ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
NGUYỄN THỊ ĐIỆP
ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT,
HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
NGUYỄN THỊ ĐIỆP
ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT,
HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU
(TỪ 1965 ĐẾN NAY)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.21
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ
HÀ NỘI – 2014
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Văn học đã tạo
điều kiện cho em hoàn thành tốt khóa học.
Em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lưu
Khánh Thơ. Cô đã định hướng đề tài, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động
viên em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Gia đình, Tập thể lớp Cao học Văn khóa
2011 - 2014, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành
luận văn.
Hà Nội, ngày 26 tháng 06 năm 2014
Người viết
Nguyễn Thị Điệp
i
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... i
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
2.1. Phạm Tiến Duật .......................................................................................... 4
2.2. Hữu Thỉnh .................................................................................................. 7
2.3. Nguyễn Đức Mậu ....................................................................................... 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10
3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 10
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 10
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 11
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 12
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 12
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 13
CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ CHỐNG MỸ VÀ
SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ NHÀ THƠ TRẺ CHỐNG MỸ ............... 13
1.1. Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ .................................................... 13
1.2. Thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ ............................................................. 16
1.2.1. Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước ........................... 16
1.2.2. Các chặng đường thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước ......................... 18
1.2.2.1. Chặng đường thứ nhất: từ 1964 đến 1968 ......................................... 18
1.2.2.2. Chặng đường thứ hai: từ 1969 đến 1972............................................ 20
1.2.2.3. Chặng đường thứ ba: từ 1973 đến 1985 ............................................. 21
1.3. Khái quát về nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu .. 23
1.3.1. Nhà thơ Phạm Tiến Duật ....................................................................... 23
ii
1.3.2. Nhà thơ Hữu Thỉnh ............................................................................... 26
1.3.3. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu .................................................................... 28
CHƢƠNG 2: CÁI NHÌN CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN
DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU ............................................ 32
2.1. Đôi nét so sánh giữa thơ miền Nam và thơ miền Bắc cùng thời kỳ (1955 - 1975) 32
2.2. Hiện thực đời sống chiến trường .............................................................. 33
2.2.1. Hiện thực mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca ........ 34
2.2.2. Sự khốc liệt của chiến tranh………………………………………… 41
2.2.3. Hiện thực của sự hi sinh gian khổ. ........................................................ 48
2.2.4. Tội ác của kẻ thù ................................................................................... 53
2.3. Hình tượng người lính .............................................................................. 57
2.3.1. Lạc quan yêu đời, trẻ trung tinh nghịch ................................................ 58
2.3.2. Tình yêu đối với Tổ quốc và Nhân dân anh hùng. ............................... 62
2.3.3. Dũng cảm chiến đấu, ý chí quật cường ................................................. 67
2.3.4. Tình đồng đội ........................................................................................ 69
2.3.5. Tình yêu đôi lứa .................................................................................... 71
2.4. Cái nhìn về chiến tranh sau chiến tranh ................................................... 74
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG
THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU. ..................... 81
3.1. Thể thơ. .................................................................................................... 81
3.1.1. Thể thơ tự do. ........................................................................................ 81
3.1.2. Thơ lục bát............................................................................................. 86
3.1.3. Trường ca .............................................................................................. 90
3.2. Biểu tượng ................................................................................................ 94
3.2.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................ 94
3.2.2. Một số biểu tượng tiêu biểu trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Đức Mậu ............................................................................................ 95
3.2.2.1. Biểu tượng ngọn lửa, ngọn đèn .......................................................... 95
iii
3.2.2.2. Con đường .......................................................................................... 98
3.2.2.3. Cỏ ..................................................................................................... 102
3.2.2.4. Cây súng ........................................................................................... 105
3.2.2.5. Cánh rừng ......................................................................................... 107
3.2.2.6. Máu ................................................................................................... 109
3.3. Ngôn ngữ ................................................................................................ 111
3.3.1. Ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, giàu chất hiện thực đời sống 112
3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất trí tuệ, chính luận ................................................ 116
3.4. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ ............................ 118
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 126
iv
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1945, A.TonXtoi – nhà văn chuyên viết về đề tài chiến tranh của
Nga Xô Viết đã phỏng đoán: “Trong 100 năm tới, chiến tranh vẫn là cảm
hứng sáng tạo cho toàn bộ nghệ thuật – từ bi kịch sử thi cho đến cả những bài
thơ tứ tuyệt, trữ tình . . .”
Trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, mặc dù chưa ai thống kê
được chính xác có bao nhiêu tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng nhưng
có một điều chắc chắn, đó là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn của nhiều thế hệ
văn nghệ sĩ. Những tính cách cao đẹp xuất hiện trong chiến tranh không
những không mất đi mà còn thể hiện ở nhiều khía cạnh trong nhiều bài văn,
bài thơ có sức hấp dẫn lớn. Một loạt những nhà văn, nhà thơ trưởng thành từ
sau chiến tranh, đã thực sự chiếm lĩnh được sự tin cậy của độc giả. Đề tài
chiến tranh luôn được phản ánh tinh tế với nhiều khía cạnh sâu sắc.
Đề tài chiến tranh không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận của
nền văn học thế giới mà đối với nền văn học Việt Nam đề tài lịch sử dân tộc,
đề tài chiến tranh chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống thể loại của nền
văn học mới nói chung và thơ ca nói riêng. Hiện thực mà đề tài này mô tả
chính là cuộc sống đấu tranh của toàn dân tộc .
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khơi nguồn cảm hứng cho
thơ, lôi cuốn một lực lượng sáng tác đông đảo. Thơ chống Mỹ đã góp phần
không nhỏ trong việc phản ánh một thời kỳ lịch sử đầy gian lao, thử thách
nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc. Các thế hệ làm thơ cùng có mặt bên nhau
trong trận tuyến đánh Mỹ ác liệt. Lớp nhà thơ trưởng thành trước cách mạng
Tháng Tám như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… đã nâng cao
tầm tư tưởng, phản ánh kinh nghiệm, trẻ trung trong tâm hồn, khỏe trong sức
viết, khẳng định được hướng đi lên, đã “truyền lửa” cho thế hệ sau.
1
Lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ là
một đội ngũ đông đảo, đa phần trong số họ là những người vừa cầm súng
đánh giặc vừa làm thơ. Có thể kể đến rất nhiều gương mặt tiêu biểu cho thế hệ
các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ nói riêng, cho thơ kháng chiến chống Mỹ nói
chung như: Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Nguyễn
Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm… Và sẽ thiếu sót
lớn nếu không nói đến Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu - là
những người lính, nhà thơ đã gắn bó sâu nặng với tuyến đường Trường Sơn
lịch sử, cũng là một trong những chiến trường ác liệt của đất nước ta thời kỳ
chống Mỹ. Các anh sinh ra là để làm thơ và trở thành đỉnh cao của thơ ca thời
kỳ này.
Từ mỗi góc nhìn, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã
cung cấp cho người đọc nhiều góc độ khác nhau về cuộc chiến tranh, đó là
niềm vui và nỗi đau, số phận con người trong và sau cuộc chiến, chất anh
hùng ca… Đặc biệt ở giai đoạn hiện nay, khi chiến tranh đã lùi xa mấy mươi
năm vẫn có không ít tác phẩm hay viết về chiến tranh, điều đó đã chứng minh
đề tài về chiến tranh, về người lính vẫn mãi có sức lay động lòng người, đánh
thức lương tri con người và niềm khát khao một cuộc sống hòa bình. Phạm
Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu thành công ở nhiều đề tài khác
nhau, trong các đề tài ấy chiến tranh là một ám ảnh đối với các anh.
Đã có nhiều công trình, những bài nghiên cứu về thơ của Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở việc giới
thiệu, đánh giá từng tập thơ hay những nét chính trong những phong cách
nghệ thuật… Xét đến cùng thì đề tài chiến tranh nói chung và trong thơ trẻ
thời kỳ chống Mỹ nói riêng vẫn luôn là nỗi ám ảnh đầy nhức nhối, những dư
âm của cuộc chiến tranh vừa qua vẫn là nguồn cảm hứng to lớn cho những
người cầm bút như các anh. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình
nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về đề tài chiến
2
tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.Vì vậy ở luận
văn này chúng tôi đi vào một phương diện mới đó là Đề tài chiến tranh
trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến
nay). Thiết nghĩ đây là một việc cần thiết và có ý nghĩa trong việc khẳng định
vị trí, tài năng của các nhà thơ. Đồng thời cho chúng ta một hướng tiếp cận
mới về mảng đề tài chiến tranh luôn mang tính thời sự, qua cái nhìn đa chiều
của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Bên cạnh đó, với việc
lựa chọn đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn vận dụng những lý thuyết
truyền thống kết hợp với lý thuyết hiện đại để đi sâu tìm hiểu những yếu tố
đặc sắc trong thơ, mong tìm ra được những mạch ngầm nội tại làm nên sức
sống bền vững vượt thời gian trong mỗi tác phẩm của các anh.
2. Lịch sử vấn đề
Thế hệ nhà thơ chiến sỹ - nhà thơ trẻ đem lại cho thơ sức sáng tạo mới,
trẻ trung, trong sáng, gợi cảm, họ mang đến cho cả nền thơ bằng tiếng nói sôi
nổi, mới mẻ, duyên dáng, đặc sắc của riêng lứa tuổi trẻ mà thế hệ nhà thơ
trước không thể nói thay được. Thơ bám sát hiện thực sôi động của cuộc
kháng chiến và nhanh chóng phản ánh kịp thời những sự kiện lớn lao của đất
nước, phản ánh sự dũng cảm hi sinh quên mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thống nhất nước nhà. Không ít các tài năng đã
được sớm chú ý và khẳng định như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn
Đức Mậu và rất nhiều nhà thơ trẻ khác nữa. Họ nhận thức được rằng: “Thế hệ
này chứ không phải ai khác đã tự hiểu, tự nhận thức một cách đúng đắn con
đường đi của mình. Vừa cầm súng vừa cầm bút, họ đã viết về thế hệ mình
một cách trân trọng, tự hào” (Hữu Thỉnh). Qua ngòi bút tài năng của Phạm
Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh chiến tranh hiện lên một
cách sắc nét, sinh động. Mỗi trang thơ thấm đấm chất anh hùng ca như một
dòng sông hào hùng chảy xiết cùng năm tháng chiến đấu của dân tộc thời kỳ
chống Mỹ cứu nước. Qua khảo sát, thống kê chúng tôi đã tìm thấy nhiều bài
3
viết liên quan tới đề tài. Nhìn vào những bài viết này, chúng tôi có thể khẳng
định là cho đến nay những công trình, nghiên cứu, tìm hiểu về các nhà thơ
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đều thống nhất, đánh giá thơ
các anh là những vần thơ viết về chiến tranh, về thế hệ những người lính, về
Tổ quốc… thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chân thực nhất, trong số phận của
họ có số phận dân tộc.
2.1. Phạm Tiến Duật
Phạm Tiến Duật là nhà thơ của chiến trường, trong vòng khói lửa. Thơ
anh in đậm dấu ấn của cuộc chiến tranh, những vần thơ sử thi của một thời.
Phạm Tiến Duật cũng có công giải tỏa cái khô khan, gò bó của thơ và thay
vào đó là cách nói vui, nửa thực nửa hư, duyên dáng, nụ cười hóm hỉnh góp
phần phản ánh sự đa dạng của đời sống trong chiến tranh, nhất là lớp trẻ trong
chiến đấu. Đã có rất nhiều công trình, những bài nghiên cứu có tính chất khái
lược về thơ Phạm Tiến Duật. Tiêu biểu là các tác giả Đỗ Trung Lai, Lưu
Khánh Thơ, Nguyễn Văn Long, Hà Minh Đức, Vũ Quần Phương, Nguyễn
Văn Hạnh, Nguyễn Ngọc Thiện, Trần Đăng Suyền, Đỗ Chu… Điểm lại một
số bài viết, bài nghiên cứu, phê bình của các nhà nghiên cứu văn học về một
chặng đường thơ Phạm Tiến Duật, chúng tôi nhận thấy các bài viết đều thống
nhất trong việc khẳng định tầm vóc, tài năng và những đóng góp lớn lao của
Phạm Tiến Duật cho thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca thời kháng chiến.
Phạm Tiến Duật có thơ đăng báo từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX,
nhưng thơ anh lúc này vẫn còn lẫn trong thơ nhiều người. Phải đến cuộc thi
thơ do báo Văn nghệ tổ chức vào năm 1969 - 1970, anh mới thực sự ghi được
tên tuổi của mình vào làng thơ Việt Nam. Chùm thơ đoạt giải nhất của anh
gây được ấn tượng mạnh mẽ với độc giả về một phong cách thơ rất lạ. Bắt
đầu từ đây, nhiều cây bút, nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã quan
tâm đánh giá thơ anh. Một trong những bài viết đầu tiên về thơ Phạm Tiến
Duật là Giữa chiến trƣờng nghe tiếng bom rất nhỏ (Tạp chí Văn nghệ
4
Quân đội, số 10, 1970 của Nhị Ca). Nhị Ca cho rằng chùm thơ được giải bốn
bài của Phạm Tiến Duật thực sự gây được ấn tượng với độc giả về một phong
cách thơ “rất lạ”, lạ từ chất liệu, thi liệu đến giọng điệu. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu (Trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 7, 1972) có bài Ngƣời viết
trẻ giữa cánh rừng già cho rằng: “Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã làm
xôn xao đời sống thơ ca vốn có. Thơ Phạm Tiến Duật đã cổ vũ cho cuộc chiến
đấu theo cách riêng của mình và đã đón nhận được sự quan tâm đặc biệt từ
nhiều phía”. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết Chỗ
mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật (In trên Tạp chí Văn học, số 4,
1974) đã khẳng định: “Hồn thơ Phạm Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái
đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ ông tự nhiên và rất thật”. Ông cho
rằng, thơ Phạm Tiến Duật “là tiếng nói khoẻ khoắn, đôn hậu, bắt nguồn trực
tiếp từ cuộc sống chiến đấu sôi nổi mà hào hùng của dân tộc”. Và từ góc nhìn
vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, nhà thơ, nhà phê bình Vũ Quần
Phương trong bài Một đóng góp của dòng thơ quân đội vào nền thơ Việt
Nam (Trong Tạp chí Văn học, số 6, 1979) đã chỉ ra sự kế thừa những kinh
nghiệm của thơ ca dân gian trong thơ Phạm Tiến Duật. Theo Vũ Quần
Phương, điều đó khiến cho thơ Phạm Tiến Duật “đầy rẫy những chi tiết đời
sống đánh Mỹ chính xác, cụ thể như hiện vật trong bảo tàng...”. Năm năm
sau, năm 1985, Vũ Quần Phương phát triển bài viết thành bài nghiên cứu tác
giả Phạm Tiến Duật trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại (NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1985), với tư cách là một nhà thơ trẻ tiêu biểu của nền thơ trữ
tình cách mạng. Năm 1986, Đỗ Trung Lai cũng có một bài viết rất công phu với
nhan đề Một chặng đƣờng thơ Phạm Tiến Duật (Tạp chí Văn học, số 4, 1986)
đã đánh giá, tổng kết giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của Phạm Tiến Duật.
Nhà văn đã khẳng định vai trò của thực tiễn chiến tranh đối với sáng tác của
Phạm Tiến Duật.
5
Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam viết: “Dưới bầu
trời sinh tử của chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã làm một cuộc tự trải nghiệm,
tự khám phá khắc nghiệt nhất và đã vươn lên làm một cuộc đột phá điển hình
nhất, đưa thơ chống Mỹ lên đến đỉnh cao… thơ ca mang đến cho bạn đọc
niềm vui lớn như những tin thắng trận từ tiền tuyến lớn. Độc đáo và vụt sáng,
đầy sức lay động và ấm áp ngay cả trong những lúc cay nghiệt nhất của chiến
tranh, đó là vẻ đẹp của thơ Phạm Tiến Duật.” [24, tr.11]
Theo GS Nguyễn Văn Hạnh thì thơ Phạm Tiến Duật “không thiên về
“tự biểu hiện”, về kỷ niệm, như thường thấy trong thơ các bạn trẻ, mà chú ý
quan sát, suy nghĩ, “ghi chép” những người và việc xung quanh, phát hiện ra
những khía cạnh bất ngờ, “lý thú”, “có cái nhìn riêng, giọng nói riêng” và
“anh thành công nhất khi viết về những con người tham gia trực tiếp cuộc
chiến đấu.” (Báo Văn nghệ số 363, 25-9-1970).
Trong Lí luận văn học, GS Trần Đình Sử cho rằng thơ của Phạm Tiến
Duật cũng đầy “mê hoặc” hấp dẫn, chứa đựng những điều sâu xa.
Phạm Xuân Nguyên trong bài viết Chiến tranh nhìn từ nhiều phía cho
rằng: “Phạm Tiến Duật nổi lên trong dàn thơ chống Mỹ với những bài thơ nói
cái hiện thực trần trụi của chiến tranh, cái ngang tàng hiên ngang của người
lính.” [30, tr.2]
Tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đều đã đánh giá,
khẳng định những đặc sắc và đóng góp của thơ Phạm Tiến Duật với thơ ca
thời chống Mỹ cũng như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Có thể nói
đường Trường Sơn chống Mỹ là ý chí Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa anh hùng
cách mạng Việt Nam và… Thơ Phạm Tiến Duật. Đó là những ý kiến vô cùng
quý giá mà người viết có được để làm tiền đề mở đường trong việc triển khai
các nội dung của đề tài luận văn này.
6
2.2. Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh đã khẳng định được thế đứng trên thi đàn văn học Việt Nam
hiện đại. Với hàng loạt các tập thơ được xuất bản và đạt được những giải
thưởng văn học uy tín trong và ngoài nước. Hữu Thỉnh là một nhà thơ tiêu
biểu có bản sắc riêng, đã thu hút được nhiều độc giả yêu thơ và giới phê bình.
Trong bài viết về nhà thơ Hữu Thỉnh, tác giả Vu Gia đã giới thiệu Hữu
Thỉnh với bạn đọc như là một cây bút đầy triển vọng: “Đọc tập thơ Hữu
Thỉnh dày hơn 260 trang do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, tôi càng hiểu
thêm vì đâu ta có thể đánh và thắng kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần và cũng
vì đâu ta có được ngày hôm nay.” [14]
Đã có nhiều bài viết, nghiên cứu nhắc đến Hữu Thỉnh như là một giọng
thơ tiêu biểu trong đội ngũ các nhà thơ trẻ của thời kỳ chống Mỹ. Điều đó
cũng là khởi nguồn để dẫn đến những thành công trên con đường sáng tạo thơ
ca của anh. Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo đã nhận xét: “Sự thành công của
Hữu Thỉnh là nói ít, cảm nhiều, theo truyền thống thi pháp phương Đông Thi
tại ngôn ngoại... cảm xúc của ông không hề biết chừng mực thường như nước
vỡ bờ tràn ra ngoài trang giấy, tràn vào lòng, vào mắt người đọc. Song chữ
nghĩa của ông lại khá chừng mực.” [18, tr.102]
Hà Minh Đức cho rằng: “Hữu Thỉnh là nhà thơ biết chắt lọc, hút nhụy từ thơ
ca dân gian hay rộng ra hơn là có tình quê, hồn quê qua những trang thơ về người
lính. Hữu Thỉnh chắt lọc về ngôn từ và có những điểm nhấn ý vị.” [12, tr.182]
Lý Hoài Thu đã nhận thấy: “Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất
lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”.
Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe
xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn… Từ “cái nôi nghệ thuật” dữ dội,
khốc liệt và thơ mộng là Trường Sơn ấy, hồn thơ Hữu Thỉnh tìm đến với
những nguồn cảm hứng lớn về Tổ quốc, Nhân dân, về thế hệ những người
cầm súng thời chống Mỹ.” [40]
7
Những bài thơ của Hữu Thỉnh “sẽ còn sống mãi với lịch sử của cuộc
kháng chiến chống Mỹ như là trang thơ hào hùng nhất, bi tráng nhất của toàn
bộ thơ ca Việt Nam.” [35]
Từ trong cội nguồn dân tộc, hành trình thơ Hữu Thỉnh là hành trình đi
tìm “mẫu số chung của sự đồng cảm”. Trước đây anh đã từng viết thật xúc
động về chiến tranh, về lòng quả cảm và đức hy sinh của dân tộc Việt Nam.
Sau này, anh vẫn trăn trở vui buồn cùng số phận con người, khắc khoải lo âu
trước sự “mất mùa nhân nghĩa”. Thơ anh có sự kết hợp giữa phẩm chất dân tộc
và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lý và độ xúc cảm tràn trào, giữa sự hiền hòa
lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả năng viết những tác phẩm trường ca dài
và thơ trữ tình ngắn. Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu, xuất sắc của
nền thơ chống Mỹ đã khẳng định vị trí và bản lĩnh sáng tạo của mình qua hai
chặng đường lớn: Thơ ca những năm chống Mỹ cứu nước và thơ ca đương đại
Việt Nam.
2.3. Nguyễn Đức Mậu
Đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ và là người lính của Sư đoàn 312,
nhà thơ mang áo lính Nguyễn Đức Mậu đã có mặt ở những cánh rừng Lào, ở
vùng đất khét mùi đạn bom của Quảng Trị… Sự khốc liệt dữ dội và mất mát
khó kể xiết của chiến tranh không dập tắt được những giai điệu mạnh mẽ
trong tâm hồn anh, ngược lại nó đã hừng lên và bốc cháy rừng rực từ hiện
thực bi tráng của cảnh tượng, sự lựa chọn kỹ càng chi tiết, vừa anh hùng vừa
lãng mạn, vừa thật vừa ảo, vừa mộc mạc, vừa lấp lánh mà tất cả những cái đó
được thể hiện trên cái nền cảm xúc mạnh mẽ và chân thật của người cầm bút.
Đó là thơ, cũng là cuộc sống, là cái chung nhưng cũng là cái riêng. Giai điệu
tâm hồn của nhà thơ cũng là giai điệu của người công dân – chiến sĩ. Vào
những năm 60, khi ngọn lửa chiến tranh đã lan tỏa ra cả nước, thơ Nguyễn
Đức Mậu đã bắt đầu xuất hiện đều đặn trên báo Nhân dân. Chính sự trải
nghiệm cuộc sống ở chiến trường, được chia sẻ với nhân dân những gian nan,
8
vất vả, đau thương, mất mát lại mở ra trước mắt nhà thơ một hiện thực phong
phú, vô tận.
Hà Minh Đức nhận xét: “Thơ Nguyễn Đức Mậu là cuốn từ điển bách
khoa về người lính, chiến trường”. [12, tr.182]
Ngô Vĩnh Bình trong bài viết Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nhận thấy:
“Con đường binh nghiệp của Nguyễn Đức Mậu song hành cùng con đường
văn nghiệp… Là người lính bộ binh lại có mặt trong đội hình của sư đoàn chủ
lực trong chiến tranh, cứ ngỡ Nguyễn Đức Mậu sẽ không còn tâm trí và thời
gian để nghĩ đến văn chương, thơ phú nữa. Nhưng không, trước sau anh vẫn
là người lính vừa cầm súng, cầm bút, vừa đánh giặc và làm thơ. Thơ anh là
“thơ người ra trận”, ( Tạp chí Nhà văn, 12-2001)
Hữu Đạt qua bài Nhân đọc Nguyễn Đức Mậu nghĩ về cũ và mới
trong thơ có nhận xét: “Nguyễn Đức Mậu thuộc lớp nhà thơ trưởng thành
thời chống Mỹ. Anh xác lập được vị trí của mình trong làng thơ nhờ những
sáng tác viết về chiến tranh, trong đó nổi bật lên là hình tượng người lính và
những kỷ niệm về quê hương.” [Văn nghệ Quân đội, 3-1999]
Cũng bàn về vấn đề này, Phạm Khải trong bài viết Đôi điều về Nguyễn
Đức Mậu đã cụ thể hơn: “Trưởng thành khi mà cuộc chiến tranh chống Mỹ
cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt nhất, lại mang trong mình phẩm chất cao
đẹp của người chiến sĩ và tâm hồn tươi mát của một nhà thơ, Nguyễn Đức
Mậu sớm vượt lên trở thành một trong những cây bút tiêu biểu của lực lượng
quân đội. Nhiều bài anh sáng tác trong giai đoạn ấy đã thực sự gắn bó máu
thịt với cuộc sống chiến đấu được đông đảo bạn đọc (nhất là lính) mến yêu.”
[22, tr.60].
Người lính hi sinh đã hóa thân vào non nước để sống tiếp một cuộc
sống khác, xanh hơn, đằm dịu hơn và huyền ảo hơn. Theo dấu chân người
lính, Nguyễn Đức Mậu đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi thở cuộc sống
chiến trường. Trong đó người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm. Nhà thơ Nguyễn
9
Đức Mậu tuy đã nổi tiếng nhưng anh luôn là người khiêm nhường, chịu khó
đọc, chịu khó nghe và ham viết. Tuy các bài viết chưa bao quát hết được sự
nghiệp thơ của Nguyễn Đức Mậu nhưng những ý kiến của những người đi
trước đã là những gợi ý quý báu và định hướng cho chúng tôi trong khi thực
hiện bản luận văn của mình một cách có hệ thống và sâu hơn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Do luận văn nghiên cứu về ba tác giả nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát
một số tập thơ tiêu biểu thể hiện rõ đề tài chiến tranh của từng tác giả. Cụ
thể như sau:
3.1.1. Tác giả Phạm Tiến Duật luận văn khảo sát những tác phẩm in trong cuốn
Phạm Tiến Duật toàn tập (Đỗ Trung Lai chủ biên, NXB Hội nhà văn,
2009).
3.1.2. Tác giả Hữu Thỉnh luận văn tập trung khảo sát ở tập Thơ Hữu Thỉnh
(NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1998).
3.1.3. Tác giả Nguyễn Đức Mậu chúng tôi tập trung khảo sát qua bốn tập thơ:
1. Cánh rừng nhiều đom đóm bay (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998).
2. Từ trong lòng cuộc chiến (NXB Văn hóa thông tin, 2010).
3. Hoa đỏ nguồn sông (NXB Tác phẩm mới Hội nhà văn Việt Nam, 1987).
4. Mở bàn tay gặp núi (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Đề tài chiến tranh trong thơ
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay), được
triển khai theo phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật như ngôn ngữ,
phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ, thể thơ… Trong quá
trình khảo sát và tìm hiểu đề tài chiến tranh trong thơ của ba tác giả chúng tôi
luôn có sự đối sánh với nội dung, đời sống và tư tưởng của từng nhà thơ.
10
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ vấn đề sau:
- Cơ sở lý luận: Giới thuyết một số vấn đề về đề tài chiến tranh trong
thơ kháng chiến chống Mỹ. Đề tài chiến tranh của nước ta cho đến nay vẫn là
đề tài đa chiều, phức tạp và luôn mang tính thời sự. Chúng tôi không có tham
vọng đưa ra những kiến giải mới, khác với ý kiến lý luận trước đó mà chỉ
nhằm đi tìm một cách nhìn thiết thực hơn, cụ thể hơn về cuộc chiến tranh
chống Mỹ giữ nước hào hùng của dân tộc.
- Cơ sở thực tiễn: Tiếp nối những công trình nghiên cứu về đề tài chiến
tranh ở nhiều góc độ khác nhau, chúng tôi muốn tìm hiểu một phương diện
mới đó là đề tài chiến tranh trong thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước qua các tác giả Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Từ đó
đề tài nhằm góp phần hoàn thiện bức chân dung về chiến tranh chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta. Để có thể nhận diện được Đề tài chiến tranh trong thơ
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyển Đức Mậu (từ 1965 đến nay), chúng
tôi đi sâu phân tích các tác phẩm thơ cụ thể ở các phương diện khác nhau như:
Việc lựa chọn chi tiết, hình ảnh, biểu tượng, việc xây dựng hình tượng thơ, tứ
thơ… Đây là nhiệm vụ chủ yếu của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các biện pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp so sánh – đối chiếu
Phương pháp cấu trúc – hệ thống
11
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đưa ra những nhận định về Đề tài chiến tranh trong thơ
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay). Từ đó
khẳng định rõ hơn những đóng góp to lớn của các anh đối với thơ kháng chiến
chống Mỹ và sự vận động của thơ hiện đại Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của luận văn được triển khai gồm ba chương:
Chương 1: Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ và sự hình thành đội
ngũ nhà thơ trẻ chống Mỹ
Chương 2: Cái nhìn chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Đức Mậu
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ CHỐNG
MỸ VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ NHÀ THƠ TRẺ
CHỐNG MỸ
1.1. Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã làm thăng hoa những giá trị lớn
của dân tộc, làm cho tên tuổi Việt Nam đồng nghĩa với chiến thắng, với lương tri
thời đại. Trong những giá trị lớn ấy, có thành tựu của văn học, của thơ ca. Chưa
bao giờ có sự thống nhất giữa sống và viết, giữa anh hùng và lãng mạn, giữa
khoảnh khắc và trường tồn như thời kỳ ấy trong lịch sử văn học.
Như một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học của dân tộc, thơ cũng
như mọi thể loại khác trở thành vũ khí tinh thần, thành một sức mạnh tham
gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của dân tộc, nhân dân. Từ thơ ca
về chủ đề đấu tranh thống nhất chuyển sang chủ đề kháng chiến chống Mỹ
dường như là một sự vận động liên tục, tự nhiên của nền thơ. Giặc Mỹ tấn
công miền Bắc, đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của mỗi người
Việt Nam, làm bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân
tộc, ý chí độc lập, tự do. Những tình cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch
dồi dào cho cảm hứng thơ ca. Tạm rời bỏ một số đề tài và cảm hứng về đời
sống thường ngày trong hòa bình, hay những vấn đề riêng tư, thơ tập trung
vào một hướng lớn của đề tài và chủ đề là cuộc chiến đấu chống Mỹ của cả
dân tộc ở hai miền Nam, Bắc. Nhưng sự thống nhất trong cảm hứng lớn và đề
tài bao trùm không làm cho nền thơ rơi vào tình trạng nghèo nàn, đơn điệu.
Đứng trước vận mệnh của dân tộc đang trong cơn thử thách lớn, các
nhà thơ đều đáp lời kêu gọi của sông núi theo tiếng nói riêng. Xuân Diệu nói
lên sự gắn bó ngàn đời với Nhân dân và lúc này, dường như mỗi giọt máu,
mỗi tế bào của nhà thơ đều thuộc về Nhân dân:
13
Tôi cùng xương cùng thịt với Nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu nhiều người yêu dấu gian lao
Bên cạnh thế hệ tiền chiến, là lớp nhà thơ sung sức cầm súng lên
đường. Nguyễn Khoa Điềm nói lên sức mạnh của dân tộc đang được nhân lên
trong những tháng năm đặc biệt:
Trong thời gian không gian gian lao
Ta điềm tĩnh nhân sức mình vô hạn
Qua cuộc chiến đấu sẽ càng bộc lộ sức mạnh kỳ diệu của Nhân dân.
Một dân tộc đã đi đầu giành độc lập giữa trùng vây của thực dân đế quốc, một
dân tộc đã đánh tan đội quân viễn chinh thiện chiến của thực dân Pháp ở Điện
Biên Phủ làm chấn động địa cầu, nhất định sẽ giành thắng lợi trong cuộc
chiến đấu mới. Một Việt Nam được bạn bè cảm phục, chia sẻ, ủng hộ. Các
nhà thơ Việt Nam đã ghi lại được hình tượng Việt Nam trong thơ chống Mỹ.
Các nhà thơ có dịp suy nghĩ về nhân dân và Tổ quốc mình. Chế Lan Viên
nhận xét về ba năm thơ chống Mỹ: “Vạn sự khởi đầu nan. Trong một cuộc
chiến tranh dữ dội, thơ dễ lâm vào một trong ba tình trạng sau này không còn
thơ nữa. Khi đại bác gầm thì chim họa mi tắt tiếng. Có thơ nhưng đây là tiếng
thét thất thanh của những khẩu hiệu có vần, cả ba trường hợp đó là dấu hiệu
của thần kinh suy nhược. Vượt lên ba nguy cơ đó thơ miền Bắc tồn tại phát
triển, tinh thần sảng khoái, da thịt hồng hào. Ba năm qua chúng ta đã xây nên
một nền thơ chống Mỹ hẳn hoi với những thành tựu về mặt tác phẩm của nó
với buổi đầu hoàn chỉnh về mặt lý luận của nó.”
Không phải là một ước mong mà là một thực tế. Trong cuộc chiến đấu
gian lao của Nhân dân ta có bạn bè gần gũi chia sẻ, như Mađơlen Righo – nữ
phóng viên Pháp, Moonika – nhà văn nữ Ba Lan đều có mặt ở chiến trường
Việt Nam, Giorit Iven đem ống kính vào vùng lửa đạn. Đimitrova - nhà thơ
14
nữ Bungari nhiều lần sang Việt Nam và sáng tác tập thơ Vây giữa tình yêu.
