ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
CHÂN DUNG THIỆU TRỊ VỚI TƢ CÁCH LÀ MỘT TÁC GIẢ VĂN HỌC QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Trần Ngọc Vƣơng
Hà Nội-2013
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu luận văn ........................................... 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 10
6. Đóng góp của Luận văn ......................................................................... 10
7. Cấu trúc Luận văn ................................................................................. 11
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 12
CHƢƠNG 1. THIỆU TRỊ - THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI .......................... 12
1.1. Khái quát ............................................................................................. 12
1.2. Bối cảnh thời đại nhà Nguyễn ............................................................ 13
1.2.1. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ............................................ 13
1.2.2. Tình hình văn học .......................................................................... 18
1.2.2.1. Văn học hoàng đế trong lịch sử Việt Nam ................................ 18
1.2.2.2. Văn chương hoàng phái nhà Nguyễn ........................................ 22
1.3. Vài nét về Thiệu Trị ............................................................................ 26
1.3.1. Tuổi nhỏ mồ côi mẹ ....................................................................... 26
1.3.2. Tuổi trưởng thành ......................................................................... 27
1.3.3. Trị vì ................................................................................................ 28
1.3.4. Gia quyến........................................................................................ 29
CHƢƠNG 2. HỆ THỐNG TÁC PHẨM VÀ NỘI DUNG VĂN CHƢƠNG
CỦA THIỆU TRỊ QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC ........................................ 31
2.1. Hệ thống văn chƣơng Thiệu Trị ........................................................ 31
2.1.1. Theo Đại Nam thực lục ................................................................. 31
2.1.1.1. Thơ ............................................................................................ 32
2.1.1.2. Văn ............................................................................................ 36
2.1.1.3. Văn và thơ chung tuyển tập ..................................................... 37
2.1.1.4. Các thể loại khác ...................................................................... 38
2.1.2. Theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu .................... 40
2.1.2.1. Thơ ............................................................................................ 40
2.1.2.2. Văn ............................................................................................ 41
2.1.2.3. Thể loại khác ............................................................................. 41
2.2. Nội dung chính trong văn chƣơng của Thiệu Trị ............................ 42
2.2.1. Văn chương tỏ lòng ....................................................................... 43
2.2.1.1. Nỗi lòng với nước với dân ....................................................... 43
2.2.1.2. Tình yêu thiên nhiên ................................................................. 45
2.2.1.3. Tình cảm đối với người thân và quần thần .............................. 49
2.2.2. Văn chương tải đạo ....................................................................... 55
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH - THI PHÁP VĂN
CHƢƠNG CỦA THIỆU TRỊ QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC ..................... 58
3.1. Lý luận phê bình ................................................................................. 58
3.1.1. “Sách nào cũng tin chi bằng không có sách” .............................. 58
3.1.2. Văn chương cổ “còn nhiều thiếu sót” .......................................... 62
3.1.3. Văn chương phải có ý nghĩa và nghệ thuật ................................. 65
3.1.4. “Văn vật nước ta không kém gì Trung Quốc” ............................. 67
3.2. Nghiên cứu về thi pháp văn chƣơng .................................................. 70
3.2.1. Thể thơ ............................................................................................ 70
3.2.1.1. Thể thuyền liên .......................................................................... 70
3.2.1.2. Thể đảo ngược ........................................................................... 72
3.2.1.3 . Thể cách của thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ và 9 chữ . 74
3.2.1.4. Thể cách của thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ ....................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nhiều năm trở lại đây, việc tìm lại, nhận thức lại những giá trị cổ
trong văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung đã trở thành những băn
khoăn trăn trở của nhiều nhà nghiên cứu. Để nhận thức đúng những giá trị của
văn học, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhiều học giả đã không ngần ngại
bỏ thời gian và công sức để tìm tòi và khảo cứu lại những giá trị đã bị bỏ qua.
Trong số đó, văn học triều Nguyễn đặc biệt là sự góp mặt của các tác giả
hoàng tộc như Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức là một trong những giá trị to
lớn mà chúng ta đã bỏ qua trong một thời gian khá dài.
Có lẽ khi nói đến triều Nguyễn, không ít người trong số chúng ta đã suy
nghĩ rằng “triều đại nhà Nguyễn, đó là nhà nước chuyên chế nhất trong lịch
sử” [22, tr. 13] là một triều đại bù nhìn, là tay sai cho giặc… Nhưng cũng
không nhiều trong số chúng ta thừa nhận rằng, triều Nguyễn với sự tồn tại gần 150 năm1, bắt đầu từ khi Nguyễn Ánh lật đổ Tây Sơn chính thức thành lập
triều đại nhà Nguyễn (1802) cho đến khi Bảo Đại thoái vị (1945) lại là một
triều đại có rất nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta hôm nay. Bên
cạnh những hạn chế, những sai lầm thì triều đại nhà Nguyễn cũng được nói
đến với những dấu ấn riêng mang phong cách văn hóa đặc trưng riêng cho
dân tộc. Các ông vua nhà Nguyễn đặc biệt rất coi trọng sách vở cũng như
quan tâm đến việc biên tập, in ấn và bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử. Năm
Minh Mệnh (1821), lần đầu tiên mở ra Sử quán, sai quan Sử thần làm bộ Thực
lục về các chúa triều Nguyễn và Gia Long Thế tổ Cao hoàng đế. Và từ đó các
vua nhà Nguyễn sau khi lên nối ngôi đều lần lượt theo truyền thống này, vua
sau làm lịch sử về vua trước, chính cách làm đó đã giúp cho nhà Nguyễn để
1 Ở đây chúng tôi không tính cả giai đoạn các chúa Nguyễn (từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Ánh).
lại một khối lượng di sản văn hoá cho Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói
1
chung. Nhà Nguyễn cũng để lại cho dân tộc Việt Nam nhiều tài liệu lịch sử
quý giá và có ý nghĩa như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại
Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục, Lịch triều tạp kỷ, Lịch triều hiến chương
loại chí… Không những chú trọng về bảo tồn các di tích văn hoá, ghi chép lại
các sự kiện lịch sử mà các ông vua nhà Nguyễn còn rất quan tâm đến văn học,
“thơ phú của các vua so ra chẳng kém với bất cứ một thi gia nào đương thời, nếu không nói là có phần lấn lướt”1. Theo Giáo sư Hà Như Chi trong cuốn
Việt Nam thi văn giảng luận có viết: “Các ông vua như Minh Mệnh, Thiệu
Trị, Tự Đức đều có thi tập và bốn ông Siêu (Nguyễn Văn Siêu), Quát (Cao Bá
Quát), Tùng (Tùng Thiện Vương), Tuy (Tuy Lý Vương) đã nổi tiếng là thi bá
của thời ấy”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Phê cho rằng, “Huế có cả một di
sản văn học có thể nói là đồ sộ của các ông vua và những thơ hoàng tộc trong đó tiêu biểu là vua Minh Mạng, Thiệu Trị…2. Theo ông, gần đây đã có nhiều
nhà nghiên cứu chú ý đến văn chương nhà Nguyễn, nhưng đa phần tác phẩm
của họ đều viết bằng chữ Hán, đòi hỏi nhiều công phu dịch thuật - độc giả
rộng rãi đã mấy ai thấy, mấy ai “sờ” được những tác phẩm đó?
Như trên chúng tôi đã nói, triều Nguyễn rất coi trọng và luôn luôn cổ
vũ tinh thần sáng tạo văn học nên dưới thời nhà Nguyễn có một khối lượng
tác giả nổi tiếng từ vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức… cho đến các hoàng
tử, công chúa như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Vương Am, Mai Am
Công chúa…và các vương tôn quan lại như Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng
Tuân, Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản… Trong số đó, Thiệu Trị là một
minh chứng tiêu biểu. Thơ của ông được đánh giá cao trong giới học thuật,
“tuy số lượng không nhiều bằng vua cha nhưng lại cao cấp về mặt chữ nghĩa”
(Theo Trần Ngọc Vương). Cùng quan điểm đó, dịch giả Lê Nguyễn Lưu cũng 1 Nhóm tác giả, Thần kinh nhị thập cảnh – Thơ vua Thiệu Trị, Trung tâm Bảo tồn Di tích Huế và Nxb Thuận Hóa, 1997. 2 Tham luận tham gia Hội thảo: “Vai trò của văn học nghệ thuật Huế trong dòng chảy văn hoá Huế - nhìn lại và phát triển”
2
nghĩ rằng, thơ của vua Thiệu Trị còn hơn vua Minh Mệnh và Tự Đức về mặt
nghệ thuật. Ví dụ, trong tập Ngự chế cổ cách thi pháp với 157 bài, nhà thơ đã
sử dụng nhiều hình thức chơi chữ khác nhau rất trí tuệ. Hay chỉ với một bài
thơ chữ Hán “Vũ trung sơn thuỷ” (Non nước trong mưa) mà theo tác giả, nếu
dùng theo thể hồi văn liên hoàn, trắc bằng bốn vần, bài thơ có thể đọc thành
64 bài thất ngôn, ngũ ngôn. Bài thơ đã gây sự tò mò chú ý không chỉ các nhà
nghiên cứu trong nước mà còn ở nước ngoài, không chỉ về nghệ thuật mà còn
cả về nội dung.
Thơ Thiệu Trị thường được viết với cả tấm lòng chân thành, tha thiết
với tình yêu dành cho non sông đất nước, cho xứ Huế thân yêu, cho nhân dân,
và cả cho người cha của mình. Thơ ông không những cao cấp về mặt chữ
nghĩa, đặc sắc về nghệ thuật, hấp dẫn về nội dung mà còn có một khối lượng
tác phẩm đồ sộ. Thiệu Trị tuy chỉ làm vua có bảy năm (1841 - 1847), thọ 41
nhƣng số tuổi đó không thể tính hết đƣợc số tác phẩm mà nhà thơ để lại
cho đời.
Ngoài 4000 bài thơ được in trong rất nhiều tập khác nhau như Thiệu Trị
ngự chế thi tập, Thiệu Trị thánh chế Bắc tuần thi tập, Ngự chế vũ công thi
tập, Hoàng huấn cửu thiên… thì ông còn viết về văn, chế, biểu, bi, ký đặc biệt
hơn là ông đã biên tập, chỉnh sửa và rút ra các quy tắc về âm, vận, luật trong
nghệ thuật sáng tác với cuốn sách có nhan đề là Thiệu Trị văn quy tự vận hội
tập… Bên cạnh đó ông còn dành thời gian để đọc và luận bàn về văn học
Đông Tây cổ kim một cách uyên bác khiến cho nhiều học giả đương thời phải
gật gù công nhận. Những điều đó đủ chứng minh rằng Thiệu Trị là một tác
giả văn học, một học giả thực thụ mà chúng ta chưa có dịp tìm hiểu. Phải thừa
nhận rằng nếu không có một tâm hồn yêu văn chương, mẫn cảm nghệ thuật,
một tầm hiểu biết cũng như vốn văn chương rộng rãi thì Thiệu Trị không thể
3
làm được những điều đó. Chính khả năng sáng tạo, sự nghiên cứu, tìm tòi đó
của Thiệu Trị đã làm nên tư cách một tác giả văn học lớn ở ông.
Với những nhận thức trên, chúng tôi thật sự khâm phục và ngạc
nhiên trƣớc tài năng của vua Thiệu Trị. Ông xứng đáng được thế hệ hôm
nay và mai sau biết đến không chỉ với tư cách là một vị vua mà còn với tư
cách là một nhà thơ, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên vì những quan điểm lệch lạc
trong quá khứ cũng như những khó khăn về mặt tư liệu mà ít học giả có cơ
hội tìm hiểu về thi sĩ này, điều này sẽ là “bước cản” cho chúng tôi trong việc
bước đầu tạo dựng nên chân dung của Thiệu Trị với tư cách là một tác giả văn
học. Nhưng nếu không nghiên cứu về Thiệu Trị có lẽ là một thiếu sót lớn
trong việc hình dung về bức tranh văn học trung đại, vì vậy chúng tôi quyết
định lấy Thiệu Trị làm đề tài cho luận văn của mình, với mong muốn bước
đầu phác dựng chân dung một tác giả văn học lớn mà lịch sử nghiên cứu văn
học đã “vô tình bỏ qua”, với hi vọng những giá trị thẩm mĩ đích thực sẽ được
đưa về đúng vị trí của nó. Từ đó chúng ta sẽ có được cái nhìn toàn diện hơn
về triều Nguyễn - một triều đại hỗn hợp giữa công và tội - một triều đại gây
sự tò mò khó lí giải cho các nhà nghiên cứu.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn Thiệu Trị làm đề tài cho luận văn
Thạc sĩ của mình với tiêu đề: Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác
giả văn học qua Đại Nam thực lục.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ khi thi nhân còn sống, các tác phẩm của ông đã được các học
giả đương thời, đánh giá và biên tập và xin khắc in.
Tháng 10 năm 1842 quan Nội các đã tập hợp các bài thơ vua làm khi đi
tuần thú ra Bắc, biên tập thành tập Thánh chế Bắc tuần thi tập, các học giả đã
cho rằng: “đó là văn của đất. Tiếng vàng, tiếng ngọc điều lí trước sau, đó là
văn của thánh nhân. Nước ta, bờ cõi muôn dặm, núi sông thắng tích chỗ nào
4
cũng có. Năm nay, ngự giá ra Bắc, thăm mùa màng, hỏi việc nông, xem dân
tình, xét quan lại, làm phúc, ban ơn, dạy chính sự, sửa việc binh, phàm trải
qua chỗ nào đều thơ để ghi việc, tính được gồm 173 bài”, “bút pháp của thánh
thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên
tấm đá để trấn một phương, và làm áng văn để lưu truyền muôn đời” [51, tr.
416-417], “đùn đùn như mây Đường Nghiêu bay, sang sảng như đàn Ngu
Thuấn gảy, tiếng như vàng ngọc, phát làm thơ văn” [51, tr. 1061].
Tháng 9 năm 1847 vua Thiệu Trị mất, vua Tự Đức có làm bài văn bia
ca ngợi công nghiệp cai trị, ca ngợi văn chương của người “trong bảy năm
làm ra bốn tập thơ thánh chế, hai tập văn, cùng các tập Cổ kim thể cách, Tài
thành phụ tướng đều giãi tỏ những nghĩa ẩn vi, phát triển những nghĩa huyền
diệu, không phải những người chương cú tầm thường dòm được một phần
muôn” [51, tr. 1077]. Sau đó, nhà vua tiếp tục cho các quan khắc in những tập
thơ mà khi còn sống đang làm dở. Tự Đức cho rằng văn chương Thiệu Trị
như “là đồ sông Hà, thư sông Lạc tỏ bày như ánh sáng Mặt Trời của ngôi sao,
mở tỏ sự huyền bí của sáu kinh, mở ra đường lối dìu dắt cho trăm đời sau này.
Cổ võ hết lòng là một vận hội lớn, chính trị và giáo hoá đều tốt đẹp tươi sáng,
từ Đinh, Lý, Trần, Lê trở về trước, chưa có bao giờ” [52, tr. 101]. Đến tháng
12, vua Tự Đức bắt đầu cho quan tra cứu, biên tập và nhiều lần bổ khuyết bộ
Thực lục Chính biên Đệ tam kỷ1 về Thiệu Trị. Đến 1877, cuốn sách được các
Sử quán Tổng Tài là Trần Tiễn Thành, Phó Tổng tài là Lê Bá Thận, Toản tu
Phạm Huy Bính biên tập xong và được Tự Đức cho khắc in trong năm đó.
Cuốn sách lần lượt ghi chép chi tiết nhiều sự kiện lịch sử của nước ta cũng
như tư tưởng, suy nghĩ và hành động của Thiệu Trị trong thời gian trị vì.
Ngoài ra, Thực lục Chính biên Đệ tam kỷ cũng giành nhiều trang ghi lại các
1 Thực lục Chính biên đệ tam kỷ là một phần trong tuyển tập Đại Nam thực lục.
hoạt động văn chương, quá trình sáng tác, in ấn xuất bản và đặc biệt là cảm
5
nhận của các học giả đương thời về nhà văn này. Bộ sách là một tài liệu lịch
sử quý giá đồng thời cũng được xem như là một tuyển tập về văn chương
Thiệu Trị có tính chất trọn vẹn kể từ đó cho đến ngày nay. Tuy nhiên, sự
nghiệp văn chương của ông ở trong bộ sách này chỉ ghi chép tản mạn và
không theo hệ thống và có phần giấu đi, vì vậy người đọc sẽ rất khó hình
dung được chân dung của ông với tư cách là một nhà văn.
Kể từ sau tuyển tập Đại Nam thực lục, nghiên cứu ở phương diện lịch
sử về Thiệu Trị - với tư cách là một vị vua đã được nhiều công trình thực
hiện, nhưng tư cách một nhà thơ, một học giả văn học của ông vẫn chưa có
nhiều công trình. Chân dung văn học của Thiệu Trị đã được đề cập đâu đó
trong một số bài báo, tạp chí nhưng khá mờ nhạt, ít ỏi, chưa có những phân
tích sâu sắc, cụ thể và tường tận về những khía cạnh cụ thể của đối tượng.
Phải đến 150 năm sau ngày Thiệu Trị mất (1847), người ta mới biết
rằng ông là một nhà thơ đầy tài năng qua công trình Thần Kinh nhị thập cảnh
của nhóm tác giả Phan Thuận Hóa, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải
và Nguyễn Phước Hải Trung cùng phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố
đô Huế giới thiệu tới du khách - những người yêu mến Thiệu Trị nói riêng và
yêu mến phong cảnh Huế nói chung, về một tài năng còn chưa được để ý đến.
Đây là công trình đầu tiên giới thiệu về Thiệu Trị như một tác giả văn học.
Cuốn sách gồm hai phần: phần một giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự
nghiệp, phần thứ hai là dịch và chú giải, giới thiệu 20 bài thơ nổi tiếng tác giả
viết về phong cảnh Huế. Các nhà biên soạn đã “cố gắng nghiên cứu dịch thuật
Thần Kinh nhị thập cảnh, với những tư liệu gốc cùng những lời chú giải rõ
ràng kèm theo lời giới thiệu các thắng cảnh trên cùng nguồn gốc và diễn tiến
lịch sử của thắng cảnh đó” [1, tr. 8]. Tuy nhiên tuyển tập chỉ phản ánh được
một phần nhỏ trong tổng số sự nghiệp đồ sộ của Thiệu Trị. Ở đây vì một vài lí
do riêng nên mục đích của các tác giả là mong giới thiệu phong cảnh Huế
6
thông qua sáng tác của Thiệu Trị. Cuốn sách là sự tìm tòi tỉ mỉ và công phu,
đòi hỏi mất nhiều thời gian của nhóm tác giả đồng thời thể hiện niềm yêu
mến, sự tự hào của nhóm tác giả đối với người con đất Huế đầy tài năng văn
chương mà không mấy ai dễ dàng phát hiện này.
Năm 1972, đánh dấu sự phân tích về thi pháp văn chương Thiệu Trị
bằng bài viết của một học giả phương Tây, Pierre Daudin, trên Tạp chí của
Hội nghiên cứu Đông Dương. Bài viết đã giải ra 12 bài thơ thất ngôn bát cú từ
các cách đọc khác nhau của Vũ trung sơn thuỷ của Thiệu Trị. Đến, năm 1994,
nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Tân Phong, tìm ra đúng 64 cách, đúng như
Thiệu Trị đã từng nói khi sáng tác bài thơ này.
Năm 1998, với cuốn sách Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài
“Vũ trung sơn thuỷ” của Thiệu Trị của cố Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã khiến
người đọc bái phục trước đỉnh cao thi pháp của Thiệu Trị. Trong cuốn sách,
nhà nghiên cứu đã dành hết 450 trang để diễn giải, chú thích, sau đó đưa ra
128 cách đọc khác nhau về một bài thơ Vũ Trung sơn thủy của vua Thiệu Trị.
Đây là công trình nghiên cứu công phu, mang tính chỉ dẫn rất cao đối với
người nghiên cứu sau này, nhưng chỉ tiếc rằng công trình chỉ giới hạn nghiên
cứu về thi pháp trong một bài thơ, chứ chưa đi vào khai thác Thiệu Trị ở quy
mô rộng hơn, bao quát hơn.
Trên đây là những công trình có giá trị, bước đầu khắc họa cho độc giả
thấy được tài năng thơ của Thiệu Trị. Tuy nhiên, kể từ năm 1998 đến nay việc
nghiên cứu về Thiệu Trị lại bị chìm lắng, tên tuổi của ông được nhắc đến
trong những bài tham luận tại các hội thảo khoa học và tại một số bài báo
được đăng rải rác trên một số trang điện tử, tập chí, có thể kể: Tham luận của
nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Phê trong Hội thảo “Vai trò của văn học nghệ
thuật Huế trong dòng chảy văn hóa Huế - nhìn lại và phát triển”. Trong bài
viết Giáo sư đã đề cập đến vai trò của các ông vua trong nền văn học Huế, trong
7
đó có Thiệu Trị. Giáo sư đánh giá khá cao vai trò của Thiệu Trị nói riêng và văn
chương hoàng phái nói chung. Nhưng bài viết của ông chỉ mới dừng lại ở ngưỡng
giới thiệu khái quát. Bài viết này của Giáo sư đã gợi cho chúng tôi nhiều ý tưởng
trong việc hoàn thiện luận văn của mình. Tiếp đó, trên Tạp chí Hán Nôm, số 5
(84) - 2007 có bài viết “Vũ Trung sơn thủy” - Bài thơ độc đáo của Thiệu Trị, bài
viết nêu lên một số cách đọc khác nhau, từ những cách đọc ấy giúp chúng ta nhận
ra những nét độc đáo, kỳ bí của bài thơ, giúp người đọc hiểu thêm về thú chơi thơ
trong dòng văn hóa Việt.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về Thiệu Trị đã dần trở về
dĩ vãng, mặc dù thỉnh thoảng chúng tôi cũng đọc được một vài bài báo đăng
tải việc vừa tìm thấy bài văn bia Tây lãng hoàng thành của Thiệu Trị hay việc
năm 2007, hai nhà nghiên cứu Hán Nôm Thái Huy Bích và Trần Đình Vân
trong một chuyến điền dã đã phát hiện tấm văn bia gần hai trăm tuổi, trên đó
có khắc in bài “Thiết cảng” (Kênh Sắt) của Thiệu Trị…Giới trẻ ngày nay,
ngay cả các bạn bè của chúng tôi phần lớn không ai biết Thiệu Trị trên
phương diện văn học. Có chăng đôi ba lần đến Huế nhìn thấy một vài bản
khắc in trên các tấm bia ở cung điện, nhưng không mấy ai trong số họ có thể
biết được đó là những bài thơ của Thiệu Trị.
Như chúng tôi đã nói, ngoài một số công trình ít ỏi trên thì hầu như
không có công trình nào chuyên khảo, hay nghiên cứu về tác giả này. Còn các
bài báo, nghiên cứu, tham luận chủ yếu tập trung vào một tác phẩm chính đó
là “Vũ Trung sơn thuỷ” hoặc “điểm danh” tên Thiệu Trị trong hệ thống văn
chương hoàng phái mà thôi.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu luận văn
Xây dựng chân dung Thiệu Trị là một đề tài rộng và có nhiều cách thức
khác nhau để tiếp cận. Thiệu Trị vốn là một vị vua trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, sức ảnh hưởng của người không chỉ nằm trên phương diện của văn
8
chương mà còn trên nhiều bình diện như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và
quan trọng hơn nữa là ảnh hưởng trong tiến trình hình thành và phát triển của
dân tộc. Đối với nhiều nhà nghiên cứu, văn học chỉ là một bộ phận nhỏ trong
tổng thể chân dung phức tạp của ông. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi
hướng tới tìm hiểu ông với tư cách một nhà văn, cụ thể, chúng tôi hướng tới
giới thiệu chân dung nhà văn Thiệu Trị và những đóng góp của ông đối với
nền văn học nước nhà.
Xác định đối tượng như vậy, luận văn của chúng tôi, ngoài việc rà soát
toàn bộ sự nghiệp văn chương Thiệu Trị, chúng tôi cũng hướng đến phác thảo
một bối cảnh thời đại để thấy sức chi phối của nó đối với ông, đồng thời, phác
dựng một cách khái quát thơ văn triều Nguyễn để thấy vị trí của Thiệu Trị
trong tổng thể mạch nguồn thơ văn hoàng phái từ Lý, Trần, Lê đến Nguyễn.
Xem xét những đóng góp của ông về mặt thi pháp đặc biệt là các thể thơ.
Về mặt tư liệu, chúng tôi dựa chủ yếu vào bộ sử Đại Nam thực lục (10
tập, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Giáo dục, 2007) .
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi làm luận văn này với mục đích trước hết là giới thiệu tới bạn
đọc nói chung và những người yêu thích tài năng của Thiệu Trị nói riêng
những đóng góp to lớn của tác giả về lĩnh vực văn học. Mục đích cao hơn nữa
mà chúng tôi đang cố gắng hướng tới đó là góp phần bổ khuyết cho phả hệ
văn học được hoàn chỉnh, đầy đủ hơn. Tác phẩm của Thiệu Trị chủ yếu được
viết bằng chữ Hán, nên tôi hi vọng với những tập thơ mà chúng tôi đã hệ
thống hóa được, sẽ có những nhà nghiên cứu, các tổ chức dịch và giới thiệu
tác phẩm của ông tới cộng đồng, để nền văn hóa Huế nói chung và văn hóa
Hoàng phái nói riêng tới tay bạn đọc. Đồng thời từ đó, cũng có cái nhìn khách
quan và đầy đủ hơn về các ông vua triều Nguyễn. Có thể họ có những sai lầm
về chính trị nhưng chúng ta cũng không vì thế mà phủ nhận tài năng cũng như
9
vai trò của họ trong lịch sử Việt Nam. Hi vọng, với luận văn này chúng tôi sẽ
góp phần nhỏ của mình vào công cuộc nhìn nhận và xem xét lại những gì đã
qua để con người trong hiện đại đánh giá khách quan về quá khứ và hành
động đúng hơn trong tương lai.
Chính vì thế nhiệm vụ của chúng tôi trong luận văn này là bước đầu
sưu tầm tài liệu, sau đó xem xét các vấn đề sau:
Thứ nhất, tìm hiểu nguyên nhân, động lực, hoàn cảnh để Thiệu Trị trở
thành một tác giả, một học giả văn học.
Thứ hai, đặt văn chương Thiệu Trị trong hệ thống văn chương Hoàng
phái Việt Nam, để có cái nhìn khách quan theo chiều dài lịch sử.
