho chúng
ta cọ chạm với nhiều thứ tâm lý tiêu cực của thời đại ” [43; tr.241]. Đồng thời
khi nói về đám con buôn này Nguyễn Tu n cũng dùng đúng những từ thuộc
“chuyên m n” của chúng. Những là “phất lên” nhờ chăn len Úc, “kiếm khối
tiền” nhờ việc “cho thuê cái bản thân” “lúc vào, nó đóng khố, lúc ra nó quấn
hàng may sẵn vào vào đầy người ” [43; tr.243], điều đó chứng tỏ nhà văn
không ạ gì những thủ đoạn làm ăn của đám này, thậm chí có những tên từ lâu
đã có “th m niên” trong nghề từ trư c cách mạng đ n giờ. Đọc văn cũng như
ti p xúc riêng v i Nguyễn Tuân người ta i t rằng ng ghét cay gh t đắng việc
buôn bán và ng từng định ngh a nghệ thuật là một c ng việc “mà những con
buôn quen sống với đổi chác hàng họ và buôn Tần bán Sở đều gọi là vô ích”
[23; tr.133] cho nên có th hi u vì sao khi nói về ọn “nấm miền xuôi” nhà văn
đã sử dụng giọng điệu này.
Nhất là ở những đoạn văn nói về quân địch, thấy c nh Pháp đang úng
túng rút quân “Dakota và Junker tiếp tế của nó hổn hển trong mù sương của
ngày mưa ẩm, mình thấy khoái trong lòng mặc dầu thời tiết có dằn vặt mình
trên những con đường lầy trơn như tráng mỡ nước ” [43;tr.249], dường như nhà
văn rất ấy làm vui trư c những gì mình đang chứng ki n vậy. Đối v i kẻ địch
nhà văn không ti c ời nguyền rủa ọn chúng là: “tất cả đám da trắng, da đen
và cả bọn lính da vàng mà tâm hồn, thân thể đã cầm cố cho quỉ sứ cướp giặc và
vua chúa u tối.” [43; tr.295], hay “nhưng chúng mày chịu gì được kham khổ.
Chúng mày luôn tự hỏi chúng mày là gian khổ để làm gì? Theo lời bác sĩ cho
biết thì những thằng da đen to xác như thế nhưng mà sức khoẻ và số mệnh cũng
mỏng manh lắm. Không kham nổi thuỷ thổ Việt Bắc nó chết bệnh rừng cũng
80
nhiều” [43; tr.301]. Ngay đ n c cách miêu t những âm thanh di chuy n của
giặc nhà văn cũng h t sức mai mỉa “ tiếng nó đi nghe đặc biệt lắm. Nó như
tiếng rú của hổ, khỉ, lợn lòi, chó sói. Tiếng ga cơ giới rú, tiếng ọc ạch của xe
tăng chuyển xích. Trên giời hàng chục khu trục cổ ngỗng hồng hộc nhào lên,
nhào xuống trông không khác gì cú vọ đi tìm gà con” [43; tr.301]. Khi t về cái
sa bàn Nguyễn Tu n cũng liên tưởng đ n hình nh “Bàu cát đúng là một bàn
mổ trên đó sõng sượt một cơ thể Pháp chờ giải phẫu”[43; tr.336]. Đó là giọng
chễ giễu pha chút hài hư c ch m i m của nhà văn. Đ y cũng chính là “cái
duyên” vốn sẵn có trong phong cách giao ti p của con người tài tử này và nó
cũng đ ại dấu ấn nhất định trong văn chương của ông. Hay nói về kh u đại
ác, một thứ vũ khí chu n ị cho “đêm hội lửa” công kích đồn địch đón mừng
sinh nhật Bác mà nhà văn như nói về một người th n v i tất c lòng ngưỡng mộ
và khâm phục “có anh đi thì xôm trò và Tây thì vô khối là tan cửa nát nhà” [43;
tr.345]. Nhà văn như nhìn thấy trư c th m hoạ của quân địch một khi “Anh
C ” đã “yên chỗ mà lên giọng thì khối đứa dưới cái quả đồi mu rùa kia ôm nhau
mà khóc trong hội lửa” [43; tr.345]. Nhất là c nh trại giặc tan hoang, ọn giặc
thua chạy oạn xạ “tiếng ơi ới của đám vợ giặc vẳng vào rừng nứa. Nghe lạ tai
lắm”, “giặc mặc quần đùi chạy như vịt”, “Đám khố đỏ dưới đồn kêu chí choé
”[43; tr.344,351] “Cả bấy nhiêu thằng giặc bị tung hê lên. Trần lô cốt sập.
