BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Quỳnh Thư
VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN TRÍ DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Quỳnh Thư
VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN TRÍ
DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Chuyên ngành : Lí luận Văn học
Mã số
: 8220120
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Mọi số liệu,
nội dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố ở
bất cứ công trình nào.
Học viên
Nguyễn Thị Quỳnh Thư
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành vào tháng 9 năm 2018 dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng, biết ơn chân thành và sâu sắc đến người hướng
dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ để tôi
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, phòng Sau đại học và các phòng
ban chức năng, cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, những người đã giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, những nơi đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn sự động viên và giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, gia đình
và bạn bè trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu.
TP. HCM, tháng 9 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Thư
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HIỆN TƯỢNG VĂN XUÔI
NGUYỄN TRÍ ............................................................................. 9
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái .............................................................. 9
1.1.1. Phê bình sinh thái: Khái niệm, phương pháp và ứng dụng .............. 9
1.1.2. Văn học sinh thái trong văn học Việt Nam sau 1975..................... 15
1.2. Văn chương và sinh thái trong văn xuôi Nguyễn Trí ......................... 28
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trí .......................................... 28
1.2.2. Quan điểm sáng tác của Nguyễn Trí .............................................. 28
1.2.3. Dấu ấn sinh thái trong văn xuôi Nguyễn Trí .................................. 30
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 33
Chương 2. SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG VĂN XUÔI CỦA
NGUYỄN TRÍ ......................................................................... 34
2.1. Dấu ấn sinh thái tự nhiên trong văn xuôi của Nguyễn Trí ................... 34
2.1.1. Tự nhiên là nơi cưu mang con người ............................................ 34
2.1.2. Tự nhiên là nơi con người ra sức tàn phá ..................................... 38
2.1.3. Tự nhiên là nơi trừng phạt con người ........................................... 51
2.1.4. Mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình bóc
lột tự nhiên .................................................................................... 54
2.1.5. Thông điệp về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ............. 60
2.2. Phương thức biểu hiện sinh thái tự nhiên trong văn xuôi của
Nguyễn Trí .......................................................................................... 63
2.2.1. Nghệ thuật xây dựng không gian bối cảnh ..................................... 63
2.2.2. Ngôn ngữ mang tính cá thể hóa cao ............................................... 66
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 77
Chương 3. SINH THÁI NHÂN VĂN TRONG VĂN XUÔI CỦA
NGUYỄN TRÍ ........................................................................... 78
3.1. Hiện trạng đô thị hoá trong văn xuôi của Nguyễn Trí .......................... 78
3.1.1. Cái nhìn phản lãng mạn về nông thôn ............................................ 78
3.1.2. Thông điệp về tình người trong cuộc sống đô thị .......................... 99
3.2. Nghệ thuật biểu hiện sinh thái nhân văn trong văn xuôi
Nguyễn Trí .......................................................................................... 104
3.2.1. Nghệ thuật trần thuật .................................................................... 104
3.2.2. Giọng điệu trần thuật .................................................................... 111
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 125
KẾT LUẬN .................................................................................................. 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN............................................ 128
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thế kỉ XX, con người đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái
như vấn đề khí hậu, mất cân bằng sinh thái, quá trình đô thị hóa, áp bức lao
động, áp bức phụ nữ.... Vì cuộc sống nhân loại đang bị đe doạ, văn học cũng
góp phần trách nhiệm của mình. Vì thế, khuynh hướng văn học sinh thái ra đời
đáp ứng yêu cầu của thời đại. Ở Việt Nam, ý thức sinh thái đã được nhiều tác
giả văn xuôi sau năm 1975 đề cập đến.
Trong số những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi đương đại, Nguyễn Trí
là “cây bút mới” nhưng lại gây được tiếng vang lớn, và là đại diện tiêu biểu cho
mảng văn xuôi sinh thái sau 1975. Bằng những trải nghiệm của bản thân,
Nguyễn Trí đã đưa vào văn chương những đề tài “gai góc”, mới lạ. Đồng thời,
vấn đề sinh thái tự nhiên, sinh thái nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Trí có dấu
ấn rõ nét. Với những đóng góp của mình, Nguyễn Trí là tác giả đáng được quan
tâm và nghiên cứu.
Cho tới nay, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về nghệ thuật
văn xuôi của Nguyễn Trí một cách hệ thống. Tuy nhiên, dựa vào lý thuyết phê
bình sinh thái để làm rõ văn xuôi Nguyễn Trí thì chưa thấy có luận văn nào đề
cập tới. Việc phản ánh về vấn đề sinh thái trong văn học không phải là sự ngẫu
nhiên, xa lạ mà đang là một vấn đề mang tính toàn cầu và cũng là một chủ đề
mới của văn học đương đại. Nguyễn Trí đã có những tác phẩm góp chung tiếng
nói vào mảnh đất mới này. Chính bởi những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài:
Văn xuôi của Nguyễn Trí dưới góc nhìn phê bình sinh thái để nghiên cứu và
tìm hiểu thêm về một tác giả trên cảm hứng sáng tác mới.
2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu văn xuôi Nguyễn Trí,
chủ yếu là truyện ngắn và tiểu thuyết làm đối tượng khảo sát chính. Từ đó để
thấy sự phản ứng của văn học trước những khủng hoảng sinh thái đang diễn ra.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu khía cạnh phê bình sinh thái trong văn xuôi
Nguyễn Trí qua một số tác phẩm văn xuôi:
Bãi vàng, đá quý, trầm hương - tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2013
Đồ tể - tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2014
Thiên đường ảo vọng - tiểu thuyết, NXB Trẻ, 2015
Ảo và sợ - tập truyện ngắn - NXB Trẻ, 2016
Bay cao thì mặc bay cao - tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội, 2016
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Nghiên cứu về phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái đang là một hướng nghiên cứu giàu tiềm năng và đang
còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều công trình,
hôi thảo liên quan đến chủ đề môi trường và phát triển bền vững, trong đó nổi
bật lên một số nghiên cứu sau:
Bài “Phê bình sinh thái-cội nguồn và sự phát triển” (2012) của Đỗ Văn
Hiểu đã tổng hợp, giới thiệu phong trào phê bình sinh thái trên thế giới, đồng
thời chỉ ra: “Triết học sinh thái là khởi điểm lí luận và căn cứ của phê bình sinh
thái”. Bên cạnh khẳng định phê bình sinh thái là cội nguồn tư tưởng của các
nhà triết học phương Tây làm tiền đề xuất hiện phê bình sinh thái, tác giả còn
cho rằng phê bình sinh thái đang dần lan rộng trên toàn thế giới (Đỗ Văn Hiểu,
2016).
Trong bài viết “Mùa xuân, sinh thái và văn chương” (2013), từ gợi dẫn
truyện ngắn Muối của rừng, Huỳnh Như Phương nhấn mạnh đến sự tương tác
3
giữa môi trường tự nhiên với con người; đồng thời tác giả cũng chỉ ra vấn đề
sinh thái không còn đơn thuần của riêng ngành khoa học nào nữa mà đã trở
thành vấn đề toàn cầu trong đó có trách nhiệm của văn chương, đó vừa là vấn
đề đạo đức, vừa là vấn đề thẩm mỹ. Sự suy thoái hệ sinh thái của một quốc gia
không chỉ quy trách nhiệm cho những người quản lý đất nước mà cả cho sự thờ
ơ của từng công dân, trong đó có những nhà văn (Huỳnh Như Phương, 2013).
Chuyên luận phê bình sinh thái Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn
chương (2017) của Nguyễn Thị Tịnh Thy đã cảnh báo những hậu quả nhân loại
phải gánh chịu vì những hành vi thô bạo, hám lợi, vô ý thức. Công trình giới
thiệu giới thiệu những lý thuyết làm cơ sở lý luận cho văn học sinh thái và phê
bình sinh thái ở thế giới và Việt Nam từ “khởi thủy” đến hôm nay. Đồng thời
ứng dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu văn chương, thể hiện sự
tương thích của lí thuyết trong việc phân tích những thể loại, tác phẩm, tác gia
văn học cụ thể (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017).
Cuốn sách phê bình sinh thái là gì? (2017) Do Hoàng Tố Mai (chủ biên)
gồm những bài dịch và tổng thuật một số công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học về phê bình sinh thái để độc giả Việt Nam có thể mường tượng một
cách cụ thể hơn về phê bình sinh thái, từ bản chất, đặc trưng, đối tượng, phương
pháp cho đến mục tiêu nghiên cứu (Hoàng Tố Mai, 2017).
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái: tiếng nói bản địa - tiếng nói
toàn cầu (2017), đã tổng hợp những kiến thức về sinh thái từ những bài tham
luận của các tác giả trong và ngoài nước. Công trình giới thiệu những nghiên
cứu và tổng thuật nghiên cứu phê bình sinh thái từ các nền văn học nghệ thuật
khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu phê bình sinh thái trên cơ sở chất liệu văn
học Việt Nam và văn học nước ngoài. Kỷ yếu là tư liệu cần thiết phục vụ cho
việc nghiên cứu phê bình sinh thái trong văn học (Nguyễn Đăng Điệp, et al,.
2017).
4
Từ vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái, đã có những công trình nghiên
cứu sinh thái trong những tác phẩm, tác giả cụ thể. Tác giả Đặng Thị Thái Hà
vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu những tác phẩm, tác giả cụ
thể như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư trong luận
văn thạc sĩ của mình (Đặng Thị Thái Hà, 2014).
Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ
lí thuyết phê bình sinh thái” (2014), Vũ Minh Đức đã phát hiện ra trong tập
truyện ngắn những triết lí sinh thái về cái chết của tự nhiên thông qua các mô
tuýp săn bắn, những thông điệp Nguyễn Huy Thiệp đưa ra qua nhân vật nữ, qua
biểu tượng từ gợi dẫn sinh thái nữ quyền (Vũ Minh Đức, 2016).
Tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt đã vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để
phân tích những hiện tượng văn học cụ thể như Con người và tự nhiên trong
văn xuôi Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn phê bình sinh thái (2016). Tác giả
đã khái quát lý thuyết phê bình sinh thái, đồng thời làm rõ biểu hiện của phê
bình sinh thái trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 ở phương diện nội dung và
nghệ thuật. Công trình đã chỉ rõ tư tưởng đối thoại sinh thái trên phương diện
điểm nhìn, mô típ, nhân vật, cốt truyện... của văn xuôi sau 1975 với giai đoạn
văn xuôi trước đó (Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2014). Như vậy, phê
bình sinh thái đã được đặt lên bàn nghị sự, tuy nhiên có thể coi những nghiên
cứu này là “những nốt dạo đầu”.
Kỷ yếu Hội thảo Phê bình sinh thái: Lý luận và ứng dụng của trường đại
học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, 30/1/2018 gồm 3 bài viết về lý luận phê bình
sinh thái và 10 bài viết về ứng dụng hướng nghiên cứu phê bình sinh thái trong
sáng tác của các tác giả sau 1975 như Trang Thế Hy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn
Trí, Lê Văn Thảo, Trần Đức Tiến… Bên cạnh đó còn có những bài viết nghiên
cứu sinh thái trên phương diện thể loại như truyện ngắn đương đại, tản văn. Hội
thảo đã có những phân tích và đánh giá bước đầu văn xuôi Nam Bộ từ góc nhìn
phê bình sinh thái. Hội thảo góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ hài hoà
5
giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội trên tinh thần nhân văn hiện đại
vì sự phát triển bền vững của vùng đất Nam Bộ trong trong hiện tại và tương
lai (Nhiều tác giả, 2008).
3.2. Nghiên cứu về tác giả Nguyễn Trí
Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu tổng thể về tác giả và tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Trí chúng tôi nhận thấy: Hiện nay nghiên cứu, phê bình văn
học về tác giả Nguyễn Trí mới chỉ dừng lại ở gần 40 bài báo viết về nhà văn
Nguyễn Trí và các sáng tác của ông, trong đó có hơn 20 bài báo viết về hai tập
truyện ngắn Bãi vàng, đá quý, trầm hương và Ảo và sợ của nhà văn Nguyễn
Trí.
Phần lớn các bài báo nghiên cứu hoặc giới thiệu kỹ lưỡng hơn về thành
tựu, giá trị nội dung của Nguyễn Trí, được thể hiện trong tác phẩm của ông trên
phương diện phân tích, bình luận về đề tài, chủ đề, hình ảnh con người, quan
niệm nghệ thuật và thế giới con người của nhà văn. Nhà văn Hồ Anh Thái -
Người đầu tiên phát hiện ra tài năng Nguyễn Trí đã có những chia sẻ khi viết
lời giới thiệu “Sự hấp dẫn của đời sống” cho tập truyện Bãi vàng, Đá quý, Trầm
hương: “Cái tên Nguyễn Trí thì còn lạ lẫm, nhưng một trang đầu đã chứng tỏ
người viết có chữ và biết dùng chữ, có chuyện và biết kể chuyện. Văn có không
khí và có màu sắc. Chất Nam Bộ. Văn cũng rất riêng và có ý thức làm cho độc
đáo. Cái không lạ mà lạ của lời ăn tiếng nói thông thường” (Hồ Anh Thái,
2013).
Lê Minh Khuê cũng có những đánh giá cao về tập truyện Đồ tể của
Nguyễn Trí. Trong lời giới thiệu “Đẹp và Thiện” cho tập truyện ngắn Đồ tể, Lê
Minh Khuê viết: “Đồ tể hấp dẫn ở cốt truyện, ở cách kể. Như nhiều truyện ngắn
của Trí. Đọc rồi mới thấy tác giả là người có tình, nghĩ ngợi thâm sâu, nhân
hậu, có cái run sợ khi sống và hành xử với đời” (Lê Minh Khuê, 2015).
Bên cạnh một số bài báo viết về vấn đề trên còn có công trình nghiên cứu
về Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Trí của Đào Thị Lan Anh; Nghệ thuật tự sự
6
của Nguyễn Trí qua tập Bãi vàng, đá quý, trầm hương của Chu Thị Thu Hồng.
Trong kỷ yếu hội thảo phê bình sinh thái: lý luận và ứng dụng có bài viết của
tác giả Nguyễn Thị Hồng Minh đã chỉ ra dấu ấn sinh thái tự nhiên trong sáng
tác Nguyễn Trí. Tuy nhiên chưa có công trình nào chỉ ra sự hòa kết độc đáo
giữa văn chương và sinh thái trong sáng tác của Nguyễn Trí một cách hệ thống,
do đó chúng tôi chọn đề tài Văn xuôi của Nguyễn Trí dưới góc nhìn phê bình
sinh thái để thực hiện luận văn của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp phổ thông như thống kê - phân loại, phân tích,
tổng hợp, so sánh (đồng đại, lịch đại), chúng tôi còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu nghiên cứu chuyên ngành sau: Phê bình sinh thái, Thi pháp học,
Cấu trúc- hệ thống.
4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành như kinh tế, văn
hóa, địa lý, sinh học, để phân tích tác phẩm văn chương nhằm rút ra những cảnh
về môi trường.
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Khảo sát các yếu tố nghệ thuật thể hiện chủ đề, tư tưởng, thi pháp sinh thái
như: không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu, …
4.3. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Phương pháp này giúp xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên
hệ thống mà cụ thể là những dấu hiệu lặp lại có tính quy luật của những yếu tố
ấy. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ được bộc lộ rõ.
5. Những đóng góp của đề tài
Thực hiện đề tài Văn xuôi của Nguyễn Trí dưới góc nhìn phê bình sinh
thái, chúng tôi mong có một số đóng góp như sau:
7
- Giới thiệu khái quát về phê bình sinh thái.
- Khảo sát những bình diện khác nhau của khuynh hướng văn xuôi sinh
thái. Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn
học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách tân
nghệ thuật.
- Khảo sát các tác phẩm văn xuôi sinh thái của Nguyễn Trí; phân tích các
tác phẩm dưới góc nhìn của phê bình sinh thái. Đưa ra một cái nhìn toàn diện
về phê bình sinh thái trong văn xuôi của Nguyễn Trí thông qua hai bình diện
sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn; Cùng một số phương thức nghệ thuật
nổi bật mà tác giả xây dựng cảm quan sinh thái như: ngôn ngữ nghệ thuật, giọng
điệu, nghệ thuật xây dựng nhân vật...
Qua việc khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá một tác phẩm dưới góc
nhìn phê bình sinh thái, chúng tôi mong muốn khẳng định giá trị của tác phẩm
và đóng góp của Nguyễn Trí cho nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm (138 trang), ngoài phần mở đầu (8 trang) và kết luận
1 trang) luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Phê bình sinh thái và hiện tượng văn xuôi của Nguyễn Trí (25
trang)
Trong chương này, chúng tôi trình bày khái quát về phê bình sinh thái và
giới thiệu về phê bình sinh thái
Chương 2: Sinh thái tự nhiên trong văn xuôi của Nguyễn Trí (44 trang)
Chương này tập trung tìm hiểu sinh thái tự nhiên trong văn xuôi Nguyễn
Trí. Những không gian thiên nhiên đậm sắc thái vùng miền, những hiểm họa từ
môi trường, những thông điệp về mối quan hệ giữa con người với môi trường
tự nhiên; các biểu hiện nghệ thuật nhằm thể hiện sinh thái tự nhiên trong văn
xuôi Nguyễn Trí.
Chương 3: Sinh thái nhân văn trong văn xuôi của Nguyễn Trí (48 trang)
8
Chương này tìm hiểu sinh thái nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Trí,
chuyển biến trong quan hệ giữa người với người. Thông điệp cảnh tỉnh con
người trong cuộc sống đô thị; Phương thức biểu hiện cảm quan sinh thái trong
văn xuôi của Nguyễn Trí. Nghệ thuật trần thuật và giọng điệu. Vai trò của
phương thức nghệ thuật trong việc hình thành cảm quan sinh thái.
9
Chương 1. PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HIỆN TƯỢNG
VĂN XUÔI NGUYỄN TRÍ
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, phê bình sinh thái nhanh chóng lan truyền khắp
các quốc gia và trở thành hướng nghiên cứu giàu tiềm năng. Tuy nhiên, phê
bình sinh thái còn nhiều vấn đề từ định nghĩa, phương pháp cho đến ứng dụng
nên cần sự chung sức của giới nghiên cứu và giảng dạy văn học. Việt Nam là
một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của phê bình sinh thái. Sau 1975, đã
có rất nhiều tác phẩm viết về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, văn học
và môi trường. Sáng tác của Nguyễn Trí là một minh chứng về sự nhạy cảm,
bản lĩnh, cái tâm và trách nhiệm công dân của nhà văn đối với thực trạng xã
hội hiện nay.
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái
1.1.1. Phê bình sinh thái: Khái niệm, phương pháp và ứng dụng
a. Khái niệm phê bình sinh thái
Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình
sinh thái (Ecocriticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế
kỉ XX. Có nhiều thuật ngữ tương cận Phê bình sinh thái (Ecocriticism) như
Nghiên cứu văn học và môi trường (Studies of literature and environment),
Sinh thái học văn học (Literary Ecology), Thi pháp sinh thái (Ecopoetics), Phê
bình văn học môi trường (Environmental literary criticism), Phê bình xanh
(Green studies), Phê bình văn hoá xanh (Green cutural studies). So với văn
học sinh thái, thuật ngữ phê bình sinh thái ra đời muộn hơn và gây nhiều tranh
cãi. Người dùng thuật ngữ phê bình sinh thái lần tiên có lẽ là nhà phê bình Hoa
Kỳ William Rueckert vào năm 1987. Và ông định nghĩa rằng: “Sinh thái học
văn học là kết hợp văn học và sinh thái học, cung cấp khái niệm sinh thái học
cho việc đọc, giảng dạy và sáng tác văn học để từ đó phát triển thành môn văn
10
học sinh thái” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Chery Glotfelty cho rằng định
nghĩa này còn hạn hẹp vì quá chú trọng đến khoa học sinh thái.
James S.Hans đưa ra định nghĩa về phê bình sinh thái: “Phê bình sinh thái
là nghiên cứu văn học (và các ngành nghệ thuật khác) từ bối cảnh xã hội và
địa cầu. Văn học không phải một lĩnh vực tồn tại riêng và cách biệt với thể giới
bên ngoài. Vì vậy, nếu chúng ta nghiên cứu văn học trong bản thân nó thì sẽ
làm cản trở mối liên hệ rất quan trọng của văn học với các hệ thống khác, mà
chính những mối liên hệ đó đã kết hợp sự biểu đạt quan niệm giá trị của chúng
ta” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Định nghĩa này của James S.Hans nói rõ giới
hạn của phê bình sinh thái không chỉ nằm trong nội tại của tác phẩm văn học
mà còn xuất phát từ bối cảnh xã hội, không chỉ là mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên mà còn là mối quan hệ giữa con người với sinh thái trên trái đất
này. Tuy nhiên hạn chế của định nghĩa này là chưa xác định rõ nghiên cứu văn
học trong phê bình sinh thái dựa vào tư tưởng và tiêu chí nào, chưa chỉ ra bản
chất đặc trưng bản chất của phê bình sinh thái. Đồng thời, định nghĩa chưa đề
cập quan niệm và tiêu chí mĩ học của phê bình sinh thái.
“Phê bình sinh thái là chỉ hai phương diện nghiên cứu: Vừa có thể sử dụng
bất kì một phương pháp nào để nghiên cứu lối viết tự nhiên, vừa có thể
khảo sát cặn kẽ hàm nghĩa sinh thái và mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong bất cứ văn bản văn học nào, cho dù những văn bản ấy thoạt
nhìn có vẻ rõ ràng miêu tả thế giới phi nhân loại”
(Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017).
Trong khi đó, phê bình sinh thái được Scott Slovic định nghĩa:
Từ định nghĩa này có thể thấy, Scott Slovic trộn lẫn văn học sinh thái với
“lối viết tự nhiên”, trong khi đó “lối viết tự nhiên” rất giới hạn về mặt đối
tượng, các tác phẩm phản ánh nguy cơ sinh thái thuộc các loại tiểu thuyết,
11
kịch, thơ ca, không được xếp vào “lối viết tự nhiên”. Hơn nữa định nghĩa
này cũng chưa phơi bày được nguy cơ sinh thái và phê phán những tư tưởng
phản sinh thái. Những đặc trưng thẩm mỹ của văn học phê bình sinh thái
cũng chưa được tác giả đề cập trong định nghĩa.
“Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học
và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn
ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của
phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh
thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered
approach) để nghiên cứu văn học”
(Cheryll Glotfelty, 1996 )
Cheryll Glotfelty đã đưa ra định nghĩa về phê bình sinh thái như sau:
Định nghĩa này của bà được nhiều học giả trên thế giới chấp nhận vì nó
nói rõ được sứ mệnh cuả phê bình sinh thái là truy tìm nguồn gốc, nguy cơ của
sinh thái. Nếu như Scott slovic chưa làm rõ được ý thức phi nhân loại là ý thức
nào thì đến với định nghĩa này, Cheryll Glotfelty đã cho thấy khuynh hướng
“Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con
người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê
bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là
sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học làm chủ đề. Như một quan điểm
phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất,
như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người
(human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman)
(Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017).
chủ yếu của bà là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Bà còn bổ sung thêm:
Theo bà, phê bình sinh thái cần được chú ý ở hai khái cạnh tư tưởng chủ
12
nghĩa chỉnh thể sinh thái và thẫm mỹ sinh thái. Phê bình sinh thái đứng một chân ở
văn học tức là nói đến tính thẩm mỹ và tính nghệ thuật trong nội tại tác phẩm. Một
chân đứng ở trái đất tức là đứng ở góc độ của toàn bộ sinh thái để suy xét vấn đề.
Định nghĩa này cũng chỉ rõ mục đích của lý luận phê bình sinh thái là thúc đẩy mối
quan hệ hài hoà giữa con người và môi trường. Tuy nhiên, nếu sử dụng định nghĩa
ở trang 18 trong tuyển tập thì sẽ ngắn gọn, hàm súc nhưng thiếu đi tính nghệ thuật
của phê bình sinh thái. Nếu sử dụng thêm phần diễn giải ở trang 19 thì định nghĩa
lại quá dài. Đó là một điều hạn chế trong định nghĩa của Cheryll Glotfelty.
Khác với các định nghĩa của các học giả phương Tây, Vương Nặc cho rằng
phê bình sinh thái cần được được chú ý ở ba phương diện: giá trị cốt lõi của phê
bình sinh thái, tính học thuật và logic, thẩm mỹ sinh thái. Từ đó, tác giả này đưa ra
định nghĩa như sau: “Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng tư tưởng của chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái. Nó phải phơi bày nguồn gốc văn hoá tư tưởng của nguy cơ sinh thái được
phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám phá thẩm mỹ sinh thái và biểu
hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Có thể thấy
định nghĩa này của Vương Nặc khác với các học giả phương Tây là chú ý đến đặc
trung thẩm mỹ sinh thái của phê bình sinh thái. Tuy nhiên, hạn chế của định nghĩa
này là dài dòng bởi “nghiên cứu mối qua hệ giữa văn học và tự nhiên” đã bao hàm
việc “phơi bày nguồn gốc văn hoá tư tưởng của nguy cơ sinh thái được phản ánh
trong tác phẩm văn học”.
Đối tượng trung tâm của chủ nghĩa phê bình sinh thái không phải là tự
nhiên với tư cách là một đối tượng sinh học thuần túy, mà tập trung vào vị trí
của con người và tự nhiên trong một chỉnh thể sinh thái cân đối cũng như các
hoạt động của con người tác động đến tự nhiên (kể cả tích cực và tiêu cực). Con
người, trong cái nhìn của sinh thái học, vốn đã quá tự tin vào nền khoa học
công nghệ của mình đến nỗi xem tự nhiên như một đối tượng thấp kém để cải
tạo và chinh phục. Những gì thuộc về tự nhiên bị xem như thuộc về thế giới vô
13
tri, ngu muội. Các nhà phê bình sinh thái đề xuất quan niệm về một vị trí khác
cho con người: con người chỉ là một bộ phận của thế giới tự nhiên.
Như vậy phê bình sinh thái ra đời đã và đang khẳng định được ý nghĩa tích cực
trong hệ thống lý thuyết phê bình văn học hiện đại. Phê bình sinh thái mang sứ
mệnh nhìn nhận lại văn hoá nhân loại, đánh thức trách nhiệm của con người trước
nguy cơ sinh thái. Phê bình sinh thái đã bổ sung cho những khiếm khuyết của nghiên
cứu văn học. Nhà nghiên cứu không chỉ đơn thuần là nghiên cứu học thuật mà còn
gánh vác trách nhiệm của một nhà văn hoá, một nhà xã hội có ý thức trách nhiệm
sự xuất hiện của phê bình sinh thái không chỉ mở ra một khuynh hướng tiếp
cận mới, làm phong phú thêm công cụ nghiên cứu, phê bình văn học, mà còn
góp phần quan trọng đưa văn học áp sát hơn với đời sống và những vấn đề
của con người. Phê bình sinh thái phần nào đã phá tan sự hoài nghi của một
bộ phận về vai trò của văn học đối với đời sống, góp phần khẳng định cái gọi
là “giá trị thực tiễn”, “giá trị ứng dụng”…mà lâu nay người ta thường đặt ra
như một tiêu chí bắt buộc cho tất cả mọi nghiên cứu cơ bản”
(Nguyễn Đăng Điệp, 2017)
phổ cập ý thức sinh thái, góp phần xây dựng văn minh sinh thái. Có thể thấy:
b. Phương pháp và ứng dụng thực tiễn
Phê bình sinh thái là hướng tiếp cận văn chương theo chủ đề. Vấn đề
sinh thái trong tác phẩm, quan điểm sinh thái, trách nhiệm sinh thái của nhà
phê bình là mục đích chính. Vì thế phương pháp nghiên cứu không quá phức
tạp và khác biệt so với đặc điểm chung của nghiên cứu văn học. Trước hết, cần
xác định đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu để đưa ra phương pháp
thích hợp. Phê bình sinh thái có thể ứng dụng những phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống giúp phân tích mối quan hệ thống nhất và đối lập
giữa con người với tự nhiên.
14
Phương pháp so sánh giúp so sánh một hiện tượng văn học vớ các hiện
tượng văn học cùng loại kể cả những hiện tượng đối lập để làm nổi bật bản
chất của hiện tượng được đem ra so sánh.
Phương pháp trực giác là phương pháp giúp nhận thức phương thức
nghệ thuật bằng trực giác thế giới tự nhiên, bản chất của hiện thực.
Phương pháp thống kê giúp tăng sự thuyết phục cho các nhận định và
kết luận thông qua số liệu cụ thể.
Phương pháp loại hình giúp xác định loại hình để có thể đánh giá các
loại hình văn học trong hệ quy chiếu của nó.
Phương pháp liên ngành giúp nhận định vấn đề sinh thái thông qua các
ngành khoa học liên quan. Phê bình sinh thái cần phải kết hợp văn học với
các ngành khoa học khác như sinh thái học, sinh vật học, địa lí học, tâm lí
học, nhân loại học, mỹ học, văn hoá học, sử học, tôn giáo học…để làm
phong phú thêm thực tiễn phê bình sinh thái. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả
cao nhất cần sử dụng tổng hợp các phương pháp nói trên.
Hiện nay, đã có không ít các bài nghiên cứu hình tượng thiên nhiên trong
tác phẩm theo lối phê bình truyền thống với những đề tài có gắn yếu tố “phê
bình sinh thái” dẫn đến kết cục “bình mới rượu cũ” và “mơ hồ sinh thái”. Vì
vậy cần có các bước tiến hành phê bình sinh thái như sau:
Chọn đối tượng nghiên cứu: hiện nay, việc vận dụng phê bình sinh thái
một cách tràn lan, như một “mốt” trong nghiên cứu với những đề tài, chủ điểm
hời hợt, không tiêu biểu hoặc mở rộng biên độ qua các thời kì văn học. Vì vậy,
xem xét lại việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu có chọn lọc và sàng lọc kỹ là
việc làm cần thiết.
Khảo sát các yếu tố biểu hiện sinh thái và quan niệm sinh thái như: hình
tượng thiên nhiên, quan hệ hoà hợp hay xung đột giữa con người với tự nhiên,
hành động và tư tưởng bảo vệ hoặc phá hoại tự nhiên, nguyên nhân nguy cơ
sinh thái.
15
Khảo sát các yếu tố nghệ thuật thể hiện tư tưởng chủ đề, thi pháp sinh
thái và phong cách sáng tác của nhà văn. Đây là điểm đáng lưu ý đề phê bình
sinh thái không xa rời bản chất mỹ học của bộ môn nghệ thuật ngôn từ. Người
nghiên cứu không nên chỉ chú trọng đến nội dung, tư tưởng của tác phẩm nghệ
thuật mà bỏ qua giá trị nghệ thuật văn chương. Văn học có thể trùng lắp về đề
tài, chủ đề nhưng có muôn vàn phương tiện nghệ thuật để làm nên sự khác biệt
giữa các tác giả. Không thể đi tìm ý nghĩa nhân sinh mà bỏ qua yếu tố thẫm mỹ
của tác phẩm. Điều này sẽ khiến phê bình sinh thái trở nên khô khan, đơn điệu.
Vì vậy, Phê bình sinh thái cần cân bằng giữa giá trị sinh thái và giá trị nghệ
thuật của tác phẩm. Có như thế văn học sinh thái mới có thể khơi gợi nơi người
đọc tình yêu tự nhiên và ý thức trách nhiệm đối với thế giới tự nhiên.
Từ những khảo sát đã có được, người nghiên cứu cần lí giải vấn đề. Ví
dụ lí giải nguy cơ sinh thái, cảnh báo và đưa ra thông điệp về nguy cơ sinh thái.
1.1.2. Văn học sinh thái trong văn học Việt Nam sau 1975
a. Khái niệm văn học sinh thái
Văn học sinh thái có nhiều tên gọi khác như: Văn học sinh thái học
(Ecological literature), Văn học môi trường (Environmental literature), Văn
học tự nhiên (Natural literature), Văn học xanh ( Green literature), lối viết,
văn bản tự nhiên ( Nature writing). Tuy nhiên, ở lĩnh vực văn học, các học giả
đều dùng thuật ngữ Văn học sinh thái (Ecoliterature).
Trong hội thảo quốc tế Trung – Nhật diễn ra ở Ichikawa ngày 26/5/2010,
các học giả đã đưa ra khái niệm Văn học sinh thái “là tác phẩm có đề tài về
động vật hoang dã”. Tuy nhiên định nghĩa này được cho là còn hạn chế và
khiếm khuyết vì phạm vi đề cập hạn hẹp. Ở Trung Quốc, Vương Nặc là người
đầu tiên đưa ra khái niệm Văn học sinh thái. Theo ông “Văn học sinh thái là
loại văn học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích
chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy
16
cơ sinh thái” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Hay nói cách khác văn học sinh
thái là cách gọi đối với những tác phẩm văn học ra đời trong bối cảnh môi
trường ngày càng xấu đi, nội dung của những tác phẩm văn học này nhằm thể
hiện trách nhiệm của người viết đối với vấn đề môi trường và xã hội. Một tác
phẩm được xem là văn học sinh thái cần có những đặc trưng nhất định như: phê
phán chủ nghĩa nhân loại trung tâm, kêu gọi tinh thần “chủ nghĩa sinh thái nhân
văn”; nhấn mạnh nơi chốn và ý thức về nơi chốn; kết hợp “tính khoa học” và
“tính văn học”; có trách nhiệm sinh thái, phê phán mặt trái của văn minh, thể
hiện lý tưởng sinh thái và cảnh báo nguy cơ sinh thái.
Các nhà nghiên cứu thường cho rằng Mùa xuân im lặng (1962) của nhà
sinh vật học hải dương Richel Carson là cột mốc đánh dấu sự mở đầu của phong
trào bảo vệ môi trường của phương Tây hiện đại, đồng thời mở đầu của thời
đại văn học sinh thái. Tác phẩm cảnh báo con người cần thay đổi thái độ sống,
thay đổi quan niệm về tự nhiên. Theo bà, nguy cơ sinh thái không chỉ là nguy
cơ môi trường mà còn là nguy cơ đạo đức, nguy cơ tư tưởng, nguy cơ văn hoá.
Trên thế giới có những tác phẩm văn học sinh thái tiêu biểu như: Frankenstein
(1918) của Marry Shelley, Walden (1854) của Henry David Thoreau Niên giám
xứ cát (1949) của Aldo Leopold, Ryx và Crake (2003) của Margaret Atwood.
b. Văn xuôi sinh thái trong văn học Việt Nam sau 1975
Hiện nay, ở Việt Nam chưa một nhà văn nào tự định danh tác phẩm của
mình là văn học sinh thái, các nhà phê bình cũng không thể chỉ ra đâu là tác
phẩm văn học sinh thái trong giai đoạn này. Tuy nhiên, nhiều tác giả đã bắt đầu
đề cập đến mạch ngầm sinh thái, mối quan hệ giữa con người và thế giới tự
nhiên bằng việc phản ánh thực trạng biến đổi cảnh quan, ô nhiễm môi trường,
sự khai thác và chiếm đoạt không gian hoang dã, ảnh hưởng của đô thị, tệ nạn
xã hội, những cuộc đời tang thương, số phận bi thảm của con người trong thảm
hoạ thiên tai, dịch bệnh… Tất cả được nhà văn đưa vào tác phẩm của mình như
những mảnh ghép của số phận. Từ những đề tài đó, văn học đưa ra những cảnh
17
báo môi trường và xã hội. Cho nên dễ dàng nhận thấy, trong dòng chảy chung
của văn học Việt Nam đương đại, có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái
đang dần hình thành vừa lặng lẽ, vừa mãnh liệt và mang tính thời sự cao. Các
tác giả đã thể hiện đậm nhạt được yếu tố sinh thái trong tác phẩm của mình.
Khuynh hướng này đang dần lớn mạnh và quy tụ được nhiều cây bút.
Văn xuôi sinh thái đã có những tác phẩm đáng ghi nhận khi viết trực diện
về mối quan hệ của văn học và môi trường và đưa đến cho văn xuôi sinh thái
Việt Nam nhiều vấn đề mới lạ. Có thể thấy, các tác phẩm văn xuôi sinh thái sau
1975 đã có những đặc trưng cần có của văn học sinh thái là lấy chủ nghĩa chỉnh
thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm
giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái.
Trong cái nhìn so sánh lịch đại, có thể khẳng định rằng văn xuôi sinh thái
Việt Nam sau 1975 đã trở thành một khuynh hướng. Và tư duy đối thoại sinh
thái của văn xuôi sau 1975 với văn xuôi truyền thống khá rõ nét qua các phương
diện điểm nhìn, cốt truyện, cảm hứng chủ đạo.
Về điểm nhìn, có sự thay đổi trong điểm nhìn của văn xuôi sau 1975,
chuyển từ “con người là trung tâm” sang “trái đất là trung tâm”. Tự nhiên
trong văn xuôi sinh thái trước 1975 xuất hiện là cái cớ, cái nền cảnh cho con
người xuất hiện, là phương tiện để biểu hiện tính cách, tâm hồn của con người.
Đoàn Giỏi (Đất rừng phương Nam) chọn một cậu bé thành phố lưu lạc về miền
sông nước làm nhân vật chính, lấy con mắt chiêm ngưỡng, lạ lùng, tò mò của
người thành phố để nhìn vẻ đẹp sông nước mênh mông, giàu có. Hương rừng
Cà Mau của Sơn Nam thể hiện khả năng chinh phục của tự nhiên của con người
như các truyện bắt sấu, bắt rắn, lấy ong, lấy mật. Nếu như văn xuôi trước 1975
viết về tự nhiên là để nói con người, lấy con người làm trung tâm để mô tả, biểu
hiện đánh giá tự nhiên thì văn xuôi sau 1975 nhìn nhận sinh thái là trung tâm.
Khác với văn xuôi truyền thống, các tác phẩm văn xuôi sau 1975 không chỉ nói
18
về thế giới con người mà còn nói về muông thú có tình cảm, tính cách và số
phận. Tự nhiên có sinh mệnh độc lập, tồn tại ngoài ý thức của con người.
Trong Cái nhìn khắc khoải (Nguyễn Ngọc Tư) con Vịt Cộc được xem như một
người bạn để chuyện trò, tâm sự, giãi bày, an ủi với ông Già. Nương và Điền
trong Cánh đồng bất tận lang thang trên khắp các cánh đồng, bạn của họ là gà
với vịt, chim muông, tự nhiên là nơi con người nương tựa vào để mà sống.
Muông thú trở thành những người bạn thân thiết của con người chứ không đơn
giản là loài vật được nhìn nhận qua con người. Thậm chí chúng còn được sánh
ngang với con người. Con chó và vụ li hôn của Dạ Ngân gây bất ngờ vì nguyên
nhân người vợ viết đơn li dị là vì con chó. Giữa “chọn chó hay chọn chồng”,
cô đã chọn con chó. Cán cân loài vật và con người được đặt ngang hàng nhau,
thậm chí sự đối trọng có phần nghiêng về chú chó. Các loài vật trong văn xuôi
sinh thái sau 1975 có cá tính thật sự, có sự thông thái, hiểu biết, và tình cảm
sâu nặng. Con Chó Bi (Đời lưu lạc - Ma Văn Kháng) chung thuỷ với ông Toản,
luôn đi theo và sẵn sàng bảo vệ cho người bạn của mình. Hay con chim bìm
bịp (Biển người mênh mông - Nguyễn Ngọc Tư) cũng có cảm xúc nhớ quê
hương giống như con người. Không chỉ là người chia sẻ nỗi buồn cùng ông già,
Bìm bịp cũng mang trong mình những tâm tư nỗi niềm riêng. Bìm bịp nhớ về
nơi mình đã sinh ra và lớn lên, mỗi lần nhớ sống nó đều cất lên tiếng kêu buồn
thiu, thảm thiết.
Phê bình sinh thái chỉ ra chính tư tưởng sùng thượng con người một cách
thâm căn cố đế trong tư tưởng nhân loại dẫn đến sự khủng hoảng của con người
thời hiện đại. Con người phải từ bỏ cái trung tâm luận là chính mình để soi vào
vạn vật và nhận ra vẻ đẹp vô tư, không vụ lợi của tự nhiên, bằng cái nhìn bình
đẳng, nhận ra tạo vật và một sự thật mà bấy lâu nay vì thói tự phụ, con người
quên mất: tự nhiên có trước và là chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người.
Về cốt truyện: Văn xuôi trước 1975 viết về tự nhiên để ca ngợi sự chinh
phục của con người. Ở đó, thiên nhiên cũng luôn được đề cao và trở thành
19
nguồn cảm hứng bất tận của văn xuôi. Sơn Nam, đã phác thảo bức tranh sinh
động của đời sống miệt vườn, với những giậu mồng tơi, những rừng đước, rừng
mắm, rừng tràm… Nhà văn cũng dựng lại nhiều hình ảnh con người va chạm
thiên nhiên qua những lần tìm tổ ong, bắt rùa, bẫy rắn trong Hương rừng Cà
Mau, Bắt sấu rừng U Minh hạ, Biển cỏ miền Tây… Đất rừng phương Nam của
Đoàn Giỏi miêu tả những rừng tràm bạt ngàn, dải sông mênh mông, cánh đồng
bát ngát, tôm cá đầy ghe, qua các địa danh sông Tiền, sông Hậu đến Kiên Giang
- Rạch Giá, rồi xuống tận rừng U Minh, đất mũi Cà Mau. Nguyễn Quang Sáng
khắc hoạ thiên nhiên như bà mẹ vĩnh cữu, luôn rộng mở, che chở cho người
dân thoát khỏi vòng vây kẻ thù. Vì vậy, văn xuôi trước 1975 nhìn nhận thiên
nhiên vừa hoang sơ, khắc nghiệt nhưng vô cùng trù phú và hoà hợp với con
người. Thiên nhiên được nhìn nhận trong mối quan hệ tương hỗ với con người,
chinh phục thiên nhiên gắn liền với cải tạo thiên nhiên. Sau 1975, văn xuôi nhìn
nhận tự nhiên và con người trong sự xung đột. Vì vậy, cốt truyện của văn xuôi
chủ yếu là cốt truyện về những cuộc khai thác, đi săn, sự cỗi cằn.
