ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐỖ THỊ HỒNG VÂN
CẢM QUAN HIỆN THỰC
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên - Năm 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐỖ THỊ HỒNG VÂN
CẢM QUAN HIỆN THỰC
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Mai Thị Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên - Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Mai Thị Nhung.
Nội dung đề tài nghiên cứu của luận văn chưa được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đỗ Thị Hồng Vân
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...........................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 14
CHƢƠNG 1. NHÀ VĂN TÔ HOÀI VÀ NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN
CẢM QUAN HIỆN THỰC CỦA TÁC GIẢ ............................................... 14
1.1. Nhà văn Tô Hoài.................................................................................. 14
1.2. Những yếu tố tạo nên cảm quan hiện thực của Tô Hoài ................. 18
1.2.1. Khái niệm cảm quan hiện thực ...................................................... 18
1.2.2. Những phương diện thể hiện cảm quan hiện thực của Tô Hoài ... 19
1.2.2.1. Cảm quan nhân bản đời thường về con người ...................... 19
1.2.2.2. Cảm quan về xã hội qua cảnh sinh hoạt, phong tục ............... 23
1.2.2.3. Cảm quan sinh hoạt phong tục về loài vật .............................. 25
1.2.2.4. Cảm quan thiên nhiên bình dị mang màu sắc tự nhiên,
khách quan ........................................................................................... 27
1.3. Những yếu tố tạo nên cảm quan hiện thực về Hà Nội trong hành
trình sáng tạo của Tô Hoài ........................................................................ 29
1.3.1. Tình yêu Hà Nội cháy bỏng và mãnh liệt ...................................... 29
1.3.2. Nhãn quan phong tục đặc biệt ........................................................ 33
CHƯƠNG 2 CẢM QUAN VỀ XÃ HỘI, CON NGƯỜI VÀ PHONG TỤC
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI ....................................... 39
2.1. Cảm quan về xã hội ............................................................................. 39
2.1.1. Hà Nội với những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống .................. 39
2.1.2. Hà Nội trong sự phồn tạp của nhiều giá trị văn hóa ...................... 42
2.2. Cảm quan về con ngƣời ...................................................................... 43
2.2.1. Con người Hà Nội trong nét đẹp văn hoá truyền thống ................. 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2.2. Con người đời thường với những tính cách và số phận đa đoan ... 47
2.2.2.1. Khám phá con người Hà Nội từ cảm quan hiện thực đời
thường, phát hiện những tính cách đa dạng… ..................................... 47
2.2.2.2. Những số phận đa đoan .......................................................... 50
2.3. Cảm quan về phong tục trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài ..... 57
2.3.1. Hà Nội với những nét phong tục đẹp ............................................. 57
2.3.1.1. Hà Nội với những nét đẹp của lễ hội hay sự tôn vinh những
giá trị tinh thần ..................................................................................... 57
2.3.1.2. Trang phục và thú chơi của một thời xưa cũ .......................... 60
2.3.2. Hà Nội với những hủ tục lạc hậu ấu trĩ .......................................... 67
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM QUAN HIỆN THỰC
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI ....................................... 70
3.1. Ngƣời kể chuyện biết lắng nghe trầm tích văn hóa từ những
chuyện đời thƣờng ...................................................................................... 70
3.2. Ngôn ngữ tự nhiên, có sự pha trộn nhiều màu sắc .......................... 78
3.3. Sự phong phú của không gian nghệ thuật ........................................ 84
3.3.1. Phát hiện miền không gian mới, hé lộ những cuộc đời dễ bị lãng
quên của Hà Nội phồn hoa ....................................................................... 85
3.3.2. Không gian nghệ thuật có sự tương phản, sự đối chiếu giữa quá
khứ và hiện tại .......................................................................................... 88
3.4.Chi tiết đắt giá - một thế mạnh của bút kí Tô Hoài .......................... 90
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 100
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tô Hoài là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam
hiện đại. Sớm nổi tiếng trên văn đàn và giữ vững được phong độ qua thử
thách nghiệt ngã của thời gian, cho đến nay, ông là một trong số ít những nhà
văn lão thành vẫn đang có những đóng góp cho nền văn học nước nhà thời
đương đại. Sự nghiệp của ông đồ sộ về khối lượng, phong phú về thể loại và
đa dạng về phong cách. Với hơn 160 đầu sách, hàng ngàn bài báo và tiểu
luận, Tô Hoài có mặt ở hầu hết ở các thể loại của văn xuôi từ tiểu thuyết,
truyện ngắn, truyện dài đến hồi ký, bút kí, chân dung văn học. Ông cũng có
nhiều tác phẩm đạt giải thưởng như: Truyện Tây Bắc - giải nhất tiểu thuyết
của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1956, Miền Tây - giải thưởng Hội Nhà văn
Á – Phi năm 1970, Quê nhà - Giải A giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm
1980, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996. Có thể nói, Tô Hoài có ảnh
hưởng khá lớn đến những người viết văn xuôi của thế hệ sau. Ngay bản thân
những bạn văn nổi tiếng và khó tính của Tô Hoài cũng phải ghi nhận sự
chuyên nghiệp và quyết liệt của ngòi bút Tô Hoài: “Cung cách của Tô Hoài là
cung cách của nhà văn lớn – mặc dầu Xuân Diệu thường ít khen ai – lớn thì
phải có tác phẩm nhiều tất nhiên cả về số lượng và chất lượng. Tô Hoài đạt cả
hai tiêu chuẩn đó. Có người viết rất giỏi nhưng chưa lớn, vì tác phẩm quá ít.
Có thể đó là nhà văn tài hoa, nhà văn nổi tiếng nhưng chưa gọi là lớn”. Nhà
văn Nguyễn Tuân khẳng định: “Tô Hoài là một người có ý chí mạnh mẽ, đã
viết cái gì thì không chịu bỏ dở, viết kỳ được mới thôi. Xem ra tác phẩm của
anh ta tính theo đầu sách thì vô địch nhất nước đấy!” [6; 29].
Trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội có
một vai trò quan trọng. Tác phẩm này đã được Uỷ ban Nhân dân thành phố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hà Nội tặng giải thưởng Thăng Long năm 1997-1998 và được coi là một tập
kí sự đặc biệt có giá trị về Hà Nội trong khoảng chục năm trở lại đây. Nhắc
đến những trang sách viết về Hà Nội, không thể thiếu Chuyện cũ Hà Nội của
nhà văn Tô Hoài. Đúng là chuyện cũ, chuyện của những ngày tháng thuộc địa
với cái đời sống mệt mỏi, song không nhạt hay lạc lõng đối với bạn đọc thế hệ
hôm nay. Bởi nó không chỉ là một tập ký sự mà còn được đánh giá như một
cuốn biên khảo về văn hóa, phong tục tập quán, hội hè đình đám và thậm chí
như một công trình nghiên cứu về xã hội học. Tác phẩm được coi là một Vũ
trung tùy bút thời hiện đại, bởi với tư cách một chứng nhân, Tô Hoài đã ghi
lại “muôn mặt đời thường” của Hà Nội thời thuộc Tây, một quá khứ tuy
không quá xa nhưng cũng khiến người đọc phải ngỡ ngàng, lạ lẫm.
Sức hấp dẫn của cảm quan hiện thực độc đáo trong sáng tác của Tô
Hoài nói chung và cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội nói riêng đã
thôi thúc người viết lựa chọn đề tài Cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà
Nội của Tô Hoài. Thiết nghĩ, khảo sát tác phẩm này, trên cơ sở khám phá cảm
quan hiện thực của nhà văn là một việc làm cần thiết để góp phần định vị giá
trị của tác phẩm và làm rõ hơn bản sắc văn chương của một cây bút giàu nội
lực của nền văn học hiện đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về tác giả Tô Hoài và cảm quan hiện thực trong
sáng tác của nhà văn
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của Tô
Hoài, trong đó, cảm quan hiện thực của tác giả là khía cạnh thu hút nhiều nhà
nghiên cứu. GS Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Tô Hoài với quan niệm
"con người là con người " đã khẳng định: "Tô Hoài quan niệm con người là
con người, chỉ là con người, thế thôi". Vì thế, nhân vật của ông được khai
thác "toàn chuyện đời tư, đời thường". Ngay cả nhân vật cách mạng, nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
anh hùng của ông thường ít được lý tưởng hoá. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Điệp nhấn mạnh: "Viết về cái của mình, quanh mình là định hướng
nghệ thuật và cũng là kênh thẩm mỹ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố
cốt lõi làm nên quan niệm nghệ thuật của ông. Nó khiến cho văn Tô Hoài có
được phong cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh
và tinh quái"
Khi giới thiệu cho Tuyển tập Tô Hoài, Giáo sư Hà Minh Đức cũng đưa
ra nhận xét sâu sắc, khẳng định giá trị truyện lịch sử của Tô Hoài: “Ông muốn
trở về với ngọn nguồn của những truyền thuyết, thần tích, những câu chuyện
cổ để tìm hiểu sự sống của dân tộc trong thời kỳ xa xưa với những cảm nghĩ
và hình thái tư duy, với những hành động sáng tạo của người lao động trong
quá trình dựng nước và giữ nước”. [9;128].
Cùng với suy nghĩ đó, Vũ Quần Phương khẳng định: “Tô Hoài có lối đi
riêng khi viết truyện lịch sử. Đọc truyện của ông, người ta được tắm mình vào
không khí Việt Nam truyền thống. Ông là người lưu giữ được nhiều nét xưa,
nhiều hương vị xưa mà không sa vào hoài cổ” [6;58]. Cùng chia sẻ cảm hứng
khẳng định giá trị đặc sắc truyện lịch sử của Tô Hoài, tác giả Lã Thị Bắc Lý
trong Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 đã viết: “Tô Hoài đã mở ra
hướng khai thác mới, hướng khai thác lịch sử gắn với huyền thoại, phong tục
và văn hóa” [6;24].
Phong Điệp lại nhận thấy: Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng
đời tự nhiên, chảy trôi miên viễn. Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô
Hoài thật dung dị tự nhiên như nó vốn thế: có mọi thứ của sinh hoạt đời
thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm thường, có đời sống xã hội, vận động
của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt phong tục. Cảm quan hiện thực đời
thường và ngòi bút nghiêng về phong tục là đặc điểm riêng biệt của Tô Hoài,
không chỉ trong tiểu thuyết. Tô Hoài vẫn được coi là nhà văn của những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“chuyện thường, người thường, đời thường”. Nhưng cũng không vì thế mà lại
không thấy ở tác phẩm của ông, nhất là tiểu thuyết, sự phản ánh những vấn đề
xã hội và lịch sử, theo một cách riêng, xã hội và lịch sử được nhìn nhận được
tái hiện trong những sự việc, chi tiết của đời sống sinh hoạt, thế sự, gắn kết tự
nhiên với đời sống thường nhật, với công việc làm ăn, những buồn vui, đổi
thay của số phận con người [6;54].
Có một công trình công phu và toàn diện hơn cả đã khảo sát về phong
cách nghệ thuật của Tô Hoài là chuyên luận của TS Mai Thị Nhung, trong đó,
cảm quan hiện thực của Tô Hoài đã được nghiên cứu công phu trên những
phương diện cơ bản. Theo đó, tác giả của công trình đã chỉ ra hạt nhân của
phong cách nghệ thuật Tô Hoài chính là cảm quan hiện thực đời thường, bao
gồm: cảm quan nhân bản đời thường về con người, cảm quan về xã hội trong
dòng chảy tự nhiên của đời sống sinh hoạt và phong tục, cảm quan sinh hoạt
phong tục về loài vật, cảm quan thiên nhiên bình dị mang màu sắc tự nhiên,
khách quan (24). Đây là những kết quả nghiên cứu toàn diện và có ý nghĩa
khoa học sâu sắc, được coi là cơ sở quan trọng cho việc tìm hiểu và khảo sát
nhiều tác phẩm của Tô Hoài. Luận văn của chúng tôi cũng triển khai dựa trên
những gợi ý quan trọng từ công trình nghiên cứu đó.
2.2. Những kết quả bước đầu nghiên cứu về Chuyện cũ Hà Nội
Chuyện cũ Hà Nội in lần đầu năm 2000, là một tập ký sự về Hà Nội.
Bản in năm 1986 gồm 42 chuyện, bản in năm 1994 gồm 64 chuyện, bản in
mới gồm 114 chuyện, có chuyện lấy lại từ Hà Nội và Hà Nội (1996), như
Vườn Hoa, tên cũ là Vườn và Hoa, cây hoa. Nhưng đây vẫn chưa phải là toàn
bộ những bài viết của Tô Hoài về Hà Nội, ví dụ không có bài xuất sắc Đôi
Nét Hồ Tây trong Hà Nội và Hà Nội. Ấn bản năm 2000 không phải là có bổ
sung mà còn có sửa chữa và có thể nói toàn bộ mang một nội dung mới : hai
ấn bản trước mang tính cách hồi ký, có giá trị xã hội hoặc dân tộc học về địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phương Hà Nội, thì ấn bản sau này mang dụng công dân tộc học rõ ràng hơn,
theo gương người xưa : “Các danh sĩ Lê Quý Đôn, Phạm đình Hổ, thời các cụ
chưa có các môn xã hội học, phong tục học, nhưng các cụ đã ý thức ghi chép
cẩn thận về mũ áo và cái nón , bởi cái nón cũng tỏ ra phân biệt địa vị con
người” [14; 150]. Không gian tác phẩm được mở rộng, thời gian được dàn
dài, chuyện đời, chuyện người cũng trở nên phong phú hấp dẫn hơn. Nếu ở
lần in đầu, các truyện nghiêng hẳn về miền đất ngoại ô như một lẽ tự nhiên
trong cảm hứng của Tô Hoài, thì tới lần xuất bản này, nhà văn đã đạt được sự
“cân bằng” đáng kể khi làm lộ diện một nội thành đa dạng, truân chuyên và
sang trọng, hào hoa. Tô Hoài đã mở rộng đề tài Hà Nội sang địa hạt văn hoá
dân tộc trên cả hai chiều lịch sử và thời sự, như bài Đất nói về những dụng cụ
làm bằng đất, công dụng hòn đất trong đời sống dân tộc hay bài Tiếng Trống,
Đình Làng, nón Xưa vượt ra khỏi chu vi Hà Nội. Những bài như Dung và
Quyền nói lên thân phận con người chìm nổi trong lịch sử : hoạ sĩ Ngô thúc
Dung, tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật cùng khoá với Nguyễn Đỗ Cung, sau
1954 bán vé tàu điện đường Bưởi, không còn nhận ra bạn bè chán đến nỗi
không còn muốn nhận ra nhau nữa. Tác phẩm đã sớm thu hút được sự quan
tâm của giới nghiên cứu và những người yêu văn học, yêu Hà Nội.
Nói chung, ngòi bút Tô Hoài ưu đãi nếp sống dân dã. Chuyện cũ Hà
Nội chủ yếu là chuyện người nghèo, bắt đầu từ dân quê trôi giạt về thành phố
kiếm ăn, ở đợ, may thuê, gánh mướn, làm đào hát, đào rượu. Tô Hoài ghi lại
nếp sống thành phố, từ cái xe đạp, cái Tàu điện, đến Chiếc xe kút kít qua Phố
Hàng Đào, Phố Hàng Ngang, từ cảnh chợ buôn người đến cơm đầu ghế,
những niềm vui của trẻ em nghèo, của Tô Hoài thời cỏ dại : bẫy chim, chơi
chim, trèo me, trèo sấu, cho đến sinh thú của người lớn, những Hội hè đình
đám, đặc sắc là thú chơi Diều sáo. Là người hiện đại, Tô Hoài lưu tâm đến
đời sống kinh tế, mức thăng trầm các nghề thủ công và viết nhiều về Chợ, từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những chợ xép ven đô, đến những chợ trung tâm, chợ trâu bò. Ông đếm, cuối
năm 1995, Hà Nội có 135 cái chợ quy mô, không kể chợ xanh chợ cóc
[14;504]. Ông đã ghi lại những phong tục lớn nhỏ, không nhất thiết là thuần
phong mỹ tục. Những tập quán như Giỗ Tết, Cưới hỏi, Đón Giao thừa, không
riêng gì Hà Nội. Đặc biệt Hà Nội là những nhân vật hằng ngày, có tên tuổi
trong đời sống vô danh: Bà Viết, Ông Phó Ngạc khâu thuê, Bác Khán goá vợ,
Ông ấm làm môi giới, Cô Ba Tý lên đồng, Ông Đồ Huỵch bị Tây bắt ... là
những hình bóng linh động và cảm động của một thời. Những hình ảnh khẳng
định Chuyện Cũ Hà Nội - ký sự xã hội, là một tác phẩm văn học trong ý nghĩa
đầy đủ của chữ văn học.
Trong lời giới thiệu Chuyện cũ Hà Nội, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh
Phúc khẳng định: “Có thể coi đó là một thứ Vũ trung tuỳ bút thời hiện đại, vì
với những mẩu chuyện không dài, Tô Hoài với tư cách một chứng nhân đã
ghi lại “muôn mặt đời thường” của cái Hà Nội thời thuộc Tây. Tuy mới qua
sáu, bảy chục năm mà dường như không mấy ai nhớ nữa, thậm chí đã trở
thành chuyện đời xưa” [16]. Trong nhận định này, Nguyễn Vinh Phúc đã chỉ
ra đặc trưng cảm quan hiện thực đời thường của Tô Hoài khi viết về Hà Nội,
đồng thời khẳng định giá trị của nó không chỉ ở phương diện văn học, mà còn
ở phương diện văn hoá và lịch sử.
Viết nhiều, nhưng trước sau, Tô Hoài vẫn trở đi trở lại với hai vùng đất:
con người, phong thổ ngoại ô Hà Nội và vùng đất Tây Bắc, nơi ông đã gắn bó
sâu sắc trong thời kháng Pháp và sau đó còn trở lại nhiều lần. Vậy nên, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã cho rằng: “Cắm sâu vào những miền đất đã
nên duyên nên số với mình, Tô Hoài điềm tĩnh bóc từng lớp một, và khi
“người thợ khâu” ấy nối liền các mảnh văn hóa, các số phận trong một sinh
thể nghệ thuật, ta bỗng ngạc nhiên về sự giàu có của đất và người, của thời
gian và không gian, của văn hóa và tâm linh dân tộc” [5]. Đó là cái điềm tĩnh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lặng lẽ và nhẫn nại của một người tin vào cái căn cốt văn chương và sự trải
nghiệm của mình. Riêng về Hà Nội, Tô Hoài là một cây bút cự phách. Cùng
với Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... Tô Hoài đã để lại nhiều trang văn
xuất sắc vì câu chữ của ông không những thể hiện được văn hóa, phong tục
mà còn thể hiện được “hồn vía” của người Hà Nội. Không chỉ Hà Nội hôm
nay mà cả Hà Nội “chuyện cũ” đều được Tô Hoài quan tâm thể hiện. Không
ai hơn Tô Hoài về vùng đất ngoại ô đã đành, nhưng cũng hiếm người vượt
được Tô Hoài về đời sống văn nghệ sĩ Hà Thành. Ông kể về họ bằng cái chất
giọng quai quái một chút, nhưng chân thành yêu mến. Có vẻ như Tô Hoài đã
tự chuẩn bị cho một thế nhìn: đời sống nó thế, lên gân quá, tô vẽ quá cũng chỉ
vậy mà thôi. Đọc Tô Hoài, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp liên tưởng đến
Nguyễn Tuân và nhận thấy: “Văn hai ông rất khác nhau. Một bên cố gắng tạo
cái vân chữ của mình bằng những cách nói độc đáo, bằng trùng điệp liên
tưởng, bằng những nét vẽ phóng khoáng, những ấn tượng mạnh, một đằng
văn nhẩn nha, chi tiết đặc chất tiểu thuyết, khoảng cách giữa người trần thuật
và nhân vật là khoảng cách gần gũi, suồng sã, phi sử thi. Nhưng cả hai cây đại
thụ này đều có cái nhìn riêng về đời sống. Nguyễn Tuân truy tìm cái đẹp
đượm màu lý tưởng. Đó có thể là cái đẹp vang bóng, có thể là cái đẹp trong
hiện tại nhưng trên cái nền hiện tại ấy, mọi cái đẹp đều hiện lên kỳ vĩ, khác lạ.
Còn Tô Hoài, cái đẹp hiện ra chính trong đời thường” [5]. Tô Hoài không
chuốt văn theo cách ép hoa trong tủ hay cầu kỳ một cách thái quá để tạo nên
kiểu bonsai chữ nghĩa mà ông cắt tỉa, gọt giũa câu văn, tạo nên những cấu
trúc cú pháp mới cũng là để văn gần hơn với đời. Đúng hơn, với ông, bản
thân ngôn từ cũng chính là một thực thể sống, nó không hề đóng vai trò như
một thứ vật liệu tải chở nội dung theo cách hình dung cơ giới giản đơn. Bởi
thế, ngôn ngữ của ông mềm mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự
tinh tế của một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự giản dị của một sự khéo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
léo lớn. Chính vì thế mà văn Tô Hoài không bị mòn cũ theo thời gian. Ống
kính của Tô Hoài vừa sắc nét trong việc tái hiện lại các chi tiết, vừa có khả
năng tạo ra sự lưu chuyển hợp lý giữa các trường đoạn, màu sắc du ký và màu
sắc tự truyện hòa vào nhau hết sức sống động. Tô Hoài không thật quen với
tầng lớp trên, ông chỉ gần gũi với những người bình dân, vì thế, ông thông
thuộc tâm tính của họ, những người sinh ra trong nhếch nhác, khổ nghèo. Nói
về họ, kể về họ thực chất cũng là nói về mình, kể về mình. Tô Hoài là thế, chỉ
viết về những điều gì ông thật quen, những gì ông đã nhìn thấy. Trong Tự
truyện, Tô Hoài cho biết, thậm chí “cả những chuyện loài vật tưởng như xa lạ
kia cũng không ngoài cái rộn ràng hay thầm lặng của khu vườn trước cửa”.
Điều mà Tô Hoài gần với Vũ Trọng Phụng, Nam Cao chính là ở đó: “Các ông
muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi
muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Chỉ có điều, là những cây bút tài năng nên
sự thực hiện lên trong mắt họ khác nhau. Phản ánh bức tranh của xã hội cũ,
Với Vũ Trọng Phụng, đó là chuyện nhố nhăng, rởm đời, bịp bợm thời Âu hóa
trong môi trường đô thị, với Nam Cao, đó là sự khốn cùng của người nông
dân, là sự tha hóa của nhân cách và tấn bi kịch bị từ chối quyền làm người
trong xã hội nông thôn trước Cách mạng. Còn Tô Hoài, đó là những chuyện
thường ngày mà ông từng gặp, từng nhìn thấy ở vùng đất ngoại ô Hà Nội. Cái
vùng đất ấy, tự trong bản chất, vẫn là một vùng quê thuần túy. Nhưng chỉ
bước ra một loáng là chạm vào đời sống thị thành. Vì thế, chuyện hương đồng
gió nội bay đi ít nhiều, chuyện phải đối mặt với những huyên náo và chịu sự
tác động, chịu ảnh hưởng lối sống thị thành nhanh hơn các vùng nông thôn
khác cũng là điều dễ hiểu. Và thế là có bao nhiêu chuyện đau lòng đã diễn ra
ở đất kẻ Bưởi trong buổi giao thời đầu thế kỷ XX đã được Tô Hoài nhìn từ
góc nhìn thế sự - đời tư, bởi thế, các chi tiết của ông sắc nét, chuyện trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sách mà ngỡ như chuyện ngoài đời.
PGS.TS Phạm Thị Chiến trong bài viết Nét văn hoá Thăng Long xưa
trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài cũng cho rằng: “Một tác phẩm văn học
có giá trị bao giờ cũng là câu trả lời những yêu cầu của con người về Tổ quốc,
gia đình, diện mạo của mỗi thời của mỗi dân tộc. Đó cũng là phương diện văn
hoá của văn học. Lịch sử văn học Việt Nam đã cho thấy có rất nhiều tác phẩm
đạt được như vậy, trong đó có “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài. Đây là một
tập ký sự độc đáo, hấp dẫn người đọc bởi một lối kể chân thực, một cách nhìn
thấu đáo hồn hậu, thấm đẫm tình yêu sâu lắng, xót xa mà vẫn tràn trề hy vọng
về mảnh đất Thăng Long xưa của Tô Hoài”[2].
Cũng am hiểu về Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài, Đoàn Minh Tuấn
khẳng định: “Tô Hoài là một nhà văn lão luyện ở Hà Nội, ngõ ngách, phong
tục, tập quán bác am hiểu tường tận. Cuốn sách Chuyện cũ Hà Nội gần 300
trang, ông viết từ phố mới, phố xưa, cho đến 36 phố phường, việc bắt rượu,
tiếng rao đêm, thuế thân, thịt chó, đến trèo me, trèo sấu, rồi đào rượu, đào hát,
đến bắt chuột, bẫy chim, chơi chim, rồi tàu điện đêm, đi phu mộ, chết đói…
nghĩa là thượng vàng hạ cám Tô Hoài đều đưa được vào trang viết của mình.
Trong chuyện Mừng ngày giáp tết: Thuở niên thiếu gia cảnh nhà bác Tô Hoài
đói kém, sợ nhất là cảnh đòi nợ, không có tiền trả, chủ nợ lấy đồ đạc khuân
bát hương đi. Nhà bà nội không có tiền, trong nhà không có gì đáng giá nửa
hào, thì có gì mà xiết, mà trừ nợ được. Bà nội chỉ dúi vào tay người đòi nợ vài
xu uống nước đi tàu điện về đỡ phải cảnh đòi nợ ngày tết dông cả năm” [26].
Nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã tinh tế gọi tên được bản sắc của Tô
Hoài khi viết về Hà Nội và tìm cách lý giải nguyên nhân của bản sắc ấy:
“Những khi phải tả Hà Nội, Tô Hoài vừa có cái kỹ lưỡng từ trong nói ra, lại
có cái tươi mới như vừa gặp vừa thấy. Sở dĩ như vậy, theo tôi, một phần do
trước sau Tô Hoài vẫn giữ được cái hóm, cái nghịch cần thiết cho những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“Người ven thành” luôn luôn phải đi lên thành phố để làm đủ các loại việc,
rồi ít ngày sau, lại bỏ đấy, bắt sang những công việc khác, mà lúc nào cũng
giữ được cái thế của người đứng ngoài, đứng hơi xa một chút, để nhận xét cho
thấu đáo, lên thành phố, những người này phải rất hoạt bát để bán được hàng,
tìm được việc, mà lại khỏi bị những người hàng phố lừa. Và lên đấy phải
nghe ngóng, tích luỹ, phải có nhiều điều tai nghe mắt thấy, để về còn kể cho
bà con hàng xóm, hoặc con cháu trong nhà. Bởi vậy, nên cái chân dung thành
phố do những con người này vẽ nên bao giờ cũng tươi mới, giàu chi tiết, kích
thích sự tò mò của người khác”[6;181]. Ông còn khẳng định thêm: Trong
Chuyện cũ Hà Nội Tô Hoài kể ra một số vùng ngoại ô với những nghề nghiệp
cha truyền con nối, lên làm ăn ở thành phố. Cổ Nhuế, thợ may, hàng thầu;
Thủ Lệ, giặt là; Lai Xá, thợ ảnh; Thanh Nhàn, cắt tóc; Thuỵ Khuê, xôi lúa,
quà vặt v.v... và v.v... Quả ngoại ô Hà Nội là một “thế giới” phong phú. Trong
“thế giới” đó, cũng có sự phân công lao động rất tỉ mỉ, khiến cho từng người
làm nghề trở thành những người nghệ sĩ tài hoa và hết lòng với nghề, được
mọi người kính trọng. Từ các làng xóm chung quanh nội thành, người đi viết
văn, viết báo xưa nay không phải ít, nếu kể ra các vùng quê mới cắt từ Bắc
Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông để nhập vào Hà Nội, nhưng theo Vương
Trí Nhàn thì “số tác giả của Thủ đô thật là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài
là mang được cái chất riêng của vùng đất mà mình đã từ đó trưởng thành. Và
giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời cầm bút”.
Nhà phê bình Đặng Tiến cho rằng: Vào tuổi “thiều quang chín chục”,
sau 170 đầu sách, ngòi bút Tô Hoài vẫn dạt dào xuân sắc. Vẫn một dòng suy
cảm, một khối u hoài. Duy niềm u hoài bên Xóm Giếng ngày nay nhẹ phần
mơ mộng, thêm phần tư lự . Chuyện cũ Hà Nội là niềm hoài cựu miên man về
một thành phố, đồng thời là khối trầm tư day dứt một đời người về thân phận
làm người. Chuyện cũ Hà Nội thật ra là Chuyện Cũ Tô Hoài, những mảnh đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cụ thể, những mảnh tình cảm, suy tư non một trăm năm dâu bể. Tư liệu và tư
duy. Nhân chứng và tâm chứng. Nghiệm cho cùng, tác phẩm Tô Hoài là
chuyện về con người trong tình đời không bao giờ cũ.
Hầu hết ý kiến của các nhà nghiên cứu đều khẳng định: Chuyện cũ Hà
Nội - Đó là một Hà Nội với đủ thứ chuyện của đời thường trong mấy chục
năm trước Cách mạng tháng Tám: từ cảnh mua bán người thê thảm ở phố Mới
đến chuyện kinh doanh thức ăn thừa dơ dáy của lính Tây ở cửa Đông; từ việc
Tây khám rượu lậu đến “tiếng rao đêm” bán quà bánh trên các phố…Nhưng
cái hay của tác phẩm không dừng lại ở sự phong phú bề ngoài ấy, mà là chiều
sâu văn hoá của nó. Bỏ cái nền nếp của mình mà học cái nền nếp của người ít
lâu, sẽ quên là mình từng có nền nếp! Nền nếp bị quên, có người chịu khó
chép vào sách đấy. Ðọc sách Tô Hoài, lắm khi như lật ngược trang văn hóa
Việt Nam. Của tin sờ sờ, nhưng trong lúc “bổ sấp bổ ngửa” tranh giầu có với
người, mấy ai nhìn đến.
Như vậy, có thể thấy rằng, Chuyện cũ Hà Nội là một tác phẩm xứng
đáng để nghiên cứu và đã bước đầu được quan tâm, khảo sát, tìm tòi. Tuy
nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về Chuyện cũ Hà Nội
một cách công phu và toàn diện ở phương diện cảm quan hiện thực. Vì lẽ đó,
trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả mà nhiều người đi trước đã đạt
được, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu Cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ
Hà Nội của Tô Hoài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cảm quan hiện thực của Tô Hoài, các
phương diện thể hiện cảm quan hiện thực và những nét đặc sắc nghệ thuật
trong việc biểu hiện cảm quan hiện thực đó.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu là tác phẩm
Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. Tất nhiên, trong quá trình nghiên cứu, người
viết còn tiến hành khảo sát một tác phẩm khác của tác giả Tô Hoài và khảo sát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác phẩm của các tác giả khác cùng viết về Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở giải quyết các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, luận văn
làm sáng rõ sự thể hiện cảm quan hiện thực của Tô Hoài trong Chuyên cũ Hà
Nội qua các phương diện cơ bản. Để làm nổi bật cảm quan hiện thực của Tô
Hoài trong Chuyện cũ Hà Nội, luận văn so sánh với cảm quan về Hà Nội
trong các tác phẩm trước đó của Tô Hoài, đồng thời với các tác giả khác viết
về Hà Nội để thấy nét độc đáo của Tô Hoài. Từ đó định vị giá trị của tác
phẩm trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài nói riêng và trong số các tác
phẩm của văn học Việt Nam về đề tài Hà Nội nói chung.
5. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài, chúng
tôi hướng tới những mục đích sau:
- Chỉ ra cảm quan hiện thực của Tô Hoài thể hiện trên nhiều phương diện, từ
đó khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn.
- Từ việc nghiên cứu cảm quan hiện thực của Tô Hoài, chúng tôi góp thêm cơ
sở để khẳng định phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Đóng góp một tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu về tác giả Tô
Hoài.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cưu, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp khảo sát, phân loại: Trên cơ sở khảo sát để định hình các
phương diện thể hiện cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô
Hoài.
- Phương pháp phân tích để thấy sự biểu hiện phong phú của cảm quan hiện
thực đó từ chi tiết tới giọng điệu, ngôn ngữ, không gian nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm của Tô Hoài viết về Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nội ở những thời điểm và góc độ khác nhau để thấy sự vận động và biến đổi,
nét bảo lưu trong cảm quan hiện thực về Hà Nội của Tô Hoài; đối chiếu cảm
quan hiện thực của Tô Hoài với các nhà văn khác viết cùng đề tài Hà Nội để
thấy nét riêng độc đáo của nhà văn.
