ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------

NGUYỄN THỊ ĐIỆP

ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT,

HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------

NGUYỄN THỊ ĐIỆP

ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT,

HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU

(TỪ 1965 ĐẾN NAY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.01.21

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ

HÀ NỘI – 2014

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Văn học đã tạo

điều kiện cho em hoàn thành tốt khóa học.

Em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lưu

Khánh Thơ. Cô đã định hướng đề tài, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động

viên em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Gia đình, Tập thể lớp Cao học Văn khóa

2011 - 2014, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành

luận văn.

Hà Nội, ngày 26 tháng 06 năm 2014

Người viết

Nguyễn Thị Điệp

i

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... i

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3

2.1. Phạm Tiến Duật .......................................................................................... 4

2.2. Hữu Thỉnh .................................................................................................. 7

2.3. Nguyễn Đức Mậu ....................................................................................... 8

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10

3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 10

3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 10

4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 11

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 11

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 12

7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 12

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 13

CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ CHỐNG MỸ VÀ

SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ NHÀ THƠ TRẺ CHỐNG MỸ ............... 13

1.1. Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ .................................................... 13

1.2. Thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ ............................................................. 16

1.2.1. Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước ........................... 16

1.2.2. Các chặng đường thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước ......................... 18

1.2.2.1. Chặng đường thứ nhất: từ 1964 đến 1968 ......................................... 18

1.2.2.2. Chặng đường thứ hai: từ 1969 đến 1972............................................ 20

1.2.2.3. Chặng đường thứ ba: từ 1973 đến 1985 ............................................. 21

1.3. Khái quát về nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu .. 23

1.3.1. Nhà thơ Phạm Tiến Duật ....................................................................... 23

ii

1.3.2. Nhà thơ Hữu Thỉnh ............................................................................... 26

1.3.3. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu .................................................................... 28

CHƢƠNG 2: CÁI NHÌN CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN

DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU ............................................ 32

2.1. Đôi nét so sánh giữa thơ miền Nam và thơ miền Bắc cùng thời kỳ (1955 - 1975) 32

2.2. Hiện thực đời sống chiến trường .............................................................. 33

2.2.1. Hiện thực mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca ........ 34

2.2.2. Sự khốc liệt của chiến tranh………………………………………… 41

2.2.3. Hiện thực của sự hi sinh gian khổ. ........................................................ 48

2.2.4. Tội ác của kẻ thù ................................................................................... 53

2.3. Hình tượng người lính .............................................................................. 57

2.3.1. Lạc quan yêu đời, trẻ trung tinh nghịch ................................................ 58

2.3.2. Tình yêu đối với Tổ quốc và Nhân dân anh hùng. ............................... 62

2.3.3. Dũng cảm chiến đấu, ý chí quật cường ................................................. 67

2.3.4. Tình đồng đội ........................................................................................ 69

2.3.5. Tình yêu đôi lứa .................................................................................... 71

2.4. Cái nhìn về chiến tranh sau chiến tranh ................................................... 74

CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG

THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU. ..................... 81

3.1. Thể thơ. .................................................................................................... 81

3.1.1. Thể thơ tự do. ........................................................................................ 81

3.1.2. Thơ lục bát............................................................................................. 86

3.1.3. Trường ca .............................................................................................. 90

3.2. Biểu tượng ................................................................................................ 94

3.2.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................ 94

3.2.2. Một số biểu tượng tiêu biểu trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,

Nguyễn Đức Mậu ............................................................................................ 95

3.2.2.1. Biểu tượng ngọn lửa, ngọn đèn .......................................................... 95

iii

3.2.2.2. Con đường .......................................................................................... 98

3.2.2.3. Cỏ ..................................................................................................... 102

3.2.2.4. Cây súng ........................................................................................... 105

3.2.2.5. Cánh rừng ......................................................................................... 107

3.2.2.6. Máu ................................................................................................... 109

3.3. Ngôn ngữ ................................................................................................ 111

3.3.1. Ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, giàu chất hiện thực đời sống 112

3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất trí tuệ, chính luận ................................................ 116

3.4. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ ............................ 118

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 123

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 126

iv

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Năm 1945, A.TonXtoi – nhà văn chuyên viết về đề tài chiến tranh của

Nga Xô Viết đã phỏng đoán: “Trong 100 năm tới, chiến tranh vẫn là cảm

hứng sáng tạo cho toàn bộ nghệ thuật – từ bi kịch sử thi cho đến cả những bài

thơ tứ tuyệt, trữ tình . . .”

Trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, mặc dù chưa ai thống kê

được chính xác có bao nhiêu tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng nhưng

có một điều chắc chắn, đó là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn của nhiều thế hệ

văn nghệ sĩ. Những tính cách cao đẹp xuất hiện trong chiến tranh không

những không mất đi mà còn thể hiện ở nhiều khía cạnh trong nhiều bài văn,

bài thơ có sức hấp dẫn lớn. Một loạt những nhà văn, nhà thơ trưởng thành từ

sau chiến tranh, đã thực sự chiếm lĩnh được sự tin cậy của độc giả. Đề tài

chiến tranh luôn được phản ánh tinh tế với nhiều khía cạnh sâu sắc.

Đề tài chiến tranh không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận của

nền văn học thế giới mà đối với nền văn học Việt Nam đề tài lịch sử dân tộc,

đề tài chiến tranh chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống thể loại của nền

văn học mới nói chung và thơ ca nói riêng. Hiện thực mà đề tài này mô tả

chính là cuộc sống đấu tranh của toàn dân tộc .

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khơi nguồn cảm hứng cho

thơ, lôi cuốn một lực lượng sáng tác đông đảo. Thơ chống Mỹ đã góp phần

không nhỏ trong việc phản ánh một thời kỳ lịch sử đầy gian lao, thử thách

nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc. Các thế hệ làm thơ cùng có mặt bên nhau

trong trận tuyến đánh Mỹ ác liệt. Lớp nhà thơ trưởng thành trước cách mạng

Tháng Tám như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… đã nâng cao

tầm tư tưởng, phản ánh kinh nghiệm, trẻ trung trong tâm hồn, khỏe trong sức

viết, khẳng định được hướng đi lên, đã “truyền lửa” cho thế hệ sau.

1

Lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ là

một đội ngũ đông đảo, đa phần trong số họ là những người vừa cầm súng

đánh giặc vừa làm thơ. Có thể kể đến rất nhiều gương mặt tiêu biểu cho thế hệ

các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ nói riêng, cho thơ kháng chiến chống Mỹ nói

chung như: Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Nguyễn

Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm… Và sẽ thiếu sót

lớn nếu không nói đến Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu - là

những người lính, nhà thơ đã gắn bó sâu nặng với tuyến đường Trường Sơn

lịch sử, cũng là một trong những chiến trường ác liệt của đất nước ta thời kỳ

chống Mỹ. Các anh sinh ra là để làm thơ và trở thành đỉnh cao của thơ ca thời

kỳ này.

Từ mỗi góc nhìn, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã

cung cấp cho người đọc nhiều góc độ khác nhau về cuộc chiến tranh, đó là

niềm vui và nỗi đau, số phận con người trong và sau cuộc chiến, chất anh

hùng ca… Đặc biệt ở giai đoạn hiện nay, khi chiến tranh đã lùi xa mấy mươi

năm vẫn có không ít tác phẩm hay viết về chiến tranh, điều đó đã chứng minh

đề tài về chiến tranh, về người lính vẫn mãi có sức lay động lòng người, đánh

thức lương tri con người và niềm khát khao một cuộc sống hòa bình. Phạm

Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu thành công ở nhiều đề tài khác

nhau, trong các đề tài ấy chiến tranh là một ám ảnh đối với các anh.

Đã có nhiều công trình, những bài nghiên cứu về thơ của Phạm Tiến

Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở việc giới

thiệu, đánh giá từng tập thơ hay những nét chính trong những phong cách

nghệ thuật… Xét đến cùng thì đề tài chiến tranh nói chung và trong thơ trẻ

thời kỳ chống Mỹ nói riêng vẫn luôn là nỗi ám ảnh đầy nhức nhối, những dư

âm của cuộc chiến tranh vừa qua vẫn là nguồn cảm hứng to lớn cho những

người cầm bút như các anh. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình

nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về đề tài chiến

2

tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.Vì vậy ở luận

văn này chúng tôi đi vào một phương diện mới đó là Đề tài chiến tranh

trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến

nay). Thiết nghĩ đây là một việc cần thiết và có ý nghĩa trong việc khẳng định

vị trí, tài năng của các nhà thơ. Đồng thời cho chúng ta một hướng tiếp cận

mới về mảng đề tài chiến tranh luôn mang tính thời sự, qua cái nhìn đa chiều

của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Bên cạnh đó, với việc

lựa chọn đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn vận dụng những lý thuyết

truyền thống kết hợp với lý thuyết hiện đại để đi sâu tìm hiểu những yếu tố

đặc sắc trong thơ, mong tìm ra được những mạch ngầm nội tại làm nên sức

sống bền vững vượt thời gian trong mỗi tác phẩm của các anh.

2. Lịch sử vấn đề

Thế hệ nhà thơ chiến sỹ - nhà thơ trẻ đem lại cho thơ sức sáng tạo mới,

trẻ trung, trong sáng, gợi cảm, họ mang đến cho cả nền thơ bằng tiếng nói sôi

nổi, mới mẻ, duyên dáng, đặc sắc của riêng lứa tuổi trẻ mà thế hệ nhà thơ

trước không thể nói thay được. Thơ bám sát hiện thực sôi động của cuộc

kháng chiến và nhanh chóng phản ánh kịp thời những sự kiện lớn lao của đất

nước, phản ánh sự dũng cảm hi sinh quên mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thống nhất nước nhà. Không ít các tài năng đã

được sớm chú ý và khẳng định như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn

Đức Mậu và rất nhiều nhà thơ trẻ khác nữa. Họ nhận thức được rằng: “Thế hệ

này chứ không phải ai khác đã tự hiểu, tự nhận thức một cách đúng đắn con

đường đi của mình. Vừa cầm súng vừa cầm bút, họ đã viết về thế hệ mình

một cách trân trọng, tự hào” (Hữu Thỉnh). Qua ngòi bút tài năng của Phạm

Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh chiến tranh hiện lên một

cách sắc nét, sinh động. Mỗi trang thơ thấm đấm chất anh hùng ca như một

dòng sông hào hùng chảy xiết cùng năm tháng chiến đấu của dân tộc thời kỳ

chống Mỹ cứu nước. Qua khảo sát, thống kê chúng tôi đã tìm thấy nhiều bài

3

viết liên quan tới đề tài. Nhìn vào những bài viết này, chúng tôi có thể khẳng

định là cho đến nay những công trình, nghiên cứu, tìm hiểu về các nhà thơ

Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đều thống nhất, đánh giá thơ

các anh là những vần thơ viết về chiến tranh, về thế hệ những người lính, về

Tổ quốc… thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chân thực nhất, trong số phận của

họ có số phận dân tộc.

2.1. Phạm Tiến Duật

Phạm Tiến Duật là nhà thơ của chiến trường, trong vòng khói lửa. Thơ

anh in đậm dấu ấn của cuộc chiến tranh, những vần thơ sử thi của một thời.

Phạm Tiến Duật cũng có công giải tỏa cái khô khan, gò bó của thơ và thay

vào đó là cách nói vui, nửa thực nửa hư, duyên dáng, nụ cười hóm hỉnh góp

phần phản ánh sự đa dạng của đời sống trong chiến tranh, nhất là lớp trẻ trong

chiến đấu. Đã có rất nhiều công trình, những bài nghiên cứu có tính chất khái

lược về thơ Phạm Tiến Duật. Tiêu biểu là các tác giả Đỗ Trung Lai, Lưu

Khánh Thơ, Nguyễn Văn Long, Hà Minh Đức, Vũ Quần Phương, Nguyễn

Văn Hạnh, Nguyễn Ngọc Thiện, Trần Đăng Suyền, Đỗ Chu… Điểm lại một

số bài viết, bài nghiên cứu, phê bình của các nhà nghiên cứu văn học về một

chặng đường thơ Phạm Tiến Duật, chúng tôi nhận thấy các bài viết đều thống

nhất trong việc khẳng định tầm vóc, tài năng và những đóng góp lớn lao của

Phạm Tiến Duật cho thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca thời kháng chiến.

Phạm Tiến Duật có thơ đăng báo từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX,

nhưng thơ anh lúc này vẫn còn lẫn trong thơ nhiều người. Phải đến cuộc thi

thơ do báo Văn nghệ tổ chức vào năm 1969 - 1970, anh mới thực sự ghi được

tên tuổi của mình vào làng thơ Việt Nam. Chùm thơ đoạt giải nhất của anh

gây được ấn tượng mạnh mẽ với độc giả về một phong cách thơ rất lạ. Bắt

đầu từ đây, nhiều cây bút, nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã quan

tâm đánh giá thơ anh. Một trong những bài viết đầu tiên về thơ Phạm Tiến

Duật là Giữa chiến trƣờng nghe tiếng bom rất nhỏ (Tạp chí Văn nghệ

4

Quân đội, số 10, 1970 của Nhị Ca). Nhị Ca cho rằng chùm thơ được giải bốn

bài của Phạm Tiến Duật thực sự gây được ấn tượng với độc giả về một phong

cách thơ “rất lạ”, lạ từ chất liệu, thi liệu đến giọng điệu. Nhà văn Nguyễn

Minh Châu (Trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 7, 1972) có bài Ngƣời viết

trẻ giữa cánh rừng già cho rằng: “Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã làm

xôn xao đời sống thơ ca vốn có. Thơ Phạm Tiến Duật đã cổ vũ cho cuộc chiến

đấu theo cách riêng của mình và đã đón nhận được sự quan tâm đặc biệt từ

nhiều phía”. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết Chỗ

mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật (In trên Tạp chí Văn học, số 4,

1974) đã khẳng định: “Hồn thơ Phạm Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái

đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ ông tự nhiên và rất thật”. Ông cho

rằng, thơ Phạm Tiến Duật “là tiếng nói khoẻ khoắn, đôn hậu, bắt nguồn trực

tiếp từ cuộc sống chiến đấu sôi nổi mà hào hùng của dân tộc”. Và từ góc nhìn

vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, nhà thơ, nhà phê bình Vũ Quần

Phương trong bài Một đóng góp của dòng thơ quân đội vào nền thơ Việt

Nam (Trong Tạp chí Văn học, số 6, 1979) đã chỉ ra sự kế thừa những kinh

nghiệm của thơ ca dân gian trong thơ Phạm Tiến Duật. Theo Vũ Quần

Phương, điều đó khiến cho thơ Phạm Tiến Duật “đầy rẫy những chi tiết đời

sống đánh Mỹ chính xác, cụ thể như hiện vật trong bảo tàng...”. Năm năm

sau, năm 1985, Vũ Quần Phương phát triển bài viết thành bài nghiên cứu tác

giả Phạm Tiến Duật trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại (NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội, 1985), với tư cách là một nhà thơ trẻ tiêu biểu của nền thơ trữ

tình cách mạng. Năm 1986, Đỗ Trung Lai cũng có một bài viết rất công phu với

nhan đề Một chặng đƣờng thơ Phạm Tiến Duật (Tạp chí Văn học, số 4, 1986)

đã đánh giá, tổng kết giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của Phạm Tiến Duật.

Nhà văn đã khẳng định vai trò của thực tiễn chiến tranh đối với sáng tác của

Phạm Tiến Duật.