Cốt truyện nói về việc khai thác tự nhiên: Trong văn xuôi trước 1975,
các tác phẩm miêu tả tả khai thác thiên nhiên trong sự hoà hợp. Ví dụ trong các
sáng tác của các tác giả Nam Bộ như Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Hồ Biểu
Chánh, Sơn Nam, … người dân Nam Bộ vận dụng điểm mạnh yếu của dòng
nước vào lao động sản xuất. Họ chủ động hơn trong công việc của mình. Tùy
theo trạng thái của dòng nước, con người có thể lựa chọn công việc thích hợp,
giảm bớt sức lao động của con người, hay tiến hành công việc thuận lợi. Chẳng
hạn nước lớn thì giăng câu, câu cắm, còn nước ròng thì đào ao, vét bùn, … hoặc
theo chế độ dòng chảy hoặc theo chế độ dòng chảy mà cho thuyền xuôi ngược
giảm sức chèo chống. Dựa vào chế độ bán nhật triều, người Việt ở Nam Bộ xác
định thời điểm con nước để tận dụng khoảng thời gian quan trọng ấy vào các
hoạt động của mình. Tận dụng chu kỳ con nước hàng ngày (ví như nước lớn,
nước ròng) để đi lại bằng ghe xuồng là vấn đề thiết yếu của cư dân nơi đây.
20
Tận dụng chu kỳ con nước hàng tháng (ví như nước rong, nước kém) để đi lại,
giăng câu, chài lưới, đăng đó, đánh bắt thủy sản. Trúng con nước là trúng mánh
và đặc biệt, tận dụng chu kỳ con nước hàng năm - nước nổi để khai thác các
sản vật đặc biệt từ cây (bông súng, rau dừa, điên điển,...) đến con (cá linh, cá
sặc, chuột đồng, hến,…) mà quan trọng nhất là đánh bắt thủy hải sản với năng
suất cao, quy mô lớn, thời gian kéo dài nhất trong năm. Chính vì vậy mà mùa
nước nổi được người dân miền Tây Nam Bộ vô cùng mong đợi và cũng nhờ
vậy mà cuộc sống con người thịnh vượng hơn. Không chỉ nổi bật với hệ thống
kênh, rạch chằng chịt, vùng đất Nam Bộ này còn nổi tiếng với những đặc sản
miệt vườn hấp dẫn, khẳng định nền văn hóa miền Nam tổ quốc. Văn xuôi sau
1975 đề cấp đến việc khai thác tự nhiên một cách tận diệt, chống lại bản mệnh
vốn có của tự nhiên. Trần Duy Phiên viết Trăm năm còn lại với nội dung con
người ỷ vào sức mạnh khoa học để tàn phá tự nhiên một cách bạo tàn. Mối quan
hệ giữa con người với thiên nhiên là mối thâm thù dai dẳng. Hoàng Phủ Ngọc
Tường đánh giá tiểu thuyết này của Duy Phiên là “cuốn tiểu thuyết dữ dội nhất
của văn học Việt Nam dẫn dắt chúng ta vào tận thế giới bên trong chứa đầy
sức bạo liệt của Rừng”. Dòng sông Dakbla luôn bị thách thức bởi ông già “Tao
sẽ lấp”, “Tao sẽ lấp cho bằng được”, “Tao phải lấp”, “mẹ cha nó, tao lấp”.
Tham vọng muốn tự nhiên phục tùng chính là đầu mối của những tai họa. Bên
cạnh Trần Duy Phiên, các tác giả khác cũng lên án mạnh mẽ sự khai thác tận
diệt thiên nhiên của con người. Thung Mơ của Hà Nguyên Quyến kể về lòng
tham của con người, muốn khai thác những đặc sản của tự nhiên. Gỗ ra, tiền
vào, rừng teo tóp, gỗ càng khan hiếm. Những phu gỗ đã phải vào trong rừng
sâu hơn, tiến gần tới những khu rừng nguyên sinh để tiếp tục khai thác.
Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê miêu tả rừng bị tàn phá
nặng nề. Bom đạn khoét những cái giếng đỏ sậm loang lổ suốt cả triền núi xanh,
cây cối gãy đổ ngổn ngang như giữa cơn bão dữ. Con người chặt hạ những gốc
cây to bằng người ôm, những cây non và thảm thực vật bị con người làm cho
21
gãy nát, khô héo… tất cả hiện ra với tất cả sự khốc liệt. Tuy có một số hạn chế
về nghệ thuật nhưng tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu đã nêu lên vấn đề có
tính thời sự liên quan đến nạn phá rừng của đất nước.
Bên cạnh khai thác thiên nhiên để mưu sinh, con người còn tàn phá cảnh
quan hoang dã. Những “người miền xuôi” trong Những người thợ xẻ của
Nguyễn Huy Thiệp là những người hết kế sinh nhai ở miền xuôi, không sống
được ở nơi họ đã sinh ra, tìm đến núi rừng để lấy nguồn sống bằng cách chặt
phá cây cối. Sự tước đoạt một cách vô độ tự nhiên của con người khiến tự nhiên
oằn mình chống đỡ để rồi con người cũng rơi vào cảnh sống thiếu thốn, khốn
khổ trong chính môi trường ấy.
Cốt truyện về săn bắn: Trước 1975, trong các sáng tác của Sơn Nam,
Đoàn Giỏi, thiên nhiên trù phú, ưu đãi cho con người. Và qua hành động săn
bắn, con người toát lên vẻ đẹp khoẻ khoắn, tài ba, khéo léo, am hiểu về động
vật hoang dã. Sau 1975, săn bắn động vật vẫn là một trong những đề tài được
nhiều tác giả quan tâm nhưng ở một cái nhìn mới, chính hành động dã man của
con người là một trong những nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả đã sáng tác nhiều tác phẩm nói
về săn bắn động vật, đậm đặc nhất phải kể đến các truyện ngắn: Muối của rừng,
Con thú lớn nhất, Sói trả thù, Trái tim của hổ. Nguyễn Huy Thiệp thường chú
trọng viết về những tay thợ săn cự phách: “Khẩu súng kíp trong tay lão như có
mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát
chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những
đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú
màu đã vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy màu vàng khè, hôi hám. Những
đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng.
Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa
bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình”
(Phạm Xuân Nguyên, 2001). Trong Trái tim hổ tác giả miêu tả cuộc săn con hổ
22
của đám thợ săn: “Có rất nhiều người đi săn con hổ. Có người Thái, người
Kinh, người Mông... Người thì muốn săn hổ để láy trái tim làm bùa hộ mệnh,
người thì muốn lấy trái tim làm thuốc” Phạm Xuân Nguyên, 2001). Cho dù hổ
có là loài động vật khó săn đến mức nào, thậm chí đánh đổi mạng sống của
chính mình, con người vẫn cố gắng săn đến cùng: “Việc săn hổ kéo dài gần hết
mùa đông. Nhưng, như có phép lạ, con hổ tinh khôn biết tránh những nơi người
ta phục nó. Những người đi săn bị nó săn lại. Hơn mười người chết vì con hổ
dữ. Tiếng khóc than lẫn với tiếng gió hú dài âm âm mường bản” (Phạm Xuân
Nguyên, 2001).
Qua một số tác phẩm đã giới thiệu trên đây văn xuôi sinh thái sau 1975
đã có ý thức phê phán và cảnh tỉnh con người trước sự vô tâm với tự nhiên.
Con người phải gánh chịu những hậu quả của mình gây ra đối với thiên nhiên
vì tự nhiên có khả năng phản biện lại thế giới con người. Trước sự tàn ác
của con người, tự nhiên cũng đã có những phản ứng và biểu hiện nhất định để
đáp trả sự can thiệp thô bạo của con người đối với nhiên giới. Điều này cũng
cho thấy vấn đề được phản ánh trong tác phẩm văn học ảnh hưởng đến thái độ
và góp phần định hướng tư tưởng, văn hóa, lối sống và cách ứng xử của xã hội.
Con người đã giết biết bao con vật trong rừng, họ là kẻ thù, là thần chết đối với
động vật. Cuộc đời của những kẻ mang cái chết đến cho những con thú ấy nếu
không gặp hoàn cảnh thảm hại thì cũng kết thúc cuộc đời với cái chết đau đớn.
Điều này nói lên hậu quả tất yếu nếu con người quay lưng lại với tự nhiên, tàn
phá, sát hại tự nhiên sẽ nhận lấy những kết cục tương tự những gì họ đã gây ra
cho tự nhiên. Những bài học tự nhiên dạy cho con người thật đắt giá, thật thấm
thía, khiến con người phải xem lại hành vi của mình, nhận thức được những
hậu quả do mình đã gây ra cho tự nhiên để rồi chính bản thân họ phải nhận lại
những rủi ro do tự nhiên mang lại. Hậu quả ấy là cái tất yếu sẽ xảy ra khi con
người tác động một cách tiêu cực vào giới tự nhiên. Muối của rừng, Con thú
lơn nhất, Sói trả thù là ba truyện ngắn đậm đặc cảm quan sinh thái của Nguyễn
23
Huy Thiệp: đều nói đến kết cục của những kẻ đi săn, những kẻ chĩa súng vào
tự nhiên, tàn sát tự nhiên và nhận lại những hậu quả cay đắng. Cái kết của câu
chuyện khiến người ta suy nghĩ: “Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo
của lão ra khỏi bụi cây. Một viên đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con
thú lớn nhất của đời mình”. Con người sẽ tự hủy diệt chính mình nếu họ hủy
diệt tự nhiên. Chưa kịp nhận sự trừng phạt của Then như lời người ta đồn đại
thì lão già đã tự tìm đến cái chết. Cay đắng hơn, lão còn dùng cái xác thối của
mụ vợ làm mồi săn thú. Nhờ có con mồi này, lão đã săn được con thú lớn nhất
của đời mình, đó chính là mạng sống của lão. Tự nhiên trả thù chính là quan
điểm mà Nguyễn Huy Thiệp muốn bày tỏ, cũng là dự báo của nhà văn trước
thực trạng hiện nay khi tự nhiên đang dần cạn kiệt tài nguyên bởi bàn tay khai
thác bừa bãi của con người. Cái nhìn và tư tưởng của tác giả về một vấn đề
mang tính thời sự của toàn cầu hết sức tinh tế. Sương Nguyệt Minh cũng để
cho các nhân vật sát hại muông thú trong truyện Nơi hoang dã đồng vọng đều bị
quả báo: Cái giá mà bố Lài phải trả vì làm nghề bắt rắn là người vợ của mình bị
rắn cắn chết, anh học trò bị rắn cắn phải chặt ngón tay, bà chủ nhà hàng bị rắn cắn
phải cưa chân để bảo toàn mạng sống.
Cốt truyện về sự cỗi cằn của tự nhiên: Văn xuôi trước 1975 tái hiện
các đặc sản của những vùng đất hoang sơ mà trù phú, lạ lẫm sau mỗi bước chân
người. Trong các truyện ngắn của tập “Hương rừng Cà Mau” những sản vật
của vùng đất này được Sơn Nam liệt kê, miêu tả chi tiết, tỉ mỉ. Qua đó, ta thấy
được sự màu mỡ của mảnh đất Nam Bộ. Đó là những loài động thực vật thuộc
hệ sinh thái ngập mặn: “tràm”, “đước”, “mắm”, “vẹt”, “dừa nước”, “bần”, “mù
u”, bông súng,... những loài động vật như: bìm bịp, sấu, ong, rắn, ba khía,…
Đó cũng còn là những từ phản ánh về hình ảnh miệt vườn cây trái Nam Bộ:
“chôm chôm”, “sầu riêng”, “dừa xiêm”, “măng cụt”. Chính những sản vật này
đã điểm xuyết cho bức tranh quê thêm đậm chất Nam Bộ. Đây chính là những
là những sự vật rất bình thường gắn với thôn quê. Bình thường ấy gợi bao niềm
24
thương nhớ đối với nhũng người xa quê. Nhưng sau 1975, hầu hết các tác giả
trong văn xuôi đều nhận thấy sự đổi thay, sự phai màu của đất, sự biến mất của
tự nhiên tươi đẹp, những thảm họa thiên nhiên trút xuống: đất lở, núi lở, hạn
hán, xâm ngập mặn, mùa nước nổi kéo dài… thật cụ thể, chân thực. Cánh đồng
bất tận (Nguyễn Ngọc Tư) mở ra bằng một bức tranh khô hạn: “mùa hạn hung
hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này” , “trong một mùa hạn
nóng bỏng, bất thường”, “nắng rất dài”, “mùa mưa vẫn còn xa lắm”, “nắng võ
vàng trên những cánh đồng hoang lạnh”, “nắng giữa trưa nóng rát”, “nắng
như tát lửa”. Đỗ Bích Thúy nói về hạn hán trên một vùng cao ở Tây Bắc. Hạn hán
khiến cho cây trồng không mọc được, không có nước sinh hoạt, phải đi thật xa để
gánh nước trong núi về dùng, chắt chiu từng giọt nước trong các hốc đá. Thời tiết
lạnh giá, những hạt giống gieo mãi không thấy mọc. Đã vậy, lại không có nước.
Muốn có nước phải đi xa, tận đầu nguồn. Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên
lại viết về hạn hán ở Tây Nguyên. Nắng hạn khiến cho những cánh rừng Tây
Nguyên khô cháy, biến thành tro bụi. Truyện ngắn Sau những mùa trăng diễn tả
cái hạn hán gay gắt làm cuộc sống người dân Tây Bắc thêm phần cơ cực. Trên
nương, ngô vừa ra quả đã héo quắt, lúa chuyển sang màu trắng không khác gì
bông lau. Hạn hán ẩn chứa nhiều tai họa dẫn tới những trận cháy rừng kinh hoàng
mà con người không sao chống lại được.
Văn xuôi sau 1975, đã lí giải nguy cơ sinh thái do con người khai thác quá
mức tự nhiên, khai thác không đi liền với bảo vệ và tái sinh. Nguyễn Ngọc Tư cho
rằng khi con người huỷ hoại thiên nhiên, tất yếu thiên nhiên sẽ trả thù bằng cách
biến mất. Khi thiên nhiên không còn tồn tại đồng nghĩa với việc con người phải
đối mặt với những hậu quả. Có thể thấy, thiên nhiên trong các tác phẩm văn xuôi
sau 1975 đã trở nên dữ dằn, khắc nghiệt. Tự nhiên như một tấm gương soi chiếu
thái độ và hành vi của con người, con người dữ tợn và gào thét thì từ thiên
nhiên đại ngàn sẽ dội về những âm thanh lớn gấp bội. Những phản kháng mạnh
mẽ của tự nhiên nhắc nhở con người về sức mạnh của nó.
25
Môi sinh cằn cỗi dự báo một thế giới bắt đầu nguy khốn, đe doạ sự sống
còn của vạn sinh linh. Dưới áp lực của đô thị hoá, sinh thái nảy sinh nhiều vấn
đề nghiêm trọng. Trong văn xuôi trước 1975, các tác phẩm đơn giản chỉ là tái
hiện về đời sống nông thôn qua những nhọc nhằn. Hoặc nông thôn là nơi hiền
hoà, bình yên, khi mệt mỏi chốn phồn hoa, con người hay có xu hướng trở về
để được yên bình, thanh thản. Văn xuôi sau năm 1975 đã từ chối cái nhìn lí
tưởng hóa về không gian thôn dã, xuất hiện một khuynh hướng “phản lãng
mạn” về nông thôn. Chính khuynh hướng này đã đưa văn học trở về với những
góc cạnh hiện thực của đời sống, phản ánh cảm quan của thời đại. Nông thôn
được nhìn một cách đa diện, nhiều chiều, tinh thần “giải huyền thoại”, “phản
lãng mạn” đã bóc trần hiện thực của nông thôn. Bối cảnh nền kinh tế thị trường
đã làm nông thôn thay đổi theo nhiều hướng tiêu cực. Các tác giả văn xuôi sau
1975 đã tạo ra một dòng “văn học tự vấn” mà có lẽ bất cứ nhà văn nào ưu tư
với cuộc đời này đều mong muốn đi tìm câu giải đáp cho cái bất an, những vẻ
đẹp tự nhiên đang dần mai một, về những chất chồng bất ổn của đô thị hóa. Đời
sống tinh thần con người càng trở nên đơn điệu do những vẻ đẹp của tự nhiên
biến mất.
Tiểu thuyết Bóng của cây sồi của Đỗ Bích Thuý viết về vùng đất Lao
Chải xa xôi heo hút gió, một miền sơn cước yên tĩnh nữa mà cộng thêm vào
những hủ tục, lề thói cổ xưa, là những lành dữ, hay dở do cơn bão kinh tế thị
trường hỗn tạp mang đến. Những người nông dân rời bỏ đất đai, để theo đuổi
những ảo vọng thành đô phù phiếm. Những người trẻ tuổi, những đứa con sinh
ra và lớn lên trên vùng đất đó hoang mang, vô định trước sự giằng níu của
những phong tục xưa cũ và sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường. Tiểu
thuyết đặt ra vấn đề nhức buốt của việc con người trở nên mất gốc rễ như thế nào
trước sự xâm thực của thị thành. Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư đã có
những cảnh báo về việc con người đã biến thiên nhiên thành đại công trường,
khu công nghiệp, nhà ở, thành phố… “xua đuổi thiên nhiên đi xa”, “hạ nhục tự
26
nhiên”, can thiệp thô bạo vào vẻ đẹp nguyên sơ, Nguyễn Ngọc Tư rung những
hồi chuông cảnh tỉnh về sự biến mất của tự nhiên. Trong truyện ngắn Chốn sơn
khê nông thôn không phải là nơi ở ẩn lí tưởng như nhân vật “mụ” vẫn nghĩ. Chốn
sơn khê ấy cũng có chim bìm bịp kêu nhưng đó là cặp chim cuối cùng duy nhất
sống sót sau mấy lần thoát bẫy vào hũ rượu ngâm thuốc của dân xóm núi. Chốn
sơn khê ấy cũng có biển, nhưng đầy rẫy những nhà hàng sang trọng lẫn tầm
thường, những em gái dặt dẹo trên những đôi giày cao gót. Không chỉ vậy, xóm
núi là nơi đầy rẫy sự ô hợp, lọc lừa, đầy bạo lực. Con người dửng dưng trước tính
mạng của người khác, chỉ vì bộ quần áo, cái xe con người sẵn sàng sát hại lẫn
nhau. Đoàn Lê đã bóc trần cái yên bình giả tạo của làng quê, lôi ra ánh sáng ảo
tưởng về một làng quê thanh bình.
Cốt truyện ra đi, rời bỏ tự nhiên: Song song với cốt truyện trở về trong
văn xuôi phản lãng mạn về nông thôn là những hành trình nhân vật rời bỏ nông
thôn để ra đi, trốn chạy khỏi những khổ nhọc, vất vả, cay cực, nghèo đói. Đi
qua đồng chiều (Sương Nguyệt Minh) nói đến mơ ước được thoát khỏi vùng
quê nghèo khổ, vất vả. Na sợ phải lấy người chồng ở nông thôn, tiếp tục cuộc
sống sau luỹ tre làng với việc cày cấy, chăn dê, đánh xe trâu. Khi chứng kiến
Hương (em họ của Thăng) đi Hà Nội “ra đó học ôn thì mới đỗ vào đại học
được” cô vừa ao ước, vừa hờn tủi cho số phận của mình. Hay Nguyệt trong
Thung lam ( Hồ Thị Ngọc Hoài) chán nản cái “Âm u tẻ nhạt”, “Cái cao cả ẩn
nấp”, “Sự thấp hèn mọc như cỏ”, “phóng túng chết ngạt” của miền quê nghèo.
Cô muốn thoát khỏi nơi tù túng ấy một cách mãnh liệt”: “Tôi muốn đi thật xa”,
“Nhất định tôi phải đi! Tôi giục tôi, dữ dội, nóng bỏng”. Lìn trong Sau những
mùa trăng cũng chọn cách ra đi, để học hỏi để không phải như cha, như anh
mình, “tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc thang với ngưỡng cửa”. Lìn
cũng trở về, nhưng trở về để lại ra đi, muốn mọi người cùng đi để chấm dứt
những ngày tháng cực khổ.
Về cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng chủ đạo của văn xuôi trước 1975 là
27
cảm hứng sử thi, ngợi ca. Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ
đẹp con sông Đà vừa kì vĩ, hoang dại vừa thơ mộng, hiền từ. Thông qua hình
ảnh con sông Đà ngợi ca vẻ đẹp của con nguời vừa tài hoa, lãng mạn. Hay trong
các sáng tác của cá tác giả miền Nam, thiên nhiên hiện lên trù phú, đa dạng,
con người thể hiện tài năng chinh phục tự nhiên của mình qua những mảnh đất
trù trù phú ấy. Văn xuôi sau 1975 không còn nhìn nhận tự nhiên và con người
theo chiều hướng ngợi ca như văn học truyền thống nữa. Các tác phẩm bắt đầu
đi vào phê phán những hành động ảnh hưởng đến môi sinh. Nguyên tắc cốt
lõi của sinh thái học là niềm tin rằng môi trường sống cần được tôn trọng, cần
có quyền phát triển độc lập với lợi ích thực dụng của con người. Khai thác tự
nhiên đến cạn kiệt, tận diệt như vậy thì con người là những kẻ đầu tiên phải
hứng chịu sự trừng phạt, đói nghèo càng gia tăng, sự bất công càng gia tăng và
những hậu quả dài lâu về môi trường càng gia tăng. Tự nhiên có một sự cân
bằng tinh tế của nó, nếu tác động vào một yếu tố của chỉnh thể ấy sẽ làm mất
cân bằng sinh thái. Đó là đầu mối của những tai họa. Khi chúng ta phát triển
kinh tế mà bỏ qua các lợi ích về môi trường, thiếu sự chăm sóc, thiếu sự phát
triển bền vững thì sẽ gánh chịu những hậu quả khó lường. Những sáng tác của
Nguyễn Trí, Trần Duy Phiên, Hoa Ngõ Hạnh, Bùi Ngọc Tấn… đưa ra một lời
cảnh tỉnh đầy nghiêm khắc, nếu con người cứ trượt dài trên con đường chinh
phục, đối xử với tự nhiên như một kẻ trấn lột mà không học cách hợp tác và
phát triển bền vững con người sẽ là kẻ hứng chịu. Các tác giả muốn thông qua
các tác phẩm để thể hiện thái độ của mình về văn hoá ứng xử của con người
đối với tự nhiên.
Tóm lại, thông qua việc phân tích tư duy sinh thái trong văn xuôi sau
1975 với giai đoạn văn học trước đó, có thể thấy rằng văn xuôi sinh thái đã trở
thành một khuynh hướng trong nền văn học đương đại Việt Nam. Mặc dù số
lượng tác phẩm mang cảm quan phê bình sinh thái trong văn xuôi sau 1975 còn
hạn chế, đa phần thuộc về sáng tác của các nhà văn trẻ và viết theo tâm thức
28
môi sinh: chứng kiến thực trạng và bày tỏ. Nhưng có thể xem đây là bước đệm
để tạo nên một “cú hích” cho sự phát triển mạnh mẽ khuynh hướng văn xuôi
sinh thái đang hiện hành sôi động trên toàn cầu.
1.2. Văn chương và sinh thái trong văn xuôi Nguyễn Trí
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trí
Nhà văn Nguyễn Trí sinh năm 1956 tại Bình Định, quê gốc ở Quảng
Bình. Nguyễn Trí lang bạt nhiều vùng đất nước và dừng chân ở Đồng Nai đã
ba chục năm nay. Trước khi bén duyên với văn chương, tác giả Nguyễn Trí đã
trải qua nhiều nghề: đào vàng, đốt than, tìm trầm, làm đồ tể, dạy Anh văn.
Những năm tháng bôn ba đã cho ông vốn sống và nguồn tư liệu để dựng nên
những câu chuyện chân thực trong các sáng tác của mình. Hiện nay ông là Hội
viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nguyễn Trí đã viết 200 truyện ngắn và 2 truyện dài, 01 tiểu thuyết.
Nguyễn Trí cho rằng mình sẽ gắn bó chung thuỷ với nghề văn. Ông trải lòng:
“Ở Việt Nam ta để sống được với nghề văn, có mấy người? Nhưng nhu cầu của
tôi không lớn, vài ngàn bạc cũng sống được. Bây giờ tôi không còn việc gì làm
nữa, ngoài việc viết văn để phụ thêm cùng vợ. Kể ra cũng sống được”.
Tác phẩm đã xuất bản:
Bãi vàng, đá quý, trầm hương - tập truyện ngắn - NXB Trẻ, 2013;
Đồ tể - tập truyện ngắn - NXB Trẻ, 2014;
Thiên đường ảo vọng – Tiểu thuyết - NXB Trẻ, 2016;
Ảo và sợ - tập truyện ngắn - NXB Trẻ, 2016
Bay cao thì mặc bay cao – Tập truyện ngắn – Văn học, Hà Nội.
1.2.2. Quan điểm sáng tác của Nguyễn Trí
Nguyễn Trí không trực tiếp phát biểu rành mạch về quan điểm sáng tác
của mình nhưng đọc toàn bộ tác phẩm của ông và những mẩu phỏng vấn ngắn,
có thể đúc rút một số nội dung cơ bản trong quan điểm sáng tác của nhà văn
được gửi gắm trong việc lựa chọn đề tài, khai thác chủ đề.
29
Thứ nhất, Nguyễn Trí cho rằng các tác phẩm cần có sự khác biệt, tránh
lối viết sáo mòn. Ông xem Hồ Anh Thái như một người thầy có ảnh hưởng đến
Ông Hồ Anh Thái có một điểm rất đặc biệt là không bao giờ in một tác
giả nào mà trùng lặp với bản thân họ ở tác phẩm trước. Vì vậy, tôi rất
quan tâm đến sự khác biệt trong trang sách của mình”. “Tôi không tham
lắm trong vấn đề xuất bản sách. Viết lách cần nhất là tránh lặp lại bản
thân hay đi vào lối mòn. Nếu mình như thế, độc giả sẽ không tìm đọc mình,
sách in ra chắc chắn sẽ ế”.
(Hoàng Ngọc Điệp, 2016)
cách viết của mình:
Thứ hai, hiện thực cuộc sống bề bộn xung quanh nhà văn chính là chất
liệu hiện thực để nhà văn viết thành tác phẩm. Tác giả chia sẻ rằng: “Tôi sẽ viết
thành hai thể loại: Một cái thuộc về những gì tôi trải nghiệm. Cái kia viết về
những gì tôi gặp trên đường”. Thật vậy, chính sự vất vả, thiệt thòi, thậm chí sự
dấn thân của nhà văn trong cuộc sống mưu sinh trong nghề nghiệp mà ít ai dám
làm như đào vàng, đãi đá quý, tìm trầm hương... đã mang lại cho nhà văn vốn
sống giàu có. Tài sản lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trí chính là bất hạnh.
Những đau thương của chính mình cũng được tác giả đưa vào những trang văn.
Tác giả lí giải nguyên nhân vì sao cái chết luôn ánh trong tác phẩm của mình
nghe thật chua xót: “Cha tôi chết, bi thiết lắm, anh tôi chết, cũng bi thiết lắm,
cha chết, anh chết, tôi không có ở nhà. Mẹ tôi chết, đến khi tôi về, nắp áo quan
đã đậy rồi. Đứa con gái của tôi bị người ta đâm chết, bi thiết, rồi một người
con trai bị ma tuý, hai đứa cháu nội mẹ bỏ đi” (Nông Hoàng Diệu, 2014).
Không chỉ viết về mình, nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Trí bắt nguồn
những nguyên mẫu ngoài đời. Tuy nhiên, anh hay tặng cho nguyên mẫu một
cuộc đời tươi sáng hơn: “Thằng bạn của tôi đáng lí chết rồi nhưng ngoài đời
30
nó chết oan ức lắm nên trong truyện của tôi, tôi không để nó chết mà cho nó
sống. Tôi còn cho nhiều nhân vật được sống và được hạnh phúc nữa” (Nông
Hoàng Diệu, 2014).
Thứ ba, Nguyễn Trí nói về mục đích viết văn của mình. Trước hết viết
văn để “trang trải” tâm hồn tôi. Tôi viết ra được những gì thứ trong đầu, tôi
thấy thoải mái”. Sau nữa ông viết để kiếm sống “ở Việt Nam ta để sống được
với người văn, có mấy người? nhưng nhu cầu của tôi không lớn, vài ngàn bạc
cũng sống được. Bây giờ tôi còn việc gì làm nữa, ngoài việc viết văn để phụ
thêm cùng vợ. Kể ra cũng sống được” (Nông Hoàng Diệu, 2014). Như vậy
Nguyễn Trí phát biểu quan điểm sáng tác của mình rõ ràng nhưng mộc mạc,
không hoa mĩ với những ngôn từ cao siêu.
Đóng góp có thể xem là lớn nhất của Nguyễn Trí đối với văn xuôi đương
đại đó chính là đề tài. Văn xuôi Nguyễn Trí được ví von là “hàng độc” bởi
nhiều mảng hiện thực và con người của nó vốn ít được người đời biết đến một
cách tường tận. Các nhà văn cũng ít sáng tác về nó bởi không thể đi thực tế
sáng tác ở những vùng “đất dữ” – lãnh địa của giới giang hồ, của những chuyện
kinh thiên động địa như: giết người, cướp bóc, hãm hiếp xảy ra thường xuyên...
tác phẩm của ông được giới chuyên môn đánh giá là giàu trải nghiệm, có phong
vị riêng. Chính những trải nghiệm phong phú đó đã giúp Nguyễn Trí trở thành
nhà văn có phong cách riêng không giống bất cứ tác giả nào. Sự hấp dẫn của
Nguyễn Trí đầu tiên cũng nằm ở cái mới lạ ấy. Những tác phẩm của Nguyễn
Trí viết về những đối tượng thẩm mỹ đặc biệt này đã đóng góp để làm đầy đặn,
sâu sắc hơn thành tựu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sự dung dị, gần gũi
nhưng rất mới lạ đã giúp Nguyễn Trí trở thành một hiện tượng văn xuôi.
1.2.3. Dấu ấn sinh thái trong văn xuôi Nguyễn Trí
Văn xuôi của Nguyễn Trí chủ yếu được viết bằng những trải nghiệm của
bản thân, tác giả không có chủ đích đứng trên lập trường sinh thái. Nhưng ý
nghĩa sinh thái hàm ẩn qua những trang văn là điều không thể phủ nhận. Soi
31
chiếu văn xuôi của Nguyễn Trí dưới góc nhìn phê bình sinh thái sẽ nhận ra cảm
thức về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, số phận con người trong môi
trường tự nhiên khắc nghiệt. Bên cạnh đó, còn là câu chuyện về xã hội, nỗi bất
an đô thị, con người tha hoá trong đời sống văn minh cũng được Nguyễn Trí
trong các sáng tác của mình. Thiên đường ảo vọng và Bãi vàng đá quý trầm
hương là hai cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Trí xoay quanh việc phản ánh con
người tận diệt thiên nhiên qua việc đào vàng, đá quý, tìm trầm, khai thác gỗ,
tre, nứa…. Chính sự tàn sát đó môi trường hiện ra trong hình thể biến dạng.
Đọc Bãi vàng đá quý trầm hương và Thiên đường ảo vọng ta thấy tự nhiên
không còn hoang sơ, cổ nguyên mà đang bị con người xâm chiếm, tận diệt. Và
con người đã gánh chịu những hậu quả tàn khốc do mình gây ra đối với tự
nhiên. Bãi vàng, Giã từ vàng, Đá quý, Cầm giùm đi, Trầm Hương, Tiền rừng,
Chuyện cũ từ rừng là những chuyến phiêu lưu, những trải nghiệm độc đáo của
những kẻ ham vàng mà nợ ngãi, những phận giang hồ, những hảo hán gác kiếm
tranh chấp của con người trong việc khai thác tự nhiên, hay gái làng chơi dựa
vào nhau để để tìm chút hạnh phúc tạm bợ.
Đồ tể, Bay cao thì mặc bay cao, Ảo và sợ, là tập truyện ngắn của nhà văn
tiếp nối mạch văn đầy những trải nghiệm thú vị về công việc và đời sống của
những con người ở nông thôn đang dần bị đô thị xâm thực. Đó là câu chuyện
về xã hội, ẩn dưới diễn ngôn về môi sinh cỗi cằn là câu chuyện về sự tha hoá
nhân tính con người. Nguyễn Trí dựng lên bộ mặt của cái nghèo, diện mạo của
sự giàu, cùng cảm nhận những đớn đau tủi hổ của kiếp nhân sinh.
Những kẻ tứ cố vô thân đời mới, những toan tính thiệt hơn đầy nông
nổi, kiếm tiền xà xẻo đền bù đất đai đến móc ngoặc lừa đảo, cho vay hụi hoặc
hiến thân kiếm chỗ sống qua ngày. Những người đàn ông, đàn bà lao vào nhau
như mất trí, mà cũng như để khoả lấp nỗi cô đơn chiếm lĩnh tâm hồn ở nơi
chẳng có gì cắm rễ lâu quá một đời người. Nguyễn Trí cũng cho thấy những hệ
lụy của cơn lốc đổi mới ở các vùng quê nghèo (lừa hụi, rượu chè, số đề, ngoại
32
tình...). Tất cả được miêu tả và lý giải theo luật nhân quả của đạo Phật và cũng
theo triết lý “Ân trả oán đền” của dân gian. Như vậy cảm hứng phơi bày tận
cùng hiện thực đã đem lại cho những trang văn của Nguyễn Trí sự tươi ròng
của sự sống ở hình thức hiện thực trần tục và tầm thường nhất, đáng giận và
đáng thương nhất. Tuy nhiên, điều đáng nói là rất nhiều trong số những con
người cùng đinh bạch ốc ấy, dù đang phải sống trong khoảng tối của xã hội, dù
bị hoàn cảnh xô đẩy, vẫn nuôi hi vọng hướng thiện. Truyện của Nguyễn Trí
vẫn thấp thoáng một cái nhìn bao dung và thương cảm đối với những phận
nghèo, những phận đời lỡ dở. Nguyễn Trí còn giúp người đọc nhận thấy có một
thế giới tâm linh đầy linh ứng, đem lại niềm tin tâm linh, phản ánh quy luật
nhân quả “ác giả, ác báo”, cũng là bài học có tính cảnh tỉnh cho con người
Dù không chủ tâm đứng trên lập trường sinh thái nhưng có thể nhận thấy
dấu ấn sinh thái là một yếu tính trong văn xuôi của Nguyễn Trí. Thứ nhất, dấu
ấn sinh thái này được thể hiện qua sinh thái tự nhiên. Miền Đông Nam Bộ trù
phú, màu mỡ là thế nhưng chứa đựng trong mình nhiều bất ổn, chấn thương
môi sinh. Con người khai thác triệt để thiên nhiên và cuối cùng gánh chịu hậu
quả nặng nề. Qua đó, tác giả nhắn nhủ con người cần có cách ứng xử văn minh,
thân thiện với tự nhiên. Thứ hai, dấu ấn sinh thái được thể hiện qua sinh thái
nhân văn Nguyễn Trí cho thấy sự tha hoá con người khi khoa học kĩ thuật phát
triển, con ngươi tàn nhẫn với con người trong công cuộc mưu sinh, khuynh
hướng phản nông thôn cũng là một trong những đặc điểm nổi bật trong văn
xuôi Nguyễn Trí.
33
Tiểu kết chương 1
Là chương có ý nghĩa cơ sở, giới thiệu về lý thuyết phê bình sinh thái, chúng
tôi đã trình bày các nội dung sau: Hệ thống lại các cơ sở lí luận về khái niệm
phê bình sinh thái, phương pháp và ứng dụng trong thực tiễn văn học. Văn
xuôi sinh thái sau 1975 đã trở thành một khuynh hướng. Và khẳng định
Nguyễn Trí là một trong những tác giả tiêu biểu cho dòng văn học sinh thái.
Từ cơ sở này, chúng tôi sẽ triển khai hai nội dung chính ở hai chương sau:
- Nghiên cứu về sinh thái tự nhiên trong văn xuôi của Nguyễn Trí
- Nghiên cứu về sinh thái nhân văn trong văn xuôi của Nguyễn Trí.
34
Chương 2. SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG VĂN XUÔI
CỦA NGUYỄN TRÍ
Cho đến nay phê bình sinh thái trải qua hai giai đoạn quan trọng. Giai đoạn
thứ nhất chủ yếu dựa vào lý thuyết sinh thái chiều sâu. Sinh thái học chiều sâu
khẳng định giá trị nội tại của tự nhiên, tôn trọng sự đa dạng sinh học, kêu gọi
tránh làm tổn hại đến môi trường bất kể vì lí do gì. Cách tiếp cận của sinh thái
học trong giai đoạn này là lấy sinh học luận trung tâm là nền tảng lí thuyết,
quan tâm đến các văn bản viết về thiên nhiên, chú ý những trạng thái gắn liền
gắn liền với nơi chốn địa phương hay vùng miền. Vì thế phê bình sinh thái giai
đoạn sơ kỳ coi trọng vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học và sự yên bình của môi
trường sống ở các địa phương. Trong sáng tác của mình, Nguyễn Trí lấy chủ
nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống
sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái. Từ góc
nhìn của sinh thái tự nhiên, người viết làm rõ tư tưởng sinh thái tự nhiên qua
các bình diện sau: tự nhiên là nơi cưu mang cho con người, tự nhiên nơi con
người ra sức tàn phá, tự nhiên là nơi trung phạt con người. Thông điệp về mối
quan hệ con ngời với tự nhiên.
2.1. Tự nhiên trong văn xuôi của Nguyễn Trí
2.1.1. Tự nhiên là nơi cưu mang con người
2.1.1.1. Mưu sinh
Trong văn xuôi của Nguyễn Trí, cụm từ “lấy rừng làm mạch sống” trở
đi trở lại trong các thiên truyện của ông. Con người ở đây lấy tự nhiên làm lẽ
sống của mình hoặc vì sự sống của tự nhiên mà phấn đấu. Trong tiểu thuyết
Thiên đường ảo vọng Nguyễn Trí khẳng định nguyên nhân tàn sát tự nhiên một
phần vì cuộc sống đói nghèo: “Rừng là nơi mà khó nghèo nương vô để sống”
(Nguyễn Trí, 2013). Rừng với họ là nơi “đào xới tương lai”, là “hơi thở”, là
35
“mạch sống” của con người. Rừng sẵn sàng đón nhận những ai bế tắc mưu sinh.
Vì vậy, xuất hiện những cuộc đổ bộ vào rừng, trước hết là chiếm đoạt không
gian hoang dã biến thành đất canh tác nông nghiệp: “Đông lắm. có cả bộ đội.
Sau giải phóng họ đem gia đình vô kiếm đất làm nương rẫy. Mười kiểm cũng
bó tay chịu sầu” (Nguyễn Trí, 2015). Trong Chuyện cũ từ rừng, khi kinh tế lâm
vào cảnh khó khăn, con người “lao cả vào rừng để kiếm sống. Kẻ làm nương
rẫy, kẻ trở thành lâm tặc đốn trộm gỗ quý” (Nguyễn Trí, 2016). Trong Thiên
đường ảo vọng, dân tứ xứ đổ vào rừng đề tìm đất canh tác. Chỉ một mồi là cả
trăm hécta rừng bị thiêu sạch đến không còn một cái lá. Mưa đầu mùa, rơi hạt
là giống má được tra xuống. Đất mới, chỉ một vụ đầu là “đói nghèo có nguy cơ
diệt vong”. Trong Trên đồi đất đỏ,“chòm xóm láng giềng toàn lấy rừng làm
mạch sống, ai cũng khó”. Xuất phát từ cái nghèo, mỗi người là mỗi hoàn cảnh.
Phi Long một vợ bốn con, vợ lại đang mang bầu đứa thứ năm, đói nghèo cứ
bủa vây lấy gia đình họ. Hoàn cảnh này chỉ có thể nương tựa vào rừng mới có
cơ may đứng được với đời. Trình trong Trên đồi đất đỏ muốn mua cho vợ con
cái tết tàm tạm nên nhận lời vào nơi sâu, cao, một mình trên thâm u có tên Đồi
đất đỏ 12 ngày để coi “mớ thành phẩm trong rừng”. Trong Chân mình thì mình
đứng, Thúc Gù phải “bò lên non cao kiếm gánh củi tự nuôi mình” (Nguyễn Trí,
2016). Thu vẫn kiếm tí chút từ khoản thịt rừng. Trong đổi nghề, người lái xe
ôm tên Đạt trăn trở về con đường mưu sinh “làm nông nghiệp thì ngon nhưng
tao đâu có đất, cứ trên rừng mà sống” (Nguyễn Trí, 2014). Tự nhiên chẳng từ
chối bất cứ một hoàn cảnh nào, rừng sẵn sàng bao bọc bao thân phận đói nghèo.
Rừng trong truyện ngắn của Nguyễn Trí còn là những cánh rừng cao su rất
riêng cho mảnh đất Đông Nam Bộ. Trong Người điên không biết nhớ, để có
tiền lo cho con đi học Bảy chỉ biết nương tựa vào cánh rừng cao su. Ở đó, cô
kiếm “ba cành củi rụng, hoặc một cành cao su bị gió thổi đem về làm chất đốt”
(Nguyễn Trí, 2014). Trong truyện Ngoại tình, Hương cũng “đạp xe vô kiếm
củi” để nuôi sống gia đình. Ban ngày, Hương vào rừng cao su để mót cành
36
nhánh rồi thuận tay giấu ít gỗ bự. Ban đêm, Hương lại vào lô cao su lấy phần
gỗ đã giấu. Trong Màu của bóng tối, những người nghèo, thất nghiệp mưu sinh
bằng nghề mót mủ. Nói mót cho có vẻ lương thiện chứ thực chất là ăn cắp của
nông trường. “Khỏi lo vụ tù tội, chẳng thể nào bắt cho hết tập đoàn mót mủ.
Trên năm chục mạng xa lắc. Cứ hai giờ chiều là tập trung tại quán Hai Long.
Lai rai, đàn ông, rượu, đàn bà con nít sirô đá bào, bánh tét bánh ú…Tầm năm
sáu giờ chiều, khi công nhân của nông trường trút xong, lên xe về nhà là cả
bọn túa vô” (Nguyễn Trí, 2014).
Muốn lập nghiệp thì phải an cư, rừng bỗng chốc được con người xem là
Trời ơi. Tội nghiệp lắm.Vợ chồng trong một căn chòi là chuyện bình
thường, mang cả con cái theo nữa kìa. Đứa lớn tám tuổi ru đứa nhỏ ba
tuổi cho em bú sữa bò, em ngủ rồi nó mang đồ xuống suối giặt cho ba mẹ,
nấu cơm chờ cha mẹ về ăn. Buồn không? ồ không đâu, cả bày thiếu nhi
giữa rừng, chúng cũng hát hò vui lắm. Vậy rồi không sợ bệnh tật sao?