Chúng nó rụng rời nổ đốt, tay nhả súng, lao từ trên mặt chòi xuống ngã quay cu
lơ. Rụng như thị mõm, rơi như khỉ giật mình. Có thằng lom khom mới tụt xuống
nhưng nấc mạnh lên, vọt lên như tia nước, uốn ván rồi cắm ngửa xuống dưới
hàng rào lông dím. Nó lại giồng cây chuối, múa ngược chân lên. Ai đùa với nó
kia chứ! Alê, lưỡi kiếm xung kích beng luôn cái đầu củ chuối” [43; tr.352]. C
một đoạn văn dài nhà văn miêu t c nh thất ại của giặc ằng cái giọng đầy say
mê, hào hứng khoái chí, vì chính ông đã được tận mắt chứng ki n trận đánh ấy.
Giống như một cổ động viên nhiệt tình, Nguyễn Tuân vui sư ng trư c sự thất
81
ại của đối thủ. Ông không ngừng hô hào, cổ động cho những đòn đánh mạnh
của quân ta “Choét! Choét! Ùng! Các ông 60, các ông 80 làm việc đều tay
(...)Badôca hay quá sẹt! Này một cái chớp thụt hậu, này một cái chớp nữa phọt
thẳng vào tường đất. Thế là bỏ mẹ những thằng trong lô cốt (...) Bấm điện đi!
Sẹt! Oàng!” [43; tr.352].
Những đặc sắc về giọng điệu qua các tập tùy út sau Cách mạng đã
khẳng định thêm những ấn tượng trong phong cách Nguyễn Tu n. Và đặc
iệt, các sáng tác sau Cách mạng cũng đã đánh dấu ư c chuy n mạnh m và
thành c ng của nhà văn từ cái t i cá nh n cực đoan trư c Cách mạng đ n cái
t i c ng d n nghệ s sau Cách mạng. Nguyễn Tu n đã có thay đổi về th gi i
quan và phương pháp sáng tác. Đ y cũng à những tiền đề h t sức quan trọng
đ phong cách nghệ thuật nhà văn có những thay đổi theo chiều hư ng tích
cực, tốt đẹp hơn.
3.3. Ngôn ngữ
Nguyễn Tu n được xem à ậc thầy về ng n ngữ. Ông tự nhận x t :
"Ng n ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng.
Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng
bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng
tháng Tám, Nguyễn Tu n kh ng còn cực đoan nữa. Ông dùng ng n từ như
c ng cụ đắc ực đ cất cao ời ngợi ca tổ quốc, ngợi ca nhân dân mình và
giáng những đòn thật cay độc vào n chất tàn ạo của kẻ thù. Nhà văn Anh
Đức từng cho rằng: “ Một nhà văn mà khi ta gọi là bậc thầy của nghệ thuật
ngôn từ, ta không hề thấy ngại miệng. Một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi
dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có một dấu triện riêng”. Đó à
nhận x t hoàn toàn chính xác về việc sử dụng ng n ngữ của Nguyễn Tu n. Đ
có được điều đó, ng đã ền ỉ ao động trong suốt những năm tháng cầm út.
82
Tác gi đổ i t ao mồ h i, c ng sức và trí ực trên mỗi trang vi t của mình.
Đ rồi mỗi ần cầm út, ngồi trư c trang giấy, tác gi có c m giác như ên “
pháp trường trắng”, thực sự vật ộn v i từng c u chữ. Đó kh ng chỉ à trách
nhiệm của Nguyễn Tu n v i độc gi mà còn à sự mong mỏi, khao khát đạt
t i đỉnh cao của nghệ thuật ng n từ.
Nói đ n ng n từ Nguyễn Tu n, kh ng th kh ng nói đ n tín hiệu đặc
trưng của th oại ký. Đó à tính khoa học chính xác nghiêm túc v i tinh thần
trách nhiệm cao của tác gi th hiện trong trang vi t. Đọc tập tùy bút Hà Nội
ta đánh Mỹ giỏi, điều độc gi nhận thấy trư c nhất à Nguyễn Tu n rất chịu
khó thu thập th ng tin khi n cho c u chuyện u n đầy ắp các dữ iệu và rất
sinh động. Nghệ s nh n d n Đình Quang từng nh về ần Nguyễn Tu n
chống a toong đ n nhà ng chơi. Nhà văn đưa ra cho Đình Quang một tờ áo
ti ng Đức nhờ ng dịch xem người ta nói về khách sạn Hi ton th nào.
Nguyễn Tu n hỏi đi hỏi ại từng chi ti t rồi ặng suy ngh . Chỉ t i khi Hà Nội
ta đánh Mỹ giỏi ra đời, Đình Quang m i hi u Nguyễn Tu n muốn tìm hi u
ngọn ngành một địa chỉ trư c khi nhắc t i nó trong trang sách của mình.