Thư ba, cố gắng dựng nên chân dung đầy đủ và trọn vẹn về một tác giả
vốn chưa được mấy người biết đến.
Thứ tư, hệ thống hoá về nội dung và quan niệm thi pháp văn chương
của Thiệu Trị.
Thứ năm, xem xét cách nhìn nhận của Thiệu Trị đối các tác giả cổ của
Việt Nam và Trung Quốc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do đặc trưng của đề tài, cũng như với mong muốn luận văn được trình
bày một cách khoa học, logic và hoàn chỉnh phương pháp mà chúng tôi lựa
chọn trước hết là tổng hợp, thống kê tài liệu dựa trên các tư liệu lịch sử để từ
đó phân loại đánh giá. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh,
cùng cách tiếp cận văn hóa học trong phân tích, đánh giá..
6. Đóng góp của Luận văn
Với đề tài: Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác giả văn học
qua “Đại Nam thực lục”, luận văn có những đóng góp chủ yếu sau:
- Nâng cao nhận thức của các bạn độc về văn chương Thiệu Trị nói
riêng và văn chương hoàng phái nói chung.
10
- Bổ sung thêm một chỗ khuyết trong dòng lịch sử văn học Việt Nam.
- Góp phần làm cho lịch sử nghiên cứu về thi pháp văn chương trung
đại Việt Nam phong phú và toàn diện hơn.
7. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo ra, phần Nội
dung của Luận văn bao gồm ba chương chính như sau:
Chương 1. Thiệu Trị - Thời đại và cuộc đời.
Chương 2. Hệ thống tác phẩm và nội dung văn chương của Thiệu Trị
qua Đại Nam thực lục
Chương 3. Quan điểm lý luận, phê bình - thi pháp văn chương của
Thiệu Trị qua Đại Nam thực lục.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1. THIỆU TRỊ - THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI
1.1. Khái quát
Mỗi một nhà văn, nhà thơ dù muốn hay không cũng không thể tách rời
thời đại và xã hội mà họ sống. Đời sống xã hội nuôi nấng tâm hồn, nhận thức,
suy nghĩ của họ, và bản thân họ phản ánh thời đại, nhận thức thông qua tác
phẩm - những đứa con tinh thần. Những đứa con tinh thần ra đời lại chịu quy
luật phản ứng dây chuyền này. Nói như thế để thấy rằng, xã hội, nhà văn và
tác phẩm không thể tách rời nhau mà luôn gắn bó khăng khít với nhau. Bối
cảnh thời đại sẽ là tác nhân không nhỏ trong việc hình thành nhân cách cá
nhân con người. Mặt khác, không gian văn hóa thời đại chi phối đến hành xử,
thị hiếu và mĩ cảm… của con người. Tuy nhiên thời đại không phải là yếu tố
duy nhất và quyết định mà quá trình hình thành nhân cách, tài năng còn là sự
kết hợp của nhiều nhân tố khác - ý thức hệ chi phối đến tư tưởng, không gian
văn hoá của gia đình, nền giáo dục và chính nội lực bên trong con người đó.
Trở lại với tác giả Thiệu Trị, chúng ta thấy Thiệu Trị sinh ra trong một
thời đại tương đối phức tạp về chính trị xã hội, thời đại của sự du nhập các
luồng gió mới từ châu Âu đặc biệt là Pháp, Bồ Đào Nha. Nhưng đây cũng là
giai đoạn mà văn chương đạt được nhiều đỉnh cao, đặc biệt là góp mặt của
nhiều tác giả, tác phẩm văn chương bằng chữ Nôm. Thiệu Trị ham mê sáng
tác văn chương, ham mê tìm tòi, nghiên cứu về các tác phẩm Đông Tây kim
cổ nhưng bản thân Thiệu Trị lại chủ yếu sáng tác văn chương bằng chữ Hán
và đạt đến “tuyệt đỉnh” (Theo Trần Ngọc Vương) trong thể loại này. Theo
chúng tôi, để làm nên một tác giả Thiệu Trị ngoài việc bị ảnh hưởng bối cảnh
thời đại thì trong bản thân ông cũng có thiên bẩm nghệ thuật, tài năng sáng
tạo cộng với những quan niệm, lý tưởng.
12
1.2. Bối cảnh thời đại nhà Nguyễn
1.2.1. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội
Cuối thế kỷ 18 nửa đầu thế kỷ 19 là giai đoạn mà lịch sử Việt Nam trải
qua nhiều biến động, việc tranh giành quyền lực của hai tập đoàn phong kiến
Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng trăm năm khiến cho lịch sử dân tộc rơi vào vực
thẳm, đời sống nhân dân cực khổ. Nhà Tây Sơn vừa lên đã ra tay giết hại rất
nhiều người thuộc phe phái Trịnh - Nguyễn, gieo rắc sự thù hằn ngày càng
gay gắt. Chính quyền Tây Sơn dù đã đánh bại chúa Nguyễn, chúa Trịnh,
thành lập chính quyền mới, nhưng chiến tranh giữa Tây Sơn và các dư đảng
của nhà Nguyễn tiêu biểu là Nguyễn Ánh vẫn tiếp diễn không ngừng. Nguyễn
Ánh là cháu nội của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gia tộc
bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, ông phải chạy trốn và tìm cách khôi phục
lực lượng để trả thù. Sau 25 năm với nhiều thất bại, phải cầu viện sự giúp đỡ
Xiêm La và Pháp, ông lấy được Nam Hà, lật đổ triều Tây Sơn, lên ngôi hoàng
đế, thống nhất Việt Nam. Nguyễn Ánh lên ngôi, định đô tại Phú Xuân, lấy
niên hiệu là Gia Long, đổi quốc hiệu là Việt Nam. Thời đại này nước ta có
cương thổ rộng lớn nhất, kéo dài từ biên giới Trung Quốc đến vịnh Thái Lan.
Sau khi lên ngôi, ông thay thế các cải cách có xu hướng tự do của Tây Sơn
bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo xu hướng Nho giáo. Đây là giai
đoạn mà Nho gia phát triển mạnh mẽ, khẳng định được vị thế của nó trong
nghệ thuật cai trị của Gia Long.
Gia Long cũng là người mở đường cho các ảnh hưởng của Pháp ở Việt
Nam qua việc nhờ họ xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội. Dưới
triều đại của ông, Việt Nam trở thành một quốc gia có thế lực quân sự hùng
mạnh ở Đông Dương, cùng với Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân
Lạp. Gia Long có rất nhiều lỗi lầm trong quá khứ như lưu vong ở Xiêm, kêu
sự ủng hộ ngoại quốc, bắt tay với Pháp trong nội chiến, trả thù tàn bạo triều
13
Tây Sơn nhưng nhờ chính sách “ngoại giao” với ngoại bang mà ông đã xây
dựng một đất nước hùng mạnh về quân đội, ổn định chính trị - xã hội. Trong
thời gian trị vì ông thực hiện nhiều công cuộc khai hoang ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long, đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận lợi
cho kinh tế nông nghiệp phát triển. Triều đại của ông đã xây dựng khối lượng
đê, kè, cống nhiều nhất so với trước.
Sau nhiều năm chinh chiến trên chiến trường, Gia Long tập hợp được
một đội ngũ quan võ hùng hậu, đến lúc lên ngôi ông nhận thấy triều đình rất ít
quan văn vì vậy ông bắt đầu tuyển dụng quan văn, khuyến khích quần thần
sáng tác thơ văn. Ông bắt đầu mở trường Quốc Tử giám ở Kinh đô để dạy con
em triều đình, lập văn miếu ở các trấn, doanh để thờ đức Khổng Tử… Năm
1807, ông mở thêm 6 trường thi Hương, đặt chức Đốc học, Giáo thụ, Huấn
đạo để coi việc giáo dục ở các trấn.
Tuy trong lòng nhân dân lúc này vẫn hướng vọng về nhà Lê, nhưng
tình hình chính trị trong những năm Gia Long về cơ bản là yên ổn. Trong
không khí yên bình đó Thiệu Trị được sinh ra, ông sinh năm 1807 khi triều
Gia Long chính thức tồn tại được năm năm. Đến năm Thiệu Trị 12 tuổi thì
Gia Long mất.
Sang thời Minh Mệnh tình hình chính trị chuyển biến theo một xu thế
xấu. Trong nước, có nhiều cuộc nổi dậy chống triều đình. Cụ thể, trong thời
Minh Mệnh có đến 250 cuộc nổi dậy như nổi dậy của Phan Bá Vành, Lê
Trọng Liên, Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Lê Văn Khôi… Tuy nhiên,
những cuộc nổi loạn đó nhanh chóng bị Minh Mệnh dẹp tan.
Minh Mệnh là ông vua năng động, quyết đoán, có nhiều cải cách trên
nhiều mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông cho tổ chức lại quân
đội, cử quan ra chỉ đạo khai hoang ở ven biển Bắc Kỳ và Nam Kỳ, lập nên hai
huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Năm 1832, ông còn cho mở ngành tơ tằm Đại
14
Nam, bắt các quan lại ở các tỉnh phải xuất lúa giống ở trong kho cho nhân dân
vay để làm mùa sau. Ngoài ra, ông còn khuyến khích cải cách kỹ thuật công
nghiệp. Mặc dù có nhiều cố gắng cải cách về kinh tế, nhưng vì đất nước đã
trải qua một thời gian hoang tàn khá dài, cộng thêm chiến tranh liên miên nên
mọi cố gắng của Minh Mệnh cũng không giúp được nhiều cho đời sống nhân
dân, vì thế đời sống nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn như kỹ thuật canh
tác lạc hậu, thiếu đất đai để trồng trọt lại thêm nạn lũ lụt, hạn hán, vỡ đê.
Minh Mệnh là một người am hiểu Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh,
ông rất quan tâm đến việc học tập đặc biệt là việc dạy dỗ các hoàng tử trong
đó có Thiệu Trị . Năm 1822, ông mở lại các kì thi Hội, thi Đình ở kinh đô để
tuyển chọn nhân tài. Năm 1836, ông còn cho lập Tứ dịch quán để dạy ngoại
ngữ. Vì vậy, dưới thời Minh Mệnh chế độ Nho học, thi cử phát triển mạnh
mẽ. Minh Mệnh cũng là một học giả văn chương, từng làm thơ, soạn sách,
khuyến khích quần thần sáng tác và biên soạn sử sách, các sách dâng lên đều
được ông khuyến khích ban thưởng. Những khi có thời gian, ông có thói quen
đàm đạo văn chương, làm thơ sai các quan hoạ vần. Điều này đã ảnh hưởng
đến tư duy, suy nghĩ của Trường Khánh Công (sau này là vua Thiệu Trị) cũng
như nhiều hoàng tử khác, họ phần lớn là những nhà thơ nổi tiếng. Một gia
đình đế vương mà có nhiều tác giả nổi tiếng như thế này là một hiện tượng
xưa nay chưa từng thấy.
Về mặt ngoại giao, Minh Mệnh có chính sách hà khắc hơn Gia Long,
ông khước từ tiếp xúc với phương Tây, đưa ra các chiếu chỉ cấm đạo, tàn sát
hàng loạt các tín đồ Cơ Đốc giáo, ra sức củng cố chế độ lưu quan ở miền núi,
chủ trương mở mang thế lực ra nước ngoài, kiểm soát Chân Lạp. Kết quả là
Việt Nam trở thành một quốc gia hùng mạnh và có lãnh thổ rộng nhất so với
các đời trước. Dù còn nhiều khó khăn, song về cơ bản tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội dưới thời Minh Mệnh đã đi vào nề nếp.
15
Thiệu Trị lên ngôi (1841) may mắn được thừa hưởng một cơ nghiệp về
cơ bản đã đi vào ổn định. Sau khi lên ngôi, vua cho các quan kê cứu, khảo sát
những việc, những lệ từ triều Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh (1820 -
1840), biên chép lại làm thành tắc lệ, về sau cứ thế mà làm. Mọi định chế về
pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và quân đội đều được Thiệu Trị kế
thừa từ thời Gia Long, Minh Mệnh.
Mặt khác, nhà vua chú trọng về văn hoá, giáo dục và thi cử. Năm Thiệu
Trị thứ nhất (1841) bắt đầu mở Sử cục để biên tập, hiệu đính và khắc in các
bộ sử. Thời đại của ông đánh dấu sự ra đời của nhiều bộ sử có giá trị. Ngoài
việc khắc in các tập thơ của Minh Mệnh, của bản thân, ông còn cho in “Tiền
biên và Chính biên, bộ Thực lục, sửa Thực lục chính biên về Thánh tổ Nhân
hoàng đế” [51, tr. 579]. Năm 1844, cuốn Thực lục tiền biên về Liệt Thánh
làm xong (tức là phần Thực lục về các đời chúa Nguyễn: từ Gia Dụ đến Hiếu
Định). Ngoài ra, ông còn cho khắc in bộ Ngọc điệp, các bộ sách của các
hoàng đế Trung Hoa cũ. Về giáo dục, cũng có nhiều thành tựu đáng kể. Ví dụ
như tháng 4 năm 1847, nhà vua bắt đầu cho đặt chức đốc học tỉnh Phú Yên và
giáo thụ, huấn đạo các phủ huyện ở những tỉnh duyên biên như Cao Bằng,
Lạng Sơn và Thái Nguyên. Vua cho rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại
của triều đình”, “văn phong ngày một chấn khởi, nên mở rộng việc tác thành
nhân tài” [51, tr. 1000 - 1001]. Vì thế, dưới thời Thiệu Trị việc đặt nơi dạy
học đã phát triển rộng rãi trên hầu hết các tỉnh thành. Năm 1847, ông cho đặt
trường thi tại Gia Định. Từ khi lên ngôi chấn hưng văn trị, mở rộng khoa thi,
trong khoảng bảy năm mở luôn 11 khoa thi Hội, thi Hương, các đời ít thấy có.
Lâm Duy Thiếp một đại thần lúc bấy giờ nói rằng “từ đời cổ, đặt chế độ mở
khoa thi lấy nhân tài, không đời nào thịnh bằng đời nay, cho nên đời nay,
những người làm học trò đều muốn quyết thi cho đỗ, mà không muốn làm lại
viên, sáu bộ và các nha phải cần đến người làm việc. Có thể biết được văn
phong đời nay là thịnh” [51, tr. 1056].
16
Ngoài ra, ông còn khuyến khích quần thần sáng tác, hoạ vần. Mỗi khi
coi chầu giải quyết công việc xong, bao giờ ông cũng tụ họp các quần thần để
luận bàn văn chương thi pháp. Ông thường nói với quần thần “Ta muôn việc
ở mình, dù lúc mặt trời đã xế bóng, hay ban đêm, chưa lúc nào được nhàn rỗi,
còn ở những lúc chính sự thư thả, không lúc nào bỏ việc học, huống chi các
ngươi? Người đời xưa học sách cổ rồi ra làm quan, nghiên cứu kinh điển đến
cùng để sẽ dùng vào việc đời” [51, tr. 1038].
Cũng như thời Minh Mệnh, xã hội thời Thiệu Trị cũng phức tạp, chỉ
trong bảy năm mà có đến 50 cuộc nổi dậy nhưng may mắn được sự giúp đỡ
của các đại quan giỏi như Nguyễn Đăng Giai, Nguyễn Công Trứ, hầu hết các
cuộc nổi dậy được dẹp yên.
Về ngoại giao, ông giữ chủ trương hoà hảo nhưng không khuất phục
đối với nhà Thanh. Đối với Chân Lạp, Xiêm La trong những năm đầu mối
quan hệ có vẻ căng thẳng, nhưng sau khi Thiệu Trị cho rút quan lại và binh sĩ
đóng ở Chân Lạp thì mối quan hệ trở nên tốt đẹp hơn. Mặc dù Thiệu Trị giữ
thái độ hoà hảo đối với các nước bên ngoài, “để cho quân nhân được nghỉ
ngơi” [51, tr. 968], nhưng trong những năm này nhà Nguyễn bắt đầu phải đối
mặt các thế lực phương Tây, đặc biệt là Pháp. Thời Minh Mệnh, vua có
những chính sách hà khắc đối với việc truyền đạo như giết các giáo sĩ truyền
đạo, giam cầm một số thương gia người Pháp… nên cuối đời Thiệu Trị, người
Pháp bắt đầu thực hiện “đường lối ngoại giao pháo hạm” tại cửa biển Đà
Nẵng, tìm cách can thiệp vào nội tình nước ta. Đầu năm 1847 hai tàu chiến
của nước Phật Lan Tây (Pháp) vào cửa Đà Nẵng, gây sự, bất chấp các quy
định của quan chức nhà Nguyễn. Chúng nổ súng vào các hạm thuyền của
quan quân, 5 - 6 người đạo trưởng công nhiên đeo chữ “thập”, đi lại nơi cửa
biển. Không dừng lại ở đó Đầu mục Tây dương là Lạp Biệt Nhĩ còn đem vài
17
mươi tên đồ đảng, đeo gươm, đeo súng, đến thẳng ngay công quán; quan quân
ngăn lại không được.
Đến tháng 3 năm 1847, tiếp tục “Có 5 chiếc thuyền bọc đồng ở Kinh
phái đi Nam (Kim Ưng, Phấn Bằng, Linh Phượng, Thọ Hạc, Vân Bằng) chưa
ra biển còn đậu lại ở vụng Trà Sơn cùng đối diện với thuyền Tây dương, cũng
bị chúng sấn đến cướp lấy buồm thuyền và dây buộc thuyền” [51, tr. 975],
quan quân chống lại bị chúng nổ súng, bắn cả vào thuyền. “Quan binh giở tay
không kịp, năm chiếc thuyền đồng chốc lát đều bị đắm mà vỡ cả. Lãnh binh
Nguyễn Đức Chung, Hiệp quản Lý Điển đều chết ở trận, biền binh chết hơn
40 người, bị thương hơn 90 người, còn 104 người không biết trôi dạt đi đâu,
súng và khí giới chìm mất rất nhiều”[51, tr. 984]. Theo, 82 năm Việt sử tác
giả Nguyễn Phương viết rằng: “Năm 1847, Rigault de Genouilly đưa hai
chiếc thuyền Gloire và Victorieuse cập bến Đà Nẵng để gây áp lực, bắt bỏ
lệnh cấm đạo.Vua ra lệnh đối phó. Khoảng 5000 quân tại chỗ dùng 13 chiến
thuyền cùng nhiều ghe lớn ra bao vây tàu Pháp. Sau hai giờ giao tranh quân
triều đình thất bại, tàu Pháp bỏ đi” [43, tr. 69]. Trong bầu không khí đầy phẫn
uất đó, vua Thiệu Trị băng hà.
1.2.2. Tình hình văn học
1.2.2.1. Văn học hoàng đế trong lịch sử Việt Nam
Trong lịch sử văn học trung đại, hoàng đế làm thơ là một hiện tượng rất
phổ biến, thậm chí “làm thơ là một khía cạnh nghệ thuật cai trị của các hoàng
đế” (Theo Trần Nho Thìn). Ngay từ thế kỷ X, một số vua nhà Lý đã mở đầu
cho trường phái văn chương hoàng phái như Lý Thái Tổ đã để lại cho đời sau
một áng văn, đó là “Thiên đô chiếu”; Lý Thái Tông có hai bài thơ chép ở
“Thiền Uyển tập anh” và có một tác phẩm mang tính chất làm nền tảng cho
luật pháp nước nhà (bộ Hình thư) , nhưng hiện nay không còn; Lý Nhân Tông
với bài Thơ viếng Vạn Hạnh. Nhìn chung, thơ văn các vua nhà Lý còn mờ
18
nhạt, số lượng để lại không nhiều, nội dung chủ yếu mang đậm chất Thiền và
giáo lý Phật giáo.
Đến đời Trần, đất nước đã ba lần đánh bại quân xâm lăng Nguyên
Mông, một đế quốc hùng mạnh lúc bấy giờ. Không chỉ là những anh hùng
trên chiến trường mà các vua và vương hầu nhà Trần còn là những tao nhân
mặc khách, luôn hướng về sáng tác ngâm vịnh, trăm họ âu ca. Tiêu biểu là
Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông.
Trần Thái Tông nghiên cứu cả Nho và Phật, trở thành một tác gia quan
trọng của dòng văn học Thiền Tông, có sách là “Khoá hư lục”, một tác phẩm
cổ nhất, quan trọng nhất về phương diện triết học Thiền của đời Trần, quan
trọng hơn nó còn có có giá trị về văn học, bởi Trần Thái Tông mượn hình
thức văn, luận, thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn để biểu
đạt tư tưởng, cảm xúc của mình. Trần Thái Tông còn có Thiền Tông chỉ
nam ca, Lục thì sám hối khoa nghi, Trần Thái Tông ngự tập, được Phan
Huy Chú khen là “lời thơ thanh nhã, đáng đọc” nhưng hiện nay chỉ còn
hai bài chép ở Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục. Ngoài ra, ông còn đề
tựa kinh Kim Cương, viết một số bài bình luận về việc toạ thiền, việc
niệm Phật và một bài răn về tửu sắc.
Tác giả thứ hai là Trần Thánh Tông, một người thích đàm đạo văn thơ,
nghiên cứu kinh Phật. Dưới thời trị vì của vua, văn học rất phát triển. Tương
truyền tác phẩm của vua là các cuốn Cơ cừu lục, Di hậu tập, Hoàng Tông
ngọc điệp, Thiền Tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Chỉ giá Minh, một tập thơ
lấy nhan đề Trần Thánh Tông thi tập chép trong “Toàn viện thi lục”. Ngoài
ra, ông còn viết nhiều thư từ ngoại giao. Nay chỉ còn lại sáu bài thơ được chép
trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài).
Tác giả thứ ba là Trần Nhân Tông, một vị vua anh hùng, đã có công lớn
trong việc lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh thắng giặc Nguyên Mông lần hai
19
và lần ba (1285 - 1288). Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hoá, nhà thơ
xuất sắc ở thế kỷ XII. Ông sáng lập ra dòng Thiền Trúc Lâm ở Việt Nam. Tác
phẩm của ông có nhiều như: Trần Nhân Tông thi tập, Đại hương hải âm thi
tập, Thiền tâm thiết chuỷ ngữ lục, Tăng già toái sự, Thạch thất mỵ ngữ, Trung
hưng thực lục. Hiện chỉ còn 31 bài thơ, một bài minh, một bài phát biểu của
ông với sứ giả Trương Lập Đạo do chính vị sử giả này ghi lại.
Thứ tư là, Trần Anh Tông, theo Đại Việt sử kí toàn thư, Trần Anh Tông
có bài Thạch dược châm và tập Thuỷ văn tuỳ bút nhưng đều đã bị chính tác
giả thiêu huỷ trước khi mất. Hiện còn 14 bài thơ. Ông rất yêu nghệ thuật,
thích vǎn chương. Ông làm thơ nhiều, nhưng chỉ xem thơ ca như một lợi khí
nuôi dưỡng tính tình, diễn đạt tâm hồn ở những thời gian nhất định, chứ
không có dụng ý lưu lại công trình, nghĩ tới danh hiệu về sau.
Thứ năm là, Trần Minh Tông. Hầu hết tác phẩm của Minh Tông đã
mất, nay chỉ còn khoảng 25 bài thơ được chép rải rác ở các sách như Việt âm
thi tập,Đại Việt sử kí toàn thư và Nam Ông mộng lục. Thời này Nho học được
đề cao, Phật học giảm dần uy thế; Minh Tông cũng xuất gia như các vị tiên đế
nhưng ông luôn dặn dò các Hoàng hậu đừng đi tu.
Cuối cùng là, Trần Nghệ Tông, có Tông Bắc sứ ngưu lượng, Tỵ cư Gia
Hưng trấn ký đệ cung Tuyên Vương, Đề Tư đồ Trần Nguyên Đán từ
đường…Hiện chỉ còn 5 bài thơ chép trong Việt âm thi tập. Nhìn chung, thơ
ông thể hiện sự bất lực trước thời cuộc, với cơ nghiệp tổ tiên để lại, phản ánh
tình cảm đối với anh em bạn bè.
Nhìn chung, các vua nhà Trần đã làm cho phả hệ văn chương hoàng
phái được đậm nét hơn, tuy nhiên hiện nay tác phẩm còn sót lại không nhiều,
chủ yếu là thơ, biểu, chiếu, không có sự xuất hiện các tác phẩm viết về thi
pháp. Các tác giả nhà Trần đã có công rất lớn trong việc sáng lập nên dòng
văn hoá Thiền Tông, là những tác giả quan trọng trong phạm vi thơ Thiền
20
Sang triều Lê, Lê Thánh Tông là hoàng đế duy nhất làm thơ ở triều Lê.
Ông được xem là một nhà văn hoá, một ông vua coi trọng hiền tài, trân trọng
lịch sử. Chính ông đã giao cho Ngô Sĩ Liên làm bộ Đại Việt sử ký toàn thư và
Thân Nhân Trung biên soạn bộ Thiên Nam dư hạ tập, là những bộ bách khoa
có giá trị trên nhiều phương diện đối với dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, ông còn
cho cho soạn bộ luật Hồng Đức rất nổi tiếng. Lê Thánh Tông là tác giả của
chín tập thơ chữ Hán và hàng trǎm bài thơ Nôm khác. Vừa là một vị hoàng đế
ông vừa có phong cách của một nghệ sĩ giang hồ thưởng ngoạn thú non sông,
đi đến đâu ông cũng cho đề thơ làm kỷ niệm. Về sau chính Minh Mệnh, Thiệu
Trị cũng có phong cách này. Ông thường đàm đạo với các nhà học giả trong
triều đình, tự nhận mình là nhà thơ, và có phần nào đó vượt cả tài nǎng một số
nhà thơ bên Trung Quốc. Sau khi làm thơ ông đưa cho các triều thần họa lại
để phát triển ý mình, khơi dậy một không khí sáng tác rất sôi nổi lúc bấy giờ
bằng sáng kiến thành lập hội Tao Đàn, là nơi chuyên sáng tác và bình phẩm
thơ văn. Ông tự xưng là Tao Đàn nguyên súy, tập trung xung quanh mình 28
học giả vào câu lạc bộ này, gọi một cách vǎn vẻ là Tao Đàn nhị thập bát tú
với tuyển tập thơ khá quy mô và đồ sộ là Hồng Đức quốc âm thi tập. Thơ ông
vô cùng phong phú không chỉ phong phú về nội dung mà còn cả về chữ viết,
tiêu biểu là sở trường thơ Nôm. Tuy nhiên, so với thơ ca sau này đặc biệt là
thế kỷ 18, 19 thơ ông không được đánh giá cao về mặt nghệ thuật.
