ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH ÂN VĂN

NG UYỄN THỊ KIM DUNG

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHÊ LAN VIÊN

SAU CÁCH MẠNG 1945

LUẬN VĂN TH ẠC s ỉ KHOA H Ọ C N G Ữ VÃN

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số: 5.04.33

Người hướng dẫn khoa học:

PG S-TS N G U Y Ễ N BÁ T H À N H

Hà Nội 2005

M ò i h â n tt'Otiij o ẩ m ơn

^7d ì ,tin ('hàn th à n h etítit ott r/ )C ịS — lỹJẴ Q(íỊttijễit (8«

Cĩhtnth, nạtiời thầiẬ đã tận tình luiótitị dẫn tồi trout/ suôt

quá trìu li hoàn ỉ hành luận từín. £7i5/

oúo ơô trottíL Uliúu (V àn học ^ĩrtiồntL rĐ íù họo DCLioa họe rẦ )ã

%

%

%

h ò i t)à Q íítâ tt o ả n it ã cho t ô i ễ th ữ n ạ ý U iê ti đ ó n (Ị tịó p q u í

ạiá.

Qiíuìn đây., tôi eũníị jrin etỉtn ơ’tt eáe itètiíị nụhìệp, ọJa

đ ìn h , f>ạn bè th ă n th iê í đ ã (Tộttí/ lừ ên , íịìú p đõ’ tồ i trcm ạ họe

tiịp từỉ nạhiêtt eúu.

IHjii nội, tháng. 4 năm 2005

MỤC LỤC

Trang

A. PH Ầ N M Ỏ Đ Ẩ U .................................................................................................................................... ]

1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1

2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................2

3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.............................................................................9

4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 9

5. Bố cục của luận văn..............................................................................................10

B. PH ẦN NỘI D U N G .............................................................................................................................11

C h ư ơ n g l . KHÁI NIỆM CÁI TÔI VÀ CÁ! TÔI TRONG THƠ TR Ử TÌN H ........................... 1 1

1.1. Cái tỏ i...................................................................................................................... 11

1.1.1. Từ góc độ triết học và tâm lý học.................................................................. 11

1.1.2. Từ góc độ sáng tạo văn học nghệ thuật........................................................ 14

1.2. Cái tôi trong thơ trữ tình................................................................................. 17

1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình............................................................................... i 7

1.2.2. Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ............................................................. 19

C h ư ư n g 2 . s ự PHÁT TRIỂN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THO

CHÊ LAN VIÊN TỪ “ĐIÊU TÀN” ĐẾN “ HÁI THEO MÙA”...................................2 6

2.1. Cái tỏi cò đơn, cái tỏi hiệp sĩ.............................................................................26

2.1.1. Cái tôi cô đơn buồn đau................................................................................. 26

2.1.2. Cái tôi hiệp sĩ.......................................................................................................31

2.2. Cái tòi chiến s ĩ, cái tôi nhãn danh............................................................ 38

2.2.1. Từ thung lũng đau thương ra cánh đổng vui................................................. 38

2.2.2. Cái tôi trữ tình ẩn khuất sau cái ta................................................................ 48

2.2.3. Cái tôi đời thường, cái tôi riêng tư.................................................................. 56

C h ư ơ n g 3. s ự VẬN ĐỘNG VÀ BIẾN ĐỔI CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THO

CHÊ LAN VIÊN T Ừ “ HOA TRÊN ĐÁ” ĐẾN “ DI CẢO THƠ”........................ 6 5

3.1. H ành trình tìm lại chính mình: Ta là ai? .....................................................65

3.1.1. Cái tôi đa cảm, hoài nghi và hi quan............................................................ 66

3.1.2. Trớ lại câu hỏi: Ta là ai?.................................................................................73

3.2. Khát vọng sông, khát vọnịỉ sáng tạo............................................................80

3.2.1. Khát vọng sống................................................................................................81

3.2.2. Khát vọng sáng tạo............................................................................................ 86

C h ư ư il g 4: MỘT CÁ TÍNH SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO...................................................................... 9 5

4.1. Tư duy thơ đặc sác........................................................................................... 96

4.1.1. Liên tưởng, tưởng tượng................................................................................ 96

4.1.2. Đôi lập............................................................................................................ 100

4.2. Hình ảnh thơ đa dạng, phong phú...........................................................102

4.2.1. Hình ảnh tượng trưng siêu thực...................................................................102

4.2.2. Sự liên kết giữa các hình ảnh thơ................................................................109

4.3.

(ỉiọ n g điệu thơ vừa hùng tráng vừa bi thương...................................... 114

4.3.1. Giọng điệu hùng tráng mang tính sử thi.................................................... 114

4.3.2. Giọng điệu bi thương trầm buồn với nhiều cung bậc...............................116

c . PHẨN KẾT LUẬN............................................................................................................. 120

* Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................... 123

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO C H Ọ N ĐỂ TÀI.

1.1. Cái tôi là trung tâm tinh thán của con người, của cá tính người. Cái tôi

làm nên muôn mặt của đời sống, cái tôi cũng làm giàu cho thi ca. Xem thơ trữ

tình như một biểu hiện của chủ thể cụ thể, Hêghen cho rằng:“Cứ/ỉ phải khẳng

íỉịnh một chủ th ể cụ th ể - nhà thơ như là điểm trung tâm và nội dung đích thực

của tlìơ trữ tình". ở thơ trữ tình ‘Vá nhân là trung tâm trong quan niệm và tình

cảm nội tại của /ỉó”[36,105]. Như vậy, tìm hiểu cái tôi trữ tình là tìm hiểu một

phương diện chính yếu của thơ trữ tình.

1.2. Vai trò của cái tôi trữ tình trong thơ rất quan trọng: Là tiền đề tạo nên

phonti cách thơ. Cái tôi càng rõ, càng lớn thì phong cách càng độc đáo. Có thể

nói cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên ỉà một nhân vật trữ tình to lớn, đổ sộ

bậc nhất trong so sánh với một cái tôi trữ tình cùng thế hệ: Tố Hữu, Huy Cận,

Xuân Diệu...

1.3.Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của dân tộc ta. Trong tiến trình thơ Việt Nam

hiện đại, ở giai đoạn nào Chế Lan Viên cũng là một trong những người đi tiên

phong và là một trong những đại biểu xuất sắc. Mỗi một chặng đường lịch sử,

Chế Lan Viên lại đánh dấu một đính cao trong sự nghiệp sáng tác của mình.

Mười bảy tuổi, với tập Điêu tò/i(1937), nhà thơ đã làm “sửng sốt” cả thi đàn

Việt Nam như “mộ/ niềm kinh dị" (Hoài Thanh). Hơn hai mươi năm sau, Chế

Lan Vicn lại làm chấn động văn đàn bởi Ánh sáng và phù sa. Sau khi giã từ

cõi thế, nhà thơ còn để lại cho đời Di cảo thơ với hơn 500 bài gây xôn xao dư

luận, khẳng định một tài năng chưa bao giờ chịu hạ cánh trước bất cứ một trở

lực nào của cuộc sống. Chê Lan Viên xứng đáng là nhà thơ số một ở Việt Nam

có năng lực sáng tạo phi thường. Người ta gọi ông ìằ“nhà thơ của th ế

Ả.ỵ”(Nguyễn Văn Hạnh), “Nhủ thơ không th ể lấy kích tấc thường mà đo

iỉược\H oài Thanh). Thơ Chế Lan Viên là nguồn sáng mãnh liệt, ngay cả khi

tác giá của nó đã về với cỏ cây. đi vko“xứ không màu" thì nguồn sáng kỳ diệu

đó vẫn toa rạng.

Thơ Chế Lan Viên là đối tượng quy tụ của nhiều cây hút nghiên cứu, phê

hình, nhiều bài báo, tạp chí, tuyên tập, tiểu luận, luận án, luận văn... với tất cả

niềm say mê và lòng ngưỡng mộ. Tuy nhiên, chưa một công trình nào nghiên

cứu trực tiếp, có hệ thống về cái tôi trừ tình trong thơ ông.

Tim hiểu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945 là một

cơ hội để người viết hiểu hơn thư Chế Lan Viên, cũng là để bày tỏ lòng trân

trọng, ngưỡng mộ đối với một tài năng, một nhân cách lớn. Mặt khác, thơ Chế

Lan Viên đã được tuyển chọn vào chương trình văn học THCS -THPT và cả bậc

Đại học. Vì vậy, việc triển khai đề tài này sẽ có tác dụng thiết thực đối với việc

giảng dạy ở nhà trường sau này của chúng tôi.

Trên đây là những lý do khiến chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: Cái tói trữ

tình trong thơ Chê Lan Vièn sau Cách mạng 1945. Hy vọng rằng đề tài này

sẽ đem lại một điều gì đó hữu ích cho những ai quan tâm đến Chế Lan Viên và

thơ của ông.

Tuy nhiên, đây là một vấn đề lớn và khó, hơn nữa do những hạn chế về khả

năng, trình độ, thời gian nên chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những

thiếu sót. Chúng tôi mong được các chuyên gia và đổng nghiệp góp ý thêm.

2. LỊCH SỬ VÂN ĐỂ.

2 .1.Ban chất chủ quan của thơ trữ tình đã được chú ý từ rất sớm(Arixtôt).

Hèghen, Biêlinki,... đã đi sâu vào bản chất chủ quan của thơ trữ tình bằng các

khái niệm: “chủ th ế ', “cái tôi”, “/âm hồn" và cho rằng đây chính là “nguồn gốc

và điểm tựa"của thơ trữ tình[ 12,160]. Các nhà lý luận văn học cổ điển Trung

Quốc như Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị, Viên Mai... cũng đã có nhiều kiến giải sâu

sắc về vấn đề này bàng các khái niệm: “tâm”, “tình”, “ vợ/”, “c7zf\ “hứng”,

“línli lin ir...[23]. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khái niệm cái tôi trữ tình

mới được vận dụng trong nghiên cứu thơ trữ tình. Các nhà lý luận văn học hiện

đại đều thống nhất ràng cái tôi trong mọi thời đại đều là “nguồn gốc cốt lõi của

thơ ca"[42,10], Ớ Việt Nam, bán chất chủ quan của thơ trữ tình cũng đã được

nói đến từ xưa(Nguyễn Cir Trinh và Ngô Thì Nhậm đều cho thơ phát ra của

“(■///” ở trong lòng; Lê Quý Đôn nói về mối quan hệ giữa “tình" , “cảnh" và

“.V//’; Nguyễn Quýnh bàn về “/ííw” và “hứng"', Nhữ Bá Sỹ coi văn chương“/?ậ/

rư tựcíúy lòng"; Cao Bá Quát cho thư là thê hiện “tính tình", “phẩm chất ’’)[4ì ].

Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình được các nhà lý luận văn học hiện đại vận

dụng vào việc nghiên cứu thơ trữ tình, tiêu biểu là các công trình nghiên cứu

của Hoài Thanh[47], Lê Đình Kỵ[ 15], Hà Minh Đức[8],[9], Nguyễn Xuân

Nam[30],Trần Đình Sử[46], Lê Lưu Oanh[42], Mã Giang Lân[ 17], Nguyễn Bấ

Thành[49], Phan Cự Đệ... Chúng tôi đã tiếp thu một số ý kiến về cái tôi trữ tình

trcng các công trình trên để tìm hiểu, nghiên cứu cái tôi Irữ tình irong ỉhư Chế

Lan Viên.

2.2.Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên gắn liền với sự vận

động và biến đổi của lịch sử dân tộc Việt Nam. Trên những chặng đường ấy,

thơ Chế Lan Viên đã đi từ niềm kinh dị này đến niềm kinh dị khác. Hơn 50

năm sáng tác, với sức sáng tạo bển bỉ, nhà thơ đã để lại cho các thế hệ độc giả

hôm nay và mai sau một khối lượng tác phẩm đổ sộ với một phong cách thơ đa

dạng, giàu cảm xúc vừa giàu chất trí tuệ ở nhiều chặng đường sáng tác khác

nhau. Do vậy, những bài viết nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên là rất nhiều.

Theo thống kê của chúng tôi, tính từ khi Chế Lan Viên xuất bản tập Điêu tàn

đến nay đã có hơn 200 công trình nghiên cứu, bài viết về thơông[33],[34]. Các

tác giả hoặc tập trung vào một tập thơ, hoặc thiên về tổng kết một giai đoạn

thơ, một đời thơ...

2.2.1. G iai đoạn trước Cách mạng 1945.

Trước 1945, Chế Lan Viên có tập thơ Điêu tàn và tập văn xuôi Vàng sao,

cùng một số tác phẩm vẫn chưa được in thành tập. Đánh giá về Điêu tàn thời

kỳ này, các tác giả: Nguyễn Minh Vỹ, Quách Tấn, Bích Khê, Hoàng Diệp, Yến

Lan, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu... đều nhất trí cho ràng Điêu tàn là một tác phám

kỳ lạ, đánh dấu một cái nhìn nghệ thuật mới mẻ của Chế Lan Viên. Công phu

nhất có bài của Hoài Thanh in trong Thỉ nhàn Việt Nam. Ông coi Điêu tàn là

"một niềm kình di". Nguyễn Vỹ có bài Cltê Lơn Viên sau in trong Việt N am thỉ

3

nhân tiền chiến cũng cho ràng: Thư Chế Lan Viên độc đáo, nhiều bài cảm

động, “Tập Điêu tàn của anh còn dè lại một clìiếc bóng trong văn học sử Việt

Nam, giống như những tháp Cliủni trên dứt nước Đồ Bàn, cỏn văng vảng tiếng

nức nà nghìn thu chiêm nữ liận"[34,28].

2.2.2. Sau 1945 đến những năm 80 của thê kỷ XX.

Ớ giai đoạn này, Chế Lan Viên có 9 tập thơ, thể hiện những vấn đề lớn lao

của thời đại và những quan niệm mới về thi pháp thơ. Đã có rất nhiều bài viết

về Chê Lan Viên từ các góc độ tiếp cận khác nhau: Có bài viết về từng tập thơ;

có bài viết về nhiều tập; có bài nghiên cứu về ngôn ngữ, hình ảnh, thể loại; có

hài nhận xét tống quan, chân dung; có những công trình viết về tác giả đặt

trong phong trào, trường phái, trào lun...

Các bộ giáo trình Lịch sử ván học Việt Nam của các tác giả ở Trường Đại

học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, các công trình của

Viện Văn học: Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Văn học Việt Nam chống M ỹ cứu

nước, các bộ lý luận văn học của nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu

thơ có đề cập đến Chế Lan Viên. Đặc biệt là các công trình nghiên cứu của

Phan Cự Độ[7], Hà Minh Đức[9], Mã Giang Lân[17], Trần Đình Sử[44],

Nguyễn Bá Thành[48], [49],... Hầu hết các công trình này đều khẳng định, Chế

Lan Viên đã đi từ “thung lũng chiu thương ra cánh đồng vui”, đi từ cái tôi nhỏ

bé đến cái ta rộng lớn.

Một số bài nghiên cứu về từng phương diện cụ thể của thơ Chế Lan Viên qua

các tập: Gửi các anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường - Chìm báo bão

như:“Đọc Ánli sáng và phù sa" của Xuân Diệu, “Đợc Ánh sáng và phù sa"của

Hà Minh Đức, '‘'‘Những biển cồn hãy mang đến trong tlĩ(f'của Lê Đình Kỵ,

“C hếLan Viên và những tìm tòi trong nghệ thuật tluf'cua Nguyễn Lộc... Tất cả

đều nhận xét bước chuyển biến đáng kê của Chế Lan Viên:“7ợ/? Ánh sáng và

phù sa cống liiến vào nền thơ cliuníỊ của chúng ta hiện nay một tâm hồn C h ế

Lan Viên - Một tâm hồn nặng những su V nghĩ, phấn đấu trên hoàn cảnh cụ thê

của mình dê tín dược cái lớn của niềm vui cliung'XXuân Diệu)[34, 40].“C/ỉé

4

Lan Viên dã có nhiều c ố gắng trên dịu liụt tưởng tượng, sáng tạo"( Hà Minh

Đức)[34,55]. Hoặc “//o a ngày thường - Chim báo bão là một chuyển hướng

mạnlì bạo trong phong cách của Chê Lan Viêrì\L ê Đình Kỵ)[34,65],“/V/ỉ/?//i>

hình ánh Chê Lan Viên sử clụniỊ thường bao giờ cũng độc đáo và rất

Những năm 1970, Chế Lan Viên có các tập thơ: Những bài thơ đánh giặc

(1972), Đôi thoại mới( 1973), Ngày vĩ đại(\916), Hoa trước láng Người

(1976), Hái theo mùa( 1977). Đây là những tập thơ mang khí thế chiến đấu hào

hùng và nặng lòng ân nghĩa với quê hương, với nhân dân, với Đảng, với Bác

Hồ. Viết về thơ Chế Lan Viên giai đoạn này có các bhi:“Những bài thơ (lánh

giặc của Chế Lan V/e/j’XNguyen Xuân Nam),‘T/2<7 C h ế Lan ^ / / ’’(Nguyễn

Vãn Hạnh), “ Thơ đánh Mỹ của C hế Lan V iêrì\V ũ Tuấn Anh), “Đôi thoại mới

của C h ế Lơn K/V/j’XHoang Lan), “Cơ/Í đường và tấm vóc thơ Chê Lan

V7í7/”(Phạm Hổ)... Các bài viết này tiếp tục khẳng định bước tiến của Chê Lan

Viên về tư duy thơ, khuynh hướng khái quát, tổng hợp, triết lý trong thơ. “C h ế

Lan Viên trước sau vẫn là nhà thơ băn khoăn về triết lý nhân sinh'XNguyễn

Văn Hạnh)[34,95].

2.2.3. Từ sau năm 80 của thê kỷ XX.

Đây là giai đoạn thơ cuối cùng của C hế Lan Viên. Nhà thơ trăn trở, tìm tòi

nghĩ suy và chạy đua với “thời gian nước xiết” để sáng tác. Những tập thơ tiêu

biểu: Hoa trên ếtó( 1984), Ta gửi cho m ình(ỉ986), D i cảo í/iơ {I,II,III)

(1992,1993,1996) ra đời, đánh dấu một đỉnh cao mới trên hành trình thơ của

ông. Ông được dư luận đặc biệt chú ý và có hàng loạt bài viết đi vào các mặt

mạnh của thơ ông. Những bài nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên giai đoạn này

thường đánh giá tổng quát đời thơ, những đặc sắc của phong cách thơ ông từ

Điêu tàn đến D i cảo, từ truyền thống đến cách tân, từ thể loại đến thể tài... Các

bài viết của Nguyễn Xuân Nam[28]; Vĩnh Quang Lê[33,372]; Vũ Quần

Phương[43]; Ngô Văn Phú[33,378]; Tế Hanh [11]... đã đi vào các mặt mạnh

của thơ Chế Lan Viên qua tập Hoa trên đá. Lê Đình K ỵ[16], Nguyễn Xuân

5

Nam[31], Trần Thanh Đạm [33,389], Đoàn Trọng Huy[33,398], Nguyễn

BáThànhl33,405]. Hổ Thế Hà[ 10]; Trần Mạnh Hảo[33,222]; Võ Tấn

Cường[33,419]; Vũ Quần PhươngỊ 33,434]... đã tập trung sự chú ý vào những

đóng góp của Chê Lan Viên qua Di cảo tho giúp người đọc thấy được bước

chuyển trong từng chặng đường và sự đóng góp đặc sắc của một nhà thơ đa

dạng, luôn phát triển và vận động, mới mẻ: “Diện mạo thơ, chán dung thơ của

Chê Lan Viên trước tỉ ủ V sác sào dến mảy, thần sắc đến mảy cũng mới chỉ ở

trên một mặt phang, còn thơ chưa in vù thơ sau khi nhà thơ từ trần đã tạo nén

một diện mạo cỏ chiều kích khác. Đó lủ phù diêu. Đó lù tượng tròn. Đó là

tượng d/i/f’(Nguyễn Thái Sơn)[34,145] “vé thể tài vẫn là trữ tình chính trị

n/uOiíỊ C liế Lan Viên dã từ khai thác lịch s ử - d â n tộc đi về hướng th ế sự - đạo

íiức; từ sự chú ỷ “ khía cạnh anh hùng ” chuyển sang “ khiu cạnh đời thường”

(Đoàn Trọng H uy)[34,l 17]. Trần Mạnh Hảo hết lời ca ngợi thi tài Chế Lan

Viên “củng gần cái chết, thơ ông viết càng hay, càng bớt chất luận đề, chính

luận, củng thêm cám xúc và sâu đọng”, “ Chê Lan Viên vẫn cất lên tiếng trông,

tiếng từ và báo hiệu một ngày mới trên cánh đồng vĩnh cửu của thi ca”

[34,228-230].

Trong tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên, các

luận án, luận văn... tuy chưa có bài viết nào trực tiếp nghiên cứu từ góc độ cái

tôi trừ tình một cách toàn diện, có hệ thống nhưng một số các tác giả cũng có

đề cập ít nhiều về cái tôi trữ tình trong thơ ông. Nhìn chung, điểm thống nhất

cơ bản trong những nhận định của các nhà nghiên cứu là sự chuyển biến của

cái tôi trữ tình Chế Lan Viên theo chặng đường lịch sử.“Nó dã có một chặng

cíườnq phát triển và thay đổi liên tục tử Điêu tàn đến H ái theo mùa (Nguyễn

Bá Thành)[48,146].

Nguyễn Văn Long nhận ra phần lắng lại của hồn thơ Chế Lan Viên “một hồn

thơ d ã có nliiều tửng trải, dược thanh lọc qua nhiều thử thácir[ 19,84]. Nguyễn

Xuân Nam nhận ra trong Di cảo thơ “một C h ế Lan Viên không lioàn toàn

6

I>iốni> trước", “ có một chút cô lĩơn, một chút khó hiểu”, “ có những mảnh suy

hìịIũ về nỗi thủniị trầm", “vừ có cái bình tĩnh của một triết nhân”[31 Ị.Vũ Quần

Phương cho ràng: “C hế Lan Viên quay vê bản thể, nghiền ngầm chiêm nghiệm

lụi chính mình... xót đau mù dây bân lũ ì i r [7)3,434], Đoàn Trọng Huy không

chí nhận ra sự chuyển biến giọng điệu thơ, tư duy thơ mà còn phát hiện ra một

cái tôi‘V/7// nặng suy t ứ ' “hiện lên rõ một triết nhân đầy suy tư chiêm

m >hiệnr[33,ỉ01]“cái tôi riêu ạ tư đích thực xuất hiện ngày càng rõ

W;/”[33,398J. Nguyễn Bá Thành nhận thấy:“cớ/ mặc cảm là quỹ thời gian

sông đang v ơ i cíi một cách đáng sự, những cảm xúc và nghĩ suy hướng mạnh vê

phía vò cực, vô biền, ông dật bàn thân mình trước vã trụ bao la và thấy sự

sống cũng nliỏ bé, mong /Wứrt/j”[33,406]. Tác giả cho rằng: “Di cảo mang nặng

dấu vết Điêu tàn. ô n g thấy ở đó sự hoài nghi cô dơn, chua chát ảm đạm não

nùng. Bao nhiêu dũng khí của Chê Lan Viên thuở Ánh sáng và phù sa dường

như d ã tiêu tan. Tliay vào đó là sự chán nản, b ế tắc của người bất dắc chí với

thái đ ộ “treo ấn", “vê v/tó>ỉ”[72,433]... Các tác giả khác: Vũ Tuấn Anh[33,20],

Vĩnh Quang Lê[33,372], Trần Thanh Đạm [33,389],Trần Mạnh Hảo[33,212],

Võ Tấn Cường [33,419], Lê Đình Kỵ[16]... Đều có những nhận định tương tự.

Đây cũng chính là những định hướng quan trọng cho chúng tôi trong quá trình

nghiên cứu.

Tuy nhiên, bên cạnh việc khẳng định những thành tựu lớn của thơ Chế Lan

Viên, vẫn còn có một số ý kiến chưa thật thống nhất giữa các nhà nghiên cứu.

Đặc biệt là ở ba tập D i cảo thơ. Có lẽ, do quy mô đồ sộ của ba tập thơ và sự đa

dạng, phức tạp của cái tôi trữ tình trong thơ mà ý kiến của các nhà nghiên cứu

có sự trái ngược nhau, nhưng không phải để hạ thấp mà để hiểu thêm một Chế

Lan Viên đa dạng.‘V ào những năm cuối đời, Chê Lan Viên dã thay đổi khá

nliiều vê giọng thơ, hình ảnh thơ, âm điệu thơ, và cả phương pháp tư duy. Đó

không phái lừ sự cách tân, mà cliủ yếu lủ sự phục hồi cách cảm, cách nghĩ của

nhà thơ thời trước Cách mạng tháng Tám. Phương pháp tư duy ấy được C h ế

Lan Viên đúc kết thành phươiìq pháp lộn trái hay bề thêu trái”. ‘Trong thơ,

7

Chè Lan Viên bộc lộ một sự lioài niịhi có tính triết /j{>r”(Nguyễn Bá Thành)

133,410]. Hoặc “Chê Lan Viên - người dấu mặt. Và Di cảo thơ lả hành trình đi

tìm mặt của C h ế Lan Viên à cõi dời khi ông đã về cõi trời. Điều này tăng thêm

kícli lấc cho ỏng và cho cái nạày hôm n a \ không còn ô/zg”(Phạm Xuân

Nguyên)[34,168].

Nguyền Thái Sơn và một số nhà nghiên cứu khác đánh giá cao Di cảo thơ

Chế Lan Viên. Các tác giả dùng hình tượng“ phù điêu”? tượng tròn”, “tượng

với trước đây:“c/ỉ/ ở trên một mặt phảng". Phạm Quang Trung cho rằng:

“Không nên quá đề cao Di cảo thơ C h ế Lan Viên đến mức đối lập Di cảo thơ

vái những sáng tác trước đây của nhà ih d \ Tác giả khẳng định:“có một C h ế

Lan Viên khác mà không lạ hiện lên trong Di cảơ”[33,414j. Trần Mạnh Hảo,

Võ Tấn Cường, Nguyễn Bá Thành đẩy cái ''''không /ạ ” của cái tôi trữ tình Chế

Lan Viên trong Di cảo thơ lên và cho rằng đã gặp lại một Chế Lan Viên thời

tìiêu tàn trong Di cảo thơ[33,222;419;405]... Các tác giả: Lê Đình Kỵ, Đoàn

Trọng Huy, Nguyễn Xuân Nam, Hồ Thế Hà, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Văn Hạnh,

Trần Thanh Đạm... khi nhận định về Di cảo thơ, đặc biệt là cái tôi Chế Lan

Viên trước những vấn đề bản ngã, hư vô, cái chết... đều thống nhất cho rằng:

Tuy có buồn đau, xót xa... nhưng cơ bản là ''''thanh thản phảng phất vị thiền”,

“thấp thoáng nụ cười... nụ cười thiên... nụ cười của một trí tuệ hiền mitih'XTrần

Thanh Đạm )[33,389],“o w rộng, minh

triết, thấm đẫm tình đời, tình

người'XNguyễn Văn Hạnh)[33,239]... Trong khi đó, Nguyễn Bá Thành lại cho

rằng: “do luôn bị “ ám ảnh ” bởi cái chết, sự h u ỷ diệt... C h ế Lan Viên coi đó là

“điều kliủng khiếp ” nên “ buồn thâm ảo não và chua jcớ/”[48, 172] .

Chúng tôi đặc biệt lưu ý công trình nghiên cứu quan trọng của Nguyễn Bá

Thành: Thơ Chê ỈMìi Viên với phong cách suy tưởng và Thơ trữ tình Việt

Nam của Vũ Tuấn Anh. Trong đó các nhà nghiên cứu đã đánh giá: Cái tôi trữ

tình Chế Lan Viên là một cái tôi độc đáo mang đậm dấu ấn của nhà thơ. Sự vận

động của cái tôi Chế Lan Viên là sự vận động có tính tiêu biểu nhất, phản ánh

những bước tiến của thơ ca Cách mạng.

8

Bt'n cạnh đó còn có nhiều luận vãn, luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ nghicn cứu Chế

Lan Viên ở nhiều khía cạnh của các tác giả: Ngô Bích Thu, Hổ Thế Hà... Tác

giá Vũ Tuấn Anh(Viện Văn học) cũng đã biên soạn, tập hợp các bài viết về thơ

Chế Lan Viên trong một cuốn sách khá công phu giúp chúng tôi có thêm

những tư liệu tham khao quý giá để thấy rõ hơn cái tôi trữ tình Chế Lan Viên

qua các thời kỳ.

3. ĐỐI TƯỢNG, P H Ạ M VI NGHIÊN c ứ u .

3.1.Trên cơ sở íìni hiểu cái tôi trừ tình, luận vãn đi vào nghiên cứu những

điểm Iiổi bật, đặc sắc của thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945, đề cập đến

một sô phương diện nghệ thuật tiêu biểu đã làm bộc lộ rõ nét cái tôi trữ tình

trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945.

3.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là các tập thơ được xuất bản từ

sau Cách mạng 1945. Cụ thể luận văn đi vào 14 tập thơ chính, những sáng tác

trước 1945, các tập bút ký, tiểu luận, phê bình của Chế Lan Viên được coi là

những tư liệu quan trọng dùng để tham khảo.

4.P H Ư Ơ N G PH ÁP N G H IÊ N c ứ u .

4.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp trên cơ sở s ố liệu thống kê.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 14 tập thơ của Chế Lan Viên xuất bản sau

Cách mạng 1945. Dựa trên cơ sở thống kê theo từng nhóm tác phẩm, chúng tôi

sẽ tìm ra những biểu hiện của cái tôi trữ tình. Với khối lượng đổ sộ của thơ Chế

Lan Viên sau Cách mạng 1945, phương pháp tổng hợp sẽ giúp người nghiên

cứu tránh được cảm giác bị choáng ngợp, có điều kiện đi sâu nhiều vấn đề.

4.2. Pliương pháp so sánh.

Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu trên hai bình diện:

-

So sánh, đối chiếu giữa cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên với cái tôi

trữ tình của một số nhà thơ khác để tìm ra những nét chung mang tính thời đại

vù những nét riêng mang phong cách cá nhân, độc đáo.

9

- So sánh, đối chiếu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng

1945 với cái tôi trữ tình trước Cách mạng để thấy được sự vận động, biến đổi

của cái tôi trữ tình trong thơ Chê Lan Viên qua các thời kỳ.

5. BỐ CỤC C Ủ A LUẬN VÃN.

Ngoài phẩn mở đầu và kết luận, luận văn được chúng tôi triển khai thành bốn

chương:

Chương I. Khái niệm cái tôi và cái tôi trong thư trữ tình.

Chương II. Sự phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên từ Điêu

tàn đến Hái theo mùa

Chương III. Sự vận động và biến đổi của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan

Viên từ Hoa trên đá đến D i cảo thơ.

Chưưng IV. Một cá tính sáng tạo độc đáo.

10

* Danh mục tài liệu tham khảo.

NỘI DUNG

CH Ư Ơ NG 1

K HÁI NIỆM CÁI TÔI VÀ CÁI TỎI TRO NG TH Ơ TR Ữ TÌNH .

1.1.CÁI TÔ I.

1.1.1. T ừ góc độ triết học và tâm lý học.

Cái tôi là gì? Vai trò của nó như thê nào trong quan hệ chủ thể và khách thể?

Ngay từ thời cố đại, nhiều nhà khoa học, triết học đã trãn trớ tìm lời giải đáp.

Nhưng ý thức về cá nhân, về cái tôi chỉ thực sự được khẳng định khi nhận thức

của con người thoát khỏi sự ngự trị của tôn giáo. Sự nhận thức duy lý về cái tôi

là một bước ngoặt quan trọng của nhân loại về bản thể sinh tổn. Trong quá

trình phát triển lịch sử của loài người, cái tôi đã dần định hình và tự khẳng định

tính độc lập của mình, trở thành chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới.

Khái niệm cái tôi, được hình thành bởi một quá trình lâu dài, mang trong mình

tính phức tạp nhiều khi tưởng như thần bí. Cái tôi có nội hàm rộng đến nỗi khó

xác định được toàn bộ ý nghĩa của nó cũng như tìm cho nó một định nghĩa

hoàn chính, thống nhất.

Các triết thuyết tôn giáo: Cơ đốc giáo, Phật giáo, Nho giáo...về cơ bản,

“không thừa nhận cái tôi cá nhân, hoặc giả có thừa nhận nhưng rồi cuối cùng

cũng quy về những quan niệm siêu hình, duy tâm, thần bí, xoá bỏ cái

/ớ/'”[36,l 1]. Các học thuyết tôn giáo bằng cách này hay cách khác, đều hướng

con người đến đấng tối cao, quên đi cái tôi của mình. Song, để đạt được điều

đó, tôn giáo đòi hỏi mỗi cá nhản phải có một nghị lực phi thường để vượt qua

chính mình. Để chế ngự cái tôi, vượt qua cái tôi, quên đi cái tôi, suy cho cùng

lại phải thực sự nhận biết tường tận về cái tôi. Chính vì vậy mà chủ trương diệt

ngã, vô ngã, xoá cái tôi cá nhân, tôn giáo cũng đã gián tiếp thừa nhận có cái tôi

tổn tại trong mỗi cá nhàn. Duy có điều, quá trình sống của con người là quá

trình kháng định cái tôi thì tôn giáo lại đi ngược lại- xoá bỏ cái tối.

11

Các triết thuyết duy tâm khác cũng rất quan tâm đến cái tồi. Các nhà triết

học: Đêcactơ, Phichtê, Cantơ, Hèiịhen, Becxông, Ph

như lủ căn nguyên có tính chất quan ///fAN”[40,66], và từ những quan niệm này

mà xây dựng thành hệ thống triết học duy tâm của mình.

Đêcactơi 1595-1650) đưa ra định nghĩa duy lý nổi tiếng: ‘T ô i tư duy vậy là

tôi tồn tụi". Ông quan niệm cái tỏi thể hiện ra như một cái thuộc về thực thê

biết tư duy, như là căn nguyên của nhận thức duy lý, do đó khảng định tính độc

lạp của mình[40,67-171], [36(11),68],

C a/Itiiịl724-1804) cho rằng: Cái tôi bao gổm hai phương diện:

Thứ nhất, cái tôi với tư cách chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới.

Thứ hai, cái tôi với tư cách là khách thể của chính nhận thức.

Theo Cantơ, cái tôi cũng bắt đầu từ sự tự kỷ ý thức, bản thân nó cũng chính là

một đối tượng để khám phá, tìm hiểu. Đây chính là một bước tiến quan trọng

trong quan niệm về cái tôi[36(II),165-166], [40,72].

//< ^/^(1770-1831)0)1 cái tôi như là sự tha hoá của“ ỷ niệm tuyệt đối” đồng

thời nhấn mạnh vai trò to lớn của cái tôi. Cái tôi như là trung tâm của tổn tại,

cái tôi có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện mình trong hiện thực.

Mọi cái đều tổn tại nhờ có cái tôi và cái tôi có thể chi phối toàn bộ sự tổn tại và

tiêu diệt của thế giới[36(II), 195-200], [40,67].

Hai nhà triết học cổ điển Đức(Cantơ và Hêghen)âà có những đóng góp lớn

không chỉ cho triết học mà cho cả hoạt động nghiên cứu văn học nghệ thuật,

đặc biệt trong việc khảng định vai trò to lớn của chủ thể sáng tạo.

Bec xôfig( 1859-1941) cho rằng trong con người có “ cái tôi bề mặt” và “cái

tôi bề sâu”, chỉ có “ cái tôi bề sâu" thuộc về sâu thẳm của ý thức mới chính là

đối tượng của nghệ thuật[40,31 ], [24,141].

Pliơrơti 1856-1939) coi cái tôi là sự hiện diện động cơ bên trong của ý thức

con người. Cái tôi là trung tâm của ý thức[40,553], [24,198- 203],

Như vậy, cái tôi là một phạm trù thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần và thực

chất là khái niệm thuộc về cấu trúc nhân cách. Vì vậy, các nhà tâm lý học khi

bàn về nhân cách đã phân tích rất kỹ cái tôi: Phân tâm học của Phơ rớt; thuyết

12

hiên sinh của Husserl; Sartre; thuyết phát triển trí tuệ của J. Piagic;... Các công

trình lý luận về nhân cách của các nhà tâm lý học Mác xit: A.N.Lêônchiep;

A.G.Côvaliôp... đều coi cái tôi là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng nhất cấu thành

ý thức, nhân cách. Đáng chú ý nhất là quan niệm của hai nhà tâm lý học: A.G

Xpirkin và A.N.Lêonchiep. Trong Triết học x ã hội A.G.Xpirkin đã nêu lên:

“Cái tôi chính là câu trúc phần tự giác, tự ỷ thức của nhân cách, có th ể coi đó

lù truníỊ tủm tinh thần - ỷ nghĩa, diều chỉnh - dự báo của nhân cách, mang tính

íĩịr.h hướng vê động cơ, niêm tin, lợi ích, thê giới quan, tà cơ sở hình thành

n/iĩng tình cảm xã hội của COIÌ ngườiịỷ thức về phẩm giá, nghĩa vụ, trách

nhiệm, nguyên tắc đạo đức) vù xác định mặt cá tí nhị đơn nhất) của nhân

rớí7ỉ”[42,17].

A.N.Lêonchiep cũng bàn nhiều đến nhân cách trong đó có vấn đề con người

tự V thức mình là một nhân cách. Theo A.N.Lêonchiep“ ỷ thức vê' cái tôi, là kết

quả, lù sản phẩm sinh thành của một con người với tư cách là một nhân cách.

Cái tôi của con người như đan quyện vào hệ thống tổng quát của những mối

quan hệ giữa con người và x ã hội"[ 18].

Trên cơ sở những thành tựu khoa học về con người, đạc biệt là thành tựu triết

học, tâm lý học, triết học Mác đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh

về cái tôi: “ Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của cá tính người có

quan hệ tích cực đối với th ế giới và đối với chính bản thân mình. C hỉ có con

Iigiỉời ăộc lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng th ể hiện tính

chù cíộiiiỊ toàn diện mới có cái tôi của m ìn/r[40,66]. Việc khẳng định cái tôi là

trung tâm tinh thần, cá tính con người cho thấy đời sống tinh thần con người

khóng phải do một đấng siêu nhiên nào thổi vào mà được hình thành và phát

triển cùng với quá trình sống của con người, do con người định đoạt. Mặt khác,

cái tôi “quan hệ tích cực với th ế giới và với chính bản thân mình", có nghĩa là

cái tôi vừa mang bản chất xã hội, có quan hệ gắn bó, khăng khít với hoàn cảnh,

vừa mang bản chất cá nhân độc đáo. Câu trúc của cái tôi gồm hai phần: Cái cá

nhân và cái xã hội nhưng không phải là phép cộng, cũng không phải là một sự

13

gắn kết cơ giới, máy móc mà hoà hợp, xuycn thấm lẫn nhau như một hợp chất

hữu cơ vậy. Như vậy, không thê có một cái tối hoàn toàn duy lý đến mức cực

đoan, cũng không thể chấp nhận một cái tôi thụ động, buông xuôi m a ‘chỉ có

con Hí>ười dộc lập kiểm soát nliữniỊ hành vi của mình và cỏ khả năng thê hiện

lính cliít Í Ỉ Ộ I 1ÍỊ toàn diện mới có cúi tỏi của mìnlĩ"(Cảc M ác)[40,66]. Cái tôi đòi

hỏi con người phải ý thức và tự ý thức cùng với những khả năng quan sát, phân

tích, tổng hợp ... để tự điều chỉnh sao cho phù hợp với quy luật đời sống.

Trên cơ sở, quan niệm của các nhà triết học, tâm lý học nhân cách, đạc biệt

dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác, chúng tôi tạm thời có một vài kết luận

về cái tôi:

Thứ nhất: Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, là trung tâm làm nên

cấu trúc nhân cách, hình thành cá tính, phẩm chất, năng lực, sự năng động của

ý thức... của con người.

Thứ hai: Cái tôi vừa mang bản chất xã hội, lịch sử vừa mang bản chất cá nhân

riêng biệt, độc đáo... Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Do vậy,

cái tôi vừa là chủ thể, vừa là khách thể của hoạt động nhận thức.

Thứ ba: Cái tôi tự ý thức, tự điều khiển, điều chỉnh, tái tạo lại thế giới và tái

tạo lại chính mình để hướng tới cái hoàn thiện.

Tóm lại, các tư tưởng triết học, tâm lý học về cái tôi đã nói về bản chất của

chủ thể trong đó có vấn đề nhận thức, sáng tạo. Cái tôi chính là nền tảng của sự

sáng tạo, có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật nói chung và thơ ca trữ tình nói

riêng.