5

Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam viết: “Dưới bầu

trời sinh tử của chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã làm một cuộc tự trải nghiệm,

tự khám phá khắc nghiệt nhất và đã vươn lên làm một cuộc đột phá điển hình

nhất, đưa thơ chống Mỹ lên đến đỉnh cao… thơ ca mang đến cho bạn đọc

niềm vui lớn như những tin thắng trận từ tiền tuyến lớn. Độc đáo và vụt sáng,

đầy sức lay động và ấm áp ngay cả trong những lúc cay nghiệt nhất của chiến

tranh, đó là vẻ đẹp của thơ Phạm Tiến Duật.” [24, tr.11]

Theo GS Nguyễn Văn Hạnh thì thơ Phạm Tiến Duật “không thiên về

“tự biểu hiện”, về kỷ niệm, như thường thấy trong thơ các bạn trẻ, mà chú ý

quan sát, suy nghĩ, “ghi chép” những người và việc xung quanh, phát hiện ra

những khía cạnh bất ngờ, “lý thú”, “có cái nhìn riêng, giọng nói riêng” và

“anh thành công nhất khi viết về những con người tham gia trực tiếp cuộc

chiến đấu.” (Báo Văn nghệ số 363, 25-9-1970).

Trong Lí luận văn học, GS Trần Đình Sử cho rằng thơ của Phạm Tiến

Duật cũng đầy “mê hoặc” hấp dẫn, chứa đựng những điều sâu xa.

Phạm Xuân Nguyên trong bài viết Chiến tranh nhìn từ nhiều phía cho

rằng: “Phạm Tiến Duật nổi lên trong dàn thơ chống Mỹ với những bài thơ nói

cái hiện thực trần trụi của chiến tranh, cái ngang tàng hiên ngang của người

lính.” [30, tr.2]

Tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đều đã đánh giá,

khẳng định những đặc sắc và đóng góp của thơ Phạm Tiến Duật với thơ ca

thời chống Mỹ cũng như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Có thể nói

đường Trường Sơn chống Mỹ là ý chí Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa anh hùng

cách mạng Việt Nam và… Thơ Phạm Tiến Duật. Đó là những ý kiến vô cùng

quý giá mà người viết có được để làm tiền đề mở đường trong việc triển khai

các nội dung của đề tài luận văn này.

6

2.2. Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh đã khẳng định được thế đứng trên thi đàn văn học Việt Nam

hiện đại. Với hàng loạt các tập thơ được xuất bản và đạt được những giải

thưởng văn học uy tín trong và ngoài nước. Hữu Thỉnh là một nhà thơ tiêu

biểu có bản sắc riêng, đã thu hút được nhiều độc giả yêu thơ và giới phê bình.

Trong bài viết về nhà thơ Hữu Thỉnh, tác giả Vu Gia đã giới thiệu Hữu

Thỉnh với bạn đọc như là một cây bút đầy triển vọng: “Đọc tập thơ Hữu

Thỉnh dày hơn 260 trang do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, tôi càng hiểu

thêm vì đâu ta có thể đánh và thắng kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần và cũng

vì đâu ta có được ngày hôm nay.” [14]

Đã có nhiều bài viết, nghiên cứu nhắc đến Hữu Thỉnh như là một giọng

thơ tiêu biểu trong đội ngũ các nhà thơ trẻ của thời kỳ chống Mỹ. Điều đó

cũng là khởi nguồn để dẫn đến những thành công trên con đường sáng tạo thơ

ca của anh. Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo đã nhận xét: “Sự thành công của

Hữu Thỉnh là nói ít, cảm nhiều, theo truyền thống thi pháp phương Đông Thi

tại ngôn ngoại... cảm xúc của ông không hề biết chừng mực thường như nước

vỡ bờ tràn ra ngoài trang giấy, tràn vào lòng, vào mắt người đọc. Song chữ

nghĩa của ông lại khá chừng mực.” [18, tr.102]

Hà Minh Đức cho rằng: “Hữu Thỉnh là nhà thơ biết chắt lọc, hút nhụy từ thơ

ca dân gian hay rộng ra hơn là có tình quê, hồn quê qua những trang thơ về người

lính. Hữu Thỉnh chắt lọc về ngôn từ và có những điểm nhấn ý vị.” [12, tr.182]

Lý Hoài Thu đã nhận thấy: “Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất

lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”.

Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe

xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn… Từ “cái nôi nghệ thuật” dữ dội,

khốc liệt và thơ mộng là Trường Sơn ấy, hồn thơ Hữu Thỉnh tìm đến với

những nguồn cảm hứng lớn về Tổ quốc, Nhân dân, về thế hệ những người

cầm súng thời chống Mỹ.” [40]

7

Những bài thơ của Hữu Thỉnh “sẽ còn sống mãi với lịch sử của cuộc

kháng chiến chống Mỹ như là trang thơ hào hùng nhất, bi tráng nhất của toàn

bộ thơ ca Việt Nam.” [35]

Từ trong cội nguồn dân tộc, hành trình thơ Hữu Thỉnh là hành trình đi

tìm “mẫu số chung của sự đồng cảm”. Trước đây anh đã từng viết thật xúc

động về chiến tranh, về lòng quả cảm và đức hy sinh của dân tộc Việt Nam.

Sau này, anh vẫn trăn trở vui buồn cùng số phận con người, khắc khoải lo âu

trước sự “mất mùa nhân nghĩa”. Thơ anh có sự kết hợp giữa phẩm chất dân tộc

và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lý và độ xúc cảm tràn trào, giữa sự hiền hòa

lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả năng viết những tác phẩm trường ca dài

và thơ trữ tình ngắn. Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu, xuất sắc của

nền thơ chống Mỹ đã khẳng định vị trí và bản lĩnh sáng tạo của mình qua hai

chặng đường lớn: Thơ ca những năm chống Mỹ cứu nước và thơ ca đương đại

Việt Nam.

2.3. Nguyễn Đức Mậu

Đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ và là người lính của Sư đoàn 312,

nhà thơ mang áo lính Nguyễn Đức Mậu đã có mặt ở những cánh rừng Lào, ở

vùng đất khét mùi đạn bom của Quảng Trị… Sự khốc liệt dữ dội và mất mát

khó kể xiết của chiến tranh không dập tắt được những giai điệu mạnh mẽ

trong tâm hồn anh, ngược lại nó đã hừng lên và bốc cháy rừng rực từ hiện

thực bi tráng của cảnh tượng, sự lựa chọn kỹ càng chi tiết, vừa anh hùng vừa

lãng mạn, vừa thật vừa ảo, vừa mộc mạc, vừa lấp lánh mà tất cả những cái đó

được thể hiện trên cái nền cảm xúc mạnh mẽ và chân thật của người cầm bút.

Đó là thơ, cũng là cuộc sống, là cái chung nhưng cũng là cái riêng. Giai điệu

tâm hồn của nhà thơ cũng là giai điệu của người công dân – chiến sĩ. Vào

những năm 60, khi ngọn lửa chiến tranh đã lan tỏa ra cả nước, thơ Nguyễn

Đức Mậu đã bắt đầu xuất hiện đều đặn trên báo Nhân dân. Chính sự trải

nghiệm cuộc sống ở chiến trường, được chia sẻ với nhân dân những gian nan,

8

vất vả, đau thương, mất mát lại mở ra trước mắt nhà thơ một hiện thực phong

phú, vô tận.

Hà Minh Đức nhận xét: “Thơ Nguyễn Đức Mậu là cuốn từ điển bách

khoa về người lính, chiến trường”. [12, tr.182]

Ngô Vĩnh Bình trong bài viết Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nhận thấy:

“Con đường binh nghiệp của Nguyễn Đức Mậu song hành cùng con đường

văn nghiệp… Là người lính bộ binh lại có mặt trong đội hình của sư đoàn chủ

lực trong chiến tranh, cứ ngỡ Nguyễn Đức Mậu sẽ không còn tâm trí và thời

gian để nghĩ đến văn chương, thơ phú nữa. Nhưng không, trước sau anh vẫn

là người lính vừa cầm súng, cầm bút, vừa đánh giặc và làm thơ. Thơ anh là

“thơ người ra trận”, ( Tạp chí Nhà văn, 12-2001)

Hữu Đạt qua bài Nhân đọc Nguyễn Đức Mậu nghĩ về cũ và mới

trong thơ có nhận xét: “Nguyễn Đức Mậu thuộc lớp nhà thơ trưởng thành

thời chống Mỹ. Anh xác lập được vị trí của mình trong làng thơ nhờ những

sáng tác viết về chiến tranh, trong đó nổi bật lên là hình tượng người lính và

những kỷ niệm về quê hương.” [Văn nghệ Quân đội, 3-1999]

Cũng bàn về vấn đề này, Phạm Khải trong bài viết Đôi điều về Nguyễn

Đức Mậu đã cụ thể hơn: “Trưởng thành khi mà cuộc chiến tranh chống Mỹ

cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt nhất, lại mang trong mình phẩm chất cao

đẹp của người chiến sĩ và tâm hồn tươi mát của một nhà thơ, Nguyễn Đức

Mậu sớm vượt lên trở thành một trong những cây bút tiêu biểu của lực lượng

quân đội. Nhiều bài anh sáng tác trong giai đoạn ấy đã thực sự gắn bó máu

thịt với cuộc sống chiến đấu được đông đảo bạn đọc (nhất là lính) mến yêu.”

[22, tr.60].

Người lính hi sinh đã hóa thân vào non nước để sống tiếp một cuộc

sống khác, xanh hơn, đằm dịu hơn và huyền ảo hơn. Theo dấu chân người

lính, Nguyễn Đức Mậu đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi thở cuộc sống

chiến trường. Trong đó người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm. Nhà thơ Nguyễn

9

Đức Mậu tuy đã nổi tiếng nhưng anh luôn là người khiêm nhường, chịu khó

đọc, chịu khó nghe và ham viết. Tuy các bài viết chưa bao quát hết được sự

nghiệp thơ của Nguyễn Đức Mậu nhưng những ý kiến của những người đi

trước đã là những gợi ý quý báu và định hướng cho chúng tôi trong khi thực

hiện bản luận văn của mình một cách có hệ thống và sâu hơn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Do luận văn nghiên cứu về ba tác giả nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát

một số tập thơ tiêu biểu thể hiện rõ đề tài chiến tranh của từng tác giả. Cụ

thể như sau:

3.1.1. Tác giả Phạm Tiến Duật luận văn khảo sát những tác phẩm in trong cuốn

Phạm Tiến Duật toàn tập (Đỗ Trung Lai chủ biên, NXB Hội nhà văn,

2009).

3.1.2. Tác giả Hữu Thỉnh luận văn tập trung khảo sát ở tập Thơ Hữu Thỉnh

(NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1998).

3.1.3. Tác giả Nguyễn Đức Mậu chúng tôi tập trung khảo sát qua bốn tập thơ:

1. Cánh rừng nhiều đom đóm bay (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998).

2. Từ trong lòng cuộc chiến (NXB Văn hóa thông tin, 2010).

3. Hoa đỏ nguồn sông (NXB Tác phẩm mới Hội nhà văn Việt Nam, 1987).

4. Mở bàn tay gặp núi (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008)

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Đề tài chiến tranh trong thơ

Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay), được

triển khai theo phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật như ngôn ngữ,

phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ, thể thơ… Trong quá

trình khảo sát và tìm hiểu đề tài chiến tranh trong thơ của ba tác giả chúng tôi

luôn có sự đối sánh với nội dung, đời sống và tư tưởng của từng nhà thơ.

10

4. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm sáng tỏ vấn đề sau:

- Cơ sở lý luận: Giới thuyết một số vấn đề về đề tài chiến tranh trong

thơ kháng chiến chống Mỹ. Đề tài chiến tranh của nước ta cho đến nay vẫn là

đề tài đa chiều, phức tạp và luôn mang tính thời sự. Chúng tôi không có tham

vọng đưa ra những kiến giải mới, khác với ý kiến lý luận trước đó mà chỉ

nhằm đi tìm một cách nhìn thiết thực hơn, cụ thể hơn về cuộc chiến tranh

chống Mỹ giữ nước hào hùng của dân tộc.

- Cơ sở thực tiễn: Tiếp nối những công trình nghiên cứu về đề tài chiến

tranh ở nhiều góc độ khác nhau, chúng tôi muốn tìm hiểu một phương diện

mới đó là đề tài chiến tranh trong thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu

nước qua các tác giả Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Từ đó

đề tài nhằm góp phần hoàn thiện bức chân dung về chiến tranh chống Mỹ cứu

nước của dân tộc ta. Để có thể nhận diện được Đề tài chiến tranh trong thơ

Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyển Đức Mậu (từ 1965 đến nay), chúng

tôi đi sâu phân tích các tác phẩm thơ cụ thể ở các phương diện khác nhau như:

Việc lựa chọn chi tiết, hình ảnh, biểu tượng, việc xây dựng hình tượng thơ, tứ

thơ… Đây là nhiệm vụ chủ yếu của luận văn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các biện pháp nghiên

cứu chủ yếu sau đây:

Phương pháp phân tích – tổng hợp

Phương pháp thống kê, phân loại

Phương pháp so sánh – đối chiếu

Phương pháp cấu trúc – hệ thống

11

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn đưa ra những nhận định về Đề tài chiến tranh trong thơ

Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay). Từ đó

khẳng định rõ hơn những đóng góp to lớn của các anh đối với thơ kháng chiến

chống Mỹ và sự vận động của thơ hiện đại Việt Nam.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung

chính của luận văn được triển khai gồm ba chương:

Chương 1: Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ và sự hình thành đội

ngũ nhà thơ trẻ chống Mỹ

Chương 2: Cái nhìn chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,

Nguyễn Đức Mậu

Chương 3: Nghệ thuật thể hiện đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến

Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu

12

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ CHỐNG

MỸ VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ NHÀ THƠ TRẺ

CHỐNG MỸ

1.1. Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã làm thăng hoa những giá trị lớn

của dân tộc, làm cho tên tuổi Việt Nam đồng nghĩa với chiến thắng, với lương tri

thời đại. Trong những giá trị lớn ấy, có thành tựu của văn học, của thơ ca. Chưa

bao giờ có sự thống nhất giữa sống và viết, giữa anh hùng và lãng mạn, giữa

khoảnh khắc và trường tồn như thời kỳ ấy trong lịch sử văn học.

Như một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học của dân tộc, thơ cũng

như mọi thể loại khác trở thành vũ khí tinh thần, thành một sức mạnh tham

gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của dân tộc, nhân dân. Từ thơ ca

về chủ đề đấu tranh thống nhất chuyển sang chủ đề kháng chiến chống Mỹ

dường như là một sự vận động liên tục, tự nhiên của nền thơ. Giặc Mỹ tấn

công miền Bắc, đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của mỗi người

Việt Nam, làm bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân

tộc, ý chí độc lập, tự do. Những tình cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch

dồi dào cho cảm hứng thơ ca. Tạm rời bỏ một số đề tài và cảm hứng về đời

sống thường ngày trong hòa bình, hay những vấn đề riêng tư, thơ tập trung

vào một hướng lớn của đề tài và chủ đề là cuộc chiến đấu chống Mỹ của cả

dân tộc ở hai miền Nam, Bắc. Nhưng sự thống nhất trong cảm hứng lớn và đề

tài bao trùm không làm cho nền thơ rơi vào tình trạng nghèo nàn, đơn điệu.

Đứng trước vận mệnh của dân tộc đang trong cơn thử thách lớn, các

nhà thơ đều đáp lời kêu gọi của sông núi theo tiếng nói riêng. Xuân Diệu nói

lên sự gắn bó ngàn đời với Nhân dân và lúc này, dường như mỗi giọt máu,

mỗi tế bào của nhà thơ đều thuộc về Nhân dân:

13

Tôi cùng xương cùng thịt với Nhân dân tôi

Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu nhiều người yêu dấu gian lao

Bên cạnh thế hệ tiền chiến, là lớp nhà thơ sung sức cầm súng lên

đường. Nguyễn Khoa Điềm nói lên sức mạnh của dân tộc đang được nhân lên

trong những tháng năm đặc biệt:

Trong thời gian không gian gian lao

Ta điềm tĩnh nhân sức mình vô hạn

Qua cuộc chiến đấu sẽ càng bộc lộ sức mạnh kỳ diệu của Nhân dân.

Một dân tộc đã đi đầu giành độc lập giữa trùng vây của thực dân đế quốc, một

dân tộc đã đánh tan đội quân viễn chinh thiện chiến của thực dân Pháp ở Điện

Biên Phủ làm chấn động địa cầu, nhất định sẽ giành thắng lợi trong cuộc

chiến đấu mới. Một Việt Nam được bạn bè cảm phục, chia sẻ, ủng hộ. Các

nhà thơ Việt Nam đã ghi lại được hình tượng Việt Nam trong thơ chống Mỹ.