Không sao cảm vặt nghĩa địa gì cả sốt cũng không sợ, đã có thuốc bên
chòi Út Tình.
(Nguyễn Trí, 2013).
nhà.
Châu trong Đồ tể được bạn bè xúm lại phát một khoảnh rừng rồi dựng
lên một căn để an cư. Thuở ấy chỉ có rừng, Châu “kiếm cơm chủ yếu là nguồn
thu từ rừng” (Nguyễn Trí, 2014). Những căn chòi được lập trong rừng như một
quần thể: “Có khoảng mười lăm cái chòi của thợ rừng dọc bờ suối. Thường thì
nó luôn đông vui…” (Nguyễn Trí, 2016). Sau khi có chỗ ở người dân cứ phá
rừng đổ về làm nương rẫy. Người dân hô biến cái thung lũng có tên Đất Lỡ hoá
thành ấp Mỹ Long.
2.1.1.2. Trú ẩn
37
Không chỉ là nơi để con người mưu sinh, rừng còn là nơi để những “kẻ
sa cơ lỡ vận” trốn tránh pháp luật, quên đi quá khứ mù mịt lỗi lầm. Cường Linh
và Tùng Hí chạy lên Bến Tỷ để trốn lệnh truy nã do giết người và cướp của.
Với Cường Đại Ngu vừa ra lao cải, Lâm oan sai vì án phản động. Bình thất
nghiệp, Điệp giang hồ - những con người dưới đáy của xã hội đều tìm đến rừng
như một chốn nương tựa. Có nhiều gã trai bỏ cả đời mình lên rừng, không chỉ
để mưu sinh, là chỉ để khoả lấp nỗi cô đơn trong lòng. Tùng Hí lên rừng chỉ để
mong quên đi nỗi hận vợ ngoại tình. Thành bụi lên bãi vàng tìm vàng tìm vận
may sau khi bóc lịch ba năm vì cờ bạc bịp. Lâm trong thiên đường ảo vọng,
vào rừng vì không còn nơi nào để đi. Anh muốn gia nhập vào bãi chỉ để quên
đi kí ức “ám ảnh anh suốt kiếp này. Nhớ đến là ăn không ngon, ngủ không tròn”
(Nguyễn Trí, 2016) là bị cướp cạn trong lúc vượt biên. Đau đớn hơn, anh chứng
kiến người yêu mình bị bọn cướp hiếp đến chết. Chính vì vào bãi không phải
để mưu sinh nên anh đã trở thành “anh hùng hảo hớn” khi đối đãi với dân rừng
bằng nghĩa cử cao đẹp. Nhưng quá khứ anh muốn quên đi vẫn luôn ám ảnh,
hiện về mỗi lúc Lâm có rượu. Rừng còn cưu mang cả những cô gái không có
một quê hương, chốn ở xác định, những bóng hồng đã hết thời, họ tìm lên bãi vàng để sinh sống. Các nhân vật nữ này cùng nằm trong một loại hình nhân vật và hầu như đã và đang qua thời xuân sắc, tàn tạ phải phiêu bạt tới vùng đất dữ
để vừa bán quán, vừa bán thân nhằm mưu sinh. Nhân vật Dung trong Bãi vàng,
Em có chồng rồi. Lúc đầu hai đứa cũng yêu nhau lắm anh. Cưới hỏi đàng
hoàng, ảnh dân sông nước nên rượu chè dữ lắm. Em sanh nở khó khăn. Say lên anh
đánh em, nói mẹ con em là nợ, là oan gia... Đánh riết em sợ quá nên ẵm con về má.
Ảnh đến quậy um sùm trời đất, rồi bắt con em về bên nội. Em đi theo, ảnh đánh tiếp,
đuổi đi. Con em về một ngày bên nội thì mất.... Má chồng nghiện tứ sắc, ba chồng
nghiện rượu”.
chồng bỏ. Tình phụ. Có tí vốn liếng lên bãi mở quán bán cơm:
38
(Nguyễn Trí, 2013).
My, trong Giã từ vàng kể về nỗi bất hạnh “tỉnh queo” như chuyện ai đó,
chứ không phải của mình. Đi bụi từ năm mười hai, cô cũng có hoàn cảnh xuất
thân cũng đặc biệt không kém Dung (trong Bãi vàng), My là dân sông Tiền.
Không có ba. Năm tuổi má nghe người rủ vượt biên. Ở với dì. Dì ba năm tuổi
mê trai. Lấy một thằng hăm chín. Rồi sau đó My bị dượng phục thuốc mê, hãm
hại, tỉ tê đưa lên Campuchia bán khu đèn đỏ. Từ khi gặp được người Việt kiều,
những tưởng đời My được giải thoát, nhưng số phận vẫn đưa đẩy khiến cô phải
lang dạt lên bài vàng: “May có ông người Việt đi chơi, mê em chuộc về. Tưởng
sao, ai ngờ ổng có vợ rồi, bà vợ cho người đến đòi tạt axít, em sợ quá dông
luôn. Ra công viên, má Năm lôi về ...” (Nguyễn Trí, 2013).
Như vậy, có thể thấy tự nhiên trong văn xuôi của Nguyễn Trí như là một
chốn nương tựa cho bao thân phận muốn thoát khỏi cảnh đói nghèo, bao dung
những con người không quê hương.
2.1.2. Tự nhiên là nơi con người tàn phá
Trong đội ngũ nhà văn đương đại, Nguyễn Trí là trường hợp đặc biệt.
Không phải ai đi làm đồ tể, phu đào vàng, khai thác trầm hương, đá quý, xe
ôm, …cũng có thể trở thành văn nhân. Chính những trải nghiệm cuộc đời đã
cho tác giả một cái nhìn sâu sắc về sinh thái. Đây là một đề tài ít được các nhà
văn hiện đại Việt Nam khai thác và phản ánh, Nguyễn Trí đã viết về đề tài này
với những trải nghiệm thực tế. Một thế giới khác với đời thường. Nguyễn Trí
Cái việc làm vàng, làm đá quý, trầm hương là nghề tay phải của tôi. Như
anh biết, sau ngày giải phóng thì đất nước của chúng ta khó khăn trong
vấn đề kiếm ăn lắm. Những người có tham vọng như tôi muốn làm giàu
bằng cách đi làm trầm, làm đá quý mới mong có cơ hội đổi đời cho nên
tôi lao vào cái nghiệp này như một con thiêu thân. Không có một bãi vàng
từng chia sẻ trong bài phỏng vấn của nhà báo Mặc Lâm:
39
nào trên đất nước này mà thiếu mặt tôi. Còn trầm thì nói thật với anh coi
như các đoạn rừng Trường Sơn tôi đã đi tứ tán hết. Còn đá quý thì cũng
như vàng vậy, nhưng cuối cùng thì tôi bị thua, tôi chẳng có gì với cái
nghiệp đó hết nên đồng bằng làm đủ thứ nghề khác để kiếm sống”
(Mặc Lâm, 2014).
Bốn tập truyện ngắn Bãi vàng đá quý trầm hương, Bay cao thì mặc bay
cao, Đồ tể và tiểu thuyết Thiên đường ảo vọng đã làm nổi bật quan hệ và ứng
xử của con người với tự nhiên. Để tồn tại con người không thể sống thiếu tự
nhiên. Nhưng tư duy con người là trung tâm đã dẫn chúng ta đến sự thái quá
trong quan hệ với tự nhiên thông qua sự tàn phán tận diệt. Điều này cho thấy
vấn đề mà nhà văn muốn nói trong tác phẩm của ông chủ yếu là những xung
đột giữa con người và tự nhiên. Trong văn xuôi của Nguyễn Trí, rừng là hình
tượng mang ý thức sinh thái. Sau nhiều năm lặn lội làm đủ thứ nghề trong rừng
sâu, Nguyễn Trí đã tái hiện lại kinh nghiệm của mình một cách tường tận, chân
thật. Từ cách đào vàng, cách nhận mặt đá quý, cách phân biệt trầm hương.
2.1.2.1. Tận diệt tài nguyên đất, đá
Đào vàng: Vì cuộc sống mưu sinh, con người tìm đến bãi vàng như một
sự cầu may hi vọng đổi đời nhanh chóng nhờ “vàng cục vàng thỏi”. Điều này
cũng dễ hiểu bởi trong tiềm thức người Việt, vàng vẫn là một trong những thứ
có giá trị cao “không có chi quyến rũ hơn vàng”. Khai thác vàng bắt đầu từ mấy
tay bộ đội giải phóng miền Nam. Họ đào hầm tránh pháo rồi tình cờ phát hiện.
Dân khai thác thủ công lần theo, dự đoán thế đất rồi hú họa mà ra bãi. Chính
vì thế mà lũ lượt người kéo về các bãi vàng “bốn phương tám hướng kéo trên
chục ngàn người. Ngày như đêm pháo nổ inh trời đất” (Nguyễn Trí, 2015).
“Để trả lời cho câu hỏi nơi nào con người ta tập trung đông nhất trên thế giới?.
Câu trả lời chắc chắn là phố lớn, sân ga, bến tàu hoặc bến xe hoặc chợ. Vâng,
40
chắc chắn thế. Nhưng chỉ đông thôi, còn nhất thì không đâu. Đông nhất ư? xin
thưa với thế giới rằng chỉ có trên những bãi vàng” (Nguyễn Trí, 2015). Nguyễn
Trí một lần nữa khẳng định “rừng vàng biển bạc” là có thật. “Bãi nào cũng
gian khó đầy mình. Duy bãi Suối Nho là vàng như đi chơi. Thiên hạ bóc lớp
đất thịt chừng hai mươi phân là đã đến lớp có vàng. Vàng ở đó, nói ra thiên hạ
cho là xạo. Thiên hạ năm bảy chỉ là thường, kẻ mười trên mười cây cũng không
lớn, có băng bẹ lớn hàng trăm cây, Ở suối Nho là vàng cục, vàng thỏi” (Nguyễn
Trí, 2015). Tuy nhiên, tìm kiếm sự sang giàu nơi lòng đất không phải là điều
dễ dàng. Tác giả đã cho thấy một hiện thực phũ vàng nơi bãi vàng, muốn có
vàng thì phải “rưng rưng nước mắt”. Trước hết về vị trí địa lí, đường đến bãi
vàng rất khó khăn, hiểm trở, miệt mài từ “dông này đến dông khác” mới vào
được trong sâu rừng nguyên sinh. Khi đã chạm chân đến đất bãi là muôn vàn
những khó khăn khác. Đó là chi phí sinh hoạt đắt đỏ, rượu, thuốc, đàn bà, tất
cả đều quá ít để cung cấp cho quá nhiều người. Khó khăn nhất vẫn là được yên
thân đào vàng mà không bị quấy nhiễu bởi những đàn anh đàn chị trên bãi. Để
nhập cư trên bãi không phải dễ, dân đào vàng mới đến không biết luật lệ khó
mà tồn tại được. Tại nơi ma thiêng nước độc này, con người phải tranh giành
nhau địa bàn, thậm chí đánh đổi bằng cả tính mạng mình. Khi đã có được khu
vực hoạt động, con người bắt tay vào công việc chính là đào vàng. Nguyễn Trí
đã cho người đọc hình dung rõ được công việc khó khăn và nguy hiểm này.
Công việc đào vàng, bước đầu là đào hầm tìm bổi. Bổi nằm sâu dưới chân núi,
Hầm có chiều ngang hai mét, chiều dài hai mét rưỡi. Hầm cạn nhất là hai
mươi mét, phải rộng dưỡng khí mới xuống được, cỡ đó mấy thằng bất cẩn,
chết vì ngộp khi xuống đáy hầm là thường. Sau này thiên hạ phải dùng
môtơ quạt gió vào ống bốn mươi đưa xuống đáy vào sâu trong đường ta
luy để phu có cái mà thở”
người ta lấy cây chống vô vách núi rồi đào.
41
(Nguyễn Trí, 2013)
Và con người ứng dụng cả những tiến bộ khoa học kĩ thuật để chạm được
tài sản của lòng đất. “Điện được kéo tới. Đường xuống địa ngục tối mịt mờ,
năm mét một bóng điện tròn 100 watt. Mét thứ mười là nước từ rừng nguyên
sinh chảy có vòi. Môtơ bơm nước cái chạy sơ cua. Đến mét thứ hai mươi và
trên nữa phải có ống dưỡng khí xuống hầm” (Nguyễn Trí, 2013). Và có những
hầm gặp đá, con người phải sử dụng đến xà beng đánh trái. Đó là một loại
chuyên dung để phá đá, “bằng loại thép số một thế giới. Mũi nó di động được,
khi đặt xuống để đánh xuyên đá” (Nguyễn Trí, 2015). Sau khi khoan được một
lỗ khoản năm tất giữa các tảng đá, các phu vàng nhét thuốc nổ vào và cho nổ.
Con người phải trả giá cả tính mạng của mình để lôi cho được cái quý giá trong
lòng mẹ trái đất vào lòng mình. Những cái chết vì sập hầm, ngạt thở khi xuống
tới đáy hầm, thuốc nổ, … trở nên bình thường đối với kẻ đào vàng. Khi đã có
được bổi, con người bắt đầu công đoạn đãi vàng. Khi đã tìm thấy bổi, con người
bắt đầu xây bổi. Phương tiện xay bổi là búa. Nhìn mấy cái búa đập đá mà ớn
cho trí tuệ loài người. Lưỡi búa bằng bàn tay, bằng thép tà vẹt đường ray, dày
cả phân tay mà mỗi tuần thay một lần. Sau khi lấy được bổi sẽ đem đến nhà
máy chà. Sử dụng máy chà bổi để lấy bổi, xay xong vác bổi đến hố mà đãi. Lại
một lần nữa phu vàng Nguyễn Trí chỉ rõ từng bước, từng công đoạn để có vàng
mang về: “Xay xong vác bổi đến hố để đãi vàng...Họ đào hố, đưa nước vào, có máng để xổ, có mâm để cô, có thủy ngân để rút vàng” (Nguyễn Trí, 2013). Và
để tới được cái khâu trên tay, sợi dây trên cổ là cả một chặng nhiêu khê.
Để có được vàng, con người đã khai thác tận diệt lòng đất. Quan niệm
“đất còn thì vàng còn” và “chả có chi mau lên bá lên vương như ở bãi vàng”
là động lực để họ không ngừng nghỉ tìm kiếm của quý từ tự nhiên. Kết quả là
bãi vàng suối Nho Xuân Bắc một thời lừng lẫy vàng cục vàng thỏi nay chỉ còn
là dĩ vãng.
42
Khai thác đá quý: Khai thác đá quý thì từ mấy tay tìm trầm, họ đi qua
các bản làng, thấy các em sơn nữ đãi vàng trên suối, đôi khi trong mâm có đá
xanh đỏ tím vàng. Họ đặt ra câu hỏi, sao không đãi trên kia, sao không đãi dưới
đó? Trên và dưới không có. Vậy tại sao khúc sông đoạn suối này có? Ra là đá
quý nằm ven đồi bị nước ngầm tống ra. Từ thất bại trong nghiệp tìm trầm, dân
đi địu tổ chức sắm chuyến, mang xà beng, cuốc xẻng đào xuống...vậy là ra bãi
đá quý. Thiên hạ bám theo, cố săn cho được vì đã có kẻ đổi đời nhờ “vô mánh”.
Với họ, tài sản ở dưới đất và trên rừng, cứ tìm kiếm rồi sẽ gặp nhau. Một lần
nữa, con người lại ôm giấc mộng đổi đời nhờ đá quý “chỉ cần kêu vừng ơi mở
ra là lòi cả đống kim cương” (Nguyễn Trí, 2013). Bãi đá được Nguyễn Trí
miêu tả không đông vui như bãi vàng. Trên dưới chục mâm là hết phép. Để tìm
ra đá quý cũng không kém phần khó khăn và nguy hiểm. “Hầm đá quý không
sâu. Tám thước xuống là tối đa, đất lở lại không cừ, nên phải đào miệng loe,
đáy túm. Miệng hầm ba mét, đáy còn mét hai, chủ yếu xẻ taluy, có hầm taluy
những năm mươi mét. Bò vào những địa đạo đó ai cũng ngỡ mình đi dự hội
nghị cùng diêm vương...” (Nguyễn Trí, 2013). Và lòng đất cũng cho con người
“Đang đi bỗng xuất hiện những hầm là hầm. - ủa, làm gì đây mấy anh?
Đãi đá - đá gì? - Đá quý. Bộ mấy anh không biết hả? - Có không cho xem
với? Vài viên đá đủ sắc màu từ trong lọ rút ra. Đỏ, xanh, trắng, trắng đục,
vàng chanh…
- Viên vàng chanh này chừng năm ngàn
- Năm ngàn mà cũng đãi sao?
- Năm ngàn đô đó cha nội”
(Nguyễn Trí, 2013).
những cơ hội đổi đời.
Tuy nhiên, Nguyễn Trí đã khắc họa một hiện thực phũ phàng, con người “chỉ
thấy nước mắt chứ chưa hề nhận diện nụ cười của đá” (Nguyễn Trí, 2013)
43
2.1.2.2. Phá rừng
Tìm trầm hương: Công việc tìm trầm không hề đơn giản, nó cũng chứa
đầy bất trắc hiểm nguy, gian khổ. Rừng xanh luôn ẩn chứa bao điều bí ẩn. Thâm
u có nghìn vạn hiểm nguy khó lường. Vì vậy, người đi “địu” phải biết võ, giỏi
võ “để không bỏ thây lại cao xanh”. Khi đi tìm trầm, ai cũng phải có ít nhất
năm phân vàng đeo ở ngón tay để trang trải cuộc sống. Đến ngày thứ sáu, vẫn
không tìm được trầm - “linh hồn của sự sống” họ phải về xuôi để làm lại. Trầm
Hương gồm có Bạch, Thanh, Hoàng, Hắc kỳ, được gọi chung là kỳ Nam, có
nghĩa là “điều kì diệu ở Phương Nam”. Giá trị của trầm kỳ là “đắt hơn cả ma
tuý”, “hơn cả vàng, nó là kim cương, là hồng ngọc” (Nguyễn Trí, 2013). Thông
qua cách định danh cũng thấy được hàm ẩn ý nghĩa “rừng vàng biển bạc” luôn
tồn tại tư duy của người Việt. Ước mơ đổi đời chóng vánh nhờ vào “điều kì
diệu” đã khiến con người không ngừng kiếm tìm và tàn sát tự nhiên. Nguyễn
Trí đã miêu tả cái hiện thực khốc liệt đó trong truyện Trầm hương hết sức rõ
rệt. Trước hết, trầm hương được tạo bởi cây dó, loại cây này cực nhẹ, không
thể làm củi, đốt than, gần như là vô dụng. Nhưng không phải cây dó nào cũng
đóng trầm. Con người phải “rọc rừng để truy”, “có ngày rụng rời cả hai chân
mà không ra lấy một cây. Có ngày tìm được nhưng cây không đóng trầm cũng
phải đành chịu” (Nguyễn Trí, 2013). Dấu hiệu nhận ra cây dó có trầm dựa vào
dó kiến. Một loại kiến màu đen, chân cao hay thấy ở trong nhà. Cây dó nào có
dó kiến chắc chắn có trầm. Nhưng khi hạ cây xuống mới luận được ít nhiều.
Trầm hương “tạo muôn hình vạn trạng và mỏng mảnh như sợi chỉ, xỉa và móc
phải len vào, bàn tay phải dịu dàng để thánh thần rời nơi phàm tục. Mắt phải
tinh để Thanh, Hoàng, Hoắc đâu ra đó, vì mỗi loại một giá trị vật chất khác
nhau (Nguyễn Trí, 2013). Khó khăn vất vả là vậy nhưng dân đi địu chín mươi
chín phần trăm về tay không, một phần trăm là may mắn. “Rất hiếm hoi kẻ
ngậm ngải tìm trầm được phước...Nguy hiểm lắm, gian khổ lắm. Đi địu tức là
đi để đối diện sự chết, sống sót được là mạng lớn lắm, có trầm để làm giàu là
44
nhị thập bát tú chuyển thế đầu thai” (Nguyễn Trí, 2013). Nhưng cũng có những
lúc con người trúng được quả lớn. Đôi mắt dân địu ánh lên niềm hạnh phúc khó
tả “họ chăm chú, săm soi, cẩn thận, lao động quên thời gian, không gian. Kẻ
nạo, người xỉa. Bên kia đẽo, nghiêm túc quên luôn cơm ăn và nước uống”
(Nguyễn Trí, 2013). Tuy nhiên, tự nhiên luôn biết dành cho con người những
hình phạt thích đáng cho những người tàn sát tự nhiên. Phi Long sau khi tìm
được trầm, chưa kịp tận hưởng niềm hạnh phúc đã bị rắn hổ mang bành cắn
chết ngay bờ suối. Cái chết làm bao kẻ tìm trầm thức tỉnh và muốn trở về:
“Vàng, đá quý, trầm hương, để làm gì nhỉ? Nào, về…” (Nguyễn Trí 2013).
Khai thác cây rừng: Con người đã chặt bỏ rất nhiều cây xanh để phục
vụ cho công cuộc đào vàng, khai thác đá quý và tìm trầm. Để đào được hầm để
tìm vàng, phải có cừ thật kiên cố. “Cây rừng được tuyển đều đặn, hoành, ngang,
dọc xếp lớp như mía. Cưa, đẽo, áp, má, chính xác từ milimet. Mỗi má khoá lại
bằng đinh hai mươi phân. Bên trong khung cừ được lót bằng ván dày ba phân
dài hai mét và rộng hai mươi phân… phải là loại ván cực tốt như sao, sến, hoặc
dầu đỏ cổ thụ. Thợ cưa bỏ thép, chỉ lấy loại gỗ tinh tuyền” (Nguyễn Trí, 2013).
Để khai thác đá quý taluy phải cũng phả có cừ bằng khung tam giác nhưng đơn
giản hơn cừ để đào hầm vàng. “Vào rừng, cỡ cây bằng cổ tay là phe ta tàn sát
càng nhiều càng tốt, rồi cứ mét hai tề cho bằng. Năm kết thúc bằng một tấm,
ba tấm vô một tam giác” (Nguyễn Trí, 2013). Đối với dân địu khi không kiếm
được trầm, họ sẽ làm nghề chặt và đẽo cây bán rẻ cho người vùng miền nào đó
để cất nhà, lấy vốn tiếp tục hành trình “ngậm… diêm mễ tìm trầm”.
Bên cạnh đó, dân giải quyết vụ thất nghiệp bằng cách tàn sát rừng, trước
làm nương rẫy, cây lớn ra đoạn đào lò đốt than, nhỏ bó lại làm củi. “Cái chi
cũng ra tiền” (Nguyễn Trí, 2013). Vì cuộc sống mưu sinh, con người ra sức
khai thác đến mức không có lực lượng nào cản nổi. “Lực lượng bảo vệ treo
bẳng cấm và ra tay thu giữ tất cả những thứ khai thác lậu từ rừng. Cấm và bắt
đã làm giá than củi tăng cao. Bọn phá lâm leo lên đỉnh cao nguyên sinh. Từ
45
đỉnh chúng xé ra trăm con đường đưa hàng về phố. Đừng nói bảo vệ, cả kiểm
lâm cũng chịu sầu. Bọn phá lâm được sự hỗ trợ của thiếu đói nên thoát ẩn thoát
hiện như ma trơi, như quỷ dịch. Vậy mà từng vạt núi màu xanh hoá trơ trụi và
đỏ quạch, không thua gì thời chiến người Mỹ phun thuốc khai quang” (Nguyễn
Trí, 2016).
Đối với việc đốt than, nguyên liệu chính đó là cây. Khi chọn điểm đào
hầm than người ta “phải truy cho ra một cụm rừng tương đối giàu cây kề bên
suối” (Nguyễn Trí, 2016). Và chọn những cây có thể cho ra những sản phẩm
chất lượng. “Đây là rừng konia, tiếng Việt mình gọi cây cầy, than nặng và tốt
tầm cây đước miền Tây. Làm lò ở đây mới sống được” (Nguyễn Trí, 2013). Vì
nhu cầu không có điểm dừng, con người đã bức tử rất nhiều những cánh rừng.
Bên cạnh lấy cây rừng để đốt than, con người còn khai thác những cây gỗ quý
là lâu năm có giá trị cao Tiền rừng, nhà văn mô tả sự tận diệt tự nhiên: “Cai
nào cũng tranh thủ kiếm thêm tí tí từ lộc rừng. Họ triệu tập thợ cưa, vào hạ
những cây quý mà trong quá trình đạp rừng đã phát hiện, những cẩm lai,
những, gõ đỏ mồ côi lạc loài dưới đáy U Linh Cốc” (Nguyễn Trí, 2013).
Bên cạnh khai thác gỗ, con người con khai thác lồ ô, tre nứa. Nếu như các vật
phẩm khác từ rừng được xem là hàng lậu thì lồ ô tre nứa là cây được khai thác
hợp pháp. Và lại một lần nữa, Nguyễn Trí lại gợi lên một hiện thực đáng buồn
về cách cư xử vô tâm của con người với tự nhiên. Con người phải “truy cho
được nơi có rất nhiều lồ ô, đỉnh cao hay vực sâu cũng được, miễn sao Zin hoặc
máy cày John Deer có thể xuống để lôi lên mà về xuôi” (Nguyễn Trí, 2013).
Chính nhân vật cũng thốt lên rằng “ông bà nói tiền rừng bạc bể có sai đâu”.
Thiên nhiên vì hào phóng nên bị cạn kiệt bởi lòng tham và sự phá phách của
con người. Bãi Hai lẻ sáu ở miền Đông Nam Bộ bạt ngàn lồ ô này nào cũng trở
nên xác xơ. Nguyên nhân vì sao được tác giả Nguyễn Trí giải thích rất cụ thể:
“Thiên hạ vung dao lên và tàn sát. Trồng lại ư?. Không. Bước tiếp theo là đốt.
Lồ ô hấp thụ rất nhiều nước để xanh tươi và nếu khai thác chỉ đốn được cây ba
46
năm tuổi đi lên, đằng này dân khai thác làm sạch. Khi mùa khô đến, họ cho
một mồi lửa, với suy nghĩ rằng sẽ kích thích cho lồ ô mọc lên tươi tốt hơn. Quả
là có vậy, nhưng than ôi sau vài năm, chiêu thức đó phản tác dụng. Lồ ô mới
một năm tuổi đã có bông, nó héo húa, còi cọc, rồi rũ chết, từng vạt rừng vài ba
chục hecta lụi tàn” (Nguyễn Trí, 2013). Khi những cánh rừng này trơ trụi, con
người tiếp tục “đạp tiếp những khoảnh rừng khác lo cho cái ngày mai” (Nguyễn
Trí, 2013). Không chỉ vậy, con người còn khai thác tự nhiên một cách phi sinh
thái. Ươi là một loại trái cực kì đặc biệt. Mấy thứ gấm, xoay, gùi, dâu rừng, bù
lộp, vú heo… chẳng nghĩa lí gì so với ươi. Bình thường, ươi được dùng làm
nước uống giải nhiệt. Bị táo bón chỉ cần uống một ly là khỏi. Ươi được xuất
khẩu rất mạnh để chế biến dược liệu. Đó là hàng quý, là thuốc cấm, nên lời rất
nhiều. Giá trị của nó như là vàng vậy. Loại trái này ở rừng miền Đông vài ba
năm mới có một lần, còn ở miệt Bình Định, Phú yên trên chục năm mới có trái.
Cây của nó tầm cổ thụ hai người ôm mới giáp vòng là loại nhỏ. Người ta cứ
chờ ươi chín, gió thổi bay đi. Cách khai thác ươi tố nhất là đi lượm những quả
ươi bay. Nhưng con người lại khai thác theo kiểu tận diệt “Dân vai u thịt ắp cứ
năm sáu thằng một băng, lội suối băng rừng, vô cả rừng cắm tra rìu vô cây
ươi. Cây ngã xuống là khô, tươi, dốt dốt, vặt sạch đem phơi…” (Nguyễn Trí,
2013).
2.1.2.3. Giết hại muông thú
Trong hành trình tìm vàng, đá quý, trầm hương con người còn săn bắn
động vật để làm mồi nhậu hoặc ngâm trong rượu để bồi bổ sức khoẻ. Trong lúc
đi đào vàng ở bãi Trăm lẻ bảy, gần rừng cấm Nam Cát Tiên, Thu râu cùng chủ
hầm đã săn bắt được hổ mang bành. Và thành phẩm là “Nước trong bình màu
hổ phách. Một con hổ mang được tạo hình cẩn thận, phùng mang cuộn tròn
trên một lô thuốc bắc, còn có ba con chim gì đó nữa” (Nguyễn Trí, 2016).
Trong quá trình khai thác lồ ô, Năm Tính còn có nghề bắt ong “siêu đẳng”. Để
lấy được “tinh hoa của núi rừng” Tính trang bị cho mình một bộ đồ nghề bắt
47
ong nhìn là “biết ngay chuyên nghiệp”. Đó là dây cáp chuyên trèo dây điện,
năm mươi cây đinh to bằng ngón trỏ, được rèn bằng thép lò xo của nhún xe
jeep lùn. Ba cây nhang đại được trộn bằng hỗn hợp của Hắc Kỳ, Thanh Kỳ,
Hoàng Kỳ và mạt cưa hoặc lá bù lời xây nhuyễn. Bằng trải nghiệm của mình,
tác giả khẳng định chỉ những người gắn bó với rừng mới biết nơi thâm u kì diệu
như thế nào. Có những thứ người đi rừng mới có dịp được trải nghiệm. Và thịt
rừng là một ví dụ. “Gà rừng, cheo, nhím là thường ngày ở huyện”. Còn có
Đó là một loại động vật lớn tầm bắp tay, chuyên ăn gốc măng lồ ô. cực
hiếm và cực kì khó bắt. Chỉ có thể nhận ra vào đêm khuya. Lúc ấy cúi ta
cạp nghe roàm roạp dưới một bộ lồ ô nào đó. Định được rồi, sáng ra, ta
đi xem quanh bụi có bao nhiêu ngả ra vào. Loài vật này khôn lắm, chỗ trú
ngụ ít nhất bảy tám đường để thoát. Ta bít tất cả chỉ để hai đường … thịt
nó tuyệt ngon. Giòn hơn dồi trường heo nái tơ, mềm nhưng dai, độc đáo
ở chỗ đó. Bộ đồ lòng không bỏ một cái gì. Dân bãi cái gì cũng tiết canh,
nê không bỏ qua con cúi. Tiết canh cúi lồ ô hơn tiết canh tiết cheo hay thỏ
(Nguyễn Trí, 2013).
những động vật mới lạ hơn mà ít ai biết đến. Đó là con Cúi lồ ô.
Truyện ngắn Bay cao thì mặc bay cao là một trong những truyện đặc sắc
nói về hành động săn bắn động vật một cách tàn nhẫn của con người. Khi mọi
người đều lên rừng “kiếm cái tọng vô mồm” vì kinh tế khó khăn thì ông Quốc
đã tận dụng sự hào phóng của “cao xanh” để nuôi sống gia đình. Việc kiếm tiền
của ông Quốc được thiên hạ cho là việc làm thất đức. Ông Quốc đã săn bắn rất
nhiều loại chim khác nhau bằng các hình thức khác nhau. Bằng hiểu biết của
bản thân, Nguyễn Trí tiếp tục gợi cho người đọc những kiến thức phong phú
về nghề săn bắt chim rừng. Qua đó cho thấy con người không bỏ sót bất cứ một
vật phẩm nào của tự nhiên ban tặng. Đầu tiên, ông Quốc bẫy chim bằng cách
48
giả “cái giọng kiếm bạn tình” của loài chim Cuốc. Một đêm ông thu về cả chục
con chim Cuốc. Về sau mỏi miệng quá ông thu vào băng, cứ bốn giờ sáng là
bắt đầu săn chim Cuốc. Sau khi “Con Cuốc tuyệt chủng” ông Quốc chuyển sang
bẫy nhồng. Đó là một loại chim biết nói, nhà giàu hay mua về làm kiểng. Săn
bắt được Nhồng không đơn giản như chim Cuốc mà đòi hỏi một thời gian theo
dõi “dân chuyên nghiệp phải rình rập lúc nào anh chị yêu đương, lúc nào làm
tổ và lúc nào đẻ” (Nguyễn Trí, 2016). Khi đã quan sát vị trí tổ “hốc cây cổ thụ
trên non”, “ngọn cây cao hơn cả hai mươi mét”, ông Quốc trèo lên cây cổ thụ
chỉ để bắt chim non. Để bắt được Nhồng, con người cần luyện ra một con chim
mồi và thức ăn là cơm trộn với trứng gà và cần sa. Ăn xong chú chim sẽ không
bao giờ dám rời xa chủ nữa. Sau khi những con chim mồi dụ dỗ được những
con nhồng khác cũng là lúc thợ săn thực hiện hành vi của mình. “Một hai ba
giật. Bốn mảnh lưới sập xuống và chí ít chục chú nhồng về với lầu son gác tía
mua vui cho các cô cậu thiếu gia” (Nguyễn Trí, 2016). Sau khi ông Quốc chết,
con trai ông là Đĩnh tiếp tục công việc “lấy lộc từ chim trời” một cách tinh vi
hơn. “Đĩnh làm nghề bẫy chim cho bá tánh. Bá tánh ở đây gồm ba loại. Loại
thứ nhất là dân chơi chim kiểng. Loại thứ hai là quán nhậu. Loại thứ ba là dân
mua thiên đường và niết bàn bằng chiêu thức phóng sinh” (Nguyễn Trí, 2016).
Đầu tiên là bẫy chim lá rụng. Đây là loại chim hay qua đêm ở các đám mía.
Chiều đến, chúng tụ lại đen kịt trên bầu trời rời sa vào các đám mía. Nhiệm vụ
của người đi săn là quan sát đám mía nào, của ai để ngã giá với chủ, đặt bẫy.
Tiếp theo, họ thuê người đuổi chim. “Lá rụng đang ngủ, bị đuổi sẽ ào lên phía
trước và cứ thế sa hết vào lưới. Mỗi lồng chí ít là năm trăm em lá rụng. Cả đêm
đi càn quét chí ít cũng chục lồng. Làm phép nhân đơn giản là ra hai từ kinh
khủng liền. Chim di lý về máy quán nhậu. Cân cái lồng ra số kí là biết số con.
Cứ chục mười hai ta chốt sổ” (Nguyễn Trí, 2016). Hết mùa lá rụng, Đĩnh săn
nhồng, rồi két, và cuối cùng là chim se sẻ. Đầu tiên người ta chỉ sử dụng huyết
chim se sẻ để “luyện môn cường dương đại bổ”. “Kéo trong tay họ sắp một
49
phát là mỏ chim bay mất. Máu từ đó sẽ nhỏ vào ly rượu, cả mười chú chim mói
cho ly rượu trắng hoá hồng… Để phục vụ cho một trong bốn tứ khoái của thiên
hạ con người lên rừng tàn sát cả tê giác thì vài ba con chim be bé có nghĩa địa
gì” (Nguyễn Trí, 2016). Sau đó, chim se sẻ được bán cho những quý ông quý
bà để phóng sinh “mua đường yên sau chết”. Lần này, Đĩnh không sử dụng keo
dính chuột để bẫy chim nữa mà thay vào đó là keo để sản xuất ván ép. Loại keo
này rất dính nhưng khi gặp nước là bung ra, chim dính vào muốn lấy ra chi cần
nhúng qua nước. Vậy là ở chùa và nhà thờ, con người tha hồ mua chim phóng
sinh. Chim se sẻ còn được mấy tay nhà cao cửa rộng săn đón vì lí do phong
thuỷ. Có nó nhà cao sẽ thêm cao, uy quyền thêm vững chắc. Vậy mới nói, ghê
sợ cho sự sáng tạo của loài người.
Trong Trọng bệnh, Nguyễn Trí đã miêu tả tội ác của con người đối với
động vật thật ghê sợ. Để kiếm mồi nhậu tăng sinh lực đàn ông, Nhỏ săn mèo
để nhậu. Nhỏ tậu một cái lồng bẫy để trộm những con mèo đêm đêm đi kiếm
bạn tình. Mèo hoang sập bẫy. Để trảm, Nhỏ sử dụng một cây xà bách để đâm,
kẹt cái mèo khôn lắm, thêm cái lưới lồng để che nên đâm cả chục nhát à không
trúng. Đổ khùng lên, Nhỏ nấu một ấm nước sôi rồi cứ thế mà xối. Giữa trưa
nắng tiếng rú đau đớn trước giờ chết đánh động dân cư cả xóm (Nguyễn Trí,
2016).
Qua miêu tả của Nguyễn Trí, có thể thấy “rừng vàng biển bạc” là hoàn
toàn có thật. Trong hảo hớn “thuở rừng sát bên nhà, đất đai muốn thì thò rựa
vô xin thân rừng cả mẫu còn được, cái nền nhà có nghĩa chi” (Nguyễn Trí,
2014). Trong Bãi vàng tác giả liệt kê sự giàu có tự nhiên: “Eezimbar Chưprông
ở Phú Bổn, Khâm Đức ở Quảng Nam, Tà In ở Lâm Đồng, Suối Nho sở Đồng
Nai, Sông Hinh ở Tuy Hoà và những bãi khác như suối Ty, Lý Lịch, Hiếu Liêm,
Móng Bò, riêng ở Suối Nho là vàng cục vàng thỏi” (Nguyễn Trí, 2013). Tác
phẩm của Nguyễn Trí mang đậm ý thức sinh thái. Những trang viết biểu thị về
mối quan hệ giữa môi trường và nghèo đói. Rừng núi là nơi tai hoạ, nhưng vì
50
nghèo đói mà buộc phải liều thân để mưu sinh. Tuy nhiên niềm tự hào rừng
vàng biển bạc đã xem tự nhiên là đối tượng khi thác, phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng, hưởng thụ. Con người đã không canh tác đi kèm với giữ gìn, họ chỉ muốn
dựa vào kho tài nguyên quý giá của thiên nhiên để đào vét đến cạn kiệt. Với
suy nghĩ “miền Đông của đất nước này là vàng là bạc chứ chẳng phải chơi”.
(Nguyễn Trí, 2013). Trong Thiên đường ảo vọng con người quên đi vị trí của
mình trong hệ sinh thái, bóc lột, tàn phá thiên nhiên một cách bạo tàn mà không
biết đến sự phát triển bền vững của tự nhiên. Đa số những người tạm mượn
Từ một chặng đến Bảy chặng con suối bị chia cắt, được đắp lại để dành
chỗ đãi. Bây giờ là cuối tháng tư âm lịch. Mùa mưa chỉ mới chớm, nước
đang lừ đừ trôi bởi hạn Bà chằng, bị tắt dòng bởi sự xâu xé của con người.
Con người khác loài thú ở chỗ suy luận. Ai cũng biết dưới nước là đất chứ
đâu. Vậy là xà beng, cuốc xẻng họ âm sâu dưới lòng con suối. Không quá
mười ngày, dòng bãi chặng đã hoá hầm hố suốt một chiều dài tròm trèm
cây số. Hầm chứa nước sát nhau hơn cả vợ chồng trên giường ngủ, và
tiếng máy nổ của tất cả các loại mô tơ đưa nước tập trung vào một hầm
cố định cho bộ sậu trong băng của mình xổ và đãi.
(Nguyễn Trí, 2015).
mạch rừng làm lẽ sống luôn ỷ vào vô tận của mẹ thiên nhiên.
Chính cách hành xử tàn ác với tự nhiên đã làm tự nhiên thêm cỗi cằn.
“Họ xả láng cho ngày hôm nay, ngày mai có của ngày mai” (Nguyễn Trí, 2015).
“Mang tiếng rừng nhưng suối chặng Một không còn lấy một cái cây cho nên
hồn. Từ Một cho đến Bảy chặng cả cây số đường rừng nhưng hoang tàn và ảm
đạm lắm. Để tìm cây cất chòi là không dễ. Nguyên nhân để rừng bị sa mạc
không có chi là khó hiểu. Dân tứ xứ đổ vào sứ Bến Tỷ như Triều Dâng. Kết
51
thành đoàn, ào vào rừng nguyên sinh, chia khoảnh và mạnh ai nấy phát để
kiếm đất đai canh tác” (Nguyễn Trí, 2015).
2.1.3. Tự nhiên là nơi trùng phạt con người
2.1.3.1. Kính sợ đất thiêng
Phải biết kính sợ sinh mệnh tự nhiên, nếu không con người phải trả giá
đắt cho hành động của mình. Các truyện của Nguyễn Trí cảnh báo sự trả thù
của tự nhiên nếu con người không biết đâu là giới hạn. Cái giá mà con người
phải trả chính là tính mạng của mình. Trong hành trình đi tìm vàng, đá quý,
trầm hương, đã không ít người bỏ mạng lại rừng sâu. Ngoài luật rừng, luật giang
hồ, “luật nhân quả” cũng có uy lực không kém. Chính vì thế mà hình tượng cái
chết xuất hiện với tần suất dày đặc trong văn xuôi của Nguyễn Trí. Cách nói
của tác giả về cái chết cứ dễ dàng, điềm nhiên như một lẽ thường tình. “Buổi
sáng còn chung nhau li rượu, chiều không thấy mặt là biết đã về với đất”
(Nguyễn Trí, 2013). “Dân chơi hoàn toàn không sợ mưa rơi. Nghe ớn quá, dễ
chết quá. Thường thôi. Ở đâu có người ở đó có sự sống và cái chết. Chết hả?
xúm nhau khiêng ra dốc Ma Trơi. Cuốc đó. Xẻnh đó. Hàng hả?. Làm gì có, tấm
chiếu, cái mền của nó thì trùm cho nó. Cát bụi trở về cát bụi. Có gì quan trọng
đâu?” (Nguyễn Trí, 2013). Và chết cũng có muôn vàn kiểu. “Buồn lắm kẻ ở
rừng. Chết vì sốt không kịp chuyển viện thường lắm”. Nhiều nhất vẫn là chết
vì sập hầm, đất đè. Mùa mưa đến, hầm dễ sập, ai cũng biết vậy, nhưng vì mưu
sinh, vì lòng tham, con người vẫn liều mạng mình để kiếm bổi. Có những cái
chết cực vô danh, giang hồ không theo một mâm nào, tụt xuống một hầm hoang
để mót, vừa xuống đã vùi thây. Trong Giã từ vàng, Minh Tàn kể về nhũng cái
chết vì “đất đè” của những kẻ vô danh. “Lâm cái đầu, tôi cái thân, khệ nệ đưa
người chết ra. May quá, nó chết nằm. Có lẽ chết trong khi giải lao. Ở Êzim bả
đã lôi lên một cái xác ngồi. Lôi lên rồi chả biết làm sao mà chôn cất. Bao nhiêu
rượu cũng không duỗi được. Giang hồ bãi đã cắt gân tay gân chân, vận dụng
mười hai thành công lực mới vô được áo quan. Vì còn vàng còn đậm nữa, lôi
52
xác lên để đánh tiếp chớ” (Nguyễn Trí, 2013). Trong Thiên đường ảo vọng
Lâm chết dưới hầm với cả kí thuốc nổ. Cái chết được tác giả miêu tả ám ảnh
đến rợn người. “Gương mặt xanh tái nhợt nhạt. Máu hết rồi còn đâu nữa mà
hồng hào. Và rồi…Trời à… Thật kinh khủng. Cái bụng Lâm phơi ra, bên trong
không có gì. Xương sườn cái gẫy, cái còn, cái gấp khúc. Và hạ bộ bị biến mất.