1.1.2.TỪ góc độ sáng tạo vần học nghệ thuật.

Cái tôi nhà văn với tư cách là trung tâm tinh thần, tham gia vào toàn bộ quá

trình sáng tạo, đã trở thành một đối tượng của lý luận văn học, văn học sử và

nghiên cứu văn học. Cái tôi nhà văn có mặt ở mọi khâu, trong mọi yếu tố của

quá trình sáng tạo. Vai trò chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật rất quan trọng.

14

“Ní>hệ thuật là tỏi, khoa học lù chúng /í/”(Claud-Berna).

ơ đây, cần phải nói tới sự can thiệp của cái tôi nhà văn vào tư duy hình

tượng- kiêu tư duy đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, v ề điểm này, các nhà lý

luận đã đi đến thống nhất là nếu không có tư duy hình tượng, không có hư cấu,

tưởng tượng sáng tạo thì không có văn học nghệ thuật. Người nghệ sĩ, bằng

kiêu tư duy hình tượng, bàng tưưng tượng sáng tạo đã tạo ra một cuộc sống thứ

hai(thống nhất mà không đổng nhất với cuộc sống hiện thực vốn có). Ở đó, thế

giới được cấu tạo lại theo ước vọng. Người nghệ sĩ khám phá cuộc sống theo

qui luật phản ánh và sáng tạo. Những sự vật, hiện tượng diễn ra hàng ngày,

dưới con mắt của người nghệ sĩ, đã không còn giữ nguyên cái thuần tuý vốn có

của nó nữa. Như vậy, cái tôi nhà văn tham gia vào tư duy hình tượng cũng có

nghĩa là tham gia vào toàn bộ quá trình sáng tạo ngay từ khi bắt đầu hình thành

ý đổ sáng tác. Tài năng của nghệ sĩ, tư duy hình tượng ở nghệ sĩ không phải là

cái gì có tính đột biến mà phải được nuôi dưỡng từ thời thơ ấu. Nhà văn quan

sát thế giới(kể cả tự quan sát), hướng tất cả sự chú ý vào những gì tác động

mạnh mẽ đến cái tôi của mình. Với khả năng nhạy cảm đặc biệt, cái tôi, trung

tàm tinh thần diễn ra một quá trình phân tích, tổng hợp. Những gì được giữ lại

trong trí nhớ sẽ trở thành các ấn tượng có sức sống lâu bền. Quá trình này diễn

ra hết sức chủ quan và từ ấn tượng đến sáng tạo có một khoảng cách, ở đó cái

chủ quan có thế thay đổi. Sự thay đổi này làm cải biến các ấn tượng. Các ấn

tượng tổn tại trong trí nhớ ở dạng rời rạc, khi đi vào tư duy hình tượng, sáng tạo

chúng được tổ hợp nhờ liên tưởng thành một chỉnh thể phức hợp, hoàn chỉnh.

Từ góc độ cái tôi tác giả, cái tôi nghệ sĩ tham gia vào toàn bộ quá trình này với

chức năng điều chỉnh, điều khiển tư duy đi đúng với quy luật nhận thức và đặc

trưng sáng tạo nghệ thuật. Cái tôi nghệ sĩ nội cảm hoá thế giới thực tại và tự

biêu hiện mình qua hình tượng. Khi cái tôi biểu hiện dưới dạng cảm xúc trực

tiếp, ta có các hình tượng của một cái tôi trữ tình. Độc giả đến với tác phẩm văn

học do nhu cầu của đời sống tinh thần. Câu chuyện văn chương là câu chuyện

của tâm hổn. Cho nên, không phải không có lý khi có người đặt nhà thơ ngang

với nmrừi mộng du, có thiên hướng phóng chiếu cái tôi của mình ra ngoài, còn

độc giá có thiên hướng chủ quan hoá xúc động của người khác. A.rnauđôp gọi

15

"(Ịitá trìn h SÚIÌỊỊ tạo của ngưỉH nghệ s ĩ lù quá trìn h “ g iả i thoát n ộ i tâm ” và ông

quan niệm, những đau khổ bất hạnh s ẽ làm cho nghệ s ĩ “nâng sản ” hơn là

những Ịịì Hịịhệ sĩ cảm thấy liạnli pliúc"[4,223]. Tônxtôi, Puskin, Lamactin,

Banzãc, Gơt... đều cho như vậy.

Chính nhờ có sự đồng cám trong sáng tạo mà ở nghệ sĩ thường có sự nhập

thân vào đối tượng nhung mức độ khác nhau. Song, nhờ có cái tôi tự ý thức,

nhà văn luôn có sự tỉnh táo nhất định. Sự nhạy cảm, cảm xúc khi dâng lên

mãnh liệt, thì lý trí có nguy cơ làm nô lệ cho trí tưởng tượng, khi đó nhà văn sẽ

rơi vào“ do mộng", không còn ý thức về cái tôi của bản thân nữa. Nhà vãn phải

dùng đến một cái tôi tinh táo, luôn íự ý thức, tự quan sát, biết phân tích và dùng

lý sự can thiệp vào quá trình sáng tạo. Một sự nhập thân hoàn hảo là vừa phải

biết quên mình đi vừa biết ẩn mình một cách kín đáo. Nhập thân vào nhân vật

nhưng luôn tự biết mình là một nhà văn.

Như vậy, hình tượng nghệ thuật là kết quả của những gì mà cái tôi nhà vãn

hoàn toàn tâm huyết, là sự thống nhất hài hoà giữa tình cảm và lý trí, giữa tư

duy hình tượng cảm tính và sự phân tích lý tính, giữa khách quan và chủ quan.

Cũng cần phải đề cập đến sự ảnh hưởng của cái tôi nhà văn đối với cá tính

sáng tạo. Không có cá tính sáng tạo thì tác phẩm chỉ là một sự sao chép. Không

có phong cách, không có cái riêng là hành động “tự sát” trong nghệ thuật.

Khrapchencô khẳng định: “sự đối lập giữa cá tính sáng tạo và con người thực

của nạ/lệ s ĩ cũng kliông hợp lý như sự đồng nhất chúng hoàn toàn"[ 14,104]. Cá

tính nhà văn và cá tính sáng tạo, cái tôi nhà vãn trong cuộc đời và cái tôi nhà

văn trong nghệ thuật(gọi tắt là cái tôi nghệ thuật) không bao giờ đổng nhất.

Trong quan hệ giữa cái tôi và cá tính, giữa cái tôi nghệ thuật và cá tính sáng tạo

cũng vậy. Giống như cái tôi nghệ thuật, cá tính sáng tạo mang bản chất cá

nhân, bản chất xã hội và bản chất thẩm mĩ. Nhưng nếu như cá tính sáng tạo với

những phẩm chất tương đối ổn định, bển vững là nét đặc thù thì cái tôi nghệ

thuật nét đặc thù là tính chất tự ý thức, tự điểu chinh, thậm chí điều chính cả cá

tính sáng tạo. Khi giữa cái tôi nghệ thuật và cá tính sáng tạo có được sự thông

nhất cao độ thì sáng tạo của nhà văn mới thật sự mang phong cách và có giá trị.

16

Bởi lẽ, cá tính sáng tạo và cái tôi nghệ thuật đều có xu hướng tự biểu hiện nên

trong tác phám chúng luôn có mặt ở mọi cấp độ, mọi bình diện, làm nên một

hình tượng tác giả thống nhất mà không đồng nhất với con người nhà văn ngoài

đời. Thi pháp học hiện đại khảng định hình tượng tác giả trong tác phẩm cũng

là một hình thức nghệ thuật và cũng là một tín hiệu thẩm mĩ. Nhà vãn sáng tạo

ra hình tượng của mình vừa chân thực vừa hư cấu tưởng tượng. Như vậy, xét ở

hình diện tác giả, ta có thể khẳng định: Cuộc sống trong văn học(cuộc sống thứ

hai) thống nhất nhưng không đổng nhất với cuộc sống hiện thực vốn có(cuộc

sống thứ nhất). Tác giả tiểu sử, cá tính tiểu sử và cái tôi tiểu sử íhuộe về cuộc

sống thứ nhất. Hình tượng tác già trong tác phẩm với cá tính sáng tạo và cái tỏi

nghệ thuật thuộc về cuộc sống thứ hai.

Nhìn chung, cái tôi tác giả(cái tôi nhà văn) và cái tôi nghệ thuật của nhà văn

thống nhất với nhau nhưng không đồng nhất. Quan sát và tự quan sát, cảm xúc

và lý trí, tư duy hình tượng, trí tưởng tượng cũng như cá tính sáng tạo đều có

mối quan hệ nội tại khăng khít, hữu cơ với nhau và có quan hệ với cái tôi. Một

cái tôi mạnh mẽ sẽ hoạt động tích cực và tham gia vào quá trình sáng tạo từ khi

nó được hình thành.

1.2. CÁI TÔ I T R O N G T H Ơ T R Ữ TÌNH.

1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình.

Thơ trữ tình“/ừ thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình, trong đó,

những cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện

tượng (lời sống được th ể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá th ể hoá của cảm

nghĩ và tính chất chủ quan hoá của sự th ể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của

thơ trữ tình. Lù tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng th ể hiện những

biển hiện phức tạp của th ế giới nội tâm từ các cung bậc của tình cảm cho tới

nhữníỊ cliính kiến, những tư tưởng triết //(«’”[39,216].

Về thơ trữ tình, cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau nhưng xu hướng

chung có tính thống nhất và được đa số chấp nhận là quan niệm cho rằng thơ

17

ĐAI H O C Q U Õ C G ia ha IV ỈRUNG TÁM THÒNG TIN ÌHƯ VIẺN

trữ tình phản ánh thế giới theo phương thức nghệ thuật trữ tình(thế giới bao

gồm cá thế giới chủ quan lẫn thế giới khách quan) nghĩa là thơ trữ tình chiếm

lĩnh thế giới theo nguyên tắc chủ quan và hiểu hiện trực tiếp(điển hình là các ý

kiến của Viên Mai, Lê Quí Đôn, Cao Bá Quát, Hêghen, Biêlinxki...). Thế giới

khách quan vô cùng phong phú và phức tạp với tất cả những biến thái của nó

trong tự nhiên, lịch sử, xã hội. Thê giới chủ quan lại càng phong phú và phức

tạp hơn gấp nhiều lần với đời sống tinh thần: tâm hồn, tình cảm, những suy

Iighĩ trải nghiệm...Thơ trữ tình luôn vươn tới khát vọng khám phá tất cả những

gì bí ẩn trong cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống tinh thần của con người.

Như vấy “thơ trữ tình là phương tiện đ ể con người tự khẳng định bản chất

tinh thần của mình so với tồn tại vật chất, lù phương tiện đ ể tự đồng nhất mình,

xây dựng hình tượng về mình, xác íiịnh ý chí, chí hướng, lập trường giá trị trước

cuộc sống, đồng thời là phương tiện đ ể xây dựng thê giới tinh thần phong phú

cho con người"[44,112]. Thơ trữ tình luôn gắn với cái tôi trữ tình, v ề khái niệm

cái tôi trữ tình tuy có rất nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau nhưng cơ bản vẫn

gặp nhau ở nội hàm là tính trữ tình và tính chủ thể. Vũ Tuấn Anh quan niệm,

cái tôi trữ tình '"'‘chính là sự tự ý thức của cái tôi được biểu hiện trong nghệ thuật

và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được

th ể hiện thông qua các phương tiện trữ tin ti'l 1,26], Lê Lưu Oanh cho rằng:

“Cứ/ tôi trữ tình là th ế giới chủ quan, th ế giới tinh thẩn của người được thể

liiện trong tác phẩm trữ tình bằng các phương tiện cùa thơ trữ /ìaỉ/z”[42, 18-19].

“Có th ể quan niệm rằng, cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng cũng nlut bản

chất của tác phẩm trữtình”[42,18-19]. Hêghen trong M ỹ học tuy không dùng

khái niệm cái tôi, song ông đã nhấn mạnh đến vai trò chủ thể. Ông nói:

“Nẹuồn gốc và điểm tựa của thơ trữ tình lủ â chủ th ể và chủ th ể là người duy

nhất, dộc nhất mang nội dung”[ 12,162]. Chủ thể mà Hêghen nói đến ở đây

chính là cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình vừa thể hiện cách cảm, cách nghĩ của

chủ thê vừa đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phương tiện nghệ thuật. Như vậy,

cái tôi trữ tình vừa là nội dung(duy nhất, độc nhất), vừa là điểm xuất

phát(nguồn gốc) vừa là cơ sở vững chắc(điểm tựa)của thơ trữ tình. Bản chất của

18

thư trừ tình chính là cái tôi trữ tình. Biêlinxki cho rằng: ‘T oàn bộ hiện thực đều

có thè lủ nội (luniỊ của thơ trữ lìnli nliưniỊ với điều kiện nó phái trở tliành sà

hữu máu tlìịt của chủ tỉìể"[42,26].Tất cả các quan niệm cho thơ bắt nguồn từ

tình cam, tâm hổn, cảm xúc chính là nhằm khắng định bản chất chủ quan của

thơ trữ tình, khảng định vị thế của cái tôi trữ tình trong thơ(tiêu biểu là các ý

kiến của Bạch Cư Dị, Viên Mai, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Ngô Thì

Nhậm...)[4],[41]. Chúng tôi tán thành các quan điểm về cái tôi trữ tình của các

nhà nghiên cứu đã nêu trên.

Thơ trữ tình nào cũng dựa trên sự rung động của cái tôi cá nhân mang số

phận, cá tính riêng tư trong các tỉnh huống trữ tình. Sự khác biệt của các thời

đại thi ca suy cho cùng chính là ở quan niệm về cái tôi và các dạng thức biểu

hiện của cái tôi trữ tình. Thế giới của cái tôi trữ tình là thế giới không cùng. Vì

thế, ý thức về cái tôi trữ tình, phát triển cái tôi là tiền đề thực tế cho sự phát

triển của thơ.

Tóm lại, cái tôi trữ tình chính là điểm bất đầu cũng là điểm kết thúc của quá

trình sáng tạo thơ trữ tình, là linh hổn của thơ trữ tình.

1.2.2. Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ.

Vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một vị trí, vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan

trọng trong thơ. Ở mỗi thời đại, mối liên hệ giữa khách thể và chủ thể luôn là

vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Bên cạnh cái tôi nhà thơ, ta có cái

tôi trữ tình. Bản chất của cái tôi trữ tình là bản chất chủ quan, cá nhân, bản chất

xã hội nhân loại. Cái tôi trừ tình càng tự ý thức sâu sắc thì thơ trữ tình càng đặc

sắc. Nhưng cái tôi trữ tình không hoàn toàn đổng nhất và trùng khít với cái tôi

nhà thơ mà là sự thể hiện đời sống tinh thần và tư duy sáng tạo nghệ thuật của

nhà thư. Đó là phiên bản mới mẻ, chọn lọc, kết tinh và thăng hoa những suy tư,

cảm xúc và trải nghiệm của cái tôi nhà thơ.“CỚ nhiều cuộc đời thi s ĩ gắn liền

với dời thơ như hình với bóng. Nhà thơ lù nhân vật chính, là hình bóng trung

tâm, lủ cái tôi bao quát trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành dộng và

tủm lình trong cuộc đời riêng cũng in lại đậm nét trong thrf'(Hà Minh Đức)

[9,62], Viên Mai cho rằng:‘TỚ/ cà mọi người lùm thơ đều cỏ thán phận của

19

mình". Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng, độc đáo mang dâu ấn chủ

quan trong thơ. Hàn Mặc Tử viếv.^Người thơ phong vận như thơ ấy". Chính cái

tôi trừ tình đã tạo nên sự khác biệt giữa các phong cách thơ. Phong trào Thơ

Mới( 1932- 1945) là một thời đại thi ca mà trong đó những cái tôi trữ tình hiện

lên rõ nét phong cách: Trong sáng và ẩn chứa một nụ cười có duyên là thơ

Nguyền Nhược Pháp; hào hùng với đầy tráng khí là thơ Huy Thông; chân quê

mộc mạc là thơ Nguyễn Bính. Còn Chế Lan Viên thì dường như sinh ra đã

uống nguồn nước “sông Linh" từ thời dâu bể tang thương để rồi cất tiếng khóc

trong Điêu tàn bằng những vần thơ như tiếng gọi hồn khóc than cho một xứ sở

Chiêm Thành hoang tàn trong tưởng tượng. Thơ Hàn Mặc Tử là lời xưng tội, lời

sám hối, lời cầu nguyện vang lên giữa hai bờ hư thực, có lúc trong trẻo đến

trinh nguyên, lắm khi cuồng điên đầy máu lệ. Huy Cận thì suối buồn thương

chảy ra lai láng thành thơ. Xuân Diệu lúc nào cũng khát khao giao cảm với đời,

nhưng đời quá đỗi vô tình nên lòng người yêu thơ mà vẫn trống trải cô đơn... Sự

khác biệt về phong cách thơ suy cho cùng chính là sự khác biệt của cái tôi trữ

tình với bản chất cá nhân- chủ quan độc đáo.

Tuy nhiên, không thể đổng nhất cái tôi trữ tình với cái tôi nhà thơ nhưng cũng

không thể tách bạch mối quan hệ này. Có thể xem cái tôi nhà thơ như gốc gác,

như ngọn nguồn từ đó toả ra rất nhiều dạng thức của cái tôi trữ tình. Cái tôi nhà

thơ không phải hiện tượng bất biến. Trong sự vận động của thời gian, sự biến

động của lịch sử, khi hoàn cảnh, thời đại thay đổi thì cái tôi nhà thơ và cái tôi

trữ tình cũng thay đổi. Những nhà Thơ Mới đến với Cách mạng tháng Tám đã

làm một cuộc “/ộ/ xác" đê đi từ “c/ìân trời của một người đến chân trời của mọi

nẹi(ời'\Paul Éluard). Trước Cách mạng, Xuân Diệu càng khát khao giao cảm

với đời, với người, với thiên nhiên bao nhiêu càng cảm thấy mình trơ trọi, cô

độc bấy nhiêu. Nhưng hơn mười nãm sau, đứng giữa mảnh đất Tuyên Quang,

nơi từng che chở cho mình suốt thời kháng chiến, Xuân Diệu thấy như được trở

20

về với mảnh đất của lòng mình:

Đất nước ơi, tu quyện với mình chặt lắm

Nên di rồi không th ể gỡ ra

( Vé Tuyên).

Cũng vậy, Chế Lan Viên trước Cách mạng tháng Tám chí biết than thở và

đắm chìm trong cõi siêu hình, khóc than cho đất nước Chiêm Thành đổ nát.

Đến với Cách mạng, Chế Lan Viên đã phải trải qua một hành trình vất vả. Nhà

thơ thật sự thấy mình được hổi sinh khi hoà mình vào mạch sống của nhân dân,

của dân tộc.

Con gặp lại nhân dân như nai vê suối rũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

N hư dứa trẻ thơ đói lỏng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỏng gặp cánh tay dưa.

( Tiếng hát con tàu - Á n h sán g và p h ù sa).

Ở phần lớn các nhà thơ, cái tôi trữ tình dù có đổi thay, biến hoá phong phú thì

dưới bé sâu vẫn thấp thoáng cái tôi nhà thơ, một cái tôi chung thuỷ và nhất

quán trong bản chất của nó.

Giữa cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ không đồng nhất nhưng hoàn

toàn thống nhất. Cái tôi trữ tình trong thơ cũng không phải là cái tôi nhà thơ

trong đời mà cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật hoá. Cho nên, sự thống nhất

giữa cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ là hiện tượng thường gặp. Thơ

trữ tình từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, đến Hồ Xuân Hương, Cao Bá

Quát, Phan Bội Châu, Tố Hữu... đều biểu hiện rõ nét sự thống nhất đó. Đọc thơ

Nguyễn Trãi, ta bắt gặp cuộc đời của một người có khí tiết thanh cao, suốt đời

vì nước, vì dân. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào Nguyễn Trãi cũng luôn là một

cày trúc hiên ngang, cương trực giữa chốn “vườn Quỳnh” đầy rẫy những kẻ xu

nịnh, hiểm độc. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta lại thấy một cái tối duyên phận

hám hiu, cuộc đời lận đận, bảy nổi ba chìm, luôn khao khát hạnh phúc, tình

yêu nhưng chưa bao giờ được như ý nguyện. Cái tôi ấy phóng túng, táo bạo,

quyết liệt, đầy bản lĩnh, nghị lực, sấn sàng lên án những bậc “hiền nhân quân

21

lử" và cá những lễ nghĩa, lể lối đạo đức giả; lớn tiếng bênh vực, đòi quyền sống

cho những người phụ nữ. Đồng thời, đó cũng là một cái tôi đằm thắm, duyên

dáng, thiết tha, rất phụ nữ. Thư Phan Bội Châu là những lời tâm huyết chứa

chan tinh thần yêu nước, gắn liền với cuộc đời người chiến sĩ Cách mạng. Với

Tố Hữu, nhà thơ, đời thơ, người chiến sĩ cộng sản, đời Cách mạng chỉ là một.

Từ những quan điểm lý luận về thư trữ tình, nhà thơ và cái tôi trữ tình trong

thơ, chúng ta có thể khẳng định: Sự biểu hiện của cái tôi trừ tình trong thơ là đa

dạng, muôn hình, muôn vẻ. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức[9,73-74] đã chỉ ra

những dạng thức bộc lộ của cái tôi trữ tình như sau:

Thứ nhất, dạng trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một

cảnh ngộ, một sự việc gắn với cuộc đời riêng của người viết. Trong những

trường hợp ấy, cái tôi trữ tình rất gần hoặc cũng chính là cái tôi của tác giả và

nhà thơ thường sử dụng một cách bộc lộ trực tiếp qua chữ “/ói” : "Từ ấy trong

tôi bừng nắng h ạ \T ố Hữu), hoặc chữ “ /út”: “H u ế ơ i , quê mẹ của ta ơi.r \T ố

Hữu)(chữ rộng hơn bản thân cái tôi của người viết) có khi là anh em ta,

đồng chí ta, bạn bè ta...“ Ta nắm tay nhau xây lại đời /a”(Tố Hữu).

Thường thì cái tôi trữ tình trong thơ dễ bộc lộ trực tiếp trong trường hợp viết

về chính bản thân mình và trong những quan hệ riêng tư. Với những loại đề tài

này, cái tôi trữ tình trong thơ thường phổ biến là cái tôi tác giả.

Thứ hai, cảnh ngộ, sự việc trong thơ không phải là cảnh ngộ riêng của tác giả.

Nhà thơ nói lên cảm nghĩ về những sự kiện mà mình có dịp trải qua hoặc chứng

kiến như một kỷ niệm, một quan sát. Cái tôi trữ tình ở đây là nhân vật trữ tình

chủ yếu của sáng tác. Ta đi tới của Tố Hữu, Các vị La H án chùa Tây Phương

của Huy Cận, Đất nước của Nguyễn Đình Thi... đều nằm trong trường hợp này.

Thứ ba, những bài thơ trữ tình viết về một loại nhân vật nào đó: Bà mẹ Việt

Bắc(Tò Hữu), Anh chủ nhiệm(Hoàng Trung Thông). Những nhân vật này có

khi là những điển hình có thực ngoài đời như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết

Xuân.... Đó là nhân vật trữ tình của sáng tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của

nhà thơ(cái tôi trữ tình là một loại nhân vật ít xác định cụ thể). Trong những

trường hợp trên, tuy cái tôi của nhà thơ không bộc lộ trực tiếp nhưng qua sáng

tác vẫn nổi lên rõ cái tôi trữ tình. Ở trường hợp thứ hai và thứ ha cái tồi trữ tình

là cái tôi của tác giả được nghệ thuật hoá thành nhân vật trữ tình quan trọng

trong thơ” .

Trong cuốn Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nguyễn Bá Thành

cho rằng:‘T/ỉf/ trữ tình lù những “ bản tốc ký nội tâm ”, nghĩa là sự tuôn trào

n ia hìnli ánli vờ từ ngữ trong một trạng thủi xúc cảm mạnh m ẽ của người sáng

tạo. Chínli vì vậy, vê bản chất, mọi nhân vật trữ tình trong thơ chỉ lả những

biểu hiện đa dạng của cái tôi trữ tình"Ị49,166]. “Cá/ tỏi trữ tình trong thơ

dược biểu hiện dif('n hai dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi

trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình coi trọng sự biểu hiện cái chủ th ể đến mức như

lủ nhân vật s ố một trong mọi bài thcf \ ‘T u y nhiên, do sự chi phối của quan

niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời dại mà vị tri của cái tôi trữ tình

có những thay đổi nhất định”[49,56-57].

Vũ Tuấn Anh cũng đã giành nhiều tâm sức đ ể ‘nghiên cứu về bản chất và sự

biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ. Ông nhận định: “Cá/ tôi trữ tình là một

sự tổng hoà nhiều yếu tố, là sự hội tụ, thăng hoa theo quy luật nghệ thuật cả ba

phương diện cá nhân- xã hội- thẩm m ĩ trong hình thức th ể loại trữ tình"[ 1,33].

Ban chất thứ nhất của cái tôi trữ tình là bản chất chủ quan- cá nhân, bộc lộ

qua những thuộc tính sau:

Cái tôi trữ tình trở thành hệ quy chiếu thẩm mĩ đặc biệt mang tính chủ quan,

chuyên đổi hiện thực khách thể thành hiện thực chủ thể, mang đậm dấu ấn cá

nhân như một hiện thực độc đáo, duy nhất, không lặp lại.

Cái tôi trữ tình tự biểu hiện, khai thác và phơi bày thế giới nội tâm của cá

nhân, đổng thời qua đó xây dựng một hình ảnh mang tính quan niệm về chủ thể

Cái tôi trữ tình khác về chất lượng với cái tôi nhà thơ, cái tôi trữ tình không chỉ

là cái tôi nhà thơ, nó là cái tồi thứ hai hoặc cái tôi đã được khách thể hoá trong

nghệ thuật và bàng nghệ thuật. Bởi vậy cái tôi trữ tình còn có thể là cái tôi trữ

23

tình nhập vai hoặc nhiều vai.

Bản chất thứ hai của cái tôi trữ tình là bản chất xã hội nhàn loại. Cái tôi trữ

tình tổn tại trong phức hợp các mối quan hệ: Truyền thống văn hoá, lịch sử, đạo

đức, thời đại, nhân loại... nên bao giờ cũng mang giá trị xã hội. Cái tôi trữ tình

đổng hoá vào mình những gì tốt đẹp được kết tinh trong đời sống tinh thần dân

tộc, cộng đổng, nhân loại, dồng thời luôn có xu hướng đào thải những gì lỗi

thời, lạc hậu. Đây là cơ sở giải thích vì sao mang bản chất cá nhân mà cái tôi

trữ tình không hề đơn điệu. Bởi vì, nội dung thơ trữ tình không chỉ bó hẹp trong

phạm vi đời tư, cá nhân mà vô cùng đa dạng, phong phú.

Bán chất xã hội trong thơ trữ tinh còn được cất nghĩa từ góc độ bán chất

người. Cái tồi trừ tình luôn có xu hướng thâm nhập sâu vào bản chất người và

biểu hiện bàng những thể nghiệm, những suy tư trăn trở thường trực. Cho nên,

những đề tài muôn thuở mang tính phổ quát toàn nhân loại hay được đề cập đến

trong thơ trữ tình: Tinh yêu, hạnh phúc, niềm vui, nỗi buồn, cái chết... Đó cũng

là lý do khiến cho thơ trữ tình là một thể loại văn học chiếm được sự “dồng

cảm”, “đồng diệu” lớn nhất. Thơ trữ tình là tiếng nói của một cá nhân trong đó

có sự đồng vọng, cộng hưởng của tiếng nói xã hội, thời đại và nhân loại.

Bản chất thứ ba là bản chất nghệ thuật - thẩm mĩ của cái tôi trữ tình. Cái tôi

trữ tình là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản trữ tình. Cái tôi trữ tình luôn

vươn tới lý tưởng thẩm mĩ(cái chăn, cái thiện, cái mĩ) và biểu hiện bằng một

thê giới nghệ thuật mang tính đặc trưng của phương thức trữ tình. Để vươn tới

lý tưởng thẩm mĩ, cái tôi trừ tình bao giờ cũng bắt nguồn từ những tình cảm,

cảm xúc hết sức chân thành. Có thể nói, chân thành là điểu kiện số một để cái

tôi trữ tình vươn tới cái đẹp, cái cao cả. Tinh cảm thành thực làm cơ sở cho bản

chất nghệ thuật - thẩm mĩ của cái tôi trữ tình.

Thê giới nghệ thuật của cái tôi trữ tình tồn tại ở dạng tinh thần với tất cả sự

phong phú, phức tạp, tinh vi và sâu sắc. Có sự đồng nhất, có đối lập, chồng

chéo, đan cài của những cảm giác, ấn tượng, cảm xúc. Có sự biểu hiện của

những động tác, những âm thanh, màu sắc, có cả thời gian và không gian đổng

24

hiện... Tất cả đều có xu hướng tự biểu hiện.

Tóm lại, cái tôi trữ tình là một sự thống nhất giữa cái tôi cá nhân, cái tôi xã

hội và cái tôi nghệ thuật- thẩm mĩ. Nếu thiếu phần xã hội thì cái tôi trữ tình dễ

rơi vào hướng chủ quan, chủ nghĩa cá nhân tự kỷ, ích kỷ, hẹp hòi; Nếu không

có bản chất nghệ thuật - thẩm mĩ, cái tôi sẽ mất đi yếu tố trữ tình, tổn tại ớ một

lĩnh vực nào khác mà không phải lĩnh vực văn học nghệ thuật, lĩnh vực thư trữ

tình; Nếu thiếu phần cá nhân, cái tôi trữ tình sẽ tự đánh mất bản thể, đánh mất

cái riêng, cái độc đáo. Sự thống nhất bản chất của cái tôi trữ tình biểu hiện

trong sự thống nhất nội dung, hình thức thơ trữ tình và sự thống nhất này nàm

Iron? tính quan niệm của chủ thể, bị chi phối bởi tính quan niệm của thời đại.

Qua việc tóm tắt, tìm hiểu quan điểm lý luận của các nhà nghiên cứu phê

bình, chúng tôi thấy rằng: Cái tôi trữ tình biểu hiện trong thơ ở ba bình diện

lớn: Bình diện chủ quan mang tính độc đáo, riêng biệt; bình diện tư tưởng xã

hội và bình diện sáng tạo nghệ thuật.

Từ những nhận thức lý luận chung về cái tôi trữ tình như trên, chúng tôi

muốn liên hệ đến những nét bản chất trong vai trò chủ thể sáng tạo của cái tôi

25

trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945.

ì

C H Ư Ơ N G 2

S ự PHÁT TRIỂN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRO NG TH Ơ

CHÊ LAN VIÊN TỪ “ĐIÊU T À N ” ĐÊN “ HÁI TH EO M Ù A ”

2.1. CÁI T Ô I C Ô ĐO N, CÁI TÔI H IỆ P s ĩ .

2.1.1. Cái tôi cò đơn buồn đau.

Thơ Mới ra đời không quan tâm đến cơ chế xã hội, đến hiện thực đời sống mà

nó chỉ quan tâm đến chủ thể, phát biểu những tâm tư, nguyện vọng của cá

nhân, đề cao cái tôi và hướng nội hoàn toàn. Đương nhiên, thơ trữ tình nói

chung là hướng nội, khai thác và bộc bạch những trạng thái tình cảm cá nhân,

nhưng tuỳ từng giai đoạn lịch sử mà mức độ biểu hiện khác nhau. Thơ Mới

mang tiếng nói của tầng lớp trí thức đương thời. Đó là tiếng thơ của cái tôi cá

thể mà cơ sở tư tưởng của nó là hệ tư tưởng tư sản và tâm trạng bế tắc của tầng

lớp tiểu tư sản đòi hỏi giải phóng cái tôi cá nhân. Lần đầu tiên trong lịch sử văn

học Việt Nam cái tôi của nhà thơ được ý thức đầy đủ trở thành trung tâm để

nhà thơ ngắm nhìn thế giới và chiêm nghiệm cuộc đời. Cái tôi chính là trung

tâm của hình tượng thơ.

Cũng trong thời kỳ này, thơ xuất hiện một cái tôi viết hoa trọng vọng. Cái tôi

được khẳng định đã đem đến cho Thơ Mới lãng mạn 1930-1945 sự đa dạng,

phong phú của các gương mặt thi nhân. “Trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa

bao giờ có một thời đại pliong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta

thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng m ỏ như T h ế Lữ; m ơ màng như

Lưu Trọng Lư; hùng tráng như Huy Thông; trong sáng như Nguyễn Nhược

Pliáp; ảo não nlĩiỉ Huy Cận; quê mùa như Nguyễn Bính; kỳ dị như C h ế Lan

Viên;... và thiết tha rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu"(Hoh\ Thanh- Hoài

Chân)[47,29]. Cái tôi trữ tình trong Điêu tàn của Chế Lan Viên là một cái tôi

cô đơn siêu hình. Cái buồn, cái cô đơn có lẽ là điểm chung nhất của các nhà

26

Thư Mới. Nhưng cái buồn, cái cô đơn cũng có nhiều sắc thái, cung bậc. Cái cô

đơn trong Điêu tàn là cái cô đơn rất riêng mang đậm dấu ấn cá tính. Đến với

Huy Cận - tác giả của Lửa thiêng trước Cách mạng là đến với nỗi “buồn ảo

não" rợn ngợp. Nỗi buồn cua một con người gắn bó với đất nước, quê hương

nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến sự vật nhỏ nhoi, bơ vơ, cô độc.

Xuân Diệu càng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn” lại càng cô đơn sầu não khi

muốn dang tay ôm cả vũ trụ, tình yêu, cuộc đời trần thế mà bất lực.

Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vần tuần hoàn

Nếu tuổi tre' chẳng hai lẩn thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi.

( V ội vàng)

Người kỹ nữ trong thơ Xuân Diệu thì sợ sự cô đơn đến run rẩy. Đó cũng

chính là sự run rẩy cô đơn của thi nhân- con người vốn rất sợ sự cô đơn.

Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo

Trời dầy trăng lạnh lẽo suốt sương da

(Lời kỹ nữ)

Còn nỗi cô đơn của Chế Lan Viên là nỗi cô đơn của kẻ lạc loài, ở giữa muôn

người mà như một mình một bóng, sống trong hiện tại mà luôn ám ảnh bởi dĩ

vãng. Dường như tiếng gọi của dĩ vãng xa xưa luôn thường trực trong mỗi con

người chờ dịp là lên tiếng. Nhưng có lẽ cái xa xưa hiện lên ở mỗi người mỗi

khác. Với Huy Thông đó là những mối tình xa xưa trong sử sách. Nguyễn

Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, là những nhân vật ngày xưa xuất hiện trong khung

cảnh văn hoá dân tộc. Cái xa xưa trong Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ,

Bàng Bá Lân hiện hình ở nông thôn. Còn Chế Lan Viên lại đắm chìm trong thế

giới siêu hình, kinh dị, một thế giới hư ảo, tưởng tưựng“ đầy sọ dừa, xương máu

cùng yêu w a”(Hoài Thanh- Hoài Chân- Thi nhân Việt Nam) chứng tích tàn

vong cua dàn tộc Chiêm Thành- vốn chẳng phải nòi giống với thi nhân nhưng

quả tình duyên lắm nợ nhiều. Với cái tôi ấy “ơ buồn là những doá hoa tươi”.

27

Nó tự xưng:

Quà tim ta lủ một khối li buồn

Mạcli máu ta lủ nliững mối đau thương

Mù quả đất lù khối sáu vô hạn.

(Đ ừ ng quèn lãng - Đ iêu tàn)

Mang trong mình mối sầu vong quốc, cái gia tài đồ sộ của hàng triệu nỗi

buồn, cái tôi ở Điêu tàn chán nản đến gay gắt trước mọi màu sắc của cuộc

sống.

Với tôi tất cá như vô nghĩa

Tất cá không ngoài nghĩa khổ đau.

( X u ân - Đ iêu tàn)

Đó là nỗi buồn của quá vãng xa xôi xâm chiếm toàn bộ tâm hổn tác giả và

lan nhanh như một vết thương, một mối tương liên như người đổng bệnh.

Những cảỉ“kh ổ đ a u ”, “buồn lo" , “ u sầu” “rền r ĩ \ “uất hận” buồn thương, nhớ

tiếc trong Điêu tàn của Chế Lan Viên đều có nguồn gốc sâu sa xuất phát từ

tình cảm thiêng liêng cao cả, tấm lòng ưu ái đối với dân tộc. Điêu tàn đã nói hộ

tiếng nói của dân tộc Chiêm Thành. Cái tôi Chế Lan Viên hướng chủ yếu vào

nỗi u hoài, khóc thương cho một dân tộc đang gặp bước suy vi. “Chúng ta lại

cỏn dành riêng cho họ một nhà thơ đ ể vì họ giải giùm những uất ức bao nhiêu

năm như ngliẹn ngào trên sông núi này...Vong linh đau khổ của nòi giống họ

dã nhập vào Chê Lan Viên; cho nên, dầu không phải là người họ Chế, C h ế Lan

Viên vân là một nhà thơ Chiêm 77ỉờ/7/ỉ”(Hoài Thanh)[47,213]. Niềm tiếc nuối

quá khứ đã trĩu nạng tâm hổn nhà thơ, trong những dòng thơ rớm lệ, đau đáu

một niềm cảm thương luyến tiếc. Nhà thơ tưởng tượng mình là người Chiêm

Thành đang thở than cho sự suy tàn của dân tộc, để tình yêu nòi giống hoà tan

trong cơ thể và dâng lên tràn ngập tâm hổn.

Đọc Đ iêu tàn, ta hãy hình dung thi sĩ là con cháu Chế Bồng Nga đang kêu

thương cho một thời đại huy hoàng đã mất, mới cảm thông đến tột cùng những

rung động của câu thơ.

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ

28

Quay về xem non nước giông dân Hời.

( Trên dường vé - Đ iêu tàn)

Buồn thương, nhớ tiếc, căm hờn dâng lên như những đợt sóng trong tâm hổn

Chế Lan Viên khi một thời vàng son rực rỡ với sức sống mãnh liệt của một dân

tộc ngày nay không còn nữa. Thui thủi một mình trở về quá khứ xa xưa của dân

tộc Chiêm Thành, nhà thơ cảm thấy cô đơn sầu tủi. Đây cũng là tâm bệnh

chung của các nhà thơ lãng mạn thời ấy. Họ là những người hoàn toàn xa lạ với

hoàn cảnh xung quanh, với cả thế giới hiện thực. Chế Lan Viên cô' gắng mà

bám, mà níu vào quá khứ rực rỡ huy hoàng.

Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng

Nliững đền đài tuyệt m ĩ dưới trời xanh

Những chiến thuyên nằm m ơ trên sông lặng

Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành.

( Trên dường về - Đ iêu tàn )

Cho nên nhà thơ cảm thấy vô nghĩa, chán chường, thất vọng sâu sắc và phủ

nhận một cách quyết liệt.

Trời hỡi trời hỏm nay ta chán hết

Nliững sắc màu hình ảnh của trần gian

( Tạo lập - Đ iêu tàn)

Chính qua những cảnh vật năm xưa mà nói lên bao điều trong hiện tại. Trong

Lời tựa Đ iêu tàn Chế Lan Viên đã tâm sự:“Điêu tàn có riêng gì cho nước

Chàm yểu mến của tôi đâu? kìa kìa nó đang đục sọ dừa anh. Tiếng xương dội

vỡ đáy hồn tôi". Nhà thơ như vật vã trong không gian hoang tưởng, bức bối

trong chiếc sọ dừa, trong hoang mạc của lý trí. Nơi ấy không có chỗ cho sông

yêu núi nhớ, chí có những nấm mồ, “xương kliỏ”, “đầu r à ” “xương V(?\“máu

trào ...

Thế giới hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn này cũng rất khác hình

ảnh trong thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính... Trong thơ lãng mạn, ta

vẫn thường gặp những hình ảnh quen thuộc của đời thường: Trời xanh, mây

biếc, hàng cau, con cò, giếng nước... Hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên là thế

29

giới của yêu ma, linh hổn, xương máu, nấm mồ,...là háu trời ảo giác, thất tinh,

chiêm nữ, tháp Chàm, sông Linh, chiến tượng...