Nhiều nhà văn, nhà báo so sánh Việt Nam như cây tre, cứng rắn và có sức bật,
Việt Nam là bông hoa ngát hương, Việt Nam là hồn tôi…
Chủ nghĩa yêu nước là nguồn động lực tinh thần lớn nhất của hết thảy
mọi người trong cuộc kháng chiến, cũng là nguồn cảm hứng lớn lao bao trùm
và thấm sâu trong mọi tác phẩm thơ ca. Kế tục truyền thống tư tưởng yêu
nước của nền thơ dân tộc, trực tiếp nhất là của thơ kháng chiến chống Pháp và
thơ đấu tranh thống nhất đất nước, trong thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
chủ nghĩa yêu nước được phát triển tới những chiều cao và độ sâu mới và
được biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng. Không chỉ cảm nhận đất nước ở
chiều rộng không gian địa lý, thơ thời kỳ này đặc biệt coi trọng sự phát hiện
về đất nước trong chiều dài lịch sử và bề sâu văn hóa, tinh thần truyền thống. Ý
thức về lịch sử mà chủ yếu là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước , đã mở rộng
và làm sâu sắc hơn quan niệm về đất nước, dân tộc, và sự thống nhất liền mạch giữa
quá khứ với hiện tại. Chưa bao giờ lịch sử đấu tranh của dân tộc lại được sống dậy
với niềm tự hào và say sưa như thơ văn thời kỳ này, bởi vì lịch sử cần thiết và thực sự
phải trở thành động lực tinh thần và sức mạnh to lớn cho con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam trong cuộc đối đầu với kẻ thù hùng mạnh vào bậc nhất trên trái đất. Đất
nước, dân tộc còn được nhìn nhận trong mối tương quan với nhân loại, với thời đại,
để khẳng định sứ mệnh của dân tộc Việt Nam, vai trò, ý nghĩa của cuộc chiến đấu
chống Mỹ của nhân dân ta. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn là “Vì ba ngàn triệu trên
đời”, là tiếng gọi tập hợp, là “người lính đi đầu”… Các nhà thơ đã tạo dựng được
những hình tượng thật lớn lao, kỳ vĩ về Tổ quốc trong không gian và thời gian. Bên
cạnh đó thơ đã xây dựng được nhiều hình tượng đẹp về con người Việt Nam thời
đánh Mỹ ở nhiều tầng lớp, thế hệ, lứa tuổi, nhưng đều là biểu tượng của dân tộc và
nhân dân. Nhận thức về đất nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân, đó cũng là
một nét nổi bật trong chủ nghĩa yêu nước ở thơ thời kỳ này. Cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước một lần nữa thể hiện sức mạnh vô tận, phẩm chất tuyệt vời và những hi
sinh vô cùng to lớn của nhân dân.
15
Dòng thơ yêu nước và chiến đấu đã chảy suốt liên tục cùng với cuộc
kháng chiến chống Mỹ của cả dân tộc và sẽ còn tiếp tục phát triển. Những vấn
đề về cuộc chiến, những sự kiện chính trị, quân sự, không khí chiến tranh, mặt trận,
con người, hi sinh, mất mát, tổn thất… ý chí chiến đấu của cả dân tộc đã được thơ
chiến tranh cách mạng ghi lại sống động hơn bao giờ hết. Qua những phác họa chân
thực của thơ thời kỳ này đã giúp cho chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc chiến
mà dân tộc ta đã đi qua và giành được thắng lợi vẻ vang, hào hùng.
1.2. Thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ
Văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965-1975) có một vị trí
quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là thời kỳ văn học phát triển rực rỡ
trên nhiều thể loại để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình: Làm cuốn “Biên
niên văn học” về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Trong sự phát triển
đó, thơ chống Mỹ, nhất là thơ của các nhà thơ trẻ thời kỳ này đã gây được sự chú
ý đặc biệt, nhanh chóng trưởng thành, đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Người
ta sẽ không thể hình dung một cách đầy đủ diện mạo và đóng góp to lớn của nền
thơ chống Mỹ nếu thiếu vắng mảng thơ của các cây bút trẻ xuất hiện thời kỳ này.
Thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ là một hiện tượng rất đáng chú ý của văn học hiện đại
Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện, trưởng thành của một thế hệ nhà thơ và bước
phát triển mới của nền thơ ca chiến tranh và cách mạng.
1.2.1. Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước
Từ tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra
miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước sang
một giai đoạn mới gay go, căng thẳng và vô cùng ác liệt. Phản ánh kịp thời và
động viên chiến đấu, sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng trong thời
kỳ chống Mỹ. Đó không chỉ là đòi hỏi cả thời đại mà còn là sự thôi thúc bên
trong của chính các nhà thơ. Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ hiện đại nóng
bỏng tính thời sự, hừng hực tinh thần chiến đấu của chúng ta đã “nhập cuộc”
16
tham gia vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc. Suốt trong những
năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau dàn quân trên những
mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng của con người Việt Nam trong thời đại chống Mỹ. Nền thơ chống
Mỹ được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: Thế hệ nhà thơ xuất hiện từ trước
Cách mạng (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh...), thế hệ nhà
thơ trưởng thành trong thời kỳ chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng
Trung Thông...) và thế hệ nhà thơ ra đời trong thời kỳ chống Mỹ. Mỗi thế hệ nhà
thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những đóng góp đáng ghi nhận đối với nền
thơ chống Mỹ. Chỉ trong vòng mười năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tiếp xuất hiện
một đội ngũ những gương mặt thơ trẻ như Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê
Anh Xuân, Dương Hương Ly, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương,
Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc, Nguyễn Đức Mậu,
Vương Trọng, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Trần
Đăng Khoa, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ... Đó là những gương mặt tiêu biểu của thế hệ
thơ thời kỳ chống Mỹ.
Thuộc lớp người phần lớn được sinh ra từ sau Cách mạng, được trau
dồi tri thức văn hoá trong nhà trường của chế độ mới, nhiều nhà thơ thuộc thế
hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã từ cánh cửa nhà trường đi
thẳng tới chiến trường cầm súng chiến đấu. Hiện thực đời sống những năm
tháng chống Mỹ, ngọn lửa chiến tranh cách mạng đã tôi luyện họ thành những
con người vững vàng trong cuộc sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Sáp mặt
với thực tế chiến tranh, những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ tự ý thức sâu sắc về
vị trí, vai trò của thế hệ mình. Trong thực tế, các nhà thơ trẻ chỉ thực sự khẳng
định được vị trí của mình trong nền thơ chống Mỹ khi họ có một sự thống
nhất chung cao độ của cả một thế hệ, có cách nhìn riêng, có giọng điệu riêng
khi viết về cuộc chiến tranh. Các nhà thơ trẻ một mặt có ý thức kế thừa,
nhưng mặt khác chính điều kiện sáng tác giàu chất sử thi ấy đã tạo ra tiếng
nói riêng, giọng điệu riêng cho thế hệ của họ. Như những mầm cây có sức
17
sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi, trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh,
một thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã vượt lên tự khẳng định mình, vừa tiếp nối
truyền thống của các thế hệ trước, vừa có sáng tạo độc đáo làm nên những nét
riêng của cả một giai đoạn thơ ca.
1.2.2. Các chặng đường thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước
Nhìn tổng quát, thơ trẻ chống Mỹ cứu nước là một dòng chảy liên tục,
nhưng mỗi bước phát triển mang dấu ấn phong cách riêng và có thể chia làm
ba chặng đường:
1.2.2.1. Chặng đường thứ nhất: từ 1964 đến 1968
Ở chặng đường đầu tiên này, đội ngũ những nhà thơ trẻ bước đầu được
khẳng định với sự xuất hiện của những cây bút như Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu
Quang Vũ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Hương Ly, Phạm Ngọc Cảnh, Vũ
Quần Phương, Lữ Huy Nguyên, Cảnh Trà, Vương Trọng... Những nhà thơ trẻ này,
lúc đầu được tập hợp và giới thiệu trong tập thơ Sức mới, (1965, NXB Văn học, Hà
Nội). Nhà thơ Chế Lan Viên viết tựa cho tập thơ đã biểu dương “Điều đáng yêu
nhất của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống, của chủ nghĩa xã hội
trên miền Bắc nước ta”. Nhìn chung, thơ của các nhà thơ trẻ chặng đường này vừa
trẻ trung tươi tắn, vừa bồng bột sôi nổi. Các tác giả đều chọn lọc chất liệu cuộc sống
theo hướng thi vị hoá. Cảm xúc trong thơ họ vừa mang đậm màu sắc lý tưởng, ít
nhiều còn vương dấu vết của sách vở nhà trường. Những mô típ quen thuộc trong
thơ chặng đường này thường là những buổi chia tay, những đêm hành quân, những
dự cảm vào cuộc vv... thể hiện khát vọng ra trận của tuổi trẻ thời đại chống Mỹ.
Thơ của những nhà thơ trẻ chặng đường này rưng rưng cảm xúc, thấm đậm chất trữ
tình, chứa chan chất men say nồng của tuổi trẻ. Họ nói tới khao khát của thế hệ trẻ
được cầm súng trực tiếp chiến đấu bằng một cảm xúc chân thành, trong sáng nhất:
Ôi ta thèm được cầm khẩu súng
Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè
Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng
Ta cay nồng mùi lá rụng bờ tre.
(Gửi Bến Tre - Lê Anh Xuân)
18
Những năm đầu của cuộc chiến tranh, thơ của các nhà thơ trẻ còn bồng
bột, mang cái nhìn lãng mạn. Hình ảnh thế hệ trẻ cầm súng chỉ thấp thoáng
trong thơ họ. Thơ chặng đường này, các nhà thơ hay nói tới những cuộc chia
ly đầy lưu luyến và lãng mạn:
Nào đâu phải người đi không lưu luyến
Mắt người trong như nước giếng ban đầu
Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau
(Lƣu Quang Vũ)
Và những cuộc chia ly thấm đẫm tinh thần lạc quan của thời đại:
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ)
Thơ trẻ chặng đường này thường nói đến những đêm hành quân với
một niềm vui háo hức, hăm hở, đầy tin tưởng: “Đường nào vui bằng đường ra
trận tuyến”, “Ta náo nức như suối về sông biển” (Lưu Quang Vũ).
Trong những năm cuối của chặng đường thứ nhất, thơ trẻ bắt đầu giàu
có thêm nhờ chất suy nghĩ và khả năng khái quát. Tuy nhiên, về cơ bản, sự
từng trải, sự chiêm nghiệm cá nhân, sự lắng đọng trong suy tư còn ít thấy
trong thơ của những nhà thơ trẻ chặng đường này. Không khí của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã được gợi lên một phần trong thơ của các nhà thơ
trẻ nhưng hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến đấu chưa nhiều ở các trang thơ.
Hình ảnh con người và thời đại chống Mỹ chủ yếu được nhấn mạnh ở cái
thanh tao, đường hoàng, cái thơ mộng của cuộc sống và con người trong lửa
đạn: một tiếng gà trưa, nụ cười, tiếng hát, nhịp đập bình yên của trái tim con
người làm nổi bật “cái yên trong cái động”, “sự sống át cái chết”, cái bình
thản tự tin của một dân tộc gan góc, bất khuất, kiên cường. Nhìn chung, các
tác giả thơ trẻ chặng đường này đều có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong
mảng đời sống trong trẻo của chiến tranh. Nhưng thơ chặng đường này đã tạo
tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của thơ trẻ chống Mỹ ở những
chặng đường sau.
19
1.2.2.2. Chặng đường thứ hai: từ 1969 đến 1972
Cùng với những tác giả xuất hiện ở chặng thứ nhất, đến chặng thứ hai
này đội ngũ thơ trẻ được bổ sung thêm nhiều cây bút tài năng khác như Phạm
Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Vương Anh, Bế Kiến Quốc, Phan Thị Thanh
Nhàn, Vương Trọng, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu... Chính sáng tác của
những nhà thơ trẻ này đã góp phần quan trọng đưa nền thơ chống Mỹ phát
triển đến đỉnh cao, làm thay đổi bộ mặt của cả nền thơ chống Mỹ. Ở chặng
đường này, những nhà thơ trẻ đã thực sự khẳng định được tiếng nói riêng của
thế hệ mình qua những vần thơ giàu chi tiết chân thực, sinh động như còn
vương bụi đất chiến trường và mùi khói lửa đạn bom, mang khí thế hừng hực
của cuộc chiến đấu.
Nếu ở chặng đường trước, những nhà thơ trẻ có khuynh hướng đi tìm
chất thơ trong mảng hiện thực đời sống có vẻ nên thơ, trong trẻo thì ở chặng
đường này, họ có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong các mảng hiện thực trần
trụi, thô nhám, dữ dội, đầy ác liệt của cuộc sống chiến trường. Cảm hứng thơ
vì thế càng trở nên mãnh liệt, sôi nổi, khác hơn ở chặng đường trước. Thơ trẻ
trong chặng đường này có xu hướng vươn tới tầm khái quát những mảng hiện
thực lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với những sắc thái dữ dội, ác liệt của
nó, làm ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ trong thời đại
chống Mỹ. Những chi tiết chân thực của đời sống chiến trường ùa vào các
trang thơ. Không khí sôi sục của những năm tháng chống Mỹ được truyền vào
các bài thơ. Đời sống thực của người lính được thể hiện chân thực trong thơ
Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm... Chưa bao giờ hình
ảnh thế hệ trẻ sống, chiến đấu giữa chiến trường lại được thơ tập trung khắc
hoạ đạt được tính chân thực cao như thơ trẻ chống Mỹ. Đó là những người
lính lái xe, chiến sỹ công binh, anh bộ đội coi kho, cô thanh niên xung phong,
cô gái giao liên:
20
... Đi qua hầu hết tuổi thanh xuân
Để lại trong rừng những gì quý nhất
Mất mọi thứ để nhân dân không mất
(Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật)
Chứa đựng nhiều chi tiết chân thực, tươi ròng sức sống, thể hiện được
nhiều gương mặt trẻ trung, tinh nghịch mà kiên cường, anh dũng, thơ Phạm
Tiến Duật được coi như “một góc bảo tàng tươi sống” về Trường Sơn (Đỗ
Trung Lai) trong những năm tháng chống Mỹ.
Thơ trẻ chặng đường này vẫn tiếp tục viết về đề tài quê hương, đất
nước, nhưng với một ý thức tự giác cao hơn và tình cảm sâu nặng hơn. Sự
thống nhất cao độ giữa ý thức của nhà thơ với trách nhiệm công dân, tư cách
người chiến sĩ cầm súng đã tạo nên cho những trang thơ của những nhà thơ
trẻ một chiều sâu mới trong nhận thức và trong tình cảm. Thấm thía hơn thực
tế chiến tranh, các nhà thơ trẻ càng nhận rõ hơn trách nhiệm của mình, càng
thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, với đất nước. Thơ họ chính là
tiếng lòng những con người trực tiếp cầm súng, lấy máu mình để giữ gìn, bảo
vệ non sông.
1.2.2 3. Chặng đường thứ ba: từ 1973 đến 1985
Đến chặng này, thơ trẻ chống Mỹ được bổ sung thêm những nhà thơ
đồng thời là chiến sỹ trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường. Sự xuất
hiện của những cây bút trẻ như Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận
Cầm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Anh Ngọc vv... đã
làm cho đội ngũ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ thêm đông đảo và thực sự bề thế.
Chặng cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo nên thế mạnh của những
nhà thơ trẻ ở chặng đường này: Có cái nhìn bao quát, toàn cảnh về cuộc chiến
tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Tầm nhìn cùng với nhận thức về hiện thực
cuộc sống chiến trường được mở rộng và sâu sắc hơn. Chứng kiến chiến
thắng vĩ đại, oai hùng của dân tộc, những nhà thơ trẻ đồng thời cũng thấu hiểu
21
sự hy sinh, mất mát, cái giá phải trả cho những vinh quang đó. Bức tranh hiện
thực đời sống chiến trường hiện lên qua những trang thơ trẻ ở chặng đường
này cũng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn: có hy sinh, mất mát, có chiến
thắng lạc quan, tin tưởng. Thái độ, tình cảm của nhà thơ viết về sự thực của
đời sống chiến trường, nhất là về những gian khổ, hy sinh cũng chân thực
hơn. Tính chất sâu lắng, tỉnh táo ngày càng đậm thay cho tính chất thi vị, hồn
nhiên ở những chặng đường trước.
Thơ trẻ chặng đường này nói nhiều, nói sâu sắc, thấm thía về người mẹ,
Nhân dân, về những con người vô danh, về những con người bình thường mà
kiên cường, bất khuất, về Tổ quốc và về thế hệ mình. Ý thức về cái tôi - thế hệ
của các nhà thơ trẻ đạt đến độ sâu sắc nhất. Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ
cầm súng thời kỳ chống Mỹ hiện lên cụ thể, chân thực, phong phú và sâu sắc:
Những thằng con trai 18 tuổi
Nhiều khi bực quá khóc oà
... Phanh ngực áo và mở trần bản chất
Mỉm cười trước những lời lời to tát
Nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc
(Thanh Thảo)
Sáng tạo những vần thơ giàu chất suy nghĩ, triết lý, những hình tượng
thơ mang ý nghĩa khái quát là xu hướng chính của thơ trẻ ở chặng đường này.
Cũng chính ở chặng đường này, khuynh hướng muốn phản ánh những mảng
hiện thực lớn của chiến tranh, tổng kết cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại đã xuất
hiện như một đòi hỏi chính đáng của thời đại. Không phải ngẫu nhiên mà
từ sau 1975, thơ trẻ chống Mỹ xuất hiện hàng loạt những trường ca viết về
chiến tranh, thể hiện khát vọng tổng kết cuộc chiến thông qua cách nhìn
và sự trải nghiệm riêng của mỗi nhà thơ. Những ngƣời đi tới biển,
Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo, Đƣờng tới thành phố của
Hữu Thỉnh, Trƣờng ca sƣ đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Mặt trời trong
22
lòng đất, Đất nƣớc hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo, Con đƣờng của
những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo... là sự thể hiện cụ thể những khát
vọng đó. Với những đặc trưng và ưu thế của thể trường ca, trong những
trường ca tiêu biểu của chặng đường này, các nhà thơ trẻ đã kết hợp khá
nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự, đan xen phối hợp nhiều thể thơ trong
một trường ca, phác hoạ được nhiều chân dung của nhân vật trữ tình nhằm
vươn tới xu hướng khái quát, tổng hợp mở rộng hiện thực, tăng cường
tính triết lí, chính luận trong thơ. Qua những trường ca này, tính chất dữ
dội, khốc liệt của chiến tranh được khơi sâu, nhấn mạnh. Các nhà thơ trẻ
đã tập trung khám phá những ngọn nguồn sâu xa nhất tạo nên sức mạnh
tinh thần thiêng liêng của dân tộc trong thời đại chống Mỹ, lý giải động
cơ cầm súng của con người Việt Nam và nguyên nhân của những chiến
công. Những hình tượng chứa đựng phẩm chất và tinh thần chung của cả
dân tộc và thời đại như người mẹ, người lính, Tổ quốc, nhân dân, đất
nước... thể hiện bằng những cảm xúc trữ tình thâm trầm sâu lắng, qua
những suy tư sâu sắc đạt tới tầm cao của sự khái quát, triết lí. Do có độ lùi
nhất định về thời gian, cuộc kháng chiến chống Mỹ được thể hiện với một
cách nhìn trầm tĩnh hơn, hiện thực chiến tranh được tái hiện toàn vẹn, đầy
đặn, sâu sắc và chân thực hơn.
1.3. Khái quát về nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu
1.3.1. Nhà thơ Phạm Tiến Duật
Chất trẻ trong thơ Phạm Tiến Duật không chỉ toát ra ở đối tượng được
nói đến, mà chính là ở cái tuổi thanh xuân không chịu già đi trước sự tàn phá
của chiến tranh. Thơ Phạm Tiến Duật tràn đầy nhiệt huyết của con người
luôn đi tới và hành động; Tràn đầy yêu thương của trái tim luôn hướng về
cuộc đời; Tràn đầy niềm vui trong trẻo hồn nhiên của tấm lòng rộng mở...
Phạm Tiến Duật được mệnh danh là nhà thơ của Trường Sơn, thi sĩ
huyền thoại của đường mòn Hồ Chí Minh những năm chống Mỹ. Anh từng
23
bộc bạch: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã
đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết
được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở
Trường Sơn”. Cũng như các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Phạm Tiến Duật là nhà
thơ “được thời”. Cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc là một hiện thực
lớn tác động mạnh mẽ đến lớp nhà thơ trẻ đồng thời là người lính. Thơ Phạm
Tiến Duật bao quát được hiện thực lớn ở chính cái nơi mà người ta có thể
nhìn thấy rõ nhất tầm vóc của dân tộc trong giai đoạn lịch sử hào hùng.
Nhưng điều quan trọng hơn để khẳng định một tài thơ Phạm Tiến Duật là
tiếng nói trực diện, giàu bản sắc, mới lạ và mang tinh thần tuổi trẻ. Năng lực
cảm nhận và nắm bắt hiện thực cuộc sống nhanh nhạy ở anh đã chứng minh
ưu thế xung kích, lên tuyến đầu của thơ trong những hoàn cảnh mà người
nghệ sĩ không có thời gian để “nghiền ngẫm”, phải vội vàng ghi lấy những
khoảnh khắc vụt hiện và có giá trị lâu bền của đời sống. Bởi nếu chậm trễ
bom đạn sẽ xoá đi tất cả.
Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 01 năm 1941 ở huyện Thanh Ba,
tỉnh Phú Thọ. Cha anh là nhà giáo, dạy chữ Hán và chữ Pháp, còn mẹ làm
ruộng, không biết chữ. Thuở nhỏ anh học ở trường làng, đến phổ thông trung
học anh học tại trường Hùng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, sau
đó vào học tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội, năm 1964
thì tốt nghiệp. Tuổi thơ của anh gắn bó với miền đất trung du “rừng cọ đồi
chè”, với bầu không khí văn hoá dân gian của miền quê xoan ghẹo, với những
lễ hội của miền đất tổ vua Hùng. Miền quê bình yên của anh những năm
tháng chống Mỹ cũng sục sôi không khí kháng chiến. Là con người sôi nổi,
anh nhanh chóng bị cuốn vào không khí hào hùng của đời sống văn nghệ
kháng chiến trên đất quê hương Phú Thọ. Thế nhưng, có lẽ cuộc đời không
cho chàng sinh viên văn khoa này nối nghiệp cha mình, gắn bó với nghề nhà
giáo. Ngay sau khi anh vừa tốt nghiệp Đại học, cũng là lúc giặc Mỹ leo thang
24
bắn phá miền Bắc và cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đấy
là thời kỳ nhân dân miền Bắc dồn hết sức người và sức của chi viện cho chiến
trường miền Nam. Cũng từ đấy cho đến trước ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng (1975), bao thế hệ thanh niên ta theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc
đã lên đường nhập ngũ, ra chiến trường. Phạm Tiến Duật là một trong số
những người thanh niên có mặt trong dòng người vô tận ấy.
Trong thời gian này, anh sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường
Trường Sơn. Đây cũng là thời gian anh sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi
tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm
Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chiến tranh kết thúc, anh
về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt nam. Anh sống ở Hà Nội, là
Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Anh cũng là người dẫn
chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi của kênh
VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, Giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh
tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8:50, anh mất tại Bệnh viện
Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.
Tháng 5 năm 2012 Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh cho cố nhà thơ Phạm Tiến Duật về cụm tác phẩm thơ viết về Trường
Sơn. Có thể nói, sự nghiệp thơ của Phạm Tiến Duật gắn liền với con đường huyền
thoại mang tên Hồ Chí Minh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Anh đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác
trong thời kỳ anh tham gia quân ngũ. Thơ của anh được các nhà văn khác đánh
giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch”
nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của anh đã được phổ nhạc thành bài hát
trong đó tiêu biểu nhất là “Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây”.
25
Vầng trăng quầng lửa (Thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm
Những tập thơ chính:
Ở hai đầu núi (Thơ, 1981)
Vầng trăng và những quầng lửa (Thơ, 1983)
Thơ một chặng đƣờng (Tập tuyển, 1994)
Nhóm lửa (Thơ, 1996)
Tiếng bom và tiếng chuông chùa (Trường ca, 1997)
Tuyển tập Phạm Tiến Duật (In xong đợt đầu ngày 17-11-2007, khi
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật đang ốm nặng.
Thơ anh thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một
sư đoàn”.
1.3.2. Nhà thơ Hữu Thỉnh
Thơ Hữu Thỉnh bám sát hiện thực cuộc sống và phản ánh trung thành
những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm,
hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mảng thơ viết về chiế n
tranh củ a Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử thi và cái cao cả, nằm trong giới
hạn kiểu nhà thơ trữ tình công dân, thể hiện cái tôi s ử thi củ a thơ ca cách mạng hiện đại. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã có nhiều thành tựu đóng góp cho thi ca
chiến tranh qua những bài thơ và các trường ca khá nổi tiếng của anh gần 40
năm trước đây.
Sống và cống hiến cả tuổi thanh xuân trên nhiều mặt trận, quãng đời áo
lính luôn đi cùng văn nghiệp Hữu Thỉnh. Nhập ngũ vào bộ đội Tăng Thiết
Giáp lúc tuổi hai mươi sắc xuân phơi phới, kinh nghiệm sống của đời lính
Tăng giúp Hữu Thỉnh “kết tủa” nên bài thơ để đời. Sau này, bài thơ của anh
được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc mà cho đến nay Năm anh em trên một
chiếc xe tăng đáng được xem là “Tăng Thiết giáp ca”. Cũng như nhiều thanh
niên thời đại ấy, Hữu Thỉnh tham gia nhiều mặt trận trong cuộc kháng chiến
26
chống Mỹ: Đƣờng 9 – Nam Lào, Khe Sanh, Quảng Trị, Tây Nguyên…
Niềm tin sắt đá về lý tưởng độc lập, chiến đấu vì hòa bình dõi theo thanh niên
của cả một thế hệ. Giữa bom rơi, lửa đạn, thế hệ nhà thơ, nhà văn chống Mỹ
tay súng tay bút “trường chinh” với văn chương. Hữu Thỉnh cũng là một cánh
chim thơ tiêu biểu của thế hệ này. Lẽ thế, cuộc đời người lính tham gia cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc chính là “mảnh đất”, “kinh nghiệm sống” cho
tài năng thơ ca của Hữu Thỉnh nảy mầm, thăng hoa.
Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942. Sinh ra trong một gia đình
nông dân có truyền thống Nho học nhưng anh đã trải qua tuổi thơ ấu không dễ
dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho
các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân.
Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, anh mới được đến trường. Năm
1963 anh tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc
Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động như chăn
bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm
cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua
hầu khắp các chiến trường máu lửa.
Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn
Việt Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp
hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá III.
Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách Phó Tổng Thư ký
Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội Nhà văn
Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần), đồng thời kiêm nhiệm
Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng
ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn
Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá
X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng Thứ kí Hội Nhà văn Việt Nam.
27
Các giải thưởng văn học: Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ 1975-
1976, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980, Giải thưởng văn học
ASEAN 1999, Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 1994, Giải thưởng Nhà nước
về văn học nghệ thuật đợt I năm 2001.
Âm vang chiến hào (In chung)
Đƣờng tới thành phố (Trường ca)
Từ chiến hào tới thành phố (Trường ca, thơ ngắn)
Khi bé Hoa ra đời (Thơ thiếu nhi, in chung)
Thƣ mùa đông
Trƣờng ca biển
Thƣơng lƣợng với thời gian
Hữu Thỉnh có những tập thơ và những bản trường ca sau:
1.3.3. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu lấy tên khai sinh là bút danh, sinh ngày 14
tháng 1 năm 1948, tại làng Vị Khê, xã Nam Điền, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam
Hà (Nam Định ngày nay). Quê hương Nguyễn Đức Mậu là làng quê đồng
bằng Bắc bộ nghèo như bao làng quê chiêm trũng khác, đã hứng chịu biết bao
biến động của lịch sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn
của kẻ thù trong chiến tranh. Nguyễn Đức Mậu sinh ra trong một gia đình
trung nông lớp dưới nhưng cha lại là người rất ham học và say mê văn
chương. Ngay từ nhỏ, cuộc sống gia đình vốn gắn bó với đồng ruộng đã tôi
luyện ở Nguyễn Đức Mậu một niềm say mê với đất đai và sự nhạy cảm với
con người, thiên nhiên, đất nước… Anh còn được thừa hưởng truyền thống
văn hóa, tinh thần yêu nước cách mạng của gia đình.
Say mê sống và say mê sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu là người đam mê
thơ ca từ thủa ấu thơ. Ngay từ nhỏ anh đã làm thơ và có tác phẩm đăng báo.
Mười bảy tuổi lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của Tổ quốc, anh đã có mặt
trong đội hình sư đoàn chủ lực trong chiến tranh, sư đoàn 312 anh hùng.
28
Nguyễn Đức Mậu đã phải sống những tháng ngày gian khổ, đã giáp mặt với
chiến tranh, cận kề với bom đạn và cái chết. Bước chân của anh từng lăn lộn ở
hầu khắp các chiến trường đầy gian khổ, ác liệt: Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng (Lào), Quảng Trị, Khe Sanh, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Sài
Gòn. Tuổi trẻ của anh đã thuộc về ký ức chiến tranh. Những thử thách đó như
lửa thử vàng càng làm sáng tỏ lý tưởng cách mạng kiên định trong tâm hồn
nhà thơ. Cuộc đời chiến sĩ cùng với năng khiếu thơ bẩm sinh, sự nghiệp thơ
ca của anh thực sự được bắt đầu trong những tháng ngày chiến đấu. Nguyễn
Đức Mậu đã biết chắt lọc từ trong khói lửa, trong hi sinh mất mát những vần
thơ mang âm hưởng sử thi hào hùng. Nói đến duyên thơ của Nguyễn Đức
Mậu không thể không nhắc đến sự song song và thống nhất của con đường
văn nghiệp và con đường binh nghiệp. Những năm đầu sáng tác trực tiếp trên
chiến trường về đề tài người lính và chiến tranh, thơ của Nguyễn Đức Mậu
được đăng nhiều trên các tờ báo: Văn nghệ, Văn nghệ quân đội… và được
nhiều người biết đến. Nhưng phải đến khi Nguyễn Đức Mậu thắp nén nhang
bằng thơ cho những người đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường và cho cả
cuộc chiến tranh đẫm máu qua bài thơ “Nấm mộ và cây trầm”, bài thơ như
một nét chấm phá mới lạ điểm trong thơ anh, thì tên tuổi của Nguyễn Đức
Mậu gây được sự chú ý. Anh trở thành một nhà thơ khoác áo lính. Ý thức
được vai trò và trách nhiệm cao cả của một “nhà thơ cầm súng”, Nguyễn Đức
Mậu gắn mình vào cuộc sống chiến đấu và lao động sáng tạo để nâng mình
ngang tầm thế hệ. Anh kết hợp tay súng với ngòi bút để làm vũ khí chiến đấu,
cổ vũ chiến đấu. Những kỷ niệm về chiến tranh và cuộc sống chiến đấu in
đậm trong tâm hồn nhà thơ. Đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt,
bằng sự nhạy cảm và chất thi sĩ trời phú, nhà thơ đã có nhiều tác phẩm xúc
động về người lính, về chiến tranh. Theo dấu chân người lính, Nguyễn Đức Mậu
đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi thở cuộc sống chiến trường, trong đó người
chiến sĩ là hình ảnh trung tâm. Hòa bình lập lại anh trở về công tác tại ban thơ
Báo Văn nghệ quân đội cho đến nay. Năm 1982 anh theo học trường Viết văn
29
Nguyễn Du khóa I. Trường học là sự trau dồi tài năng nghề nghiệp để rồi những
vốn sống thực tế đầy ắp trong chiếc ba lô cũ sờn kia chưa có điều kiện bộc lộ hết
giờ có thêm sức mạnh bật ra trọn vẹn hơn. Viết về chiến tranh như dữ dội và đau
đớn hơn. Đến nay, với trên hai chục đầu sách gồm cả thơ, văn, tác phẩm viết cho
thiếu nhi,… tất cả đã cho thấy Nguyễn Đức Mậu có một sức sáng tạo thật dồi
dào. Đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt, bằng sự nhạy cảm và chất thi
sĩ trời phú, nhà thơ đã có nhiều tác phẩm xúc động về người lính, về chiến tranh.
Theo dấu chân người lính Nguyễn Đức Mậu đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi
thở cuộc sống chiến trường, trong đó người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm.
Hiếm có nhà thơ giành được nhiều giải thưởng văn học có giá trị như
anh, từ giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972 -1973 đến 4 giải
thưởng Bộ Quốc Phòng năm 1989, 1994, 2004, 2009; 2 giải thưởng Hội Nhà
Văn năm 1993, 1999. Anh là nhà thơ thứ năm giành giải thưởng ASEAN năm
2001(sau Tố Hữu, Ma Văn Kháng, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khải) và giải thưởng
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001
Giải thưởng văn học Asean năm 2001
Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972-1973
4 giải bộ Quốc phòng (1989, 1994, 2004, 2009)
2 giải Hội nhà văn (1993, 1999)... và một số giải thưởng văn học khác.
Nhà nước năm 2002.