Các nhà thơ có dịp suy nghĩ về nhân dân và Tổ quốc mình. Chế Lan Viên

nhận xét về ba năm thơ chống Mỹ: “Vạn sự khởi đầu nan. Trong một cuộc

chiến tranh dữ dội, thơ dễ lâm vào một trong ba tình trạng sau này không còn

thơ nữa. Khi đại bác gầm thì chim họa mi tắt tiếng. Có thơ nhưng đây là tiếng

thét thất thanh của những khẩu hiệu có vần, cả ba trường hợp đó là dấu hiệu

của thần kinh suy nhược. Vượt lên ba nguy cơ đó thơ miền Bắc tồn tại phát

triển, tinh thần sảng khoái, da thịt hồng hào. Ba năm qua chúng ta đã xây nên

một nền thơ chống Mỹ hẳn hoi với những thành tựu về mặt tác phẩm của nó

với buổi đầu hoàn chỉnh về mặt lý luận của nó.”

Không phải là một ước mong mà là một thực tế. Trong cuộc chiến đấu

gian lao của Nhân dân ta có bạn bè gần gũi chia sẻ, như Mađơlen Righo – nữ

phóng viên Pháp, Moonika – nhà văn nữ Ba Lan đều có mặt ở chiến trường

Việt Nam, Giorit Iven đem ống kính vào vùng lửa đạn. Đimitrova - nhà thơ

14

nữ Bungari nhiều lần sang Việt Nam và sáng tác tập thơ Vây giữa tình yêu.

Nhiều nhà văn, nhà báo so sánh Việt Nam như cây tre, cứng rắn và có sức bật,

Việt Nam là bông hoa ngát hương, Việt Nam là hồn tôi…

Chủ nghĩa yêu nước là nguồn động lực tinh thần lớn nhất của hết thảy

mọi người trong cuộc kháng chiến, cũng là nguồn cảm hứng lớn lao bao trùm

và thấm sâu trong mọi tác phẩm thơ ca. Kế tục truyền thống tư tưởng yêu

nước của nền thơ dân tộc, trực tiếp nhất là của thơ kháng chiến chống Pháp và

thơ đấu tranh thống nhất đất nước, trong thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

chủ nghĩa yêu nước được phát triển tới những chiều cao và độ sâu mới và

được biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng. Không chỉ cảm nhận đất nước ở

chiều rộng không gian địa lý, thơ thời kỳ này đặc biệt coi trọng sự phát hiện

về đất nước trong chiều dài lịch sử và bề sâu văn hóa, tinh thần truyền thống. Ý

thức về lịch sử mà chủ yếu là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước , đã mở rộng

và làm sâu sắc hơn quan niệm về đất nước, dân tộc, và sự thống nhất liền mạch giữa

quá khứ với hiện tại. Chưa bao giờ lịch sử đấu tranh của dân tộc lại được sống dậy

với niềm tự hào và say sưa như thơ văn thời kỳ này, bởi vì lịch sử cần thiết và thực sự

phải trở thành động lực tinh thần và sức mạnh to lớn cho con người Việt Nam, dân

tộc Việt Nam trong cuộc đối đầu với kẻ thù hùng mạnh vào bậc nhất trên trái đất. Đất

nước, dân tộc còn được nhìn nhận trong mối tương quan với nhân loại, với thời đại,

để khẳng định sứ mệnh của dân tộc Việt Nam, vai trò, ý nghĩa của cuộc chiến đấu

chống Mỹ của nhân dân ta. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn là “Vì ba ngàn triệu trên

đời”, là tiếng gọi tập hợp, là “người lính đi đầu”… Các nhà thơ đã tạo dựng được

những hình tượng thật lớn lao, kỳ vĩ về Tổ quốc trong không gian và thời gian. Bên

cạnh đó thơ đã xây dựng được nhiều hình tượng đẹp về con người Việt Nam thời

đánh Mỹ ở nhiều tầng lớp, thế hệ, lứa tuổi, nhưng đều là biểu tượng của dân tộc và

nhân dân. Nhận thức về đất nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân, đó cũng là

một nét nổi bật trong chủ nghĩa yêu nước ở thơ thời kỳ này. Cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước một lần nữa thể hiện sức mạnh vô tận, phẩm chất tuyệt vời và những hi

sinh vô cùng to lớn của nhân dân.

15

Dòng thơ yêu nước và chiến đấu đã chảy suốt liên tục cùng với cuộc

kháng chiến chống Mỹ của cả dân tộc và sẽ còn tiếp tục phát triển. Những vấn

đề về cuộc chiến, những sự kiện chính trị, quân sự, không khí chiến tranh, mặt trận,

con người, hi sinh, mất mát, tổn thất… ý chí chiến đấu của cả dân tộc đã được thơ

chiến tranh cách mạng ghi lại sống động hơn bao giờ hết. Qua những phác họa chân

thực của thơ thời kỳ này đã giúp cho chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc chiến

mà dân tộc ta đã đi qua và giành được thắng lợi vẻ vang, hào hùng.

1.2. Thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ

Văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965-1975) có một vị trí

quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là thời kỳ văn học phát triển rực rỡ

trên nhiều thể loại để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình: Làm cuốn “Biên

niên văn học” về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Trong sự phát triển

đó, thơ chống Mỹ, nhất là thơ của các nhà thơ trẻ thời kỳ này đã gây được sự chú

ý đặc biệt, nhanh chóng trưởng thành, đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Người

ta sẽ không thể hình dung một cách đầy đủ diện mạo và đóng góp to lớn của nền

thơ chống Mỹ nếu thiếu vắng mảng thơ của các cây bút trẻ xuất hiện thời kỳ này.

Thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ là một hiện tượng rất đáng chú ý của văn học hiện đại

Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện, trưởng thành của một thế hệ nhà thơ và bước

phát triển mới của nền thơ ca chiến tranh và cách mạng.

1.2.1. Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước

Từ tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra

miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước sang

một giai đoạn mới gay go, căng thẳng và vô cùng ác liệt. Phản ánh kịp thời và

động viên chiến đấu, sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một trong những

nhiệm vụ hàng đầu của nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng trong thời

kỳ chống Mỹ. Đó không chỉ là đòi hỏi cả thời đại mà còn là sự thôi thúc bên

trong của chính các nhà thơ. Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ hiện đại nóng

bỏng tính thời sự, hừng hực tinh thần chiến đấu của chúng ta đã “nhập cuộc”

16

tham gia vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc. Suốt trong những

năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau dàn quân trên những

mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh

hùng cách mạng của con người Việt Nam trong thời đại chống Mỹ. Nền thơ chống

Mỹ được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: Thế hệ nhà thơ xuất hiện từ trước

Cách mạng (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh...), thế hệ nhà

thơ trưởng thành trong thời kỳ chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng

Trung Thông...) và thế hệ nhà thơ ra đời trong thời kỳ chống Mỹ. Mỗi thế hệ nhà

thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những đóng góp đáng ghi nhận đối với nền

thơ chống Mỹ. Chỉ trong vòng mười năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tiếp xuất hiện

một đội ngũ những gương mặt thơ trẻ như Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê

Anh Xuân, Dương Hương Ly, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương,

Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc, Nguyễn Đức Mậu,

Vương Trọng, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Trần

Đăng Khoa, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ... Đó là những gương mặt tiêu biểu của thế hệ

thơ thời kỳ chống Mỹ.

Thuộc lớp người phần lớn được sinh ra từ sau Cách mạng, được trau

dồi tri thức văn hoá trong nhà trường của chế độ mới, nhiều nhà thơ thuộc thế

hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã từ cánh cửa nhà trường đi

thẳng tới chiến trường cầm súng chiến đấu. Hiện thực đời sống những năm

tháng chống Mỹ, ngọn lửa chiến tranh cách mạng đã tôi luyện họ thành những

con người vững vàng trong cuộc sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Sáp mặt

với thực tế chiến tranh, những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ tự ý thức sâu sắc về

vị trí, vai trò của thế hệ mình. Trong thực tế, các nhà thơ trẻ chỉ thực sự khẳng

định được vị trí của mình trong nền thơ chống Mỹ khi họ có một sự thống

nhất chung cao độ của cả một thế hệ, có cách nhìn riêng, có giọng điệu riêng

khi viết về cuộc chiến tranh. Các nhà thơ trẻ một mặt có ý thức kế thừa,

nhưng mặt khác chính điều kiện sáng tác giàu chất sử thi ấy đã tạo ra tiếng

nói riêng, giọng điệu riêng cho thế hệ của họ. Như những mầm cây có sức

17

sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi, trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh,

một thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã vượt lên tự khẳng định mình, vừa tiếp nối

truyền thống của các thế hệ trước, vừa có sáng tạo độc đáo làm nên những nét

riêng của cả một giai đoạn thơ ca.

1.2.2. Các chặng đường thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước

Nhìn tổng quát, thơ trẻ chống Mỹ cứu nước là một dòng chảy liên tục,

nhưng mỗi bước phát triển mang dấu ấn phong cách riêng và có thể chia làm

ba chặng đường:

1.2.2.1. Chặng đường thứ nhất: từ 1964 đến 1968

Ở chặng đường đầu tiên này, đội ngũ những nhà thơ trẻ bước đầu được

khẳng định với sự xuất hiện của những cây bút như Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu

Quang Vũ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Hương Ly, Phạm Ngọc Cảnh, Vũ

Quần Phương, Lữ Huy Nguyên, Cảnh Trà, Vương Trọng... Những nhà thơ trẻ này,

lúc đầu được tập hợp và giới thiệu trong tập thơ Sức mới, (1965, NXB Văn học, Hà

Nội). Nhà thơ Chế Lan Viên viết tựa cho tập thơ đã biểu dương “Điều đáng yêu

nhất của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống, của chủ nghĩa xã hội

trên miền Bắc nước ta”. Nhìn chung, thơ của các nhà thơ trẻ chặng đường này vừa

trẻ trung tươi tắn, vừa bồng bột sôi nổi. Các tác giả đều chọn lọc chất liệu cuộc sống

theo hướng thi vị hoá. Cảm xúc trong thơ họ vừa mang đậm màu sắc lý tưởng, ít

nhiều còn vương dấu vết của sách vở nhà trường. Những mô típ quen thuộc trong

thơ chặng đường này thường là những buổi chia tay, những đêm hành quân, những

dự cảm vào cuộc vv... thể hiện khát vọng ra trận của tuổi trẻ thời đại chống Mỹ.

Thơ của những nhà thơ trẻ chặng đường này rưng rưng cảm xúc, thấm đậm chất trữ

tình, chứa chan chất men say nồng của tuổi trẻ. Họ nói tới khao khát của thế hệ trẻ

được cầm súng trực tiếp chiến đấu bằng một cảm xúc chân thành, trong sáng nhất:

Ôi ta thèm được cầm khẩu súng

Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè

Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng

Ta cay nồng mùi lá rụng bờ tre.

(Gửi Bến Tre - Lê Anh Xuân)

18

Những năm đầu của cuộc chiến tranh, thơ của các nhà thơ trẻ còn bồng

bột, mang cái nhìn lãng mạn. Hình ảnh thế hệ trẻ cầm súng chỉ thấp thoáng

trong thơ họ. Thơ chặng đường này, các nhà thơ hay nói tới những cuộc chia

ly đầy lưu luyến và lãng mạn:

Nào đâu phải người đi không lưu luyến

Mắt người trong như nước giếng ban đầu

Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau

(Lƣu Quang Vũ)

Và những cuộc chia ly thấm đẫm tinh thần lạc quan của thời đại:

Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ

Tươi như cánh nhạn lai hồng

(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ)

Thơ trẻ chặng đường này thường nói đến những đêm hành quân với

một niềm vui háo hức, hăm hở, đầy tin tưởng: “Đường nào vui bằng đường ra

trận tuyến”, “Ta náo nức như suối về sông biển” (Lưu Quang Vũ).

Trong những năm cuối của chặng đường thứ nhất, thơ trẻ bắt đầu giàu

có thêm nhờ chất suy nghĩ và khả năng khái quát. Tuy nhiên, về cơ bản, sự

từng trải, sự chiêm nghiệm cá nhân, sự lắng đọng trong suy tư còn ít thấy

trong thơ của những nhà thơ trẻ chặng đường này. Không khí của cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước đã được gợi lên một phần trong thơ của các nhà thơ

trẻ nhưng hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến đấu chưa nhiều ở các trang thơ.

Hình ảnh con người và thời đại chống Mỹ chủ yếu được nhấn mạnh ở cái

thanh tao, đường hoàng, cái thơ mộng của cuộc sống và con người trong lửa

đạn: một tiếng gà trưa, nụ cười, tiếng hát, nhịp đập bình yên của trái tim con

người làm nổi bật “cái yên trong cái động”, “sự sống át cái chết”, cái bình

thản tự tin của một dân tộc gan góc, bất khuất, kiên cường. Nhìn chung, các

tác giả thơ trẻ chặng đường này đều có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong

mảng đời sống trong trẻo của chiến tranh. Nhưng thơ chặng đường này đã tạo

tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của thơ trẻ chống Mỹ ở những

chặng đường sau.

19

1.2.2.2. Chặng đường thứ hai: từ 1969 đến 1972

Cùng với những tác giả xuất hiện ở chặng thứ nhất, đến chặng thứ hai

này đội ngũ thơ trẻ được bổ sung thêm nhiều cây bút tài năng khác như Phạm

Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Vương Anh, Bế Kiến Quốc, Phan Thị Thanh

Nhàn, Vương Trọng, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu... Chính sáng tác của

những nhà thơ trẻ này đã góp phần quan trọng đưa nền thơ chống Mỹ phát

triển đến đỉnh cao, làm thay đổi bộ mặt của cả nền thơ chống Mỹ. Ở chặng

đường này, những nhà thơ trẻ đã thực sự khẳng định được tiếng nói riêng của

thế hệ mình qua những vần thơ giàu chi tiết chân thực, sinh động như còn

vương bụi đất chiến trường và mùi khói lửa đạn bom, mang khí thế hừng hực

của cuộc chiến đấu.

Nếu ở chặng đường trước, những nhà thơ trẻ có khuynh hướng đi tìm

chất thơ trong mảng hiện thực đời sống có vẻ nên thơ, trong trẻo thì ở chặng

đường này, họ có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong các mảng hiện thực trần

trụi, thô nhám, dữ dội, đầy ác liệt của cuộc sống chiến trường. Cảm hứng thơ

vì thế càng trở nên mãnh liệt, sôi nổi, khác hơn ở chặng đường trước. Thơ trẻ

trong chặng đường này có xu hướng vươn tới tầm khái quát những mảng hiện

thực lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với những sắc thái dữ dội, ác liệt của

nó, làm ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ trong thời đại

chống Mỹ. Những chi tiết chân thực của đời sống chiến trường ùa vào các

trang thơ. Không khí sôi sục của những năm tháng chống Mỹ được truyền vào

các bài thơ. Đời sống thực của người lính được thể hiện chân thực trong thơ

Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm... Chưa bao giờ hình

ảnh thế hệ trẻ sống, chiến đấu giữa chiến trường lại được thơ tập trung khắc

hoạ đạt được tính chân thực cao như thơ trẻ chống Mỹ. Đó là những người

lính lái xe, chiến sỹ công binh, anh bộ đội coi kho, cô thanh niên xung phong,

cô gái giao liên:

20

... Đi qua hầu hết tuổi thanh xuân

Để lại trong rừng những gì quý nhất

Mất mọi thứ để nhân dân không mất

(Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật)

Chứa đựng nhiều chi tiết chân thực, tươi ròng sức sống, thể hiện được

nhiều gương mặt trẻ trung, tinh nghịch mà kiên cường, anh dũng, thơ Phạm

Tiến Duật được coi như “một góc bảo tàng tươi sống” về Trường Sơn (Đỗ

Trung Lai) trong những năm tháng chống Mỹ.