Biểu tượng của cái tôi tự ý thức trong thơ Chế Lan Viên cũng rất khác. Nó

không phải là‘Víiv đàn muôn diệu”, “rơ/ỉ hổ nhớ rừng" hay “co/í nai vàng ngơ

ngác”... mà là của ‘\V(> người”, “hồn má". Sau này, khi nhìn lại thời kỳ “thung

lũng íỉait thương” ấy, nhà thơ đã viết: “773/ chỉ là một cơn mưa. Một dòng nước

mắt. Một viên gạcli líổ. Một ánh hoàng hôn mà!... Thời Điêu tàn tỏi đâu có íhơ

tình. Tỏi quản lý những tháp đổ, những nấm m ồ...”[64,309]. Chế Lan Viên đã

rơi vào bi kịch không lý giải được bao điềư trong cuộc sống.

Trời xanh hỡi tròi xanh không nói

Hồn tôi muốn hiếu chẳng cùng cho

( Đ ọc sách - Đ iêu tàn)

Nhận thức thế giới và cuộc đời xung quanh vẫn là ham muốn không cùng

của nhà thơ, nhưng tác giả bất lực trước hoàn cảnh khách quan. Nhiều lúc Chế

Lan Viên muốn hoà nhập vào thinh không, vào đất trời và không muốn tổn tại

dưới dạng“ vật chất người'''1 trong cuộc đời gió bụi.

Tôi là kết tinh của ánh trâng trong

Sao không cho tôi đến chỗ hư không?

( Tắm trăn g - Đ iêu tàn)

Nhiều câu hỏi như vậy trong Điêu tàn đã nhuốm một màu sắc siêu hình.

Những“cđM hỏi hư Vỡ”đó làm cho con người buồn tủi, mất chí hướng, dễ dàng

đầu hàng trước số phận. Đó cũng là căn bệnh lớn nhất của tác giả Điêu tàn thời

kỳ này.

Mang trong mình một thế giới Điêu tàn, nỗi nhớ tiếc, buồn thương đã khắc

vào tâm khảm nhà thơ, trở thành máu thịt, niềm tin trong hồn người.

Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt

Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ.

Dẫu chỉ \'d“sống với đêm mỉ?' thôi cũng vẫn là đang tổn tại “nước Chàm ta"

vần đang còn hơi thở, niềm tin, đã và sẽ mãi mãi là hổn thơ sống động dạt dào

trong tác phấm của Chế Lan Viên.

30

V

Thi nhân không chìm đắm trong thơ tình yêu như các thi sĩ lãng mạn khác.

Suốt tập Điêu tàn không có những cái tình đàm thắm bền lâu, cũng không thấy

những lời than Ihứ tình yêu dang dở. Tinh cảm trong thơ Chế Lan Viên là

những nét chấm phá, chủ yếu là khóc thương cho một dân tộc đang chịu cảnh

điêu tàn, là tâm trạng tiếc nuối quá khứ - một quá khứ vàng son của dân tộc.

Đọc Điêu tàn “ta cỏ th ể hình dung ra dường như tác giả của Điêu tàn đang

lí ứng trên một bãi tha ma lịch sử, trong một buổi chiều hoàng hôn lãng mạn,

lắng nghe tiếng kêu gào thâm thiết của ma quỷ và xương máu, xót thương cho

đất nước Chiêm Thành đã bị vùi sâu vào d ĩ vãng, rồi m ơ màng nghĩ về CÕI đời

ngàn năm đau khổ, cảm thấy cô độc trước không gian bao la và thời gian vô

tận. ítã gào lên một cách thảm thiết và cỉau đớn: Ai bảo giùm: Tư có có ta

khòng?'\Nguyển Bá Thành)[48,42]. Ông nghi ngờ ngay cả sự tồn tại của chính

bản thân mình. Chế Lan Viên đã rơi vào “thung lũng đau thương”, rơi vào trận

đồ của tư duy siêu hình. Ông cũng như các nhà Thơ Mới giai đoạn này đều bị

ảnh hưởng của văn học lãng mạn Phương Tây thế kỷ XIX(ảnh hưởng của thơ

tượng trimg Phương Tây, đặc biệt là Bôđơle khá rõ). Điều đó đã mang đến

trong thơ ông một “giọng buồn ảo não có pha màu huyền bC\ khác hẳn với

những giọng quen thuộc trong Thơ Mới.

2.1.2. Cái tôi hiệp sĩ.

Thoát ly vào thơ và làm cho thơ thoát ly hiện thực là đặc điểm cốt lõi nhất

của phong trào Thơ Mới nói chung và Chế Lan Viên nói riêng. Bàng cách này

hay cách khác, mỗi nhà thơ đều thể hiện hướng thoát ly của mình. Họ coi đó là

những“vz/<7/?£ quốc độc lập" không ai giống ai. Mỗi người thoát ly một cách,

cũng là đi tìm cho mình một điểm tựa nào đấy trong cuộc đời. Nhưng càng tìm

kiếm, họ càng lạc lối, càng đi sâu vào cái tôi họ càng cảm thấy cô đơn, vắng

lạnh. Họ vẩn vơ đi tìm cái đẹp ở thiên nhiên, đất trời, giao cảm với cỏ cây, hoa

lá. “Thê Lữ đi vào cõi Tiên, Lưu Trọng Lư đi vào cõi mộng, Hàn Mặc Tử đi về

V('ri tlìánli thần và thượng đế, Xuân Diệu say sưa với cõi tình, Huy Cận buồn

31

thi(('/in> CÙHÍỊ vũ trụ... riêng Chê Lan Viên cii một ngả xuống cõi âm, qua một bãi

tliơ ma ííầy yêu tinh, quỷ quái, sọ người... sau đỏ trở về cõi ta rồi bay lên vũ

//7/!”(Nguyễn Bá Thành)[48,41 ]. Tác giả của Điêu tàn đi qua nhiều cõi như vậy

nhưng cõi nào cũng là một sự chạy trốn, thoát ly hiện tại. Con đường mà ông

tìm kiếm, phát hiện cũng chỉ là thoát ly vào chính mình, tâm sự với mình. Bới

lẽ, dù ở cõi Âm, cõi Mộng hay cõi Tiên... cũng chỉ là những ảo ảnh do trí tưởng

tượng chắp cánh mà thôi chứ nó chưa bao giờ là những thực thê có thực. Các

nhà Thơ Mứi nói chung và Chế Lan Viên nói riêng có những tuyên bố công

khai về thơ. Thế Lữ cho rằng mình là “rây dàn muôn điệu”, mơ ước hình ảnh

người khách chinh phu “dấn bước truân chuyên khắp hải hồ" ham những vẻ

đẹp cao siêu hùng tráng.

Tôi chỉ là một khách tình si

Ham vẻ đẹp có muôn hình th ể

Xuân Diệu đã từng có một định nghĩa nổi tiếng về người thi sĩ.

Là thi s ĩ nghĩa là ru với gió

M ơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.

Hàn Mặc Tử thì quan niệm: “Lứ/M thơ tức là điên". Trong Lời tựa cuốn Điêu

tàn, Chế Lan Viên đã đưa ra một tuyên ngôn về quan điểm thơ của mình:“77»'

s ĩ không pliải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là tiên, là

ma, là quỷ, là tinh, là yêu. Nó thoát hiện tại. Nó xối trộn d ĩ vãng. Nó ôm trùm

tương lai. Người ta không th ể hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy

rằng những cái vô nghĩa hợp lý(...) T h ế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi

đem so sánh nó với người và chê nó là giả dối, không chân thật. Vâng, nó

khôniị chân thật nó giả dối với người. Với IÌÓ, cái gì nó nói đều có cả”[52,2].

Chế Lan Viên nói về hai vấn đề “làm th ứ ' và người “thi s ĩ', tuy hai nhưng là

một, đều thống nhất trong một vấn đề chung đó là: Quan niệm về thơ, thể hiện

sự đối lập giữa người làm thơ với người bình thường. Công việc của người làm

thơ là làm những việc phi thường. Nhà thơ là “người Mơ, người Say, người

Điên". Quan niệm ấy đã chi phối quá trình sáng tạo nghệ thuật của tác phẩm

siêu

đầu tay Điêu tàn và đưa hổn thơ Chế Lan Viên vào một thế giới hư vô,

32

hình, đeo đuổi, bao trùm lên suốt chặng đường sáng tác thời kỳ trước Cách

mạng.

Chế Lan Viên cho rằng thơ không trực tiếp phản ánh hiện thực mà phản ánh

tâm trạng trước hiện thực. Như vậy, ông cùng với Trường thơ loạn là có chung

quan niệm về thơ và nhà thơ.“77/07 kỳ này, thơ xuất hiện một cái tỏi viết hoa

trọng vọng". “ Hình ảnh cái tỏi thật là hiên ngang, kiêu hãnh và táo bạo, không

khỏi mang tinh chất một hiệp sĩ. Có th ể gọi cái tôi chung của các nhà Thơ Mới

í lì ('rí kỳ đầu lù cái tôi hiệp A’f”(Nguyễn Bá Thành)[49,183].

Cái tôi Chế Lan Viên trong Điêu tàn cũng là cái tói hiệp sĩ. Cái tối ấy khi thì

lao vào tình yêu say sưa, khi lao vào nghĩa địa lâm sự cùng yêu ma. Người ta

kinh dị về một thế giới hình ảnh mà Chế Lan Viên đã phản ánh trong thơ. Đó là

một thế giới hồn độn đến rùng rợn được Chế Lan Viên xây dựng bằng những

chất liệu của tử thần, cái chết, máu xương... Đọc thơ ông, ta cảm nhận dường

như thi nhân không còn là nhà sáng tạo thơ ca mà chỉ là một cá thể giao cảm

với những linh hổn ở cõi hư vô, rồi ghi lại từng lời than khóc rên rỉ của những

cô hồn hoài vọng một thời xưa. Nhà thơ sống với sự hư ảo về một Chiêm quốc

và giống dân Hời. Đó là cõi chết, cõi hư vô nơi tháp Chàm đua nhau rụng,

“muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi", hoang mạc của những đổ nát, lở lói, tan

vỡ, chiêm nữ, hồn ma, lâu đài điện ngọc, là mồ chôn gửi hận trần gian.

Chế Lan Viên muốn mượn chuyện dân tộc Chiêm Thành để thổ lộ nỗi đau

xót thầm kín của một người dân Việt Nam mất nước. Đó là nỗi buồn về quá

khứ xâm chiếm tâm hổn ông như một vết thương dài: “ Trong thơ ta dân Chàm

luôn sống mãi". Nhưng càng đắm chìm trong mộng ảo siêu hình, cái tôi hiệp sĩ

ấy càng bế tắc tuyệt vọng. Dù thoát ly bằng cách nào cũng không tìm được lối

thoát thực sự. Những lúc tưởng chừng như cái tôi hiệp sĩ đã đi đến tận cùng của

sự bế tắc, cô đơn, không có lối thoát thì trí tưởng tượng lại chắp cánh cho cái

tôi ây tìm đến một chân trời mới lạ, mang tầm vóc vũ trụ. Cái tôi ấy muốn trốn

đời. thoát ly thực tại . Nhưng ngay cả cái ý muốn trốn đời cũng thật dị thường.

Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,

33

Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!

Đ ế nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh

Nliữní’ ưu phiền, đau khổ với buồn lo!

( N hững sợi tơ lòng - Đ iêu tàn)

Cũng chính vì những cái dị thường đó mà ở Chế Lan Viên, sự chán nản, đau

thương, cô đơn đều đến mức tột cùng. Trên tay là mộ trống, trong lòng là huyệt

bỏ, trong hổn ‘7ừ mổ không lạnh lùng sương giá đọng", “toàn khổ đau, sầu não

V('ri lo bu ồrì\M ồ không), không thể chạy trốn vào quá khứ, thời gian cũng

không thê hoá giải nỗi cô đơn, cái tôi hiệp sĩ lại cuống cuồng tìm đến vũ trụ:

Trăng, sao, cung hằng, dòng Ngân. Dường như chỉ có tầm cỡ của vũ trụ mới

dung chứa nổi nỗi cô đơn, đau thương đến khác thường của con người “ không

tlìê lấy kích tấc thường mà do dược". “ Vù trụ là nơi hồn thơ m ơ đạt đến , mơ

dược "tắm trăng”, “ngủ trong s a o ” đ ế thoát khỏi nỗi u buồn. Vì vũ trụ là cái

đích của một ước mơ nhằm trốn thoát “đau khổ với buồn lo ” cho nên vũ trụ

trong Điêu tàn không thê lương ảm đạm như trong Lửa thiêng của Huy Cận,

không Ư('n át ái tình như trong T hơ thơịXuản Diệu), không khắc khoải thương

tâm như Hàn Mặc Tử. Vũ trụ ở đây mang một vè vừa rực rỡ vừa điều tàn, vừa

lung linli lại vừa đ ổ VẾ?”(Nguyễn Bá Thành)[48,48].

Không u ám, ghê rợn như thế giới của xương máu, yêu ma, sọ dừa thậm chí

lại vô cùng sáng láng, huyền hoặc nhưng vũ trụ hiện lên cũng thật dị thường,

nhiều khi đến gai cả người: Trăng điên, trăng lả tả, sao bỗng dưng rơi dưới đáy

hổ yầ\i(Trăng điên), sao rụng, sao rơi, sao tán loạn đua bơi trên mặt nước(Ngỉỉ

trong sao), trăng, sao, gió ổn ào, “tán loạn chạy quanh tor”, “Sao ở đâu mọc lên

trong íiáy giếng. Lạnh như hồn II tối vạn yêu ma?” (Ta). Cả vũ trụ như bấn loạn

lên bới đã có một linh hồn cô đơn tột cùng đang gõ cửa. Linh hồn ấy hướng lên

cao xanh, lặng lẽ nhìn “muôn sao” mà tự hỏi.

Mảnh hồn ta tiêu diệt tự bao giờ?

Văn ọ vẳng nghe trong không giới bao la

Một vì sao êm reo lời đáp lại.

( Đ ám ma - Đ iêu tàn).

34

Nhưng dù chạy trốn cõi đời đau khổ, thoát ly vào bãi tha ma hay vào vũ trụ

thì cái tôi ấy cũng phải quay về với chính nó bởi sự bế tắc, không lối thoát:

Lòng hỏi IÒMỊ biết đâu là âm giới?

Biết nơi đàu cõi sông của muôn người?

Trong lí minh lòng ta không lạc lôi

Trong tháng ngày yên đ ể lệ sầu rơi.

( Búng tôi - Đ iêu tàn).

Có lúc sự chạy trốn ấy càng sâu, càng chặt hơn:

Hãy tìm cho ta một nấm mộ hoang tàn

Đào đất lên cậy cả nắp hòm súng

Hãy chôn chặt thán ta vào chốn ây.

( M áu xương - Đ iêu tàn).

Lang thang khắp mọi chốn, cuối cùng cái tôi ấy lại quay về với chính bản

thân nó. Chế Lan Viên để cho tâm hổn mình bay lượn tự do trước những nỗi

buồn lênh láng của cuộc đời. Có lúc, muốn là một đấng “tạo lập" tạo ra thế giới

của riêng mình nhưng vẫn không được phép mà đâu đâu cũng gặp sự réo gọi

của hổn ma bóng quỷ, như ám ảnh chính sự tồn tại của cuộc sống.

Cho từng sóng quỷ ma dần hiển hiện

Cho lời kêu tiếng rú bật váng tai

Cho lăn lóc, hồn mê trong ảo huyễn

Lãng quên đi giây phút cảnh trần ai.

( T ạ o lập - Đ iêu tàn) .

Buồn đau, cô đơn, muốn thoát ly thực tại dường như đã trở thành bản chất,

máu thịt của cái tôi Chế Lan Viên trước Cách mạng. Một nỗi buồn đau thấm

đẫm qua các vần thơ. Nỗi buồn của thân phận người trí thức trong một nước nô

lệ, cái quằn quại bế tắc của tẩng lớp tiểu tư sản nghèo trong cuộc đời ô trọc lại

thêm những dòng lệ trong văn chương nhà trường thuở ấy. Nỗi buồn đau, xót

xa của một con người nhỏ bé đơn độc trước khoảng không của vũ trụ. Nỗi buồn

ấy đều bắt nguồn từ một cái tôi cuồng loạn, cái tôi buồn dữ dội mênh mang.

35

Não nề thay cảnh bơ vơ cô độc đến rợn ngựp trước không gian, thời gian, trước

con đường đời hun hút vô tận:

Đườnq về thu trước xa lủm lắm

Mù kẻ di về chi một tôi.

Cái tôi trong Điêu tàn không ít khi đắm chìm vào những băn khoăn suy tư

siêu hình về bán thể.

Ta dứng trước cõi la không thâu hiểu

Hồn của ai trú ẩn ở dầu tư

Ý của ai trào lên trong đáy óc.

( T a - Đ iéu tàn).

Là một nhà thơ có niềm khao khát cực mạnh về sự hiểu biết, cảm xúc, tư

tưởng, Chế Lan Viên đã thể hiện trong Điêu tàn một cái tôi đầy khát vọng:

Khát lắm rồi? Hãy mau cho tôi uống

Cho nguôi di nhớ tiếc với trông mong.

( Tắm trăn g - Đ iêu tàn).

Cảm nhận được nỗi đau khi mùa xuân về trên một đất nước đang ngập chìm

trong nô lệ lầm than, nỗi buồn ấy càng tăng lên gấp bội. Cái tôi hiệp sĩ trong

Điêu tàn là một cái tôi đau, uất hận, chua xót. Trong làng Thơ Mới Việt Nam,

các nhà thơ đều có chung một nỗi buổn“//iê7ỉệ”. Nhưng có lẽ Chế Lan Viên và

Hàn Mặc Tử là hai nhà thơ cảm nhận sâu sắc nhất nỗi buồn đau dữ dội trước

cảnh nước mất nhà tan của cuộc đời. Nhìn một đám mây in hình dưới nước,

Hàn Mặc Tử cũng liên tưởng đến một cái chết:

Mảy chết đuôi ở dòng sông vắng lặng

Tròi thây vê xa tận cõi vô biên.

( H àn M ặc Tử)

Thi sĩ còn mượn thơ để diễn tả tâm sự đau đớn đang bủa vây quanh mình.

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút

Mơi hồn thơ đều dínlì não cân ta

Bao nét cliữ quay CUỒHÍ’ như máu vọt

36

Như mê man chết diếng cả làn da.

ị Rớm m áu - H àn M ặc Tử)

Còn Chế Lan Viên cũng thể hiện những nỗi khổ đau tột cùng .“C h ế Lan Viên

kliôiiíỊ hút mà hét, không m ơ mù mê, không khóc mà £í/r>”(Nguyễn Bá Thành)

148,53]. Nhà thơ đã tìm đến một quá khứ tưởng tượng chủ quan nhưng qua đó

ta cũng thấy được những vết xước đang rớm máu trong lòng dân tộc và thời đại.

Cái ngày xưa ấy đã trôi qua, ngày nay người ta chỉ còn thấy văng vẳng những

cảm giác rợn ngợp, tê dại của thế giới máu me, sọ dừa và đầu lâu... Còn gì da

diết hưn khi nhà thơ kêu gọi:

Tạo hoá hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!

Hãy đem tối xa lánh cõi trần gian!

Muôn cảnli đời chí làm tôi chướng mắt!

Muôn Vui Tươi nhắc mãi xẻ diêu tàn!

.

( N h ữ n g sợi tơ lòn g - Đ iêu tàn )

Thực ra lời kêu gọi “trả v ề ' không phải về Chiêm quốc mà trở về với thực tế

cuộc sống của Tổ quốc, của đất nước Việt Nam đang bị quân thù giày xéo. Nhà

thơ đã lấy hình ảnh điêu tàn, kinh nghiệm điêu tàn của nòi giống Chiêm thành

để nói lên nỗi khổ đau của chính người Việt Nam. Nỗi buồn thương nhớ tiếc

dân Hời nhưng là nồi buổn thương nhớ tiếc dân tộc Việt Nam. Phải chăng, đây

là hướng thoát ly của một cái tôi chán chường với cảnh đời hiện tại mà chất

chứa bên trong là lòng yêu nước?

Giữa cuộc đời đầy rẫy những điều ngang trái mà con người chỉ là một thực

thể bé nhỏ. Cái tôi Chế Lan Viên đã tìm đến cõi Âm, bay lên vũ trụ rồi trở lại

với sự tồn tại thực của mình. Đó là hành trình tìm kiếm sự thoát ly hiện tại mà

có lúc cái tôi ấy đã nhận biết rất rõ cái mong manh vô định của bản thân mình.

Sau này, khi Cách mạng tháng Tám đến “mất nỗi đau riêng và được cái vui

chung” , Chế Lan Viên nhận ra ràng mình mới hai mươi lăm tuổi mà đã già đi vì

mang trong mình một cái gia tài đổ sộ của hàng triệu nỗi buồn: Nỗi buồn của

người dân mất nước, nỗi buồn của cuộc sống riêng hẩm hiu. Thậm chí nghìn

triệu tiếng khóc, cơn mưa, tiếng gió đến bất kỳ nơi đâu, có khi vay mượn giả

37

mà cứ buồn rất thực.

Có thê nói, với Điêu tàn cái tôi cô đơn mang tính chất của một hiệp sĩ Chế

Lan Viên đã làm cuộc hành trình gian nan và đau khổ. Cái tôi ấy không ngần

ngại sục sạo trên mọi ngả đường: Từ mộng tưởng, vũ trụ, quá khứ và đến ngay

cả bản thân mình mà chẳng hề tới đích. Khao khát lẩn tránh nỗi cô đơn nhưng

chẳng cuộc chạy trốn nào thành công cả. Cho đến cuối Điêu tàn, cái tôi ấy vẫn

gào lên bất lực:

Ôi biết làm sao cho ta thoát khỏi

Ngoài cõi ta ngập chìm trong bong tối

Cho linh hồn vụt đến xứ trăng mây

Cho ta là không phải của ta dây

Mà sáp nhập vào tuổi tên cây cò.

( C õ i ta - Đ iêu tàn).

NÓ vẫn“w<á” và “quanh mình bỏng tối mênh mang cả”. Mặc dù còn bi quan

bế tắc, song nỗi buồn thương, cô đơn, sự chán nản đến gay gắt của một tâm hổn

còn rất trẻ ấy thật đáng trân trọng biết bao. Quay lưng lại thực tại, chối từ thực

tại một cách quyết liệt, băn khoăn, trăn trở vể nước Chàm đã bị chìm vào dĩ

vãng cũng chính là than vãn cho con người Việt Nam đang tồn tại trong khổ

đau, đáng cay cho vận mệnh của dân tộc đang trên bờ vực thẳm. Có lúc, tưởng

chừng như Chế Lan Viên đã tìm được cho mình một nơi trú ẩn: Đài thơ, Tháp

nghĩ, để xa lánh cuộc đời trần thế, bế tắc. Nhưng thực tế, đó chỉ là nơi tạm trú.

Biết bao câu hỏi tự đặt ra cho mình mà không giải đáp được. Bởi lẽ, Chế Lan

Viên đã quan niệm: Thi sĩ là “người Mơ, người Say, người Điên...". Ông đã

"trót di xa... đi tuốt va khỏi cuộc đời về phía tha ma, về phía siêu hình” và chỉ

có ánh sáng của Đảng, của Cách mạng, sự đổi thay của lịch sử dân tộc mới đưa

được nhà thơ thoát ly khỏi sự bế tắc ấy.

2.2. CÁ I T Ô I C H IÊ N S ĩ, CÁ I T Ô I NH ÂN DANH.

2.2.1. Từ thung lũng đau thưưng ra cánh đổng vui.

38

“ XiCa phù du mà nay đã phù sa

Xưa bay (li mà nav không trôi mất"

Cách mạng tháng Tám thành công đã làm nên một cuộc biến thiên vĩ đại

trong lịch sử dân tộc. Cách mạng đổi thay vận mệnh của dân tộc, đổi thay tâm

hổn mỏi con người.“Cíír/ỉ mạng thứnẹ Túm cíã trả lại cho mọi người cái vốn

chnnạ là tổ quốc, nliân dân và trà cho từng ngitirì cái vốn riêng là tâm hồn của

lìọ '\Chế Lan Viên). Cuộc hổi sinh vĩ đại ấy đã “lay tỉnh Chê Lan Viên ra khỏi

sự b ế tắc của những tư duy siêu hình về bàn th ể mang màu sắc tôn giáo, dưa

con Hi>ười nhà thơ trở về V('ri cỉời sông đất nước và dân /(3í’”(Nguyễn Văn

Long)[35,92]. Tho' Chế Lan Viên giai đoạn này đã có những bước thay đổi căn

bản và quyết liệt cả về tư tưởng iẫn tình cám, đánh dấu một chặng đường sáng

tác mới trong sự nghiệp của nhà thơ. Chính Chế Lan Viên cũng cảm hết ơn sâu

của Cách mạng khi ông viết: “Người thay dổi dời tôi, Ngi((ri thay đổi thơ tôi”.

Cuộc sống mới, với ánh sáng của Đảng chẳng khác nào “mạ/ trời tư tưởng rọi

hang sâu". Khi cuộc đời đã rõ hướng thì đến “nếp lêu con cũng chói ỉoà ánh

sáng". Ánh sáng ấy đã tác động mạnh mẽ đến cách nhìn của giới trí thức tiểu tư

sán, làm chuyển hướng suy nghĩ không chỉ riêng với Chế Lan Viên mà với các

nhà Thơ Mới cùng thời.

Quá trình nhận đường của các nhà Thơ Mới nói chung và của Chế Lan Viên

nói riêng gắn liền từng bước, từng giai đoạn phát triển của hiện thực Cách

mạng. Nhưng bước đầu của sự chuyển hướng, mỗi nhà thơ không tránh khỏi

những nỗi lòng băn khoăn trăn trở. Cũng như phần đông các nhà thơ lãng mạn

khác, Chế Lan Viên đã lựa chọn con đường Cách mạng. Nhà thơ không còn

chạy trốn vào cõi trăng, sao hay cõi âm lạnh lẽo mà nhìn thảng vào cuộc đời

của mình, của đất nước, của nhân dân với thái độ dũng cảm. Từ một thi sĩ ẩn

trong Đài thơ, Tháp nghĩ của riêng mình, ông đã lột xác thành một thi sĩ - chiến (r

sĩ trên mặt trận văn hoá, góp sức mình vào việc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hoà mình vào cuộc sống kháng chiến, nhà thơ cũng hoà mình vào cuộc đời các

chiến sĩ đế sáng tác phục vụ kháng chiến, đi theo các đoàn bộ đội, dân công ra

tiền tuyến. Chế Lan Viên đã trư thành nhà thơ của nhân dân, nhà thơ của Đảng:

39

Cho cỉến dược lúa vàng íĩất mật

Phải trên lòng... bao trận I;ió mưa qua

( T hư gửi T ế H anh - Á n h sáng và ph ù sa).

Chê Lan Viên sẩn sàng vượt qua bao trận gió mưa để tạo lập cho mình một

đời thơ mới. Nhưng sự thay đổi tư tưởng, tình cảm là một chặng đường khá dài,

đầy khó khàn gian khổ, trải qua muôn nỗi dàn vặt riêng tư, tự đấu tranh với bản

thân mình. Một lần nữa Chê Lan Viên đặt câu hỏi cho mình và tìm lời giải đáp:

“ Ta lù a i ”? N hư ngọn iịió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt

Ta vì ai ”? Khẽ xoay chiều ngọn bấc

ị H ai càu hỏi - Ánh sáng và ph ù sa)

Nhà thơ đã xác định dược mục đích cuộc sống của mình, từ "'ngọn qió siêu

hình”với quan niệm nhà thơ là người Mơ, người Say, người Điên đến quan niệm

thi sĩ là của nhân dân, vì nhân dân:

Vóc nhà thơ dứng ngang tầm chiến luỹ

Bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi

( Án h sán g và phù sa).

LÚC này “âng đang chuẩn bị đưa cái tôi trữ tình cũ ra trước công luận, phanh

phui nó, k ể tội nó, kết án nó. Đ ể có được lực lượng nhằm chống lại cái tôi- hiệp

sĩ, nhà thơ phải tạo ra được một cái tôi mới, cái tôi chiến .sT’(Nguyễn Bá

Thành)[49,186Ị. Cái tôi ấy tự làm một cuộc Cách mạng trong tâm hồn, rũ bỏ

những điều xưa cũ để hoà nhập vào dòng thác cửa Cách mạng, đến với Cách

mạng, với Đảng và nhân dân, xác định hướng đi đúng đắn cho đời mình, thơ

mình. Vì thế mà nhà thơ đã phá được cái tôi cũ:

Trong thung lũng cíau thương vẩn tìm ra vũ khí

Phá cô đơn “ta ” tìoà hợp với “người ”

ị K hi d ã cớ hướng rồi - Á nh sáng và phù sa ).

Từ một nhà thơ “tự do", thoát ly cõi đời đau khổ bằng cách tìm đến một thế

giới hình ảnh đầy ma quỷ, xương khô, sọ dừa... Chế Lan Viên đã lấy hiện thực

40

cuộc sông bổi đắp lên những trang thơ, lây lý tưởng của Đảng soi đường cho

hình tượng thơ của mình. Gắn bó với sự nghiệp Cách mạng, Chế Lan Viên đã

cho ra đời tập thơ Gửi các anh. Tập thơ đánh dấu một bước chuyên biến quan

trọng trong sự nghiệp thơ ca của ông giai đoạn này. Mặc dù tập thơ mỏng mảnh

(17 bùi) viết trong kháng chiến chống Pháp của ông chưa mấy thành công

nhưng cái đáng quý nhất là nhà thơ đã đi đúng hướng. Một sự chuyên hướng,

chuyên đổi trong quan niệm về thơ: Từ sự “phi thường” sang “bình thường”, từ

cái "tôi cá thể" siêu hình thành cái tôi ‘7loà hợp với người”. Chế Lan Viên đã

thoát khỏi sự bế tắc, dứt bỏ được những băn khoăn về siêu hình và cảm nhận

được những vẻ đẹp, những hy sinh to lớn, cũng như những tình cảm cao quý

của quẩn chúng nhân dân .

Quá trình “clmyển mình”, vượt qua những nỗi đau riêng để hoà hợp với niềm

vui chung ấy của Chế Lan Viên quả là gian nan, vất vả. Thoát ra từ những suy

tưởng siêu hình nên tác giả luôn trãn trở trên bước đường thơ của mình.

Đi xa hoá về chậm

Biết bao là nhiêu khê

(N goảnh lại m ười lăm năm - Á n h sán g và ph ù sa).

Con đường vận động từ cái tôi đến cái chúng ta, hoà hợp với cuộc sống Cách

mạng, thể hiện bước chuyển từ “chân trời một người" đến “chân trời tất cả'"

của Chế Lan Viên đầy chông gai thử thách. Hàng loạt những tập thơ khác nối

tiếp nhau ra đời: Á nh sáng và p h ù sa, Hoa ngày thường - C him báo bão, Đôi

thoại mới... đã khẳng định tài năng về thơ Cách mạng của Chế Lan Viên,

khẳng định một hướng đi đúng, một con đường đúng. Cách mạng đúng là một

cuộc tái sinh mầu nhiệm cho nhà thơ. Mặc dù, Chế Lan Viên đến với Cách

mạng tuy muộn hơn so với các nhà Thơ Mới cùng thời nhưng quyết liệt và dứt

khoát. Cái tôi Chế Lan Viên kiên quyết đoạn tuyệt với quá khứ .

D ĩ vãng buồn thương mang lá cờ đen

Đến làm giặc giữa lỏng ta ta bắn chết

( Vàng của lòn g tin - Á n h sáng và ph ù sa )

41

Nhà thơ đã nhận rõ sứ mệnh cao cả của thơ ca trước hiện thực cuộc sống mới

“Khắp dôi bở tư tưởng cliói hào quang'. Nhưng dù rũ bỏ buồn thương của dĩ

vãng quyết liệt đến thế nào đi chăng nữa thì trong buổi đầu đến với cái mới vẫn

không tránh khỏi những bỡ ngỡ. Cái cũ không dễ dàng mất đi trong ngày một

ngày hai, nó vẫn ẩn hiện, chập chờn như những bóng ma ám ảnh nhà thơ ngày

hôm nay:

Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy

T ổ quốc trong lòng tu mà có cũng như không

Nluĩn dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy

Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng

(Người thay dổi đời tôi, N gười thay đổi th ơ tôi - H oa ngày thường, chim báo bão).

Trong chỗ khuất của tâm hồn, bóng tối và cái cũ vẫn tồn tại, không phải dễ

dàng rũ sạch. Nhà thơ đã có lần tâm sự:“7VỞ về cái sống, chập chững như người

ái thuỷ lâu ngày lên bộ, còn chếnh choáng những cơn sóng siêu hình"[2,157].

Khi nhận thức rõ cuộc đời^đđ có hướng rồi”, hiểu đời, hiểu người, Chế Lan

Viên hiểu rất rõ tâm hổn của mình :

Hồn tỏi là một cánh đồng lẩn khuất

Đau bên Đoài mà gió thổi bên Đông.

Nỗi “í/ữM bên Đoài” ấy cũng chính là sự dằn vặt, vật lộn ghê gớm của nhà

thơ đê chuyển hướng, chuyển đổi trong tâm hổn và cũng là chuyển đổi trong

quan niệm về thơ. Đẩy lùi nỗi đau cũ để tiến đến niềm vui mới, Chế Lan Viên

tự giãi bày cuộc đấu tranh trong tâm hổn như là một cách để sẻ chia, tâm sự

cùng chúng ta. Những vết thương lòng ấy được ánh sáng lý tưởng soi dọi và

phù sa cuộc đời bồi đắp. Đúng như nhà thơ đã giải thích cho nhan đề tập thơ

của m\nh:“Ánh sáng soi dọi tôi và phù sa bồi đắp tôi, ánh sáng tinh thán và

phù sa vật chất của lý tưởng tôi". Cuộc “trở về” ấy của nhà thơ cũng rất khác

so với nhiều nhà thơ cùng thời. Nỗi đau ấy còn kéo dài, làm cho nhà thơ có lúc

rơi vào ur thế tội nghiệp, một sự van xin.

Quỳ xuống bên dường

42

Tôi hôn cuộc sống

V

Lượng đời mở rộng

Nên đời cồn thương

( Đ i ra n goại ô - Ánh sáng và phù sa).

Từng bước một, hoà với cái ta chung rộng lớn, Chế Lan Viên đã lấy “phù su"

của cuộc đời bổi đắp cho tâm hổn mình, “lấn từng nỗi (lau như mùa chiêm lân

vành dai trắng”. Giờ đây nhà thơ không còn thu mình trong vương quốc của

cái tôi cũ, ỏng hoà mình vào các mối quan hộ của cuộc sống Cách mạng. Đê

khắc phục khuynh hướng thoát ly trong thơ trước Cách mạng, Chế Lan Viên cố

gắng vượt lên đê chiến thắng chính mình.

Ta lấn từng nổi đau như mùa chiêm lân vành dai trắng

Lấn bệnh tật mà đi máu đỏ lấn da xanh.

( N h ật k ý m ột người chữa bệnh - Á n h sán g và ph ù sa).

“ Tập Á nh sáng và p h ù sa là một giai đoạn đấu tranh của tâm hồn C h ế Lan

Viên, không nliững dấu tranh chống bệnh tật mà thực ra còn chống nốt với

những còn lại nào đó của giai đoạn suy nghĩ siêu hình trước Cách mạng...”

"Á nh sáng và p h ù sa có những đấu tranh xé thịt, x ẻ da”(X uân Diệu)[33,308-

312]. Qua đó, ta thấy được một sức mạnh tự vượt lên mình để chiến thắng nỗi

đau của bước âầu“nhận dường” trong tư tưởng của Chế Lan Viên.

Thơ ta đang giữa trận

Máu đ ổ nhiều nhưng nén tiếng kêu rên.

( N h ật k ý m ột người chữa bệnh - Á n h sáng và ph ù sa).

Từ dĩ vãng buồn đau, nhà thơ trở lại hiện tại, từ mộng ảo trở về hiện thực, từ

chán nản rã rời, nhà thơ đi đến niềm tin và ý chí chiến đấu. Từ cô đơn đau

buồn, muốn tránh, muốn trốn đời, nhà thơ “/ỉỡà hợp với người Chế Lan Viên

thấy “í/Ờ7 đang vui” “yêu cuộc đời như con đẻ, như đêm xuân người vợ trẻ yêu

chồng". Cái tôi ấy hết sức thành thực. Nó rưng rưng xúc động khi tìm ra ý

nghĩa đích thực của cuộc đời. Có khi, cái tôi ấy phấn chấn, náo nức như con trẻ,

43

có khi lại trầm lắng, suy tư để mà chiêm nghiệm, thấm thìa cái chất “vàng của

lòiìịỉ liu" của cuộc đời mới :“Xưa pliù du mà nay đã phù sa". Câu hỏi lớn trước

Cách mạng của Chế Lan Viên đã có lời giải đáp.

Cái tôi Chế Lan Viên giờ đây không còn loanh quanh, luẩn quẩn với thế giới

siêu hình hư huyễn trước Cách mạng. Từ chỗ hướng nội, cái tỏi đã chuyên sang

hướng ngoại. Từ chỗ giam mình trong những tháp Chàm “chắc chắn le'loi và bí

mật", một mình gặm nhấm nỗi cô khổ, Chế Lan Viên đã ào ra “đại /ộ” lớn của

dân tộc, chứng kiến một cuộc tái sinh mầu nhiệm, say sưa ca hát để phục vụ

cho lợi ích của cuộc đời.

Lồng ta chửa bao giờ ta đi hết được

Di hết lòng tiếng khóc hoá lời ca

( N h ật ký m ột người chữa bệnh - Á n h sán g và ph ù sa).

Hiện thực Cách mạng rộng lớn của đất nước đã khiến cho cái tôi ấy không

thể dửng dưng. Thực đẹp vô cùng cái quang cảnh của một dân tộc vươn mình

đến ánh sáng. Từ cái tôi riêng, nhà thơ hoà vào cái ta chung của quần chúng,

hướng thơ ca vào những chủ đề hiện tại, ngợi ca lao động dựng xây, ngợi ca sự

đổi thay của đất nước sau ngày hoà bình lập lại, thể hiện lòng tin tưởng, lòng

biết ơn đối với Bác Hổ, với Đảng. Đặc biệt, Chế Lan Viên nhận rõ một ý nghĩa

đích thực của thơ ca. Nhà thơ đã viết những lời thơ trong nước mắt.

Suốt một đời ăn hạt gạo nhân dân

Lần thứ nhất nhà văn đi học cấy

Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy

Chửa “vì người ” bằng một bữa cơm ăn.

( Đ i thực tế- Á n h sá n g và ph ù sa).

Chế Lan Viên cảm nhận được một cách thấm thìa cái hạnh phúc giữa “cánh

dồng vui" của cuộc đời.

Đời tươi mát nliư ao sen mùa hạ

Anh em bốn bên mà ta ở giữa

Có dược trái cây thơm, ta biết quỷ cả mùa lành

(Người th ay dổi dời tói, Người thay dổi th ơ tói - H oa ngày thường, chim báo bão).

4 4

Từ một nhà thơ lãng mạn tượng trưng, phảng phất siêu thực, Chế Lan Viên đã

trở thành một nhà thư hiện thực xã hội chủ nghĩa, khép lại cuộc đấu tranh quyết

liệt với chính mình và khảng định dứt khoát mình là người chiến thắng. Cái cũ

bị rũ bó và hiện thực cuộc sống mới đang tràn vào thơ với tất cả sự phong phú,

đa dạng và đầy hương sắc quyến rũ của cuộc đời. Chế Lan Viên hân hoan tìm

đến với cuộc sống của cần lao, dân dã với “£>/ ra ngoại ở". Nhà thơ đã“Đ/ ra

vơi sòng, đi ra với trời, di ra với người, đây rồi dân chúng, cuộc đời âm nóng,

như cỏn trong nôi...". Một điểu thấy rất rõ à Á nh sáng và phù sa là Chế Lan

Viên rất có ý thức đi vào cuộc sống mới. Cuộc sống đang vận động và biến đổi

không ngừng. Tiếng hát con tàu hay đó chính là tiếng hát trong lòng nhà thơ,

làm rung động biết bao lòng người.

Con tàu này lên Tây Bắc anh di chăng?

Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội

Anh có nghe gió ngàn đang vẫy gọi

Ngoài cửa ô tàu đói những vầng trăng

( T iến g hát con tàu - Á n h sán g và ph ù sa).

Đó là lời Tây Bắc hay chính là lời anh mời gọi tâm hồn mình, vẫy gọi những

tấm lòng, những bàn chân còn nhiều vấn vương do dự đi vào khai phá miền

rừng hoang vu...