Tác phẩm chính:
Thơ :
-Thơ ngƣời ra trận (In chung cùng Vương Trọng, 1971)
- Cây xanh đất lửa (1973)
- Áo trận (1973)
- Mƣa trong rừng cháy (1976)
- Trƣờng ca sƣ đoàn (Trường ca, 1980)
- Hoa đỏ nguồn sông (1987)
30
- Từ hạ vào thu (1992)
- Bão và sau bão (1994)
- Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998)
- Bầy chim màu lá vàng ( 2004)
- Thơ lục bát (2007)
- Mở bàn tay gặp núi (Trường ca, 2008)
- Từ trong lòng cuộc chiến (2010)
Truyện ngắn, phê bình và tiểu thuyết:
- Con đƣờng không quên (Truyện ngắn, 1984)
- Ở phía rừng Lào (Truyện vừa, 1984)
- Tƣớng và lính (Tiểu thuyết, 1990)
- Chí Phèo mất tích (Tiểu thuyết, 1993)
- Con đƣờng nhiều tơ nhện giăng (Tập truyện ngắn, 2001)
- Niềm say mê ban đầu (Tiểu luận phê bình, 2010)
31
CHƢƠNG 2: CÁI NHÌN CHIẾN TRANH TRONG THƠ
PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU
2.1. Đôi nét so sánh giữa thơ miền Nam và thơ miền Bắc cùng thời kỳ
(1955 - 1975)
Thơ miền Nam thời chiến là một nền thơ mang màu sắc bi quan, phản
chiếu nhiều hơn là cổ vũ cho chiến đấu. Có lẽ đó là mặt tích cực nhất đứng từ
góc độ tư tưởng hay cảm hứng nghệ thuật. Phản chiến có mặt thuận của nó là
không đồng tình với việc hộ tống cho quân Mỹ. Nhưng mặt nghịch của tư
tưởng phản chiến là sự phớt lờ của hàng chục vạn quân Mỹ, và chỉ nhìn thấy
quân Việt Cộng. Bởi nhiều nhà thơ là chiến binh trong quân đội Việt Nam
Cộng hòa, cho đến tận bây giờ vẫn không coi cuộc chiến tranh đó là cuộc
chiến tranh Việt – Mỹ mà coi đó là cuộc chiến tranh Việt Nam. Cách nhìn và
cách gọi tên cuộc chiến tranh như thế làm cho ý thức dân tộc bị nhòe mờ và
đôi khi ngộ nhận đó là cuộc phân tranh kiểu Trịnh – Nguyễn:
Anh nghĩ gì sau lần trận đánh
Máu Việt Nam lẫn sỏi Việt Nam
Mã tấu lưỡi lê dao dài lựu đạn
Mảnh quê hương vùng Á châu buồn
(Tình tự - Chu Vƣơng Viện)
Do cách nhìn chiến tranh có tính đơn tuyến như vậy, quê hương đất nước
không còn là đối tượng của yêu thương và gìn giữ mà chứa chất đầy hiểm họa.
Biên cương không phải là mảnh đất thiêng liêng đáng ôm ấp và ca ngợi. Biên
cương vẫn là nơi xa xôi, lạ lẫm. Trong tư duy của đa số các nhà thơ miền Nam chế
độ Việt Nam Cộng hòa, chiến tranh 1965 – 1975 là một nỗi đau, là tai ương trời
giáng xuống để hành hạ những con người nhỏ bé đáng thương. Có nhà thơ đã xám
hối khi bước vào quân ngũ, sống cuộc đời quân ngũ. Khi thấm cái gian khổ, cái
32
đau thương cuộc đời người lính vác khẩu súng nặng trên vai, người lính như nhận
ra cái sự thực cay đắng của cuộc đời mà trước đây anh không thể nào hiểu được.
Cái tâm trạng ấy hoàn toàn ngược với cái tâm trạng hồ hởi trong thơ
miền Bắc cùng thời kỳ. Cái quan niệm văn học nghệ thuật là một thứ vũ khí,
quan niệm “tiếng hát át tiếng bom” đã phần nào hạn chế những cảm xúc bi ai,
thương đau. Mới suy nghĩ về Vòng trắng, Khăn tang trên đầu nhƣ một số
không (Phạm Tiến Duật) hay trăn trở về cái Sẹo đất do hố bom để lại trên
mặt ruộng (Ngô Văn Phú) thì dư luận báo chí đã ồn lên như những vụ xì –
căng – đan gây tai nạn chết người. Thơ phải là bài ca kêu gọi ra trận tràn đầy
tính lạc quan, tính chiến đấu. Dĩ nhiên, đó không phải hoàn toàn là sự cưỡng
bức, sự bắt buộc của lý luận, của kiểm duyệt mà chính là tiếng lòng của các
nhà thơ, ý chí và tâm sự của chính các nhà thơ đã tạo nên những câu thơ như
thế: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố
Hữu); “Xóm dưới làng trên, con trai con gái/ Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo
nhau/ Súng nhỏ súng to, chiến trường chật chội/ Tiếng cười hăm hở đầy sông
đầy cầu” (Chính Hữu); “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật);
“Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn” (Hoàng Nhuận Cầm). Nhưng đó là
một loại thơ khác, một phương pháp sáng tác khác: Thế giới quan Mác – xít
và phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
2.2. Hiện thực đời sống chiến trƣờng
Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ chung của cả nền
văn học thời kì chống Mỹ nói chung và thơ ca nói riêng. Trong sự nỗ lực
chung ấy, thơ trẻ chống Mỹ đã vượt lên, góp vào nền thơ chống Mỹ những
trang thơ viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất ác liệt, dữ
dội, những hi sinh gian khổ của con người Việt Nam trong chiến tranh. Về
phương diện này có thể xem thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một dòng thơ giàu
có, chi tiết, cụ thể, sống động. Nhiều nhà thơ trẻ đã mạnh dạn đưa vào thơ
những chi tiết ngổn ngang, bề bộn, đầy phức tạp của đời sống chiến trường.
33
2.2.1. Hiện thực mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca
Trong nhu cầu thiết yếu của lịch sử, thơ ca ngoài việc phản ánh đời
sống hiện thực của con người còn có nhiệm vụ cao quý hơn là phục vụ cách
mạng. Vì thế không riêng gì Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu,
mà tất cả các nhà thơ khác đều sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm
hứng ngợi ca đóng vai trò chủ đạo trong các tác phẩm. Thơ ca chống Mỹ biểu
hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống, về thắng lợi của
hiện tại và tin tưởng vào tương lai. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nội
dung chủ yếu được thơ khai thác và biểu hiện với nhiều sắc thái. Có thể nhận
thấy rằng, khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca trong thơ kháng chiến
chống Mỹ luôn mang cảm hứng lịch sử, thời đại, dân tộc. Đó là cái tôi mang
sứ mệnh lịch sử. Chẳng hạn, trong thơ xưa chia li là nhuốm màu sắc u buồn,
thê lương, ảm đạm “Người lên ngựa kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm
màu quan san?” (Truyện Kiều – Nguyễn Du), “Hoàng hôn đầy trong mắt
trong” (Tống biệt hành – Thâm Tâm),… thì trong thơ cách mạng, chia li lại
là chia li màu đỏ, màu của lý tưởng, dồn nén tình cảm riêng, tất cả vì nghĩa
lớn “Đó là cuộc chia li chói ngời sắc đỏ/ Tươi như cánh nhạn lai hồng” (Cuộc
chia li màu đỏ - Nguyễn Mỹ). Tình yêu đôi lứa hòa lẫn trong tình yêu rộng
lớn – tình yêu đất nước “Nhớ nhau anh gọi: Em, đồng chí/ Một tấm lòng trong
vạn tấm lòng” (Núi đôi – Vũ Cao). Cao đẹp nhất là ý thức mình được hòa
vào nhân dân: “Con gặp lại Nhân dân như nai về suối cũ/ Cỏ đón giêng hai
chim én gặp mùa” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên).
Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965 – 1975), Phạm Tiến Duật
nổi bật với những tác phẩm viết về chiến tranh. Đây là thời kỳ anh viết
khỏe và tốt nhất, tạo được dấu ấn riêng trên thi đàn văn học. Bức tranh toàn
cảnh về cuộc chiến đã được anh khắc họa, mô tả chân thực, sống động. Có
thể nói, sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã mang đến cho nền thơ Việt
Nam sinh khí mới, góp phần cổ vũ tinh thần cho những con người đang
trực chiến nơi tiền tuyến.
34
Yếu tố sử thi trong thơ được Phạm Tiến Duật phát huy triệt để và đóng vai
trò chủ đạo trong các tác phẩm. Phạm Tiến Duật là nhà thơ đưa chất sử thi lan thấm
và những vần thơ của đời thường. Anh đã kết hợp được nhuần nhị giữa lý tưởng và
sự kiện, giữa năng lực quan sát và tấm lòng của một người lính trẻ. Chất hiện thực
ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ và hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên
đường Trường Sơn thời đánh Mỹ kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo
nên những vần thơ góc cạnh đầy ấn tượng. Cái khốc liệt của chiến trường, sự hi
sinh, mất mát đã nhường chỗ cho lòng quả cảm, ý chí kiên cường, bất khuất, không
ngại gian khổ, vượt qua bom đạn, hay nói đúng hơn là cái tôi cá nhân được thay thế
bằng cái ta chung của cộng đồng, tập thể. Trong chiến trường sự hi sinh, mất mát,
sức tàn phá của bom đạn cũng chỉ thoáng qua. Vượt lên trên tất cả là lý tưởng và sức
chịu đựng của con người, ngay cả người trong cuộc cũng không hiểu vì sao con người
lại phi thường đến vậy. Đọc thơ anh, người đọc sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh về những
cô thanh niên xung phong dũng cảm, kiên cường với những ấn tượng khó quên:
Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét
Tóc lá xả đâu đó vẫn bay hương
(Lửa đèn)
Mảng thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử
thi và cảm hứng ngợi ca, nằm trong giới hạn kiểu nhà thơ trữ tình công dân,
thể hiện cái tôi sử thi của thơ ca cách mạng hiện đại. Cảm hứng chủ đạo ở
mảng thơ viết về chiến tranh của anh là cảm hứng sử thi, cảm hứng trước cái
cao cả, trong niềm say mê khẳng định tình yêu lớn, lẽ sống lớn. Hình ảnh
nhân dân vĩ đại cùng với những phẩm chất kiên cường, bất khuất, thủy chung:
Không quay mặt chẳng bao giờ tiếc máu
Dù cho phải đốt dãy Trường Sơn
Dù cho ăn chay ăn độn
Bíu lấy lá rau như bíu lấy lá buồm
Qua sóng gió hiểm nghèo trăm trận đói
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
35
Cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt mà cũng vô cùng oanh liệt.
Chân giá trị của dân tộc và của mỗi người được đem ra thử thách, khe khắt và
chân xác. Là người trực tiếp cầm súng, Hữu Thỉnh có điều kiện thấm thía điều
đó sâu sắc, anh “nhập cuộc, dấn thân”. Chính trong quá trình đó, Hữu Thỉnh
nhận ra cội nguồn sức mạnh của dân tộc, của người lính mà đôi khi bản thân
họ cũng không ngờ tới. Một trong những nguồn nuôi dưỡng tâm hồn và làm
nên sức mạnh của quân đội cách mạng thời ấy là thi ca: “Chúng tôi sưởi trên
những câu thơ ấy/ Cứ thế qua đi nhiều mùa mưa” (Đƣờng tới thành phố).
Hiện thực đời sống trong những năm chống Mỹ và ngọn lửa chiến tranh
cách mạng đã tôi luyện Nguyễn Đức Mậu thành con người vững vàng trong cuộc
sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Giáp mặt với thực tế chiến tranh, Nguyễn Đức
Mậu đã ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình, sự xuất hiện đúng lúc của
thế hệ mình. Với anh, hình ảnh người nữ chiến sĩ hiện lên trong sự xúc động ngạc
nhiên lẫn cảm phục, ngợi ca:
Em phá bom như việc cấy cày thôi
Nghe em kể về bom anh lạ quá
Bom nổ nhỏ hơn bởi tiếng em cười
(Nơi em ở nhiều bom đến nỗi – Nguyễn Đức Mậu)
Khuynh hướng sử thi trong thơ anh thể hiện tiếng hát tiếng cười của
một dân tộc đang chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Người đọc tìm thấy
trong thơ anh sự thanh thản của tâm hồn giữa bộn bề gian khổ, hi sinh.
Mặc dù cuộc chiến đấu chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trong cảnh mưa bom,
bão đạn, nhưng khắp các chiến trường trên mảnh đất Việt Nam đâu đâu cũng rộn
rã tiếng hát, tiếng cười. Đâu có phải “khi đại bác gầm thì họa mi im tiếng hót” mà
“tiếng hót” ấy càng cất cao hơn, réo rắt hơn nhằm lấn át tiếng đại bác:
Lửa bộc phá lóe lên phá sập bốt đồn
Anh bỡ ngỡ ngã vào tay đồng đội
Vui chiến thắng chỉ cười thôi, không nói…
Bàn tay anh in lên đất chiến hào
Thành ngôi sao nở xòe năm cánh đẹp”
(Bàn tay biết đi – Nguyễn Đức Mậu)
36
Những năm tháng sống và chiến đấu trên chiến trường là những năm
tháng sáng tác say mê nhất của Nguyễn Đức Mậu. Niềm say mê của tuổi trẻ
vừa cầm súng vừa làm thơ. Hình ảnh những người chiến sĩ hiện lên trong thơ
Nguyễn Đức Mậu là những con người bình dị nhưng rất đẹp và cao cả. Họ là
những con người chịu đựng gan góc. Hơn một tháng trời tiểu đội bộ binh bám
trụ trên chốt, họ phải nằm trên những thùng đạn. Mùa mưa, nước cuốn theo
xác chuột chết lẫn mùi bom hơi, thuốc súng chảy qua đầu, qua vai, nhuộm
đầm lên quần áo họ “đôi giày không khô, quần áo không khô”… rồi có những
cơn sốt rét rừng hành hạ, những bữa ăn triền miên chỉ sắn và lương khô…
nhưng họ đã sống và chiến đấu hết mình, kì diệu hơn cả họ lại là những người
chiến thắng:
Mưa gầm lên tưởng cuốn cả cây rừng
Mây xám, mưa tuôn, kẻ thù: mưa lửa
Trăm trận đánh đồi xanh thành đồi đỏ
Thành màu cờ cháy rực suốt mùa mưa
(Tiểu đội bộ binh trên chốt mùa mƣa – Nguyễn Đức Mậu)
Cái nhìn của Phạm Tiến Duật không thiên về miêu tả sự dữ dội của
chiến tranh mà chủ yếu thể hiện hình ảnh những con người mang dòng máu
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lạc quan, tha thiết yêu đời trong hoàn
cảnh chiến đấu gian khổ, hiểm nguy. Lý giải điều này anh đã viết “Cốt chụp
lấy khuôn mặt của ta/ Còn cái ác liệt của giặc thì có gì mà phải chụp” (Một
bài thơ không vần kể chuyện chụp ảnh ở một vùng giáp với mặt trận).
Những gương mặt, cử chỉ, hành động, giọng nói, tiếng cười, tình cảm giữa
con người với con người trong chiến tranh được anh khắc họa đậm nét. Hay
từ những tình cảm, cảm xúc chân thành dành cho một cô gái trong cái đêm
“Thạch Nhọn – Thạch Kim” ấy, nhà thơ đã giúp người đọc thấy được gương
mặt chung của một lớp trẻ, bởi vậy mà: “Tên em đã thành tên chung anh gọi –
em là cô thanh niên xung phong”.
37
Cũng như nhiều nhà thơ thời đó, cái nhìn chiến tranh trong thơ Phạm
Tiến Duật mang đậm chất lý tưởng của người lính gánh vác trên mình trọng
trách cao cả. Cho nên, sự hiện diện của kẻ thù với những vũ khí hiện đại với
sức mạnh hủy diệt càng góp phần làm chân dung người lính tỏa sáng hơn, làm
tăng thêm giá trị của cuộc chiến.
Nguồn cảm hứng về một dân tộc anh hùng, cùng với những năm tháng
gian khổ, băng qua bom đạn và hi sinh đã tạo tiền đề cho hồn thơ Hữu Thỉnh
có cơ hội được bay cao hơn. Hòa cùng không khí của cuộc kháng chiến, thơ
Hữu Thỉnh luôn hướng về vấn đề lớn của dân tộc, của thời đại. Cảm hứng về
Tổ quốc được kết tinh rõ nét trong những vần thơ Hữu Thỉnh, luôn là hình
ảnh một Việt Nam: anh dũng, kiên cường, luôn ngẩng cao đầu, không chịu lùi
bước trước mọi sức mạnh. Hữu Thỉnh luôn khát khao, mong chờ những câu
thơ của mình chứa đựng, phản ánh và lý giải được sự kỳ diệu đã tạo nên vầng
hào quang chói lòa của lịch sử đất nước, đó chỉ có thể là lợi ích cá nhân và lợi
ích của cả dân tộc đã được thống nhất trong một khối toàn vẹn, khát vọng tự
do của mỗi cá nhân cũng chính là khát vọng cháy bỏng của nhân dân:
Ta đi trong rừng suốt một thời trai trẻ
Đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng
Quen nhớ nhà, quen nhạt muối
Khúc dân ca hát đi hát lại
(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)
Có thể nói tinh thần lạc quan, lòng yêu đời, yêu người tha thiết đã trở
thành tình cảm thường trực trong lòng nhà thơ – người chiến sĩ ấy, khiến anh
như lúc nào cũng muốn reo lên ngợi ca:
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm trường sơn bạn bè trong trẻo quá
(Tiếng hát trong rừng – Hữu Thỉnh)
38
Hiện thực chiến trường là những hi sinh, mất mát, là những gian khổ và
thiếu thốn. Nguyễn Đức Mậu viết trực tiếp về cuộc thiếu thốn gian khổ đó là
để ngợi ca sức sống bền bỉ, quật cường, tinh thần chiến đấu của con người
Việt Nam. Để có những vần thơ như thế nhà thơ luôn trăn trở, băn khoăn, suy
nghĩ: “nhiều lúc đọc lại những bài thơ của mình tôi cứ thầm nhủ: làm thế nào
để có thể ca ngợi, phản ánh trung thực cuộc chiến đấu vĩ đại đó của quân dân
ta? Lẽ nào mình cứ nói về một ngọn gió làm duyên ở chiến trường khi anh
trinh sát cuộn tròn trong tiếng thì thầm có gai của cây xấu hổ? Viết thế nào?
Câu hỏi dường như cũ mòn ấy cứ hay trùng lặp lại” [11, tr.6]. Niềm băn
khoăn trăn trở ấy đã thôi thúc nhà thơ luôn tìm tòi sáng tạo, những vần thơ ca
ngợi vì thế mà như được vút cao hơn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Đức Mậu
hình ảnh một đơn vị ngủ rừng hiện lên như một bức tranh vừa hoành tráng
vừa gần gũi chân thực:
Người tựa lưng vào dãy Trường Sơn
Thành bức tượng đồng mới tạc
Người nằm trên đỉnh đèo chót vót
Mây trắng vờn bay mái tóc mềm
Người gối đầu lên mảnh trăng liềm
Cây lá êm đưa sao lùa dưới võng
Suối ven đường lửa bỏng
Đêm nay đơn vị ngủ rừng
(Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc – Nguyễn Đức Mậu)
Phạm Tiến Duật đã vận dụng thành công lối viết ngợi ca theo nhịp biến
chuyển của lịch sử. Nếu như chúng ta chỉ nhìn nhận chiến tranh cách mạng ở
khía cạnh mất mát, đau thương, ghê sợ, tiếc nuối và xót xa thì cái nhìn đó
mang tính phiến diện. Cần nhận định rằng cuộc chiến tranh của chúng ta là
39
cuộc chiến tranh chính nghĩa và sự hi sinh của chúng ta là chính đáng, cần thiết,
cao cả, xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cho nên việc ca ngợi khí thế hào hùng
trong thơ là điều tự nhiên, tạo nên sức sống mới cho thơ ca chống Mỹ:
Còn giao hưởng nào hơn giao hưởng Trường Sơn
Tiếng người, tiếng xe, tiếng súng, tiếng bom
Tiếng đêm khuya con công tố hộ
Tiếng núi xô ầm ầm đá đổ
Tiếng gió đi vào, tiếng gió đi ra
Tiếng rầm rì hai miền đi qua…
(Chào mừng đạo quân tuyên truyền – Phạm Tiến Duật)
Nếu nhìn nhận ở góc độ lịch sử, Phạm Tiến Duật đã tạo dấu ấn sâu đậm
cho thơ ca chống Mỹ khi phác họa thành công bức tranh đẹp về toàn cảnh con
người Việt Nam trong chiến tranh. Ở đó con người sống bằng lý tưởng. Ngòi
bút của nhà thơ đã len lỏi vào từng góc cạnh đời sống chiến trường, niềm vui,
nỗi buồn và cả khát vọng về ngày mai tươi đẹp hiện lên trong thơ anh bình dị
và nhiều ý nghĩa. Chữ Văn Long đã tinh tế khi cho rằng: “Khi anh viết những
câu thơ nghiêng về vẻ đẹp hồn nhiên sự sống, cả một bầu không khí trận mạc
gian khổ hi sinh, ngàn vạn con người cùng bước chân đi theo lý tưởng thống
nhất đất nước, giải phóng dân tộc, những câu thơ anh lý tưởng hóa cuộc như
vậy, là lẽ đương nhiên” [16, tr.959]. Từ ngàn xưa, nước Việt Nam luôn đối mặt
với nạn ngoại xâm và ông cha ta đã tỏ rõ khí thế của một dân tộc anh hùng,
không hề nao núng dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Trong những lúc như thế
tinh thần đoàn kết dân tộc được phát huy đến mức cao nhất, đó là yếu tố góp
phần tạo nên thắng lợi.
Ra đời và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài, những
năm tháng đất nước bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thơ ca
1965 – 1975 không thể là tiếng nói riêng của cá nhân mà là tiếng nói của cả
cộng đồng. Số phận con người gắn liền với số phận, vận mệnh chung của toàn
40
dân tộc. Thơ ca mang đậm chất sử thi và cảm hứng ngợi ca, tập trung phản
ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước. Cái đẹp
trong thơ gắn liền với ý niệm Tổ quốc trường tồn. Mỗi người dân Việt Nam
bằng lòng yêu Tổ quốc tha thiết đã tự nguyện hi sinh lợi ích cá nhân, kể cả
sinh mệnh của mình vì đất nước, quê hương.
Có thể nói giai đoạn chống Mỹ cứu nước, thơ ca nở rộ, phản ánh hơi
thở của cuộc sống và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, thơ ca giai
đoạn này nói chung và của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu
nói riêng đã khắc họa được trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Cái đẹp
hòa với cái hùng, cái cao cả, yếu tố sử thi và cảm hứng ngợi ca hiện lên trong
thơ ca mang một chiều sâu tư tưởng, khái quát được hiện thực đời sống nhưng
không xa rời cuộc sống. Cả ba nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn này mang
ý thức hệ rất rõ ràng, nhận thức lý tưởng cách mạng sâu sắc. Vì vậy thơ ca
của ba nhà thơ – chiến sĩ là một nốt trầm hùng trong bản nhạc tráng ca của
thời đại. Không chỉ là nhà thơ, các anh còn là những người trực tiếp lăn lộn
với chiến trường ác liệt, thơ ca của các anh là những rung động, những trải
nghiệm trực tiếp từ cuộc sống của con người, quê hương đất nước. Đó là
những con người biết sống vì mục đích cao cả, thiêng liêng, biết hi sinh, cống
hiến để giải phóng dân tộc khỏi kiếp lầm than, nô lệ là lẽ sống của thời đại.
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca của các nhà thơ chủ yếu hướng tới
cuộc sống của giai cấp, của dân tộc, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2.2.2. Sự khốc liệt của chiến tranh
Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ chung của cả nền
văn học thời kỳ chống Mỹ nói chung và thơ ca nói riêng. Trong sự nỗ lực
chung ấy, thơ trẻ chống Mỹ đã vượt lên, góp vào nền thơ chống Mỹ những
trang thơ viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất dữ dội, ác
liệt, những hy sinh gian khổ của con người Việt Nam trong chiến tranh. Về
41
phương diện này, có thể xem thơ trẻ chống Mỹ là một dòng thơ giàu có chi
tiết cụ thể, sống động. Nhiều nhà thơ trẻ đã mạnh dạn đưa vào thơ những chi
tiết ngổn ngang, bề bộn của đời sống chiến trường. Sống giữa chiến trường,
những nhà thơ trẻ đã chứng kiến tận mắt những cảnh tượng dữ dội, ác liệt của
chiến tranh nên có thể nói, họ đã ghi lại một cách đầy đủ về quang cảnh chiến
trường Trường Sơn. Có những sự thật trần trụi tưởng chừng như vô lí ở Trường
Sơn cũng được các tác giả ghi lại :
Cây lá thiếu màu xanh
Rừng hoang thừa tiếng nổ
(Trƣờng ca sƣ đoàn - Nguyễn Đức Mậu)
Không phải là người đứng ngoài để tưởng tượng về chiến tranh nữa,
các nhà thơ trẻ đã thực sự sống giữa chiến trường. Cái thế mạnh của người
trong cuộc này đã tạo nên những vần thơ giàu chi tiết chân thực:
- Đây Quảng Trị lần đầu ta gặp
Bom B52 cắt dọc đội hình
- Dọc triền sông súng nổ đêm ngày
- Sau trận đánh ta còn nghe súng nổ
- Bom dội từ trời sâu, đạn nổ dưới chân trời.
(Trƣờng ca sƣ đoàn - Nguyễn Đức Mậu)
Với Phạm Tiến Duật, là một nhà thơ vừa cầm súng vừa cầm bút, anh đã
bao quát hết mọi góc cạnh của cuộc chiến, kể cả sự tàn phá, hủy diệt của
chiến tranh đối với đời sống con người. Ở thơ anh, người đọc sẽ bắt gặp rất
nhiều những hình ảnh về những hiểm nguy mà người lính trải qua. Có khi anh
miêu tả một cách rõ ràng, cụ thể từng chi tiết, nhưng có khi lại ẩn đi đằng sau
lời nói của nhân vật về tính ác liệt của cuộc chiến. Điển hình là Bài thơ về
tiểu đội xe không kính. Hàng loạt điệp từ được anh sử dụng: không có 5 lần,
nhìn 5 lần, như là một minh chứng cho hiện tại, không nhưng lại là có. Chiến
tranh là thế đấy, tất cả mọi thứ đều bị thiêu hủy, ngay cả mạng sống của con
người cũng được tính từng giờ, từng phút:
42
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
… Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Mỗi nhà thơ đều có cách thể hiện sự vật, hiện tượng theo cảm nhận cá
nhân. Có người nhìn chiến tranh ở góc độ nhân văn. Có người nhìn ở góc độ tiến
trình lịch sử. Nhưng dù đặt ở góc nhìn nào thì cũng phải nằm trong quy luật vận
động, phát triển của văn học và điều tất nhiên là phải gắn với đời sống con
người, dân tộc. Hình ảnh chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật đều hiền lên rất
cụ thể, chi tiết, không hề che giấu, thậm chí tỉ mỉ đến cả những nguy hiểm đe
dọa tính mạng con người trên Trường Sơn. Bằng sự quan sát tinh tế, ngòi bút
đầy bản lĩnh và trực diện, anh đã xây dựng lên nhiều hình ảnh cụ thể, mặt ác
nghiệt, tàn bạo của chiến tranh qua những vần thơ hào hùng của mình:
Chúng lao xuống nơi nao
Loe ánh lửa,
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.
(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)
Với Hữu Thỉnh làm thơ là cách tốt nhất để anh ghi lại những hình ảnh,
những màu sắc, những thanh âm đa dạng của cuộc đời. Cũng chính vì thế người
đọc dễ dàng nhận thấy thơ anh là tấm gương phản ánh chân xác cuộc đời thực, là
“cuốn sử” bằng thơ về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là sự khốc liệt của
chiến tranh, là lai lịch các tâm hồn, là những số phận điển hình trong nhân dân.
Viết về Trường Sơn những năm tháng chiến tranh dữ dội:
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét
(Tiếng hát trong rừng - Hữu Thỉnh)
Anh đã hòa tiếng thơ của mình vào cảm hứng chung của cả dân tộc
trong cuộc kháng chiến, sáng tác thơ chống Mỹ vì thế mà rắn rỏi, hiện thực và
mang tầm khái quát lớn lao. Những tháng ngày “xẻ dọc Trường Sơn” được
43
đong đầy trong thơ anh. Sự khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong
những năm mưa bom bão đạn đã được ngòi bút của Hữu Thỉnh phản ánh một
cách chân thực và sinh động. Đó là một cuộc chiến đấu gian khổ, đầy cơ cực,
luôn phải đối mặt với sự rình rập của kẻ thù, với sự khó khăn thường trực
đang ngày đêm diễn ra giữa rừng núi Trường Sơn:
Khi bản Đông thành một nấm mồ
Những hãng phương Tây đưa tin nhớn nhác:
-Chưa bao giờ những binh đoàn thiết giáp
Của đối phương lại áp đảo như đây
(Sau trận đánh – Hữu Thỉnh)
Sống giữa chiến trường, Nguyễn Đức Mậu đã chứng kiến tận mắt
những cảnh tượng dữ dội, ác liệt nhất của chiến tranh. Gắn bó, lăn lộn nhiều
năm ở rừng Trường Sơn, anh đã ghi lại những hình ảnh đầy chân thực. Sự
khốc liệt trong thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ được khắc họa bó hẹp trong
bối cảnh chiến trường mà còn được mở rộng tới hậu phương, vùng địch tạm
chiếm hay cả ở những vùng địa hình khốc liệt:
Khẩu pháo không một ngày mặc áo
Đồi thông vàng che giàn tên lửa
Trận địa súng trường ở cao, đào sâu
Lưng rồng tỏa ra ngang dọc chiến hào
(Trận địa trên lƣng rồng)
Tưởng như ngay cả thiên nhiên và cảnh vật cũng không được một ngày
nghỉ ngơi bởi sự tàn phá của chiến tranh. Cảnh vật thiên nhiên được nhà thơ
khắc họa theo chiều dài của chiến trường:
Cây thông cháy đứng lên làm cột số
Vết dao anh khắc gỗ vẫn còn đây
Những con số thơm thơm dòng nhựa
Hương nồng nàn hơi ấm bàn tay
(Theo những con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)
44
Tiếng bom, tiếng gầm rú của máy bay, những luồng pháo sáng điểm
hỏa, tiếng còi báo động,… luôn hiện diện trong thơ Phạm Tiến Duật những
năm chống Mỹ. Không nhà thơ nào lại mô tả những thanh âm đó một cách
sống động và trần trụi đến vậy “Nghe bom dội đêm ngày/ Âm ỉ tiếng tàu
bay”. Từng mảnh đất quê hương rên xiết, đau thương dưới những trận mưa
bom thảm khốc, tiêu diệt cả mầm xanh non tơ “Nghe cây ầm ầm đổ/ Cốc chén
chẳng nằm yên/ Lung lay cả ngọn đèn/ Tiếng bom như tiếng thú” (Tiếng bom
ở Seng Phan). Anh từng quan niệm “Thơ chỉ biết đến thơ mà không biết đến
đời thì thua xa một cái máy tính” (Vừa làm vừa nghĩ). Chính vì thế thơ anh
thường đi ra ngoài, hướng đến vẻ đẹp đời sống nhất là nơi chiến trường, cái
đẹp của cuộc sống sôi động vừa chiến đấu vừa sinh hoạt dưới tầm đại bác,
dưới tiếng bom rơi, đạn nổ. Không khí dữ dội, ác liệt của chiến trường đi vào
từng trang thơ của anh nóng bỏng và sôi sục. Anh từng chứng kiến cảnh
những chiếc xe từ trong bom rơi vẫn cứ chạy về hướng Nam, băng qua những
công trình ngoằn nghèo trên mặt đất, dưới những tàn cây đổ tơi bời đầy hố
bom. Trường Sơn bấy giờ là trọng điểm ném bom chính của giặc.