- Phương pháp khái quát, tổng hợp: Sau khi phân tích, so sánh luận văn sẽ
khái quát những nét đặc sắc trên phương diện cảm quan hiện thực trong
Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai thành 3 chương:
- Chương 1: Nhà văn Tô Hoài và những yếu tố tạo nên cảm quan hiện thực
của tác giả
- Chương 2: Cảm quan về xã hội, con người và phong tục trong Chuyện cũ
Hà Nội của Tô Hoài
- Chương 3: Nghệ thuật thể hiện cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của Tô Hoài.
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHÀ VĂN TÔ HOÀI VÀ NHỮNG YẾU TỐ
TẠO NÊN CẢM QUAN HIỆN THỰC CỦA TÁC GIẢ
1.1. Nhà văn Tô Hoài
Tô Hoài là cây đại thụ trong khu rừng văn học hiện đại Việt Nam, nói
cho đúng hơn thì thế giới nghệ thuật mà ông sáng tạo cũng là cả một cánh
rừng với bao nhiêu loài thảo mộc lớn nhỏ, đa dạng về chủng loại. Nói đến Tô
Hoài, người đọc nhớ ngay đến Tô Hoài của những sáng tác về Hà Nội, Tô
Hoài với miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của Dế Mèn phiêu lưu ký và
những sáng tác cho thiếu nhi, Tô Hoài của hồi ký, tự truyện... Ở phương diện
nào, Tô Hoài cũng tạo lập được một giá trị riêng, một gương mặt riêng không
thể nhòe lẫn. Trong cái thế giới nghệ thuật hết sức đa dạng ấy, về mặt thể loại,
không thể không nói đến bút kí, bên cạnh truyện ngắn, chân dung văn học…
Thời kỳ dò dẫm tìm đường, Tô Hoài bắt đầu làm thơ. Mà chẳng riêng
gì ông, Nam Cao, Nguyễn Tuân đều thế. Nó có ý nghĩa như một kiểu thử bút,
dò tìm. Sau những dò tìm ấy, Tô Hoài nhận ra mảnh đất dụng võ của mình là
văn xuôi, là những câu chuyện của mình, quanh mình như ông đã nói. Ngay
cả những chuyện về loài vật cũng là những chuyện về cuộc đời. Hơn hai mươi
tuổi (thực ra gần đây ông tiết lộ mới chỉ mười bảy tuổi), ông đã tạo được một
kiệt tác ở thể đồng thoại: Dế mèn phiêu lưu ký. Truyện viết cho thiếu nhi
nhưng cũng là viết cho người lớn vì ẩn trong tác phẩm này là những bài học
nhân sinh sâu sắc. Tại đây, ta nhận thấy sự mẫn cảm và óc quan sát tinh tế dặc
biệt của Tô Hoài. Ông tả loài vật nào đúng với bản chất và đặc điểm của loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vật ấy. Cuộc sống của chúng hiện lên trong trang viết của Tô Hoài thật sinh
động: “Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt,
nước dâng trắng mênh mông. Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập
xuôi ngược, thế là bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông,
mòng, két ở các bãi sông xơ xác tận đâu cũng bay cả về vùng nước mới để
kiếm mồi. Suốt ngày, họ cãi cọ om bốn góc đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi
tép, có những anh Cò gầy vêu vao ngày ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà
vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào. khổ quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn cật
lực thế mà vẫn không sống nổi. Tôi đứng trong bóng nắng chiều tỏa xuống
ánh nước cửa hang mà nghĩ việc đời như thế”. Ống kính của Tô Hoài vừa sắc
nét trong việc tái hiện lại các chi tiết, vừa có khả năng tạo ra sự lưu chuyển
hợp lý giữa các trường đoạn, màu sắc du ký và màu sắc tự truyện hòa vào
nhau hết sức sống động. Với Dế mèn phiêu lưu ký, Tô Hoài thực sự là cây bút
hàng đầu về nghệ thuật miêu tả thế giới loài vật. Biệt tài ấy còn được Tô Hoài
mài sắc mãi về sau. Chung quy lại, nó xuất phát từ khả năng quan sát sắc sảo
và khả năng liên tưởng phong phú, cách tạo hình độc đáo của Tô Hoài.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi: vì sao cảnh đời thường lại có
sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với ngòi bút của Tô Hoài? Vì những sáng tác đầu
tiên của ông đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy là những bài thơ như Tiếng reo,
Đan áo…Nhưng ngay sau đó, ông đã từ giã vườn thơ để đến với cánh đồng
văn xuôi, từ bỏ chân trời lãng mạn để đến với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo. Có
nhiều lí do dẫn đến sự chuyển hướng ấy, trong đó, phải kể tới hoàn cảnh chủ
quan của nhà văn, cảnh sống vất vả túng thiếu của bản thân, gia đình khiến
ông khó có thể thả mình vào một thế giới của phiêu diêu và mơ mộng, của
“chàng – nàng”. Chính một nhân vật văn sĩ nghèo trong truyện ngắn của Tô
Hoài - Hết một buổi chiều đã từng độc thoại: “Mạch sống của cuộc đời táp
nham này còn có gì đáng lồng vào dòng nước, một nhánh hoa, một dòng nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trắng!”. Vả lại sống trong môi trường Nghĩa Đô, những con người cần lao,
chất phác, những cảnh đời điêu đứng, cùng quẫn của những người nông dân
nghèo vẫn quen thuộc và thân thiết hơn với Tô Hoài.
Nhớ lại những ngày mới tập viết, Tô Hoài kể: lúc ấy đọc sách Nhất
Linh Khái Hưng thì cũng thích lắm, nhưng tự xét mình không sống cuộc sống
như họ nên không thể viết như họ. Cách nói ý nhị tưởng như một lời tự thú
khiêm tốn về sự bất lực của mình, nhưng thực ra ở đó ngầm chứa một thứ
tuyên ngôn nghệ thuật: Ngòi bút này dựa trên sự quan sát thực tế chung quanh
và sống đến đâu, viết đến đó, viết ngay về những gì từng viết, từng trải quanh
mình. Có thể bảo một thứ tuyên ngôn như thế quá thông thường, không đủ
làm ai giật mình, mà lại cũ. Nhưng nó thích hợp với cá tính của Tô Hoài, thói
quen ham nghe ham biết, hóm hỉnh hiền lành của ông, cũng như những chăm
chỉ dùi mài nghề nghiệp những năm về sau. Cuộc sống vốn không chỉ có cái
dồn dập sôi nổi bên trên mà còn có cái phần chuyển động chắc chắn ở tận đáy
sâu. Được khích lệ bởi không khí thời đại, một số người chọn lối viết “đặt vấn
đề” dồn hết tâm lực vào những cuộc đấu tranh tư tưởng và quả thật có mang
lại cho các trang sách một sinh khí mới. Không phải là Tô Hoài đứng ngoài
chuyện đó, ông có biết và đã để tâm đưa vào sáng tác cái không khí sôi sục
của đời sống. Nhưng ông vẫn thấy tạng của mình là viết về cái mạch ẩn chìm
kia và lặng lẽ làm cuộc phiêu lưu đơn độc. Nhận ra điều đó, nên khi bàn về
tập Truyện Tây Bắc, một người khá thâm trầm là Tế Hanh đã nêu nhận xét:
“Trong khi nhiều người chỉ nhớ Vợ chồng A Phủ thì tôi lại rất thích Mường
Giơn”. Không hẳn có nhiều người cùng quan điểm với Tế Hanh, nhưng có
một sự thật là: Trong khi Vợ chồng A Phủ đề cập đến cái lớn lao của thời đại
với sự đổi đời của những con người nhỏ bé thì Mường Giơn lại là câu chuyện
mà hình như thời nào cũng có. Bởi thời nào cuộc sống chẳng gồm những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nồng nàn sôi nổi lẫn những mất mát đắng cay, và khi nghĩ lại về nó, nhất là về
một cái gì tàn phai mà không sao cứu vãn, con người bao giờ cũng ám ảnh
một cảm giác nhớ, tiếc, buồn, thương.
Nghiên cứu về Tô Hoài, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh có một
nhận xét chính xác: “Có thể nói, Tô Hoài là nhà văn của người thường, của chuyện thường, của đời thường”(1). Đúng thế, Tô Hoài không viết về những
đôi lứa lá ngọc cành vàng, không thi vị hóa đời sống, không vẽ vời, lý tưởng
hóa các chân dung. Ông chỉ viết về những điều mà ông đã nhìn thấy: “Tôi đã
miêu tả tâm trạng của tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình, quanh
mình” (Tự truyện). Những cây bút nào trước khi viết về người khác lại biết
mang mình ra để tự trào, để giễu chơi cái tôi của mình một chút là những
người ghê gớm, tinh tường, bởi lập tức, mọi thứ nghi lễ, rào cản về khoảng
cách không còn, chỉ còn lại ta với mình, y với thị, tôi với hắn như đang nói
chuyện, tán gẫu trong cuộc sống thường ngày. Như vậy, viết về cái của mình,
quanh mình là định hướng nghệ thuật và cũng là kênh thẩm mỹ của Tô Hoài.
Đúng hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm nên quan niệm nghệ thuật của ông. Nó
khiến cho văn Tô Hoài có được phong cách, giọng điệu riêng. Đó là một
giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh tế. Rất hiếm khi ta thấy Tô Hoài cao
giọng. Những triết lý về đời sống của Tô Hoài bắt nguồn từ những câu chuyện
đã từng xảy ra đâu đó trong đời chứ không phải là sản phẩm của những tư
biện xám màu. Đây cũng là một bí quyết chinh phục độc giả của Tô Hoài.
Đọc ông người ta không thấy gượng, không thấy giả cũng vì lẽ đó. Có cảm
giác như Tô Hoài biết nuôi dưỡng một bí mật: những chuyện kể, những hồi
ức trong tác phẩm của ông là những chuyện mà ông đã nhập tâm, đã biết tỏng
tự đời nào, bây ông mới hé “cho khách hồng trần thử soi”. Sự đời nó thế, dâu
bể cũng là đấy mà ngọt ngào cũng từ đấy. Chuyện về đời cũng là chuyện về
chính bản thân ông. Thì đấy, chàng Dế mèn trong Dế mèn phiêu lưu ký là hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bóng của tuổi trẻ Tô Hoài đi tìm kiếm tư tưởng đại đồng, những câu chuyện
mà Tô Hoài hồi nhớ lại trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều là những câu
chuyện được ông thể hiện qua cái nhìn của mình về những câu chuyện quanh mình.
1.2. Những yếu tố tạo nên cảm quan hiện thực của Tô Hoài
1.2.1. Khái niệm cảm quan hiện thực
Hêghen trong Dẫn luận mỹ học đã nhấn mạnh: “Tác phẩm nghệ thuật
là một cái nhằm phục vụ tri giác cảm quan của con người”. “Để tỏ lòng biết
ơn tự nhiên đã sản sinh ra cả bản thân mình, người nghệ sỹ dâng trả lại cho tự
nhiên một tự nhiên thứ hai nào đó. Song đây là một tự nhiên được sinh ra từ
tình cảm và tư tưởng, một tự nhiên được hoàn thiện bởi con người". Trong
thực tế sáng tạo nghệ thuật, mỗi nghệ sỹ có sự cảm nhận về thế giới hiện thực
khách quan khác nhau nên sự tái hiện, "dâng trả" cho hiện thực khách quan
cũng khác nhau. Sự "dâng trả" ấy thể hiện trong từng tác phẩm nghệ thuật,
trong cả gia tài nghệ thuật của họ. Căn cứ duy nhất để khảo sát, nhận diện bức
tranh hiện thực của người nghệ sỹ là tác phẩm nghệ thuật. Các tác giả A.Ja
Gurevich khi bàn về Các phạm trù Văn hoá Trung cổ, Mai Nauđôp - tác giả
cuốn Tâm lý học sáng tạo văn học đều chú ý đến sự cảm thụ và nhận thức thế
giới. Mai Nauđôp cho rằng, người nghệ sỹ là người "cực kỳ nhạy cảm", nên
"anh ta nhanh chóng nhận xét, tóm bắt trúng được tất cả những gì thu hút sự
chú ý của mình, để lại những dấu ấn không gì xoá nổi trong tâm khảm".
Nghiên cứu khái niệm này, Chu Văn Sơn trong Ba đỉnh cao của Thơ mới-
Xuân Diệu- Nguyễn Bính- Hàn Mặc Tử cho rằng: “Có thể hiểu cảm quan như
là lối cảm nhận riêng trong đó chứa đựng quan niệm và cách cắt nghĩa riêng
về thế giới của từng người nghệ sĩ. Trong những trường hợp thật điển hình,
cảm quan ấy thường đọng lại trong những hình mẫu tổng quát nào đó”.
Như vậy, cảm quan hiện thực chính là lối cảm nhận riêng về thế giới
của từng nghệ sĩ. Lối cảm nhận ấy được thể hiện trong từng tác phẩm của họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nó chi phối mạnh mẽ để làm nên thế giới nghệ thuật riêng của nhà văn. Để
nghiên cứu cảm quan hiện thực trong Chuyên cũ Hà Nội của Tô Hoài, chúng
tôi nhất trí với quan niệm của nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn.
1.2.2. Những phương diện thể hiện cảm quan hiện thực của Tô Hoài
Nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài dựa trên sự khảo sát kỹ lưỡng theo
những định hướng trên, TS Mai Thị Nhung khẳng định trong cuốn Phong
cách nghệ thuật của Tô Hoài: “Trước cuộc sống hiện thực muôn màu muôn
vẻ, nhà văn đặc biệt quan tâm và có niềm say mê mãnh liệt với con người và
cuộc sống đời thường - đó là cuộc sống sinh hoạt, quan hệ thế sự, là những
sinh hoạt phong tục, tập quán trong cuộc sống bình thường của lớp người lao
động bình dân và lớp dân nghèo thành thị. Yếu tố thể hiện tư tưởng nghệ
thuật và có tính chất quyết định được coi là hạt nhân phong cách nghệ thuật
Tô Hoài là cảm quan hiện thực đời thường”. Quả thực, đây là cảm quan chi
phối toàn bộ những sáng tác của Tô Hoài trong suốt hành trình sáng tạo
không biết mệt mỏi của nhà văn.
1.2.2.1. Cảm quan nhân bản đời thường về con người
Mỗi nhà văn khi xây dựng thế giới nhân vật, đều xuất phát từ cảm quan
về con người riêng của mình. Cảm quan này vì vậy gắn liền với cá tính sáng
tạo của người nghệ sĩ. Nói như Nguyễn Đăng Mạnh thì: “Tâm hồn mỗi nhà
văn có một “chất dính” riêng. Dù ông ta có quan sát thực tế đời sống ở nhiều
lĩnh vực khác nhau, “chất dính” ấy vẫn chỉ có thể bắt lấy được những gì thích
hợp với nó mà thôi. Những “cái gì” đó tạo nên ở mỗi cây bút một đối tượng
thẩm mỹ riêng, nơi cung cấp những nguồn chất liệu phù hợp để nhà văn dựng
nên thế giới nghệ thuật riêng của mình” [23,14]. Cảm quan nghệ thuật về con
người là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá giá trị nhân văn vốn
có của một hiện tượng văn học. Người nghệ sĩ đích thực là người luôn suy
nghĩ về con người, vì con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người. Về điều này, Nguyễn Minh Châu – một trong những cây bút xuất sắc
của nền văn xuôi Việt Nam đã khái quát: “Văn học và đời sống là hai vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người. Người viết nào cũng có thể
có tính xấu nhưng tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại
không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương
con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê,
vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số
phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu lớn
ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau
khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh
thần và đứng vững được trước cuộc sống”. Khám phá cảm quan nghệ thuật về
con người của một tác giả là đi sâu vào thực chất sáng tạo của người nghệ sĩ
để đánh giá đúng về họ.
Tô Hoài viết với quan niệm “đấu tranh để nói ra sự thật, cho dù phải
đập vỡ những thần tượng”, vậy nên, cảm quan về con người của nhà văn có
những điểm độc đáo, táo bạo riêng. Tô Hoài, trong cuốn hồi kí Cát bụi chân
ai đã từng khẳng định: “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”.
Nghĩa là với ông, con người trước hết phải là chính mình, phải là tất cả những
gì thuộc quyền sở hữu riêng, có xấu và tốt, thiên thần và ác quỷ, ý thức với
bản năng tồn tại đan xen, ngay cả những con người vốn được coi là thần
tượng cũng có những phần nhỏ nhoi, tầm thường trong họ. Thế nên, trong khi
nhiều người viết hồi kí với mong muốn “dựng lên dấu ấn muôn đời của bản
thân vượt qua thời gian và kí ức cá nhân”, thì Tô Hoài lại viết hồi kí như một
sự “giải thiêng”, không tô vẽ bản thân và tô vẽ một mẫu hình lý tưởng nào,
ông tự nhiên và táo bạo miêu tả một thế giới nhân vật với những cá tính và
thói tật, những vui buồn rất trần tục, đời thường. Trong thể hồi ký của Tô
Hoài, người đọc còn thấy chân dung đời thường của những nhà văn tên tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong nền văn học hiện đại nước nhà: Xuân Diệu "tình trai" lai láng, những
đêm hoan lạc với người bạn tình" khiến hậu thế phải bàng hoàng sửng sốt;
Nguyễn Tuân kỹ tính, lịch lãm theo phong cách riêng và cũng không kém
phần hóm hỉnh, biết đùa; Nguyên Hồng dễ dãi trong sinh hoạt và ăn uống, lại
hay khóc và thường vui buồn đột nhiên khó hiểu; Ngô Tất Tố có tật quệt nước
mũi vào gốc cây; Tú Mỡ vừa ngơ ngác vừa thâm thuý ... Dù viết về ai, những
người bạn nghệ sĩ, những con người bình thường hay chính bản thân mình, Tô
Hoài cũng xuất phát từ quan niệm: “người ta ra người ta thì phải là người ta
đã chứ”. Có sao viết vậy, cả tốt xấu dở hay, cả những thói tật, những chuyện
“bí mật riêng tư”, nhà văn cũng không hề né tránh. Chính vì thế, đọc hồi kí
của ông, chúng ta một lần nữa được biết thêm rất nhiều điều thú vị về chính
nhà văn, về tuổi thơ, những gì ông phải trải qua trong cuộc đời. Đó là một Tô
Hoài phải lớn lên “giữa những buồn vui, những gian truân trong mọi tập tục
thói quen của tầng lớp tuổi tôi ở làng”. Đó là một ông ngoại yêu thương cháu
hết mực nhưng cũng có nhiều lúc đối xử rất tàn nhẫn với bà, là thầy giáo Tỏi
khắt khe với học trò nhưng hoàn cảnh cũng rất đáng thương, là ông Ngải thật
thà chịu khó với những thói quen chẳng bao giờ thay đổi: uống nước chè vò
đặc sánh thay cho bữa ăn sáng, ngủ ngoài bụi tre… Đến tuổi trưởng thành, Tô
Hoài phải làm rất nhiều nghề để kiếm sống. Có những lúc cũng rơi vào bế tắc,
thậm chí định làm tiền cả những cô gái làm tiền! Chính trong hoàn cảnh đó,
ông đã được tận mắt chứng kiến sự buồn thảm, đen tối của xã hội khiến sự xót
thương những con người cùng khổ bất hạnh và nỗi thương chính bản thân
mình trong con người nhà văn từng ngày lớn dần lên, thấm ra ngọn bút và
biến thành niềm khát khao đổi thay. Để có được Tô Hoài như ngày hôm nay,
suốt một hành trình dài gần một thế kỉ, Tô Hoài đã trải qua bao khó khăn và
phải luôn tự đấu tranh để chiến thắng chính mình. Điều đáng nói là xuyên
suốt các hồi kí, Tô Hoài luôn thể hiện cái nhìn chân thực về chính bản thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình. Càng có tuổi, lời tự bạch của ông về những quãng đời đã qua càng thấm
thía và sâu sắc hơn. Nói như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Bàng bạc trên
những trang viết là một cách cảm riêng về cuộc đời, một niềm tâm sự đau
đáu” của Tô Hoài!
Trong cảm quan về hiện thực của nhà văn còn có chân dung những người
nghệ sĩ mà ta rất yêu mến. Với cái nhìn nhân bản đời thường ấy, nhà văn đã
rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể, giúp
chúng ta được tiếp cận, được bước vào một thế giới đời thường phía sau thế
giới nghệ thuật lung linh, huyền ảo mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm
của những nhà văn. Điều đáng nói ở đây là ngay cả khi viết về những thói tật
của những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân
thành của một nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên
chúng ta không cảm thấy nhà văn hạ thấp họ hay cố tình “đập vỡ” những thần
tượng của bạn đọc. Trái lại, càng hiểu về cuộc đời riêng của họ, ta càng cảm
thấy gần gũi. Hoá ra những “thần tượng” của bạn đọc cũng là những con
người bằng xương, bằng thịt.
Hồi kí là lối văn nói về chính cái tôi, nói về bản thân tác giả. Song với
Tô Hoài, hồi kí của ông còn là rất nhiều những cuộc đời, những phong tục
riêng ở những vùng miền mà nhà văn có dịp được đến, là cuộc sống của
người nông dân có cả thời kì cải cách ruộng đất, có cả không khí sáng tác văn
học thời kì Nhân văn giai phẩm… Tất cả những chuyện ấy đâu phải là chuyện
của riêng ông. Đó là chuyện cuộc đời. Như thế, với Tô Hoài, qua những kỉ
niệm và hồi tưởng của bản thân, ông đã nhằm nói về cuộc đời chung. Những
chuyện về cuộc đời riêng mà ông kể trong hồi kí bao giờ cũng gợi ra một điều
gì đáng nói của cuộc đời. Chính vì thế, có người cho rằng, khó mà nói trong
các mạch nguồn làm nên dòng sông chữ nghĩa của Tô Hoài, mạch nào là
chìm, mạch nào là nổi. “Có chìm có nổi, nhưng nổi hoặc chìm đều dồi dào trữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lượng và mang sự sống riêng, sự sống Tô Hoài”. Sự hoà nhập những câu
chuyện riêng của đời ông vào cuộc đời chung đã làm nên đặc trưng phản ánh
hiện thực của hồi kí Tô Hoài. Mỗi lần viết hồi kí là mỗi lần đấu tranh tư tưởng
để nói ra sự thật. Tô Hoài đã đấu tranh, đấu tranh để vượt lên chính mình, để
mở rộng tầm mắt cho tất cả sự thật ùa vào, để dũng cảm nói ra sự thật, kể cả
những sự thật tưởng như chỉ có thể “đào sâu chôn chặt”. Ông viết Cỏ dại khi
ông hơn hai mươi tuổi, viết Tự truyện khi năm mươi tuổi, viết Những gương
mặt - chân dung văn học, Cát bụi chân ai và Chiều chiều khi đã ở vào trên
dưới cái tuổi “thất thập”. Có người cho rằng ông nói ra những sự thật ấy là
bởi ông đã già nhưng thực ra không phải như vậy. Có lẽ ông viết sự thật là
xuất phát từ quan niệm của riêng mình “sự thật đã là đẹp rồi”. Và đã là đẹp rồi
thì cần gì phải thêm bớt, tô vẽ làm gì sự thật ấy. Vượt lên chính mình để trung
thành với sự thật, Tô Hoài đã tạo ra được một tiếng nói riêng ở thể hồi kí,
không thể lẫn với bất kì một nhà văn nào.
1.2.2.2. Cảm quan về xã hội qua cảnh sinh hoạt, phong tục
Đời sống sinh hoạt vốn tồn tại một cách khách quan, nhưng một khi đi
vào tác phẩm, nó đã được soi chiếu và cảm nhận bởi cái nhìn riêng của người
nghệ sỹ. Bởi thế, bức tranh xã hội trong cảm quan của mỗi nhà văn có thể
được phản ánh từ những mâu thuẫn, những xung đột xã hội quyết liệt, gay
gắt, hoặc từ những cảnh sinh hoạt bình dị.
Với một cảm quan hiện thực riêng, Tô Hoài rất nhạy cảm với những
cảnh sinh hoạt, những cảnh sinh hoạt của mỗi vùng và mỗi thời. Ông có khả
năng dựng lên từ những cảnh sinh hoạt bình dị ấy cả đời sống vật chất và tinh
thần của con người và thể hiện cả một đời sống xã hội rộng lớn. Trước Cách
mạng, Tô Hoài ít tập trung vào những mâu thuẫn có tính chất đối kháng quyết
liệt. Thế nên, làng quê trong tác phẩm của ông không ngột ngạt tiếng trống
dồn sưu thúc thuế như trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, không đi sâu diễn tả bi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kịch thảm thương của một kiếp người như trong truyện Chí Phèo của Nam
Cao. Trong làng quê của Tô Hoài có muôn cảnh sinh hoạt thường gặp ở
những làng quê như cảnh người ta chửi bới, bêu xấu nhau, cảnh trai gái hẹn
hò rồi cảnh một làng nghèo với những mảnh đời chia lìa tan tác.
Sau Cách mạng, Tô Hoài vẫn hoà mình chung vào dòng chảy của nền
văn học mới nhưng cuộc sống lại được ông khai thác từ những phong tục, hủ
tục ở mọi miền quê. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài được coi là
nhà văn phong tục. Ở ta, cái danh xưng nhà văn phong tục nghe không thật
oai lắm. Nó thường quá, nó không vươn tới những mơ tưởng cải tạo thế giới.
Nhưng với những cây bút thực tài, rất có thể những cái gọi là phong tục lại
sớm khẳng định được tên tuổi của mình. Vấn đề là qua những chi tiết về
phong tục, văn hóa, nhà văn làm nổi bật lên được những cá tính nghệ thuật
đặc sắc, những “con người này” trong tương quan với hàng loạt người khác.
Qua đó, người đọc có thể hình dung lại được một cách chân xác, sống động
về các thời đại, nhìn thấy các lớp trầm tích văn hóa nằm sâu trong con chữ
của nhà văn.
Viết về phong tục, mỗi nhà văn in đậm dấu ấn dưới cảm quan hiện thực
của riêng mình. Nếu Bùi Hiển được coi là một nhà tiểu thuyết tả chân của xứ
Nghệ với những tác phẩm tả phong tục cùng tính tình của người dân chài xứ
ấy, Kim Lân được coi là độc đáo và hấp dẫn khi ông viết về những cái gọi là
thú đồng quê hay vẻ “phong lưu đồng ruộng”, Nguyễn Tuân cảm nhận phong
tục từ những giá trị thẩm mỹ đặc sắc gắn với một lớp người nghệ sĩ tài hoa,
thì Tô Hoài “thường nhìn nông thôn nghiêng về phía phong tục với cặp mắt
ấy vẫn có con mắt của một nhà xã hội, một cây bút hiện thực”. Tô Hoài cảm
nhận phong tục trên mọi phương diện tự nhiên của nó: từ phong tục đến hủ
tục, từ nét đẹp văn hoá đến những sinh hoạt lạc hậu ấu trĩ cần phê phán và loại
bỏ. Như vậy, với nhãn quan phong tục đặc biệt, Tô Hoài phản ánh hiện thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc sống một phần từ phong tục và hủ tục để tạo nên tầm khái quát mới về
con người và cõi nhân sinh. Là một người ham đi và ham quan sát, nên dấu
chân Tô Hoài đi đến đâu, phong tục tập quán mọi miền quê đi vào trường
nhìn của nhà văn và in dấu lên các trang viết đến đó. Từ phong tục miền núi
đến phong tục miền xuôi, từ ngoại thành lầm lũi đến nội thành hoa lệ. Đó là
những phong tục đẹp trong những ngày lễ hội đầu xuân, đất quê tưng bừng
trong tiếng trống chèo, chơi cờ bỏi, đấu vật, thi bắn nỏ, thi nấu cơm, gói bánh
chưng, bánh dày,... (truyện ngắn Mùa ăn chơi, tiểu thuyết Quê người, Nỏ
thần, Nhà Chử, Đảo hoang...). Nhưng con mắt tinh quái của Tô Hoài còn cảm
nhận cả những "phong tục đã lỗi thời" - những hủ tục như nạn tảo hôn (truyện
ngắn Vợ chồng trẻ con), nạn đòi nợ (truyện ngắn Khách nợ), nạn chữa bệnh
bằng lối mê tín dị đoan (truyện ngắn Ông cúm bà co), nạn cho vay nặng lãi,
nạn ma chay cưới xin, nạn chửi bới bêu xấu nhau... (tiểu thuyết Quê người),
khiến bao gia đình điêu đứng, bao số phận bi thảm, bao tình làng nghĩa xóm
rạn nứt. Không những thế, thói sĩ diện thường tình tiềm ẩn trong mỗi con
người nhiều khi cũng trở thành mảnh đất cho hủ tục hoành hành để lại kết cục
bi thảm cho con người. Lệ khao vọng làng (tiểu thuyết Quê nhà) khiến những
người nghèo khó càng điêu đứng, họ vừa lo sợ, vừa ước ao, vừa áy náy đăm
chiêu. Không hiếm người cùng đường phải trẫm mình, phải thắt cổ, giã biệt
gia đình, sống kiếp li hương. Đặc biệt là viết về đề tài miền núi sau Cách
mạng, Tô Hoài vẫn phản ánh đầy đủ sự đổi đời của người dân nhờ Cách mạng
nhưng tất cả được hiện lên trên cái nền của đời sống phong tục và hủ tục. Nhờ
đó, những sáng tác của ông mang lại dấu ấn đặc sắc riêng.
1.2.2.3. Cảm quan sinh hoạt phong tục về loài vật
Với một khả năng quan sát đặc biệt rất thông minh, hóm hỉnh, tinh tế,
lại có những ngày thơ ấu gần gũi với thế giới loài vật ngộ nghĩnh đáng yêu ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bãi cơm thi đầu làng, cùng một tình cảm đặc biệt dành cho những "người bạn
thân tình", ông đã cảm nhận thế giới loài vật nhỏ bé đáng yêu trong sự tồn tại
tự nhiên của nó.
Trong thế giới loài vật của Tô Hoài, mỗi con vật có một "cá tính" riêng:
Dế Mèn thích phiêu lưu,"sống" có " lý tưởng", có " hoài bão"; Dế Trũi "dũng
cảm" trong công việc, "thuỷ chung" trong "tình bạn"; chị Nhà Trò yếu đuối
hay bị "bắt nạt"; bác Xiên Tóc "chán đời" thích rong chơi; lão Cóc "khoác lác,
huênh hoang"; lão ếch Cốm đại vương "dở hơi"; Ri Đá "cần cù, chịu khó";
Mèo già "thâm độc"; Chuột Nhắt "huênh hoang"; Bọ Ngựa "khệnh khạng"; vợ
chồng Trê "gian ác xảo quyệt"...Không những thế, thế giới loài vật của Tô
Hoài còn có "đời sống tinh thần" phong phú, đa dạng. Mỗi loài, thậm chí mỗi
con vật bé nhỏ đều có tốt - xấu, dở - hay, vui - buồn trong trạng thái tự nhiên
của nó. Con My (Con mèo lười) là giống mèo mũi đỏ không biết bắt chuột,
chỉ biết ăn vụng, suốt ngày nó rong chơi, lười nhác. Đã lười còn hay đòi ăn
ngon - phải ăn cơm với cá và nằm tro bếp ấm. Mụ Ngan (Mụ Ngan) thì "đần
độn" quá, "đần độn đến phát ghét lên được", "thật là một thứ đàn bà đồ tồi",
tranh ăn với cả lũ con, bất chấp tiếng kêu thảm thiết của con ngan nhỏ, mụ
chẳng biết, chẳng đoái hoài gì. Không những thế, mụ còn "dí chặt chân lên
lưng nó mà xốc ngô như thường", để đến nỗi ngan con bị gẫy xương lưng.
Thậm tệ hơn nữa là, đến lúc ấy mụ lại rong chơi để mặc thây đứa con bị trọng
thương đang kêu khắc khoải. "Mụ làm như không biết rằng có một đứa con
mình vừa mới chết". Trong khi đó Gà Mái (Một cuộc bể dâu) vừa là "một
người đàn bà giỏi giang", vừa là "người đàn bà rất đa tình". Khi chưa vướng
vào bổn phận "nuôi nấng dạy dỗ con trẻ", "người đàn bà ấy" "yêu hết mình".