Có lẽ Lâm cầm khối thuốc ngang bụng. Chân tay anh lủng lẳng, chứng tỏ xương
đã gãy khúc” (Nguyễn Trí, 2015). Nếu không có Nguyễn Trí chắc hẳn người
đọc khó hình dung ra cái “nghề sinh tử nghiệp” này.
2.3.1.2. Kính sợ quả báo sát sinh
Trong văn xuôi sinh thái sau 1975, rắn đã trở thành một biểu tượng sinh
thái, đó là con vật bảo vệ tự nhiên hoặc trừng phạt những con người tận diệt tự
nhiên. Truyện Thung Mơ của Hà Nguyên Huyến có con rắn hổ mang sống đến
già vẫn canh giữ cho sự yên bình của Thung Mơ, ngăn chặn không cho bất cứ
hành vi tàn phá nào của con người. Và trong truyện ngắn Nguyễn Trí rắn hổ
mang cũng thể hiện vai trò của sự trừng phạt. Trong Trầm Hương, Phi Long
chưa kịp tận hưởng niềm hạnh phúc từ đá quý mang lại đã bị rắn hổ mang bành
bên bờ suối cắn chết. Một cái chết buồn thảm hơn bao giờ hết. “Một cái hố
được đào bằng rìu, đất hốt lên bằng tay. Phải thật sự sâu. Ở rừng cao, heo
rừng đánh mùi cực tinh...Một đám tang buồn và lặng lẽ...Giờ mày ở đây ngủ
ngon đi, ba năm nữa bọn tao sẽ đưa mày về...” (Nguyễn Trí, 2013). Lúc bấy
giờ con người mới thấu hiểu nghề đi địu là đi tìm sự chết. Cái chết của Phi
Long đã cảnh tỉnh ba thành viên còn lại, “Vàng, đá quý, trầm hương. Để làm
gì nhỉ? Nào về…” (Nguyễn Trí, 2013). Trong Bay cao thì mặc bay cao, Ông
Quốc góp một phần lớn làm cho chim Quốc tuyệt chủng. Ông chết do bị một
con rắn hoa mai cắn vào kẽ tay và chết ngay tức khắc.
Nếu không chết, con người cũng hứng chịu những quả báo do những gì
mình đã làm. Cuối cùng, “của thiên trả địa”, con người lần lượt bị quả báo,
người bị pháp luật trừng trị, người bị tai nạn, kẻ tán gia bại sản... Điển hình
53
nhất là gia đình Bảy Biển trong truyện Tiền rừng. Để giàu có, người ta phải suy
tính, thủ đoạn, bán rẻ cả lương tâm, danh dự… “Nhưng nghiệt ngã thay, tất cả
đều không giữ được” (Nguyễn Trí, 2013). Khi những khu “đất bớt lành”, Bảy
cũng tình lang Ba Kỉnh tiếp tục lên rừng Di Linh khai thác tiếp. Quả thật như
dân rừng vẫn hay nói: “Rừng linh hiển lắm, không nghe ăn của rừng rưng rưng
nước mắt sao”. Cuộc suy thoái bắt đầu khi chiếc Kamaz chở chuyến hàng đầu
tiên của Ba Kỉnh bị rơi xuống vực. Tất cả tài sản của cặp tình nhân “xe cộ dăm
bảy chiếc, vàng bó trong ngón chân lên tận đầu gối” (Nguyễn Trí, 2013) bỗng
chốc một đi không trở lại. Sau khi Ba Kỉnh chết, “hoạ đời sống trùng phùng
vây bủa” Bảy. Hàng hoá kém chất lượng bị trả lại, “mất dần” cho đến “mất
sạch” những hợp đồng. Rừng lấy lại của Bảy tất cả những gì trước đây rừng đã
hào phóng ban tặng. Bà Bảy buồn tình kiếm rượu giải sầu. Khi về té đập đầu
xuống đất. “Thiên hạ đứng nhìn chả ai đỡ”. Vợ chồng Út Tình nắm giữ trong
tay sự nghiệp “ửng màu gấc chín” thì lại không thể có con. Buồn tình, buồn
đời, ngày nào Út Tình cũng lâm vô rượu. Còn Năm Tính xây nhà, móng không
vững nên bị sập, và sập luôn nhà bên cạnh, “bồi thường xong thì cũng sạt
nghiệp” (Nguyễn Trí, 2013). Bảy Bầu Cua chết, do con trai là Thành giết vì cờ
bạc, nợ nần. Phúc giám đốc lâm trường cũng bị bắt vì lợi dụng chức quyền
chiếm đoạt tài nguyên quốc gia. Những người bảo vệ “canh ke” cho thợ rừng
cũng bị xử phạt. Nguyễn Trí nói “Khi túi tham của con người bị cao xanh xé
đáy, nó lọt thỏm vào hư vô nhẹ thoảng như mây trôi, nước chảy” thật không
sai. Trong truyện Cầm giùm đi Kha Ly cùng Tám Búa và Mười Núi cùng nhau
lên rừng kiếm củi nhưng vì lòng tham của mình, Mười Núi bị củi đè, về sau
làm nghề bán vé số. Tám Búa cũng chả có một cuộc sống khó khăn, vất vả.
Tám Búa nhận quả báo khi vợ chết vì sốt rét rừng, con trai phạm tội giết người
và bị tử hình. Trong Chuyện cũ từ rừng, Khánh răng vàng lợi dụng chức quyền
của mình để khai thác, buôn bán tài nguyên quốc gia. Nhưng luật bù trừ đã phát
huy tác dụng khi cho Khánh thật nhiều của cải nhưng không cho họ một đứa
54
con. Khi về già, Khánh thanh bại danh liệt. Tài sản kiếm được từ rừng lần lượt
tiêu tán. “Những góc gỗ đỏ, căm xe… mà Khánh tuyển nghệ nhân trạm trổ công
phu đã bán đổ bán tháo vào tay chủ khác. Hết. Thực sự hết” (Nguyễn Trí,
2013). Không ai có thể làm giàu được từ việc khai thác tận diệt thiên nhiên.
Các thành viên của toàn bãi Long Mỹ đều bị truy quét và bị bắt sạch. Cường
Chương bị bắt vì tội tàng trữ vài trăm kí thuốc nổ và kíp nổ, khai thác lậu tài
nguyên thiên nhiên quốc gia, đặc biệt là có người chết.
2.1.4. Mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình bóc
lột tự nhiên
Trong sáng tác của Nguyễn Trí, mối quan hệ giữa nghèo đói và môi
trường được phơi bày một cách trực tiếp. Thiên nhiên ẩn chứa trong mình vô
vàn những tai hoạ nhưng vì mưu sinh con người phải tiếp tục khai thác. Các
nhà phê bình sinh thái cho rằng phân bố giàu nghèo hiện nay không phải là sự
phân bố giàu nghèo mà là sự phân bố giữa các nguy cơ. Người nghèo bao giờ
cũng chịu nhiều thiệt thòi hơn. Những người rừng khai thác không gian hoang
dã đều bị đẩy bên lề, sống đời cô độc, tăm tối giữa núi rừng hoang sơ. Rõ ràng
có mối liên hệ giữa những bất công tự nhiên và những vấn đề bất công xã hội.
Đó là những người phu đào vàng, họ quyết tâm tìm đến bãi vàng với mong
muốn đổi đời, nhưng kết cục số phận họ trở nên vô cùng bi thảm.
2.1.4.1. Chủ tớ
Trong hành trình bóc lột tự nhiên, kẻ làm chủ được hưởng lợi, người
nghèo đến bãi vàng vẫn hoàn nghèo. Ở Bãi vàng, một hiện thực sống được tác
giả khắc họa, đâu đâu cũng là những toán giang hồ anh chị. Để nhập cư đến
một bãi không phải là dễ bởi ở bãi có hai loại đàn anh: Đàn anh địa phương và
đàn anh không bến không bờ. Dân đào vàng mới đến, không tuân theo luật lệ
nơi đó thì khó ở lắm. Đàn anh không bến bờ mới vào bãi đã vội vàng đến gặp
quý ngài địa phương: “dạ.... em... mới đến.... dạ.... nghèo quá, khổ quá.... vợ đẻ
con đau nhà hết gạo...”, “Rồi làm đi.... đừng có quậy quọ gì nghe không và
55
biết điều một chút” (Nguyễn Trí, 2013). Ma mới bắt nạt ma cũ, giang hồ địa
phương bắt nạt giang hồ nơi khác chuyển tới làm ăn. Phải chăng tại nơi rừng
thiêng nước độc này, người ta không sống như vậy không được, cùng đi tìm
miếng cơm manh áo, phải giành giật nhau địa bàn, đôi khi trả giá bằng cả mạng
sống của mình. Chỉ cần là đàn anh trong bãi sẽ được ngồi không hưởng lợi “Ca
lụi sáu người chia bảy, một phần chia cho đàn anh” (Nguyễn Trí, 2013). Trong
Bãi vàng, chủ hầm là người “ngồi mát ăn bát kim cương”. Khi đụng được bổi
rồi, vàng không phải do phu phen nắm giữ tất mà quyền lợi đó thuộc về chủ
hầm, thuộc về những người có tiền thuê những phu phen vàng kia. Những người
phu vàng chỉ được hưởng chút ít “mười ba thằng chia nhau những bốn tháng
sinh tử ba cây có gì lớn” (Nguyễn Trí 2013). Kiếm được ba cây vàng nhưng
phải đánh đổi bằng chính tính mạng của mình. “Ở bãi vàng là phải xuống hầm,
phải ròng rã thâu đêm suốt sáng ăn thua đủ với thần chết. Thần chết ở khắp
mọi nơi, sốt rét, sập hầm, đứt dây lên xuống và nghìn thứ vân vân” (Nguyễn
Trí, 2013). Không có bảo hộ lao động, gặp những hầm có bổi nằm sâu dưới chân núi, người ta lấy cây chống vào vách núi rồi đào. Và chủ hầm chỉ đứng
trên miệng hầm chờ thành quả. “Tính đi, lãi ròng hai mươi cây chia năm, mỗi
thằng bốn cây. Ngồi chơi và ra lệnh tháng kiếm một cây” (Nguyễn Trí, 2013).
Không chỉ chủ hầm, mà chủ tiệm vàng ở bãi cũng ăn cắp của phu một cách điêu
luyện. “Vàng cám và nước, tuy được dồn lại thành cục bởi thuỷ ngân, họ chỉ
cần đưa khò, đạp mạnh cóc là vàng ít nhiều bay xuống nền. Mỗi lần dời bãi,
họ bán nền cả cây, chưa kể khi bỏ vàng và hàn the vào nồi đất để cô thành cục,
họ giấu vàng dưới đáy nồi phủ hàn the lên trên” (Nguyễn Trí, 2013). Đã thế,
phần nhiều những cái chết trong rừng đều là cái chết của người nghèo khổ, chủ
thầu chỉ đi kiểm tra còn ngươi thợ rừng phải dựng lán mà khai thác. “Tổng kho
như bùng binh chợ Bến Thành. Ít nhất cũng có năm chục mạng vùi thây ở đó”
(Nguyễn Trí, 2013). Nguyễn Trí thấu hiểu và vô cùng thương cảm cho cuộc
mưu sinh khốc liệt của phu đào vàng, dù biết cái chết treo lơ lửng trên đầu,
56
nhưng vì miếng cơm manh áo, vì một chút hi vọng le lói từ vàng kia họ vẫn
chấp nhận, kể cả sự hi sinh cả mạng sống của chính mình. Cuộc sống mưu sinh
vốn dĩ khó khăn, ở rừng càng khó khăn hơn gấp bội. Vậy mà người nghèo vẫn
bị bốc lột đến tận cùng. Trong Tiền rừng, những người thợ rừng bán mồ hôi,
nước mắt, cả máu chỉ để kiếm miếng cơm, còn lại cai thầu kiếm được “những
vàng là vàng”. Đối với cánh thợ rừng, con mới ba tháng tuổi đã “na” vào rừng
vừa địu vừa vát lồ ô, vắt đeo mẹ đã đành còn hút cả máu con. Trong khi với gia
đình cai thầu “Vợ anh bảnh tỏn trong lụa là và tung tăng ở phố, toàn máu và
nước mắt của vợ chồng, con cái tôi…” (Nguyễn Trí, 2013). Ngoài trừ đầu cây,
đầu bó, cai còn lượm được nhiều khoản khác từ thợ rừng. Lương ăn cũng là
một món hời không kém. Gian manh nhất phải kể đến Út Tình. “Út Tình nổi
danh toàn cõi Lẻ Sáu với nghệ thuật đong gạo. Hãy xe. Cái lon được nhẹ nhàng
- cực nhẹ nhàng, đưa vô bao, rõ ràng trước mặt ba quân nó vun đầy những
gạo, tay kia Tình cầm một đoạn lồ ô gạt nhẹ. Đủ hai mươi lon là năm kí. Mười
người nhận xong thì trong bao cũng còn chừng đó lon, phần của phò mã. Thật
kinh dị” (Nguyễn Trí, 2013). Bảy Cua lại ăn chăn của người khác nửa kí đường,
năm kí gạo bằng cách “gian lận qua trí nhớ”. Mỗi người một ít, Bảy Cua cũng
tích cho mình những “dây chuyền, cà rá to đùng”. Chín Cà Ná làm nghề giũa
cưa cho thợ rừng và tính công bằng niền. Cứ giũa năm lần là một cục niền.
Nhưng Chín “điếm lắm”, một cây cưa sau ba ngày giũa phải làm lại. Châu Đèo
không gian lận kiểu Út Tình, Bảy Cua, Chín Nà, nhưng lại “ăn cướp cơm chim
của dân khố rách” kiểu khác. “Minh tàn đánh cho nó bốn xe tuyển, hai ngàn
sáu trăm cây, lúc ra tính tiền chỉ có hai ngàn cây, mất sáu trăm”. “Cả niền nó
cũng ăn cỡ đó, năm chục cục ra bãi còn bốn lăm” (Nguyễn Trí, 2013). Năm
Tính cũng ăn chặn thợ rừng bằng cách nói dối thợ rừng hang bị kiểm lâm bắt.
Khi Minh Tàn hạ được tấm nu có trị giá năm chỉ vàng một tấm nhưng Năm
Tính chỉ đưa cho Mình Tàn năm chỉ như trả công vì ván bị kiểm lâm bắt. Bị ăn
chặn bởi chủ cai, chủ hầm đã đành, “kẻ ăn rừng” lại tiếp tục bị đè nén dưới của
57
“thần rừng”. Làm rừng đã khổ, nguy hiểm, lại bị bắt bớ, tịch thu. Muốn được
yên thân khai thác “đồ cấm”, người nghèo phải có những phi vụ chia chát ngầm
với kiểm lâm. “Chẳng một lâm tặc nào qua được bảo vệ rừng. Đưa một cặp
cây về nhà là đi qua dăm bảy trạm. Tiền bán cây có khi không đủ chung chi”
(Nguyễn Trí, 2015). Thậm chí, kiểm lâm tịch thu cả sản phẩm của lâm tặc để
làm lợi cá nhân. Trong Chuyện cũ từ rừng, lâm tặc giao không đủ hàng thì kiểm
lâm sẽ thu hết về trạm “chung chi được chia làm ba. Một phần cho thầy. Một
cho lính gác. Phần còn lại của Đỏ và Khánh”. Những loại gỗ quý như cẩm lai,
gõ đỏ, huỳnh đường…và nhiều loại khác được kiểm lâm “chất dưới thùng xe,
đóng cửa thùng rồi cho củi lên trên…cũng chia ba. Thầy hai, hai trò một”
(Nguyễn Trí, 2013). Đối với phụ nữ, để có thể dễ dành kiếm sống từ rừng, họ
phải đánh đổi “cái tự có” của bản thân với giám đốc lâm trường. Trong Tiền
rừng để có được giấy khai thác Mây Tre Lá, Bảy phải đánh đổi bản thân mình
mình với giám đốc lâm trường. “Tuy chỉ cấp giấy phép sáu tháng nhưng sáu
tháng này sẽ có sáu tháng khác” (Nguyễn Trí, 2013). Trong Chuyện cũ từ rừng,
vì chồng đau ốm liệt giường, Diệu Thảo đành vào rừng mưu sinh. Hàng và xe
bị khánh tịch thu. Nghĩ đến hoàn cảnh chồng ốm, con đau, có cái xe là phương
tiện làm ăn nên Diệu Thảo đành chấp nhận yêu cầu trao thân cho Khánh răng
vàng. Những cô gái điếm trong các quán Điểm Hẹn, Cõi Nhớ, Thương Hoài,
… cũng chịu sự bốc lột của các tú bà. My trong Bãi vàng là một cô gái như thế.
Khi có ý định “cho không biếu không” Thành, My bị chủ quán hăm doạ “Của
mày, mày cho ai kệ mày, nhưng phần của tao là phải chung, không là khỏi ăn
đi… Mày cà chớn, tao nói thằng Hoàng xáng bạt tai vô mặt. Đồ ngu, làm đĩ mà
không lấy tiền” (Nguyễn Trí, 2013). Họ buộc phải lăn xả kiếm khách để kiếm
cơm qua ngày. Sự sống sượng nơi bãi vàng làm người đọc không khỏi chua xót
cho số phận kiếp hồng nhan.
Bên cạnh tình trạng bị đàn áp, đối xử bất công giữa người làm công và
kẻ làm chủ, những người thợ rừng còn phải sống trong môi trường sinh hoạt ô
58
nhiễm, thiếu thốn đủ thứ. “Trên một diện tích bé tẹo mà những người là người”
thì ô nhiễm môi trường sinh hoạt là điều khó tránh khỏi. Dấu hiệu đầu tiên minh
chứng cho môi trường bị ô nhiễm nặng chính là ruồi. Tác giả miêu tả ruồi kí
sinh trên người “nghe mà kinh hoàng”. “Lưng áo ai cũng dày ruồi như đậu
đen” (Nguyễn Trí, 2015). Nguyễn Trí cũng lí giải nguyên nhân sự xuất hiện
của ruồi thật chi tiết. “Cái hầm hai mươi mét vuông, trú ngụ bốn người. Buồn
ngoài có muốn đi cũng chả biết đi đâu. Thôi thì cứ tại chỗ mà xả rồi lấp đất
lại. Cả đàn bà con gái còn vậy nói chi đàn ông con trai. Đó là ban ngày, còn
ban đêm? Kệ mẹ chúng mày, bạ đâu ông đi đó. Còn bà. Bà xả trong túi nilon
rồ ném vô tội vạ bất cứ đâu. Có sống trong không khí khắc nghiệt của bãi mới
biết sức gan lì chịu đựng của con người. Cái mùi đặc trưng của phân người
phơi khô và nước tiểu sực lên khắp bãi. Và đó là môi trường để ruồi sinh sôi
nảy nở nhanh nhất thế gian”. Cái phát sinh sau ruồi trong môi trường ô nhiễm
đó là chí, “cánh phía Bắc gọi là chấy” (Nguyễn Trí, 2015). Thực ra khi sống
trong môi trường bẩn thỉu, con người cũng thấy quen như thường. Trong không
gian ấy, không khí ấy, con người có sạch sẽ cỡ nào cũng có “vài ba em chí để
tước trứng cho vui”. Còn khi con người không sạch sẽ, “chỉ một đường chải là
chí đen cả tờ giấy của quyển sổ ghi nợ” (Nguyễn Trí, 2015). Với lượng người
đông như vậy, lại sống tách biệt với thế giới bên ngoài, dân phu phải đối mặt
với những điều kiện sinh hoạt khó khăn. Thiếu nước là một trong những vấn
nạn. Mọi sinh hoạt của con người đều vịn vô dòng Bảy chặng. “Suối tắc nước.
cả súc miệng còn là vấn đề nói chi nấu ăn”. “Đến trưa sình lắng xuống ắt có
ắt có nước trong. Nấu cơm còn được nữa là tắm. Tuy nhiên không ai dùng nước
đó để ăn, vì eo ơi cái hồ chưa ấy đàn ông nó xuống hàng bầy đàn để nạo vét,
chúng đái dưới ấy là chắc luôn” (Nguyễn Trí, 2015). Con người chấp nhận một
hoàn cảnh sống ô nhiễm chỉ vì ngày mai tươi sáng. Nhưng ngày mai luôn đi
kèm mưa gió và bệnh tật. Và có những cách chữa bệnh đúng chỉ có những kẻ
đi rừng mới nghĩ ra. Thu Râu trong Bãi vàng tự hào “tao điều trị sốt bác sĩ
59
còn… ganh tị… Sốt hả? Lạnh tao chơi một tách cà phê đen trộn nửa thìa tiêu
bột là nóng ngay tức khắc. Nóng hả? Bãi nào chả có suối. Qua cơn nhức đầu
là tiếp tục xuống hầm. Vậy thôi” (Nguyễn Trí, 2014). Với họ, ở rừng núi thâm
sâu thì “treo biển giáo sư bác sĩ còn được huống chi bác sĩ”. Trong Tiền rừng,
khi những đứa trẻ được dự đoán sốt rét hay cảm vặt thì đã có thuốc bên chòi Út
Tình. Dẫu biết rằng khám bệnh không theo chỉ dẫn của bác sĩ nguy hiểm tính
mạng nhưng “nghèo mà, chả ai liều bằng”. Khi bệnh thật nặng mới chuyển lên
trạm xá hay bệnh viện. Tội lắm kẻ ở rừng, “có bao nhiêu cũng không đủ viện
phí”. Nhưng không phải bệnh tật nào cũng qua khỏi, “Chết vì không chuyển
viện kịp cũng thường lắm” (Nguyễn Trí, 2013).
2.1.4.2. Thù địch
Từ những đối xử bất công đó, con người đối xử tàn ác với nhau. Đó là
nơi nhiều khi luật pháp lại đứng thứ hai sau luật rừng, bởi khi chuyện đâm
chém, thanh trừng đẫm máu xảy ra như cơm bữa. Nguyễn Trí không miêu tả
trần trụi hình thức bên ngoài của bức tranh ấy. Chết chóc và xung đột ở bãi là
chuyện thường (Nguyễn Trí, 2013). Họ “thanh toán” nhau vì muôn vàn lí do.
Trong Tiền rừng, vì cai thầu Năm Tính gian lận, Minh Tàn vung rựa chém đứt
ba ngón tay của Năm Tính. Tiền bạc phần lớn vào chủ chứa. Cờ nào chẳng
gian, bạc nào chẳng lận. Trong Thiên đường ảo vọng, Lâm Lạnh đe doạ Năm
Phúc khi giỏ trò “mánh lới” với Cường Linh. “Tao chắc chắn rằng mấy đồng
xi mày xóc không phải là đồng nguyên chất mà là kẽm mạ đồng. Dưới chỗ đặt
đĩa mày có gài nam châm. Và chẵn hay lẻ là do mày quyết định” (Nguyễn Trí,
2013). Trong Bãi vàng, người gian lận trong cờ bạc bị phát hiện sẽ bị người
thua “phạt một lưỡi rìu”. “Hãy tưởng tượng sức mạnh của một tay băng rừng
lội suối và lưỡi rìu xuyên suốt từ bụng qua lưng. Dưới chân núi, xa lộ lớn hàng
chục cây số. Kẻ thù ác chạy ngược lên rừng, người bị nạn đành chấp nhận chết
và bằng hữu sẽ vùi thây kẻ xấu số ngay tại đó” (NguyễnTrí, 2013). Bên cạnh
đó, con người còn đối mặt với cướp bóc lộng hành. Chúng đi qua các đồi, các
60
hầm ngó ngóc nhìn nhìn, nghi hầm nào “vô mánh” là chạy về báo thủ lĩnh.
Trong Thiên đường ảo vọng, trong hành trình đi vượt biên đã gặp bọn cướp
gian ác. “Đang đi bỗng bị chặn lại bởi một toán rằn ri bịt mặt. Với súng M16
chúng lùa bọn tôi vào sâu trong rừng… Đàn bà chúng hãm hiếp, đàn ông chúng
đâm bằng lê. Khủng khiếp lắm. Bọn cướp dùng lưỡi lê rọc vào áo quần. Những
nơi như đùi, bẹn, nơi mà - người vượt biên bó vàng và đá quý. Vậy là sạch.
Chúng sành đến độ moi từ trong hậu môn của đàn ông ra những ống sắt đựng
của cải” (Nguyễn Trí, 2015). Trong một lần khác, trên chuyến xe đi về ngã ba
Dầu Dây, Lâm và đồng bọn lại tiếp tục bị cướp bởi chủ xe và lơ xe. Không chỉ
cướp của từ những người vượt biên, cướp dọc đường, chúng còn cướp thành
quả của dân địu, phu vàng. Cứ “có hàng” là có sơn tặc. Trong Trầm hương,
kiếm được một viên đá quý màu vàng chanh đã khó, đem chúng đến được điểm
bán còn khó hơn. Ngọc, Thuỳ, và Dũng đen phải đối mặt toán cướp, “lưỡi rìu
vung lên chém một nhát ngọt như mía vào cái bụng. Ngọt quá, nhanh quá và
mạnh quá, lưỡi rìu trổ ra sau lưng… Mũi rìu cắm thẳng vào mặt một thằng mã
tấu…” (Nguyễn Trí, 2013). Cả một đời bương chải trong gian khó và thất bại,
đã làm tâm hồn người chai sạn và khô cứng trước mọi nghịch cảnh. Cái chết
của người khác được xem là bình thường, thậm chí “Lâu lâu phục kích người
chết vì đất đè cũng thú”.
2.1.5. Thông điệp về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Nguyễn Trí đã lí giải nguyên nhân chính của thảm hoạ sinh thái trong
hàng loạt sáng tác của mình. Theo ông căn nguyên của vấn nạn môi trường
trước hết nằm ở “não trạng” của con người. Tư duy “tài sản là dưới đất, trên
rừng”, “của trời là đất kho vô tận” vốn dĩ ăn sâu trong tâm tưởng người Việt.
Niềm tự hào rừng vàng biển bạc đã khiến con người xem tự nhiên là đối tượng
khai thác, bóc lột mà quên đi vị trí của mình trong mối quan hệ sinh thái. Con
người không hề nghĩ đến việc hồi sinh cho ân nhân của mình. Thứ gì quý giá
từ rừng là con người ra sức vơ vét sạch. Khi huỷ hoại mọi thứ trên mặt đất, họ
61
bắt đầu tìm bới những thứ trong lòng sâu. Tự nhiên bị tàn phá bởi đủ các hình
thức, đủ loại người. Những kẻ tìm vàng, tìm trầm, đá quý, đốt than, lấy củi, săn
thú, bẫy chim.
Căn nguyên thứ hai là nhu cầu mưu sinh. Đây là nhu cầu của người nghèo
trong những nước nghèo. Vì đói nghèo nên từng đoàn người lũ lượt kéo nhau
đi đãi vàng để mong đổi đời nhanh chóng. Nhưng thiên hạ vào nhiều bao nhiêu
thì ê chề ra bãi cũng bấy nhiêu. Tội nghiệp lắm những kẻ một đời ruộng nương
vì lời đồn mà làm một chuyến phiêu lưu thử vận… kẻ thì xin bái biệt nghề
vàng. Kẻ mới vào thì hăm hở cho một tương lai ngời sáng.
Căn nguyên thứ ba dẫn đến lối cư xử không đẹp giữa con người với tự
nhiên nằm ở lòng tham không đáy của con người. Theo tác giả “nghìn dân
mạng đang mang nặng niềm đau đớn nhất thế giới” là “lòng tham vô độ” của
con người. Lòng tham ấy ngay cả “phật Như Lai cũng lắc đầu” (Nguyễn Trí,
2015). Không phải ngẫu nhiên, tác giả viết: “Ở bãi là gian manh, xảo quyệt và
tham lam” (Nguyễn Trí, 2013). Thiên nhiên vì hào phóng, nên bị cạn kiệt bởi
lòng tham và sự phá phách của con người. Đúng, tham lam chính là nguyên
nhân đẩy con người ta vào vòng nguy hiểm bất chấp tính mạng. Đó là căn bệnh
trầm kha của con người và không chữa được (Nguyễn Trí, 2013). Bên cạnh
những người nghèo tận dụng “sự đãi ngộ từ rừng” để “xóa đói” thì vô số những
kẻ giàu muốn vào rừng để làm phong phú thêm cái giàu có của mình. Chủ tiệm
vàng sở hữu hàng đôi ba chục mẫu đất, cũng mâm, cũng máng, cũng phơi ra
gió sương để kiếm vàng. Tác giả đã lý giải cho người đọc biết tại sao có tiền
mà vẫn dấn chân vào chốn ma thiêng kia, ấy là bởi “lòng tham quá lớn, niềm
tin đến độ cuồng nên bỏ tiền bỏ của lôi cho bằng được cái quý giá trong lòng
mẹ trái đất vào lòng mình” (Nguyễn Trí, 2015).
Từ những căn nguyên sinh thái đó, Nguyễn Trí đã gửi gắm thông điệp
của mình thông qua phát ngôn của chính nhân vật như một sự tự nhận thức về
lẽ công bằng sinh thái.
62
2.1.5.1. Sự bình đẳng giữa con người và tự nhiên
“Cát bụi sẽ về với cát bụi, quả báo trước con mắt của chúng ta. Ông bà
đã dạy rằng của làm ra là của chúng ta, của ông bà thì để ngoài ngõ, của phù
vân nó có chân nó chạy. Bọn thợ như mình toát mồ hôi còn đau thương, huống
chi ngồi mát ăn bát vàng như lũ cai…” (Nguyễn Trí, 2013). Cuộc sống hiện đại
đã khiến con người đối xử thô bạo với thiên nhiên, làm việc chỉ chăm chăm vào
lợi ích vật chất gây nên những hệ lụy không chỉ cho môi trường mà còn tác
động tiêu cực đến mối quan hệ con người với con người. Thiên nhiên che chở,
hào phóng, nhưng cũng nghiêm khắc, công bằng. Vừa là nguồn sống, nhưng
cũng vừa là nguồn chết. Rừng lặng thầm trang trải, cho đi nhưng rừng cũng
lặng thầm lạnh lùng thực hiên vai trò phán xử cao xanh. Qua quá trình miêu tả
cuộc chiến đấu, sinh tồn của con người trước thiên nhiên. Nguyễn Trí đã để ý
đến mối tương quan trong sự phân cấp giai cấp kẻ làm chủ và người làm công,
kẻ giàu và người nghèo. Qua đó, nhà văn chủ trương bình đẳng môi sinh và giai
cấp, thay đổi cách ứng xử giữa con người và tự nhiên, con người và con người.
2.1.5.2. Thương yêu và ý thức bảo tồn
“Và tham chính là cái cần thiết phải huỷ diệt đầu tiên trong kinh điển
của tất cả tôn giáo trên thế giới này” (Nguyễn Trí, 2013). Môtip quả báo,
nghiệp báo là âm hưởng chủ đạo trong sáng tác của nguyễn Trí. Tác giả kín đáo
gửi đi thông điệp tàn hại môi sinh là tàn hại tương lai. Đề cao sức mạnh huyền
bí của tự nhiên là ẩn dụ về sự giải thiêng tinh thần “nhân loại trung tâm luận”.
Chừng nào con người chưa Giã từ vàng, chưa nhận thức Nhãn tiền, quả báo,
mà Đổi nghề thì tự nhiên vẫn còn bị tàn báo, huỷ diệt và vô hình trung con
người đang tự huỷ diệt chính mình. Quyết tâm chạy chữa vết thương môi trường
bằng “kháng sinh” chữ nghĩa, Nguyễn Trí vừa lên án sự tàn nhẫn, vô trách
nhiệm của con người đối với sinh thái, cảnh báo nguy cơ sinh thái đối với con
người, văn xuôi Nguyễn Trí kêu gọi, cổ vũ sống có trách nhiệm, điều chỉnh
nhận thức, hành xử của bản thân đối với môi trường. Việc gắn nối những vấn
63
đề quan thiết như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường sinh hoạt, văn hoá khiến
mảng sang tác này bộc lộ rõ tính thời sự, dân tộc và nhân loại. Điều đó cho thấy
sự nhạy cảm, bản lĩnh, cái tâm và trách nhiệm công dân của nhà văn đối với
thực trạng xã hội hôm nay trên tinh thần môi trường kêu gọi, văn chương đáp
lời.
2.2. Phương thức biểu hiện sinh thái tự nhiên trong văn xuôi của
Nguyễn Trí
2.2.1. Nghệ thuật xây dựng không gian bối cảnh
2.2.1.1. Bối cảnh tự nhiên
Một trong những thành công của Nguyễn Trí là đã kiến tạo bối cảnh không
gian tự nhiên đặc sắc nơi “ma thiêng nước độc”. Từ bối cảnh đó, người đọc
mới biết rằng ăn của rừng là “rưng rưng nước mắt” thật. Bãi vàng trong văn
xuôi của Nguyễn Trí có tên hoặc không có thể không tên. Bình Võ trong Thiên
đường ảo vọng kể cho anh em của mình nghe về bãi Êzimbar, một bản dân tộc
của huyện Chưprông ở Phú Bổn. Êzimbar không bằng phẳng như rừng ở Đông
Nam Bộ. “Anh phải trèo lên những đỉnh cao vọi, hết dông này đến dông khác.
Dông là gì hả? Là những con dốc dài. Muốn lên một đỉnh cao nào đó trước
tiên phải bò qua dông, lại qua hàng chục con suối lớn nhỏ. Qua một con sông
nước dữ đến độ có biết bơi cũng bó tay chịu trói” (Nguyễn Trí, 2015). Hay để
đến được bãi Long Mỹ, hội của Lâm Lạnh phải trải qua rất nhiều nhiêu khê.
Khoảng đường xa hàng chục cây số, đã vậy phải đi đường vòng nên xa hơn gấp
bội. Để “nghe được tiếng ồn đặc trưng của bãi”, đồng bọn phải đi hết đoạn
phẳng của bờ hồ. Sau đó bò lên đỉnh “cao và nhọn” và đi thêm hang giờ đồng
hồ xuyên rừng sâu mới có mặt tại bãi Long Mỹ. Hoặc cũng có thể không tên,
bãi X. Để đi đến bãi X con người phải đi đến “năm mươi cây đường rừng”, tiền
xe ôm đến X bằng nửa giá tuyến Bắc Nam, đi qua những dốc “khúc khủy, thăm
thẳm”.
64
“Bãi nằm sâu trong rừng nguyên sinh. Ba quân thiên hạ cho tất cả nằm xuống,
cây lớn ra ván cừ hầm, cây nhỏ làm khung, nhỏ nữa làm chòi trú thân, làm
quán, làm động mại dâm. Trên diện tích vài chục hécta chứa vài nghìn nhân
mạng” (Nguyễn Trí, 2015). Tác giả cũng tập trung miêu tả không gian nơi bãi
đá, không đông vui như bãi vàng, ít người bám theo nghiệp nên không có một
hình thức mua bán nào tồn tại, chính vì vậy ở bãi đá trên dưới chục mâm là hết
phép. Tuy nhiên, để lên được bãi đá không phải là điều dễ dàng mà trùng phùng
những khó khăn. “Đường lên nên mệt lắm, xuống cũng phờ râu. Nghiêng
nghiêng dốc, lâu lâu có đoạn bằng, hết dốc này đến dốc khác cứ thế mà miệt
mài. Chỉ dừng chân khi nghe róc rách một dòng suối chảy. Một ngụm nước,
một điếu thuốc lại tếp tục cuộc hành trình” (Nguyễn Trí, 2016). Để tìm được
trầm hương, dân địu phải lên rừng: “Thâm u có nghìn vạn nguy hiểm khôn
lường nổi. Hùm, beo, rắn, rết luôn chực chờ trên các lối đi qua”, “len lỏi cả
ngày trong mịt mùng” (Nguyễn Trí, 2013). Để mang được cây rừng về với đồng
bằng, thợ rừng phải trải qua những con dốc hiểm trở “Dốc nào dốc nấy đứng
sựng, dài thòng”.
Nguyễn Trí miêu tả không gian đặc biệt “bãi nào cũng gian khó đầy
mình” nơi bãi đá quý, bãi vàng, nơi thâm sâu của đại ngàn để tìm trầm hương
Nguyễn Trí đã cho người đọc thấy được nỗi gian truân, may rủi của nghề đãi
vàng, tìm đá quý, tìm trầm hương, không chỉ vất vả, khó khăn, nguy hiểm, “rất
dễ bỏ thây lại cao xanh”, để tìm một chút vàng, vài viên đá, hay một chút trầm
hương, những người phu đào vàng, đá quý, tìm trầm không chỉ có phản xạ
nhanh là một tất yếu mà họ còn phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, máu và
cả tính mạng trong cuộc mưu sinh khốc liệt ấy. Đến với rừng sâu đã khó khăn,
tồn tại được trong “rừng thiêng nước độc” càng khó khăn hơn. Đặc biệt là vào
những ngày mưa. Hình tượng mưa trở đi trở lại trong từng trang văn của
Nguyễn Trí. Mưa đã trở thành hình tượng sinh thái và gây ấn tượng mạnh mẽ
với người đọc. “Mùa mưa ở bãi buồn ơi là buồn. Hoàn toàn khác với ở rẫy
65
nương, hay phố thị. Mưa ở rừng nguyên sinh ầm ầm, rào rào rồi rả rích không
ngừng nghỉ” (Nguyễn Trí, 2013). Vào mùa mưa, sự gian khổ, hiểm nguy của
phu vàng tăng lên gấp bội: “Bổi không là đất bình thường. Vàng sa khoáng
giấu mình trong đá thạch anh. Thạch anh đa chủng loại, có loại dai như đỉa
đánh không vỡ, có loại cứng như đá tảng, loại giòn như bánh tráng... Búa và
chạm gõ cóc cách suốt đêm trường, dưới bàn tọa là nước, trước mặt là ngọn
đèn 100w hừng hực” (Nguyễn Trí, 2015) và “hầm luôn bị sạt lở. Mưa đến, chết
vì sập hầm thường lắm. Buổi sáng còn chung nhau ly rượu, chiều không thấy
mặt là biết đã về đất” (Nguyễn Trí, 2015). Mở đầu truyện Giã từ vàng, Nguyễn
Trí mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên cùng cảnh sinh hoạt vô cùng ấn tượng:
“Nước cuồn cuộn trên cao đổ về và mưa tận lực rơi. Dòng sông ngầu đục, rác
rưởi, cây khô phăng phăng trôi. Hai bên bờ xơ xác buồn thảm” (Nguyễn Trí,
2013). Để sống được với nghiệp làm phu, họ phải là những “anh hùng” đủ tài,
lắm nghề mới có thể tồn tại trong khung cảnh tự nhiên khắc nghiệt của rừng
sâu.
2.2.1.2. Bối cảnh con người
Bên cạnh kiến tạo không gian bối cảnh tự nhiên, Nguyễn Trí cũng xây
dựng không gian bối cảnh con người trong tự nhiên ấy rất giàu hình tượng.
Những cụm từ “người lên kẻ về nườm nượp”, “trên diện tích chục hecta cả
nghìn người”, những hình ảnh so sánh “bầy người như một lũ điên”, “đông như
kiến cỏ”, những hình ảnh hoán dụ “mũ phớt, nón cối, nón lá, đầu trần, đầu
trọc” …. diễn tả không khí nơi rừng sâu không buồn bã như con người ta vẫn
hay tưởng. Đó là không gian náo nhiệt hơn cả phố thị hoa lệ: “Đủ thứ, khui
hầm, đánh ca, tiệm vàng dã chiến...Người ơi là người, vui ơi là vui. Không khí
bãi rất khác đời thường, nó luôn luôn quá cái mức cần thiết” (Nguyễn Trí,
2015). Rất nhanh chóng, mảnh đất trở nên hoang tàn như vừa đi qua một trận
cày xéo của bom đạn rải thảm trong chiến tranh. Thiên hạ đổ xô vào những khu
đất lân cận, vào trong những cánh rừng. Chủ đất đành bó tay trước “lượng
66
người đông như kiến cỏ”. Không chỉ cần mẫn khai thác, mà con người trong
bối cảnh ấy như một thế giới riêng. Đó là “cả trăm sòng bạc dọc con con theo
đường. Đủ. Bầu cua, tài xỉu, số lớn số nhỏ vân vân. Thiên hạ bu tầng tầng lớp
lớp. Kẻ trúng mánh đi kiếm thêm cho vui. Kẻ thất trận ra canh mánh…vui lắm.
Xưa nay chỗ nào đông mà chả vui” (Nguyễn Trí, 2015). Một thế giới đủ hạng
người khốn cùng, quần ngư tranh thực, ở đó, nhân vật sống và hành xử theo
quy luật cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh thắng kẻ yếu một cách nghiệt ngã. Vừa
sống sượng và sống thật. Và không phải lúc nào bãi vàng cũng vui như thế. Khi
con người ta bị quật ngã bởi “cao xanh” thì cũng chán nản vô cùng. Chòi trại
đúng nghĩa rách, chỉ còn trơ lại khung, du cư đã tháo bạt hồi cố hương, hoặc
xuống khu vực thấp hơn, tiếp tục hành trình đào xới kiếm tương lai. Bãi vàng
còn lại những gương mặt đầy sầu hận của thất bại. Buồn thảm phát ra từ tiếng
ngâm thơ bằng giọng Huế...” (Nguyễn Trí, 2013).
Thông qua việc xây dựng hình ảnh tự nhiên và con người trong tự nhiên,
Nguyễn Trí đã phê phán lối cư xử không đẹp của con người đối với tự nhiên.