Chính sự c n trọng, tỉ mỉ trong việc xác thực th ng tin mà khi đọc Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi, người đọc có th thấy được sự uyên ác, tài hoa của
Nguyễn Tu n đã đ ại trong từng chi ti t, c u văn. Trong sáng tác, nhà văn đã
khai thác ng n ngữ của các ngành nghệ thuật khác nhau như điện nh, hội
họa, m nhạc… Người đọc có th thấy ki n thức điện nh qua ng n ngữ được
sử dụng trong tập tùy út: “Mắt tôi trong giây lát biến thành một ống ảnh thu
vội những khuôn mặt tội ác Hoa Kỳ. Không đứa nào bị đầu tóc bù xù, không
đứa nào râu ria xồm xoàm. Cho nên những cái nét ngu Mỹ và ác Mỹ càng
hiện trơ trẽn trên vành mặt nó, không có lông lá gì che phủ nữa” [11, tr. 659].
Có úc, Nguyễn Tu n cũng ph diễn tri thức tài hoa về m nhạc, văn hóa
83
của xứ Hu . Từng c u văn của ng như có ti ng nhạc m phỏng cho ức tranh
về con người và c nh vật xứ Hu : “Trong dư vang tiếng súng phong trào
Thừa Thiên Huế mở đầu năm 1968, thấy con xao xuyến nơi lòng mình nào là
đò tuần hò ô cơn gió phá; nào là mái đẩy trận mưa cồn; súng nổ mở cổng
thành và sáu nhịp cầu Tràng Tiền rạng dần lên như ba cặp lông mày trắng
thần lãng mạn nào đang soi mắt vào sông mỏi. Thế rồi chuông chiều chùa
Diệu Đế bốn lầu mà chỉ còn ba chuông. Khách sạn Huế toàn phát triển sào
chông và bơi chèo; nón bài thơ che mặt mà nhè nhẹ đỗ bến tòa Khâm; thuyền
sông Hương không bao giờ kéo buồm dù cho gió thuận tới mấy; và xe tay mắt
lục lạc đồng, ý chừng để nhớ đến những con ngựa đã được thế bằng mạng
người” [11, tr. 777].
Cũng có khi, những tri thức của Nguyễn Tu n àm người đọc ph i
ngưỡng mộ vì sức đọc của ng. Nhà văn nhắc h t văn hóa phương Đ ng rồi
ại nhấn nhá về văn học, văn hóa phương T y: “Trừ một số rung cảm nghệ
thuật khi đọc thơ văn Hoa Kỳ qua những truyện như “Gót sắt”, “Những quả
nho của thịnh nộ”, v.v… và qua Edgar Poe, Walt Whitman, Carl Sandburg,
Lanston Hughes, Jack London, Sinclair Lewis, Hemingway mà tôi rất quý, thì
hầu như tôi rất lờ mờ về Hoa Kỳ” [11, tr. 676]. Ở góc độ nào, Nguyễn Tu n
cũng cho thấy ph ng tri thức, văn hóa rộng n của mình.
V i sự c n thận, tỉ mỉ trong xác tín th ng tin, vốn sống, kinh nghiệm u
năm, Nguyễn Tu n đã mang đ n cho người đọc một thiên tùy út có dung
ượng th ng tin đồ sộ. Đ xử ý ph ng nền rộng n ấy, nhà văn đã kh o o
ồng gh p trong những c u chuyện từ xưa đ n nay, từ Đ ng sang T y khi n
người đọc kh ng th rời mắt.
Sau Cách mạng, ng n ngữ của Nguyên Tu n gi n dị hơn rất nhiều. Ông
kh ng dùng những ki u chơi chữ, ki n thi t c u cầu kì, rắc rối nữa. Thay vào
84
đó à những c u nói gi n dị, gần gũi v i ời ăn, ti ng nói của đ ng đ o quần
chúng nhân dân. Trong tùy bút Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, người đọc thấy
Nguyễn Tu n nhắc nhiều đ n những khu vực tập trung đ ng người. Đặc iệt
à quán ia ven hồ, nơi tập hợp đủ các thành phần, ực ượng tham gia chi n
đấu, o vệ Hà Nội: “Thủ đô mấy đợt sơ tán đã ra trò, vậy mà vẫn cứ đông.