Nhà Nguyễn đánh dấu sự phát triển nhiều mặt trong dòng thơ văn
hoàng phái với sự góp mặt của Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.
Minh Mệnh là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn, sinh năm 1791 -
1841. Số lượng tác phẩm mà ông để lại là tương đối nhiều, khoảng gần 3500
bài thơ, được Thiệu Trị cho in trong sáu tập Ngự chế thi. Tuy Minh Mệnh là
người trọng văn chương, thích sáng tác nhưng có thể nói thơ của Minh Mệnh
không đạt được đỉnh cao về mặt ngôn từ như thơ Thiệu Trị. Ngay chính bản
21
thân ông cũng đã từng nói: “Thơ trẫm làm không cần khéo léo, chỉ luôn
miệng ngâm ra để nói chí mình thôi. Những bài ban cho ấy đều nói về việc
kính trời lo dân, mong tạnh cầu mưa… không phải vụ lời văn hoa mà đua hay
với văn sĩ đâu”[50, tr. 427]. Chính vì những suy nghĩ đó mà thơ vua Minh
Mệnh phần nhiều viết về tự nhiên, thể hiện mong ước cầu mưa, cầu nắng, cầu
tạnh, thể hiện tấm lòng lo lắng cho nền sản xuất nông nghiệp nước nhà, bày tỏ
cái ý chí của mình. Do đó, Minh Mệnh tuy là ông vua chuộng văn học, đề cao
những người học văn học nhưng ông lại cho rằng văn chương nếu đề cao quá
mức, không gắn với thực tế thì sẽ trở nên sáo rỗng.
Thiệu Trị được sinh ra trong dòng chảy đó, ông là một mắt xích - một
mắt xích quan trọng vì vị hoàng đế này không chỉ đóng góp nhiều mặt trên
các lĩnh vực văn hoá, giáo dục mà còn góp thêm một màu sắc cho văn chương
hoàng tộc nói riêng và văn chương Việt Nam nói riêng. Không chỉ tiếp nối
truyền thống hăng say sáng tạo của các bậc đế vương mà Thiệu Trị còn phát
huy truyền thống đó lên đến đỉnh cao.
1.2.2.2. Văn chương hoàng phái nhà Nguyễn
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng “không thời nào, văn hoá phát triển
như thời Nguyễn, sách vở sáng tác gần bằng hoặc bằng, thậm chí còn nhiều
hơn mấy trăm năm trước. Những nhà tư tưởng của thời Nguyễn cao hơn
những nhà tư tưởng trước, những nhà văn cao hơn những nhà văn trước,
những nhà làm sử cũng giỏi hơn những người làm sử trước. Có thể nói, sự
phát triển dưới thời Nguyễn tương đương với sự thống nhất của quốc gia. Sự
thống nhất về chính trị thúc đẩy sự phát triển về văn hoá rất nhiều. Đó là
thành tích của triều Nguyễn” [16, tr. 18]. Giáo sư Nguyễn Lộc viết: “Văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ 19 không những phát triển rực rỡ
mà còn là đỉnh cao của văn học dân tộc”, “Trước kia lịch sử chưa bao giờ
chứng kiến một giai đoạn văn học nào lại phát triển một cách phong phú
22
không những về số lượng mà còn cả về chất lượng như giai đoạn văn học này.
Điều đó có một loạt nguyên nhân về lực lượng sáng tác, về công chúng văn
học, cũng như về điều kiện in và xuất bản, v.v… lúc bấy giờ [26, tr. 15]. Qua
đó chúng ta thấy rằng văn chương dưới thời nhà Nguyễn phát triển lên đến
đỉnh cao không chỉ về văn học chữ Nôm mà còn cả về chữ Hán với nhiều tác
giả, nhiều tác phẩm tiêu biểu.
Văn học nhà Nguyễn có thể chia làm các thời kỳ như sau: thời Nguyễn
sơ - thời kỳ nhà Nguyễn còn độc lập và thời kỳ nhà Nguyễn thuộc Pháp. Thời
Nguyễn sơ là thời kỳ của các nhà thơ thuộc hai nguồn gốc chính: Thứ nhất là
các vua quan nhà Nguyễn như Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Tùng Thiện
Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Nguyễn Phúc Miên Trinh,
Mai Am công chúa, Diệu Liên công chúa, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Nguyễn Công Trứ… Bộ phận thứ hai là các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục
nhà Nguyễn tiêu biểu là Phạm Quý Thích, Nguyễn Du, Trịnh Hoà Đức, Lê
Quang Định, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều... Tuy nhiên trong lịch sử
văn học cũng như nhiều sách vở chính thống từ xưa đến nay chủ yếu đề cập
đến các tác giả thuộc bộ phận thứ hai. Còn ở bộ phận thứ nhất, đề cập nhiều
đến Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ nhưng chưa nói nhiều đến văn chương
hoàng tộc (vua và các hoàng tử). Vì vậy trong luận văn này chúng tôi cố gắng
giới thiệu tới độc giả một vài nét khái quát về một số tác giả thuộc bộ phận
văn học hoàng tộc bởi ba lí do sau. Lí do thứ nhất, bộ phận này chưa được đề
cập nhiều trong lịch sử văn học từ xưa đến nay. Thứ hai, đối tượng luận văn
mà chúng tôi hướng đến là Thiệu Trị - một thành viên của dòng văn học này.
Thứ ba, theo chúng tôi phong trào sáng tác văn chương của vua Minh Mệnh
cũng như anh em hoàng thân quốc thích của triều Nguyễn ảnh hưởng trực tiếp
đến tư duy, cảm hứng của Thiệu Trị.
23
Ngoài Minh Mệnh và Thiệu Trị, văn học hoàng gia nhà Nguyễn còn
phải kể đển Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm. Tùng Thiện
Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm là con thứ mười của vua Minh Mệnh với
Thục Tần Nội cung Nguyễn Khắc Thị Bửu. Sinh thời ông thường tụ họp con
em trai gái cùng bạn bè thích văn chương đến chơi và xướng họa, lập ra Mặc
Vân Thi Xã, xây dựng cơ sở khắc in và xuất bản Mặc Vân Sào. Ngoài ra, ông
còn lập đền thờ các nhà thơ như Khuất Nguyên, Tào Thực, để tỏ lòng kính
trọng văn chương đối với văn học cổ. Thơ văn của ông phần lớn được viết
bằng chữ Hán tiêu biểu là bộ Thương Sơn thi tập gồm 8 tập: Nhĩ hinh, Bắc
hành, Ngộ ngôn, Hà thượng, Mô trường, Bạch bí, Minh Mạng cung từ và Mãi
điền. Sau khi Vương mất, 8 tập của bộ Thương sơn thi tập được các em trai,
em gái và các con sắp xếp lại rồi cho khắc in bằng bản gỗ vào năm Tự Đức
thứ 25 (năm Nhâm Thân - 1872) gồm 54 quyển. Tùng Thiện Vương được
xem là vị tao nhân mặc khách nổi tiếng thi bá một thời:
Văn như Siêu1 Quát2 vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường
(Văn như Siêu Quát mờ Tiền Hán
Thơ đến Tùng Tuy vượt Thịnh Đường)
Đó là những câu thơ dành cho các vị thi nhân nổi tiếng là: Nguyễn Văn
Siêu, Cao Bá Quát và anh em Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương
Miên Trinh.
Hoàng tử thứ hai phải kể đến là Tuy Lý Vương Nguyễn Phúc Miên
Trinh (1820 - 1897), con thứ 11 của vua Minh Mệnh, tự Khôn Chương và
Quý Trọng, hiệu Tĩnh Phố, biệt hiệu Vĩ Dạ. Cũng như Tùng Thiện Vương, 1 Siêu: Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), Tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ, nguyên là người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Tác phẩm của ông có: Phương Đình thi văn tập, Phương Đình thi thoại, Phương Đình văn loại. 2 Quát: Cao Bá Quát (1808 - 1855), hiệu là Chu Thần, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Tác phẩm của ông có Chu Thần thi tập.
24
Tuy Lý Vương sớm có khiếu về thơ. Dưới triều Tự Đức giữ chức Hữu Tôn
nhơn. Sau khi vua Tự Đức băng hà, vì mâu thuẫn với phe Tôn Thất Thuyết,
Nguyễn Văn Tường ông bị bọn Tường, Thuyết bắt giam sau đó cho đày ở
Quảng Ngãi (1883). Đến khi Đồng Khánh lên ngôi (1885) gia đình mới được
về Kinh. Dưới triều vua Thành Thái ông giữ chức Phụ chánh than thần và
chức Phụ nghị cận thần cho đến lúc mất. Tác phẩm của ông gồm có: Vĩ Dạ
hợp tập, gồm cả thơ lẫn văn tất cả 11 cuốn bằng chữ Hán và một số bài thơ
xướng hoạ được lưu truyền bằng chữ Nôm.
Vị hoàng tử thứ ba là Tương An Quận Vương (1820 – 1890): Tên
Nguyễn Phúc Miên Bảo1, tự Duy Thiện, hiệu Khiêm Trai, con thứ 12 của vua
Minh Mệnh, ham thích võ nghệ, cưỡi ngựa bắn cung. Cũng như các anh là
Nguyễn Phúc Miên Tông, Nguyễn Phúc Miên Thẩm và Nguyễn Phúc Miên
Trinh, ông nổi tiếng về thơ, nhất là thơ Nôm với hai khúc Hoài Cổ Âm và
Trăm thương được nhiều người truyền tụng. Về chữ Hán, ông có hai tập:
Khiêm trai thi tập và Khiêm Trai văn tập.
Ngoài ra còn phải kể đến một số em gái của Thiệu Trị như Mai Am
Công chúa với tập thơ chữ Hán Diệu Liên thi tập, gồm 370 bài, chia làm 3
quyển, 1 bổ di,1 phụ lục, hiện nay vẫn còn lưu giữ. Bên cạnh Mai Am công
chúa là Nguyệt Đình Công chúa với tập Nguyệt đình thi thảo, nhưng tác phẩm
hiện nay không còn. Công chúa Huệ Phố cũng để lại tập Huệ Phố thi tập.
Sáng tác này gồm bốn quyển với 216 bài thơ chữ Hán do bà viết từ năm 1845
cho đến ngày từ trần. Theo các tác giả Nguyễn Phúc tộc thế phả thì hiện nay,
Huệ Phố thi tập chưa được khắc in nhưng vẫn còn bản viết tay của bà.
Trong lịch sử văn học Việt Nam quả là chưa có thời nào mà các hoàng
tử, công chúa lại say mê sáng tác và đặc biệt biên tập, in ấn cũng như bình
1 Có tài liệu chép là Bửu.
phẩm văn chương của nhau nhiều đến vậy. Thiệu Trị được sinh ra giữa nhiều
25
dòng chảy tốt đẹp đó, ít nhiều ảnh hưởng đến nhân cách của ông đặc biệt ông
lại là người vốn không thích làm trái lời vua cha Minh Mệnh - người có tư
tưởng giáo dục các con một cách quy cũ, bài bản.
1.3. Vài nét về Thiệu Trị
1.3.1. Tuổi nhỏ mồ côi mẹ
Thiệu Trị sinh ngày 11 (Nhâm Tý), tháng Năm, năm Đinh Mão (1807)
(tức ngày 16 tháng 6 năm 1807, năm Gia Long thứ 6). Ông là vị vua thứ ba
của triều Nguyễn1, là con đầu trong số 78 hoàng tử và 63 công chúa của
Thánh Tổ Nhân hoàng đế Minh Mệnh. Mẹ là Thuận Đức Nhân hoàng hậu Hồ
Thị Hoa2 (1791 - 1801), con gái của ông Đô Thống Chưởng phủ sự Hồ Văn
Bôi ở ấp Xuân Lộc, phía Đông kinh thành. Năm 1844, nhà vua đã cho xây
dựng chùa Diệu Đế ở đây để kỉ niệm nơi ông sinh ra.
Ngay từ nhỏ, Thiệu Trị đã được vua cha hết mực yêu thương. Một lần,
nhân Minh Mệnh ẵm Thiệu Trị đến làm lễ cháu ra mắt ông, Thế tổ cao hoàng
đế mừng mới có cháu đích tôn, chuẩn cho lấy bộ “Nhật” đặt tên. Hoàng tổ
chính tay viết chữ Dung, trên là chữ “nhật”, dưới về bên tả là chữ “cách”, bên
hữu là chữ “trùng” tức chữ “Dung”3.
Về sau nhân bói số năm hưởng quốc và số đời truyền nối, để phân biệt
kẻ thân người sơ, chia ra thế hệ về dòng vua, dòng các thiên vương Minh
Mệnh đã làm bài Đế hệ thi4 gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ
từ vua Minh Mạng trở về sau. Do đó, Minh Mệnh có mệnh lệnh đặt lại tên 1 - Gia Long Nguyễn Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh (1802-1819). - Minh Mệnh Nguyễn Thánh Tổ Nguyễn Phúc Đảm (1820-1840). - Thiệu Trị Nguyễn Hiến Tổ Nguyễn Phúc Miên Tông (1841-1847). 2 Nhiều tài liệu ghi là: Tá Thiên Nhân hoàng hậu Hồ Thị Hoa. 3 Tham khảo thêm Đại Nam thực lục, trang 76, tập 6, Nxb. Giáo dục, 2007. 4 Đế hệ thi được sang tác năm 1823, bài thơ có nội dung như sau: Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quý Định Long Trường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thuỵ Quốc Gia Xương.
26
cho các hoàng tử công chúa, Thiệu Trị lúc bấy giờ có tên là Nguyễn Phúc
Miên Tông (阮福綿). Đến lúc lên nối ngôi, Thiệu Trị lấy tên đặt lúc còn nhỏ
làm tên tự và dựa theo bài thơ của vua cha, nhà vua lấy chữ Tuyền làm tên.
Vua sinh ra được 13 ngày tuổi thì mẹ mất. Ngày mẫu hậu mất, vua
khóc thương mãi không thôi. Thế tổ Cao hoàng đế đến thăm, mừng, nói: “Trẻ
con mới sinh ra mà biết khóc thương, là tính trời sinh, ngày sau thế nào cũng
giữ trọn được đạo hiếu” [47, tr. 20]. Về sau đúng như nhận xét của Gia Long,
Thiệu Trị lên làm vua đã thể hiện được những phẩm chất, cũng như tư cách
của một ông vua tốt, một thi sĩ tài năng.
Ngay từ nhỏ, Thiệu Trị đã tỏ ra chăm chỉ, hoà nhã. Trong khi các em bị
cha nghiêm khắc, quở trách nhiều việc thì Thiệu Trị hầu như giữ được chữ tín
đối với cha bằng cách sửa mình, siêng năng học hành và giúp đỡ vua cha
chăm lo chính sự. Năm 14 tuổi, trong khi Minh Mệnh ngự giá ra Bắc, Thiệu
Trị đã phải giúp vua cai quản triều chính [47, tr. 305].
1.3.2. Tuổi trưởng thành
Năm 23 tuổi, Miên Tông cùng với các em là Miên Nghị, Miên Ninh,
Miên An, Miên Định, Miên Hoằng được xuất các ra phủ và phong tước công.
Thiệu Trị được sách phong là Trường Khánh Công, ở nhà Chỉ Thiện Đường
và đảm nhận nhiều trọng trách ở Tôn Nhân phủ (là cơ quan trong coi mọi việc
trong hoàng tộc). Công việc của ông là định chương trình, giữ phả hệ, ban
giáo lệnh, xếp đặt tước lộc, nêu ra những người liêm khiết tài năng. Mọi việc
ông đều hoàn thành rất tốt, được vua cha Minh Mệnh hài lòng, vì thế đức tốt ở
Tôn Nhân phủ ngày một nổi tiếng.
Ngoài ra, ông thường được Thánh tổ nhân Hoàng đế sai kiểm soạn
những thơ ngày thường ngài đã làm để tiến lãm. Hoặc thường cùng vua cha
Minh Mệnh hoạ vần thơ văn. Nhân tiết Trùng cửu năm 1838, ông cùng vua
cha đi sửa dọn núi Ngự Bình, sắp bày xa giá, lên chơi núi ấy, đi theo kiệu, hầu
27
bên cạnh. Minh Mệnh sai bảo dâng giấy bút để làm thơ, rồi sau đó sai ông
họa vần. Trường Khánh công hoạ vần tốt được Minh Mệnh gia ơn, thân rót
rượu ban cho. Khi lên ngôi trị vì ông nhớ lại những kỷ niệm cùng với cha,
thường làm thơ để giải bày tấm lòng của mình.
1.3.3. Trị vì
Năm 34 tuổi, mùa xuân, tháng Giêng ngày 19, Minh Mệnh ốm nặng,
cho gọi Trường Khánh Công vào hầu, ông đến trước giường ngự, Thánh tổ
cầm lấy tay dặn dò, bảo ban việc nối ngôi. Sau khi dặn dò xong, Thánh tổ yên
tâm se mình. Ngày 20 tháng 12 năm 1841, Thiệu Trị lên nối ngôi ở điện Thái
Hòa, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
Theo Ngoại truyện chép: Thánh tổ ốm, bàn lập con nối ngôi, chưa
quyết định. Lúc ấy, Kiến An công đang điều hộ ở điện Quang Minh. Hoàng
thái hậu ý muốn lập Kiến An công, triệu văn võ đình thần hội bàn. Trương
Đăng Quế xin lập Trường Khánh Công, lập tức thảo chiếu. Vua sai đình thần
phụng chỉ bạch hoàng thái hậu. Hoàng thái hậu không trái được, bèn triệu lập
Trường Khánh Công [60, tr. 357].
Từ tháng một đến tháng tư năm 1842 vua Thiệu Trị tuần thú ra Bắc
nhận sắc phong. Trong chuyến đi gần ba tháng này ông đã để lại cho đời
tập thơ Thánh chế Bắc tuần thi tập, với 173 bài thơ viết về cảm xúc của
nhà thơ trước mỗi phong cảnh, mỗi sự kiện mà nhà vua gặp ở những nơi
mà ông đi qua.
Tháng năm 1847, vì buồn rầu chuyện quan quân bị thuyền Pháp đánh
đắm và thiệt hại nhiều binh sĩ, trong lòng ông không vui sinh bệnh ngày một
trầm trọng. Ngày 17 tháng 9, tuyên triệu cố mệnh lương thần là Trương Đăng
Quế, đại thần là bọn Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp vào
hầu, ban thân tờ di chiếu châu phê, cho Nguyễn Phúc Hồng Nhậm được nối
ngôi. Ngày 27 tháng ấy năm Đinh Mùi, tức ngày 4 tháng 10 năm 1847 vua se
28
mình, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ (憲祖). Ngày Canh Thân để tử
cung ở điện Long An. Tháng 11, ngày Nhâm Dần, dâng tôn hiệu là Thiệu
Thiên Long vận, Chí thiện Thuần hiếu, Hoan minh Tuệ đoán, Văn trị Vũ
công, Thánh Triết Chương hoàng đế. Bài vị nhà vua được thờ ở Thế Miếu.
Lăng của ông là Xương Lăng, toạ lạc tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ,
tỉnh Thừa Thiên
Sử sách không nói nhiều về Thiệu Trị, nhưng với tâm niệm “dân là gốc
nước, ăn là việc sinh sống của dân, ta từ khi lên ngôi đến nay, đi xem phong
tục, xét tình trạng hằng năm, hoặc cho giảm thuế, hoặc tha cho những chỗ
thiếu, thường để tâm vào việc dân”, [47, tr. 996] ông đã tạo được nhiều dấu ấn
trong lịch sử dân tộc.
1.3.4. Gia quyến
Thiệu Trị có một Hoàng hậu (là Nghi Thiên Chương hoàng hậu Phạm
Thị Hằng, con ngài Lễ bộ Thượng thư Phạm Đăng Hưng) và rất nhiều phi tần,
cung nữ. Ông có 64 người con: 29 hoàng tử và 35 hoàng nữ.
Vua phế bỏ con trưởng là Hồng Bảo lập con thứ là Hồng Nhậm (tức là
vua Tự Đức).
Tiểu kết:
Thiệu Trị được sinh ra trong thời đại tương đối phức tạp, đất nước vừa
mới đi vào giai đoạn yên bình thì nguy cơ ngoại xâm đang tiến gần. Tuy vậy,
cơ bản trong bảy năm cai trị ông không phải lo lắng nhiều đến công cuộc
trùng hưng chính trị vì đã có người ông tài ba trên chiến trường đảm nhiệm
công việc thống nhất và ông bố lừng danh nghiêm khắc, quyết đoán ổn định
mọi vấn đề về chính trị cũng như xã hội. Do đó ông có nhiều thời gian thể
hiện niềm vui thích thơ văn của mình.
29
Mặt khác, giai đoạn này văn học Việt Nam đạt được đỉnh cao với
nhiều tác giả không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn nổi tiếng ngoài nước.
Văn học phát triển ở nhiều tầng lớp, không chỉ trong giới văn nhân quan
lại mà còn có cả con em hoàng thân quốc thích của triều Nguyễn, đứng
đầu là Minh Mệnh. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thơ văn
của Thiệu Trị. Trong trào lưu đó, Thiệu Trị cũng muốn thể hiện bản lĩnh
sáng tác trong thi ca, thể hiện nhân cách của người con trưởng vốn được
Minh Mệnh tin tưởng, yêu quý.
So với hai vị vua tiền nhiệm cũng như các vua kế sau, Thiệu Trị không
phải là một ông vua nổi bật, gắn với những sự kiện quan trọng của dân tộc.
Ông chủ yếu quan tâm đến giáo dục thi cử tu, bổ các giá trị văn hoá. Mặt
khác, cuộc đời làm vua của Thiệu Trị ngắn ngủi chỉ trong bảy năm, ông lại là
người ôn hòa, nhã nhặn và không thích thay đổi các định chế xã hội. Vì vậy
ông lịch sử ít khi nhắc đến ông, thậm chí trong Đại Nam thực lục không có
nhiều ghi chép về cuộc sống của Thiệu Trị khi ông còn trẻ cũng như lúc
trưởng thành. Cho đến khi Hiến Chương hoàng đế thực lục, Chính biên, Đệ
nhị kỷ về Thiệu Trị, ra đời cuốn sách cũng chỉ dành dăm ba trang tóm tắt lại
cuộc sống khi chưa lên ngôi của Thiệu Trị. Tuy nhiên điều đặc biệt thú vị là
Đệ nhị kỷ chủ yếu dành rất nhiều trang ghi lại các bài dụ, biểu và hoạt động
văn chương của vua Thiệu Trị với quần thần.
30
Chƣơng 2. HỆ THỐNG TÁC PHẨM VÀ NỘI DUNG VĂN CHƢƠNG
CỦA THIỆU TRỊ QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC
2.1. Hệ thống văn chƣơng Thiệu Trị
Căn cứ chính vào Đại Nam thực lục cũng như tham khảo thêm Di sản
Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện
Viễn Đông Bác Cổ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993 cùng một vài tư liệu lịch sử
khác, chúng tôi thấy rằng: không chỉ viết thơ, văn, các bài chiếu, dụ, biểu,
châm, ký, minh, tựa, bạt, bi, ký, câu đối mà Thiệu Trị còn là một học giả uyên
thâm, ông phê bình văn chương trong nước, đánh giá ưu và nhược của văn
học cổ Trung Quốc. Đáng ngưỡng mộ hơn là ông đã nghiên cứu, tập hợp, bổ
sung những chỗ còn thiếu sót trong các sách cổ, kê cứu và ghi chép lại làm tài
liệu cho việc dạy và học ở các trường học. Ngoài ra, ông còn giảng giải về thi
pháp thơ cho các quần thần mỗi khi họ không hiểu. Tuy nhiên, hầu hết tác
phẩm và sách nghiên cứu của ông được viết bằng chữ Hán, chưa được dịch
sang chữ Quốc ngữ mà người viết lại hạn chế về dịch nên việc tổng hợp hết
sức khó khăn. Hơn nữa, nhiều tác phẩm của ông hiện bị thất lạc, một số được
chép tản mạn, rải rác ở các tài liệu như việc “điểm danh”. Đại Nam thực lục
giới thiệu rất nhiều về nguồn gốc, việc biên tập, khắc in của nhiều tuyển tập
văn chương. Tuy nhiên các tuyển tập này được chép với tư cách là các sự kiện
lịch sử nên thường tóm tắt và không theo hệ thống. Để hệ thống văn chương
của Thiệu Trị được rõ ràng, hạn chế việc nhầm lẫn bởi nhiều tên gọi khác
nhau chúng tôi xin giới thiệu tới bạn đọc các tuyển tập của Thiệu Trị theo
từng thể loại ở các tài liệu như sau:
2.1.1. Đại Nam thực lục
Trong Đại Nam thực lục phần Dực Anh Tông hoàng đế thực lục, Chính
biên, Đệ tam kỷ viết vua Thiệu Trị “Ngự chế ra hai tập văn, 4 tập thơ, lại có
những tập Ngự đề đồ hoạ, Sử luận, Hoàng huấn, Bắc tuần, Võ công, Cổ
31
kim thể cách, Tài thành phụ tướng, Lịch đại đế vương, không đầy 6 - 7
năm, mà làm xong 14 bộ sách. Lại tập “Chỉ thiện đƣờng thi văn hội tập”,
làm ra khi còn ở tiềm để, có 16 quyển nữa” [52, tr. 101]. Như vậy theo Dực
Anh Tông hoàng đế thực lục, Chính biên, Đệ tam kỷ thì khi trị vì vua Thiệu
Trị có 14 bộ sách và có 16 quyển khi đang ở tiềm để. Sau khi xem xét ở Hiến
Chương hoàng đế thực lục, Chính biên, Đệ nhị kỷ chúng tôi nhận thấy rằng
vua Thiệu Trị còn có thêm một tập nữa đó là Minh Lương hỷ khởi tập. Dựa
vào hai phần trên của Đại Nam thực lục chúng tôi tổng hợp được như sau:
2.1.1.1. Thơ
1 - Thơ ngự chế, tập đầu: Tập thơ được khắc in vào tháng hai năm
1843, tập hợp những bài thơ ngự chế của ông về thể cổ, thể kim, gồm thơ 13
quyển, mục lục 3 quyển, cộng 16 quyển. Đa phần các bài thơ này được sáng
tác từ năm Thiệu Trị thứ hai về trước.