Sự tàn khốc của cuộc kháng chiến chống Mỹ, sự tàn bạo của kẻ thù
đang muốn biến mảnh đất Việt Nam thành một bãi chiến trường không có sự
sống, mà chỉ có tan hoang đổ nát, chỉ có mịt mù khói lửa bom đạn. Hữu Thỉnh
đau xót trước cảnh mất mát, tàn phá, hủy hoại của bom đạn kẻ thù, nỗi đau
như thể một phần máu thịt của anh bị cắt rời:
Con đường qua tháng năm
Núi đau lở đá, rừng bầm tận cây
(Trƣờng Sơn trong vƣờn – Hữu Thỉnh)
Hữu Thỉnh đã miêu tả chân thực những hình ảnh đau thương tàn phá
của bom đạn giặc Mỹ trút xuống quê hương, đồng đội. Anh đau đớn khi phải
chứng kiến những cuộc tàn sát đẫm máu của kẻ thù: “Dòng suối xác một
người đồng chí/ Bị chặt đầu/ Chân còn dép – chân không”. Cuộc kháng chiến
45
ngày lại ngày phải đối mặt với sự khốc liệt, sự hi sinh, tàn phá của kẻ thù
được nhà thơ phác họa rất sinh động qua hình ảnh:
Giặc đổ quân sau rừng
Ủi và đốt
Cây thở dài trên đất
Tàn bay tung
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Thực tế chiến trường là mảnh đất khốc liệt, người lính cũng như cả dân
tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường “tiến thẳng mà thôi”, sự
khốc liệt ấy là những gian nan, nghiệt ngã của cả dân tộc trong chiến tranh:
Lòng sông quặn đau thắt mấy năm rồi
Đôi bờ, đôi bờ đạn bom thù cào xé
Giặc Pháp rút nhưng còn đây giặc Mỹ
Sông trăm lần bầm tím vết thương sâu
… Tiếng trẻ khóc khản nơi bản vắng
Tiếng gió mang mùi lúa cháy trên nương
(Nhịp cầu sông Nậm Ô – Nguyễn Đức Mậu)
Chiến tranh tàn phá khốc liệt, không chỉ người lính anh dũng trên chiến
trường, những anh nuôi, những người mẹ, người cha phải hứng chịu mà cả
các em nhỏ thơ ngây cũng phải chịu đựng và hãi hùng. Những năm sống và
chiến đấu nơi chiến trường biên giới Lào, Nguyễn Đức Mậu đã từng chứng
kiến cảnh:
Lửa chiến tranh ném xuống buôn làng
Trẻ con da vàng phải ở rừng nằm đất
Tuổi thơ nào không biết mặt cha
Giọt sữa mẹ loang dòng máu xót
(Tiếng trẻ khóc nơi bản Lào cháy – Nguyễn Đức Mậu)
46
Nguyễn Đức Mậu còn khắc họa sự khốc liệt của chiến tranh nơi biên
giới đất nước:
Đồng Lộc những ngày chiến tranh khốc liệt
Mũ sắt nhấp nhô khắp các ngọn đồi
Cây cháy trụi, con đường cháy trụi
Những khẩu pháo, những dáng người xạm khói
(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc – Nguyễn Đức Mậu)
Sự đối mặt không cân sức giữa một bên là cường quốc số một, luôn luôn áp
đảo, bao vây bằng những trang thiết bị hiện đại, bằng những cuộc càn quét đẫm máu:
Giặc đổ xuống ba tiểu đoàn “trâu điên”
Bò theo chúng hai hàng máy ủi
Trận đánh lại bắt đầu mới nguyên
Súng lại nổ như chưa từng ác liệt
(Trƣớc mặt là Tổ quốc – Hữu Thỉnh)
Với một bên là dân tộc Việt Nam nhỏ bé, mà hành trang của họ không
có gì ngoài niềm tin, lòng tự hào và một trái tim yêu nước dù cho bao khó
khăn, gian khổ:
Những cơn khát bặm môi vào bẹ chuối
Hiện lên
Những dấu gậy cơn sốt rừng run bắn
Hiện lên
Những giọt mồ hôi ròng như nến chảy
Hiện lên…
(Trƣớc mặt là Tổ quốc – Hữu Thỉnh)
Những câu thơ của ba nhà thơ chiến sĩ đã phần nào giúp ta cảm nhận
sâu sắc hơn, cụ thể hơn sự tàn bạo của giặc và sức hủy hoại tàn phá của chiến
tranh. Ngày nay, tuy “cuộc chiến tranh đã lấp chìm trong cỏ” nhưng người lính
trở về sau chiến tranh trái tim họ còn “nhói buốt mảnh bom găm”. Bởi vậy, mà
mỗi trang thơ viết về chiến tranh của các anh luôn đầy ám ảnh, nhức nhối.
47
2.2.3. Hiện thực của sự hi sinh gian khổ
Trong những năm chống Mỹ, con người chủ động đi vào chiến trường bằng
lòng tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực. Tuy
nhiên, trước sức ép của kẻ thù còn phải trải qua nhiều gian khổ, cực nhọc, đói rét,
bệnh tật,… và cả thử thách giữa sống và chết. Hà Minh Đức trong Thời gian và
trang sách đã nhận định đó là “cuộc đọ sức giữa hai thế lực, hai lẽ sống, hai nhân
cách trong một cuộc chiến đấu quyết liệt” [31, tr.115]. Với người Việt Nam,
niềm khao khát được làm chủ đất nước, sống hòa bình, hạnh phúc luôn đặt lên
vị trí hàng đầu, vì thế họ sẵn sàng hi sinh tất cả để đánh đổi độc lập – tự do đó
cho dù “có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải giành cho được độc
lập” (Hồ Chí Minh).
Ngòi bút của Phạm Tiến Duật len lỏi vào từng góc cạnh đời sống chiến
trường, niềm vui, nỗi buồn, sự khốc liệt và những hi sinh gian khổ hiện lên
trong thơ anh bình dị và nhiều ý nghĩa. Trên con đường Trường Sơn lịch sử,
nhà thơ đã khắc họa lại rất nhiều hình ảnh của sự hi sinh, gian khổ của quân
và dân ta trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù. Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc
không ít người đã vĩnh viễn ra đi, để lại thời xuân sắc của mình trên đất lửa
Trường Sơn:
Mười tám đôi mươi trẻ trung là vậy
Hầu hết các em không có tuổi già
Không được quyền già
Các em nằm lại dọc đường ra trận
(Trƣờng ca –Tiếng bom và tiếng chuông chùa – Phạm Tiến Duật)
Trên mảnh đất mà ngày đêm bom đạn, sắt thép như trực đè bẹp con
người, các anh vẫn chiến đấu, hi sinh quên mình, vẫn vượt qua chặng đường
dốc đá, những cơn sốt rét buốt lòng, những trận bom ác liệt, để đối mặt với kẻ
thù, với những gian nan không định trước… để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang
của mình. Hữu Thỉnh đã ghi lại hiện thực gian khổ mà người lính phải trải
48
qua bằng những hình ảnh “giấc ngủ sâu, tắm đoạn đường nóng bỏng”. Đó là
sự lam lũ, tảo tần, là sự hi sinh thầm lặng của những người mẹ:
Mẹ nén đau
Giấu tờ báo tử
Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Những người lính trẻ ra trận cũng như bao lớp cha anh đã lên đường. Họ gửi
lại sau lưng mình quê hương, hậu phương nơi đó có cha mẹ, có vợ con và người
thân. Không thể không nhắc đến những khó khăn, gian khổ nơi chiến trường mà
người lính phải đối chọi. Họ đã trải qua bao gian lao của chiến trường, phải đối mặt
với bao khốc liệt của cuộc chiến đấu. Lời của người trong cuộc kể về chính mình,
đồng đội mình do đó những vần thơ Nguyễn Đức Mậu viết ra mang được niềm tin
và sự xúc động đến cho người đọc:
Các anh chết khi nạp đạn, chỉnh tầm, khi phất cao cờ lệnh
Khi giấc ngủ, bữa ăn, khi khênh cáng bạn mình
Những dáng đứng, dáng ngồi, dáng nằm của người pháo thủ
Những bàn chân giập nát, những đôi mắt mở trừng
Những mái tóc khét diêm sinh
(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc – Nguyễn Đức Mậu)
Con đường Trường Sơn là lộ trình hành quân của người lính với đầy
những ghềnh thác cheo leo, đá núi gập ghềnh. Lộ trình vất vả này in đậm
trong trái tim họ. Núi nối nhau cao lên đến tận trời khiến cho mặt đất hóa
thành trời cao khi người lính hành quân lên đỉnh núi:
Những đỉnh núi đồi dài
Tôi nhìn lên đỉnh núi
Tôi nhìn lên dấu chân đồng đội
Có một thời gian mặt đất hóa trời cao
(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
49
“Hiếm thấy ở đâu như Seng Phan có đến mấy chục người tật nguyền
giống nhau, điếc một tai, lành một tai. Sức ép bom dội vào hang đá làm cả
một trung đội công binh bị thương” (Thơ một chặng đƣờng). Phạm Tiến
Duật đã chứng kiến những gian khổ, hi sinh của họ:
Bom dập liên hồi
Lỗ tai máu chảy
Không tính toán thiệt – hơn, mất – còn, bộ đội ta đã hi sinh tất cả vì
miền Nam ruột thịt:
Mười năm sống xa phố, xa làng
Tám năm ở trong núi, trong hang
Tất cả riêng chung…
Dành cho miền Nam tất cả…
(Tiếng cƣời của đồng chí coi kho – Phạm Tiến Duật)
Trong chiến tranh, bộ đội và nhân dân ta không chỉ phải sống trong
bom đạn mà còn sống trong bao thiếu thốn về vật chất:
Những chiến sĩ mặc áo hở vai
Muỗi đốt tím bầm, miệng vẫn cười tươi rói
(Gửi các em bé ở trƣờng văn hóa Tây Nguyên ngày trƣớc – Phạm Tiến Duật)
Điểm gặp gỡ của các anh là ở tinh thần sẵn sàng hi sinh và vượt qua
mọi gian khổ vì quê hương, đất nước. Những người lính nơi chiến trường phải
chịu đựng muôn vàn những khó khăn vất vả, phải đối mặt với bom đạn kẻ
thù, đôi khi phải đối mặt với những hi sinh mất mát:
-Sau loạt bom vùi
Anh gặp toàn lính mới
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
-Những lá thư tình, những manh áo mới
Bảy cô gái chết rồi chẳng kịp mang đi
Chết tuổi đang yêu, chết còn quá trẻ
Tuổi mộng mơ không kịp trối trăng gì
(Bảy vầng trăng khuyết – Nguyễn Đức Mậu)
50
Để làm nên những chiến thắng vẻ vang người lính phải trải qua biết bao
gian khổ đó là những trận đói dằng dai, làm anh thấm thía cái thực tế đầy xót xa:
Tôi hiểu vì sao anh đã khóc
Trong một sáng giao ban
Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả
Cứ đói ròng con gái hóa con trai
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Cái hình ảnh “Các cô gái làm đường đi đào củ chụp/ Hố thì sâu mà tay
em gầy guộc”, hoặc hình ảnh nắm cơm cháy bắt gặp trong sự hi sinh của
người chiến sĩ lái xe tăng, nhói buốt và day dứt trong trái tim người đọc:
Đen chỉ còn một nửa
Có dấu tay in lõm vào trong
Ngón tay bè của đồng chí lái
Các anh ăn nửa bữa trong ngày
Phần để dành
Làm ta day dứt mãi
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Phải là người nếm trải cơn đói cồn cào, cái đói quay đói quắt của người
lính, Hữu Thỉnh mới thấu hiểu tại sao người lính lại quý đến nhường ấy từng
“con tép chết bom từ bến ngược trôi về”, từng “hạt thóc gầy” “mót cuối bìa
rừng”. Có thể nói, tất cả cảnh vật, con người hiện lên trong thơ Hữu Thỉnh rất
cụ thể, sinh động từ sự khốc liệt của chiến tranh cho đến những gian khổ, hi
sinh, qua đó phần nào cho ta thấy được cả một thời kỳ chống giặc ngoại xâm
hào hùng của dân tộc:
Nơi có nước thì nước không uống được
Con suối nằm trong cơn khát bầm đen
(Cơn khát - Nguyễn Đức Mậu)
51
Cái ác liệt của chiến tranh đã cướp đi sự sống của biết bao con
người. Các anh ra đi dưới bom đạn dập vùi, nấm mộ và nén nhang chưa
kịp thắp lên, tên tuổi các anh chưa kịp khắc vào bia. Ba mươi năm chiến
tranh, đã có bao người ngã xuống cho mảnh đất này. Các anh vĩnh viễn
nằm lại nơi chiến trận, không thể trở lại quê hương. Khuất lấp sau những
vinh quang, những đoàn tụ, những yên bình no ấm của ngày hôm nay là
sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ của những người lính vô danh:
Đêm thành cổ ngổn ngang gạch vụn
Đoạn chiến hào đầy tiếng chuột kêu,
Bầy chuột đói gặm xương người
(Đêm thành cổ năm 72 – Nguyễn Đức Mậu)
Đằng sau ngàn vạn chiến thắng, sau những hạnh phúc và niềm vui là
bao mồ hôi, nước mắt, bao nhọc nhằn, vất vả hi sinh của những con người
đang âm thầm ngày đêm phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kỳ này. Những
câu thơ viết về cái chết đẫm nước mắt nhưng không hề bi lụy, không tang
thương sầu thảm. Hi sinh anh dũng như một tấm gương soi sáng bước đường
đấu tranh. Đây cũng là “dáng đứng Việt Nam thứ hai” (từ dùng của Nguyễn
Bá Thành – Văn học Việt Nam 1965 – 1975) hi sinh cao cả cho lý tưởng, hi
sinh để trở thành “bất tử”:
Chết hi sinh cho Tổ quốc Hùng ơi
Máu thấm cờ lời ca bay vào đất
Hi sinh lớn cũng là hạnh phúc
Một cây xuân làm biển khắc tên Hùng
(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)
Đồng hành với đói khát là những cơn sốt rét. Hữu Thỉnh trong Trƣờng
ca Đƣờng tới thành phố nhiều lần nói đến “cơn sốt rét rừng run bắn”. Trong
thơ Nguyễn Đức Mậu cơn sốt rét rừng cứ trở đi trở lại. Nó bám riết tuổi thanh
52
xuân của người lính: “nơi thuốc súng trộn vào áo lính – cơn sốt rét rừng đi
dọc tuổi thanh xuân” (Trƣờng ca sƣ đoàn). Anh như “vật vã” cùng với người
lính trong những trận sốt rét ác liệt giữa rừng sâu khi “cơn sốt rét ngấm vào
tận cùng cơ thể”.
Thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã gợi lên tính
chất dữ dội, ác liệt, sự gian khổ trong chiến tranh nhằm thể hiện thực chất của
đời sống chiến trường, qua đó, đốt cháy lên ngọn lửa căm thù quân xâm lược
đồng thời vạch mặt tội ác chất chồng của kẻ thù gieo rắc lên đất nước ta.
2.2.4. Tội ác của kẻ thù
Khắc họa sự khốc liệt của chiến tranh, sự bạo tàn của đế quốc Mỹ,
các nhà thơ đã thể hiện thành công những tội ác mà giặc Mỹ đã gây ra.
Những tội ác ấy là những bằng chứng hữu hiệu nhất cho thấy đây là cuộc
chiến tranh phi nghĩa của quân thù, dấy lên nỗi căm thù trong trái tim mỗi
con người Việt Nam đồng thời khẳng định cuộc chiến đấu của chúng ta là
chính nghĩa, là sự đấu tranh giành lại quyền sống, quyền làm chủ vận
mệnh của bản thân và dân tộc.
Giai đoạn chống Mỹ cứu nước là giai đoạn mà đội ngũ sáng tác văn học
có sự trưởng thành vượt bậc. Các nhà thơ có những cảm xúc về chiến tranh,
về con người được nâng cao, khái quát, sâu sắc nhưng vẫn rất gần với hiện
thực. Gương mặt kẻ thù hiện lên trong thơ ca giai đoạn này vừa cụ thể vừa
khái quát.
Thực dân Pháp vừa đi thì đế quốc Mỹ lại tới. Nhân dân Việt Nam đã
phải đối mặt với một cường quốc lớn mạnh trên thế giới về nhiều mặt cùng
với sự quyết tâm đến bạo tàn của chúng để tiêu diệt đất nước nhỏ bé này. Mọi
sự sống đều bị chúng tiêu diệt, những tội ác mà đế quốc Mỹ gây ra thấm đến
tận xương tủy con người:
53
Chúng nó đến từ bên kia biển
Rủ nhau bay như lũ ma trơi
Chúng lao xuống nơi nao
Loe ánh lửa,
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa
(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)
Chúng thả sức trút bom đạn, tàn phá quê hương:
Cả một vùng cư dân yên lành quân Mỹ dọn sạch
Tia chớp nhiệt đới mà
Mỹ mạnh, Mỹ oai phong
(Trƣờng ca – Tiếng bom và tiếng chuông chùa)
Bằng ngòi bút của mình, Hữu Thỉnh đã miêu tả khá rõ nét những tội ác
mà kẻ thù gây ra. Một lực lượng hùng hậu của những kẻ khát máu người đang
gieo rắc chết chóc, đau thương lên đất nước này. Những miền đất yên bình
với những câu hát ru của mẹ, của bà, những câu hò lao động, những câu hát
đối của các đôi trai gái đang yêu không còn nữa. Những gì thiêng liêng nhất,
được trân trọng nhất cũng bị vùi lấp, tất cả đều ngập tràn trong máu và nước
mắt đau thương của những con người mang kiếp nô lệ đọa đầy. Để thực hiện
mưu đồ của mình đế quốc Mỹ không từ một thủ đoạn nào, chúng hả hê, sung
sướng trước những mất mát, đau thương của chúng ta:
Những tên lính xăm hầm
Mài thuốn xuống sân xi- măng nhà xã trưởng
Nhạc dạo đầu cho một ngày “bình định”
(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)
Sự đối lập gay gắt giữa ta và địch càng khắc họa rõ hơn tội ác mà kẻ
thù gây ra. Chúng ta xây dựng thì chúng phá hủy, chúng ta yêu chuộng hòa
bình thì chúng gieo chết chóc, tai họa cho đồng bào và nhân dân ta. Sau
những đổ vỡ, mất mát của ta là tiếng cười man rợ của kẻ thù trước cảnh lầm
than, tang tóc, máu chảy thành sông, ngấm vào từng tấc đất của biết bao
54
người dân vô tội. Sự sống của con người và thiên nhiên được tạo hóa ban
tặng, đó là quyền tự do của mỗi quốc gia, dân tộc nhưng dưới bàn tay tàn bạo
của đế quốc Mỹ thì sự sống ấy dường như bị dập tắt, bị bóp nghẹt:
Máng dẫn nước vào buôn thôi không chảy
Cỏ mọc, dây leo quanh cột tung còn
Mảnh bom chém cây đào ứ nhựa
Không tiếng gà trưa, vắng tiếng trẻ con
(Những ngôi nhà bỏ không – Nguyễn Đức Mậu)
Nhịp đập của cuộc sống bị xáo động, cảnh chia li, tan tác, loạn lạc
khiến những ngôi nhà trở nên hoang vắng, tiêu điều và xơ xác. Không còn hơi
ấm của ngọn lửa trong mỗi gia đình, những dòng nước mát lành nuôi dưỡng
con người, những gốc cây, ngọn cỏ không có người chăm sóc, những đứa trẻ
lớn lên trong chiến tranh phải xa cha, xa mẹ, theo bà đi tản cư. Gia đình mỗi
người một ngả, không được đoàn tụ cùng nhau bởi đất nước vẫn còn bóng giặc
thù. Những ngôi nhà không còn hơi ấm con người, làng mạc thôn xóm trơ trọi,
tất cả đều do bàn tay tàn ác của quân xâm lược dội hàng ngàn tấn bom xuống
quê hương, đất nước ta.
Đem chiến tranh tới Việt Nam, giặc Mỹ đã cướp đi cuộc sống bình yên,
hạnh phúc của bao gia đình, tước đi những quyền lợi chính đáng của mỗi
người mà ai cũng có quyền được hưởng, như quyền được làm vợ, làm mẹ,
làm chồng, làm cha:
Em không còn khả năng làm mẹ
Em không còn khả năng làm vợ
Em đã thành một cây đu đủ đực
Dẫu ra hoa cũng chẳng ích cho ai
Đã từng lấy vợ mà không được làm chồng
Đã từng có con mà không được làm bố
Việc vất vả thay là phải làm một anh hùng
(Trƣờng ca – Tiếng bom và tiếng chuông chùa – Phạm Tiến Duật)
55
Thiên nhiên và cảnh vật chiến trường của đất nước trong thơ Nguyễn
Đức Mậu nhiều khi không còn là những bức tranh hiện thực thông thường mà
nó trở thành những nhân chứng tố cáo tội ác dã man của kẻ thù:
Nếu nối những vòng dây thép gai nơi vành đai Quảng Trị
Hẳn sẽ dài hơn đất nước Việt Nam
Dây thép gai chia xóm, chia làng
Mọc trên đồi cao
Mọc trên triền cát
Mọc đất phương Nam
Mọc lòng phương Bắc
(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
Hữu Thỉnh không chỉ khắc họa tội ác của kẻ thù mà còn vạch trần bản
chất vô nhân tính của chúng. Chúng không còn tình cảm của con người,
chúng bây giờ chỉ là loài thú dữ khát máu người, thực hiện mưu đồ hủy diệt
giống nòi, đất nước và quê hương ta. Ngắn gọn, súc tích những câu thơ đã thể
hiện khá đầy đủ bộ mặt quân xâm lược, bản chất vô cùng thâm hiểm của kẻ
thù, mặc dù vậy những câu thơ vẫn mang được sức khái quát cao, khắc họa
thành công bộ mặt của quân thù:
“Nhưng cuộc càn sẽ không bao giờ dứt
Cho tới khi nhổ Cộng sản sạch trơn”
Tên quận trưởng trình lên ngài tỉnh trưởng
Để lĩnh thêm trợ cấp cuối kỳ
(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)
Cảm nhận sâu sắc nỗi đau của dân tộc ta, những vần thơ của ba nhà thơ
trong giai đoạn này mang những trăn trở suy tư của thời đại. Những lời thơ
không ồn ào, không hô to khẩu hiệu, không quát tháo, chửi mắng kẻ thù
nhưng nó có sức mạnh ẩn chứa từ bên trong. Nhẹ nhàng và sâu lắng - đó là
những gì được rút ra từ tâm can của các tác giả khi nhìn vào hiện thực đời
56
sống. Với những vần thơ trầm hùng và bi tráng nhưng vô cùng đanh thép, các
anh đã đứng trên lập trường quê hương đất nước, là những con người có dòng
máu Lạc Hồng để vạch trần tội ác của kẻ thù đang gieo rắc bao tai họa cho
con người và Tổ quốc ta. Bản cáo trạng ấy là những đúc kết từ hiện thực cuộc
sống, của quân và dân ta trong những năm tháng chiến tranh với đế quốc Mỹ
vô cùng nham hiểm. Với một dân tộc có truyền thống hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, những cảnh nhìn thấy mà đau đớn lòng trước sự giày xéo
của quân xâm lược, là sự thôi thúc chúng ta bảo vệ giống nòi, đòi quyền tự do
của con người. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, bao nhiêu thế hệ
thanh niên đã lên đường ra mặt trận để chiến đấu giành lại cuộc sống thanh
bình ngày hôm nay. Đời sống chiến trường dù có gian khổ, ác liệt, tàn khốc
đến đâu cũng chỉ là cai phông, cái nền để làm nổi bật chân dung tinh thần của
cả một thế hệ trẻ cầm súng.
2.3. Hình tƣợng ngƣời lính
Hình ảnh của những người lính trẻ nổi bật trên những trang thơ của thơ trẻ
thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong chiến tranh trước sống và chết, con người bao
giờ cũng hướng đến những điều tốt đẹp nhất. Niềm tin đóng vai trò rất quan trọng.
Với người lính đó là điểm tạo thêm sức mạnh, nguồn động viên to lớn át cả tiếng
bom đạn đang trút trên đầu từng giờ, từng phút. Hình ảnh những con người dũng
cảm ngày đêm chiến đấu, không quản khó khăn, gian khổ, với một trái tim nồng
nàn yêu nước, lạc quan, yêu đời luôn là đề tài nổi bật đối với những người cầm bút.
Trong thơ ca những năm chống Mỹ, có không biết bao thế hệ các nhà thơ
đã phản ánh rõ nét và sinh động cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, và để
làm nổi bật lên cuộc chiến thắng đó dân tộc Việt Nam đã đổ biết bao xương máu,
biết bao hi sinh mất mát,… Những con người trực tiếp làm nên những điều kỳ
diệu đó không ai khác là những người lính hiền lành, chất phác, dũng cảm, kiên
cường, lạc quan, trẻ trung của những tháng năm gian khổ ấy đã đi từ ngoài đời
bước vào các tác phẩm thơ văn và trở thành những hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
57
Trong số những cây bút tiêu biểu của mảng đề tài này phải kể đến ngòi bút
của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Các anh là những nhà thơ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà oanh liệt của dân tộc,
lại là người trực tiếp cầm súng, trực tiếp tham gia chiến đấu, các anh đã ý thức rất rõ
về vai trò của người lính, vì vậy các anh đã xây dựng thành công về hình tượng
người lính – nhân vật trung tâm làm nên cuộc kháng chiến kỳ diệu của dân tộc.
2.3.1. Lạc quan yêu đời, trẻ trung tinh nghịch
Từng là người lính lái xe, Phạm Tiến Duật hiểu rất rõ lý tưởng cao đẹp
của lớp trẻ tham gia kháng chiến. Các sáng tác của anh đều có sự chắt lọc,
tinh luyện nhiều chiều về hiện thực đời sống chiến trường, và ở đó con người
luôn giữ vai trò chủ yếu. Lãng mạn –hiện thực – triết lý là ba yếu tố cơ bản
kết hợp tạo nên chất thơ trong hầu hết các tác phẩm của Phạm Tiến Duật ở
thời kỳ này. Phạm Tiến Duật đã phác họa bức chân dung đa diện về người
lính trên các chiến tuyến, từ những cô dân quân, thanh niên xung phong, đến
những anh lính lái xe, công binh, coi kho,… đều hiện lên trong thơ anh rất trẻ
trung, lạc quan, yêu đời. Họ sống và chiến đấu với niềm tin tuyệt đối vào sự
thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ thơ anh, họ như được nhìn rõ
mình hơn. Hình ảnh những người lính trẻ hiện lên trong thơ anh không chỉ
đẹp ở hình thức mà còn đẹp ở tâm hồn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính
khắc họa nên hình ảnh về một “tiểu đội xe không kính”, hình ảnh người lính
hiện lên với tinh thần lạc quan, yêu đời:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Xe không có kính, những người lính lái xe không tránh khỏi nắng mưa,
gió bụi, nhưng họ vượt lên trên tất cả khó khăn, gian khổ bằng sự lạc quan,
yêu đời, bằng một trái tim hướng về miền Nam phía trước, “không có kính”,
“không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”, trong bom rơi đoàn
xe vẫn tiếp tục hiên ngang lăn bánh ra mặt trận. Xe qua rồi mà hình ảnh
những chiến sĩ lái xe dí dỏm, vui nhộn, có chút ngang tàng ấy đã mấy ai quên:
58
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Sức sống của thơ Hữu Thỉnh chính là sức sống của một người lính viết
về người lính. Vẻ đẹp tâm hồn trong mỗi người chiến sĩ, mỗi thế hệ đã đi vào
lịch sử với những hoàn cảnh riêng. Người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên
là những người lạc quan, yêu đời, cuộc đời của những người lính dẫu nhiều
gian nan, vất vả nhưng không làm vắng đi ở các anh những nụ cười, tiếng hát.