Báo động thì vào hầm, tàu nó láng vào trời mình thì tất cả cùng bắn, người
nào việc nấy, việc xong thì uống bia quanh hồ, ăn quánh tôm cùng quanh hồ”
[11, tr. 646]. Ở một nơi tập trung đ ng đ o quần chúng nh n d n ao động ấy,
mọi ời ăn ti ng nói cũng được Nguyễn Tu n chọn ọc, tái hiện ại cụ th , sinh
động. Đ i khi, người đọc khó có th nhận ra cái phong cách xưa cũ ng ng
nghênh khi Nguyễn Tu n ỗng nhiên hiền đ n th . Miêu t quang c nh quán
ia mà d n giã, mộc mạc đ n th : “Trong một quán bia bơm cạnh Hồ Kiếm,
chú bé bán lạc rang vừa bốc lạc, vừa biếu tôi hàng nắm mảnh đạn vừa nhặt
được ban nãy ở quanh các hầm ngay bên hồ kia. Mấy anh bạn phiên dịch
cũng móc túi cho xem những mảnh đạn nhặt được ban chiều giữa sân khách
sạn Thống Nhất. Vài ông già phục vụ nước sôi các khu phố có vẻ bận tâm về
trận đánh buổi chiều” [11, tr. 761, 762].
Ng n ngữ của Nguyễn Tu n cũng vì th trở nên dễ đọc hơn khi hư ng về
đ ng đ o quần chúng nh n d n. Nó kh ng còn à ối vi t “khoe chữ”, chứng
tỏ cái t i độc đáo, ng ng nghênh của mình. Ng n ngữ nhà văn có sự chuy n
i n, gần gũi: “Chợ Ngọc Hà không phải là vỡ chợ, mà chính là xác thù đã
vỡ tan trên một buổi chợ chiều: mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm riu đều nhấp
nhánh mảnh vụn đuyra F105” [11, tr. 759].
Trên tuy n ửa, họ à những chi n inh mạnh m , kiên gan như anh pháo
thủ, đơn vị pháo cao xạ, c gái trại hoa… nhưng khi rời tuy n ửa họ ại trở về
v i dáng vẻ mộc mạc, ch n chất và đáng yêu vốn có. Bằng ng n ngữ đời
thường, Nguyễn Tu n đã miêu t hạnh phúc gi n dị của đám cư i ngay ên ụ
85
súng chống qu n thù: “Trang trí màn ph ng da trời có chữ triên song hỉ, có
dòng chữ 25/XII/72, có đ i chim ồ c u trắng, có dòng chữ cắt to n t “Hạnh
phúc trong chi n đấu”. Chung quanh s n cư i à dăm y ụ súng tầm cao 100
i, nòng súng h ch h ch nghe ngóng ch n trời. Xa xa thấp thoáng trong sương
chiều Mễ Trì đ i cột th p dáng vóc ênh khênh quen thuộc. Trận địa s n cư i
à đất của nhà trai” [11, tr. 803]. Ngay c khi được phát i u tại đám cư i của
mình, họ cũng thật hồn nhiên: “Cả đơn vị giục cô dâu pháo tầm thấp và chú
rể pháo tầm cao phát biểu. Chú rể hội ý chớp nhoáng với cô dâu xong liền
nói: “Sang năm 1973, chúng tôi bảo đảm X giây một phát”. Cả sân cười
vang” [11, tr. 806].
Trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, ng n ngữ đời thường, gần gũi tái hiện
một cách sinh động quá trình chi n đấu, o vệ Hà Nội của những c ng d n
thủ đ . Qua đó, người đọc thêm yêu vẻ mộc mạc, ình dị của con người nơi
đ y. Thêm một ần nữa, Nguyễn Tu n đã khẳng định tài năng trong việc sử
dụng ng n ngữ đầy tính nghệ thuật của mình
Ng n ngữ của tác gi đậm tính tạo hình. Đó có th à hình nh giàu sức
gợi của cánh n ạc ực ượng kh ng qu n in trên óng nư c Hồ Gươm: “Có
hôm máy bay mình đánh mãi ngoài vòng xa kia, nhưng cũng bay về Hà Nội
lượn mấy vòng nghiêng cánh để chào thủ đô thân mến vừa chiến thắng trong
ngày. Hồ Gươm mùa thu càng lộng đẹp tấm gương sáng hắt lên những cánh
én bạc của một binh chủng không quân đang ra đời” [11, tr. 648, 649]. Ngay
trong dáng hình của những cánh n ạc đã khơi gợi cho nhà văn những iên
tưởng đặc iệt. Trong những ần cất cánh chi n đấu, những chi c máy ay đại
diện cho trang khí tài hiện đại nhất của qu n đội được Nguyễn Tu n miêu t
thật gần gũi, sinh động: “Không quân mình đang uốn cánh nối đuôi nhau, vẽ
những đường tròn bánh xe mà lăn trên vòm trời Hà Nội, vừa lăn xe mây vừa
soi mình vào bóng mây hợp tan đáy lòng hồ. Sát mặt hồ là đàn nhạn hàng
86
nghìn con đang bay. Nó cũng soi gương hồ, vừa soi gương vừa tắm đuôi tắm
bụng trắng vào nước hồ. Nó bay đủ các kiểu phi thuật, là ngang sát xuống
đầu bọt sóng hồ, ngoặt bay gập góc 180 độ, vọt đứng ngược lên để bổ nhào
xuống, bụng trắng phau như tờ giấy chưa đề thư. Không hiểu con người trông
thấy nhạn bay rồi mới nghĩ ra cách làm tàu bay Mig, hay là đàn nhạn gió bấc
kia đang bắt chước những dũng sĩ diệt tàu bay Mỹ ta đang cảnh giới trời mây
đỉnh đầu” [8, tr. 715, 716].