Nhưng khi đã được "làm mẹ", nó lại là một "bậc mẹ hiền gương mẫu". Mụ
không dám rời lũ con thơ đến nửa bước. Chăm chỉ kiếm ăn nuôi con, có khi
chỉ bới được một hạt đền nhỏ mụ cũng gọi chúng đến, cho chúng ăn. Mụ vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
"nhìn các con ăn, vừa nói chuyện vui vẻ". Chẳng may con mụ gặp hiểm nguy,
mụ "cong chòm đuôi lên, sù vành lông cổ", "nhảy lên như choi choi", bảo vệ
cho kỳ được những đứa con yêu quý của mình...
Thế giới loài vật trong cảm quan của Tô Hoài sinh động, ngộ nghĩnh,
có "thế giới nội tâm", có "số phận", có "phẩm chất", "cá tính" và "thói tật"
như con người. Chính cảm quan ấy đem lại một sắc thái riêng trên từng trang
sách viết về loài vật của ông. Trong con mắt của Tô Hoài, thế giới loài vật
không những có "đời sống nội tâm" phong phú mà còn rất "hoạt bát", "năng
động". Chúng cũng có "suy tính" và "hành động", có "phong tục" và "tập
quán" như con người. Vậy nên viết về loài vật, truyện của Tô Hoài không
phải là truyện ngụ ngôn, mà là truyện đồng thoại. Bên cạnh đó, mỗi loài một
"tập tục" riêng rất phong phú và đa dạng. Có lẽ những nhà văn quan sát tinh tế,
tỷ mỷ, nắm được từng "đặc điểm", "phong tục" của loài vật như Tô Hoài không
nhiều và cảm nhận một cách cặn kẽ như thế lại càng hiếm, vẫn biết rằng tất
thảy loài vật ấy đều hiện diện xung quanh chúng ta. Cảm quan về loài vật của
Tô Hoài thật đặc biệt, chẳng giống ai và cũng chẳng ai theo kịp. Chính nó tạo
tiền đề để "Tô Hoài (...) viết thành công nhất, hấp dẫn nhất về các loài vật".
1.2.2.4. Cảm quan thiên nhiên bình dị mang màu sắc tự nhiên, khách quan
Trong các tác phẩm của Tô Hoài, văn hóa, phong tục thường gắn với
những trang viết về thiên nhiên rất đỗi tài hoa. Tại đây, ta nhận thấy chất thơ
trong duyên kể Tô Hoài. Thiên nhiên trong văn Tô Hoài không kỳ vĩ như
thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Nó như những đóa hoa thấp
thoáng nhưng rất giàu sức gợi. Nó góp phần làm cho những câu chuyện đời
thường có thêm những nét nhạc trữ tình. Dĩ nhiên, để có được những nét nhạc
ấy, Tô Hoài phải rất tinh trong quan sát. Sự tinh tường và nhạy cảm ấy, chính
là ưu thế của Tô Hoài.
Bức tranh thiên nhiên có giá trị độc lập tự thân, gần với đời sống sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoạt của con người. Đó là thiên nhiên trong vẻ quyến rũ đầy sức sống của
cảnh sắc làng quê ngày mùa: "Mùa đông, giữa những ngày mùa, làng quê toàn
màu vàng, những màu vàng rất khác nhau (...). Màu lúa chín dưới đồng vàng
xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn lắc lư những chùm quả
xoan vàng lịm (...). Từng chiếc lá mít vàng ối. Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại
mở năm cánh vàng tươi. Buồng chuối đốm quả chín vàng. Những tàu lá chuối
vàng ối (...). Bụi mía vàng xong (...). Dưới sân, rơm và thóc vàng dòn. Quanh
đó, con gà con chó cũng vàng mượt. Mái nhà phủ một màu rơm vàng mới
(...). Tất cả đượm một màu vàng trù phú, đầm ấm lạ lùng" [24,97]. Khác với
nhà văn Nguyên Tuân - một nghệ sỹ của sự hoàn thiện tuyệt mỹ, từ con người
đến phong cảnh thiên nhiên trong con mắt của ông đều phải đạt tới vẻ đẹp
tinh khôi của tạo hoá. Vì thế, bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Tuân luôn có
vẻ đẹp rực rỡ, toàn bích. Từ màu sắc của nước biển Cô Tô đến cảnh đất trời
Tây Bắc, nơi có dòng sông Đà "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo",
nơi có bạt ngàn là hoa: hoa gạo đỏ, hoa ban trắng, hoa đào hồng rực rỡ... tạo
nên cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp khác thường; Khác với Nguyên Hồng, nhà
văn đặc biệt nhạy cảm trước những khung cảnh rộng lớn, hùng vĩ - trời cao,
biển cả, sông dài, nước rộng, nắng mênh mông...; Và cũng khác với Vũ Trọng
Phụng, thiên nhiên quay cuồng trong dông tố, thiên nhiên khốc liệt, dữ dội
luôn báo hiệu sự bất thường trong cuộc đời con người.:.; thiên nhiên trong
cảm quan của Tô Hoài mang đậm hình ảnh bình dị khách quan: có ánh sáng
và bóng tối, có mặt trời và mặt trăng, có nắng và mưa, có cỏ cây hoa lá chim
muông... như trong cuộc sống thực. Mỗi bức tranh thiên nhiên trên từng trang
sách của ông lại luôn gần gũi, gắn bó, theo sát với cuộc sống sinh hoạt của
con người. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét rất có lý rằng: "Tô Hoài miêu tả
thiên nhiên theo một cách nhìn ngắm tự nhiên, nhẹ nhàng, không có dấu vết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngăn cách khung cảnh thiên nhiên và bức tranh xã hội. Trong tác phẩm của
ông, thiên nhiên luôn có mặt và dường như là một nhân vật có cuộc sống, có
tâm hồn" [6;54]. Trong cảm quan của Tô Hoài, thiên nhiên còn thể hiện vẻ
quyến rũ đầy sức sống. Vẻ quyến rũ hiện diện trong nhiều cung bậc, khi là
khoảnh khắc thiên nhiên dữ dội vận động theo quy luật của tự nhiên, khi lại
rất hiền hoà, thơ mộng. Rõ ràng là thiên nhiên trong cảm quan của Tô Hoài
hoàn toàn mang đậm dấu ấn hiện thực khách quan. Nhà văn không tô hồng
hiện thực, cũng không né tránh sự thật cho dù đó là sự thật khắc nghiệt khiến
cuộc sống con người càng gian truân, vất vả hơn. Từ tấm lòng gắn bó với
cuộc sống, với đất trời, Tô Hoài đã cảm nhận phong cảnh thiên nhiên từ
những dáng vẻ hoang sơ nhất. Cảm nhận thiên nhiên, Tô Hoài luôn hướng tới
mọi phương diện tồn tại khách quan của nó. Do vậy thiên nhiên không chỉ có
vẻ dữ dội, khắc nghiệt, mà còn có vẻ đẹp nên thơ của cỏ cây hoa lá chim
muông - mang chất liệu nguyên sơ và tinh tuý của tạo hoá. Chắc hẳn mỗi
chúng ta đều không thể quên mùi thơm dìu dịu trong nắng của bó hương nhu
(Mương Giơn); mùi hương hồi thấm đẫm không gian xứ Lạng, bởi ở đó "một
mảnh lá gẫy cũng dậy mùi thơm" (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ); mùi hoa chanh
hoa bưởi sực nức, mùi hoa mộc, hoa cau ngoài hiên đưa vào thơm nhẹ (Nỏ
thần). và cũng không thể quên cảnh dữ dội trước con suối lũ (Miền Tây), cảnh
những con vắt nhua nhúa bám lên cổ, lên chân những người đi rừng (Nhớ Mai
Châu)... Có thể khẳng định, cảm quan hiện thực của Tô Hoài là yếu tố quyết
định tạo nên đặc sắc của tác phẩm.
1.3. Những yếu tố tạo nên cảm quan hiện thực về Hà Nội trong hành
trình sáng tạo của Tô Hoài
1.3.1. Tình yêu Hà Nội cháy bỏng và mãnh liệt
Bị “đóng đinh” cái tên vào “chú dế mèn”, rồi được nhắc đến như một
tác giả hàng đầu về truyện thiếu nhi và núi rừng Tây Bắc, vậy nhưng Tô Hoài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vẫn bảo rằng tất cả những gì ông viết đều gợi mở từ cảm hứng về một Hà Nội
nhiều thăng trầm. Đến giờ, ở tuổi 91, nhà văn đã song hành cùng mảnh đất
này gần như suốt toàn bộ thế kỷ XX và cả 11 năm đầu của thiên niên kỷ mới.
Năm 2010, ông đã được vinh danh với giải thưởng Lớn - Vì tình yêu Hà Nội
do báo TT&VH phối hợp với Quỹ Bùi Xuân Phái tổ chức, và năm 2011, ông
được trao danh hiệu Công dân Thủ đô ưu tú.
Quê gốc Tô Hoài ở làng Vạn Phúc, Hà Đông. Thế nhưng, ông lại lớn
lên ở vùng quê ngoại ven sông Tô Lịch. Chẳng vậy, cái bút danh Tô Hoài
cũng ghép từ hai chữ Tô Lịch – con sông quê với Phủ Hoài Đức - vùng Nghĩa
Đô, Cầu Giấy bây giờ. Còn bản thân nhà văn lại không mấy hào hứng khi nói
tới khái niệm “Hà Nội gốc”. Ông tâm sự:“Thật ra, lập nên Hà Nội cũng là do
dân tứ xứ dồn về, chứ làm gì có Hà Nội gốc tới mấy chục đời. Họa chăng, gốc
là dăm, bảy anh đánh cá từ hồi nó là vùng sông hồ chằng chịt”- nhà văn nói
rồi tủm tỉm cười. Nghĩ một lát, ông bảo thêm: “Tính cách người Hà Nội hay,
nhưng phải hiểu đó là cái hay kết chưng từ tinh hoa bao nhiêu xứ khác về đây.
Rạch ròi so sánh vùng nọ, vùng kia thì hơi khó”.
Hơn năm mươi năm qua, Tô Hoài chủ yếu viết về hai vùng quê Hà Nội
và Tây Bắc. Hai mảng không gian rất khác nhau này đều là nguồn cảm hứng
không vơi cạn của nhà văn. Có thể coi ông là nhà văn của Hà Nội, điều này
trước hết bắt nguồn từ sự gắn bó sâu nặng của ông với thủ đô. Không kể thời
gian kháng chiến chống Pháp và không kể những đợt đi công tác ngắn ngày,
thì từ nhỏ đến nay, Tô Hoài luôn luôn sống ở thủ đô. Tính đến đầu năm 1985,
ông từng viết 43 cuốn sách về Hà Nội. Bởi vậy, có thể nói, giữa thủ đô và một
đời văn như đời của Tô Hoài quả có nhiều mối quan hệ đặc biệt với nhau. Óc
quan sát tinh tế và tỉ mỉ đã giúp Tô Hoài nhớ và ghi được nhiều chi tiết về
cuộc sống Hà Nội. Tô Hoài lý giải kinh nghiệm viết đơn giản bằng sự quan
sát và suy ngẫm về mọi mặt của cuộc sống đang diễn ra quanh mình. Ông kể,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thập niên 1990 đọc Bố mìn mẹ mìn, lãnh đạo thành phố gặp ông bèn hỏi
nguyên cớ để dựng được một vỉa hè Hà Nội sống động đến thế - với đủ cả
những xe kéo, đội xếp, ông đồng bà cốt, hàng rong... ngổn ngang và nhếch
nhác trong thời Pháp thuộc? “Thì hồi đi bán thuê cho cửa hàng giày, cứ rảnh
là tôi lang thang mãi suốt đoạn dọc Hàng Đậu và Gầm Cầu để đi ra phố cổ”.
Ông bảo: Ngày xưa, sông Tô Lịch vẫn còn rộng, bờ cỏ đủ xanh dày để trẻ con
vùng Hoài Đức bắt dế chọi chơi. Cơ duyên ra đời Dế mèn phiêu lưu ký cũng
là từ đấy, từ vùng đất ngoại thành Hà Nội. Bởi thế, dù không có một cái tên
cụ thể nhưng tất cả những cảnh, vật, người trong câu chuyện đồng thoại đấy
luôn khiến độc giả hình dung tới những vùng quê quanh lưu vực sông Hồng.
Thậm chí, truyện Kẻ cướp Bến Bỏi viết về những người học trò Cao Bá Quát
ở Bắc Ninh nhưng nhà văn cũng “lôi” được họ về Hà Nội với những địa danh
như Kẻ Chợ, Khải Bối, Đình Ngang...
Nói về khu phố cổ Hà Nộ i, nhà văn Tô Hoài từng tâm sự : “Nhà cửa có
thể khác tí chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn
vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào
thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa
hè vẫn là vỉa hè cũ . Ở các phố Ngô Quyền , Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng
Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ… đầu vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè
xưa, vỉa hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi
Trầm. Lý do dùng đá ốp vỉa hè vì dạo ấy ta chưa có lắm xi-măng. Đi trên
đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên
dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn
nguyên cả dòng chữ “Marseille”. Đó là nắp cống đúc từ bên Pháp, rồi mang
sang bán ở ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh
bây giờ, Pháp có mở Công ty Sacric. Đấy là công ty gạch ngói Đông Dương.
Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chuyên chở sang . Thuyền bè bấy
giờ tấp nập lắm . Hồ Tây trước đây rộng lắm . Ngút ngát cả một vùng trời
nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp . Ven bờ, người ta còn thả nhiều
sen lắm”. Nhữ ng kí ứ c về Hà Nộ i dườ ng như bao giờ cũ ng ngồ n ngộ n, đầ y ắ p,
tườ ng tậ n , rõ ràng và tồn tại mãi mãi trong trí nhớ của nhà văn Tô Hoài .
Chẳ ng thế mà vớ i Hà Nộ i , ông có thể “nhắm mắt đi đến bấ t cứ khu phố nào
cũng được”.
Hà Nội gắn liền với cuộc sống củ a Tô Hoài như hơi thở p hải đi liền với
sự số ng , vì thế mà ông có những cách nhìn người Hà Nội hết sức độc đáo .
Ông từ ng nó i rằng : "Người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy là
tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. Dân Hà Nội là dân tứ chiếng. Vì thế, ở
Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là
một nét rất hay của Hà Nội” [16].
Tô Hoài rất am hiểu về Hà Nội. Ngoài vốn sống trực tiếp, ông còn tạo
vốn sống gián tiếp bằng cách chăm chỉ đọc báo, hàng ngày ghi chép tỉ mỉ
những chi tiết về giá cả sinh hoạt chợ búa, tiếng nhà nghề, tiếng lóng, tiếng
"thời đại", những mốt quần áo, bài hát, trò chơi... thông dụng trong từng giai
đoạn. Tô Hoài còn cùng với Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng đến khắp
các quán ăn Hà Nội, Từ Đại Lầu, Hoan Lạc Viên, Mỹ Kinh của người Hoa,
đến bà bún thang đeo chuỗi ngọc xanh trong chợ Đồng Xuân, bà nem chua
giò chả chợ hàng Da, ông kính cận canh giò sấu phố Hàng Buồm, ông Văn
Phú ếch tẩm bột rán phố Ga, ông Sinh thịt chó chợ hoa Cống chéo, bà cụ chả
cá phố Hàng Lược, bác phở "sửa sai" phố Hàng Giày, quán ông "Thủy Hử"
ngõ Ngô Sĩ Liên, hiệu chả cá Lã Vọng của các con ông My phố Chả Cá...
Những quán, cửa hiệu này bác Tuân và bác Tưởng đã là khách quen từ trước
năm 1945. Khi thấy bác Tuân đến, bà My ra chào và hỏi một câu thân mật:
"Hồi này các ông đóng ở đâu mà không thấy lại chơi". Lại có quán, bà chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quán tóc trần cuốn lần khăn nhung, mặc the tứ thân nâu, trịnh trọng đưa cơi
trầu ra mời bác Tuân bác Tưởng, giọng đặc Hà Nội cũ: "Chẳng hay quý ông
nhậm chức đây hay rồi còn phải đổi đi đâu?". Tô Hoài mặc cho bác Tuân, bác
Tưởng thù ứng với chủ quán theo phép lịch sự, chỉ tủm tỉm cười quan sát rồi
về ghi chép, để sau đó viết ra những trang đặc sắc về quà Hà Nội trong
Chuyện Hà Nội tinh tế, cặn kẽ hơn cả những trang viết của Thạch Lam trong
Hà Nội ba mươi sáu phố phường, Vũ Bằng trong Miếng ngon Hà Nội..
Tô Hoài khẳng định: “Nhà văn phải viết về những gì xảy ra quanh mình
và với mình. Đời tôi chủ yếu sống ở Hà Nội, không viết về nó thì biết làm gì?”.
Trả lời một cuộc phỏng vấn, Tô Hoài nói về đề tài và cách viết của ông: "Cho
tới nay tôi đã viết và in hàng trăm đầu sách, và dù nhân vật có là con vật được
nhân cách hóa nhưng thật thì tôi cũng chỉ tập trung vào hai đề tài: 1 - Vấn đề và
con người vùng ngoại ô thành phố Hà Nội, bởi vì ngoại thành là sinh quán của
tôi và cho tới nay tôi vẫn đi về đấy, do vậy, hầu như đó là một đề tài do bẩm
sinh. 2 - Trong kháng chiến chống Pháp, tôi đã ở Việt Bắc ngót mười năm, về
sau còn đi lại nhiều nữa, nhờ vậy tôi am tường đôi chút về một số dân tộc anh
em như Tày, Nùng, Dao, H'Mông... Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một
quê hương đề tài của tôi. Đề tài của tôi chỉ có hai, không nhiều và không phải
cái gì cũng viết được. Còn như tôi thường miêu tả phong tục, tập quán thì cũng
là một quan niệm cho phương pháp xây dựng truyện và nhân vật của tôi. Tôi
cho rằng câu chuyện và nhân vật phải luôn luôn được bao bọc và ảnh hưởng
qua lại với phong tục, tập quán, nghề nghiệp và quan hệ từ gia đình ra ngoài xã
hội". Một người có khiếu văn chương được số phận đặt vào giữa dòng chảy đời
sống của Thủ đô, hóa ra không phải Tô Hoài mà chính Hà Nội chọn ông là một
trong những tác giả viết về con người và cuộc sống nơi này.
1.3.2. Nhãn quan phong tục đặc biệt
Nhãn quan phong tục đem lại cho tác phẩm của Tô Hoài sức hấp dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
riêng biệt và độc đáo. Đọc Tô Hoài, người đọc được tiếp xúc với vô số phong
tục, tập tục từ sinh hoạt trong gia đình, trong nhà, đến những sinh hoạt cộng
đồng, lễ hội, ma chay, cưới hỏi..., ở rất nhiều vùng, từ làng quê ven thành,
vùng đồng bằng Bắc Bộ đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi,
cả ở những xứ sở xa xôi ngoài bên giới. Bất cứ nhà dân tộc học, xã hội học
nào cũng mong có được một vốn hiểu biết cực kỳ phong phú, sinh động như
của nhà văn Tô Hoài. Trong những tác phẩm viết về thời dựng nước xa xưa,
Tô Hoài tạo dựng được không khí và màu sắc huyền sử bằng những bức tranh
chi tiết cụ thể sống động về phong tục, sinh hoạt, lao động của thời xưa cùng
với những bức tranh thiên nhiên, trong thời kỳ mà bước chân và bàn tay khai
phá của con người đang lấn dần từ vùng đồi núi xuống vùng châu thổ còn
hoang sơ, rậm rạp, mênh mông, đến cả những hòn đảo ngoài biển. Tô Hoài
không hấp dẫn độc giả bằng các thủ pháp mới lạ trong cách viết, trong nghệ
thuật kết cấu tác phẩm. Nhà văn cứ để dòng đời trên trang sách trôi chảy tự
nhiên, nhiều khi khá lặng lẽ, với nhiều quãng dừng, mạch rẽ ở những chỗ
miêu tả sinh hoạt, phong tục thiên nhiên. Mạch truyện vì vậy thường chậm, ít
có những chỗ được đẩy tới căng thẳng, những cao trào. Người kể chuyện
trong truyện của Tô Hoài cứ nhẩn nha, bình thản mà kể, mà tả. Nhịp điệu
chậm trong tiểu thuyết của Tô Hoài có thể làm cho một số người đọc dễ sốt
ruột, khó kiên trì theo cùng với tác giả trên hành trình của dòng đời và nhân
vật. Đây phải chăng cũng là một đặc điểm khiến cho tiểu thuyết của ông khó
được ưa thích với một số người đọc. Nhưng vượt qua những hạn chế ấy, bạn
đọc đến với tiểu thuyết Tô Hoài là đến được với những pho bách khoa thư về
đời sống, cả hiện tại và xa xưa, ở nhiều vùng từ gần gũi đến xa xôi.
Trước Cách mạng, Tô Hoài viết nhiều về vùng quê ngoại của mình –
làng Nghĩa Đô với các khu vực lận cận như Bưởi, Trích Sài, Thuỵ Khuê,
Võng Thị…Những đường thôn ngõ xóm, những căn nhà đơn sơ luôn vẳng ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiếng khung cửi lách cách, những “tàu seo” róc rách nước đêm khuya, những
cánh đồng ruộng, những mảnh vườn đủ thứ cây quả của một làng quê nghèo.
Nơi đó là không gian sinh tồn của thế giới nhân vật Tô Hoài: những người
nông dân, người thợ thủ công hoặc nông dân pha thợ thủ công, vừa làm ruộng
vừa dệt lụa và dệt lĩnh. Ông còn miêu tả một thế giới những loài vật bé nhỏ
với sự phong phú của tính cách, số phận và tâm trạng. Thông qua thế giới loài
vật ấy, nhà văn muốn hướng tới những phận người, như qua đôi chim ri đá,
ông thấy cả “hình bóng của một thứ người cù rù nhưng nhẫn nại, lam lũ và
luôn chân lấm tay bùn - thứ người cần lao của đồng ruộng”. Chúng “ăn ở dè
sẻn, bình lặng, chịu khó, ồn ã. Cuộc đời trôi chảy âm thầm dưới khu lá xanh,
y như cuộc đời của những người Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khó trên cái
khung cửi, trong bốn luỹ tre già” (Đôi ri đá - truyện ngắn).
Tác phẩm Cỏ dại miêu tả cụ thể hơn một xã hội của vùng ngoại thành
Hà Nội thông qua hồi ức của chính mình thời thơ dại. Tác giả kể lại những
hồi ức khó quên của thời học sinh những ngày đi học trường làng thật khủng
khiếp và hài hước: hơn hai mươi năm trời ra Hà Nội ở với người bạn thân của
bố, tiếng là trọ học nhưng cả ngày quần quật làm đủ thứ việc của một chân
giúp việc ở cửa hàng tạp hóa: dọn hàng, đánh giày, cọ chai, lau xe, rửa
bát…Với những trang văn ấy, Tô Hoài đã miêu tả xã hội vùng ngoại thành Hà
Nội với những phong tục và những con người đặc trưng của nó, đã ghi nhận
cảnh đời ngày một lam lũ, bần hàn của người nông dân và cuộc sống quẩn
quanh, mòn mỏi của lớp thị dân nghèo.
Nói là viết về Hà Nội, nhưng không gian nghệ thuật trong tác phẩm của Tô
Hoài chủ yếu thu hẹp trong phạm vi vùng “kẻ Bưởi” quê ông. Càng về sau,
quy mô hiện thực càng có sự bao quát, rộng mở và biến chuyển, thay đổi cả
về không gian và thời gian. Ông viết về Hà Nội hồi đầu thế kỷ với những
cuộc đấu tranh, quật khởi chống Pháp ngấm ngầm công khai (trong tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuyết Quê nhà, truyện ngắn Câu chuyện bờ đầm sau cửa miếu Đồng Cổ).
Với tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài muốn dựng lại một giai đoạn lịch sử dữ
dội và phức tạp, đau thương nhưng sôi động thời kỳ Mặt trận dân chủ đến
Cách mạng tháng Tám ở vùng ven thành quen thuộc. Tô Hoài còn dụng công
miêu tả Hà Nội trong những ngày xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh B.52
trong truyện ngắn Phố và tiểu thuyết Những ngõ phố, người đường phố. Các
tác phẩm đó của Tô Hoài đứng cạnh nhau, tạo thành một bức tranh liên hoàn,
khắc hoạ những chặng đường biến đổi của Hà Nội. Nhân vật chính trong các
tác phẩm đó, không ai khác, vẫn là những người thân thiết cũ của ông: người
nông dân ngoại thành. Nhưng họ xuất hiện với tư thế khác, không còn là
những con người nạn nhân bé nhỏ, mà là những người có ý thức về sức mạnh
của mình, về nghĩa vụ đối với đất nước lúc nan nguy, lặng lẽ và kiên trì đóng
góp vào cuộc vận động chống Pháp đầu thế kỷ.
Điều đáng quý ở những tác phẩm này còn ở giá trị tư liệu của nó. Biết
bao nhiêu thứ chuyện, bao nhiêu cảnh đời một thời vang bóng đã được tái
hiện một cách sống động. Nó giúp ta hiểu quá khứ từ những chi tiết nhỏ nhặt.
Những tên đất, tên trạm, những đặc sản địa phương. Cách chạm cửa miếu và
lễ dựng nóc, cảnh rước kiệu linh đình, kiệu bay, kiệu bò, cách nói, cách gọi đồ
vật theo lối xưa…Tất cả làm tăng màu sắc cổ kính của tác phẩm và chứng tỏ
công phu tìm tòi hết sức say mê, tỉ mỉ của tác giả để có thể gợi lên “hồn núi
sông ngàn năm”.
Tuy vậy, nhược điểm dễ thấy của những tác phẩm này là kết cấu
chuyện không chặt, dễ gây ấn tượng tản mạn, rời rạc, nhiều cái kết đột ngột
nhưng kém dư ba, nó là kết vội. Sự kiện, chi tiết còn ngổn ngang, bề bộn,
chưa được sắp xếp theo một cấu trúc nhất quán hay một trật tự hợp lý. Và ở
một khía cạnh nào đó, tác giả chưa miêu tả được những khía cạnh bản chất
nhất của hiện thực lịch sử những năm tiền khởi nghĩa. Nhiều nhân vật, kể cả
những nhân vật chính – chưa được thể hiện trong những mối quan hệ xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chính trị, vì thế, họ không thực sự có cá tính sắc nét và đạt tới độ điển hình.
Hơn 90 năm sống với hàng loạt thăng trầm của Hà Nội, Tô Hoài gần
như viết về mọi giai đoạn lịch sử của mảnh đất này. Thời Pháp thuộc có Bố
mìn mẹ mìn, Chuyện cũ Hà Nội. Thời chống Mỹ, Hà Nội dưới mắt ông tổ
trưởng tổ dân phố Tô Hoài ẩn hiện trong những Chiều chiều, Cát bụi chân
ai... Rồi sang thế kỷ 21, ở tuổi ngót 90, ông lại có tập tản văn Giấc mộng ông
thợ dìu với những cái nhìn khá độc đáo về một Hà Nội đang thay đổi từng
ngày. “Tôi chỉ thích viết về quần chúng, viết về người lao động bình thường.
Bắt mình viết về anh trí thức nghèo như Nam Cao thì khó, bởi mình có phải là
anh giáo như “hắn” đâu” - Tô Hoài nói. Ngẫm ra, từ khi mới cầm bút, những
trang viết về Hà Nội của Tô Hoài luôn có những nét rất riêng: có lúc hơi bụi
bặm, nhếch nhác xô bồ nhưng vẫn đáng yêu bởi tràn đầy hoài niệm và sự cảm
thông, chia sẻ của những con người đang sống nơi ấy. Con mắt tinh đời và có
phần “lọc lõi” từ rất sớm của Tô Hoài luôn giúp ông đọc ra những góc khuất
các mẫu nhân vật của mình, để từ đó thanh thản biết chấp nhận cái phần
không hoàn thiện của cuộc sống như nó đang diễn ra. Tô Hoài tâm sự, suốt
ngần ấy năm, đi đâu về đâu, ông vẫn yêu và nhớ nhất là vùng quê ngoại Nghĩa
Đô, Cầu Giấy của mình. Hà Nội có thay da đổi thịt đến mấy, ông vẫn có thể
nhắm mắt mà đi băng băng trên những vỉa hè trong khu phố cổ, dù đã không
còn lát đá xanh và những nắp cống tròn đúc bằng gang như thời xưa.
Cũng theo tâm sự của người trong cuộc, Tô Hoài đã từng trả lời về mục
đích viết tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội: “Hà Nội: Thủ đô nghìn năm của đất
nước. Nơi chung đúc tinh hoa của cả nước. Mọi sự việc xảy ra ở đây đều
mang tính tiêu biểu và điển hình văn hóa, chính trị, xã hội từng thời kỳ.
Những chuyện cũ viết hầu hết khi nước ta còn bị thực dân Pháp đô hộ… Hà
Nội: lầm than và quyết liệt thuở ấy, để lớp trẻ sau này có dịp so sánh đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiếu với cuộc sống hôm nay”.
Tuổi 91, yếu đi rất nhiều vì bệnh gout và tiểu đường, nhà văn lão thành
này vẫn hào hứng kể về một cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành nếu sức khỏe cho
phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng Tám như những gì mình trông
thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần chúng mà còn có cả những
chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo đang lúng túng không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biết chọn đường nào”.
CHƢƠNG 2
CẢM QUAN VỀ XÃ HỘI, CON NGƢỜI VÀ PHONG TỤC
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI
2.1. Cảm quan về xã hội
2.1.1. Hà Nội với những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống
Viết về mảnh đất Thăng Long xưa, như lời tác giả, là “tự thuật đời sống
tinh thần vật chất và hoạt động của một địa phương…là khơi gợi và xem xét
thấy được lịch sử của mỗi vùng làm nên hình ảnh cả nước, cả dân tộc, có nối
tiếp và lâu dài. Nó cũng là kỷ yếu đời người, bài học hôm nay và mai sau”. Vì
vậy, vẻ đẹp của một Hà Nội với những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống đã
được Tô Hoài tạo dựng trên những trang văn giản dị mà diễm tuyệt.
Một trong những đặc điểm đầu tiên nhận diện văn hoá của một vùng,
miền chính là ở cách người ta ăn uống và cư xử với nhau. Tô Hoài đã chỉ ra
nét đẹp của người Hà Nội nói riêng, người Việt Nam nói chung trong cách
thức ăn uống khá riêng này: “Một mâm cơm, dẫu xềnh xoàng ở gia đình,
dùng mâm chõng, mâm gỗ, nhà có thì mâm đồng, mâm nhôm, nhưng mỗi thứ
bày ra đều có trật tự nhất định. Bát nước chấm đặt giữa. Không để bát cà, bát
dưa, những thức ăn kém giá trị trước mặt người cao tuổi, người trên. Hai bát
canh không đặt liền nhau. Con trẻ ngồi mâm với người lớn thì lễ phép lấy đũa
so cho mọi người, để ý đặt đầu đũa to ra ngoài, để tiện tay người cầm. Khi ăn,
không nhai nhồm nhoàm, tóp tép, không vừa lúng búng nhai vừa nói chuyện”
[14,413]. Ngay cả cách ngồi cũng bộc lộ sự ý tứ riêng, điều mà có lẽ thời nay,
đã trở nên mai một: “Vợ chồng ý tứ không ngồi bên nhau, cũng như nàng dâu
và con gái thì giữ chân đầu nồi xới cơm cho cả nhà”. Ở một nhà cách thức ăn
uống đã cẩn thận như thế thì ra chỗ đình trung, cái tiếng to hơn cái miếng, thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chỗ ngồi và cách thức ăn uống càng phải cẩn trọng hơn. Như “làng có khách
trên về, khách ngồi với các ông chức việc cao, sau đến mâm tuần phiên trai
tráng. Người mõ có phần, có chỗ ăn uống một mình. Phụ nữ thì chẳng bao giờ
được dự lễ bái và ăn cỗ uống rượu trong đình” [14,415].