Khi tiếng hát được cất lên thì các anh “bỗng quên vừa qua cơn sốt. Rừng bỗng
quên vừa qua trận bom đạn”:
Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn
Người sốt rét hát cho người sốt rét
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét
Cây mát cho người người mát cho nhau
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm tháng Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
(Tiếng hát trong rừng – Hữu Thỉnh)
Thơ ca chống Mỹ đã khắc họa nhiều hình tượng lớn: hình tượng Tổ
quốc vĩ đại, hình tượng vị lãnh tụ kính yêu, hình tượng người Mẹ và hình
tượng người lính. Trong đó, hình tượng người lính là nơi tập trung rõ nét nhất
phẩm chất, tâm hồn đẹp đẽ và cao quý của con người Việt Nam trong đấu
tranh. Nguyễn Đức Mậu là người rất thành công khi khắc họa người lính với
những nét chân dung chân thực, rõ nét. Là người trực tiếp cầm súng chiến
đấu, Nguyễn Đức Mậu rất thấu hiểu những gì đồng đội phải trải qua. Bởi vậy
thơ anh viết cho đồng đội cũng là viết cho chính mình. Người lính trong thơ
Nguyễn Đức Mậu luôn lạc quan và tâm hồn phơi phới tin yêu:
59
Bộ đội bàn nhau tìm lá gói bánh chưng
Đoàn dân công gánh gồng thêm hương nếp
Ơi cô gái tên gì anh chẳng biết
Nghe tiếng chào cứ ngỡ quen quen
(Mùa xuân Trƣờng Sơn – Nguyễn Đức Mậu)
Người lính trong thơ Nguyễn Đức Mậu thông minh, sôi nổi. Họ tưởng
tượng ra một thành phố giữa rừng với đầy đủ những đồ dùng, hàng hóa của
một thành phố. Phải là những người yêu sâu sắc quê hương, yêu những phố
phường tấp nập trong yên bình thì những người lính bền bỉ ý chí cách mạng
mới có được tinh thần lạc quan đến thế. Họ yêu đời và yêu cuộc sống, là
những người lính đến từ trường học, từ cái nôi của chủ nghĩa xã hội nên họ rất
tươi trẻ và trong sáng:
Xác máy bay dọc đường nhiều lắm
Cho o dân công làm lược chải đầu
Đồi lốm đốm dù hàng xanh hàng đỏ
Quai nón bài thơ em chọn màu nào
(Thành phố trong rừng – Nguyễn Đức Mậu)
Tinh thần lạc quan, yêu đời, nét trẻ trong tâm hồn những người lính
được Phạm Tiến Duật khái quát với những câu thơ rất độc đáo:
Cái vết thương xoàng mà đưa đi viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo…
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo
(Nhớ - Phạm Tiến Duật)
Những cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật không chỉ
được phác họa bằng những phẩm chất của một người anh hùng mà còn hiện
lên với những nét tinh nghịch, trẻ trung đúng như tuổi đời của các cô. Trong
khói bom lửa đạn họ vẫn luôn đùa vui với đồng đội của mình:
60
-Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc rào quanh hố bom
Cái miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn
-Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn
(Gửi em, cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật)
Chủ nghĩa lạc quan được biểu hiện trong muôn vàn sắc thái phong phú,
đôi khi nó chỉ là điệu bộ nghịch ngợm, thanh thản, vô tư của người lính giữa
chiến trường. Nhìn những người lính nằm chồng chất trong căn hầm chật hẹp,
gian khổ, nhọc nhằn, Nguyễn Đức Mậu tìm thấy trong những dáng nằm đó
nét độc đáo và ngộ nghĩnh:
Chữ I nằm thẳng đã quen
Đông người hầm chật nằm nghiêng đã đành
Một người thao thức năm canh
Nằm nghiêng chữ Z là mình nhớ ta
(Nằm hầm – Nguyễn Đức Mậu)
Người lính trong thơ Hữu Thỉnh những lúc chiến đấu thì quên mình
trên những đồi núi rực lửa, nhưng đêm đêm lại mơ màng, thả tâm hồn theo
những âm thanh của gió, của lá, của cây, rất yêu đời và tươi trẻ:
Gió từng hồi se sẽ đưa nôi
Trăng tủm tỉm như miệng người sắp hát
Qua binh trạm nhiều thang dây bậc nhất
Tiếng chim ngoan như ngụm nước lưng đèo
(Giấc ngủ trên đƣờng ra trận – Hữu Thỉnh)
Tiếng cười lạc quan là một nét đặc sắc của tâm hồn Việt Nam thể hiện
qua văn học như một biểu hiện của sức sống và sức chống chọi dẻo dai của
dân tộc trước mọi thử thách. Thơ Nguyễn Đức Mậu thể hiện tinh thần anh bộ
đội cụ Hồ thời chống Mỹ chiến đấu với tất cả niềm tin và sự lạc quan:
61
Người có vượt đèo rút ngắn đường truy kích
Đỉnh cao kia ngạo nghễ tiếng cười
(Dòng sông chảy ngƣợc – Nguyễn Đức Mậu)
Nhờ có tình yêu Tổ quốc, nhờ có niềm tin, niềm hi vọng nên họ đã vượt
lên tất cả. Sống giữa vùng đất chết mà họ vẫn tươi vui, vẫn rộn rã cất lên tiếng
hát, câu hò:
Nghe em hát mà anh buồn cười
Nhịp với phách xem chừng sai cả
(Nghe em hát trong rừng – Phạm Tiến Duật)
Sự hồn nhiên, tinh nghịch, yêu đời là những điều hết sức bình thường
của tuổi trẻ. Nhưng nếu hiểu được rằng họ có thể yêu đời, đùa vui khi họ đang
kề bên cái chết, ở hoàn cảnh chỉ mấy giây sau họ có thể tan xác thì mới thấy
tầm vóc của những con người ấy lớn lao nhường nào. Trong chiến tranh,
những người ra trận có ai dám tin rằng mình sẽ không chết? Dưới bom đạn
bất kỳ lúc nào cũng có thể chết, bất kỳ cuộc gặp gỡ nào cũng có thể là cuộc
gặp gỡ cuối cùng. Vậy mà họ đâu có khiếp sợ, họ vẫn mỉm cười trước cái chết
và như đang vượt lên tất cả để khẳng định sự sống. Đó là những phẩm chất
đáng quý không chỉ có riêng những người lính trong thơ Phạm Tiến Duật,
Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
2.3.2. Tình yêu đối với Tổ quốc và Nhân dân anh hùng
Trong chiến tranh, bộ đội và nhân dân ta không chỉ phải sống trong
bom đạn mà còn sống trong bao thiếu thốn vật chất. Chúng ta có thể vượt qua
tất cả là nhờ tinh thần đoàn kết, nhờ sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của
đồng bào, đồng chí. Phạm Tiến Duật đã phản ánh rất chân thực, sinh động
tình quân dân ấy. Người đọc không khỏi xúc động trước cảnh hàng ngàn trẻ
em mồ côi ở Tây Nguyên đã được bộ đội ta cõng về nuôi nấng và dạy dỗ:
62
Đường về hậu phương xa thật là xa
Thôi ở lại đây, ống tay các anh cắt ra tha hồ mặc
Lá cây lợp thành nhà, gỗ kê thành bàn học
Lính quân đoàn thay nhau làm thầy giáo giảng bài
(Gửi các em bé ở trƣờng văn hóa Tây Nguyên ngày trƣớc – Phạm Tiến Duật)
Viết về tình yêu đối với nhân dân, Phạm Tiến Duật nói đến tình cảm đằm
thắm của những bà mẹ với anh lính xa quê hương . Anh viết về bà mẹ ở Nam
Hoành, bà mẹ thôn Nghi Vạn, đó là những con người rất cụ thể mà tác giả gặp họ
trên dọc đường hành quân, nhưng những tình cảm, suy nghĩ và phẩm chất đáng
quý ở họ cũng là những điểm chung của tất cả các bà mẹ Việt Nam. Những người
mẹ ấy đều có chồng, có con chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết mẹ cảm thông với sự
thiếu thốn của các con – thiếu thốn cả vật chất và tinh thần, mẹ hiểu được giá trị
của nền độc lập. Những người con đang hành quân qua đây mẹ cũng coi như các
con mình, họ cũng là con chung của tất cả các mẹ, con của dân tộc:
Các con mẹ đi mãi
Không ăn cam vườn nhà
Đã có phần cây quả
Của các mẹ quê xa
(Mùa cam trên đất Nghệ - Phạm Tiến Duật)
Chân dung những con người cụ thể ấy đã góp phần vẽ nên gương mặt
chung của con người Việt Nam, lớn hơn nữa là cả dân tộc Việt Nam:
Đi trong rừng anh nói với em
Nói với những ai mai sau sẽ hỏi
Về những vùng rừng không dân
Nơi bao người đi qua hầu hết tuổi thanh xuân
Để lại trong rừng những gì quý nhất
Mất mọi thứ để nhân dân không mất
(Đi trong rừng – Phạm Tiến Duật)
63
Hữu Thỉnh đã tạo nên giọng điệu thơ mới mẻ góp phần tạo ra cái hay,
cái lạ mang phong cách riêng của tác giả. Giản dị và trung thực trong tuyên
ngôn thơ cũng như trong khát vọng về hòa bình, độc lập, tự do. Thơ Hữu
Thỉnh đã dựng thành công về một hình tượng dân tộc Việt Nam bất tử:
Nhân dân
Vẫn nguyên vẹn nhân dân
Răng hạt lựu vẫn không cam đồng hóa
Đắng chát cũng tìm cánh kiến, cây sim
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Hồn thơ Hữu Thỉnh có thể hòa nhập cùng không gian dài rộng của cuộc
kháng chiến, trái tim của Hữu Thỉnh cùng đập vang lên những tình cảm gắn
bó với con người kháng chiến bởi chính là sự gắn bó máu thịt của anh với
cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Trong những năm Trường Sơn lửa
đạn, là những năm mà Hữu Thỉnh phác họa rất rõ nét hiện thực của cuộc
kháng chiến, và cũng chính nhờ những năm chiến đấu gian khổ đó mà anh
đã tạc dựng thành công hình tượng Tổ quốc. Tổ quốc của anh là một Việt
Nam kiên cường, bất khuất, đã khẳng định và “hoàn thiện tư cách dân tộc”
của mình. Tổ quốc phải trải qua những năm tháng đau thương vất vả nhưng
lại tràn trề nhựa sống:
Nổi chìm bao kiếp người
Qua tháng năm sứt mẻ
Cho Tổ quốc tròn tên
Việt Nam
Hai tiếng mẹ
(Trƣờng ca biển – Hữu Thỉnh)
Thơ Nguyễn Đức Mậu viết về nhân dân lúc nào cũng chân thành, tha
thiết bởi nhân dân là máu thịt của mình. Những con người Việt Nam ở mọi
tầng lớp, mọi lứa tuổi chính là biểu tượng của dân tộc. “Nhận thức về đất
64
nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân đó cũng là nét nổi bật trong chủ
nghĩa yêu nước của thơ thời kỳ này. Cuộc kháng chiến chống Mỹ một lần nữa
thể hiện sức mạnh vô tận, phẩm chất tuyệt vời và những hi sinh vô cùng to
lớn của nhân dân” [28, tr.205]. Chính ở cuộc kháng chiến gian khổ này, chúng
ta tìm được những rung cảm trữ tình lắng đọng và tình yêu sâu sắc đối với
nhân dân. Trong tình yêu đó, Nguyễn Đức Mậu muốn cắt nghĩa vai trò to lớn
của nhân dân trong chiến tranh. Chiến thắng chúng ta giành được chính là
chiến thắng của nhân dân. Là nhà thơ gắn bó với nhân dân bằng cả cuộc đời,
với tấm lòng yêu thương, kính trọng dân mình, Nguyễn Đức Mậu đã tạc nên
bức tượng đài về nhân dân trong sáng, nhân hậu, thủy chung và thắm đượm
nghĩa tình. Có khi đó chỉ là một bà mẹ nơi hậu phương mà anh gặp trên
đường hành quân:
Một sớm tôi qua sông rộng
Bà mẹ chở tôi sang không lấy tiền đò
Mẹ gọi tôi là con. Tôi chào mẹ
Đi xa rồi bóng mẹ sáng trong mưa
(Ý nghĩ của một chiến sĩ – Nguyễn Đức Mậu)
Viết về tình yêu nhân dân, hầu hết các nhà thơ đều tập trung vào hình
tượng người mẹ với tình cảm trân trọng nhất. Bởi mẹ là nơi quy tụ những
phẩm chất tốt đẹp từ trong truyền thống của dân tộc. Từ những người mẹ tiễn
con ra trận đến những người mẹ trực tiếp tham gia cách mạng, tham gia đội
du kích, những người mẹ ở hậu phương mòn mỏi mong tin con, những người
mẹ cô đơn đã tiễn bao đứa con lên đường ra trận rồi chẳng trở về. Hình ảnh
những người mẹ được xây dựng và chiếu sáng ở những khía cạnh khác nhau
nhưng họ cùng chung ở một phẩm chất đó là tình yêu của mẹ với Tổ quốc,
với những đứa con là vô cùng lớn lao :
65
Mẹ thương chúng con mặc áo bạc màu
Chúng con thương mẹ bạc màu áo vá
Mẹ thương chúng con nhạt muối, sốt rừng
Chúng con thương dáng lưng còng vất vả
(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
Bao trùm lên sáng tác của Hữu Thỉnh là tình yêu Tổ quốc. Bằng sự gắn
bó sâu sắc với cuộc kháng chiến của dân tộc, và bằng cả hồn thơ phong phú
của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần thể hiện khá toàn diện tình yêu đối với Tổ
quốc trong giai đoạn kháng chiến mãnh liệt và thiêng liêng. Giữa bao
nhiêu vấn đề cần bàn của cuộc chiến đấu, Hữu Thỉnh đã lựa chọn một tình
huống gay cấn nhất, chứa đầy thử thách gay go để thể hiện tình yêu của
mỗi công dân đối với Tổ quốc trong những giờ phút lâm nguy. Đó là hình
ảnh người chiến sĩ giành giật với kẻ thù từng gốc sim cằn trên điểm chốt,
để giành lại từng mảnh đất của Tổ quốc:
Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Tình yêu Tổ quốc là chủ đề lớn lao bao trùm và có ý nghĩa to lớn trong
thơ Hữu Thỉnh:
Đảo hiện ra thử thách bạc mầu
Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc
(Trƣờng ca biển – Hữu Thỉnh)
Hướng về quê hương, Hữu Thỉnh hướng về với mẹ. “Mẹ và Tổ quốc là
hai vấn đề lớn nhất xuyên suốt” trong cuộc đời làm thơ của chính tác giả
Trải qua bao giai đoạn khó khăn, đau thương, nhà thơ ý thức rõ ràng về
vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với nhân dân. Dường như được soi
66
mình vào trong nhân dân, nhìn ra cái vô cùng lớn lao của nhân dân – Nhân
dân chính là nơi giúp ta hình dung ra Tổ quốc:
Những khu rừng, dòng sông, cánh đồng và những vỉa than
Là của cải mẹ dành nuôi chúng con đánh giặc
Lòng mẹ rộng vô cùng, chúng con đi suốt đời chưa hết
Lời mẹ vang trầm, mắt mẹ nhìn xuyên suốt xưa, sau
(Tổ quốc - Nguyễn Đức Mậu)
Thấm thía hơn hiện thực chiến tranh, nhà thơ càng nhận rõ hơn trách
nhiệm của thế hệ mình, càng thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, đất
nước:
Người chiến sĩ quê chung: Tổ quốc
Súng trong tay ngôi sao sáng trên đầu
(Thơ ngƣời đi biển gửi ngƣời đi rừng – Nguyễn Đức Mậu)
Bằng lời thơ mộc mạc, giản dị, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn
Đức Mậu đã khắc họa tình yêu Tổ quốc, nhân dân anh hùng rất chân thành,
xúc động và tự hào.
2.3.3. Dũng cảm chiến đấu, ý chí quật cường
Ba mươi năm kháng chiến là ba mươi năm những người con ưu tú nhất
của đất nước này lần lượt ra đi. Hết lớp này đến lớp khác, hết thế hệ này đến
thế hệ khác, khi Tổ quốc vẫn còn bóng giặc thù, khi những thôn làng vẫn còn
tiếng bom rơi, những đứa trẻ vẫn còn phải xa vòng tay mẹ,… thì những chàng
trai, cô gái vẫn còn tiếp tục lên đường chiến đấu để bảo vệ quê hương, giành
lại tự do, độc lập cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh những người lính qua thơ của
các nhà thơ trẻ không chỉ là những con người trẻ trung, lạc quan, yêu đời mà còn
là những con người bình tĩnh, can trường, dũng cảm, ý chí quật cường trong
chiến đấu.
67
Người chiến sĩ trong thơ Nguyễn Đức Mậu hiện lên thật cao cả và
thiêng liêng, anh hi sinh trong tư thế anh dũng tấn công kẻ thù:
Ngực lấp lỗ châu mai Hùng đứng thẳng
Đồng đội xông lên nhìn thấy Hùng cười
Khi giặc đến, những người lính đã cùng toàn thể nhân dân sát cánh, kề
vai bên nhau, chiến đấu với tinh thần dũng cảm và ý chí quyết tâm cao nhất:
Giặc đến
Người ốm chống giường, chống phản đứng lên
Trẻ con vơ tro, vơ cát đứng lên
Người đang ăn thì cầm lấy đũa
Người đi gặt thủ lấy chuôi liềm
Không quay mặt chẳng bao giờ tiếc máu
Dù cho phải đốt dãy Trường Sơn
(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)
Hình ảnh người lính không còn là hình ảnh đơn thuần mà trở thành một
hình tượng, một tượng đài bất khuất, dẻo dai và bền bỉ đại diện cho dân tộc, là
một hình tượng thách thức kẻ thù trong những năm tháng đạn bom vô cùng ác
liệt. Dù là khoảnh khắc hay một hành trình dài đấu tranh không ngừng nghỉ
thì tinh thần chiến đấu của người lính vẫn hiện lên là những điểm sáng lung
linh nhất trong bức tranh hiện thực:
Cứ mười lăm phút từ vọng gác
Từng chùm lựu đạn quăng ra
Mặc nó
Quả nào ở gần
Chiến sĩ cầm quăng đi
Những bàn tay lòe lửa xanh lè
(Viết trong đêm đào hầm vây ép – Nguyễn Đức Mậu)
68
Bằng tài năng của mình cùng những trải nghiệm trực tiếp từ tiền tuyến
ác liệt, cả ba nhà thơ sử dụng các biện pháp nghệ thuật thành công khi khắc
họa người lính. Kết hợp với thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn không hạn
chế, cùng với việc tổ chức không gian, thời gian hợp lý, hình ảnh người lính
hiện lên trong những thời khắc quan trọng, những không gian ác liệt để thấy
được sự đấu tranh sinh tồn, gay go, ác liệt, tàn khốc nhất của quân ta và địch
trên trận chiến giành lại độc lập, tự do. Người lính trong thơ dù ở cương vị
nào, nhiệm vụ nào thì tố chất của họ vẫn là những phẩm chất vô cùng đáng
quý. Đối diện giữa sự sống và cái chết, người lính cụ Hồ hiện lên với một ý
chí kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi hiểm nguy. Họ ý thức được trách
nhiệm, nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng của mối nợ nước thù nhà. Trước kẻ
thù hung ác và nguy hiểm, người lính vẫn không hề nao núng. Cái ý chí
quật cường của một đất nước tuy nhỏ bé nhưng chẳng bao giờ khuất phục
vẫn chảy mãi trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Sự trưởng
thành của những người lính trong những năm tháng chiến tranh tàn phá là
một minh chứng hùng hồn cho lòng quyết tâm, ý chí quật cường của quân
và dân ta. Anh dũng, gan góc, kiên cường trong chiến đấu là phẩm chất
chung hiện lên trong thơ viết về người lính của Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.
2.3.4. Tình đồng đội
Truyền thống yêu thương, đùm bọc, chở che của con người Việt Nam đã có
từ ngàn đời. Khi đất nước hòa bình hay có giặc ngoại xâm, truyền thống ấy vẫn
mãi thắp sáng theo năm tháng. Những người lính từ mọi miền quê hương lên
đường nhập ngũ. Mỗi con người trong số họ có những cá tính, những đặc điểm
khác nhau nhưng trải qua bao bom đạn dập vùi, trải qua bao hiểm nguy cay đắng,
tình đồng chí, đồng đội trở thành hai tiếng thiêng liêng, là điểm tựa, là sức mạnh
giúp nhau vượt qua những tháng năm nhiều gian khó. Nhận về mình cái chết,
nhận về mình những gian khổ hi sinh để đồng đội được sống đã đi vào con tim, trí
69
óc của người lính cụ Hồ, nghĩa cử cao đẹp ấy đã trở thành một điều hiển nhiên, tất
yếu. Chiến tranh như một cơn bão dữ quật lên cuộc đời, số phận, ở đó sự sống và
cái chết chỉ cách nhau gang tấc. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn và nghiệt ngã
ấy, bản chất người lính hiện lên như một ngôi sao sáng lung linh về tình yêu đồng
loại, về một nhân cách sống cao đẹp trong cuộc đời mỗi con người mà chúng ta
cần hướng tới. Cảm nhận nét đẹp trong chiến tranh, những vần thơ không chỉ ca
ngợi phẩm chất anh hùng, tình đồng chí, đồng đội của người lính mà còn khái quát
tình cảm ấy trở thành chân lý bất hủ về cách sống của con người trong cuộc đời.
Tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn tiếp nối ngọn
nguồn mọi xúc cảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sự đồng cam, cộng khổ,
chia ngọt sẻ bùi trong năm tháng chiến tranh sẽ sống mãi trong trái tim người lính
và với con người thuộc thế hệ mai sau.
Với Nguyễn Đức Mậu, sự nhạy cảm của trái tim cùng những năm tháng
nếm mật nằm gai nơi đạn bom máu lửa, tình đồng đội trong anh là những gì giản dị
nhất, trung thực nhất và cũng con người nhất. Trong không gian lạnh lẽo của núi
rừng, những cơn mưa xối xả đổ xuống lưng trời, đấy là lúc con người cảm thấy cô
đơn, lẻ loi. Cái lạnh không chỉ cảm nhận từ cơ thể mà còn buốt giá từ con tim. Đấy
là lúc người chiến sĩ sưởi ấm cho nhau, chiếc chăn mỏng manh đắp chung nhau để
thấy mình không cô đơn, lạnh lẽo giữa nơi hoang vu sương gió này:
Tay quờ hơi ấm cho nhau
Là chăn của bạn đắp đầu hở đuôi
(Nằm hầm – Nguyễn Đức Mậu)
Tình cảm đồng đội trong những năm tháng đất nước gian lao đã tạo nên
một gia đình lớn, một khối đoàn kết lớn để đi đến chiến thắng cuối cùng cho ngày
hôm nay. Vì bảo vệ đồng đội mà những người lính có thể sẵn sàng hi sinh:
Khi anh lên ôm bộc phá lao lên
Khi anh xuống dìu đồng đội ngã
(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)
70
Thơ Nguyễn Đức Mậu viết trong chiến tranh về hình ảnh bạn bè, đồng chí rất
đỗi thiêng liêng, cảm động. Nhà thơ gửi nỗi niềm thương tiếc, xót xa vào
hương trầm bên mộ người bạn, người đồng chí ngã xuống:
Đất đắp mộ Hùng, bom trộn lẫn
Cây trầm cháy dở thay nén nhang
(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)
Tình đồng đội, đồng chí của những người lính trở thành tiếng nói chung cho
tình đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, chở che nhau trong những năm tháng chiến
tranh. Khi chiến đấu hay trong đời sống hàng ngày, tình cảm người lính trở thành
những bức tranh đẹp về tình người, về lẽ sống qua bao nhiêu mất mát hi sinh:
Trong chiến đấu một điều đơn giản nhất
Mỗi con người đều biết sống thương nhau
Đều muốn thành công sự chở che nhau
(Công sự trên điểm cao – Nguyễn Đức Mậu)
Tình đồng đội cao cả như mạch nước ngầm cứ tuôn chảy bất tận, tiếp
nối hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nó có mặt và hiện hữu trong cuộc sống
của cả những người đã mất và những người còn sống. Một thứ tình cảm
thiêng liêng đã trở thành ý thức hệ, một lối sống đẹp của cả dân tộc Việt Nam
trong những năm chiến tranh đã được các nhà thơ khắc họa thành công nhờ
những quan sát tinh tế và sự chắt lọc nhạy cảm từ chính tâm hồn. Tình cảm
đồng chí, đồng đội trong thơ của ba nhà thơ – chiến sĩ được phản ánh chân
thực, cụ thể nhưng cũng vô cùng thấm thía và sâu sắc. Lời thơ giản dị, hình
ảnh mộc mạc nhưng có sức truyền tải mạnh mẽ về lý tưởng sống của con
người trong thời đại.
2.3.5. Tình yêu đôi lứa
Những chàng trai trẻ với nhiều mộng mơ, với tâm hồn yêu đời khi bước
vào cuộc chiến đấu cũng đã kịp có cho riêng mình hình bóng người yêu. Tình
yêu đôi lứa cũng là một đề tài muôn thủa trong thi ca bởi nó khơi gợi mọi
71
ngọn nguồn cảm xúc, những rung động chân thành của con người để thấy
cuộc sống này tươi đẹp và nhiệm màu hơn. Tình yêu với dư vị ngọt ngào như
một “liều thuốc” thần kỳ, khiến những khó khăn, thử thách của người lính
như tan biến. Sau giây phút tàn khốc nhất, hiện thực chiến tranh lùi lại, chỉ
còn những xúc cảm ngọt ngào của tình yêu, của khuôn mặt người thương hiện
về trong sâu thẳm tâm hồn, cũng đủ tiếp thêm nguồn sinh khí mới cho người
lính trên bước đường hành quân. Bom đạn chiến tranh không làm tình yêu
nguội lạnh. Ngược lại, trước những mất mát, chia ly, tình yêu thêm nảy nở,
trân trọng những phút giây hạnh phúc bên nhau:
Bao kỷ niệm cứ theo anh ra trận
Ngôi sao nào anh ngỡ mắt em xanh
Buổi mới yêu nhau bên hàng rào đêm ấy
Tàu cau rung, hai đứa giật mình
(Hòm thƣ bƣu điện ở trạm giao liên – Nguyễn Đức Mậu)
Tình yêu trong thơ các anh luôn chân thành và sâu sắc. Người lính trẻ ấy yêu
bằng cả trái tim, họ luôn hướng về nhau với niềm tin và tình yêu thương vô bờ:
-Em nhớ thương ơi Chúng ta sống vì nhau Chúng ta hát vì nhau
(Một lần – Hữu Thỉnh)
-Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không?
(Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)
Tình yêu người lính trong thời kỳ chống Mỹ luôn gắn với tình yêu và vận
mệnh đất nước, tình yêu ấy đã giúp cho những người lính luôn ý thức được trách
nhiệm cao cả, thiêng liêng của mình. Chiến đấu và yêu sao cho xứng đáng với quê
hương, với người yêu. Nhà thơ đã nói lên tiếng nói chung cho cả thế hệ mình:
72
Anh không ngại phong thư có những dòng dang dở
Anh không ngại đỉnh đèo những thân cây gục đổ
Anh không ngại nghìn hôm chẳng được thấy em
Trong cuộc chiến này
Đừng để ngượng với nhau khi gặp mặt…
(Ý nghĩ không vần – Hữu Thỉnh)
Với một trái tim yêu trẻ trung của lứa tuổi, tình yêu người lính trong
những ngày chiến đấu hiện lên thật đẹp, với những rung động thật trong sáng,
thật chan chứa ý tình:
Em lại xa cho lòng anh nhớ
Chiến trường rộng, mùa măng nhiều nước lũ
Anh nhìn theo chấm nhỏ khuất rừng xanh
Em đi rồi: Câu hát ở cùng anh.
(Gửi em gái văn công giải phóng – Nguyễn Đức Mậu)
Tình yêu như nhân lên sức mạnh cho những người lính, cổ vũ tinh thần
người lính trên mỗi chặng đường chiến đấu gian lao:
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn
(Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)
Tình yêu trong chiến đấu với người lính không chỉ là chỗ dựa tinh thần
mà còn thể hiện những phẩm chất cao quý của những con người trẻ tuổi trước
vận mệnh của đất nước. Họ đã hi sinh tất cả hạnh phúc riêng để bước vào
tuyến lửa khốc liệt. Trái tim luôn dành cho nhau tất cả niềm tin yêu. Bằng sự trải
nghiệm và những rung động chan chứa yêu thương, mỗi vần thơ Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu viết về tình yêu thật chân thành, xúc động
và trong trẻo.
73
2.4. Cái nhìn về chiến tranh sau chiến tranh
Những tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh cùng những nỗi buồn
đau nó để lại trong thời hậu chiến đã có một độ lùi cần thiết. Mặc dù chiến tranh
đã đi qua, các nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu vẫn chung
thủy với đề tài chiến tranh và quân đội. Với họ chiến tranh vẫn như là một cảm
hứng nguồn cội cứ lay trở, day dứt khôn nguôi trên trang viết của các anh.
Với độ lùi của thời gian, cách cảm nhận của Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu về chiến tranh có sự từng trải, thấu đáo và đa dạng
hơn. Các anh viết về chiến tranh và người lính trên những bình diện mới, cấp
độ mới và cách diễn đạt mới. Ở đó có sự đồng cảm âm thầm mà mãnh liệt của
sức sống nội tâm. Các anh đã kí thác, gửi gắm những tình cảm, tâm trạng làm
thức dậy một thời đạn bom đã qua và khai thác sâu thêm vào hiện thực tâm
trạng, phẩm chất người lính trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.
Bước sang cuộc sống mới, cuộc sống trong hòa bình, Phạm Tiến Duật vẫn tiếp
tục sáng tác nhưng dường như thơ anh thâm trầm hơn. Bên cạnh việc khẳng
định những giá trị, chân lý chung của thời đại, anh còn có những phát hiện,
suy tư, trăn trở về những vấn đề trong cuộc sống hôm nay. Đến lúc này, Phạm
Tiến Duật cũng như những người cầm bút có điều kiện nhìn lại cuộc chiến
tranh một cách toàn diện hơn. Chiến tranh kéo dài chiếm hết cả thời thanh
xuân của các chàng trai, cô gái trẻ trung, đầy nhiệt huyết ngày nào. Họ không
có cơ hội để thực hiện ước mơ, hoài bão của mình:
Tôi những muốn trở thành tài tử
Nhưng chiến tranh tới tôi trở thành người lính
Chỉ mấy cái chớp mắt thôi, một thế kỷ kết thúc
Tuổi trẻ của tôi chỉ dùng để lên đường
Tôi chẳng thể nào trở thành tài tử
Cái đích vẫn còn kia dù tóc đã ngả màu sương
(Tôi những muốn trở thành tài tử - Phạm Tiến Duật)
74
Sau hòa bình thống nhất đất nước, thân phận con người không giống như
trước nữa, nhưng Hữu Thỉnh – người cựu chiến binh năm xưa vẫn không quên quá
khứ, vẫn không quên cuộc đời người lính của mình đã từng trải trong những năm
chiến tranh. Để rồi những cảnh vật, những sự việc vẫn ám ảnh, trăn trở trong thơ:
Cổ nhân vẫn còn đây
Máu chưa lành vết chém
Mồ hôi vẫn còn đây
Còn mặn hơn biển mặn
Nợ cũ còn đây
Biển nham nhở sẹo
(Trƣờng ca biển – Hữu Thỉnh)
Đau đớn khi phải đối diện với hiện thực, giữa cuộc đời không bền chặt,
nhà thơ thường trực cảm giác không hi vọng, không niềm tin:
Đụng một kẻ ngấm đủ mặt cái ác
Sống một ngày lội qua cả kiếp người
(Thấy – Hữu Thỉnh)
Tựa đề của những tập thơ viết về chiến tranh sau 1975 của Nguyễn Đức
Mậu đều không nghiêng về chiến trường, trận mạc, những bài thơ cũng không
ào ạt, dữ dội như trước đây. Bình dị và hiền hòa nhưng đau đớn khôn nguôi.
Mỗi bài thơ là nỗi nhớ da diết những đồng đội đã ngã xuống, là hồi ức, là
chiêm nghiệm về nỗi đau thể xác và tinh thần mà người lính trở về phải chịu
đựng trong hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Bởi thế, Nguyễn Đức Mậu
luôn luôn dằn vặt về trách nhiệm với cây bút của mình:
Tôi viết gì trên cây, tôi viết gì trên đất
Khi dưới chân tôi ngang dọc lũy thành
Lời non nước khắc vào cột mốc
Xương máu đời hóa thạch chốn rừng xanh
(Trên mái nhà Tổ quốc – Nguyễn Đức Mậu)
75
Chiến tranh thực sự là nối đau buồn mênh mang. Nó để lại những vết
thương đau đớn không baog giờ có thể lành trên thể xác và trong tâm hồn
những ai đã phải đi qua nó. Bởi thế mà bao năm chiến tranh đã đi qua, nhịp
sống mới ồn ào xô đẩy, nhưng vẫn:
Còn lại những chiếc đinh gỉ han kí ức
Như vết đạn găm, như giọt máu bầm
(Bức tƣờng câm – Nguyễn Đức Mậu)
Nhưng sâu sắc và đau đớn hơn cả vẫn là những vần thơ viết về sự hi
sinh của đồng đội trong chiến tranh. Những cái chết chứng tỏ sự khốc liệt của
chiến trường khiến anh không thể nào quên:
Hà Nội, ba mươi năm trước
Bao bạn bè ta đã khuất
Có người bị cháy thành than
Có người cụt chân, nát ngực
Ta chôn đồng đội trong đêm
Tàn hương đỏ hoe nhức buốt
Ta chôn đồng đội trong ngày
Người không còn mắt để vuốt
(Tâm sự - Nguyễn Đức Mậu)
Năm tháng qua đi, những hoài niệm, kí ức âm thầm mà mãnh liệt bừng
thức trong tâm hồn Nguyễn Đức Mậu, mở đường cho cảm xúc nhà thơ tìm về
với quá khứ, tìm về với thời gian không thể nào quên. Anh tưởng niệm về sự
hi sinh của đồng đội và ước ao:
Nếu tất cả trở về đông đủ
Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn
(Gửi sƣ đoàn cũ – Nguyễn Đức Mậu)
76
Đau đớn khi phải đối diện với hiện thực, giữa cuộc đời không bền chặt,
ngỡ tưởng sau chiến tranh, mọi mất mát sễ được bù đắp bằng cuộc sống hạnh
phúc, nhưng không, càng sống, càng tin yêu nhà thơ lại càng đắng cay nhiều:
Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế
(Nghe tiếng cuốc kêu – Hữu Thỉnh)
Sẵn sàng “Mất mọi thứ để nhân dân không mất”, những người lính
Trường Sơn năm xưa trở về trong vinh quang chiến thắng, nhưng cùng với đó
là “cái ba lô xẹp” và đôi bàn tay trắng. Họ lại mang đôi tay đã cầm súng bao
năm ấy đến nơi nào cần họ. Đó là một trong những hình ảnh “hậu chiến
tranh”, “hậu Trường Sơn”, mà ta rất dễ gặp ngoài đời, nhưng không phải ai
cũng thấy cảm thông, ngậm ngùi trước hoàn cảnh của họ:
Các anh đứng đó thưa dần trong chiều muộn
Chỉ còn lại một người, tôi bỗng nhận ra anh
Đức kiên trì đứng cùng vết sẹo
Anh là mảnh vỡ cuối cùng của cuộc chiến tranh
(Chợ lao động Giảng Võ – Phạm Tiến Duật)
Trở về với cuộc sống đời thường, những cựu chiến binh Trường Sơn
dường như trở nên lạc lõng trong sự bon chen nơi phồn hoa đô hội, họ lại
khoác ba lô lên vai “ngược rừng” tìm về nơi cứu rỗi tâm hồn mình:
Thời nay thiên hạ ùa ra phố
Giữa tháng mưa anh lại ngược rừng
Trong cuộc tranh khôn anh chọn dại
Ơi người lính cũ của Trường Sơn.
(Tiễn ngƣời đi Ialy – Phạm Tiến Duật)
Đây là một trong những vấn đề đáng để mọi người phải suy ngẫm trước thực
tại đời sống, về những con người đã từng một thời vào sinh ra tử để chúng ta có
được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như hôm nay, xin chớ lãng quên họ:
77
Các anh đã vì nước quên thân
Thì nước đừng quên các anh, đừng quên ai cả
Các anh vì nhân dân này chung thủy
Thì xin đừng ai phản bội các vong linh
(Trƣờng ca – Tiếng bom và tiếng chuông chùa – Phạm Tiến Duật)
Chiến tranh đi qua mang theo cả tuổi xuân, mang theo cái thì con gái
của những nữ thanh niên xung phong năm xưa. Giờ trở về, họ cũng không còn
cơ hội để lo cho hạnh phúc của riêng mình nữa. Họ lại đến những nông
trường mới, góp sức mình xây dựng cuộc sống mới cho quê hương, đất nước:
Em bảo với tôi rằng nay: nghề mới trồng dâu
Xưa ngụy trang cho đường, nay ngụy trang cho núi,
Xưa vội mở đường, nay khai hoang cũng vội
Lấp hố bom rồi nghe đất gọi lên đây
(Áo của hôm nào, ngƣời của hôm nay – Phạm Tiến Duật)
Có thể nói, cái giá phải trả cho cuộc chiến tranh còn là sự gánh chịu
những thiệt thòi, những đau đớn trong sự cô đơn và chờ đợi của người phụ
nữ. Trong hoàn cảnh ấy, thiên chức của người phụ nữ mai một dần theo năm
tháng. Chiến tranh không chỉ có bom đạn tàn phá, hủy diệt đời sống, nhà thơ
đã phát hiện thêm sức phá hoại vô hình khác, đó chính là nỗi cô đơn, lẻ loi.
Nguyễn Đức Mậu đã thực sự cảm thông với nỗi đau của người phụ nữ và qua
những câu thơ viết về thân phận của họ, di hại của chiến tranh đã hiện ra cụ
thể và khốc liệt hơn trong đời sống hôm nay:
Chiến tranh đã tắt từ lâu
Cau vàng trái rụng, giàn trầu héo hon
Nửa đêm gió lạnh, trăng mòn
Có người nghe tiếng ru con… khóc thầm.
(Ngƣời ấy – Nguyễn Đức Mậu)
78
Và cũng chỉ còn mình mẹ già, chiếc bóng “liêu xiêu” đi giữa hàng bia
mộ chăm sóc từng vuông cỏ:
Dáng mẹ liêu xiêu giữa hàng bia mộ
Núi bạc đầu và tóc trắng sương rơi
Ôi đời mẹ không chồng con đơn lẻ
Tám mươi năm dài dặc kiếp người
(Mẹ già coi nghĩa trang – Nguyễn Đức Mậu)
Hòa bình đã về nhiều năm, nhưng hậu quả và di chứng chiến tranh vẫn
còn ám ảnh, đè nặng lên đời sống, số phận của con người không chỉ hôm nay
mà còn nhiều năm sau nữa. Là những người lính, Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu có cái nhìn rất sâu sắc và nhân văn, mang tính trải
nghiệm về cuộc sống, tâm tư của những người lính sau cuộc chiến.
Cả ba nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đều là
những người lính trong cuộc kháng chiến trường kỳ này. Không chỉ từ những
quan sát bên ngoài mà hình ảnh người lính trong thơ của ba tác giả là những
trải nghiệm trực tiếp trên chiến trường với bom đạn, với thiếu thốn vất vả, đối
diện giữa cái sống và cái chết. Do đó hình ảnh người lính trong thơ của ba nhà
thơ – chiến sĩ là những bức chân dung sinh động, chân thực về những con
người đã từng làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Khắc họa người lính ở
nhiều góc độ khác nhau, cả ba nhà thơ đã tạo nên một bức tranh đa màu về
hình ảnh người lính – hài hòa giữa trữ tình đằm thắm và tính chất anh hùng ca
trang nghiêm. Phản ánh chân thực, sắc nét hình ảnh người lính từ nhiều góc
độ, khía cạnh khác nhau, cho người đọc cảm nhận được bức tranh toàn cảnh
về người lính và cuộc chiến. Hình ảnh trong thơ giản dị nhưng chứa đựng một
tình yêu vô bờ với người lính. Thơ Phạm Tiến Duật thường đi vào sự khái
quát về cuộc sống, như một bản tình ca dài về người lính. Đối với Hữu Thỉnh,
anh đã viết thật xúc động về chiến tranh, về lòng quả cảm và đức hi sinh của
79
người lính. Trong mỗi trang thơ anh viết ta thấy cả trí tuệ và trái tim, tài năng
và nghị lực cùng những khát khao, mơ ước cháy bỏng của anh. Ta ghi nhận ở
Hữu Thỉnh một hồn thơ giàu xúc cảm, đằm thắm mà cũng rất khỏe khoắn ,
rắn rỏi. Với Nguyễn Đức Mậu, lời thơ của anh lại là những lời thủ thỉ tâm
tình, nó chầm chậm nhưng xoáy sâu vào trong đó là tình yêu, là sự đồng cảm
sâu sắc trước bao khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua. Dù cách thể
hiện khác nhau nhưng người lính trong thơ của ba nhà thơ chiến sĩ vẫn hiện
lên thật đẹp. Cái đẹp của họ hiện lên trong giây phút chiến đấu ngoan cường,
cái đẹp và cái hùng hiện lên trong sự hài hào cân xứng. Và ngay cả khi nhắc
tới cái bi, thì nó vẫn mang âm hưởng hào hùng bi tráng. Chính vì vậy, mà
người lính hiện lên trong thơ toát lên khí thế mạnh mẽ, quật cường đại diện
cho dân tộc Việt Nam.