Trên trời à những cánh n ạc, dư i mặt đất, Nguyễn Tu n cũng kh ng
quên chụp vào đ i mắt mình những hình nh đẹp nhất. Bên những nắp hầm
trú n vừa mở, nhà văn nhận ra những ng hoa sấu r t thành th m trắng đều
như chào mừng đoàn qu n chi n thắng: “Hoa sấu vẫn nở vẫn vãi vương khắp
thủ đô tưng bừng chiến thắng. Trắng tròn như hạt nếp hạt dẻ đầu mùa, hoa
sấu kéo dài con đường, hoa nhiều quăng cộm hẳn lên như cót gạo nào của
khu phố bung vãi ra” [11, tr. 772].
Trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, người đọc được tr i nghiệm qua những
n t tạo hình thú vị cùng ối iên tưởng so sánh độc đáo. Mọi sự vật, hiện tượng
đều ph ng phất n t tài hoa của Nguyễn Tu n khi ng k t hợp giữa hình nh,
m thanh, màu sắc thật tài tình. Chính điều này đã x y dựng nên những hình
tượng vừa cụ th vừa khái quát, vừa ch n thực vừa sinh động.
Một đặc đi m quan trọng khác của ng n ngữ Nguyễn Tu n à sự k t hợp
nhuần nhuyễn giữa ng n ngữ cổ xưa v i ng n ngữ hiện đại. Đúng như nhà
văn T Hoài đã nhận x t: Nguyễn Tu n có “ một cách ngh và ối văn dường
như cổ kính, đ nh đạc mà ại rất m i”. Những từ Hán Việt xuất hiện v i một
tần số cao trong sáng tác Nguyễn Tu n trư c cách mạng, sau này, văn của ng
vừa thừa k nó, vừa phát tri n k t hợp cùng ng n ngữ hiện đại càng t n thêm
tính độc đáo. Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Tu n u n có ý thức tr n
87
trọng, n ng niu, gìn giữ sự trong sáng và giàu có của ti ng Việt. Ông cho
rằng: “Những lúc bàn về sự trong sáng của ngôn ngữ Việt Nam, bên cạnh cái
ý nghĩa trong trẻo trong lắng, tôi phải nghĩ tới ngay một mặt khác nữa của
câu chuyện. Ấy là sự giàu có” [12, tr. 910]. Đó à ý thức, cũng à thiên chức
vốn có của người cầm út. Vậy nên, nhà văn u n khao khát sáng tạo, đạt đ n
đỉnh cao của ng n ngữ văn chương.
V i Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Nguyễn Tu n đã th hiện vốn từ vựng
phong phú. Từ ngữ rõ ràng u n ph i đặt trong hoàn c nh giao ti p cụ th .
Nhà văn sử dụng inh hoạt các từ vựng đ hư ng đ n sắc thái riêng trong từng
hoàn c nh. Cụ th như khi nói về cái ch t, Nguyễn Tu n ựa chọn những từ
ngữ phù hợp: hàng chục hàng chục người phố Hu đã kh ng được àm người
Hà Nội nữa, n u còn sống, nằm xuống…
Kh ng chỉ th hiện tài năng sử dụng ng n ngữ phong phú, Nguyễn Tu n
còn rất chủ động trong việc sáng tạo những từ ngữ m i. Những từ ngữ m i
mà người đọc chưa được ti p cận ao giờ. Đơn cử như đ chỉ phi c ng Mỹ,
Nguyễn Tu n sử dụng những danh xưng thật “đắt” như: thằng ay, giặc ay,
phi c ng Mỹ, kẻ cư p Mỹ, giặc trời, tù d y, thần ch t, thứ khắm khối Hoa Kỳ,
khu n mặt tội ác của Hoa Kỳ, kẻ cư p Mỹ v n phỉ, ũ điên rồ hi u chi n, ầy
quỷ sống phi c ng Mỹ, thằng ph n ực Hoa Kỳ, tù Hoa Kỳ gãy cần ái…
Kh ng chỉ gọi một nhóm người v i các cách gọi khác nhau, Nguyễn Tu n
còn đặt ra cách gọi cho tên riêng. Như khi gọi thi u tá Mích Kên, nhà văn
cũng dùng nhiều tên gọi như: thằng Kên, thằng quan tư Kên, quan tư Kên,
Mích Kên, quan kh ng ực Hoa Kỳ, thi u tá tội phạm, Bóng Tối Hoa Kỳ,
quan tư tàu ay Hoa Kỳ…
Nguyễn Tu n đã sử dụng ng n ngữ d n tộc một cách điêu uyện, tài tình.