2 - Thơ ngự chế, tập hai: Trong Đại Nam thực lục có đoạn viết:
“Trước kia, ta đi tuần sang phía đông, nơi cương vực ngoài biển, đường đi
qua sông Phổ Lợi, trông thấy dòng nước trong sáng, nhuần thấm các đồng
ruộng màu mỡ, thực là lợi cho dân ta muôn nghìn đời, nhớ lại Hoàng khảo
Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, mưu lược rộng lớn, lo tính sâu xa, phòng thủ
ngoài biển, coi trọng nghề nông, không việc gì là không chu đáo… Ta rất cảm
mộ, có làm một bài thơ để ghi nhớ công việc ấy. Chuẩn cho bộ công khắc vào
đá, dựng bia, để tỏ dấu cũ thần thánh ở chỗ không cùng và để lại cho đời sau
biết (xem tập Nhị, thơ Ngự chế)”[51, tr. 508]. Đến Thiệu Trị năm thứ 3, tháng
năm lại chép: “Nhân đưa ra: một bài thơ “Cười hoa cúc”, một bài thơ “Lễ
đông hưởng”, sáu bài thơ “Ở nơi yên tĩnh” (Xem trong hai tập thơ Ngự chế)
sai thị thần tuyên đọc” [51, tr. 542]. Căn cứ vào những ghi chép đó chúng tôi
tin cho rằng Thơ ngự chế, nhị tập được khắc in trước năm 1843.
32
3 - Thơ ngự chế, tập 3.
4 - Thơ ngự chế, tập 4
Cả hai tập ba, bốn đều được “khắc in xong” [52, tr. 86] vào năm Tự
Đức thứ nhất. Ngoài ra, chúng tôi không tìm thấy thêm tài liệu nào nói về hai
tập thơ này nữa.
5 - Minh Lương hỷ khởi tập: [51, tr. 529] Vào năm 1843, Thiệu Trị
nhân việc ngự điện Văn Minh, bàn về thơ văn của nhà Đường mà tiêu biểu là
Đường Minh Hoàng, Đường Văn Hoàng, ông thấy thơ văn của họ phần lớn
không có ý nghĩa bằng việc thơ văn của ông và các quan thường ngày hoạ vần
với nhau. Vì vậy, ông ra sắc lệnh cho các quan Nội Các tập hợp các bài thơ
ấy, lần lượt cho chép lại, lấy nhan đề sách là Minh Lương Hỷ khởi tập.
6 - Ngự chế Bắc tuần thi pháp tập: Đôi khi còn gọi là Thánh chế Bắc
tuần thi tập hay Bắc tuần thi tập. Tập thơ có 173 bài thơ, được viết từ đầu
năm 1842 đến tháng 4 năm ấy, nhân chuyến ngự giá ra Hà Nội để làm lễ thọ
phong. Tập thơ là cảm xúc của nhà thơ trước những danh lam thắng cảnh
cũng như cuộc sống của người dân ở những nơi mà ông đi qua. Bắc tuần thi
tập được khắc xong vào tháng 5 năm 1844.
7- Ngự đề đồ hội thi tập: Tập thơ được biên tập xong vào tháng Tư,
năm 1844 và được hoàn thành vào tháng năm năm 1845. Lúc đầu có tên là
Tập thơ ngự chế có vẽ đồ hoạ sau khi khắc xong được tác giả đổi thành Ngự
đề đồ hội thi tập. Đây là tập thơ được quan đứng đầu Nội các lúc bấy giờ là
đại thần Phạm Thế Hiển tuyển chọn trong “tập đầu, tập thứ hai, các bài thơ
ngự chế” [51, tr. 606], “những nơi danh thắng cổ tích, thời tiết nhân vật, chia
ra từng loại để biên soạn, đều vẽ đồ phụ vào; rồi lại chiếu bài vịnh trong các
loại, tuỳ loại biên chép, tuân theo bút pháp ngự viết ra” [51, tr. 606]. Đến khi
sách làm xong tổng cộng 14 quyển và 2 quyển mục lục. Theo Thiệu Trị “đồ là
dọc, thư là ngang, một vật một ngang cùng xem nhau thành vẻ đẹp, đồ là
33
động vật, thư là thực vật, một động một thực cùng nhau dựa thành bức tranh.
Đồ rất giản ước, thư rất rộng rãi, tìm ở đồ thì dễ, tìm ở thư thì khó. Đời cổ học
có cốt yếu, để đồ ở bên tả, để thư ở bên hữu. Tìm tượng ở đồ, tìm lý ở thư. Đồ
thư dùng đã lâu đời rồi. Vậy chuẩn y lời tâu xin là Ngự đề đồ hội thi tập” [51,
tr. 607 - 608].
Theo các tác giả cuốn Thần Kinh nhị thập cảnh thì tập thơ này ít nhất
gồm ba phần:
Phần một là, từ quyển một đến quyển tám có tên là “Ngự đề danh thắng
đồ hội thi tập [1, tr. 47], tập hợp những bài thơ miêu tả về phong cảnh trữ
tình, thơ mọng cũng như các thắng tích ở Huế.
Phần hai là, “Ngự đề cổ tích đồ hội thi tập, từ quyền chín đến quyển
10” [1, tr. 47], tuyển tập những bài thơ đề về các chuyện cổ tích thời các vua
cổ Trung Quốc như Nghiêu, Thuấn, Hạ, Vũ, Hán, Đường.
Phần ba là, “Ngự đề nhân vật đồ hội thi tập, từ quyển 13 đến quyển 14,
gồm những bài thơ vịnh về tứ dân (ngư, tiều, canh, độc); các loài hoa cỏ, cây
cối, các giống thú vật” [1, tr. 47].
8 - Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập [51, tr. 980], gồm hơn 157
bài với hơn 70 thể. Đây là tập thơ được biên tập và hoàn thành trong năm cuối
đời của nhà thơ Thiệu Trị. Trong khi giảng giải về thi pháp thơ ca cho quần
thần, Thiệu Trị đã yêu cầu các quan xét rõ ngay trong tập thơ ngự chế, những
bài nào được sáng tác theo thể cách các đời xưa và nay, tập hợp lại theo thứ tự
trước sau rồi khắc in. Cuốn sách được làm ra nhằm mục đích giúp cho các sĩ
phu, các quan lại yêu văn chương hiểu hơn được về các thể cách từ cổ đến
kim. Vì vậy, đây là cuốn sách không chỉ cho người đọc thấy được sự hiểu biết
của Thiệu Trị đối với thi pháp mà còn thấy được tài năng của ông trong việc
vận dụng các thi pháp để sáng tác một cách linh hoạt, sáng tạo. Ngự chế cổ
34
kim thể cách thi pháp tập đôi khi còn được gọi là Ngự chế hay là Cổ kim thể
cách thi pháp.
9 - Tài thành phụ tướng tiên thiên hậu thiên [51, tr. 1067]: Nhân việc
“có người làm các bài thơ để xem bói rút thẻ, thường ở trước chỗ thờ thần,
xốc ống thẻ, thấy đầu thẻ thò lên thì rút ra. Vua trông thấy, mĩm cười rằng:
“Bói toán có thần là vì không nghĩ ngợi gì, không làm gì. Xốc ống thẻ mà thẻ
vọt ra, là có sức người ở đó rồi. Đã có sức người thì không thiêng liêng, làm
sao cho thông suốt những cơ vi màu nhiệm được?”. Bèn chế ra hai quả thiên
cầu, chữ đỏ, chữ trắng đều một quả, trên quả cầu khắc 10 can và 5 thường
(tức ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) và năm phương, cộng hai mươi chữ,
để yên trong cái hộp. Nhân chuyện này mà ngoài giờ coi việc, đêm ngự điện
Đông Các, ông cố gắng lần lượt làm các bài thơ về Kinh Dịch. Sai quan ở Nội
các là bọn Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải viết ra, được 200 bài thơ, chia
làm hai quyển, gọi là Tiên thiên, Hậu thiên, đều 100 chương, định làm phép
xem bói toán “có việc thì đặt hương án, bưng cái hộp để quả thiên cầu, mật
đảo ba lần, rồi mở hộp ra xem, những chữ đỏ, chữ trắng ứng thế nào, thì lấy
cái chỗ thuộc vào thiên nào chương nào mà xem; suy can chi làm quẻ biến đi,
lại thành 400 quẻ để mà châm chước” [51, tr. 1067]. Vua bảo các quan Nội
các rằng: “Ta làm các bài thơ này, xuất ư tự nhiên, chưa từng có tìm ý tứ, các
ngươi đã thân thấy đó. Nếu tất phải cầu kỳ một câu khéo, một chữ lạ, thì đều
do người làm ra, không gọi là thần được. Người xem bói nếu có sẵn lòng
thành để cầu, có thành thì có thần, muôn lần cầu thì muôn lần ứng, đừng cho
là thơ nói phiếm, chỉ sợ đoán không rõ mà thôi. Sách chép thơ ấy làm xong,
nhan đề là: “Ngự chế Tài thành Phụ tướng, Tiên thiên, Hậu thiên thi tập” [51,
tr. 1051]. Đến tháng 9 năm 1847, sai thuộc viên Nội các, mang ngự chế tập
Vũ công, cùng tập Cổ kim thể cách thi pháp và tập thơ Tài thành phụ tướng
tiên thiên và hậu thiên giao cho hai tỉnh Nam Định, Sơn Tây đem khắc bản in:
35
ở Nam Định thì do Đặng Văn Thiêm đốc công việc, ở Sơn Tây thì do Nguyễn
Đăng Giai đốc công việc”. Nhưng chưa xong thì nhà vua mất, đến Tự Đức
năm thứ nhất thì khắc xong. Tập thơ này có khi còn chép là Phụ tướng tài
thành tiên thiên hậu thiên.
10 - Hoàng huấn [51, tr. 1066]: Vua thường nhân lúc rỗi việc, phỏng
theo cổ thể Kinh Thi, làm ra thơ đặt tên là Hoàng huấn cửu thiên. Tuyển tập
có 9 thiên là Cao minh, Bác hậu, Sủng tuy, Trung lương, Từ ái, Hiếu đễ, Tạo
đoan, Hữu vu, Chỉ tín, sai đường quan và thuộc viên Nội các là là bọn
Nguyễn Bá Nghi, Tôn Thất Hợp, Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải, Mai
Anh Tuấn, Nguyễn Văn Siêu và Thân Văn Nhiếp chủ giải biên tập. Ý nghĩa
của tập thơ theo tác giả là “trời cao, đất dày, che chở mọi sinh vật; tam cương
ngũ thường, giữ tính thường muốn đức. Chín thiên này làm ra, ta sẽ ban cho
các giảng đường để tu tiến thêm. Các ngươi nên theo phép chú giảng kinh, lần
lượt giảng giải từng chữ; từng câu, cốt để phát minh chỗ quy thú, mà không
mất bản chỉ, để hợp với ý ta” [51, tr. 1066]. Đến khi Hoàng huấn được làm
xong, nhà vua yêu cầu ban cho các giảng đường để cho các nho sĩ làm tài liệu
tu tiến thêm. Đây là tập thơ mang tính giáo huấn, ảnh hưởng từ tư tưởng của
Nho giáo.
2.1.1.2. Văn
11 - Văn vua làm, tập đầu:
12 - Văn vua làm, tập 2:
Trong Đại Nam thực lục, phần Hiến Chương hoàng đế thực lục, Chính
biên, Đệ nhị kỷ, tháng 6 năm 1846 viết “Tập đầu văn vua làm đã khắc xong.
Thưởng cho những người làm việc [khắc in sách] 500 quan tiền” [51, tr. 864].
Trong khi đó ở phần Đệ tam kỷ về vua Tự Đức lại chép “các tập thi văn ngự
chế đã khắc xong (văn hai tập, thơ tập thứ 3, thứ 4, hai tập, Hoàng huấn 9
thiên, thơ Vũ công, thơ vịnh đế vương các đời, thể cách và phép làm thơ đời
36
xưa đời nay, thơ tài thành phụ tướng) [52, tr. 86]. Ngoài ra, trong Đại Nam
thực lục không có thêm bất cứ ghi chép nào nữa về hai tập văn này. Hiện
chúng tôi chưa rõ thực hư thế nào, xin chép lại cả hai để người sau dễ tra cứu.
2.1.1.3. Văn và thơ chung tuyển tập
13 - Chỉ thiện đường thi văn hội tập: Đôi khi còn được chép là Thi văn
hội tập, Chỉ thiện tập, Chỉ thiện đường. Đây là tập thơ vua làm khi còn ở cung
riêng chưa lên ngôi. Hiện nay chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào nói về thời
gian in ấn, xuất bản tới tập thơ này chỉ biết rằng sau khi lên ngôi nhà thơ đã
cho kiểm tra và xem xét lại. Đến tháng năm, năm 1845 Viện cơ mật, toà Nội
các đã dâng tập thơ sau khi được kiểm tra cho vua xem. Các sử quan triều
Nguyễn cho rằng đây “là tập thơ nhà vua làm khi còn ở cung riêng chưa lên
ngôi” [51, tr. 276], gồm “16 quyển” [52, tr. 101]. Theo nhóm tác giả Thần
kinh nhị thập cảnh thì “trong tập này có cả văn xuôi của vua nữa cho nên mới
đặt là Thi văn hội tập”[51, tr. 37].
14 - Ngự chế vũ công thi tập [51, tr. 1064]. Đôi khi gọi là Vũ công.
Tuyển tập được các quan ở viện Cơ mật và toà Nội các biên tập xong vào
tháng tám năm 1847. Sau khi các quan biên tập xong, nhà vua bắt đầu cho
khắc in vào tháng chín năm 1847 và khắc xong vào năm Tự Đức thứ nhất.
Ngự chế vũ công thi tập là tập hợp các bài thơ ngự chế, từ năm 1841 đến giữa
năm 1847, gồm: 129 bài thơ, có nội dung liên quan đến phương lược bình
định Xiêm La, Chân Lạp và 12 bài thơ nói về phương lược dẹp bình giặc núi,
giặc biển và giặc thổ, được biên tập thành 1 quyển. Ngoài ra tuyển tập còn có
12 chương về các bài minh, được biên ra thành 7 quyển. Cộng với hai quyển
mục lục, tất cả tuyển tập có tổng cộng là 10 quyển, lấy nhan đề là Ngự chế vũ
công thi tập.
37
2.1.1.4. Các thể loại khác
15 - Thiệu Trị văn quy: Sách do Trần Xuân Thực, Vũ Duy Quang biên
tập. Vào năm Thiệu Trị thứ năm (1845), cuộc sống trong kinh ngoài trấn yên
ổn, văn phong rất thịnh, con em các nhà không ai là không đi học, tiếng đàn
tiếng hát khắp cả thôn quê, vì vậy nhà vua đã quan tâm đến tài học của con
em. Ngày thường, nhà vua thường đọc sách các sách về văn quy “từ Vận tập
nhà Nguỵ, Ngọc thiên tứ thanh phả nhà Lương, Vận toản quế uyển châu tùng,
Thiết vận, Vận anh nhà Tuỳ, Vận hải kinh nguyên, Vận phả bác nhã nhà
Đường, Quảng vận, Vận loại thiên nhà Tống, Cổ kim vận lược, Vận phủ quần
ngọc nhà Nguyên, Chính vận, Ngũ xa vận thuỵ nhà Minh, nối nhau ra đời đến
“Bội văn vận phủ nhà Thanh” [51, tr. 882]. Nhưng đến khi xét trong Tự điển
thì các bộ sách phần nhiều còn thiếu sót. Nhân lúc, nước nhà nhàn rỗi, phong
nhã rất thịnh, phong trào học của văn sĩ phát triển rất thịnh, ông liền sai quan
khảo cứu so sánh Vận thư các đời, tham khảo Tự điển,tìm những chỗ sai lầm, thiếu sót trong Bội văn vận phủ1, chưa rõ trên giấy, thì sửa lại chỗ lầm, bổ
sung thêm những chữ thiếu, để cho từng nghĩa, từng âm, từng vần rõ ràng và
đặt tên là “Thiệu Trị văn quy tự vận hội tập” [51, tr. 704 - 706].
Đến tháng Ba năm 1845, sau khi thúc giục quan Nội các biên tập Thiệu
Trị văn quy tự vận hội tập, nhưng vì đây là cuốn sách rất lớn đòi hỏi phải
công phu khảo cứu, hiệu đính nên phải đến năm Tự Đức thứ nhất mới được
hoàn thành. Cuốn sách lúc đầu có tên là Thiệu Trị văn quy tự vận hội tập về
sau theo Thiệu Trị Văn quy đã mang ý nghĩa bao quát cả về chữ và vần, nên
bỏ đi bốn chữ tự vận hội tập, cuối cùng “cuốn sách có tên là Thiệu Trị văn
quy” [51, tr. 730].
16 - Ngự chế lịch đại tổng luận [51, tr. 957]. In xong vào tháng bảy
năm 1847. Nhà vua nhân lúc rỗi rãi việc, mở sách ra đọc và tìm tòi về những 1 Bội văn vận phủ đôi khi còn gọi là Vận phủ, Khang Hy vận phủ là bộ sách về thi pháp lớn nhất ở Trung Quốc kể từ đời nhà Thanh trở về trước. Cuốn sách “tổng cộng 106 quyển, 18.000 tờ” [47, tr. 1050].
38
trị đạo của các đời, chợt nhớ lại những sử sách ông được học trong khi chưa
lên ngôi, liền trích lấy những đại cương, viết thành các bài luận, nhan sách đề
là Ngự chế lịch đại tổng luận. Có nơi chép là Lịch đại tổng luận. Sách in xong
nhà vua yêu cầu phát cho các trường học và các hoàng thân, hoàng tử, hoàng
tôn [51, tr.216]. Sách do Thiệu Trị biên soạn, Nguyễn Bá Nghi, Vũ Phạm
Khải biên tập từ năm Thiệu Trị năm thứ 6 (1846).
Ngoài ra, Thiệu Trị còn làm về câu đối, và một số thể loại khác nhưng
ở trong Đại Nam thực lục chỉ chép tản mạn, như: Khi sai hoàng tử Hồng Hưu
làm lễ tế Huyền Thiên Chân Vũ đế quân ở Lầu Tĩnh Bắc. Sai Nhất đẳng thị vệ
Hồ Văn Thập làm lễ tế Trấn Bắc Chân Vũ đế quân, tặng thêm một chiếc áo
La Hán bằng vóc vàng. Lại thêu một đôi câu đối để tặng. (Câu đối rằng:
“Trường trị cửu an phù quốc thái; Giáng Tường tích khánh hựu dân khang”
nghĩa là: Giúp vận cho nước được trị dân lâu dài; giáng phúc cho dân được tốt
lành, yên ổn”). Hay, khi đang làm chính sự ở Thâm Đài, Thánh tổ lúc bấy giờ
đi cùng với Trương Đăng Quế, ra câu đối “Long vi vạn vật chi linh, biến hoá
phi đằng mạc trắc” (Rồng thiêng hơn vạn vật, biến hoá bay nhảy khôn lường).
Ngay lập tức, Công đối lại rằng: “Thiên nãi nhất nguyên chi khí, khôi hiệu
phú đảo vô ngân” (Trời là khí nhất nguyên, rộng lớn che trùm khắp cả).
Thánh tổ cho là lạ, quý trọng lắm. [65, tr. 358]. Vì thế, mà ngay từ khi còn trẻ
Minh Mệnh đã yên tâm và tin tưởng về người kế vị đầy đủ tài năng và phẩm
chất này. Rồi nhân lúc rỗi việc nhà thơ ra câu đối là: “Thuỵ ứng giai niên,
trùng ngũ nhật tăng trùng ngũ nguyệt; Tường trưng thọ đản, bát thiên xuân
hựu bát thiên thu (Điềm ứng năm tốt, hai lần mồng năm thêm hai lần tháng
năm; Trưng triệu sống lâu, tám nghìn mùa xuân lại tám nghìn mùa thu). Lại
có câu rằng: Kết thái trương đăng, phi tại nhất nhân chi dật lạc, Hành khánh
thi huệ, phổ chiêm vạn khánh chi thừa hưu (Kết hoa treo đèn, không phải là
một người hưởng thú; Mở tiệc ban phúc, khắp cả muôn họ nhờ ơn)” [51, tr.
39
832]. Ngoài ra, trong Đại Nam thực lục chép rất nhiều bài văn, dụ của Thiệu
Trị không chỉ có ý nghĩa về giáo lý mà còn là những luận bàn của ông về văn
học Đông Tây kim cổ.
Như vậy, căn cứ vào hệ thống tác phẩm của Thiệu Trị mà chúng tôi
thống kê được ở Đại Nam thực lục như đã viết ở trên thì Thiệu Trị có tất cả
16 quyển (bao gồm cả thơ, văn, sử và sách nghiên cứu). Còn các thể loại
khác, hiện chúng tôi không tìm thấy được ghi chép ở tài liệu nào, hi vọng
trong tương lại sẽ tập hợp được trọn vẹn về sáng tác của ông.
2.1.2. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu
2.1.2.1. Thơ
1- Thiệu Trị ngự chế thi tập [36, tr. 247]: Đôi khi chép là Ngự chế thi
tập. Theo ghi nhận của thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm thì tập thơ này có
đến 3.032 bài thơ, gồm thơ của vua Thiệu Trị và quần thần, nội dung là tức
sự, cảm hoài, ngâm vịnh các danh thắng, các nhân vật lịch sử, thời tiết, mùa
màng…
2 - Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập [35, tr. 454]: Tập sách gồm
hai phần:
Phần thứ nhất gồm 157 bài thơ của vua Thiệu Trị, làm theo cách đọc
xuôi, đọc ngược, đọc ngang, đọc vòng quanh.
Phần thứ hai gồm 218 bài thơ Đường của các quan chánh phó sứ đi
Trung Quốc…
3 - Ngự chế tài thành phụ tướng tiên thiên hậu thiên thi tập [35,
457]: Tập thơ của vua Thiệu Trị, dựa vào thuyết “Ngũ phương” và Kinh Dịch,
dịch ra các quẻ và đặt thành lời thơ để bói việc lành, việc dữ. Thơ khuyên
người đời làm điều thiện, ăn ở phúc đức.
4 - Hoàng huấn cửu thiên [34, tr. 825 - 826]: Tập thơ này được chia ra
làm 9 thiên, mỗi thiên có 3 chương. Trong đó nhà vua nhắc nhở quan lại và
40
nhân dân về đạo trời đất, vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn,
khuyên nhủ mọi người trau dồi đạo đức và hành động cho hợp với đạo
trời và lòng người.
2.1.2.2. Văn
5 - Thiệu Trị ngự chế văn tập [36, tr. 248]: Gồm 200 bài chiếu, chế,
dụ, biểu, châm, ký, minh, tựa, bạt, bi ký, câu đối của nhà vua; nội dung đề cập
đến việc tấn phong chức tước, xây dựng lăng tẩm, tu bổ đê điều, sửa chữa cầu
cống, khuyên răn dân chúng chăm chỉ làm ruộng, giữ gìn thuần phong mĩ tục,
việc thi cử tuyển chọn người tài.
6 - Ngự chế lịch đại sử tổng luận: [35, tr. 455]: Sách dày 288 trang, do
vua Thiệu Trị biên soạn; nội dung bàn về các sự kiện lịch sử, các triều đại, các
nhân vật của Trung Quốc từ đời Bàn Cổ đến đời Thanh.
2.1.2.3. Thể loại khác
7 - Thiệu Trị chiếu dụ [36, tr. 247]: Là bản viết tay dày 240 trang, nội
dung bao gồm các tờ chiếu, dụ, biểu của vua Thiệu Trị và quần thần: Dụ cho
in bộ Đại Nam sự lệ hội điển. Chỉ dụ cứu chuẩn cho dân Quảng Bình, Quảng
Trị bị bệnh dịch; Chiếu ban ơn trong dịp tôn Hoàng thái hậu, tặng thụy hiệu
cho tiên tổ vào dịp vua 40 tuổi; Biểu của quần thần mừng Thiệu Trị; Tựa, bạt
viết cho các thi tập, văn tập của vua Minh Mệnh và Thiệu Trị; 25 bài hát chầu
trong các nghi tiết: Đại triều, Hội đầu xuân…
8 - Thiệu Trị thuế lệ [36, tr. 248]: Bản viết tay, 89 trang, bao gồm thể
lệ thu thuế ban hành năm 1843, các ngạch thuế đinh, thuế điền thổ, thuế khai
mỏ, thuế nông lâm sản, thuế bến sông, chợ búa, quan ải, thuyền bè; những
quy định về các đơn vị đo lường và các ngạch lương quan lại.
9 - Thiệu Trị Tự Đức công văn [36, tr. 249]: Bản viết tay, 408 trang,
gồm 54 bản công văn do các Bộ và các tỉnh gửi lên vua Thiệu Trị và vua Tự Đức.
41
10 - Thiệu Trị Tự Đức chiếu dụ [36, tr. 249]: Bản viết tay, 158 trang,
gồm bài di chiếu của vua Thiệu Trị và 46 bài chiếu dụ của vua Tự Đức.
Truyền ngôi, mừng thọ, khuyến mãi thần dân khuyến nông, mở khoa thi, soạn
các bài tuyển tập thơ văn, cầu hiền, tổ chức quân đội, đắp đê phong lụt, trừ
dẹp phiến loạn.
Theo thống kê ở trên, chúng tôi thấy danh mục về các tuyển tập của
Thiệu Trị ở Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu có một số điểm sau:
Thứ nhất, về thơ hiện còn có ở thư viện là bốn tập thơ, gồm: Thiệu Trị ngự
chế thi tập, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, Ngự chế tài thành phụ
tướng tiên thiên hậu thiên thi tập, Hoàng huấn cửu thiên. Chúng tôi cho rằng
Thiệu Trị ngự chế thi tập là tổng hợp của Thơ ngự chế tập một, hai, ba, bốn
của Thiệu Trị. Còn những tập khác không thấy được thống kê ở đây, không
hiểu hiện nay còn hay mất. Về văn có Thiệu Trị ngự chế văn tập và Ngự chế
lịch đại sử tổng luận ngoài ra còn có Thiệu Trị chiếu dụ, Thiệu Trị thuế lệ,
Thiệu Trị Tự Đức công văn, Thiệu Trị Tự Đức chiếu dụ. Về nghiên cứu thi
pháp như Thiệu Trị văn quy hiện không tìm thấy trong Thư mục đề yếu.
Với những thống kê trên, chúng tôi thấy rằng Thiệu Trị là một tác giả
lớn. Số lượng tác phẩm ông để lại có ý nghĩa lớn đối với sự nghiệp văn
chương nước nhà.