Giữa tết trồng cây cũng là một bài thơ thể hiện sự liên tưởng bất ngờ, gợi lên

một ý nghĩa sâu sa. Đó là sự hổi sinh của Cách mạng và cuộc sống mới cho

những tâm hồn khô héo trong cuộc đời cũ. Ta như nghe “Giữa tết trồng cây" cả

những rạo rực, sinh nở của một mùa hoa trái tương lai. “ớ i , nếu thời Điêu tàn,

Vàng sao có ai bảo rằng thơ tôi sau này có chất hùng tráng, thì tôi s ẽ cười c h ế

nhạo nhà tiên tri ấy. Tôi chỉ lừ một cơn mưa. Một dòng nước mắt. Một viên

gạch đổ. Một ánh hoàng hỏn"{Ché Lan Viên)[64,309]. Thế mà, cái điều tưởng

như không thể ấy lại trở thành hiện thực. Cách mạng đã làm thay đổi đời ông,

thơ ông. Từ "'thunIỊ lũng đau thương ra cánh đồng vui” là cả một quá trình đấu

tranh vật lộn tư tưởng và tâm hổn nhà thơ. Ở giai đoạn nào cũng vậy, Chế Lan

45

thi sĩ là người “COI1 của nhân dân", của quần chúng lao động được nuôi dưỡng

Viên bao giờ cũng có tuyên ngôn thơ, quan niệm về thơ rất rõ ràng. Giờ đây,

và đùm bọc trong tình dân, làm thơ, sáng tác để phục vụ nhân dân, phục vụ

cuộc sống cần lao.

Con gặp lại nhân dân như nai về suôi cũ

Có dán giêng hai, chim én gặp mùa

Như dứa tre' thơ dổi lòng gặp sữa

Cliiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

( Tiếng hát con tàu - Á nh sáng và phù sa).

Với sự chuyển hướng, chuyển đổi trong quan niệm ấy, thơ Chế Lan Viên

ngày càng gần gũi, gắn bó và có một ý nghĩa thiết thực với cuộc đời, với dân

tộc. Hổn thơ ông tuôn chảy, tài năng thơ ca ngày càng được phát triển lên

những đỉnh cao.

Có thế nói, Á n h sáng và phù sa là điểm đỉnh của một sự chuyển hướng thành

công. Nhà thơ đã giải quyết được căn bản vấn đề“riêng- chung” qua hành

trình“//ì' chân trời của một người đến chân trời của tất cả”(Paul Éluard), từ một

nhà thơ lãng mạn sang nhà thơ hiện thực Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vào

những năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chế Lan Viên làm một

cuộc “chuyển quân" đưa thơ lên những “chiến hào”, biến thơ thành “v/7 khp\

thành sức mạnh vật chất trút lửa căm thù xuống đầu quân xâm lược.

Trên

chặng đường mới này, ta bắt gặp sức mạnh vươn tới của một tâm hồn

theo ánh sáng lý tưởng mới. Sức mạnh ấy càng được nhân lên mạnh mẽ hơn,

hùng tráng hơn khi bắt gặp được chất phù sa màu mỡ của đời sống Cách mạng.

Không còn thấy mình 1 à“wộ/ viên gạch đổ, một ánh hoàng hôn”, cái tôi Chế

Lan Viên đã thấy “cả lòng tôi là một dài sông Hồng” để gặp gỡ với biển lớn

dân tộc. Cái tôi thời Á nh sáng và phù sa là cái tôi tìm được sự hoà hợp giữa cái

riêng và cái chung. Say sưa đến ngất ngây, nó muốn làm cánh chim “lượn trăm

46

ròni>" trên Tổ quốc mênh mông để chiêm ngưỡng “ngàn núi trăm sông diễm

lệ" với những “Điện Biên rực lửa", “bát ngát Trường Sơn”. Cái tôi ấy say sưa

ca hát vẻ đẹp của đất nước, một vẻ đẹp nhuốm màu thần thoại.

Nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý , Trần, Lê

Thành nước Việt nliân dân trong suối mát

Mủi rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói

Nliững đời thường có bóng hoa che.

(N gười đi tìm hình của nước- Á nh sán g và ph ù sa).

Con đường đến với nhân dân, đến với ánh sáng của Đảng, Cách mạng của

Chế Lan Viên là như vậy. Con đường ấy ỉà cả một sự chuyển biến nạng nhọc

cũng là một quá trình nhận thức sáu sắc. Nhà thơ luôn liên hệ, tự đánh giá, tự

nhận diện mình. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái tôi cũ và cái tôi mới. v ề sau, cái

tôi xưa cũ ấy khuất dần, xuất hiện một cái tôi mới hài hoà với cái ta chung rộng

lớn, vĩ đại, giàu sức sống.

Ở những tập thơ sau, cái tôi ấy trở thành cái tôi nhân danh đất nước, nhân dân

để đối thoại với bạn bè quốc tế, đối thoại với kẻ thù. Thơ Chế Lan Viên trong

kháng chiến chống Mỹ không đơn giản chỉ là nghệ thuật, là chất trữ tình mà là

một thứ thơ đánh giặc, mang được những tình cảm lớn của thời đại vang ngân:

Tinh yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, tình cảm bạn

bè quốc tế...

Trong bài thơ Chim lượn trăm vòng, Chế Lan Viên viết:

Tâm hồn tôi khi T ổ quốc soi vào

Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ

Con ngọc trai đêm hè đáy b ể

Uống thuỷ triều bỗng sáng hạt châu.

Tổ quốc trở thành nguồn hiện thực lớn lao để nhà thơ sáng tác. Nhưng nhà

thơ phái biết tiếp nhận, sáng tạo thì mới có một thứ hạt châu đích thực. Khi đã

gắn bó với nhân dân thì cuộc sống ở xung quanh nhà thơ là nguồn thơ vô tận.

Nhựa sống mười năm nhân dân máu đ ổ

Tây Bắc ơi! Người là mẹ của hồn thơ.

47

Miíiii năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa

NiJV trở vê ta lấy lại vàng ta.

( Tiếng hát con tàu - Á n h sán g v à phù sa).

Tóm lại, ánh sáng của Đảng, phù sa của cuộc đời đã giúp Chế Lan Viên tự

đấu tranh gay gắt với bản thân mình đê đến với niềm vui chung. Từ sự “phi

thường" sang “bình thường”, từ cái tôi cá thể siêu hình thành cái ta chung hoà

hợp với người, đó là kết quả của mấy mươi năm Chế Lan Viên dàn vặt trong

việc ‘7///Ỉ đường”, “nliận đường", thoát khỏi sự bế tắc, dứt bỏ được những băn

khoăn về siêu hình và cảm nhận được những vẻ đẹp, những hy sinh to lớn cũng

như những tình cảm cao quý của quần chúng nhãn dàn.

2.2.2. Cái tỏi trữ tình ẩn khuất sau cái ta.

Trước Cách mạng tháng Tám, Điêu tàn ấp ủ một tâm sự yêu nước thầm kín.

Cuộc chiến đấu của dân tộc ta ba mươi năm qua như một xúc tác, đã làm sáng

lên ngọn lửa yêu nước trong thơ Chế Lan Viên. Ở Điêu tàn, giọng thơ đại

ngôn, khoa trương, phóng đại theo phong cách lãng mạn của cái tôi cô đơn

mang tính chất một hiệp sĩ có vẻ bị lạc lõng, đến Á n h sáng và p hù sa, đặc biệt

là thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nó đã thích hợp với thời đại anh hùng ca của

dân tộc. Chế Lan Viên đã viết được những vần thơ sảng khoái, hào hùng ngợi

ca Tổ quốc, tạo nên chất men mới cho Hoa ngày thường - Chim báo bão,

N hững bài th ơ đánh giặc và các tập thơ tiếp theo.

Hành trình của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là một sự phát triển,

vận động và biến đổi liên tục từ Điêu tàn đến H ái theo mùa. Cái tôi trữ tình

trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau: Khi nó lộ

rõ, cũng có khi nó lại ẩn khuất. Những khi xuất hiện như một đối tượng phản

ánh thì nó lại là biểu hiện của cái tôi tác giả- chủ thể thẩm mĩ. Cho nên, cái tôi

có lúc thiên về nội dung, đôi khi lại thiên về hình thức.

Cái tôi Chế Lan Viên trong Điêu tàn là cái tôi hiệp sĩ, cái tôi cô đơn buồn

thám trước một nước Chàm trong tưởng tượng. Đến Á n h sáng và phù sa, cái

48

tôi ây đã giành lại vị trí sô một của mình ở trong thơ. Đối mặt với cái tôi thời

Đ iêu tàn là một cái tôi chiến sĩ trẻ trung được tôi luyện trong kháng chiến: Cái

tôi thành viên, cái tôi tìm được sự hoà hợp giữa cái riêng và cái chung. Chế Lan

Viên đã tìm được hướng đi cho đời mình, thơ mình:

Đời rực rỡ phù sư, ta kiến thiết

Nliững p h ố phường da thịt ửng hồng lên.

( V àng của lòng tin - Ánh sáng và phù sa).

Cùng với Á nh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Xuân Diệu có tác phẩm

R iêng - chung. Đây là tập thơ tiêu biểu của Xuân Diệu đánh dấu bước chuyển

"từ chân trời một người đến chân trời tất cá". Khi nhân danh một cái ta rộng

lớn có tính chất dân tộc, đất nước, thời đại, Xuân Diệu vẫn không bỏ quên cái

tôi độc đáo của mình.

Ở Á nh sáng và phù sa, cái tôi Chế Lan Viên là cái tôi chiến sĩ “đi ra với đời,

đi ra với người". Nó như “con chim lượn trăm vòng'” trên mình Tổ quốc để say

sưa ca hát vẻ đẹp của đất nước với lời thơ sang sảng, bay bổng diệu kỳ.

Sức sống tươi mới của đất nước sau ngày hoà bình ở miền Bấc cũng được

Nguyễn Đình Thi miêu tả hết sức độc đáo. Đó là sức sống kỳ diệu của một đất

nước giàu đẹp, khoáng sản dổi dào.

Trời xanh dây lù của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bớt ngát

Những dòng sông dỏ nặng phù sa.

(Đ ất nước - N gu yễn Đ ình Thi).

Xuân Diệu thì hình tượng hoá Tổ quốc giống như một con tàu đang cưỡi

sóng ra khơi.

T ổ quốc tôi như một con tàu

Mũi tliuyền ta đỏ mũi Cà mau

(M ũi C à mau - X uân Diệu).

Còn Tố Hữu không ngăn được cảm xúc khi ngắm nhìn chính quê hương, đất

4 9

nước mình dưới bầu trời tự do, độc lập.

Đẹp vô cùng T ổ quốc ta ơi

Rừng cọ, đồi chè đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô hò ỏ tiếng hát

Cluiyến pìià dào dạt bến nước Bình ca.

{Ta đi tới - T ố Hữu).

Chế Lan Viên tự hào về Tổ quốc hôm nay tuyệt đẹp. Tổ quốc luôn được đặt

trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa hoà bình và chiến Iranh.

Qua đó, nhà thơ đánh thức được lòng tự hào và ý thức dân tộc đã hằn sâu trong

mỗi chúng ta.

Những ngày tôi sống đây là ngày dẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn làn hơn.

( T ổ quốc bao g iờ đẹp th ế này ch ăn g - H oa ngày thường - C him báo bão).

Đến kháng chiến chống Mỹ, đất nước bị xâm lược, mỗi con người sinh sống

trong thời đại ấy cần phải có ý thức trách nhiệm chiến đấu giữ gìn non sông.

Chế Lan Viên thấm thìa một điều: Mỗi nhà thơ cũng chính là một chiến sĩ

dũng cảm, kiên cường.

Cho tôi sinh giữa những ngày diệt M ỹ

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ

Bên những dũng s ĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng r ơ i .

( T ổ quốc bao g iờ đẹp th ế này chăng - H oa ngày thường - C him báo bão).

Miền Bấc được giải phóng, miền Nam vẫn đắm chìm trong máu lửa chiến

tranh, nỗi đau chia cắt hai miền Tổ quốc dường như không của riêng ai.Vết

thương lòng ấy khắc khoải từng thế hệ nhà thơ. Chế Lan Viên thấy lòng mình

đau đớn, quặn thắt như đứt từng khúc ruột trước nỗi đau phân ly của đất nước.

Những đợt sóng căm hờn cuộn lên dồn dập trong huyết quản của nhà thơ. Có

nỗi đau nào hơn khi kẻ thù chà đạp lên mình Tổ quốc, xâm chiếm giang sơn

gấm vóc. Nỗi đau đó thực sự như một vết thương lòng đang rí máu, luôn nhức

nhối, đau thương.

Chúng muốn xé bàn đồ ta lùm hai tổ quốc

50

Xé thân th ể ta tliủnh máu thịt đôi miền

Xé nhân dân tci thành hai dòng trong đục

Đê tâm hồn ta thành khi nhớ khi quên.

( Đ ừ ng quên - H oa ngày thường - C him báo bão).

Suy nghĩ về Tố quốc, về cuộc chiến đấu của nhân dân là niềm tự hào, niềm

say mê lớn lao của Chế Lan Viên. Tổ quốc trong thơ ông trở thành một hình

tượng tổng hợp mang tính dân tộc và thời đại, nhân dân và Đảng được hội tụ

trong chữ “từ".

Ta x é mình ra ngang dọc chiến hào

Chữ T ổ quốc liền sông núi vạn dời sau

Việt Nam chịu vạn ngày lửa dạn

Cho nghìn năm nhàn loại ngẩng cao đầu.

( N hững bài th ơ đánh giặc).

TỔ quốc là điểm tựa vươn lên cho hổn thơ Chế Lan Viên. Trong những năm

tháng cá dân tộc đánh Mỹ, nhà thơ đã có những suy nghĩ về tổ quốc, về đất

nước một cách trọn vẹn trong chiểu sâu của lịch sử và thời gian. Đó là sức

mạnh được hun đúc, kết tụ tự Đinh, Lý, Trần, Lê, từ những Bạch Đằng, Đống

Đa một thuở, sức mạnh kỳ diệu của cả một thời đại anh hùng.

Ở đâu ? Ở dâu ? Ở đất anh hùng

Người ngã xuống, tựa máu mình đứng dậy

Những vết thương đỏ chói sắc quân kỳ

Ta nấu xích xiềng ta làm súng đạn.

( Ở đâu? Ở dâu? Ở đất anh hùng).

Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn này là cái tôi hướng vào đời

sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại. Đó là cái tôi trữ tình trong tư

cách công dân, nói tiếng nói của lịch sử dân tộc, quan tâm đến những vấn đề

nóng bỏng của thời đại, đặt số phận mình trong sự hưng vong của quốc gia, nêu

cao ý thức trách nhiệm trước lịch sử dân tộc. Có một thời, Chế Lan Viên đã

phai lựa chọn.

Cái tinh tế cỏ hoa tạm thời chưa nghĩ đến

51

Vì ta tínli đến triệu sinh mệnh con người và vạn khoảnh non sông.

Khi lịch sử đã sang trang thì con người có cách ứng xử phù hợp với thời đại

mới. Đây là cái tôi nhân danh cộng đổng dân tộc:‘T « là ta mà cũng là nghìn

triệu niỊiùri ký thác trong ta". Cho nên:

Đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng

Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại

Hai chữ Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng.

( Thời sự hè 72, Bình luận).

Trong những ngày bão lửa,“những năm tháng sao mà trọng đại. Ngổn ngang

thay mà rất đồi oai hùng”, khi N g h ĩ vé nghề, n g h ĩ vê thơ, nghĩ..., Chế Lan

Viên đã tâm niệm một điều:

Vâng trán năm 68 các nhà thơ

Giông vầng trán đ ổ mồ hôi những người thợ trên cầu

Và giọt mổ hôi các thi s ĩ hè 1972

Trùng với giọt mồ hôi anh hùng trên mâm pháo.

Như một người thư ký trung thành của thời đại, Chế Lan Viên luôn bám sát

những vấn đề nóng bỏng có tính chất thời sự. Sau trận đòn đầu tiên của quân

dân miền Bắc giáng trả không lực hoa kỳ, Chế Lan Viên viết Sao chiến thắng.

Bài thơ thời sự có giá trị kịp thời, biểu hiện lòng căm thù giặc và tinh thần yêu

nước thiết tha. Khí thế cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc ta, nhiệt tình công

dân của mỗi người nghệ sĩ đã nâng tầm vóc nhà t h đứng ngang tầm chiến

l u ỹ Chế Lan Viên liên tiếp cho ra đời các bài thơ: Con m ắt Bạch Đằng, con

m ắt Đông Đa, Tuỳ bút m ột m ùa xuân đánh giặc, Thời sự hè 72, bình luận,

Phán diện ca hay Phản diễn ca về học thuyết Nich xơn...

Hiện thực chiến tranh đã trở thành nguồn tư liệu phong phú không bao giờ

vơi cạn cho thơ Chế Lan Viên. Nhà thơ say sưa “suy n g h ĩ’ và “suy nghĩ', “bình

luậrì' và “bình luận”, nhân danh tổ quốc, dân tộc mà phản ứng rất nhanh với

những luận điệu, luận thuyết của kẻ thù, “pliát giác sự việc ở bề chưa thấy', ‘V/

cái bê sâu, ở cái bề xa". Thơ Chế Lan Viên “không phái chỉ đưa ru mà còn

52

thức tinli. Khôni> phải chỉ ơ hời mù còn đập bùn quát tháo lo to a n '(N g h ĩ về

nghề, n g h ĩ vê thơ, nghĩ... - Đôi thoại mới). Cái tôi ây nhân danh công lý, dân

tộc nvd^đập bàn c/uát tháo” tố cáo, luận tội kẻ thù xâm lược(ơ đâu? Ở đàu? Ở

dát anh hùng, Đ ế quốc M ỹ là k ẻ thù riêng của mỏi trái tim ta, Làm H ăm lét

ớ Việt N am , N hững bài thơ đánh giặc, Pho, tên mẹ m ìn của thẻ kỷ X X ...).

Cùng với tầm vóc của đất nước, con người Việt Nam, Chế Lan Viên đã phác

hoạ được chân dung Hổ Chủ Tịch (Hoa trước lăng Người). Nhiều bài thơ viết

về Bác với cảm hứng ngợi ca, tình cảm chân thành biết ơn sâu sắc bằng những

hình ảnh phong phú, ý tứ mới lạ, phong cách độc đáo. Nhờ có Đảng, có Bác mà

Chế Lan Viên được tái sinh, thơ Chế Lan Viên có sức sống mới.

Cũng như những vần thơ viết về Tổ quốc, Chế Lan Viên ca ngợi Bác, ca ngợi

Đang bằng những ý thơ bừng sáng trong vẻ đẹp trí tuệ, với giọng thơ xúc động,

trân trọng, yêu thương.Bác là hình tượng trung tâm của thơ ca Cách mạng được

nhiều nhà thơ cảm nhận và đưa vào thơ như một điển hình mang tính dân tộc và

thời đại. Sau Tố Hữu, Chế Lan Viên là nhà thơ viết nhiều về Bác. Dường như ở

tập thơ nào, nhà thơ cũng đều có những bài xuất sắc viết về Bác. Chê' Lan Viên

đứng ở nhiều góc độ, cách nhìn và suy nghĩ để viết về Bác. Nhưng tất cả đều

xuất phát từ tấm lòng biết ơn, kính yêu đối với Bác. Bài thơ Người đi tìm hình

của nước kết hợp được những cảm xúc chân thành với trí tuệ sắc sảo. Ở đó, cái

tôi trừ tình và nhân vật trữ tình đã hoà quyện vào nhau: Khâm phục kính yêu

dõi theo bước đi của Bác, ân hận tự trách mình, tưởng tượng ngày về của lãnh

tụ... Tất cả tạo nên một chất trữ tình đằm thắm, đa dạng của bài thơ.

Dường như bao giờ cũng vậy, viết về Bác, Chế Lan Viên viết bằng những tình

cảm thiết tha chân thành nhất để nói lên tấm lòng của mình trước một con

người vĩ đại. Cao hơn là tấm lòng của một thế hệ nhà thơ tiền chiến đối với

lãnh tụ kính yêu. Bác tượng trưng cho vẻ đẹp trí tuệ của đất nước, của nhân

dân. Bác là đinh cao tuyệt vời, là cái đích mà nhà thơ cố gắng thể hiện. Cả cuộc

đời Người điỉ hy sinh vì dân, vì nước, trải qua bao gian nan vất vả tìm đường đi

cho dân tộc có ngày được tự do:

53

Đất nước (ĩẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi.

Clio tôi làm sóng dưới con tàu (íưa tiễn Bác

(Người di tìm hình của nước - Á nh sáng và phù sa)

Viết về Bác quả là một công việc thật khó khăn, bởi Bác vĩ đại quá mà cũng

giản dị quá. Tâm hồn nhà thơ như được sáng lên trong ánh hào quang chói ngời

của tâm hổn Bác. Trước tầm vóc của con người vĩ đại ấy, Chế Lan Viên cảm

thấy mình nhỏ bé, như người ngủ muộn, thức dậy bỡ ngỡ.

Đất nước sắp đổi thay rồi, mù tôi chẳng biết

Người thay đổi đời ta đã vê kia mà ta vẫn chưa hay

Tôi vẫn khép phòng văn hỉ hục viết

Nắng trôi đi oan uổng biếi bao ngày.

(Người thay dổ i đời tôi, Người thay dổi th ơ tôi - H oa ngày thường - Chim báo bão).

Các nhà thơ nói chung đều hướng về Bác bằng những tình cảm thiết tha chân

thành nhất. Tầm vĩ đại của Người vượt qua sức tưởng tượng của bao thế hệ. Tố

Hữu là nhà thơ viết rất nhiều về Bác, ca ngợi công lao trời biển của Người.

Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa đ ể em thơ, lụa tặng già.

( B ác ơi - T ố Hữu).

Chế Lan Viên viết về Bác không giống như Tố Hữu “ Theo chân Bác” ghi lại

hành trình cách mạng của Bác. Nhà thơ luôn đặt Bác trong mối quan hệ với

Đảng,- nhân dân- cách mạng- nhân loại và tự soi xét mình để nâng mình lên:

‘T a nlìận vào ta phẩm chất của Người". Bác là người dẫn dắt non sông và mỗi

cuộc đời. Người đi tìm hình của nước; Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi

thơ tôi; Trận đánh của tình thương; Người chẳng có gì riêng và rất nhiều bài

thơ trong tập thơ Hoa trước lăng Người đều là những bài thơ Chế Lan Viên

không chỉ khắc hoạ chân dung của Bác mà còn phát hiện được những âm vang

bão táp của Cách mạng qua con người Bác.

Với đất nước sinh ra mình Bác vẫn là diều bí mật

54

Một th ế hệ và nhiều th ế hệ chúng ta chưa đủ hiểu hết về Người

Cứ mỗi bước di lên cử (lân tộc lại định nghĩa về N^ười từ bản chất

Đọc sự nghiệp núi sôtìỊỊ (li chúc của Ngitt'ri vù hỏi Bác là ai?

( Thành p h ó IIỔ C h í M inh là dích phía chán trời - N hững bài th ơ dárth giặc).

Bác là ai ư? Bác là vị lãnh tụ anh minh, là người chiến sĩ Cách mạng, là vị

tướng chi huy tài tình, nhà hiền triết, nhà thơ lớn của dân tộc... Bác là tất cả

nhưng có lẽ vẫn là chưa nói được đủ về Bác. Phải chăng có thê hiểu Người sau

ba mưưi năm bốn ba xa nước, qua mặt trời sáng soi, vầng tráng suy tưởng,

nhành mai tinh khiết? Phải chăng ta chi có thể hiểu về Người trong những kỳ

tích của Người để lại cho thế hệ mai sau? Viết về Người quả là nguồn cảm

hứng vô tận cho thi ca.

Chế Lan Viên đã góp một tiếng nói đặc sắc trong cách biểu hiện mới trên

những trang thơ viết về Bác. Nhà thơ đứng ở nhiều góc độ để ngợi ca Bác. Cả

một thời đại. một thế hệ mang tên Bác đã đi vào lịch sử. Bác là đại diện cho trái

tim, trí tuệ Việt Nam, l à sản phẩm kết tinh sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Trong những giờ phút lịch sử của dân tộc, nhà thơ đã “hiểu thêm vé Bác" và trả

lời câu hỏi mà muôn người Việt nam đều muốn được trả lời, một câu hỏi có ý

nghĩa khái quát sâu sắc.

Bác ì ù ai? Ngày hỏm nay Bác là vị tướng

Trong cỗi trường sinh tiếng hát trong của Ngiứn là tiếng suôi xa

Nhưng khi đất nước cần chém triệu dầu quán giặc

Thì tiếng hát diệu kỳ là tiếng thét

Tiến lên toàn thắng ắt vê ta.

( N h ữ n g bài th ơ dánh giặc).

Nhìn chung, cái tôi trữ tình Chế Lan Viên giai đoạn chống Mỹ đã hoà nhập

làm một với cái ta chung rộng lớn, nhập cuộc với tư cách công dân, nói tiếng

nói của lịch sử, dân tộc, của nhân dân với ý thức trách nhiệm, sứ mệnh cao cả

trước thời đại. Cái tôi ấy nhân danh công lý, dân tộc, thời đại hướng về những

giá trị cao đẹp, ngợi ca Tổ quốc, nhân dân, lịch sử, thời đại, Đảng, Bác Hổ và

luận tội kẻ thù xâm lược. Nhưng cái tôi ấy cũng không quên tìm đến những

55

phút bình yên trong chiến tranh để tạo thế cân bằng trong đời sống tinh thẩn.

2.2.3. Cái lòi đừi thường, cái tòi riêng tư.

“ Đ ế quốc đến ta diệt trừ đ ế quốc

Giặc di rồi vườn nở những hoa quen

Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, thơ Chế Lan Viên thường nói đến các

sự kiện trong nước và thế giới với giọng thơ âm vang sang sảng, hào hùng đầy

thiếu chú ý đến cuộc sống hàng ngày với những gì bình dị, thân thiết nhất.

tính chính luận và chất trí tuệ sắc sảo. Nhưng không phải vì thế mà nhà thơ

Tố Hữu, khi viết những“í/ờ/ỉg thơ lửa cháy” vẫn nóng viết những “dòng thơ

tươi xanli". Thơ Chê Lan Viên đâu phải c h 'Ỷ'đập bàn, quát tháo, io toan”. Nhà

thơ muốn thơ mình thành “hầm chỏng giết giặc", vừa muốn thành “nhành hoa

mứt mắt cho

’.Thơ ông vừa nóng bỏng lại vừa dịu êm, gay gắt nhưng lại rất

dễ mềm lòng, vừa đại ngôn, khoa trương, cao giọng lại không ít khi thủ thỉ tâm

tình... tưởng chừng đối lập, mâu thuẫn mà thực ra lại rất thống nhất biện chứng.

Bên cạnh cái tôi chiến sĩ - cái tôi nhân danh là một cái tôi của cuộc sống đời

thường, riêng tư. Trước năm 1975 đã có một Chế Lan Viên luôn đi tìm những

khoảng bình yên trong bom đạn. Đặc biệt quan tâm đến thời sự, chính trị, đến

vấn đề vận mệnh của quốc gia dân tộc nhưng Chế Lan Viên cũng không quên

quan tâm đến những cái đời thường, tình yêu: Thiên nhiên hoa cỏ, gia đình, bè

bạn, đê tìm cho lòng mình sự thanh thản bình yên. Đâu chỉ nhân danh quốc gia

dân tộc mà hiện lên qua các tập thơ của ông còn là một người yêu, một người

chổng, một người cha, một người nhạy cảm tinh tế trước cỏ hoa. Một phần

trong tập thơ Hoa ngày thường - chim báo bão nhà thơ viết về cuộc sống đời

thường, về tình bạn, tình yêu, tình cha con, tình vợ chồng... sắc màu hoa cỏ, vẻ

đẹp bình dị của thôn dã đem lại một ý vị riêng cho thơ Chế Lan Viên. Hiện lên

trong những bài thơ chiến đấu của Chế Lan Viên là màu đỏ, còn những mảng

thơ viết về cuộc sống đời thường lại là màu hổng, màu tím thậm chí có cả màu

xanh. Đây quả là một vườn thơ với đủ các sắc màu long lanh, phong phú.

Một cái tôi nặng tình đời, tình người thì cũng không thể dửng dimg với thiên

nhiên hoa cỏ. Nhìn một đoá đại đỏ, Chế Lan Viên thấy gương mặt của một tình

56

yêu bình yên, ngắm “ngàn lau cười troiiíỊ nắng", nhà thư biết “hồn mùa thu lại

lòng chiêm ngưỡng màu trắng muốt của Sen trắng cổ thành mà bổi hồi “ngỡ

vể", thây “hoàng thảo hoa vàng' chợt nghĩ đến thời gian, nghĩ đến thơ ca, nín

như mùa hạ H u ế chờ anh"."1'Một cành hồng” tưởng như thường tình ấy vẫn

đượm tình trong nỗi nhớ. Một làn mây trắng bay ngang trời cũng chạnh lòng

thương nhớ... Cái rét đầu mùa làm lạnh lòng người ở lại, gợi nhác đến sự xa

cách nhớ nhung. Một mùi hương dịu nhẹ của loài hoa xoan tím tháng ba cũng

đủ sức để níu áo nhà thơ...

Không em, anh chẳng qua vườn

Sợ mùi hương, sợ mùi hương nhắc mình

( H oa tháng ba - Đ ối th oại mới).

Một cái tôi đa cảm như thế làm sao có thể dửng dưng được với những

'“‘thường tình" khác trong cuộc sống? Ngay cả khi biểu lộ những tình cảm

chung về Tổ quốc, về dân tộc, tình cảm riêng của nhà thơ cũng tràn vào từng

đoạn trong mỗi trang thơ. Sau câu hỏi: “Ở đâu giặc xáo trộn quê ta/N hư xóc

một ván bài” , là câu hỏi: Mẹ tóc bạc có còn chăng mẹ hỡi

Mai có còn bên giếng hở chăng Mai ?

Bài thơ Vòng cườm trên cổ chim cu là sự suy nghĩ về thời đại, không một thế

lực tàn bạo nào có thể ngãn cản được. Đó là một vấn đề nghiêm túc. Nhưng

triết lý đó được bao bọc trong khung cảnh nơi điền giã, trong không khí đầm

ấm tình người.

Bom đạn ngất trời thì có sao đâu

Trăm hạt cườm trên cổ chim không thiếu hạt cườm nào

Chim cu gáy sự vật tuấn hoàn theo quy luật

... Thì anli lại yêu em như buổi yêu đầu

( Vòng cườtn trên c ổ chim cu - H ái theo m ùa).

Con cò là bài thơ nói với con về một lời ru, mang ý vị dân gian man mác nửa

thực, nửa hư, đàm thắm thiết tha. Hình ảnh con cò trắng muốt lặn lội vất vả

trong ca dao, hiện lên trong bài thơ như một người bạn thủ thỉ tâm tình đối với

em bé, chia sẻ buổn vui và toả hổn dân tộc vào cuộc đời của em.

57

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc íi('ri. v ỗ cánh qua nôi.

T ừ đất đến bình cũng thế. Có gì thực hơn công việc của người thợ gốm.

Nhưng lao động quen thuộc từ ngàn xưa ấy được soi dọi từ tâm lý sáng tạo

bỗng trở nên lý thú. Những hình ảnh “Hoa súng tím”, “Chim vít vịt”, “Chị văn

công” , '"‘Tình ca ban mai"... ở mỗi bài là một vẻ đẹp lung linh của đời thường

muôn màu, muôn vé. Hoa hiện lên phong phú sinh động với đủ các sắc màu,

hương thơm. “Hoa Đại đỏ”, “Hoa Súng hồng”, “Hoa Súng tím”, “Hoàng thảo

hoa vàng”, “Sen trắng cổ thành’\..

Nhưng vẻ đẹp bao trùm lớn nhất trong mảng thơ viết về đời thường ván là

tình cảm thân yêu nhất: Tinh cảm mẹ con, tình yêu vợ chổng... Một đêm thao

thức không ngủ vì nhớ thương: Con đi sơ tán xa, vợ chồng lâu ngày không gặp

lại, tình yêu lứa đôi...

Không ít bài thơ Chế Lan Viên viết cho con: Đặt tên cho con, con thức dậy,

ru con ngủ, con tập nói, con đàn, con đi sơ tán, con đi bộ đội, đợi thư con... Tất

cả chẳng có gì là sự kiện, là biến cố, cũng không phải là những tình cảm tủn

mủn. Đó là một mặt của cuộc sống đời thường, là những tình cảm rất riêng tư

nhưng cũng rất phổ quát. Những hạnh phúc tưởng như bình thường, đơn sơ của

cảnh sum họp gia đình cũng không thể có được khi vẫn còn bóng giặc Mỹ.

Thơ viết về tình yêu của Chế Lan Viên tuy không nhiều lắm, nhưng góp lại

cũng gần 50 bài, tạo thành “mộ/ chùm nhỏ thơ yêu”, dệt nên những sợi dây

đổng cảm, nhiệm màu trong trái tim người đọc. Thơ tình của Xuân Diệu cuồng nhiệt, si mê, vội vã còn thơ tình của Chế Lan Viên là thơ tình của người đứng

tuổi, ý nhị, đằm thắm, trang nhã, thích phân tích, ưa biện luận. Vừa làm thơ vừa

Chơi chữ vừa Tập qua hàng, Đi trong hương chùa Hương, c ả m ơn, Chia đều

ẩn nét trí tuệ, tài hoa trong đó.

Tia nắng ấm gần nhau

Chia nlian thành nắng quái

Chia làm gì nắng ấy

58

Đ ể xa rồi em đau.

Cũng thật khó mà nói tình yêu ở lứa tuổi nào sâu nặng, đàm thắm hưn? Tinh

yêu của tuổi trẻ có cái rạo rực, xao xuyến say mê, nhưng cũng không thể thiếu

cái thâm trầm, sâu lắng của tuổi lớn hơn. Có lẽ tình yêu cũng cần sự bình đáng.

Chế Lan Viên đã tạo nên một sắc thái riêng, một tiếng nói riêng trong tình yêu.

Cũng là nói về hoa nhưng có khi nhà thơ mượn hoa để giãi bày tình yêu- một

thứ tình yêu đằm, lắng, cháy bỏng, rạo rực, nồng nàn ở bên trong m dĩ'bên ngoài

vẫn cứ tráng như không", có khi lại là để gửi gắm những ý tưởng, tình cảm.

Trong thơ Chế Lan Viên, tình yêu, nỗi nhớ là cái tôi riêng của tác giả. Nhưng

nhà thơ có xu hướng vươn ra ngoài, tìm sự hoà hợp với cái ta chung. Tinh yêu-

hạnh phúc cá nhân được đặt trong hạnh phúc của dân tộc, trong cuộc chiến đấu

của nhân dân. Cái riêng được đặt trong cái chung, trong cộng đổng dân tộc:

Em đây hoa những ngày thường

Yêu quá thành hoa chiến đấu

Rời chôn phòng riêng nho nhỏ

Theo anh lên tận chiến hào.

... Chói lói tình yêu em nở.

( H oa ngày thường -

chim báo bão).

Hướng vào cuộc sống đời thường, riêng tư, cảm động nhất là những bài thơ

viết về mẹ. Dù ở trong bất kỳ thời điểm nào, hoà bình hay chiến tranh, tìm về

với hình ảnh người mẹ bao giờ trong thơ Chế Lan Viên cũng hiện lên niềm xúc

động dưng dưng trước nỗi đau, nỗi mất mát không gì bù đắp nổi cho một con

người sớm mổ côi cha từ nhỏ, lớn lên xa mẹ, mẹ mất cũng không về được.

Không tiếng khóc, không nước mắt, nhưng ta cũng đủ thấy nỗi thổn thức,

nghẹn ngào của kẻ xa xứ một đời trở về không còn mẹ. Nỗi đau mất mẹ cũng

hiện hình từ một bát canh mẹ nấu hồi còn thơ bé.

Canh cá tràn mẹ thường hay nâu khê

K liể trong vườn thêm một tí rau tìurm

ị Canh cá tràu - H ái theo m ùa)

Chi một bát canh thôi mà sống dậy cả đời mẹ, dáng mẹ, việc làm của mẹ,

59

tình yêu và sự chăm chút, chở che của mẹ. vẫn bát canh của ngày xưa mà sau

ba mươi năm xa mẹ trở về, mẹ không còn nữa. Ngồi bên mâm cơm, thương cho

đời mẹ. tủi cho phận mình, nước mắt tuôn rơi.

ừ , th ế đó mà một đời xa cácli mẹ

Bu mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm

ị Canh cá tràu - H ái theo m ùa)

Bên cạnh những bài thơ viết về mẹ, Chế Lan Viên còn có những bài thơ viết

vể chị. Chị Ba là người mẹ thứ hai. Những bài thơ Chế Lan Viên viết về chị Ba

cũng xúc động như viết vể mẹ. Cả đời chị lúc nào cũng gắng gượng để vượt qua

số phận mình, thay mẹ lâm chỗ dựa tinh thần cho em. Chị Ba ra đi để lại trong

lòng người em một khoảng trống nhưng không vắng. Chị củng như mẹ mãi mãi

là bến bờ đè’ nhà thơ tìm về, làm dịu đi mọi bão tố cuộc đời. Trong những năm

cuối đời, Chế Lan Viên rất nhiều lần trở về như vậy: C hị Ba{Di cảo th ơ i), Bến

đò mẹ tiễn, Thăm mồ mẹ, C hị và em(Di cảo th ơ II)...trong đó, cảm động và có

phần xót xa nhất là bài C hị Ba.

Những bài thơ viết về tình cảm cha con, vợ chổng, mẹ con, chị em được Chế

Lan Viên đặt trong một hệ thống quan hệ cá nhân và hệ thống ấy nằm trong

mảng “Hoa ngày thường". Mặc dù những bài thơ ấy có vẻ rất riêng tư nhưng

đều hướng vào việc khắc hoạ chân dung tinh thần thế hệ, thời đại mà biểu hiện

tập trung nhất vẫn là đề tài ngợi ca Tổ quốc, nhân dân, luận tội kẻ thù xâm

lược. Cái riêng “Hoa ngày thường” được đặt trong cái chung “ Chim báo bão".

Với mẹ, với chị cũng như với những vẻ đẹp bình dị khác trong cuộc sống đời

thường, Chế Lan Viên rất tiết kiệm lời. Lời ít nhưng ý sâu, tình nặng nên dư âm

vang xa. Chỉ một thoáng sắc vàng tháng ba đã khiến hồn thơ Chế Lan Viên

rung động. Cái màu trắng tinh khiết của Sen Huế cũng đủ làm cho lòng nhà thơ

bồi hồi, xao xuyến lạ kỳ.

Trắng muốt mùa Sen trắng cổ thành

Ngỡ như mùa hạ H u ế chờ anh

Mượn ai tà áo bay màu lụa

Bọc lấy mùi hương ấy d ể dành

( Sen H uê - H oa trẽn dá)

60

Ý tướng mượn tà áo thiếu nữ để bọc mùi hương tinh khiết mới đa tình làm

sao, thanh tao biết nhường nào! Màu Bạch Liên trắng đến mênh mông, trùm lên

cả cổ thành, nhập vào sắc áo, lan toả khắp không gian bởi mùi hương tinh khiết

tưởng như chỉ có được ở chốn bổng lai tiên cảnh. Vậy mà nó lại hiện hữu giữa

cuộc đời, thấm đẫm hổn người làm cho bao ưu tư phiền muộn tan biến hết. Chế

Lan Viên có nhiều thơ về hoa cỏ, thảo mộc, đặc biệt là Sen, Súng và Lau-

những loài hoa sống ở không gian rộng rãi, thoáng đãng, không phải là ngẫu

nhiên mà có lẽ mỗi khi đến đó, cái ‘T â m ” sẽ “tĩnh” hơn. Nhà thơ thường tìm

đến những nơi ấy, ngồi rất lâu để khi ra về thấy lòng thanh thản như mội tín đổ

sau giờ cầu kinh vậy:

Mỗi lần đau anh lại liến Tây Hồ

Chữa lành anh là hoa súng tím

ị N ỗi buồn hoa sú n g tím ).