Như một vị tư ng điều inh, nhà văn đã àm ng n ngữ trong tay mình trở nên
88
“ inh diệu”, có hồn và cuốn hút người đọc. Như chính ng từng khẳng định:
“Ấy là sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Tiếng nói dân tộc nào nói chung cũng đều có
cái linh diệu của nó. Và tiếng ta lại càng có cái linh diệu rất đáng quý đáng
yêu của tiếng Việt. Có lẽ vì thế nữa mà mặc dầu vô vàn khó khăn (nghề nào
phát triển mà chả có cái khó khăn của nó) chúng ta vẫn đắm đuối với nghề
làm văn, ngày càng chuốt thêm văn tự, ngày càng làm óng tốt dẻo bền hơn lên
nữa cái tiếng nói Việt nam cổ truyền của mình” [12, tr. 920]. Hi u được thiên
chức cao quý của nhà văn, Nguyễn Tu n u n trách nhiệm trong hoạt động
sáng tạo của mình. Chính vì vậy mà ng rất xứng đáng v i ý ki n đánh giá
của ạn è đồng nghiệp, cũng như của đ ng đ o ạn đọc trong và ngoài nư c.
Nguyễn Tu n qu xứng xứng đáng à ậc thầy ng n ngữ của văn đàn hiện đại
Việt Nam.
V i Nguyễn Tu n, ng n từ kh ng chỉ à chất iệu, phương tiện, mà còn à
đối tượng của văn chương, à chính văn chương; và nhà văn đã có ý thức ạ
hóa nó, đ tạo được dấu ấn độc đáo cho mình và hấp dẫn độc gi . Ý thức này
ở Nguyễn Tu n có gì đó gợi nh đ n hình óng của những người theo trường
phái chủ ngh a hình thức Nga th kỉ XIX. Con đường ng n từ mà Nguyễn
Tu n khai phá có chỉ dành cho ng. Trên độc đạo ấy ng à khách độc
hành. Nhưng rõ ràng, ở đ y, Nguyễn Tu n đã đ ại tấm gương n về ao
động sáng tạo và dũng khí mở đường.
Đi m ại một số đặc đi m ng n ngữ của Nguyễn Tu n, chúng ta càng thấy
rõ hơn ao động sáng tạo nghệ thuật vất v , c ng phu và nghiêm túc của ng.
Chính vì vậy mà ng rất xứng đáng v i ý ki n đánh giá của ạn è đồng
nghiệp, cũng như của đ ng đ o ạn đọc trong và ngoài nư c. Nguyễn Tu n
qu xứng xứng đáng à ậc thầy ng n ngữ của văn đàn hiện đại Việt Nam.
V i Nguyễn Tu n, ng n từ kh ng chỉ à chất iệu, phương tiện, mà còn à đối
tượng của văn chương, à chính văn chương; và nhà văn đã có ý thức ạ hóa
89
nó, đ tạo được dấu ấn độc đáo cho mình và hấp dẫn độc gi . Ý thức này ở
Nguyễn Tu n có gì đó gợi nh đ n hình óng của những người theo trường
phái chủ ngh a hình thức Nga th kỉ XIX. Con đường ng n từ mà Nguyễn
Tu n khai phá có chỉ dành cho ng. Trên độc đạo ấy ng à khách độc
hành. Nhưng rõ ràng, ở đ y, Nguyễn Tu n đã đ ại tấm gương n về ao
động sáng tạo và dũng khí mở đường.
Nguyễn Tu n à nhà văn tài năng v i phong cách nghệ thuật đặc trưng
riêng iệt. Quá trình sáng tác, ng đã có sự chuy n i n từ cái t i cá nh n cực
đoan đ n cái t i c ng d n nghệ s . Nghiên cứu nghệ thuật miêu t , giọng điệu,
ng n ngữ của Nguyễn Tu n th ng qua những tùy út sau cách mạng phần nào
giúp người đọc nhìn nhận rõ hơn về cái t i c ng d n nghệ s của ng. Những
đặc sắc nghệ thuật miêu t , ng n ngữ, giọng điệu trong tùy bút sau Cách
mạng đã khẳng định thêm những ấn tượng trong phong cách Nguyễn Tu n.