Thơ trẻ chặng đường này vẫn tiếp tục viết về đề tài quê hương, đất

nước, nhưng với một ý thức tự giác cao hơn và tình cảm sâu nặng hơn. Sự

thống nhất cao độ giữa ý thức của nhà thơ với trách nhiệm công dân, tư cách

người chiến sĩ cầm súng đã tạo nên cho những trang thơ của những nhà thơ

trẻ một chiều sâu mới trong nhận thức và trong tình cảm. Thấm thía hơn thực

tế chiến tranh, các nhà thơ trẻ càng nhận rõ hơn trách nhiệm của mình, càng

thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, với đất nước. Thơ họ chính là

tiếng lòng những con người trực tiếp cầm súng, lấy máu mình để giữ gìn, bảo

vệ non sông.

1.2.2 3. Chặng đường thứ ba: từ 1973 đến 1985

Đến chặng này, thơ trẻ chống Mỹ được bổ sung thêm những nhà thơ

đồng thời là chiến sỹ trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường. Sự xuất

hiện của những cây bút trẻ như Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận

Cầm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Anh Ngọc vv... đã

làm cho đội ngũ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ thêm đông đảo và thực sự bề thế.

Chặng cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo nên thế mạnh của những

nhà thơ trẻ ở chặng đường này: Có cái nhìn bao quát, toàn cảnh về cuộc chiến

tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Tầm nhìn cùng với nhận thức về hiện thực

cuộc sống chiến trường được mở rộng và sâu sắc hơn. Chứng kiến chiến

thắng vĩ đại, oai hùng của dân tộc, những nhà thơ trẻ đồng thời cũng thấu hiểu

21

sự hy sinh, mất mát, cái giá phải trả cho những vinh quang đó. Bức tranh hiện

thực đời sống chiến trường hiện lên qua những trang thơ trẻ ở chặng đường

này cũng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn: có hy sinh, mất mát, có chiến

thắng lạc quan, tin tưởng. Thái độ, tình cảm của nhà thơ viết về sự thực của

đời sống chiến trường, nhất là về những gian khổ, hy sinh cũng chân thực

hơn. Tính chất sâu lắng, tỉnh táo ngày càng đậm thay cho tính chất thi vị, hồn

nhiên ở những chặng đường trước.

Thơ trẻ chặng đường này nói nhiều, nói sâu sắc, thấm thía về người mẹ,

Nhân dân, về những con người vô danh, về những con người bình thường mà

kiên cường, bất khuất, về Tổ quốc và về thế hệ mình. Ý thức về cái tôi - thế hệ

của các nhà thơ trẻ đạt đến độ sâu sắc nhất. Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ

cầm súng thời kỳ chống Mỹ hiện lên cụ thể, chân thực, phong phú và sâu sắc:

Những thằng con trai 18 tuổi

Nhiều khi bực quá khóc oà

... Phanh ngực áo và mở trần bản chất

Mỉm cười trước những lời lời to tát

Nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc

(Thanh Thảo)

Sáng tạo những vần thơ giàu chất suy nghĩ, triết lý, những hình tượng

thơ mang ý nghĩa khái quát là xu hướng chính của thơ trẻ ở chặng đường này.

Cũng chính ở chặng đường này, khuynh hướng muốn phản ánh những mảng

hiện thực lớn của chiến tranh, tổng kết cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại đã xuất

hiện như một đòi hỏi chính đáng của thời đại. Không phải ngẫu nhiên mà

từ sau 1975, thơ trẻ chống Mỹ xuất hiện hàng loạt những trường ca viết về

chiến tranh, thể hiện khát vọng tổng kết cuộc chiến thông qua cách nhìn

và sự trải nghiệm riêng của mỗi nhà thơ. Những ngƣời đi tới biển,

Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo, Đƣờng tới thành phố của

Hữu Thỉnh, Trƣờng ca sƣ đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Mặt trời trong

22

lòng đất, Đất nƣớc hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo, Con đƣờng của

những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo... là sự thể hiện cụ thể những khát

vọng đó. Với những đặc trưng và ưu thế của thể trường ca, trong những

trường ca tiêu biểu của chặng đường này, các nhà thơ trẻ đã kết hợp khá

nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự, đan xen phối hợp nhiều thể thơ trong

một trường ca, phác hoạ được nhiều chân dung của nhân vật trữ tình nhằm

vươn tới xu hướng khái quát, tổng hợp mở rộng hiện thực, tăng cường

tính triết lí, chính luận trong thơ. Qua những trường ca này, tính chất dữ

dội, khốc liệt của chiến tranh được khơi sâu, nhấn mạnh. Các nhà thơ trẻ

đã tập trung khám phá những ngọn nguồn sâu xa nhất tạo nên sức mạnh

tinh thần thiêng liêng của dân tộc trong thời đại chống Mỹ, lý giải động

cơ cầm súng của con người Việt Nam và nguyên nhân của những chiến

công. Những hình tượng chứa đựng phẩm chất và tinh thần chung của cả

dân tộc và thời đại như người mẹ, người lính, Tổ quốc, nhân dân, đất

nước... thể hiện bằng những cảm xúc trữ tình thâm trầm sâu lắng, qua

những suy tư sâu sắc đạt tới tầm cao của sự khái quát, triết lí. Do có độ lùi

nhất định về thời gian, cuộc kháng chiến chống Mỹ được thể hiện với một

cách nhìn trầm tĩnh hơn, hiện thực chiến tranh được tái hiện toàn vẹn, đầy

đặn, sâu sắc và chân thực hơn.

1.3. Khái quát về nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu

1.3.1. Nhà thơ Phạm Tiến Duật

Chất trẻ trong thơ Phạm Tiến Duật không chỉ toát ra ở đối tượng được

nói đến, mà chính là ở cái tuổi thanh xuân không chịu già đi trước sự tàn phá

của chiến tranh. Thơ Phạm Tiến Duật tràn đầy nhiệt huyết của con người

luôn đi tới và hành động; Tràn đầy yêu thương của trái tim luôn hướng về

cuộc đời; Tràn đầy niềm vui trong trẻo hồn nhiên của tấm lòng rộng mở...

Phạm Tiến Duật được mệnh danh là nhà thơ của Trường Sơn, thi sĩ

huyền thoại của đường mòn Hồ Chí Minh những năm chống Mỹ. Anh từng

23

bộc bạch: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã

đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết

được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở

Trường Sơn”. Cũng như các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Phạm Tiến Duật là nhà

thơ “được thời”. Cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc là một hiện thực

lớn tác động mạnh mẽ đến lớp nhà thơ trẻ đồng thời là người lính. Thơ Phạm

Tiến Duật bao quát được hiện thực lớn ở chính cái nơi mà người ta có thể

nhìn thấy rõ nhất tầm vóc của dân tộc trong giai đoạn lịch sử hào hùng.

Nhưng điều quan trọng hơn để khẳng định một tài thơ Phạm Tiến Duật là

tiếng nói trực diện, giàu bản sắc, mới lạ và mang tinh thần tuổi trẻ. Năng lực

cảm nhận và nắm bắt hiện thực cuộc sống nhanh nhạy ở anh đã chứng minh

ưu thế xung kích, lên tuyến đầu của thơ trong những hoàn cảnh mà người

nghệ sĩ không có thời gian để “nghiền ngẫm”, phải vội vàng ghi lấy những

khoảnh khắc vụt hiện và có giá trị lâu bền của đời sống. Bởi nếu chậm trễ

bom đạn sẽ xoá đi tất cả.

Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 01 năm 1941 ở huyện Thanh Ba,

tỉnh Phú Thọ. Cha anh là nhà giáo, dạy chữ Hán và chữ Pháp, còn mẹ làm

ruộng, không biết chữ. Thuở nhỏ anh học ở trường làng, đến phổ thông trung

học anh học tại trường Hùng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, sau

đó vào học tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội, năm 1964

thì tốt nghiệp. Tuổi thơ của anh gắn bó với miền đất trung du “rừng cọ đồi

chè”, với bầu không khí văn hoá dân gian của miền quê xoan ghẹo, với những

lễ hội của miền đất tổ vua Hùng. Miền quê bình yên của anh những năm

tháng chống Mỹ cũng sục sôi không khí kháng chiến. Là con người sôi nổi,

anh nhanh chóng bị cuốn vào không khí hào hùng của đời sống văn nghệ

kháng chiến trên đất quê hương Phú Thọ. Thế nhưng, có lẽ cuộc đời không

cho chàng sinh viên văn khoa này nối nghiệp cha mình, gắn bó với nghề nhà

giáo. Ngay sau khi anh vừa tốt nghiệp Đại học, cũng là lúc giặc Mỹ leo thang

24

bắn phá miền Bắc và cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đấy

là thời kỳ nhân dân miền Bắc dồn hết sức người và sức của chi viện cho chiến

trường miền Nam. Cũng từ đấy cho đến trước ngày miền Nam hoàn toàn giải

phóng (1975), bao thế hệ thanh niên ta theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc

đã lên đường nhập ngũ, ra chiến trường. Phạm Tiến Duật là một trong số

những người thanh niên có mặt trong dòng người vô tận ấy.

Trong thời gian này, anh sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường

Trường Sơn. Đây cũng là thời gian anh sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi

tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm

Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chiến tranh kết thúc, anh

về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt nam. Anh sống ở Hà Nội, là

Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Anh cũng là người dẫn

chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi của kênh

VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt

Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, Giải

thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.

Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh

tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8:50, anh mất tại Bệnh viện

Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.

Tháng 5 năm 2012 Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tặng giải thưởng Hồ

Chí Minh cho cố nhà thơ Phạm Tiến Duật về cụm tác phẩm thơ viết về Trường

Sơn. Có thể nói, sự nghiệp thơ của Phạm Tiến Duật gắn liền với con đường huyền

thoại mang tên Hồ Chí Minh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

Anh đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác

trong thời kỳ anh tham gia quân ngũ. Thơ của anh được các nhà văn khác đánh

giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch”

nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của anh đã được phổ nhạc thành bài hát

trong đó tiêu biểu nhất là “Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây”.

25

 Vầng trăng quầng lửa (Thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm

Những tập thơ chính:

 Ở hai đầu núi (Thơ, 1981)

 Vầng trăng và những quầng lửa (Thơ, 1983)

 Thơ một chặng đƣờng (Tập tuyển, 1994)

 Nhóm lửa (Thơ, 1996)

 Tiếng bom và tiếng chuông chùa (Trường ca, 1997)

 Tuyển tập Phạm Tiến Duật (In xong đợt đầu ngày 17-11-2007, khi

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phạm Tiến Duật đang ốm nặng.

Thơ anh thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một

sư đoàn”.

1.3.2. Nhà thơ Hữu Thỉnh

Thơ Hữu Thỉnh bám sát hiện thực cuộc sống và phản ánh trung thành

những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm,

hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mảng thơ viết về chiế n

tranh củ a Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử thi và cái cao cả, nằm trong giới

hạn kiểu nhà thơ trữ tình công dân, thể hiện cái tôi s ử thi củ a thơ ca cách mạng hiện đại. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã có nhiều thành tựu đóng góp cho thi ca

chiến tranh qua những bài thơ và các trường ca khá nổi tiếng của anh gần 40

năm trước đây.

Sống và cống hiến cả tuổi thanh xuân trên nhiều mặt trận, quãng đời áo

lính luôn đi cùng văn nghiệp Hữu Thỉnh. Nhập ngũ vào bộ đội Tăng Thiết

Giáp lúc tuổi hai mươi sắc xuân phơi phới, kinh nghiệm sống của đời lính

Tăng giúp Hữu Thỉnh “kết tủa” nên bài thơ để đời. Sau này, bài thơ của anh

được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc mà cho đến nay Năm anh em trên một

chiếc xe tăng đáng được xem là “Tăng Thiết giáp ca”. Cũng như nhiều thanh

niên thời đại ấy, Hữu Thỉnh tham gia nhiều mặt trận trong cuộc kháng chiến

26

chống Mỹ: Đƣờng 9 – Nam Lào, Khe Sanh, Quảng Trị, Tây Nguyên…

Niềm tin sắt đá về lý tưởng độc lập, chiến đấu vì hòa bình dõi theo thanh niên

của cả một thế hệ. Giữa bom rơi, lửa đạn, thế hệ nhà thơ, nhà văn chống Mỹ

tay súng tay bút “trường chinh” với văn chương. Hữu Thỉnh cũng là một cánh

chim thơ tiêu biểu của thế hệ này. Lẽ thế, cuộc đời người lính tham gia cuộc

kháng chiến vĩ đại của dân tộc chính là “mảnh đất”, “kinh nghiệm sống” cho

tài năng thơ ca của Hữu Thỉnh nảy mầm, thăng hoa.

Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942. Sinh ra trong một gia đình

nông dân có truyền thống Nho học nhưng anh đã trải qua tuổi thơ ấu không dễ

dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho

các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân.

Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, anh mới được đến trường. Năm

1963 anh tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc

Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động như chăn

bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm

cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua

hầu khắp các chiến trường máu lửa.

Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn

Việt Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp

hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá III.

Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách Phó Tổng Thư ký

Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội Nhà văn

Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần), đồng thời kiêm nhiệm

Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng

ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn

Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá

X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng Thứ kí Hội Nhà văn Việt Nam.

27

Các giải thưởng văn học: Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ 1975-

1976, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980, Giải thưởng văn học

ASEAN 1999, Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 1994, Giải thưởng Nhà nước

về văn học nghệ thuật đợt I năm 2001.

 Âm vang chiến hào (In chung)

 Đƣờng tới thành phố (Trường ca)

 Từ chiến hào tới thành phố (Trường ca, thơ ngắn)

 Khi bé Hoa ra đời (Thơ thiếu nhi, in chung)

 Thƣ mùa đông

 Trƣờng ca biển

 Thƣơng lƣợng với thời gian

Hữu Thỉnh có những tập thơ và những bản trường ca sau:

1.3.3. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu lấy tên khai sinh là bút danh, sinh ngày 14

tháng 1 năm 1948, tại làng Vị Khê, xã Nam Điền, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam

Hà (Nam Định ngày nay). Quê hương Nguyễn Đức Mậu là làng quê đồng

bằng Bắc bộ nghèo như bao làng quê chiêm trũng khác, đã hứng chịu biết bao

biến động của lịch sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn

của kẻ thù trong chiến tranh. Nguyễn Đức Mậu sinh ra trong một gia đình

trung nông lớp dưới nhưng cha lại là người rất ham học và say mê văn

chương. Ngay từ nhỏ, cuộc sống gia đình vốn gắn bó với đồng ruộng đã tôi

luyện ở Nguyễn Đức Mậu một niềm say mê với đất đai và sự nhạy cảm với

con người, thiên nhiên, đất nước… Anh còn được thừa hưởng truyền thống

văn hóa, tinh thần yêu nước cách mạng của gia đình.

Say mê sống và say mê sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu là người đam mê

thơ ca từ thủa ấu thơ. Ngay từ nhỏ anh đã làm thơ và có tác phẩm đăng báo.

Mười bảy tuổi lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của Tổ quốc, anh đã có mặt

trong đội hình sư đoàn chủ lực trong chiến tranh, sư đoàn 312 anh hùng.