Tô Hoài từng nhận định: “Mỗi người ta đều có nếp nghĩ, cái nhìn và
thói quen được truyền lại có lẽ cả nghìn đời. Như, người Việt Nam chỉ để ý
một năm có tháng nhuận không, tháng này thiếu hay đủ, không quan tâm một
năm bao nhiêu ngày. Ăn cỗ mừng sinh nhật là môt nét mới, trước kia chỉ có
mừng thọ, thượng thọ, lên lão và rất voi trọng nền nếp ngày giỗ. Một năm có
những ngày bình thường, lại có những ngày khác thường, ngày khác thường
ấy là những ngày cúng giỗ, tết nhất” [14;370]. Hiểu thấu thói quen và cũng là
một nét văn hoá cổ truyền của người Việt, Tô Hoài đã tỉ mẩn ngồi điểm lại
những ngày Tết của một năm: Tháng giêng gồm Tết cả, Tết nhất, tết Nguyên
Đán; mùng bảy lễ hạ nêu và động thổ; tháng giêng tết thanh minh đi tảo mộ;
rằm tháng giêng cúng ngày Phật sinh; mùng ba tháng ba tết bánh trôi bánh
dùng; Tết mùng năm tháng năm giữa mùa hè giết sâu bọ; rằm tháng bảy xá tội
vong nhân; rằm tháng tám tết Trung thu; mùng chín tháng chín tết trùng cửu;
tháng chạp 23 cúng ông Công ông Táo, lễ sắp ấn ngày 25, chiều 30 tết cúng
tiên thường…Riêng về ngày giỗ, Tô Hoài cẩn thận lí giải ngay rằng “cúng giỗ
không phải chỉ vì mê tín mà trước nhất là nhớ người đã khuất và ý nguyện cầu
mong điều tốt lành. Dù không phủ nhận những phiền hà, hệ lụy xung quanh
chuyện giỗ tết, nhưng nhà văn muốn người đọc nhìn vào chiều sâu của thói
quen này để nhận ra một nét đẹp của tâm hồn Việt. Vì sao những con người
mà ngày thường chỉ có “niêu cơm và vài ngọn rau dền rau bí vơ ngoài vườn
xưa kia còn cơm độn, tháng ba ngày tám bát cơm ngữ, bát độn khoai” vậy mà
sẵn sàng “no nê đụng bát đụng đũa khi khác thường”. Ông đã lí giải căn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nguyên của sự “hoang phí khác thường” ấy và nhủ mọi người “đừng lấy thế
làm lạ. Người ta gánh cái thiếu thốn cả đời đã lâu, lại cũng thói quen bóp
mồm bóp miệng ngày thường” [14;374].
Bàn đến chuyện giỗ tết, nhà văn không quên miêu tả nét đẹp trong đời
sống người Việt khi luôn nhớ tới người đã khuất, dành riêng cho người đã
khuất một ngày để tảo mộ Thanh minh trong tiết tháng ba…. Tô Hoài cho
rằng: “Tục lệ sửa sang phần mộ cuối năm khác nào đánh tiếng với người đã
khuất hằng năm hết Tết đến nhớ về đoàn tụ. Ấy thế mà vẫn áy náy hình như
chưa hẳn đã là chu tất. Đến bữa cơm canh cúng chiều ba mươi, mỗi nhà lại
khẩn thiết khấn mời, xin các cụ, các vong hồn ở xa đến đâu cũng cố về sum
họp với cả nhà trước giao thừa, cho kịp năm mới. Người sống đoàn tụ đã đành
nhưng còn băn khoăn, sốt ruột nữa, người dưới âm có về kịp, đủ không”. Phải
chăng, chính tình yêu thương xuyên mọi cõi thời gian và không gian ấy, sự
giao lưu về mặt tâm hồn giữa người trên dương thế với kẻ đã khuất chốn âm
là một vẻ đẹp đáng quý trong nếp sống của người Việt bao đời, bởi điều ấy
góp phần tạo nên sự bền vững trong đời sống gia đình, sợi dây kết nối nhiều
thế hệ.
Dân gian đã có câu “lời chào cao hơn mâm cỗ”, Tô Hoài sắc sảo chỉ ra
nội dung của hai từ “chào hỏi” mà ta thường rất dễ bỏ qua: Chào là chào
người trên, người ngang vai và hỏi người dưới. Không chào người dưới,
nhưng thường ngỏ lời khéo và thân: thế nào, hồi này con (cháu/em) có khoẻ
không?. Nhà nề nếp,việc chào hỏi được dạy từ khi trẻ mới biết nói. Và lớn
hơn, khi thấy sơ suất thì nhắc nhở. Không được lừ lừ đi về, dù là người ruột
thịt gặp hàng ngày. Nhưng nhìn về nét đẹp của Hà Nội xưa, Tô Hoài cũng
không nguôi lo lắng về hiện tại, khi ông thấy: “Những chuyện về chào hỏi
trên kia xem ra ngày trước được giữ gìn. Bây giờ chểnh mảng nhiều. Tôi đi
vào trong ngõ nhà tôi, các cháu gặp, chẳng mấy cháu nhớ chào tôi. Có cháu đi
không tránh, cứ đâm thẳng vào chân, vào vai tôi rồi nó tỉnh bơ, cười trừ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Những thói ấy xa lạ với nếp nhà”.
Vốn là một dân tộc yêu lễ nghĩa, quý chữ, lại là người dân của chốn
kinh kỳ, người Hà Nội trong trang viết của Tô Hoài rất trọng một nét văn hoá
đẹp trong những ngày đầu năm mới, đó là “khai bút”. Mà nét đẹp này, có tự
thuở xưa “người làm việc quan, dẫu chỉ chức tước ở làng bé bằng con muỗi
mắt, có cái triện đồng triện gỗ, đồng triện hay mộc triện giắt hầu bao, ông
trưởng bạ trông coi sổ sách về đất cát, điền địa đều làm mâm lễ sắp ấn hôm
hai mươi tháng chạp rồi sang giêng được ngày lành lại làm cỗ cúng khai ấn”.
Người có học thì khai bút, anh thợ cửi thì “động thổ khung cửi” lấy ngày vào
mùng sáu, đồng áng nhà nông thì mùng bảy dắt trâu ra cày vài đường làm lễ
hạ điền…Tất cả những tục lệ này đều chan chứa ước vọng về một năm mới
may mắn, thành công.
2.1.2. Hà Nội trong sự phồn tạp của nhiều giá trị văn hóa
Hà Nội trong tác phẩm của Tô Hoài được miêu tả như một dòng chảy
phồn tạp với sự hoà hợp của nhiều giá trị. Chỉ riêng khuôn mặt của phố Hàng
Ngang đã được ông miêu tả với những vẻ mặt khác hẳn nhau: “Phía giáp
Hàng Đường thì sầm uất, chen lẫn những nhà làm xưởng với các nhà làm kẹo
bột, người cởi trần đứng vắt dây đường vào cột kéo kẹo cả ngày. Xưởng dệt
Lợi Quyền, hiệu chè Chính Thái, kẻ ăn người làm khách buôn tấp nập ra vào,
qua lại. Lại đám ăn mày rách lướp tướp chỉ thấy những đầu gối trố ra; bọn bói
bài Tây nhâng nháo, với lũ kẻ cắp móc túi nháy mắt tụ tập rồi kéo vào chợ.
Trên vỉa hè ra đến chợ Đồng Xuân, người nhốn nháo chốc lại hô hoán bị giật
nón, người xô đẩy kêu khóc, cái dùi cui của đội xếp nện xuống đám đông túi
bụi” [14,110]. Chỉ một đoạn văn ngắn miêu tả một con phố đủ thấy hiện lên
khuôn mặt của một xã hội trước Cách mạng thu nhỏ lại: một Hà Nội sầm uất
phồn hoa của những tay buôn, vẻ lam lũ nhọc nhằn của một Hà Nội cần lao
với những thợ thủ công khó nhọc, một Hà Nội rách rưới của những kẻ ăn
mày, một Hà Nội nhốn nháo của những kẻ bất lương, một Hà Nội vào nề nếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dưới dùi cui của những tay đội xếp…
Nhưng điêu đáng nói là, đó không chỉ là một Hà Nội thuần Việt, mà,
vào những tháng ngày thuộc Pháp ấy, nơi đây còn là nơi lưu dấu khuôn mặt
của những ông Tây, bà đầm với những hội Tây ồn ã, lai căng. Đó là hình ảnh
của một phố toàn Tây đen bán lụa, những người tới từ các đất thuộc địa của
Pháp ở Ấn Độ, những thành phố Mađrat, Mahê, Săngđecnago, họ gặp gỡ, tán
tỉnh ghen tuông ầm ĩ mỗi sáng mai. Nếu hội làng trống đánh chiêng reo náo
nức sân đình, trai gái hẹn hò, trẻ con nắm váy bà, theo chân mẹ, xúng xính
ngắm những ông áo the, khăn sếp…thì hội Tây “toàn trò chơi cù người ta
cười”. Tô Hoài còn hóm hỉnh, mỉa mai (và có thể, rất nhiều ái ngại xa xót nữa)
khi miêu tả một đoàn lính An Nam mặc giả làm đàn bà da đen nước Đa –hô-
mây bên Châu Phi: “Ở ngực mỗi người buộc hai chiếc bong bóng lợn nhuộm
đen thành hai cái vú giả thỗn thễn, chỏm vú chấm phẩm đỏ hây, mỗi bước đi lại
bần bật nảy lên”. Để có được đội hình sinh động đó, các “ông cai đã lột trần
từng người lính An Nam ra, lấy cồn trộn bồ hóng trát đen nhóng nhánh khắp
người, cả chân tay mặt mũi” [14,246]. Vậy mà người An Nam vẫn “ham vui”,
chen nhau vòng trong vòng ngoài. mặc cho bọn đội xếp “chiếc dùi cui cao su
trắng quật đôm đốp như mưa xuống đám người đương đun đẩy nhau”.
Sự phồn tạp của những giá trị văn hoá ấy còn được thể hiện rõ nét qua
hình ảnh các món ăn ở phố Cửa Đông: “Một chiếc bánh tây tròn xoe như cái
đấu, môt mảnh lườn gà luộc. Một miếng bít tết bò xù xì tím như miếng tiết.
Những hiệu Nhật Tân, Tây Nam, Mỹ Kinh trên Hàng Buồm, Asia Hàng Bông
..” [14;268]. Như vậy, dưới con mắt của Tô Hoài, Hà Nội hiện lên vừa gần
gũi trong những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống, vừa lạ lẫm bởi dòng chảy
phồn tạp giữa đời thường.
2.2. Cảm quan về con ngƣời
2.2.1. Con người Hà Nội trong nét đẹp văn hoá truyền thống
Viết về người Hà Nội, dù ít hay nhiều, đã trở thành mối ám ảnh không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chỉ của Tô Hoài. Dù ở dạng thức thể loại nào, các cây viết tâm huyết với Hà
Nội đều muốn đưa ra những nhận xét, những góc nhìn về con người được coi
là tinh hoa đất nước. Về Người Hà Nội có thể ấn tượng với bài viết của Hoàng
Hưng, của Lê Phú Khải. Tuy không phải là nhà nghiên cứu, nhưng họ là
người Hà Nội gốc kể về người Hà Nội gốc: Hoàng Hưng có tám nhận xét về
Người Hà Nội:
1. Coi trọng đời sống gia đình. Một gia đình yên ổn, nền nếp, có trên có dưới,
có tình có nghĩa. Khó hy sinh gia đình cho sự nghiệp, lý tưởng.
2. Có ý thức mạnh mẽ về lợi ích cá nhân, quyền tư hữu, không dễ để người khác
xâm phạm, dễ bị coi là "khoảnh", tính toán, nhưng cũng không thích xâm phạm
lợi ích người khác, sòng phẳng, rạch ròi ("yêu nhau rào giậu cho kín").
3. Coi trọng tự do cá nhân của mình cũng như của người. Trong quan hệ
ngoài gia đình như bà con, bè bạn, đồng nghiệp, hàng xóm… giữ giới hạn ở
mức phải chăng, "thoang thoảng hoa nhài". Ngại tranh chấp, đối đầu, "dĩ hoà
vi quý". Dễ bị xem là "khôn ngoan", dễ trở thành ba phải, "hoà cả làng".
4. Lịch sự, tế nhị trong giao tiếp xã hội, cả về ăn vận lẫn lời ăn tiếng nói. Ghét
sự thô thiển, lố bịch, trắng trợn. Ngại "nói toạc móng heo". Chỉ muốn làm
người tử tế, biết điều.
5. Không chỉ cắm cúi làm việc mà biết hưởng thụ cuộc sống, và hưởng thụ một
cách hào hoa, thanh nhã, có chừng mực, không mê đắm, sa đà hay "sả láng".
6. Tôn trọng nền nếp có sẵn: gia phong, luật lệ, quy ước xã hội. Có thể thích
nghi với sự thay đổi chứ không chủ động tạo nên thay đổi.
7. Trọng danh dự, trọng chữ "tín" trong các quan hệ. Tự trọng trong công
việc, có lương tâm nghề nghiệp. Có thể kiên nhẫn để vươn lên hoặc khôi phục
quyền lợi, điạ vị bị mất một cách từ tốn. Không thích mạo hiểm hay thành
công bằng mọi giá.
8. Trung dung, một vừa hai phải. Ôn hoà, không cực đoan hay quyết liệt. Lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trí mạnh hơn tình cảm. Tư duy lô-gích mạnh hơn trực cảm, bản năng.
Lê Phú Khải nói về đặc trưng phổ quát của người Hà Nội: "Người Hà Nội ưa
thích sự liêm chính trong sạch không có "máu" tham nhũng, không thích hà
hiếp kẻ dưới, người Hà Nội thanh lịch đến lịch lãm. Họ rất hào hoa, phong
nhã, có trí thông minh, có tư duy sắc bén, lập luận chặt chẽ, có ngôn ngữ
trong sáng, gọn gàng, có sức hấp dẫn với mọi người. Nếu ở một thời đại thanh
bình, người Hà Nội sẽ là những nhà khoa học trung thực, họ có phẩm chất của
những vị "tôi hiền" trong một triều đình có "vua sáng", có minh quân. Người
Hà Nội không có chí tiến thủ, không dám làm việc lớn "khai sơn phá thạch"
"lay thành nhổ núi" như các cụ Phan, cụ Hồ ở miền sông Lam núi Hồng.
Người Hà Nội sống khép kín, lo gia đình vợ con, không xâm phạm của ai,
quan hệ thì có đi có lại, không hào phóng như người Nam Bộ. Người Hà Nội
sống bình lặng, lịch lãm, tôn trọng lẽ phải đạo đức và chính nghĩa, thích gặm
nhấm nỗi cô đơn, buồn tủi của kiếp người. Người Hà Nội không ưa sự ồn ào
phô trương, rất ghét thói "trưởng giả họ c làm sang " kệch cỡm lố bịch. Họ
sống bình lặng, nhưng rất sành điệu ăn chơi".
Và tất nhiên, trong tác phẩm của mình, Tô Hoài cũng đưa ra một cách
nhìn về người Hà Nội thời xưa và thời nay. Ông nhận thấy nét đẹp của sự tinh
tế trong cư xử, nét đẹp trong lời ăn tiếng nói, trong thú chơi tao nhã, trong
cách ăn uống, vận trang phục nếp nghĩ, nếp cảm riêng của họ. Rất ít gặp trong
Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài chân dung của những người lao động mang
một số phận hay tính cách của kiểu nhân vật điển hình. Rõ ràng, trong tâm
niệm của Tô Hoài khi viết tác phẩm này, ông không có ý định xây dựng nên
những nhân vật lớn, như là nhân vật trung tâm của thời đại. Người ta thường
gặp trong đó bóng dáng của những con người lao động bình thường, chân chất
thay vì hình ảnh những con người thượng lưu, đài các của một Hà Nội hào
hoa. Nhưng điều đáng chú ý là ở họ, vẫn toát lên vẻ đẹp của tâm hồn người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bình dân, nhân hậu, trọng nghĩa tình.
Đó là bà Viết, một phụ nữ nông dân nghèo khó, lưng còng rạp làm thợ
đụp thợ vá, chuyên đi vá quần áo rách cho các nhà vào tháng chạp khi cái rét
tìm đến. “Bà Viết thật khéo giật gấu vá vai. Cái áo nâu dài của dì tôi được đổi
vai hẳn hoi mà không cần thêm một mảnh vải mới. Quần áo tôi, đít quần, đầu
gối, khuỷu tay, chỗ nào bàn ghế mài mòn, ngã rách, bà Viết vá chằng lên. Bà
Viết xẻo đằng trước đưa xuống gấu, rồi đột tà, lấp khuy thành dải buộc, tự lo
liệu thu xếp lấy tất cả”. Bà Viết ngồi nhai trầu “phóm phém” vì răng bà chẳng
còn nổi chiếc nào, nhưng bà lại là một kho chuyện, kho vè làm những đứa trẻ
con không thể rời ra. Nhớ lại những câu vè vu vơ ấy, Tô Hoài đã phải thốt
lên: “Chao ôi những câu hát ngớ ngẩn ngày xưa, những niềm mong ước vui
sướng ngông nghênh và cười cợt nhạo báng”. Còn những câu chuyện của bà,
không phải chuyện Tấm Cám, mà bà có một kho chuyện trong làng từ đời xửa
đời xưa, nhớ lâu nhớ mới không biết bao nhiêu là chuyện Chuyện ma, chuyện
áp tết, chuyện buôn tranh gà, chuyện các ông khởi nghĩa, chuyện người bỏ
làng, chuyện vỡ đê…Có cảm giác, chính kiểu nhân vật này lại được Tô Hoài
tâm đắc, vì đó là người giữ và lưu truyền những huyền thoại về làng, khiến
cho tâm hồn những đứa trẻ quê nghèo khó được tắm trong bầu không khí của
tưởng tưởng, hư và thực. Bà Viết như kiểu nhân vật thường gặp trong các
chuyện của Gorki, chính Tô Hoài cũng khẳng định sự ảnh hưởng của những
câu chuyện bà Viết kể tới tác phẩm của mình: “Sau này, khi làm nghề cầm
bút, trong tưởng tượng của tôi, cái làng Nghĩa Đô xa xôi từ bao giờ lại trở về
trong tôi, có lẽ những hình ảnh ấy đã chồng chất in xa từ những câu chuyện
ngày xưa này”. Đó chính là vẻ đẹp trong tâm hồn người bình dân mà Tô Hoài
mang ơn và ghi nhớ mãi.
Với những nét đẹp truyền thống đã ngấm vào căn cốt, nên ngay cả
trong cảnh đòi nợ và khất nợ, những người Hà Nội đích thực thuở xưa vẫn thể
hiện sự kiềm chế cảm xúc và nhân hậu. Người đi đòi nợ (trong Những ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
áp Tết) mỗi năm một bần hàn, năm trước còn dùng khăn mùi xoa để khạc khi
ho, những năm sau dùng giấy nhật trình (ho rồi nhổ đờm vào giấy, rồi gấp lại,
bỏ vào túi), người bị đòi nợ thì chưa bao giờ có của nả gì đáng kể cho người
ta bắt nợ (“không có tiền, chẳng có đồng nào, trong nhà không có gì đáng nửa
xu, làm gì nhau nào”). Đáng lẽ đồng tiền đã phải làm con người ta đối xử với
nhau thô bạo, nhất là khi kẻ mắc nợ lại “lì lợm thi gan”. Vậy mà ông Phán vẫn
ngồi im, cuối buổi chỉ nói môt câu, giọng như đứt quãng: “Cụ hẹn…Cụ hẹn
cho tôi một câu chắc chắn, sang giêng tôi lại lên vậy”. Điều đáng kể là hành
động của họ lúc người đòi nợ ra về. “Bà tôi lúc bấy giờ mới lấy trong thắt
lưng ra mấy đồng xu dúi vào tay ông: Tôi gửi ông suất tàu điện, ông cầm tạm
vậy”. Nhiều năm sau, nợ vẫn chưa đòi được, người bị nợ đã đói khổ càng đói
khổ hơn, hành động lịch sự “gửi ông suất tàu điện” cũng không còn nữa. Đã
thế, kẻ đòi nợ phải đòi…lấy tiền xe. Vậy mà, ông phán chỉ bảo bà tôi: “Cụ
cho tôi xin một vé tàu điện”. Đặt cách ứng xử ấy “giữa cảnh chợ chiều cuối
năm, táo tác, vội vã, chợ búa như cướp giật”, phải chăng Tô Hoài thấy nó
đáng thương và lạc lõng? Phải, cảnh ấy đáng thương, nhưng chính sự lạc lõng
của họ đã nói lên một điều rất quý, khi con người ta giành giật nhau vì miếng
cơm manh áo, thì cử chỉ nhỏ nhẹ kia vẫn có khả năng làm ấm lòng người, bởi
nó có tình người.
2.2.2. Con người đời thường với những tính cách và số phận đa đoan
2.2.2.1. Khám phá con người Hà Nội từ cảm quan hiện thực đời thường, phát
hiện những tính cách đa dạng…
Tô Hoài vốn mang cảm quan nhân bản đời thường về con người, ông
không có thói quen nhìn con người bằng cái nhìn lý tưởng hoá, phiến diện
một chiều. Thế nên, ngay cả khi rất nhiều nhà văn cùng thời rơi vào “chủ
nghĩa đơn giản, chủ nghĩa minh hoạ” thì nhân vật của Tô Hoài vẫn rất đời, tức
là sinh động, bởi được nhìn một cách đa chiều, làm phát lộ những tính cách đa
dạng, chân thực như bản chất thường ngày của nó. Trong Chuyện cũ Hà Nội,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều giai tầng của Hà Nội được mô tả, thượng lưu có, hạ lưu cũng nhiều,
nhưng đáng chú ý là, dù miêu tả tầng lớp quan Tây, đội sếp, đầm Tây, hay
những ông chủ giang hồ, người soát vé trên tàu điện, đến ông đồ dạy học ở
chốn quê, kẻ kéo xe nơi đường phố, người đàn bà điên dại đi ở mất con…cái
nhìn của Tô Hoài vẫn giữ được sự khách quan, điềm đạm, không thiên kiến.
Mỗi nhân vật, trong tính cách của họ, đều nhá nhem tốt xấu, đều hay dở lẫn
lộn, đều sinh động đời thường, tức là đa dạng và đáng nhớ, không thể kết luận
giản đơn trong chỉ một từ.
Thế nên, mới có một ông đồ, vào lúc “thời thế nhố nhăng, bút lông bút
chì lẫn lộn, nhiều thầy đồ dạy cả chữ Nho và chữ quốc ngữ, vừa dạy chữ cho
con trẻ rất oai phong, vừa “như con gà mái ấp xoè cánh” để che đi chai rượu
trong vụ lính “đoan” trên sở về bắt rượu.
Ông không ngần ngại chỉ ra cái hạn chế của tầng lớp mình, những
người vốn rất nghèo nhưng “cũng chưa ai đi làm mướn kiếm cơm thiên hạ”,
đơn giản vì “người ta hay ra vẻ cho đẹp mặt, huống chi, ở đất Kẻ Chợ, bề
ngoài thường hay mầu mỡ riêu cua” [14,423]. Ông càng không bao giờ vẽ lên
một khung cảnh diễm tuyệt để ở đó nhân vật hiện lên trong bầu không khí vô
trùng, mà trái lại, ông luôn để nhân vật hiện lên trong một không gian nghệ
thuật đời thường, đôi khi “nhếch nhác”, nhưng chính vì thế mà sống động và
chân thực. Đó là khung cảnh của một lớp học ở gian đầu hè, nơi mà “con gà
mái dẫn cả đàn gà con lên bới xó luồn chạy qua cứt gà cuốn rác bụi bê bết, thế
mà đến lúc có học trò sao mà sạch sẽ trật tự”. Ngay cả cái chiếu trải chõng
cho thầy ngồi cũng là “cái chiếu lâu ngày bị hổng một lỗ to tướng ở giữa”.
Tuy vậy, sự nhếch nhác không làm con người ta quên đi đạo lý và lễ nghĩa,
nên lũ trẻ, lúc trải chiếu mời thầy ngồi dạy vẫn “phải ý tứ, mặc dầu mép chiếu
đã đã rách lươm nhươm cũng xem mặt trái mặt phải, không được trải chiếu
ngược” [14,424]. Vẫn theo cách đó, thầy đồ hiện lên vừa tề chỉnh, đạo mạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trước lũ học trò vừa “tinh quái” trong vụ trốn bắt rượu của quan trên. Ngay
trong sự tề chỉnh cũng có sự đời thường ở vẻ nghèo không thể nào che giấu:
“Thầy đi giày mõm nhái da trâu sống vàng ệch xốn lên; vuông khăn nhiễu
tam giang chít đỡ cái búi tóc hành; tấm áo the thâm dài đã bợt cả hai khuỷu
tay mới thay được hai ống vải nâu” [14,424].
Thế giới nhân vật của Tô Hoài, mỗi người một tính cách, rất nhiều khi,
người ta thấy những con người ấy dường như nhạt nhoà quá. Thiết nghĩ, đó
chẳng phải là một điểm yếu của Tô Hoài. Vì khi đã nhìn đời bằng con mắt đời
thường, phải sòng phẳng mà thấy rằng, nhạt nhoà cũng là một trong những đặc
điểm của tồn tại nhân sinh. Biết bao người sống rồi tan biến trong cuộc đời này
đã tồn tại nhạt nhoà như thế. Nhưng, ám ảnh người đọc không phải bao giờ
cũng phải cần những tính cách điển hình, bản thân sự nhạt nhoà cũng là một
cách gây ám ảnh và gợi nỗi xót xa. Điều đáng nói là, cái nhạt nhoà của nhân
vật Tô Hoài cũng vô cùng đa dạng, đó là sự đa dạng nảy sinh từ chính cuộc
sống bộn bề lấm láp này. Thế nên, người đọc mới bắt gặp một người bà vừa
nhân hậu, giàu đức tin vừa như đánh mất lòng tự trọng (khốn khổ, vì lòng tự
trọng là một điều đôi khi quá xa xỉ với kẻ nghèo); một ông Ấm hết thời vừa
buồn nản vừa cố ra oai, một anh điên “như con bướm lượn, nhưng là con bươm
bướm ma” vì chỉ quen đi đòi nụ cười của những cô con gái chưa chồng, một
Mợ Hai bệ vệ lạnh lùng, một đám đông ồn ào, ưa nịnh nọt và hay khôn lỏi…
Nguyễn Vinh Phúc, trong lời giới thiệu Chuyện cũ Hà Nội đã khẳng
định rằng: “Cả một nội thị Hà Nội dàn trải trong tập sách: Băm sáu phố
phường, Cái tàu điện, Phố Mới, Phố Hàng Đào, Phố Hàng Ngang, Phố Nghề,
Hội Tây, Bà Ba Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai
Tây…Chỉ nêu vài tên bài như thế càng thấy sự hiện diện của cái nội thành đa
đoan lắm chuyện” [14;5]. Quả đúng vậy, phố Hàng Đào với những mợ Hai
khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, Phố Hàng Ngang với những chú Tây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có
nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ
môi giới thuê mướn - cả mua bán - những vú em, thằng nhỏ, con sen, những
thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên hạ…
Tô Hoài không thi vị hóa người ở tầng lớp trên trong xã hội cũ như
Khái Hưng, Nhất Linh, nhưng cũng không đem họ biếm họa đến mức khủng
khiếp kiểu Vũ Trọng Phụng, hay cường điệu về họ với giọng ngả sang hoạt kê
kiểu Nguyễn Công Hoan. Cùng miêu tả với tình thương người ở tầng lớp
dưới, nhưng Tô Hoài thủ thỉ chứ không ồn ào như Nguyên Hồng, hóm hỉnh
chứ không tinh quái như Nam Cao, tinh tế chứ không mộc mạc như Ngô Tất
Tố, cũng không đề cập đến những biến động xã hội lớn như Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng... ông chỉ kể những câu chuyện hàng ngày trong đời
sống bình thường của những con người bình thường, không khoa trương, tô
vẽ để thu hút người đọc, không phóng đại, dồn ép nhằm hiệu quả giật gân. Cái
cười của ông cũng là cái cười nhẹ nhàng, từ tốn chứ không cay độc.
2.2.2.2. Những số phận đa đoan
Trong Hà Nội và Hà Nội, Tô Hoài viết : “điều lạ lùng là tôi không thể
bao giờ cắt nghĩa hết được sự nối tiếp chìm nổi của những cuộc đời con người
trong thế kỷ vừa qua trên đất nước ta”. Chuyện cũ Hà Nội là thân phận trầm
luân cuả những kiếp người dập dềnh giữa ánh sáng và bóng tối.
Phải sống thật, thâm nhập sâu vào đời sống Hà Nội xưa mới biết được
nỗi nhục của dân nghèo thị thành từ những hình ảnh cụ thể: “thời ấy, nuôi cái
xe đạp nhọc lắm. Xe phải gắn một mảnh sắt, mảnh kền khắc tên, số nhà, tên
phố của chủ xe. Không có phạt. Đè nhau phạt, trông cái xe mướp quá, ngứa
mắt, cũng phạt”. Thuở đó, “nhan nhản toàn nhà tranh, tường đất mấp mô như
những con rùa bò” đêm “tiếng chim cuốc hoàng hôn về kêu khắc khoải”. Nhà
văn đã chạm đến đời sống khốn khổ của Hà Nội xưa mà hầu như ít nhà văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nào nói đến. Thuở xưa, người ta mải miết đi kiếm ăn, kiếm gần chẳng ra, phải
bò ra xa, tận Đất đỏ, Dầu Tiếng trong “sa ghềnh” đi không về, nhiều lắm”:
Nhiều chi tiết, tưởng như chỉ vô tình ghi lại nhưng đắng xót tận đáy lòng, “các
ông tây ăn trên ngồi trốc, còn thì người ta bới bèo tìm bọ, sinh sống trên lưng
nhau, nuôi lẫn nhau… Thất thểu đi tìm việc qua đêm qua ngày”. Trong cái
nhìn rất riêng, thăm thẳm, nhà văn Tô Hoài đặc biệt thể hiện thành công một
mảng sống của người Hà Nội xưa, từ thợ củi, thợ giầy, lầm than bụi bặm, đói
khổ, từ cảnh các làng quê ven nội chìm trong cảnh Tây đoan bắt rượu lậu dẫn
đến thảm cảnh người dân nghèo phải “đi tù rượu thay để vợ con ở nhà có
người nuôi”, đến cảnh ở vọng, cổng rong, chợ Mơ, bến chợ trâu Hà Đông,
Cầu Gỗ, cầu Cuối…” nhan nhản người tàn tật, ăn mày, ở đâu cũng “ai oán
vang lên tiếng nức nở trên môi là câu kẻ khó xin ăn” là hình ảnh buồn nao
lòng cảnh đòi nợ, người chủ nợ và kẻ nợ đều nghèo, quá nghèo nên mỗi năm
vào dịp những ngày áp tết, chủ nợ đến đòi, cũng chỉ biết nhìn nhau, năm nào
cũng vậy và kết thúc là lời hẹn “sang giêng… sang giêng” để rồi chẳng bao
giờ trả nổi món nợ. Những hình ảnh rất thực của đời cứ đan cài vào nhau, tạo
nên dòng mạch ngược xuôi của cuộc đời lam lũ.
Đó còn là một Hà Nội với những kiếp lầm than - Những kiếp “trèo me,
trèo sấu”. Tô Hoài đã tường tận giải thích câu nói cửa miệng “trèo me trèo
sấu” vốn chỉ quen được hiểu như một câu chửi những đứa trẻ lêu lổng ở thị
thành. Nhưng ngay trong sự giải thích của ông cũng thấm dư vị của nỗi xót xa
về những kiếp trẻ nghèo đi trộm me trộm sấu “đem bán để sinh sống hàng
ngày, có khi nuôi cả nhà”. Những đứa trẻ ấy luôn bị sự truy đuổi của đội sếp,
chỉ cần người đội sếp doạ bắn là “bỗng dưng, trên cây tụt xuống, nhanh như
tàu cau rơi, một đứa, hai đứa, ba bốn đứa. Đứa nào cũng cởi truồng co ro, gầy
đét, trần trụi như cành củi khô gãy xuống. Cái quần, hai ống quần mỗi đứa
buộc vắt quanh cổ lèn chặt cứng tận cạp những quả me”. Người Hà Nội hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đại có thể không quá xa lạ với cảnh trẻ lang thang thành phố, nhưng những
hình ảnh sau quả đã lùi thật xa vào quá khứ và trong trang văn của Tô Hoài,
nó đột ngột hiện lên làm nhói lòng ta: “Chẳng mấy ngày không trông thấy
ngoài đường Quan Thánh đường Cửa Bắc và trên Bách Thảo những cái xe đội
sếp lững thững đằng sau một lũ trẻ con cởi truồng đeo cái bị, cái quần buộc
túm trên cổ đi về bóp. Mùa quả me, quả sấu nào cũng vẫn cảnh thương tâm
ngơ ngác ấy”. Tất nhiên, rồi đội sếp cũng đành chịu khi lũ trẻ ấy chuyển sang
hành động ban đêm, trong “ánh điện và bóng tối chập chờn, bóng cây, bóng
lá, người trên cây ép mình như con nhái bén, ai mà rõi ra được”. Thế nhưng,
một cảnh đau lòng khác lại bày ra. Ấy là đôi khi buổi sáng, ở gốc cây, giữa
những đám lá, đám quả rụng “có cành cây gãy bê bết máu”. Những vũng máu
đã khô đen. Không biết người ngã gãy chân hay vỡ đầu. Lũ trẻ đã khiêng
nhau đi từ trong đêm. Cái gốc của bốn chữ “trèo me, trèo sấu”, theo nhà văn,
còn đượm ý nghĩa và hình ảnh xót xa như thế chứ không phải chỉ là câu sỉ vả.