Và đặc iệt, tùy út đã đánh dấu ư c chuy n mạnh m và thành c ng của
nhà văn từ cái t i cá nh n cực đoan trư c Cách mạng tháng Tám đ n cái t i
c ng d n nghệ s sau Cách mạng.
90
K T LU N
Nguyễn Tuân là một nhà văn n. Ông n vì nhân cách của một nhà
văn chân chính và n vì ở ng có một phong cách sáng tạo độc đáo. C cuộc
đời lao động ền ỉ, hi n mình cho nghệ thuật, NguyễnTu n đã góp cho đời
một thứ hương sắc riêng. Đó chính là những văn ph m đầy tài hoa. Đặc iệt
là những trang tuỳ út h t sức độc đáo th hiện rõ “chất Nguyễn Tuân”. Sáng
tác văn học của Nguyễn Tuân là một thành tựu n của văn học Việt Nam
hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Tuân đã tr i qua nhiều ư c
thăng trầm, từng được yêu, từng ị ghét, thậm chí là phê phán gay gắt, nhưng
rồi cuối cùng vẫn trở về và sống mãi trong lòng ạn đọc.
Cách mạng đã mang ại cho Nguyễn Tu n một th gi i quan m i, một
nh n sinh quan m i, một quan đi m th m mỹ m i, từ đó đã đổi m i con
người nghệ s Nguyễn Tu n và đổi m i c những tác ph m của ng. Nguyễn
Tu n kh ng còn à một người nghệ s t n thờ nghệ thuật thuần túy như xưa
nữa mà à một Nguyễn Tu n nghệ s hòa hợp v i Nguyễn Tu n c ng d n,
Nguyễn Tu n chi n s cách mạng trên mặt trận văn hóa nghệ thuật. Cái t i
Nguyễn Tu n đã hòa hợp v i cái ta chung của nh n d n, của d n tộc. Quá
trình rèn uyện tu dưỡng tư tưởng nghệ thuật của ng trong suốt hai cuộc
kháng chi n chống Pháp, chống Mỹ đã n ng cao giá trị tùy út của ng,
khắc phục những y u tố tiêu cực ạc hậu trư c kia, phát huy thêm những n t
tài hoa độc đáo vốn có, hư ng vào mục tiêu ph n ánh ch n thực và nhạy n
cuộc sống m i, con người m i đ phục vụ sự nghiệp cách mạng của d n tộc.
Những tác ph m của ng toát ên một tấm òng yêu đời, yêu người, yêu
nư c, yêu chủ ngh a xã hội, cổ vũ con người vươn ên sống đẹp, sống ành
mạnh, góp phần àm cho xã hội trong sạch và tươi đẹp hơn. Tùy út của ng
đã đạt t i sự hài hòa giữa c m xúc và trí tuệ, giữa tư tưởng và nghệ thuật,
giữa nội dung và hình thức, đã vượt ra khỏi vòng khu n sáo, đường mòn ối
91
cũ, đã vươn t i những tìm tòi sáng tạo, tạo thành một ối riêng, một phong
cách riêng của Nguyễn Tu n.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Tu n đã “kh ng chỉ đ ại những
tác ph m hay, những kỉ niệm đẹp của những nh n cách sống đẹp. Sau tất c ,
đ ại cho chúng ta rất nhiều hi u i t về con người, về thời cuộc, về niềm
tin vào tương ai của d n tộc, rộng hơn nữa à niềm tin vào nh n oại”. V i ý
ngh a ấy, Nguyễn Tu n đã hiện diện – kh ng chỉ như một giá trị; mà cao
hơn c ng còn à “một nhà văn lớn,… một niềm an ủi lớn giữa cuộc đời
nhiều bấp bênh đen bạc, là danh dự của một dân tộc đang tần tảo mưu
sinh” [9, 10].
Những sáng tác của ng còn có tác dụng thực sự n ng cao nhận thức
th m mỹ của người đọc về cuộc đời và con người, àm phong phú t m hồn,
ồi dưỡng tư tưởng tình c m cách mạng, mở mang trí tuệ và rèn uyện óc
th m mỹ cho người đọc. Thời gian cứ dần tr i, và v i hậu th , cái anh chàng
Nguyễn v i phong cách “ng ng” ngày ấy, giờ đã trở thành người thiên cổ;
song những nh n vật trong những tác ph m cu ng vẫn giữ nguyên những
giá trị quý áu, vừa như thử thách, ại vừa như động viên và cổ vũ cho tất c
những ai đang đi trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Tìm đ n v i văn của
Nguyễn Tu n, kh ng hẳn à đ “theo được ng” mà à đ khơi dòng, nuôi
dưỡng hoài ão thưởng thức và săn tìm cái Đẹp trong những trang văn tài
hoa. Ông thực sự à người nghệ s ậc thầy của ti ng Việt, à một trong
những nhà văn hóa n mở đường và x y nền cho văn xu i Việt Nam th kỉ
XX.