Trong số các loài hoa được Chế Lan Viên nhắc đến nhiều lần(5e«, Súng, Lau)

thì những bài thơ viết về hoa lau khiến cho người ta liên tưởng tới số phận con

người nhiều nhất - những kiếp người với số phận mong manh, xác xơ trong gió

bão, sinh tử chẳng ai hay. Ở tập Hoa trên đá bông lau mới cho ta cảm nhận về

kiếp người còn chưa mấy rõ rệt:

Ai đi biên giới cho lòng ta theo với

Thăm ngàn lau trắng có một mình

Bạt ngàn trắng ở tận cùng hờ cỗi

Suốt một dời cùng với gió giao tranh,

ị Lau biên g iớ i - H oa trên đá)

Sau này, đến Di cảo thơ, bông lau đã cho ta cảm nhận vé kiếp người càng rõ

rệt hơn, gắn với nỗi đau nhức nhối hơn: Hoa lau đường 9, Ngàn lau, C ờ lau

Đinh Bộ Lĩnh(D i cảo thơ Ị); Lau (Di cảo thơ liy, Lau2-{Di cảo thơ III)...

Cùng là viết về hoa súng, nhimg nếu trước đây, hoa súng mang vẻ đẹp khiến

người ta phải sững sờ thốt lên:

Sáng n a \ ra đường gặp ai? Gặp hoa súng hồng

61

Hồn ọ nliư chưa có cặp môi nào hồng vậy

Đến nồi anh qua rồi quay ngoắt lại.

Hói: “ Hoa súng hống! Hoa súng hồng! Mày có phải hoa không? ”

( H oa súng hổng - H ái theo m ùa).

thì đến Hoa t r ê n đá đã là Hoa súng tím và màu tím của hoa gắn với một nỗi

đau vô hình nào đó đang hiện hữu trong nhà thơ:

A hIi dã yêu bao hoa khác lắm màu

Giờ gió sớm mùa tliu làm mói mệt

Anh muốn làm con vịt trời xuôi trên sónq biếc

Ngủ giữa hoa tím và sóng hồ lép bép

Gió thu xao.

(H o a súng tím - H oa trên đá).

Sau này, đến Hoa súng trong Di cảo thơ II, cái nỗi đau vô hình kia đã trở

thành hữu hình và tiếng lòng nhà thơ gói đầy nỗi xót xa, chua chát trong màu

tím của hoa.

Màu hoa súng ấy như cơn đau không dám khóc

C hỉ lặng yêu sắc tím đ ể mà đau

Người ta chỉ biết màu sen anh đỏ rực

Còn nổi buồn hoa súng tím biết cho đâu.

Viết về cuộc sống đời thường, riêng tư, sau này Chế Lan Viên đã giành hẳn

gần như trọn tập Hoa trên đá và một phần của tập Ta gửi cho mình. Ở đó, nhà

thơ muốn chúng ta lặng đi một phút mà nghe thấm trong lòng. Hoa trên đá là

sự chín lại, sự sâu sắc của một nhà thơ đã biết thu những vấn đề của ngoại giới

vào hồn mình, thành hồn mình. Tập thơ “như một sự giãi bày thành thực, có lúc

đau xót nữa, những vui buồn riêng tư của một người, của một hoàn cảnh cá thê

mà qua dó ta lại thấy được khá rõ, khá sâu những việc của đời sống, của thời

í/ự/'”(Vũ Quần Phương)[43]. Hầu như trong suốt hai tập thơ này ta thấy cứ dần

dần hiện lên một không gian bàng bạc trộn lẫn giữa hiện thực, ký ức với thảo

nguyên: Bê loniêng, sông Lào, sông Hổng, sông Vàm cỏ , sông Xen, mái chùa

62

cổ, cánh rừng, những bóng cây cọ trong đêm, trăng ở thôn Liễu, cỏ ở dưới chân

Tháp rùa, hoa Đại ở Côn Sơn, hoa Lau ở biên giới, Sen tráng cổ thành Huế,

Súng tím, Đào thắm, sắc Mai vàng, hương Huệ,...lại có cả tiếng ễnh ưưng,

những chú nai hoa, con dã tràng... Ta bắt gặp ở thế giới ấy những giấc mơ,

những ký niệm gắn với những hình ánh rất đổi thân thương: Ngôi mộ mẹ dưng

dưng màu hương khói, dáng chị Ba lận đận một đời, những người dân đổng

Chiêm, cô gái Sênh tiền múa bên chùa cổ, những nàng Tiên vùng than nhảy

sạp, người hát câu chèo cổ dạo nào... Cả những nhân vật lịch sử cũng dường

như sống lại: Mẹ Âu Cơ, nàng Tô Thị, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn

Huệ...Lịch sử hiện về trong một không gian hư ảo. Cái tôi trữ tình Chế Lan

Viên dường như tựa vào tấi cả: Lịch sử, con người, cỏ cây, hoa lá, tình yêu, kỷ

niệm...để cho lòng mình sự thanh thản, bình yên. Đâu đó xuất hiện cảm giác cô

đơn, buồn, trống vắng nhưng cũng chỉ mơ hổ, bâng khuâng như gió thoảng,

mây bay, thậm chí có lúc là nỗi đau thật sự(Hoa súng tím, M ổ mẹ, Vọng phu...).

Nhưng cảm giác này xuất hiện không nhiều. Trên hết vẫn là tình yêu cuộc

sống, sự bình đạm, an nhiên, từng trải nên tuy đau mà không xót xa, không oán

hận. Nhà thơ muốn bằng tình yêu của mình“/âp hết những nỗi đau vô hình”

(Vĩnh Quang Lê).

Hướng vào cuộc sống đời thường, Chế Lan Viên trở nên thanh thản hơn và ta

cũng thấy xuất hiện “nhiều nụ cười" hơn. Ở những bài thơ: Xếp hàng, Trực

chiến, Bia hơi,...tà bắt gặp một tiếng cười sảng khoái, vui vẻ hiếm có, tiếng

cười “rớ chiều lả l(rì'\N guyễn Xuân Nam).

Cũng có lúc, ta lại bất gặp ở Chế Lan Viên một nụ cười hạnh phúc, sung

sướng trong các bài thơ: Cô gái Sênh Tiền, Nhảy sạp vùng than, Múa bén

chùa cổ... Nhà thơ như lạc vào thế giới các nàng tiên với những điệu múa, câu

hát khiến cuộc sống nóng bỏng bỗng chốc trở nên tươi mát lạ kỳ. Ở Chùa

nghèo ta gặp một nụ cười thật “hiền” và thật “triết”- điều triết lý nhẹ nhàng

khiến nụ cười trở nên hóm hỉnh, dân dã rất hiền hoà pha chút triết lý làm người

đọc cám thấy khoái.

Như vậy, thơ viết về cuộc sống đời thường, riêng tư, khám phá vẻ đẹp bình

63

dị: Thiên nhiên hoa cỏ, gia đình, bè bạn, tình yêu...để tìm miền yên tĩnh, tìm

cho lòng mình sự thanh thản, bình yen. Khi ấy, cái tôi Chế Lan Viên lấy lại

được sự cân bàng. Chính nhà thơ đã xác định một nhu cầu tự nhiên:‘T hơ lình,

thơ về hoa, vê cuộc đời thường rất cần thiết. Cần núi cao của chủ nghĩa anh

hùng Cách mựníỉ nhưng cần các đổng bằng của dời sống hàng /Jgậy” [33,109].

Khi hướng vào các vấn đề muôn thuở của cõi nhân sinh (Hoa trên đá, Ta gửi

cho m ình, Di cảo thơ) cái tôi Chế Lan Viên thiên về “bộc bạch tám tình vù

triết lu ậ n ' mang tâm thế suy tư, trăn trở nhiều hơn, hoài nghi xuất hiện, nỗi

đau ngày càng nhức nhối hơn khiến nước mất nhiều khi không ngăn được.

Dường như, ta vừa thấy một Chế Lan Viên mang dáng dấp “cw sT \ lắng nghe

hổn mình “lẫn với im lìm của đất” vừa như thấy một Chế Lan Viên “nhập th ể',

đứng giữa cuộc đời sôi động với bao nỗi niềm trắc ẩn.

64

C H Ư Ơ N G 3

SỤ VẬN ĐỘNG VÀ BIẾN Đ ổ i CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH T R O N G T H Ơ

CHÊ LAN VIÊN TỪ “ HOA TRÊN Đ Á ” ĐẾN “DI CẢO T H Ơ ”

Sở dĩ chúng tôi chọn Hoa trên đá làm mốc biến đổi của cái tôi trữ tình trong

thơ Chế Lan Viên là vì: Từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, cuộc sống hoà

bình bắt đầu nảy sinh những phức tạp. Một số chuẩn mực cũ bị đảo lộn, phá vỡ.

Vấn đề đạo đức, lý tưởng, vấn đề nhân sinh thế sự, thật giả, trắng đen...rối như

tơ vò khiến lòng người hoang mang, diễn đàn văn học cũng nóng lên. Nếu như

ở H ái theo mùa, sự biến đổi của cái tôi trữ tình đã có những dấu hiệu thì đến

Hoa trên đá , sự biến đổi đã là căn bản và rõ rệt. Ở những tập thơ sau này: Ta

gửi cho m ình, D i cảo thơ I, II, III, chân dung của một cái tôi trữ tình mới đã

xuất hiện đầy đủ, hoàn chỉnh.

3.1. H ÀNH T R ÌN H TÌM LẠI C H ÍNH M ÌNH: TA LÀ AI?

Bản chất của thơ trữ tình là sự tự ý thức về cái tôi, về giá trị của bản thân.

Trong từng điều kiện lịch sử nhất định, cái tôi có một tiếng nói tương ứng với

lịch sử, xã hội, thời đại đó. Những năm tháng chiến tranh, cái tôi cá nhân tìm

thấy tiếng nói của mình trong tiếng nói của lịch sử, cộng đồng, thời đại...Lúc

đó, cái tôi cá nhân riêng tư dễ dàng tự hoà nhập với cái ta chung rộng lớn. Do

thực trạng ẩn khuất của cái tôi sau cái ta nên cái tôi không có điều kiện để thể

hiện mình.

Từ sau năm 1986, điều kiện lịch sử đã sang trang, cùng với việc tôn trọng ý

thức cá nhân là nhu cầu muốn được khẳng định cá tính. Đất nước bước vào thời

kỳ đổi mới có khuynh hướng dân chủ hoá ý thức xã hội, dân chủ hoá nghệ

thuật,“ẢVỉớ/ vọng cởi trói cho thi ca” lại bùng lên mãnh liệt. Cái tôi có điều kiện

tự soi ngắm mình, nhìn nhận lại chính mình một cách trung thực, công bằng.

65

Chi khi tách mình ra khỏi cái chung, cái tôi mới thấy được mình rõ nhất.

Không phải chi riêng Chế Lan Viên mà phần lớn các nhà thơ đi ra từ chiến

tranh đều cảm thấy việc đánh mất cái riêng, cái cá tính là bi kịch:

Câu thơ dầu viết xong rồi

( A n li N g ọ c)

vẫn như thây thiêìi một lời ở trong

Thơ viết ra ít bóng dáng của mình.

( Phơn Xuân Hạt).

Cũng không chỉ riêng Chế Lan Viên quay về đối thoại với mình mà đây cũng

là tâm thế của đa số. Đó là biểu hiện một khát vọng cháy bỏng của con người

trong thời đại mới: Khát vọng khẳng định cá tính. Nếu Chế Lan Viên CÓ:‘T a

gửi cho mình" thì Diệp Minh Tuyền CÓ‘T Ở /Z mạn với mình"; Nguyễn Khăc

Thạch có đối thoại:“7o/ nhìn thấy tôi”; Nguyên Ngọc: “Tôi đi tìm tôi”; Lâm

Thị Mỹ Dạ thì “ Viết tặng nỗi buồn riêng'... Nhưng thơ ca thời kỳ này không

có cái vẻ vắng lạnh, quạnh hiu như ở thời phong trào Thơ Mới. Cái tôi trữ tình

thời kỳ này cũng không giống với cái tôi trữ tình thời Thơ Mới. Thời Thơ Mới,

cái tôi trữ tình tự cô lập, khép kín, tự tách biệt với thế giới bên ngoài. Cái tôi trữ

tình thời kỳ này giữ mối liên hệ gắn bó với đời, trong đau đời vẫn tin đời, yêu

đời, vẫn vươn lên khẳng định vị thế của mình trong cuộc đời.

Có thê nói, sự phục hồi, nhu cầu khẳng định của cái tôi cá nhân là nhu cầu

chung mang tính tất yếu. Song, điều này được đặt ra ở Chế Lan Viên sớm,

mạnh mẽ, dai dẳng, quyết liệt nhất.

3.1.ỉ.Cái tồi đa cảm, hoài nghi và bỉ quan.

Trong hành trình đi tìm chính mình, cái tôi Chế Lan Viên luôn nhìn nhận lại

quá khứ, đối diện với hiện tại và dự cảm về tương lai. Giữa quá khứ và hiện tại

lù chuyện được hay mất, giữa hiện tại và tương lai là chuyện còn hay hết. Cho

nên khi đối diện với chính mình, Chế Lan Viên luôn tự đặt mình trong tâm thế

kiểm nghiệm, tự kiêm điểm, tự kết tội mình rồi tự bào chữa cho mình và trên

hết dám chịu trách nhiệm về mình. Trong hành trình ấy, nỗi đau là không tránh

khỏi nhưng với Chế Lan Viên hình như âm ỉ, dai dảng hơn. Bộc bạch qua Tháp

66

Bay- on chưa đủ, nhà thơ gửi cả nỗi niềm vào hoa súng tím. Chế Lan Viên hình

dung cái màu tím của hoa “như cơn đau không dám khóc'". Không khóc, chỉ

“lặn ạ yêu sắc tím đ ể mà dan". Đau vì người ta phụ, người ta quên, người ta chỉ

biết đến cái phần “í/ỏ rực" của sen, còn cái màu tím tê tái (Nỗi buồn hoa súng

tím) ai biết cho đâu! Màu hoa súng hĩru hình với cơn đau vô hình, cái vô hình

truyền vào cái hữu hình ám ảnh người đọc trên mỗi trang thơ. Càng về cuối đời,

cái cảm giác sợ người đời không hiểu mình càng tâng lên. Chế Lan Viên hay

dùng từ “Anh" đê giãi bày khéo léo. Từ này có lúc là danh từ, có lúc như đại từ

nhân xưng ngôi thứ nhất, thường thì đưọc dừng đan xen giữa ngôi thứ nhất và

ngói thứ hai. Anh vừa là “ta’* vừa là “mình". Cái tôi irữ tình có sự phân thân từ

một thành hai đế tự đối thoại, giãi bày, thanh minh, biện hộ, khẳng định... đôi

khi chỉ để “/rút x ấ \ “giải toả” nỗi lòng mà thôi.

Á nh sáng và phù sa đã diễn tả sâu sắc hành trình đi tìm lại chính mình của

một lớp văn nghệ sĩ tiền chiến trong đó có Chế Lan Viên. Nhưng hành trình tìm

lại mình của Chế Lan Viên không dừng lại ở đó. Người ta ngỡ cái tôi thời Á nh

sáng và p h ù sa là cái tôi đích thực của Chế Lan Viên. Đâu ngờ đó mới chỉ là

một mặt của Tháp Bay- on. Muốn thấy cả bốn mặt phải đợi đến Di cảo thơ. Cái

tôi trong D i cảo thơ cũng sám hối, cũng xót đau, song con mắt nhìn của nó

không đơn giản một chiểu. Có thể nói, trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật,

Chê Lan Viên “cốtìm ra tiềm ẩn của lỏng mình", bởi nhà thơ ý thức được từ rất

sớm:“Lònị> ta chẳng bao giờ ta đi hết được". Cái tôi ấy vô cùng day dứt khi tự

đánh mất mình:

Người diễn viên ấy đóng trăm vai, vai nào cũng giỏi

Chỉ một vai không dóng nổi

Vai mình

... Anh đóng giỏi trăm vai lại đánh mất mình.

( T h ơ vé th ơ - D i cảo thơ).

67

Sự tự đánh giá của Chế Lan Viên là nghiêm khắc, có phần khắt khe, thê hiện

một yêu cầu rất cao với bản thân, một mong muốn vượt lên mình. Đây cũng là

biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, của khát vọng khẳng định cá tính.

Từ chỗ day dứt vì đánh mất mình, Chế Lan Viên có nhu cầu được là mình,

sông đầy đủ trọn vẹn với bốn mặt Bay- on. Nhà thơ thành thật giãi bày và thừa

nhộn những góc khuất đời thật của mình. Cảm giác ăn năn, sám hối, day dứt cứ

trở đi trở lại trong những năm cuối đời của nhà thơ. Càng về cuối đời, Chế Lan

Viên càng có xu hướng tìm đến cõi tâm linh: Bé sâu, bề xa, miền sâu thẳm của

cá nhân.

Hướng vào cõi tâm linh, Chế Lan Viên thường tìm đến với không gian vũ trụ

mang màu sắc tôn giáo: Ngân hà, cung quảng, thiên đường, địa ngục, xứ không

màu...và gửi mình vào trăng, sao, sông bể, tro bụi, ánh chớp, hạt sương... những

hình ảnh quen thuộc mà ta đã gặp ở Điêu tàn. Chế Lan Viên tạo ra một tâm thế

đối thoại đặc biệt, đối thoại với các đấng“bề trên", Phật Thích ca, Như Lai, đức

Chúa trời, đức mẹ...có khi là với hồn người đã khuất: Âu Cơ, Mỵ Châu, Tô

Thị...và đối diện với bản ngã mình. Nhưng càng đi sâu, đi xa càng hoài nghi và

có lúc tỏ ra bất lực, nhà thơ hoài nghi, bi quan về chính mình. Ở Đ iêu tàn ông

hoài nghi sự tổn tại của mình:“/4/ bảo giùm: Ta có có ta không?" thì đến Di cảo

thơ, nhà thơ mặc cảm, hoài nghi về cái thi tài hữu hạn của mình:

Tòi tài năng chưa đầy nửa giọt

Có hộc tốc chạy đến hết chân trời cũng là đồ bất lực.

( X âu kim - D i cảo th ơ i) .

Ngậm ngùi thất vọng, nhà thơ tổng kết đời thơ của mình.

Nửa th ể kỷ tôi loay hoay kê miệng vực

Leo lên các đỉnh tinh thần

Chất ngất

Theo các con dường ngoắt ngoéo chữ chi

Gầy gập

Mù đâu được gì

( Tìm dường - D i cảo thơi).

68

Nhưng Chế Lan Viên không phải là người dễ dàng chấp nhận, dỗ dàng buông

xuôi. Luôn có ý thức“//m đường” , Chế Lan Viên không ngần ngại gian nan,

khổ ải, hiểm nguy. Đáng tiếc thay, đó là những “con dường không ra đường

của kể tìm thư ' và “tliơ không ra thơ của kẻ tìm đường".

Chúng ta đã gặp cuộc “trở về" của nhà thơ trong Á nh sáng và phù sa :

Con gặp lại nhân dân như nai vê suối cũ

Có đón giêng hai, chim én gặp mùa.

Còn sự trở về của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ chính là:

Tliu quân lại

Đời anh sắp tối rồi

Anh cần chống chọi

Phải thu quân

Thu những gì rơi vãi.

( M ùa thu quán - D i cảo th ơ II).

Chế Lan Viên “trở về" như vậy là xa lánh, ẩn náu, quay lại với cái Đài thơ,

Tháp nghĩ của thi nhân xưa kia. Ta bắt gặp trong thơ ông ở giai đoạn cuối cái

không khí nặng nề của Điêu tàn.

Tơ vì ai? Vê đâu ? Hạt móc?

Là ta chăng? Dòng sông là ta chăng? Tiếng khóc

Là ta chăng? Vì sao lạc phương trời

Là ta chăng? Ta chưa kịp trả lời

Thì sông dã cuốn ta vào bóng tối

( H ỏi - Đ áp - D i cảo th ơ ỉ ).

Vào những năm cuối đời, nhất là hai năm 1987- 1988, Chế Lan Viên càng

đau buồn, hoài nghi, bi quan và nghiêm khắc với mình, với thơ mình. Cũng có

thể cận kề ben cái chết, nhà thơ càng thấm thìa cái hữu hạn của đời người trước

cái vô cùng của thời gian, vũ trụ và nhất là của nghệ thuật, của thơ ca. Đặt bản

thân mình trước vũ trụ bao la, ông thấv mình nhỏ bé, yếu ớt, bất lực.

69

Tôi tỉnli dậy cliói loà trang giấy trắng

N hư con dường hun hút về vô tận

Đ ể bơ vơ nqòi bút tôi qua

Nlùn trang giấy biết là mình hữu hạn.

( H ồi ký bẽn tran g viết - D i cảo th ơ I).

Chế Lan Viên như vị tướng già chiến bại.

Cho đánh một trận đòn không đánh nổi

Thu quản về làm chi

( M ùa thu quàn - D i cảo th ơ II ).

Nhà thơ khônR nhìn về phía trước, phía tương lai mà lại nhìn về quá khứ,

trong Điêu tàn gọi đó là “thoát ly tlĩực tại". Ở Điêu tàn, nhà thơ tìm về quá

khứ vì muốn phủ nhận triệt để thực tại. Còn ở Di cảo thơ, tìm về quá khứ, nhìn

nhận quá khứ bằng con mắt của người từng trải, Chế Lan Viên muốn khẳng

định những giá trị đích thực của đời sống hôm nay. “c ả m xúc của C h ế Lan

Viên về “thời gian sống” là định hướng lớn nhất cuốn hút tư duy thơ của ông

trong những năm cuối đời'ỴNguyễn Bá Thành)[48,169]. Từ cảm xúc về thời

gian sống, luôn bị ám ảnh bởi sức mạnh tàn phá huỷ diệt âm thầm mà khốc liệt

của thời gian, ấn tượng về cái chết hiện dần lên trong Chế Lan Viên. Đối với

ông lúc này, hiện tại là bệnh tật và tương lai là cái chết. Bệnh tật đồng loã với

thời gian “dồn anh vào chân tường” và “ bắn". Nhiều khi nhà thơ hoang mang,

hoảng hốt khi nghĩ “tháng ngày không kịp nữa, đời anh sắp tối rồi". Chế Lan

Viên nói nhiều đến cái chết của những người thân, những danh nhân, những

anh hùng: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót...và hình

dung ra cái chết của chính mình. Trong tưởng tượng của nhà thơ, thế giới bên

kia là xứ tuyết trắng, xứ bùn đen, xứ cơm đen, xứ trắng bệnh trắng nhoà(Vê x ứ

trắng đen). Có lúc, ông hình dung chuyến xe chở mình ra đi “không có khứ

hổi"(Chuyến xe - Di cảo thơ ll), hoặc đơn giản hơn, coi mình là:

Ngọn đèn con

Bỗng dưng phụt tắt

T h ế là tối om

(S ố p h ậ n - D i cảo th ơ III).

70

Trong tâm thế của người sắp từ giã cõi đời, trên đường đến lò thiêu để đến

"vùng í/nên”:“Ta (ỉã đến trước nấm mồ đào sẵn” , nhà thơ luôn tưửng tượng đến

ngày mai, mình sẽ chỉ còn là “linh hồn”, “/à một nắm xương tro trong bình"

(T ừ th ế chi ca - Di cảo thơ I), thành giòi bọ, giun dế, hoặc vô danh, vô ảnh, vô

hình, thành sọ dừa, bộ xương nơi “nghĩa địa cỏ xanh chen lẫn cỏ vàng" với

“bia khắc ngày sinh với ngày tử '. Đến với cái chết là đến với “ngôi đền quên

lũng", mà con đường “lừ anh đến với cái huyệt thẳng dường chim bay dâu mấy

tC\ Bị ám ảnh bởi cái chết, sợ chết là biểu hiện rất con người. Trong thơ Chế

Lan Viên xuất hiện không ít những hình ảnh nặng nề, buồn thảm, ghê rợn.

“Hình ảnh trong thơ Chê Lan Viên giờ đây không còn chói lọi rực rỡ mà mang

màu sắc ảm dạm. Bóng đêm nhiều hơn ánh /ỉgữ/XNguyễn Bá Thành)[48,173].

Nhưng cũng không thiếu những hình ảnh trong trẻo nhẹ nhàng về cõi chết. Đấy

là “xứ kliông màu”, cái thế giới trong sáng, ở đó “người ta không đau, không

dùng nước mắt. Người ta trong như thủy tinh, chỉ có tình thương"(Từ th ế chi

ca- Di cảo th ơ i).

Cái chết thật đáng sợ, nhưng Chế Lan Viên không run. Bởi nhà thơ nhận thức

được rằng: Đó là vấn đề mang tính quy luật nên “nhận mà không đau”(Các

mùa hoa - D i cảo thơ I). Ông bình thản và chủ động đón nhận cái chết:

Tôi thu dọn đời mình như người sắp vé quê cũ

Cliả cần gì thêm

Chừng này đã ííủ

( V ề quê cũ - D i cảo th ơ III)

Chế Lan Viên coi hành trình đi đến “/ỡ thiêu” là “nhẩn nha mà gấp gáp".

Trong khi chờ đợi “ngọn lửa của lò, đ ể đi đến vùng quên" thì ‘VWỉ viết cho đời

và anh yêu em ”(Lò thiêu - Di cảo thơ I). Trước cái chết, Chế Lan Viên có

nhiều mâu thuần. Có lúc, nhà thơ thấy nó thật u ám nặng nề, khi lại thanh thản,

nhẹ nhàng, điềm tĩnh. Chế Lan Viên không chấp nhân chết là hết mà nó đổng

nghĩa với sự hổi sinh, bất tử: Chết đi đê được hồi sinh :

71

Mai sau... mai sau khi chẳng cỏn ta nữa

Một chút nắng xao ở đầu ngọn gió

Là ta dấy mủ, ai có biết đâu?

( Người m ai sau - D i cảo th ơ I)

Đối với Chế Lan Viên, điều đáng sợ hơn cả là chết về mặt tinh thần. Không

ít khi nhà thơ ân hận, day dứt vì đã có lúc chạy theo cái “hư danh láo nháo”,

‘Vứ/ danh vọng ầm ào, vinh quang xí xô". Điều quan trọng là phải sống có ích.

Thời Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết. Thế

giới trong Điêu tàn là thế giới của “sọ dừa, xương máu cùng yêu ma”- thế giới

11 buồn. Những nám tháng cuối đời, nỗi ám ảnh ấy trở lại. Song, bên cạnh bóng

của“i ái dẹp d ã chết”, của thực tại đau thương, của một tâm hồn đầy những mối

tối của sự chết là ánh sáng của sự sống. Nắm được quy luật của sống, chết,

sống có trách nhiệm với đời, với mình, có khát vọng, hoài bão, nhà thơ là người

không chịu đầu hàng cái chết, đứng cao hơn cái chết.

Từ Điêu tàn đến Hoa ngày thường - Chim báo bão, Chế Lan Viên chủ động

đổi giọng thơ từ “than" thành ‘7lỏi”, từ “/lá/” thành “«ói”, ở D i cảo thơ là một

giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có phần chua chát:

Giọng cao bao năm giờ anh hát giọng trầm

Tiếng hát lân với im lìm của đất

... Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân

( G iọng trầm • D i cảo th ơ I).

Từ một tiếng thơ “í/ập bàn, quát tháo lo toan”, tiếng thơ nhân danh lịch sử,

dân tộc đế đối thoại với kẻ thù, giờ đây thơ Chế Lan Viên là lời độc thoại nội

tâm, quay về tự đối thoại với chính mình. Thời chống Mỹ:

Vóc nlià thơ đứng ngang tầm chiến luỹ,

Bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.

( T ổ quốc bao g iờ dẹp th ế này ch ăn g - H oa ngày thường - C him báo bão)

thì đến Di cảo thơ'. “Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu”. Nhà thơ tự hạ mình “như

một lì ạ ười bất đắc chí với thái độ “treo ấn", “ về vwv)y/”(Nguyễn Bá Thành)

[48,174],

72

Chê Lan Viên khao khát một cuộc trở về:

Cho tỏi về vc'fi cành lau

Vàng vọ

Về với con trừu nghé ọ

Có cặp sừng hỡ ngỡ

Chiêu buồn không biết cọ vào đâu?

( C ờ lau Đ inh B ộ Lĩnh - D i cảo th ơ I)

Cuộc sống giản dị, dân dã, thậm chí đầy bụi bậm chính là cái đích của nhà

thơ lúc cuối đời. Đã một thời, Chế Lan Viên lang thang trong cõi siêu hình,

trốn vào vũ ti ụ, mong ưổc“ngủ trong sao, gối đầu lên hàng thất tinh vừa mọc”,

cũng một thời Chế Lan Viên say sưa trong hào quang chiến thắng và ‘Vớ giọng

hát ngân vang". Nhà thơ gắn bó với đời nhưng là ở khía cạnh anh hùng, ở tầm

vĩ mô. Nay ông thấy day dứt vì những ảo tưởng phù du trong quá khứ. Những

khổ ải trần ai vẫn còn đó, đau lòng dứt ruột mà ông chưa thể làm gì. Chế Lan

Viên luôn tha thiết với cái hữu hạn, ngắn ngủi của kiếp người nhưng cũng luôn

hướng tới cái vô hạn của vũ trụ. Trong nhiều bài thơ cuối đời, Chế Lan Viên đặt

ra vấn đề ‘Tơrt tại hay không tồn tại”, thậm chí nhà thơ hay trở lại với hình ảnh

Hămlét mân mê trên tay “Cá/ sọ trắng siêu hình", nhưng vấn đề này không còn

giữ ý nghĩa nguyên thuỷ của nó như ở thời Điêu tàn(Ta có có ỉa không?) mà

trở thành vấn đề tồn tại hay mất đi của những giá trị, đặc biệt là giá trị tinh

thần. Có lẽ căn cứ vào sự phức tạp này, đặc biệt là từ những dấu vết ở Điêu tàn,

ta đã gặp lại một Chế Lan Viên thời Điêu tàn trong Di cảo thơ. Đây là thời

điểm phức tạp nhất của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên.

3.1.2. Trở lại câu hỏi: Ta là ai?

Từ lúc mới vào đời, Chế Lan Viên đã trăn trở, day dứt với câu hỏi lớn: Ta là

ai? Cho đến tận cuối đời, nhà thơ vẫn cảm thấy chưa có câu trả lời thoả đáng.

Ngay từ khi còn là một cậu thiếu niên, Chế Lan Viên đã luôn băn khoăn đi tìm

ý nghĩa của bản thể. Trong Điêu tàn, nhà thơ đã để cho hổn mình nhập vào hổn

nước non Chiêm, lúc thoát khỏi “Cỡ/ Tư" để về với “Cá/ Ta" vẫn còn váng vất

73

trong đầu tiếng khóc tuyệt mệnh của nàng My-Ê, tiếng rên rỉ của vạn ma Hời,

tiếng binh khí chiến trận, xương gãy, đầu rơi ở thành Đồ Bàn...đến nỗi kinh hãi

thốt ìên:“Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?". Nhiều lúc, Chế Lan Viên cảm thấy

hoang mang, hốt hoảng, linh hồn, tư tưởng vượt thoát sự kiểm soát của bản

thân, thậm chí nhà thơ nghi ngờ sự tổn tại của chính mình và thiết tha cầu cứu:

Ai bảo giùm: Ta có có ta không?

(Ta - Đ iêu tàn)

Suốt tập Điêu tàn, nhà thơ ngụp lặn trong hư vô và siêu hình để tìm lời giải

đáp, nhưng vẫn không tìm được câu trả lời, còn nguyên một cái tôi cô đơn, tội

nghiệp với tấm lòng thành khẩn:

Thôi đắn đo chi đời run hoan lạc

N ay gió cát mai lại về với gió cát

... Đáy hư vô, người ngửa mặt trông trời

Ta là ai? Người thấy đó là ai?

( T a là ai?-D i cảo thơ)

vẫn câu hỏi năm xưa, Chế Lan Viên muốn dõi sâu cái nhìn thời gian“/iỉ?a

kiếp quay cuồng vài ba dấu bụi”, muốn có cái nhìn bao quát không gian để

kiếm tìm cái ta bản thể trong cõi siêu hình. Dẫu biết rằng gió cát lại trở về với

gió cát, rằng cái tôi nhỏ bé, sự tổn tại rất mong manh nhưng nhà thơ vẫn khát

khao muốn biết mình là ai, là gì trong cát bụi ấy.

Cách mạng tháng Tám đã đem đến cho Chế Lan Viên ''"Ảnh sáng của lý

tưởng và phù sa bồi đắp tâm hồn". Trong niềm hạnh phúc lớn, nhà thơ hân

hoan khi nhìn thấy hướng đi cho cuộc đời mình, thơ mình. Chế Lan Viên tưởng

đã tìm thấy câu trả lời, đúng hơn là đã tìm thấy câu trả lời và câu trả lời ấy linh

ứng suốt đoạn đời Á n h sáng và phù sa, tư duy siêu hình đã biến thành tư duy

biện chứng:

“ Ta là ai ”? Như ngọn giỏ siêu hình

Câu hói hư vỏ thổi nghìn nến tắt

“ Ta vì ai ”? K hẽ xoay chiều ngọn bấc

Bàn tay ní>ười thắp lại triệu chồi xanh

( H ai càu hỏi - Á n h sáng v à phù sa).

74

Suốt cả một chặng đường dài, Chế Lan Viên đã có phần yên tâm, bằng lòng

với câu trả lời ấy, câu trả lời mà nhà thơ đã tâm niệm và coi như một phương

châm hành động trong cả chặng đường dài. Nào ngờ, cho đến cuối đời, câu hỏi

'T u là ai?"YẬ\ trở về, không chỉ nhuốm màu siêu hình mà còn thấm đẫm nỗi

đau trần thế. Mở đầu tập Ta gửi cho m ình là một sự biến đổi tuy có phần trừu

tượng nhưng vẫn mang sắc thái khẳng định:

Mình là ta dấy thôi. Ta vần gửi cho mình

Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy.

( M ình và ta - Ta gử i cho m ình)

Mình là ta, ta là mình, mình là kẻ sáng tạo của ta, ta là tầng sâu của mình,

trong mình có ta, trong ta có mình. Quả là một sự khẳng định đã chớm có sự

phức tạp. Càng về sau, câu hỏi ‘Tí/ là ai?", “Lứ ta chăng?" càng trở nên thường

trực hơn, vẫn cồn lên nhức nhối.

Ta là ai ? v ề đâu ? Hạt mốc

Là ta chăng? Vì sao lạc phương trời

Là ta chăng?...

( H ỏi • Đ áp - D i cảo th ơ I)

Thậm chí, có lúc ta bắt gặp một thoáng nghi ngờ giống hệt với cái nghi ngờ ở

Điêu tàn.

Phía ấy gọi anh về

Về đâu chưa biết nữa

C hỉ biết hồn anh lật lại cùng với gió

Ở trong hồn ai đỏ ném thỉa lia?

( G ió lật lá sen hồ - D i cảo th ơ i)

Một loạt những câu hỏi kế tiếp nhau như những đợt sóng thuỷ triều, thể hiện

một khát khao cháy bỏng là muốn tìm hiểu đến tận cùng sự hiện diện của mình

trên cõi thế. Nhìn hạt móc, dòng sông, tiếng khóc, vì sao...cũng băn khoăn “Lừ

ta clulỉìiỊ?". Đó là biểu hiện của sự tự ý thức cao độ.

Nguyễn Bú Thành cho rằng:“Ấ7//' dật lại câu hỏi “Ta là ai? ”trong những ngày

75

cuối dời, C h ế Lan Viên lại đ ể cho thơ mình rơi vào trận đồ của tư duy siêu

Iiình. Có những bài mang dâu vết của tượng trưng hoặc siêu thực". “Quay lại

cíiểm xuất phát, Chê Lan Viên tạo cho thơ ông cái không khí nặng nề, bê tắc

của Điêu /“CỚ/ siêu hình kia nó không

nằm ở ngoài ông, trong tốc độ vũ trụ của tư duy ông, nó bày binh b ố trận trung

hơi thà, trong cái nhìn bàn năng của ớ«g” [72,175]. Đúng là Chế Lan Viên có

bị ám ảnh bởi siêu hình nhưng ông không thụ động. Ông luôn vùng vẫy, vật

lộn, cô gắng đấu tranh để vượt ra ngoài nó. Có một điểu không thể phủ nhận

đấy là sự hữu hạn, ngắn ngủi của đời người trước “//lời gian nước xiết”, thời

gian “giặc d ữ '. Bóng tối hư vô phần nào tạo nên sắc ihái bi quan, ảm đạm song

lớn hơn tất thảy là sự nỏ iực, bẻn bỉ của một cái tỏi đầy nghị lực. Một nám

trước khi đi Và0“xứ không màu", khi người bạn đời của nhà thơ hỏi “Nên sống

theo lối nào? Hiện sinh hay tôn giáo?", ông cười:

Hiện sinh gì khi văng dà rệu rạo, hiện sinh gì khi mắt ta kềm nhèm

Mà tôn giáo triệu đời chỉ mân mê trên tay cái dầu lâu cũ ấy

Chế Lan Viên khen triết học Mác: “Khôn thay là chủ nghĩa Mác, không dại

gì húc dầu vào cái siêu hình rất hóc” và quả quyết một cách bất lực :

Ta đạp lên siêu hình

Và b(‘rt nghĩ vê ta

T h ế là yên chuyện .

ịL ò thiêu - D i cảo th ơ I )

Quả thực, Chế Lan Viên đã cố gắng“í/ạp lên siêu hình” nhưng chưa thoát

khỏi siêu hình. Ngay từ thời niên thiếu, nhà thơ đã tự nguyện chôn mình trong

'"‘cõi ta" đầy bí hiểm, thoát ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái đâu có dễ. Nhà

thơ khắng định hiện thực nhưng có lúc chấp nhận siêu thực, siêu hình cũng là

hiện thực(Siêw th ự c - Di cảo thơ Ị). Chế Lan Viên khẳng định mình ở thế giới

này nhưng vẫn muốn tin mình còn thuộc về thế giới khác (Từ th ế chi ca 1,2;

Các mùa hoa, N gôi đền quên lãng...)

Sinh thời, Chế Lan Viên đến với tôn giáo từ rất sớm, nhà thơ dành tình yêu,

niềm tin không phải chỉ cho một thứ tôn giáo nào: "'Đầu tiên tỏi yêu Chúa, rồi

76

tòi yên Pliật". Nhà thư yêu nhưng không theo một thứ tôn giáo nào và rất tự

nhiên, ông đi theo Cách mạng. Chế Lan Viên đã tạo ra cho mình một thứ tôn

giáo - một tòn giáo được tổng hợp từ sự lựa chọn của nhiều tôn giáo: Phật và

Chúa, duy vật và duy tàm, siêu hình và biện chứng, hướng vào cõi người và

hướng cả tới cõi trời. Nhà thơ tìm thấy sự sống ngay trong cái chết, tìm thấy

niềm vui trong nỗi buồn, tìm sự hổi sinh trong huỷ diệt, chấp nhận số mệnh và

vượt lên cả số mệnh, chiến thắng số mệnh. Quả là một hổn thơ phức tạp, một

“hồn thơ không yên tĩnh". Đã có thời, Chế Lan Vicn tự giải đáp được cho mình.

Vậy mà đến cuối đời, ông vẫn còn băn khoăn day dứt mãi câu hỏi ấy. Bởi lẽ,

mọi sự vật, hiện tượng lúc nào cũng ở trong trạng thái vận động. Lịch sử, xã

hội, đời người luôn chảy trôi như một dòng sông. Chế Lan Viên là người luôn

khao khát khám phá đến tận cùng, khám phá bề sâu, bề xa của sự vật hiện

tượng và cả bản thân mình. Quả thực, khó có thể tìm được câu trả lời, điều ấy

thể hiện một yêu cầu hết sức nghiêm túc, nghiêm khắc của nhà thơ và có thê

khẳng định: cái tôi Chế Lan Viên là cái tôi không hề đơn giản, thuận chiểu.

Nhiều nhà nghiên cứu coi bài thơ Tháp Bay-on bốn mặt của Chế Lan Viên

trong Di cảo thơ ỉ là chân dung đích thực của cái tôi Chế Lan Viên, là định

nghĩa cuộc đời Chế Lan V iê n “Rốt ráo tinh thẩn D i cảo thơ chừng như giấu cả

trong bài Tháp Bay-on bốn m ặt /jạy”(Trần Mạnh Hảo)[33,222], Nguyễn Quốc

Khánh[33,423], Võ Tấn Cường[33,419]...).Quả đúng vậy, có thể nói bài thơ

Tháp Bay-on bốn mặt viết trong mùa bệnh 1988 là những dòng tổng kết chân

thành về cái tôi đích thực của Chế Lan Viên.