Vì mưu sinh, lòng tham, con người bằng mọi hình thức đào xới từ đất Mẹ những
gì quý giá nhất để đổi đời mau chóng. Chính hành động đó đã làm thiên nhiên
bị tàn phá nghiêm trọng. Chân lí của Nguyễn Trí muốn nói đến dù con người
có lặn lội, háo hức đi tìm của quý từ tự nhiên nhưng rồi nhận ra sự thất bại.
Ngày mai luôn đi kèm với mưa gió bệnh tật. Chả một yên hùng nào lại không
bị rừng xanh quật đến ngã quỵ cả hồn lẫn xác.
2.2.2. Ngôn ngữ mang tính cá thể hóa cao
2.2.2.1. Ngôn ngữ ngắn cực hạn
Nhà văn là nghệ sĩ dùng lời nói để biểu đạt tư tưởng tình cảm, tạo nên
những bức tranh về cuộc sống. Dấu hiệu của một tài năng văn học thể hiện rõ
ở cách viết, khai thác những khía cạnh tiềm ẩn, tinh tế của ngôn ngữ, ở khả
năng làm mới, “lạ hóa” ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một trong những phương diện
bộc lộ đặc điểm văn hóa. Sẽ là thiếu sót rất lớn khi tìm hiểu văn xuôi của
67
Nguyễn Trí mà bỏ qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của ông. Ngôn ngữ mang
tính cá thể cao thông qua việc tác giả sử dụng những ngôn ngữ ngắn cực hạn,
vận dụng phương ngữ Nam Bộ và tiếng lóng. Chính ngôn ngữ mang tính cá thể
này đã miêu tả một thế giới hấp dẫn, mới lạ người đọc về một lớp người vốn ít
được nhắc đến trong văn học - những “ma nữ đa tình” và “giang hồ” chốn rừng
thiêng.
Kiểu nhân vật loại hình là một trong những kiểu nhân vật khá phổ biến
trong tác phẩm của tác giả Nguyễn Trí. Nói về con người trong việc trú ẩn cũng
như khai thác tận diệt tự nhiên có hai loại nhân vật chính. Đó là nhân vật giang
hồ ở đẳng cấp anh chị thâu tóm quyền lực trên các vùng “đất dữ”. Với những
nhân vật giang hồ anh chị này, là xuất thân không may mắn, liều mạng và có
chút võ nghệ và ở vài nhân vật còn có lòng nghĩa hiệp. Chọn những vùng đất
mà những người hiền lành, lương thiện không dám đến để vươn lên làm ông
chủ trong “nghề nghiệp” đào đãi vàng, đào đá quý, tìm trầm hương. Nhân vật
Thành Bụi có những trận đánh dữ dội đối với đối thủ trên bãi vàng cộng vẻ đẹp
phong trần, lãng tử biết đàn hát, Thành Bụi xuất hiện với vẻ đẹp vừa anh hùng,
vừa nghệ sỹ trong mắt của gái điếm dải khắp bãi vàng. Kiểu nhân vật loại hình
thứ hai là những cô gái điếm đã và đang qua thời xuân sắc phiêu bạt tới vùng
đất dữ để vừa bán quán, vừa bán thân nhằm mưu sinh. Vì đặc trưng loại hình
nhân vật như vậy nên ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyên Trí cũng phù hợp
với đặc trưng của nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ ngắn cực hạn và phương ngữ
Nam bộ, tiếng lóng có khả năng thể hiện sinh động và khêu gợi cho người đọc
hình dung về bản chất, tính cách của nhân vật. Tập truyện ngắn Bãi vàng, đá
quý, trầm hương của Nguyễn Trí, hấp dẫn người đọc bởi ngôn ngữ cực hạn,
cách viết câu đặc biệt. Qua khảo sát một số tác phẩm viết về mối quan hệ con
người với tự nhiên, chúng tôi nhận thấy nhà văn sử dụng rất nhiều câu văn ngắn
(sáu đến mười từ) và những câu văn cực ngắn (năm từ trở xuống). Khảo sát số
câu từ mười từ trở xuống chiếm tỉ lệ cao trong tác phẩm. Trong Bãi vàng, có
68
500/776 câu chiếm 64,4%. Tác phẩm Giã từ vàng có 790/1059 câu chiếm
74,6%. Tác phẩm Đá quý có 607/994 câu chiếm 61,1%. Trong Cầm giùm đi có
234/398 chiếm 58,8%. Tác phẩm Trầm Hương có 347/604 câu chiếm 57,5%.
Trong Tiền rừng có 303/739 câu chiếm 41%. Tác phẩm Chuyện cũ từ rừng có
140/293 câu chiếm 47,8%.
Những câu ngắn cực hạn được thể hiện ở phát ngôn của người kể chuyện
và đối thoại của nhân vật. Nguyễn Trí không sa những câu văn mượt mà, bay
bổng. Văn phong của Nguyễn Trí trúc trắc, khó đọc. Trong Giã từ vàng, nhân
vật tôi kể việc đi xem người chết bằng cách nói ngắn gọn: “Cả hai mươi mạng
rồng rắn kéo đi. Cuối mưa, suối đã cạn. Bãi đậu đã có trên dưới chục chiếc
mikho đang chở khách. My chung một xe với tôi. Lâm và Bằng Chột. Hai mẹ
con người chết. Còn lại kệ đi. Ai muốn coi cứ đi. Lâu lâu phục kích cảnh người
chết vì đất đè cũng thú” (Nguyễn Trí, 2013). Cách kể bằng những câu ngắn
nhấn mạnh sự khách quan, lạnh lùng, vô cảm của nhân vật trước cái chết của
con người. Cái chết như là một sự việc hiển nhiên, thường nhật nơi “ma thiêng
nước độc”. Hay lúc nhân vật chia chát cũng ngắn gọn, mau lẹ. “Tôi tính nhẩm.
Năm mươi nhân ba. Mười lăm cây vàng. Phần ca là bảy rưỡi. Cầm chắc đứa
cây bảy tuổi. Quy ra chín rưỡi chắc còn năm chỉ. Vầy cũng là hưởng ân huệ từ
đấng tối cao rồi. Nhất là mưa gió bão bùng. Chỉ có Minh Tàn mới làm được.
Giang hồ bãi nói vậy và thêm làm chầu tới bến Minh Tàn ơi. OK. Thích thì
chiều” (Nguyễn Trí, 2013). Để diễn tả những trận tỉ thí tranh giành địa bàn hoặc
danh xưng “vua bãi”, tác giả sử dụng một loạt những câu ngắn. Tác dụng của
việc vận dụng câu ngắn nhằm diễn tả hành động dứt khoác, mau lẹ của dân
giang hồ. Trong Bãi vàng, Minh Tàn đã có “màn ra mắt ấn tượng” với đàn em
Long Hắc, Hổ Hành. “Đối phương, chân trước chân sau kiểu trảo mã tấu, hai
tay be mặt, rõ cái cũng võ nghệ chứ không vừa. Tôi vừa nhảy môdi vừa nhấp
chân đòn. Nó cũng nhanh tiến thoái nhịp nhàng. Tôi công phá, nó thủ. Như
bóng đá vậy, thủ không khéo rất dễ bị thủng lưới. Tôi xông lên ồ ạt… Hở đâu
69
ra đòn chỗ đó, quy luật mà…tôi ra hiệu chon nó đứng lên. Du côn phắt
dậy…Thêm một gót nữa cho rồi cuộc chiến. Du côn suông đòn đánh ngã huỵch”
(Nguyễn Trí, 2013). Ngôn ngữ cực hạn, đặc biệt, độc đáo đã góp phần thể hiện
tính cách nam nhi, dữ dội của nhân vật giang hồ trong bãi. Nghề nghiệp khó
khăn giữa bầy người gian manh, những thân phận “bụi” đòi hỏi sự quyết liệt,
phản ứng chớp nhoáng giữa sống và chết, hành động nhanh nhẹn cần nhiều hơn
lời nói. Những câu chuyện thô phác làm dậy gắt lên xung đột mạnh mẽ. Trong
Bỏ ba lô xuống đi Thuỳ. Mấy anh kiểm tra đi. Nhưng... phải có cái chữ
nhưng mới ra chuyện. Ba Thuỳ vừa trải qua khủng hoảng. Một thằng bạn
thân vừa qua đời, một câu hỏi phải trả lời với vợ bạn... Ba Thuỳ điên lên:
Đù má... Bỏ cái con... Đoàng - Phát đạn vang lên - kèm tiếng thét của Ba
Thuỳ. Nhanh như một tia chớp - Võ sĩ mà - Ngọc lướt thật nhanh đến thằng
M16, lưỡi rìu vung lên chém một nhát ngọt như mía vào cái bụng. Ngọt
quá, nhanh quá và mạnh quá lưỡi rìu bổ qua sau lưng. Dũng đen cũng
nhanh không kém. Mũi rìu cắm thẳng vào mặt một thằng mã tấu. Máu,
máu và máu. Dũng Đen chạy đến bên Thuỳ. Viên đạn trúng vào tay. Dân
địu là vua sơ cứu vết thương và trầm hương là chúa cầm máu. Quỳ xuống
- Ngọc ra lệnh cho hai thằng còn lại. Trước mũi súng, tất nhiên quỳ. Muốn
sống không? Bà mẹ tụi mày, bỏ nghề ăn cướp đi, có biết tụi tao khổ lắm
không? Tay vung lên, karate chặt vào gáy. Người bất tỉnh, kẻ vong mạng.
(Nguyễn Trí, 2013).
Trầm Hương, tác giả có chạm trán giữa dân rừng với sơn tặc:
Dù biết trước rằng bối cảnh của tác phẩm là những nơi “rừng thiêng,
nước độc”, nhân vật giang hồ tứ chiếng, nhưng những trang viết của Nguyễn
70
Trí vẫn làm người đọc rùng mình vì sự trần trụi, khốc liệt.
Ngoài ra, Nguyễn Trí còn sử dụng những câu đặc biệt, câu rút gọn mang
tính ám gợi cao, đánh giá bằng sự chiêm nghiệm đầy triết lí về cuộc đời: “Ở
bãi là gian manh, giảo quyệt và tham lam”, “Xạo đi” (Nguyễn Trí, 2013), “Cô
đơn và trống vắng, Tiếng yêu đương ai nỡ chối từ”, “Cô đơn lắm loài đom đóm
đêm” (Nguyễn Trí, 2013), “Sốt rét hả? Khủng khiếp lắm. Nó lấy mạng người
gấp chục lần hát i vê ngày nay” (Nguyễn Trí, 2013), “Sống hoặc chết đều vô
nghĩa như nhau” (Nguyễn Trí, 2013), “Bệnh tật là chúa của sự mất ý chí”
(Nguyễn Trí, 2013), “Ừ, có quê thì cũng nên về” (Nguyễn Trí, 2013), “Đời mà.
Không gian manh, không giảo quyệt đâu phải cuộc đời” (Nguyễn Trí, 2013),
“Buồn lắm kẻ ở rừng”, “Thê lương lắm hỡi cao xanh” (Nguyễn Trí, 2013),
“Sống là một nghệ thuật thượng đẳng” (Nguyễn Trí, 2013), “Của trời của đất
kho vô tận” (Nguyễn Trí, 2013), “Đất bớt lành chim lũ lượt bay đi” (Nguyễn
Trí, 2013), “Hết. Thực sự hết” (Nguyễn Trí, 2013), “Đàn bà là mặt trời mà”
(Nguyễn Trí, 2013), “Sòng phẳng luôn lạnh lẽo”, “Có hay không số phận xin
miễn bàn. Kẻ nào lười biếng, kém thông minh ắt cu li xe kéo suốt đời, khôn
lanh, siêng săn ắt có cục đường phèn. Tính cách tạo nên số phận” (Nguyễn
Trí, 2016), … Việc sử dụng câu đặc biệt mang đến hiệu quả nghệ thuật là trong
một thông báo nhưng tạo ra được nhiều điểm nhìn. Người đọc không biết chủ
thể của lời là ai, là tác giả, hay là nhân vật. Tuy ngắn nhưng ý nghĩa hàm ẩn về
triết lí cuộc đời của những câu cực hạn này rất thâm thuý. Hơn nữa lại có sức
khái quát cao, vượt ra khỏi phạm vi tác phẩm. Những câu cực hạn đó không chỉ
nói về con người trong tác phẩm, con người trong việc tận diệt thiên nhiên mà
như nói về con người ở nhiều vấn đề khác, lĩnh vực khác của cuộc sống. Đó
như một thông điệp về ý nghĩa cuộc đời mà tác giả muốn gửi gắm.
Bên cạnh ngôn ngữ kể chuyện, đối thoại của nhân vật truyện ngắn bãi
vàng mang tính cực hạn. Đa số các đoạn hội thoại được tạo lập lời thoại nhanh
chóng, ngắn gọn, không có đầy đủ thành phần câu
71
- “Anh ở bãi nào về đây vậy?
- Eezimbar.
- Nó ở đâu?
-
Ở Phú Bổn, Tây Nguyên.
- Khó đánh không?
-
Khó hơn đây nhiều
- Kể nghe chơi.
-
Sập hoài.
- Sao liều vậy?
- Làm vàng ai không liều” (Nguyễn Trí, 2013).
Hay đoạn đối đáp giữa My và Minh Tàn trong Giã từ vàng:
- Minh Tàn nè, anh đi mấy bãi rồi?
- Nhiều nhiều à. Êzimbar Chưprô ở Phú Bổn. Khám Đức ở Quảng Nam. Tà
In ở Lâm Đồng. Suối Nho ở Đồng Nai. Sông Hinh ở Tuy Hoà. Nói chung
bãi nào anh cũng tới.
- Anh theo nghiệp này được mấy năm rồi?
- Không biết được đâu em ơi, anh đủ thứ. Vàng, trầm hương, đá quý, ung
cái gì anh làm cái đó.
- Được không anh?
- Được cái tàn tạ.
(Nguyễn Trí, 2013)
Xuất hiện dày đặc những đoạn hội thoại với câu đối đáp ngắn gọn giữa
các nhân vật cũng là điều dễ hiểu. Nguyễn Trí đang viết về những “con người
72
ở một thế giới khác thường” là trong rừng sâu. Cuộc sống nơi rừng xanh quy
định cho họ những tính cách nhanh nhẹn, dứt khoác “Đã lên rừng - rừng cao
phản xạ không nhanh, tai mắt không tinh tường, rất dễ bỏ thây lại cao xanh.
Thâm u có nghìn vạn hiểm nguy không lường nổi. Hùm, beo, rắn, rết, luôn chực
chờ trên lối đi qua. Sự nhanh nhẹn là một tất yếu không thể thiếu, nó giúp ta
lên đỉnh cao nhanh hơn. Len lỏi cả ngày trong mịt mùng không chấp nhận sự
chậm chạp” (Nguyễn Trí, 2013). Một phần, họ là những giang hồ đã đi qua
nhiều sương gió cuộc đời. Đó là cách nói chuyện của người nam nhi “đầu đội
trời chân đạp đất”. Ngắn gọn, xúc tích nhưng vẫn thể hiện được sự giàu trải
nghiệm của người anh hùng. Những câu trả lời tưởng chừng bất cần, vô cảm
nhưng lại thể hiện nỗi niềm ẩn khuất của con người. Không chỉ tạo lập đối thoại
ngắn gọn giữa các nhân vật, trong các tác phẩm có rất nhiều đoạn văn không
phân biệt được đó là lời của nhân vật cụ thể nào. Câu chuyện được dẫn dắt bằng
giọng của người kể chuyện ở ngôi thứ ba số ít, nhưng nhiều khi người kể chuyện
lại phân thân thành một vai khác, tạo nên sự đối đáp bên trong, “tạo cớ” cho
chuyện kể: “Sao mà bẩn thế? Đàn anh ai lại dấn thân vào lãnh vực này? Sao
lại sợ bị xù? Cứ làm như phố thị đưa tiền cho má mì, má mì sẽ điều gái cho
anh, quỵt làm sao được? Phố khác, rừng khác. Bộ tưởng rẻ lắm sao? Xuống
hầm một ca khổ như trong Papillon người tù khổ sai, được chỉ vàng, chung hai
phân cho nửa tiếng ôm ma nữ. Đưa tiền trước, chưa kịp làm ăn gì thằng chồng
nó xuất hiện, đã mất hết còn bị bạt tai. Ngu à? Chưa kể ba cái bệnh xã hội...”
(Nguyễn Trí, 2013). Cứ thế, câu chuyện trôi đi, sinh động, cuốn người đọc về
phía những cuộc đời giang hồ bị khuất lấp nơi góc rừng. Trong Thiên đường
ảo vọng có đoạn viết: “Ủa? sao kì vậy? sao lại mo? Sao lại phải đi xin lương
ăn? Chớ ai trúng? thì con người chớ ai. Kẻ trúng đó, người mo cũng đó luôn.
Không thấy bên bộ lục đó sao? Một trăm mâm mới có một mâm đó sao”
(Nguyễn Trí, 2015). Những câu ngắn được tạo lập liên tục làm người nghe
hoang mang trong việc phân định chủ thể của lượt lời. Điều này đã giúp tác giả
73
thể hiện thành công ý nghĩ bãi vàng là tạp âm. Tất cả những gì chúng ta nghe
được là sự hỗn độn của bãi vàng. Điều này phản ánh nghệ thuật xây dựng nhân vật
độc đáo của Nguyễn Trí.
2.2.2.2. Ngôn ngữ của giới giang hồ
Không chỉ dùng từ địa phương, ngôn ngữ phố phường tục tĩu được sử
dụng nhiều trong tác phẩm. Trong Bãi vàng, đá quý, trầm hương, không có để
tìm ra những đoạn hội thoại giữa các nhân vật thô tục đến trần trụi. “Đĩ mẹ, đàn
bà mà cũng bày đặt rượu với chè” (Nguyễn Trí, 2013); “Dzô khỉ mẹ gì. Thằng
Hùng sốt tao nghỉ một bữa” (Nguyễn Trí, 2013); “Đù má cái con nầy, tao bạt
tai mày bây giờ” (Nguyễn Trí, 2013); “Đù má, mày không tường vụ này
đâu…Đù má, ra một trận tanh bành cái quán con dzợ mày” (Nguyễn Trí, 2013)
, “Đù má…mày đánh tao…anh Dũng ơi…nó đánh em” (Nguyễn Trí, 2013).
Thông qua ngôn ngữ có thể thấy được xuất thân của nhân vật. Cũng như hiện
thực cuộc sống hiện lên trong truyện Nguyễn Trí thật khốc liệt, khắc nghiệt.
Nơi rừng núi pháp luật chỉ đứng thứ hai sau luật rừng, kẻ mạnh thắng, yếu sẽ
thua con người cần thể hiện vị thế của mình. Bên cạnh hành động, lời nói cũng
là trợ thủ đắc lực để con người thể hiện mình hoặc tự vệ trước kẻ mạnh hoặc
bảo vệ đồng đội trước những bất công. Lâm Lạnh đã phản kháng lại bọn cướp
để giúp những người trên cùng chuyến xe khỏi bị mất tiền oan: “Đù mà… đã
thêm là thêm, thằng nào phát biểu tao đạp chết mẹ bây giờ. Mày… về đâu…”,
“Đời chó má thật… Đập chết mẹ nó cho tao…”, “quăng điếu thuốc đi, đù má
đã chật như nêm lại còn hút thuốc, anh là cái giống gì vậy” (Nguyễn Trí, 2015). Ngôn ngữ phố phường được Nguyễn Trí sử dụng tạo sự thống nhất trong việc xây dựng những nhân vật thuộc kiểu “anh hùng” phu bãi. Ngôn ngữ của nhân
vật phù hợp với vẻ bụi bặm của hình dáng, vẻ cường tráng lực lưỡng của thân
thể nhân vật. Nguyễn Trí đã hướng ngòi bút của mình vào mảng hiện thực đặc
biệt, dữ dội, đầy ắp các xung đột giàu kịch tính. Tác giả đã phơi bày tận cùng
hiện thực với những “mảng tối” ít được văn học đương đại Việt Nam phản ánh.
74
Đó là mảng hiện thực đào đãi vàng ở các bãi vàng với tất cả sự ô hợp nhốn
nháo, bao thảm cảnh và bi kịch, Từ cách đào vàng, cách nhận mặt đá quý, cách
phân biệt trầm hương cho đến cách ăn chia, cách gian lận, hay những vụ tai
nạn, tranh giành, thanh trừng đẫm máu... đều được miêu tả chi tiết.
Trong quá trình khai thác tận diệt thiên nhiên, tác giả sử dụng một lớp từ
mới nhằm gọi tên chính xác các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống của “kẻ ăn
rừng” mà “không phải người trong nghề không hiểu được”. Muốn đi vào rừng
sâu, người thợ rừng hay sử dụng khái niệm “cắt”. Thuật ngữ này chỉ việc tạo
ra một con đường mới đi khi đi trong rừng. Phải “vượt đèo cao, suối sâu, phải
xuyên qua những nơi mà heo rừng làm ổ, ở đó toàn ve…” (Nguyễn Trí, 2013).
“Cắt” rừng chỉ xảy ra khi thợ rừng cần tìm một địa bàn mới, hoặc khi đã thu
thập được “hàng” cần tránh kiểm lâm. Đối với phu vàng, khi đã “vô mánh” thì
sẽ tìm lối đi mới từ rừng về đồng bằng để tránh cướp dọc đường. Trong ngành
khai thác lồ ô có khái niệm bó niền và tuyển. Sản phẩm của lồ ô mà con người
khai thác được gọi là niền và tuyển. Niền là khi con người chặt được lồ ô cây,
đem cắt bỏ mắt, chỉ lấy thân, mỗi đoạn dài bốn mươi phân, mỗi ống chẻ ra làm
bốn, xếp đều vô một vòng tròn được thắt bằng vỏ lồ ô non có đường kính cũng
bốn mươi phân, nêm thật chặt thành một bó. Tuyển thì dân rừng tuyển lồ ô từ
ba năm tuổi trở lên, tầm cổ chân, dài sáu mét. Tuyển chỉ cần ra cây, xếp đống
là xong nhưng giá trị cao gấp hai lần niền. Khi cưa lồ ô, bỏ mắt, chỉ lấy ống để
chẻ tăm nhang xuất khẩu, cái mắt được gọi là đầu mà, miền trung gọi là đầy
đày hoặc đầu năm. Đầu mà khô làm chất đốt, đượm lửa, than nhiều. Trong
ngành khai thác gỗ quý, nu là loại gỗ quý lâu năm, có giá trị kinh tế cao. Nu
Nu là “cái bướu trên cây. Nói chung rất nhiều cây có bướu, nhưng quý
nhất là cẩm lai, gõ đỏ. cục nu cây gõ đó ở tầm cao mười mét. Nếu hạ nó
kiểm lâm phát hiện được là tù mọt gông. Gỗ nhóm Một là tài sản quốc gia.
được tác giả giải nghĩa cặn kẽ.
75
Cây có nu trị giá gấp một chục lần gỗ thường. Phải bắt giàn giáo thật kiên
cố để xẻo cục nu… Cục nu khi lìa thân rơi xuống đất, chỗ rộng nhất tao
đo được mét hai, chỗ hẹp là chín tất. Bề dày của nó khi ra ván được tám
mươi tấm dày tám li. Mày có biết mỗi tấm trị giá bao nhiêu không? Trung
bình năm chỉ vàng một tấm”. “Nó đẹp mê hồn. Tao tin chả một hoạ sĩ nào,
tầm tưởng tượng cao thấu trời cũng không vẽ nỗi một bức tranh toàn hảo
như mẹ thiên nhiên sau vài năm tồn tại.
(Nguyễn Trí, 2013)
Trong khai thác vàng và đá quý, có rất nhiều thuật ngữ chỉ phu vàng mới
hiểu. Bổi không là đất đá bình thường mà là “vàng sa khoáng giấu mình trong
đá thạch anh” nằm sâu dưới chân núi. Thạch anh có rất nhiều chủng loại, có
loại dai đánh không vỡ, có loại cứng như đá, số khác lại giòn. Muốn lấy được
bổi phu phải ngồi trong hầm cao tám mét, rộng bảy tấc, trên dưới hai bên hông
đều được khoá bằng ván cừ. Lòng bàn là khối lượng bổi ở diện tích đáy, đâu
chừng một khối. Tủ lạnh chỉ sốt rét. Địu là tiếng lóng của nghiệp đi tìm trầm
hương. Lưỡng chỉ cướp cạn. Trầm gọi là bầu. Vàng gọi là băng. Đá quý gọi là
mâm. Diêm gọi là muối. Mễ gọi là gạo. Việc sử dụng tiếng lóng như một minh
chứng cho sự từng trải của bản thân tác giả. Không có những trải nghiệm thực
tế làm sao có thể thấu hiểu được những ngôn từ thuộc “bí ẩn của rừng xanh núi
bạc”.
Ngôn ngữ trong các truyện ngắn của Nguyễn Trí là một thứ ngôn ngữ
bụi, được sử dụng một cách tự nhiên, vừa đủ, rất hợp với các nội dung cần
chuyển tải. Chất liệu ngôn ngữ thô nhám, ngắn gọn nhưng lay động người đọc
bởi sự chân thực, gần gũi. Bằng những đặc sắc về ngôn ngữ, Nguyễn Trí đã
biến những thông tin đời thường thành thế giới “tưởng tượng” của riêng mình,
qua đó gửi gắm quan niệm nhân văn về con người và cuộc đời
76
77
Tiểu kết chương 2
Ở chương 2 này, người viết làm sáng tỏ biểu hiện sinh thái tự nhiên trong
văn xuôi Nguyễn Trí. Tự nhiên ban đầu là nơi nương tựa giúp con người xóa
đói giảm nghèo. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp cận với tự nhiên con người đã
quên mất vai trò của mình trong mối quan hệ sinh thái mà ra sức tận diệt tự
nhiên. Và tự nhiên có bản mệnh riêng của nó, luôn có công lí tồn tại trong tự
nhiên. Con người phải trả giá cho những hành động tàn sát tự nhiên của mình.
Thông qua việc miêu tả hoạt động của con người như đào vàng, đá quý, tìm
trầm, khai thác gỗ, … Nguyễn Trí đã lí giải nguy cơ sinh thái đồng thời gửi
gắm thông điệp về một lối hành xử đẹp giữa con người với tự nhiên, con người
với con người. Thông qua nghệ thuật tạo dựng bối cảnh tự nhiên, Nguyễn Trí
đã diễn tả được cảnh thiên nhiên Nam Bộ đầy vẻ hoang sơ, đáng sợ nhưng qua
bàn tay “lao động cần cù của con người” đã cải biến nó sa mạc, hoang tàn và
ảm đạm. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ của giới giang hồ, ngôn ngữ ngắn cực
hạn giúp đạt hiệu quả cao trong việc tái hiện bức tranh trần trụi của con người
trong mối quan hệ với tự nhiên.
78
Chương 3. SINH THÁI NHÂN VĂN TRONG VĂN XUÔI
CỦA NGUYỄN TRÍ
Tìm hiểu sinh thái trong nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Trí chúng ta
sẽ thấy được chuyển biến trong quan hệ giữa người với người, quan hệ ứng xử
của con người với các giá trị văn hoá, với môi trường nhân văn. Dưới góc nhìn
sinh thái, tác giả đã có cái nhìn “phản lãng mạn” về nông thôn. Nông thôn
không còn vẻ đẹp của tình người, tình yêu trong sáng, thuỷ chung. Nông thôn
ở hiện tại môi trường thôn dã bị tàn phá nặng nề dưới sự áp đặt của văn minh.
Trong một đô thị càng lúc càng hiện đại hoá, trong một không gian càng lúc
càng dung chứa lòng tham vô độ của con người, ngột ngạt bởi những toan tính,
lọc lừa, xảo trá của đời sống cuống quýt, vội vã. Qua tác phẩm của mình,
Nguyễn Trí muốn “quá khứ hoá hiện tại”, khát khao một sự đổi thay, ở đó con
người sống hòa ái, có trách nhiệm với tự nhiên, với chính môi trường sống của
mình.
3.1. Hiện trạng đô thị hoá trong văn xuôi của Nguyễn Trí
3.1.1. Cái nhìn phản lãng mạn về nông thôn
Văn học lãng mạn đã có rất nhiều trang viết hay về nông thôn. Văn học
phương Tây đã hình thành một thể loại có tên là văn học điền viên (hay văn học
điền dã- Pastoral Literature). Trên góc nhìn sinh thái, nông thôn, với không
gian tự nhiên thuần phác, bao giờ cũng là nơi gợi những cảm xúc về cái đẹp và
mang lại những tương thông lành mạnh cũng như sự bình an nội tâm cho con
người. Chủ đề cơ bản của văn học lãng mạn là hòa nhập vào thiên nhiên, “ngược
về ngoại ô” để rời xa cái ồn ào đô thị để sống thanh thản và yên bình. Tuy
nhiên, công cuộc hiện đại hóa xã hội đã làm nông thôn biến đổi nhanh chóng
từng ngày một. Hiện trạng bức tử tự nhiên bằng các yếu tố cơ giới nhân tạo,
nhân danh sự phát triển, đã được văn học ghi lại, và cái nhìn này được gọi là
cái nhìn phản lãng mạn (anti-romantic view) về nông thôn. “Phản lãng mạn”
79
về nông thôn là hướng tới cung cấp cho người đọc những bức tranh về cuộc
sống và môi trường xung quanh một cách chân thực, sống động, quen thuộc.
Như vậy, có thể xem “phản lãng mạn” là hình thức phản ánh một cách trần trụi
nhất nhằm phơi bày những mảng tối của cuộc sống. Tuy nhiên, các nhà nghiên
cứu không dùng khái niệm “Cái nhìn hiện thực” mà dùng “Phản lãng mạn” vì
giữa hai khái niệm có một ranh giới rõ ràng”. “Cái nhìn hiện thực” (realist
view) chú tâm vào mối quan hệ của con người với xã hội trong khi “phản lãng
mạn” lại chú tâm vào mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên.
Trong văn xuôi của Nguyễn Trí, cái nhìn “phản lãng mạn” về nông thôn
được thể hiện qua ba phương diện: Quang cảnh đô thị hoá, những xáo trộn nhân
sinh, và những tệ nạn xã hội khi nông thôn bị đô thị xâm thực.
3.1.1.1. Quang cảnh đô thị hoá
Khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Trí, chúng ta thấy tác giả có nói
về sự biến đổi không gian nông thôn sang không gian phố thị. Trong Bay cao
thì mặc bay cao, rừng núi bị đẩy xa, thay vào đó là những nhà cao tầng được
xây lên nhanh chóng. Những con chim se sẻ “bay đi đâu khi rừng đã quá xa
xôi rồi”. Chúng chỉ biết núp dưới mái ngôi hiên trường, mái nhà thờ, mái nhà
lợp rạ. Khung cảnh hoang dã, muốn có nhà chỉ cần mép rừng “xin cái nền nhà”
là chuyện nhỏ không còn nữa. Thay vào đó là “đường xá phẳng lì nhựa bê tông
nóng, vỉa hè lát gạch và cây xanh trồng rất chi khoa học” (Nguyễn Trí, 2016).
Sự thay đổi nào cũng có nguyên nhân của nó. Thời thiên hạ xin lộc rừng làm
mạch sống đã qua, ngày nay đã khác “từ khi khu công nghiệp đi vào hoạt động,
cái vùng ven khỉ ho cò gáy bỗng nhộn nhịp thị tứ. Đất đai bán xong, cái gia
đình bán mặt cho đất bán lưng cho trời phủi một cái hoá danh gia ngay tứ
khắc” (Nguyễn Trí, 2016). Nông thôn vốn dĩ luôn được nhìn nhận là nơi yên
bình với những con người hiền hậu, chất phác. Nhưng trong các truyện ngắn
của Nguyễn Trí nông thôn trong quá trình thay đổi được nhìn nhận trần trụi
hơn. Đất nước phát triển, các khu đất bắt đầu được giải toả, quy hoạch, ngày
80
càng nhiều khu công nghiệp mọc lên, nhiều gia đình nằm trong vùng giải tỏa
nên được đền bù, phất lên, bỏ ruộng xây nhà trọ, hiện thực nông thôn trần trụi
với những hiểm hoạ đến từ sự phát triển của xã hội. Qua các truyện ngắn của
mình, Nguyễn Trí bộc lộ sự lo âu trước tình trạng người nông dân rời bỏ mối
gắn kết vốn dĩ thuộc về nông thôn để chạy theo đô thị phù phiếm. Trong Hảo
hớn, mọi việc bắt nguồn từ sự việc “đùng một cái” cái thung lũng của vùng quê
khỉ ho cò gáy, “nếu để quay phim chụp ảnh thì tuyệt, nhưng trồng trọt thì chỉ
để cắm được mọc sắt với kẽm gai” (Nguyễn Trí, 2014), vùng đất vốn khô cằn
được sát nhập vào thành phố. “Rồi thiên hạ Tây Tàu đổ xô đến đầu tư làm khu
công nghiệp” (Nguyễn Trí, 2014), Mảnh đất từ đường mà em út Năm Tính
đang ở vô cùng đắc địa, “dân xe hơi đời mới lũ lượt ghé qua, và cái giá cuối
cùng được phán là hai tỉ bạc” (Nguyễn Trí, 2014). Hưng trong “Trại viên cũ
quay lại đông lắm” xuất phát từ “xóm nhà lá”, cha mẹ “chân lấm tay bùn” bỗng
hoá “dân chơi” khi đất nằm trong khu công nghiệp, sau đền bù giải toả “phất
lên. Bỏ ruộng vườn, xây phòng trọ. Đua đòi ăn chơi, xe tay ga, tình tự theo kiểu
tiền trao cháo múc” (Nguyễn Trí, 2013). Từ những thay đổi đó kéo theo không
gian nông thôn cũng vì thế mà thay đổi “May thay thời công nghiệp hoá quán
cà phê đèn mờ đầy rẫy khắp chợ” (Nguyễn Trí, 2016). Đô thị hoá đã làm không
gian nông thôn thay đổi. Nhộn nhịp, xô bồ, nhưng luôn rình rập những hiểm
nguy. Tuy nhiên, không gian đô thị hoá được Nguyễn Trí nhắc đến khá hời hợt
trong các sáng tác của mình, thay vào đó tác giả đi sâu vào đời sống và nhân
cách của con người trong bối cảnh cuộc sống kinh tế thị trường. Nông thôn
đang dần bị đô thị xâm thực đã làm nảy sinh những chấn thương mới, những
nỗi âu lo và sự khủng hoảng mới về nhân tính. Tác giả đã bóc trần cái yên bình,
giả tạo của làng quê. Một nông thôn không còn trong trẻo, thanh bình, nhàn tản
mà là nơi đầy bạo lực, lọc lừa, đầy rẫy những tệ nạn. Với một cảm quan sinh
thái nhất định, viết về đề tài đô thị Nguyễn Trí đã bước đầu nhận ra “bi kịch
trong nhà bê tông có khi nhiều hơn trong nhà tranh vách đất” (Nguyễn Trí,
81
2016). Đằng sau những bất an tâm lí - xã hội này là một sự bất ổn nghiêm trọng
hơn trong quan hệ giữa con người với môi trường sống xung quanh.
3.1.1.2. Những xáo trộn nhân sinh
Sự xuống cấp của đạo đức con người là một trong những vấn đề nghiêm
trọng ở các vùng đô thị hoá. Những xáo trộn nhân sinh không cách gì ngăn chặn
ấy được Nguyễn Trí đã định nghĩa đó là “thời của quỷ” - thời của quỷ sứ làm
loạn thế gian. “Thời của quỷ thời mà con xách dao dí vô cổ cha mẹ đòi tiền đi
hút chích, vợ dung xăng đốt chồng, chồng không được yêu giết con mới đẻ, bác
sĩ làm hết người rồi quăng xuống sông… Ối chao ôi nhiều nhiều lắm, kể đến
ba ngày không hết được người ơi… không thời của quỷ thì thời gì” (Nguyễn
Trí, 2016). Các giá trị luân thường đạo lí bị đảo lộn. Mối quan hệ thân tình giữa
hàng xóm, hay ruột thịt lần lượt đổ vỡ. Ngay tên nhan đề Vô Luân cũng đã thể
hiện điều đó. Châu là con nhưng vung cú đấm vô mặt mẹ, chiếc nhẫn có mặt
đá nhọn đầu trên của Châu là nguyên nhân khiến con mắt bà Đường hư hại.
Đức trong Ở đó mà điên suốt ngày ca “bài ca con cá” vì không cho tiền Đức
đánh đề: “tại bà tiếc với tui trăm bạc, bằng không bữa nay tui có bảy triệu rưỡi.
Thiệt là tôi tức bà quá đi”. Biển nói Chín Ẩn về cha mình: “Ông chín nghĩ coi,
ông già tui điên không, khi không bỏ tiền mua đất. Nó chửi thề. Mua để chôn
ổng chắc” (Nguyễn Trí, 2016). Nguyễn Trí lí giải “lớn lên từ bắp với khoai,
đâu có ăn học gì mà biết lòng mẹ bao la như biển Thái Bình và lòng cha ấm áp
như vầng thái dương” (Nguyễn Trí, 2016). Trong Quả báo, con gái Oai phản
kháng lại cha mình bằng cách mua xăng về rồi tự thiêu. Hai con trai Oai nhẫn
tâm dùng cây đánh lại cha mình. Phải chi Oai chết được thì hay quá. Đằng này
cây đập vô đầu chấn thương sọ não. Từ đó chẳng nhận ra ai nữa. Không chỉ
phản ánh mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ, giữa anh em với nhau cũng
“không còn chi một chút tình”. Đoạn hội thoại anh em nhà Chín trong Đời cứ
Chín nói với bà mẹ bằng cái giọng của kẻ nhuốm màu thất bại.
thế trôi mới gay gắt làm sao.
82
- Tui cấm bà bán nữa à. – Rồi chửi thề. – Thằng nào dụ dỗ bà già mua
rẻ đất đai, tao chém hết.
Anh em cự lại:
- Mày đòi chém ai? Bả bán tao mua. Đừng có nói chuyện kiểu cô hồn
nghe mày!
- Mấy ông cứ lợi dụng vợ chồng tôi lơ là. Từ nay đừng hòng qua đây!
- Ai thèm qua lại với vợ chồng mày. Đừng có mơ”
(Nguyễn Trí, 2016)
Trong Ai mà biết, “Dưới mái nhà rách” xung đột giữa các thành viên diễn
ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bằng những đoạn đối thoại chát đắng giữa các
thành viên, có thể thấy là người một nhà nhưng “anh” với “em” sẵn sàng làm
mọi cái để lợi lộc thuộc về mình và cũng “sẵn sàng nhe nanh” khi một cái gì
Thân đứng lên, trong tay có là đoạn tầm vông gài cửa, cô nhào tới và đánh
lại ông anh. Giận chớ, ai mà không giận. Đang không xáng bạt tai vô mặt
người quả là không phải. Cô vụt một cây, thêm một cây nữa và khi giận
lên cũng như ba quân cô đù thôi là đù. Bị ăn liền hai cây vô một chỗ Dần
cũng điên lên chụp lấy đoạn tầm vông và giằng lại. Có rượu, có vũ khí
trong tay Dần thẳng tay vụt xuống cô em. Năm Thân đã yên một bề dưới
đất” (Nguyễn Trí, 2016). Và đau xót thay cho cái kết: “ông anh ôm án
mười lăm năm tù vì tội giết người. Bà má yên lặng nhìn hai đứa cháu ngoại
cha tù tội mẹ chết với đôi mắt vô hồn”
(Nguyễn Trí, 2016).
đó của mình bị xâm hại.
83
Tương tự như thế, trong truyện Hảo hớn, khung cảnh chia chác giữa những
người con trong một nhà diễn ra không thể cạn tình hơn được nữa. Vì đồng
tiền, nghĩa tình ruột thịt với họ đúng là “tiền chưa có trong tay mà tất cả đã
biến dạng”. Trong truyện Sáu Lém, “thiên hạ vỗ bụng thiếu điều chết vì cười”
vì câu chuyện “quá xá là luân loạn loạn luân”. Mẹ cướp chồng của con gái
(Loan). Mẹ vợ dẫn con rể đi xây tổ ấm xứ cao su. Rồi Sáu gặp lại Loan, Sáu bỏ
lại Loan với cái bầu. Sáu Lém vừa là cha, vừa là ông ngoại, vừa là chồng vừa
là con rễ. “Đúng là hỗn loạn như ống phun trấu trong nhà máy chà” (Nguyễn
Trí, 2016).
Nguyễn Trí lại lý giải nguyên nhân cho sự xuống cấp đạo đức, những
xáo trộn nhân sinh là sự thất học. “Chữ nghĩa từ già đến trẻ con cả thanh nam
thanh nữ không gói đầy cái lá mít”. Và thất học lại có nhiều nguyên nhân.
Nghèo không là bằng hữu của chữ nghĩa. Trong Ai mà biết, Bằng chồng của
Lựu, ra đi để lại cho vợ cái nghèo “to sụ” và bầy con sáu đứa. Hai đứa con đầu
phải tạm “chia tay bút mực”. Mười hai tuổi Dần phải xếp bút nghiên, lo việc áo
cơm cùng mẹ. Thìn mười tuổi cũng ở nhà lo cơm nước. Trong hoàn cảnh đó,
“sự học nghe rất chi là xa xỉ phẩm” (Nguyễn Trí, 2016). Từ sự thất học đó đã
kéo theo những hệ luỵ. Ra đời sớm nên Dần phong trần từ thuở thiếu niên.
Mười ba tuổi Dần bắt đầu biết hút thuốc. Mười bốn tuổi Dần biết say. Tuổi
mười lăm Dần văng tục khắp xóm chợ. Thìn bương chải với đời nên “cũng hơn
đời khoản mép giải mồm loa” (Nguyễn Trí, 2016). Linh trong Chả có gì bất
thường có hoàn cảnh tội nghiệp “quá chừng chừng”. Linh mồ côi. Cha Linh tai
nạn giao thông, “chết thẳng cẳng”. Má Linh đi bị rắn hổ vện cắn, “vậy là đi”.
Mười lăm tuổi “Linh trở thành bà chủ căn nhà lá sáu mươi mét vuông trên lô
đất một trăm mét” (Nguyễn Trí, 2014). Nghỉ học từ sớm, Linh bưng bê, “rửa
ly tách kiếm cái bỏ vô miệng”. Chả có gì bất thường khi hai mươi tuổi Linh đã
có con đứa lớn 5 tuổi, đứa nhỏ 1 tuổi. Trong Má ơi, Thơ còn có cái khoe học
lớp hai rồi. Còn em Nghĩa thì khỏi học luôn. Đã vậy lại thêm ông già cũng hạn
84
chế tư tưởng “Cả nhà mình có ai đọc được tờ báo mà cũng sống có chết đâu
mà lo” (Nguyễn Trí, 2016). Trong Hú hồn hú vía, Hùng được đã giới thiệu ngay
là vô học. “Lớp mười đã chia tay trường với lớp. Bao nhiêu đã học trôi sạch.