2.2. Nội dung chính trong văn chƣơng của Thiệu Trị
Là một vị vua, lớn lên trong nền giáo dục theo tư tưởng Nho gia, được
hấp thu tinh hoa đạo lý Khổng Mạnh, lại được vua cha Minh Mệnh dạy dỗ,
rèn luyện tư chất, chăm lo chính sự, thương yêu nhân dân nên việc làm văn
chương đối với ông như là một món ăn tinh thần để “nói rõ chí hướng, cốt đào
luyện tính tình cho người ta” [51, tr. 285], rèn giũa nhân cách của mình, “khi
nào nhàn thì nhân sự vật mà ngâm thơ để ngụ ý mình” [51, tr. 285] vốn không
có ý tìm tòi, làm cho đẹp đẽ để cùng với bọn nghệ sĩ, văn nhân đua hơn, so
42
kém, vì vậy “thơ văn làm ra đều là những bài chăm chính sự, yêu nhân dân,
xét lúc tạnh, tính lúc mưa, hoặc ra xúc cảnh nên thơ, làm ra những lời ngâm
vịnh như câu phong mộc bài Lục nga ngụ tức lòng mơ tưởng ở trong canh,
trên tường”. “Kính thiên, pháp thổ, cần chính, ái dân” (Kính trời, bắt chước
ông cha, chăm lo chính sự, thương yêu dân) [51, tr. 769] là bốn điều mà ông
khắc cốt ghi tâm, “ngày đêm chăm chỉ, sớm chiều lo sợ cũng chỉ là bốn việc
ấy” [51, tr. 769]. Cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng với tâm niệm làm việc hết
mình đó đã giúp cho Thiệu Trị có được một sự nghiệp văn chương đồ sộ với
nội dung phong phú không thua kém gì thậm chí có phần hơn đối với các thi
nhân mặc khách đương thời.
2.2.1. Văn chương tỏ lòng
2.2.1.1. Nỗi lòng với nước với dân
Vua Thiệu Trị là một ông vua thương yêu dân chúng, có nhiều đức độ,
đối xử với dân như con, chăm lo cuộc sống của dân, đặc biệt có nhiều chính
sách giảm sưu cao thuế nặng, tha cho các tù nhân, bảo vệ những người bị án
oan… Với ông “dân là gốc nước, ăn là việc sinh sống của dân”, “từ khi lên
ngôi đến nay, đi xem phong tục, xét tình trạng hằng năm, hoặc cho giảm thuế,
hoặc tha cho những chỗ thiếu, thường để tâm vào việc dân” [51, tr. 996].
Không chỉ biểu hiện bằng lời nói, hành động mà tấm lòng này còn được ông
dồn nén vào trong thơ. Vì thế thơ ông thể hiện theo cảm xúc, đời sống của
người dân. Thấy bão lụt ở Nghệ An, dân buồn, vua cũng ăn, ngủ không yên;
thấy Kinh sư “có bão to, mưa dữ”, vua “bí mật cầu đảo, mong được yên tĩnh.
Tối đến gió im, mưa tạnh, bụng nghĩ mừng thầm”, “Nhân ngồi trầm tư, làm
thành mấy bài thơ” [51, tr. 401].
Thấy Hạt Thừa Thiên được mùa to, nhà vua vui mừng cho đó là “do
trời giáng phúc, và nhờ trị công cùng ơn trạch của Hoàng khảo ta để lại. Nên
mới được thế. Ta thành kính cảm tạ, không xiết yên ủi, vui mừng, nên cùng
43
dân ta cùng vui, hợp với bài thơ vịnh “Năm được mùa, có hàng nghìn kho,
hàng vạn đụn”, “mong cho năm nào cũng được mùa, nhà nào cũng no ấm,
cùng hưởng cảnh vui thái bình” [51, tr. 645]. Một năm khác, thấy Kinh Thành
tỉnh Thừa Thiên được mưa. Vua phê bảo rằng: “Giá gạo vừa phải, ân trạch
thấm nhuần, rất yên lòng ta”. Nhân hỏi kinh doãn Đinh Doãn Trung rằng:
“Hôm qua được mưa ngọt xuống, nhân dân trong kinh kỳ có vui vẻ khỏe
không?” Đinh Doãn Trung thưa rằng: “Lúa rộng nảy bông tuy đã quá kỳ rồi,
nhưng khoai đậu phần nhiều được lợi. Người già người trẻ trong kinh kỳ,
không ai là không vui vẻ yên lòng”. Vua bèn sai đại thần Viện cơ mật tuyên
đọc 30 bài thơ ngự chế sau khi mưa” [51, tr. 578 – 579]. Khi quan quân đánh
dẹp phương Tây thắng trận trở về, nhân gặp lúc các tỉnh Bắc Kỳ tâu lên báo
lúa chiêm thu hoạch được nhiều. Niềm vui nối tiếp niềm vui, đã gợi hứng cho
nhà vua làm 10 bài thơ để ký sự:
1.Phú đắc1: “Ngọc tỷ thập thành trưng cát thuỵ, dao đồ vạn thế ứng
gia tường”. Nghĩa là: Ấn ngọc mười thành báo cho điềm tốt, dao đồ muôn đời
ứng với điềm lành.
2. Phú đắc: “Thiên hoà thời nhược phồn vinh toại”. Nghĩa là: Thời
trời hoà thuận, phồn vinh thoả mãn.
3. Phú đắc: “Địa lợi niên phong phú thứ chương”. Nghĩa là: Lợi đất
được mùa, rõ là giàu và nhiều người.
4. Phú đắc: “Hà thuận hương thôn hân án đổ”. Nghĩa là: “Nước sông
thuận dòng, chốn hương thôn được yên ổn”.
5. Phú đắc: “Hải điềm chu tiếp lạc thương dương”. Nghĩa là: “Biển
1 Phú đắc: một lối thơ Hán văn. Bắt đầu bằng 2 chữ “Phú đắc”, rồi lấy câu thơ có sẵn hoặc tự đặt để làm đầu đề bài thơ mới ra.
yên, thuyền bè được vui vẻ nhởn nhơ.
44
6. Phú đắc: “Lâm tài khảo tích xâm hiền phụ”. Nghĩa là: Kén chọn
nhân tài và xét công quan chức thì nhiều người hiền phụ.
7. Phú đắc: “Cảm hoá lại tân phủ Lạp Khương”. Nghĩa là: Cảm hoá
lại chầu, vỗ yên được Mên Lạp.
8. Phú đắc: “Bảo định võ công thanh viễn duệ”. Nghĩa là: Bảo định võ
công quét sạch được phương xa.
9. Phú đắc: “Chấn hưng văn trị ngự quân phương”. Nghĩa là: Chấn
hưng văn trị, chế ngự được muôn phương.
10. Phú đắc: “Dân khang hộ tịch tăng phồn thịnh; quốc thái bang cơ
vĩnh cửu tường”. Nghĩa là: Dân yên, hộ khẩu thêm phồn thịnh, nước trị cơ
nghiệp được lâu dài [51, tr.1030].
Tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc đã là nguồn mạch sâu thẳm giúp
cho ông có động lực để sáng tạo văn chương. Tình yêu đó còn thể hiện ở việc
nhà thơ cho chép, biên tập, khảo đính và in ấn các bộ sách sử quý báu để với
hi vọng truyền lại cho con cháu để lấy đó mà học tập. Chính tình yêu dành
cho đất nước đó đã giúp ông có những vần thơ tuyệt vời đối với thiên nhiên,
cảnh vật…
2.2.1.2. Tình yêu thiên nhiên
Thiệu Trị là một người sống khá tình cảm, đặc biệt mỗi khi có cảm xúc
trong lòng ông đều bộc lộ vào thơ. Vì thế mỗi nơi ông đi qua đều để lại niềm
cảm kích đó, như việc đi qua Quảng Trị ông có bài Sông Vĩnh Định, Sông Ái
Tử; đi qua Quảng Bình có Định Bắc trường thành, Cầu Lý Hoà, Hai núi
Khiêu Thạch, Sông Linh Giang, Cửa Hoành Sơn, đi qua Hà Tĩnh có Núi Hồng
Lĩnh, ở Nghệ An có bài Thiết Cảng, ở Thanh Hoá Sông Ngọc Giáp, hay là Núi
Hộ Thành, Núi Tam Điệp ở Ninh Bình, gồm 18 bài thơ Ngự chế, đều sai địa
phương sở tại khắc thơ vào đá, dựng bia ở bên đường. Trong số đó có bài thơ
Thiết cảng khắc in trên một tấm bia đá đã được phát hiện ở Nghệ An, hiện
45
còn nguyên vẹn. Bài thơ được nhiều học giả Hán Nôm dịch sang chữ Quốc
ngữ. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bản dịch của dịch giả Bùi Văn Chất,
đăng trên tạp chí Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ Nghệ An, số tám năm
2011 như sau:
Phiên âm:
Thiết Cảng
Oanh hồi tiểu giản vạn phong trung
Văn đáo tiền nhân tạ hoá công
Thiết huyệt sơn yêu lưu lạn thạch
Thiên uy cảng khẩu thiển lưu thông
Huyền vi mạc trang thần cơ dị
Bình thản vưu trưng thế đạo long
Lũng thục hào hàm vô nhị thử
Ban sừ triệu sở diệu hà cùng
Tạm dịch thơ:
Ôm muôn ngọn núi chảy vòng quanh
Nghe nói vừa công tạo hoá thành
Mỏ Sắt đá tan lưu vách núi
Uy trời lối mở tạm thông kênh
Huyền vi khó giải thần cơ lạ
Bình thản càng tin thế đạo hanh
Lũng Thục núi non đâu sánh nổi
Mà san dọn phẳng, rõ là kinh.
Ngoài ra ông cũng dành nhiều cảm xúc của mình viết về phong cảnh ở
Hà Nội như Lầu Tĩnh Bắc, Quán Chân Vũ, cả hai bài thơ đều khắc vào Hoành
biển treo lên trên cửa. Những bài thơ này đều được in ở tập Thánh chế Bắc
tuần thi tập.
46
Trong bảy năm trị vì, Thiệu Trị chủ yếu sống quanh quẩn ở Huế.
Đối với ông tình yêu dành cho Huế rất sâu đậm, những lúc rảnh rỗi ông
thường đi du ngoạn các thắng tích ở chốn Thần Kinh, mỗi lần đi du ngoạn
đều có thơ để lại.
Mùa hạ tháng 4 năm 1844, nhân đi chơi ở vườn Cơ Hạ, cảm hứng
trước vẻ đẹp của phong cảnh nơi đây ông đã ngự chế các bài thơ vịnh 14
cảnh, như 1. Điện khai văn yến (Trên điện mở yến tiệc để bàn văn); 2. Lâu
thưởng Bồng Châu (Trên lầu thưởng cảnh Bồng Châu); 3. Các minh tứ chiếu
(Gác sáng cả bốn mặt); 4. Lang tập quần phương (Hành lang tập hợp các
hoa); 5. Hiên sinh thi tứ (Hiên nảy tứ thơ); 6. Trai tả thư hoài (Nhà thanh tĩnh
giải tỏ lòng); 7. Trì lưu liên phưởng (Hồ thả thuyền sen); 8. Sơn tủy tùng đình
(Đình cây tùng đứng sừng trên núi); 9. Nghê kiều tễ nguyệt (Trăng sáng cầu
vòng); 10. Thủy tạ quang phong (Nhà thủy tạ có gió mát); 11. Vũ Giang thắng
tích (Cảnh đẹp ở Vũ Giang); 12. Tiên động phương tung (Dấu thơm động
tung); 13. Hồ tân liễu lãng (Sóng liễu bên hồ); 14. Đảo thụ oanh thanh (Tiếng
oanh trong cây trên đảo)”. Hay nhân chuyến đi chơi ở vườn Thường Mậu vào
tháng 5 năm 1843 vua cũng ngự chế 10 bài vịnh cảnh [47, tr. 502 – 503] ở
đây (gồm 1. Cao lâu thắng thưởng (Các thú vui ở lầu cao); 2. Quảng hạ đàm
văn (Bàn văn chương ở nơi nhà rộng); 3. Hiên lan hoa lộ (Nước động bao lơn
trắng như hoa); 4. Trai dũ tịch hà (Ráng chiều chiếu cửa sổ phòng trai); 5.
Sơn đình mai vũ (mưa về tháng đầu mùa hạ xuống cái đình ở núi); 6.Thủy các
hà phong (gió thoảng hương sen vào cái chòi ở nước); 7. Thanh trì hương
luyện (hoa xoan thơm ở trong ao); 8. Lương tạ tình ba (trời lạnh sóng êm
quanh nhà hóng mát); 9. Song kiều giá nguyệt (trăng gác trên hai cái cầu); 10.
Tam phong sáp vân (ba ngọn núi xem những đám mây)) sau đó sai các quan
ứng chế. Bên cạnh đó ông cũng có 12 bài thơ ngự chế ở cung Bảo Định (như
1. Cung khai phiên ý (Trong cung mở tiệc phi yến); 2. Điện hội từ thần
47
(Trong điện hội họp các văn thần); 3. Các thưởng hồ sơn (Trên các thưởng
cảnh non nước); 4. Tạ lâm thiên thủy (Đứng ở chòi, trông thấy trời, nước); 5.
Hiên đàm kinh sử (Ngồi trong hiên bàm kinh sử); 6. Lang nạp yên hà (Khói
và ráng lọt vào hành lang); 7. Nam y cung khuyết (Phía Nam tựa vào cung
khuyết); 8. Bắc tiếp viên trì (Phía Bắc gần với vườn, hồ); 9. Đông quan vạn
tỉnh (Phía Đông xem muôn cái giếng); 10. Tây lãm thiên phong (Phía Tây vơ
lấy nghìn ngọn núi); 11. Hãm tĩnh khán hoa (Đứng ở bao lơn yên tĩnh để xem
hoa); 12. Song thanh tọa nguyệt (Ngồi cửa sổ thưởng trăng trong);” [51, tr.
997]. Nhân việc ngự chơi cửa biển Thuận An, lên lầu Lưỡng Kiêm, xem
duyệt thuỷ trận, xa giá về ngay hôm ấy. Đến ngày hôm sau, vua cho ra đời 8
bài thơ 8 cảnh ở cửa biển Thuận An, cho các bề tôi xem (1. Viên thành trấn
hải (Bức thành tròn trấn ngoài biển); 2. Kiều các quan lan (Trên gác cao xem
sóng nước); 3. Cao lâu lưỡng đắc (Lầu cao thưởng ngoạn cả nước và trăng);
4. Hành điện song thanh (Hai bên hành điện trong mát); 5. Cáp châu biển tấn
(Bãi nước có giống sò tỏ ra là cửa biển); 6. Giải chử nhàn dân (Dân nhàn rỗi
ra bến nước bắt cua); 7. Sa cương bảo chướng (Cồn cát như cái đồn chắn
ngang); 8. Da thụ thanh âm (Những cây dừa xanh um)…
Hiện nay, 20 bài thơ1 trong số những bài thơ trên đã được nhóm tác giả
Phan Thuận An tuyển chọn và biên soạn cuốn sách Thần Kinh nhị thập cảnh,
nói về 20 cảnh đẹp ở Huế.
Phần lớn các bài thơ viết về thiên nhiên, cảnh vật tập hợp ở Thánh chế
1 20 bài thơ là: 1. “Trùng Minh Viễn Chiếu”; 2. “Vĩnh Thiệu Phương Văn”; 3. “Tịnh Hồ Hạ Hứng”; 4. “Thư Uyển Xuân Quang”; 5. “Ngự Viên Đắc Nguyệt”; 6. “Cao Các Sinh Lương”; 7. “Trường Ninh Thuỳ Điếu”; 8. “Thường Mậu Quan Canh”; 9. “Vân Sơn Thắng tích”; 10. “Thuận Hải Quy Phàm”; 11. “Hương Giang Hiểu Phiếm”; 12. “Bình Lãng Đăng Cao”. 13. “Linh Quán Khánh Vận”; 14. “Thiên Mụ Chung Thanh”; 15. “Trạch Nguyên Tao Lộc”; 16. “Hải Nhi Quan Ngư”; 17. “Giác Hoàng Phạm Ngữ”; 18. “Huỳnh Tự Thư Thanh”; 19. “Đông Lâm Dực Điểu”; 20. “Tây Lãnh Thang Hoằng”.
Bắc tuần thi tập, Thiệu Trị ngự chế thi và Ngự chế đồ hội thi tập. Vượt lên
48
trên nhiều nhà thơ viết về thiên nhiên phong cảnh khác, ông đã để lại hàng
trăm bài thơ tức sự và vịnh cảnh ở những nơi ông đặt chân đến. Tình yêu
thiên nhiên của ông không chỉ hiện diện trong các bài thơ mà còn khắc ghi
mãi trên các tấm bia và trong tâm trí của những người đã có dịp chiêm
ngưỡng về vẻ đẹp thiên nhiên qua những vần thơ của ông.
2.2.1.3. Tình cảm đối với người thân và quần thần
Từ nhỏ mặc dù Thiệu Trị không có mẹ dạy dỗ như bao anh em khác,
nhưng bù lại ông nhận được tình yêu và sự chỉ bảo nghiêm khắc của vua cha.
Vì vậy bao nhiều tình hiếu tử ông dồn hết cho người cha đáng kính của mình.
Trong Đại Nam thực lục ghi lại bảy năm làm vua của Thiệu Trị, chúng tôi
thấy cuốn sách đã viết rất nhiều trang nói về nỗi lòng nhớ cha khôn nguôi của
Thiệu Trị. Mỗi khi có niềm vui hay nỗi buồn ông đều tưởng nhớ đến cha, nhớ
đến những lúc có cha bên cạnh, được cha dạy bảo ân cần mà nước mắt tuôn
rơi. Quân quan báo tin thắng trận ông cũng cho đó là nhờ công ơn của Hoàng
khảo “Được thắng trận như thế là, là nhờ uy vũ rõ rệt, anh linh hiển hách của
Hoàng khảo, chứ ta có làm gì được” [51, tr. 203]. Ông thường nhớ những lời
dạy của cha và đau đớn khi bây giờ không còn cha bên cạnh “ta chắp tay lên
ngang trán, vâng theo lời dạy ấy, thường vẫn ghi tạc trong lòng… để nghĩ
việc sửa mình, sao cho cư xử đúng theo lời dạy của Tiên đế” [51, tr. 223].
“Nhớ lại năm trước, ta chầu hầu dưới gối, thấy Hoàng khảo ta chú trọng đến
vận mệnh của dân, xem mưa nghiệm nắng sáng suốt hết ẩn tình trước khi việc
xảy ra. Trong khi dạy bảo về chính trị, dụ tận mặt cho ta biết rằng: “Về
phương Nam, xét đến sử sách các đời để lại, ít động đất mà nhiều gió to. Năm
Gia Long thứ 10 [1811] là năm Tân Mùi, năm Minh Mệnh thứ 8 [1827] là
năm Đinh Hợi, đều có một lần bão. Gần đây xem khí trời và sắc gió, rất sợ vài
năm sau, không khỏi có tai hại về bão lụt, hình như khí vận xui nên thế! Phải
nên cẩn thận tu tỉnh lấy mình mới có thể cầu đảo mà tránh đi được” [51, tr.
648] và nhà vua đã ân hận vì mình ko tu tỉnh được để gây nên thiên tai…
49
Hình ảnh người cha Minh Mệnh đã để lại trong tâm trí Thiệu Trị nhiều
cảm xúc, có khi đến cáo yết ban thờ Tiên đế nhà vua “xiết bao cảm thương,
tình trong lòng phát ra câu thơ” [51, tr. 223]. Đến lúc nhớ công ơn của cha,
không biết tỏ bày ra sao, nhà thơ cũng kính cẩn, chắp tay cúi đầu viết bài tự
sự và làm bài minh [51, tr. 269] để tưởng nhớ người cha không còn ở bên
cạnh, bài minh có đoạn:
“Sử sách chép rõ,
Chói lọi trước sau,
Tỏ rạng kim cổ.
Cương thường sáng tỏ,
Phúc đức rộng dài.
Con cái vui họp:
Trăm bốn mươi hai.
Dạy con điều hay,
Hoà, cảm đều đủ.
Đế vương các đời,
Không thể cùng đọ.
Nay ta, tiểu tử
Nối giữ cơ đồ
Chăm lo kế thuật,
Để đáp ơn to.
Công đức, truy bày.
Ghi bia để lại.
Ức vạn năm sau,
Đời đời giữ mãi!”
[51, tr. 30]
Nhà thơ nhớ lại những ngày tháng được cùng cha hoạ vần thơ ca
mới xảy ra thế mà giờ đây “Bộ nguyệt thừa nhan thống mạc truy” (cái
50
cảnh hầu cha dạo bước dưới trăng nay không còn nữa) khiến ông lấy làm
đau đớn thương nhớ mãi không thôi. Trong lúc ghi chép, kê cứu lại những
việc của Minh Mệnh để lại, hay những lúc đi du ngoạn các thắng tích mà
trước đây ông và vua cha đã đến thì đều khiến cho nhà thơ cảm nhớ đến
cha mà phát ra thơ.
Bên cạnh đó, thơ ông còn thể hiện tình cảm, sự quan tâm chia sẻ của
nhà vua đối với các bậc đại thần.
Một vị quan mất cũng làm ông đau lòng , làm thơ viếng tặng “Vua lại
nhớ đến Đô thống Dinh Long võ, tước Long Bình tử Tôn Thất Nghị, làm thơ
để viếng. Dụ rằng: “Nghị là bề tôi thân thuộc, trong việc sang đánh phương
Tây, khảng khái xin đi. Từ khi bình định đất Lạc Hoá, định đất Ba Xuyên cho
đến phá thành đồng, mở luỹ sắt, công lao rất nhiều, không may gặp nơi quan
ải lam chướng, bị phong sương làm hại đến thân, ngày nay thưởng công, duy
có Nghị không còn, bồi hồi tưởng nhớ, khiến cho người ta đem lòng nhớ đến
tướng mạnh” [51, tr. 974].
Nguyên Thượng thư bộ Lễ hưu trí, Phan Huy Thực, đến hành tại lạy
yết. Thực trước vì già ốm, xin nghỉ về hưu, nay vua nghĩ tình bề tôi giúp việc
lâu năm về trước, triệu cho lên điện, cho ngồi hỏi chuyện ân cần và cho miễn
lạy. Vua thân làm bài thơ tặng để tỏ ý yêu quý:
“Phong điện phương lưu tôn trở sự;
Sài nham nhàn khế hạc quy niên
(Trước ở triều đình, tiếng thơm còn lan tràn ở việc nghi lễ
Nay về Sài Sơn thuộc Sơn Tây cảnh nhàn hợp với tuổi già)” [51, tr. 316].
Nhìn thấy các tướng sĩ đi đánh miền Tây khó nhọc lâu ngày, khi sắp về
Kinh, vua sai Nội các và Thị vệ đều một viên, chực sẵn ở Nam Trường để đón
tiếp. Quân sĩ về đến Kinh, triệu ngay vào chỗ điện thường phía trước thưởng
51
cho cái áo dài mặc mát và quạt ngự, đề bài thơ “Tây chinh sự bình” (nghĩa là
Việc đánh giặc ở miền Tây đã yên) [51, tr. 1013].
Tưởng nhớ đến những tướng suý như là Thự Đốc An - Hà là Doãn Uẩn
làm việc ở xa, nhà vua thường thương xót, quan tâm đến họ. Vua thường cho
sứ đi đường trạm đến ban thưởng một cái quạt, một chuỗi ngọc san hô, một
bài thơ đầu đề là “Bình định Xiêm Lạp, một tập giấy rồng ngự chế “Tây
Chinh kỷ tiệp”1, một chén đựng rượu bằng thứ ngọc tốt, tỏ ra quang nhuận
cứng rắn ôn hoà như hòn ngọc, 1 con báo có văn bằng vàng, để nêu ra là
người có bản lĩnh, có công trạng, biết cả văn lẫn võ. Lại cho ba bài thơ ngự
chế, chuẩn cho theo vần hoạ lại” [51, tr. 1014].
Đối với các thầy dạy học, ông cũng luôn luôn trân trọng, thường làm
thơ để tặng đặc biệt là đối với thầy học Nguyễn Đăng Tuân. Ngày Nguyễn
Đăng Tuân mất ông thương xót, làm thơ “Văn thơ này đều do trẫm sáng tác
để làm vinh điển về việc trọng đạo, tôn hiền; mà hành trạng trước sau, một
lòng trung hiếu của tiên sinh đủ cả ở đấy, nên khắc vào đá, để mãi về sau…để
đền đáp cái công là thầy học của họ” [51, tr. 714]. Khi thầy Nguyễn Đăng
Tuân về hưu ông cũng làm thơ để tặng, khi thầy bị ốm ông cũng thương xót
cho người thăm hỏi, ban tặng bài thơ. Ông cũng thường làm thơ tặng Nguyễn
Đăng Giai một vị quan, một người bạn học:
Phiên âm:
Tam phiên quận tề ưng long khổn,
Nhị giáp gia nhi hựu hiển thân.
Hạc toán tiên sinh nhàn tuế nguyệt
1 Tây chinh kỷ tiệp: đi đánh giặc ở miền Tây, ghi công thắng trận.
Nhạn thư tôn tử vượng tinh thần.
52
Dịch nghĩa:
Ba lần quận tể tôn quan cả
Con đỗ thứ hai lại hiển thân.
Tiên sinh tuổi hạc, vui ngày tháng,
Con cháu hàng chim, vượng tinh thần.
Lại câu đối rằng:
Mai trưởng xuân trường tư dị ốc.
Lôi hân sói thổ xướng đồng châu.
Nghĩa là:
Mai nở trường xuân thêm ơn lạ.
Sấm vang đất bắc nức cùng châu [65, tr. 427].
Các quần thần ở trong cung thường được ông dạy bảo và tụ họp sáng
tác. Trong thời gian trị vì ông cũng thường tổ chức các quan văn thần có sở
trưởng về thơ, từ ứng chế. Tất cả là 18 người, cùng hợp với số lên tiên của đời
Đường. Gồm: Đại học sĩ Trương Đăng Quế, Đặng Văn Thiêm, Thượng thư
Lâm Duy Thiếp, Tả phó đô ngự sử Phan Thanh Giản, Tham tri Nguyễn Đức
Hoạt, Đào Trí Phú, Lý Văn Phức, Bùi Quỹ, Nguyễn Văn Điển, Phạm Thế
Hiển, Hoàng Tế Mỹ, Thị lang Nguyễn Trạch, Phạm Khôi, Trương Quốc Dụng,
Nội Các Nguyễn Đức Chính, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Cửu Trường, Lê Chân.