92
TÀI LI U THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Hà Minh Đức (1996), Năm mươi năm Văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Hà Văn Đức (1992), Nguyễn Tuân – một bậc thầy về ngôn ngữ. Tập
chí khoa học số 4, (ĐH Khoa học xã hội và nh n văn)
4. Hà Văn Đức (1991), Nguyễn Tu n – Một ậc thấy về ng n ngữ, Tạp
chí Khoa học, (số 4), tr. 31-35
5. Hà Văn Đức (1992), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án
Ti n s khoa học Ngữ Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
6. Hà Văn Đức (1994), Nguyễn Tu n và cái đẹp, Tạp chí Khoa học, (số 5),
tr. 48-52
7. Hà Văn Đức (2003), Quan đi m th m mỹ qua một số hình tượng nghệ
thuật trong tùy út Nguyễn Tu n, Tạp chí Văn học, (số 4), tr. 8-16
8. Văn Giá (Sưu tầm) (2002), Vũ Bằng Mười chín chân dung nhà văn
cùng thời, Nx Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Hồng Hà (2010), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, Nxb
Văn học, Hà Nội.
10. Thanh Huyên (1995), Duyên văn: Tập nhật ký về những kỷ niệm với
các nhà văn, nhà thơ Việt Nam: Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh,
Đồ Phồn, Tú Mỡ, Nx Văn hóa - Thông tin Hà Nội, Hà Nội.
11. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật,
Nx Hội nhà văn, Hà Nội.
12. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 1, Nx Văn
học, Hà Nội.
13. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 2, Nx Văn
học, Hà Nội.
93
14. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 3, Nx Văn
học, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 4, Nx Văn
học, Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 5, Nx Văn
học, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930
- 1945, Nx Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Con Đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Nx Giáo Dục, Hà Nội
19. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân,
Tập 1, Nx Văn học, Hà Nội
20. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb
Văn học– Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những ài gi ng về tác gia văn học trong
ti n trình Văn học hiện đại Việt Nam, Tập 1, Nx , ĐH Quốc gia Hà Nội
22. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dân luận nghiên cứu tác gia văn học,
Trường ĐHSP Hà Nội 1, Hà Nội
23. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Văn học Việt Nam từ 1945 – 1975, tập 2,
nx Giáo dục.
24. Tôn Th o Miên (1998), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
25. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
26. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, Nx văn hoá th ng
tin
27. Lại Nguyên Ân (2017), 150 Thuật ngữ văn học, Nx ĐH Quốc gia Hà
Nội
94
28. Đỗ Thị Ngọc Chi (2013), Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn
hoá, Luận án ti n s Học viện Khoa học Xã hội
29. Phan Cự Đệ (1997), Văn học ãng mạn Việt Nam 1900 – 1945, Nxb
Giáo dục.
30. Đ.X.Likachop – Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học, tạp chí
văn học
31. Phong Lê (1977), Nguyễn Tuân trong tuỳ bút, Tác gi văn xu i Việt
Nam hiện đại, Nx Khoa học xã hội, Hà Nội
32. Phùng Ngọc Ki m (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam
1945 –1975, Nx Đại học Quốc gia.
33. Phương Ng n (2003), Nguyễn Tuân – Cây bút tài hoa độc đáo, Nxb
Văn hóa th ng tin, Hà Nội
34. Phan Ngọc (2000), Nguyễn Tu n – quá trình chuy n i n của một
phong cách, In trong “Thử xét văn hoá, văn học bằng ngôn ngữ văn học”,
Nx Thanh Niên, Hà Nội
35. Vũ Ngọc Phan (1990), Nhà văn Việt Nam hiện đại, tập 2 Nx Văn
học.
36. Vũ Đức Phúc (1980), Nghệ thuật Nguyễn Tuân, Tạp chí văn học, số 6,
Hà Nội
37. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà Văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng
tạo, Nx Văn học, Hà Nội
38. Ng Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam, Tập 2, Nx T n giáo, Hà
Nội
39. Ng Đức Thịnh (2003), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
40. Ngọc Trai (1991), Nhà văn Nguyễn Tuân – con người và văn nghiệp,
Nx Hội nhà văn, Hà Nội
95
41. Đỗ Lai Thuý (1997), Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá,
Nx Văn hoá th ng tin, Hà Nội
42. Đỗ Thị Minh Thuý (1997), Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, Nxb
Văn hoá th ng tin, Hà Nội
43. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về vản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb
Thành phố HCM