Dễ chừng đã chết vì sa đoạ, vào đời kiếm ăn từ mười bảy mười tám. Bạn bè
toàn thứ đâm cha chết chú, mở miệng ra mười từ hết chín từ văng tục” (Nguyễn
Trí, 2016). Trong Bể khổ, Nguyễn Trí lí giải cái sự “lỗi đạo” của bầy con Hai
Nhiều do vô học. “Bốn đứa lần lượt bảy tám, bảy chín, tám mươi, tám mốt. Lớn
lên từ bắp với khoai đâu có ăn học gì…” (Nguyễn Trí, 2016). Nghèo không
học đã đành, đằng này giàu cũng “tuyệt tình” với sự học. Trong Phải chi say
được thì hay quá, Nhì bằng mọi giá cho con đi học cho bằng thiên hạ. Nhì quyết
tâm kiếm thật nhiều tiền để ba đứa con được đến trường và “đến tận đích”.
“Thuỳ đến lớp thầy a, cô bê, cô xê, hết đêm luôn cả ngày Chủ nhật, vậy mà
không tốt nghiệp cái cấp hai mới đau đời” (Nguyễn Trí, 2014). Thằng Tâm
cũng qua nổi lớp chín. Thằng út Tính cũng bỏ học, tiền học thêm Tính tống vô
internet. Tính leo cột điện cao thế trộm tài sản quốc gia. Trong Buồn ơi là buồn,
Thuý mới lớp bảy đã tuyên bố nghỉ học. Được sự “ủng hộ” của mẹ “con gái
học chi nhiều”, vậy là nhỏ “ghé song bài lượm bài cho má xoè. Bạn bè rủ thì
lượn” (Nguyễn Trí, 2016). Trong Khung tường trắng, Doanh là con nhà giàu,
đã độc nhất lại đẹp. Sau cái chết của anh trai, Bình An bắt con gái nghỉ học,
“nhỏ con gái nghỉ liền. Nó cũng chẳng quyến luyến trường lớp” (Nguyễn Trí,
2016). Vì cái thất học này, mà nảy sinh ra trùng phùng những vấn đề. Giới tính
và sinh sản tuổi vị thành niên là vấn đề đáng báo động. “Mười bốn mười lăm đi
điều hoà trong mấy nhà bảo sanh ngoài luồng. Trẻ bây giờ yêu nhau sớm lắm.
Chuyện giới tính chúng sành sỏi hơn người lớn đôi phần” (Nguyễn Trí, 2014)..
Trong Có biết không, mười sáu tuổi “Mi cho Hảo sạch bách. Còn Hảo? Hảo
cho người tình một vỉ thuốc hai viên” (Nguyễn Trí, 2013). Thuỳ trong Buồn ơi
là buồn, Nghỉ học sớm, mười sáu tuổi “dung dăng dung dẻ đến tận cửa nhà
trời, lan sang… nhà nghỉ”. Linh trong Chả có gì bất thường, “con bé vị thành
85
niên không cha không mẹ, tự do như chim trời cá nước” (Nguyễn Trí, 2014),
mười sáu tuổi Linh mang về cho mình chiến tích hoành tráng. Hai mươi tuổi
Linh đã hai đứa con. Loan trong truyện Sáu Lém “mới tí tuổi nhưng lăn lộn
giường chiếu cũng dữ dữ” (Nguyễn Trí, 2016). Bên cạnh vấn đề giới tính, thất
học là nguyện nhân của lối cư xử vô phép, những việc làm phi phạm pháp luật.
Trong truyện Vô Luân, mới mười sáu tuổi Quân bỏ học. Quân lừng danh cả xã
Thanh Sơn: “Nó quậy ông trời còn chắc lưỡi huống chi người phàm” (Nguyễn
Trí, 2013) Đánh thầy chủ nhiệm, đánh bạn, trấn lột, lâm vô rượu đập phá quán
xa dân lành, đánh người. Trong Quay đầu là bờ, mười lăm tuổi, Mười bỏ học
theo bạn bè tù tập, “đánh lộn đánh lạo cũng loại đàn anh đàn ang ghê lắm”,
rượu chè, trai gái, hút sách, “đá” xe không gì Mười chưa trải qua. Vì không có
học thức nên các đường dây mua bán bằng cấp giả được hình thành. Trong
Đừng có giỡn mặt, Dũng Lai và Quỳnh Chi làm bằng cao đẳng kế toán giả để
xin việc. Quân trong Nhờ nước mắt làm bằng cấp hai giả với giá ba trăm rưỡi.
Diệp trong Trại viên cũ quay lại đông lắm bị đuổi việc do làm giả bằng anh văn
B. Nguyễn Trí bộc lộ sự lo lắng trước thế hệ làm chủ đất nước.
3.1.1.3. Những tệ nạn xã hội
Nguyễn Trí đã phơi bày hiện thực của những người nông dân khốn cùng
dưới lớp mặt nạ của hiện đại hoá. Không có đất đai để lao động, từ đó nảy sinh
nhiều vấn đề của đô thị. Cuộc sống nông thôn đang trên đà phát triển kéo theo
những hệ luỵ đáng thương tâm như mại dâm, ma tuý, rượu chè, cờ bạc…. Người
nông dân trong những trang văn không còn vẻ hiền lành, phúc hậu, côi cút làm
ăn nữa mà trở nên biếng nhác. Họ “tuyệt giao” với nương ruộng bờ bãi và “kết
thân” với các tệ nạn xã hội cho hợp với thời đại đô thị hoá. Và nhậu là một
trong những tệ nạn ấy. Khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Trí, hầu hết các
tác phẩm đều viết về nhậu. Mở đầu truyện Quay đầu là bờ, tác giả giải thích
nguyên nhân vì sao Mười xinh đẹp mà vẫn ế. “Tiêu chuẩn Mười đặt ra với đàn
ông thì cực khó nhưng đứa con nít nào cũng làm được. Không rượu. Ái chà
86
chà…” (Nguyễn Trí, 2014). Tiêu chuẩn tưởng chừng dễ ấy thấy vậy mà rất
khó. Đối với vùng quê cô ở, đúng chỉ con nít mới thoả điều kiện ấy. Còn đàn
ông, “mười thằng nhậu hết chín thằng, thằng còn lại bị đau bao tử”. Ngán
ngẫm trước cảnh mọi người đều mê rượu, Mười quyết định lên khu công
nghiệp, may đâu có được tấm chồng tử tế. Truyện Ngoại Tình mở đầu bằng câu
“Chín Kì uống rượu ghiền”. Vợ chín khi nào chuẩn bị cơm cho chồng luôn kèm
theo chai ba xị. “Không có đế cho Chín là thấy ông bà cố tổ” (Nguyễn Trí,
2014). Rượu là căn nguyên của hạnh phúc gia đình đổ vỡ. Chín Kì bị rượu giết
chết bản năng cơ bản. Diệu Hương ngoại tình với Sáu Sang. Đức cũng bị rượu
huỷ diệt bản năng nên Diễm Thuý ngoại tình với tài xế trong xưởng. Truyện
Nín lặng khóc, đầu chuyện giải thích lí do Tư Đìa không đi đón dâu được vì
“Khi xe chuẩn bị lăn bánh anh ta đang còn nằm mẹp vì say. Rượu đã huỷ hoại
Tư địa không ra hồn người nữa. Khỏng khoèo, cặp giò không khác gì hai cái
ống tre trong cái quần đùi thụng thụng, xương sườn xương sống lô nhô. Đó là
hình ảnh mỗi buổi sang Tư Địa từ đìa tôm đi ra quán mua rượu” (Nguyễn Trí,
2013). Con gái Tư Địa, lấy chồng là Hậu, “cùng chiến hữu với cha vợ, sang
điểm tâm bằng rượu” (Nguyễn Trí, 2013). Tội nghiệp Phụng. Tội nghiệp Tình.
“Khi rượu thấm vô tim gan phèo phổi và hoà chung dòng máu lưu thông trong
cơ thể thì đảm bảo cái vụ giường chiếu là đồ bỏ” (Nguyễn Trí, 2016). Không
một kẻ nghiện rượu nào trên thế gian cần đối tác. Rượu huỷ diệt bản năng. Vì
lẽ đó, Tình và Phụng cùng mê đắm Hùng nheo. Kết cục là Hậu đi tù, Hùng
Nheo bị giết, Tư Đìa chết uống rượu say, trượt chân té xuống đìa. Sau tất cả,
Phụng chỉ biết “nín lặng khóc”. Truyện Phải chi say được thì hay quá cũng mở
đầu câu chuyện bằng việc ca tụng chiến tích uống rượu không say của Nhì.
“Bảo đảm rằng chưa ai trong xã An Long, cả huyện Thành Long này nhìn thấy
Nhì say. Đoàn Nhì, dân nhậu thứ thiệt, rượu uống có kiểu riêng, không tầm
thường một xây chừng chia hai. Tới tua, Nhì đổ phần của mình vào ly cối, cứ
mồi mà ních từ từ, chừng nào ly cối quá nửa, Nhìn tu một hơi sạch bách. Không
87
ai dám trăm phần trăm với Nhì. Chết liền, chết tức khắc” (Nguyễn Trí, 2014).
Cái giá phải trả khi con người quá chén có khi là cả tính mạng mình. Đó là cha
Linh, thứ bảy “không say không về”, lúc chạy điểu khiển xe máy, “đang bên
phải đánh tay sang bên trái”, xe có bao nhiêu cha Linh chạy bấy nhiêu, “tông
vào xe tải ngược chiều, chết thẳng cẳng”. Hậu trong Má ơi “làm có mấy hớp
mà ói máu chết ngay tại quán người ta”. Trong Nhãn Tiền, ông Tính chết vì xơ
gan. Ông Tinh bị bể mạch máu và cao máu, ông Tình cũng chết vì rượu. Bình
An trong Khung tường trắng say rượu vấp chân “té cái ành”, nằm yên không
động đậy (Nguyễn Trí, 2016). Trong Nhí đen, cha Nhí đã lạm dụng thái quá
rượu khiến cha Nhí bị mất trí. “Anh ta dọc theo lộ lượm rác bỏ vô bao, cứ vậy
ngày này qua tháng nọ. Cho tới một ngày không thấy tăm dạng ba hồn đâu
nữa” (Nguyễn Trí, 2016). Trong Ngoại tình, Chín chết vì “mới sáng ra mà quất
hai xị, tai biến là phải rồï” (Nguyễn Trí, 2016). Rượu cũng như ma tuý vậy, nó
gây nghiện rất nhanh. Và khi nghiện, người hoá thành “cục súc”. Chồng Hiền
trong truyện Trời cao đất thấp ở tù vì giết người trong một cơn say. Tám Em
trong Chuyện ở quán bánh canh vốn dĩ hiền lành. Bao nhiêu tiền làm ra vợ đưa
hết vào đỏ đen. Vợ ngoại tình, bị bỏ, Tám Em lại rước về chung sống lại. Khi
có rượu vào, Tám Em bỗng “du côn cũng dữ”. Tám Em rút dao đâm, Tuấn
Bóng lãnh chục nhát vào người. Giết người xong, Tám Em lại uống rượu, nằm
đè lên cái xác chết mà ngủ.
Sau rượu là đề và các cái khác thuộc về đỏ đen. Đó không phải là hình
thức để người nông dân giải trí nhằm hình thức “giải mỏi” mà nó trở thành một
tệ nạn có đầu tư và tổ chức. Đề đóm cũng như con bạch tuộc vậy. “Thằng cha
bị bắt thằng con tiếp tục điều hành. Phắt một cái nó chỉ bay cái u. Chảy chút
máu là cái u mọc lại to hơn và thận trọng hơn” (Nguyễn Trí, 2014). Truyện
Chuyện ở quán bánh canh nói về những con “ma đề”. “Đến quán, đàn bà gọi
tô bánh canh, đàn ông thêm xị rượu và những giấc mơ được trưng ra để bàn
luận” (Nguyễn Trí, 2014). Tiêu biểu là Đức. “Đức nướng phần lớn vào mộng
88
mị đề đóm. Hôm đó, không biết mơ thấy con chi mà Đức đánh con 13 một trăm
ngàn. Không ra. Hôm sau hai trăm, rồi ba trăm, bốn trăm, cứ ngày sau hơn
ngày trước một trăm. Đến ngày thứ chín vị chi tiêu tùng hết bốn triệu rưỡi.
Ngày thứ mười Đức sạch tiền” (Nguyễn Trí, 2014). Đề đóm bao cả làng. Vợ
chồng già chủ quán bánh canh, ngày nào bán cũng cả trăm tô tới giờ xổ số mà
cũng ngập trong nợ “Bữa nào kết dám chơi con cả triệu chứ không ít” (Nguyễn
Trí, 2014). Vợ Tám Em lậm vô đỏ đen, bao nhiêu tiền chồng làm ra hết sạch
rồi kèm thêm nợ. Vậy là cô đưa thân ra trừ nợ. Không chỉ đề, mà còn những
thứ xung quanh khác. Đề luôn là chị em ruột với tứ sắc. Cờ tướng cứ tưởng
thanh cao lắm, ai ngờ cũng bán nhà bán cửa là lẽ thường. Con người như mù
quáng trước đề đóm. Kết thúc truyện bỏ ngõ nhưng nói lên sự bế tắc trong việc
tìm ra hướng triệt tiêu đề đóm ở người dân và sự vô tình của con người trước
Nhưng rồi nửa đêm. Chính xác là mười hai giờ. Chao ôi là người. Cả chục
mạng xúm trước của quán mà xì xụp khấn vái. Xưa nay vậy, mấy người
chết bị đâm nè, xe cán nè…linh lắm. Nhứt là mấy đứa ô môi với bê đê…
Để coi Tuấn bóng bao nhiêu tuổi. Ba hai hả? đánh đậm con ba hai, hai ba
cũng đánh luôn. Ê! Còn thằng Tám Em bao nhiêu tuổi vậy kìa? Phải đánh
cả tuổi người đâm người…linh lắm. Ráng theo đi, trong vòng ba ngày thế
nào cũng vô mánh. Tao á hả? Chuyến này có bán nhà, bán xe tao cũng
theo… Tuấn Bóng này chết có thằng khác thế chỗ. Đề mà, khó triệt lắm.
(Nguyễn Trí, 2014).
mạng sống của đồng loại..
Cờ bạc đôi khi là một nghề để con người mưu sinh chứ không hẳn chỉ
là đam mê hoặc bị dụ dỗ. Năm trong Kì bẻo sống bằng nghề cờ bạc. Với Năm,
“dưới gầm trời, sòng là số một”. Lấy vợ Năm thường xuyên vắng nhà. Thua
quá nhiều, Năm mới nhận ra cờ bạc không hề đỏ đen, may rủi. Tất cả đều gian
89
manh, lọc lừa. Năm bắt đầu “luyện ngón”, “nhất là bàn tay thuận, phải như cái
lưỡi của dân đầu bếp” (Nguyễn Trí, 2016). Khi các mánh khoé đều trở thành
kĩ xão, Năm đi xa để lừa lọc và kiếm tiền. Biết bao gia đình đã vì cờ bạc mà
khóc ra cả máu. Bảy Mẫu trong Đoạn trường lừng danh Long Mỹ với nghiệp
cờ bạc. “Bảy mẫu đất, bò hơn hai mươi con. Tất cả đội nón ra đi bởi thâu đêm
suốt sáng ở tùm lum sòng” (Nguyễn Trí, 2013). Tác giả đã nói rất đúng về nạn
cờ bạc: “Ma đề, ma túy, ma cờ bạc, ma tình yêu. Một trong bốn con nầy ám vô
ai người đó chết liền...Phải gỡ chớ, thua phải gỡ. Gỡ riết cái ghẻ phải chảy
máu...Có câu cờ gian bạc lận. Bọn cái nhử cho ăn đã đời, nửa đêm nó lấy lại,
tới sáng là đi sổ đỏ” (Nguyễn Trí, 2013). Để lấy cho được sổ đỏ mảnh đất thổ
cư cuối cùng, Bảy “thẳng một cái tát chí mạng” vào người vợ. Vợ Bảy chết do
đập đầu vào cây gỗ căm xe cột vuông. Nguyễn Trí viết “Ghiền cái chi cũng là
một đại nạn” là vậy.
Đô thị hoá còn kéo theo cả tệ nạn về sử dụng chất cấm, những thứ vốn
dĩ thuộc về thị thành. Chỉ cần miêu tả không khí bên ngoài trại trai cai nghiện,
phần nào tác giả cho thấy ma tuý thực sự là một quốc hoạ. “Ở trại cai nghiện,
đủ già trẻ lớn bé. Con đến thăm cha, vợ đến thăm chồng, bà ngoại thăm cháu
gái. Gian thăm gặp những hai mươi ô, mỗi ô một người được ngăn bởi hai lớp
luới mắt cáo. Đông và ồn ào như chợ vỡ” (Nguyễn Trí, 2016). Trong Khung
tường trắng, Tí Cồ nghiện ma tuý. Ra trại, tưởng như tu tâm dưỡng tính, Tí
“quất một mũi, linh hồn thăng thiên, còn thể xác ra nghĩa địa vì sốc thuốc”
(Nguyễn Trí, 2016). Em Tí Cồ là Doanh cũng nối gót anh tìm đến ma tuý. Với
cô “nhạc nhẽo mà không ma tuý, không cần sa, không thuốc lắc là nhạc ấy chết
rồi” (Nguyễn Trí, 2016). Doanh bị đưa đi trại cải tạo vì sử dụng trái phép chất
kích thích. Rồi Doanh cũng ra trại, hiền lành như đất. Nhưng vẫn không thể có
cái kết hạnh phúc cho những người đã từng bị nghiện. “Con Doanh nằm như
ngủ trên chiếc băng ca. Đèn trong nhà xác vàng vọt sáng, khung tường trắng
hoen ố lạnh lùng. Bà má ôm xác đứa con, úp mặt trên vành ngực thanh xuân,
90
bây giờ lạnh, lạnh lắm” (Nguyễn Trí, 2016). Nỗi đau làm người mẹ như đi vào
cõi chết. Kết thúc vừa gây ám ảnh vừa xót xa và gợi nhiều suy ngẫm cho người
đọc. Cái hay của Nguyễn Trí là viết về gia đình Bình An, nhưng lại xây dựng
nhiều đoạn hội thoại giữa bà Bình An với các nhân vật phụ để từ đó làm rõ vấn
nạn ma tuý. Đó là ông già ở Biên Hoà lên thăm con trai. Đó là người phụ nữ có
mái tóc màu bạch kim lên thăm con trai. Người phụ nữ khác cũng thăm con,
đang là sinh viên cũng dính vô sa đoạ. Giàu hay nghèo, học hay không học, trai
hay gái, thành thị hay nông thôn, sâu xa cách mấy con quỷ của sa đoạ cũng len
chân đến mà quyến rũ. Trại viên cũ quay lại đông lắm lại nêu lên một vấn nạn
gây nhức nhối trại viên nào đã từng cai nghiện đều “quay lại đông lắm”. Ai
cũng bảo lần này là lần cuối nhưng không bao giờ kết thúc khi dính vào ma tuý.
Người tái nghiện nhiều hơn người mới nghiện. Nếu trại viên không quay lại thì
chắc có lẽ sốc thuốc và chết. Câu nói bỏ lửng của Diệp với nhân vật tôi “chắc
cháu cũng” như một sự bế tắc của tương lai. Nhưng đằng sau đó là dự cảm về
một xã hội không lành mạnh, nếu ai không có bản lĩnh vượt qua sẽ lại rơi vào
vũng lầy tăm tối như Diệp. Đọc xong truyện ta không khỏi rùng mình trước căn
bệnh quái ác đó, nó nảy sinh từ rất sớm, ngay sau đất nước giải phóng. Miền
nam lại là chốn đô thị ăn chơi nhộn nhịp, nên mọi thứ tiêu khiển ở đời nơi đây
có lẽ học hỏi nhanh nhất. Qua truyện, tác giả đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho những ai đang lầm đường lỡ bước. Đó chính là bài học cảnh tỉnh cho những
thanh niên nam nữ ngày nay đang u mê trong làn khói trắng, đắm chìm vào
những trụy lạc, thâu đêm bên những sòng bài để rồi bản thân phải trả giá đắt.
Một xã hội tiến lên hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế thị
trường, tốc độ đô thị hóa chóng mặt, nông thôn đổi thay, bất bình đẳng xã hội
gia tăng, giàu nghèo phân cực. Nạn tham nhũng cũng là vấn đề đáng quan tâm.
Tham lam vẫn thường bị lợi làm tối mắt, tối cả tâm. Trong các xí nghiệp, tham
nhũng cũng thường tình. Trong Đám tang tất nhiên buồn, Lộc lợi dụng chức
vụ phó giám đốc xưởng sản xuất và kẽ hở của luật để kiếm tiền bảo hiểm xã
91
hội qua phiếu xác nhận của bệnh viện. Không chỉ vậy Lộc kiếm lời từ tiền quỹ
công đoàn. Mỗi tháng công nhân đều đóng quỹ, mỗi người hai mươi nghìn
nhưng tích tiểu thành đa, công ty trên nghìn công nhân. Tiền này được đưa lên
trên để sinh lãi. Lộc còn thông đồng với đồng bọn để nhập vật liệu dởm để lấy
lời. Trong Đừng có giỡn mặt, lòng tham khiến những cán bộ có những hành
động nhẫn tâm với những người nghiện. Thiện trong tác phẩm là một nhân vật
như thế. Để những người nghiện được đổ rác hoặc ra ngoài lao động, phụ huynh
phải mua bằng tiền. Khi bố mẹ trại viên muốn gửi tiền cho người thân thì không
có biên lai hoá đơn. Và tất nhiên, khoảng tiền ấy không bao giờ tới tay “con
em” hay “chồng em” được. Hơn thế nữa, đối với đối tượng tái nghiện khi vào
trại họ vẫn có thuốc để hút, thậm chí có tiền để trao đổi mua bán. Mọi việc bắt
nguồn từ những học viên đi đổ rác. Họ ém những bánh thuốc trong khu vực đổ
rác. Sau đó sẽ báo cho họ người được thăm vị trí bánh thuốc. Cán bộ của trại
biết rất rõ nhưng vì được chung chi nên lơ đi. Học viên muốn kéo được một bi
thuốc lào là hai mươi nghìn đồng. Ba lạng thuốc sẽ cho ra vô vàn bi thuốc lào.
“Tính toán chi ly một tí từ hai mươi triệu đồng cho một kí thuốc lào nếu lọt vào
phòng” (Nguyễn Trí, 2014). Không chỉ thuốc, tiền cũng được cán bộ đưa vào
cho học viên. Cứ một triệu gửi cho học viên, Thiện và đồng đội được bốn trăm
(học viên Tùng mười sáu triệu). Mỗi phòng ba chục em, ba mươi phòng chín
trăm em. Trại cai nghiện trên một nghìn. Doanh thu của Thiện và đồng bọn
“phải máy tính mới ra”. Nhờ những cán bộ như Thiện nên “những kẻ sai
đường” vẫn được sinh hoạt không khác gì ở ngoài. Đó là lí do vì sao “trại viên
cũ quay lại đông lắm”.
Nếu nông thôn là nơi con người muốn trở về để tận hưởng sự thanh bình
thì trong truyện ngắn Nguyễn Trí có rất nhiều nhân vật từ giã nông thôn, để đến
với thành phố, nơi tập trung nhiều trung tâm công nghiệp. Họ rời bỏ nông thôn
trốn chạy khỏi những khổ nhọc, vất vả, cay cực. Họ muốn thử sức với máy móc
công nghiệp với khát vọng đổi đời. Và họ phải đối mặt với đầy rẫy những cạm
92
bẫy, biết bao nỗi nhục nhã, ê chề. Văn chương của ta rất ít đề cập tới đề tài này
bởi vậy khi đọc những truyện như “Nhờ nước mắt”, “Trại viên cũ quay lại đông
lắm” ... ta không khỏi rưng rưng xúc động, bàng hoàng về những gì đang diễn
ra. Nguyễn Trí đã ghi lại những điều mắt thấy, tai nghe, chất sống ngồn ngộn
trong trang văn của ông khiến người đọc xót xa. Ngày trước, rừng là nơi con
người “kiếm cái độ nhật” thì ngày nay với họ phố là “hố bạc” khắp mọi nơi
trôi về. “Bốn hướng dân số thuộc loại khùng. Phòng trọ năm bảy dãy. Tạm trú
Nam Trung Bắc, cả Tây Nguyên đều có mặt. Đủ thứ nghề, từ hủ tíu gõ. Hột vịt
lộn, chưng gai giò, ba bánh đạp, có cả loại… liều phận mình bán nguyệt buôn
hoa” (Nguyễn Trí, 2014). Kinh tế các khu kinh tế mới khởi sắc nhờ đám trẻ
vào miền Nam kiếm sống. Khu công nghiệp là đất lành cho vô số những cánh
chim muốn thoát cảnh nghèo. Trong Chân mình thì mình đứng, Nghĩa có giới
thiệu những đứa con đang đi làm ở khu công nghiệp Amatar trên Biên Hoà.
“Bốn đứa con cũng phụ cho vợ chồng già cái gọi là manh áo miếng cơm”
(Nguyễn Trí, 2014). Đó là Thảo trong Ảo và sợ, cô theo bạn vào Sài Gòn lập
nghiệp và quen “một anh trai Đông Nam Bộ”. Trong truyện Chi quyết định Chi
bỏ quê lên khu công nghiệp để thành công nhân ở nhà trọ với bộn bề những tủi
cực. Lan trong Thiên Sứ rời miền Tây cùng “bạn tình” để lên thị trấn mưu sinh.
Khi bị người yêu “bỏ ngang”, Lan cũng buôn bán, bán cái tự có để lo tiền trọ,
tiền thuốc men, viện phí khi con ốm. Quân trong Nhờ nước mắt cũng theo bạn
xuống khu công nghiệp làm công nhân, biết bao khó khăn vất vả rồi cám dỗ.
Đạt bạn thuở niên thiếu, chỉ vì lên thành phố mà sa vào con đường nghiện ngập.
Vào làm công nhân trong khu công nghiệp, Quân cùng những người công nhân
bị bóc lột sức lao động. Đồng lương của họ bị ăn chặn trắng trợn bởi chủ quản
quản vay nạp thẻ, ứng tiền học phí cho con. Đến già Hai già rồi vẫn bị ăn chặn.
Cuộc sống của người công nhân thật chẳng dễ dàng. Ở thành phố, những người
tha phương lập nghiệp ngụ tại xóm ghẻ. “Nghĩa là dân đi kinh tế mới ở các
tỉnh, hoà cùng dân tha phương đổ về ở đại, hầm bà lằng xáng cấu những xì ke,
93
xì cọc đến cờ bạc gái gú, dân cố cựu gọi xóm ghẻ. Mỗi lần triều lên là kinh dị
tầm trời. Rác rưởi đựng trong bịch nilông nổi lềnh bềnh, cỡ phim vua bãi rác
chả ăn thua gì so với xóm ghẻ” (Nguyễn Trí, 2013). Ông Hưng cũng thuê một
phòng trọ để vợ và bốn con bán vé số, còn ông chạy honda ôm. Ở thành phố
cái ngành nghề dưới đáy xã hội nào cũng khó. “Ông phải đóng hụi chết mới có
“biên chế” mà “hành nghề”. Là dân ngụ cư phải cạnh tranh với dân sở tại,
“không có anh hai bảo kê khó tồn tại lắm”. Khách của ông Hưng phần đa là
những “bướm lạc”. Mỗi cô gái mỗi hoàn cảnh. Hoàn cảnh nào đáng thương.
Với họ, nhắc đến quê hương không hề yên bình như con người ta vẫn hay nghĩ.
Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn của nghèo. Nghèo quá người ta buồn, buồn
là uống rượu, rượu vô thấy chung quanh là kẻ thù. Thanh niên ở quê toàn “lấy
hèm làm đạo”, sáng uống tối uống, “lấy ngữ đó làm chồng thà chết sướng hơn”.
Vì vậy những cô gái lên thành phố, một phần để mưu sinh, một phần tìm kiếm
một tương lai tươi sáng hơn. Nhưng bản thân nói không với chữ nghĩa làm gì
được thành phố. Cũng may cha sinh mẹ đẻ cho cái nhan sắc “nhỉnh” hơn người.
Bán cái tự có cũng là một hình thức mưu sinh. Thắm làm nghề để nuôi thêm
một thằng chồng xì ke. Hai chị em Thảo, Ly không biết chữ nhưng vẫn nhờ
ông Hưng ghi chép cẩn thận số lần bay (giống đứng đường) để tránh số lần gian
lận của chủ chứa. Trâm là một vũ nữ, xinh đẹp, sang trọng, lịch sự. Cô “ở một
nhà thuê riêng, đẹp và đầy đủ tiện nghi” nhưng hoàn cảnh đáng thương vô
cùng. Cha mất, mẹ tái giá, cô bị dượng ghẻ bán vô vào phố đèn đỏ, cuộc đời cô
ngập trong đau khổ từ đó. Vì thế Trâm hận, lạnh lẽo và phủi tay với đời. Truyện
còn lắm những hoàn cảnh toàn rối rắm. Quyên lo cho một con gái với một mẹ
ở quê. Quyên giải toả nỗi buồn bằng việc “hít hàng trắng”. Không chỉ Quyên,
“cả chục con bé đều như vậy”. Hạ có cha và mẹ bị phong thấp không làm được
gì. Cuộc chiến cạnh tranh của những “bướm lạc” cũng khốc liệt không kém
nghề Honda ôm của ông Hưng.
94
- “Đụng chạm ghê lắm ba, ở đâu có thánh thần ngự trị, mình vào phá
bĩnh, bị xử tội liền.
- Tao hiểu rồi… Nhưng sao con Trâm không đi taxi, tiện cho nó hơn?
- Có người đưa đi rước về…Hai giờ đêm vũ trường đóng cửa, lỡ có
chuyện ba đâu nỡ khoanh tay đúng không?
- Chuyện gì là chuyện gì?
(Nguyễn Trí, 2013).
- Nhiều lắm đâu nói tên được, cái nghiệp này…
Có thể thấy đô thị phồn hoa người ta vừa sống trong nó, vừa nỗ lực tìm
đường đến với nó, nhưng lại vừa chối bỏ nó. Quyên giãi bày với ông Hưng
“chạy ôm” về ước mơ rời thành phố của mình. Chao ôi ước mơ đẹp, nhưng vẫn
mãi là mơ ước: “Nếu có tiền con về quê, tậu một xe nước mía, thêm xe bánh
mì…Được vậy con ở nhà với con gái cho sướng, kiếm hoài mà nợ không dứt
được ba ơi” (Nguyễn Trí, 2013). Nguyễn Trí viết về thành phố phồn hoa, nhưng
các nhân vật Nguyễn Trí hiện lên lại đượm buồn khó tả. Nạn mại dâm được
nhắc đến không chỉ trong truyện Ở thành phố, mà còn xuất hiện trong nhiều tác
phẩm khác. Trong Thiên Sứ, các cô gái bán hoa tại các nhà trọ bình dân. Vì để
hạn chế việc chia một phần ba thù lao cho các “má mì”, một phần cho “bảo kê”
và để tránh chính quyền sở tại cản trở làm ăn. Còn khách cũng thích dạng này
hơn vì khách không phải chi khoản cà phê, thuốc lá, chewinggum với giá cắt
cổ. Nếu vào quán ôm thông thường, “bọn chủ nó xắt một ly chưa ôm vài chục
ngàn” (Nguyễn Trí, 2014). Công việc của Tỉnh Lùn là dẫn mối cho khách tới
các em “Quê hương”, “Đức Hạnh”, “Hoa Hồng”. Khách mua và kẻ bán cho
Tỉnh tí đỉnh gọi là. Ban đêm thì nhiều hơn, vậy là Tỉnh sống qua ngày. Trong
truyện Màu của bóng tối, Trang vì bị người chồng vũ phu đánh lọt xuống ghe
và chia cho một đứa con gái. Trang lên làm nghề bán hoa tại quán cà phê Cỏ
95
Dại, “một loại đèn mờ chính hiệu con nai đen” (Nguyễn Trí, 2014). Một số cô
gái lên thành thị, mong thoát khỏi cái nghèo bằng cách lấy chồng Đài Loan.
Thông qua việc lấy chồng ngoại để đổi đời Nguyễn Trí muốn nhắn gửi: “Mẫu
thời trang hay nghệ sĩ thời danh cũng phải lao động cật lực mới có để mà
hưởng phú quý, không gì trên trời rơi cho cả” (Nguyễn Trí, 2016). Và thực sự,
cái giá của các cô gái thôn quê phải trả khi “làm dâu xứ người” không hề rẻ.
Trong truyện Đời cứ thế trôi, muốn con gái của mình tránh xa lũ thanh niên
ham nhậu, bà Chín đưa Kiều Hạnh, Kiều Nhi đi làm ở khu công nghiệp. Đó là
cơ hội cho các người đẹp gặp gỡ các xếp người Đài Loan. Các anh nhà Đài tặng
cho gia đình Chín “chút quà nhỏ” nào rượu hộp, thuốc lá, khô mực, bánh kẹo,
sôcôla…. Vậy là “xế hộp lao đi, cán nát cả chục trái tim si tình” chứ không
riêng gì gia đình nhà Chín Hội. Các anh Đài tiếp tục chi mạnh tay để lấy lòng
hai người đẹp Kiều Hạnh, Kiều Nhi. Căn phòng trọ ọp ẹp được thay bằng nhà
nguyên căn. Trong nhà sẵn có tủ lạnh, đầu máy, dàn karaoke, xe máy,… Không
người đẹp nào có thể từ chối sự chân thành và hào hoa. Mỗi lần Huy và Pẩu
đến nhà là “niềm tin sáng lên mắt mọi thành viên trong nhà” (Nguyễn Trí,
2016). Nhưng đời không như là mơ, Huy và Pẩu biến mất dạng để lại hai nàng
Kiều Hạnh, Kiều Nhi vừa khóc kể, vừa “ụa mửa”. Trong truyện Buồn như buổi
cuối năm, khi Dũng Lai bị bệnh, Thiên Kim túc trực ở bệnh viện Bình Dân lo
cho cha. “Giường kế bên là một anh Đài đang chữa bệnh. Đài ta có tên Chang
Chi, tiếng việt là Trần Tinh… dân đi đó đi đây, ăn ngủ với hàng trăm đàn bà
con gái khắp thế giới. Tinh ta biết con nhỏ trinh nguyên chính hiệu. Tinh thừa
biết… tiền mua được tất cả, nhất là nghèo” (Nguyễn Trí, 2014). Vậy là Thiên
Kim có chồng. Thiên Kim phải khai gian lên hai tuổi mới đủ tuổi kết hôn. Trần
Tinh ngang tuổi với Dũng Lai - cha của Thiên Kim. Gia Đình Dũng một bước
lên thiên đường. Thấy vậy Nga Kim cũng ước được như chị, “một bước lên
bà”. Nhưng Nga Kim đâu có cơ hội nào gặp gỡ các chàng xứ ngoại. Cô phải
nhờ vào đường dây môi giới hôn nhân lấy chồng ngoại quốc. Chồng Nga Kim
96
người Hàn Quốc, nghèo rớt và có tiểu sử bệnh tâm thần. Vỡ mộng lên bà, Nga
Kim đòi li dị, thằng Hàn nổi điên đánh chết. “Nga Kim về với gia đình trong
một cái bình tro cốt” (Nguyễn Trí, 2014). Chi trong Chi quyết định cũng lên
thành phố và yêu một anh xứ Đài. Mặc dù là công nhân nhưng Chi sở hữu xe
“a ti là”, quần áo hiệu kệ trang điểm đầy ắp hàng ngoại nhập và mỗi tháng được
bạn trai tặng một nghìn đô la Mỹ. Mặc dù cách nhau “vời vợi một trời ngôn
ngữ”, Chi vẫn đến với A Phú. Trong một chừng mực nào đó, cô hiểu cái A Phú
cần ở cô và cô cần gì ở anh. Vật chất đủ đầy nhưng lòng Chi lạnh tanh. Tết đến,
người yêu về lại Đài Loan đón tết cùng vợ con. Còn Chi bơ vơ, nhớ quê nhưng
không muốn về. Cảm giác cô đơn, bị coi thường khi thua gái đứng đường, Chi
thấm thía hành động dại dột của mình. Sự trả giá quá đắt cho một phút ngã
lòng, nó là bài học cảnh tỉnh cho các cô gái quen ăn sung mặc sướng, thích ỉ
lại, dựa dẫm vào người khác, thích ăn chơi hưởng lạc để rồi sau giấc ngủ dài,
con người ta mới hoảng hốt, vội vàng quay ra thì đã quá muộn. Truyện Vực ở
phố, nói về những người lao động ở hẻm sáu mốt. Họ từ giã thôn quê lên thành
phố để mong thoát khỏi cái nghèo. Lên thành phố rồi mới biết kề bên phố luôn
là “vực”. Không một nghề nào trong xóm không đóng hụi chết. Hụi chết đươc
đóng cho Thức. Hải, chồng Ánh Loan từ miền tây lên phố, chạy Honda ôm thì
đóng ngày. Nhiều hay ít tuỳ vào thu nhập. Những người “bán phấn buôn
hương” thì “đóng người”. “Thức muốn người đẹp nào là má mì phải chiều”.
Còn với Ánh Loan, cô lại bị chính người chồng, kẻ đầu ấp tay gối hàng đêm
dâng vợ cho kẻ khác hòng vì tiền, vì sự yên ổn. Hải, chồng của Ánh Loan biết
Thức thích vợ mình, nên đã tạo cơ hội cho Thức tiếp cận vợ mình, giả câm giả
điếc không biết chuyện, để rồi Ánh Loan lọt vào tay Thức. Cuộc sống ở thành
phố đã biến Loan khô cằn sỏi đá, rồi dần hoá sắt và máu, cũng lạnh lẽo với đời.
Ánh Loan thay Thức thu “triều cống” của người lao động. Vậy là Loan rơi
xuống vực. Diệp trong Trại viên cũ quay lại đông lắm theo bạn lên thành phố,
vào công ty làm việc. Nhờ nhan sắc Diệp lọt vào mắt của phó tổng người Đài
97
Loan. Cuộc sống Diệp sang trang mới. “Trang mới này đẹp cả hồn lẫn xác”.
Diệp có tiền, rũ bỏ vẻ dễ thương vươn lên thành đẹp. Diệp nghèo khổ mãi, giờ
đây được ăn ngon mặc đẹp, quen sống hưởng thụ nên đánh mất mình. Diệp sa
ngã, rơi vào con đường nghiện ngập. Cô bắt đầu hút, phân phối lắc và hàng
trắng. Đến khi cùng đường phải làm cà phê ôm rồi làm gái mại dâm đứng đường
đón khách. Trạm dừng chân cuối cùng của Diệp là trại cai nghiện.
Sự khủng hoảng về lí tưởng, niềm tin, tạo nên khoảng trống trong tâm hồn
là thừa cơ các thứ mê tín dị đoan. Trong truyện Má ơi, vợ Hậu bỏ đi vì người
chồng rượu chè và vũ phu. Nhiều người đồn đoán bị bùa yêu dẫn đi. Thầy phán
với Hậu con ma giấu vợ Hậu. Hậu đem áo và quần tới cho thầy làm phép. “Tiền
cúng cho âm hồn cũng bộn bộn” (Nguyễn Trí, 2016). Nhưng người vẫn không
về, thầy bảo tại “thiếu cái món tóc rối nên bùa không linh” (Nguyễn Trí, 2016).
Truyện Buồn ơi là buồn nói về sự mê tín của con người. Trong quan niệm của
họ nghèo là do số phận. Mà số phận được chủ trì bởi Đức chúa trời, ông Ngọc
Hoàng, Thích ca Mâu Ni. Vì vậy “chín mươi lăm dân số trong xóm không ai
không ghé nóc nhà thứ bốn mốt” (Nguyễn Trí, 2016). Đó là nhà thầy Nam tụng.
“Thầy mặc áo nâu, thầy trọc lóc hiền không thể chê. Bà Thâm cần sửa cái
chuồng heo, liền nhờ thợ. Thầy chỉ đạo Nam ra tay. Bên không chồng nhung
có đứa con. Bên độc thân đạo hạnh nữa vời, lẹo tẹo sao đó mà Nam ở luôn
trong nhà. Lòng trần có, lòng đạo cũng có luôn, thầy Nam dựng lên một nơi để
có chỗ gọi là tu tại gia” (Nguyễn Trí, 2016). Cứ bảy giờ tối là họ tập trung lại
nhà thầy Nam cầu nguyện “thoát nghèo”. Lòng thành ban đầu được trưng thành
hiên vật, sau chuyển sang tiền. Cùng với thù lao từ dịch vụ đám ma, thầy Nam
đủ sức nuôi vợ, suốt ngày ở song bài và con gái ăn chơi sa đoạ.
Chính sự xâm thực của đô thị là căn nguyên của những tệ nạn xã hội,
những thủ đoạn bẩn thỉu nhất để kiếm tiền một cách táng tận lương tâm. Truyện
Trong nghĩa địa, Hùng kiếm được nhiều tiền từ việc hốt cốt. “Chả biết Hùng
học được nghề hốt cốt ở đâu ma hắn rành sáu câu. Hốt cốt phải từ chân trở
98
lên, bắt đầu từ xương bàn chân, ống quyển, xương đùi, tất cả được Hùng xếp
đâu ra đó trên một mảnh giấy trắng lớn, rồi cho vào trong tĩn” (Nguyễn Trí,
2016). Thậm chí, Hùng còn hốt được cốt còn nguyên vẹn hình hài với giá cao
vọi vì chả ai dám làm. Người đọc cảm thấy ghê rợn sự bạo tàn của con người
Bọn lóc xác thịt chết sẽ cầm can rượu lên tu ừng ực. Từ thời điểm vung
dao mổ cho đến khi hoàn tất họ chỉ uống, nhiều ngày sau cũng uống nhiều
ăn. Thực vậy, vô cùng kinh rợn khi lóc những thớ thịt đã bủng nhủng bùng
nhùng. Quan trọng nhất là cái đầu…Chỉ máu lạnh thì chưa đủ để làm cái
nghiệp này. Cần phải biết tu rượu ừng ực nữa. Xong đâu đó người ta sẽ
đưa bộ xương vào một cỗ hàng mới, cũng thợ thầy kinh kệ đưa hồn người
chết về nơi yên nghỉ mới.