28

Nguyễn Đức Mậu đã phải sống những tháng ngày gian khổ, đã giáp mặt với

chiến tranh, cận kề với bom đạn và cái chết. Bước chân của anh từng lăn lộn ở

hầu khắp các chiến trường đầy gian khổ, ác liệt: Cánh đồng Chum - Xiêng

Khoảng (Lào), Quảng Trị, Khe Sanh, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Sài

Gòn. Tuổi trẻ của anh đã thuộc về ký ức chiến tranh. Những thử thách đó như

lửa thử vàng càng làm sáng tỏ lý tưởng cách mạng kiên định trong tâm hồn

nhà thơ. Cuộc đời chiến sĩ cùng với năng khiếu thơ bẩm sinh, sự nghiệp thơ

ca của anh thực sự được bắt đầu trong những tháng ngày chiến đấu. Nguyễn

Đức Mậu đã biết chắt lọc từ trong khói lửa, trong hi sinh mất mát những vần

thơ mang âm hưởng sử thi hào hùng. Nói đến duyên thơ của Nguyễn Đức

Mậu không thể không nhắc đến sự song song và thống nhất của con đường

văn nghiệp và con đường binh nghiệp. Những năm đầu sáng tác trực tiếp trên

chiến trường về đề tài người lính và chiến tranh, thơ của Nguyễn Đức Mậu

được đăng nhiều trên các tờ báo: Văn nghệ, Văn nghệ quân đội… và được

nhiều người biết đến. Nhưng phải đến khi Nguyễn Đức Mậu thắp nén nhang

bằng thơ cho những người đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường và cho cả

cuộc chiến tranh đẫm máu qua bài thơ “Nấm mộ và cây trầm”, bài thơ như

một nét chấm phá mới lạ điểm trong thơ anh, thì tên tuổi của Nguyễn Đức

Mậu gây được sự chú ý. Anh trở thành một nhà thơ khoác áo lính. Ý thức

được vai trò và trách nhiệm cao cả của một “nhà thơ cầm súng”, Nguyễn Đức

Mậu gắn mình vào cuộc sống chiến đấu và lao động sáng tạo để nâng mình

ngang tầm thế hệ. Anh kết hợp tay súng với ngòi bút để làm vũ khí chiến đấu,

cổ vũ chiến đấu. Những kỷ niệm về chiến tranh và cuộc sống chiến đấu in

đậm trong tâm hồn nhà thơ. Đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt,

bằng sự nhạy cảm và chất thi sĩ trời phú, nhà thơ đã có nhiều tác phẩm xúc

động về người lính, về chiến tranh. Theo dấu chân người lính, Nguyễn Đức Mậu

đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi thở cuộc sống chiến trường, trong đó người

chiến sĩ là hình ảnh trung tâm. Hòa bình lập lại anh trở về công tác tại ban thơ

Báo Văn nghệ quân đội cho đến nay. Năm 1982 anh theo học trường Viết văn

29

Nguyễn Du khóa I. Trường học là sự trau dồi tài năng nghề nghiệp để rồi những

vốn sống thực tế đầy ắp trong chiếc ba lô cũ sờn kia chưa có điều kiện bộc lộ hết

giờ có thêm sức mạnh bật ra trọn vẹn hơn. Viết về chiến tranh như dữ dội và đau

đớn hơn. Đến nay, với trên hai chục đầu sách gồm cả thơ, văn, tác phẩm viết cho

thiếu nhi,… tất cả đã cho thấy Nguyễn Đức Mậu có một sức sáng tạo thật dồi

dào. Đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt, bằng sự nhạy cảm và chất thi

sĩ trời phú, nhà thơ đã có nhiều tác phẩm xúc động về người lính, về chiến tranh.

Theo dấu chân người lính Nguyễn Đức Mậu đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi

thở cuộc sống chiến trường, trong đó người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm.

Hiếm có nhà thơ giành được nhiều giải thưởng văn học có giá trị như

anh, từ giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972 -1973 đến 4 giải

thưởng Bộ Quốc Phòng năm 1989, 1994, 2004, 2009; 2 giải thưởng Hội Nhà

Văn năm 1993, 1999. Anh là nhà thơ thứ năm giành giải thưởng ASEAN năm

2001(sau Tố Hữu, Ma Văn Kháng, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khải) và giải thưởng

 Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001

 Giải thưởng văn học Asean năm 2001

 Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972-1973

 4 giải bộ Quốc phòng (1989, 1994, 2004, 2009)

 2 giải Hội nhà văn (1993, 1999)... và một số giải thưởng văn học khác.

Nhà nước năm 2002.

Tác phẩm chính:

Thơ :

-Thơ ngƣời ra trận (In chung cùng Vương Trọng, 1971)

- Cây xanh đất lửa (1973)

- Áo trận (1973)

- Mƣa trong rừng cháy (1976)

- Trƣờng ca sƣ đoàn (Trường ca, 1980)

- Hoa đỏ nguồn sông (1987)

30

- Từ hạ vào thu (1992)

- Bão và sau bão (1994)

- Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998)

- Bầy chim màu lá vàng ( 2004)

- Thơ lục bát (2007)

- Mở bàn tay gặp núi (Trường ca, 2008)

- Từ trong lòng cuộc chiến (2010)

Truyện ngắn, phê bình và tiểu thuyết:

- Con đƣờng không quên (Truyện ngắn, 1984)

- Ở phía rừng Lào (Truyện vừa, 1984)

- Tƣớng và lính (Tiểu thuyết, 1990)

- Chí Phèo mất tích (Tiểu thuyết, 1993)

- Con đƣờng nhiều tơ nhện giăng (Tập truyện ngắn, 2001)

- Niềm say mê ban đầu (Tiểu luận phê bình, 2010)

31

CHƢƠNG 2: CÁI NHÌN CHIẾN TRANH TRONG THƠ

PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU

2.1. Đôi nét so sánh giữa thơ miền Nam và thơ miền Bắc cùng thời kỳ

(1955 - 1975)

Thơ miền Nam thời chiến là một nền thơ mang màu sắc bi quan, phản

chiếu nhiều hơn là cổ vũ cho chiến đấu. Có lẽ đó là mặt tích cực nhất đứng từ

góc độ tư tưởng hay cảm hứng nghệ thuật. Phản chiến có mặt thuận của nó là

không đồng tình với việc hộ tống cho quân Mỹ. Nhưng mặt nghịch của tư

tưởng phản chiến là sự phớt lờ của hàng chục vạn quân Mỹ, và chỉ nhìn thấy

quân Việt Cộng. Bởi nhiều nhà thơ là chiến binh trong quân đội Việt Nam

Cộng hòa, cho đến tận bây giờ vẫn không coi cuộc chiến tranh đó là cuộc

chiến tranh Việt – Mỹ mà coi đó là cuộc chiến tranh Việt Nam. Cách nhìn và

cách gọi tên cuộc chiến tranh như thế làm cho ý thức dân tộc bị nhòe mờ và

đôi khi ngộ nhận đó là cuộc phân tranh kiểu Trịnh – Nguyễn:

Anh nghĩ gì sau lần trận đánh

Máu Việt Nam lẫn sỏi Việt Nam

Mã tấu lưỡi lê dao dài lựu đạn

Mảnh quê hương vùng Á châu buồn

(Tình tự - Chu Vƣơng Viện)

Do cách nhìn chiến tranh có tính đơn tuyến như vậy, quê hương đất nước

không còn là đối tượng của yêu thương và gìn giữ mà chứa chất đầy hiểm họa.

Biên cương không phải là mảnh đất thiêng liêng đáng ôm ấp và ca ngợi. Biên

cương vẫn là nơi xa xôi, lạ lẫm. Trong tư duy của đa số các nhà thơ miền Nam chế

độ Việt Nam Cộng hòa, chiến tranh 1965 – 1975 là một nỗi đau, là tai ương trời

giáng xuống để hành hạ những con người nhỏ bé đáng thương. Có nhà thơ đã xám

hối khi bước vào quân ngũ, sống cuộc đời quân ngũ. Khi thấm cái gian khổ, cái

32

đau thương cuộc đời người lính vác khẩu súng nặng trên vai, người lính như nhận

ra cái sự thực cay đắng của cuộc đời mà trước đây anh không thể nào hiểu được.

Cái tâm trạng ấy hoàn toàn ngược với cái tâm trạng hồ hởi trong thơ

miền Bắc cùng thời kỳ. Cái quan niệm văn học nghệ thuật là một thứ vũ khí,

quan niệm “tiếng hát át tiếng bom” đã phần nào hạn chế những cảm xúc bi ai,

thương đau. Mới suy nghĩ về Vòng trắng, Khăn tang trên đầu nhƣ một số

không (Phạm Tiến Duật) hay trăn trở về cái Sẹo đất do hố bom để lại trên

mặt ruộng (Ngô Văn Phú) thì dư luận báo chí đã ồn lên như những vụ xì –

căng – đan gây tai nạn chết người. Thơ phải là bài ca kêu gọi ra trận tràn đầy

tính lạc quan, tính chiến đấu. Dĩ nhiên, đó không phải hoàn toàn là sự cưỡng

bức, sự bắt buộc của lý luận, của kiểm duyệt mà chính là tiếng lòng của các

nhà thơ, ý chí và tâm sự của chính các nhà thơ đã tạo nên những câu thơ như

thế: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố

Hữu); “Xóm dưới làng trên, con trai con gái/ Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo

nhau/ Súng nhỏ súng to, chiến trường chật chội/ Tiếng cười hăm hở đầy sông

đầy cầu” (Chính Hữu); “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật);

“Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn” (Hoàng Nhuận Cầm). Nhưng đó là

một loại thơ khác, một phương pháp sáng tác khác: Thế giới quan Mác – xít

và phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.

2.2. Hiện thực đời sống chiến trƣờng

Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ chung của cả nền

văn học thời kì chống Mỹ nói chung và thơ ca nói riêng. Trong sự nỗ lực

chung ấy, thơ trẻ chống Mỹ đã vượt lên, góp vào nền thơ chống Mỹ những

trang thơ viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất ác liệt, dữ

dội, những hi sinh gian khổ của con người Việt Nam trong chiến tranh. Về

phương diện này có thể xem thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một dòng thơ giàu

có, chi tiết, cụ thể, sống động. Nhiều nhà thơ trẻ đã mạnh dạn đưa vào thơ

những chi tiết ngổn ngang, bề bộn, đầy phức tạp của đời sống chiến trường.

33

2.2.1. Hiện thực mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca

Trong nhu cầu thiết yếu của lịch sử, thơ ca ngoài việc phản ánh đời

sống hiện thực của con người còn có nhiệm vụ cao quý hơn là phục vụ cách

mạng. Vì thế không riêng gì Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu,

mà tất cả các nhà thơ khác đều sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm

hứng ngợi ca đóng vai trò chủ đạo trong các tác phẩm. Thơ ca chống Mỹ biểu

hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống, về thắng lợi của

hiện tại và tin tưởng vào tương lai. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nội

dung chủ yếu được thơ khai thác và biểu hiện với nhiều sắc thái. Có thể nhận

thấy rằng, khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca trong thơ kháng chiến

chống Mỹ luôn mang cảm hứng lịch sử, thời đại, dân tộc. Đó là cái tôi mang

sứ mệnh lịch sử. Chẳng hạn, trong thơ xưa chia li là nhuốm màu sắc u buồn,

thê lương, ảm đạm “Người lên ngựa kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm

màu quan san?” (Truyện Kiều – Nguyễn Du), “Hoàng hôn đầy trong mắt

trong” (Tống biệt hành – Thâm Tâm),… thì trong thơ cách mạng, chia li lại

là chia li màu đỏ, màu của lý tưởng, dồn nén tình cảm riêng, tất cả vì nghĩa

lớn “Đó là cuộc chia li chói ngời sắc đỏ/ Tươi như cánh nhạn lai hồng” (Cuộc

chia li màu đỏ - Nguyễn Mỹ). Tình yêu đôi lứa hòa lẫn trong tình yêu rộng

lớn – tình yêu đất nước “Nhớ nhau anh gọi: Em, đồng chí/ Một tấm lòng trong

vạn tấm lòng” (Núi đôi – Vũ Cao). Cao đẹp nhất là ý thức mình được hòa

vào nhân dân: “Con gặp lại Nhân dân như nai về suối cũ/ Cỏ đón giêng hai

chim én gặp mùa” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên).

Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965 – 1975), Phạm Tiến Duật

nổi bật với những tác phẩm viết về chiến tranh. Đây là thời kỳ anh viết

khỏe và tốt nhất, tạo được dấu ấn riêng trên thi đàn văn học. Bức tranh toàn

cảnh về cuộc chiến đã được anh khắc họa, mô tả chân thực, sống động. Có

thể nói, sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã mang đến cho nền thơ Việt

Nam sinh khí mới, góp phần cổ vũ tinh thần cho những con người đang

trực chiến nơi tiền tuyến.

34

Yếu tố sử thi trong thơ được Phạm Tiến Duật phát huy triệt để và đóng vai

trò chủ đạo trong các tác phẩm. Phạm Tiến Duật là nhà thơ đưa chất sử thi lan thấm

và những vần thơ của đời thường. Anh đã kết hợp được nhuần nhị giữa lý tưởng và

sự kiện, giữa năng lực quan sát và tấm lòng của một người lính trẻ. Chất hiện thực

ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ và hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên

đường Trường Sơn thời đánh Mỹ kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo

nên những vần thơ góc cạnh đầy ấn tượng. Cái khốc liệt của chiến trường, sự hi

sinh, mất mát đã nhường chỗ cho lòng quả cảm, ý chí kiên cường, bất khuất, không

ngại gian khổ, vượt qua bom đạn, hay nói đúng hơn là cái tôi cá nhân được thay thế

bằng cái ta chung của cộng đồng, tập thể. Trong chiến trường sự hi sinh, mất mát,

sức tàn phá của bom đạn cũng chỉ thoáng qua. Vượt lên trên tất cả là lý tưởng và sức

chịu đựng của con người, ngay cả người trong cuộc cũng không hiểu vì sao con người

lại phi thường đến vậy. Đọc thơ anh, người đọc sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh về những

cô thanh niên xung phong dũng cảm, kiên cường với những ấn tượng khó quên:

Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét

Tóc lá xả đâu đó vẫn bay hương

(Lửa đèn)

Mảng thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử

thi và cảm hứng ngợi ca, nằm trong giới hạn kiểu nhà thơ trữ tình công dân,

thể hiện cái tôi sử thi của thơ ca cách mạng hiện đại. Cảm hứng chủ đạo ở

mảng thơ viết về chiến tranh của anh là cảm hứng sử thi, cảm hứng trước cái

cao cả, trong niềm say mê khẳng định tình yêu lớn, lẽ sống lớn. Hình ảnh

nhân dân vĩ đại cùng với những phẩm chất kiên cường, bất khuất, thủy chung:

Không quay mặt chẳng bao giờ tiếc máu

Dù cho phải đốt dãy Trường Sơn

Dù cho ăn chay ăn độn

Bíu lấy lá rau như bíu lấy lá buồm

Qua sóng gió hiểm nghèo trăm trận đói

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

35

Cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt mà cũng vô cùng oanh liệt.

Chân giá trị của dân tộc và của mỗi người được đem ra thử thách, khe khắt và

chân xác. Là người trực tiếp cầm súng, Hữu Thỉnh có điều kiện thấm thía điều

đó sâu sắc, anh “nhập cuộc, dấn thân”. Chính trong quá trình đó, Hữu Thỉnh

nhận ra cội nguồn sức mạnh của dân tộc, của người lính mà đôi khi bản thân

họ cũng không ngờ tới. Một trong những nguồn nuôi dưỡng tâm hồn và làm

nên sức mạnh của quân đội cách mạng thời ấy là thi ca: “Chúng tôi sưởi trên

những câu thơ ấy/ Cứ thế qua đi nhiều mùa mưa” (Đƣờng tới thành phố).

Hiện thực đời sống trong những năm chống Mỹ và ngọn lửa chiến tranh

cách mạng đã tôi luyện Nguyễn Đức Mậu thành con người vững vàng trong cuộc

sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Giáp mặt với thực tế chiến tranh, Nguyễn Đức

Mậu đã ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình, sự xuất hiện đúng lúc của

thế hệ mình. Với anh, hình ảnh người nữ chiến sĩ hiện lên trong sự xúc động ngạc

nhiên lẫn cảm phục, ngợi ca:

Em phá bom như việc cấy cày thôi

Nghe em kể về bom anh lạ quá

Bom nổ nhỏ hơn bởi tiếng em cười

(Nơi em ở nhiều bom đến nỗi – Nguyễn Đức Mậu)

Khuynh hướng sử thi trong thơ anh thể hiện tiếng hát tiếng cười của

một dân tộc đang chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Người đọc tìm thấy

trong thơ anh sự thanh thản của tâm hồn giữa bộn bề gian khổ, hi sinh.