Anh ỉà tháp Bay- on bốn mặt

Giấu đi ba, còn lợi đấy là anh

Chỉ một mặt mà nghìn trồ cười khóc

Làm đau mặt kia trong cỗi ẩn hình

( Tháp B ay - on bôn m ặt - D i cảo th ơ I)

Con người quả là một sự phức tạp, đa diện. Thế giới tâm hồn của con người

muôn hình vạn trạng, chi một mặt thôi mà có tới nghìn trò cười khóc. Cả bốn

mặt của Tháp Bay- on đều là mặt thật của Chế Lan Viên vì ở mỗi con người,

77

giới hạn của nó là cái không giới hạn. Những tài năng lớn thường không đơn

gian và mâu thuẫn (nếu có) cũng là chuyện thường. Đe hiểu được Chế Lan

Viên không chi tìm ở Di cảo thơ mà phải tìm trong cả đời thơ và cả những gì

ngoài thơ nữa. Bài thơ không chỉ là lời tổng kết, giãi bày mà còn là lời đề nghị

về cách nhìn nhận, đánh giá một con người: Phải có cách nhìn toàn diện, đa

chiều. Trong suốt cuộc đời cầm bút, Chế Lan Viên “cố tìm ra tiềm ẩn của lòng

mình", “bởi lòng ta chẳng bao giờ ta đi hết được". Theo Nguyễn Đãng Mạnh:

“Quá trình hình thành vận động và phát triển tư tưởng nghệ thuật của mỗi nhà

văn cũng đổng thời là quá trình nhà văn tự giải đáp câu hỏi “Ta là ai? Có

như vậy mới tìm ru được mình, khẳng định được mình"[25]. Vì vậy, nhà thừ

cũng khẳng định:

Anli phải tự làm hoa tiêu lấy chính mình qua bão dông sấm chớp

Mà dôi khi chỉ đ ể mình bay cho đến được chính mình thôi

( Sàn bay - D i cảo th ơ II)

Với Chê Lan Viên, con đường từ mình đến mình quả là con đường dài vô tận

mà nhà thơ chính là người lữ khách luôn mải miết cất bước mong đến cuối con

đường. Nhưng cuối cùng thì ta là ai?

...Ta chưa kịp trả lời

Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối

Cậu bé chơi tùng dinh vụt già trăm tuổi

Câu hỏi bé thơ, miệng huyệt trả lời

( H ỏ i -

Đ áp - D i cảo th ơ I)

Và nếu lắng nghe thật kỹ ở nhiều những bài thơ khác, ta sẽ có được câu trả

lời. Những câu trả lời ấy cho thấy cái tôi tự ý thức về mình của Chế Lan Viên

khác hẳn với thời Điêu tàn.

ừ anh tà sông trôi, là hạt móc

Là tiếng khóc thất thanh... Nhưng anh lại

Lả người... Việc gì phải tủi

Việc gì phải đau ! Hủy chấp nhận và cười!

78

Bây giờ ta yêu sông vì dó là người

Yêu hạt móc, dấy lù ta súng chói

ị H ỏi - Đ áp - D i cảo th ơ I ).

Trong suốt ba tập Di cảo thơ, ta bắt gặp rất nhiều những câu trả lời: Ta là

“sôníỊ” là “bể", là “bỏng lau”, là “hạt sương khuya”, là “viên muối b ể ', ta là

“con trai" uống máu mình đẻ ra ngọc, là “ánh trăng trong tiếng gió", ta là “mùi

hiù/níỊ bên kia lá", là “rễ”, là “hoa”, là hạt lệ, hạt bụi, là con bài, là giòi bọ, là

“lĩườnÍỊ vân xoáy trôn trong ruột £

buồn hoa súng tím". Tiếng khóc thất thanh thời Điêu tàn là ta, hát “giọng cao”

một thời là ta mà “giọng trầm” cũng là ta. Có lúc ‘T ứ chỉ là nhà thơ cưỡi trâu”,

“Nhà tliừnhặt lá”. Ta ià ta và ta còn là tất thảy. Ta uống cuộc đời, vũ trụ vào ta

để ta được là ta với tất cả sắc màu, âm thanh của cuộc đời:

Trong mỗi cây ngoài kia còn có một cây ẩn náu

Trong mùi hương còn có mùi hương ẩn giấu

Trong hổn ta còn trùng diệp hồn ta

Trong đáy của hồn còn có suối tuôn ra

( Trong hồn -

D i cảo th ơ II)

Cho nên: Ta là ta mà luôn bối rối

Tìm lại ta

Đi tám cõi mười phương rồi mới tìm ra ta

Nó ở trong nhà

( B ất hoàn toàn)

Cái ta ấy vừa rất quen lại vừa rất lạ. Có khi nó bất ngờ, kinh ngạc bởi chính

bản thân mình. Ta là một phức thể đa diện vừa lớn lao mạnh mẽ lại vừa nhỏ bé,

hữu hạn: Vừa hư vô, chẳng có nghĩa lý gì trong vũ trụ và cõi nhân sinh lại vừa

hữu ích đầy ý nghĩa. Cho dù cái ta ấy là muôn mặt thì ta vẫn là ta. Tổn tại trên

cõi đời này 2/3 thế kỷ, bao cay đắng, ngọt bùi đều đã nếm trải, Chế Lan Viên

thấm thìa một điếu ràng: Ta là người - một danh hiệu cao quý, với danh hiệu đó

79

đủ đê’ ta lạc quan, hạnh phúc, yêu tất cả cuộc đời.

Có lẽ, đi tìm lời giải đáp cho bản thể không phải là cái đích cuối cùng của

nhà thơ, mà quan trọng hưn là từ chỗ hiểu rằng: Ta là ai, ta sẽ có cách ứng xử

đẹp trước cuộc đời, sống thành thật và có ích cho đời hơn.

Tốt hơn, biết mình lủ cây lau

Cứ xạc xào trong gió

Khi già đun thành lửa

Cho người la thổi cơm hung bữa

(Lau - D i cảo thơ 11)

Chê Lan Viên không ưa gì cái danh hờ “không ồn ào vênh vang” chỉ “ủm

thầm" như rễ sâu lan trong đất. Thời gian, công sức, nỗ lực và cả tinh hoa của

đời ông dồn chắt lại để có “mộ/ dường vân xoáy tròn trong ruột gổ"(Cáy).

Dường như, sự phấn đấu không ngừng nghỉ, âm thầm, lặng lẽ của Chế Lan

Viên cũng không được nhiều người biết đến? Nhưng chỉ cần sự hiện diện của

nhà thơ ở cuối chặng đường cũng đủ để người biết, đời biết đến sự cống hiến

của nhà thơ trong cuộc đời này.

Trước khi đi \ầ o “xứ không màu”, Chế Lan Viên càng làm cho người đời nhớ

mình nhiều hơn. Nhà thơ vẫn tiếp tục suy ngẫm về mình, song, tâm trạng của

ông lúc này là sự bình thản, tự tin, rất thực, rất đời.

Tóm lại, được sống với thế giới riêng của cá nhân mình là một hạnh phúc

đầy đau đớn của Chế Lan Viên. Hạnh phúc vì được là mình nhưng đau đớn bởi

từ trong sâu thẳm tâm can nhà thơ vang lên bao câu hỏi: Ta là ai ? Là ta chăng?

Ta vì ai? Ta còn lại gì sau khi chết? Ta phải làm gì để chiến thắng thời gian,

bệnh tật và cái chết?...Theo Chế Lan Viên: Ta đau bởi ta “/à kiếp con người".

Con người đang tổn tại trên cõi đời khi không còn biết đau nữa thì thật là đáng

sợ. Chế Lan Viên đã coi nỗi đau như một giá trị nhân bản và trong đau, nhà thơ

đã cố gắng đến mức cao nhất để trả lời những câu hỏi đặt ra trước bản thể

mình, khẳng định mình hiện hữu trong cuộc đời bằng cách riêng của mình. Tuy

ít nhiều mang dáng dấp siêu hình nhưng quả là một cái tôi có cá tính, có trách

nhiệm, yêu đời, gán bó với cuộc đời, với con người và không ngừng sáng tạo đê

8 0

khi đi vào“v/'///g quên" người đời không “quên lãng” những gì nhà thơ đê lại

cho đời. Các thế hệ bạn đọc sẽ nhớ mãi Chế Lan Viên, một Tháp Chàm “chắc

chắn, lé loi và bí mật", một Tháp Bay- on bốn mặt, luôn gợi sự khám phá.

3.2. K H Á T V Ọ N G SỐNG, K HÁ T VỌ NG SÁ NG T Ạ O .

Trong mỗi con người, khát vọng sống luôn trào dâng mãnh liệt. Nhưng sống

không chí đê tổn tại mà phải sống như thế nào cho đáng sống, có ích, sống là

để cống hiến hết mình cho cuộc đời này. Chế Lan Viên là một người như vậy.

Con người luôn ám ảnh bởi thời gian, bệnh tật và cái chết, con người luôn thiết

tha mớ rỏng lòng mình trước mọi chuyện của cuộc đời củng là con người có

khát vọng sống, khát vọng sáng tạo không mệt mòi. Cả cuộc đời ông đă dâng

hiến cho nghệ thuật, cho thi ca.

3.2.1. Khát vọng sống.

Những năm cuối đời, Chế Lan Viên luôn ám ảnh bởi thời gian, bệnh tật và

cái chết. Phải chăng, đó là những biểu hiện rất con người của nhà thơ? Chế Lan

Viên yêu thiết tha sự sống nhưng chính nhà thơ lại phải đau xót chứng kiến

bệnh tật gặm nhấm thân thể mình, sự sống dần dời xa mình mà không làm gì

được. Nhà thơ cảm thấy sự sống thật mong manh, giữa cuộc đời chỉ là một

dường biên rất mỏng.

Gió thổi lá sen hồ lật lại phía bên kia

Phía ấy gọi anh vê'

Vê đâu chưa biết nữa.

( G ió lật lá sen hồ • D i cảo th ơ I ).

Chế Lan Viên khuyên những người thương yêu nhất của mình:“Đù>ỉg quá

nglìiêm trọng cái chết, cái đau, sống mà làm việc”. Phải chăng, đây là một thái

độ chấp nhận dũng cảm, đáy bản lĩnh của Chế Lan Viên mà hiếm nhà thơ nào

có được? Không phải Chế Lan Viên sợ chết mà tham sống, nhà thơ tiếc cuộc

sống là vì cuộc sống đối với nhà thơ nhiều ước vọng, cuộc sống đáng yêu chưa

thoả mãn. Mặc dù cuộc sống của nhà thơ rất vất vả, cực nhọc nhưng khát vọng

81

sống vẫn trào dâng mãnh liệt trong ông. Ông không than nghèo kê khổ như

Nguyễn Khuyến:"íChợ búa trầu chè chẳng dám mua” , cũng không đến mức:

"Van nợ lắm klii tràn nước mắt/ Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” như Tú Xưưng

xưa kia. Nhà thơ chấp nhận cái nghèo là để phê phán lối sống của một lớp

người thời hiện đại, phê phán xã hội và con người chạy theo của cải vật chất,

tôn thừ danh lợi, quyền lực mà quên đi những người lính đã vĩnh viễn nằm

xuống nơi chiến trường xưa.

Trước “ Cánh điền viên":

Còng lưng tưới nước vạt rau khô

B(rtn hỏng mà đàm khổ cá ngày

Đêm ngủ chỉ lo toàn vật giá

Xci dẩn truyện ngắn, bớt dần thơ.

ị D i cảo th ơ / ) .

Nhà thơ cảm thấy lo sợ những giá trị đạo đức bị băng hoại trước cuộc sống

vật chất. Xã hội đảo lộn vì những cuộc mua bán, đổi chác bằng tiền. Mọi thứ

đểu có thể mua được miễn là có nhiều tiền. Nỗi lo sợ của Chế Lan Viên chẳng

khác gì nỗi lo sợ của Nam Cao ngày trước. Những Hộ, Điển, Giáo Thứ...(trong

truyện ngắn của Nam Cao) đã từng vật vã với cái đói, nghèo. Giờ đây, người ta

cũng lao tâm khổ tứ nhưng là để thoả lòng tham, làm giàu bằng mọi cách, kể cả

bán linh hổn cho quỷ. Cuộc sống tinh thần trở nên nghèo nàn thảm hại, linh

hổn con người dường như không còn tồn tại. Đâu còn những ước mơ, những

khát khao vươn tới cái đẹp, cái lãng mạn? Ngay cả bản thân Chế Lan Viên,

cũng có lúc hoảng sợ cho mình và cay đắng nghĩ rằng một lúc nào đó, đôi cánh

tinh thần, đôi cánh thi ca sẽ biến thành đôi tay trần tục.

Ô i! Sức hút của cái nheo nhóc hàng ngày làm sao anh thoát ly được nó

N ghĩ lắm thì đôi cánh hoá đôi tay!

( Làm sao anh thoát ly được nó - D i c ả o th ơ I I ).

Từ những nhức nhối thường trực của cuộc sống, nhà thơ luôn cảm thấy xót

xa, day dứt, trăn trở. Những xót xa, nhức nhối trở đi trở lại cứa vào tâm hồn nhà

thơ như những vết thương lòng rỉ máu. Ông bật ra những tiếng thơ đầy ai oán,

82

nuối tiếc.

Chá ai còn yêu vầng trăng và hương lúa ngoài dồng

Yêu bà Tiên hay dám mây trên lầu Hoàng Hạc

...Chả ai nhớ bù mẹ cắm chỏng tóc bạc

N hớ một cô gái chèo đò vượt lửa qua sông.

( Thời thượng - D i c ả o thơ I ).

So với những nhà thơ cùng thời, Chế Lan Viên là người hết sức trân trọng sự

sống, khát khao sự sống. Nhà thơ luôn đặt ra tiêu chí sống cho riêng mình:

Sống như thế nào đê không sống hoài, sống phí. Ông tự khuyên mình:

Đêm sau chót, sông Ngân Hù sau chót

Con vạc bay qua trời, con cú đầu cây sau chót

Con đom đóm ngoài vườn sau chót

...Cho nên anh yêu đi sông Ngân Hà, con vạc, con đom đóm, mùi dạ lan

Thậm chí con cú nữa .

( Sau ch ót -

D i C ảo th ơ ).

Đọc D i Cảo thơ, ta thấy hiện lên trên mỗi trang thơ“cHỘc chiến tranh màu

trắng của tâm hồn” Chế Lan Viên. Nhà thơ đã phải trải qua những vật lộn,

dằng xé, đấu tranh với chính bản thân mình, chống lại hư vô và sự huỷ diệt. Thi

nhân cũng phải thừa nhận rằng có những lúc mình đã ở trong cái thế chông

chênh chẳng khác nào người đi men trên miệng vực thẳm, chỉ “mộ/ điệu nhạc,

một mùi hương đ ã đủ lân nhào anh xuống đó”, nhưng ông đã vượt qua được.

Luôn sống trong tâm trạng thấp thỏm lo âu: “Biết đâu đêm nay là đêm anh từ

giã cõi đời. Sau vạn đêm đêm này kết thúc”, Chế Lan Viên mở rộng lòng mình

với cuộc đời, với con người, để mà yêu, để sống hết mình, “hiểu cho hết cái

đau của đời". Không khi nào nhà thơ quay mặt, quay lòng trước thiên nhiên,

hoa cỏ. Chỉ vài cánh hoa rơi vô tình trên hè phố cũng đủ để níu giữ hổn nhà

thơ. Chế Lan Viên không khép cửa trước tình yêu mà mở lòng đón nhận tình

yêu. Vốn là người ưa triết lý, thơ ông đậm đà chất chính luận, triết luận, đôi khi

thiên về lý trí mà nghèo về tình cảm. Song, không ít khi ta bắt gặp trong thơ

ông những vần thơ xúc cảm .

83

Như cấm mùa thu nằm mát giữa tờ sen

Màu xanh của nắng trời chừng dịu lại

Nliữm> yêu thương của lòng tôi, tỏi gói

Trong lá thơ vừa hái ở dời lên

( N h ư cốm m ùa thu ).

Thơ và đời, cuộc đời và tình yêu đời ở Chế Lan Viên hài hoà nồng thắm, say

sưa, dịu ngọt. Trong những vần thơ của thi nhân, ta thường bắt gặp một cảm

giác êm ái, du dương, yêu thương lan toả. Đúng là“7Vá/ tim nghèo nhưng đã

biết tin yêu", tin yêu vào cuộc đời mầu nhiệm này cả khi đời đã vào thu. Nhà

thơ vẫn có những rung động thật sâu sắc, tinh tế, cái nhìn thật trong trẻo, trỏ

trung, tươi mát. Đang giữa mùa thu ông iại nhớ tiếng ve mùa hạ bởi :

C hỉ vì em xa chỉ vì một nhẽ

Cháy đỏ hoa yêu suốt một mùa hè

( Tiếng v e ).

Cái nồng nàn rực cháy của hoa trong suốt một mùa hè cũng chính là cái tha

thiết rạo rực của tình anh. Chế Lan Viên yêu biết bao cuộc đời này. Khi biết

mình bị bệnh lao phổi và ngờ bị ung thư phế quản (năm 1957-1959), hôn nhân

thì tan vỡ nhưng nhà thơ không hề bi quan chán nản, lòng yêu đời của ông

cũng không hề giảm sút mà trái l ạ i :

N hư người lính bắn phát cuối cùng vì T ổ quốc

Ta vần yêu đời dù viết nửa chừng càu

( N ửa chừng cáu - D i cảo thơ).

Có cả thái độ lạc quan, yêu đời, tin tưởng xuất hiện ở cả những bài thơ viết

trong mùa bệnh 1988 của Chế Lan Viên.

Cuộc đời chẳng bơn ỉ ơn như một chú hề

Vui cuối cùng sẽ dẹp tan tiếng khóc

Hạnh phúc không đến hồi đầu thì đến hồi kết thúc

Tất cả s ẽ đoàn viên xin bạn chớ ra về

(Kịch - D i C ảo t h ơ ) .

Cuộc đời sống trải gần 2/3 thế kỷ, đã nếm đủ cay đắng, ngọt bùi, Chế Lan

84

Viên nhận thấy một điều :

Hạnh phúc đến thình lình và ở th ế đơn côi

Còn tai ương tliì dồn dập cíúnh vu hói

... Không chơi khổ đau thì không ù được nụ cười

( H ai chiều - D i cảo th ơ ).

Hạnh phúc hay là tai ương, may hay rủi chỉ số phận mới biết trước được.

Giống như một vở kịch, cuộc đời có vui, có buồn, hạnh phúc cũng nhiều mà

khổ đau cũne không phải là ít, có cả tiếng cười, giọt khóc nhưng Chế Lan Viên

vẫn tin vào kết cục có hậu của nó.

Cho nên đau thì đau mà ca cứ vui ca

Hỏi đời có xám không, ngó về đêm đen, anh dớp đời hồng.

( Vé đỏng - D i cảo thơ).

Không phải cuộc đời lúc nào cũng bình yên để nhà thơ thanh thản, say đắm

với sắc trời như viên ngọc sắp buông rơi. Thi nhân luôn có thái độ chủ động

trước cuộc đời. Đọc Di c ả o thơ, ta luôn bắt gặp một Chế Lan Viên đầy bản

lĩnh trước những cơn bão tố của đ ờ i .

Những cơn bão từ đâu trút tai ương vào Lôi Châu bán đảo đời ta

Hãy lấy lòng ta mà đổi chọi

Cơn bão xẩy ra ở vĩ độ nào, kỉnh tuyến nào anh chả hiểu

N hớ một khoảng trời rất đỗi trong xanh .

(B ão - D i cảo th ơ )

Những cơn bão tố của cuộc đời trút xuống dồn dập nhưng vẫn còn một

khoảng trời “/ứ/ đổi trong xanh”, đủ làm cho nhà thơ yêu đời, chống chọi với

phong ba bão táp của đời. Thi nhân đang đùa với vô cùng. Cuộc đời này cũng

giống như một trò chơi mà nhà thơ chỉ là khoảnh khắc, song ông tự an ủi mình:

Tội gì buồn bã vô cùng

Cứ chơi cho đến hết sòng

Xóc lại ván bài chơi tiếp

(Trò chơi - D i cảo thơ)

Chế Lan Viên quý trọng sự sống, thấu hiểu sâu sắc giá trị của cuộc sống và

85

khao khát được sống. Mặc dù “chúng ta sông giữa quãng cách quà bom nọ vù

quá bom kia, cơn biệt ly này và cơn biệt ly khác” song, giữa hai quãng cách ấy

ta vẫn cứ xây nhà, cày ruộng, làm thơ, đánh cá... Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn.

Người ta chí thực sự chết khi không còn sống trong lòng người sống mà thôi.

Muôn vậy, phải cố gắng để lại một cái gì đó cho đời, như thế là không chết, là

hất tử. là hổi sinh. Phải chăng, đó là khát vọng cháy bỏng về sự hiện diện của

bản thân nhà thơ trên cõi đời này?

Những bạn bè yêu anh s ẽ gập anh trong cỏ

Trong hạt sương, trong đá...

Trong những gi không phải anh

( Từ th ế chì ca - D i cảo th ơ I).

Quan niệm về sự hoá thân của Chế Lan Viên vừa có sắc màu siêu thoát, luân

hồi của Phật lại vừa rất đời bởi tình yêu cuộc sống và lòng lạc quan hướng về

sự bất tử, vĩnh cửu. Thiền sư Vạn Hạnh có một câu thơ nổi tiếng về sự tồn tại

của kiếp người:“77ỉâ/ỉ như ánh chớp có rồi không?". Chế Lan Viên cũng có

một cách nói rất riêng, vừa có hơi hướng của Phật:“Có hay chẳng có mình/

Đ('ri vẫn nguyên vẹn đủ”, vừa rất đòfi: T h ế mà mình vẫn CÓI Cái hay là vậy mả

(Đừng buồn- Di cảo thơ II).

Quan niệm này thực ra nó cũng là biểu hiện của khát vọng sống cháy bỏng

của nhà thơ. Bởi vì “từ anh đến huyệt, dường thẳng chim bay đâu mấy tC\ cho

nên “Anh phải vòng vo qua nghìn trang thơ phú đ ể quên đường” mong “dùng

thơ văn gián cách anh với cái sọ dừa. Với giun d ế rỉa thịt xương anh mai hậu”.

Khi ấy, dù đã thành nắm xương tro trong bình thì anh vẫn tồn tại.

Khi càng gần kề với cái chết, khát vọng sống của nhà thơ càng trào dâng

mãnh liệt hơn bao giờ hết. Song, điều quan trọng nhất, đáng quý nhất của Chế

Lan Viên không phải là sống để hưởng thụ, để tận hưởng cuộc đời mà sống là

đê sáng tạo, để cống hiến.

3.2.2. K hát vọng sáng tạo.

Chế Lan Viên yêu thiết tha sự sống. Khát vọng sống của nhà thơ cũng đổng

thời là khát vọng sáng tạo không mệt mỏi. Với Chế Lan Viên, ngừng tư duy.

86

ngừng sáng tạo có nghĩa là chấm dứt cuộc sống. Chế Lan Viên say sưa với đời,

với thư dưới ngọn đèn, bên trang giấy, ngay cả khi nhà thơ ra đi như tắt đèn đi

ngủ “trang giấy vẫn còn m đ \ Chế Lan Viên ý thức được sự hữu hạn của đời

người và cái vô cùng, vô tận của thời gian, nghệ thuật, khát vọng sáng tạo của

nhà thơ càng mãnh liệt. Ông mải miết với đời, với thơ nhưng không quên đếm

tuổi của mình:“£)ờĩ ngoài tuổi năm mươi”(Đê từ - Hoa trên đá), “Tôi tiếp cận

trang giấy ngày mười sáu tuổi. Bây giờ sáu b à \H ồ i kỷ bén trang viết - D i cảo

th ơ I).Ý thức về tuổi tác, thời gian, nhà thơ cảm thấy mình '.“N hư ông vua Thục.

Bị duỗi khỏi thời gian” mà:“7Yỉ/ớỉr mặt là biển lớn. Sau lưng đất không còn”

(Đê từ - H oa trên đá).

Chế Lan Viên cảm nhận về thời gian “nước xiết” như “dòng chảy” của cuộc

đời, nhxỉ^vầng tráng” trên trời, như “cái vành tròn của xe". Nhà thơ ý thức

được thời gian cứ trôi đi mà đời người có hạn, ông không bao giờ cho phép

mình lười biếng, phải chạy đua với thời gian nước xiết, phải“cạy vào trang giấy

trắng, phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt”, đối chọi ánh sao mai, “bay đi

kiếm mật phía chân trời".

Hình ảnh ngọn đèn, trang giấy, tiếng gà trở đi trở lại nhiều lần trong thơ Chế

Lan Viên như nhắc nhở, thúc giục. Có lúc, nhìn trang giấy “như con đường hun

hút về vô tận”, nhà thơ cảm thấy hoang mang và bất lực. Những năm tháng

cuối đời, khát vọng sáng tạo càng trỗi dậy mãnh liệt trong ông. Ông đã tự ép

mình phải viết thật nhiều, viết gấp :

Gió thổi mây bay bất trắc

...Phải tranh tliủ làm thơ giữa hai chớp mắt

...Viết đ i ! Viết đi ! V iế t! V iế t!

Thời gian nước xiết

... Viết thêm ! Viết nữa ! Viết vào .

( Thời gian nước x iết - D i cảo th ơ ỉ ).

Chế Lan Viên đã làm việc cần mẫn và chăm chỉ suốt cả cuộc đời mình. Đó là

lẽ sống, là niềm đam mê, là hạnh phúc vừa cay đắng vừa ngọt ngào của nghé

87

thơ. Chưa bao giờ thi nhân dám chùng chình trước thời gian, kể cả khi nằm trên

giường bệnh, biết rằng thời gian của mình trên trái đất còn rất ít, có thể tính

bàng ngày, phút, giây, bất kể khoảnh khắc nào của phần đời còn lại cũng là

khoảnh khắc nhà thơ có thể phải chia biệt cuộc đời. Dường như ta luôn bắt gặp

sự vội vã, khẩn trương, tất bật của người nghệ sĩ suốt một đời chỉ có tâm

nguyện thiết tha là cống hiến “c/zơ đời ' \ “chfí người". Ông thúc giục mình:

S ố ngày còn lại của anh trên trái đất, đếm rồi

N hư tlióc giống đếm từng hạt một

Cliỉ cỏn chừng ấy hạt thôi, anh phải tạo ra mùa

Chừng ấy ngày, chừng ấy tháng, chừng ấy năm

Chưa kê bất thình lình đ ổ ập

Cày đ i ! Bừa đ i ! Gieo đi! Sao còn phải chần c h ừ !

( N ghê của ch úng ta - D i cảo thơ)

Quả là một áp lực thời gian đè nặng với những lời hối thúc gấp gáp, quyết

liệt.‘W//ừ thơ “lên giây đồng hồ", “nghe tiếng gà gáy”, “nhìn giọt sao rơi”...

đều bị mặc cảm là cái quỹ thời gian sống đang vơi đi một cách đáng sự '

(Nguyễn Bá Thành)(48,170Ị. Con người, nhất là người nghệ sĩ ai cũng sợ thiếu

thời gian. Nhưng có lẽ Chế Lan Viên là người day dứt nhiều nhất. Nhà thơ

Xuủn Diệu cũng rất sợ thiếu thời gian, luôn vội vàng, cuống quýt, nhưng đó là

cái vội vàng cuống quýt của một con người khao khát tận hưởng những hương

sác của cuộc đời trần thế. Còn với Chế Lan Viên là cái vội vàng tất bật của

người từng trải, đã thấm thìa, chiêm nghiệm đủ mọi lẽ đời, khao khát được

sống có ích, được cống hiến .

Theo thống kê của chúng tôi, trong ba tập D i cảo thơ có 558 bài thì có tới

315 bài được nhà thơ sáng tác trong hai năm 1987-1988, điều đó đã cho ta thấy

Chế Lan Viên sáng tác với tốc độ chóng mặt. Chính vì ám ảnh về “thời gian

nước xiết”, những năm cuối đời đã thôi thúc nhà thơ sáng tạo với tất cả trí tuệ

và sức lực còn lại của mình. Hai mươi mốt ngày trước khi lên bàn mổ, ông viết:

T ừ thê chi ca /, mười ngày sau, ông lại viết: T ừ th ế chi ca I I và sau khi mổ

đúng chín tháng nửa ngày thì ông ra đi vĩnh viễn. Cả hai bài từ biệt, ngoài sắc

thái an nhiên, bình đạm của một vị minh triết, ta còn thấy tình yêu, trách nhiệm

88

của một ngưừi chổng đối với vợ, một người cha đối với các con, một con người

đối với cuộc đời. Bài thơ là lời vĩnh biệt mà như một lời an ủi, động viên:

Anli không ở lại yêu hoa mãi được

Tliiêu xong anh về các trời khác cũng dầy lioa

... Cha vẫn nhìn thấy các con, thấy mẹ, thấy khu vườn

...Cho dừ trái đất này không còn anh

Anh vàn còn nguyên trái đất

Tặng cho mình

...Con vẫn nằm trong tám mắt cha khi con đau khổ hay là khi hạnh phúc

Vù khi nhìn trời xanh, con yêu, ấy chính là cha rồi.

Có lẽ, hiếm có người nào lại hình dung ra cuộc sống của mình sau khi chết

một cách rõ ràng, lãng mạn và lạc quan như thế, một xứ sở “không khổ đau,

không dùng nước mắt”, “chỉ có tình thương” “trong nhưthuỷ tinh” và một xứ sở

“đầy hoa".

Dường như chưa bao giờ trong Chế Lan Viên không cháy sáng ngọn lửa nhiệt

tình, nhiệt tâm sáng tạo. Ngay cả khi hấp hối, thi nhân vẫn muốn tiếp tục làm

thơ, mong muốn sống để được sáng tạo. Thế giới trong D i cảo th ơ \ủ c nào cũng

có một ngọn đèn chong lên bên trang viết, “gọi thuyền thơ vượt sóng”... Trang

giấy đối với Chế Lan Viên chính 1 à“cái trang m ơ ước một đời” còn bỏ ngỏ, còn

thách thức, vẫy gọi (Chán trời - H ái theo mùa). Thi nhân lúc nào cũng thao

thức, day dứt, trăn trở với khát vọng sáng tạo. Nhà thơ coi sự nghiệp sáng tác là

vượt sông, “vượt sóng”, “vượt lòng mình” để đến bến bờ thơi/?*/ bên kia - Di

cảo thơ II). Chế Lan Viên ví mình như con dã tràng nhưng không phải là dã

tràng:“Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì” theo quan niệm dân gian mà là

“d ã tràng có ích” làm những việc phi thường: “Vê hạt cát thời gian chọi lại với

vô cùng"(Dã tràng có ích - Hoa trên đá).

Nhà thơ không tự bàng lòng với thơ mình, với bản thân mình, khao khát đến

tirởng như tuyệt vọng, đó cũng chính là sự thôi thúc cần thiết cho sáng tạo. Ông

coi thơ là “nghiệp d ĩ' của đời mình, so sánh cái việc làm thơ như con trai nhả

89

ngọc. Con trai uống ánh trời, sóng bể vào mình kết thành ngọc cho đời nhưng

mỗi con trai chỉ một lần nhả ngọc. Còn Chế Lan Viên:“ Sau viên ngọc sau cùng

lụi là viên thứ nhủi”, liên tục chắt hổn mình ra thành thơ, vừa có cái đau của

“tliai HíỊlìén" nhung lại có cái vui của sự “sinh thành”, “nhưng đ ã là sô'phận rồi

cứ phải chơi thôi". Ông gọi nghiệp thơ:“Đáy chính là nối đau và hạnh phúc

của con người'" (Ngọc sau cùng - D i cảo thơ II).

Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên cho rằng thơ mình chỉ là“A/ộ/ cơn mưa. Một

dòng nước mắt. Một viên gạch đổ. Một ánh hoàng /ỉôaz”[33,309]. Giờ đây, nhìn

lại một chặng đường thơ của mình, thi nhân tổng kết một cách thành thực:

Thơ chỉ sông một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ

N ghĩ mà thương.

( S ử - D i cảo th ơ I I ).

Nhà thơ nghiêm khắc và công bằng ghi nhận những đóng góp khiêm tốn của

thơ mình. Bài thơ GởiịDi cảo thơ I) là lời tổng kết công tâm, nghiêm túc nhất

của Chế Lan Viên.

Anh qua trái đất đ ể lại từng thơ ấy

Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều

Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy

Trái tim nghèo nhưng cũng đã tin yêu.

Niềm tin và tình yêu đã thắp lên ngọn lửa để đốt cháy trái tim thành trí tuệ

ngời sáng, khiến cho nhà thơ suốt một đời thơ luôn có ý thức trách nhiệm cao

cả và khát vọng sáng tạo không mệt mỏi. Cũng chính vì luôn có ý thức trách

nhiệm nên lúc nào Chế Lan Viên cũng tâm niệm: Nhà thơ phải gắn mình với

cuộc đời “sống nơi này phải nghĩ đến nơi khác” , nơi “đang đ ổ máu”, nơi “đang

thiếu gạo"... Nhà thơ cần phải:

Hiểu cho hết cái đau của cuộc đời

Ní>he tiếng cười của trẻ con nheo nhóc

... Rồi lặng lẽ cuốc đào

Miếng dất thơ trong vườn an lì.

( Chuẩn bị di - D i cảo th ơ II).

9 0

Gắn với cuộc đời chưa đủ, Chế Lan Viên còn phải không ngừng sáng

tạo “Nếu dừng lại anh đâu còn là anh nữa". Bởi vậy, ông luôn có ý thức bồi

đáp tâm hổn, tình cảm, ấp ủ sự đam mê và khát vọng vươn tới. Làm thơ nửa

đời, khi cảm thấy “thơ đã già dã tai”, ông còn nhọc công ‘7(3// trái” thơ mong

k"câ gì mới chăng ?"(Lộn trái - Di cảo thơ Ị).

Như một người làm vườn vĩnh cửu, cần mẫn, chăm chỉ vun đắp, tưới bón,

Chế Lan Viên đã tạo ra hoa trái thơ đa dạng, sâu sắc để dâng cho đời.

Trang giấy, ngọn đèn và anh

Ba nhân vật một vở kịch hài nên rất bi thương.

( D i cảo thơ).

Nhà thơ thức với ngọn đèn, tiếng gà, đối chọi “ứ/?/ỉ sao mai”, “lên giây cót

dồng h o ' và rất cần những người bạn đổng hành để “c/ỉớ anh qua trang sách

bão bùng"(Vì sao khuya khoắt - D i cảo thơ II). Khát vọng sống, khát vọng

được cống hiến, được sáng tạo luôn thường trực trong ông:

Đời cho anh nắm đất

Anh làm nên cái bình

Đời cho anh nhành hoa

Anh vẽ nên màu sứ

Đời cho anil mùa yêu

Anh làm cho bình đẹp như thiếu nữ.

(Đ ời cho anh - D i cảo thơ)

Mong ước cháy bỏng của Chế Lan Viên là chinh phục, khai phá những chân

trời thơ ca mới. Lúc nào nhà thơ cũng cảm thấy mình còn thiếu rất nhiều kể cả

khi tự ví mình với bao la, sâu thẳm, kỳ vĩ như bể:

Thiếu một giọt sương, một giọt nước ngọt lành

Một chút yên tĩnh trong lòng không có được.

( B ể thiếu g ì - D i cảo th ơ I I ).

Chế Lan Viên khao khát tìm tòi, khám phá cái “Bê sâu”, “Bề x a ”, bề lẩn

khuất của cuộc đời. Có lúc, nhà thơ tự ví mình như người tìm trầm giữa ngàn

91

cao lum hổ. Nhưng trầm ở đâu? Nhà thơ không biết, không có hương ngải dẫn

đường. Khi thì Chế Lan Viên tự ví mình là người “săn the/', tự nguyện làm một

người thợ đào sông để “Khơi những nguồn chưa ai klưri và sáng tạo những gì

chưa có”(Đời thừa - N am Cao):

Sòn g thơ cạn dòng

Anlì làm gì? Làm thợ đào sông

Sòn g chảy lại

... Cái con sông dào có thua gì sông thật

Chày ngang giữa cuộc đời hư hư thực thực

Cho người ta một chút m ơ màng.

( Sông th ơ - D i cảo th ơ ).

Cái hạnh phúc lớn lao của người thợ đào sông là mang lại một chút lãng

mạn, mơ màng cho con người giữa bao cái bế bộn, thô nhám, tính toán, bon

chen của đời thường. Có lẽ, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để anh làm thợ đào

sông cả đời mà không hề nuối tiếc. Nhưng cũng có lúc nhà thơ buông xuôi như

một tiếng thở dài não ruột:

Tài năng thì cạn dần

Thi tứ thì hụt bấc

Câu thơ thì hụt hơi

Trang giấy thì điếc lác

Mong chi anh thành tài.

Và cái ý nghĩ: Ta kém cỏi, ta bất lực, thơ ta chưa có được “Cá/ trang m ơ ước

một đời” luôn ám ảnh nhà thơ. Có lúc, Chế Lan Viên hình dung trên con đường

thơ, mình như người chơi trò “xâu kim", “Tay cầm kim, tay cầm sợi chỉ . Vừa

chạy vừa xâu không một phút dừng. Chạy một đời rụng hết cả tuổi thanh xuân”

(X àu kim -D i cảo thơ /).Vậy mà vẫn toi công. Đó cũng là một mâu thuẫn

trong hồn thơ Chế Lan Viên. Phải chăng, những bậc thiên tài thường chứa

nhiều mâu thuẫn?

Tự ví mình là người săn thơ, đào sông chưa đủ, Chế Lan Viên còn ví mình là

92

no ười dệt thảm mặc rách và cuộc đời xám xịt nhưng vẫn dệt thảm hoa. Những

lâm tham anh dệt không thể mang màu sắc ảm đạm, xám xịt như cuộc đời anh

bởi VI anh làm nghề dệt. Người dệt nên những tấm thảm hoa rực rỡ lại phải mặc

áo rách quanh năm, người chuyên làm đẹp cho đời thì đời mình lại chảng ai

làm đẹp. Thật là một nghịch lý nhưng Chế Lan Viên buộc phải chấp nhận, bởi

nhà thơ hiểu nó như một quy luật. Vượt lên trên mọi trở ngại về thời gian, cái

chết, chiến tháng bệnh tật, nhà thơ khao khát được sống và làm việc:

Viết hay cho người yêu

Viết hay cho người ghét

Viết hay cho bõ ghét

Viết cái gì cho vợ con bè bạn

Sẽ tự hào khi anh thành giun dế, đất bùn, bọ chét

(Chuẩn bị đ i -

D i cảo th ơ II).

Lại có những lúc, Chế Lan Viên ví mình là người nữ tử tù đan áo. Ngay cả

khi sô phận sắp sửa thi hành “bử/ỉ án tử hình" với mình, chị đem áo ra đan:

Đợi bán án tử hình. Chị đem áo ra dan

Áo đan xong. Bản án chửa thi hành

Chị lại tháo áo ra đan lại

Nào biết đêm nay lệnh bắn bất thình lình?

Anh phải viết sao cho khi ra đi thì chiếc áo đ ã thành

(Người nữ tử tù đan áo • Di cảo thơ III) .

Ở đây, nỗi lo sợ không phải là bản án tử hình mà là lo có đan xong tấm áo

hay không? Chính vì vậy mà người nữ tử tù vẫn điềm nhiên đan áo không hề có

một chút hoang mang, hoảng hốt trước cái chết. Áo đan xong rồi, thời hạn của

cuộc đời chưa hết, chị lại tháo ra đan lại. Có điều, cứ mỗi lần đan là một lần chị

lại sáng tạo ra một tấm áo mới - một tác phẩm mới. Mặc dù, không làm chủ

được thời gian, không biết khi nào bản án sẽ thi hành, song, chị còn sống là còn

làm việc, chí một đêm, một ngày, thậm chí một giờ, một khắc ngắn ngủi thì

chiếc áo phải được hoàn thiện. Người nữ tử tù ấy luôn mơ ước một tấm áo mới

mẻ, hoàn mỹ nên chị phải nêu cao quyết tâm đan xong chiếc ảo:“Nào biết đêm

93

nay lệnh bắn bất thình lình?". Chế Lan Viên cũng vậy, nhà thơ phải cố viết cho

xong một tác phẩm hoàn hảo trước khi ra đi. Có những điều còn thiêng liêng

hơn cả sự sống. Tâm nguyện đó cuối cùng ông cũng thực hiện được. Quả là

một quyết tâm, một ý chí làm việc phi thường đáng được người đời trân trọng,

khâm phục và kính nể.