(Nguyễn Trí, 2016).
qua sự am hiểu chi tiết của Nguyễn Trí về nghề hốt cốt.
Khi cốt được hốt lên, Hùng cũng đơn từ, mộc đỏ để trở thành đất mới và
lại bán cho người cần.
Với cảm quan sinh thái của mình, Nguyễn Trí đã thể hiện cái nhìn “phản
lãng mạn” nông thôn trước sự xâm thực của đô thị. Đồng ruộng không được
coi là sinh mạng như chân với tay. Những bất ổn trong đời sống đang dần hiện
ra. Đó là sự chao đảo của nhiều hộ dân từ những bọc tiền của đền bù đất nông
nghiệp. Nạn đề đóm, số má, cờ bạc như ma lực hấp dẫn những con thiêu thân
sẵn sang đâm đầu vào. Từ nông dân thuần phác trở thành đại gia, bỗng chốc lại
ăn mày trắng tay, sa đoạ. Con người phải đối mặt với bi ai, hỉ nại ái ố do mối
quan hệ giữa người với người đem lại. Con người vẫn bế tắc trong vật chất dư
thừa. Đô thị có thể xem là chiến thắng của con người trong việc gạt bỏ thiên
nhiên ra khỏi tầm mắt. Trong niềm chiến thắng ấy con người không thấy hân
hoan mà chỉ toàn bất hạnh. Đó là cái giá họ phải trả cho những cạm bẫy đô thị.
99
Tính ưu việt của đô thị hoá là không thể không phủ nhận những mặt trái của
văn minh cơ giới là không hề nhỏ. Trong nhiều tác phẩm của mình, Nguyễn Trí
đã “cởi trói” cho nhân vật để họ thoả sức “vẫy vùng” trong bầu không khí của
tự do, hiện đại tân tiến chốn thành thị. Nhưng dường như càng cởi trói lại càng
dùng dằng, càng vung vẫy lại càng đắn đo. Tâm thế lưỡng phân vừa khao khát
vừa từ chối đô thị cho thấy sư bơ vơ, lạc lõng, vô định con người trước sự thay
đổi của xã hội. Đó là toàn bộ bức tranh bát nháo mà nhà văn phác thảo trong
qúa trình đô thị hoá nông thôn.
Ngòi bút của Nguyễn Trí đã phơi bày mặt trái của xã hội ở những góc
khuất tăm tối nhất, không chỉ có tính hiện thực và tính thời sự sắc sảo, nóng hổi
mà còn ngầm ẩn tính nhân văn sâu sắc. Tác giả nói về sự ghê tởm tận cùng của
cái ác, cái xấu nhưng cũng là hình thức để bảo vệ tôn vinh cái đẹp, cái thiện.
Các câu chuyện dồn dập chi tiết sắc lạnh, khiến độc giả khi hồi hộp, khi phẫn
nộ. Nhưng có những chi tiết rất tình khiến người đọc lại muốn rưng rưng vì
cảm thông. Chính vì thế đọng lại sau những trang văn của Nguyễn Trí là tình
đời, tình người rất sâu đậm và chân thành.
3.1.2. Thông điệp về tình người trong cuộc sống đô thị
3.1.2.1. Cái giá của dục vọng
Những truyện ngắn của Nguyễn Trí truyền tải những thông điệp về luật
nhân quả “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, sự trả giá cho lòng tham, tội
lỗi. Trong truyện Quả báo, Võ Oai là người có hoàn cảnh khó khăn. Oai vào
miền Đông lập nghiệp, đước má Năm giúp đỡ và coi như con. Oai hát hay,
tiếng đàn mượt mà, tóc tai bồng bềnh như nghệ sĩ. Oai tuy nghèo, nhưng phong
nhã lịch thiệp, phong thái. Cả xóm tên Lô Đu Đủ này ai cũng có cảm tình đặc
biệt với Oai. Cảm tình nhiều nhất là Hoà. Ngày Oai đi, “Hoà cho Oai nụ hôn,
hẹn ngày gặp lại, em chờ”. Và cả xóm chỉ biết lặng nhìn nhan sắc lớn bụng.
Vài tháng sau Oai về, chàng trai bạc tình “dẫn theo một nàng xinh như mộng”.
100
Sau khi lừa được anh em một cục vàng to bằng trứng gà tại bãi Suối Nho, đời
Oai và Huệ đổi mới. “Oai cất nhà mới, vàng vọt đeo trên cổ cả chồng lẫn
vợ…áo quần là lượt sang như bà hoàng” (Nguyễn Trí, 2016). Oai cư xử tệ bạc
với má Năm, người đã từng cưu mang mình. Oai hại bạn thân là Minh Lam đi
tù để trục lợi. Tàn nhẫn nhất Oai coi như không có sự tồn tại của mẹ con Hoà
trên đời. Trong truyện, bốn lần nhân vật Minh Lam thay cho tác giả nói đến cái
thông điệp “ác giả ác báo” dành cho nhân vật Võ Oai: “Nhanh đến em, buổi
phán xử đến liền” (Nguyễn Trí, 2016); “Nay mai em thấy, vợ chồng chú Tân
khóc ra tiếng Pháp nè” (Nguyễn Trí, 2016); “Ta đã nói đời sống chúng ta có
duyên, có nhân, có quả mà ra hết” (Nguyễn Trí, 2016); “Đời này gieo nhân gì
thì gặt quả ấy” (Nguyễn Trí, 2016). Và lời tiên tri về gieo chi gặt nấy của Minh
Lam quả thật đúng. Oai phải trả giá đắt cho lối sống bạc tình, bạc nghĩa của
mình. Tiền bạc và đủ đầy đã đẩy gia đình Oai vào bi kịch. Đồng tiền Oai làm
ra phi nghĩa nên con cái vô tư mà phá. Con gái Oai hư hỏng, bị cha chửi bới
trước bạn bè nên mua xăng về tự thiêu. Huệ vợ Oai phát điên khi con gái chết.
Hai thằng con trai Oai nghiện ngập và bị xe tải tông chết. Oai bị chấn thương
sọ não và mất ý thức.
Trong truyện Nhãn Tiền, thông điệp “đời cha ăn mặn đời con khát nước”
được tác giả thể hiện rõ nhất. Truyện viết về bốn thế hệ trong một gia đình đều
làm nghề đồ tể. Cái giá họ phải đổi cho cái nghiệp đồ tể này ai nghe qua cũng
rợn người. Cô Tâm, người nắm giữ kĩ thuật đập đầu bò “siêu đẳng”: “Với một
cái búa đầu tròn, tục gọi là búa củ tỏi, cô Tâm xách vàm mũi lên, gõ nhẹ vào
tam tinh, ngay lập tức con bò sụm gối” (Nguyễn Trí, 2016). Tuy giàu có, có
nhan sắc, cô Tâm sống trong cô đơn và chết thảm do bom rơi trúng lò mổ. Ông
Tiền lại giỏi khoảng làm tiết bò. Một con bò cả hai tạ ngoài, ông Tiền nhoáng
không quá mười lăm phút là gọn. Ông Tiền dùng lưỡi dao phay đâm vào tim
Nó nhọn hoắc và bén như nước, loại dao này hơn cả dao sắt thuốc của xứ
bò. Sau đó, ông dùng dao rọc.
101
Cao Lãnh. Ba thằng con Tính, Tinh, Tình, phụ nắm tấm da cho cha rọc.
Không quá năm phút là xong, ra thịt thì khỏi chê, một cục xương quăng
ra bảo đảm chon chó ngửi rồi bỏ vì chả có còn chi mà liếm láp. Từng loại
thịt được xếp vô cần xé. Tịnh, với tư cách ông chủ, sẽ đánh xe ra chợ và
thị trấn. Da bò được quăng vào một bể nước muối, cứ mươi, mười lăm
tấm là những cơ sở thuộc da sẽ mang đi một lần. Mỗi sáng lò cho con ông
Tiền hạ thủ hai chú bò, và trên dưới chục chú trư.
(Nguyễn Trí, 2016).
Ông Tiền chết khi lãnh trọn “luồng sét đánh nát một góc lầu”, “cái xác
khô khốc và đen thui vì sét, thiên hạ tang đởm kinh tâm” (Nguyễn Trí, 2016).
Con ông Tiền là Tịnh cũng chết thảm trong lúc đi mua bò của người trộm bò.
“Tư Tấu phải bò xuống gầm xe lượm xác cha. Tịnh bị bấy bá không thể nào
ráp lại thành nhân mạng, hai cái chân bị kẹp giữa hai bánh xe, phải tháo bánh
mới lôi ram à bỏ vô quan tài” (Nguyễn Trí, 2016). Một năm sau, trong một năm
ông Tính, Tinh, Tình đều chết. Sau khi ông nội Tiền mất, Tư Tấu thay ông cầm
dao mà rọc da bò. Đã vậy Tư Tấu còn có năng khiếu trong việc thiến trâu, bò.
Tấu làm việc này còn nhanh và gọn hơn thầy của mình. Nhờ vào việc thường
xuyên mổ bò, Tư Tấu biết chính xác đâu là ống dẫn tinh để ra tay hành động
chuẩn xác mười con như một. Vậy là Tư trứ danh thiên hạ vụ thiến bò. Nhưng
khi lò mổ bị sập và trắng tay, Tư bỏ nghề. Tư Tấu có gia đình, một vợ hai con.
Không theo nghề đồ tể nữa, Tấu cũng làm nông dân như ai. Nhưng vẫn trộm
bò của người dân để bán rẻ cho các lò mổ. Tư Tấu giấu con bò của Cáp Diệp,
chờ đến mười hai giờ đêm sẽ đem ra khúc sông sau chùa hạ thủ. Tư tấu bị bắt
vì trộm cắp. Con trai Tấu là Hà chết thảm trong lúc đem thịt phân phối, “đầu
chúi vô gốc cao su, chân vẫn nằm trên xe, cảnh tượng rất kinh dị và có máu
chảy” (Nguyễn Trí, 2016). Cái chết được dân tình giải thích “Dòng họ thằng
102
Hà tay vấy toàn máu, nay anh em nó cũng máu luôn, quả báo mày ơi. Nhất là
cái nghiệp ăn trộm, không chết vì cái này cũng chết vì các kia…Không tự nhiên
mà nó đâm vô gốc cao su” (Nguyễn Trí, 2016). Truyện Đồ tể, Nguyễn Trí một
lần nữa khiến người đọc thán phục bởi hiểu biết tinh tường ở cái nghiệp này.
Miêu tả tội ác của con người thông qua giết mổ động vật một cách tàn ác, dã
man. Có thể nói, nghề đồ tể sẽ ám ảnh suốt cuộc đời của bất kì ai nhìn thấy nếu
không phải chuyên nghiệp. Nhưng đối với Thuỷ, chủ quán cháo lòng thì bình
thường. Vì đó là dân giết mổ chuyên nghiệp. Cái lí do Thuỷ không có lấy một
đứa con “để nựng nịu hoặc chửi bới cho vui mồm” được tác giả giải thích do
làm việc ác nên nhận lấy quả đắng. “Miệng thế gian đồn rằng, thất đức lắm cái
nghiệp này. Lắm người khi già yếu bệnh tật đến nhưng không chết, cứ nằm mà
khè như heo bị chọc tiết, người thân phải xách dao và đá mài tới liết mới chịu
đi. Lại nghe ở cái chùa nào đó có cả nghĩa địa heo. Nói chung ở tiền kiếp heo
làm người mà ác quá nên phải trả” (Nguyễn Trí, 2016) .
Những câu chuyện lần này đánh mạnh vào sự đảo lộn luân thường đạo
lý, vào những việc làm sai trái, tội lỗi của con người. Họ làm giàu không dựa
trên sự lao động chân chính, nhờ vào của trên trời rơi xuống. Qua đó, làm bật
lên thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm: Đừng sống ảo để rồi phải sợ hãi và
cũng đừng sống ảo để rồi gánh chịu những hậu quả do mình gây ra.
3.1.2.2. Vai trò của pháp luật
Nguyễn Trí tin rằng xã hội càng phát triển, pháp luật càng thể hiện tốt
nhiệm vụ của mình. Nếu như trong phần đầu của Bãi vàng đá quý trầm hương,
giết người, cướp của, khai thác trái phép tài nguyên quốc gia nhưng chính quyền
cũng “bó tay chịu sầu”. Và để giải quyết mâu thuẫn trong thế giới nơi “ma
thiêng nước độc” người ta dựa vào luật rừng. Người mạnh sẽ thắng, yếu sẽ thua.
Nhưng ở các tác phẩm về sau này của Nguyễn Trí, hầu như pháp luật đều xuất
hiện. Theo tác giả thời kì phép vua thua lệ làng đã “lùi vào quá vãng”, và đối
với pháp luật thì “đừng có giỡn mặt”. Rất nhiều nhân vật trong truyện ngắn đối
103
diện với án tù vì lỗi lầm mình gây ra. Bất cứ một sinh mạng nào bị giết, tài sản
nào bị đánh cắp,… đều được truy tố hình sự. Nhiều truyện ngắn kết thúc bằng
hình ảnh nhân vật đối diện với pháp luật. Truyện Vực ở phố Thức bị bắt, công
an bắt đầy đủ tang vật khi Ánh Loan phân “hàng trắng” để bán lẻ tại nhà.
Truyện Ở thành phố, câu chuyện khép lại khi đường dây mại dâm và kinh doanh
thuốc lắc bị bắt, Trâm vào trại cải tạo và phục hồi nhân phẩm. Diệp trong Trại
viên cũ quay lại đông lắm, làm gái đứng đường và bị bắt. Vì nghiện, Diệp được
đưa vào trại cai nghiện. Truyện Ai biết được kết thúc bằng hình ảnh toà tuyên
án Thân mười năm năm tù vì tội giết người. Trong truyện Sau một cái chết đám
đông đánh chết tên trộm chó cũng bị xử phạt đích đáng. Già Đen bốn năm án
treo. Thằng Đỏ bốn năm tù giam. Những người đánh hôi hai năm tù giam.
Thằng Cả con ông Chỉnh vào trại giáo dưỡng hai năm vì đang tuổi vị thành
niên. Truyện Đừng có giỡn mặt Thiện cùng đường dây của mình đã bị bắt vì
tội tham nhũng, lạm dụng chức quyền để tư lợi cá nhân. Chính vì thế những
câu chuyện mà Nguyễn Trí kể người đọc có có thể gặp rất nhiều trang báo, đặc
biệt là báo pháp luật và an ninh. Nhưng không chỉ cung cấp thông tin đơn thuần,
Nguyễn Trí đã biến nó thành thế giới riêng để gửi gắm tư tưởng nhân văn cho
người đọc. Đồng thời thể hiện niềm tin của tác giả về một xã hội công bằng văn
minh.
3.1.2.3. Ý nghĩa của lòng nhân ái
Chính lòng tham đã làm con người với con người trở nên vô tình với
nhau. Khi xã hội càng văn minh, người với người càng bốc lột nhau hơn. Nhưng
nếu để ý có thể thấy Nguyễn Trí vẫn có hy vọng về một sự thay đổi tốt đẹp hơn
nhờ vào tình người. Nhiều câu chuyện vẫn có nội dung về sự tha thứ, bao dung,
hối cãi làm lại cuộc đời. Vẫn còn rất nhiều những nhân vật đại diện cho thông
điệp tình thương vẫn luôn hiện hữu trên đời. Nhận xét về tập truyền Đồ tể, Hồ
Anh Thái đã nhận xét “đẹp và thiện” cũng vì lẽ đó. Truyện Thiên sứ là câu
chuyện về tình người. Tỉnh tuy ngoại hình “dị tướng” nhưng lại có một tấm
104
lòng cao cả. Tỉnh cưu mang Lan và con gái Lan trong những tháng ngày bết
tắt. Tỉnh luôn cho những em bé bán vé số, ăn xin quà vặt. Khi được mấy bà
hàng tôm cá khi cho Tỉnh ổ bánh mì, gói bánh chưng… để cứu đói. Trong
những góc khuất nơi thị thành, người lao động vẫn thầm lặng cưu mang nhau
qua ngày đói khổ. Đó là vợ chồng già Hưng trong Ở thành phố xem những
“bướm lạc” như con gái của mình. Yêu thương, chăm sóc và thí mạng để cứu
sống cô gái trẻ. Chính tình thương làm động lực, niềm tin cho con người tội lỗi
làm lại cuộc đời. Đó là người cha trong Sau một cái chết của nạn nhân đã đứng
trước toà xin giảm án cho những kẻ đã giết chết con trai mình. Người em của
nạn nhân bày cho kẻ giết anh trai mình ôn lại bài vở sau thời gian cải tạo giáo
dưỡng. Con người biết trút bỏ thù hận, lấy tình thương mà cảm hoá con người.
Không triết lý dài dòng, không giáo điều khoa trương, từng câu chuyện của
Nguyễn Trí thấm vào lòng người đọc bởi sự bình dị, chân phương như chính
bản thân của tác giả. Nguyễn Trí đã cho thấy những “góc khuất”, những thủ
đoạn ghê sợ “mất nhân tính”, vô đạo đức, bất chấp “quả báo” để trục lợi của
con người. Ông “bày ra những cái xấu của xã hội” qua những hành động của
nhân vật, ta thấy “nỗi đau cuộc đời” của nhà văn “Nguyễn Trí: kẻ gom bão,
nhặt bi ai” để góp phần phản ánh hiện thực và thức tỉnh lương tri, phần nhân
tính tốt đẹp trong mỗi con người
3.2. Nghệ thuật biểu hiện sinh thái nhân văn trong văn xuôi Nguyễn Trí
3.2.1. Nghệ thuật trần thuật
3.2.1.1. Trần thuật tuyến tính
Trần thuật tuyến tính là một sự ghi chép sự kiện có mở đầu, kết thúc,
không có sự đảo lộn giữa chúng, điểm mở đầu và điểm kết thúc của truyện,
cũng trùng với điểm mở đầu và điểm kết thúc của câu chuyện. Hiệu qủa nghệ
thuật của trần thuật tuyến tính là giúp mạch truyện rành mạch, rõ ràng, có sự
liên tục nhất quán. Người đọc vì thế mà dễ theo dõi nắm bắt các sự kiện, xâu
chuỗi các sự việc của câu chuyện hơn. Từ đó, người đọc có thể nắm bắt trọn
105
vẹn cái thông điệp mà tác giả gửi gắm.
Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Trí, có xuất hiện những tác phẩm được
viết theo trật tự thời gian nhất định. Trong truyện Ở thành phố, câu chuyện
được triển khai rõ ràng, bắt đầu từ khoảng thời gian hiện tại. Ông Hưng làm
nghề chạy xe ôm. Mạch chuyện tiếp tục phát triển khi ông chở Quyên, Trâm đi
làm việc của họ. Quá khứ của nhân vật được nói đến nhưng thông qua đối thoại
trực tiếp của nhân vật ở hiện tại, đồng thời chỉ là sự giải thích mang tính minh họa cho các sự kiện chính đang được kể. Sau đó, mạch truyện tiếp tục tiếp diễn
khi ông Hưng chở Trâm đi khác và bị uy hiếp. Ông Hưng lấy thân già ra bảo
vệ cô gái và bị thương, nhập viện. Kết thúc câu chuyện Trâm và đường dây gái
mại dâm bị bắt. Cách trần thuật một mạch giúp thể hiện cốt truyện rõ ràng,
mạch lạc. Người đọc vì thế mà dễ nắm bắt tình tiết cốt truyện.
Truyện Đoạn trường cũng được kể theo trình tự tuyến tính. Các mạch
truyện đi theo một đường thẳng, theo một trình tự thời gian nhất định không có
sự đan xen, đảo lộn mà diễn ra thuận tự nhiên. Câu chuyện Bảy Mẫu đam mê
cờ bạc và đánh vợ chết. Sau cái chết của bà Bảy, “đôi mắt Bảy đọng mù sương”,
Bảy không còn đến sòng nữa. Từ một con ma bài Bảy bỗng hoá chân tu. Bảy
xuống ruộng vác mướn, đắp bờ thuê. Bốn mươi lăm tuổi phong độ của một
nông dân. Đủ thứ máu chảy trong người Bảy, trong đó có máu tình. Vậy là Bảy
yêu. Người đó là Tư Nhà, làm nghề nhổ mạ cấy thuê. Cô trọn bốn mươi tuổi
xuân. Nhưng thủi lủi. Tư đến Long Mỹ gặt lúa thuê gặp Bảy Mẫu đập lúa. Cả
hai nhanh chóng quấn lấy nhau, lượm lại cái quý giá nhất mà họ bị đánh cắp:
Tình yêu. Tư Nhà chăm sóc ba đứa con Bảy Mẫu như con của mình. Bảy Mẫu
dẫn vợ đi phụ hồ. Ngày qua ngày, Tư Nhà “ăn nhín nhịn thèm” nuôi Hải và
Thuỷ cấp hai, cấp ba rồi đại học. Còn Sơn lấy vợ là Mây Hồng - gái ôm. Hai
mái đầu bạc tiếp tục tính toán lo nhà cửa cho con trai để ra riêng. Rồi Bảy chết.
Tuổi cao, huyết áp cao, trời nắng lại có tí men vào người, “Bảy ôm ngực lảo
đảo, bước một bước và ngã ngang, chiều cao mét bảy, nặng tầm bảy mươi kí,
106
Bảy đập đầu vào cạnh của cây cột gỗ căm xe - cột vuông- cái chỗ hơn chục
năm trước lấy mạng bà Bảy” (Nguyễn Trí, 2015). Sau khi ông Bảy mất, ba anh
em Sơn, Hải, chia đất. Mảnh đất một tỉ, Sơn bốn trăm, Hải và Thuỷ mỗi người
ba trăm. Tư Nhà quay về lại căn nhà cũ của mình ở lúc bốn mươi tuổi xuân.
Mạch truyện tiếp tục diễn biến đầy bất ngờ khi vợ Sơn trộm tiền và bỏ trốn.
Sơn và nhân vật tôi về thăm lại má Tư. Bà Tư má tóc đã bạc trong căn nhà mục
nát. Một trăm triệu Sơn gửi Thuỷ đưa má Tư trang trải lúc cuối đời bị Thuỷ lấy
mất. Sự thất vọng đọng lại trong đôi mắt ngơ ngác của bà già xế bóng. Lối trần
thuật liên tục, không đảo lộn các sự kiện cũng là một dụng ý nghệ thuật của tác
giả. Thời gian trôi qua ngày qua ngày, chầm chậm mới thấy được sự tảo tần,
hy sinh vì chồng vì con của người “mẹ ghẻ”. Từ cơm nước, quần áo, sách vở,
học thêm cho tới nhà cửa cho con lấy vợ. Đó là khoảng thời gian hơn chục năm
bà “làm thân tò vò nuôi nhện, nuôi sâu” cuối cùng nhận về mình sự cô đơn. Kết
thúc bất ngờ đã diễn tả được sự cạn tình giữa người với người. Hải với Thuỷ
đối xử với người đã nuôi nấng mình tàn nhẫn hơn cả người dưng. Câu chuyện
được kể lại một cách tuần tự theo thời gian biên niên, thống nhất giúp người
đọc chứng kiến toàn bộ sự việc câu chuyện một cách rõ nhất, tuần tự theo
3.2.1.2. Trần thuật đảo tuyến
Không giống với kiểu trần thuật tuyến tính, các tác phẩm tự sự còn xuất
hiện trình tự đảo lộn, đan xen các sự kiện. Nếu như trình tự kể tuyến tính là
miêu tả các sự kiện tiêu biểu theo trình tự biên niên, là chuỗi liên tục các sự
kiện trong quan hệ liên tục trước sau thì kể theo trình tự đảo tuyến, đan xen là
kể lại các sự kiện không theo trình tự trước sau mà có thể là sự lồng ghép, đồng
hiện các sự kiện. Có hai hình thức đảo tuyến chính là câu chuyện bắt đâù từ
quá khứ rồi quay lại hiện tại. Hoặc câu chuyện bắt đầu từ hiện tại, dịch chuyển
về quá khứ rồi quay lại hiện tại, sự đảo ngược thời gian từ hiện tại về quá khứ,
đòi hỏi hồi tưởng, hồi thuật, trở về thời gian đã qua. Hiệu quả nghệ thuật của
trần thuật đảo tuyến là tạo sự chen ngang các tình tiết khác, khiến cho mạch
107
truyện có sự rẽ ngang sang một hướng khác nhằm giải thích cho sự xuất hiện
của nhân vật hay soi sáng quá khứ của nhân vật tạo sự hấp dẫn cho câu chuyện
được kể. Mỗi lần đảo lộn đan xen sẽ tạo ra một số không gian mới, hình ảnh
mới giúp phong phú cho hình ảnh được kể. Hơn nữa, trần thuật đảo tuyến luôn
tạo ra những bất ngờ thú vị, cuốn hút người đọc vì những tình huống truyện
khó đoán. Tuy nhiên, để nắm bắt được thông điệp của tác giả người đọc cần có
khả năng tổng hợp và liên kết các sự kiện trong tác phẩm.
Khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Trí ở bốn tập Bãi vàng, đá quý,
trầm hương, ảo và sợ, Đồ tể, Bay cao thì mặc bay cao, người viết nhận thấy
trần thuật đảo tuyến, đan xen, đảo lộn xuất hiện với tần suất lớn.
Trong truyện Nhãn tiền, mở đầu bằng sự việc ở hiện tại “Cáp Diệp mấy
con bò Nu ngoài ba tạ” (Nguyễn Trí, 2016). Mọi người nghi ngờ người trộm
bò của ông Diệp chính là Tư Tấu. Mở đầu là thời điểm hiện tại nhưng truyện
không dừng ở đó để kể chuyện hiện tại. Đó chỉ là những tình tiết mở đầu, câu
chuyện của Diệp và Tư Hấu được đem ra bàn luận trên bàn nhậu. Tư Rừng kể
về ngày trước Diệp thu nhập từ bò Nu như thế nào. Tiếp đó lí lịch Tư Hấu được
kể ngọn ngành từ thời ông nội của Tư Tấu. “Rằng ông nội Tấu tên Tiền, cha
của bầy con trai có tên Tính, Tinh, Tình Tịnh. Tịnh là cha của Tư Tấu” (Nguyễn
Trí, 2016). Trong hoàn cảnh khó khăn, cha con Tiền được một chủ lò mổ cưu
mang. Năm Tịnh mười sáu đem lòng yêu cô “con gái một” của chủ lò mổ. Sau
đó, sinh ra Tư Tấu. Khi ông con dâu mất vì hậu sản, ông sui gia mất vì “động
mạch chủ vỡ”, Tịnh nghiễm nhiên trở thành chủ lò mổ. Dưới sự điều hành của
ông Tiền và cô Tâm, lò bò dưới thời ông chủ Tịnh cực kì rực rỡ. Đặc biệt là có
đứa cháu trai là Tấu lại càng “ngon cơm”. Đối với một gia đình mà chữ nghĩa
là cái gì đó quá xa xôi, Tấu cũng không quan tâm tới sự học. Tấu lại thích nghề
“vung đao”, “vung búa” của ông nội. Tấu học thêm cái nghề thiến trâu, thiến
bò và trở thành bậc thầy trong nghề này. Khi ông nội mất vì bị sét đánh, Tư
Tấu thay ông “thọc tiết, rọc da, ra thịt tất cả các loại con” (Nguyễn Trí, 2016).
108
Lò mổ ngưng hoạt động khi Tịnh (cha Tư Tấu) chết, lò mổ bị trúng bom rơi
xuống lò. Vậy là cuộc đời Tư Tấu tuột dốc từ đó. “Tấu che tạm và vá víu một
túp lều đủ cho mình và một gú, me của hai thằng Hải và Hà”. Câu chuyện mất
bò và tìm bò lại được tiếp tục. Kết quả đúng như Tư Rừng dự đoán, Tư Tấu là
người đã trộm con Nu của Cáp Diệp. Con trai của Tư Tấu chết trên đường đi
phân phối thịt. Như vậy, việc để cho nhân vật kể lại chi tiết dòng họ Tư Tấu
hành nghề lò mổ, và từng người chết thảm như thế nào là dụng ý nghệ thuật
của tác giả. Việc làm của Tư Tấu ở hiện tại vốn dĩ đã có mầm mống từ quá khứ
đã từng trộm bò, mua bò lậu và mổ bò. Cái chết của Hà ở hiện tại cũng từng
giống cái chết của các thành viên gia đình ông Tiền. Quan niệm “đời cha ăn
mặn đời con khát nước” được Nguyễn Trí gửi gắm thật tự nhiên.
Trong truyện Chân mình thì mình đứng, mở đầu bằng câu chuyện của
hiện tại. Một trận ẩu đả trên một chuyến xe do cướp cạn, vô tình Nghĩa nhận ra
Phong sau ba mươi năm không gặp, “vậy là tha phương ngộ cố tri”. Tuy nhiên,
đó chỉ là những tình tiết mở đầu, tạo ra các tình huống gặp gỡ, hồi tưởng kỉ
niệm...để từ đó câu chuyện được mở ra theo dòng hồi tưởng của nhân vật kể
chuyện. Cuộc đời của Nghĩa trước đó ba mươi năm được Nghĩa hồi tưởng lại.
“Cha chúng tôi là lính triều cũ. Bi kịch đến Nghĩa năm lúc bảy. Lúc ấy tôi ở
Bồng Sơn, Bình Định…” (Nguyễn Trí, 2016). Câu chuyện lại trở về với hiện
tại khi Phong theo Nghĩa về nhà mình chơi. Họ hỏi thăm nhau về hoàn cảnh
của nhau. Nghĩa kể về mình rằng “nghèo mướt” nhưng giờ cũng qua khó khăn
vì con đi làm ở khu công nghiệp Đồng Nai. Phong kể về hai cô em của Nghĩa
và giã từ bạn tha phương. Nghĩa trở về quê thăm người thân, anh em ruột thịt
nhiệt tình chào đón, muốn cắt đất đai cho anh trai ở nhưng vấp phải sự phản
đối của em dâu, anh rể. Vì lòng tự trọng Nghĩa đã không nhận số tiền bạc ấy
mặc dù trước đây, anh là người lo toan cho các em, để các em có được cuộc
sống ngày hôm nay. Nghĩa sống đúng với quan niệm “Nghèo mà không hèn”,
nó giống như cái tên của Nghĩa vậy.
109
Truyện Ngoại tình, các sự việc được kể luôn có sự đảo lộn, đan xen các
tình tiết không gian, thời gian. Câu chuyện được mở đầu bằng hoàn cảnh hiện
tại của chín Kì. Chín làm nghề “Honda ôm” nhưng ế ẩm. Đã vậy lại còn ghiền
rượu “sáng xị, trưa xị, chiều hai xị”. Vợ Chín là Diệu Hương có nhan sắc nhưng
cũng chóng tàn phai bởi bởi người chồng “hạ chân thượng tay”, rồi đến “đẻ
đái, ốm đau, cơm áo gạo tiền”. Nhưng hoàn cảnh “bằng hữu của bóng tối cho
đến kì tận diệt” của Chín Kì là chuyện của quá khứ. Hiện tại đã khác, vợ chồng
Chín “cái ăn rất nên làm rất ra”. Mạch chuyện tiếp tục ở hiện tại, trên bàn nhậu
dân chúng bàn tán vì cái giàu đột xuất của Chín Kì. Và lại quay về quá khứ
nhằm lí giải Diệu Hương không hề trúng đề như Ba Chung dự đoán. Đêm hôm
ấy, khi Diệu Hương đang trong rừng cao su định về thì gặp một chiếc xe bị chết
máy, sau đó Thuý (vợ bầu Đức) xuất hiện. Đến đây, câu chuyện lại được
Nguyễn Trí đan cài rất nhiều sự kiện khiến mạch truyện liên tiếp có sự rẽ ngang.
Đó là câu chuyện về bầu Đức và Thuý. Đức là con trai lớn của Tài Can. Nói về
sự giàu có của Tài Can thì “câu giàu nứt đổ vách chả ăn thua”. Vậy là câu
chuyện về cuộc đời Tài Can lại được kể, và lại kể trên bàn nhậu. “Xưa kia nó
là tà lọt cho ông X. Ông X. uy lắm, dân kinh tài đâu phải chuyện chơi…Nó lục
lạo ba cái để lại cho thủ trưởng trình báo cấp trên. Mới lòi ra cả thùng đạn đại
liên M60 của Mỹ toàn vàng. Nó giàu là nhờ vậy hiểu không? (Nguyễn Trí,
2014). Tài Can rất nghiêm túc trong chuyện vợ chồng, và bốn đứa con, ba trai
một gái được Tài Can chia của công bằng. Đức được chia một cây xăng và một
trại gỗ. Vậy là câu chuyện Đức và Diễm Thuý được tiếp tục. Đức say Diễm
Thuý, bởi “cô đẹp quá, mỹ miều quá, duyên dáng quá, bo đì của cô hoa hậu
phải vái tay chấp cả tơi lẫn nón” (Nguyễn Trí, 2014). Đức cưới Diễm Thuý
ngay tấp lự. Diễm Thuý một bước lên bà. Nhưng bà cũng có cái khổ của bà,
thậm chí cái giá của nó rất đắt. Đức bị cái gọi là quan hệ đối tác lôi đi. Buổi
sáng thư giãn với anh này, chiều bia bọt với anh kia, đêm vui ở một sân vườn
cao cấp nào đó, cả tuần như vậy. “Nơi Đức đến đã vắt kiệt sức lực trai trai trẻ.
110
Đức thường để vợ trơ cái hồng nhan lúc nửa đêm về sáng. Nếu có thì Thuý
cũng hết phần thời gian cho những đống ói mửa của chồng. Lúc này cô thực
sự muốn ói vô đống giâý bạc mà cô có Tiền thu được từ cây xăng, từ gỗ lạt, hết
tỷ này đến tỷ kia. Nhưng nó chả khoả lấp được cái mênh mông trên cái giường
gỗ cao cấp” (Nguyễn Trí, 2013). Và cái đêm hôm ấy, Diệu Hương thấy Diễm
Thuý chạy vào rừng ôm chặt gã tài xế. Nhân cơ hội, Diệu Hương lấy chiếc túi
xách “những tiền là tiền”, “cả một lốc vàng với những viên đá óng ánh sắc màu
đính trên dây chuyền, lắc, nhẫn” (Nguyễn Trí, 2013). Sau khi lí giải nguyên
nhân cái giàu của gia đình nhà Chín, mạch chuyện tiếp tục quay về hiện tại.
Khi giàu có, Hương luỵ trong tay gã trai ở Sáu Sang. Và cũng nhận quả đắng
cho hành động của chính mình.
Không giống như các truyện Nhãn tiền, Chân mình thì mình đứng,… đều
bắt đầu sự việc ở hiện tại, truyện ngắn Trại viên cũ quay lại đông lắm, mở đầu
câu chuyện bằng thời điểm quá khứ. Truyện bắt đầu từ quá khứ nhưng không
hẳn là để kể chuyện quá khứ mà cũng có sự dịch chuyển đến hiện tại rồi lại
quay lại quá khứ. Sau khi nghe Diệp thông báo “giao thông trục trặc, đèn đỏ
không báo”, Thanh bỏ Diệp. Từ yêu thương tha thiết, hứa hẹn trăm năm, Thanh
“quăng cục lơ” với Diệp và quen con gái nhà giàu trên thị trấn. Diệp bỏ lớp
tiếng Hoa, bỏ lớp trung cấp kế toán, theo Hạc lên thành phố. Diệp được Hạc
giúp đỡ khâu nộp hồ sơ cũng như cách sống ở thành phố đầy cám dỗ. Nhờ vào
hồ sơ tốt và ngoại hình xinh đẹp, Diệp nhận được sự ưu ái của phó tổng nhân
sự. Những gã trai trong khu công nghiệp mê mẩn Diệp. Trong đó có Hưng,
“ông chủ con” của chủ phòng trọ lên đời nhờ trúng đất. Phó tổng người Đài
Loan cũng si tình với Diệp. Bốn tháng đi làm, Diệp đổi đời. Có tiền làm cô
không còn vẻ dễ thương, xinh xắn nữa mà “đẹp thật sự với lụa là son phấn xịn”.
Hưng, “thằng dân chơi xóm trọ” vì ghen với phó tổng đi xế hộp nên gây ra vụ
tai nạn chí mạng cho phó tổng. Mạch truyện lại được tiếp tục ở hiện tại, cắt
ngang chuyện về cuộc đời Diệp. Nhân vật tôi gặp Diệp ở một quán cà phê vào
111
một buổi trưa thứ sáu. Quán cà phê này chủ yếu để bán cho những người thăm
người thân bị nghiên. Thứ sáu luôn vắng khách hơn chủ nhật vì thứ sáu dành
cho những người được ra trại. Người đến quán chủ yếu để đón con em trở về
sau thời gian dài cai nghiện. Đến đây, người đọc hiểu được những gì đầu truyện
là chuyện của quá khứ do Diệp hồi tưởng lại, tâm sự với nhân vật tôi. Vậy Diệp
ngồi quán cà phê này vào thứ sáu, để đón ai? Diệp tiếp tục hồi tưởng lại quá
khứ vốn bị đứt gãy bằng việc kể tiếp câu chuyện với nhân vật tôi. Sau vụ tai
nạn, phó tổng bị chấn thương sọ não, bại liệt hai thân. Diệp bị đuổi việc do lộ
bằng cấp giả. Chán nản Diệp quen Hưng và “rồi nó mồi cháu hút”. Hưng bị
phạt mười lăm năm tù vì phân phối thuốc lắc, hàng trắng. Diệp bơ vơ, phải bán
những gì mình có vì mà tuý hành hạ. Sau đó, cô làm gái trong các quán cà phê
ôm, xuống gái đứng đường và cuối cùng bị bắt. Diệp đưa đến Trung tâm phục
hồi nhân phẩm, nhưng vì nghiện nặng nên chuyển vào trung tâm cai nghiện.
Thứ sáu này là ngày cô ra trại, nhưng không biết nên đi về đâu, cũng không ai
đưa đón. Câu chuyện lại tiếp tục ở hiện tại bằng đoạn đối thoại giữa Diệp và
tôi.
Lối trần thuật đảo tuyến, cắt ngang, đan xen nhiều câu chuyện cùng với
ngôn ngữ thiên về kể, tả, hơn là biểu cảm giúp truyện ngắn Nguyễn Trí ăm ắp
sự kiện, chứa nhiều thông tin.
3.2.2. Giọng điệu trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập
trường, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa
gần, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Giọng điệu nghệ thuật
làm nên linh hồn của tác phẩm. Thông qua giọng điệu nghệ thuật hình tượng
tác giả trong tác phẩm cũng được thể hiện rõ vì nền tảng của giọng điệu là cảm
hứng chủ đạo của nhà văn. Hay nói cách khác giọng điệu chịu sự quy định của
cá tính sáng tạo của nhà văn. Thông qua giọng điệu, người đọc có thể nhận thấy
112
tất cả các chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng như sở
trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ. Bất cứ một nhà văn
nào, khi đã định hình phong cách sáng tạo, đều ít nhiều thể hiện được một chất
giọng đặc trưng trong tác phẩm của mình. Mỗi tác phẩm có thể có sự kết hợp
nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau và luôn biến đổi linh hoạt. Trong khi trần
thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu
cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu. Sắc thái giọng điệu trần thuật trong văn
xuôi Nguyễn Trí khá phong phú và đa dạng. Mỗi tác phẩm có thể có sự kết hợp
nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau và luôn biến đổi linh hoạt. Mỗi tác phẩm
tác giả đều phải lựa chọn cho được một giọng văn cụ thể. Mỗi tác phẩm có
nhiều giọng điệu khác nhau. Nhưng trong đó sẽ có một giọng chủ đạo chi phối
toàn tác phẩm. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi đi sâu khai thác về
giọng điệu trần thuật trong truyện Nguyễn Trí ở ba đặc điểm là giọng triết lí
dân dã, giọng trữ tình cảm thương và giọng tưng tửng, khôi hài.
3.2.2.1. Giọng điệu triết lí
Xét từ cấp độ cấu trúc câu, kiểu giọng điệu triết lí thường được thể hiện
qua tính chất khẳng định (phủ định) để nhấn mạnh những vấn đề mà nhà văn
cần thông điệp, triết luận với người đọc. Ý kiến được đưa ra trở thành chân
lí. Giọng triết lý luôn được tác giả thể hiện sau những hoàn cảnh, số phận của
nhân vật. Đó có thể là giọng triết lý về sự tác động của hoàn cảnh lên sự thay
đổi nhân cách của con người. Triết lý của cái tôi tác giả toát lên từ chính cuộc
sống, từ chính sự chiêm nghiệm, đúc rút của bản thân về thế thái nhân tình.
Giọng triết lý của tác giả luôn vang lên gắn với những trăn trở, suy tư về con
người cụ thể, về cuộc sống. Đó là cảnh nghèo, là cái đói, miếng ăn...và đi kèm
với nó không chỉ là những buồn khổ về vật chất mà hơn hết là sự nhức nhối về
tinh thần. Cái thiện, cái ác, nhân phẩm, sự sống chết cũng từ cái khổ về vật chất
mà ra. Trong truyện ngắn của Nguyễn Trí, tác giả nêu ra nhiều triết lí về đồng
tiền, về lòng người, về giáo dục, về tình yêu,… Những triết lí này không chỉ
113
giải thích cho hành động của nhân vật cụ thể trong tác phẩm mà nói chung cho
quy luật cuộc sống xung quanh con người. Qua đó, người đọc có thể thấy quan
niệm của tác giả về con người và cuộc sống.
Trong truyện Sau một cái chết, triết lí về giáo dục được thể hiên qua hình
ảnh người cha nạn nhận xin giảm án cho những kẻ đã giết con trai mình. Hành
động cao đẹp đó nhờ sự bao dung cùng suy nghĩ thấu tình đạt lí của người cha.
Với ông, mọi sự đều do sự thiếu hiểu biết mà ra. Ông còn dẫn đạo lý của
Nguyễn Trãi, lấy chi nhân mà thay cường bạo. Đem đại nghĩa để thắng hung
tàn, Khổng tử nhân chi sơ, tính bồn thiện. Họ như vậy vì không được hưởng
Trong quan niệm sống của họ và gia đình, học không làm no bụng. Sự
thiếu học thức dẫn đến không có tri thức. Bước ra đời sớm, và nhiễu
nhương của xã hội đã làm họ gần như cô cảm trước tất cả. Chỉ có một cái
luôn hiện hữu trong tâm hồn là sự giận dữ, nó chờ bộc phát khi có dịp.