Rất nhiều lần trong Chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài trở đi trở lại với đám trẻ
lang thang này. Thường ông vẫn chọn một giọng điệu dí dỏm, nhất là khi
miêu tả những trò nghịch ngoạn mục lừa đội sếp của bọn trẻ, điều đó dễ khiến
người ta kết luận về sự dửng dưng của nhà văn trước những kiếp đời nghèo
khổ. Nhưng thiết nghĩ, với tâm thế của một kiếp người đã từng trải qua tuổi
thơ nhiều khốn khó, Tô Hoài chưa bao giờ chọn cho mình cái giọng điệu của
người ngoài cuộc để xót xa một cách bề trên. Ông viết về lũ trẻ ấy như một
phần đời của chính mình, những kiếp đời rất gần mình, cuộc phiêu lưu không
ở ngoài mình, mà những kiếp đời lang bạt ấy thường rất giàu sức sống, ít khi
tự thương một cách sụt sùi. Hàng trăm đứa trẻ không nhà không cửa vào
khoảnh khắc giao thừa chẳng chốn nương thân, vậy mà vẫn tìm được chỗ trú
ẩn kín đáo trong những “gầm quầy rau quả, dưới các phản hàng, trên nóc
những xích đông hàng thô”; mặc dù trước đó, cai chợ đã khoá trái cả cửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trước lẫn cửa sau, dùng vòi rồng phun rửa chợ đuổi sạch người. Có đến mấy
chục đứa trẻ ngồi chụm vào nhau cho ấm. “Cái chợ như cái nhà của chúng nó
ấy mà. Cả dạo áp Tết không dám ngủ ngoài đường, sợ đội sếp hót đi, đêm nào
cũng trốn vào ngủ vụng trong chợ, sớm tinh mơ lủi ra”. Đấy là cách đón giao
thừa của những kiếp lầm than trẻ dại mà Tô Hoài đã rất lưu tâm tới.
Nguyễn Đăng Mạnh đã gọi đó là “máu dân chủ” trong sáng tác của Tô
Hoài và ông biện luận: Máu dân chủ của Tô Hoài thể hiện ở chỗ nào? ở chỗ
ông đặc biệt quan tâm tới những người đời không biết đến, thiên hạ không ai
buồn ngó đến. Những người như con sâu, cái kiến, cả đời sống lầm lũi, âm
thầm trong bóng tối. Chẳng hạn, những người ông gọi là “ngủ bụi”, không
nhà cửa, ngủ đường, ngủ chợ, chân cầu, gậm cầu, có khi ngay giữa bãi cỏ, cứ
ba xoa hai đập nghĩa là ngồi đập chân mấy cái rồi lăn ra ngủ và sáng dậy đưa
tay lên xoa mặt, như con mèo giơ chân rửa mặt khan”, hoặc là những người ở
các vùng nông thôn Hưng Yên, Hà Nam, Thanh Hoá ra Hà Nội kiếm ăn, làm
phu hồ, làm ô sin rửa bát, khiêng bàn, khiêng ghế, bưng bê cho các hàng cơm,
hàng phở. Đêm về ngủ ở mấy quán trọ ngoại ô, “nằm úp thìa, đầu đàn ông,
đàn bà chổng ngược nhau, chân hai bên thò ra mép chiếu (Ngủ bụi); đó là
những cô gái đánh giậm, “mỗi cô vác trên vai cái giậm, và cái giỏ con tép,
con rô con, con nhái thì đeo thắt lưng cạnh sườn (Cái giậm); đó là những
người bán hàng quà đất, gọi là bánh ngói, khách hàng là mấy cụ già ăn đất
ngon lành cạnh cái bếp hun đất khói um (Ăn đất); đó là những người dân phố
liều sinh sống quanh những bãi rác ở ngoại thành. Mỗi tối hàng trăm xe rác
lên bãi đỗ. Thế là cả phố liều đổ ra tấp nập, chen chúc nhau bới bới, nhặt nhặt
những cái người trên phố đã vất đi, quẳng đi (Đi dạo chiều ba mươi)
v.v...Ngày nay có lẽ ít ai biết đến con ốc mút. Con ốc tủn mủn, bé tí tẹo, đầu
to con ốc nhỏ hơn cái đầu đũa, đuôi ốc thì nhọn hoắt. Người ăn lấy đồng xu
có lỗ bẻ khấc một phát, cái đuôi ốc gẫy, rồi đưa lên miệng mút, ruột ốc chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bằng cái đầu tăm. Tô Hoài đã viết về những người ăn ốc mút và những người
đi mò, đi cào ốc mút ở Hồ Tây. Họ là những dân tứ xứ, không biết từ đâu tới,
cặm cụi, mò mẫm suốt một buổi, đến xế chiều mỗi người xách lên một xô ốc
đem bán ngay bên hồ trước cửa chùa Thiên nhiên ở Quán La, giá khoảng một
nghìn một cân (Con ốc mút).
Ở nước ta, các nhà văn hiện thực cũng thường viết về những người
cùng khổ, như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng, Nam Cao, Kim Lân Nhưng dù sao những nhân vật của các ông cũng
còn có mặt mũi, tên tuổi, tính cách, và cuộc đời thường gắn với những sự kiện
xã hội, chính trị, lịch sử ít nhiều quan trọng. Nhân vật của Nguyên Hồng thì
tính cách rất mãnh liệt, trái tim rực lửa, dù bị dìm xuống bùn đen, vẫn quyết
vươn thẳng lên trời xanh và nắng vàng... Còn nhân vật trong Chuyện cũ Hà
Nội của Tô Hoài thì chẳng biết tên tuổi, mặt mũi ra sao, cũng chẳng biết họ có
nghĩ ngợi gì không - một đám người nhỏ bé li ti như loài kiến, từng đàn, từng
đàn kéo nhau bò đi lặng lẽ trong những xó xỉnh tối tăm nào. Tính phổ biến và
khá hệ thống của hiện tượng này trong tác phẩm của Tô Hoài, nói rằng, đây là
sự thể hiện quan điểm của nhà văn ở cấp độ ý thức hẳn hoi, đồng thời đã
ngấm vào máu, trở thành cảm hứng nghệ thuật tự nhiên của tác giả.
Nét riêng của Tô Hoài trong tác phẩm này khi khám phá Hà Nội so với
các tác giả khác là điều đã được chứng minh rất rõ. Không ít nhà văn tầm cỡ
viết về Hà Nội nhưng Tô Hoài vẫn có lối viết riêng. Nguyên Huy Tưởng từng
viết rất gợi cảm về rừng bàng Yên Thái, bến trúc Nghi Tàm “hàng vạn cây
trúc thân vàng soi bóng xuống nước hồ biếc” (Sống mãi với thủ đô). Nguyễn
Tuân lại có những trang đặc sắc miêu tả khu trung tâm thành phố, chỉ cần một
chi tiết cũng phát lộ tinh hoa ngòi bút, tinh hoa nét đẹp đất Thăng Long: “Cây
lộc vừng vừa nở vừa tạ bên Hồ Gươm hoa tím như kết chỉ tô điều, mỗi lần
cánh hoa nở trôi trên mặt hồ mờ sương sớm cứ làm người ta tưởng như có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đám cưới nhà ai nổ bánh pháo vừa đi hết khói”…Người đọc còn lưu luyến
một Hà Nội nhiều sắc mầu tươi mát lãng mạn của Vũ Bằng với “mùa xuân
của Hà Nội là mùa xuân có mưa liêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu
trong đêm xanh”, là “mộng về Hà Nội đi với vợ trên con đường hò hẹn thơm
thơm mùi hoa sấu” [14,3]. Đó còn là một Hà Nội của Thạch Lam với những
món ăn tinh tế, những ký ức ấm áp ngày tết với “đêm đông, gió lạnh” bên lò
bánh chưng ấm áp… “cả nhà ngồi vây quanh, nghe tiếng nước reo mà kể
chuyện cũ” [14,4].
Nếu Thạch Lam cho ta cảm nhận với tất cả các giác quan về cảnh trí và
hương vị hiện tại của đời thường Hà Nội, như trong Hà Nội băm sáu phố
phường, thì Nguyễn Huy Tưởng lại là người thật là chăm chỉ dành cho Hà
Nội một mối quan tâm đến bền bỉ và dài lâu trong suốt hơn 20 năm đời viết
của mình, kể từ Đêm hội Long Trì và Vũ Như Tô năm 1942, đến Sống mãi
với Thủ đô và Lũy hoa năm 1960. Cũng như Thạch Lam, và nhiều bạn văn
khác, sự lập nghiệp và việc thực hiện “phận sự của một người tầm thường...
muốn tỏ lòng yêu nước” bằng việc “viết văn Quốc ngữ” nơi ông vẫn phải là
địa bàn Thăng Long - Hà Nội. Ở nhà văn có tư chất là nhà văn hóa này, Hà
Nội được hiện lên trong suốt chiều dày lịch sử, kể từ thời Trần với “hào khí
Đông A” trong An Tư, qua thời vua Lợn Lê Tương Dực trong Vũ Như Tô, đến
thời Lê mạt với cung Vua phủ Chúa trong Đêm hội Long Trì... Đối với
Nguyễn Huy Tưởng, cảm hứng lịch sử luôn luôn đậm đà trên mỗi trang viết
về Hà Nội quá khứ; và chiều sâu lịch sử luôn luôn là sự cần thiết, là ưu thế
cho ông nhìn về Hà Nội của hiện tại. Cái hiện tại với khoảng lùi trên dưới 15
năm trong Sống mãi với Thủ đô, tập I ra mắt bạn đọc năm 1960 đã một lần
được áp sát qua ống kính thời sự, vào những năm đầu nửa nước có hòa bình
trong Một ngày chủ nhật. Và, nếu sự tinh tế đến tài hoa luôn lấp lánh trên các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trang viết của Thạch Lam thì chiều sâu những khát khao, trăn trở, kiếm tìm lại
luôn luôn trĩu nặng trên các trang viết của Nguyễn Huy Tưởng; và đó là lý do
để Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn hiện diện, đồng hành cùng chúng ta trong
suốt thế kỷ XX có quá nhiều chuyển động lớn lao của thời cuộc.
Riêng với Tô Hoài, từ một cách nghe, cách cảm xúc một cách nhìn,
gương mặt, tâm hồn của những con người Hà Nội xưa, đã chạm vào tầng sâu
của đời sống con người Hà Nội cũng là của cả dân tộc người Việt Nam: sẽ ra
sao khi còn bị nô lệ bởi ngoại bang? Chất liệu tạo nên hồn cốt tác phẩm chính
là hiện thực đời sống Hà Nội trong nô lệ tủi nhục, đau thương của thời kỳ
thuộc Pháp. Hình ảnh “mưa” hiu hắt buồn lặng xuất hiện nhiều lần trong tác
phẩm đã nói lên tất cả “có lẽ mưa bụi đã nhiều ngày, những cây nhội che mái
nhà, người qua lại trên mặt đường âm u, xám ngắt, nhẽo nhợt ra”… “…cái
nhà bán thừng, bán chiếu mưa hắt thâm sì” [14,5], “Phố mới” nhưng thực ra
là “cái chợ mua bán người” người nào cũng “ủ ê, hốt hoảng, ướt át, bẩn thỉu”
“cả đến cái ngách cửa hậu vào chợ Đồng Xuân cũng lôi ra được một nút
người sầu thảm như thế” [14,5] thực sự, không ai hình dung chợ Đồng Xuân
xưa là nơi buôn bán tấp nập lại là một nơi buôn người kinh sợ như vậy.
Phải trải qua nhiều năm tháng tích luỹ vốn sống, kinh nghiệm, tự gắn
mình vào đời sống hiện thực Hà Nội những năm tháng đó, Tô Hoài mới tạo
nên nền tảng văn hoá sâu rộng như thế. Dù Hà Nội là đề tài đã có nhiều nhà
văn khám phá nhưng trong tác phẩm của Tô Hoài vẫn hiện lên những nét mới,
nét riêng, những nhận thức mới về mảnh đất Thăng Long xưa. Đó chính là
bức ký hoạ với những nét buồn mong manh bằng hình tượng ngôn từ sống
động. Bản sắc Hà Nội đó của Tô Hoài có phần tương đồng với tâm niệm của
nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh: “Hà Nội thật đa dạng khiến tôi yêu mến. Tôi
yêu một Hà Nội sang trọng, tài hoa, thanh lịch lẫn một Hà Nội lầm than, lầm
lũi, còn nhiều cơ cực. Muốn nghiên cứu về Hà Nội trước hết bạn phải có một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
điều bắt buộc: Tấm lòng với Hà Nội.”
2.3. Cảm quan về phong tục trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài
2.3.1. Hà Nội với những nét phong tục đẹp
2.3.1.1. Hà Nội với những nét đẹp của lễ hội hay sự tôn vinh những giá trị
tinh thần
Về phương diện văn hoá tinh thần, tác phẩm ánh lên những nét đẹp của
lễ tết, phong tục tập quán, lễ hội, là tâm hồn trong sáng, bình dị tiềm ẩn trong
các mối quan hệ hàng ngày mà vẫn đầy sức mạnh và khát vọng đổi thay của
người Hà Nội băm sáu phố phường trong những năm tháng đó. Từ góc nhìn
chung của văn hoá Việt, lễ hội bao giờ cũng tạo nên một không gian sống
thực yên ấm, no đủ, hạnh phúc ngay cả khi cuộc sống còn đói khổ cùng cực.
Cả năm có một ngày như thế: đó là tết, ngày của sum họp gia đình, nhưng
cũng là ngày rất cơ cực của người dân nghèo Hà Nội thời đó “nhà nghèo chạy
cái tết bở hơi tai” nhưng vẫn chuẩn bị cho ngày đó với tất cả tâm hồn cho
người sống và người đã khuất. Những ngày áp tết được tác giả ghi lại với vài
chi tiết đơn giản “miếng thịt lợn nén hương” nhưng tác giả đã tạo dựng nên cả
một ngày linh thiêng quan trọng của người dân nghèo Hà Nội xưa, đó là nét
văn hoá gia đình người Việt. Nét vui của tết lại hiện lên trong niềm vui hồn
nhiên của trẻ thơ “bánh pháo tép”, “miếng khế khô lẫn mật gừng”, “đôi guốc
mộc mới”... nét đẹp của ngày tết còn là ngày tiếp khách thăm hỏi nhau, ân
cần, tha thứ cho nhau vì đấy là ngày “thân phận mỗi người được quý trọng” là
ngày mừng nhau mọi sự tốt lành ngay cả trong cuộc sống khổ cực”.
Một nét văn hoá của Hà Nội xưa của cha ông để lại đã làm đẹp, làm vui
thêm cuộc sống vốn quanh năm nghèo túng bằng cái tết được kéo dài. Sau
ngày tết nguyên đán “còn có những ngày râu ria mà nhà nghèo rớt mồng tơi
cũng phải có được gói hoa, nén hương”. Đó là “ngày giỗ tổ” tổ nghề giấy,
nghề lụa, hai mươi ba tết, ông công ông táo, “chiều ba mươi cúng trừ tịch,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mồng 3 – 4 lễ hoá vàng, mồng bảy hạ cây nêu, nhà nào dệt vải đưa mấy nhát
thoi lấy may đến cúng rằm tháng giêng sang tháng ba lại tết bánh trôi, bánh
chay, tháng năm tết Đoan Ngọ mừng hoa quả mới. Ở các cửa đền miếu đều có
cúng quan ôn, cúng cháo vẩy ra bờ bụi cho các âm hồn bơ vơ lang thang được
hớp nước ngũ cốc, ngọc thực” [14,10], đến tết trung thu tháng tám và khi gió
heo may về, vào mồng mười tháng mười tết cơm mới. Điều thú vị là, các làng
nghề giấy, nghề lụa không làm ra thóc nhưng cũng “cúng cơm mới” thể hiện
tâm thức của cư dân nông nghiệp, lễ hội theo mùa. Sau lễ tết đến hội hè. Làng
Mọc tháng giêng vào hội đánh cờ người, tháng tám hội đền Ghềnh, hội rước
kiệu bò ở Đền Trại, Thủ Lệ, hội làng Đông, làng Hồ rước về đền Voi Phục,
trong sân đình có hội thi cây cảnh... cả một không gian rực rỡ sắc mầu “90
giàn lễ hội áo the, quần lĩnh tía, khăn vuông láng thâm, khăn nhiễu thanh, áo
cánh lụa thâm, quần túm ống vào trong xà cạp hoa đào” [14,11] tiếng trống,
tiếng chiêng, tiếng cọt kẹt của đu quay cùng tiếng hát hoà điệu trong vùng
Thăng Long xưa gợi lên bao nét đẹp riêng của đời sống văn hoá kinh thành.
Bởi lễ hội là một sản phẩm và là một biểu hiện của nền văn hoá, tham gia lễ
hội là thể hiện một cách ứng xử văn hoá của người Hà Nội, họ tìm trong đó
sức mạnh của tình đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái. Điều này được
miêu tả thật sinh động trong đám rước Thánh Tăng. Lễ hội mà không cờ,
không kiệu, không trống chiêng thanh la… Nhưng không khí lễ hội thật tưng
bừng, náo nhiệt, rất lạ và thú vị”. Thực sự đây là một lễ hội “phồn thực”, toàn
trai gái cứ xông vào nhau cật lực, như đánh vật, lại như đập lúa… Tiếng cười
rú, tiếng hí, tiếng hú, tiếng sút rầm rầm. Trong không gian “chan chứa ánh
trăng, đất trời tự nhiên mát mẻ và trong óng, tiếng trống sư tử tong tong đằng
xa, không cờ quạt, long đình hay mũ kiệu”, chỉ thấy “cả một cánh đồng huyên
náo sùng sục, kì quái, ai cũng hí hởn lạ thường” [14;182]. Vẻ đẹp này táo tợn
hơn, phóng khoáng hơn và cũng vì thế mà đậm hơi thở dân gian và quyến rũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hơn, dễ làm người ta háo hức muốn sống lại sự nguyên sơ của những lễ hội
ngày nào. Mọi nghi lễ bị xoá bỏ, mọi khoảng cách bị dẹp đi, không còn ranh
giới giữa thanh và tục, chỉ còn sự đam mê của con người với con người hoà
quyện trong đám rước. Lời ca mới thật lạ tai “chốc chốc văng vẳng hét lên”:
“Đức thánh Tăng…Đức thánh Tăng…
Đứa nào không nhung nha nhung nhăng, đức thánh Tăng bóp vú mẹ nó…”
Lễ hội cư dân ngoại ô kinh Thăng Long nhưng vẫn mang những nét hồn hậu,
phóng khoáng của cư dân nông nghiệp Việt Nam, mang khát vọng đời sống
ấm no, khát vọng về giải phóng tình cảm con người khỏi những luật lệ cấm kỵ
của xã hội phong kiến. Vẻ đẹp thuần khiết, giản dị mà hồn nhiên của người
lao động được tái hiện thật độc đáo trong cảm xúc chân thành, nhân hậu của
nhà văn.
Ngày nay, thú chơi pháo đã không còn nữa, nhưng Tô Hoài vẫn nặng
lòng với những ngày xưa cũ, như muốn chứng minh rằng, đó là một nét
phong tục, bởi “ngày trước đốt pháo không mảy may giống với bây giờ. Đốt
pháo như bây giờ thì chỉ đáng trách, phí phạm và hung tợn”. Và nhà văn đã
bồi hồi phục nguyên vẻ đẹp của tục pháo xưa khi viết: “Đốt pháo là một thú
chơi lâu đời, hàng năm pháo được đốt trong nhiều dịp, nhiều việc khác nhau.
Hội làng, tết Nguyên Đán, ngày cưới, lễ mừng thọ, khao vọng, khai trương và
mở cửa hàng, động thổ, xuống đồng, …Khi trong nhà có cụ đôi năm mươi,
lúc chuyển cữu cũng đốt bánh pháo với ý nghĩa cháu chắt, chút, chít, khăn
vàng khăn đỏ “mừng được phúc cụ cố”. Nhà có người ốm lâu rồi mất, khi đưa
ma đốt pháo ngay nơi đầu giường bệnh, có ý đuổi tà ma và mùi pháo khiến
cho “sạch nhà”. Còn ngày cưới thì đốt pháo đón dâu, đưa dâu, lễ tơ hồng
trong tiếng pháo khói xanh lơ” [14; 285]. Vậy, điều gì đã làm cho cái đẹp xưa
phôi pha đi như thế và nét khác biệt căn bản của tục pháo xưa với pháo nay là
gì, Tô Hoài đã mất công tìm hiểu để tiếc nuối mà tâm sự: “Quả pháo ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trước khác hẳn quả pháo ngày nay, bởi công phu nhất là thuốc pháo. Hàng
thúng bột than hạt quả xoan, hạt quả găng và hồng hoàng đỏ, trộn lại phơi khô
để luyện thuốc. Pháo thời ấy tuyệt nhiên không làm bằng thuốc nổ, thuốc
súng. Chẳng ai nghe nói ở đâu có người bị què, gãy. Ngày xưa, pháo nổ giòn,
xác pháo màu hồng điều hây hây rơi xuống như cánh hoa đào bích, trẻ con ùa
ra sân chạy nhảy ngây ngất quơ tay đùa trong khói pháo. Người ta đi trong
khói pháo thơm ngan ngát, không kinh hãi và không phải xì mũi hắt hơi vì
pháo thuốc súng khét lẹt và đen nham nhở cả tường” [14;287]. Trong sự đối
lập giữa quá khứ và hiện tại ấy, Tô Hoài khiến người đọc đồng cảm với ông
trong niềm nuối tiếc cái đẹp xưa đã vĩnh viễn bị mất đi, trong nuối tiếc, có cả
nỗi giận của người yêu cái đẹp: “Thú chơi đốt pháo bị làm sai lệch ý nghĩa, vô
duyên quá. Ai còn nhớ quả pháo chơi xuân ngày xưa. Nhưng, chưa chắc các
cụ làm pháo cổ truyền đã còn ai. Những như tôi khi còn bé đầu trọc để chỏm
kéo nhau đi xem đốt pháo đùng, đốt cây bông ở cánh đồng Bình Đà thuở ấy,
nay cũng thành ông lão ngoài bảy mươi cả rồi”.
Có thể nhận thấy, trong khi làm sống lại những phong tục cổ xưa, Tô
Hoài không triết lý ồn ào về những điều xung quanh phong tục. Nhưng rõ
ràng, qua những trang viết ấy, người đọc nhận thấy một sự thật hằng tồn:
Phong tục là nét đẹp truyền thống do cha ông thuở trước tạo nên và truyền lại
cho con cháu đời sau, nhưng không phải điều gì truyền lại cũng được lưu giữ.
Đã là những giá trị văn hoá, bao giờ nó cũng gắn liền với đời sống xã hội của
con người. Một khi phong tục tôn vinh giá trị tinh thần thì con người cần có
tâm để lưu giữ và tôn thờ nó.
2.3.1.2. Trang phục và thú chơi của một thời xưa cũ
“Kể ra cái ăn, cái mặc, cái nói, cái đi đứng, những quan hệ và giao tiếp
của người ta là việc của nền nếp văn hoá con người rất thân thiết, nên bàn”.
Với quan niệm như vậy, ông luôn chăm chú quan sát, lắng nghe, nhìn nhận và
khám phá từ những nét đời thường đó các cung bậc, giá trị của văn hoá dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tộc ở mỗi thời.
Chuyện cũ Hà Nội ghi lại những biến đổi trong nếp sống của một thành
phố, qua cuộc biển dâu của đất nước suốt thế kỷ XX và sự chuyển động văn
hoá trên toàn thế giới, trên con đường Âu hoá, đô thị và công nghiệp hoá.
Dòng chuyển hoá chung của xă hội loài người lại va phải những ghềnh thác
trong lịch sử Việt Nam qua cuộc chiến đấu dai dẳng kéo dài hơn nửa thế kỷ –
cuộc tranh chấp – phức tạp, qua nhiều giai đoạn, giữa nhiều thế lực, khi tiềm
ẩn, khi thô bạo. Tô Hoài sinh hoạt, quan sát, suy ngẫm, hồi tưởng và ghi chép
trong ý thức thâm trầm và sáng suốt về văn hoá và nhân đạo. Đã nhiều người
viết về Phở, thậm chí viết hay hơn Tô Hoài. Nhưng những bài viết của Tô
Hoài, từ tiếng rao đêm „ngưu nhục phấn’ của người Hoa, đến gánh Phở chợ
ngoại ô những năm 1930, đến Phở không người lái thời chống Mỹ, cho đến tô
phở Vịt, phở Chó ngày nay, món ăn đã phản ánh những biến thiên của đất
nước. « Vẫn phở, nhưng phở đã thay đổi nhiều, theo thời gian và thời thế »
[14; 616]. Đĩa bánh cuốn cũng biển dâu : « con sâu, cái kiến, và chiếc bánh
cuốn cũng có bước đường đời của nó » [14;596]. Bên cạnh những nổi chìm
của Chả Cá những gian truân của món Thịt Chó, bài Cháo là đặc sắc. Xưa
kia, Vũ Bằng chỉ dừng lại ở bát cháo lòng, Tô Hoài viết cả một chương xã hội
học về món cháo.
Nhắc đến những con phố trên, những ai đã từng sống ở Hà Nội có lẽ
không ai là không biết đến, thậm chí có người chưa từng đặt chân đến đây vẫn
biết bởi lẽ chúng là những cái tên khá quen thuộc. Kể về Hà Nội, rất nhiều
người trong chúng ta, đặc biệt là những ai sành về ẩm thực Hà Nội ắt hẳn sẽ
nhớ ngay về một số món đặc sắc lâu đời như: bánh cuốn, chả cá, phở , cháo…
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc kể về phố chả cá như thế này: “Phố Chả
Cá dài 180m, đi từ phố Hàng Mã đến phố Lãn Ông”. Người đọc có thể tưởng
tượng ra không khí của sự tấp nập, rộn ràng giữa người mua kẻ bán trên con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đường dài này. Cái tên Chả Cá nghe cũng thật đơn giản, đó chỉ là cá nướng
thành chả rồi ăn chung với bún và một số gia vị nhưng vẫn được nhiều người
khen ngon. Bây giờ, người thưởng thức món ăn này sẽ nướng cá tại chỗ. Nếu
người ăn không quen việc bếp núc thì đây quả là một công đoạn rườm rà, hơi
khó nhọc, nhưng ngược lại nướng tới đâu ăn tới đó, chả còn nóng sẽ ngon hơn
bội phần, hơn nữa việc nướng cá cũng là thú vui của nhiều người. “Nước mỡ
xèo xèo nổi bọt đã được pha đẫm vào bát rau thì là đặt cạnh gắp chả cá
đương tuốt ra bốc khói thơm ngậy”.
Nếu như trong tác phẩm Hà Nội 36 phố phường nhà văn Thạch Lam
mô tả loại “phở có mấy giọt cà cuống”, hay Nguyễn Tuân sành thưởng thức
đã nói “ai muốn tẩm bổ thì cứ chén tái dúng, tái lăn, sào dòn, sào mềm. Tôi
thì chỉ có phở thịt bò chín, đấy mới là tinh hoa phở”, thì ở đây Tô Hoài chỉ
đơn giản: “Tôi ăn kiểu phở nào cũng thấy được, được cả”. Phở có thật nhiều
loại: nào là phở Bắc, phở chua, phở chín, phở bò, phở trâu cho đến phở gà, và
mãi về sau lại xuất hiện thêm phở tái bò. Thời gian trôi qua, nhiều thứ thay
đổi và phở cũng không ngoại lệ: “giờ đây trong bát phở lại có thêm hai quả
trứng gà, nửa khoanh giò lụa, một cục mọc thịt trắng hếu”. Mỗi thời mỗi
khác, nhu cầu thưỏng thức món ăn của người dân chắc chắn sẽ đổi thay nhưng
đến tận ngày nay và có lẽ sau này vẫn thế, phở vẫn là một món ăn truyền
thống và rất riêng của Hà Nội. Hà Nội ngày nay đã khoác trên mình một chiếc
áo mới nhưng không vì lẽ đó mà những nét đặc trưng xưa kia của Hà Nội thời
trước bị rơi vào quên lãng. Hà Nội vẫn ồn ào với tiếng tàu điện leng keng, vẫn
nhộn nhịp và sặc sỡ trong những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm. Đâu đấy, ta
cũng sẽ bắt gặp những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm hay
những chiếc áo Lơ Muya rực rỡ mốt thời trang. Cái hay ở Tô Hoài là những
cái lăng nhăng sự đời ấy đã có ít nhiều người ghi lại nhưng dưới cách nhìn
của riêng mình, tác giả vẫn tìm ra được cái mới lạ. Tiếng rao đêm của Tô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hoài vẫn chứa đựng nhiều ý tứ mới, không kém phần hấp dẫn so với tiếng rao
hàng ban đêm của Thạch Lam, Tô Hoài cảm thấy: “những tiếng rao hàng
nghe thật lạ tai nhưng cũng thật quen thuộc”. Phải chăng, tác giả thấy lạ là do
giọng nói của mỗi người sống từng vùng khác nhau, hoặc cũng có thể là vì
đặc trưng riêng của từng món ăn… nhưng nếu nghe những tiếng rao đêm ấy,
chắc chúng ta cũng sẽ đồng cảm với tác giả rằng, đằng sau lời mời là một sự
khổ cực, cam chịu và chứa nhiều hi vọng. “Phố xá đêm dài buồn như chấu
cắn”. “Tiếng gõ sực tắc (thức đắc: ăn được) chốc lại thấp thoáng văng vẳng
như tiếng vạc ăn đêm. Không biết con vạc đi ăn về lững lơ thơ thẩn phía nào”.
Mỗi ngày lại có người nghèo khó rời xa quê hương đến đây làm ăn với mong
muốn cuộc sống của mình sẽ dễ thở hơn tại cái thủ đô Hà Nội rực rỡ ấy.
Chính vì lẽ đó, tiếng rao đêm đối với người dân nơi này quá đỗi quen thuộc,
từ chập tối đến tận trời sáng, âm thanh này vẫn vang lên khắp mọi ngóc
ngách, phố phường: “Lồ mái phàn… lồ mái phàn… xôi lạp xường nóng. Cái
tiếng xôi lạp xường kèn tàu ấy cất lên là lúc trời đã mờ mờ sáng”. Cuộc sống
của mỗi con người ấy có lẽ sẽ mãi lẩn quẩn trong mớ bòng bong “cơm áo gạo tiền”.
Bàn về cái mặc, ông đã điểm lại những kiểu áo dài khác nhau qua biến
thiên lịch sử và sự cách điệu của áo sau những cú va chạm, tiếp xúc giữa các
nền văn hoá. Tô Hoài tỉ mỉ miêu tả đặc điểm của nhiều kiểu áo dài, bởi “cũng
là áo dài, nhưng không phải cái nào cũng giống cái nào. Ở mỗi vùng, mỗi
tầng lớp, may mặc đều khác nhau”. Cái áo của kẻ sang khác áo của kẻ hèn
nghèo khó, cái áo của tuổi con gái khác áo của tuổi nạ dòng. Đi liền với áo
còn biết bao sự tỉ mỉ và tinh tế khác: áo tứ thân mặc khi đi hội là áo the áo luạ,
có thắt lưng buông vạt trước; áo tứ thân nâu non nâu già dùng để đi đường đi
chợ vạt trước thắt lưng lại thả xuống gọi là áo dài thắt quả găng. Tức là mỗi
nét biến tấu hay khác biệt của một nếp áo hay cách vấn khăn không phải là sự
tuỳ hứng hay ngẫu nhiên phá cách, mà nó đều xuất phát từ những “quy ước
ngầm”, những nền nếp có từ xưa, vấn đề là không phải ai cũng có khả năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đọc ra những ẩn số văn hoá từ đôi nét tưởng như nhỏ nhoi, bình dị ấy.