Mặc dù cuộc chiến đấu chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trong cảnh mưa bom,

bão đạn, nhưng khắp các chiến trường trên mảnh đất Việt Nam đâu đâu cũng rộn

rã tiếng hát, tiếng cười. Đâu có phải “khi đại bác gầm thì họa mi im tiếng hót” mà

“tiếng hót” ấy càng cất cao hơn, réo rắt hơn nhằm lấn át tiếng đại bác:

Lửa bộc phá lóe lên phá sập bốt đồn

Anh bỡ ngỡ ngã vào tay đồng đội

Vui chiến thắng chỉ cười thôi, không nói…

Bàn tay anh in lên đất chiến hào

Thành ngôi sao nở xòe năm cánh đẹp”

(Bàn tay biết đi – Nguyễn Đức Mậu)

36

Những năm tháng sống và chiến đấu trên chiến trường là những năm

tháng sáng tác say mê nhất của Nguyễn Đức Mậu. Niềm say mê của tuổi trẻ

vừa cầm súng vừa làm thơ. Hình ảnh những người chiến sĩ hiện lên trong thơ

Nguyễn Đức Mậu là những con người bình dị nhưng rất đẹp và cao cả. Họ là

những con người chịu đựng gan góc. Hơn một tháng trời tiểu đội bộ binh bám

trụ trên chốt, họ phải nằm trên những thùng đạn. Mùa mưa, nước cuốn theo

xác chuột chết lẫn mùi bom hơi, thuốc súng chảy qua đầu, qua vai, nhuộm

đầm lên quần áo họ “đôi giày không khô, quần áo không khô”… rồi có những

cơn sốt rét rừng hành hạ, những bữa ăn triền miên chỉ sắn và lương khô…

nhưng họ đã sống và chiến đấu hết mình, kì diệu hơn cả họ lại là những người

chiến thắng:

Mưa gầm lên tưởng cuốn cả cây rừng

Mây xám, mưa tuôn, kẻ thù: mưa lửa

Trăm trận đánh đồi xanh thành đồi đỏ

Thành màu cờ cháy rực suốt mùa mưa

(Tiểu đội bộ binh trên chốt mùa mƣa – Nguyễn Đức Mậu)

Cái nhìn của Phạm Tiến Duật không thiên về miêu tả sự dữ dội của

chiến tranh mà chủ yếu thể hiện hình ảnh những con người mang dòng máu

của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lạc quan, tha thiết yêu đời trong hoàn

cảnh chiến đấu gian khổ, hiểm nguy. Lý giải điều này anh đã viết “Cốt chụp

lấy khuôn mặt của ta/ Còn cái ác liệt của giặc thì có gì mà phải chụp” (Một

bài thơ không vần kể chuyện chụp ảnh ở một vùng giáp với mặt trận).

Những gương mặt, cử chỉ, hành động, giọng nói, tiếng cười, tình cảm giữa

con người với con người trong chiến tranh được anh khắc họa đậm nét. Hay

từ những tình cảm, cảm xúc chân thành dành cho một cô gái trong cái đêm

“Thạch Nhọn – Thạch Kim” ấy, nhà thơ đã giúp người đọc thấy được gương

mặt chung của một lớp trẻ, bởi vậy mà: “Tên em đã thành tên chung anh gọi –

em là cô thanh niên xung phong”.

37

Cũng như nhiều nhà thơ thời đó, cái nhìn chiến tranh trong thơ Phạm

Tiến Duật mang đậm chất lý tưởng của người lính gánh vác trên mình trọng

trách cao cả. Cho nên, sự hiện diện của kẻ thù với những vũ khí hiện đại với

sức mạnh hủy diệt càng góp phần làm chân dung người lính tỏa sáng hơn, làm

tăng thêm giá trị của cuộc chiến.

Nguồn cảm hứng về một dân tộc anh hùng, cùng với những năm tháng

gian khổ, băng qua bom đạn và hi sinh đã tạo tiền đề cho hồn thơ Hữu Thỉnh

có cơ hội được bay cao hơn. Hòa cùng không khí của cuộc kháng chiến, thơ

Hữu Thỉnh luôn hướng về vấn đề lớn của dân tộc, của thời đại. Cảm hứng về

Tổ quốc được kết tinh rõ nét trong những vần thơ Hữu Thỉnh, luôn là hình

ảnh một Việt Nam: anh dũng, kiên cường, luôn ngẩng cao đầu, không chịu lùi

bước trước mọi sức mạnh. Hữu Thỉnh luôn khát khao, mong chờ những câu

thơ của mình chứa đựng, phản ánh và lý giải được sự kỳ diệu đã tạo nên vầng

hào quang chói lòa của lịch sử đất nước, đó chỉ có thể là lợi ích cá nhân và lợi

ích của cả dân tộc đã được thống nhất trong một khối toàn vẹn, khát vọng tự

do của mỗi cá nhân cũng chính là khát vọng cháy bỏng của nhân dân:

Ta đi trong rừng suốt một thời trai trẻ

Đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng

Quen nhớ nhà, quen nhạt muối

Khúc dân ca hát đi hát lại

(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)

Có thể nói tinh thần lạc quan, lòng yêu đời, yêu người tha thiết đã trở

thành tình cảm thường trực trong lòng nhà thơ – người chiến sĩ ấy, khiến anh

như lúc nào cũng muốn reo lên ngợi ca:

Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao

Những năm trường sơn bạn bè trong trẻo quá

(Tiếng hát trong rừng – Hữu Thỉnh)

38

Hiện thực chiến trường là những hi sinh, mất mát, là những gian khổ và

thiếu thốn. Nguyễn Đức Mậu viết trực tiếp về cuộc thiếu thốn gian khổ đó là

để ngợi ca sức sống bền bỉ, quật cường, tinh thần chiến đấu của con người

Việt Nam. Để có những vần thơ như thế nhà thơ luôn trăn trở, băn khoăn, suy

nghĩ: “nhiều lúc đọc lại những bài thơ của mình tôi cứ thầm nhủ: làm thế nào

để có thể ca ngợi, phản ánh trung thực cuộc chiến đấu vĩ đại đó của quân dân

ta? Lẽ nào mình cứ nói về một ngọn gió làm duyên ở chiến trường khi anh

trinh sát cuộn tròn trong tiếng thì thầm có gai của cây xấu hổ? Viết thế nào?

Câu hỏi dường như cũ mòn ấy cứ hay trùng lặp lại” [11, tr.6]. Niềm băn

khoăn trăn trở ấy đã thôi thúc nhà thơ luôn tìm tòi sáng tạo, những vần thơ ca

ngợi vì thế mà như được vút cao hơn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Đức Mậu

hình ảnh một đơn vị ngủ rừng hiện lên như một bức tranh vừa hoành tráng

vừa gần gũi chân thực:

Người tựa lưng vào dãy Trường Sơn

Thành bức tượng đồng mới tạc

Người nằm trên đỉnh đèo chót vót

Mây trắng vờn bay mái tóc mềm

Người gối đầu lên mảnh trăng liềm

Cây lá êm đưa sao lùa dưới võng

Suối ven đường lửa bỏng

Đêm nay đơn vị ngủ rừng

(Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc – Nguyễn Đức Mậu)

Phạm Tiến Duật đã vận dụng thành công lối viết ngợi ca theo nhịp biến

chuyển của lịch sử. Nếu như chúng ta chỉ nhìn nhận chiến tranh cách mạng ở

khía cạnh mất mát, đau thương, ghê sợ, tiếc nuối và xót xa thì cái nhìn đó

mang tính phiến diện. Cần nhận định rằng cuộc chiến tranh của chúng ta là

39

cuộc chiến tranh chính nghĩa và sự hi sinh của chúng ta là chính đáng, cần thiết,

cao cả, xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cho nên việc ca ngợi khí thế hào hùng

trong thơ là điều tự nhiên, tạo nên sức sống mới cho thơ ca chống Mỹ:

Còn giao hưởng nào hơn giao hưởng Trường Sơn

Tiếng người, tiếng xe, tiếng súng, tiếng bom

Tiếng đêm khuya con công tố hộ

Tiếng núi xô ầm ầm đá đổ

Tiếng gió đi vào, tiếng gió đi ra

Tiếng rầm rì hai miền đi qua…

(Chào mừng đạo quân tuyên truyền – Phạm Tiến Duật)

Nếu nhìn nhận ở góc độ lịch sử, Phạm Tiến Duật đã tạo dấu ấn sâu đậm

cho thơ ca chống Mỹ khi phác họa thành công bức tranh đẹp về toàn cảnh con

người Việt Nam trong chiến tranh. Ở đó con người sống bằng lý tưởng. Ngòi

bút của nhà thơ đã len lỏi vào từng góc cạnh đời sống chiến trường, niềm vui,

nỗi buồn và cả khát vọng về ngày mai tươi đẹp hiện lên trong thơ anh bình dị

và nhiều ý nghĩa. Chữ Văn Long đã tinh tế khi cho rằng: “Khi anh viết những

câu thơ nghiêng về vẻ đẹp hồn nhiên sự sống, cả một bầu không khí trận mạc

gian khổ hi sinh, ngàn vạn con người cùng bước chân đi theo lý tưởng thống

nhất đất nước, giải phóng dân tộc, những câu thơ anh lý tưởng hóa cuộc như

vậy, là lẽ đương nhiên” [16, tr.959]. Từ ngàn xưa, nước Việt Nam luôn đối mặt

với nạn ngoại xâm và ông cha ta đã tỏ rõ khí thế của một dân tộc anh hùng,

không hề nao núng dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Trong những lúc như thế

tinh thần đoàn kết dân tộc được phát huy đến mức cao nhất, đó là yếu tố góp

phần tạo nên thắng lợi.

Ra đời và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài, những

năm tháng đất nước bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thơ ca

1965 – 1975 không thể là tiếng nói riêng của cá nhân mà là tiếng nói của cả

cộng đồng. Số phận con người gắn liền với số phận, vận mệnh chung của toàn

40

dân tộc. Thơ ca mang đậm chất sử thi và cảm hứng ngợi ca, tập trung phản

ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước. Cái đẹp

trong thơ gắn liền với ý niệm Tổ quốc trường tồn. Mỗi người dân Việt Nam

bằng lòng yêu Tổ quốc tha thiết đã tự nguyện hi sinh lợi ích cá nhân, kể cả

sinh mệnh của mình vì đất nước, quê hương.

Có thể nói giai đoạn chống Mỹ cứu nước, thơ ca nở rộ, phản ánh hơi

thở của cuộc sống và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, thơ ca giai

đoạn này nói chung và của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu

nói riêng đã khắc họa được trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Cái đẹp

hòa với cái hùng, cái cao cả, yếu tố sử thi và cảm hứng ngợi ca hiện lên trong

thơ ca mang một chiều sâu tư tưởng, khái quát được hiện thực đời sống nhưng

không xa rời cuộc sống. Cả ba nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn này mang

ý thức hệ rất rõ ràng, nhận thức lý tưởng cách mạng sâu sắc. Vì vậy thơ ca

của ba nhà thơ – chiến sĩ là một nốt trầm hùng trong bản nhạc tráng ca của

thời đại. Không chỉ là nhà thơ, các anh còn là những người trực tiếp lăn lộn

với chiến trường ác liệt, thơ ca của các anh là những rung động, những trải

nghiệm trực tiếp từ cuộc sống của con người, quê hương đất nước. Đó là

những con người biết sống vì mục đích cao cả, thiêng liêng, biết hi sinh, cống

hiến để giải phóng dân tộc khỏi kiếp lầm than, nô lệ là lẽ sống của thời đại.

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca của các nhà thơ chủ yếu hướng tới

cuộc sống của giai cấp, của dân tộc, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trong

sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2.2.2. Sự khốc liệt của chiến tranh

Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ chung của cả nền

văn học thời kỳ chống Mỹ nói chung và thơ ca nói riêng. Trong sự nỗ lực

chung ấy, thơ trẻ chống Mỹ đã vượt lên, góp vào nền thơ chống Mỹ những

trang thơ viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất dữ dội, ác

liệt, những hy sinh gian khổ của con người Việt Nam trong chiến tranh. Về

41

phương diện này, có thể xem thơ trẻ chống Mỹ là một dòng thơ giàu có chi

tiết cụ thể, sống động. Nhiều nhà thơ trẻ đã mạnh dạn đưa vào thơ những chi

tiết ngổn ngang, bề bộn của đời sống chiến trường. Sống giữa chiến trường,

những nhà thơ trẻ đã chứng kiến tận mắt những cảnh tượng dữ dội, ác liệt của

chiến tranh nên có thể nói, họ đã ghi lại một cách đầy đủ về quang cảnh chiến

trường Trường Sơn. Có những sự thật trần trụi tưởng chừng như vô lí ở Trường

Sơn cũng được các tác giả ghi lại :

Cây lá thiếu màu xanh

Rừng hoang thừa tiếng nổ

(Trƣờng ca sƣ đoàn - Nguyễn Đức Mậu)

Không phải là người đứng ngoài để tưởng tượng về chiến tranh nữa,

các nhà thơ trẻ đã thực sự sống giữa chiến trường. Cái thế mạnh của người

trong cuộc này đã tạo nên những vần thơ giàu chi tiết chân thực:

- Đây Quảng Trị lần đầu ta gặp

Bom B52 cắt dọc đội hình

- Dọc triền sông súng nổ đêm ngày

- Sau trận đánh ta còn nghe súng nổ

- Bom dội từ trời sâu, đạn nổ dưới chân trời.

(Trƣờng ca sƣ đoàn - Nguyễn Đức Mậu)

Với Phạm Tiến Duật, là một nhà thơ vừa cầm súng vừa cầm bút, anh đã

bao quát hết mọi góc cạnh của cuộc chiến, kể cả sự tàn phá, hủy diệt của

chiến tranh đối với đời sống con người. Ở thơ anh, người đọc sẽ bắt gặp rất

nhiều những hình ảnh về những hiểm nguy mà người lính trải qua. Có khi anh

miêu tả một cách rõ ràng, cụ thể từng chi tiết, nhưng có khi lại ẩn đi đằng sau

lời nói của nhân vật về tính ác liệt của cuộc chiến. Điển hình là Bài thơ về

tiểu đội xe không kính. Hàng loạt điệp từ được anh sử dụng: không có 5 lần,

nhìn 5 lần, như là một minh chứng cho hiện tại, không nhưng lại là có. Chiến

tranh là thế đấy, tất cả mọi thứ đều bị thiêu hủy, ngay cả mạng sống của con

người cũng được tính từng giờ, từng phút:

42

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

… Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Mỗi nhà thơ đều có cách thể hiện sự vật, hiện tượng theo cảm nhận cá

nhân. Có người nhìn chiến tranh ở góc độ nhân văn. Có người nhìn ở góc độ tiến

trình lịch sử. Nhưng dù đặt ở góc nhìn nào thì cũng phải nằm trong quy luật vận

động, phát triển của văn học và điều tất nhiên là phải gắn với đời sống con

người, dân tộc. Hình ảnh chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật đều hiền lên rất

cụ thể, chi tiết, không hề che giấu, thậm chí tỉ mỉ đến cả những nguy hiểm đe

dọa tính mạng con người trên Trường Sơn. Bằng sự quan sát tinh tế, ngòi bút

đầy bản lĩnh và trực diện, anh đã xây dựng lên nhiều hình ảnh cụ thể, mặt ác

nghiệt, tàn bạo của chiến tranh qua những vần thơ hào hùng của mình:

Chúng lao xuống nơi nao

Loe ánh lửa,

Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.

(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)

Với Hữu Thỉnh làm thơ là cách tốt nhất để anh ghi lại những hình ảnh,

những màu sắc, những thanh âm đa dạng của cuộc đời. Cũng chính vì thế người

đọc dễ dàng nhận thấy thơ anh là tấm gương phản ánh chân xác cuộc đời thực, là

“cuốn sử” bằng thơ về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là sự khốc liệt của

chiến tranh, là lai lịch các tâm hồn, là những số phận điển hình trong nhân dân.