80
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN
TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH,
NGUYỄN ĐỨC MẬU
3.1. Thể thơ
Thơ ca là hình thức độc đáo của văn học ở cơ chế vận hành bộ máy
ngôn ngữ. Sự phong phú của ngôn ngữ thơ ca Việt Nam về mặt thanh điệu,
nhịp, hình ảnh thơ… đã tạo cơ sở để hình thành nhiều thể loại thơ giàu năng
lực, biểu hiện. Trong quá trình sáng tác, việc lựa chọn thể thơ cho phù hợp
với mạch cảm xúc quả thật không đơn giản đối với những người nghệ sĩ. Để
hiểu được nội dung tư tưởng của một bài thơ, chúng ta không thể bỏ qua thể
thơ mà tác giả đã sử dụng. Nó là một phần quan trọng trong việc hình thành
giá trị của tác phẩm. Để xác định thể thơ người ta căn cứ vào số tiếng và vần.
Khi căn cứ vào số âm tiết trong dòng thơ, chúng ta có thể phân thành các thể
thơ, như: ngũ ngôn (5 tiếng), lục ngôn (6 tiếng), thất ngôn (7 tiếng), lục bát
(6/8 tiếng), thơ tự do (không phân định số tiếng),… Còn căn cứ vào vần luật
có hai loại: cách luật (có quy tắc, luật lệ) và không cách luật (tự do về số
tiếng, câu, vần,…).
3.1.1. Thể thơ tự do
Thơ tự do xuất hiện cùng với sự ra đời của phong trào thơ Mới. Nó
khác với các thể thơ ra đời trước đó ở sự cách tân về thể loại âm tiết và vần.
Thơ tự do là loại thơ không có quy định bắt buộc về số câu, số chữ trong câu,
về vần, bằng trắc và nhịp điệu. Tất cả các yếu tố hình thức này đều có thể thay
đổi tùy thuộc vào cảm xúc của người viết. Theo Từ điển thuật ngữ văn học
thơ tự do là “Hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ
không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối…
Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ văn bản có phần dài dòng nhưng
81
không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm
theo các thể thơ khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do” [3]
Sau 1975, ít người làm thơ thuần khiết theo một thể loại nào mà phần
lớn đều có xu hướng làm thơ tự do. Chúng ta thấy các thể thơ truyền thống đã
giảm dần tần số xuất hiện và thơ tự do trở nên chiếm ưu thế. Có thể nói đến
nay thơ tự do đã có một vị trí quan trọng, là một thể thơ quen thuộc và gần gũi
với mọi người. Thơ tự do thông thường phù hợp với những đề tài rộng lớn, sự
đa dạng của cuộc sống, cùng nhịp biến chuyển của thời đại. Hình thức thơ
không định sẵn mà được hình thành từ tâm nhà thơ, khi họ tìm thấy ở đó sự
diễn tả phù hợp nhất để giãi bày những cảm xúc nội tâm về một vấn đề nào đó
trong hiện thực. Từ những tìm tòi mới mẻ này, thơ tự do ngày càng khẳng
định vị trí trong sự phát triển thơ ca nước nhà.
Thuộc thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ, rất nhạy cảm với thời cuộc, Phạm
Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã vận dụng triệt để những ưu thế
của thơ tự do vào sáng tác của mình. Qua kết quả khảo sát cho thấy, số lượng
thơ tự do được Phạm Tiến Duật sử dụng là 110/150 bài, chiếm 73,3%, Hữu
Thỉnh là 63/88 bài, chiếm 71,5%, Nguyễn Đức Mậu là 61/159 bài, chiếm
38,4%.
Trong đó, những bài thơ viết về chiến tranh của Phạm Tiến Duật đa
phần đều xuất sắc và thể hiện phong cách thơ độc đáo. Anh cũng sử dụng thể
thơ tự do để biểu lộ cảm xúc của mình về một thời “máu lửa”. Cái bi khuất
sau cái hùng cùng chất hiện thực “tươi màu áo lính” đã tạo nên nét riêng biệt
cho thơ anh thời kháng chiến chống Mỹ:
Cao xạ thình lình điểm đầu canh ba
Giật mình thức giấc nhìn lên mái nhà
Ngói vỡ bởi bom rung hở một mảnh trời trời nho nhỏ
Qua mảnh trời ngói vỡ
Thấy ánh đạn bay trên đó
82
Cũng đủ nhìn sao đứng, sao sa
Cũng đủ để gió sông Lam vào nhà
Ru ta ngủ lại
(Qua một mảnh trời thành phố Vinh – Phạm Tiến Duật)
Cái hay và đặc sắc của thơ tự do là nhà thơ đã liên kết nhiều thể thơ
khác nhau, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng mà vẫn không mất ý nghĩa
truyền đạt. Thể thơ thấp nhất thường được sử dụng là thể thơ 4 tiếng, và cao
nhất là thể thơ 12 tiếng, đan xen cùng thể thơ 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8
tiếng,… hình thành lối sáng tạo riêng của Phạm Tiến Duật. Với cách kết hợp
như thế dẫn đến hình thức câu thơ thay đổi, không đồng đều và người viết có
điều kiện thả cho cảm xúc bay bổng tùy theo cảm hứng của nghệ sĩ:
Trước mùa xuân điều tôi muốn nói
Cứ ghìm trong lồng ngực tôi đây
Giặc trút bom B.52
Hố bom trong ruộng cày, hố bom trong thành phố
Giặc muốn dựng mùa xuân bằng cây thập tự
Chúng trang trí mùa xuân bằng những dải khăn tang
(Trƣớc mùa xuân – điều tôi muốn nói – Phạm Tiến Duật)
Thể thơ không chỉ gắn với nghệ thuật ngôn từ mà thực ra nó còn là
“biểu hiện của quan niệm thẩm mỹ đối với đời sống” (Phạm Quốc Ca). Khi ý thức về
xã hội với những khuôn phép, rào cản bó buộc như thời trung đại, người ta sáng tạo các
thể thơ cách luật rõ ràng. Nhưng khi ý thức cá nhân bùng nổ, cảm hứng thơ ca có nhiều
thay đổi, nhằm phản ánh thế giới đời tư, thế sự thì hình thức thơ trở nên tự do. Thơ tự
do của Hữu Thỉnh có nhịp thơ, những chỗ ngắt hơi, tiết tấu đều rất linh hoạt, khi nhịp
khoan khi nhịp gấp, chỗ có vần, chỗ không có vần, chỗ câu dài, chỗ câu ngắn… Nếu
như ở giai đoạn Thơ mới, thơ tự do chỉ chiếm khoảng 5% thì từ 1975 trở lại đây, thơ tự
do đã trở thành thể loại số một được các nhà thơ lựa chọn. Trong các sáng tác của Hữu
Thỉnh, thơ tự do cũng là thể loại chủ yếu, anh sử dụng thể thơ tự do nhuần nhuyễn như
83
là sự tìm kiếm tất yếu của tâm hồn thi nhân đến với thể thơ nhiều thế mạnh này. Tất
nhiên, thể thơ tự do dù bứt phá, phóng túng tới đâu cũng phải tuân theo quy luật chung
của ngôn ngữ dân tộc, tiếp thu vẻ đẹp của thơ ca dân tộc về hình ảnh và nhạc điệu. Thơ
tự do của Hữu Thỉnh thực chất cũng là việc phát triển của các thể thơ dân tộc, giống
như Nguyễn Phan Cảnh nhận xét: “Ngay những bài thơ tự do nhất, nếu đọc kỹ thì sẽ
thấy cái khí toàn bài cũng phải dựa trên một cốt nào đấy”, trong số 4 thể thơ cốt lõi: 5,
6, 7, 8. Nếu nhà thơ mở rộng hay rút ngắn câu thơ thì cũng là sự kết hợp hay chia nhỏ
các dòng thơ của một số thể thơ truyền thống. Ta sẽ nhận ra điều đó khi xem xét nhịp
điệu trong thơ tự do Hữu Thỉnh. Cách nhà thơ kiến trúc nhịp thơ toàn bài rất “linh hoạt,
sự đắp đổi các câu thơ dài ngắn phù hợp với việc diễn tả cảm xúc”. Nhịp điệu thơ lúc
nhanh, lúc chậm nhưng vẫn dựa trên nhịp thơ cơ bản của thơ 5 chữ và kết hợp một số
nhịp thơ khác:
Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé
Tôi mất hai người anh
Cả hai đều rất trẻ
Sáng nay, lại có người hàng xóm chạy sang
Mỗi lần, sau đám tang
Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
(Nghe tiếng cuốc kêu – Hữu Thỉnh)
Đoạn thơ bị cắt ra thành nhiều nhịp ngắn đặt bên cạnh một số nhịp dài
hơn như sự “đứt nối”, “rạc rời”. Điển hình cho cách ngắt nhịp nhuần nhuyễn,
tạo xúc cảm lúc trào dâng, lúc trầm lắng, rất thích hợp để diễn tả trạng thái
tinh vi của tâm hồn con người khi yêu, phải nhắc tới bài Thơ viết ở biển:
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
84
Vắng cánh buồm một chút mà vách núi phải mòn
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em
Từ hồn cốt của thể thơ dân tộc (thơ 5 chữ, 8 chữ là chủ yếu) Hữu Thỉnh
đã phát triển thể thơ tự do với những sáng tạo về nhịp điệu làm tăng nhạc tính
cho bài thơ và diễn tả cảm xúc trong lòng mình.
Cùng với việc sử dụng thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, Nguyễn Đức Mậu sử
dụng kiểu thơ tự do có sự kết hợp của nhiều thể. Trong thời hiện đại thơ tự do
rất năng động, dễ dàng đi vào ngõ ngách của đời sống tâm hồn con người.
Nằm trong dòng chảy chung của thơ tự do giai đoạn cuối của cuộc kháng
chiến chống Mỹ là tăng cường chất chính luận và tư duy thơ vượt ra khỏi
những rung động trực tiếp đến luận bàn, phân tích và triết luận, suy tưởng có
sức lắng đọng cao, mạch thơ phóng khoáng, tứ thơ dào dạt:
Vì những vết thương trên mình mẹ bầm đau
Chúng con hành quân qua mùa khô oi nồng, mùa mưa ẩm ướt
Ngàn cây số đường rừng chân bước mòn trăm dốc
Đội ngũ điệp trùng khắp núi Trường Sơn
(Tổ quốc – Nguyễn Đức Mậu)
Các đoạn trong bài vừa có tả, vừa có cả bình như: Nấm mộ và cây
trầm, Ghi ở chiến trƣờng, Anh Pa – Thét Lào ngủ trong chum đá, Nói về
cánh cò… Kiểu phối hợp này không chỉ giúp cho hình tượng thơ tự nhiên
như vốn có ngoài đời mà còn làm cho cuộc sống hiện lên cụ thể, sinh động,
lời thơ đậm chất trữ tình ngay cả trong những hình ảnh tưởng chừng như
chẳng thơ chút nào.
85
Thơ tự do có khả năng diễn tả những trạng thái tinh vi nhất của tâm hồn
con người. Không chỉ thế, việc mở rộng biên độ câu thơ, khổ thơ và các luật
lệ khác cho phép thơ tự do có ưu thế trong việc ôm chứa hiện thực, tăng dung
lượng đời sống trong thơ. Đây là loại thơ phát huy cao độ sự sáng tạo của
người viết. Với những đặc tính và ưu thế nổi bật, thơ tự do đang ngày chiếm
vị trí quan trọng, phổ biến trong thơ ca hiện đại. Nhìn chung, thơ Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu là loại thơ trữ tình nội tâm, thơ phản ánh
hiện thực, nắm bắt đời sống chiến trường sôi động, dư âm chiến tranh nhiều
lắng đọng và trăn trở. Những câu thơ theo thể thơ tự do đã tạo điều kiện cho
các anh bộc bạch tấm lòng của mình theo một mạch nguồn tuôn trào, tạo cho
hình thức câu thơ linh hoạt phóng khoáng. Không phải thơ tự do đem lại cái
tùy tiện, cẩu thả mà luôn có vẻ đẹp xác định, có tính cân đối và cấu tạo chặt
chẽ của tổ chức kết cấu, tính hàm súc của ngôn ngữ thi ca. Cho đến nay thể
thơ tự do vẫn là thể thơ có sức sống diệu kỳ nhất, gần gũi cuộc sống hơn bất
cứ thể thơ nào. Như vậy, với thể thơ tự do Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Đức Mậu đã diễn tả được tất cả nỗi niềm, những tâm tư, những mạch
nguồn cảm xúc trong lòng. Tất nhiên mỗi nhà thơ, một cá tính sáng tạo đã
mang lại cho thể thơ tự do nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau, tạo nên dấu ấn
nhất định trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
3.1.2. Thơ lục bát
“Lục bát là thể thơ truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, được hình
thành từ văn học dân gian với mảng ca dao giàu trữ tình, sau đó được các nhà
thơ đưa vào văn viết. Thơ lục bát có nhịp điệu uyển chuyển, nhịp nhàng,
thanh điệu của câu thơ nghiêng về bằng hơn trắc, hơi thơ cần liên tục ngắt
quãng” [25, tr.89]. Có thể nói đây là một thể thơ đặc biệt nhất của người
Việt. Đã có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng với thể loại thơ truyền thống này như
Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy,
Đồng Đức Bốn, … Mỗi nhà thơ một phong cách, một dấu ấn khác nhau đã tạo
86
nên những thành công nhất định ở thể loại này. Ngoài vần điệu, niêm luật chặt
chẽ, thơ lục bát còn có nhạc tính cao. So với thể thơ Haiku của người Nhật
được xem là thể thơ ngắn nhất thế giới chỉ có 17 âm tiết, thì thể thơ lục bát
(6/8) của Việt Nam chỉ với 14 âm tiết có thể biến hóa để trở thành thể thơ dài
nhất thế giới. Niêm luật thơ lục bát đơn giản, thường gieo vần bằng ở tiếng
thứ 6 câu lục, tiếng thứ 6, 8 ở câu bát. Các tiếng 4, 6, 8 phải theo trắc bằng cố
định, tiếng thứ hai có thể linh động bằng hay trắc. Hiệp vần cả ba loại vần:
chân, lưng và thông. Nhịp thơ chẵn: nhịp 2/2/2, 4/2 ở câu lục, nhịp 2/2/4,
4/2/2 ở câu bát. Đôi khi tùy thuộc vào tâm trạng thể hiện, câu thơ chuyển sang
nhịp thơ lẻ: nhịp 3/3, 1/5 (câu lục), nhịp 3/5 (câu bát). Thơ lục bát thích hợp
với giọng tâm tình, nhẹ nhàng, tình cảm. Hướng về những giá trị truyền
thống, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu cũng đã lựa chọn thơ
lục bát để sáng tạo và tạo nên những cá tính riêng không thể lẫn. Phạm Tiến
Duật ít sử dụng thể loại thơ này để sáng tác, các sáng tác của anh hầu hết
được viết theo lối thơ tự do, phóng khoáng và dễ biểu cảm. Riêng với Hữu
Thỉnh và Nguyễn Đức Mậu ngoài việc sử dụng các thể thơ tự do, các anh còn
tìm được sự đồng điệu của cảm xúc khi sử dụng thể thơ truyền thống này, và
đã tạo được những thành công nhất định.
Với những ưu điểm của thơ lục bát, Phạm Tiến Duật tiếp tục vận dụng
thể thơ này vào sáng tác, đặc biệt là những bài viết về chiến tranh, và cũng tạo
được dấu ấn riêng cho phong cách sáng tác của mình:
Áo xanh đổi lấy áo xanh
Bom ngừng mà bước chân anh chẳng ngừng
Niềm vui như ngọn lửa bừng
Ấm từ mạch đất anh hùng ấm lên
Có nghe giục giã không em
Miền Nam nửa nước ngày đêm bên lòng
(Thay áo – Phạm Tiến Duật)
87
Bài thơ mộc mạc, giản dị với lời tâm tình chân thành của người lính trẻ
về chiếc áo xanh đang khoác trên mình. Tuy không chau chuốt về mặt ngôn từ
nhưng lời thơ chắc gọn, mạnh mẽ, khẳng định ý chí kiên cường, sắt đá của
người lính về con đường đã chọn và niềm tin vào ngày đất nước hoàn toàn
thống nhất, non sông thu về một mối. Mặc dù phải hi sinh cả thời tuổi trẻ và
một phần thân thể gửi vào đất mẹ, thì lòng kiên trung với nước, với dân của
người lính không thay đổi. Vì mục đích cao cả của đời người là phấn đấu cho
cuộc sống tươi đẹp của dân tộc.
Nhịp câu thơ biến chuyển theo dòng cảm xúc của tác giả. Các câu thơ luân
phiên nhau đổi nhịp: ở câu lục nhịp 2/2/2, 2/4, 4/2 và câu bát nhịp 2/4/2, 4/4, 3/5
tạo âm hưởng sâu lắng nơi người đọc. Dù số lượng thơ lục bát anh sáng tác rất ít
(chỉ 16/150 bài, chiếm 10,7%) nhưng cũng để lại một số bài khá hay. Với giọng
điệu pha trò hóm hỉnh, những hình ảnh ví von tinh nghịch, anh đã thể hiện phần
nào đời sống tinh thần phong phú của người lính trong chiến tranh:
Con trai đội nón bao giờ
Vì mưa nên phải đi nhờ nón em
Bấy lâu mũ sắt đội quen
Buồn cười cái nón toòng teng trên đầu
(Cái chao đèn – Phạm Tiến Duật)
Khi đọc những bài thơ lục bát của anh, chúng ta như được tắm mình
trong vùng trời của người chiến sĩ. Với kết cấu chặt chẽ, nhịp điệu êm ái, nhẹ
nhàng, từng câu thơ như thấm vào lòng người đọc, dâng tràn bao xúc cảm về
thời chiến:
Anh đi núi biếc trập trùng
Non xa mấy dải, một vùng quân đi
Thấy núi nổi lúc xuống khe
Thấy non xa xuống ấy khi lên đèo
(Cái cập kênh – Phạm Tiến Duật)
88
Thể thơ lục bát đã được Phạm Tiến Duật sử dụng một cách phong phú,
đa dạng để thể hiện thiên nhiên, cuộc sống người lính. Qua cách tách âm tiết
mà vẫn giữ nguyên ý, cùng việc sử dụng thanh trắc và vần thông đã tạo nên
giá trị riêng cho thơ Phạm Tiến Duật. Đây chính là bước sáng tạo trong thể
thơ dân tộc của Phạm Tiến Duật.
Với Hữu Thỉnh, thơ anh có nhiều nét truyền thống dân gian. Sự lựa
chọn tiếp thu “tinh nhụy, mật ngọt” của thơ ca dân tộc trong thơ anh không
chỉ ở cảm hứng, từ ngữ mà cả ở thể thơ, ở cách tạo nhạc thơ đậm thanh âm
của thơ Việt. Điều đó được thể hiện rõ ở thể lục bát trong thơ anh. Tuy sáng
tác không nhiều thơ lục bát, chỉ có 9 bài nhưng Hữu Thỉnh đã đem đến cho
thể thơ đậm chất dân tộc này những nét lôi cuốn, duyên dáng.
Cách nhà thơ tạo nhịp điệu cho thể thơ lục bát có những nét vừa dân tộc vừa
hiện đại. Hữu Thỉnh dựa trên cách ngắt nhịp chẵn là chính nhưng nhịp thơ không chỉ
chia nhỏ kiểu nhịp 2 truyền thống mà kéo dài ra nhịp 4, đồng thời nó được kết hợp
với cách ngắt nhịp 3/5 ở câu bát tựa như tiết tấu của thể 8 chữ mà anh vẫn quen dùng:
Ở đây trời bị bỏ quên
Hoa biếng nở, đá chen hết người
(Trƣớc tƣợng Bay – on – Hữu Thỉnh)
Chúng tôi đã khảo sát được 31 bài lục bát trên tổng số 159 bài thơ của
Nguyễn Đức Mậu ở các tập, chiếm 22,6%. Có thể nói thơ lục bát của anh cũng có
những thành công đáng kể, có được nét độc đáo riêng. Trong 39 bài lục bát được
tuyển chọn có những bài khá dài như: Lời tâm tình, Nói với con, Dọc miền quan
họ… (từ 40 câu trở lên). Những bài có nội dung trung bình như: Những cô gái
mở đƣờng và bầy chim núi, Rƣợu cần, Nhà bạn bên cầu Chƣơng Dƣơng,
Gửi ngƣời đón tết một mình (28 – 40 câu). Và những bài ngắn (từ 26 câu trở
xuống): Khúc cảm, Suối mát, Hoa gửi em, Không đề, Thƣ những ngày xa.
Thơ lục bát Nguyễn Đức Mậu thường ít có sự phá cách, ngắt nhịp khác với truyền
thống (2/2/2; 4/2). Thơ anh thường ngắt nhịp chẵn:
89
Thương vầng trăng khuyết đêm đêm
Không gian vời vợi nỗi niềm nhớ nhau
Thương loài hoa muộn rừng sâu
Mong manh cánh mỏng có màu nắng mưa
(Thƣ những ngày xa – Nguyễn Đức Mậu)
Chỗ sáng tạo của anh lại là những hình ảnh thơ. Anh thường có những
liên tưởng thú vị, độc đáo:
Cho tôi gọi đó là em
Hỡi hình vũ nữ của miền xa xưa
Thuở đấy chưa hóa rừng già
Áo nâu lam lũ tìm ra đền đài
(Nghìn năm tuổi đá – Nguyễn Đức Mậu)
Nếu như thơ lục bát Phạm Tiến Duật vẫn mang nét tinh nghịch, hóm
hỉnh, thơ lục bát Hữu Thỉnh gần gũi với ca dao, dân ca thì thơ lục bát Nguyễn
Đức Mậu lại nhẹ nhàng, sâu lắng, rất phù hợp với đạo đức, tình cảm, nếp cảm,
nếp nghĩ của người Việt Nam. Nhưng dù cách thể hiện như thế nào thì mỗi
vần thơ của các anh đều mang đến cho người đọc những tình cảm trong sáng,
thấm nhuần chất nhân văn cao cả.
3.1.3. Trường ca
“Bản thân thi liệu của cuộc sống cùng với nội dung, tính chất hiện thực
của đời sống buộc nhà thơ phải tìm đến một phương thức thể hiện tương ứng
của nó. Từ sau 1975, nhiều nhà thơ trẻ đã tìm đến với thể loại trường ca” [6,
tr.376].
Năm 1997, khi biết ở Thái Bình có hàng trăm sư nữ vốn là cán bộ,
chiến sĩ thanh niên xung phong thời chống Mỹ, Phạm Tiến Duật đến tận nơi
rồi viết Trƣờng ca Tiếng bom và tiếng chuông chùa. Ta hãy nghe: Nhưng
tại sao, tại sao họ lại đi tu - Những đồng đội của anh, của tôi, tại sao lại thế -
Chẳng lẽ trong trái tim chúng ta, chẳng nhẽ - Không còn chỗ nào cho đồng
90
đội nữa hay sao? - Chẳng lẽ trong xóm mạc kia, không có một nơi nào - Đủ
hơi ấm cho những người mấy chục năm ra trận? - Chẳng lẽ cuộc đời này quá
nhiều lận đận - Để những anh hùng mệt mỏi nghỉ rồi sao?... Dưới mái chùa
kia là bóng mát u trầm - U uẩn, u mê, u minh và u uất nữa - Tìm đến nơi Phật
ở - Người đời dễ nhớ mái chùa, đâu dễ nhớ nhà sư - Sư mặc áo vàng, áo nâu
là tự ngàn xưa - Chẳng khi nào pha sắc xanh bộ đội - Anh muốn hỏi và tôi
muốn hỏi - Chỉ màu chiều tím biếc trả lời thôi.
Từ các sư nữ Thái Bình, Phạm Tiến Duật nhớ và viết về đồng đội: Hình
như một lớp người thuộc thế hệ các anh đều thế - Đã từng lấy vợ mà không
được làm chồng - Đã từng có con mà không được làm bố - Việc vất vả thay là
phải làm một anh hùng! v.v... Rõ ràng, “tâm chấn” Trường Sơn của Phạm
Tiến Duật không dừng lại, những năm tháng Trường Sơn luôn day dứt trong
anh sau những ngày hòa bình. Có thể nói, Trƣờng ca Tiếng bom và tiếng
chuông chùa là nỗi lòng suy tư, khôn nguôi của nhà thơ về Trường Sơn một
Trường ca Đƣờng tới thành phố của Hữu Thỉnh như cuốn nhật ký
thời đạn lửa.
ghi lại cảm xúc và suy nghĩ trên con đường dẫn tới thành phố cũng là con
đường đến với ngày non sông thống nhất của một chiến sĩ Giải phóng quân
binh chủng Tăng thiết giáp. Khi viết Đƣờng tới thành phố, bút lực của Hữu
Thỉnh thật sung mãn. Cấu trúc từng chương, từng khúc nhỏ trong chương đó,
vừa có hình tượng thơ độc lập, lại có những liên kết với nhau, tạo thành chỉnh
thể lớn của trường ca. Ngôn ngữ thơ giàu xúc cảm và cũng phong phú chi tiết
sống: Gạo chỉ mang đủ mười ngày/ Còn dành mang súng/ Còn mang thuốc/
Còn mang bao nhiêu tai biến dọc đường... Nhiều khi, qua một chi tiết sống có
phần đau thương, xúc cảm thơ trào dâng một vẻ đẹp cao cả, như chi tiết
những người lính thêu họ, tên, đơn vị mình lên ngực áo, để có thể: Người ta
tìm áo báo tin cho mẹ/ Nếu chẳng may anh ngã xuống nơi đâu/ Đến cái chết
đã chẳng cần giấu giếm/ Trái tim anh càng đập ngang tàng...
91
Sau trường ca Đƣờng tới thành phố được dư luận bạn đọc và đồng
nghiệp đánh giá cao, Hữu Thỉnh tiếp tục âm thầm đi vào cuộc chuẩn bị cho
một trường ca mới. Đó là Trƣờng ca biển khởi sự từ 1981, và hơn mười năm
sau, anh mới sửa chữa lại, rồi xuất bản năm 1994. Cũng xin nói thêm, bài thơ
dài Sức bền của đất mà báo Văn Nghệ trao tặng giải Nhất cuộc thi thơ 1975-
1976 (cùng bài thơ Chuyến đò đêm giáp ranh) là một trường ca, Hữu Thỉnh
viết trước cả trường ca Đƣờng tới thành phố. Trong Trƣờng ca biển, Hữu
Thỉnh vẫn sáng tạo được những câu thơ rất giàu mỹ cảm, như những câu thơ
mô tả những người lính đảo trên bãi cát mép đảo: Ngồi ghép nhau bao nỗi
nhớ nhà/ Chiều áo rộng vài vạt mây hờ hững/ Họ cứ ngồi như chum vại hứng
mưa... Hoặc những câu trữ tình về cuộc đời người mẹ trong quá khứ buồn
khổ: Mẹ đành gọi bán lúa non/ Liềm hái buồn quang gánh cũng buồn... / Rơm
rạ sang khói bếp nhà người.
Trƣờng ca biển có một tầm vóc đích thực của nó. Nó càng có giá trị
hiện hữu với hôm nay hơn bao giờ hết, khi gần đây, cả nước đang đồng lòng,
dốc sức hướng ra biển đảo trong chiến lược bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc. Với 6 chương được cấu trúc: Đối thoại biển, Cát, Tự thuật
của ngƣời lính, Đất này, Hóa thạch những dòng sông, Bão biển, Trƣờng
ca biển nếu nhìn theo góc độ tài nguyên “rừng vàng biển bạc” thì có cấu trúc
của 6 kho tàng biển (lục khố). Nếu nhìn theo âm nhạc thì đây là một tổ khúc
giao hưởng mà ở giữa các chương có những đoạn chuyển tiếp qua các Lời
sóng từ 1 đến 5.
Đọc Trƣờng ca biển của Hữu Thỉnh, ta thấy chứa chất những ngẫm
nghĩ đáng giá, đáng quý về vùng biển thân yêu của Tổ quốc, chứa chất những
biến ảo về thi pháp mà tác giả muốn gửi vào đấy bằng toàn bộ dụng công khi
vắt kiệt cảm xúc của mình. Nghe vang lên từ chữ nghĩa dạt dào cả một tổ
khúc giao hưởng như Trƣờng ca biển, chúng ta mới thấm thía hết những gì
phải ứng xử khi hội nhập toàn cầu trong một thế giới mới đầy biến động.
92
Với ý nghĩa lớn lao đó, thiết nghĩ trong hôm nay, Trƣờng ca biển nên được
tái bản, được làm quà tặng trao cho tất cả những người lính biển đảo như trao
thêm cho họ một niềm tin, một chỗ tựa như những lời kinh, lời ru của Mẹ Việt
Nam để tất cả họ có thể đứng vững trước mọi sóng gió, mọi mưu toan thâm
độc. Đấy là sức mạnh của tác phẩm này, một người bạn lớn đồng hành cùng
những người lính biển đảo hôm nay…
Nguyễn Đức Mậu cũng dùng trường ca để tổng kết chiến tranh, phản
ánh những bức tranh hiện thực rộng lớn của cuộc kháng chiến như: Trƣờng
ca sƣ đoàn, Trƣờng ca Côn Đảo. Chính vì dung lượng đồ sộ với cảm hứng
mãnh liệt, mang đậm chất sử thi, nội dung hoành tráng, âm điệu hào hùng, có
khả năng ôm chứa nhiều hình thức thể loại khác nhau, nên hai bản trường ca
sử dụng rất nhiều thể loại thơ khác nhau: thơ lục bát, thơ tự do…
Tính chất tổng hợp của Trƣờng ca sƣ đoàn, Trƣờng ca Côn Đảo
không chỉ ở phương thức thể hiện, ở liên tưởng đa dạng phong phú mà còn ở
sự biến hóa linh hoạt của câu thơ cùng với ngôn ngữ thơ đa giọng điệu. Người
đọc không rơi vào cảm giác nhàm chán khi đọc Trƣờng ca sƣ đoàn nhờ câu
thơ liên tục thay đổi, giọng thơ không rơi vào độc thoại cảm xúc một chiều.
Chúng ta có cảm giác thú vị đôi khi quên đi hình thức của câu thơ, chăm chú
theo dõi diễn biến của tình cảm, cảm xúc mà không nghĩ rằng chính sự thay
đổi hình thức tạo nên điều đó. Các thể thơ dân tộc như lục bát, bảy chữ, năm
chữ, được đặt cạnh các thể thơ hiện đại khác như thơ tự do, thơ văn xuôi, tạo
không khí riêng cho từng đoạn, từng khúc và cho cả trường ca. Ở Trƣờng ca
sƣ đoàn, thơ lục bát được dùng ở những khúc tâm tình, những khúc hát ru,
những suy tư về nhân dân, đất nước, về những điều gần gũi thân thương… thể
thơ 4 chữ, 5 chữ lại thường dễ diễn tả hành động khẩn trương, những nhịp gấp
của cảm xúc. Thơ tự do, thơ văn xuôi biến đổi linh hoạt khi thì kể chuyện, khi
lại diễn tả cảm xúc. Nhịp thơ nhanh, gấp như những thước phim, nhà thơ đã
tạo được ấn tượng hùng mạnh của đoàn quân ra trận, bao đau thương địch đã
93
reo rắc cho dân tộc ta, những bước cản người lính gặp suốt dọc đường chiến
đấu. Ngoài ra nhịp đều của thơ 7 chữ giúp Nguyễn Đức Mậu có được nội
dung phản ánh mới trong một hình thức cũ.
Sự thay đổi liên tục câu thơ kéo dài theo hệ quả tất yếu là ngôn ngữ thơ
cũng biến đổi. Là một bài thơ dài, trường ca sẽ rơi vào nhàm chán nếu chỉ sử
dụng đều đều một giọng thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của các thể thơ không
mất đi hơi thở dân tộc nhờ những thể thơ truyền thống nhưng vẫn hiện đại,
mới mẻ nhờ những câu thơ tự do. Truyền thống và hiện đại, hiện thực nhưng
giàu chất thơ, giàu chi tiết cụ thể mà vẫn khái quát là điểm cần ghi nhận ở
trường ca của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.
3.2. Biểu tƣợng
3.2.1. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng đã trở thành một thuật ngữ của mỹ học, lý luận học và ngôn
ngữ học. Một tác phẩm văn học muốn sống mãi với thời gian không thể
không tự xây dựng cho mình thế giới biểu tượng bởi xét cho cùng văn học
chính là cuộc sống, văn học sẽ tái hiện lại cuộc sống bằng biểu tượng nghệ
thuật và nhiệm vụ của biểu tượng là làm cho cuộc sống hiện lên như thật. Khi
nói về biểu tượng người ta hay quan tâm đến nghĩa trực tiếp và nghĩa gián
tiếp hay nói cách khác là nghĩa đen hay nghĩa bóng của biểu tượng. Theo
nghĩa đen, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của
văn học nghệ thuật. Hiểu theo nghĩa bóng, biểu tượng là phương thức chuyển
nghĩa của lời nói hoặc một hình thức nghệ thuật nào đấy, vừa thể hiện một
quan niệm, một tư tưởng, hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời.