Tô Hoài còn có khả năng đọc trong từng kiểu vai áo của người phụ nữ
sự khác biệt của hai nền văn hoá, để rồi tự hào về nét đẹp của thân thể người
phụ nữ Việt Nam. Lần về lịch sử những sự cách tân của áo dài, Tô Hoài điểm
danh cái nhất thời và cái bất biến, để thấy, các mốt áo dài vai bồng mà các
báo của Tự lực Văn đoàn cổ động một thời “chỉ háo hức lúc ấy rồi mai một
dần vì nó Tây quá, không hợp. Phụ nữ Châu Âu và Ả Rập cao lớn, vai và
ngực đồ sộ, áo vai bồng càng tôn lên cái rực rỡ. Phụ nữ Việt Nam thân mảnh
dẻ, thêu hoa lá và khuy tết rườm rà, hai cái vai áo bồng lởm chởm che mất vẻ
đẹp của đôi vai nhỏ nhắn. Vai tròn, vai lẳn, cái áo dài mượt mà càng thêm ý
nhị, duyên dáng con người” [14,579].
Tô Hoài là nhà văn có ý thức ghi lại phong tục của quê hương xứ sở
mình, chứ không phải một người làm nghề ngẫu hứng tạt qua rồi ghi lại. Điều
ấy có thể được khẳng định qua phần lớn các trang viết của ông. Có lần, ông
đã giản dị và tự nhiên bàn về điều ấy, khi đặt công việc của mình trong dòng
chảy của người xưa, nhân nói về cái nón: “Cái nón tương truyền đã ra đời đã
thành tên từ thời Lý. Các danh sĩ Lê Quý Đôn, Phạm Đình Hổ, thời các cụ
chưa có các môn xã hội học, phong tục học nhưng các cụ đã có ý thức ghi
chép cẩn thận về mũ áo và cái nón, bởi cái nón cũng tỏ rõ phân biệt địa vị
từng người” [14,394]. Tiếp nối nguồn mạch ấy, Tô Hoài trau chuốt trong
những dòng miêu tả sự khác biệt của nón bài thơ và nón cu li: “Thời sau cùng
của nón, nón bài thơ ra đời cùng lúc với nón cu li, hai kiểu nón khuôn khổ hơi
giống nhau nhưng sang hèn khác nhau, nón bài thơ của các tiểu thư khuê các,
nón cu li của người làm ruộng làm phu”. Nếu nón bài thơ quai bằng lụa màu
hoa đào, hoa cau, đôi khi giắt kín đáo mặt gương tròn lấp lánh trong lòng nón,
thì nón cu li, tuy vẫn khuôn ấy, nhưng vành cứng, khâu dây móc diều, lá dày,
lá già, lòng nông choèn, vàng sậm, quai bằng mảnh giang, sợi mây. “Nón cu li
của người dầm sương dãi nắng. Trời nóng nực, ngồi nghỉ chân, nón thành cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quạt phe phẩy. Vục nón xuống sông, ra vòi máy hứng lấy nước uống, nước
rửa mặt”. Như vậy, nhà văn, qua hình dáng, chất liệu nón còn chiêm nghiệm
về thân phận của người mang nón. Phải chăng, Tô Hoài đã nghiệm ra nhưng
không quen phát biểu thành mệnh đề triết lí như các nhà văn khác, mà để
người đọc trải lòng rồi tự rút ra nhận xét cho mình, rằng: Cái ăn, cái mặc, đó
không chỉ là chuyện để tồn tại, mà còn là chiều sâu văn hoá của mỗi thời.
Cảm quan phong tục của Tô Hoài không thể nào bỏ qua chuyện “hàm
răng, mái tóc”, vì từ xưa nó đã được quan niệm là “góc con người”. Với
những trang viết giản dị và tỉ mỉ, Tô Hoài đã giúp người đọc của thời hiện đại
“răng trắng” trở về với hồi ức của những thuở “răng đen”, để thấy “nghề chơi
cũng lắm công phu”. Đó là công phu của kẻ nhuộm răng. “Bảy tám tuổi bắt
đầu nhuộm răng đỏ. Chưa biết làm thuốc thì mẹ, thì chị làm cho. Lên chợ mua
cục cánh kiến. Tán nhỏ ra bột, đổ rượu vào quấy sánh lên. Một mảnh lá chuối
cắt dài bằng hàm răng, phết cánh kiến. Tối tối ấp mảnh lá chuối cánh kiến vào
hai hàm rồi mím miệng lại. Làm thế, cho đến một buổi sáng soi gương, thấy
hàm răng đã lên màu cánh gián. Thế là mừng rơn, vì đã phải ngậm cánh kiến
ròng rã cả phiên, tối ngủ mê hay nghiến răng, lá thuốc tuột ra ngoài miệng. Có
khi không kiêng cữ được, ăn tạp quá, thuốc bong ra. Nhuộm mất mấy phiên
chợ mới làm được hàm răng trắng bóng như thế”. Tỉ mỉ và công phu như vậy
cũng chưa dừng lại, bởi đây mới chỉ là bước đệm, “có hàm răng cánh gián
mấy năm rồi mới được nhuộm răng đen”. Đấy là lí do cho sự hình thành câu
ca dao mà người xưa dặn nhau hay ao ước về việc chọn chồng:
“Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen”
Nói về chuyện tóc, Tô Hoài thiết tha hồi tưởng lại từ mái tóc trái đào
xinh xinh hai bên thái dương của những đứa trẻ con đến mái tóc “đuôi gà”, vẻ
đẹp ám ảnh của một thời đã đi vào thơ ca, âm nhạc. Nhà văn còn tỉ mỉ kể
những câu chuyện hài hước có thực xung quanh chuyện làm dáng của “cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đuôi gà ấy”: “Người trẻ có tóc đuôi gà bỏ ra ngoài vành khăn đã đành. Còn
người có tuổi, nạ dòng, người tóc thưa cũng hay ra vẻ mĩ miều ta đây tốt tóc,
đã độn tóc, làm tóc đuôi gà”. Nhân đó, Tô Hoài có dịp làm sống dậy những
tiếng rao đã đi vào dĩ vãng của một thời xưa cũ: “Có những chị hàng rong đi
mua chai, bao chè, đồng nát, lại có người quảy thúng đựng nồi kẹo mạch nha
qua các phố, các xóm rao ời ời “Ai tóc rối đổi kẹo!”. Tóc rối, tóc rụng giắt lên
khe vách thỉnh thoảng lấy một mớ đem bán đổi que kẹo cho trẻ con mút.
Người mua tóc mang về xe xe vuốt vuốt thế nào tết ra được từng mớ tóc đuôi
gà, khắp chợ quê chợ tỉnh treo bán trên quang gánh các hàng xén”. Thế mới
biết, bao nhiêu biến thiên dâu bể đã trải qua trên một mái đầu, kiểu tóc, từ tóc
quấn trong khăn nhung đến quấn búi tóc trần, cái búi tóc mượt mà, cài trâm
chặt chẽ nhưng lại như tự nhiên trễ xuống gáy, dịu dàng lả lướt; rồi một ngày,
văn hoá Phương Tây xâm nhập, các cô đua nhau sấy tóc phi dê, hết mốt tóc
phi dê, người ta lại để tóc dài phất phơ nhuộm xanh nhuộm đỏ - điều mà mấy
mươi năm trước cho là chuyện dở hơi, điên đại. Tô Hoài tự cho mình mang vị
thế của kẻ bên lề mốt, mà điềm đạm “chẳng hơi đâu khen chê, mà chỉ nhận
xét cái thời thượng bởi tôi đã vào tuổi những cụ khọm, dửng dưng trước sự
biến thiên của trang sức thời đại rồi” [14,364].
Có lúc, Tô Hoài mê mải nói về phong tục, về sự biến đổi chóng mặt của
“mốt” để rồi đưa ra cái lí “của người già”: “Mỗi thời một khác, người ta chỉ
yêu thương thời của mình, chẳng còn biết nói thế nào”. Dẫu định kiến của
một thời là không thể tránh, nhưng thiết nghĩ, Tô Hoài đã vượt qua được cái
bó hẹp của thế hệ mình để thẩm thấu cái nhìn của nhiều thế hệ, để vẫn háo
hức với cái mới nhưng vẫn nâng niu trân trọng nét đẹp cổ xưa. Trong cái nhìn
của ông, vừa có sự bao dung của một kẻ thấu hiểu lẽ đời, vừa có sự nghiêm
khắc của người quá yêu sự sống này và đau đáu lo cho nó. Thế nên, có lần
ông phản ứng trước sự “biến chất, tạp nham” của những hội hè, đình đám:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“Bây giờ nhiều làng đua nhau mở hội mà ý nghĩa sâu xa chưa chắc đã là phục
hồi di sản truyên thống, có khi chỉ vì con gà tức nhau tiếng gáy” [14,402]; hay
sự lai căng của những đám cưới bị “thương mại hoá” ngày nay: “Khách đến
dự, có phong bì tiền, cô dâu chú rể đi từng bàn chào khách, với bố mẹ hoặc
người thân đi cùng để thu phong bì khách mừng đã đưa ngay ở bàn như trả
tiền ăn” [14,400].
2.3.2. Hà Nội với những hủ tục lạc hậu ấu trĩ
Bàn về cái đói và miếng ăn đã trở thành một ám ảnh trong sáng tác của
Nam Cao, nhưng Tô Hoài, trong Chuyện cũ Hà Nội, vẫn có khả năng đem đến
cho người đọc những cái nhìn mới mẻ, dư vị đắng cay về miếng ăn và những
hủ tục lạc hậu ở chốn quê nghèo. Sự lạc hậu bộc lộ rõ qua những ngày hội hè,
đình đám và ăn uống. Khởi đầu là cảnh “ở các đám ma, đám cưới, đám việc
hàng giáp trong xóm, trẻ con nhà xa nhà gần tới chầu chực lê la suốt ngày ở
nhà có cỗ” nửa như một cách vui chơi, nửa lại phô bày một thực trạng rất
buồn là: sự mong ngóng miếng ăn…miễn phí. Vậy mà, miếng ăn đó lại được
lo bởi một nhà nghèo, trong một “đám ma khô”. Đám ma khô rửa mặt cho
người đã khuất là một khái niệm người xưa quen dùng để chỉ công việc làm
ma vắng mặt người chết, khi người chết ở nơi xa xứ, không rõ ngày tháng và
tung tích. Về bản chất, việc này là một hành động thể hiện sự tình cảm, xót
thương của người sống đối với người thân bạc mệnh, tức là, tự thân nó không
phải là một hủ tục. Nhưng khi “đám ma khô” được làm ra với mục đích xót
thương thì ít, mà để “đòi nợ” thì nhiều, nó đã trở thành hủ tục. Cũng rất khó
trách “nhà bác đĩ Hiền”, người đã đứng ra làm đám ma khô rửa mặt cho bố,
bởi hủ tục không bao giờ được tạo nên từ một người hay một nhà, nó phải là
hành động được lặp đi lặp lại trong một cộng đồng, tạo thành một thói quen
“luật bất thành văn” khiên người ta khốn khổ. Và Tô Hoài đã phơi bày sự thật
quẩn quanh, buồn thảm ấy: “Xưa nay, trong họ ngoài làng, nhà nào có cha già
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mẹ héo mình đã phải đi phúng viếng hào bạc hay chai rượu, bao hương, bao
nến. Không phải lệ làng, không có khoản hương ước mà đâm trói buộc nặng
nề, không có không được”. Cái trớ trêu là “Nhà bác đĩ Hiền chạy ăn từng bữa
chưa xong. Mà vẫn phải đi mừng rỡ, phúng viếng những nhà người. Ông bố
chết đường, đã thảm hại, mà ở nhà lại mất hết, bởi vì xưa nay đi mừng đi
phúng tốn kém đến thế mà từ rày không có nhà ai có dịp đền bù đáp lại nhà
mình”. Thế nên, nỗi đau mất cha lại cộng thêm nỗi đau mất của, nhân vật đã
“ló cái khôn”: quyết định lo cái ma khô vừa để rửa tiếng cực nhục (chết
đường chết chợ, chết mất xác), vừa có cớ “trả nợ miệng đòi nợ miệng”. Chính
thế, nên đám ma của người chết trở thành ngày hội của người sống, nhất là
đám họ hàng, làng xóm xa gần: “Có đến hai ba ngày nhộn nhịp. Gần khắp
làng kéo đến ăn cỗ nhà bác đĩ Hiền”. Một cảnh tượng tương phản đã diễn ra;
trong nhà hì hục lễ đáp, ngoài sân ăn uống rào rào, đêm đến mấy chiếu tổ tôm,
thêm đám xóc đĩa làm người nhà khuya rồi vẫn phải “sắp cỗ vét” dù đang mỏi
mệt vì “mấy hôm rồi gào khản cổ”. Nhưng chính họ, những người khóc than
cho người khuất cũng mang những “mặt rượu ngà ngà”. Kết quả là, bác đĩ
Hiền rửa được tiếng, nhưng khốn khổ đến mức mấy năm sau, phải đi làm cái
công việc mà làng xóm sợ nhất, là “đi phu cao su”, mà sang tận Tân Thế Giới
và chẳng thấy bao giờ về nữa. Kể câu chuyện ấy bằng giọng điệu khôi hài, Tô
Hoài vẫn khiến người đọc xót xa về một hủ tục khiến người quê đã khổ càng
thêm khốn khổ. Chính miếng ăn là miếng nhục, là cái nợ đồng lần, “ăn vạ”
lẫn nhau; chính cái sự bày vẽ nhiêu khê, những thủ tục rườm rà, những định
kiến của cộng đồng đã đẩy người dân vào bước đường nao núng.
Trong khi bàn về Giỗ tết, Tô Hoài đã điểm cái hay của tập tục mỗi thời,
song ông cũng tinh tế thừa nhận: “Bây giờ nếp sống mới, không chè chén
hôm đưa đám, nhưng đến cúng 50 hay 100 ngày, thế nào cũng phải làm vài
mâm. Còn cưới xin thì nhiêu khê lễ lạt, nào chạm ngõ, xin hỏi, ngày cưới,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày lại mặt…Cũng là chưa kể việc họ, việc hàng giáp, việc làng, cỗ đình, cỗ
chùa, cỗ đình miếu chia suất lấy phần về hay hưởng lộc tại chỗ. Lại những
công kia việc nọ, tuỳ thân sơ đến thăm hỏi, mừng cúng hay vào cỗ mặn,
chẳng những với họ hàng, lại còn hàng xóm “bán anh em xa mua láng giềng
gần” và trả nợ miệng”. [14,374]. Rõ ràng, điều này đã trở thành một hủ tục
ám ảnh ở xứ ta, không phải một sớm một chiều thay đổi, thậm chí nó còn biến
tướng “những hủ tục mới lẫn lộn đội cái lốt hủ tục cũ”, Tô Hoài nhấn mạnh,
như ước ao một điều khẩn thiết và bình dị: “Không biết bao giờ giỗ tết thực
sự là một sinh hoạt phong tục đẹp, nhất là ở trong làng”. Muốn những ngày lễ
lạt, giỗ tết trở lại đúng ý nghĩa thật sự lâu đời của nó, theo ông, phải không kể
đến “bọn xôi thịt ngày trước và những đứa hợm danh, hợm của bây giờ”.
Như vậy, cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài
được thể hiện trên nhiều phương diện, dù ở phương diện nào – cảm quan xã
hội, con người hay phong tục, Tô Hoài cũng quan sát và cảm nhận đối tượng
ở mọi phương diện tồn tại như trong đời sống thực. Đọc Chuyện cũ Hà Nội
của Tô Hoài, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh hiện thực của
mảnh đất Hà Thành trong những năm xa xưa đầu thế kỷ mà còn cảm nhận rõ
tấm lòng mến yêu da diết với những nét đẹp truyền thống văn hoá của dân tộc
và xót xa day dứt với những hủ tục hay những biểu hiện thiếu văn hoá của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
con người.
CHƢƠNG 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM QUAN HIỆN THỰC
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI
Người ta vẫn quen nghĩ rằng : văn học là một tác phẩm sáng tạo, chủ
quan, ít nhiều hư cấu. Không đơn giản như vậy. Một tư liệu về thổ ngơi, như
Chuyện Cũ Hà Nội vẫn có thể là một tác phẩm văn học khi tác giả, ngoài lo
âu viết đúng sự thật theo ý mình, còn cố công viết một câu văn, một bài viết
một cuốn sách hay, trong cách chọn chữ, đặt câu, gạn lọc chi tiết, sắp xếp tình
huống. Trong tinh thần đó Chuyện Cũ Hà Nội ấn bản năm 2000 “văn học”
hơn hai lần in trước. Có lẽ Tô Hoài ý thức rõ ràng hơn về giá trị nghệ thuật.
3.1. Ngƣời kể chuyện biết lắng nghe trầm tích văn hóa từ những chuyện
đời thƣờng
Người kể chuyện đóng một vai trò rất quan trọng trong tác phẩm tự sự,
đặc biệt trong thể loại hồi ký, tự truyện. Sức hấp dẫn của tác phẩm được quyết
định một phần bởi người kể chuyện có hấp dẫn hay không. Trước khi nghiên
cứu người kể chuyện trong tác phẩm của Tô Hoài, thiết nghĩ cần bàn về tác
phẩm này ở phương diện thể loại, để thấy Tô Hoài đã làm chủ thể loại và linh
hoạt khi đứng ở những đường biên của thể kí.
Ký sự là một thể của ký thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện,
hay kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện hoàn chỉnh
hoặc tương đối hoàn chỉnh, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận,
nhưng khuynh hướng của tác giả được toát ra từ tình thế và hành động. Yếu tố
phi cốt truyện của những loại ký này không nhiều. Ghi chép khá hoàn chỉnh
một sự kiện, một phong trào, một giai đoạn. Tác phẩm ký sự cũng cấu tạo
theo phương thức kết cấu thông thường của một tác phẩm nghệ thuật: mở đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và phát triển sự kiện, sự biến đổi phát triển đến cao độ - hoặc căng thẳng nhất
- và kết thúc. Ký sự là bức tranh toàn cảnh trong đó sự việc và con người đan
chéo, những gương mặt của nhân vật không thật rõ nét
Hồi ký những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ,
một dạng gần như tự truyện của tác giả. Hồi ký cung cấp những tư liệu của
quá khứ mà đương thời tác giả chưa có điều kiện nói được
Tùy bút: Là một thể của ký đối lập với phóng sự. Nếu phóng sự thiên
về tự sự với điểm tựa là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm
tựa là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút
viết tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá,
trình bày v.v. Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để
tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá.
Ranh giới giữa các thể loại kí nói trên không tuyệt đối, luôn có tình
trạng chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau mà tác phẩm này là một điển hình.
Trong Người bạn đọc ấy, Tô Hoài nhận xét: “Trước kia từ điển văn học phân
chia: phóng sự thì chỉ trình bày sự việc, bút ký thì có những lời bình phẩm của
người viết. Bây giờ ta có thể đọc một bài bút ký trong đó không thiếu những
đoạn viết theo lối phóng sự, lẫn hồi ký, có khi cả thể truyện ngắn. Mà ai dám
đánh cuộc: bút ký bây giờ không bằng ngày trước?". Chỉ trong những cuốn
sách lý luận và sách giáo khoa các nhà nghiên cứu mới phân chia thể tài một
cách chính xác, trong khi thực tế văn học luôn diễn ra những yếu tố ngoại
biên, mờ nhòe, đặc biệt với những tác giả văn học có năng khiếu đặc biệt và
sự linh hoạt cao độ khi cầm bút.
Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác
phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ
thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả, dĩ nhiên không
nên đồng nhất hoàn toàn với tác giả ngoài đời; có thể là một nhân vật đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
do tác giả sáng tạo ra; có thể là một người biết câu chuyện nào đó. Một tác
phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. Hình tượng người kể
chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt
tâm lí, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự
trình bày, tái tạo con người và đời sống bên trong tác phẩm thêm phong phú,
nhiều phối cảnh.
Có thể khẳng định, Tô Hoài là một trong số ít những nhà văn có sự linh
hoạt cao độ khi cầm bút, điều này bộc lộ rõ ngay ở người kể chuyện trong tác
phẩm của ông: thâm hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu, nhàm
chán, lan man tí chút nhưng không kề cà vô vị, một chút “u mặc” với cái
giọng khơi khơi mà nói, anh muốn nghe thì nghe, không bắt buộc nghe rồi
hiểu, đừng cật vấn….Và vì thế, sức hấp dẫn chủ yếu là ở sự chân thật. Kể ra
khen một nhà văn ngoại thất tuần như Tô Hoài là chân thật thì cũng không
được lễ phép cho lắm, nhưng trước kia cũng như bây giờ, sự chân thật vẫn
luôn là một thách thức các nhà văn của chúng ta.
Trong Chuyện cũ Hà Nội lời của người kể chuyện được tổ chức một cách
đặc biệt. Kể về một cuộc đời, vốn dĩ cuộc đời đã không bao giờ là một quỹ
đạo thẳng tắp, có định hướng đều đặn, mà là một mớ bòng bong những mẩu
đất và những mảnh vụn luôn luôn được trí nhớ tổ chức lại và biến đổi đi, đâu
phải chỉ là chuyện của kinh nghiệm, thạo nghề. Không chỉ thế giới ngoài ông
mới được (hay bị) soi chiếu, cảm nhận bằng cảm quan hiện thực đời thường
mà chính bản thân cái tôi của người viết cũng được quan sát và mô tả bằng
con mắt ấy. Khi nhớ lại những năm tháng tuổi thơ, trong “Những ngày áp
tết”, cái tôi ấy không hề tô vẽ cho ấu thơ của mình thật đẹp đẽ mà ngược lại,
rất trung thực với cảm giác ngày thơ dại của mình khi chứng kiến cảnh ông
Phán lên đòi tiền: “Tôi biết đấy là ông Phán lên đòi nợ. Biết thế tôi cứ vừa
buồn, vừa xấu hổ, vừa sợ. Tôi tránh đi, tôi lang thang lên chợ, đến trưa mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mò về”. Người kể chuyện, bằng môt giọng thì thầm, trầm lắng và buồn tủi
(buồn tủi cho thân phận mình là một đứa trẻ trong gia đình mắc nợ mà không
thể trả, buồn tủi cho cả thân phận người chủ nợ nghèo mỗi năm mỗi ốm lặn
lội lên đòi nợ rồi lại lầm lũi trở về không), đã miêu tả những cuộc đối thoại
trong im lặng của bà mình và ông Phán. Để rồi, từ nỗi sợ người chủ nợ,
chuyển thành nỗi thương: “Tôi không sợ ông Phán nữa (vì có hôm tôi trông
thấy ông khóc, nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt ủ ê). Mà tôi thương ông
Phán. Còn bà tôi thì cứ ngồi trơ ra. Bà tôi chỉ ngồi chịu chuyện nhát gừng. Tôi
đâm ra ghét bà tôi” (14;44).
Người kể chuyện còn hài hước và thú vị nhớ lại ngày đi học với nỗi sợ
phải đi “khám ghẻ”. Chính sự trải nghiệm đã làm một câu chuyện tưởng như
đơn điệu trở nên hấp dẫn, bởi ông có khả năng khiến người đọc sống lại
những cảm giác đau rát của da thịt khi “cái bàn chải sắt nạo cồn cột khắp
mông đít, khuỷu tay. Cái vòi trên cao lại thình lình thả nước xuống. Tưởng
như bao nhiêu máu trong người tôi đương tuôn nốt ra theo nước” [14;515].
Đó còn là sự khôi hài và cảm động khi Tô Hoài nhớ lại câu chuyện về ao ước
có một chiếc xe đạp, giọng điệu của người kể chuyện như vẫn rưng rưng cái
khao khát của một thời: “Xe đạp, cái xe đạp ước ao. Muốn có, nên lúc nào
cũng thèm như có thật” để rồi khi mượn được chiếc xe, lại khốn khổ với nỗi
lo không đèn, phải lên ngồi sở cẩm thâu đêm.
Có một vấn đề tế nhị, mà nhiều người kể chuyện thường né tránh, để
hạn chế những đụng độ, tranh cãi, đó là chuyện đức tin. Nhưng, dường với Tô
Hoài, chuyện này cũng được ông nhìn và kể như bất kỳ một lĩnh vực nào của
đời sống con người. Bởi một khi trong cảm quan hiện thực của ông, con
người là con người của cái đời thường thì đức tin chẳng qua cũng chỉ là một
chuyện đương nhiên như thế. Người kể chuyện trong tác phẩm của ông không
thiêng liêng hoá đức tin của chính mình, của người thân hay dòng họ, mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác, cũng không “trầm trọng hoá” đức tin của người khác. Đến cả Đức Chúa
Giê Su hay Đức Phật, có lẽ ông cũng nhìn bằng cảm quan hiện thực đời
thường ấy. Nên, trong Bên đời, bên đạo, người kể chuyện ấy sòng phẳng với
cả đức tin, khi viết một cách hài hước đến lạnh lùng: “Chẳng biết ai sai ông
tôi đi đạo. Quả nhiên, bên đạo bênh cho được kiện. Ông bà tôi được kiện rồi
thì cũng nhạt đạo. Đến khi tôi biết, chỉ còn thấy ở cũi bát trong buồng, giữa
chồng bát chiết yêu, bát mẫu đong chè, có cái tượng Đức Bà con con bằng sứ
trắng, bụi đã bám đen nhẻm” (14;215). Như vậy, chuyện theo đạo hay nhạt
đạo của “ông bà tôi”, theo sự quan sát và đánh giá của người kể chuyện, là do
cái lợi xui khiến chứ không phải niềm tin dắt lối chỉ đường. Đó là sự bạo gan
của cái tôi khi đã đi gần hết cuộc đời, chứng kiến nhiều cảnh ngộ. Cái tôi ấy
không ngần ngại nói về sự dửng dưng của chính mình trước tượng Đức Bà
“mặt gầy gầy, mũi nhọn hoắt”. Ông đã táo bạo (thậm chí ngông cuồng).
Nhưng đó chỉ là đánh giá của những người đọc giàu đức tin, còn với Tô Hoài,
có lẽ ông cũng chẳng nghĩ mình đã ngông cuồng hay nhạo báng ai. Chỉ có
điều, trong khi số đông thường mải mê theo đuổi huyền thoại thì Tô Hoài từ
lâu lắm đã mang cái nhìn “giải huyền thoại”. Ông sòng phẳng với đức tin,
đồng thời trân trọng đức tin của người khác khi khẳng định: “Nhưng Nam
Cao với nhà thờ, cảm tưởng của anh khác hẳn tôi. Vào nhà thờ, anh thấy nhà
thờ đầm ấm quen thuộc. Đêm nghe tiếng chuông nhà thờ làng Đông, tiếng
đính đoong đỏng đảnh bao giờ cũng làm anh bồi hồi nhớ nhà”. Chỉ thêm từ
“đỏng đảnh” để miêu tả tiếng chuông, đủ biết đó là giọng kể của môt người
ngoại đạo, ưa bông đùa nhưng không thiếu một tâm hồn tinh tế. Tất nhiên,
vốn là một người kể chuyện dí dỏm, khôi hài và trung thực, ông cũng không
quên ghi chú rằng (ghi chú mà không sợ niềm tin của mình đang bị chính mình
đem ra giễu), “Trông tượng Phật, Nam Cao thấy ghê ghê, anh dửng dưng trước
mùi hoa mộc và hoa sói. Anh nghe tiếng chuông chùa trong tĩnh lặng ban đêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng bằng nghe trống ngũ liên hộ đê hay trống thúc thuế” [14,215].
Điều đáng nói hơn nữa là, người kể chuyện trong Chuyện cũ Hà Nội của
Tô Hoài còn biết lắng nghe trầm tích văn hoá từ những cái đời thường dung
dị. Một trong những nét đẹp của văn hoá là tiếng nói, ngôn ngữ của vùng
miền. Nói như Nguyễn Khoa Điềm, khi bàn về các giá trị văn hoá cổ truyền
đã viết “Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói/ Họ gánh theo tên xã tên
làng trong những chuyến di dân”. Tô Hoài khảo sát và suy ngẫm về sự biến
đổi của ngôn ngữ người Hà Nội, tất nhiên, công việc của ông không phải một
nhà ngôn ngữ, nhưng khảo sát sự thay đổi cách gọi bố mẹ trong mấy chục
năm của người đất này, ông đã nghiệm ra bao điều thú vị, về sự bảo tồn và lai
căng, về cái ban đầu bị rẻ rúng rồi một ngày lại trở nên thân thiết. Ông nhận
thấy, cách gọi bố mẹ không chỉ khác theo không gian nhà quê hay hàng phố,
mà còn theo địa vị sang hèn: “Ngày trước, ở phường phố, con cái gọi bố mẹ là
thầy đẻ, thầy me. Nhà có đi đó đi đây bắt chước các nơi đôi chút gọi là ba má
hoặc ba mẹ. Vợ chồng còn trẻ cho con gọi là cậu mợ. Khi có tuổi mới đổi là
thầy mẹ. Chưa kể, còn gọi là “ông bà” thay con. Các làng ngoại ô, gọi bố mẹ
là thầy u, thầy bu. Vài ba nhà giàu kệch cỡm “giẫm phải cứt tây”, bắt con gái
gọi là pa pa, ma măng. Những nhà hiếm thường dạy con trai gọi là chú thím
hoặc anh chị (theo hèm, gọi tránh để ma không biết là con cái nhà
mình)….Chỉ ở các vùng quê xa, trẻ em mới gọi bố mẹ là bố mẹ. Nơi phố
phường cho hai chữ bố mẹ là quê kệch, hoặc có nghĩa thấp hèn “bố cu, mẹ
đĩ”. Trong kháng chiến 45-54, hầu hết người thành phố đi tản cư về các vùng
nông thôn. Không biết từ lúc nào, hai chữ “bố mẹ” trong miệng của con cái,
đã trở nên gần gũi, thân thương và bình thường rồi lan đi tất cả mọi nhà. Hai
chữ bố mẹ được dùng rộng rãi như ngày nay, đã trải và in dấu lịch sử phát
triển tiếng nói đất Hà Nội như thế” [14;173].
Biết lắng nghe trầm tích văn hoá từ những điều giản dị, nên cái tôi của Tô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hoài mới nặng lòng với đất, với chợ quê. Cái tôi ấy dễ bị kết luận là lạc thời
khi “bây giờ đương ở thời buổi ni lông, đồ nhựa, thử xem lại cái thuở thịnh
vượng tranh tre nứa lá thế nào”, để rồi, đi đến khẳng định rằng “Đất đã hầu hạ
con người. Từ dưới bếp ra ngoài sân la liệt các thứ làm bằng đất” [14;335].
Trở lại với Phiên chợ trâu bò, người kể chuyện hoàn toàn hoá thân thành một
đứa trẻ để reo lên náo nức, như thể đang ở giữa chợ phiên của hôm nào “Ôi
chà, ba phiên chợ tết, đi rạc cẳng chân vẫn chưa chán mắt. Khoái nhất chỗ
chợ trâu bò…Kìa kìa, lại môt đàn trâu bò nữa đương vào bãi, nhấp nhô, đủng
đỉnh giữa các ông lái chít lượt khăn tai chó”. Tác phẩm kết thúc mà người kể
chuyện như vẫn còn “mắc” trong hồi ức. Ông viết câu văn ở thì hiện tại, để
thấy mình còn sống trọn vẹn với cái đẹp, cái tiếc nuối ngơ ngẩn của ngày xưa:
“Bê được đi chơi chợ tết, cũng như bọn trẻ. Có đứa đuổi theo, đá đít bê mấy
cái. Bê ve vẩy cái đuôi hủn hoẳn, rúc mõm vào bụng mẹ, không thèm đá hậu
trả đòn. Tôi đang ngẩn ngơ nhìn theo. Chẳng biết phiên chợ trâu bò sang năm
bê có đi chợ nữa không” [14; 342]. Người kể chuyện mơ màng với kí ức tuổi
thơ, và dường như còn nguyên nỗi ao ước thuở nào có được một con chim sập
bẫy “những khi trời mưa bụi, nghe ánh ỏi tiếng đàn chim vành khuyên bay
qua, vẫn khắc khoải. Tưởng như dễ bẫy, mình sẽ bẫy được, thế mà chưa khi
nào bẫy được nổi một con”. Ông khắc khoải vì nỗi nhớ ban đêm “những khi
buồn bã mưa phùn gió bấc, không hiểu tại sao chỉ thấy nhớ ban đêm. Tưởng
như cả năm, đêm nào thành phố cũng toàn những rét mướt sâu thẳm. Vẫn biết
Hà Nội có bốn mùa mà cứ ngỡ thế. Ô hay vậy. Có lẽ vì trong lòng sẵn nông
nỗi về những đêm buồn. Cái ông Phạm Đình Hổ ngày xưa viết Vũ trung tuỳ
bút, nhà ông Hổ ở phố Hàng Buồm. Mỗi khi ông ghi lại những điều mắt thấy
tai nghe và cái nghĩ về đất kinh kì, chắc không phải lúc nào ông cũng viết
trong mưa. Chỉ bởi trong lòng ông có mưa gió khi cầm bút mà thôi. Cũng là
một cái nhìn Hà Nội thuở nào” [14;83]. Tức là, đặt mình trong dòng chảy thời
gian để thấy mình cũng chung nguồn cảm hứng với tiền nhân, kế tục văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mạch người thuở trước.