Không được sống trong môi trường giáo dục, gia đình đã vì miếng cơm
manh áo mà đẩy con cái vào cuộc mưu sinh. Tuổi trẻ, thậm chí tuổi nhỏ
chỉ biết và được dạy rằng vật chất quyết định tất cả. Rất tự nhiên tâm hồn
học chai sạn. Vậy họ có tội hay không khi không hiểu biết. Con trai tôi,
thưa quý toà, đã học đến lớp mười một. Suy cho cùng có tí học vấn mà vẫn
phạm tội, huống hồ những người này”
(Nguyễn Trí, 2014).
nền giáo dục:
Chính giọng điệu triết lý đó không chỉ đúng mà còn làm lòng người tỉnh
ngộ. Lấy oán báo oán không phải là cách duy nhất và đúng nhất để con người
đối xử với nhau. Hãy bao dung, rộng lượng với những người lầm lỗi. Để có
hành xử cao đẹp con người cần được giáo dục.
114
Giọng triết lý trong văn xuôi Nguyễn Trí được thể hiện ở những đoạn trữ
tình ngoại đề. Giọng triết lý luôn được tác giả thể hiện sau những hoàn cảnh,
số phận của nhân vật. Đó có thể là giọng triết lý về sự tác động của hoàn cảnh
lên sự thay đổi nhân cách của con người. Trong sự chiêm nghiệm của nhà văn,
mỗi con người đều mang hai mặt tốt – xấu song song và đối lập. Cái tác nhân
hoàn cảnh có ảnh hưởng biết bao tới sự phát triển nhân cách con người. Các
nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Trí luôn bị chao đảo, ngả nghiêng trước sự
xô đẩy của hoàn cảnh. Trong Đồ tể, tác giả lí giải sự vô tâm của gia đình Hạnh
không phải do bản chất, mà do hoàn cảnh: “Nghèo túng tâm hồn ai chả chẩn
bật”. Trong Quả báo, cái lạnh nhạt của dòng họ đối với Oai cũng vì hoàn cảnh
“cái nghèo túng luôn làm người ta ít quan tâm đến nhau. Ai lo phận nấy còn
bở hơi, chuyện người dù là bà con cũng bị nghèo làm cho tơi tả” (Nguyễn Trí,
2016). Trong Hảo Hớn, tình nghĩa ruột thịt giữa Năm Tính và anh em cũng dần
phai nhạt, thậm chí đầy toan tính cũng bởi nghèo. “Nghèo. Khổng Tử nói Vạn
tử bất như bần. Cái tội lớn nhất của nghèo là làm cho tâm hồn người đối với
nhau lạc như nước ốc. Thực vậy, Ông cha nói có tiền thì anh thì tôi, không tiền
anh ngồi tôi đi” (Nguyễn Trí, 2014). Đưa những triết lí về đồng tiền và lòng
tham là cách Nguyễn Trí lí giải về căn nguyên của thực trạng cư xử “nhẫn tâm”
và “hết tình” giữa con người. Anh em tranh giành tài sản, cha con chửi nhau
giành đất, hàng xóm thù hận nhau vì ganh ghét, … Trong Buồn như buổi cuối
năm, tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của đồng tiền trong đời sống thông
qua các triết lí “Tiền mua được tất cả, nhất là nghèo…” (Nguyễn Trí, 2014);
“Đời… tiền lưng đã có việc gì chả xong” (Nguyễn Trí, 2014). Trong Người
không tổ quốc, tác giả một lần nữa nhấn mạnh vị trí độc tôn của đồng tiền. Hàng
xóm thay đổi cái nhìn về Nhã khi Nhã trở thành công dân của Hợp Chủng quốc
Hoa kỳ. “Có câu tiêu nhân lắm bạc đời khen giỏi, đô la trong tay kẻ suýt bị tù
vì tham ô, thằng bê tha đang bị nhìn với mắt bỉ khinh, ngay lập tức được vây
bủa bởi những lời có cánh của bọn nịnh hót. Đời này sống thiện và ác luôn đi
115
đôi. Cái ác luôn vượt mặt bởi biết ẩn mình trong bóng tối” (Nguyễn Trí, 2016).
Trong Bể khổ, “Đồng bạc có một ma lực rất đặc biệt, đã đổi trắng thay đen.
Nó còn biến lòng người thẳng hoá xiên nữa” (Nguyễn Trí, 2016). Chín Ẩn từ
việc chê Hai Nhiều “mặt heo ngu bỏ mẹ” thành “Tướng Hai Nhiều trong tướng
mệnh khảo luận là tướng Trư” khi Hai Nhiều bỗng giàu có nhờ trúng đất
(Nguyễn Trí, 2016). Không chỉ là lời bình phẩm của tác giả, giọng điệu triết lí
còn được thể hiện qua chính phát ngôn của nhân vật. Trong Hảo hớn, khi chứng
kiến cảnh “hỗn chiến” của anh em Năm Tính, nhân vật người em rể đã bày tỏ
quan điểm của mình về lòng tham của con người một cách mỉa mai. “Thật là
máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” (Nguyễn Trí, 2014); “Đời nó vậy, người ta
chỉ hảo hớn khi chả nặng nợ với thiết thốn và bầu đoàn thê tử. Khi có cái để
mất thì ai cũng hoá cái thường tình” (Nguyễn Trí, 2014); “Thế gian biến đổi
vũng nên đồi. Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi. Còn bạc còn tiền còn đệ tử. Hết
cơm hết gạo hết ông tôi” (Nguyễn Trí, 2014). Tác giả nhắn gửi thông điệp về
lòng tham của con người thông qua phát ngôn của nhân vật Năm Tính. “Ti túc,
tiện túc, đãi túc, hà thời túc” (Nguyễn Trí, 2014), có nghĩa “Biết đủ là đủ, đợi
đủ bao giờ mới đủ” (Nguyễn Trí, 2014). Thông qua lời nhân vật, tác giả gửi
gắm thông điệp thế gian quý nhất là không phải những gì không có được và
những gì đã mất đi mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ. Trong Sâu đục thân,
nhờ đồng tiền Hải từ cái thằng lưu vong trên đất nước mình bỗng hoá phép
thành công dân. Tiền giúp Hải mua được quyền làm người. Từ câu chuyện của
bản thân, Hải đã ra cho mình triết lí về sức mạnh của đồng tiền. Nhờ đồng tiền
mà “Cái xa lạ bỗng hoá gần gũi, lành lạnh bỗng ấm nồng bỡi mãnh lực đồng
tiền” (Nguyễn Trí, 2014); Lòng tham của con người không chỉ là đơn giản là
vật chất, thậm chí nó còn nảy sinh khi con người đủ đầy về vật chất. Trong
Đẹp và ăn ngon luôn luôn bên nhau tự bao đời và nhàn rỗi nữa. Ba cái
truyện Ngoại tình, tác giả lí giải căn nguyên khi người phụ nữ ngoại tình.
116
này hợp lại nó cho ta dư thừa năng lượng sống. Và cái tất yếu là năng
lượng phải được tống ra khỏi cơ thể bằng mọi cách nếu không mang trọng
bệnh…Nếu nghèo khó và thiếu thốn làm bản năng ngắc ngoải thì nay nó
tỉnh lại và bừng lên sức sống…Đói phải ăn, khát phải uống”; “Trên trần
thế này từ vua quan đến thứ dân, ngoại trừ đói nghèo sanh vai cùng bệnh
tật mới huỷ diệt được bản năng của con người.
(Nguyễn Trí, 2014).
Giọng điệu triết lý đó không chỉ dành cho nhân vật, mà cho quy luật
chung của con người. Đó như một lời thanh minh cho hành động ngoại tình của
nhân vật là lẽ thường của quy luật. Từ đó, nhân vật hiện lên vừa đáng trách
nhưng cũng thật đáng thương.
Qua giọng điệu triết lí nhà văn khẳng định quan điểm của mình về nhân
sinh, lý tưởng thẩm mĩ. Những tác phẩm của Nguyễn Trí luôn dành cho độc giả
những điểm mới mẻ để phát hiện, chiêm nghiệm về chính mình.
3.2.2.2. Giọng điệu tưng tửng, hài hước
Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Trí, người viết giọng điệu tưng tửng, hài
hước xuất hiện hầu hết trong các truyện. Giọng điệu này được thiết lập do tác
giả sử dụng đậm chất ngôn ngữ đời thường của những người Nam Bộ hiền lành.
Những câu nói hài hước mang đậm tính khẩu ngữ giúp người đọc cảm thấy
quen thuộc, dễ hiểu. Đó như là “đặc sản” tiêu biểu phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Trí.
Giọng điệu tưng tửng hài hước được sử dụng nhiều trong việc miêu tả
ngoại hình, hoàn cảnh và tình yêu của nhân vật. Về miêu tả ngoại hình nhân
vật, trong truyện Nhí đen, Màu da của Nhí được miêu tả: “Bà mẹ nó, cha trắng,
mẹ như bông bưởi, bà cô cũng không đen vậy mà nó đen thui” (Nguyễn Trí,
2016). Tác giả lí giải cái màu da “đen thui” của Nhí đen một cách hài hước:
117
“Có lẽ cái con lăn quăn của cha khi đặt vào bụng mẹ bị xỉn rượu chăng? Hay
cái trứng của mẹ có mầm phản kháng? Dám cả hai lắm à” (Nguyễn Trí, 2016).
Hoặc trong Quay đầu là bờ, Ngoại hình của Mười cũng được diễn đạt bằng
giọng điệu bông đùa dí dỏm: “Chồng Mười người Đồng Nai, làm chung công
ty. Hải thua Mười bốn tuổi – chà- chinh dữ nha. Bù lại Mười Xinh, trẻ trung,
cười có duyên, vóc dáng cao ráo, mà cao thiệt, con gái mét sáu hai là nhất rồi.
Nước da Mười không trắng, tuy bánh ít nhưng bánh ít đường cát chứ không
phải đường thùng” (Nguyễn Trí, 2014). Trong Nào ai biết được, ngoài hình
của Lò Huy Tèo được giới thiệu hài hước: “Cũng tai mắt mũi họng như bất kì
thằng nào trong thị trấn, cao mét sáu như ai, nhưng tạo hoá thật ác độc, đã bắt
xấu trai thì chớ ông còn không cho Tèo một chút duyên. Người vậy thì ông tạo
ra chi trên trần gian này hỡi cao xanh ác độc?” (Nguyễn Trí, 2014). Trong
“Nước da ngăm ngăm nên gọi là Linh khơme, làm thợ điện. Áo liền quần, tóc
không bồng bềnh nhưng gợn sóng. Cái gì ở Linh cũng toát lên vẻ duyên dáng
và quyến rũ, nheo mắt cũng duyên, chun mũi cũng duyên, cười đã duyên lại
thêm cái răng khểnh. Trước khi có vợ Linh có cả một dãy người yêu. Đã đẹp
trai lại trăng hoa” (Nguyễn Trí, 2014). Bên cạnh ngoại hình, hoàn cảnh “thảm
đạm” của nhân vật được tác giả miêu tả bằng giọng điệu hài hước, từ đó cái
đau thương, bi kịch của hoàn cảnh được giảm nhẹ đi phần nào. Trong Vô
thường, “hoàn cảnh goảnh càng” vì vừa nghèo, vừa mồ côi của Sạch Nhách
Bệnh viện huyện đưa má nó đi cấp cứu ở Từ Dũ vì bị băng huyết. Sanh ra
thằng nhỏ thẩy vô tủ kính thở ôxy. Mẹ trẻ chết được xác định là đã quá
thờ ơ trong khi thai nghén. Cha nó kể rằng hồi ăn ở với nhau tháng nào
vợ cũng hành kinh cả nửa tháng. Thấy không sao, thêm túng quá nên cho
qua, tới khi sanh thì quá muộn. Nhà có sào ruộng cha nó bán không đủ
tiền thuê xe và một đơn vị máu, má nó đành ra nghĩa địa. Còn Sạch Nhách
được tác giả kể bằng giọng điệu hóm hỉnh lôi cuốn người đọc:
118
được bà nội cho bú bình…”
(Nguyễn Trí, 2014).
Trong Chả có gì bất thường, hoàn cảnh của Linh được xem là tận cùng
của khổ đau, vậy mà qua giọng văn của tác giả mọi sự việc diễn ra như sự thật
hiển nhiên. Cha Linh tai nạn giao thông “chết thẳng cẳng”, mẹ Linh rắn cắn
một phát “vậy là đi”, chồng Linh “bị văng cả tám mét đầu đập vô thanh chắn
thép, mặt mũi nó tanh banh, óc não văng tùm lum...Tao mà bắt tay nó như mọi
bữa là chung xuồng về Quán Bà Hớn rồi” (Nguyễn Trí, 2014). Những cái chết
được tác giả kể lại tưng tửng như thể chả có gì bất thường vậy. Trong Sáu Lém,
giọng điệu tưng tửng của nhân vật xuất hiện ngay cả khi nó là những hoàn cảnh
đau buồn nhất. “Sáu Lém nhào vô dây máu ăn phần, thêm cái bà cô ruột đơm
lời không hay, vậy là ông con xách mã tấu với cái miệng nồng nặc mùi hèm tìm
cha con Sáu tí huyết.
- Xin được không?
- Dạ được. Được nên vô nhà đá bốc lịch với chú bác cho đủ với dòng họ
rồi anh Ba.
- Mấy cuốn?
- Dạ bốn cuốn
- Dữ vậy sao?
- Trời. Nó vung mã tấu quất thằng Biển ba nhát, nằm viện cả tháng mới
lại hồn (Nguyễn Trí, 2016).
Giọng điệu dí hỏm, tưng tửng cũng được tác giả sử dụng nhiều trong chuyện
kể tình yêu của nhân vật. Văn chương của Nguyễn Trí là ngôn ngữ của lời ăn
tiếng nói hàng ngày, Phương ngữ cùng sự hài hước quen thuộc của người Nam
Bộ được Nguyễn Trí đưa vào trong các sáng tác của mình đã trở thành một đặc
trưng của nghệ thuật Nguyễn Trí. Trong Buồn như buổi cuối năm, tác giả nói
về tính sợ vợ của Dũng Lai bằng giọng điệu tưng tửng của người Nam Bộ:
119
“Dũng chưa biết sợ ai, cha mẹ nói thì lầm lầm lì lì. Vậy mà sợ vợ buồn mới
chết cha. Đúng là đồ mê gái. Mà thử hỏi trên thế gian này thằng đàn ông nào
không mê gái? Chỉ thử một thằng coi chơi” (Nguyễn Trí, 2014). Trong Tôi có
lỗi cho tôi xin, để lí giải lí do vì sao Huy “ái tình sành hơn cả ca nhạc” nhưng
các cô gái yêu Huy đều lên “ghe hoa” về làm dâu xứ lạ. Tác giả viết bằng giọng
điệu hài hước: “Em biết anh có tài, em yêu anh lắm lắm, nhưng gia đình bảo
em bảo đâu có ai chẻ đàn ra mà ăn? Đâu có ai đem da trống ra mà nấu nước
lèo. Với lại ba thằng nghệ sĩ nửa mùa - mấy bà già nói - thấy nó uống rượu là
tao hết hồn, bàn nào cũng dzô trăm phần trăm… Quan trọng nhất là nó thay
đồ như thay áo, lấy mấy thằng đó, ba bữa nuôi con rơi chết bà bây luôn”
(Nguyễn Trí, 2014). Giọng điệu tưng tửng, hài hước không chỉ là lời tác giả,
lời người kể chuyện, mà còn ở lời của nhân vật. Đoạn hội thoại giữa Huy và
Hạnh khi tình yêu giữa họ bị ngăn cản do không môn đăng hộ đối. “Chao ôi
tình yêu đâu đơn giản chỉ anh và em. Nó dây mơ rễ má tùm lum. Thuận buồm
mát mái còn bị bão tố đập te tua, huống chi anh em nhà em, cả má em khinh
anh thì chớ còn nhục mạ như vầy anh biết phải làm sao? Huy điềm đạm nói với
tình thương. - Anh chả muốn một tối nào đó bị cái xe điên đụng chết. Anh bó
tay thôi cưng” (Nguyễn Trí, 2014). Trong Trời cao đất thấp, tác giả nói về tình
yêu của Út ngắn gọn, tự nhiên: Hai mươi sáu tuổi Út bị nhỏ tên Loan, người
miền Trung, giương cung bắn một mũi tên ái tình, Út lãnh một phát ngay tim
(Nguyễn Trí, 2016). Trong truyện Đồ tể, tác giả kể về mối tình Châu - Hạnh,
vì sao họ nên duyên vợ chồng, nghe vừa bông đùa, khôi hài mà tự nhiên: “Vậy
là cả hai gặp nhau trong bóng tối. Bóng tối và rượu làm Châu hết nhát. Anh
nắm tay cô, cô nép đầu vào vai anh, anh ôm cô, hôn lên mắt lên má lên môi cô.
Chỉ vậy thôi. Ừ, chỉ vậy thôi mà cô có bầu mới chết ông bà cố nội luôn…Bạn
trong tuyển bóng chuyền xúm nhau phát một khoản rừng rồi dựng lên một căn.
Tục gọi là lều tranh, trong đó có hai tim, chả vàng vọt gì nhưng cũng gọi là
hạnh phúc” (Nguyễn Trí, 2014). Từ khoảng tình yêu đến nghĩa vợ chồng, Đồ
120
tể không có chữ tình yêu, cũng không có sự mùi mẫn của tình yêu mà thay vào
đó là sự hài hước. Có như vậy mới khoả lấp sự bạo tàn của nghề đồ tể.
Mỗi câu chuyện của Nguyễn Trí là mỗi số phận, mỗi cảnh đời được nhà
văn bắt gặp trong cuộc mưu sinh đầy gian khổ của mình. Rồi ông tái hiện họ
lên trang văn. Bởi rất thật nên vô cùng sinh động, đọc đến đâu ta cũng gặp
những kiếp người cùng khổ nhưng truyện nào cũng thấm đẫm tình người.
Nguyễn Trí viết bằng chất giọng tưng tửng, bông đùa, khôi hài đề phần nào bớt
đi cái đau thương. Tác giả kể về nhân vật tưng tửng, khôi hài để làm dịu bớt cái
ác liệt bởi theo Nguyễn Trí cuộc sống còn có nhiều cái rầu lòng hơn nữa. Theo
khảo sát, giọng điệu hài hước, tưng tửng xuất hiện hầu hết các ở phần đầu các
truyện ngắn. Giọng điệu này dùng để kể về ngoại hình, gia cảnh, và diễn biến
tình yêu của nhân vật. Phần lớn, đó là quá khứ của nhân vật, là giai đoạn lúc trẻ
và khỏi nghiệp, chứ không phải nhân vật đó ở hiện tại. Giọng điệu tưng tửng
này dần biến mất vào giữa và cuối truyện. Thay vào đó là giọng gắt hơn hoặc
tình hơn. Đó cũng là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Khi cuộc sống còn khó
khăn, con người đến nhau bởi nghĩa tình. Trong truyện Nguyễn Trí, biết bao
chàng trai đẹp và tài kết duyên cùng những cô gái điếm, những cô gái qua nhiều
lần đò. Biết bao cô tiểu thư, học thức, bất chấp sự cản trở của gia đình để lấy
những anh chàng nghèo, xấu, mồ côi. Nhưng qua rồi cái thuở khốn khó, khi
cuộc sống đổi mới, đô thị phát triển, con người xa dần với cái nghèo “tận cùng”,
mọi người dần thay đổi. Tình nghĩa vợ chồng thay đổi. Ngoại hình lãng tử của
những chàng thanh niên ngày nào dần bị huỷ hoại bởi rượu. Sự thuỷ chung,
hiền lành, chất phát của những thiếu nữ cũng biến mất. Thiết nghĩ chính nhân
vật cũng không nghĩ họ thay đổi nhiều đến thế. Những đứa con của họ cũng đủ
đầy hơn nhưng sa vào của tệ nạn xã hội. Biết bao bi kịch xảy ra khi cuộc sống
càng văn minh. Chính vì vậy, giọng điệu hài hước, tưng tửng chỉ xuất hiện đầu
truyện khi kể về quá khứ nhân vật. Có lẽ để bớt đi cái dữ dội, đau khổ như
người ta vẫn nói là hiện thực trần trụi trong mỗi câu truyện.
121
3.2.2.3. Giọng điệu thương cảm
Tình cảm xót thương đối với nhân vật đã được Nguyễn Trí bộc lộ và thể
hiện trong những câu văn giàu lòng thương cảm. Nguyễn Trí không nói đến
những điều gì quá to tát, vĩ đại về giai cấp, về chính trị, ông đã khơi vào mạch
sâu những số phận con người, khai thác bi kịch đời sống của con người trong
những điều vụn vặt, “xoàng xĩnh”. Thông qua giọng điệu thương cảm tác giả
thể hiện cái nhìn đầy yêu thương, trân quý cho số phận con người. Trong đó,
nổi bật nhất là tầng lớp lao động, mưu sinh dưới đáy của xã hội và thân phận
những người phụ nữ truân chuyên. Sau cái sắc lạnh của hiện thực trần trụi là
nỗi buồn về cuộc sống của trái tim giàu yêu thương.
Theo khảo sát của chúng tôi, giọng điệu thương cảm trong các truyện
ngắn của Nguyễn Trí được thể hiện trong những lời trữ tình ngoại đề, những
đoạn độc thoại nội tâm xuất hiện trong tác phẩm. Trong truyện Đoạn trường,
Khi cùng Sơn đến thăm dì Tư, chứng kiến ngôi nhà “mái tôn lỗ chỗ. Mấy cây
đòn tay bằng gỗ, mọt rơi trắng xoá” mà lòng đầy chua xót: “Chao ôi là đau
đớn, tôi thấy rõ vẻ ngơ ngác trong mắt bà Tư. Chắc bà hi vọng lắm niềm thương
yêu của hai đứa con chồng mà bà rất nhiều tâm huyết mong chúng nên người.
Giờ đây cái đứa bà không hiểu mấy, đã ít nhiều nặng nề với bà, lại thề nầy đây.
Bà có cần không một trăm triệu ấy? Cần chứ, nhà mục nát, ông anh bà chị mỉa
mai. Số tiền ấy ít nhiều cũng tạm cho bà khi già xế bóng. Vậy mà... trời ơi”
(Nguyễn Trí, 2013). Giọng điệu thương cảm đó như một chút tình vương lại
trong tác phẩm. Niềm tin về tình người luôn xuất hiện trong truyện ngắn của
Nguyễn Trí là thế. Trong Ngoại tình, tác giả nhìn nhận hành động vũ phu của
Chín Kì đầy cảm thông qua lời trữ tình ngoại đề. “Đàn ông, thật mà nói, mấy
thằng đánh vợ là mấy thằng tổ sư sợ vợ. Đánh vợ là để giải phóng cái ẩn ức
không nắm được tâm tình vợ. Những gã ấy đã nhìn thấy một cái gì đó xa xôi
trong mắt trong đầu ấp tay gối của mình và có một nỗi sợ vô hình làm hoang
mang hắn. Cái cảm giác em bên anh mà hồn em đâu làm hắn thấy cô đơn. Có
122
rượu cô đơn hoá giận dữ và thế là thượng tay hạ chân. Vậy đấy, mấy thằng này
đáng thương hơn đáng trách” (Nguyễn Trí, 2014). Giọng điệu trữ tình, thương
xót được bộc lộ nhiều nhất qua lời thoại của nhân vật. Trong các truyện ngắn
Nguyễn Trí là Ngoại tình có độ lạnh nhất nhưng vẫn gợi lòng thương. Người
nghèo vẫn cứ khổ ngay cả khi họ có tiền. Trong Sau một cái chết, tình người
lại một lần nữa hiện hữu giữa cuộc đời tàn nhẫn: “Bây giờ có hình phạt nào đi
chăng nữa cũng không làm người chết sống lại. Vả lại trong thời gian họ bị
tạm giam, gia đình của tất cả đã phục thiện rất nhiều, họ đã rất chân tình với
gia đình tôi. Vì vậy tôi xin quý tòa hãy cho họ một cơ hội” (Nguyễn Trí, 2013).
Giọng điệu thương cảm của người cha này là sự bao dung cao cả. Đấng sinh
thành nào không đau xót trước cái chết của con mình. Nhưng hơn ai hết ông
hiểu rõ cái nghèo, cái dốt, do môi trường sống không lành mạnh đã đẩy những
con người ngu muội kia vào vòng lao lý. Từng lời lẽ của ông nghe đầy cảm
thương nhưng cũng đầy chua xót khi xin giảm tội cho những kẻ đã giết chết
đứa con máu mủ của mình. Trong Thiên sứ, khi đồng tiền lên ngôi, người với
người sống với nhau vẫn thấm đẫm nghĩa tình. Tỉnh lùn trong nhân vật như một
ông bụt, xuất hiện và cứu rỗi cuộc đời Lan
- “Vì sao em khóc?
- Rồi. Anh cho em mượn tiền đóng phòng trọ. Từ từ, đừng có khóc, khóc là
không suy tính được gì đâu....” (Nguyễn Trí, 2014). Mọi thứ Tỉnh làm với Lan
đều cao quý, từng câu nói của Tỉnh nói với Lan thấm đẫm tình người, tính nhân
văn “Lan về trọ chuẩn bị đồ đạc đi. Trưa ghé đây. Anh sẽ có cho Lan một triệu.
Anh sẽ cố. Đừng bán thân Lan ạ. Được một lần sẽ có lần thứ hai, cuối cùng em
sẽ sa vào vũng lầy lội nhất của cuộc đời” (Nguyễn Trí, 2014). Vậy là Tỉnh thầm
lặng đi bán máu của mình để đưa tiền cho Lan. Đây có lẽ là câu chuyện tình
nhất trong các truyện ngắn của Nguyễn Trí. Ở đó, người đọc thấy được tấm
chân tình giữa người với người thất đáng trân quý. Đoạn cuối truyện, tác giả kể
việc Lan về đoàn tụ với chồng, còn Tỉnh “Ở đó có một người dị dạng, ngồi lặng
123
yên buồn bã dưới một gốc dầu. Lâu lâu có một người đến trao đổi gì đó...Người
dị dạng đứng lên đi, một lát lại về, lại yên lặng...đầu cúi thấp và cái mũ sụp...”
(Nguyễn Trí, 2014). Giọng điệu thương cảm này là của tác giả dành cho nhân
vật của mình. Tác giả thương cho Tỉnh, cho những thân phận tội nghiệp đang
vùng vẫy mưu sinh với đời, cũng mơ một hạnh phúc lứa đôi như bao người.
Trong Ở thành phố, dẫu hiện thực trần trụi đến mức nào thì những người lao
động dưới đáy xã hội vẫn yêu thương, bao bọc, và che chở cho nhau. Tất cả các
cô gái trong nhà chứa của Hạnh đều gọi già Hưng bằng ba. Những cô ở miệt
Cà Mau sóc trăng gọi là tía. Giữa thành phố nhiều cạm bẫy, lọc lừa vẫn còn
“ – Lấy chồng đi con gái.
- Chồng ở đâu mà lấy hả ba?
- Thì về quê…Nè, con bỏ cái nghiệp nầy đi, hãy nghĩ đến một ngày rất
gần, không còn nhan sắc nữa, sẽ ra sao?
- (Nguyễn Trí, 2013).
những câu chuyện giữa ông Hưng và Quyên rất đỗi thân tình.
Không chỉ an ủi mà còn là hành động trượng nghĩa, hi sinh tính mạng
mình để bảo vệ kẻ yếu. Khi Trâm bị bọn giang hồ bắt nạt, ông già lấy thân mình
ra đỡ, tiếp tục chịu nhục, bò dậy, và van xin: “Thôi mà em…cho chú xin…con
chú có gì không phải, cho chú xin…” (Nguyễn Trí, 2013). Lão già lại tiếp tục
khi bị hất sõng soài ngoài đường: “Thôi mà em. Có gì em cứ đánh chú, đừng
đánh con gái chú tội nghiệp” (Nguyễn Trí, 2014). Khi Trâm bị bắt đi cải tạo,
vợ chồng già Hưng cũng thăm nom như một ngươi thân. “Bỏ người trong bước
tận là đâu có đạo lí. Không hay ho gì, nhưng ông đã bước quá nhiều qua những
khấp khểnh đời. Thêm một người thân sao lại phân vân” (Nguyễn Trí, 2013).
Chính tình cảm mà Trâm nhận được từ già Hưng đã giúp cô lấy lại niềm tin
cuộc sống, bởi vì có người vì cô mà thí mạng. Giọng điệu trong truyện Ở thành
124
phố thể hiện tình cảm của nhà văn đối với nhân vật, đối với những mảnh đời
bất hạnh, những hồng nhan đa truân. Tác giả thấu hiểu họ, đồng cảm, chia sẻ
với họ, cái đói, cái nghèo khiến người ta ra nông nỗi như vậy. Giọng điệu
thương cảm khiến người đọc quên đi hiện thực khốc liệt mà muốn rưng rung
cảm động bởi tình người. Câu chuyện, thế giới trong truyện ngắn của Nguyễn
Trí là cái ác, “không truyện nào yên ổn mà rất bất an và mong manh” (Nguyễn
Trí, 2014). Nhưng nếu đọc lại nó ta sẽ thấy tình người luôn hiện hữu trong mỗi
trang văn. Nguyễn Trí đã dành tấm lòng cảm thông cho nhân vật của mình. Họ
là những con người đáng thương, đáng trân trọng, chỉ vì hoàn cảnh, vì nghèo
đói đẩy họ vào sa ngã, vào tủi nhục. Tác giả đề cao vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn
họ. Giọng điệu thương xót, cảm thông trong giọng văn Nguyễn Trí được bộc
lộ một cách nhẹ nhàng, lắng sâu trong niềm tin yêu, trân trọng con người, trong
tình yêu của con người. Chính điều đó là cơ sở tạo nên một phong vị trữ tình,
đằm thắm cho những trang văn của Nguyễn Trí.
125
Tiểu kết chương 3
Có thể nói, các tác phẩm của Nguyễn Trí bày tỏ sự lo lắng của tác giả
trước một nông thôn đói nghèo, thất học, bất an, bị xâm lấn bởi những sản phẩm
ô hợp của đô thị. Đồng tiền cũng khiến con người trở nên mất gốc, những gì
thuộc về văn hoá nông thôn đều dần biến mất trước sự xâm thực của đô thị.
Không chỉ phản ánh hiện thực của đời sống nông thôn, tác giả còn phản ánh
cảm quan của minh về thời đại, giúp người đọc hình dung được sự phát triển
của xã hội Việt Nam đương đại. Để thể hiện tốt nội dung đó, phương thức nghệ
thuật đóng vai trò nhất định. Chính hình thức trần thuật tuyến tính, đảo tuyến,
đan xen và giọng điệu triết lí, hài hước và thương cảm đã giúp tác giả tái hiện
lại một nông thôn mang đầy hiểm hoạ trước sự phát triển của đô thị. Đồng thời,
thể hiện niềm tin, hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
126
KẾT LUẬN
Phê bình sinh thái đang là trào lưu năng động trên thế giới hiện nay. Phê
bình sinh thái tìm giải pháp về mặt tư tưởng, qua văn chương thay đổi cách
nhìn về mối quan hệ về mối quan hệ con người với tự nhiên. Ở Việt Nam, trước
bối cảnh khủng hoảng môi trường, khuynh hướng văn xuôi sinh thái đã xuất
hiện để thể hiện sự quan tâm đến các vẫn đề sinh thái nhằm thức tỉnh nhân loại
trước nguy cơ. Sự thay đổi về mô típ, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, cảm
hứng của văn xuôi sinh thái sau 1975 đã tạo nên một diện maọ mới cho văn
học.
Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, cảm hứng chủ đạo trong văn xuôi của
Nguyễn Trí là cảm hứng phê phán. Trong mối quan hệ giữa thiên nhiên và con
người, tác giả chỉ ra căn nguyên của việc khai thác tận diệt tự nhiên, chiếm đoạt
không gian hoang dã xuất phát từ tư tưởng thống trị tự nhiên và ý thức “rừng
vàng biển bạc” trong tiềm thức của con người. Con người trở thành “tội đồ”
với tự nhiên khi không chú ý đến sự phát triển bền vững. Và trong một chừng
mực nào đó, tự nhiên đã có những phản ứng đáp trả hành động thô bạo của con
người. Vì thế, tác giả gửi gắm thông điệp về thái độ và hành xử đúng mực, hài
hoà của con người với tự nhiên. Trước sự bất an của đô thị hoá, truyện ngắn
Nguyễn Trí bỏ cái nhìn lãng mạn về nông thôn để nhìn nhận hiện thực một cách
trần trụi nhất. Văn xuôi của Nguyễn Trí đã bóc nêu rõ quê thanh bình đã bị biến
dạng bởi sự biến động của thời buổi kinh tế thị trường: đô thị bức tử tự nhiên,
những xáo trộn nhân sinh, những tệ nạn xã hội, áp bức người lao động, bất công
với phụ nữ; những vấn đề của đô thị như ô nhiễm môi trường, sự bất ổn trong vấn
đề giải tỏa đất đai… Từ đó, Nguyễn Trí phản tỉnh về nguy cơ đánh mất nhân
tính và rạn nứt các mối quan hệ trong đời sống cộng đồng. Tuy nhiên, với cái
nhìn đầy nhân văn, Nguyễn Trí vẫn cho thấy niềm hy vọng về một cuộc sống
tốt đẹp hơn nếu con người nhận thức được tầm quan trọng của mình trong việc
thay đổi xã hội.
127
Nguyễn Trí đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật phù hợp để tiếp cận vấn
đề sinh thái một cách hiệu quả. Đối với sinh thái tự nhiên, nghệ thuật tạo dựng
không gian bối cảnh, ngôn ngữ mang tính cá thể hoá cao đã thể hiện hiệu quả
những cảnh khai thác, cuồng nộ, cướp bóc, chém giết, … ngồn ngộn trước mắt
người đọc. Hiện thực chua chát, khô khốc, man rợn của con người ở nơi thâm
sâu, kì bí của đại ngàn hiện lên rõ rang hơn bao giờ hết. Đối với sinh thái nhân
văn, việc sử dụng nghệ thuật trần thuật tuyến tính, đảo tuyến cùng giọng điệu
hài hước, triết lí, thương cảm đã giúp tác giả thể hiện hiện thực đô thị hoá trần
trụi và ẩn tàng nhiều hiểm hoạ. Với những sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn
Trí đã mang đến những tác phẩm văn chương sinh thái đúng nghĩa. Chúng đáp
ứng được tính tất yếu và cấp thiết, thể hiện sự gắn bó đời sống văn chương và
xã hội, phát huy trách nhiệm nhà văn trong việc bảo vệ môi trường và ngăn
chặn các nguy cơ sinh thái.
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
Bùi Thanh Truyền. (2017). Môi trường kêu gọi, văn chương đáp lời, Báo
tuổi trẻ.
Bùi Việt Thắng. (1991). Văn xuôi gần đây với quan niệm con người, Tạp chí
văn học số 6/1991.
Cheryll Glotfelty. (1996). “Introduction:Literary Studies in an Age of
Enviromental Crisis
Darwin C. (2011). Nguồn gốc các loài – Qua con đường chọn lọc tự nhiên hay
sự bảo tồn những chủng ưu thế trong đấu tranh sinh tồn, Trần Bá Tín dịch,
Hà Nội: Nxb Tri thức.
Đặng Thị Thái Hà. (2014). Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua
tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư),
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Đặng Thị Thái Hà. (2016). Vấn đề sinh thái đô thị trong văn xuôi Việt Nam
thời kì đổi mới, http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/van-
de-sinh-thai-do-thi-trong-van-xuoi-Viet-Nam-thoi-ki-doi-moi7607.html.
Đỗ Văn Hiểu. (2012). “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học
mang tính cách tân”, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Thành
phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh: số15 (X2), tr 48
– 54.
Hà Nguyên Quyến. (2016). Thung mơ, http://vannghequandoi.com.vn,
Hoàng Ngọc Điệp. (2016). Nguyễn Trí nhà văn của những phận nghèo, Báo
Đồng Nai điện tử ww.baodongnai.com.vn,
Hoàng Tố Mai. (2017). Phê bình sinh thái là gì?, Hà Nội: Nxb Hội nhà văn.
Hồ Anh Thái. (2013). “Lời giới thiệu: Sự hấp dẫn của đời sống"/ Nguyễn
Trí Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ. .
Hồng Ngọc. (2014). Nhà văn Nguyễn Trí nhận giải thưởng văn học năm 2013,
vitinews.net,
129
http://trandinhsu.wordpress.com,
http://www.baodongnai.com.vn.
Huỳnh Như Phương. (2013). Mùa xuân, sinh thái và văn chương,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn,
Huỳnh Như Phương. (2017). Tác phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Ikeda D. và Peccei A. (1993). Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI, Trương
Chính, Đông Hà dịch, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
Kim Ngân. (2014). “Nguyễn Trí: Với tôi văn chương phải khiến con người trở
nên hướng thiện”, Báo Đồng Nai.
Lại Nguyên Ân. (2003). 150 thuật ngữ văn học, Hà Nội: Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Lê Dục Tú. (2012). Đề tài nông thôn trong truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới, http://vannghequandoi.com.vn.
Lê Huy Bắc. (1988). Giọng và giọng điệu văn xuôi hiện đại. Tạp chí Văn học
số 7.
Lê Huy Bắc. (1998). Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí Văn
học số 9.
Lê Minh Khuê. (2015). “Đẹp và thiện”, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, Hà Nội,
số 240.
Lê Thiếu Nhơn. (2011). Cảm hứng đô thị và sự đắn đo thân thận,
vnca.cand.com.v
Mặc Lâm. (2014). “Nói chuyện với tác giả Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương”,
mục Văn hóa nghệ thuật, www.rfa.org,
Nông Hồng Diệu. (2014). Nguyễn Trí: Tiểu sử gây sốt, ww.tienphong.vn.
Ngọc Bi – Thiên Hương. (2014). Nhà văn Nguyễn Trí không viết được gì sau
khi đoạt giải vì quá sướng, thanhnien.vn.
130
Nguyễn Đăng Điệp. (2017). Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa – tiếng nói
toàn cầu, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.
Nguyễn Thị Bình. (1996). Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt nam sau
1975 khảo sát trên nét lớn, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Nguyễn Thị Bình. (2012). Văn xuôi Việt Nam sau năm 1975, Hà Nội: Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2013). “Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu
trúc”, Văn học hậu hiện đại – lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên,
Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm, , tr 25 - 31.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2013). Tô tem sói của Khương Nhung từ lý thuyết sinh
thái, Báo cáo khoa học, Thành phố Huế: Nxb Đại học Sư phạm Huế.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2014). Sáng tác và phê bình sinh thái - tiềm năng cần
khai thác của văn học Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phát triển văn
học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2016). “Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần
Duy Phiên”, Tạp chí Sông Hương, số 317.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2017). Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương”,
Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.
Nguyễn Trí. (2013). Bãi vàng, đá quý, trầm hương Thành phố Hồ Chí Minh:
Nxb Trẻ.
Nguyễn Trí. (2014). “Cảm ơn nhân vật của tôi”, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam,
số 235, tr. 90-93.
Nguyễn Trí. (2014). Chủ nhân bất ngờ của giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam
2013 “ Viết như là … ngồi nhậu”, wwwbaomoi.com.
Nguyễn Trí. (2014). Đồ tể, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
Nguyễn Trí. (2015). Thiên đường ảo vọng, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trí. (2016). Ảo và sợ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
Nguyễn Trí. (2016). Bay cao thì mặc bay cao, Hà Nội: Nxb Văn học.
131
Nguyễn Văn Dân. (2004).Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Hà Nội: Nxb
Khoa học Xã hội.
Nguyễn Văn Kha. (2006). Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt
Nam 1975 – 2000, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ
Chí Minh:
Nhật Lệ. (2014). Nhà văn Nguyễn Trí: “Tôi cám ơn đời, đã cho tôi cái khổ, cái
nghèo”, laodong.com,
Nhiều tác giả. (2016). Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (Đỗ Văn
Hiểu dịch từ tiếng Trung: Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung
Quốc và thế giới), http://tapchinhavan.vn/news,
Nhiều tác giả. (2018). Phê bình sinh thái: lí luận và ứng dụng, Thành phố Hồ
Chí Minh: Nxb Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Oliver G. (1997). Sinh thái học nhân văn, Huy Yên, Võ Bình, Đỗ Ngọc Hải
dịch, Hà Nội: Nxb Thế giới.
Phạm Xuân Nguyên. (2001). Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá Thông
tin.
Tiểu Quyên. (2014). Nhà văn Nguyễn Trí – kẻ gom bão, nhặt bi ai,
news.zing.vn,
Thi Thi. (2014). Nhà văn Nguyễn Trí hạt bụi ôm hình hài lớn dậy,
hanoimoi.com.vn,
Thornber K. (2011). Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
Thornber K. (2013). Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải
Ngọc dịch), http://hieutn1979.wordpress.com,
Trần Đắc Luân (2014). “Nhà văn Nguyễn Trí: Nỗi đau cuộc đời, sức nặng của
văn chương”, Báo Văn nghệ công an nhân dân, http://cand.com.vn,
Trần Đình Sử. (2015). Phê bình sinh thái tinh thần,
Trần Lê Bảo chủ biên. (2005).Văn hóa sinh thái - nhân văn, : Hà Nội: Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội.
132
Trần Lê Bảo. (2011). Giải mã văn học từ mã văn hóa, Hà Nội: Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh. (2016). Con người và tự nhiên trong văn
xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Hà Nội: Nxb Giáo
dục Việt Nam.
Trần Thị Ánh Nguyệt. (2014). “Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư từ góc nhìn phê bình sinh thái”, Tạp chí phát triển khoa học và công
nghêp 17, (X3).
Trần Thị Hà. (2011). Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam, Luận
văn thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Trịnh Thị Bích Liên. (2008). Phóng sự Việt nam trong môi trường sinh thái
văn hóa thời kì đổi mới, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà
Nội.
Trương Chí Hùng. (2014). – K.SP Đọc “Bãi vàng, đá quý, trầm hương, của
Nguyễn Trí, enews.agu.edu.vn,
Vũ Minh Đức. (2016). Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn
từ lí thuyết phê bình sinh thái, nguvan.utb.edu.vn.
Vũ Quang Mạnh. (2011). Môi trường và con người - Sinh thái học nhân văn,
Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.