Jean Chevalier và Aliem Geerbrant cũng đã chỉ ra biểu tượng “tiết lộ mà che
dấu, che dấu mà tiết lộ” [21]. Biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ
thể sinh động, gợi cảm nhưng mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của
người đọc. Các từ ngữ thông thường khi đi vào văn bản đều có thể trở thành
biểu tượng nghệ thuật mang nội dung cảm xúc khái quát. Biểu tượng mang
94
tính đa nghĩa, tính văn hóa truyền thống. Biểu tượng chịu sự chi phối của
ngôn ngữ, của tâm lý, quan niệm dân tộc và thời đại, nhiều loại biểu tượng
mang dấu ấn cá nhân của người sáng tác. Nhờ có tính biểu tượng mà ngôn
ngữ văn học nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng có khả năng biểu đạt phong
phú, sâu rộng hơn so với ngôn ngữ thông thường.
3.2.2. Một số biểu tượng tiêu biểu trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Đức Mậu
3.2.2.1. Biểu tượng ngọn lửa, ngọn đèn
Thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu có hệ thống hình
ảnh mang tính chất biểu tượng, chúng có những ý nghĩa khái quát cao. Vẫn
xuất phát từ các biểu tượng, các mẫu gốc đã có trong thơ ca nhưng các anh có
nhiều khám phá, phát hiện riêng, bổ sung cho chúng những nét nghĩa mới,
khiến chúng giàu ý nghĩa hơn. Trong thơ các anh có khá nhiều hình ảnh mang
tính chất biểu tượng như: lửa, ngọn đèn, rừng, con đường, cỏ, cây súng, hầm,
chiến hào…
Đọc thơ Phạm Tiến Duật, ta thường xuyên gặp lửa và ánh sáng, nhưng
ở mỗi hoàn cảnh, chúng lại mang một ý nghĩa, một sắc thái thẩm mỹ khác
nhau. Khi ta thấy lửa đèn, ánh lửa (lửa que diêm, lửa đèn dầu, lửa đèn hàn,
lửa bếp…) thì ta gặp ở đó một sức sống âm thầm, lặng lẽ mà hết sức mãnh
liệt, bền bỉ.
Hình ảnh lửa đèn trong bài thơ cùng tên là một hình ảnh đa nghĩa và nó
biểu tượng cho sức mạnh, cho truyền thống lịch sử lâu đời của dân tộc. Ngọn
lửa ấy có từ thời hoang sơ, được truyền từ đời này qua đời khác. Như một
nguồn mạch chảy mãi, được nuôi dưỡng trong lòng dân tộc, ngọn lửa ấy còn
vận động, biến hóa mang tính chất biểu tượng cho sự sống, sự tồn tại vĩnh
hằng. Dưới mưa bom bão đạn, lửa vẫn âm thầm cháy trong lòng đất nước.
Lửa đèn được thắp trên từng nhành cây, kẽ lá. Lửa vẫn cháy lên trong ống
nứa, trong “lòng trái núi”, khi cần thì lửa đèn được thắp lên trên đỉnh núi,
95
trong chớp lòe ánh đạn để rồi ngày mai lửa thắp lên ngọn đèn lồng, đèn sao
năm cánh, đèn kéo quân soi rõ “những người những cảnh hôm nay”, tỏa sáng
đến muôn đời. Ngọn lửa bền bỉ, mãnh liệt đó chính là “lửa tim ta đấy”, nó như
luôn rực cháy và tỏa sáng trong mỗi tâm hồn con người. Lửa có khi lại mang
ý nghĩa tượng trưng cho sự hủy diệt. Ấy là khi anh nói đến những “quầng
lửa”, đến ánh sáng ma quái phát ra từ bom đạn, từ máy bay của giặc (như lũ
ma trơi). Nhưng ấn tượng sâu đậm để lại trong lòng người đọc vẫn là hình ảnh
lửa đèn trong sự vận động nhiều chiều, nó đã mang lại ý nghĩa biểu tượng cho
sức sống của dân tộc, cho tinh thần, lẽ sống, niềm tin không bao giờ tắt của
nhân dân Việt Nam anh hùng.
Sống trong một thời kỳ rực lửa – lửa của bom đạn kẻ thù, lửa của lòng
căm thù giặc, lửa của tình yêu quê hương đất nước và nhiệt huyết với cách
mạng - nên đọc thơ Phạm Tiến Duật ta thấy anh “nói nhiều đến lửa, chỗ nào
cũng lửa, lửa trong từng câu, trong từng bài và cả ở ngoài bìa những tập thơ”,
“Lửa với anh Duật là những kỷ niệm không phai nhạt, là một biểu tượng
sống, là một phẩm chất làm nên cốt cách của anh… Dễ hiểu thôi vì Phạm
Tiến Duật là người sống trong lửa, bước vào lửa và từ lửa lại bước ra” (Tuyển
tập thơ Phạm Tiến Duật, tr.302).
Trong thơ Hữu Thỉnh, ngọn lửa cũng được nâng lên thành biểu tượng.
Mở đầu trường ca Đƣờng tới thành phố (5 chương) là chương Ngọn lửa
chiến trƣờng đã tạo dựng không gian, thời gian cho nhân vật người lính xuất
hiện. Trong 21 trang thơ của chương này có đến 15 câu thơ chứa từ “lửa,
ngọn lửa” và 24 lần xuất hiện từ, cụm từ liên quan đến lửa (nhóm lên, cháy,
đốm tàn hoa cải, bay lên, vun cao ấm, lại hơ, chào, sưởi, ném tàn, xua muỗi,
đốt lên, bập bùng thương nhớ, bớt đi nhiều khuya khoắt, đốt, chí bình yên, tìm
vào tri kỷ, chín thành than đỏ, nói (lửa nói), bén, bắt vào (củi ấm), soi mặt đất
mấy tầng đêm, đỏ…). Đây là ngọn lửa trong căn hầm giấu quân giữa rừng
Trường Sơn những đêm chuẩn bị chiến dịch mùa xuân 1975. Ngọn lửa có
96
dáng hình cụ thể “đốm tàn hoa cải, vun cao vách đất bóng người, ném tàn xua
muỗi, bập bùng” nhưng ngọn lửa còn có ý nghĩa tượng trưng cho lý tưởng
cách mạng, cho tình yêu Tổ quốc nồng nàn, cho niềm tin bất diệt về tương lai
hòa bình, hạnh phúc của dân tộc. Mấy câu thơ “Ngọn lửa này. Và hi vọng của
anh/…/ Của chúng tôi những người mới đến” láy đi láy lại như một điệp
khúc. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ấy, niềm tin và hi vọng như
nguồn động lực giúp cho dân tộc ta đương đầu với khó khăn thử thách.
Ngọn lửa còn liên kết các chiến sĩ, ngọn lửa liên kết tiền phương và hậu
phương, người lính với quê hương, với mẹ và em:
Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa
Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm
Ngọn lửa ấy còn là biểu tượng cho tình yêu và lý tưởng của những lứa đôi,
bởi trong chiến tranh tình yêu lứa đôi luôn gắn với tình yêu đất nước, khát vọng hòa
bình cho toàn dân tộc. Ngọn lửa của tình yêu chỉ tỏa sáng khi cả hai cùng chung
nhịp đập và hòa chung nhịp tim với mọi người, chung tay giải phóng quê hương, và
khi đó tình yêu cá nhân đã hòa vào tình yêu đất nước và hóa thành bất tử.
Hình ảnh ngọn lửa trong thơ Nguyễn Đức Mậu là hình ảnh của sự sống
trường tồn, của sức mạnh dân tộc trước mưa bom, bão đạn:
Trường Sơn giờ hóa quê hương
Khói vương ngày nắng, bập bùng lửa đêm
(Chuyện nhỏ trong rừng – Nguyễn Đức Mậu)
Lửa đã trở thành một biểu tượng đẹp, giàu lý tưởng trong thơ các anh-
những người chiến sỹ Trường Sơn có những tháng ngày sống chung với lửa.
Những ngọn lửa biểu trưng cho ý chí dân tộc, cho niềm tin mãnh liệt vào
chiến thắng, cho tình yêu bất diệt của con người hay chính là ngọn lửa lòng
của các nhà thơ đang bùng cháy khi chứng kiến những hiện thực chiến
tranh, hay đó cũng chính là lòng tự hào dân tộc đã hòa nhịp vào thơ như
một sự hóa thân kỳ diệu.
97
3.2.2.2. Con đường
Biểu tượng con đường là một trong những biểu tượng phổ biến của thơ
ca cách mạng Việt Nam và thơ ca cách mạng thế giới, con đường là biểu
tượng của sự thống nhất không gian và thời gian, con đường là không gian
vận động, không gian để con người vươn lên, đến với cách mạng.
Con đường là không gian nghệ thuật xuất hiện khá nhiều lần trong thơ
Phạm Tiến Duật. Với anh, hình tượng con đường gắn liền với Trường Sơn
lịch sử - là con đường ra trận, con đường tất thắng. Sự ra đời của những con
đường trên dải Trường Sơn là một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của
đất nước, con người Việt Nam. Chỉ trong những năm kháng chiến chống Mỹ,
thanh niên xung phong đã làm được những con đường dài hơn tất cả độ dài
của đường xá đời xưa để lại: “Chỉ tính riêng ở Hà Tĩnh, số đường làm mới
trong ba năm chống Mỹ cứu nước (1965 – 1967) bằng toàn bộ số đường
của cả thế kỷ 19 dân ta làm được cộng lại” (Thơ một chặng đƣờng). Đó là
thành quả của lòng quyết tâm, ý chí và lý tưởng cách mạng của một thế hệ
anh hùng.
Con đường là biểu tượng chứa nhiều ý nghĩa, có khi nó gắn với sự khốc
liệt của bom đạn kẻ thù (“Một con đường không ngớt tiếng bom rung” – Áo
của hôm nào, ngƣời của hôm nay; “Đường gập ghềnh ngổn ngang cây đổ” –
Niềm tin có thật)… Cũng có khi nó biểu tượng cho lý tưởng cách mạng của
quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ - đó là con đường ra trận, là đường
tải đạn, tải gạo, và còn là con đường đồng đội, con đường tình yêu (Trƣờng
Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây, Chim lạc). Là con đường của lý tưởng cách
mạng nên nó chỉ chạy theo một hướng duy nhất, hướng Nam:
Đèo nhằm hướng Nam, đường nhằm hướng Nam
Xe đạn cũng nhằm hướng Nam, vượt dốc
(Đèo ngang)
98
Thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thuộc phạm trù “cái cao cả”,
muốn trở thành cao cả thì không gian không chỉ cần bao la (hoặc vô bờ bến)
mà còn phải có phương hướng và con người trong đó phải vận động về một
mục đích. Không gian ấy phải trở thành con đường [20, tr.37] và điều này thể
hiện rõ nét nhất trong các trường ca của Hữu Thỉnh. Xét ở khía cạnh nào đó,
Trƣờng ca Sức bền của đất (hoàn thành dịp tết Ất Mão 1975) là một kiểu
tổng kết chiến tranh qua việc đi tìm nguồn gốc sức mạnh của người lính, của
quân đội từ chiều sâu văn hóa dân tộc, từ “mạch đất ông cha”. Đƣờng tới
thành phố (hoàn thành tháng 4/1978, ba năm sau khi chiến tranh chống Mỹ
kết thúc thắng lợi) là “bản tổng kết” giai đoạn hào hùng nhất, giai đoạn cuối
cùng quyết định của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đƣờng tới thành phố đã
viết lại chặng đường lịch sử: từ Trường Sơn xuống đồng bằng, tiến về thành
phố Sài Gòn. Đó cũng là con đường của các sư đoàn bộ đội từ sau Mậu Thân
1968, bị hất qua biên giới, rồi những ngày tháng giữ từng tấc đất sau hiệp
định Pari (1973), cho tới khi tiến về giải phóng đồng bằng sau chiến dịch Tây
Nguyên, kết thúc bằng toàn thắng ngày 30/4/1975; đây thực sự là con đường
trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta qua hình ảnh các thế hệ chiến sĩ,
con đường trải qua gian khổ hi sinh của dân tộc để tới đích vinh quang, con
đường nối liền hậu phương với tiền tuyến, con đường từ lòng Mẹ đến với trái tim
người chiến sĩ trên mặt trận, giữa chiến hào.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt của dân tộc hiện ra rõ nét
qua những con đường khác nhau. Đó là con đường cụ thể của người lính. Hữu thỉnh
cảm nhận con đường với điểm nhìn của người lính đang đi trên con đường ấy. Con
đường mang tâm hồn tươi trẻ của người lính, với đầy âm thanh và màu sắc:
Tiếng hát nâng nhẹ bước chân ta
Qua mỗi cung đường chân trời lại mới
Tim ta đập ở bên kia trái núi
Chân bồn chồn bước lên sườn non
99
Con đường người lính đi trong chiến tranh của thơ Hữu Thỉnh là con
đường đầy chông gai, gian khổ, mọi thử thách đều được cảm nhận một cách
trực tiếp, đem lại cho biểu tượng con đường tính tạo hình cao:
Đường ngổn ngang, đường đất còn cháy khét
Gập ghềnh đường tôi đi
Trong hành trình chiến đấu gian khổ và lâu dài, trên tất cả các nẻo đường mà
người lính trải qua, con đường nào cũng đầy niềm tự hào, kiêu hãnh của dân tộc:
Đi suốt tuần trăng chưa hết con đường
Như cuộc đời anh chưa một lần dừng lại
Mai sau nữa trăm con đường vươn mãi
Chẳng có nơi đâu ghi cột số cuối cùng
Đường có tên và đường không tên
Trăm con đường xuyên vào tim giặc
Một cái tên chung mọi người tự đặt
Là con đường chiến sĩ công binh
(Theo những con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)
Nhưng sáng lên giữa bao nhiêu gian khổ, con đường ra trận vẫn luôn
rạo rực niềm vui, sáng ngời lý tưởng chiến đấu cao đẹp và điều này càng làm
nổi bật hình tượng lớn lao của người lính:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
(Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)
Chính trên con đường ấy, người lính cảm nhận đất mẹ quê hương đang
nhân thêm cho mình sức mạnh bởi họ đang đi trên đất đai, núi sông Tổ quốc
với tư thế, tầm vóc của người làm chủ, của người ra đi vì sự sống còn của dân
tộc, cho nên lòng bâng khuâng, xao xuyến, “ngẩn ngơ”, “tần ngần”, bước
chân “bồn chồn”, “mê say”, “xao động”. Người lính in bóng tâm hồn trên mỗi
con đường của đất nước đã đi qua:
100
Đã để ít đời mình nơi ngã ba khốc liệt
Đã bông đùa xen kẽ với bom rơi
(Hữu Thỉnh)
Cuộc đời người lính, tuổi trẻ của người lính gắn bó máu thịt với con đường :
Đường lên đèo xuống dốc, chênh vênh
Mỗi bận mở đường, mỗi lần sáng tạo
Bao nhiêu năm nắng mưa, giông bão
Tuổi đời anh ràng rịt với con đường
(Theo những con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)
Con đường trong thơ Hữu Thỉnh (đặc biệt là trong trường ca) là con
đường vận động có hướng của tập thể người lính. Nhìn vào Đƣờng tới thành
phố ta như dõi theo bước chân của các binh đoàn, sư đoàn bộ đội, ta có thể
hình dung được hướng đi, điểm mở đầu và kết thúc của con đường. Bắt đầu là
con đường chiến lược mở ra sau hiệp định Pari (1973) xuyên qua những khu
đồi tranh chấp giữa ta và địch, xuyên qua bãi mìn hòng tủ vành đai; con
đường khi ấy đồng nghĩa với “ cửa mở”, người lính muốn đi tới phải mở lấy,
bước qua hiểm nguy, bước qua những trở ngại của tư tưởng “cầu an nghe
ngóng” tồn tại ngay trong chính bản thân mình:
Để có được con đường
Mở vào lúc chiến trường vơi tiếng súng
Anh xa lạ với cầu an nghe ngóng
Đường với anh là cách hiểu kẻ thù
(Hữu Thỉnh)
Con đường vận động có hướng gắn với phương hướng phát triển của
lịch sử, của thời gian. Con đường là biểu tượng cho quá trình cách mạng của
cả dân tộc, vượt qua đau thương, thử thách để không ngừng lớn mạnh:
Đất nước đổ ra đường
Tiềm lực lớn những binh đoàn chiến lược
(Hữu Thỉnh)
101
Con đường trong thơ Hữu Thỉnh đã trở thành biểu tượng khái quát cao
cho bước trưởng thành của quân đội cách mạng. Mỗi một địa danh trên con
đường ấy như những cột mốc trên chặng đường giải phóng nhân dân, gợi lên
chiều sâu lịch sử:
Dốc Pha Đin là cái dốc cuối cùng
Các anh qua để tiến về Hà Nội
Con đường là nhịp đập chính của nhịp đập chiến trường, môi trường tồn tại
chủ yếu của nhân vật trong thơ ca viết về chiến tranh của Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Trên con đường ấy, bao “nhân vật” được xuất hiện,
cùng với bao cảnh ngộ, tâm tư, chịu đựng khổ đau, khát vọng, niềm vui, hạnh
phúc. Những nhân vật ấy là người lính thuộc nhiều thế hệ, từ vị chỉ huy cho đến
người chiến sĩ, người cộng sản nằm vùng, bà mẹ, người chị miềm Nam và nhân
dân rộng lớn. Có thể nói biểu tượng con đường đã trở thành một thành tố của nội
dung hiện thực. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sự kiện được mô tả trong tác
phẩm, là định hướng triển khai ý đồ sáng tác của các anh.
3.2.2.3. Cỏ
Dùng cỏ cây để nói về con người là điều không xa lạ trong truyền thống
thơ ca cũng như trong ngôn ngữ nghệ thuật của dân tộc. Từ cây để hiểu người
cũng là một thao tác quan thuộc trong cảm thụ văn học (thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…)
Trong thơ Phạm Tiến Duật “cỏ” hiện lên thật bình dị, như những con
người chất phác, hồn hậu, như là biểu tượng không phân chia giai cấp giữa
những người giàu và người nghèo, không phân biệt màu da, lãnh thổ giữa
quốc gia này với quốc gia khác:
Biên giới đôi bên cỏ không xanh màu khác
Kiếp giàu nghèo đây đó thế mà thôi
(Chú Lƣ phố khách – Phạm Tiến Duật)
102
Cỏ còn là nhân chứng tố cáo tội của giặc:
-Đường núi cỏ cây bom vùi hết
(Bài thơ không tên – Phạm Tiến Duật)
-Tai còn ù, ngực còn tức đây
Hơi đạn ép cỏ cây nằm rạp
(Buổi chiều ở trong hầm đại bác – Phạm Tiến Duật)
Cỏ như người bạn nâng niu người lính trong những phút giây ngắn ngủi
trước giờ chiến đấu. Cỏ và con người như có sự giao thoa và gắn bó:
Người cán bộ già nằm trên bãi cỏ
Đăm đăm nhìn tàn lá đang rơi
(Những mảnh tàn lá – Phạm Tiến Duật)
Cỏ là dấu hiệu của mùa xuân, sự sống. Bài thơ Mùa xuân đi đón, cỏ
xuất hiện 6 lần, không khổ thơ nào mà không nói đến cỏ: cỏ non, cỏ mềm, cỏ
biếc, cỏ đội bờ… cỏ là không gian yên bình, xoa dịu bàn chân, làm dịu lại sự
căng thẳng của chiến trường, khơi lên tình yêu cuộc sống, gợi nhớ quê hương
trong lòng người lính:
Được màu xanh tắm gội
Lòng rân rân cả lên
(Hữu Thỉnh)
Cỏ là biểu tượng của sức sống vẫn được nảy sinh dù trong chiến tranh
mưa bom ác liệt:
-Vùng chiến trường xưa cỏ đã xanh
Mấy dải đồi hoang cây đã mọc
(Tráng khúc – Nguyễn Đức Mậu)
-Mùa xuân trong cỏ chỉ
Kéo mầm trong nắng soi
(Những tiếng chim xuân – Hữu Thỉnh)
103
Cỏ là những kỉ niệm êm đềm về quê hương yêu dấu của người lính:
Vùng trung du Hùng thường kể tôi nghe
Cỏ may mọc áo mùa thu thuở nhỏ
Cánh ong mật bay vù qua nỗi nhớ
Thả phấn vàng ngọt lịm làn môi
(Tƣởng nhớ số II – Nguyễn Đức Mậu)
Cỏ là hình ảnh cho những khó khăn, gian khổ của người lính trong mỗi
cuộc chiến đấu:
Đây nơi tổ ba người đào hầm
Đất đầy cỏ tranh, lắm gai góc
(Tráng khúc – Nguyễn Đức Mậu)
Thơ Hữu Thỉnh có rất nhiều “cỏ”. Cỏ đặc tính cơ bản là mềm yếu,
hoang dại nhưng có sức sống mãnh liệt, nhà thơ đã mang lại cho “cỏ” nhiều
lớp nghĩa tượng trưng. Ở các tập thơ viết trong kháng chiến, Hữu Thỉnh dùng
nhiều lần biểu tượng cỏ tượng trưng cho những giá trị vĩnh hằng:
Tôi xin làm cỏ ru anh
Trồng cây ơn nghĩa xung quanh hồn người
(Đƣờng tới thành phố)
Cỏ như lòng mẹ ru giấc ngủ ngàn năm bình yên cho những người lính
đã ngã xuống:
-Tấm bia nào trong cỏ vẫn nằm trơ
Ta dừng lại bên nén hương nức nở
(Cây dƣơng xanh – Phạm Tiến Duật)
-Người thương binh lần theo lối cũ
Vào nghĩa trang thăm mộ bạn mình
(Hai ngƣời bạn – Nguyễn Đức Mậu)
-Anh ở vào đồi anh xanh với cỏ
Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình
(Phan Thiết có anh tôi – Hữu Thỉnh)
104
Có thể nói, “cỏ” là biểu tượng cho sự bền bỉ, trường tồn, cho niềm tin
con người trong chiến đấu cũng như trong hòa bình vào những giá trị cuộc
sống. Thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu viết về “cỏ” đã đạt
được những giá trị cao đẹp ấy.
3.2.2.4. Cây súng
Cây súng với mỗi người lính gắn bó máu thịt như những người bạn.
Trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh cây súng
hiện lên thật đẹp, nó tượng trưng cho tâm hồn, tình cảm và ý chí chiến đấu
quật cường của người lính nơi chiến trường.
Cây súng trong tay người lính lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu
ngay cả trong giấc ngủ, “súng” như canh cho giấc ngủ người lính một chút bình yên:
-Súng bên cạnh thâu đêm mắt thức
Ngỏ tâm tình cùng mùi lá cơm xôi
(Giấc ngủ trên đƣờng ra trận – Hữu Thỉnh)
-Chờ diệt thù ngay cả phút bình yên
Người ôm súng, súng bên người cảnh giác
(Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc – Nguyễn Đức Mậu)
Súng cùng người lính hành quân vào trong tuyến lửa Trường Sơn:
Đi giữa những sư đoàn ùn ùn súng pháo
(Chào những đạo quân tuyên truyền – chào những đạo quân nghệ thuật
– Phạm Tiến Duật)
Chiến trường đang gọi đi
Súng hành quân mải miết
(Mùa xuân đi đón – Hữu Thỉnh)
Nơi chiến trường giây phút nào tiếng súng cũng vang lên, cái dữ dội,
khốc liệt của cuộc chiến không giây phút nào ngừng:
Cái mặt bẩn quân thù
Chỗ nào nó cũng nhúng
105
Cả những lúc ngồi câu
Cũng phải cầm cây súng
(Câu cá bên bờ sông Sê Pôn – Hữu Thỉnh)
Súng là bạn của người lính chiến mọi lúc mọi nơi:
-Súng với người ủ trong lòng đất
Trận đánh ngày mai thức dậy với mầm cây
(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)
-Anh chiến sĩ súng quàng vai
Say nhìn chiếc mỏ gại mồi thơ ngây
(Chuyện nhỏ trong rừng – Nguyễn Đức Mậu)
Súng như tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường
hành quân gian lao, vất vả:
Qua một chặng đường dài
Chính khẩu súng đã làm ta tươi tốt
(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)
Súng là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần chiến đấu quật cường của
những người lính nơi chiến trường mưa bom, đạn nổ, gian khổ và hi sinh:
-Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện
(Trƣớc mặt là Tổ quốc – Hữu Thỉnh)
-Súng to, súng nhỏ dồn thêm đạn
Đánh lặn trăng đêm lại tiếp ngày
(Tráng khúc – Nguyễn Đức Mậu)
Hình ảnh của cây súng còn tượng trưng cho những mất mát, hi sinh
trong chiến tranh:
Tôi đã thấy có lần ông khóc
Khi lặng nhìn cáng tử sĩ đi qua
Một trận đánh hụt hai mươi tay súng
(Một chiến binh già – Nguyễn Đức Mậu)
106
Biểu tượng cây súng là biểu tượng chiến đấu và mang tầm khái quát
cao, nơi chiến trường gian khổ cây súng cũng như những người lính: hành
quân, chiến đấu, dũng cảm, hi sinh… Bằng những trải nghiệm đời mình, Phạm
Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã cho chúng ta thấy hình ảnh cây
súng đẹp hào hùng đến như thế, cái đẹp ấy không phải thơ ca giai đoạn nào cũng
khắc họa được.
3.2.2.5. Cánh rừng
Rừng với những người lính trong những năm tháng chiến đấu chính là ngôi
nhà thứ hai. Trong thơ ba nhà thơ chiến sĩ, rừng hiện lên với rất nhiều cung bậc cảm
xúc. Hình ảnh rừng trở đi trở lại trong mỗi trang thơ viết về chiến tranh của các anh.
Mỗi cánh rừng già là mỗi bước chân người lính đi qua, với biết bao gắn bó:
-Mười năm ta ở rừng
Mười năm đi đánh giặc
(Nhớ về lũ trẻ - Phạm Tiến Duật)
-Ta đi trong rừng suốt một thời trai trẻ
Đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng
(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)
-Mười năm sống với rừng sâu
Áo xanh màu lá bạn bầu cùng cây
(Khúc rừng – Nguyễn Đức Mậu)
-Chúng ta lên rừng mười tám đôi mươi
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Những năm tháng đi chiến đấu người lính gắn bó với rừng như nhà,
như người thân. Ở rừng người lính cũng sống và sinh hoạt với bao khó khăn,
gian khổ nhưng luôn toát lên tinh thần lạc quan:
-Muỗi bay tối một góc rừng
(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)
107
Những năm tháng ở rừng mấy ai không sốt rét
Nhìn vào mắt nhau thấy rừng núi hiện hình
Cây ký ninh mọc dọc đường chiến dịch
Cơn sốt quây quần nhóm lửa suốt rừng hoang
(Nhật ký sau cơn sốt – Nguyễn Đức Mậu)
-Ngủ giường vẫn chỉ giường thôi
Ngủ đất mới thật là nôi của rừng
(Ngủ rừng – Phạm Tiến Duật)
Rừng cũng có những phút giây được bình yên như những phút giây
bình yên của người lính sau mỗi trận đánh nhiều đau thương:
Gần ba triệu dân Lào có bao nhiêu em bé?
Ôi cánh rừng chiều nay rất đỗi yên lành
(Theo bƣớc chân của trẻ em Lào – Phạm Tiến Duật)
Rừng trong nỗi nhớ của người lính với những nỗi nhớ rất riêng tư:
Mùi khói thuốc rừng bay
Chiều nay vùng dậy nhớ
Nhớ ai như nhớ đất rừng
(Một nét Tây Nguyên – Phạm Tiến Duật)
Rừng không chỉ là nhà của người lính mà còn là ngôi nhà chở che
những em bé mồ côi đáng thương, cha mẹ các em bị bom đạn giết chết, đến
với rừng các em như tìm lại được cuộc sống:
Giặc tàn sát buôn làng và các em bé chạy
Những đứa trẻ mồ côi lạc giữa rừng già.
(Gửi các em bé ở trƣờng văn hóa Tây Nguyên ngày trƣớc – Phạm Tiến Duật)
Hình ảnh rừng cứ trở đi trở lại trong ký ức người lính như nỗi đau nhức
nhối về những mất mát, hi sinh của người lính khi trở về sau cuộc chiến, cuộc
sống mới như đang được hồi sinh mỗi ngày:
108
Chúng con đã về từ cánh rừng sâu
Áo quân phục sạm màu gió nắng
(Thi khúc thành Huế - Nguyễn Đức Mậu)
Bao năm trực tiếp sống và cầm súng trên đường Trường Sơn rực lửa,
các anh đã đưa thẳng hiện thực những năm tháng sống ở rừng vào thơ mình,
giúp người đọc thấy được sự thiếu thốn, gian khổ, tàn khốc, dữ dội của chiến
tranh, đồng thời các anh cũng tập trung khắc họa chân dung của thế hệ mình.
Với những chi tiết cụ thể, nhỏ bé, chân thực mà giàu khái quát, các anh đã ghi
lại khí thế ra trận hào hùng của cả dân tộc trong thời kỳ đất nước đang sục sôi
đánh Mỹ.
3.2.2.6. Máu
Đất nước đằng đẵng bao năm gian khó, đế quốc Mỹ ra sức tàn phá Tổ
quốc ta. Dân tộc ta đã tồn tại từ ngàn đời không thể rơi vào tay giặc, tất cả tạo
thành một khối thống nhất nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. Mỗi con
người đều sống vì nhau, vì mục đích cao cả thiêng liêng là giải phóng quê
hương, đất nước. Để đi đến được ngày thống nhất toàn vẹn ấy cả dân tộc ta đã
hi sinh xương máu không biết bao nhiêu mà kể. Có bao người lính đã ngã
xuống cho mảnh đất quê hương được hồi sinh.
Máu là biểu tượng cho những hi sinh anh dũng của người lính. Họ đã
chiến đấu với lòng dũng cảm và ý chí quật cường, mỗi người lính ngã xuống
là một bức tượng đài về các anh. Sống hiên ngang, chết ngẩng cao đầu. Mỗi
con đường, mỗi mảnh đất quê hương nhuộm đỏ máu người lính:
-Bàn chân bợt da non, máu ứa
Đã mấy mùa mưa đi khắp lối mòn
(Điệp khúc một con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)
-Loe ánh lửa,
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa
(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)
109
Đó là nỗi xót xa, đau nhức của người lính về mỗi mảnh đất quê hương
đang ngày đêm chảy máu:
Giặc Mỹ vẫn hình hài giặc Mỹ
Ôi miền Nam, bao đồng chí đồng bào
Có thể nào yên, có thể nào
Có thể nào quên vết thương đang chảy máu
(Trƣớc mùa xuân – điều tôi muốn nói – Phạm Tiến Duật)
Trong gian khổ và hi sinh ấy, những người lính vẫn sống chết vì nhau,
tiếp máu cho đồng đội:
Những người cho máu
Là những người gầy xanh vì sốt rét
(Tiếp máu – Phạm Tiến Duật)
Mỗi người đồng đội ngã xuống, người lính đau đớn như chính thân thể
của mình. Tình đồng đội gắn bó, yêu thương như ruột thịt, luôn day dứt khôn
nguôi. Máu của đồng đội đã trở thành nỗi ám ảnh trong mỗi vần thơ các anh:
-Vết trọng thương không cứu được rồi
Chúng tôi chôn anh, chôn cả những giọt máu mình ở đó
(Tiếp máu – Phạm Tiến Duật)
-Máu Bường ướt đầm vết thương giập nát
Tôi vội xé quần, xé áo làm băng
Dòng máu thấm vào tôi cùng tiếng rên nhức nhối
(Đêm thành Cổ năm 1972 – Nguyễn Đức Mậu)
Chiến tranh là đau thương, máu đổ. Trong ký ức của các anh, những cái
chết của đồng đội, sự mất mát, những kỷ niệm chiến trường là những ký ức
không nguôi ngoai. Bằng việc khắc họa biểu tượng máu, các anh đã phần nào
mang đến cho chúng ta cái nhìn về chiến tranh chân thực hơn, từ đó ta thêm
110
yêu, thêm trân trọng từng mảnh đất quê hương mà những người lính đã hi
sinh cả tuổi trẻ, cuộc đời và tính mạng của mình để giữ lấy.
Bằng cảm xúc trữ tình mãnh liệt và khả năng tổng hợp khái quát cao,
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã tạo nên một hệ thống hình
ảnh biểu tượng phong phú. Xây dựng hệ thống biểu tượng đó như là biểu
tượng cho Tổ quốc, đất nước – biểu tượng vừa gần gũi, thân thương và biết
bao hùng vĩ, đó là tài năng, và sâu xa hơn đó là tình cảm gắn bó máu thịt, là
tình yêu thiết tha, sâu sắc nhất của các anh với quê hương, đất nước.