Nhiều khi, kể về những cuộc đời khốn khổ, giọng tự sự thản nhiên lạnh
lùng thoáng chút mỉa mai của Tô Hoài đã làm cho người đọc nghĩ hẳn đó phải
là một con người khinh bạc. Nhưng chính người kể chuyện trong tác phẩm
của ông cũng đôi lần hé lộ sự đa cảm không thể giấu che. Con người ấy, khi
viết về người phụ nữ tên chị Hai với thân phận trớ trêu, đã tự trải lòng mình:
“Mỗi khi nhớ lại chuyện này, cứ vẩn vơ như nghe chuyện đứa trẻ lạc, đứa trẻ
bị mẹ mìn dỗ đi. Không bao giờ thấy nữa, mà bao giờ cũng như sắp thấy.
Người nghe chuyện cũng chung nỗi đau người mẹ phải chịu nhớ thương vật
vã cả đời” [14,238]. Sự vẩn vơ của một người đã đi gần hết cuộc đời ấy là nỗi
đau cho một người sinh con mà bị tước quyền làm mẹ, vì “người ta đuổi mẹ
đi cho mất hơi hướng”, vì chị Hai chỉ là kẻ được mướn để “đẻ thuê” – nói
theo thuật ngữ hiện đại ngày nay. Nhân vật tôi không thổ lộ trực tiếp nỗi xót
xa, nhưng chính việc người kể chuyện bị ám ảnh bởi tiếng cười “khanh khách
rộn lên, tiếng cười của người hoá dại” đã nói lên sự đa cảm của một cái tôi có
trái tim nhân hậu. Cái tôi ấy đã hiểu nông nỗi của người mẹ, trăn trở về tiếng
khóc của chị Hai “chị khóc tức sữa. Hay chị Hai khóc nhớ con. Có lúc thấy
bóng người như cái góc chuối ngay đầu giọt gianh. Chị ra đứng đấy”.
Ai có thể kết luận cái tôi ấy là khinh bạc khi con người ấy đa cảm và
nặng lòng thương nhớ những tiếng chim và thương cả “những lá sung”. Vì
“quanh hồ Gươm, hồ Thiền Quang có cây sung cổ thụ. Chẳng còn con chim
nào về bắt sâu cho cây, mùa hè nắng chói chang, sâu bọ đã chén hết lá, cây
sung bị ghẻ, tróc đầu, trơ trụi, tiều tụy”. Cái tôi ấy còn xót xa ai oán thở than
khi “Thành phố này đã ăn hết cả chim trời”, thế nên, những tiếng chim ríu rít
xưa “chỉ còn mờ mờ trong trí nhớ”. Những vẻ đẹp đời thường mà thiêng liêng
ấy của Hà Nội cổ xưa được Tô Hoài hết sức nâng niu. Người đọc tự hỏi, mãi
sau này, khi những thế hệ ấy, những “hạt bụi vàng ấy” của đất kinh kì xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khuất, trí nhớ cũng chẳng còn, làm sao để lưu giữ được cái đẹp của một thời
mà con người và thiên nhiên hoà quyện thế. Cái tôi của Tô Hoài hẳn nhiên
cũng mang nỗi ám ảnh về những câu hỏi này, và có lẽ đó cũng là lí do khiến
ông trăn trở, nhiều lần trở đi trở lại với Chuyện cũ Hà Nội, để bổ sung những
câu chuyện mới, những hình ảnh mới dễ bị đời sau lãng quên.
Vào tuổi “thiều quang chín chục”, người kể chuyện trong tác phẩm của Tô
Hoài vẫn một dòng suy cảm, một khối u hoài. Duy niềm u hoài bên Xóm
Giếng ngày nay nhẹ phần mơ mộng, thêm phần tư lự . Chuyện cũ Hà Nội là
niềm hoài cựu miên man về một thành phố, đồng thời là khối trầm tư day dứt
một đời người về thân phận làm người.
3.2. Ngôn ngữ tự nhiên, có sự pha trộn nhiều màu sắc
Tô Hoài là một trong những nhà văn đặc biệt nhận rõ: “tinh thông về chữ
là một điều cần thiết”. Ông thường mong muốn “mỗi câu văn là do từng hình
ảnh xuất hiện liên tiếp, từng chữ nối vào nhau. Chữ của câu văn phải như gõ
vào, nó kêu được. Chữ phải nổi hình ảnh liên tiếp”. Nhà văn ao ước: “Mỗi
chữ phải là một hạt ngọc buông xuống trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới
nhất, của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”.
Sắc thái ngôn từ trong Chuyện cũ Hà Nội của ông thật đa dạng. Có
những phát biểu thẳng thừng, những phê phán trực tiếp, nhưng có loại mà một
số nhà nghiên cứu xếp vào dạng diễn từ hai giọng, có sự chệch hướng giữa
người phát và người nhận cả về thái độ lẫn thông điệp…Có những phát ngôn
ngắn, gọn, thoáng qua, cài vào các sự kiện, các sự cố, hẳn là phát ngôn của tác
giả, nhưng người đọc cứ phải tự hỏi xem còn có giọng của ai trong đấy nữa…
Xen vào những ngổn ngang tâm sự, chua chát mỉa mai lại hài hước là những
cảnh vừa nhếch nhác vừa rất mộng mơ. Tô Hoài trước tiên là nhà văn của đô
thị, của những hẻm phố và những quán cóc, những bữa nhậu còm và những
chủ quán ta Tàu đủ kiểu; văn ông cài vào những câu điêu luyện (nhưng vẫn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vẻ giản đơn).
Tô Hoài rất ít khi dùng thứ ngôn ngữ óng ả, sặc mùi sách vở. Chữ
nghĩa của ông cất lên từ đời sống. Nhưng đó là thứ ngôn ngữ được chắt lọc,
“thôi xao” kỹ lưỡng. Các chi tiết nghệ thuật trong văn Tô Hoài thường là kết
quả của một quá trình quan sát tinh và sắc. Muốn thế, chữ nghĩa phải giàu khả
năng tạo hình và có khả năng biểu đạt các tình huống, các sự kiện một cách
chính xác nhất. Nhưng điều đáng nói nhất là việc Tô Hoài thực sự đã xác lập
được một nhãn quan ngôn ngữ tự sự cho chính bản thân ông. Cũng giống như
chàng thợ sơn guốc Kim Lân, thuở nhỏ, Tô Hoài không có điều kiện học
hành. Đó là một thiệt thòi lớn. Nhưng ông đã biết cách bù lại bằng khả năng
tự học mà nếu không bền chí, hẳn ông đã rất khác so với một Tô Hoài vạm vỡ
hôm nay. Những bài học, những kinh nghiệm ấy được Tô Hoài bày tỏ, đúc rút
trong các tác phẩm: Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn
đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn
(1997). Tô Hoài cho biết, ông là người chịu khó ghi chép. Với ông: “Học chữ
và tiếng nói là cần thiết. Trong ba cửa: tiếng nói quần chúng, tiếng nói trong
vốn cũ và trong vốn nước ngoài, học tiếng nói quần chúng là quan trọng hơn
cả” (Sổ tay viết văn). Quan niệm này của Tô Hoài rất gần gũi với quan niệm
của người xưa: thơ ca sơ học tang ma ngữ. Nhờ ý thức bám lấy ngôn từ của
đời sống và dám tạo nên những cách nói mới mà văn Tô Hoài có khả năng
gây ám ảnh. Ai kia viết văn có thể tùy hứng, Tô Hoài thì không. Ông có ý
thức nghệ thuật riêng. Trong lần trò chuyện với nhà văn Nguyễn Công Hoan
về kiến trúc câu văn, Tô Hoài cho biết: “Trước tiên, khi viết văn, bao giờ tôi
cũng nghĩ là mỗi câu văn là do từng hình ảnh xuất hiện liên tiếp, từng chữ
mang hình ảnh nối vào nhau. Chữ của câu văn phải như gõ vào, nó kêu được.
Chữ phải làm nổi hình ảnh liên tiếp. Cho nên tôi cố gắng, một là chỉ cho
người đọc thấy được dáng câu, chứ không thấy được kiến trúc câu; hai là cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cấu tạo câu phải là hình ảnh, hình ảnh liên tiếp. Người ta đọc bằng mắt, chữ
vào trong óc, bao giờ cũng trở thành hình ảnh trước, tôi cố gắng làm theo
những cách trên”. Có thể, cái kinh nghiệm này của Tô Hoài chưa chắc đã ứng
hoàn toàn với các nhà văn khác. Nhưng với ông, đó là một quan niệm, và
quan niệm ấy hiệu quả với con đường viết văn của chính ông.
Văn Tô Hoài viết kỹ nhưng không cầu kỳ, khó hiểu, giọng văn đặc Việt
Nam giống Nam Cao, không thỉnh thoảng đặt câu theo ngữ pháp Tây như
Ngô Tất Tố, cũng không đôi khi lai Tây như Vũ Trọng Phụng. Về dùng chữ
dân gian, ông đằm chứ không sóc kiểu Nguyễn Công Hoan. Chất thơ trong
truyện ông kín đáo, nhuần nhị chỉ phảng phất như hoa lý chứ không ngào ngạt
như hoa đại kiểu Nguyên Hồng. Văn phong ông giống một cô gái quê nền nã,
chứ không táo bạo kiểu văn phong Nam Cao.
Tô Hoài chủ trương dùng từ phải chính xác. Gần đây, ông hay dùng từ
ngữ và cách nói ngày xưa, dụng tâm phục hồi ngôn ngữ cổ. Ví dụ « Số bác
Khán cao, phải lấy vợ thiên hạ » có nghĩa là tìm duyên ở làng khác, đi làm
mướn kiếm cơm thiên hạ, người thiên hạ đến cày cấy, cùng nghĩa khác làng.
Ngày nay, chúng ta chỉ dùng động từ cưới trong nghĩa kết hôn, Tô Hoài khôi
phục từ cưới trong nghĩa khai trương, khánh thành: cưới chợ, cưới tàu điện.
Ngược lại, nhà văn dùng chữ lấy vợ, lấy nhau, tổ chức đăng ký kết hôn nhưng
không một lần dùng chữ “xây dựng” đang thời thượng. Ông còn dùng chữ
bảo học thay vì « dạy học », đôi năm mươi để nói người cao tuổi qua đời,
thường dùng chữ seo giấy , thợ seo ít thông dụng. Làm diều cùng một trang,
ông dùng ba động ngữ : phiết giấy, phết (quả) cậy, phất giấy. Tuy nhiên,
trong bài Nón xưa tác giả dùng nhiều lần động ngữ làm nón, có khi khâu nón,
lợp nón mà không thấy dùng chữ « chằm nón » là chính xác nhất. Tô Hoài bỏ
công giải thích một số từ cổ ngày nay thông dụng nhưng đã mất nghĩa, như
cầu cống : cống có khi nghĩa là cầu, như Cống Đõ, cống Mọc ; còn cầu có khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là nhà trạm, có cột và mái ngói, thường gọi là Cầu Chợ. Cầu Giấy là chợ bán
giấy. Cầu không nhất thiết phải qua sông (tr. 506). Bài Hội Hè Đình Đám giải
thích cặn kẽ hội và đám khác nhau ra sao. Nói chung, Tô Hoài đã làm sống lại
nhiều phong tục hội hè đình đám bằng phong cách văn học, đọc vui mà trau
dồi thêm kiến thức.
Nhiều khi, Tô Hoài sử dụng giọng điệu của văn nói như một sự cố tình,
với những từ đậm chất dân gian như “Cái ông Ấm này, là ông Ấm như thế.
Bên nội tôi có họ với bà Ấm. Cũng xa lắc, từ đời tám hoánh…Nhưng ông Ấm
thì nghèo, đích xác là nghèo, nghèo xác nghèo xơ. Nhà ông Ấm dưới ô Cầu
Dền. Chỉ có một gian trong sân sau, tối ẩm ướt như hũ nút”.
Hoặc tác giả tả rất kỹ cung cách và vật liệu làm diều : Thân diều làm
bằng hóp đá cứng nhất ... ngả vào mùa lạnh mới chắc thớ. Hóp đá và tre đực
ngâm vào bùn trong ao cả mùa, cả năm. Vớt lên, đẽo gọt qua loa rồi đem gác
bếp cả bộ sườn, bộ khung (...) Phiết giấy dán diều cũng tỉ mỉ vất vả ... giấy
bản có gân vỏ dó, khi seo tờ giấy lại pha gỗ mò, bền không rách được. Cái
dây diều chỉ cần ba dẻ đay thì vừa nhẹ ... xong việc diều, đi thử sáo ... Có ba
thứ sáo diều ... hôm nào gió nhỏ lắp sáo còi, gió lửng thì chơi đẩu, có gió trên
mới đóng sáo chiêng. Sáo còi lảnh lót, sáo đẩu rền rền... Có gió, sáo chiêng
mới lên tiếng... Tiếng sáo bổng trầm hoà khéo vào nhau như phường bát âm
ngồi trên trời. (14; 405-408). Tô Hoài dụng văn kỹ càng, dụng chữ cũ càng
như thể là để nghe tiếng mình nói, nghe lời mình nói, sống lại những âm hao
xưa cũ và thơ dại. Đời sau sẽ quý nguồn tư liệu về diều sáo, qua nghệ thuật
mô tả của tác giả nhưng động cơ của Tô Hoài khi viết đoạn văn này là để
sống lại một thoáng hanh hao xưa vắng. Ngôn ngữ Tô Hoài sắc sảo trong
miêu tả, đặc biệt cách dùng những động từ. Miêu tả cảnh một ngôi nhà hoang
lạnh, lại nghe đồn là có ma, Tô Hoài viết: “Cánh cửa lúc nào cũng khép hờ.
Cây hoa hồng ta bên cái phên nứa, nở vô khối mà cứ rữa ra không ai dám vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hái. Tháng hai, hoa bưởi rụng, mùi thơm và mùi hoa trắn rờn rợn.
Ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm của Tô Hoài khi sang trọng, lắng
sâu, lúc lại mộc mạc, thô dã, tưởng như cà kê, dông dài mà chứa chan sinh
động. Như khi ông viết Hội làng: “Làng Tân, làng Dậu lại chẳng mấy khi
gom nổi tiền đón phường chèo, chỉ đi xem kẹ hội hát làng bên. Làng Yên Phú
đút nút phường tuồng vào cái cầu giữa làng. Phường kiết xác, không đủ hơi ra
diễn rạp giữa trời”. Tô Hoài dùng “xem kẹ” chứ không phải là “xem ké”, xem
ké nghe sang hơn, lịch sự hơn, xem kẹ là một từ dùng cắc cớ, giàu sắc thái, bởi
trong đó người ta như nghe thấy sự ghẹ gẫm, chung đụng, nghèo hèn, đành
rằng là thân phận xem nhờ, nhưng nghe vẫn thấy thảm hại hơn, nhỏ mọn hơn,
đáng thương hơn. Các từ đút nút, kiết xác, không đủ hơi nghe đậm chất văn
nói, nhưng chính nó lại làm nên cái duyên trong lối kể chuyện của Tô Hoài
bởi thoáng giọng mỉa mai, thoáng như tiếng chửi đời, chửi người mà vẫn ánh
lên nỗi thương người và cả tự thương, tủi phận cho làng.
Ngôn ngữ của nhân vật trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài mang
màu sắc cá tính rất rõ nét, dù chỉ là một nhân vật thoảng qua, đủ để thấy Tô
Hoài là người am hiểu sâu sắc ngôn ngữ của nhiều tầng lớp người trong quá
khứ, đặc biệt là ngôn ngữ của người trí thức nghèo và dân lao động ngoại
thành. Đây là cuộc đối thoại giữa hai trí thức nghèo nơi vỉa hè dân dã, khi
bụng đã đói ăn mà trong túi kẹt tiền:
“Tôi hỏi Dung:
- Chiều rồi, đi nhồi cái gì chứ?
- Tớ chẳng còn xu nào mới phải đi ăn tiệc nhìn thế này.
- Nhịn a?
- Lúc nào có tiền thì ăn đúp”
Người đọc hẳn nhiên sẽ làm môt cuộc giải mã thông tin, để thấy bên
cạnh thông tin thông thường còn hàm chứa cả sắc thái tâm trạng của người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đang nói: đi nhồi = đi ăn (nhưng đi nhồi nghe thô mà dân dã, trẻ trung hơn,
thấy cả sắc thái ra vẻ khinh bạc cái chuyện ăn của người đang nói, như thể ăn
uống là chuyện bắt buộc phải làm, phải chăng là che giấu nỗi xấu hổ nếu như
phải trịnh trọng hoá chuyện ăn?), đi ăn tiệc nhìn = dạo loanh quanh, nhìn
ngắm tất cả nhưng không có tiền để ăn gì cả (chẳng nhẽ lại thú nhận nỗi
nghèo đói chẳng có gì để ăn, cách dùng từ “đi ăn tiệc” sẽ gợi ra cho cả người
nói lẫn người nghe sự an ủi về điều sang trọng, nhưng tất nhiên, nó vẫn phải
hài hước và chua xót thông báo sự thật với người nghe rằng đó chẳng qua chỉ
là bữa tiệc nhìn); ăn đúp = ăn bù bằng hai lần (ăn cho bữa có tiền và ăn bù cả
bữa nay phải nhịn, một cách nói tưng tửng mà hứa hẹn một viễn tưởng sáng
láng). Giả sử, thay những từ Tô Hoài dùng bằng các từ theo nghĩa thông
thường ở vế hai, hẳn những sắc thái trẻ trung, dân dã, đa cảm xúc của ngôn
ngữ nhân vật sẽ giảm đi nhiều lắm.
Đó là ngôn ngữ của trí thức nghèo, ngôn ngữ của người dân lao động
ngoại thành được Tô Hoài khắc hoạ với sắc thái riêng. Tất nhiên, Chuyện cũ
Hà Nội không phải là sự tập hợp của các truyện ngắn, nên ngôn ngữ nhân vật
không được Tô Hoài quá tập trung. Nhưng, chỉ cần điểm qua những lời nói
của một vài nhân vật, vẫn thấy ánh lên cái chất phác, thô dã mà sống động,
tươi rói của lời ăn tiếng nói dân gian. Đây là lời người bà tấu lên thánh trước
sự kiện con chó đá - vật linh thiêng mà bà đem thờ bên cổng bị con gái đem đi
bán trong ngày đói: “Lạy thánh mớ bái…Con dại cái mang, lạy thánh đánh
chữ đại xá cho”, còn đây là lời hỏi người cháu nhỏ: “Sao thằng cu không đi
tìm bà? Cái con giời đánh thánh vật ấy mà bán mất ông chó này thì rồi ông ấy
vật chết cả nhà đấy, con ạ”. Đứa cháu trả lời thành thật: “Dì bảo rồi dì về
quảy cháu đem bán sang Bắc Bỏi”, bà đã kêu lên: “Ối giời ơi, giời chu đất
diệt cái quân độc mồm!”. Chỉ với những lời thoại ấy, đủ thấy sự sinh động
trong ngôn ngữ dân gian mà Tô Hoài luôn có ý thức sưu tầm và lưu giữ. Lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người lao động bao giờ cũng nặng tính thổ ngơi, nói có vần có điệu, lẩy ra tục
ngữ thành ngữ một cách tự nhiên, cái nôn nóng, giận hờn không che giấu, sôi
sục đấy mà vẫn nhân hậu, chan chứa, xót xa.
Cũng có khi, chỉ qua một tiếng chào, Tô Hoài hé lộ cả niềm vui lẫn bi
kịch trớ trêu của người lao động. Đó là trong Bắt rượu, ông mô tả cảnh chú
Bếp Mỡ “hớt hải từ trong xóm ra chạy lẫn vào đám bắt rượu (khi Tây về bắt),
trông thấy tôi, chú nói to:
- A, thằng cu Bưởi về quê ăn tết à? Chú đi tù rượu đây nhé. Mẹ con cháu ở
nhà chơi nhé” (14;22). Đi tù rượu - tiếng ấy vang lên cứ ngọt như không,
thậm chí vừa nói vừa cười hi hí. Tô Hoài còn tinh tế hơn khi miêu tả cả lời
bàn tán đầy ghen tị và bỡn cợt của người dân trong xóm: “Thế là tự dưng giời
cho nhà bếp Mỡ cái tết nhé, sướng nhé”. Thế mới biết, đâu chỉ có một Chí
Phèo của Nam Cao “xin cụ lại cho con đi ở tù”. Vì với bếp Mỡ, đi tù thay là
một việc kiếm ăn, sự sum họp đoàn viên có nghĩa gì nếu cả nhà bị đói, đấy là
“giời cho” chứ không phải “giời đày”. Nỗi hân hoan trong tiếng chào của
nhân vật đã nói lên sự thật ngang trái mà đau lòng đó.
3.3. Sự phong phú của không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật chính là hình thức bên trong của hình tượng
nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất
định, qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính
của nó. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính
chủ quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy, không
gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào không gian địa
lý. Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm
văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới,
chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các
hình tượng nghệ thuật. Có thể khẳng định, không gian nghệ thuật trong
Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài vô cùng phong phú, bởi ông đã khám phá và
miêu tả những miền không gian mới, hé lộ những cuộc đời vô danh thường bị
lãng quên.
3.3.1. Phát hiện miền không gian mới, hé lộ những cuộc đời dễ bị lãng
quên của Hà Nội phồn hoa.
Trong tác phẩm Băm sáu phố phường, Tô Hoài bằng cảm quan hiện
thực đời thường đã chia Hà Nội ra thành ba miền không gian cách biệt: Thứ
nhất là khu vực phố Tây, “phần đông chỉ có nhà người Pháp hoặc người An
Nam giàu có và sang trọng”. Không gian này có tính loại trừ cao, nên thường
vắng, chỉ loáng thoáng người qua lại, nếu lạc vào đó, “người như tôi lúc ấy,
những thanh niên chân xỏ đôi guốc mộc, áo dài thâm, bước thất thểu, qua cửa
nhà sang trọng hay nhớn nhác nhòm ngó. Thế nào cũng có đội sếp dõi mắt
xem có phải kẻ gian “chú chích” hay không” [14,36]. Tất nhiên, miền không
gian này không dành cho những thân phận của loài “cỏ dại”, nhưng cũng
chẳng phải là nơi lưu trú của kẻ giang hồ. Miền không gian thứ hai: Hàng
Đào, Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Ngang, chợ Đồng Xuân, người chen chúc
đông đúc qua lại bên này Hồ Gươm, khu buôn bán sầm uất - ở đây mới lắm
các tay “chích cược” (trộm cắp) và du côn, du kề. Riêng có miền không gian
thứ ba sinh sôi với đời sống thành phố mà ít người nhận ra và phân biệt được.
Miền không gian này lại tự tách làm đôi: Các phố nhỏ yên tĩnh hai bên chợ
Hôm và đường Huế, đó là phố của những công chức, các ông ký, ông thông
và nhà buôn trên phố, phảng phất vẻ êm đềm; còn một vùng khác dưới bãi
dọc đê sông Hồng: các bãi Cơ Xá, Nghĩa Dũng, Phúc Xá, bãi An Dương
xuống tới bến Phà Đen, toàn những nhà lá, lều lá – “Đấy là nhà của những
người nghèo, cu-li dọn kho, bắt-tê cửa ga, kéo xe, phu phen khuân vác, đổi
thùng, thợ hồ, người các vùng quê đói rách đổ ra kiếm sống ở thành phố đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chui rúc xuống ở bãi này”.
Trong sáng tác của mình, như một lẽ tự nhiên đến từ đời thực, Tô Hoài
thường trở đi trở lại với miền không gian cuối cùng này, ở đó, ông mới phát
hiện một Hà Nội lam lũ, với những kiếp lầm than mà ít nhà văn chạm tới. Bãi
dọc sông Hồng còn là nơi “tụ tập của sòng bạc và các tay chơi có hạng. Bọn
trùm gá bạc như Ba Sinh, Cả Vê, Hai Cua và bao nhiêu đầu trộm đuôi cướp
khác. Những tù xổng làm quân cướp ngày, những chúa du côn được chủ xe
hàng thuê đứng bến đánh nhau tranh khách đều sinh sống ở đây. Ở trên đê
trông xuống chỉ thấy những mái lá lươm nhươm, nhôm nhếch bên bãi đất cát
lẫn lộn với mặt nước đỏ rực”. Tô Hoài khi miêu tả không gian nghệ thuật này
đã dùng ngòi bút tả thực, cảm giác bề ngoài tàn nhẫn xót xa, khiến những
người quen nhìn một Hà Nội mĩ lệ ở bề ngoài không tin được: “Sáng sớm,
người ra bờ sông ỉa, đi tha thẩn, con chó lũn cũn theo. Các nhà gánh nước về
ăn phèn, đôi thùng cũng từ dưới sông lên, bước lẫn giữa mọi thứ củi mục,
phân người, rác rưởi. Buổi chiều, gió lạnh ngoài kia quạt hun hút” [14; 38].
Thế nên, điều dễ hiểu là, đã có lúc, viết về miền không gian cùng khốn
với những cảnh đời lam lũ ấy, Tô Hoài đã không giấu nổi sự phẫn uất của
mình về những tháng ngày bất công trong quá khứ: “Đời sống thành phố cò
con, các ông Tây ăn trên ngồi trốc, còn thì, người ta bới bèo tìm bọ, sinh sống
trên lưng nhau, nuôi lẫn nhau. Đi ở, đi phu, đổi thùng, làm mướn, phụ bồi,
phụ bếp, kéo xe, kéo quạt, cu- li san, nhà nào cũng có người”. Ông nhấn mạnh
sự tương phản của hai miền không gian: thượng lưu hào nhoáng và hạ lưu khổ
ải, để lí giải sức hút kinh người của miền ánh sáng kia, đồng thời, nhận chân
sự thực phũ phàng về sự thất vọng của những kẻ khốn cùng đã bị miền
thượng lưu kia làm tan ảo mộng: “Đêm đêm, bốn phía trong cánh đồng trông
lên thấy trời thành phố hửng sáng trong ánh đèn điện, thế là ban ngày người
lũ lượt kéo vào. Người vô công dồi nghề, người thất nghiệp đâu cũng nhan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhản. Người ta thất thểu đi tìm việc qua đêm qua ngày” [14;39]. Đáng lưu ý
là, sinh tồn trong miền không gian ấy còn có cả những nhà văn, nhà văn của
những người cùng khổ - Nguyên Hồng. Nơi ông ở là “một căn nhà vách đất
tối om, vào cửa phải cúi đầu. Cả gian nhà kê vừa cái giường chõng. Dưới
gầm, chiếc hòm gỗ. Tất tật, gạo nước, nồi niêu, quần áo tống cả vào hòm. Bên
chân giường dựng bó củi nứa và cái hoả lò để chị ấy thổi cơm” [14;38]. Có lẽ,
cũng bởi cuộc sống nhiều khó khăn như thế mà trang văn của Nguyên Hồng
mới thấm đẫm nỗi đời và chứa chan tinh thần nhân đạo.
Tô Hoài còn có ý thức miêu tả không gian của những khu chợ tối tăm,
nơi ẩn trốn của lũ trẻ lang thang đói khổ, không gian của Phố Mới tên gọi
nghe sang mà hoá ra lại là “cái chợ bán mua người” lớn nhất của thủ đô.
Trông vào phố Mới “lúc nào cũng thấy ủ ê, hốt hoảng, những nét mặt người
ngoài đường, người đứng tụ tập, ướt át bẩn thỉu. Cả đến trong cái ngách cửa
Hậu vào chợ Đồng Xuân cũng lôi ra được một nút người sầu thảm như thế”.
Ở phố Mới này đủ loại kẻ ăn người ở trong nhà: con sen, con nhài, con nụ, vú
em, u già, cậu nhỏ, anh xe, thằng quýt. Không gian tấp nập, hỗn độn bán mua
bởi các mụ Tú Bà “nháo nhác, táo tác chạy đèn cù tán tỉnh chào hàng, nói
thách, ngã giá, đòi tiền lót tay, xỉa xói và chửi bới”.
Chưa hết, nói đến thủ đô là nói đến thú ăn chơi, trong chốn ăn chơi,
không gian cũng phân loại sang hèn, điều mà ít nhà văn viết về Hà Nội chịu
tìm hiểu và miêu tả: Nhà hát sang nhất ở phố Khâm Thiên - gắn với nó là
những người giàu, tay buôn, tay chơi, mật thám, trùm bạc, chúa tể đầu trộm
đuôi cướp, tiêu tiền ném qua cửa sổ. Trung lưu là cô đầu ở Ngã Tư Sở, khách
đông và tạp nham, gồm thầy ký sở tư, ông nhà văn, nhà báo đi che tàn, ông
buôn nước bọt, ông giáo. Hạ lưu là nhà hát ở Cầu Giấy, Kim Mã và Thượng
Cát, đón vét khách bên Hà Nội, khách quê, các ông chánh lý, các bác thợ mũ,
thợ khảm, khách lái gỗ, lái dó đường ngược xuôi về. Ứng với loại nhà hát hạ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lưu này là những cô đầu Chèm, ngày đi làm cỏ đồng, bắt cua, tối hát, tiếng
trống chầu vì thế mà “trong nhà lá vọng xuống mặt nước nghe lộp độp như
dao chặt thịt gà”. Thế mà, cái đêm Vũ Trọng Phụng mất, Nguyễn Tuân và các
bạn lại sang ngả bàn đèn suốt sáng hút ở nhà hát bên Thượng Cát. “Cái đêm
ngã vào cô đầu nhà quê ấy Nguyễn Tuân có viết trong bài ký Khóc Vũ Trọng
Phụng ở tạp chí Tao Đàn. Không hiểu tại sao các ông hút thuốc khóc bạn lạc
bước sang tận đấy, buồn quá hay là hết tiền. Bởi vì sáng ra dong từ Thượng
Cát về hẳn là cuốc bộ thôi” (14;352).
Với cái nhìn mang đậm cảm quan đời thường này, Tô Hoài có khả năng
soi chiếu vào không gian nghệ thuật những vẻ đẹp ở chiều sâu. Ông thuộc
một trong số hiếm hoi những nghệ sĩ của hôm nay chỉ cần nhìn “cái nhà, bức
tường, vòm cống, bờ hè viền xi măng hay viên đá xanh đều có thể đọc ở đấy
ra cuộc đời và nhìn thấy tang thương Hà Nội” [14;39].
3.3.2. Không gian nghệ thuật có sự tương phản, sự đối chiếu giữa quá khứ
và hiện tại
Ngôn ngữ của không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội được tạo
dựng bằng hồi ức và suy cảm của một người đã đi gần hết cuộc đời mình, qua
những thăng trầm và biến động, nên, như một lẽ tự nhiên, hình thành cặp không
gian tương phản: Hà Nội trong quá khứ và Hà Nội của hôm nay. Đã có lúc, ông
thốt lên rằng: “Giữa Hà Nội quen thuộc quá mà phố phường thì thật xa lạ”.
Tô Hoài viết Băm sáu phố phường với một cái nhìn u hoài của người đã
qua thời Thạch Lam xưa, để thấy phố phường nay không như xưa nữa. Ông
nhấn mạnh sự khác xa này: “Hà Nội xưa kia không có các huyện ngoại thành.
Lên đến Bưởi đã là ngoại ô. Ra Cầu Giấy, nói đầy đủ là ra Ô Cầu Giấy là đã
hết địa phận thành phố” [14;35]. Thế nên, ông đột ngột liên hệ đến một
chuyện kì cục: Năm 1972, máy bay B52 ném bom rải thảm xuống Khâm
Thiên. Thế giới lên án Mĩ mưu toan huỷ diệt Hà Nội. Hãng tin Mĩ UPU cải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chính: B52 chưa hề ném bom Hà Nộ. Có nghĩa là Mĩ đem bản đồ của Hà Nội
thế kỉ trước ra làm chứng” [14;36]. Trở về với hiện tại để thấy, sự khác biệt
đầu tiên của không gian Hà Nội ở hai thời là: phố phường thời Tây chia “từng
khu khác nhau. Không có bảng chỉ dẫn, không tường chắn, không ai ngăn
cấm nhưng người đi đường phải tự hiểu thế, mà liệu bước” [14;36]. Có nghĩa
là ông phần nào nuối tiếc cái trật tự xưa cũ khi so sánh nó với Hà Nội hơi xô
bồ trong thời hiện tại.