Đối với anh em cũng như những người lớn tuổi ông cũng hết sức kính
trọng và khoan hoà, và miễn lệ quỳ lạy đối với họ “động việc gì cũng quỳ lạy,
ta thấy không được yên lòng. Vả lại, thánh nhân đặt lễ, tất phải lấy nhân tình
làm gốc, mà trong chốn gia đình, kính người trên làm trọng” [51, tr. 130]
Những hoàng tử, hoàng đệ chưa được phong, ông tuyên triệu vào tặng thưởng
và phong công, đối với những người già là em của Minh Mệnh thì ông miễn
phải quỳ mỗi khi vào hầu, đối với những hoàng đệ có lỗi lầm trong thời Minh
Mệnh như Miên Thủ ông đều cho phục chức. Nên dưới thời cai trị của ông
anh em rất hoà thuận.
53
Không chỉ dành tình yêu cho vua cha, cho các hoàng thân, quốc thích,
các đại thần đã chết trận cũng như còn sống mà ong còn quan tâm thi cử,
trọng đạo Nho, yêu học trò. Kỳ nào cũng cho các Cống sĩ ăn cơm. Thường
dặn những người nấu cơm rằng: “Các ngươi là người làm cơm, phải nên cẩn
thận cho các sĩ phu tài tuấn của ta được tiến lên; cẩn phải tinh khiết” [51, tr.
120]. Lại truyền chỉ cho các quan trưởng phải giữ lòng công bằng mà chấm
văn, chớ nên cậu nệ bó buộc. Có người học sinh ở Thái Nguyên đem lương
vào Quốc Tử giám để học. Vua nghe thấy phê phán rằng: “Thái Nguyên là
tỉnh ở nơi biên viễn, thế mà người học sinh ấy lại cố chí đến Kinh đô để được
biết chế độ văn vật chế độ nước nhà, cũng đáng khen, nên cấp cho học bổng
cũng như hạng ấm sinh” [51, tr. 121]. Từ đấy các sĩ phu đua nhau học tập, văn
phong ngày càng mở mang. Trong kì thi Đệ nhị, vua ra bài phú, đầu đề: “Thi
giả thiên địa tâm phú” (lấy mỗi chữ đầu đề làm một vần), Nguyễn Văn Tố
dùng chữ “Khuyên” gieo vần, đọc theo tiếng bằng. Chủ khảo, bọn Hà Duy
Phiên cho rằng âm nghĩa chữ ấy phải theo tiếng trắc, dùng chữ sai, nhưng văn
viết khá, vậy tâu lên, xin vua định đạt. Vua nói: “Chữ ấy có hai âm vừa bằng
vừa trắc, theo mỗi âm nghĩa khác nhau, xưa nay người ta đọc theo tiếng bằng
nhiều, theo tiếng trắc ít. Nếu cho rằng thói quen dùng lầm mà đánh hỏng thật
có điều chưa nỡ! Hãy đợi sau khi thông suốt ba kỳ, nếu văn lý đều khá cả thì
cũng cho đỗ”. Tới lúc ra bảng, quả nhiên Tố được dự vào trúng cách. Vua
cười nói rằng: “Trong sự mực thước cũng có ân điển khoan rộng, thế mới biết
việc thi tiến sĩ cũng có số phận, không phải toàn là quan hệ ở văn học cả!”
[51, tr. 357]. Thiệu Trị rất công bằng trong thi cử. Ví dụ “Khoa mục không
lấy hành xích, làm hạn thì mới lấy được người tài. Ta xem những người học
trò làm bài, người nào học thông suốt thì lời văn trác tuyệt; người nào học lỗ
mãng thì lời văn quê mùa, cũng có thể lấy đó mà xét người được. Vả lại bài
thi của người nhà Thanh, đem Bách gia, Chư tử ra hỏi cũng chỉ sơ lược nói
54
qua, không có hỏi đến binh, tài, lễ, nhạc, văn, võ, hành chính như chế độ triều
thi lấy học trò”. [51, tr. 605]
Trong Đại Nam thực lục chỉ chép về những tâm tư tình cảm của Thiệu
Trị. Mỗi tâm tư đều được thể hiện trong thơ. Về nỗi lòng đối với người thân,
quan lại theo chúng tôi, nếu có điều kiện dịch thơ của ông sang chữ quốc ngữ
thì chắc chắn nội dung này sẽ được thể hiện trong rất nhiều bài thơ của ông.
2.2.2. Văn chương tải đạo
Thiệu Trị làm thơ, văn không chỉ để rèn giũa đạo đức của mình “trẫm
nhân lúc rỗi việc, phóng bút viết luôn thành thơ, tình cờ được những bài này,
treo bên chỗ ngồi để gắng theo mà tu tỉnh, thật muốn bắt chước vua Đường
Thái Tông lấy việc cổ làm gương, chứ không phải dám sánh với bút pháp của
kinh Xuân Thu [51, tr. 385], chăm lo chính sự, thể hiện tấm lòng của mình đối
với nước, với dân, với thiên nhiên cảnh vật mà làm thơ còn để đào luyện tính
tình cho các hoàng đệ, quần thần, nhắc nhở anh em trong hoàng tộc phải biết
yêu thương nhau, “cẩn thận, nên chăm chỉ, hoà với anh em, chỉ dẫn điều lành,
răn điều trái, để tuân giữ lấy gia pháp, ta rất mong mỏi lắm!” [51, tr. 1001 -
1002] nên thường làm thơ ban tặng khuyến khích họ cố gắng như bài Thiệu
Trị viên thi [51, tr. 125]. Nhân thể, vua bảo Trương Đăng Quế rằng: “Hoàng
khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, nhờ phúc trời giúp, con cái đông nhiều, anh
em ta đều phải đối xử với nhau cho hết đạo, để tu sửa luân thường của loại
người mà thôi, cho nên ta làm thơ tự khuyên răn mình, để cho các hoàng đệ
đều tự nghĩ mà khuyến khích cố gắng, giữ tiếng tốt được mãi mãi, khỏi phụ
lòng Hoàng khảo ta dạy nuôi, rèn luyện” [51, tr. 125].
Ông vốn rất ghét việc nịnh nọt cho nên nhân việc nhìn những hoa cúc
“Kim bối hồng trang” nở nhiều. Nhà vua nhớ, khắc ghi lời dạy của Hoàng
khảo “Những thứ hoa cỏ tầm thường, không đáng gọi là điềm lành”, học tập
việc Văn Hoàng nhà Đường còn phá cái tổ chim Bạch thước để tắt những lời
55
nịnh hót. Nhà vua “chỉ muốn khí trời hòa dịu, hằng năm được mùa, nhân dân
no ấm, thế là điềm hay của nước nhà. Nếu có con lân ra chơi, con rồng xuất
hiện, có bổ ích gì cho chính trị đâu!”. Nhân đưa ra: một bài thơ “Cười hoa
cúc”, một bài thơ “Lễ Đông hưởng”, 6 bài thơ “Ở nơi yên tĩnh” (Xem trong
hai tập thơ Ngự chế), sai thị thần tuyên đọc để giáo huấn [51, tr. 542]. Ông
cũng thường nói “Các vua chúa đời gần đây phần nhiều ưa thích điềm nọ
điềm kia” những việc đó “có bổ ích gì cho chính trị đâu!. Rồi nhân đó ông
làm nhiều bài thơ để tỏ cái chí của mình [51, tr. 542]. Mỗi khi có quan nịnh
thần xu nịnh, ông cho đó là “bọn nịnh thần là đáng ghét. Nên làm thơ để ghi
nhớ. Trong thơ có câu: “Ngư tiểu tu trừng viễn hãnh thần” nghĩa là: cá tuy là
vật nhỏ, ta cũng nên đề phòng, xa kẻ nịnh thần” [51, tr. 157]. Hay là cho quần
thần một bài thơ “chép rõ ở Thánh chế Bắc tuần thi tập và bảo rằng: bài này
không ngoài bốn chữ trung, tín, thanh, cần, các ngươi nên ghi vào dạ không
để nhãng mất mới phải” [51, tr. 339]. Phần lớn nội dung này được in trong tập
Hoàng huấn cửu thiên.
Đối với các con ông hết sức nghiêm khắc dạy bảo những trò chơi chọi
gà, quần ngựa nhất thiết bị ông cấm. Hay việc Hồng Bảo lo đàn đúm không
chăm lo sách vở mặc dù là con trưởng song ông cũng không cho được nối
ngôi. An phong công Hồng Bảo hát xướng vào ngày trai. Vua giận, quở rằng:
“Ngươi học vấn chậm và tối, chỉ thích chơi bời, trái với giáo huấn trong nhà
nhiều lắm”, bèn tước lương hai năm [51, tr. 579].
Ngoài ra thơ ông đề cập đến nhân vật lịch sử ở Ngự chế lịch đại đế
vương, việc tấn phong chức tước, xây dựng lăng tẩm, tu bổ đê điều, sửa chữa
cầu cống, khuyên răn dân chúng chăm chỉ làm ruộng, giữ gìn thuần phong mĩ
tục, việc thi cử tuyển chọn người tài, nghiên cứu về Kinh dịch để làm thơ để
bói việc lành, việc dữ…
56
Tiểu kết:
Tác phẩm của Thiệu Trị chưa “tốn” nhiều giấy mực của các học giả
như sáng tác của nhiều ông hoàng khác nhưng qua hệ thống tác phẩm và nội
dung trên là minh chứng cho thấy ông có những đóng góp to lớn cho nền văn
học nước nhà. Hiện nay, số lượng tác phẩm của ông để lại không chỉ nhiều
mà còn phong phú về nội dung, đa dạng thể loại như thơ, văn, chiếu, biểu, câu
đối và đặc biệt là sự góp sức trong lịch sử nghiên cứu thi pháp văn chương
với cuốn Thiệu Trị văn quy.
Đa số tác phẩm của ông được viết bằng chữ Hán nên độc giả ít có cơ
hội tìm hiểu. Trong chương này chúng tôi góp nhặt ở các tài liệu tiếng Việt,
sắp xếp thành một hệ thống giúp cho độc giả có cái nhìn tổng quan đối với tác
giả này. Tuy nhiên, việc làm của chúng tôi chỉ phản ảnh được một phần nhỏ
trong sự nghiệp to lớn, đồ sộ của Thiệu Trị.
Việc hệ thống lại tác phẩm và nội dung văn chương mà dựa vào một bộ
sử Đại Nam thực lục, là một việc xưa nay khó nên chắc chắn luận văn còn
nhiều thiếu sót, chưa bám sát được vào các tác phẩm từ nguyên bản. Hi vọng
trong tương lai chúng tôi sẽ có dịp bổ sung và sửa chữa.
57
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH - THI PHÁP VĂN
CHƢƠNG CỦA THIỆU TRỊ QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC
Học giả theo tiếng Anh là scholar, nghĩa là “người nghiên cứu sâu một
đề tài học thuật, hay được gọi là “nhà nghiên cứu”. Theo Hoàng Phê, học giả
là “người chuyên nghiên cứu, có tri thức khoa học sâu rộng” [41, tr. 454].
Hay “Học giả là người có kiến thức sâu rộng trong nghiên cứu khoa học” [74,
tr. 829]. Dựa vào quan niệm trên, căn cứ vào sự đóng góp, vốn hiểu biết của
Thiệu Trị, chúng tôi khẳng định rằng Thiệu Trị xứng đáng là một học giả
trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông không chỉ chiếm lĩnh một mắt xích quan
trọng trong phả hệ văn chương hoàng phái nói riêng mà còn có vị trí nổi bật
trong dòng văn học Việt Nam. Vượt lên trên các ông hoàng yêu văn chương
khác không chỉ ở số lượng tác phẩm, đỉnh cao về nghệ thuật mà ông còn là
một nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học uyên thâm, một người có tri thức,
hiểu biết văn học Đông Tây kim cổ sâu rộng với nhiều thể loại từ thơ đến văn,
từ Kinh Dịch đến lịch sử, từ văn chương trong nước đến văn chương nước
ngoài, từ văn học cổ đến trung, từ thể thuyền liên đến thể đảo ngược... Tuy
mới chỉ bước đầu nghiên cứu học giả Thiệu Trị, nhưng những quan điểm của
ông hứa hẹn sẽ mang lại nhiều thú vị.
3.1. Lý luận phê bình
3.1.1. “Sách nào cũng tin chi bằng không có sách”
Thiệu Trị đã từng nói với quần thần, ta làm thơ là để tỏ cái ý của mình,
vốn không có ý tìm tòi, làm cho đẹp đẽ để cùng bọn nghệ sĩ văn nhân đua hơn
kém. Thế nhưng sức sáng tác của người lại khiến cho giới hậu sinh không
khỏi kính phục. Ngoài thời gian chăm lo chính sự, sáng tác và hoạ vần cùng
với quần thần, vua lại “vùi đầu vào văn chương sách vở, xem các sách cổ kim,
tuy ở trong chốn cung cấm”, “dù lúc mặt trời đã xế bóng, hay ban đêm”, “tay
58
cũng chưa từng bỏ quyển sách” [51, tr. 1037]. Chính sự chăm chỉ, ham học
hỏi, tìm tòi đó đã giúp cho Thiệu Trị tích luỹ được vốn văn hoá sâu rộng.
Thiệu Trị thường khuyến khích quần thần khi rảnh rỗi phải chăm đọc
sách “trong chỗ kém mà tìm lấy chỗ hơn” [51, tr. 1010] nhưng “học cốt phải
rộng rãi, mà đọc sách trọng ở chỗ biết lẽ, đọc đến văn mà rõ được nghĩa thì là
được” [51, tr. 1011]. Nghĩa là đọc sách phải biết phân biệt đúng sai, cái nào
nên dùng thì dùng cái nào nên bỏ được thì bỏ, còn đọc văn thì phải hiểu được
ý người viết muốn nói gì thì đó mới là cái huyền diệu của văn. Những quan
niệm đó dần dần giúp cho Thiệu Trị có một tư duy phê bình sâu sắc đối với
văn học cổ. Ông đánh giá cao một số sách văn học Trung Quốc. Những điều
hay, những việc tốt ông đều cho kê cứu, ghi chép lại để đời sau tiện dùng.
Tuy nhiên, bản thân Thiệu Trị cũng cho rằng, một số cuốn sách cổ của
các đời trước ở Trung Quốc cũng như Việt Nam chép những điều không có
thật, phần nhiều phiếm lạm, không đáng tin dùng. Ví dụ như việc có tài liệu
nói “Thần nông có thi ca”, ông cho là không chép đúng sự thật liền hỏi
Trương Đăng Quế “Sách ngoài có nói Thần nông1 có thi ca, ngươi có tìm thấy
không?” [51, tr. 1037]. Trương Đăng Quế không trả lời được, ông lại nói:
“Câu đó ta cũng lấy làm ngờ”. Rồi nhà vua lại tiếp tục giải thích “Này,
Thuấn và Cao Dao canh ca là khuôn mẫu trước cho 300 thiên của Kinh Thi.
Về văn chương của Đế Nghiêu2, cũng chỉ nghe thấy có một thiên “Nghiêm
giới”; huống chi lại ở trước đời Đường đời Ngu? Đó chắc là do người đời sau
hiếu sự làm ra, cũng như loại sách thuốc nói là lời của Hoàng đế, Hứa Hành
1 Thần Nông: Còn được gọi là Viêm đế hay Ngũ Cốc Tiến đế, là một vị vua huyền thoại của các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Hoa. Theo truyền thuyết ông sống cách đây 5.000 năm. 2 Đế Nghiêu (2337 TCN – 2258 TCN) là vị vua huyền thoại của Trung Quốc cổ đại.
đặt ra lời nói của Thần Nông đó thôi” [51, tr. 1037].
59
Nhân đọc sách Thập di ký1 thấy nói sông Hoàng Hà “nghìn năm một
lần trong”, còn sách Khánh Thuỵ Đồ nói “năm trăm năm một lần trong”, ông
cũng phân vân hỏi quần thần: “Thuyết nào là phải?” [51, tr. 1037]. Câu hỏi
của vua khiến các đại thần không khỏi lúng túng, vì vậy vua nói tiếp: “Người
đời cổ chép ngày, tất phối hợp với can chi, hay là dùng lẻ một can hoặc một
chi, có minh văn không? 12 trực (trong âm lịch ngày nào cũng có nói đến trực
như trực khai, trực bế, trực bình, trực thành) ở trong lịch, khởi đầu tự đời
nào?” [51, tr. 1037]. Lúc bấy giờ quan đại thần Vũ Phạm Khải thưa rằng:
“Sách của các nhà nói, có chỗ khác nhau, có chỗ giống nhau; chúng tôi là
hạng tục học, không đủ biết những chỗ ấy. Lấy Kinh sách mà xét, Mạnh Tử
nói: “500 năm có vương giả ra đời”; cái chỗ lịch thuật đạo thống của đế
vương, từ Nghiêu đến Thang, từ Thang đến Văn vương, đều 500 năm! Thiết
nghĩ Khánh Thuỵ Đồ nói, chừng bắt gốc ở đó. Còn năm và ngày chép cả can
chi, thì Trương Thư và Xuân Thu đều thế, chỉ có những loại như thiên Nguyệt
lệnh trong Lễ ký nói “ngày ấy là ngày Giáp, Ất”, thiên Tiểu nhã trong Kinh thi
nói “ngày tốt là ngày Mậu”, thì lấy riêng một can mà nói. Cái thuyết 12 trực
chưa rõ bắt đầu từ đâu, nhưng Truyện Triệu Sung quốc và Truyện Vương
Mãng trong Hán thư có nói trực thành, trực bình, chúng tôi ngờ rằng, phép ấy
chính ở vào cuối đời Đông Chu và khoảng Tần, Hán” [51, tr. 1038]. Nghe
xong, vua nói: “Nước sông Hoàng Hà trong, thánh nhân ra đời”, là nói cái lý
đó thôi, một nghìn, nửa ngìn, cũng cử ra đại số như thế” [51, tr. 1037].
Sau đó ông cho rằng các ông vua đời trước không quan trọng về số
năm, dẫn đến việc ghi chép có nhiều sau sót “Còn vua tôi như Nghiêu,
1Thập di ký là bộ sách gồm 6 quyển có tên là bộ Kim Quang Minh Huyền của Tri Lễ (960 - 1028) đời nhà Tống. 2 Vua Thuấn là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại.
Thuấn2, Vũ1, cha con như Văn, Vũ, Chu, cùng một nhà, cùng một đời, có
60
câu nệ gì vào số năm đâu. Danh nghĩa can chi, trong sách Hán thư2 phần
Luật lịch chí và sách Hoài Nam tử3 nói rõ rồi, can là gốc, chi là cành, trời lấy
số 5 làm hạn định, đất lấy số 6 làm tiết độ, 5 và 6 là chỗ trời đất hợp lại; cùng
lấy cả can chi là chính, chỉ lấy có một bên là lấy nghĩa tương giao đó thôi. …
[51, tr. 1038].
Mặt khác, ông cũng cho rằng các thuyết ở một số sách không nghiệm,
chưa rõ ràng và không đáng tin dùng. “Đời gần đây, Trần Thẩm Quýnh4 có
đặt ra thể “Lục giáp”, toàn dùng thiên can mà không dùng địa chi. Phép xem
bói toán Dã Hạc5 lại trọng ở địa chi. Xem ra có chỗ nghiệm, có chỗ không
nghiệm, đều không phải là lẽ chính ở trong kinh sử. 12 trực ở trong quyển
lịch còn có thuyết khác như: Hồ Nghiễm nhà Minh đặt ra thể 12 giờ, lấy con
chuột làm giờ Tý, con Trâu làm giờ Sửu…” [51, tr. 1038] là “những sách tự
cổ đến giờ thơ văn ít nói đến, không nên dùng…
Qua đó chúng ta thấy Thiệu Trị có nhiều tư tưởng khoa học, ông không
tin vào những học thuyết dựa chủ yếu vào cảm tính để tạo thành. Với ông
cuốn sách làm ra phải rõ ràng về ngày tháng, đúng sai đều phải được xác định
lại. Cho nên mặc dù rất thích đọc sách, tìm hiểu các lý thuyết cổ nhưng cách
đọc của Thiệu Trị có chọn lọc, những điều gì đúng và có ích cho mục đích sự
nghiệp “bình thiên hạ” đều được ông ca ngợi, còn những cái “mập mờ” chưa
rõ, cũng như không mang lại lợi ích gì đều bị ông gạt bỏ. Tất cả những tư
tưởng đó của ông đều bị ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, từ nhỏ ông đã hấp
1 Vua Vũ hay còn gọi là Hạ Vũ (2205 TCN - 2198 TCN) là một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc cổ đại. 2 Hán thư: là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. 3 Hoài Nam Tứ: Là bộ sách quan trọng của Đạo giáo Trung Quốc. 4 Trần Thẩm Quýnh: Hiện không rõ. 5 Dã Hạc: Hiện không rõ.
thu giáo lí của đạo Khổng Mạnh. Ông thường dùng giáo lý của Nho giáo để
61
giải thích cho suy nghĩ của mình. Ví dụ như “Sách Luận ngữ nói: “Tuy cái
đạo nhỏ cũng có thể quan sát được. Tuy xét mãi đến nghĩa xa, sợ thành ra câu
nệ. Mạnh Tử cũng nói: sách nào cũng tin không bằng không có sách” là nói
về những loại sách ấy” …Người đời xưa học sách cổ rồi ra làm quan, nghiên
cứu kinh điển đến cùng sẽ dùng vào việc đời” [51, 1037].
3.1.2. Văn chương cổ “còn nhiều thiếu sót”
Mỗi khi đọc sách ông thường xem rất kỹ lưỡng, xét rõ nguồn gốc rồi so
sánh đối chiếu, ông thấy rằng các đế vương ngày xưa, trước tác cũng nhiều,
nhưng trong việc ấy có việc nói thực, có việc nói sai, có việc chép không cần
thiết, cần phải biện bạch cho rõ như tập Đồ thuyết của nhà Minh nhà vua nhận
xét rằng cuốn sách còn nhiều thiếu sót về mặt “Phương quy” và nhiều việc
phiếm lạm không đáng ghi chép nhưng vẫn được ghi chép chỉ vì Nghiêu,
Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ là những bậc đại thánh mà được ghi truyền chứ
không có ý nghĩa” [51, tr. 385]. Còn sách nhà Thanh cũng ghi chép không
đúng như “Cao Tông1 nhà Thanh sinh ở cung Ung Hoà, mà thơ mừng thọ của
vua Nhân Tông2 lại chua rằng sinh ở Đô Phúc đình nơi sơn trang, đến Đạo
Quang đế3 đính chính lại cái sai ấy mới biết là đều do thần chua lầm. Cao
Tông, Nhân Tông đều là vua xưa biết trọng văn học, mà còn như thế, huống
chi người khác?” [51, tr. 189].
Bên cạnh phê bình văn học cổ Trung Quốc, Thiệu Trị cũng giành thời
gian nghiên cứu về văn học các triều đại trước của Việt Nam.
Ông cho rằng văn chương các đời Đinh, Lý, Trần, Lê thực chất không
1Cao Tông nhà Thanh: là miếu hiệu của vua Càn Long (1711 - 1799), là con trai thứ tư của Hoàng đế Ung Chính và là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Thanh. 2 Vua Nhân Tông: là miếu hiệu của Gia Khánh Hoàng đế (1760 – 1820), là vị vua thứ 7 của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ 1796 – 1820. 3 Đạo Quang đế: miếu hiệu là Thanh Tuyên Tông (1782 – 1850) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Thanh cai trị toàn lãnh thổ Trung Quốc từ năm 1821 – 1850.
có nhiều, phần lớn là do từ thần bổ sung, phụ chú: “Đáng cười thật! Nước
62
Nam ta, các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, gọi là văn minh, thế mà thơ văn
truyền lại đời sau cũng ít; duy có những trước tác của Lê Thánh Tôn còn được
1 - 2 phần, tựu trung những bài ấy do bọn từ thần Nguyễn Trực và Vũ Lãm
phụ chú và phê bình, gần đến một nửa” [51, tr. 189].
Không chỉ xem về thơ văn mà vua còn thường xem tập chép việc cũ
của quốc triều, nhân bảo bọn Sử quán Tổng tài là Trương Đăng Quế và Hà
Duy Phiên rằng: “Trẫm nghe về triều Hy Tông Hiếu Văn Hoàng đế có bài
“Chu trung ca”, há chẳng phải của của Đào Duy Từ làm ra đó ru? Duy Từ
được thụ chứ Nội tán, tức là chức Tể tướng. Tên quan chức của quốc triều
buổi đầu khác với bây giờ. Người làm sách chỉ nên để theo như cũ mới là
chép đúng. Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến và Đào Duy Từ đều gọi là
Khai quốc công thần, vì cơ nghiệp của bản triều dẫu từ Thái tổ Gia Dụ hoàng
đế gây nền ở cõi Nam, nhưng đến Thái Tông hiếu triết hoàng đế mới chống
cự với dân Bắc, sửa sang nhiều việc, cũng là công khai sáng….Hà Duy Phiên
thưa rằng: “Bên sông Cẩm La có tên xã Trường Dục, tức là chỗ đất ấy”. Vua
nói: “Sử Lê mà chép tên sứ Ai Lao, là chỗ nào?. Đăng Quế thưa rằng: “một
dải đất ở phía Tây Nam Thanh, Nghệ, gần nước Vạn Tượng đều là Ai Lao”.
Vua nói: “Sách Đại Nam nhất thống chí chép, phần nhiều cũng không đúng
thực… [51, tr. 352].
Thậm chí ông còn tra cứu tìm hiểu nguồn gốc của các sách về thi pháp.
Một điều mà các ông hoàng trước Thiệu Trị chưa từng chú ý đến. Ông cho
rằng sách về âm vận bắt đầu có từ đời nhà Nguỵ, nhưng không rõ ràng, về sau
các đời nối tiếp đều có bổ sung, mở rộng ra. Đến đời Thanh thì bộ Vận phủ
đầy đủ và tốt nhất. Mặc dù bộ Vận phủ nhà Thanh là một bộ sách lớn “thu cả
xưa nay vào túi, vét cả lớn bé vào lưới” [51, tr. 882]. Nhưng Thiệu Trị vẫn
chưa coi đấy là đủ, ngược lại ông còn cho quần thần tra cứu, bổ sung vào
những chỗ còn sai và thiếu mà không để ý đến dung lượng vốn đã rất lớn (Bộ
63
Vận phủ nhà Thanh gồm 106 quyển, với hơn 18.000 tờ) và mất thời gian bao
nhiêu. “Kể ra ba trăm bài thơ ở Quốc phong và Nhã tụng trong Kinh Thi và
thơ Thất ngôn của thể Bách lương (một thể thơ được đề xướng thời Hán Vũ
đế, thơ thất ngôn, mỗi câu đều có vần); ấp ủ trong lòng thì là chí, phát ra lời
nói thì là thơ, đều có âm vận mới được. Trước đời nhà Hán, loại sách Âm vận
vẫn chưa có. Sách Vận thư bắt đầu có từ thời nhà Nguỵ; đến Đường, Tống
mới sáng tỏ, đời Minh, Thanh mới rộng thêm, đều gọi là: “Bội văn vận phủ”.