Có thê nói rằng: “D/ cảo thơ của C h ế Lan Viên đã phản ánh những cô' gắng

cuối cù nạ, sức bật cuối cùng của một thi s ĩ trong cuộc chạy dua với thời gian

nước xiết vù ông đã đê lại cho đời một di sản thơ đồ .YỘ”(Nguyễn Bá

Thành)[48,178]. Hơn chục năm qua, Chế Lan Viên đã“vế các trời khác củng

dầy hoa", chuyên xe của cuộc đời õng đă đi vào vô tận, người đọc van còn

ngạc nhiên bởi khả năng sáng tạo phi thường của ông. Khát vọng sáng tạo

không mệt mỏi chính là động lực to lớn giúp nhà thơ tạo dựng nên một sự

nghiệp thơ đổ sộ. Đọc thơ Chế Lan Viên, ta luôn thấy hiện lên một con người

cần mẫn, tự đày ải mình với nghiệp thơ. Đúng như Phan Thị Vàng Anh - con

gái nhà thơ đã nhận xét -.“Cha tôi đ ã tự mang lấy cái ách nặng văn

í7/í/Wỉg”[33,598]. Con người ấy đã lao động quên mình mong đem lại cho đời

94

những bông “Hoa trên đá”, “Hoa trên bê tông” tuyệt diệu.

CHƯƠNG 4.

M Ộ T CÁ T ÍN H SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO.

Ớ chương 1, chúng tôi đã nói đến cái tôi trữ tình và vai trò quan trọng của nó

trong thơ. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là một nhân vật trữ tình to

lớn và đồ sộ. Nghiên cứu thơ Chế Lan Viên từ góc độ cái tôi trữ tình để hiểu

thêm một phong cách thơ, một cá tính sáng tạo độc đáo.

Cùng với sự biến đổi của lịch sử dân tộc, thơ Chế Lan Viên cũng có sự vận

động và biến đổi không ngừng, nhưng vẫn mang đậm nét riêng. Sự biến đổi đó

đã dẫn đến sự biến đổi diện mạo của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên.

Ảnh hưởng của cái tôi trữ tình đối với phong cách và ảnh hưởng của phong

cách sáng tạo thơ đối với sự vận động, biến đổi của cái tôi trữ tình là ảnh hưởng

qua lại.

Trong suốt cuộc đời sáng tạo của mình, Chế Lan Viên luôn trân trọng, tìm về

với tinh hoa truyền thống dân tộc. Mặt khác, nhà thơ không ngừng tìm tòi, thử

nghiệm, đổi mới cho nền thơ dân tộc. Ông sáng tác bằng rung cảm thơ và bằng

một kiểu tư duy mang tính hình tượng: Tư duy ý và tư duy hình, kết hợp giữa

cảm xúc và trí tuệ, sự liên tưởng, tưởng tượng kỳ diệu. Chế Lan Viên đã tạo cho

thư cái lung linh kỳ ảo có sức quyến rũ đặc biệt, làm cho thơ bắt rễ vào cuộc

sống, khái quát được những chân lý. Vì vậy, thơ Chế Lan Viên vừa giàu hình

ảnh, nhạc điệu, vừa có sức khái quát triết học cao. Ông không ngừng khám phá

thế giới ở “bề sâu, bề xá" làm nên những giá trị độc đáo, bất ngờ, thú vị. Trong

chương 2 và chương 3, chúng tôi đã đề cập đến diên mạo và sự biến đổi diện

mạo của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng tháng Tám

1945. Cái tôi trong thơ trữ tình là sự thể hiện thế giới chủ quan của người sáng

tác trước cuộc đời. Sự biến đổi của cái tôi trữ tình dẫn đến sự biến đổi của các

yếu tố nghệ thuật. Mỗi bài thơ là một dạng thức tồn tại cụ thể của cái tôi trữ

tình nên hình thức thể hiện của mỗi bài cũng có sự khác nhau. Như vậy, muốn

95

xác định được tính ổn định, bén vững trong hình thức nghệ thuật của một nhà

thơ cần đặt hình thức nghệ thuật trong tính quan niệm và đặc điểm kiểu tư duy

nghệ thuật của chủ thể.

Ở chương này, chúng tôi nghiên cứu một số yếu tố phong cách thơ Chế Lan

Viên trong sự vận động, biến đổi cùng với sự vận động của cái tôi trữ tình tạo

nên một cá tính sáng tạo độc đáo.

4.1. T Ư DUY T H Ơ Đ Ặ C SẮC.

“Tư duy thơ là một phương thức biêu liiện của tư duy nghệ thuật, nhưng nó

mang trong mình một khả nâng biểu hiện phong phú". “Đặc điểm quan trọng

dang tư d u y . Nguyễn Bá Thành)[49,56]. Chế Lan Viên là người ý thức rất rõ

nhất của tư duy thơ là sự th ể hiện của cái tôi trữ tình, cái tôi cám xúc, cái tôi

về tầm quan trọng của tư duy nghệ thuật và vận dụng các phương thức tư duy

nghệ thuật bằng năng lực của cá nhân làm nên nét riêng, nét độc đáo. Nhà thơ

đã từng phát biểu '.“''Nghe ngóng, quan sát, lấy tài liệu cũng chỉ giúp ta nắm

chân lý lấy một nửa. Còn một nửa là phải biết vận dụng tư duy...Tư duy phải

làm nghìn triệu phép tính, bộ óc phải vận dụng từ sức quan sát, sự phán đoán,

trí tưởng tưựng”[ố3,97].ííTư duy ỷ và tư duy hình cần song song nảy nở và bồi

đắp lẫn nhau"[63,45]. Như vậy, Chế Lan Viên đánh giá rất cao tư duy thơ và

vận dụng các phương thức tư duy nghệ thuật một cách có hiệu quả nhất. Ở

phần này, chúng tôi chỉ tập chung vào hai năng lực độc đáo của tư duy thơ Chế

Lan Viên: Liên tưởng, tưởng tượng và đối lập.

4.1.1. Liên tưởng, tưởng tượng:

Trí tưởng tượng có thể coi là một năng lực đặc biệt quan trọng góp phần vào

nhận thức nghệ thuật, chắp cánh cho tâm hổn thơ bay bổng. Chế Lan Viên là

người có ý thức sử dụng tưởng tượng như một năng lực tư duy. Nhà thơ đã từng

phát biểu về trí tưởng tượng: “Thơ chấp nhận sự phản ánh thực tế bằng lung

linh, bằn ạ dường cong cho nên nhà thơ rất cần trí tưởng tượng”, “ cần ì ấy cái

96

do đ ể hỗ trợ cái chân ” đ ể tạo ra cái “vừa giống mà không được giống lắm,

như thực vù như m ơ thì mới nói dược cái chân £/£/”[63,107]. Ớ Điêu tàn, thê

giới nghệ thuật kỳ quái được tạo dựng bằng trí tưởng tượng kỳ lạ, mạnh mẽ

hiếm có, bàng hư tưởng gây ấn tượng kinh dị, đập mạnh vào giác quan người

đọc. Trí tưởng tượng cũng được đẩy đến mức cao nhất đê đủ khả năng thêu dột

bức tranh hư ảo. Xương trắng, mổ khống, thành quách đổ nát... đều là hiện thân

của sự đau buồn, nuối tiếc. Đó cũng chính là nơi ẩn náu cho cuộc chạy trốn

thực tại của thi nhân. Những dấu vết ít ỏi của hiện thực trong Điêu tàn được

chắp cánh từ trí tưởng tượng hư ảo cũng là khát vọng hướng tới cái đẹp của nhà

thơ. Qua hiện thực đó, Chế Lan Viên nói lên những tình cảm, cảm xúc của thời

đại. Từ Á nh sáng và phù sa đến Di cảo thơ, thơ Chế Lan Viên đã thoát khỏi tư

duy quen thuộc, tự do bay lượn trên bầu trời của nghệ thuật. Nhà thơ tưởng

tượng về quá khứ, tưởng tượng về tương lai, nhưng có lẽ khó hơn cả là tưởng

tượng về hiện tại, ngay trong hiện tại. Tưởng tượng về quá khứ, Chế Lan Viên

tưởng tượng về đất nước Chiêm thành hoang tàn, đổ nát với những Chiêm

nương, lâu đài, điện ngọc... Tưởng tượng về tương lai: tương lai trồng cây,

tương lai hải cảng, tương lai chiến thắng...

Ôi! Tương lai như hài cảng lắm tàu

Những con tàu chở đấy hạnh phúc

Ôi! Tương lai như mùa chiêm lổm thóc

Lắm tiếng cười, lắm cánli bồ câu

(C him lượn trăm vòng - Á nh sán g v đ ph ù sa).

Ngay cả trong hiện tại, nghĩ về sự hổi sinh trong dựng xây ở miền Bắc những

năm sáu mươi, ông có Á nh sáng và phù sa, Cành phong lan bê\ Tàu đến, Tàu

đ i...Chính nhờ có sự tưởng tượng mà thơ Chế Lan Viên luôn mới: “Những đêm

trăng, đủ suy nghĩ như người"; “Tuyết bên ngoài nghĩ suy trong yên lặng

“Con cá song cầm đuốc dần thơ về'... Nhà thơ tưởng tượng ở bất kỳ nơi đâu,

thời điểm nào, nơi ngàn sâu, trên đường hành quân, trên bờ biển hay giữa trận

địa... ở cánh rừng xa “ Con suôi rừng cũng mến chị văn công”, cũng như bên bờ

97

sông Xen “Nỗi buồn Việt Nam sao chảy dưới cầu sông Xen nước Pháp?"; Vừa

nghe “Trong xóm tiếng gà cục tác”, nhìn ra ngoài, trời quang mây tạnh, thi

nhân liền liên iưởng đến^í/í/ mảy, tiếng nắng mặt trời". Ngay cả khi viết về

Bác, hình tượng con người vĩ đại ây cũng biến hoá lung linh theo trí tưởng

tượng của nhà thơ (Hoa trước láng Người). Quả là một tâm hổn thơ nồng nàn

cảm xúc tưởng chừng như chỉ cần một âm thanh, một hương sắc cũng đủ để

bùng nổ những liên tưởng, tưởng tượng. Dường như, sự tưởng tượng của nhà

thơ là không có giới hạn. Nét nổi bật trong tưởng tượng của Chế Lan Viên so

với các nhà thơ khác là sự tưởng tượng pha nét siêu thực. Tuy nhiên, cái siêu

thực này không phải là yếu tố thần bí xưa kia mà tưởng tượng trên cơ sở thực

tế, xuất phát từ cái nền của hiện thực. Đó là sự iưởng tượng ảo- thực, kết hợp

giữa lô gic và phi lô gic. Thơ ca chấp nhận s\f*phì lý tính”. Chế Lan Viên cũng

đã sử dụng nhiều trí tưởng tượng“p/z/ lý tính”. Ông đã từng nỏ'\\“Vấn đề là phải

biết tưởng tượng th ế nào, tưởng tượng phải có sự giám sát của lý / r f ’[63,108].

Bài Con cò là một hình ảnh tượng trưng được bổi đắp bằng trí tưởng tượng phi

lý tính và nhiều liên tưởng. Trong Di cảo thơ, ta bắt gặp khá nhiều tưởng tượng

phi lý tính như vậy (Tìm đường, T ừ thê chi ca...)

Liên tưởng cũng được coi như một quy luật của nhận thức, quy luật của cảm

xúc. Liên tưởng làm cho cảm xúc biến hoá, phát triển. Hà Minh Đức đã chỉ ra

những dạng liên tưởng th& 'phổ biến là những liền tưởng đối lập và liên tưởng

tương đồng, liên tưởng trực tiếp và liên tưởng gián tiếp"[9,126]. Chế Lan Viên

đã sử dụng nhiều dạng liên tưởng rất phong phú, khá độc đáo: Vừa đối lập vừa

liên kết; Liên tưởng đi về trong không gian, thời gian; Liên tưởng tương đồng,

tương phản; Liên tưởng trực tiếp; Liên tưởng gián tiếp... Những liên tưởng ấy

liên kết, đan cài vào nhau rất linh hoạt. Từ hiện thực, bằng cảm xúc chân thật

của mình, nhà thơ nhập hổn vào đối tượng và liên tưởng đến một vấn để, một

đối tượng nào đó cho cuộc sống(trong Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường-

Chim báo bão, Đối thoại m ới, Chế Lan Viên đã thành công đáng kể ở phương

diện này).

98

Đời tươi mát như ao sen mùa hạ

Anlì em bôn bên mà ta ở iỊÍữa

Có dược trái cây thơm ta biết quỷ cả mùa lành.

(Người th ay dôi dời tôi, Người thay dổi th ơ tô i - H oa ngày thường - Chim báo bão).

Nhà thơ đã dùng sức tưởng tượng dựa trên sự gần nhau, giống nhau hoặc

nhân qua...có khi là liên tưởng ngẫu hứng để tạo ra nghĩa mới, độc đáo. Bởi thơ

m

là nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng. Trong thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên

ngợi ca tổ quốc, nhân dân và vạch mặt kẻ thù bằng những liên tưởng bất ngờ:

'V ành vạnh vầng trăng nghìn năm vẫn là gương mặt Việt Nam cười”. Có

những liên tưởng đột xuất, kỳ lạ tạo nên những biểu iượp.g độc đáo, thú vị:

Xưa ở sông Ngỏ ta đánh mất vàng

Đánh mất tâm hồn ta. Nhưng hiện tại

N hư sông tương dã trả vàng ta lại

Khắp đôi bờ tư tưâníỊ chói hào quang

( V àng của lòng tin - Á n h sán g và ph ù sa).

Cũng có khi, nhà thơ vận dụng cả những liên tưởng gần, liên tưởng xa,

những đối lập mới bên cạnh những đối lập có sẵn để tạo ra sự tương đổng,

tương phản mới lạ đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta di đất đã hoá tâm hồn

( Tiếng hát con tàu - Á n h sáng và ph ù sa).

Nhìn hoa lau mà chợt nhận ra mình và ký ức hoa lau trong lịch sử, hiện ra từ

chiến tranh:“Ô/ hoa lau đường máu/ Trắng làm chi anh buồn/ Giá được màu

hoa tím/ Hồn hẳn nhẹ đau hơn”, rồi lại liên tưởng đến xa xưa thuở Cờ lau Đinh

bộ Lĩnh ‘T ô / chỉ là nhà thơ cưỡi trâu/ Đánli trận giặc cờ lau", để rồi nhà thơ

ao ước được trở về:“C/ỉo tôi về với cành lau. Vàng vọ/ v ề với con trâu nghé ọ” .

Nhìn hoa gạo đỏ, Chế Lan Viên liên tưởng đến “Người tình nhân đỏ chói mỏi

liôn”, nhìn trời trong đêm ông nghĩ đến “Những đêm trăng, đá suy nghĩ như

ngắm ngàn lau cười trong nắng nhà thơ thấy “/ỉỡ/2 mùa thu lại về”... Sự

99

liên tướng trong thơ Chế Lan Viên luôn đa chiều: liên tưởng gần, liên tưởng xa, * liên tướng thực- ảo, liên tưởng lô gic và phi lô gic... nhưng đéu dựa trên một cơ

sỏ nhất định. Ông có cả một thế giới liên tưởng, liên kết chằng chịt làm thành

ve đẹp kỳ ảo cho thơ.

Trí tưứng tượng cùng với sự liên tưởng là cơ sở để tạo ra những hình ảnh đạc

trưng vừa thực vừa ảo, tạo nên cảm giác nửa mơ, nửa tỉnh, những khung cảnh

do, hư h i / \ cái thê giới vừa hư vừa thực đã làm nên chất thơ độc đáo của

Chế Lan Viên.

4.1.2. Đối lập.

Đối iập là mội phương thức tu duy bao trùm hơn mang dấu ấn cá tính sáng

tạo rất rõ trong phong cách thơ Chế Laii Viên. Cùng với sự liên tưởng tưởng

tượng, Chế Lan Viên sử dụng tối đa biện pháp đối lập tương phản tạo ra hiện

tượng độc đáo bất ngờ, tứ thơ, dòng thơ kỳ ảo ngân vang. Nguyễn Văn Hạnh đã

nhận định:‘7//'/ỉ/ỉ thức cơ bản, p h ổ biến trong tư duy nghệ thuật của C h ế Lan

Viên là sự đối lập. Đối lập trong thời gian, trong không gian, trong lòng

người... Qua đối lập, nhà thơ nói lên một quy luật phát triển cơ bản của sự vật,

tác động mạnh m ẽ đến trí tưởng tượng của người đọc, khêu gợi, củng c ố hứng

thú thẩm m ỹ của họ, bâng cách cho họ tiếp xúc với những bất ngờ và tương

phản trong ý thơ, trong hình ảnh thơ, trong kết cấu, trong nhạc điệu, từ yêu

thương đến giận dữ, từ yên tĩnh đến bàng hoàng, từ trang nghiêm đến trào

lộnq"[34,102]. Quả đúng vậy, đi vào khảo sát toàn bộ các kiểu đối lập trong

thơ Chế Lan Viên ta thấy có rất nhiều dạng đối lập được sử dụng đa dạng, linh

hoạt: Đối lập về sự vật hiện tượng; Đối lập về con người; Đối lập về không

gian, thời gian; Đối lập về ngôn ngừ; Đối lập về hình ảnh, ý, cấu tứ ; Đối lập ở

hai dòng thơ, câu thơ, hai khổ thơ, thậm chí đối lập cả ở tên bài thơ, tập thơ...

Ngay từ tên các bài thơ, tập thơ, Chế Lan Viên đã sử dụng đối chọi đến mức tối

đa: Hoa ngày thường - chim báo bão; Ánh sáng và phù sa; Hoa trên đá; Thơ

bỉnh phương, đời lập phương; Củ mới; Đêm và ngày; Tro và lửa; R ủ i và

may; Rễ... Hoa;... Nhà thơ rất hay dừng đối lập ngược nhau tạo nên sự đối chọi

100

đa dạng trong cái bình thường đê đào sâu năng lực suy nghĩ. Phổ biến nhất

trong thơ Chế Lan Viên là đối lập trong cùng một cầu:“Tặng bạn gần gửi

iiliữniỊ bạn xa"; Xưa cha ông di mà nay con cháu bắt dầu bay"; “Xi(a phù du

mù nay cỉã phù sa"; “Viết câu thơ sáng trCri giữa nhà lao bóng p h ủ ‘T ră m cơn

mơ khỏnq chống nổi một đêm clay”; “Một viên gạch hồng Bác chỏng lại cả một

mùa bủng giá”; “Một cái hôn cân vạn ngày đụn lửa”;... Có khi đối lập cả bốn

câu trong một khổ thơ, hoặc nhiều cặp câu đối nhau trong một bài thơ, đặc biệt

là kiểu đối lập trong không gian và thời gian:

Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm

Tiếng hát lẩn với im lìm của đất

Vườn lặng yên mà thơm mùi mít mật

Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân.

(G iọng trầm - D i cảo thơ I).

Cũng có khi đối lập cả đoạn thơ hay một cặp câu thơ: “Nửa nước hoà bình/

Nửa nước chiến tranli/ Một tai lổng nghe chim! Một tai nghe chừng đạn nổ/

Phông ngoài chớ ngủ yên/ Phòng trong dang bốc lửa”... Nhờ có tương phản mà

ý nghĩa thơ, hình tượng thơ nổi bật. Trong các bài thơ: Cái hẩm chông giản dị,

M ảy và hoa trên vạn lý trường thành, Tôi đi từ... tôi đến... Chế Lan Viên đều

vận dụng tối đa biện pháp này, có khi mang tính chất mạnh mẽ, quyết liệt:

Một người tù làm ta phá cửa nhà giam

Một kẻ lưu vong gắn lòng ta vào đất nước

Một trái tim đau chia phần cho ta hạnh phúc

Một tiếng thét căm hờn làm ta muốn yêu thương.

( 60 tuổi của m ột nhà thơ lưu vong nước Thổ).

Nhưng có khi lại rất kín đáo, khó nhận ra vì tương phản thuận chiều:

Giữa clĩiều náo nhiệt p h ố phường

Vụt nhớ ngàn cao Yên Tử

Vắng tanh vạn gốc tùng im

Thiếu bóng mình cỉi dưới dó.

Nhà thơ sử dụng linh động biến ảo biện pháp này ở bất kỳ đâu, khi nào, cả

101

đối lập từ gần đến xa, trên- dưới, xưa- nay, hiện tại- quá khứ- tương lai...Có cá

kiểu đối lập kết cấu của bài \hơ:Người đi tìm hình của nước; Người thay đổi

đòi tói, Người thay đổi thơ tôi; Đối thoại mới vê càu chuyện cổ; Ngoảnh lại

mười lăm năm ...tạo ra những biểu trưng và liên tưởng tương đổng, tương phản

làm giàu cho hình tượng thơ, làm cho người đọc tiếp nhận được nhiều tri thức

mới mẻ, mang dấu ấn sáng tạo riêng.Tất cả những giá trị của biện pháp đối lập

đó được điều khiển bởi một tư duy duy lý sắc sảo, nhậy cảm, làm nên vẻ đẹp

riêng của thơ Chế Lan Viên, tạo nên một phong cách thơ khổng thể trộn lẫn.

4.2. H ÌNH ẢNH T H Ơ ĐA DẠNG, P H O N G PHÚ.

Hình ảnh thơ là một dạng vật chất hoá hình ảnh tinh thần của cái tôi trữ tình.

Cái tôi trữ tình tồn tại vô hình, vô ảnh trong thế giới tinh thần đã tự biểu hiện,

tự hình dung bằng thế giới hình ảnh trong thơ. Tô Đông Pha khi nhận xét về

thơ Vương Duy đã nói:‘T hi trung hữu hoạ'Xtrong thơ có hoạ). Chế Lan Viên

cũng đã từng nói:“T h ơ là phải có hình ảnh”,“T h ơ nghĩ bằng hình ứ7ỉ/ỉ” [63,74].

Thế giới hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên vận động cùng với sự vận động và

biến đổi của cái tôi trữ tình. Từ một thế giới hình ma, bóng quỷ, sọ dừa, xương

khô đến một thế giới tràn ngập niềm vui và ánh sáng, với muôn sắc màu tươi

xanh của sự sống rồi trở về với cuộc đời thường muôn màu, muôn vẻ. Tiếp cận

hình ảnh thơ Chế Lan Viên từ góc độ cái tôi trữ tình, chúng tôi không theo

hướng tìm hiểu kỹ thuật xây dựng hình ảnh mà theo hướng coi hình ảnh là một

yếu tố biểu hiện của cái tôi trữ tình. Ở phần này, chúng tôi chỉ tập trung vào

một số hình ảnh tạo nên một phong cách thơ, một cá tính sáng tạo độc đáo.

4.2.1. Hình ảnh tượng trưng siêu thực.

Ở chương 2, chúng tôi đã nói đến sự ảnh hưởng của nền mĩ học phương Tây

thế ký XIX(Bôđơle) đối với “Trường thơ loạn" trong đó có Chế Lan Viên. Đó

là sự ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn, tượng trưng siêu thực trong thơ

Pháp thế kỷ XIX. Các nghệ sĩ siêu thực có xu hướng đi tìm cái cảm giác ngoài

cảm giác thực tại. Họ đi tìm tình cảm và cái đẹp chân chính của con người đích

102

thực. Nguyễn Tân Long ỉrong“Khuynh hướng thi ca” N/lững diều họ nghĩ,

những líiéu họ cảm giác phải vượt lên trên những suy tư, những cảm giác tầm

ilurừniỊ do sự đụn ÍỊ chạm với đời SÔIÌÍỊ xã hội loài người mà có. Họ cho rằng có

như th ế nghệ thuật mới trường tổn, còn nghệ thuật như là sản phẩm của xã hội

tliì luôn luôn thay đổi".“Khi tâm hồn họ dã thoát ra khỏi thực t ế thì những diều

họ nqhĩ, những gì họ nói không còn là sự thật, hoàn toàn lệ thuộc vào ấn tượng

trong Cíim giác liọ... Người nghệ sĩ siêu thực không th ể tìm ra cái dẹp trong xã

hội hiện hữu. Họ rời cái khung cảnh giá tạo và đi tìm cái dẹp trong th ế giới

riênẹ của /ỉọ”[35,551-552]. Do ảnh hưởng của phái tượng trưng siêu thực, đặc

hiệt là ảnh hưởng của Bôđơle khá rõ nên ngay từ Điêu tàn Chế Lan Viên đã

quan niệm thi sĩ không phải là người thường mà là người phi thường, là người

Mơ, người Say, người Điên. Vì vậy, ý tưởng của Chế Lan Viên trong Điêu tàn

cũng là những ý tưởng siêu thực thoát ra ngoài không gian và thời gian. Ở Điêu

tàn, dường như ta thấy một Chế Lan Viên thoát lốt, không còn là một người

dàn Việt nữa mà là một người Chiêm Thành, khóc thương cho giống dân Hời.

Thế giới hình ảnh trong Điêu tàn toàn là cõi âm, nấm mổ, oan hồn vất vưởng,

xương khô, huyệt tối, xác chết, đầu lâu...và những hình ảnh mang tầm vóc vũ

trụ: Trăng, sao, Ngân hà, cung quảng...Vì thế mà có người cho rằng Chế Lan

Viên là một người bị bệnh thần kinh, bệnh điên.

Theo thống kê của chúng tôi: Trong tổng số 36 bài thơ của tập Điêu tàn thì

có tới 31 bài nhà thơ miêu tả hình ảnh cõi âm, bóng đêm. Loại hình ảnh này

xuất hiện 136 lần; 8 bài miêu tả hình ảnh vũ trụ. Loại hình ảnh này xuất hiện

25 lần. Như vậy, loại hình ảnh miêu tả không gian cõi âm, bóng đêm xuất hiện

với tần số nhiều nhất. Những hình ảnh này là hiện thân của một quá khứ đau

buồn mà nhà thơ muốn lẩn trốn vào đó để quên đi thực tại.

Cả d ĩ vãng là chuỗi mồ vỏ tận

Cả tươn ÍỊ lai là chuỗi huyệt chưa thành

Và hiện tại, biết cùng chăng hỡi bạn

Cũng dương chôn lặn ẹ lẽ chuỗi ngày xanh

( A 'hững nấm m ổ - Điêu tàn).

103

Hiện thực trong thơ Chế Lan Viên ở Điêu tàn là hiện thực tưởng tượng, hiện

thực tâm trạng. Thế giới hình ảnh trong Điêu tàn là một thế giới siêu thực được

tạo bằng tướng tượng, bằng hư tưởng gủy ấn tượng kinh dị. Quá khứ nước

Chàm trong thơ ông trở thành một khách thể tưởng tượng để Chế Lan Viên thế

hiện tư tưởng siêu hình.

Ta s ẽ nhập khớp xương lên đỉnh sọ

Ta s ẽ ca những giọng của hồn nhiên

Đ ể máu cạn, hồn tan, tim tan vỡ

Đê trôi đi ngày tháng nặng lãi phiền.

( Đ iệu nhạc diên cu ồn g - Đ iêu tàn).

Loại liình ảnh miêu tả không gian cõi âm, bóng đêm được nhà thơ miêu tả chi

tiết, kỹ càng. Dường như, các hình ảnh được Chế Lan Viên thổi linh hổn vào

đó, chúng biết trò chuyện, đi đứng, nhớ thương giống như một con người đích

thực vậy.

- Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi

- Có tưởng lại mảnh hồn mi đau khổ

- Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn

( Điêu tàn).

Có lúc chúng hiện hình thành bóng ma, bóng nàng trên cỏ biếc vừa hư ảo,

vừa hiện hữu nét đẹp nữ tính“Swổĩ tóc dài". Nhưng hiển hiện đằng sau nét

duyên ấy là nỗi đau, nỗi sầu bi tha thiết. Đôi khi cõi âm hiện lên đồng loạt, một

thế giới đông đúc của hồn ma.

- Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi

- Muôn cô hồn tử sĩ í hét gầm vang

- Nliững chiêm nữ m ơ màng trong tiếng sáo...

- Mù tiêng cười ghê rợn dậy vang mồ

( Điêu tàn).

Chế Lan Viên miêu tả cõi âm bằng trí tưởng tượng bay bổng của một hồn

thơ trí tuệ, đặc biệt là từ quan điểm của‘7 'rườ/iq thơ loạn". Với họ, làm thơ là

104

làm sự phi thường. Thế giới của cõi âm, yêu ma, sọ dừa... chính là thế giới khác

thường. Hình ảnh vũ trụ cũng luôn ử trong một trạng thái không bình thường

như chính tâm hồn thi nhân vậy: Trăng điên, trãng lả tả, sao rơi, sao rụng...

Trong thơ Chế Lan Viên, hình ảnh tượng trưng siêu thực được coi như một sở

trường của nhà thơ. Cách tạo ra hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng của ông rất

đa dạng, linh hoạt, đặc sắc mang rõ dấu ấn, cảm xúc riêng của tác giả. Ta bắt

gặp những hình ảnh khái quát tượng trưng được đan cài, xen kẽ linh hoạt với

nhiều tầng bậc ý nghĩa, câu thơ giàu hàm ngôn.

Hãy nghĩ đến việc bìnlì thường này: Cái chết

Sau mỏm đá cuối cùng, nó đấy, trùng khơi

Cái cien thẳm lặng câm mà sóng vổ liên hồi.

( D i chúc của Người - H oa trước lãng Người).

Hình ánh cái chết- trùng khơi- cái đen thẳm lặng câm mà sóng vỗ liên hồi là

hình ảnh tượng trưng cho sự đe doạ khủng khiếp của vô cùng. Cách tạo hình

ảnh tượng trung trong thơ Chế Lan Viên cũng có khi lại trở thành ấn tượng.

Và Bác đã thắng tên khổng lồ điện tử

N hờ màu hồng ngọn cờ, sắc đỏ trái tim.

Ngọn cờ hồng, sắc đỏ trái tim tượng trưng cho ánh sáng của Đảng, của lý

urởng Cách mạng. Còn“khổng lồ điện từ ' ám chỉ Đ ế quốc Mỹ. Nhưng đây quả

là hình ảnh mới lạ, đặc sắc. Từ hình ảnh: Một trái tim hồng, một ngọn cờ hồng,

Chế Lan Viên đã khắc hoạ thành“ một viên gạch hồng” tượng trưng cho sự kiên

cường, bất chấp gian khổ, khó khăn của thế lực thù địch.

Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba lê

Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá.

( Người đ i tìm hình của nước - Á n h sán g và ph ù sa).

Nhiều trường hợp Chế Lan Viên sử dụng thành công hình ảnh tượng trưng,

nếu thiếu nó câu thơ sẽ giảm đi sức gợi cảm rất nhiều. Có dạng hình ảnh tượng

trưng để biểu đạt sự việc hiện tượng, một hoàn cảnh xu thế hoặc một trạng thái

cam xúc, tư tưởng tình cảm.

105

Anh tặng em yêu cliùm hoa sắc trắng

Nhưng khi yêu anh yêu dỏ hoa hồng

Tuổi năm mươi lòng yêu nliư lửa dỏ

Nhưng bên ngoài sắc vẫn irắng như không.

( H oa trắn g dỏ - H oa trén đá).

Bài thơ nói về tình yêu đàm thắm vào buổi hoàng hôn của tuổi đời. Nhưng cái

mãnh liệt của tình yêu lại được cụ thể hoá bằng hình ảnh “lòng yêu như lửa đỏ"

và tượng trưng ở “anh yên dó hoa hồn ạ". Quả là một sự tinh tế, tình ý không

đơn giản chút nào.

Có những dạng tưựng ỉrưng cho khái niệm, íư tưởng đầy sức thuyết phục và

hấp dẫn VỚI lối nói hình tượng.

Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng

Chớ ngồi trong phồng mà ăn bọt b ể anh ơi

Phải cám lấy ván bài nhân loại

Không đ ể dòng nước chảy trôi x u ô i.

Ta bắt gặp những mảnh suy tư triết lý thâm trầm nào đó qua hình ảnh tượng

trưng trong những bài thơ thời chống Mỹ, thể hiện được cái bản lĩnh của con

người Việt Nam: B úp lộc vừng, Vừa thấy môi hoa, N ội dung và hình thức,

Hoa gạo son, Từ đất đến bình, Thời gian không đợi, Rễ... hoa...“Một bông

hoa chợt n â \ một “chồi non lá nhỏ", “ một vùng hương bay”, từ rễ đến hoa là

sự chắt chiu đau đớn: “ Uống từng giọt nước dời quên. Ăn từng thớ đá dựng nên

sắc hổng" là sự bừng nở một sức xuân bất diệt Hoa trên đá. Sự xanh non của

cây đời chính là sự tuần hoàn vô tận của cuộc đời được gửi vào đó. Những suy

tư triết lý này gắn với tự nhiên nên rất gần với triết lý hồn nhiên của cội nguồn

văn học dân gian truyền thống.

Nhiều hình ảnh tượng trưng theo hướng triết luận với những sự kiện đời

thường có dáng vẻ bình dị: M ùa ve, Đ ề từ, Vũng tàu nhớ và quên, Người thợ

chạm, Kỷ niệm có gì... Đây là những bài thơ đậm màu triết lý dường như đã

đúc kết được những trải nghiệm về cuộc đời, về nghề làm thơ, cho ta nhận rõ

106

diện mạo, tài năng đích thực và cá tính sáng tạo của nhà thơ.

Những năm cuối đời, đặc biệt là trong Di cảo thơ, hình ảnh tượng trưng siêu

thực được nhà thơ sử dụng khá nhiều. Những hình ảnh: Tro bụi, huyệt tối, đáu

làu, đáy mổ,...Và những hình ảnh vũ trụ: Trăng, sao, dòng Ngân,... ta đã gặp ở

Điêu tàn giờ đây lại xuất hiện trong Di cảo thơ. Có lẽ, đây là lý do mà Nguyễn

Bá Thành cho ràng:“Di cảo mang dầy đủ dấu vết của Điêu tàn". Song ở Điêu

tàn, những hình ảnh này là hiện thân của quá khứ đau buồn đê nhà thơ lẩn trốn

thực tại thì ở Di cảo thơ, Chế Lan Viên nghĩ và viết nhiều về những vấn đề sâu

thẳm của cõi tâm linh. Nhà thơ triết lý về đời người, về số phận con người trong

vũ trụ, giữa dòng cháy của thời gian.

Có những hình ảnh ta bất gặp rất nhiều lần, vừa quen lại vừa lạ: Trang giấy,

riỵọn đèn, ngọc, hoa... Đặc biệt là hoa xuất hiện khá nhiều trong D i cảo thơ.

Theo thống kê của chúng tôi thì hoa xuất hiện tới 30 lần: Hoa quỳnh, hoa nhài,

hoa sen, hoa súng, hoa lau, hoa mai, bằng lăng, phượng đỏ, hoa hổng, hoa gạo,

hoa giấy, hoa sữa, hoa dẻ, hoa chạc chiu, Hoàng thảo hoa vàng... Cả hoa có tên

và hoa không tên với nhiều màu vẻ khác, hấp dẫn và cuốn hút kỳ lạ. Hoa làm

đẹp cho đời, đê lại vấn vương thương nhớ cho lòng người.

Đ ã hoa nhài trắng cỏn sen trắng

Mùa hè ơi, sao người khéo da tình

Đầy đường phượng đỏ, bằng lâng tím

( H o a trắn g • D i cáo thơ).

Hình ảnh “Hoa trên đá”, ‘'Hoa trên bê tông” là hình ảnh tượng trưng cho sự

kết tinh những giá trị lao động sáng tạo nghệ thuật, cho sức sống dẻo dai mãnh

liệt. Hoa chạc chiu là hiện thân của quá khứ dân dã miền Trung, hoa hải âu-

biểu tượng của một tình yêu thầm kín. Dường như với những loài hoa bình dị,

thôn dã: Hoa sen, súng, lau... Chế Lan Viên có một cảm tình rất đặc biệt. Có lẽ

nhà thơ tìm thấy ở đó sự đổng điệu, đồng cảm trong tâm hồn. Không phải ngẫu

nhiên mà Chế Lan Viên hay nhắc nhiều đến hoa sen. Không rực rỡ, chẳng kiêu

sa, sen lặng thầm một mùi hương dân dã dễ nhớ, khó quên.

Anh có cho tôi làm hoa sen không và trong lý lịch có bùn!

107

Tliân pliận niỊưiri mù ai chà cỏ bùn đen

Giết chết một mùi hươníỊ dễ thôi, cứ quậy bùn lên đ ể giết

Nhưng vượt lên bùn sen cứ ngát hương sen.

( H ương sen- D i cảo thơ III).

Phái chăng, Chế Lan Viên cũng là một đoá sen trong cuộc đời này? Loài hoa

dân dã, bình dị nhưng vẫn là loài hoa mà được nhiều người biết đến: “Vượt lên

bùn sen cứ ngát hương sen".

Trong Di cảo thơ, ta bắt gặp một loài hoa dường như bị lãng quên: Hoa lau.

Cái ngàn lau trắng‘V7ỉ/ trắng có một mình" “suốt một đời cùng gió giao tranh",

tưởng chừng nhu cô đơn, ngậm ngùi, nhưng lại có đức tính thuỷ chung, chịu

đựng cứ ám ảnh nhà ihơ da diết. Mồi khi nhắc đến ỉoài hoa này, dường như nhà

thơ có một mối hoài cảm, bâng khuâng, lan toả, dịu nhẹ, thấm thìa. Hình ảnh

cây lau gầy guộc, mong manh làm cho ta liên tưởng về kiếp người. Thật khó

mà quên được hình ảnh hoa lau với một nỗi đau nhức nhối:

Ôi hoa lau đường máu

Trắng làm chi anh buồn

Giá được màu hoa tím

Hẳn hồn nhẹ đau hơn.

( H oa lau đường 9 - D i cảo th ơ Ị ).

Cây lau có khi lại chính là hình ảnh tượng trưng cho cội nguồn, cho đời

thường dân dã mà nhà thơ khát khao được trở về:

Cho tôi vê với cành lau

Vàng vọ.

Về với con trâu nghé ọ

... Đ ã lảu không nghe hổn lau gọi nữa

... Hoa lau ở đâu?

Hồn lau ở đâu?

( C ờ lau Đ inh Bộ Lĩnh - D i cảo thơi).

Đời thơ Chế Lan Viên chẳng khác nào con trai làm ngọc. Đê làm được

những viên ngọc quý giá cho đời. con trai đã phải chịu sự lăng nhục của bùn

108

đen, sự thô bạo của thuỷ triều, sự dập vùi của sóng. Cũng như Chế Lan Viên,

trong những năm tháng cuối đời đã chạy dua với thời gian nước xiết, vượt lên

bệnh tật và cái chết để kết tinh nên những viên ngọc của đời mình, hình ảnh

viên ngọc tượng trưng cho sự kết tinh, chắt lọc những tinh hoa, tài năng và tâm

huyết của cả đời thơ, nghiệp thơ, đời người.

Mồi con trai nhả ngọc một làn thôi

Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót

Không như ta viên ngọc sau cùng, rồi lại làm viên tliứ nhất

Đấy là nổi đau và hạnh phúc của con người.

( Viên ngọc sau cùng - D i cảo thơ).

Hình ảnh bộ ba: Trang giấy- ngọn đèn - nhà thơ khi mờ, khi tỏ trên mỗi trang

Di cảo. Hình ảnh người nữ tử tù đan áo, người dệt thảm, người xâu kim, người

tìm trầm giữa ngàn cao lắm hổ...đều là sự hoá thân của nhà thơ Chế Lan Viên.

4.2.2. S ự liên kết giữa các hình ảnh thơ.

Chế Lan Viên là người có khả năng tổ chức, liên kết những hình ảnh thơ đậm

đặc suy tưởng, tầng tầng, lớp lớp tạo ra những hình ảnh liên kết chùm, liên kết

chuỗi, hình ảnh biểu tượng- tượng trưng, đặc biệt là loại hình ảnh ảo- thực...

Đây là các kiểu loại hình ảnh đặc trưng tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn.

Loại hình ảnh thực - ảo được kết hợp từ hai loại hình ảnh, đó là sự đan cài

giữa hư ảo và thực, tạo nên nét rất đặc trưng trong thơ Chế Lan Viên. Ở Á nh

sáng và phù sa, các bài thơ: Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi... là những

hình ảnh tạo hiệu quả nghệ thuật đặc sắc. Hình ảnh đầy màu sắc rực rỡ của

những con tàu: Con tàu trắng, con tàu hồng, con tàu đỏ, con tàu sắc biếc... biểu

hiện cho vẻ đẹp rực rỡ của một hải cảng. Màu sắc ở đây là màu thực và màu

tượng trưng hoà trộn hài hoà. Khi sử dụng những hình ảnh này, Chế Lan Viên

sử tiụns yếu tố hiện thực như một nhịp cầu nối, một chất liệu gián tiếp tạo sự

biến hoá tài tình của hình ảnh:

Đất nước gọi hay lònq ta gọi

Tình em dang moiiíỊ tình mẹ đang chờ

109

Tàu húy vổ giùm la đôi cánh vội

Mắt ta thèm mái HíỊÓi dỏ trăm ga.