Không gian Hà Nội đã thay đổi đến không ngờ, kèm theo đó là sự phôi
phai của những nét đẹp tự nhiên: “Tưởng như cái hoa và cây xương rồng bà
dữ tợn với cành rong rấp ngõ, hàng bờ rào rậu lưa thưa ấy cứ đứng đấy mãi,
lâu dài đến sốt ruột như trẻ con mong bao giờ thành người lớn. Thế mà cũng
biến mất cả”. Tô Hoài trơở lại quê cũ của mình và nhận ra: “Cái xóm
nhà tôi ngày trước ẩn mình trong những bụi tre, mấy cây nhãn và giữa những
ao chuôm bờ lau la liệt khoai nước và chim cuốc hoàng hôn về kêu khắc
khoải” [14;29]. Trông “làng xóm bây giờ san sát”, làm sao người một thuở
gắn bó với thôn dã như Tô Hoài không thương nhớ được. Nhất là không gian
ấy đã từng là thế giới nghệ thuật quen thuộc, góp phần làm nên không khí
nghệ thuật trong tác phẩm của ông, nơi nương náu của những Dế mèn, O
chuột. Thế nên, Tô Hoài đối lập hai không gian mà như muốn “chiêu hồn”
những cái đẹp tự nhiên đã mất, cả tiếng cuốc nao lòng lẫn những bụi tre bao
bọc thôn quê, gọi hồn cả thời thơ ấu và những linh hồn gắn với bụi bờ, ao
chuôm lau lách. Thành ra, sau tiếng gọi hồn, ông ngẩn ngơ đối diện trước
không gian hiện tại để đối thoại với chính mình trong một tiếc nuối da diết vì
tỉnh mộng: “Như vậy đấy. Đôi bên hàng xóm không phải như bây giờ. Nhiều
nhà không còn nữa”. Đến cuối tác phẩm, ông lại nhắc điều xưa cũ ấy khiến
người đọc hình dung đến một ông già đứng giữa hai bờ không gian quá khứ
và hiện tại, lẩm nhẩm điều đã rõ mười mươi: “Dần dà mới nhận ra làng xóm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thời ấy với bây giờ khác nhau nhiều”.
Đọc Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài, người đọc vẫn có cảm giác giống
như xem một cuốn phim quay chậm từ quá khứ xa, đến quá khứ gần và trở về
hiện tại. Góc quay đôi khi rất hẹp, và tâm điểm của ống kính có lúc chỉ hướng
về một điểm trên bờ tường đá của nhà pha Hoả Lò. Đấy là khi ông viết: “Trên
bờ tường đá nhà pha Hoả Lò nhô lên cái mặt đen nhoáng của người lính da
đen bên đầu lưỡi lê sáng rợn. Đã đến giờ đổi tan canh. Năm trước, còn trông
thấy cả đôi giày người lính bồng súng đi dạo trên mặt tường chăng dây điện
cắm mảnh chai lởm chởm. Bây giờ không thấy nữa. Bức tường quanh nhà
Hoả Lò mới được xây cao thêm, có đến một thước, nay vẫn còn hằn cái ngấn
xi măng và gờ đá”. Sự tỉ mẩn và chăm chú ấy thật hiếm có và đáng quý. Bởi
qua dâu bể, con mắt kia vẫn chăm chú và tinh tế, trí nhớ kia vẫn cắm rễ thuỷ
chung để ghi khắc lấy dấu chân của thời gian, như một nhân chứng bền bỉ,
nặng lòng với thủ đô.
3.4.Chi tiết đắt giá - một thế mạnh của ngòi bút Tô Hoài
“Chi tiết nghệ thuật là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về
cảm xúc và tư tưởng. Hình tượng nghệ thuật cụ thể, cảm động và sống động
là nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, cử chỉ, nội tâm, hành vi, lời
nói” [7;59]. Thoạt đầu người ta chú ý tới giá trị tạo hình và phản ánh của chi
tiết nghệ thuật, thường nói đến tính chính xác của chi tiết hiện thực. Dần dần,
người ta thấy bản chất sáng tạo, khái quát của nó, khả năng nói nhiều hơn bản
thân nó. Tuỳ theo sự biểu hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện,
giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm,
điểm hội tụ của tư tưởng trong tác phẩm.
Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới
và con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định. Trong tác phẩm,
có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
triển thuận lợi và hợp lí, nhưng cũng có chi tiết nghệ thuật tập trung cho cấu
tứ của tác giả. Các chi tiết nghệ thuật này thường được tác giả nhấn mạnh, tô
đậm, lặp lại bằng nhiều biện pháp khác nhau. Có loại chi tiết thuộc về nghệ
thuật, nhưng có loại chi tiết có tính nghệ thuật, những tác phẩm đặc sắc phải
là tác phẩm có nhiều chi tiết mang tính nghệ thuật đó
Đọc Tô Hoài, người ta có thể dễ dàng hình dung lại một cách chân xác
chân dung của lịch sử, không khí của mỗi thời. Có lẽ, vì mỗi chi tiết dẫu là
nhỏ nhất trong văn Tô Hoài chính là một tế bào của đời sống được Tô Hoài
cấu trúc lại theo quan niệm nghệ thuật của mình. Dường như, trong mỗi một
thông điệp mà ông trao đến cho người đọc, lẩn quất một nụ cười hóm hỉnh,
một cái nheo mắt của Tô Hoài: cái thời ấy, cái hồi ấy, nó là thế, cả cái hay lẫn
cái dở, cả cái cao cả lẫn cái nhem nhuốc thường ngày. Đặc sắc trong hồi ký
của Tô Hoài, theo ý tôi, vẫn không ngoài ba điều cơ bản đã nói ở trên: trước
hết là nghệ thuật dựng không khí, thứ hai, đặt nhân vật trong muôn mặt đời
thường, và thứ ba, các chi tiết rất giàu chất tiểu thuyết.
Một trong những chi tiết giàu tính nghệ thuật và tiêu biểu cho phong cách
Tô Hoài là chi tiết về con chó đá trong tác phẩm cùng tên. Hình ảnh con chó
đá vốn liên quan tới tục thờ cúng của người ở làng quê, vậy mà qua việc miêu
tả quan sát mối quan hệ của con vật vô tri vô giác này với những con người
xung quanh nó, Tô Hoài khiến người đọc liên tưởng và suy ngẫm ra bao điều
thấm thía, có hài hước có xót xa đắng đót trong lòng. Thứ nhất, con chó đá
vốn không thân phận, chẳng qua chỉ là vật để thờ, nhưng việc được thờ ở
những nơi khác nhau khiến nó cũng có những hình thù, thân phận khác nhau:
“Con chó đá nhà tôi bé tí teo, còn bên cổng đình, cổng chùa thì con chó đá
lừng lững cao to bằng chó thật…Con chó đá xây bên cổng nhà ông hộ Nghĩa
trong xóm thì tuần rằm được hai nén hương, một miếng thịt lợn sống đặt
trong cái đĩa sứ, một cút rượu mở nút sẵn. Nhà có nhà nghèo đều khói hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ngày tết nhất mời ông thần , về “thượng hưởng”, nhưng chó nhà khó
thì ngửi hơi nước lã, chó nhà có máu mặt mới được cúng rượu thịt thật”
[14;353]. Mặt khác, nếu chó đá với người lớn là con vật thiêng, nhất mực
được tôn thờ, thì đặt con vật này trong mối quan hệ với đám trẻ làng quê, Tô
Hoài lại “giải thiêng” cho nó. Bởi vì, với trẻ con, không có ranh giới giữa
thiêng và tục, chó đá đơn giản chỉ là một vật vô tri, thế nên “trẻ con nghịch thi
nhau cứ xoa đầu chó rồi dạng chân ra cưỡi chó…Có đứa mỏi chân, ngồi xổm
lên đầu chó như với mẩu gỗ kê đít”. Chưa đủ, ngay trong thế giới của người
lớn “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, con chó đá cũng phải chịu cảnh lao
đao vòng tục luỵ. Trong nạn đói, con chó đá suýt nữa thì bị đào trộm, thoát vụ
trộm, đến ngày áp Tết, đói và rét cắt da cắt thịt, “dì Bảy cắp cái rổ ra ngõ. Dì
Bảy đứng lại trước con chó đá, hai tay dì túm đầu con chó đá, lay mấy cái rồi
bê lên, vụn đất lả tả. Dì bỏ con chó đá vào rổ, con chó đá lọt thỏm giữa cái vỉ
buồm đậy trên” [14,355]. Trong mắt của dì Bảy, hay trong mắt của người đói
lúc ấy, thì con chó chỉ “là hòn đá chứ cái quái gì. Để hòn đá sống cho người
đói chết nhăn răng à?”. Như vậy, qua những chi tiết kì thú liên quan tới con
chó đá, Tô Hoài không chỉ giản đơn ghi lại một nét phong tục thờ cúng của
làng quê, mà, bằng cảm quan hiện thực của mình, ông gửi vào đó cả sự thật
về những nỗi đời khó nhọc, thế nên, con chó đá là một hình ảnh đa nghĩa. Nó
tượng trưng cho niềm tin và khát vọng được bình an của người dân, nhưng
thân phận và sự hoạn nạn thăng trầm của nó còn gợi lên cái nhá nhem của cõi
đời, cái đáng thương và tính lưỡng diện của kiếp người nơi trần thế.
Các tác phẩm trong Chuyện cũ Hà Nội, do đặc điểm thể loại của nó,
thường không thiên về cốt truyện. Tác phẩm trụ được là nhờ một phần lớn ở
chi tiết độc đáo, một chi tiết mà đủ sức ám ảnh về những nghịch lý và thân
phận con người. Đó là câu chuyện về một gia đình nghèo ở Trạm Trôi, trong
thời kỳ Mặt trận Bình dân có hai đứa con “trạc lên ba, bốn, thau tháu như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhau”. Nhưng, điều khó hiểu là “hai đứa con xống áo khác hẳn nhau. Một
thằng thì áo chồi vàng choé, cái dấu bán khoán của nhà chùa đỏ sẫm to bằng
bàn tay đóng giữa lưng. Cổ đeo vòng bạc đính chiếc vuốt hổ, cách thức của
con nhà hiếm. Một thằng thì trần truồng nồng nỗng, mũi thò lò xanh xuống
tận bụng, cái rốn lồi dài như thằng bé có hai dái. Thằng bé cởi truồng lúc nào
cũng nắm váy mẹ khóc ê a. Cái thằng đeo vòng bạc áo quần tử tế kia được
ẵm, hai gót chân trắng hồng” [14; 175]. Đã thế, môt đứa gọi người đàn bà
bằng bu, đứa kia lại gọi người đàn bà bằng chị. Tìm hiểu mãi, mới biết, hoá ra
“thằng gọi chị là con người ta ở ngoài phố đem về gửi. Ấy là hiếm nên lo xa
thế, đã gửi nuôi mà vẫn sợ ma bắt”.
Và để đặc tả sự hiếu khách của một người nghèo nhưng lại mang tiếng
là dân Kẻ Chợ, Tô Hoài đã miêu tả hành động của bà Ấm với bát phở chia
năm: “Bà Ấm đặt cái liễn con đậy vung, xách quang đi mua bát phở một xu
rưỡi nhiều nước. Một xu phở không, thêm nửa xu, được phở thịt. Bà Ấm đổ
cơm nguội trộn vào liễn phở. Rồi xẻ ra mấy bát chiết yêu. Thằng con bà Ấm
và cả tôi, cả ông bà, cả u tôi cùng chén một liễn chia thành năm sáu bát phở
cơm nguội như thế” [14; 235]. Cách tả thong thả, điềm tĩnh và tỉ mỉ như
những thước phim quay chậm và cận cảnh, để thấy nửa đồng xu thêm vào ấy
là chắt bóp và hoang phí lắm với người đang tiêu nó. Bát phở kia trở thành
niềm mong ngóng của cả người chiêu đãi lẫn người được chiêu đãi. Nên, đâu
chỉ có những đứa trẻ con mà cả người lớn cũng dự phần vào bát phở trộn cơm
nguội kia, hân hoan một cách xót xa. Trong chi tiết ấy, người đọc không chỉ
nhận thấy cái khổ, cái tình, mà còn cảm thấy sự tằn tiệm, đảm đang của bà
Ấm, niềm háo hức, sự hẫng hụt của một đứa trẻ con, sự ngậm ngùi của tác giả
cho một kiếp phong lưu đã đến hồi mạt vận.
Nhưng, những kẻ phong lưu đến hồi mạt vận thường cố níu giữ hình
ảnh thuở vàng son bằng những gì chắp vá, nên rất dễ tạo ra sự tương phản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giữa thực chất với vẻ bên ngoài. Thế nên, “mới đầu tôi không ngỡ nhà ông
Ấm lại khốn khó. Cả ông bà lúc nào cũng ăn mặc oách lắm. Bà Ấm chứng
chạc cái áo đoạn thâm, lót sa tanh cánh chả, giày mõm nhái. Khăn len tua nâu
quấn rườm rà quanh cổ. Ông Ấm càng chỉnh tề hơn. Đôi giày ban đánh xì đạt
đen nhánh. Quần là ống sớ thẳng tắp”. Phải đến khi nghe lời bình phẩm thẳng
thắn và phũ phàng của ông ngoại “chẳng ra cái gì đâu, toàn là lộn kiếp người
ta thải đấy mà. Nón dứa cụt mẹ nó cả cái núm chóp bạc kia kìa”, tôi mới ngớ
ra, biết nhận ra cái nghèo hèn của kẻ mang nón thải. Chi tiết về chiếc nón dứa,
mới trông “bóng nhoáng, choáng mắt. Nhìn kỹ, quả là nón đã bị tháo mất
chóp. Tun hút một lỗ xuống đỉnh đầu, thò ngón tay vào ngoáy được” là một
chi tiết hay. Nó không chỉ biểu lộ cái nhìn trẻ thơ, chiêm ngưỡng của một đứa
trẻ nghèo với thế giới hào nhoáng (dù là giả tạo) bên ngoài nó, mà còn có khả
năng nói lên những nỗ lực che đậy và cả sự nâng niu dấu ấn vàng son nay đã
bị suy tàn của lớp người cậu ấm cô chiêu. Theo lối ấy, đứa trẻ kia “cứ mỗi
lần lại tìm thêm ra những cái xấu xí trong cái choáng lộn ở người ông Ấm.
Những vòng tròn hoa chữ triện to như cái trôn bát trên tấm áo gấm trần.
Nhưng ở cuối vạt gần gấu chỉ còn phảng phất màu tím. Các hoa trên thân áo
là những vết tròn mờ mờ. Hai bên bả vai, mồ hôi muối đã ăn ra thành màu xỉn
gỉ sắt” [14;236]. Đó chính là những chi tiết đậm màu hiện thực, một thứ hiện
thực không tô hồng cũng chẳng cố ý bôi đen hay hạ thấp đối tượng mà mình
đang mô tả, Tô Hoài đã trả mọi con người về với cái đời thường của nó. Tất
nhiên, như người đọc tự chiêm nghiệm thấy, từ cái nhìn lý tưởng hoá, chiêm
ngưỡng đến cái nhìn thực tế thẳng thắn và sắc sảo không phải ngày một ngày
hai và chắc chắn sẽ phải trải qua sự thất vọng vì phát hiện ra cái đẹp kia không
thực đẹp như mình đã thấy. Tức là, qua những chi tiết sắc sảo trong Chuyện cũ
Hà Nội của Tô Hoài, người đọc không chỉ thấy vấn đề thân phận con người hay
chiều sâu hiện thực, mà điều đáng kể là, người đọc còn bắt gặp cuộc “lột xác”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của những cái nhìn. Bởi tác phẩm là hồi ức và cũng là sáng tạo, trong hồi kí,
người ta có thể bắt gặp nhiều cái nhìn trong một cái nhìn, thậm chí, đó còn là
những cái nhìn đối lập, tương phản để rồi bổ sung thấm thía cho nhau.
Để tô đậm sự nghèo của một làng quê, Tô Hoài đã chọn đúng ngày hội,
vì lễ hội vốn là ngày vui và cần sự phô trương bộ mặt của làng, mà tất nhiên,
nhân vật trung tâm được người dân dồn công phu nhất sẽ là ông thành hoàng,
vậy mà “cái năm ấy mất trộm bộ áo thánh, rồi làng chẳng sắm nổi cái áo mới
cho ông thành hoàng…phải lấy vạt cờ đuôi nheo trùm lên ngoài làm áo khoác
cho thánh”. Sự “giật gấu vá vai” ấy rõ ràng đã lột tả đỉnh điểm của cái nghèo.
Thành hoàng đã phải mặc tạm bợ thế, huống chi phường tuồng hát. Thế nên,
không chỉ tả trang phục của thánh nhân, Tô Hoài còn tô đậm cả gánh đồ của
phường hát làng mình. Tất cả chỉ “có mỗi một cái hòm mộc đựng áo quần mũ
mãng. Anh kép gánh đồ phải quảy một đứa bé một bên cho cân”. Chi tiết đắt
giá về gánh hàng phường hát ấy quả đã nói lên rất nhiều về cái nghèo, sự thê
thảm của người đi hát, nhưng nó còn bộc lộ cả cái nhìn vừa chua xót vừa hóm
hỉnh của Tô Hoài. Nhưng, dường như thế vẫn còn chưa đủ, Tô Hoài còn bóc
lớp vỏ ngoài của một ông tướng bằng quan sát trẻ thơ, để thấy “một bác đóng
kép tướng, nách cài hai miếng gỗ, cắm sáu lá cờ con con, sặc sỡ như trẻ con
đeo bùa ngày tết”. Vậy mà đấy còn là sự hào nhoáng bề ngoài; đằng sau sân
khấu (mà sau sân khấu chỉ có cái buồng trò che cái chiếu) còn nhếch nhác
thảm hại hơn, cảnh tượng hài mà cũng đắng lòng hơn. Bác kép vừa nghỉ vai
đã “nhảy phắt vào, cởi phăng giáp trụ lôi thôi, rút vội miếng gỗ cắm cờ đằng
lưng, gõ cạch cạch mấy cái xuống mặt hòm. Một lũ rệp đói to bằng móng tay
đen mờ rơi lả tả trong ánh đèn hoa kỳ nhạt nhẽo. Rệp đốt bác từ lúc còn đang
đứng múa hát ngoài kia”. Trong hình ảnh của bác kép đóng tướng này, người ta
thấy một kiểu khác của tướng về hưu (nhưng đây chỉ là tướng giả), một bóng
dáng của Kép Tư Bền (không diễn cái gây cười, mà diễn sự oai phong, nhưng kẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
oai phong đang bị rệp đói tấn công khốn khổ), nhưng vẫn có nét riêng, vì nhân
vật này được quan sát bằng cái nhìn ngây thơ và tò mò của những đứa trẻ quê
đích thực. Vậy mà, đây chỉ là một nhân vật thoáng qua trong tác phẩm Hội làng
của Tô Hoài. Cái thoáng qua mà có khả năng gây ám ảnh và gợi nhiều liên tưởng
chính là nhờ đến những chi tiết đặc sắc của Tô Hoài.
Có thể thấy, Tô Hoài viết theo hứng chứ không cấu trúc câu chuyện
một cách chặt chẽ, viết chạy theo mạch tình cảm của nhân vật nhằm bộc lộ
tâm hồn nhân vật, tưởng chừng như lang bang, nhưng mạch văn liên tục từ
đầu đến cuối Stendhal có lần bảo Balzac: "Tôi không bao giờ nghĩ đến nghệ
thuật viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi không băn khoăn về quy luật". Ông còn
nói: "Chắc hẳn chỉ có những tình cảm là thực, song để đạt tới chân lý phải
thêm bốn dấu thăng trên những điều diễn tả của tôi". Balzac phải khen ngợi
Đỏ và Đen là "một bức tranh năm chục bộ chiều ngang và ba chục bộ chiều
cao, một bức tranh được tạo nên bằng sự tinh tế đầy tính chất Hòa Lan". Jean
Prévost thì nhận xét: "Nhà văn bẩm sinh này đặt rất đúng mọi vấn đề về động
tác và tâm lý, và tỏ vẻ thông thạo mọi khó khăn của nghề viết văn". Tô Hoài
có sự tinh tế trong tác phẩm của mình vì chỉ viết về những cái gì mình quen
thuộc, và đã làm đúng như lời của Stendhal: "Viết mỗi ngày một ít, thiên tài
hay không cũng vậy" và "Tôi phải lao thân vào đời để tìm hiểu con người
bằng kinh nghiệm bản thân". Vũ Ngọc Phan từ năm 1942 đã tiên kiến: "Tô
Hoài tỏ ra không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhà văn nào mới nhập tịch làng văn như ông", quả là tinh đời.
KẾT LUẬN
1. Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài là một tác phẩm hấp dẫn, có giá trị
cả về mặt lịch sử, văn hoá lẫn giá trị nghệ thuật văn chương. Xuất phát từ
quan niệm viết văn độc đáo, từ tình yêu thiết tha dành cho Hà Nội, Tô Hoài
đã viết nên những trang văn với cảm quan hiện thực sâu sắc, tiếp nối những
trang văn về cảm hứng Hà Nội. Đó là cảm nhận riêng của Tô Hoài về thủ đô,
trong đó chứa đựng những quan niệm và cách cắt nghĩa riêng về không gian
nghệ thuật này của người nghệ sĩ.
Trước cuộc sống hiện thực muôn màu muôn vẻ, nhà văn đặc biệt quan
tâm và có niềm say mê mãnh liệt với con người và cuộc sống đời thường - đó
là cuộc sống sinh hoạt, quan hệ thế sự, là những sinh hoạt phong tục, tập quán
trong cuộc sống bình thường của lớp người lao động bình dân và lớp dân
nghèo thành thị. Yếu tố thể hiện tư tưởng nghệ thuật và có tính chất quyết
định được coi là hạt nhân phong cách nghệ thuật Tô Hoài là cảm quan hiện
thực đời thường. Quả thực, đây là cảm quan chi phối toàn bộ những sáng tác
của Tô Hoài trong suốt hành trình sáng tạo không biết mệt mỏi của nhà văn.
2. Cảm quan hiện thực về Hà Nội đã khiến Tô Hoài phá vỡ nhiều ước lệ vốn
tồn tại lâu nay, ông nhìn Hà Nội trong tổng thể như một không gian đã và
đang lưu giữ những nét đẹp truyền thống qua dâu bể thời gian, đồng thời cũng
là nơi có sự tồn tại phồn tạp của nhiều giá trị, nhiều kiểu người, nhiều lối
sống. Ở không gian ấy, Tô Hoài đã khám phá và xây dựng những tính cách đa
dạng, những số phận đa đoan. Nhà văn khiến người đọc hình dung rõ sự trầm
luân, cơ cực của những kiếp người, từ những đứa trẻ trèo me, trèo sấu đến
những người kéo xe, buôn thúng bán bưng, từ thân phận thầy đồ nghèo đến
những người ven đê, ven chợ. Nhưng ngay trong những số phận tưởng như
chung chữ nghèo ấy lại là những tính cách đa dạng, rất đời. Có sự chân quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mà vẫn thừa láu lỉnh, có sự đạo mạo mà vẫn tinh quái, có oai phong và nhếch
nhác trộn nhau, nhân hậu và lì lợm đan cài…Sự phong phú mà nhất quán của
những tính cách ấy là kết quả cái nhìn con người sâu sắc và thấm thía của Tô
Hoài, cái nhìn vừa tôn trọng vừa giải thiêng, nhìn con người đúng là con
người vậy.
Là một người có nhãn quan phong tục đặc biệt, Tô Hoài đã làm sống
dậy cả những vẻ đẹp một thời xưa cũ, những phong tục đã mai một, những lễ
hội với tất cả nét tinh khôi nguyên sơ tưởng đã mất từ lâu. Nhà văn cũng
không ngần ngại chỉ ra sự tồn tại và cả nguy cơ phát triển của những hủ tục
lạc hậu về đám ma, đám giỗ hay đám cưới, với mong muốn bảo tồn những nét
đẹp thanh nhã, hạn chế sự bùng nổ của những gì quá thực dụng hay gánh nặng
của thói quen, nếp nghĩ sai lầm vốn tồn tại quá lâu trong cộng đồng này.
3. Chuyện cũ Hà Nội được tái bản với sự bổ sung, trau chuốt hơn nhiều so với
trước, đặc biệt về giá trị văn chương. Người đọc vẫn bắt gặp một người kể
chuyện vừa duyên dáng, hài hước, tế nhị, vừa lạnh lùng, sắc sảo, tinh quái.
Người kể chuyện ấy khi thì hoá thân thành một chú bé trở lại với thời thơ dại,
khi là một thanh niên, một trí thức nghèo lặng lẽ khám phá ngõ ngách thủ đô,
lúc trầm ngâm là một ông già, một chứng nhân của Hà Nội trong gần thế kỷ
suy ngẫm về nhân thế. Ông tước bỏ mọi vinh quang, từ chối mọi mĩ từ mà
người ta thường khoác lên cái tôi trong hồi kí. Sự trung thực ấy ở Tô Hoài
không cần tới sự lên gân, bởi nó là hệ quả tất yếu của cái nhìn mang cảm quan
hiện thực kia. Làm sao có một cảm quan hiện thực sâu sắc nếu người kể
chuyện là một kẻ không sòng phẳng mà chỉ ưa tô vẽ? Người kể chuyện trong
Chuyện cũ Hà Nội đã đạt đến điều chân thật, sinh động giản dị mà cao quý ấy.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ trần thuật của Tô Hoài luôn có ý thức vươn tới
sự đa thanh (hay đó là sự đa thanh tự nhiên toát lên từ cuộc đời đa sự?). Ngôn
ngữ của ông có sự tổng hoà giữa chất mộc mạc và sự thâm thuý, chọn chữ,
nhả từ tưởng như dễ dãi mà thực ra kỹ lưỡng, khắt khe. Đặc biệt, nhân vật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ông luôn có hệ ngôn ngữ riêng đầy cá tính, dù chỉ xuất hiện thoảng qua nhưng
mỗi lời nói đều có những dấu hiệu riêng, hơi thở riêng không dễ lẫn với nhân
vật khác.
Tô Hoài đã tạo dựng được một không gian nghệ thuật riêng cho Hà Nội
khi ông khám phá những miền không gian mới, những góc khuất, những phía
tưởng như vĩnh viễn sẽ bị lãng quên hay ở ngoài lề một Hà Nội phồn hoa,
nhưng chính nó lại làm nên gương mặt Hà Nội xưa có một không hai. Hơn
nữa, được soi chiếu trên chiều dài thời gian, Hà Nội trong tác phẩm này hình
thành hai miền không gian đối lập giữa quá khứ và hiện tại, để thấy nét đổi
thay, để thấy dấu chân của thời gian hay những tang thương Hà Nội còn in
trên mỗi bậc đá, mỗi viên gạch vỉa hè mà không phải ai cũng nhận thấy hay
đọc được.
Tác phẩm tưởng như lan man mà vẫn ám ảnh, kề cà mà đọng nhiều dư
vị, bởi Tô Hoài đã chọn được những chi tiết đặc sắc cho các trang viết của
mình. Cảm quan hiện thực được bộc lộ sâu sắc qua những chi tiết bóc trần
bản chất của hiện tượng. Đó là sự khánh kiệt bên vẻ ngoài hào nhoáng, sự
thảm hại đằng sau vẻ oai phong, thân phận của con người qua thân phận của
những vật thờ, vật cúng. Chi tiết sắc sảo tự nó nói lên nhiều điều, làm người
ta vỡ lẽ và ngộ ra nhiều thứ về chiều sâu của hiện thực đời sống vốn rất dễ
ngộ nhận này.
Đánh giá về Tô Hoài và văn nghiệp của ông, đặc biệt Chuyện cũ Hà Nội
không phải là công việc làm một lần và bởi một người. Bởi văn Tô Hoài nói
chung và hồi kí nói riêng thực sự là những tác phẩm có giá trị, như một mạch
ngầm trong lòng đất, càng khơi càng trong, càng ngọt ngào bất ngờ và thú vị.
Nghiên cứu cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài, chúng
tôi mong muốn góp một tiếng nói để ghi nhận những đóng góp của Tô Hoài
cho mảnh đất ngàn năm văn hiến, đồng thời khẳng định tình yêu máu thịt của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhà văn với mảnh đất thiêng liêng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội
2. Nguyễn Thị Chiến (2011), Nét văn hoá Thăng Long xưa trong Chuyện cũ
Hà Nội của Tô Hoài, www.vanhoa,vn
3. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện
đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945 -1975), Tập I,
NXB Đại học và TH chuyên nghiệp, Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Điệp (2004), “Tô Hoài, sinh ra để viết”, Tạp chí văn học số
9, tr.113
6. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ
điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Tô Hoài (1985), Tự truyện, NXB Văn học, Hà Nội
9. Tô Hoài (1987), Tuyển tập Tô Hoài tập I, NXB Văn học, Hà Nội
10. Tô Hoài (1989), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà Nội
11. Tô Hoài (1994), Tuyển tập Tô Hoài tập II, NXB Văn học, Hà Nội
12. Tô Hoài (1996), Tuyển tập Tô Hoài tập III, NXB Văn học, Hà Nội
13. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội
14. Tô Hoài (2010), Chuyện cũ Hà Nội, NXB Thời đại, Hà Nội
15. M. Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), NXB Tác phẩm mới, Hà Nội
16. Quế Lam (2012), Nét riêng Hà Nội – xưa và nay, www.vanchuongviet, org
17. Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Băng Sơn (2001), Những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
áng văn ẩm thực, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội
18. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện
đại, NXB Giáo dục, Hà Nội
19. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB
Giáo dục, Hà Nội
20. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà,
Thành Thế Thái Bình (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
21. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn – tư tưởng và phong cách, NXB
Văn học, Hà Nội
22. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và
phong cách, NXB Văn học, Hà Nội
23. Nhiều tác giả (1997), Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ sau 1975),
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
24. Mai Thị Nhung (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
25. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, HN
26. Trần Đình Sử (1978-chủ biên). Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, HN
27. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại,Vụ Giáo viên, HN
28. Trần Đình Sử (1998) - Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
29. Trần Đình Sử (1999), Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm thương
trong truyện Kiều, Tạp chí Văn học (số 2), tr. 8.
30. Trần Đình Sử (2001), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học
Việt Nam thế kỷ XX, Tạp chí Văn học (số 8), tr.6.
31. TrÇn §¨ng XuyÒn (1983), Mét c¸ch nh×n cuéc sèng h«m nay,B¸o V¨n nghÖ, sè 15
32. Trần Đăng Suyền (1984), Dế mèn phiêu lưu ký -Từ điển văn học, tập II,
NXB Khoa học xã hội.
33. Trần Đăng Suyền (2002), Phong cách thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học (số 3), tr.33.
34. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng
tạo, NXB Văn học, Hà Nội.
35. I.P.Slin (2001) - Loại hình học trần thuật, Tạp chí Văn học (số II)
36. Vân Thanh (1976), Sáng tác của Tô Hoài, Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện
đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Vân Thanh (1980), Tô Hoài qua Tự truyện, Tạp chí Văn học (số 6).
38. Vân Thanh (1989), Đọc Nhớ Mai Châu của Tô Hoài, hãy đừng quên một
miền đất xa xôi heo hút, Tạp chí Văn học (số 4).
39. Hoàng Trung Thông (1987), Nhà văn trên dòng Tô Lịch, BáoVăn nghệ (số5)
40. Nguyễn Trung Thành (1971),Đất Quảng (tiểu thuyết), tập I,
NXBGiảiphóng.
41. Nguyễn Thi (1978) - Truyện và ký, NXB Văn học, Hà Nội.
42. Nguyễn Đình Thi (1964 ) - Công việc của người viết tiểu thuyết NXB Văn
học, Hà Nội.
43. Nguyễn Đình Thi (1982) - Vỡ bỡ tập I (tiểu thuyết), NXB Văn học, Hà Nội.
44. Nguyễn Đình Thi (1986) - Vỡ bỡ tập II (tiểu thuyết), NXB Văn học, Hà Nội
45. Nguyễn Tuân (1982) - Tuyển tập Nguyễn Tuân tập II, NXB Văn học, HN
46. Trần Hữu Tá (2001) - Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo NXB Trẻ,
Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.
47. Ngô Tất Tố (1997) - Tắt đèn, NXB Văn học, Hà Nội.
48. V.V. Vinôgrađốp, Phong cách học - lý thuyết về 1ời nói có tính chất thơ -
Thi học, Tài liệu in rônêô, Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội.
49. Khái Vinh (1969), "Đọc Miền Tây", Báo Nhân dân 25 - 5.
50. Trần Ngọc Vượng (1999), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học Quốc gia Hà Nội.