Nhưng Trẫm từng xem các sách, khảo cứu ở Tự điển, thì biết sách Bội phủ
còn thiếu; trước nhân làm thơ, cũng đã biết rõ việc này” [51, tr. 705], “thí dụ
đem ngay vần “nhất đông” ra xem, thấy nên thêm nhiều đến hơn 200 chữ, thì
chỗ khác có thể biết được. Đó là biên tập chưa kỹ, không phải là không có
chỗ đáng bàn, thực là vì thế đấy” [51, tr.833]. Vì vậy, ông thường khuyên các
quan “Chép sử cốt ở lời gọn mà đủ ý, nên bắt chước sử nhà Minh mà làm,
phải mau soạn cho xong, rồi soạn đến sử triều Lê mới được. Vả, làm sử nên
lấy chính thống làm trọng, như họ Mạc cướp ngôi mà sử nhà Lê lại chép là
chính thống thì không phải là phép làm sử. Đến thời Hậu Lê phần nhiều do
tay bầy tôi họ Trịnh chép ra, về sự khen chê phải trái tất đã có công bằng cả,
muốn làm tín sử truyền cho đời sau, cũng khó đấy!” [51, tr. 394].
Chưa dừng lại ở việc tìm hiểu, xem xét và đính chính Thiệu Trị còn ghi
chép lại thành “một thiên tổng luận, xét lại tất cả các triều đại bên Trung
Quốc, từ ngoại kỷ đến nhà Thanh, thế thứ, quốc hiệu và trị loạn hưng suy,
không việc nào là không chép, cho kẻ mới học đọc đến, cũng biết được đại
lược, nên in ra nhiều, cấp cho các nhà học của đốc học, giáo huấn, để giúp
cho sự học tập” [51, tr. 929], “một bộ sách có quan hệ đến cách dạy làm thơ
rất lớn” [51, tr. 1050], sách có ý nghĩa đến hiểu biết của đời sau.
Nhận thức được điều đó không phải những suy nghĩ tầm thường có thể
hiểu được. Ông là ông vua tiến bộ trong việc tiếp thu có chọn lọc những tinh
64
hoa văn hoá của đời trước để bổ sung cho đời sau. Tuy chưa đánh giá
được những nghiên cứu phê bình của Thiệu Trị là đúng hay sai, nhưng
theo chúng tôi việc làm của Thiệu Trị là một việc xưa nay hiếm, suy nghĩ
của ông giúp cho các nhà làm sách, các nhà biên tập, sử học làm việc
nghiêm túc, cẩn thận hơn.
3.1.3. Văn chương phải có ý nghĩa và nghệ thuật
Nhà vua thường tâm niệm rằng “ở trong lòng thì là ý, lời nói phát ra thì
là thơ”, nhưng thơ như thế nào là hay thì không chỉ đẹp về lời nói, nghệ thuật
mà còn phải đẹp về ý nghĩa. Đương thời khi xem xét thơ văn của các bậc cố
nhân ở Trung Quốc, bên cạnh kiểm tra đúng sai ở mỗi việc được ghi chép,
ông còn xem xét thi pháp, lời văn rồi cả ý nghĩa ẩn ý trong câu thơ văn nữa.
Thiệu Trị cho rằng thơ làm ra phải có ý nghĩa rèn giũa tính tình, củng
cố mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè, “đất dày để chở
muôn vật, có đức tốt mới phối hợp được đạo trời; lễ trọng tôn kính bề thân
phải truy tôn để nối theo lòng hiếu thảo. Thơ Trường Phát ca tụng bà Hữu
Nhung để khen Huyền Tổ (tức ông Tiết, tổ nhà Thương) lấy nghĩa là sinh ra
nhà Ân Thương; Thơ Đại Minh khen ngợi bà Thái Tự sánh với Văn Vương,
tích phúc mới sinh ra vua Chu Vũ (tức là Vũ Vương nhà Chu). Các bậc hậu
hiền, các bậc vua sáng ngày xưa, noi nghiệp nhà, nối ngôi vua, đều nghĩ đến
nguồn gốc của luân thường trời sinh, mới hết được bổn phận của con người
làm cho cha mẹ vẻ vang, cốt để tỏ rõ lễ nghi mà giữ mãi lòng hiếu vậy” [51,
tr. 145]. “Từ xưa, khúc Ca nhà Ngu, thiên Nhã nhà Chu, đời sau giữ làm văn
khuôn phép; khánh ngọc thiên cầu, bức đồ sông Hà, các đời truyền làm vật
báu. Đó đều là đạo ở trong trời đất mà còn mãi về lâu dài” [51, tr. 448].
1 Đường Minh Hoàng khi lễ yết Khổng Tử, có thơ rằng: “Phu tử hà vi giả? Thê thê nhất đại trung! (Phu từ làm chi vậy? Chu du suốt một đời!) và “Kim khan lưỡng doanh điện, Đương dữ mộng thời đồng” (Nay xem lễ đặt nơi hai cột, Tưởng như phu tử mộng khi xưa).
Còn đối với những loại sách của Đường Minh Hoàng, Đường Văn Hoàng ông cho rằng ý và lời chưa đi liền với nhau “thơ Đường Minh Hoàng1
65
“lời lẽ duy đẹp mà ý chưa trang trọng”, còn thơ Đường Văn Hoàng1 thì
“dường như có ý lãnh đạm. Thân làm thiên tử sao lại nói năng như người
nhàn tản”. “Duy chỉ có Hà Tông Quyền tuy không có tài làm thơ, nhưng tư
chất thông minh, thường học làm thơ, những bài làm ra trong khi tuổi già, hơi
biết phép làm thơ, đáng tiếc là không được sống lâu; còn như Hoàng Quýnh,
lẫn cả khôi hài, sao đáng cùng nói đến thơ được!” [51, tr. 371]. Như vậy ý
nghĩa văn chương theo Thiệu Trị là phải trang trọng, nghiêm túc đặc biệt là
văn chương của bậc đế vương phải mang ý nghĩa tải đạo.
Không chỉ đánh giá không cao thơ văn của các hoàng đế như Đường
Minh Hoàng, Đường Văn Hoàng mà ông còn cho rằng việc ông và các quan
văn ứng chế hoạ vần với nhau, rồi ghi chép lại có ý nghĩa hơn việc làm thơ
của các ông vua đó “Ta thường sai các quan văn ứng chế, bài nào lấy được thì
lần lượt cho chép lại, đề tên sách là Minh lương hỷ khởi tập, há chẳng là việc
hay ư?” [51, tr. 528 - 529].
Thiệu Trị thường nói với quần thần những việc không có ý nghĩa thì
không nên chép, đặc biệt phải biết chép chắt lọc đừng vì danh tiếng tốt xấu
mà chép dài ngắn theo đó. Quan niệm như vậy không có nghĩa là ông muốn
hạn định về số việc chép ra mà theo ông làm sách “cốt phải rộng” [51, tr.
1050], nhưng thêm, bỏ chữ nào đều phải tinh tường và có ý nghĩa. Khi xem
tập Đồ thuyết của nhà Minh, ông cho rằng nhiều việc ghi chép thừa thải
không cần thiết, không đáng để học hỏi “Tập Đồ thuyết này là của bọn bề tôi
nhà Minh, Trương Cư Chính và Lã Điều Dương làm ra, trên từ Nghiêu,
Thuấn, dưới đến các đời, chọn nhặt những điều thiện đáng làm phép được 81
1 Đường Văn Hoàng khi chơi cung Thúy Vi, có thơ rằng: “Thu hoài trần tục ngoại, Cao khiếu bạch vân trung” (Ngoài đám bụi trần lòng nhẹ nhõm; Trong lòng mây trắng tiếng cao vang). 2 Khuôn mẫu hay của bậc thánh triết.
việc, chia làm phần “Thánh triết phương quy”2, điều ác đáng để răn, được 36
66
việc, chia làm phần “Cuồng ngu phúc triệt”1. Thiện, thuộc “dương” là tốt, cho
nên dùng số 9 × 9, theo số dương, ác, thuộc “âm”, là xấu, cho nên dùng số 6 ×
6, theo số âm” [51, tr. 385]. Việc hạn định theo quy luật sẽ khiến cho nhiều
việc tốt khác không được ghi. “Trong khi đó các bậc anh quân đời sau có
chính sự hay, khuôn phép tốt, rất nhiều việc đáng chép, tỉ như Hán Chương
Đế khuyến khích việc nông tang, thận trọng về tuyển cử, đều đủ để làm
gương lâu dài, nay hạn định có 99 việc thì còn thiếu sót nhiều. Hay việc chép
“Tư Mã Viêm đốt áo cừu để tỏ ra tiết kiệm chẳng qua là giả dối với mọi người, có
gì mà thành thực mà dám mạo muội cái danh thánh triết?” [51, tr. 385].
Những quan niệm đó của ông cho thấy tầm nhận thức về vai trò của
văn chương của ông khá lớn. Vì chưa có cơ hội nghiên cứu nhiều nên người
viết không dám bàn luận gì thêm, nhưng quả thực qua đó cho ta thấy ông có
một cái nhìn về văn học không chỉ theo bề rộng mà còn chú trọng cả chiều
sâu. Nghĩa là không chỉ chú trọng về lượng mà còn quan trọng cả về chất của
văn chương.
3.1.4. “Văn vật nước ta không kém gì Trung Quốc”
Là một ông vua yêu thích đọc sách, Thiệu Trị không chỉ nghiên cứu các
sách Đông Tây kim cổ Trung Quốc mà còn rất chăm chú tìm hiểu văn chương
trong nước. Ông tự hào cho rằng văn vật nước ta ngang hàng với Trung Quốc:
“Ta xem tập thơ của Bắc Triều, có chỗ khen là Nhã tụng về triều thịnh trị.
Văn vật ở nước ta không kém gì Trung Quốc” [51, tr. 528 - 529]. Đặc biệt
ông cho rằng văn chương của Minh Mệnh vượt trội không chỉ đối với văn
chương trong nước mà còn là “thánh tổ văn minh muôn đời” [51, tr. 190]
“Đức Hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, bậc nhiều tài, chí thánh,
thần giúp, trời cho, ấp ủ là đạo đức, phát ra là văn chương. Nhớ lại từ niên
1 Vết xe đổ của bọn cuồng ngu.
hiệu Minh Mệnh năm Đinh Hợi (1827) đến năm Mậu Tuất (1838), về thơ có
67
tập đầu và II, III, IV, V từ năm Canh Thìn (1820) đến năm Canh Dần (1830),
về văn có tập đầu, đều đã khắc in, ban hành. Duy từ năm Kỷ Hợi (1839) đến
năm Canh Tý (1840), thơ 573 bài; từ năm Tân Mão (1831) đến năm Canh Tý
(1840), văn 247 bài cùng là thơ “Thiên Cơ dự triệu” 200 bài, đều đã mở được
cái huyền vi của tạo hóa, phát được cái sâu nhiệm của thiên hạ” [51, tr. 448].
Khác với các vị vua trước phần nhiều sai nhờ các quan đại thần soạn thảo
giúp hoặc như vua Lý, Trần, Lê nhờ các quan phụ thần làm phê bình hoặc lời
chua trong khi đó theo Thiệu Trị, mọi việc làm đều tự bản thân Minh Mệnh
“Hoàng khảo là bậc chí thánh trời sinh, thực là một vị vua thông minh, nối
sau khi Hoàng tổ ta dẹp yên thiên hạ, sửa sang lễ nhạc, chấn chỉnh giềng mối,
mở rộng quy mô về sáng nghiệp và thủ thành. Phàm các Chỉ dụ, hay các tờ
chế, cáo đều làm lấy cả. Những lúc rỗi việc, xem khắp các sách, lưu ý về văn
chương lối cổ lối kim, một chữ đặt, một lời chua, đều bởi tự nhiên; các đình
thần không ai giúp hơn được một chữ nào. Văn thơ hay rất mực! Thực là
ông tổ văn minh của muôn đời! Ngày hôm nay, ta đem những tập văn thơ ấy
kính dâng lên bàn thờ, tuy bóng dáng người đã xa cách, nhưng nét chữ viết để
lại vẫn còn rực rỡ, ta bất giác đau ruột, tay run cảm động thương xót, khóc lăn
ra” [51, tr. 190].
Chỉ riêng sáu tập thơ Ngự chế, hai tập văn Ngự chế cũng đủ đức sáng tỏ
cùng các vua cổ được lưu truyền ở Trung Quốc “Kính đọc 6 tập thơ Ngự chế,
2 tập văn Ngự chế; sang sảng những tiếng hay như Điển, Mô, Huấn, Cao
đời xưa, chói lọi những vết tốt như Nhã, Tụng trị bình đời trước. Văn giáo
rất mở mang, sĩ phong rất phấn chấn, làm cho thiên hạ được biết nước ta có
sự phong phú về sách vở, kinh điển, có nguồn gốc văn chương tính mệnh, đều
bởi tự ngài cổ vũ, tác thành cho cả” …Muôn đời sau coi tới tập Tiễu bình (tức
Tiễu bình Lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược) đã thuật đủ chăm lo, bộ sách
Chính yếu (tức Minh Mệnh chính yếu) đã để lại phép tắc, đủ thấy công sức
của ngài vang tới trời đất” [51, tr. 268].
68
Tập Minh Mệnh chính yếu ngang với sách Chu quan Trung Quốc thậm
chí còn hiếm thấy trong sử sách “Đức Hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế
ta, vận dụng cái đức cương kiện của trời, theo tổ, chăm chính, yêu dân, nghĩ
mưu rộng, về lập trị, giữ nước, đặt phép bày mối…Võ công thì thấy rõ ở sự
dẹp yên, uy thanh lừng lẫy như trong thơ Giang Hán, văn trị thì đặt ra những
mục Chính yếu (Minh Mệnh chính yếu có chia ra nhiều tiết mục), pháp độ rõ
rệt như ở sách Chu quan (bộ sách chép về quan thuế, chính trị trong thời nhà
Chu (Trung Quốc), vì trong Kinh thư cũng có một thiên tên là “Chu quan”
nên sách Chu quan mới gọi là Chu lễ). Có thành công cao, có văn chương
nhiều, gồm cái tốt của trăm vua đời trước, sáng về kế thuật, thánh về sáng tác,
làm khuôn phép cho thiên hạ đời sau… trong sử sách cũng hiếm nghe” [51,
tr. 447].
Đọc sách thấy Kinh Thi khen đức tốt của Văn Vương có trăm con trai,
Lạc Long của Nam Sử cũng có trăm con. Ông cho đó chỉ là truyền thuyết, còn
thực tế Minh Mệnh có đến 142 con, đó là việc sách thực ít thấy: “Phúc lớn
của nước nhà, dòng dõi nhà vua càng ngày càng nhiều thêm, đều nhờ cả vào
đấng hoàng khảo ta, phúc lớn cao cả, thêm nhiều phúc lành hoàn toàn, có trai
có gái 142 người, từ lúc có trời đất đến nay, các vua có tiếng tốt, có đức hiền,
chép trong sách thực là ít thấy. Tuy đời xưa có nói đẻ trăm con trai, đó là Kinh
Thi khen đức tốt của Văn Vương, tra cứu ở sách, không được rõ ràng; còn
như Lạc Long trong Nam Sử, việc ấy cũng ngoa truyền, không đủ chứng cớ.
Chỉ có hoàng khảo ta mới được hưởng phúc tam đa, vẻ vang được tứ đắc, đã
nhận phúc trời, ban cho con cháu, đầy đàn đầy lũ, như lời chúc tụng trong thơ
“Lân chỉ”, thơ “Chung tư” ở Kinh Thi, thói thường nhân hậu, tốt thịnh lắm
thay! [51, tr. 755]
Những đánh giá của Thiệu Trị có phần hơi “thiên vị” cho ông vua và
còn mang tính chủ quan song trong thời đại đó khi mà nền phê bình chưa mấy
69
phát triển Thiệu Trị đã biết cách so sánh, đối chiếu các sự kiện, nội dung
tương đồng giữa các tác phẩm đã là điều đáng trân trọng, hiếm thấy.
3.2. Nghiên cứu về thi pháp văn chƣơng
Như chúng tôi đã nói, thơ Thiệu Trị vừa phong phú về nội dung vừa
“tuyệt đỉnh” về nghệ thuật. Ông không chỉ là nhà lý luận phê bình mà còn là
nhà nghiên cứu thi pháp thơ. Có được thành quả đó không phải nhờ vào tài
năng bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình nghiên cứu, tìm tòi và đúc kết.
Đối với ông thơ “dẫu nhiều cũng chẳng làm gì” [51, tr. 189], mà một bài thơ
phải hội tụ “âm vận mới được” [51, tr. 705], còn nếu chỉ “ấp ủ trong lòng thì
là chí, phát ra lời nói thì là thơ” [51, tr. 705]. Để có một bài thơ hay, để bình
thơ được sắc sảo thì không còn cách nào khác ngoài việc học, ông cho rằng
“làm thơ, khó; bình thơ, cũng khó, là vì tài học của người, ít khi đủ cả” [51, tr.
371]. Cho nên việc dạy làm thơ văn rất quan trọng, những lúc rảnh rỗi ông
thường hỏi các quan về phép làm thơ, nếu quần thần không hiểu đều dạy bảo
chu đáo. Vì vậy, dưới con mắt của Thiệu Trị, chúng ta có thể hiểu được rất
nhiều về phép làm thơ đặc biệt là các thể thơ
3.2.1. Thể thơ
3.2.1.1. Thể thuyền liên
Thể Thuyền liên theo Thiệu Trị đã có từ lâu, nhưng chưa tìm ra được
nguồn gốc. Nhân học giả “tra Truyện chủ nhạ trong Tề thư nói: đức của hậu
phi ràng rịt cả trời đất, thông minh của vua chúa như mặt trời, mặt trăng đi
liền”. Thơ của Thẩm Đông Mỹ nói: “Ngọc kha ánh sáng ra vỏ, phất đỏ bóng
đẹp kéo liền”. Dư Phục Chi đời Hán nói: “Mũ vàng của Trung thường thị thêu
thêm con ve vào để làm văn hoa, cắm cái đuôi con điêu vào để trang sức”.
Truyện Dương Hùng nói: “Nhà Hữu Chu như con ve phô vẻ đẹp”. Thơ của
Mộng Đắc nói: “Muốn biết con chim sẻ nhảy là bụng nó thích, chính nên yêu
con ve như nói mãi không thôi”. Như vậy thì chữ “thuyền liên” ( ) hay
70
“thuyền liên” ( ) đều có nghĩa là cùng nối tiếp” [51, tr.977]. Thể này được
vận dụng theo nguyên tắc lấy một số chữ có vần giống nhau, sau đó theo thứ
tự để vận vào thơ, tuyệt đối không được lựa chọn trước sau, theo đúng trật trự
ban đầu.
Nhân việc nghiên cứu về thể thuyền liên, “Thiệu Trị đã đem những
chữ có vần ở bộ Bội phủ trước, tuỳ thứ tự mà vận vào thơ (như vần thất
dương, chữ dương ( ), chữ dương ( ), chữ hương ( ), chữ hương )
“không được chọn khó dễ, đổi chác, đảo lên, đảo xuống”. Nếu làm thơ theo
quy tắc đó thì tìm đến “cái nghĩa thuyền liên có lẽ gần đúng, chưa rõ những
bậc quân tử sáng suốt cho là thế nào” [51, tr. 977].
Về nguồn gốc của thể thuyền liên hiện chưa rõ. Trên đây là những quan
điểm của Thiệu Trị về thể thuyền liên. Theo chúng tôi đây là một tên gọi khác
của thể văn liên hoàn. Theo Nguyễn Tài Cẩn thì theo truyền thống, “liên hoàn
là thể thơ nhiều bài, láy phần cuối bài trước để làm phần đầu cho bài sau. Ví
dụ, ở bốn bài Than nghèo của Nguyễn Công Trứ, ta có:
Cuối bài một, đầu bài hai: Có lẽ ta đâu mãi thế này (lặp 2 lần).
Cuối bài hai, đầu bài ba: Mãi thế rồi ta sẽ tính đây (lặp 2 lần)
Cuối bài ba, đầu bài bốn: Chẳng lợi danh gì hoá lại hay (2 lần)” [8, tr.
348 -349]
Sau đó Nguyễn Tài Cẩn tiếp tục phân tích và cho rằng trong Vũ trung
sơn thuỷ, “phần láy thường phải là cả một đoạn, vì đoạn là đơn vị không phá
vỡ được” [8, tr. 348].
Tuy nhiên quan niệm của Thiệu Trị và quan niệm của Nguyễn Tài Cẩn
chỉ là những nét tương đồng, nghĩa là có sự liên hoàn. Nhưng bản thân người
viết không chắc chắn được thể thuyền liên chỉ là cách lặp lại của những chữ
cùng âm trong một bộ hay còn có sự lặp lại của cả một câu, một đoạn. Vì lí do
về thời gian cũng như về dung lượng của luận văn, chúng tôi chưa có điều
71
kiện đi vào tìm hiểu vì thế chúng tôi chỉ giới thiệu cho bạn đọc thấy được
những quan niệm về thể thơ thuyền liên được Thiệu Trị đề cập, in ở Đại Nam
thực lục mà thôi.
3.2.1.2. Thể đảo ngược
Thiệu Trị cũng giành thời gian nghiên cứu về thể đảo ngược. Căn cứ
vào Đại Nam thực lục, chúng tôi thấy Thiệu Trị nói với quần thần rằng “Lại
như thể thơ đảo ngược câu dưới lên trên, câu trên xuống dưới, cũng chưa rõ
xuất hiện từ bao giờ. Đời gần đây, tập thơ triều Càn Long nhà Thanh, có bài
Ngọc Lan Đường, dùng thể thơ vần thuyền liên; tập thơ triều Gia Khánh có
hai bài thơ Thiên trì, dùng theo đảo ngược cả vần cả câu. Nay xem thơ của hai
vua ấy làm ra, dùng vần thì cùng một phép, mà về thể cách lại không giống nhau,
hoặc giả đều có sở kiến ở chỗ nào, rất chưa thể hiểu được!” [51, tr. 978].
Đề cập trên của Thiệu Trị chứng tỏ ông giành thời gian quan tâm đến
thể thơ đảo ngược trong văn học cổ. Tuy nhiên, hiện chúng tôi không thấy tác
giả đề cập nhiều đến thể này. Nguyễn Như Ý trong Đại từ điển Tiếng Việt cho
rằng “đảo ngược là thay đổi hoàn toàn” [74, tr. 594]. Nhưng theo định nghĩa
của tác giả Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức về thể thơ hồi văn: “Đây là thể
thơ đọc xuôi, đọc ngược đều có nghĩa và đúng vần do đó cũng gọi là thuận
nghịch độc [32, tr233], còn theo Nguyễn Tài Cẩn thì “hồi văn là thể thơ đọc
quanh co đi lại đều thành câu” [8, tr. 351]. Từ những định nghĩa đó chúng tôi
suy nghĩ, thể đảo ngược mà Thiệu Trị đề cập là một phần trong thể hồi văn.
Hiện nay, một số nhà nghiên cứu tìm hiểu về thể liên hoàn cũng như
thể đảo ngược trong bài thơ Vũ Trung sơn thuỷ của Thiệu Trị như Nguyễn Tài
Cẩn, Nguyễn Tân Phong… đặc biệt có một bài nghiên cứu của tác giả Bùi
Văn Chất được in tại, Tạp chí Hán Nôm(2007), số 5 (84), Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, Nxb. Khoa học Xã hội Việt Nam đã đăng tải một bài viết giới thiệu
một số cách đọc bài thơ Non nước trong mưa rất thú vị như sau, chúng tôi xin
72
phép được trích vào bài viết của mình để cho bạn đọc thấy được tài năng của
Thiệu Trị dù chỉ mới qua một bài thơ:
Phiên âm:
Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn
Trướng giật phong tiền ngạn biện thanh
Sơn toả ám vân thôi trận trận
Lãng sinh khiêu ngọc địch thanh thanh
Sàn sàn thuỷ giản đài tư nhuận
Dạng dạng ba châu liễu mậu vinh
Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn
Hướng lâm song tiễn yến phi khinh
“Bản 1. Dịch từ nguyên bản:
1. Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngập
2. Lộng gió sông đào bến biếc xanh
3. Non phủ kín mây tuôn tới tấp
4. Sóng khêu thưa giọt gõ lanh canh
5. Lan man suối trải rêu tươi mập
6. Sóng sánh cồn vươn cỏ tốt xanh
7. Nhàn thoáng một câu thuyền nhẹ tắp
8. Dóng rừng dăng kéo én bay nhanh
Đây là bản 1được dịch từ nguyên bản của bài thơ. Sau đó tác giả
bài viết tiếp tục đọc được bản 2, theo nguyên tắc: Từ bản 1 đọc ngược bài từ
cuối lên, từ bên phải sang:
8. Nhanh bay én kéo dăng rừng dóng
7. Tắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhàn
6. Xanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóng
5. Mập tươi rêu trải suối man lan
73
4. Canh lanh gõ giọt thưa khêu sóng
3. Tấp tới tuôn mây kín phủ non.
2. Xanh biếc bến đào sông gió lộng.
1. Ngập dâng triều cuộn nước mưa dồn.
Bản 3. Từ bản 1, bản từ đầu, giữ nguyên câu, đọc ngược bài từ cuối lên.
Bản 4. Từ bản 1, giữ nguyên câu, đọc ngược bài từ dưới lên.
Bản 5. Theo bản 1, đảo vế theo từng cặp: 2 - 1, 4 - 3, 6 - 5, 8 - 7, đọc
ngược câu từ phải sang.
Bản 6. Từ bản 6 đọc ngược bài từ dưới lên.
Bản 7. Theo bản 1, đọc ngược từ chữ thứ 5, để yên 2 chữ (từ) cuối…”
3.2.1.3 . Thể cách của thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ và 9 chữ
Một lần khi đang xem xét việc các quần thần biên tập cuốn Thiệu Trị
văn quy vua bảo quan Nội các rằng: “Những thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7
chữ, 8 chữ, 9 chữ và thể cách của các nhà thơ, các ngươi đã từng xét rõ
chưa?”. Nguyễn Bá Nghi và Vũ Phạm Khải thưa rằng: “Chúng tôi chưa học
thơ. Trước đây sai chúng tôi xét rõ thể cách của các nhà thơ ở các đời trước,
chúng tôi hơi biết được một, hai điều, chứ chưa biết hết được”.