( Tiếng hát con tàu - Á nh sáng và ph ù sa).

Trong những năm cuối đời, Chế Lan Viên thiên về suy tưởng, triết luận bằng

những hình ảnh trừu tượng, mông lung, hư ảo, khó nám bất, nhuốm màu siêu

thực. Có lẽ xuất phát từ quan niệm làm thư là có sự kết hợp hài hoà, nhuần

nhuyễn giữa tư duy ý và tư duy hình nên thơ Chế Lan Viên hiếm khi có loại

hình ảnh không chứa ý tưởng. Kể cả khi xây dựng những hình ảnh thực, Chế

Lan Viên cũng vươn tới một triết lý, một khái niệm, một ý tưởng nào đó. Nhà

thơ rất hay sử dụng yếu tố ẩn dụ tượng írưng theo kiểu trừu tượng hoá những

hình ảnh cụ thể, hư ảo hoá những hình ảnh chán thực, hữu hình vừa cụ thể hoá

những ý tưởng vốn trừu tượng khó diễn đạt, khó nắm bắt. Hình ảnh vồng ngực

căng đầy của người mẹ trẻ vừa là rất thực vừa là biểu tượng sống động của ý

thơ được mùa. Chú ễnh ương thực như ngoài đời, không hề cách điệu nhưng:

Một tiếng kêu quặn thắt

... Vang lên từ ruột đất

Làm trò trẻ con chơi.

Tiếng kêu của nó lại biến cái hình hài của nó thành một ý tưởng triết lý về

đời. Từ hình ảnh “nam nữ giao hoan” trôn nắp thạp và hình ảnh “xương người

chếrdư ới đáy thạp là triết lý về cuộc sống sẽ tuần hoàn(Thạp đồng Đào

Thinh).

Càng về cuối đời, Chế Lan Viên nghĩ và viết nhiều về những vấn đề sâu thẳm

của cõi tâm linh, đối diện với bản ngã, đối thoại với triết học, tôn giáo, siêu

hình, siêu thực. Ta bắt gặp ở Di cảo thơ một sự phức tạp, đa dạng, đan cài giữa

hoài nghi và tỉnh táo, giữa hư và thực trong hình ảnh thơ, tạo nên sự hư ảo,

mông lung, khó tưởng tượng, khó nắm bất, khó hiểu: Ong triết học, sen hư

tưởng, lá sen hổ, tro và lửa, Hoả Diệm Sơn, ngôi đền quên lãng, Bến Lú, sông

Tương, sóng luân hổi, bình đựng lệ, bình thời gian, cây quên lãng, biển lãng

quên, hoa hổng lãng quên, tháp Bay - on, xứ tuyết trắng, xứ cơm đen, vùng

quên, dâu môi son nhà thơ để lại, xứ không màu, muối cô đơn, cái cây truyền

110

kiếp, cháo bà tiên, cành huệ vô thức, môi hổng của tình yêu... Đây là những

hình ảnh mới lạ mang đậm tính triết học thể hiện khả năng sáng tạo độc đáo

của Chế Lan Viên.

Những cái hồ sen ây

Ta cỉđ đến đáu mủ

Chưa trưa nào th ế cả

Trong cuộc đời hai ta

(Sen hư tường - D i cảo thơ I).

Một hổ sen có thực mà lại không có, anh và em đã đến mà lại chưa đến bao

giò. Một khu vườn cỏ xanh anh và cm “ngồi dưới mộ! cày chín đỏ, định đưa tay

lèn hái trái dầy tay" nhưng lại không hái. Khu vườn đó, cái cây đó, trái quả đó

có mà không có, trái chín trong tầm tay mà lại không phải là trái chín. “Tuổi

thơ? Kiếp trước? Hay là cơn mơ?"(Di cảo thơ II).

Loại hình ảnh này do vô thức, tiềm thức, trực giác mang lại. Đó là triết lý

mang tính siêu hình. Loại hình ảnh này xuất hiện vào thời điểm cái tôi Chế Lan

Viên "m ơ cả trong khi tỉnh thức”. Xuất phát từ sự hoài nghi mang tính triết học,

Chế Lan Viên đặt nhiều hình ảnh thơ trong một thời gian, không gian đặc biệt

Cái chiều hư huyễn âỳ”(Và chiều thứ tư - Di cảo th ơ III). Nhà thơ xáo trộn

giữa bình minh và hoàng hôn, bóng tối với ánh sáng, đêm và ngày, cái không

nhìn thấy được và cái nhìn thấy được, tạo ra những màu sấc hư ảo, khó nắm

bắt. khó giải thích, cắt nghĩa. Chế Lan Viên dùng hoài nghi để “lộn trái”, xoay

tít cái hữu hình để tìm ra cái tàng ẩn, vô hình. Nhà thơ tìm thấy trong tro có lửa

và vươn tới cái bí ẩn hơn lửa và tro.

Lửa hoan lạc một giây

Tro cay đắng một mùa

( T r o và lửa -

Di cảo thơ III)

Chê Lan Viên phát hiện ra trong “sắc sen h o ' ẩn chứa “một môi sorìXTín

hiệu - Di cảo thơ II). Ông tô lên mình màu áo đỏ của người thiếu nữ:“vẽ người

bơi trong sóng thời gian như c a '(V ẽ cá- Di cảo thơ II). Chế Lan Viên dùng

hình ánh lưới, mắt lưới, tao lưới, bể May-a và bể đời để giải thích, cắt nghĩa:

111

Siêu hình, siêu thực chí là “một tao” một mắt lưới trong “cái lưới mênh mông

của thực” “cái bê May-a của đời" mà thôi (Di cảo thơ). Nhà thơ miệt mài đi

tìm hình hài cho những cái vô hình. Lạc vào ngôi đền Lãng Quên, ỏng đi tìm

cái bóng của mình, nhưng tìm đâu thấy, chỉ thấy bóng đen, bóng đêm. Phải

chăng, chính cái bóng đen, bóng đêm đầy ảo ảnh siêu thực kia là cái bóng thực

của ông mà ngôi đền Lãng Quên không xoá nổi? (Ngôi đền Lãng Quên - Di

cảo thơ II). Chế Lan Viên tìm cá hình hài cho số phận nhà thơ. Đó là hình ảnh

người xâu kim. Cái lỗ kim vô hình và sợi chỉ siêu hình kia chính là nghiệp dĩ

mà nhà thơ tự mang vào mình đê khổ đau và hạnh phúc.

Tav câm kim, tay cầm sợi chỉ

Vừư chạy vừa xâu không một phút dừng

Chạy một đời rụng hết cả thanh xuân

Kim run run vả chỉ rung rung.

( X ãu kim - D i cảo thơ / )

Và cứ như vậy, Chế Lan Viên đi tìm hình hài cho cả tình yêu, hạnh phúc, bản

ngã, nỗi đau, cái chết, tiếc nuối, biệt ly... tìm cả hình hài cho tôn giáo, triết học,

siêu thực, hiện sinh... tạo cho hình ảnh thơ phong phú, đa dạng và có phần hư

ảo mông lung trong suy tư nghiêng về triết luận.

Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều loại hình ảnh để biểu hiện một ý tưởng. Cũng

có khi một hình ảnh lại thể hiện rất nhiều ý tưởng. Chỉ một màu trắng của tuyết

thôi mà khi là bản ngã- cái bản ngã:

Đâu từ hồng hoang tiền sử

Bâng kliuâng mối tình đầu vũ trụ

Hoá thăn thành tuyết trắng.

( Tuyết 1- Di cảo thơ ỊII)

khi khác lại là:“Lò/ỉg yêu ngày chưa yêu/... Như tình yêu tan rồi/ Chỉ còn nổi

đau đọng lại"(Tuyết 2 - Di cảo thơ III) và có lúc lại trở thành:“Cấ/ tinh thần

trắng- người tình nhân lạnh"(Di cảo thơ III). Nếu thời Điêu tàn là cái bóng

đêm, màu đen đầy ma quái và cõi âm, thời Á nh sáng và phù sa là màu xanh

tươi của cuộc đời được hổi sinh thì đến I)i cảo thơ màu trắng lại là màu xuất

112

hiện với tần số nhiều, nhất là trong những bài thơ cuối đời của Chế Lan Viên.

Đó là màu “trắng tinh” của tuyết, “trắng ngời” của hoa Đại, “trắng muốt" của

Bạch liên, “bạt ngàn trắng” của ngàn lau, trắng như hư không, trong như thuý

tinh của“v////g quên", “xứ không màu", trắng hững hờ của “M ây lãng quên"...

Màu tráng là màu của sự thanh khiết và chứa nhiều hư ảo, bí ấn của cái tỏi trữ

tình Chế Lan Viên trong những năm cuối đời.

Trong Di cảo thơ, có nhiều ý tưởng cứ trở đi trở lại: Thời gian, bản ngã, nỗi

đau, cái chết... Mỗi ý tưởng lại được thể hiện bằng những hình ảnh thơ khác

nhau. Ý tưởng nỗi đau là hiện hữu được nhà thơ triển khai thành hình ảnh ẩn dụ

tượng trưng khác nhau: Hoa lau trắng, hoa súng tím, cây ven đường, tháp Bay-

on, con ngọc trai,... Từ nỗi đau của kiếp người, Chế Lan Viên khái quát và xây

dựng hình ảnh biểu tượng “Chiếc bình dựng lệ”(Bình đựng lệ- Di cảo th ơ ỉ).

Để nói về sự gắn bó của nhà thơ với cuộc đời, Chế Lan Viên dùng những hình

ảnh tượng trưng: Tấm thảm đa sắc của đời, sợi chỉ lòng anh, con chim trong

lổng, ngôi sao trong hồn... Có khi, nhà thơ được ví như con ong, con bói cá, con

tằm, con gõ kiến, con dã tràng có ích, con ngọc trai đáy bể...

Càng về cuối đời, Chế Lan Viên càng đi sâu vào những vấn đề hóc hiểm của

thơ nên hình ảnh thơ mang tính trừu tượng, khó hiểu hơn: Thơ là “Hoa sen cười

nửa miệng mà chân như không”, thi nhân “đi đôi hia hư thực”, “khoác áo triều

bào lấp lánh tuổi tên anh",... Ông sử dụng một loạt hình ảnh trừu tượng:

Ái pháp yêu tượng đá câm trong mộng

Hoặc là đắm say nhào lộn giữa đau thương

Vạn pháp rồi quy tôn...

. . . Hư vô và môi son

( Thỉ p h á p ịl) D i cảo th ơ III).

Đặc biệt là những hình ảnh ở bài Ấy(Di cáo thơ UI), bài thơ có dạng văn

xuôi, trộn lẫn hình ảnh hiện tại với hình ảnh ký ức, hình ảnh hiện thực với hình

ảnh ảo mộng, hình ảnh bí hiểm đến nỗi cố đọc thật kỹ, cố hình dung thật kỹ mà

113

đành bất lực.

Như vậy, sự liên kết giữa các hình ảnh Irong thơ Chế Lan Viên tạo nên một

thế giới hình ảnh vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Đó cũng chính là sự

đa dạng, phong phú và ngày càng phức tạp của cái tôi trữ tình trong thơ Chế

Lan Viên mang đậm dấu ấn tác giả.

4.3. G IỌ N G Đ IỆ U T H Ơ VỪA HÙNC, TRÁNG VỪA BI T H Ư Ơ N G .

Giọng điệu thơ là một phạm trù thẩm mĩ và cũng là dấu hiệu riêng của sự

sáng tạo ớ mỗi cá nhân nghệ sĩ. Giọng điệu thơ là âm hưởng chung, là cái hiện

hữu, xuyên suốt và luôn ngân vang tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt. Trong quá

trình sáng tác, mỗi nhà thơ tự tạo ra một giọng điệu mang phong cách riêng.

Nhưng cùng với sự chuyển biến trong thế giới tinh thẩn của cái tòi trữ tình,

giọng điệu cũng có những biến đổi nhất định.

Chế Lan Viên là nhà thơ có giọng điệu riêng biệt. Ở Điêu tàn là một giọng

điệu buồn. Những năm sau Cách mạng, về cơ bản là giọng điệu hùng biện,

tranh luận mang tư thế của một dân tộc đang chiến đấu và chiến thắng, say sưa

hùng tráng khi ca ngợi tổ quốc, đanh thép sắc nhọn khi tô' cáo tội ác của kẻ thù.

Về cuối đời lại là một giọng điệu bi thương, trầm buồn với nhiều sắc thái, cung

bậc khác nhau.

Giọng điệu chung của thơ Chế Lan Viên vể cơ bản là giọng điệu trữ tình-

chĩnh luận. Đó là giọng điệu của một cái tôi giàu cảm xúc, thiên về trí tuệ, đối

thoại, tranh luận, hùng biện, triết lý, đậm chất duy lý sắc sảo, giàu sắc thái tu

từ. ở phần này, chúng tôi chỉ khảo sát hai loại giọng điệu chính: Giọng điệu

hùng tráng và giọng điộu bi thương trong thơ Chế Lan Viên.

4.3.1. Giọng điệu hùng tráng mang tính sử thi.

Ớ Điêu tà n , ta bắt gặp một giọng điệu buồn đau ảo não pha màu sắc huyền

bí. Đó là giọng điệu khóc than cho đất nước Chiêm thành hoang tàn trong

tưởng tượng. Trong suốt chặng đường thơ từ 1945- 1975, đặc biệt là trong giai

đoạn chống Mỹ cứu nước, ở các tập thơ Hoa ngày thường - C him báo bão;

Đối thoại m ới và N hữ ng bài th ơ đánh giặc, thơ Chế Lan Viên hướng vào đời

114

sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại của dân tộc. Giọng điệu thơ

Chế Lan Viên thời kỳ này là giọng điệu hùng tráng hào sảng, ngợi ca tổ quốc,

nhân dân, lịch sử, thời đại, Đảng, Bác Hổ và luận tội kẻ thù xâm lược. Thời

chống Mỹ, nhà thơ đã đổi giọng điệu thơ từ “than” thành “hỏi” từ “hát” thành

nói .

Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói

Chỉ nói thôi mới nói hết dược đời.

Chê Lan Viên hiểu rằng thơ cũng cẩn “í/ôi' thoại”, cần “đập bàn quát tháo”,

thơ có tới“/?úT phần cho nhiệm vụ" nên không thể chỉ hát và cũng không thể

"nói hết được đời”. Vì vậy, từ giọng nói ấy, Chế Lan Viên tranh luận, suy

tưởng về những vấn đề lớn lao của dân tộc. Viết về đất nước và truyén thống

lịch sử những năm chống Mỹ, giọng thơ Chế Lan Viên rất hào hùng. Nhà thơ

mang đến cho người đọc một niềm tự hào, một niềm tin:

Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lẩn hơn

( T ổ quốc bao g iờ đẹp th ế này chăng?-H oa ngày thường, C h im báo bão)

Trong thơ Chế Lan Viên vang lên một giọng trầm lắng nhưng rất đỗi tự hào

của một dân tộc rạng ngời lịch sử, kiên cường bất khuất với sức sống mãnh liệt.

Viết về tổ quốc, về nhân dân, đất nước trong những năm tháng đau thương mà

anh dũng, gian khổ mà phơi phới niềm tin, thơ Chế Lan Viên là giọng hát

phóng khoáng đầy tráng khí. Dù ca ngợi tổ quốc trong hiện tại hay lấy cảm

hứng từ lịch sử, ca ngợi vẻ đẹp của con người hay vẻ đẹp của thiên nhiên...

giọng điệu thơ Chế Lan Viên lúc nào cũng là giọng điệu vui say, náo nức đầy

tự hào, kiêu hãnh(7)ọc đường, Vòng cườm trên cổ chim cu, Đi giữa mùa

xuân, Ngày vĩ đại, Thơ bổ sung...). Ngay trong cái chết, sự huỷ diệt, trong

máu và nước mất, Chế Lan Viên cũng tìm thấy vẻ đẹp kỳ diệu của sức sống

Việt Nam đê ca lên bài ca hồi sinh, bài ca bất tử. Ở những vần thơ như thế, âm

điệu hùng ca được cất lên với giọng điệu bi tráng (Anh ấy tên Đào, H ai giây,

Thống kè ở ga Yên Viên...). Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là

tiếng thét căm hờn với chất giọng đanh thép, có khi quát tháo, đay nghiến, chửi

115

rủa đã dội vào lòng người niềm căm phần cao độ (Đến trẻ con củng lưu đày

ư?Nước Mỹ; Pho, tên mẹ mìn của thẻ kỷ XX; Thần chiến thắng; Chuyện

chú hề lùn; Trách chi thằng lính trọc;...)

Đến Hoa trên đá, Ta gửi cho ttúnh và Di cảo thơ, giọng điệu thơ Chế Lan

Viên dần lắng kết, giảm đi khí vị hào hùng, giọng chính luận dần được thay thế

hàng chất suy tưởng. Ở những tập thơ sau này, Chế Lan Vicn vẫn trở lại với đề

tài chiến tranh, đất nước, lịch sử, nhân dân nhưng giọng thơ ngày càng trầm

láng với những suy tư, trăn trở thao thức.

4.3.2. Giọng điệu bi thương trầm buồn với nhiéu cung bậc.

Viết vế đất nước và truyền thống lịch sử, giọng điệu thơ Chế Lan Viên giai

đoạn 1945- 1975 là giọng điệu hùng tráng thì đến H oa trên đá, Ta gử i cho

m ình và D i cảo thơ, giọng thơ ông ngậm ngùi, bi thương, đau đớn, tủi hờn:

Chúng ta là con của mây cha tơ và sóng b ể mẹ ta từng ly biệt

Xoắn lòng ta như Loa thành tự buổi An Dương Vương

Mẹ Âu C ơ nghe lòng trong b ể động và b ể im- không tiếng sóng

Trăm trứng hồng của mẹ kia, trứng nào s ẽ thoát khỏi đau thương?

Ở đất nước ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt

Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc

Kiểm làm cho con rùa không th ể yên thân trong cuộc sống thường

Thơ chỉ sống một phần cho mình cỏn ba phần cho nhiệm vụ

N ghĩ mà thương.

(S ử - D i cảo th ơ II).

Nhữne trang sử đó đều là chuyện buồn của nhân tình thế thái, của lịch sử

dân tộc. Từ chuyện chia ly của Lạc Long Quân và Âu Cơ, chuyện về bài học

mất nước của An Dương Vương, về thân phận của những người anh hùng mà

cuộc đời họ trở thành những trang huyền thoại, những sự kiện có liên quan đến

chông giặc ngoại xâm... tất cả đều phải trả bằng một cái giá rất đắt, đều trở

thành những bi kịch đau thương. Không còn là giọng điệu hào hùng, sảng

116

khoái mà thay vào đó là giọng điệu sầu bi tha thiết. Sự đổi giọng điệu của ông

rất rõ. Nếu như lần thứ nhất nhà thơ đổi từ “than” thành“//o7” từ “hát” thành

"nói" thời chống Mỹ thì giai đoạn cuối đời ông viết:

Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm

Tiếng hát lẫn với im lìm của đất

...Còn lum anh rồ giọng hát vang ngân

( Giọng trầm - Di cảo thơ).

Giọng trầm buồn đã trở thành âm hưởng chính trong thơ Chế Lan Viên từ

cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980. Từ tư thế đối thoại với những

vấn đề lớn lao mang tính thời sự, thời đại, nhà thơ chủ động chuyển tư thế và

chuyển cả tam thế. Ông trở về với cuộc đời phức tạp để độc thoại, đối thoại nội

tâm, tâm sự, giãi bày, suy tư, triết luận, ở tập H oa trên đá , thơ ông có giọng

điệu trầm ấm, lắng đọng và thanh thoát. Đến tập thơ Ta gửi cho mình, nhiều

bài thơ của ông đã xuất hiện giọng điệu trầm buồn man mác khi chạm đến

những vấn đề nhân sinh- thế sự. Đối diện với thực tại nghiệt ngã, thơ Chế Lan

Viên có giọng điệu trầm, buồn đau, chua xót, nhiều khi khổng khóc được mà

cười với tiếng cười mỉa mai, châm biếm đầy nước mắt. Càng đi sâu vào cõi tâm

linh, giọng điệu thơ Chế Lan Viên càng có nhiều bí ẩn: Khi là giọng trầm hoài

nghi, hoang mang, lúc là giọng trầm an nhiên siêu thoát...v ề cuối đời, giọng

điệu thư Chế Lan Viên biểu hiện một cõi lòng không mấy yên ổn. Trong các

tập Di cảo thơ, ta bắt gặp một giọng điệu ảm đạm buồn. Nhà thơ buồn vì biết

quỹ thời gian của mình trên trái đất đã sắp hết, buồn vì phải đối mặt với bệnh

tật, ốm đau và cái chết:

Ta trên đường đi đến lò thiêu

Cuộc hành trình nhẩn nha mà gấp gáp.

Vội gì than: ‘‘Cuộc đời như gió bay v è o ”

( D i cảo thơ tr.214).

Giọng thơ ở đây đã là than thở. Ta bắt gặp giọng điệu này trong rất nhiều bài

thơ: Vê xứ trắng đen, Mùa thu quân, Đoạn cuối thê kỷ, Chuyên xe, Đẻ lại,

117

Con nhặng xanh... Câu thơ mang nhiều ngữ điệu khác nhau: Cảm thán, nghi

vấn, trào phúng... Có những lúc, ta lại bắt gập giọng điệu thơ mang khí vị mỉa

mai, chua chát, có lúc là tiếng cười gằn “như mảnh vỡ thuỷ tinh"(Nhà không

trần, Mô đéc, BỊ lừa, M ất giá, Cuội...), đôi khi lại là tiếng cười chua chát

mang vị đáng{lA m sao anh thoát ly được nó, c ả n h điên viên, Thời thượng,

Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh, Lộn trái...).

Đối diện với cuộc đời cũng chính là đối diện với nỗi đau của con người trong

đó có nỗi đau của riêng mình. Giọng điệu Chế Lan Viên hạ xuống cung bậc

thấp nhất của giọng trầm, dường như chỉ còn nghe những tiếng vang từ một cõi

sàư thảm tiong đáy lòng. Có lúc, nhà thơ tự hình dung ra một đối tượng thứ hai

mang tính xác định để tâm sự, giãi bày. Nguyễn Du, Trạng Thông, Hămlét, mẹ,

chị Ba... đôi khi chỉ để “trút x a \ “giải toa" mà thôi. Vì thế, câu thơ xuất hiện

nhiều từ nghi vấn, từ cảm thán, câu nghi vấn, câu cảm ỉhán( chả ai nhớ/ mà đâu

được gì?/ dâu biết cho rằng/ sao cứ phái?! buồn làm chi?/ lên cao làm chi?...).

Mẹ đâu biết cho rằng:

Hoa tôi hái trên trời

Cũng chính là nước mắt

Dưới xa kia...

( Tìm dường - D i cảo th ơ i) .

Ta bát gặp giọng điệu thơ trầm buồn, đau đớn, xót xa ở trong các bài thơ:

Tháp Bay-on bốn m ặt, Vọng phu, Người m ai sau, B ình đựng lệ, H oa súng,

Tìm đường, Sử... Nếu thời chống Mỹ, ‘Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ/

Bên nliững ílũng s ĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi” với giọng điệu

hùng biện, đanh thép thì đến Di cảo thơ, ta lại thấy giọng điệu thơ Chế Lan

Viên như hờn dỗi, trách móc:“Vị trí nhà thơ như rác đ ổ thùng". Có những lúc

Chế Lan Viên tự nhận mình ỉầ“Tliáp Bay-orì\ có lúc lại là con nghé ọ “cớ cặp

sừng bỡ ngỡ, chiều buồn không biết cọ vào đáu?". Đọc câu thơ, chúng ta cảm

thấy thương ông hơn bởi giọng điệu thơ của ông có cái buồn đau vì bất lực.

Về cuối đời, Chế Lan Viên đi sâu vào những vấn đề phức tạp mang tính triết

học, tôn giáo hướng người đọc vào một thế giới mông lung, trừu tượng bằng

118

những hình ảnh bí hiểm(.ví'w mục 4.2- chương 4). Câu thơ mang ngữ điệu nghi

vấn xuất hiện với nhiều sắc thái khác nhau: Hoài nghi (ở trong hồn ai dó ném

thìa lia? ì, khẳng định đầy xót xa (là ta dấy mà ai có biết dâu?), tự dằn vặt

mình(7l/ chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người dó?), ngơ ngác tiếc nuối (Hoa

lau ở (lâu? Hồn lau ở đâu?), đau khổ vì người đời không hiểu mình(Cò// nỗi

buồn lioa súng tím biết cho đâu?)...

Tóm lại, giọng điệu thơ là âm hưởng chung được tạo ra từ giọng điệu tâm

hồn. Sự chuyển biến giọng điệu trong thơ Chế Lan viên chính là sự chuyên biến

điệu hổn nhà thơ. Đây chính là yếu tố hình thức mang tính chủ quan, bao quát

nhất, biếu hiện sự chuyên biến của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau

Cách mạng 1945, cũng là một trong những yếu tố làm nên một phong cách thơ,

119

một cá tính sáng tạo độc đáo, khó trộn lẫn.

KẾT LUẬN.

1 .Thư trữ tình là một thế giới chủ quan vô cùng đa dạng, phong phú. Ở thơ trữ

tình, có thê tiếp cận từ hình tượng chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình hoặc hình

tượng tác giả. Đặc trưng bản chất của thơ trữ tình là cái tôi trữ tình.Tiếp cận thơ

trữ tình từ góc độ cái tôi trữ tình là một hướng tiếp cận mang tính hệ thống,

toàn diện phù hợp với đặc trưng, bản chất thể loại.

Nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên, chúng ta thêm hiếu về

nhà thơ- một con người có thế giới nội tâm vô cùng phong phú và sâu sắc. Cái

tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có sự vận động tiêu biểu, điển hình trong sự

vận động chung của thơ trữ tình Việt Nam.

2. Cách mạng tháng Tám 1945 là một cuộc thay đổi lớn trong lịch sử đem đến

cho thơ Chế Lan Viên một hướng đi mới. Từ một cái tôi cô đơn, cái tôi hiệp sĩ

mang tính siêu hình chỉ biết khóc than, Chế Lan Viên đã hoà nhập với không

khí thời đại mới và mấy năm sau đó thì cất tiếng hát. Cái tôi trữ tình Chế Lan

Viên đã hoà nhập làm một với cái ta chung rộng lớn, nói tiếng nói của lịch sử,

nhân danh đất nước, dân tộc đối thoại với kẻ thù, ngợi ca tổ quốc, nhân dân ,

lịch sử, Đảng, Bác Hổ... Nhưng cái tôi ấy cũng không quên tìm đến những phút

bình yên trong chiến tranh để tạo thế cân bằng trong đời sống tinh thần. Thơ

Chế Lan Viên vẫn thấp thoáng một cái tôi đời thường nhẹ nhàng, yên tĩnh bên

cạnh một cái tôi luôn sục sôi nóng bỏng. Dường như không còn một chút riêng

tư, thầm kín nào tách ra khỏi cái chung.

Giai đoạn cuối đời, trong thơ Chế Lan Viên đã định hình một cái tôi mang

diện mạo mới, một cái tôi hết sức đa dạng, phức tạp: Cái tôi đa cảm, hoài nghi

và bi quan. Trên hành trình tìm lại chính mình, cái tôi ấy có nhu cầu được là

mình, sống thành thật với mình, mong muốn được đối thoại, giãi bày với chính

mình, với mọi người, tự đánh giá, phán xét, ăn năn, sám hối, mong ước, khát

khao... Quả là một cái tôi đa hướng: Vừa tích cực hướng nội(hướng vào thế giới

nội tàm đa dạng, bí ẩn) vừa tích cực hướng ngoại(hướng đến nhân sinh thế sự)

với tất cả tấm lòng nhiệt tâm và thành thực. Cái tôi ấy cũng có lúc buồn đau,

120

chua xót, bi quan. Song, ân tượng nổi bật vẫn là một cái tôi đầy nghị lực, bản

lĩnh, có khát vọng sống, khát vọng sáng tạo mãnh liệt, sống tận trung, tận hiến

với tư cách một triết nhân, một nhà thơ.

Càng về cuối đời, gương mặt của cái tôi trữ tình Chế Lan Viên càng đa diện

và chứa nhiều bí ẩn.

3.Sự đa dạng, phong phú của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên từ sau

Cách mạng tháng Tám 1945 là biểu hiện một cá tính sáng tạo độc đáo mang

phong cách riêng, trên cơ sở những quan niệm sâu sắc về hình thức thơ và kiểu

tư duy tho đặc sắc. Nét nổi bật là sự thay đổi giọng điệu thơ: Từ giọng cao

xuống giọng trầm; từ giọng điệu hùng tráng mang tính sử thi sang giọng điệu

bi thương trầm buồn với nhiều cung bậc khác nhau. Tuy có sự thay đổi về

giọng điệu thơ qua các thời kỳ nhưng giọng điệu chủ yếu mang tính ổn định là

giọng điệu trữ tình- chính luận- triết luận. Đây cũng chính là giọng điệu tâm

hổn của một cái tôi giàu cảm xúc, thiên về trí tuệ. Nổi bật nhất ở hình thức

nghệ thuật thơ Chế Lan Viên là hình ảnh thơ đa dạng với nhiều đặc tính khác

nhau. Hình ảnh tượng trưng siêu thực được làm phương tiện biểu hiện như một

sở trường đặc sắc từ Điêu tàn đến D i cảo thơ. Đặc biệt là sự liên kết giữa các

hình ảnh thơ tạo sự đa dạng, phong phú, mới lạ đậm chất trí tuệ của một cái tôi

tài hoa, uyên bác. Nhưng càng về cuối đời có xu hướng trừu tượng, kỳ bí, khó

hiểu. Đây là sản phẩm của lối tư duy thơ(tư duy ý và tư duy hình) tạo nên một

phong cách thơ, một cá tính sáng tạo độc đáo.

4.Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên tiêu biểu cho sự

vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam. Ở thời nào cũng vậy, cái tôi

trữ tình Chế Lan Viên vừa mang tinh thần thời đại, vừa rất riêng, rất độc đáo.

Bằng sự sắc sảo của trí tuệ, độ sâu của suy tư, độ lắng đọng của cảm xúc, cái

tôi trữ tình Chế Lan Viên đã tự ý thức, tự biểu hiện bằng một tiếng thơ mang

phong cách của một triết nhân. Ớ chặng nào Chế Lan Viên cũng nổi lên như

một người đi tiên phong, không ngừng tìm tòi, sáng tạo, đổi mới.

5. Đã hơn mười lăm năm trôi qua, kể từ khi Chế Lan Viên đi vào “vùng

121

quên”, về với “ v/r khỏnạ màu", nhưng những người yêu mến thơ ông tưởng

chừng như ông vẫn còn đâu đó trong hạt sương, trong đá, trong ngọn cỏ mùa

xuân đến tiết lại chổi lên:

Anh tồn tại mãi

Kliông bằng tuổi tên, mủ như tro bụi

Nliư ngọn cỏ tàn đến tiết lại chổi lên.

( T ừ t h ế chi ca I ).

122

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1.Vũ Tuấn A nh. Nửa th ế kỷ thơ ca Việt Nam 1945-1995. Nxb KHXH 1997.

2.VÙ Tuấn Anh.Clìê Lan Viên, nhà thơ Việt Nam hiện dại. Nxb KHXH,

H N J9 8 4

3. Aistote. Nghệ tliuật thơ ca. Nxb Văn hoá nghệ thuật, HN, 1964.

4. M .Arnauđôp. Tàm lý học sáng tạo vãn học. Nxb Văn hoá, HN,1978.

5. M .Bakhtine. Lý luận và thỉ pliáp tiểu thuyết. Trường viết văn Nguyễn Du,

HN, 1992.

6. Thu Giang -Nguyễn Duy cầ n . Phật học tinh hoa.s, Khai Trí 1965.

7. Phan C ự Đệ. Phong trào thơ mới. Nxb Vãn học, HN, 1982.

8. B ù i Văn N guyên - H à M inh Đức. Thơ ca Việt Nam. ( hình thức và thể loại),

Nxb KHXH,HN, 1971.

9. Hà M inh Đ ức.Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện dại.Nxb KHXH,

HN, 1974.

10. H ổ T h ế Hà. Tìm trong trang viết. Nxb Thuận hoá, Huế, 1997.

11. T ế H anh. Đọc Hoa trên đá và ánh trăng.v N số 15- 12/4 /1986.

12. Hê ghen. M ỹ học, những văn bản chọn lọc. Nxb KHXH 1996.

13. Lưu Hiệp. Văn tâm điêu long. Văn học nước ngoài, Nxb Hội nhà văn số 3

năm 1996.

14. Khrapchenkô. Cú tính sáng tạo nhà văn và sự phát triển văn học. Nxb Tác

phẩm mới, HN, 1978.

15. Lẻ Đình Ky. Đường vào thơ. Nxb Văn học, HN 1969.

16. Lê Đình Ky. Trí tuệ, tài năng, tâm lìồn(Đọc Di cảo thơ của Chế Lan Viên).

Tạp chí văn học số 9, 1997.

17. M ã Giang Lán. Tìm hiểu thơ. Nxb văn hoá thông tin, HN, 2000.

18. Lêonchiep A.N. Vấn đề cá nhàn trên những mặt triết học và tâm lý học. Tư

liệu viện thông tin KHXH.

19. N guyễn Văn Long - Ché Lan Viên (Văn học Việt N am 1945- 1975, T2)

123

NxbGD . HN.1990.

20. Nguyền Văn Long. C h ế Lan Viên, một ngọn tháp trên cánh đồng ihoịđề

tài: Phong cách nghệ thuật của một số nhà văn tiêu biểu trong nền vãn học

HĐVN) Tài liệu ĐHSPHN, 2000.

21. N guyễn Vãn Long (Tuyển chọn và biên soạn). Chê Lan Viên, Nhà văn

trong Iihủ trường. Nxb GD.

22. Phương Lựu... Lý luận văn /ỉợf(T.I,II,III,).Nxb GD,HN,1986, 1987, 1988.

23. Phương Lựu...Tinh hoa lý luận văn học cồ Trung Quốc. NxbGD,HN,

1989.

24. Phương Lựu. Tìm hiểu lý luận phương Tây hiện đại. Nxb Văn học.HN,

1995.

25. N guyền Đ ăng M ạnh. Con dường di vào th ể giới nghệ thuật của nhà văn

NxbGD , HN, 1994.

26. N guyễn Đ ãng M ạnh. Nhà văn Việt Nam hiện dại, chân dung và phong

cách. Nxb Trẻ TPHCM , 2000.

27. N guyễn X uân Nam. Lời giới thiệu C h ế Lan Viên, tuyển tập, tập I,II.Nxb

Văn học, HN, 1985, 1990.

28. N guyễn X uân Nam. Đ ọ c“Hoa trên đ á ” của C h ế Lan Viên. Báo văn nghệ

số 13, tháng 3/1985.

29 N guyễn X uân Nam. Thơ tứ tuyệt của Cliê' Lan Viên. Báo văn nghệ số 14,

16/4/1991.

30. Nguyễn X uân Nam. Thơ, lìm hiểu và thưởng thức. Nxb Tác phẩm mới,

HN, 1985.

31. N guyễn X uân Nam. Đ ọc"D i cảo th ơ ’’của C h ế Lơn Viên. Báo nhân dân

chủ nhật số 8, 21/2/1993.

32. N guyễn X uân Nam.(Giới thiệu, tuyển chọn, bình chú) T hơ C h ế Lan Viên

N xbG D , HN,1993.

33. N hiều tác gia. C h ế Lan Viên, về tác gia tác phẩm .(Vũ Tuấn Anh tuyển

124

chọn và giới thiệu) Nxb GD.2000.

34. N hiều tác gid. Cliê Lan Viên, người lùm vườn vĩnh cửu.Nxb Hội nhà vãn.

HN, 1985

35. N hiều tác giả. Đến vái tlìơ C h ế Lan Viên (Ngô Viết Dinh tuyển chọn và

giới thiệu). Nxb Thanh niên.

36. N hiều tác giả. Lịch sử triết học. Nxb Tư tưởng văn hoá. HN, 1991 (T I ) 1992

(T2,3).

37. N hiêu tác giả. T hơV ỉệt Nam 1945-1985. Nxb GD,HN, 1985 .

38. N hiêu tác giả. Từ điển văn h ọ c (l n ).Nxb KHXH, HN, 1983, 1984

39. N hiều tác giả. Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb ĐHQG HN, 1997.

40. N hiều tác giả. Từ điển triết học. Nxb Tiến bộ Maxcơva, 1986.

41. N hiều tác giả. Từ trong di sản. Nxb Tác phẩm mới, HN, 1981.

42. Lê Lưu Oanh. Thơ trữ tình Việt Nam 1975- 1990. Nxb ĐHQG HN, 1996.

43. Vũ Q uần Phương. “Hoa trên đá ” một khía cạnh trữ tình trong thơ Chê

Lan Viên. Báo nhân dân, 26/5/ 1985.

44. Trần Đ ình sử . Lý luận và phê bình văn học. Nxb Hội nhà văn, HN, 1992.

45. Trần Đ ỉnh sử . Cái tôi và hình tượng trữ tình. Báo văn nghệ số 19, 8/5/

1993.

46. Trần Đ ình sử . Thi pháp thơ T ốH ữ u. Nxb Tác phẩm mới, HN, 1987.

47. H oài T hanh - H oài Chân. Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn học, HN, 1988.

48. N guyễn Bá Thành. Thơ C h ế Lan Viên với phong cách suy tưởng. Nxb GD,

HN, 1999.

49. N guyễn Bá Thành. Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam. Nxb Văn

học. HN, 1996.

50. N guyễn Đ ình Thi. Mấy vấn đề văn học. Nxb văn hoá, HN, 1958.

51. Hàn M ặc Tủ. Tuyển tập . Nxb Văn học, HN, 1987.

52. Chẻ Lan Viên. Điêu tàn. (Thơ), Nxb Hội nhà văn, HN, 1995.

53. Chè Lan Viên. Gửi các anh (Thơ), Nxh Vãn nghệ, HN, 1955.

125

54. Chê Lan Viên. Ánli sá MỊ và phù sa (Thơ), Nxb Văn học, HN, 1960.

55. C h ế Lan Viên. Hoa ngày thường - Chim báo bão(Thơ). Nxb Văn học, HN,

1 9 6 5 .

56. C hẻ Lan Viên. Những bài thơ đánh g/ạc(Thơ). NxbThanh niên, HN, 1972.

57. C hẻ Lan Viên. Đối thoại mới (Thơ). Nxb Văn học, HN, 1973.

58. C h ế I m ìi Viên. Hoa trước lâng Người (Thơ). Nxb Thanh niên, HN, 1977.

59. C h ế Lan Viên. Hái theo mùa (Thơ). Nxb Tác phẩm mới, HN, 1977.

60. C h ế Lan Viên. Hoa trên đá (Thơ). Nxb Văn học, HN,1984.

61. C h ế Lan Viên. Ta gỉrì cho mình (Thơ). Nxb Vãn học, HN, 1986.

62. Chê ỈMtĩ Viên. Phê bình văn học. Nxb Văn học, HN, 1962.

63. C h ế Lan Viên. Suy nghĩ và bình luận. Nxb Văn học, HN, 1971.

64. C hê Lan Viên. N ghĩ cạnh dòng thơ. Nxb Văn học, HN, 1981.

65. C h ế Lan Viên. Di cảo th ơ i. Nxb Thuận hoá, Huế, 1992.

66. C h ế Lan Viên. Di cảo thơ II. Nxb Thuận hoá, Huế, 1993.

67. C h ế Lan Viên. Di cảo thơ III. Nxb Thuận hoá, Huế, 1996.

68. Chê Lan Viên. Tuyển tập, tập Ị. Nxb Văn học, HN, 1985.

69. Chẻ ỈMti Viên. Tuyển tập, tập II. Nxb Văn học, HN, 1990.

70. Viện văn học. Nhà thơ Việt Nam hiện đại.Nxb KHXH, HN, 1984.

71 .Bằng Việt. Nhân vật trữ tình trong thơ của chúng ta. Tạp chí văn học số

5/1980.

72. M ai H ương - T hanh V7ệf(Tuyển chọn và biên soạn). Thơ C h ế Lan Viên-

Những lời bình. Nxb Văn hoá thông tin.

73. Vưgôtxki. Tâm lý học nghệ thuật. Nxb KHXH, Trường viết văn Nguyễn

126

Du, HN, 1995.