3.3. Ngôn ngữ
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki). Ngôn ngữ là
công cụ trực tiếp của tư duy. Ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên, không thể thiếu
của những sáng tác văn chương. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn học là
ngôn ngữ của nhân dân được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của
các nhà văn nên ngoài tính nhân dân, ngôn ngữ còn mang dấu ấn chủ quan
của nhà văn. Tuy nhiên, dù cùng là ngôn ngữ nghệ thuật nhưng ngôn ngữ thơ
và ngôn ngữ văn xuôi có những đặc trưng khác nhau. Trong thơ ngôn ngữ có
những đòi hỏi khắt khe riêng, hàm súc, gợi tả, giàu nhạc điệu, giàu liên tưởng…
Ngôn ngữ thơ được đánh giá là ngôn ngữ tiêu biểu nhất của ngôn ngữ văn học
bởi những thuộc tính ấy tập trung cao độ với yêu cầu cao nhất của thơ ca.
Về mặt ngôn ngữ, thơ của thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ có nhiều tìm tòi
và sáng tạo. Các nhà thơ trẻ có ý thức giữ lại cho thơ chất thi vị riêng của
ngôn ngữ chọn lọc và giàu cảm xúc. Mặt khác, thơ cũng được tăng cường
nhiều chất liệu ngôn ngữ mới, tạo nên sắc thái tươi mới và gần gũi với đời
sống thực tế hơn.
Ngôn ngữ của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ nói chung, thơ Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu nói riêng nằm trong khuynh hướng
chung của nền thơ hiện đại Việt Nam – đưa ngôn ngữ thơ trở về gần với ngôn
ngữ đời sống, như nhà thơ Chế Lan Viên đã nói:
111
Xưa tôi hát mà nay tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
(Nghĩ về thơ)
Là những gương mặt tiêu biểu của thơ ca thời chống Mỹ, ngôn ngữ
thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu vừa nằm trong dòng
chảy chung vừa mang những đặc điểm riêng, thể hiện phong cách cá tính
của tác giả.
3.3.1. Ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, giàu chất hiện thực đời sống
Nhằm khám phá, thể hiện đời sống ở nhiều góc độ, nhiều phương diện
khác nhau, đặc biệt là để phản ánh được hiện thực phóng phú, đa dạng, phức
tạp của đời sống chiến trường, ba nhà thơ chiến sĩ đã mở rộng cánh cửa để
cho ngôn ngữ hàng ngày, ngôn ngữ đời sống ùa vào thơ mình. Ngôn ngữ thơ
các anh giản dị, mộc mạc, tự nhiên, gần với đời sống, gần với lời nói thường
ngày. Yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi được tăng cường trong các sáng
tác chính là một minh chứng cụ thể của mối liên hệ mật thiết giữa thi ca
và cuộc sống.
Phạm Tiến Duật đưa nhiều khẩu ngữ, nhiều từ ngữ của phong cách sinh
hoạt vào thơ mình. Bởi vậy, thơ anh có được cái hơi thở nồng nàn của cuộc
sống, tạo nên không khí cởi mở, tâm tình. Nó còn làm cho ngôn ngữ thơ trở
nên sinh động, hấp dẫn, có khi còn là điểm nhấn của câu thơ, bài thơ đó.
Người đọc có thể hình dung ra cái “ngang ngang”, hồn nhiên, tinh nghịch của
người lính qua những câu thơ:
-Không có kính không phải vì xe không có kính
-Không có kính ừ thì có bụi
-Không có kính ừ thì ướt áo
-Cái vết thương xoàng mà đưa viện…
Đó là những câu thơ mang chất liệu của khẩu ngữ tự nhiên mà không
thô bởi nó được kết nối chặt chẽ theo một tư tưởng chủ đạo của tác giả. Nhờ
112
cách chọn lọc hình ảnh, cách lập tứ thơ nên những câu thơ ấy đã chuyển hóa
thành ngôn ngữ thi ca thực sự. Đằng sau những lời nói bình thường ấy là cái đẹp
của sự dũng cảm, điềm tĩnh, dám chấp nhận mọi khó khăn, gian khổ của người
lính lái xe.
Cuộc sống chiến trường bề bộn, ngổn ngang chỉ có thể sống dậy một
cách cụ thể, sinh động trong những câu thơ mộc mạc như thế này:
-Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi em có lấy măng không?
-Náo nức hành quân đường dài vui nhỉ
(Phạm Tiến Duật)
Những từ ngữ, quán ngữ, khẩu ngữ vốn được sử dụng trong cuộc sống
hàng ngày (như: hơi, đã, cứ, mà, thì, là, ừ, ơi, có lẽ nào, chẳng có gì, vì thế,
hóa ra…) xuất hiện rất nhiều trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn
Đức Mậu. Đặt những từ ngữ ấy vào đúng vị trí cần thiết nên ngôn ngữ sinh
hoạt đã biến thành ngôn ngữ thơ ca, đem lại những sắc thái thẩm mỹ riêng
cho mỗi tác phẩm:
-Vẫn ngỡ tiếng mưa, giật mình thức dậy
Hóa ra là giọng hò em đấy.
(Nghe hò đêm bốc vác – Phạm Tiến Duật)
-Hùng ơi, ,ai gió mùa đông bắc
Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng
…
Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm
Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá
(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)
Những cô thanh niên xung phong cũng được hiện lên thật ấn tượng qua
từng giọng nói, nụ cười:
113
-Cái miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn
Giọng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để
-Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn…
Hay khi nhà thơ muốn bộc lộ tình cảm trìu mến, gần gũi, thân thiết với đối
tượng được miêu tả: những người đồng đội, “những người con gái ở rừng”:
-Buồn cười mất ngủ mấy đêm
Nào ngờ đi hái thuốc
Em lội suối thế nào mà ống quần rách mướp
Em trèo núi thế nào mà xước cả da tay
(Lá lạc tiên – Phạm Tiến Duật)
-Em thấy không?
Trước em, anh vụng về
Giờ thành ra khôn khéo
(Ý nghĩ không vần – Hữu Thỉnh)
Là nhà thơ – người lính sống và viết giữa chiến trường nên ngôn ngữ
thơ các anh còn mang đậm chất lính – thể hiện rõ sự khỏe khoắn, thô nhám và
cũng rất tự nhiên. Các anh đưa vào thơ mình mọi tên gọi thông thường của vật
liệu, kỹ thuật công tác ngổn ngang ngoài mặt trận, làm cho thơ các anh bật ra
tự nhiên, không mất công sức gọt rũa:
-Hòm đạn ngả xuống vai người bốc vác
Xe pháo ì ầm
Xẻng cuốc thức thâu đêm
Cần ăng – ten lẫn vào cây cỏ
Máy bộ đàm phát sóng truyền tin
(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
-Thừa thãi ống bom bi, thùng rốc két
Thả sức cưa làm cốc, làm ca…
(Tiếng cƣời của đồng chí coi kho – Phạm Tiến Duật)
114
Nhiều câu thơ như còn giữ được chất nguyên sơ, tươi ròng của cuộc sống:
Nào cuốc, nào choòng, xoong nồi xủng xoảng
(Gửi em cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật)
Ngôn ngữ đời thường giản dị, tự nhiên còn biểu hiện qua sự gia tăng
chất văn xuôi trong ngôn ngữ thơ. Nó đưa thơ ca đến gần với đời sống hơn,
tạo nên những sắc thái tươi mới cho tác phẩm. Thơ cuả ba nhà thơ chiến sĩ có
nhiều câu mấp mé, “là là” văn xuôi nhưng nó vẫn ở bên này danh giới của
thơ, vẫn thiết tha sâu lắng với bao nhiêu ý tình. Câu thơ của các anh được tổ
chức dưới dạng điệu nói, dưới hình thức câu trần thuật, câu đối thoại.
Thế kỷ 20 già đi cùng viên đạn gỉ
Thế kỷ mới còn đang cởi truồng đánh đáo ở đằng kia
(Gửi các em ở sân bay Tà Cơn – Phạm Tiến Duật)
-Tư lệnh nói: Nếu phải vứt thì phải vứt quần áo chứ cấm ai vứt chỉ
Tư lệnh nói: Một nắm cỏ ngụy trang có thể làm người đào hầm bị chết
Tư lệnh nói: Một đại đội thám báo dò đường không tinh bằng viên
thuốc đánh rơi
(Văn xuôi một ngƣời lính – Hữu Thỉnh)
-Bom tọa độ!
-Cậu bám vào vai tớ!
-Khẩu súng mày đâu?
-Nước cuốn rồi…
Sóng òa theo hòng nuốt lấy lời
(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
Yếu tố đời thường, yếu tố tự sự, chất văn xuôi đã xâm nhập vào thơ,
góp phần phản ánh hiện thực đời sống chiến đấu thời kháng chiến một cách
sinh động, gần gũi. Nhìn vào ngôn ngữ thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
ta dễ dàng nhận ra ngôn ngữ cởi mở, tự nhiên, tinh nghịch của Phạm Tiến
Duật, ngôn ngữ đằm thắm, thiết tha, lắng sâu của Hữu Thỉnh, ngôn ngữ giản
115
dị, mộc mạc, chân thành và chan chứa của Nguyễn Đức Mậu. Sử dụng thứ
chất liệu có nhiều ưu thế này, các anh đã tạo dựng được cho mình một phong
cách với những cách nói riêng, bằng cách đó thơ các anh đã đi tạo ấn tượng
khó quên và tình cảm sâu lắng đối với bạn đọc.
3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất trí tuệ, chính luận
Tăng cường chất trí tuệ, chính luận trong thơ là một đòi hỏi của thời đại chống
Mỹ. Cuộc chiến đấu không cân sức với một kẻ thù hung bạo nhất của thời đại đã đặt ra
cho dân tộc ta những vấn đề trọng đại, cấp thiết. Một nền thơ thoát thai trong một hoàn
cảnh lịch sử đặc biệt ấy cũng không chỉ bằng lòng với việc thể hiện cảm xúc, tình cảm
của con tim nữa mà còn hướng tới tiếng nói trí tuệ của bộ óc căng thẳng những suy tư.
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu cũng như các nhà thơ trẻ thời kỳ
chống Mỹ không chỉ dừng lại ở việc miêu tả, trình bày mà còn có ý thức khám phá,
phát hiện, bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc của mình về con người và cuộc sống, về dân
tộc và thời đại. Nói như Chế Lan Viên là “phát giác sự vật ở những bề chưa thấy ở cái
bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa”. Thơ muốn vươn tới khả năng nhận thức lý tính các
vấn đề của đất nước và dân tộc… So với thời kỳ chống Pháp, đây là một nét mới, một
bước tiến của thơ chống Mỹ. Khát vọng muốn trả lời câu hỏi lớn của thời đại, khám
phá bản chất của con người và cuộc sống đã tạo nên chất trí tuệ cho cả một nền thơ.
Trong xu thế chung ấy, thơ của ba nhà thơ chiến sĩ cũng cất lên tiếng nói trí tuệ mang
sắc thái riêng của thế hệ mình.
Ở những bài thơ thành công, thơ trẻ không hề bồng bột mà thường lắng đọng
trong những suy tư. Ấy là những suy tư già dặn, sâu sắc trong thơ Nguyễn Đức Mậu:
Trời Điện Biên cao xanh
Cuộc đời anh viết lên vòm mây trắng
Anh nằm đây không hào quang, không dáng tượng
Cánh chim bay về chốn vô cùng
Có thể tuổi hai mươi, tuổi ba mươi, trái tim trẻ trung nối vào ngực đất
Có thể người vợ xa chồng hóa đá nỗi chờ mong
116
Ba mươi năm… hoa cứ nở trắng rừng
Một phần hoa nở cho người ngã xuống.
(Một chiến sĩ vô danh – Nguyễn Đức Mậu)
Ấy là những suy nghĩ sâu xa về người lính sau cuộc chiến. Có khi từ
những chi tiết, hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đời thường, thơ Phạm Tiến
Duật đã đem đến cho chúng ta những suy nghĩ sâu sắc, đầy bất ngờ:
Nhưng tôi biết các anh,
Những mảnh vỡ của trái đất
Những tảng phù sa bứng từ sông lên
Những tảng đá vỡ ra từ núi đá
Chỉ khác chăng là trong bụng đói mèm
(Chợ lao động ở Giảng Võ – Phạm Tiến Duật)
Chất trí tuệ và chính luận trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Đức Mậu cũng như thơ thời kỳ chống Mỹ mang đậm sắc thái riêng
của cái tôi - thế hệ. Đó là cái tôi tự bộc lộ mình, đại diện cho thế hệ mình –
thế hệ những người trẻ tuổi (chủ yếu là những người lính) đang tôi luyện
trong ngọn lửa của chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách, tự
nguyện đem máu xương của mình để bảo vệ quê hương, đất nước.
Ba nhà thơ chiến sĩ đã rọi vào hiện thực chiến trường những ánh sáng
tư tưởng, bắt chi tiết, hình ảnh hiện thực nói lên ý nghĩa sâu xa của nó. Trong
Trƣờng ca Biển, Hữu Thỉnh đã trăn trở về nỗi vất vả của người lính đảo ngay
trong thời bình:
Đời bao nhiêu trớ trêu mà đêm còn quá rộng
Đêm như là vắt kiệt các vì sao
Chúng tôi là lính đảo thời bình
Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất
117
Chất trí tuệ, chính luận không phải là một nét riêng của thơ trẻ mà là một đặc
điểm chung của thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Tăng cường chất trí tuệ, chính
luận là khuynh hướng chung của cả nền thơ hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, chất suy
nghĩ, chính luận trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu vẫn có
sắc thái riêng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của mình. Đó là chất suy nghĩ, chính luận
được nảy sinh từ hiện thực đời sống của đất nước trong những năm tháng chiến
tranh, đặc biệt là từ hiện thực gian khổ, ác liệt của đời sống chiến trường thông qua
sự trải nghiệm sâu sắc của cái tôi thế hệ của ba nhà thơ chiến sĩ. Với chất trí tuệ,
chính luận này, chân dung tinh thần của thế hệ trẻ cầm súng thời kỳ chống Mỹ hiện
lên như những con người giàu có những suy tư, đầy tinh thần trách nhiệm đối với
nhân dân, đất nước.
3.4. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ
Trong thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, ta bắt gặp những thủ pháp tu từ truyền
thống được sử dụng theo kiểu tư duy hiện đại. Với những phương thức tu từ này,
các nhà thơ trẻ đã khai thác có hiệu quả khả năng thể hiện cảm xúc, tình cảm cũng
như phản ánh đời sống hiện thực phong phú, phức tạp của ngôn ngữ thơ ca, đồng
thời tạo được sự bất ngờ, thú vị đối với người đọc. Những trang thơ trẻ mở ra trước
mắt người đọc những liên tưởng đằm thắm mà biết bao thú vị. Thơ kháng chiến
chống Mỹ của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu cũng nằm trong
dòng chảy chung ấy.
Trong thơ Nguyễn Đức Mậu mở ra trước mắt người đọc những liên
tưởng rất độc đáo:
Đất phẫn nộ ném lên trời trăm tiếng nổ
Đất rung nghiêng ngả cây rừng
Đồng đội nhìn mắt nhau gặp đất
Có sấm sét và một vùng chớp giật…
Nhưng cứ đêm đêm những phút giây bình yên
118
Đất cười nói, đất phập phồng ca hát
Đất bồng bế chúng tôi trong chiếc nôi êm
Đất nắm ngủ như cuộc đời rất thực
(Đất)
Để khai thác sức gợi cảm của ngôn từ, Phạm Tiến Duật tạo ra sự kết hợp
trùng điệp về âm thanh, từ ngữ nhằm làm nổi bật cảm xúc, suy nghĩ trong thơ.
Ta gặp rất nhiều điệp từ, điệp ngữ được anh sử dụng một cách hiệu quả:
-Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
-Anh đa đi rất nhiều, rất nhiều
-Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
-Thương em, thương em, thương em biết mấy
(Gửi em, cô thanh niên xung phong)
-Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già
(Cô bộ đội ấy đi rồi)
-Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa
Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa
(Nghe em hát trong rừng) Phạm Tiến Duật còn dùng lối nói đưa đẩy theo lối hát giao duyên trong những
làn điệu dân ca nhằm tăng sức biểu cảm uyển chuyển, mềm mại cho lời thơ:
Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi
Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói
Bông hoa làm duyên phải lụy hương bay
(Lửa đèn)
Là một nhà thơ luôn có ý thức khám phá hiện thực và sáng tạo nét mới,
Hữu Thỉnh không chỉ dừng lại ở việc học tập từ tinh hoa ngôn ngữ dân tộc mà
anh còn là người rất có ý thức trong việc tạo ra ngôn ngữ lạ, độc đáo. Nó
khiến người đọc ngỡ ngàng và bị lôi cuốn vào những câu thơ đầy sức mạnh
liên tưởng với khả năng tạo sức mạnh biểu hiện trực tiếp, kích thích rất mạnh
vào mọi giác quan và óc tưởng tượng: đoạn đường nóng bỏng, sông xanh màu
119
vai áo, tiếng chim hồi hộp giữa trời, vầng trăng cuối tháng mới quăng lên,
chiều lưỡi hái, trăng non múi bưởi, suối trong trẻo rung muôn điệp khúc, cánh
chim năm ngoái, thu mới chập chờn thu, điệp khúc mùa màng, búi tóc cao
hơn chịu thương chịu khó, hi vọng bời bời, cánh diều nhỏ cô đơn, cuống rạ bơ
vơ, những nụ cười vành mũ sáng trưng, những ban mai dang dở, mặt trời cháy
một niềm mong mỏi, tình yêu cường tráng và dai dẳng, những cánh đồng sủi
tăm phù sa, thử thách bạc màu, cây cỏ cũng ra tù…
Bên cạnh việc tái tạo những thủ pháp tu từ theo lối tư duy hiện đại,
Phạm Tiến Duật còn vận dụng kiểu tư duy liên tưởng – chuyển đổi cảm giác,
chuyển đổi ấn tượng – để sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh thơ, nó mở rộng ý
nghĩa đặc trưng của sự vật, tạo nên những bất ngờ trong mối liên tưởng, vừa
đổi mới ngôn ngữ lại vừa đổi mới về hình tượng và cảm xúc thơ. Bài thơ
Nghe hò đêm bốc vác đem lại cho người đọc một sự bất ngờ, bất ngờ bởi nhà
thơ “lạ hóa” cách diễn đạt, có sự liên tưởng độc đáo tạo nên những cảm giác
mới lạ và hết sức thú vị:
Đang thiu thiu ngủ trong nắng gió Lào
Bỗng một giọt nước rơi vào cổ anh
Vẫn ngỡ tiếng mưa, giật mình thức dậy
Hóa ra là giọng hò em đấy
(Nghe hò đêm bốc vác)
Hữu Thỉnh đã tạo được sự kết hợp giữa cái hữu hình và cái vô hình,
giữa thực và ảo, giữa giản dị và huyền diệu, đập mạnh vào giác quan, mở
rộng chân trời liên tưởng, tưởng tượng:
Gió chùng chình qua ngõ
Dường như thu đã về
(Sang thu)
120
Trong thơ của mình, Nguyễn Đức Mậu sử dụng nghệ thuật liên tưởng
để chuyển hóa, liên kết ý thơ và liên kết toàn bộ các phần. Liên tưởng giúp
anh tạo được sự phong phú trong các hình tượng thơ đặc biệt là trong Trƣờng ca
sƣ đoàn. Liên tưởng giúp kết cấu của trường ca thêm chặt chẽ, các hình tượng thơ
rời rạc tưởng chừng không liên quan có thể gắn bó lại với nhau. Trƣờng ca sƣ
đoàn của Nguyễn Đức Mậu có đường dây liên tưởng dựa vào lịch sử có thật của
sư đoàn. Từ đó chúng ta thấy rõ hơn tầm vóc của đất nước, của người lính trong
suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Để rồi người lính hiểu rằng:
Đất nước trải đắng cay cơ cực
Người cho tôi biết mấy ngọt lành
Ở những bài thơ sáng tác trong thời bình, Nguyễn Đức Mậu đã tái hiện
lại cuộc chiến tranh, trí tưởng tượng đưa anh về với quá khứ. Giữa một không
gian thực ở hiện tại và một không gian tưởng tượng trong quá khứ, nhà thơ
liên tưởng để từ đó cảm xúc được khơi sâu thêm:
Đêm giao thừa bom trải dày điểm chốt
Mười hai lính trẻ hi sinh
Cành hoa đón xuân thành cành hoa tưởng niệm
Như mây xót hoa rơi trên mồ bạn
Cả rừng Lào lã chã hoa rơi
(Kỷ niệm hoa đào – Nguyễn Đức Mậu)
Có thể nói, ba nhà thơ chiến sĩ không thể duy trì cảm xúc cho thơ của
mình nếu không tạo được phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh
thơ. Bằng khả năng làm chủ ngôn ngữ, sử dụng khéo léo, linh hoạt hàng loạt
các biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ…) để xây dựng nên
những câu thơ đầy tính liên tưởng, hàm súc. “Ngôn ngữ thơ ca đòi hỏi sự
chọn lọc chính xác, tinh tế và có sáng tạo. Thông qua sự chọn lựa này nhà thơ
vừa phải tuân thủ một cách đầy đủ những quy tắc của ngôn ngữ đời sống lại
121
vừa thể hiện tính chất chủ động trong sáng tạo” [14, tr.417]. Thơ Phạm Tiến
Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã đáp ứng được những yêu cầu đó.
Ngôn ngữ thơ các anh vừa mang tính chân thực, giản dị, tự nhiên của đời sống
lại vừa mang chiều sâu của sức suy nghĩ, sự tinh tế, tài hoa trong sáng tạo,
những trạng thái rung động của tâm hồn. Các anh đã góp thêm một tiếng nói
mới cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ.
122
PHẦN KẾT LUẬN
1. Có thể thấy rằng văn học giai đoạn kháng chiến chống Mỹ nói chung và
thơ ca giai đoạn này nói riêng đã có những thành quả rực rỡ của một nền thơ ca
cách mạng toàn diện và sâu sắc. Trong sự thành công đó có sự đóng góp một phần
không nhỏ của đội ngũ các nhà thơ - chiến sĩ trong công cuộc xây dựng một nền
thơ kháng chiến phục vụ đắc lực cho văn học cách mạng.
Vận động trong dòng chảy chung, thơ ca kháng chiến chống Mỹ của
cả ba nhà thơ – chiến sĩ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu mang
đặc điểm của thơ ca kháng chiến, hoàn tất sứ mệnh lịch sử của dân tộc. Không
chỉ là người cầm bút trên mặt trận văn hóa, các nhà thơ còn là những người
khoác áo lính, trực tiếp cầm súng chiến đấu, vì vậy thơ ca của họ là minh
chứng hùng hồn cho hào khí thời đại. Sự kết hợp của tâm hồn nghệ sĩ tài hoa
và chất lính trong thơ tạo nên sự phong phú cho diện mạo thơ ca Việt Nam
giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước
không chỉ góp tiếng nói cổ vũ, động viên khích lệ con người trong những năm
tháng đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh mà còn là sự chuyển mình
của đội ngũ sáng tác và chất lượng tác phẩm.
2. Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu là những cây bút
tiêu biểu cho thơ ca chống Mỹ và họ đã khẳng định được chỗ đứng của mình
trong thơ ca Việt Nam thế kỷ XX. Điểm gặp gỡ của họ trước hết là tài năng
và một ý thức công dân sâu sắc trước đất nước, nhân dân. Tài năng thơ ca của
họ phát lộ từ khá sớm và đều nảy nở trong môi trường quân ngũ. Nếu Phạm
Tiến Duật đến với thơ bắt đầu từ những rung động trước sự hùng vĩ, khốc liệt
của Trường Sơn trong mưa bom bão đạn, Hữu Thỉnh bắt đầu từ những rung
động, suy tư về con người trong chiến tranh, thì Nguyễn Đức Mậu lại bắt đầu
từ sự giản dị, mộc mạc, chân thành về con người và cuộc chiến. Nói cách
khác, nếu thơ Phạm Tiến Duật thể hiện cảm hứng sử thi rõ nét thì thơ Hữu
Thỉnh và Nguyễn Đức Mậu lại nghiêng về cảm hứng thế sự đời tư.
123
3. Chiến tranh là đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam, và là đề tài
bao trùm của thơ ca chống Mỹ. Trong bản hợp âm đa thanh nhiều cung bậc
của thơ chống Mỹ, ba nhà thơ – chiến sĩ đã khẳng định được mình trước hết ở
cái nhìn về chiến tranh. Tư tưởng các anh gặp nhau ở nhận thức sâu sắc về ý
nghĩa cao cả, thiêng liêng của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Là những người
lính, trực tiếp đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh, hơn ai hết họ hiểu ý
nghĩa của sự hi sinh và cái giá phải trả của chiến tranh. Họ bước vào cuộc
chiến với tâm thế của những con người được giác ngộ “đi theo ánh lửa từ trái
tim mình”. Chiến tranh với các anh, vì thế không có chỗ cho những yếu đuối,
hèn nhát. Nếu Phạm Tiến Duật luôn phơi phới một niềm tin vào tương lai với
ánh mắt dõi theo đoàn quân điệp trùng ra trận để cảm nhận được cái hào hùng
của cuộc chiến tranh thì Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu lại có xu hướng lắng
lại với những suy tư để nhận ra mình trong lớp người ra trận. Có thể nói, viết
về chiến tranh trong những ngày chống Mỹ, nếu Phạm Tiến Duật thiên về
cảm xúc, nặng về biểu cảm thì Hữu Thỉnh thiên về lý trí, Nguyễn Đức Mậu
nặng về suy tư. Đó là sự khác biệt không khó để nhận biết giữa họ.
4. Phạm Tiến Duật là một cây bút tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ. Anh
viết nhiều thể loại nhưng thành công và để lại dấu ấn sâu đậm nhất là thơ ca.
Cảm xúc sáng tạo của anh được chắt lọc từ hiện thực chiến trường Trường
Sơn. Bởi thế cũng rất tự nhiên, chất liệu hình ảnh trong thơ anh cũng hết sức
quen thuộc với Trường Sơn. Đó là những con đường, những đoàn quân trùng
điệp ra trận, những cánh rừng già, những dòng suối mát và cả những vầng
trăng, quầng lửa, những cơn sốt rét rừng, những tiểu đội xe không kính…
“Nhà thơ của Trường Sơn”, “nhà thơ của con đường huyền thoại”… những
danh xưng ấy về anh phần nào được bắt nguồn từ đó. Với Hữu Thỉnh, chiến
tranh và hòa bình, tình yêu và hạnh phúc, sự sống và cái chết… là những suy
tư của người lính làm thơ như anh. Đó là nỗi niềm, suy tư về cuộc đời, con
người và những khuất lấp phía sau cuộc chiến tranh của nhà thơ. Đó là cái
124
nhìn hiện thực trần trụi, đau đớn, xót xa nhưng cũng đầy yêu thương, hi vọng.
Vì thế, thơ chiến tranh của Hữu Thỉnh giàu cảm xúc và suy tư. Bên cạnh đó,
thơ Nguyễn Đức Mậu từ những vần thơ tươi xanh của người ra trận với tâm
hồn lạc quan, tươi sáng của người lính giữa hiện thực chiến trường đầy bom
đạn đến những vần thơ đầy khắc khoải của ký ức chiến tranh đều sống động.
Đọc thơ Nguyễn Đức Mậu, hiện thực chiến tranh hiển hiện trong từng trang,
từng bài với những hình ảnh “ra trận”, “sư đoàn”,… những người lính lấm
lem mà nụ cười tràn lạc quan, ánh mắt đầy tin cậy,… có cả những tận cùng
của mất mát hi sinh,… Tất cả được ghi lại bằng một giọng thơ chân thành, sâu
lắng yêu thương, được chắt chiu từ một tâm hồn giàu rung cảm, giàu suy
ngẫm và trải nghiệm.
Là những nhà thơ tài năng, lại được trang bị một hành trang tri thức khá dày
dặn, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã thể hiện một năng lực sáng
tạo dồi dào, đề tài chiến tranh trong thơ các anh vì thế được thể hiện vừa mang tính
chất bao quát, vừa mang tính chất cụ thể, vừa hiện thực lại vừa hào hùng.
5. Chiến tranh đã đi qua, chúng ta đã có độ lùi thời gian cần thiết để
bàn về hôm qua, về những năm tháng chiến tranh hào hùng mà khốc liệt.
Nhiều vấn đề được nhận thức lại trong đó có thơ ca. Việc sưu tầm và xuất bản
nhiều bài thơ chưa được công bố trước đây của ba nhà thơ đã phần nào giúp ta
có một cái nhìn thỏa đáng hơn về cách nhìn, cách nghĩ của các anh khi bước
vào cuộc chiến. Tôi muốn mượn lời của nhà thơ Phạm Tiến Duật để kết thúc
cho luận văn của mình: “Ở bất cứ thời kỳ nào và bất kỳ ở đâu, văn học viết về
chiến tranh luôn dựng đứng một khối sáng in đậm vào trí nhớ của người
đương thời và hậu thế” [8, tr.225]. Những kết quả mà luận văn làm được còn
hết sức khiêm tốn. Tuy nhiên có nhiều vấn đề đã được gợi mở từ những kết
quả nghiên cứu bước đầu về đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật,
Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Chúng tôi hi vọng được trở lại vấn đề này ở
một phạm vi khảo sát quy mô hơn, có chiều sâu hơn.
125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristote. Nghệ thuật thơ ca. NXB Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 1964.
2. Vũ Tuấn Anh. Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1975. NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1997.
3. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐHQG, Hà Nội, 2004.
4. Ngô Vĩnh Bình. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Tạp chí Nhà văn, 12.2001
5. Phạm Quốc Ca. Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000. NXB Hội
nhà văn, Hà Nội, 2003.
6. Nguyễn Phan Cảnh. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2001.
7. Phạm Tiến Duật. Tuyển tập thơ một chặng đường. NXB Quân đội, Hà
Nội, 1994.
8. Phạm Tiến Duật. Vừa làm vừa nghĩ. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1996.
9. Hữu Đạt. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1996.
10. Nguyễn Đăng Điệp. Giọng điệu trong thơ trữ tình. NXB Văn học, Hà
Nội, 2002.
11. Hà Minh Đức (chủ biên). Lý luận văn học. NXB Giáo Dục, 1999.
12. Hà Minh Đức. Một thế kỷ thơ Việt Nam (1900 – 2000). NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2012.
13. Hà Minh Đức. Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại. NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
14. Vu Gia. Người đánh rơi kỷ niệm dọc đường. Báo Sài Gòn Giải Phóng
15. Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1972 – 1973 (Ban chung khảo),
Văn nghệ số 10, 1973.
16. Nguyễn Văn Hạnh. Chuyện văn chuyện đời. NXB Giáo Dục, TPHCM, 2004.
17. Trần Mạnh Hảo. Nguyễn Đức Mậu – cuộc chiến tranh chưa kết thúc.
Văn hóa văn nghệ công an số 12, 1998.
126
18. Trần Mạnh Hảo. Thư mùa đông của Hữu Thỉnh. Tạp chí Văn nghệ quân
đội tháng 4 năm 1996.
19. Lưu Hiệp. Tinh hoa lý luận cổ điển Trung Hoa. NXB Văn hóa thông tin,
1997.
20. Iu.M.Lotman. Cấu trúc văn bản nghệ thuật. NXB ĐHQG, Hà Nội.
21. Jean Chevalier và Aliem Geerbrant. Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới. NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, 1997.
22. Phạm Khải. Người gặp trong ngày thơ đọc trong đêm - Phê bình chân
dung văn học. NXB Văn học, 1992.
23. Lê Đình Kỵ. Nhận diện thơ sau cách mạng tháng Tám. Tạp chí Văn
nghệ, số 35, 1995.
24. Đỗ Trung Lai (chủ biên), Phạm Sông Hồng, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn
Văn Long. Phạm Tiến Duật toàn tập. NXB Hội nhà văn, 2009.
25. Mã Giang Lân (2002). Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. NXB Giáo
Dục, Hà Nội.
26. Mã Giang Lân. Thơ hình thành và tiếp nhận. NXB ĐHQG, Hà Nội, 2004.
27. Nguyễn Văn Long. Hướng đi của một số nhà thơ trẻ. Tạp chí Văn nghệ,
số 531, 1973.
28. Nguyễn Đăng Mạnh. Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.
NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1999.
29. Phan Ngọc. Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ. NXB Trẻ, TPHCM,
2002.
30. Phạm Xuân Nguyên. Lưu Quang Vũ, di cảo thơ. Viện văn học, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 8, 2008.
31. Lê Lưu Oanh. Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990. NXB ĐHQG, Hà
Nội, 1998.
32. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002). Thơ Việt
Nam hiện đại. NXB Lao Động, Hà Nội.
127
33. Vũ Quần Phương. Một số đóng góp của thơ Quân đội và thơ Việt Nam: Sự
đổi mới thi liệu, xu hướng tiếp cận đời sống. Tạp chí Văn học, số 6,
1979.
34. Trần Đình Sử. Những thế giới nghệ thuật thơ. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000.
35. Nguyễn Bá Thành. Tư duy thơ hiện đại Việt Nam. NXB QGHN, Hà
Nội, 2012.
36. Hữu Thỉnh. Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến.
Tạp chí Văn học, số 2, 2000.
37. Trần Thị Thắng. Tạp chí Văn học tháng 09, 2010.
38. Lưu Khánh Thơ (2005). Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện
đại. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Lưu Khánh Thơ (2003). Thơ năm 1992. Tạp chí Văn học, số 2
40. Lý Hoài Thu. Thơ Hữu Thỉnh – một hướng tìm tòi và sáng tạo từ truyền
thống đến hiện đại. Tạp chí sông Hương, số 142, tháng 12 năm 2000.
41. Hoàng Trung Thông (chủ biên). Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước.
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.
42. Vũ Duy Thông. Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975.
NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000.
128
i