Khi thấy các quan đại thần có vẻ lúng túng, ông liền lí giải về nguồn
gốc của thơ, ông cho rằng thơ bắt nguồn từ trong cái tình mà phát ra chứ
không phải bắt nguồn từ Kinh thi “Có tình thì có nói ra, có nói ra thì có thơ.
Thơ, không phải bắt đầu từ 300 thiên [trong Kinh thi]”. Nhưng trong 300
thiên của Kinh thi lại có nhiều loại thơ như câu “chân chân lộ”, thơ 3 chữ
trước từ đấy; câu “quan quan thư cưu”, thơ 4 chữ trước từ đấy; câu “thuỳ vị
tước vô giác”, thơ 5 chữ trước từ đấy; câu “ngư lệ vu lựu phường lý”, thơ 6
chữ trước từ đấy; câu “giao giao hoàng điểu chỉ vu cúc”, thơ 7 chữ trước từ
đấy; câu “ngã bất cảm hiệu ngã hữu tự dật”, thơ 8 chữ trước từ đấy; câu
“quýnh chức bỉ hành lạo ấp bỉ chú tư”; thơ 9 chữ trước từ đấy” [51, tr. 978].
74
Ngay sau khi giảng giải về nguồn gốc của thơ, đưa ra dẫn chứng thế
nào là thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ… nhà nghiên cứu còn giới thiệu tới quần thần
của mình các thể cách trong các loại thơ từ 3 chữ đến 9 chữ này. Theo ông, từ
bài Hoàng nga ca của mẹ Thiếu Hiệu đến bài Ngư phủ từ của Trần Kế nhà
Minh thì thơ gồm 57 thể như sau:
1.Hoàng nga ca của mẹ Thiếu Hiệu, 2. Binh pháp tứ ngôn thể của
Hoàng đế, 3. Khánh van ca của Đường Nghiêu răn bảo Ngu Thuấn, 4. Chú
đỉnh do thương minh của Hạng Vũ, 5. Quán bàn minh của Chu Vũ vương, 6.
Thuỷ tiên thảo của Bá Nha, 7. Việt nhân ca, 8. thể Tam ngôn của Lỗ Liêu Tử,
9. Đại phong ca của Hán Cao đế, 10. Bách lương thể của Vũ đế, 11. Lâm hà
ca của Chiêu đế, 12. Ngũ ngôn cổ thể của Tô Vũ, 13. Tửu bàn minh của Âu
Trọng Khâm nhà Tấn, 14. Tạp số thể, 15. Mê tự thể của Bào Minh Viễn nhà
Tống, 16. Tứ khí thể của Vương Vi, 17. Điệu khúc, 18. Cửu ngôn thể của Dữu
Ngôn Thương nhà Bắc chu, 19. Hồi văn thể, 20. Tứ sắc thể của Vương Sinh
nhà Tề, 21. Quái danh thể của Giản Văn đế nhà Lương, 22. Cú dụng tử thể,
23. Cung điện danh thể, 24. Thụ danh thể, 25. Điểu danh thể của Nguyên đế,
26. Kiến trù thể của Tuyên đế, 27.Quận huyện danh thể của Phạm Vân, 28.
Khẩu tự thể, 29. Bát âm thể, 30. Lục phủ thể của Trần Thẩm Quýnh, 31.Tam
ngũ, 32. Thất ngôn thể, 33. Hổ lô vận thể của Lý Bạch nhà Đường, 34. Cô
nhạn nhập quần thể, 35. Cô nhạn xuất quần thể của Đỗ Phủ, 36. Chiết tự thể,
37. Tràng đoản cú thể của Bạch Lạc Thiên, 38. Lục ngôn thể của Cố Huống;
39. Điệp vần thể của Bì Nhật Hưu; 40. Toàn bình thể của Lục Quy Mông; 41.
Dược danh ly hợp thể, 42. Chương kiệt song vận thể của Trương Tịch, 43.
Thủ vĩ ngâm của Thiệu Nghiêu Phu nhà Tống, 44. Phiên đối cách của Tô
Đông Pha, 45. Tràng tự hồi văn thể của Tần Quan, 46. Toàn trắc thể của Mai
Nghiêu Thuần, 47. Diệp tử thể và 48. Sư trung tiến thoái cách của Vương
Thập Bằng, 49. Trùng điệp tự thể, và 50. Văn đồng nhất tự chí thập tự thể và
75
51. Hoả diệm thể, 52. Phi nham thể, 53. Phật ấn diệp vận, 54. Tràng thi thể
của Triệu Cát Sĩ, 55. Ngư phủ từ của Trần Kế nhà Minh, 56. Thể đảo cú. 57.
Thể thuyền liên.
Tất cả gồm 57 thể của thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, 9
chữ. Tất cả các thể này đều được Thiệu Trị yêu cầu quần thần chú thích, lí
giải, bổ sung trong cuốn Thiệu Trị văn quy. Tuy nhiên, hiện nay cuốn sách
còn hay mất không rõ thế nào. Ngoài ra, ông còn liệt kê “46 thể cách, nhưng
không ngoài thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ” [51, tr. 979].
3.2.1.4. Thể cách của thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ
Trong Đại Nam thực lục Thiệu Trị giới thiệu 46 thể chỉ giành cho thơ
4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, theo ông thì thể cách của 3 loại thơ này là “trùng phức
khiên cưỡng, không đủ lấy được”, 46 thể trên mới chỉ là hiểu biết bước đầu
của ông. Dù chưa đủ nhưng ông cho rằng nó rất quan trọng “không thể thiếu”
vì thế ông yêu cầu quần thần “cứ ghi chép lại để đó” [51, tr. 979]. Gồm:
1. Nhị cú ca thể của Kinh Kha; 2. Nhất cú ca thể của Hán thư; 3. Hậu
chương tự tiếp tiền chương Tào Tử Kiến; 4. Tăng tự thể của Dữu Tín nhà Bắc
Chu; 5. Diên đảo vận thể của Giản Văn đế nhà Lương; 6. Tướng quân quan
thể, 7. Sa danh thể, 8. Thuyền danh thể, 9. Thảo danh thể, 10. Thú danh thể
của Nguyên đế; 11. Danh thể của Phạm Vân Châu; 12. Lục giáp thể của Trần
Thẩm Quýnh;13. Giảm tự thể của Vương Duy; 14. Đoạn cú thể của Lý Bạch;
15. Thủ vĩ đối thể, 16. Tưu cú đối thể, 17. Lộc lư thể, 18. Tràng xuân thể, 19.
Phân triệt thể, 20. Dao đính thể, 21. Hư thực tương gián thể, 22. Xong khởi
đan kết thể, 23. Đan khởi xong kết thể của Đỗ Phủ; 24. Tam vận thi của Lý
Ích; 25. Thủ vĩ bất đối thể, 26. Tá đối thể của Mạnh Hiệu Nhiên; 27. Thượng
toàn bình, hạ toàn trắc thể của Lục Quy Mông; 28. Tứ thanh thi thể, 29. Tính
danh thể của Khổng Bình Trọng nhà Tống; 30. Dược danh thi thể của Dới
Bính; 31. Lưỡng đầu tiêm tiêm thể, 32. Cổ ngũ tạp tổ thi thể, 33. Tống thi
76
giao cổ đối thể, 34. Bồi giai thể, 35. Súc cú thể, 36. Cấm hoán thể, 37. Trắc
khởi thể, 38. Phong yêu thể, 39. Đoạn huyền thể, 40. Song thanh điệp vận thể
của Trương Thuấn Dân; 41. Dao đối thể của Trịnh Đôi Quan; 42. Bàn trung
thể của vợ Tô Bá Ngọc; 43. Thập nhị thời thần thể, 44. Nhất tự chí thất tự thể,
45. Nhất tự chí cửu tự thể, 46. Thập tự thể của Hồ Nghiễm nhà Minh.
Sau đó, ông bảo với các đại thần rằng “Phép làm thơ của đời xưa, đời
nay nhiều đến 120 thể, thể nào dễ, thể nào khó?”. Trương Đăng Quế thưa
rằng: “Tự chúng tôi xem ra, đều là khó cả!”. Vua nói rằng: “Cổ thể, không dễ
học. Đại để, từ đời Tam đại trở về trước, thể cách đều khó; từ đời Tam đại trở
về sau xem ra hơi dễ. Đời càng về sau, thể cách thơ càng yếu đi! Nhà Đường
không bằng nhà Hán, nhà Tống không bằng nhà Đường”. Lại hỏi: “Thơ có thể
cấm, bắt đầu từ bao giờ?”. Vũ Phạm Khải thưa rằng: “Âu Dương Tu xướng
ra, Tô Đông Pha hoạ theo. Vua Càn Long nhà Thanh phần nhiều dùng thể ấy”
[51, tr. 980].
Một bài thơ hay phải hội tụ đủ ba yếu tố: ý, lời, và cách thể hiện ý và
lời. Thánh nhân nói không học thi không thể nói được”, “bình thơ, khó, làm
thơ khó, là vì tài học của người chưa đủ cả” [51, tr. 977]. Vì vậy, thơ không
thể không học, “nhưng thi ở trong thi, tuy gốc ở tính tính, mà thể cách thi
cũng không biết rõ, nếu thể cách không biết rõ, thì giỏi đến 8 lần xoa tay làm
thành bài phú1, tài rộng đến 7 bước làm được bài thơ2, cũng khó thố trí được,
từ đời xưa các bậc đế vương, các bài thơ to tát không phải là không có nhiều,
các nhà thi hào làm ra thơ cũng không phải ít, một đời có thể cách một đời,
một nhà có thể cách một nhà, mà thấy ở thơ Cổ tuyển3 sách Ngọc hải4 độ
1 Tám lần xoa tay làm thành bài phú: Ôn Đình Quân mỗi khi vào thi cứ 8 lần xoa tay thì làm được một bài phú (theo Vận phủ, bộ xoa). 2 Bảy bước làm xong bài thơ: Tào Thực con Tào Tháo, đời Tam quốc, có tài mẫn tiệp, thất bộ thành thi. 3 Cổ tuyển: Về Chiêu Minh thái tử mà có tên là Cổ tuyển (theo Từ nguyên). 4 Ngọc hải: là bộ sách quý của Vương Ứng Lâm nhà Tống làm ra, tra ở bộ hải (theo Từ nguyên).
châm cũng ít [51, tr. 979].
77
Nhà vua nhân những lúc rảnh rỗi đọc sách xong lại làm thơ kỷ sự,
không ngờ ngày tháng kế tiếp mãi, tích thành một pho sách, sự màu nhiệm
của thơ, giúp tác giả, ngày càng hiểu được càng sâu, suy nguyên đến chỗ gốc
nguồn từ đời xưa đến nay, xét các chỗ giống nhau, chỗ khác nhau của các nhà
“tìm hết cả chương pháp, phân biệt thể tài”. “Nhà làm thơ có thể cách cũng
như nhà dụng binh có trận chính, trận kỳ, tham khảo cả đi mà cùng nhìn cả
hai đằng, không bằng hợp cả làm một mà tổng quát lại để tiện xem cho rõ”
[51, tr. 980]. Minh chứng cho những quan niệm của ông về thi pháp làm thơ
không chỉ qua những bài giảng giải cho quần thần mà còn được minh chứng
qua tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, là tập hợp những bài thơ có
liên quan đến thể cách đời xưa và đời nay, gồm hơn 70 thể được 157 bài thơ.
Tiểu kết:
Mặc dù bận rộn với chính sự, thế nhưng không lúc nào Thiệu Trị quên
cầm trên tay cuốn sách. Ông nghiên cứu hết sách Đông Tây kim cổ, đặc biệt
là thi pháp thơ. Việc ông liệt kê một mạch hơn 100 thể thơ, từ đời này đến đời
khác, theo thứ tự trước sau là một việc xưa nay chưa từng có. Điều đáng kính
nể ở ông chính là việc ngày tháng ông vừa đọc, vừa nghiên cứu lại vừa ghi
chép lại cho đời sau tiện dùng.
Vốn nhận thức được “Âm vận là quản hạt của bài thơ, tập vận là văn
sức của bài thơ” [51, 981], ông cho làm bộ sách Văn quy, “Bộ sách Văn quy
sẽ bổ sung những chỗ khuyết lược của bộ Vận phủ. Sách Văn quy làm xong
thì học giả có bằng cứ mà tra xét, bất tất tìm ở các sách Tự điển và Vận phủ,
mà âm vận chữ nghĩa cũng biết được rõ ràng, là bờ bến cho hậu học, giúp
ích được nhiều lắm. Các ngươi phải nên gia tâm dốc sức, người chăm thì
khen, người lười thì thúc đẩy, để có sự khuyên răn”. Rồi đem theo một vần
“nhất đông” tiến trình. Dụ rằng: “Ấy là đại lược đó, tựu trung có chỗ nào còn
thiếu sót thì phải bổ thêm, nếu phiền nhũng thì bỏ bớt đi” [51, tr. 981].
78
Những nghiên cứu của ông về mặt thi pháp là một việc làm quan trọng
không chỉ bổ sung những chỗ thiếu trong nền văn học được xem là yếu kém
về mặt phê bình mà còn giúp người đọc hiểu hơn được sự huyền diệu của thi
pháp trong việc ứng dụng vào nghệ thuật làm thơ. Điều đáng nói ở đây là ông
không chỉ nói suông, nhận xét suông mà ông còn minh chứng bằng việc vận
dụng các thi pháp đó vào sáng tác của mình, như bộ Ngự chế cổ kim thể cách
thi pháp tập.
Thiệu Trị là người tiên phong cho trào lưu nghiên cứu thi pháp ở Việt
Nam. Ông là một tác giả lớn nhưng với bản tính khiêm tốn, ham học hỏi và
biết bảo lưu lại những điểm mạnh yếu của các đời trước để bổ khuyết vào
những điểm yếu của văn học dân tộc. Bộ Thiệu Trị văn quy nếu được dịch ra
tiếng Việt, chắc chắn là một bộ sách nghiên cứu lớn và có ý nghĩa đối với nền
lí luận phê bình của văn học Việt Nam.
79
KẾT LUẬN
1. Hiện nay, tài liệu bằng tiếng Việt về sự nghiệp văn chương của
Thiệu Trị có không nhiều nên bài viết của chúng tôi chỉ dừng lại ở khảo sát,
phân loại, tổng hợp tác phẩm chủ yếu dựa vào Đại Nam thực lục. Điều này sẽ
là hạn chế đối với mong ước phác hoạ một cách đầy đủ sự nghiệp văn chương
của Thiệu Trị.
2. Tuy vậy, chúng tôi cố gắng giới thiệu một cách trọn vẹn nhất có thể
về chân dung của Thiệu Trị. Chúng tôi quan niệm rằng, thời đại có sức ảnh
hưởng đến mĩ quan, tư duy và nhận thức, ảnh hưởng đến sức sáng tạo và nội
dung văn chương của hầu hết các tác giả, đặc biệt Thiệu Trị lại làm vua, sức
ảnh hưởng của thời đại đối với ông không chỉ trên phương diện văn học, mà
còn cả về nghệ thuật cai trị. Trong lịch sử Việt Nam, hoàng đế làm thơ không
phải là hiện tượng hiếm thấy, nhưng số lượng tác giả cũng như tác phẩm để
lại không nhiều. Đặt Thiệu Trị trong các dòng chảy đó để thấy được sự vượt
trội của ông cả về số lượng lẫn chất lượng không chỉ theo chiều dọc mà theo
cả chiều ngang; thấy được sức đóng góp của ông trong hai dòng văn học này
thật đáng ngưỡng mộ.
3. Đến với thế giới thơ của Thiệu Trị không chỉ thấy sự đa thanh âm về
nội dung mà còn đủ màu sắc về nghệ thuật, thơ ông được viết theo nhiều lối,
thể thơ liên hoàn, thể thơ đảo ngược, thể thất ngôn… Chỉ với “Non nước
trong mưa” đã khiến cho một học giả lớn như Nguyễn Tài Cẩn phải tốn không
biết bao nhiêu thời gian, công sức cuối cùng viết nên cuốn sách để đời Tìm
hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài “Vũ Trung sơn thuỷ” của Thiệu Trị
thì không có lí nào Thiệu Trị lại không được nhìn nhận trong vai trò là tác giả,
nhà nghiên cứu văn học.
80
4. Mặt khác, nghiên cứu về Thiệu Trị giúp cho người đọc hiểu hơn đức
tính hiếu thảo, tấm lòng yêu nước, yêu người thân, quần thần, yêu thiên nhiên
cỏ cây hoa lá, lo lắng cho cuộc sống của người dân đồng thời hiểu được
những đóng góp đối với nền văn học, văn hoá nước nhà của một ông vua vốn
ít được lịch sử nhắc đến.
5. Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ
XIX đã tạo ra một một bước phát triển vượt bậc về số lượng cũng như chất
lượng với những tác giả nổi tiếng được lịch sử ngợi ca hết lời như Đặng Trần
Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Tùng Thiện
Vương… Văn chương Thiệu Trị xét cả về chất và lượng không thua kém gì
những bậc tao nhân mặc khách này, mà thậm chí còn vượt trội so với nhiều
tác giả được người đời công nhận. Nhưng buồn thay, cho đến nay Thiệu Trị
và tác phẩm của ông vẫn ở trong tình trạng “vô tri bất mộ” (không biết nên
chẳng mấy mến chuộng). Điều này khiến cho ông và tác phẩm của ông chưa
có được một vị trí xứng đáng trong lịch sử nước nhà.
6. Nghiên cứu về Thiệu Trị là việc làm quan trọng trong bối cảnh phục
hưng nền văn hoá như bây giờ. Các tác phẩm của ông cần được dịch và giới
thiệu đối với đông đảo bạn đọc, trước tiên để thấy được sức làm việc kì diệu
của ông, sau đó thấy được vai trò vị trí của ông trong dòng văn học hoàng
phái nói riêng và trong dòng văn học nói chung. Các tác phẩm của ông sẽ bổ
sung thêm một chỗ trống trong lịch sử văn học cũng như giúp cho các học giả
văn chương có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu về hệ thống thi pháp mà Thiệu Trị
và quần thần đã bỏ công sức và thời gian nghiên cứu.
7. Thiệu Trị đã mất đúng 166 năm, đồng nghĩa với việc tác phẩm và
những nghiên cứu của ông đã nằm yên trong 166 năm. Đã quá muộn trong
việc dành cho ông một vị trí xứng đáng trong văn học cổ nước nhà. Hi vọng
81
trong tương lai không xa văn học sử, từ điển về tác giả, các sách về tiến trình
văn học Việt Nam không ngần ngại khi ghi tên ông vào.
8. 166 năm trôi đi, nhiều phong cảnh ngày xưa nay vẫn trầm mặc, toả
vẻ đẹp cổ kính rêu phong ở Huế. Nhiều du khách đến Huế có thể chiêm
ngưỡng được những dòng thơ in trên những bức điện đã phủ màu thời gian.
Biết bao thi nhân đã đến và để lại chút tình của mình đối với cố đô bằng
những vần thơ. Nhưng không ai biết rằng, cách đây hơn 200 năm, một người
con của Huế đã sinh ra, người con đó đã yêu Huế bằng cả trái tim của mình,
người con đó đã vẽ nên những bức tranh thơ về Huế tuyệt đẹp đó là Thiệu Trị.
9. Qua việc giới thiệu chân dung của Thiệu Trị với tư cách là một
tác giả văn học, chúng tôi hi vọng sẽ mở ra một chiều hướng tốt đẹp cho
việc nghiên cứu về văn chương của vua Thiệu Trị cũng như các tác giả
văn học triều Nguyễn, hi vọng với bao khám phá sẽ được mở ra khi mà
tên tuổi của Thiệu Trị đi vào lịch sử văn học Việt Nam.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thuận An (1997), Thần kinh nhị thập cảnh: Thơ vua Thiệu Trị,
Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế - Nxb. Thuận Hóa, Huế.
2. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học Xã hội.
3. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, Nxb. Văn học, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (2004), 150 từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
5. Tôn Thất Bình (2006), Huế - Những giai thoại, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
6. Trương Quang Cảm (2009), Thái sư, Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng
Quế (1793 - 1895), Nxb. Văn học, Hà Nội.
7. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài “Vũ
Trung sơn thủy” của Thiệu Trị, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
8. Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn
hóa, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Hoàng Giáp Đinh Văn Chấp (2011), Tuyển dịch thơ đời Lý - Trần, Nxb.
Lao Động, Hà Nội.
10. Hà Như Chi (?), Việt Nam thi văn giảng luận: Văn học triều Nguyễn thế kỉ
XIX, Nxb. Tân Việt.
11. Trần Hữu Duy (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Đình Đầu (1997), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
83
13. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê
Chí Dũng, Hà Văn Đức (2010), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb.
Giáo dục Việt Nam.
14. Hà Minh Đức chủ biên (2006), Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
15. Mạc Đường và nhóm tác giả (1992), Những vấn đề văn hoá xã hội thời
Nguyễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Trần Văn Giàu (1992), Vài nhận xét về thời Nguyễn, Những vấn đề văn
hoá xã hội thời Nguyễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 15 - 21
17. Phạm Khắc Hòe (1986), Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, Nxb. Thuận
Hóa, Huế.
18. Đinh Gia Khánh (2001), Điển cố văn học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
19. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
20. Trúc Khê (1972), Ba nữ sĩ con vua Minh Mệnh, Tạp chí Văn học, Sài
Gòn, số 150, tr. 6 - 10.
21. Hà Xuân Liêm (2006), Những người bạn cố đô Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
22. Bùi Ngọc Long (2013), Tiếng chuông Thiên Mụ, Nguồn:www.thanh
niên.com.vn.
23. Bùi Ngọc Long (2013), Nơi săn bắn của các bậc đế vương, Nguồn:
www.thanhnien.com.vn.
24. Bùi Ngọc Long (2013), Trang sử bi thương của cửa biển Thuận An,
Nguồn: www.thanhnien.com.vn.
25. Bùi Ngọc Long (2013), Thần kinh nhị thập cảnh qua sử sách, Nguồn:
www.thanhnien.com.vn.
26. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII - Hết thế kỷ
XIX), Nxb. Giáo dục Việt Nam.
27. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hoá Huế xưa, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
84
28. Lê Nguyễn Lưu (1996), Huế đẹp - thơ - Ngàn năm di sản, Nxb. Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
29. Lê Nguyễn Lưu (1998), Vua Minh Mệnh và Viện Thái y triều Nguyễn,
Nxb. Thuận Hoá, Huế.
30. Trần Thanh Mại (2000), Tuy Lý Vương, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
31. Minh Mệnh (2000), Ngự chế văn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Nxb. Hà
Nội, Hà Nội.
32. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
33. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc (1995), Nguyễn Phúc tộc thế phả, Nxb.
Thuận Hóa, Huế.
34. Trần Nghĩa - PROF. FRANCOIS - GROS (1993), Di sản Hán Nôm Việt
Nam: Thư mục đề yếu, Tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Trần Nghĩa - PROF. FRANCOIS - GROS (1993), Di sản Hán Nôm Việt
Nam: Thư mục đề yếu, Tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
36. Trần Nghĩa - PROF. FRANCOIS - GROS (1993), Di sản Hán Nôm Việt
Nam: Thư mục đề yếu, Tập 3, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Nhóm tác giả (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Tạp chí Xưa và
Nay, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Nhóm tác giả (1994), Triều Nguyễn những vấn đề lịch sử tư tưởng và văn
học: chuyên đề tư tưởng Việt Nam dưới thời Nguyễn, Nxb. Đại học Sư
phạm Huế, Huế.
39. Nhóm tác giả (2008), Triều Nguyễn và lịch sử chúng ta, Tạp chí Xưa và
Nay, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Nhóm tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
41. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
85
42. Nguyễn Tân Phong (1994), Về hai bài thơ hồi văn kiêm liên hoàn của vua
Thiệu Trị, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
43. Nguyễn Phương (1963), 82 năm Việt sử, Nxb. Đại học Sư phạm Huế, Huế.
44. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỉ XIX (1802 – 1884), Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
45. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận
Hoá, Huế.
46. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb. Giáo dục.
47. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb. Giáo dục.
48. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb. Giáo dục.
49. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 4, Nxb. Giáo dục.
50. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 5, Nxb. Giáo dục.
51. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 6, Nxb. Giáo dục.
52. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 7, Nxb. Giáo dục.
53. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 8, Nxb. Giáo dục.
54. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 9, Nxb. Giáo dục.
55. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 10, Nxb. Giáo dục.
56. Nguyễn Phước Bảo Quyên, Lê Nguyễn Lưu (2008), Tùng Thiện Vương
đời và thơ, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
57. Vương Đình Quyền (1995), Thông tin liên lạc hành chính dưới thời vua
Minh Mệnh, Văn thư lưu trữ, số 4, tr. 20 - 23.
58. Trương Hữu Quýnh chủ biên (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1,
Nxb. Giáo dục.
59. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb. Văn học, Thành phố Hồ Chí
Minh.
60. Trần Đức Anh Sơn (2004), Huế - triều Nguyễn một cái nhìn, Nxb. Thuận
Hóa, Huế.
86
61. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
62. Trần Nho Thìn (2007), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hoá, Nxb. Giáo Dục.
63. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây
dưới triều Nguyễn (1802-1858), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
64. Tố Am Nguyễn Toại (2002), Những phát hiện mới về Triều Nguyễn, Nxb.
Văn Nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
65. Phan Thúc Trực (2009), Quốc sử di biên, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
66. Trần Như Uyên (1967), Những khuynh hướng chủ yếu trong thơ Tuy Lý
Vương, Nxb. Khoa học Xã hội.
67. Hồ Vĩnh (2000), Dấu tích văn hoá thời Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
68. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà Nho tài tử và Văn học Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
69. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
70. Trần Ngọc Vương (1998) (chủ biên), Tân thư và Xã hội Việt Nam cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
71. Tương An Quận Vương (1957), Trăm thương, Văn hóa “Nguyệt san”, Bộ
quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, Số 24.
72. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng lịch sử Việt
Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1992), Những vấn đề văn hoá – Xã hội thời
Nguyễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.
73. Nguyễn Đắc Xuân (2011), Nghiên cứu triều Nguyễn và Huế xưa, Nxb.
Thuận Hóa, Huế.
87
74. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin.
75. M.B. Khrapcheonko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp
nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, Nxb.Đại học
Quốc gia Hà Nội.
76. M. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, Nxb. Tác phẩm mới.
88