Viết về Trường Sơn những năm tháng chiến tranh dữ dội:

Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét

(Tiếng hát trong rừng - Hữu Thỉnh)

Anh đã hòa tiếng thơ của mình vào cảm hứng chung của cả dân tộc

trong cuộc kháng chiến, sáng tác thơ chống Mỹ vì thế mà rắn rỏi, hiện thực và

mang tầm khái quát lớn lao. Những tháng ngày “xẻ dọc Trường Sơn” được

43

đong đầy trong thơ anh. Sự khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong

những năm mưa bom bão đạn đã được ngòi bút của Hữu Thỉnh phản ánh một

cách chân thực và sinh động. Đó là một cuộc chiến đấu gian khổ, đầy cơ cực,

luôn phải đối mặt với sự rình rập của kẻ thù, với sự khó khăn thường trực

đang ngày đêm diễn ra giữa rừng núi Trường Sơn:

Khi bản Đông thành một nấm mồ

Những hãng phương Tây đưa tin nhớn nhác:

-Chưa bao giờ những binh đoàn thiết giáp

Của đối phương lại áp đảo như đây

(Sau trận đánh – Hữu Thỉnh)

Sống giữa chiến trường, Nguyễn Đức Mậu đã chứng kiến tận mắt

những cảnh tượng dữ dội, ác liệt nhất của chiến tranh. Gắn bó, lăn lộn nhiều

năm ở rừng Trường Sơn, anh đã ghi lại những hình ảnh đầy chân thực. Sự

khốc liệt trong thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ được khắc họa bó hẹp trong

bối cảnh chiến trường mà còn được mở rộng tới hậu phương, vùng địch tạm

chiếm hay cả ở những vùng địa hình khốc liệt:

Khẩu pháo không một ngày mặc áo

Đồi thông vàng che giàn tên lửa

Trận địa súng trường ở cao, đào sâu

Lưng rồng tỏa ra ngang dọc chiến hào

(Trận địa trên lƣng rồng)

Tưởng như ngay cả thiên nhiên và cảnh vật cũng không được một ngày

nghỉ ngơi bởi sự tàn phá của chiến tranh. Cảnh vật thiên nhiên được nhà thơ

khắc họa theo chiều dài của chiến trường:

Cây thông cháy đứng lên làm cột số

Vết dao anh khắc gỗ vẫn còn đây

Những con số thơm thơm dòng nhựa

Hương nồng nàn hơi ấm bàn tay

(Theo những con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)

44

Tiếng bom, tiếng gầm rú của máy bay, những luồng pháo sáng điểm

hỏa, tiếng còi báo động,… luôn hiện diện trong thơ Phạm Tiến Duật những

năm chống Mỹ. Không nhà thơ nào lại mô tả những thanh âm đó một cách

sống động và trần trụi đến vậy “Nghe bom dội đêm ngày/ Âm ỉ tiếng tàu

bay”. Từng mảnh đất quê hương rên xiết, đau thương dưới những trận mưa

bom thảm khốc, tiêu diệt cả mầm xanh non tơ “Nghe cây ầm ầm đổ/ Cốc chén

chẳng nằm yên/ Lung lay cả ngọn đèn/ Tiếng bom như tiếng thú” (Tiếng bom

ở Seng Phan). Anh từng quan niệm “Thơ chỉ biết đến thơ mà không biết đến

đời thì thua xa một cái máy tính” (Vừa làm vừa nghĩ). Chính vì thế thơ anh

thường đi ra ngoài, hướng đến vẻ đẹp đời sống nhất là nơi chiến trường, cái

đẹp của cuộc sống sôi động vừa chiến đấu vừa sinh hoạt dưới tầm đại bác,

dưới tiếng bom rơi, đạn nổ. Không khí dữ dội, ác liệt của chiến trường đi vào

từng trang thơ của anh nóng bỏng và sôi sục. Anh từng chứng kiến cảnh

những chiếc xe từ trong bom rơi vẫn cứ chạy về hướng Nam, băng qua những

công trình ngoằn nghèo trên mặt đất, dưới những tàn cây đổ tơi bời đầy hố

bom. Trường Sơn bấy giờ là trọng điểm ném bom chính của giặc.

Sự tàn khốc của cuộc kháng chiến chống Mỹ, sự tàn bạo của kẻ thù

đang muốn biến mảnh đất Việt Nam thành một bãi chiến trường không có sự

sống, mà chỉ có tan hoang đổ nát, chỉ có mịt mù khói lửa bom đạn. Hữu Thỉnh

đau xót trước cảnh mất mát, tàn phá, hủy hoại của bom đạn kẻ thù, nỗi đau

như thể một phần máu thịt của anh bị cắt rời:

Con đường qua tháng năm

Núi đau lở đá, rừng bầm tận cây

(Trƣờng Sơn trong vƣờn – Hữu Thỉnh)

Hữu Thỉnh đã miêu tả chân thực những hình ảnh đau thương tàn phá

của bom đạn giặc Mỹ trút xuống quê hương, đồng đội. Anh đau đớn khi phải

chứng kiến những cuộc tàn sát đẫm máu của kẻ thù: “Dòng suối xác một

người đồng chí/ Bị chặt đầu/ Chân còn dép – chân không”. Cuộc kháng chiến

45

ngày lại ngày phải đối mặt với sự khốc liệt, sự hi sinh, tàn phá của kẻ thù

được nhà thơ phác họa rất sinh động qua hình ảnh:

Giặc đổ quân sau rừng

Ủi và đốt

Cây thở dài trên đất

Tàn bay tung

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Thực tế chiến trường là mảnh đất khốc liệt, người lính cũng như cả dân

tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường “tiến thẳng mà thôi”, sự

khốc liệt ấy là những gian nan, nghiệt ngã của cả dân tộc trong chiến tranh:

Lòng sông quặn đau thắt mấy năm rồi

Đôi bờ, đôi bờ đạn bom thù cào xé

Giặc Pháp rút nhưng còn đây giặc Mỹ

Sông trăm lần bầm tím vết thương sâu

… Tiếng trẻ khóc khản nơi bản vắng

Tiếng gió mang mùi lúa cháy trên nương

(Nhịp cầu sông Nậm Ô – Nguyễn Đức Mậu)

Chiến tranh tàn phá khốc liệt, không chỉ người lính anh dũng trên chiến

trường, những anh nuôi, những người mẹ, người cha phải hứng chịu mà cả

các em nhỏ thơ ngây cũng phải chịu đựng và hãi hùng. Những năm sống và

chiến đấu nơi chiến trường biên giới Lào, Nguyễn Đức Mậu đã từng chứng

kiến cảnh:

Lửa chiến tranh ném xuống buôn làng

Trẻ con da vàng phải ở rừng nằm đất

Tuổi thơ nào không biết mặt cha

Giọt sữa mẹ loang dòng máu xót

(Tiếng trẻ khóc nơi bản Lào cháy – Nguyễn Đức Mậu)

46

Nguyễn Đức Mậu còn khắc họa sự khốc liệt của chiến tranh nơi biên

giới đất nước:

Đồng Lộc những ngày chiến tranh khốc liệt

Mũ sắt nhấp nhô khắp các ngọn đồi

Cây cháy trụi, con đường cháy trụi

Những khẩu pháo, những dáng người xạm khói

(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc – Nguyễn Đức Mậu)

Sự đối mặt không cân sức giữa một bên là cường quốc số một, luôn luôn áp

đảo, bao vây bằng những trang thiết bị hiện đại, bằng những cuộc càn quét đẫm máu:

Giặc đổ xuống ba tiểu đoàn “trâu điên”

Bò theo chúng hai hàng máy ủi

Trận đánh lại bắt đầu mới nguyên

Súng lại nổ như chưa từng ác liệt

(Trƣớc mặt là Tổ quốc – Hữu Thỉnh)

Với một bên là dân tộc Việt Nam nhỏ bé, mà hành trang của họ không

có gì ngoài niềm tin, lòng tự hào và một trái tim yêu nước dù cho bao khó

khăn, gian khổ:

Những cơn khát bặm môi vào bẹ chuối

Hiện lên

Những dấu gậy cơn sốt rừng run bắn

Hiện lên

Những giọt mồ hôi ròng như nến chảy

Hiện lên…

(Trƣớc mặt là Tổ quốc – Hữu Thỉnh)

Những câu thơ của ba nhà thơ chiến sĩ đã phần nào giúp ta cảm nhận

sâu sắc hơn, cụ thể hơn sự tàn bạo của giặc và sức hủy hoại tàn phá của chiến

tranh. Ngày nay, tuy “cuộc chiến tranh đã lấp chìm trong cỏ” nhưng người lính

trở về sau chiến tranh trái tim họ còn “nhói buốt mảnh bom găm”. Bởi vậy, mà

mỗi trang thơ viết về chiến tranh của các anh luôn đầy ám ảnh, nhức nhối.

47

2.2.3. Hiện thực của sự hi sinh gian khổ

Trong những năm chống Mỹ, con người chủ động đi vào chiến trường bằng

lòng tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực. Tuy

nhiên, trước sức ép của kẻ thù còn phải trải qua nhiều gian khổ, cực nhọc, đói rét,

bệnh tật,… và cả thử thách giữa sống và chết. Hà Minh Đức trong Thời gian và

trang sách đã nhận định đó là “cuộc đọ sức giữa hai thế lực, hai lẽ sống, hai nhân

cách trong một cuộc chiến đấu quyết liệt” [31, tr.115]. Với người Việt Nam,

niềm khao khát được làm chủ đất nước, sống hòa bình, hạnh phúc luôn đặt lên

vị trí hàng đầu, vì thế họ sẵn sàng hi sinh tất cả để đánh đổi độc lập – tự do đó

cho dù “có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải giành cho được độc

lập” (Hồ Chí Minh).

Ngòi bút của Phạm Tiến Duật len lỏi vào từng góc cạnh đời sống chiến

trường, niềm vui, nỗi buồn, sự khốc liệt và những hi sinh gian khổ hiện lên

trong thơ anh bình dị và nhiều ý nghĩa. Trên con đường Trường Sơn lịch sử,

nhà thơ đã khắc họa lại rất nhiều hình ảnh của sự hi sinh, gian khổ của quân

và dân ta trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù. Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc

không ít người đã vĩnh viễn ra đi, để lại thời xuân sắc của mình trên đất lửa

Trường Sơn:

Mười tám đôi mươi trẻ trung là vậy

Hầu hết các em không có tuổi già

Không được quyền già

Các em nằm lại dọc đường ra trận

(Trƣờng ca –Tiếng bom và tiếng chuông chùa – Phạm Tiến Duật)

Trên mảnh đất mà ngày đêm bom đạn, sắt thép như trực đè bẹp con

người, các anh vẫn chiến đấu, hi sinh quên mình, vẫn vượt qua chặng đường

dốc đá, những cơn sốt rét buốt lòng, những trận bom ác liệt, để đối mặt với kẻ

thù, với những gian nan không định trước… để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang

của mình. Hữu Thỉnh đã ghi lại hiện thực gian khổ mà người lính phải trải

48

qua bằng những hình ảnh “giấc ngủ sâu, tắm đoạn đường nóng bỏng”. Đó là

sự lam lũ, tảo tần, là sự hi sinh thầm lặng của những người mẹ:

Mẹ nén đau

Giấu tờ báo tử

Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Những người lính trẻ ra trận cũng như bao lớp cha anh đã lên đường. Họ gửi

lại sau lưng mình quê hương, hậu phương nơi đó có cha mẹ, có vợ con và người

thân. Không thể không nhắc đến những khó khăn, gian khổ nơi chiến trường mà

người lính phải đối chọi. Họ đã trải qua bao gian lao của chiến trường, phải đối mặt

với bao khốc liệt của cuộc chiến đấu. Lời của người trong cuộc kể về chính mình,

đồng đội mình do đó những vần thơ Nguyễn Đức Mậu viết ra mang được niềm tin

và sự xúc động đến cho người đọc:

Các anh chết khi nạp đạn, chỉnh tầm, khi phất cao cờ lệnh

Khi giấc ngủ, bữa ăn, khi khênh cáng bạn mình

Những dáng đứng, dáng ngồi, dáng nằm của người pháo thủ

Những bàn chân giập nát, những đôi mắt mở trừng

Những mái tóc khét diêm sinh

(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc – Nguyễn Đức Mậu)

Con đường Trường Sơn là lộ trình hành quân của người lính với đầy

những ghềnh thác cheo leo, đá núi gập ghềnh. Lộ trình vất vả này in đậm

trong trái tim họ. Núi nối nhau cao lên đến tận trời khiến cho mặt đất hóa

thành trời cao khi người lính hành quân lên đỉnh núi:

Những đỉnh núi đồi dài

Tôi nhìn lên đỉnh núi

Tôi nhìn lên dấu chân đồng đội

Có một thời gian mặt đất hóa trời cao

(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

49

“Hiếm thấy ở đâu như Seng Phan có đến mấy chục người tật nguyền

giống nhau, điếc một tai, lành một tai. Sức ép bom dội vào hang đá làm cả

một trung đội công binh bị thương” (Thơ một chặng đƣờng). Phạm Tiến

Duật đã chứng kiến những gian khổ, hi sinh của họ:

Bom dập liên hồi

Lỗ tai máu chảy

Không tính toán thiệt – hơn, mất – còn, bộ đội ta đã hi sinh tất cả vì

miền Nam ruột thịt:

Mười năm sống xa phố, xa làng

Tám năm ở trong núi, trong hang

Tất cả riêng chung…

Dành cho miền Nam tất cả…

(Tiếng cƣời của đồng chí coi kho – Phạm Tiến Duật)

Trong chiến tranh, bộ đội và nhân dân ta không chỉ phải sống trong

bom đạn mà còn sống trong bao thiếu thốn về vật chất:

Những chiến sĩ mặc áo hở vai

Muỗi đốt tím bầm, miệng vẫn cười tươi rói

(Gửi các em bé ở trƣờng văn hóa Tây Nguyên ngày trƣớc – Phạm Tiến Duật)

Điểm gặp gỡ của các anh là ở tinh thần sẵn sàng hi sinh và vượt qua

mọi gian khổ vì quê hương, đất nước. Những người lính nơi chiến trường phải

chịu đựng muôn vàn những khó khăn vất vả, phải đối mặt với bom đạn kẻ

thù, đôi khi phải đối mặt với những hi sinh mất mát:

-Sau loạt bom vùi

Anh gặp toàn lính mới

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

-Những lá thư tình, những manh áo mới

Bảy cô gái chết rồi chẳng kịp mang đi

Chết tuổi đang yêu, chết còn quá trẻ

Tuổi mộng mơ không kịp trối trăng gì

(Bảy vầng trăng khuyết – Nguyễn Đức Mậu)

50

Để làm nên những chiến thắng vẻ vang người lính phải trải qua biết bao

gian khổ đó là những trận đói dằng dai, làm anh thấm thía cái thực tế đầy xót xa:

Tôi hiểu vì sao anh đã khóc

Trong một sáng giao ban

Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả

Cứ đói ròng con gái hóa con trai

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Cái hình ảnh “Các cô gái làm đường đi đào củ chụp/ Hố thì sâu mà tay

em gầy guộc”, hoặc hình ảnh nắm cơm cháy bắt gặp trong sự hi sinh của

người chiến sĩ lái xe tăng, nhói buốt và day dứt trong trái tim người đọc:

Đen chỉ còn một nửa

Có dấu tay in lõm vào trong

Ngón tay bè của đồng chí lái

Các anh ăn nửa bữa trong ngày

Phần để dành

Làm ta day dứt mãi

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Phải là người nếm trải cơn đói cồn cào, cái đói quay đói quắt của người

lính, Hữu Thỉnh mới thấu hiểu tại sao người lính lại quý đến nhường ấy từng

“con tép chết bom từ bến ngược trôi về”, từng “hạt thóc gầy” “mót cuối bìa

rừng”. Có thể nói, tất cả cảnh vật, con người hiện lên trong thơ Hữu Thỉnh rất

cụ thể, sinh động từ sự khốc liệt của chiến tranh cho đến những gian khổ, hi

sinh, qua đó phần nào cho ta thấy được cả một thời kỳ chống giặc ngoại xâm

hào hùng của dân tộc:

Nơi có nước thì nước không uống được

Con suối nằm trong cơn khát bầm đen

(Cơn khát - Nguyễn Đức Mậu)

51

Cái ác liệt của chiến tranh đã cướp đi sự sống của biết bao con

người. Các anh ra đi dưới bom đạn dập vùi, nấm mộ và nén nhang chưa

kịp thắp lên, tên tuổi các anh chưa kịp khắc vào bia. Ba mươi năm chiến

tranh, đã có bao người ngã xuống cho mảnh đất này. Các anh vĩnh viễn

nằm lại nơi chiến trận, không thể trở lại quê hương. Khuất lấp sau những

vinh quang, những đoàn tụ, những yên bình no ấm của ngày hôm nay là

sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ của những người lính vô danh:

Đêm thành cổ ngổn ngang gạch vụn

Đoạn chiến hào đầy tiếng chuột kêu,

Bầy chuột đói gặm xương người

(Đêm thành cổ năm 72 – Nguyễn Đức Mậu)

Đằng sau ngàn vạn chiến thắng, sau những hạnh phúc và niềm vui là

bao mồ hôi, nước mắt, bao nhọc nhằn, vất vả hi sinh của những con người

đang âm thầm ngày đêm phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kỳ này. Những

câu thơ viết về cái chết đẫm nước mắt nhưng không hề bi lụy, không tang

thương sầu thảm. Hi sinh anh dũng như một tấm gương soi sáng bước đường

đấu tranh. Đây cũng là “dáng đứng Việt Nam thứ hai” (từ dùng của Nguyễn

Bá Thành – Văn học Việt Nam 1965 – 1975) hi sinh cao cả cho lý tưởng, hi

sinh để trở thành “bất tử”:

Chết hi sinh cho Tổ quốc Hùng ơi

Máu thấm cờ lời ca bay vào đất

Hi sinh lớn cũng là hạnh phúc

Một cây xuân làm biển khắc tên Hùng

(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)

Đồng hành với đói khát là những cơn sốt rét. Hữu Thỉnh trong Trƣờng

ca Đƣờng tới thành phố nhiều lần nói đến “cơn sốt rét rừng run bắn”. Trong

thơ Nguyễn Đức Mậu cơn sốt rét rừng cứ trở đi trở lại. Nó bám riết tuổi thanh

52

xuân của người lính: “nơi thuốc súng trộn vào áo lính – cơn sốt rét rừng đi

dọc tuổi thanh xuân” (Trƣờng ca sƣ đoàn). Anh như “vật vã” cùng với người

lính trong những trận sốt rét ác liệt giữa rừng sâu khi “cơn sốt rét ngấm vào

tận cùng cơ thể”.

Thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã gợi lên tính

chất dữ dội, ác liệt, sự gian khổ trong chiến tranh nhằm thể hiện thực chất của

đời sống chiến trường, qua đó, đốt cháy lên ngọn lửa căm thù quân xâm lược

đồng thời vạch mặt tội ác chất chồng của kẻ thù gieo rắc lên đất nước ta.

2.2.4. Tội ác của kẻ thù

Khắc họa sự khốc liệt của chiến tranh, sự bạo tàn của đế quốc Mỹ,

các nhà thơ đã thể hiện thành công những tội ác mà giặc Mỹ đã gây ra.

Những tội ác ấy là những bằng chứng hữu hiệu nhất cho thấy đây là cuộc

chiến tranh phi nghĩa của quân thù, dấy lên nỗi căm thù trong trái tim mỗi

con người Việt Nam đồng thời khẳng định cuộc chiến đấu của chúng ta là

chính nghĩa, là sự đấu tranh giành lại quyền sống, quyền làm chủ vận

mệnh của bản thân và dân tộc.

Giai đoạn chống Mỹ cứu nước là giai đoạn mà đội ngũ sáng tác văn học

có sự trưởng thành vượt bậc. Các nhà thơ có những cảm xúc về chiến tranh,

về con người được nâng cao, khái quát, sâu sắc nhưng vẫn rất gần với hiện

thực. Gương mặt kẻ thù hiện lên trong thơ ca giai đoạn này vừa cụ thể vừa

khái quát.

Thực dân Pháp vừa đi thì đế quốc Mỹ lại tới. Nhân dân Việt Nam đã

phải đối mặt với một cường quốc lớn mạnh trên thế giới về nhiều mặt cùng

với sự quyết tâm đến bạo tàn của chúng để tiêu diệt đất nước nhỏ bé này. Mọi

sự sống đều bị chúng tiêu diệt, những tội ác mà đế quốc Mỹ gây ra thấm đến

tận xương tủy con người:

53

Chúng nó đến từ bên kia biển

Rủ nhau bay như lũ ma trơi

Chúng lao xuống nơi nao

Loe ánh lửa,

Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa

(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)

Chúng thả sức trút bom đạn, tàn phá quê hương:

Cả một vùng cư dân yên lành quân Mỹ dọn sạch

Tia chớp nhiệt đới mà

Mỹ mạnh, Mỹ oai phong

(Trƣờng ca – Tiếng bom và tiếng chuông chùa)

Bằng ngòi bút của mình, Hữu Thỉnh đã miêu tả khá rõ nét những tội ác

mà kẻ thù gây ra. Một lực lượng hùng hậu của những kẻ khát máu người đang

gieo rắc chết chóc, đau thương lên đất nước này. Những miền đất yên bình

với những câu hát ru của mẹ, của bà, những câu hò lao động, những câu hát

đối của các đôi trai gái đang yêu không còn nữa. Những gì thiêng liêng nhất,

được trân trọng nhất cũng bị vùi lấp, tất cả đều ngập tràn trong máu và nước

mắt đau thương của những con người mang kiếp nô lệ đọa đầy. Để thực hiện

mưu đồ của mình đế quốc Mỹ không từ một thủ đoạn nào, chúng hả hê, sung

sướng trước những mất mát, đau thương của chúng ta:

Những tên lính xăm hầm

Mài thuốn xuống sân xi- măng nhà xã trưởng

Nhạc dạo đầu cho một ngày “bình định”

(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)

Sự đối lập gay gắt giữa ta và địch càng khắc họa rõ hơn tội ác mà kẻ

thù gây ra. Chúng ta xây dựng thì chúng phá hủy, chúng ta yêu chuộng hòa

bình thì chúng gieo chết chóc, tai họa cho đồng bào và nhân dân ta. Sau

những đổ vỡ, mất mát của ta là tiếng cười man rợ của kẻ thù trước cảnh lầm

than, tang tóc, máu chảy thành sông, ngấm vào từng tấc đất của biết bao

54

người dân vô tội. Sự sống của con người và thiên nhiên được tạo hóa ban

tặng, đó là quyền tự do của mỗi quốc gia, dân tộc nhưng dưới bàn tay tàn bạo

của đế quốc Mỹ thì sự sống ấy dường như bị dập tắt, bị bóp nghẹt:

Máng dẫn nước vào buôn thôi không chảy

Cỏ mọc, dây leo quanh cột tung còn

Mảnh bom chém cây đào ứ nhựa

Không tiếng gà trưa, vắng tiếng trẻ con

(Những ngôi nhà bỏ không – Nguyễn Đức Mậu)

Nhịp đập của cuộc sống bị xáo động, cảnh chia li, tan tác, loạn lạc

khiến những ngôi nhà trở nên hoang vắng, tiêu điều và xơ xác. Không còn hơi

ấm của ngọn lửa trong mỗi gia đình, những dòng nước mát lành nuôi dưỡng

con người, những gốc cây, ngọn cỏ không có người chăm sóc, những đứa trẻ

lớn lên trong chiến tranh phải xa cha, xa mẹ, theo bà đi tản cư. Gia đình mỗi

người một ngả, không được đoàn tụ cùng nhau bởi đất nước vẫn còn bóng giặc

thù. Những ngôi nhà không còn hơi ấm con người, làng mạc thôn xóm trơ trọi,

tất cả đều do bàn tay tàn ác của quân xâm lược dội hàng ngàn tấn bom xuống

quê hương, đất nước ta.

Đem chiến tranh tới Việt Nam, giặc Mỹ đã cướp đi cuộc sống bình yên,

hạnh phúc của bao gia đình, tước đi những quyền lợi chính đáng của mỗi

người mà ai cũng có quyền được hưởng, như quyền được làm vợ, làm mẹ,

làm chồng, làm cha:

Em không còn khả năng làm mẹ

Em không còn khả năng làm vợ

Em đã thành một cây đu đủ đực

Dẫu ra hoa cũng chẳng ích cho ai

Đã từng lấy vợ mà không được làm chồng

Đã từng có con mà không được làm bố

Việc vất vả thay là phải làm một anh hùng

(Trƣờng ca – Tiếng bom và tiếng chuông chùa – Phạm Tiến Duật)

55

Thiên nhiên và cảnh vật chiến trường của đất nước trong thơ Nguyễn

Đức Mậu nhiều khi không còn là những bức tranh hiện thực thông thường mà

nó trở thành những nhân chứng tố cáo tội ác dã man của kẻ thù:

Nếu nối những vòng dây thép gai nơi vành đai Quảng Trị

Hẳn sẽ dài hơn đất nước Việt Nam

Dây thép gai chia xóm, chia làng

Mọc trên đồi cao

Mọc trên triền cát

Mọc đất phương Nam

Mọc lòng phương Bắc

(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

Hữu Thỉnh không chỉ khắc họa tội ác của kẻ thù mà còn vạch trần bản

chất vô nhân tính của chúng. Chúng không còn tình cảm của con người,

chúng bây giờ chỉ là loài thú dữ khát máu người, thực hiện mưu đồ hủy diệt

giống nòi, đất nước và quê hương ta. Ngắn gọn, súc tích những câu thơ đã thể

hiện khá đầy đủ bộ mặt quân xâm lược, bản chất vô cùng thâm hiểm của kẻ

thù, mặc dù vậy những câu thơ vẫn mang được sức khái quát cao, khắc họa

thành công bộ mặt của quân thù:

“Nhưng cuộc càn sẽ không bao giờ dứt

Cho tới khi nhổ Cộng sản sạch trơn”

Tên quận trưởng trình lên ngài tỉnh trưởng

Để lĩnh thêm trợ cấp cuối kỳ

(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)

Cảm nhận sâu sắc nỗi đau của dân tộc ta, những vần thơ của ba nhà thơ

trong giai đoạn này mang những trăn trở suy tư của thời đại. Những lời thơ

không ồn ào, không hô to khẩu hiệu, không quát tháo, chửi mắng kẻ thù

nhưng nó có sức mạnh ẩn chứa từ bên trong. Nhẹ nhàng và sâu lắng - đó là

những gì được rút ra từ tâm can của các tác giả khi nhìn vào hiện thực đời

56

sống. Với những vần thơ trầm hùng và bi tráng nhưng vô cùng đanh thép, các

anh đã đứng trên lập trường quê hương đất nước, là những con người có dòng

máu Lạc Hồng để vạch trần tội ác của kẻ thù đang gieo rắc bao tai họa cho

con người và Tổ quốc ta. Bản cáo trạng ấy là những đúc kết từ hiện thực cuộc

sống, của quân và dân ta trong những năm tháng chiến tranh với đế quốc Mỹ

vô cùng nham hiểm. Với một dân tộc có truyền thống hàng nghìn năm dựng

nước và giữ nước, những cảnh nhìn thấy mà đau đớn lòng trước sự giày xéo

của quân xâm lược, là sự thôi thúc chúng ta bảo vệ giống nòi, đòi quyền tự do

của con người. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, bao nhiêu thế hệ

thanh niên đã lên đường ra mặt trận để chiến đấu giành lại cuộc sống thanh

bình ngày hôm nay. Đời sống chiến trường dù có gian khổ, ác liệt, tàn khốc

đến đâu cũng chỉ là cai phông, cái nền để làm nổi bật chân dung tinh thần của

cả một thế hệ trẻ cầm súng.

2.3. Hình tƣợng ngƣời lính

Hình ảnh của những người lính trẻ nổi bật trên những trang thơ của thơ trẻ

thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong chiến tranh trước sống và chết, con người bao

giờ cũng hướng đến những điều tốt đẹp nhất. Niềm tin đóng vai trò rất quan trọng.

Với người lính đó là điểm tạo thêm sức mạnh, nguồn động viên to lớn át cả tiếng

bom đạn đang trút trên đầu từng giờ, từng phút. Hình ảnh những con người dũng

cảm ngày đêm chiến đấu, không quản khó khăn, gian khổ, với một trái tim nồng

nàn yêu nước, lạc quan, yêu đời luôn là đề tài nổi bật đối với những người cầm bút.

Trong thơ ca những năm chống Mỹ, có không biết bao thế hệ các nhà thơ

đã phản ánh rõ nét và sinh động cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, và để

làm nổi bật lên cuộc chiến thắng đó dân tộc Việt Nam đã đổ biết bao xương máu,

biết bao hi sinh mất mát,… Những con người trực tiếp làm nên những điều kỳ

diệu đó không ai khác là những người lính hiền lành, chất phác, dũng cảm, kiên

cường, lạc quan, trẻ trung của những tháng năm gian khổ ấy đã đi từ ngoài đời

bước vào các tác phẩm thơ văn và trở thành những hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

57

Trong số những cây bút tiêu biểu của mảng đề tài này phải kể đến ngòi bút

của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Các anh là những nhà thơ

trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà oanh liệt của dân tộc,

lại là người trực tiếp cầm súng, trực tiếp tham gia chiến đấu, các anh đã ý thức rất rõ

về vai trò của người lính, vì vậy các anh đã xây dựng thành công về hình tượng

người lính – nhân vật trung tâm làm nên cuộc kháng chiến kỳ diệu của dân tộc.

2.3.1. Lạc quan yêu đời, trẻ trung tinh nghịch

Từng là người lính lái xe, Phạm Tiến Duật hiểu rất rõ lý tưởng cao đẹp

của lớp trẻ tham gia kháng chiến. Các sáng tác của anh đều có sự chắt lọc,

tinh luyện nhiều chiều về hiện thực đời sống chiến trường, và ở đó con người

luôn giữ vai trò chủ yếu. Lãng mạn –hiện thực – triết lý là ba yếu tố cơ bản

kết hợp tạo nên chất thơ trong hầu hết các tác phẩm của Phạm Tiến Duật ở

thời kỳ này. Phạm Tiến Duật đã phác họa bức chân dung đa diện về người

lính trên các chiến tuyến, từ những cô dân quân, thanh niên xung phong, đến

những anh lính lái xe, công binh, coi kho,… đều hiện lên trong thơ anh rất trẻ

trung, lạc quan, yêu đời. Họ sống và chiến đấu với niềm tin tuyệt đối vào sự

thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ thơ anh, họ như được nhìn rõ

mình hơn. Hình ảnh những người lính trẻ hiện lên trong thơ anh không chỉ

đẹp ở hình thức mà còn đẹp ở tâm hồn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính

khắc họa nên hình ảnh về một “tiểu đội xe không kính”, hình ảnh người lính

hiện lên với tinh thần lạc quan, yêu đời:

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Xe không có kính, những người lính lái xe không tránh khỏi nắng mưa,

gió bụi, nhưng họ vượt lên trên tất cả khó khăn, gian khổ bằng sự lạc quan,

yêu đời, bằng một trái tim hướng về miền Nam phía trước, “không có kính”,

“không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”, trong bom rơi đoàn

xe vẫn tiếp tục hiên ngang lăn bánh ra mặt trận. Xe qua rồi mà hình ảnh

những chiến sĩ lái xe dí dỏm, vui nhộn, có chút ngang tàng ấy đã mấy ai quên:

58

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Sức sống của thơ Hữu Thỉnh chính là sức sống của một người lính viết

về người lính. Vẻ đẹp tâm hồn trong mỗi người chiến sĩ, mỗi thế hệ đã đi vào

lịch sử với những hoàn cảnh riêng. Người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên

là những người lạc quan, yêu đời, cuộc đời của những người lính dẫu nhiều

gian nan, vất vả nhưng không làm vắng đi ở các anh những nụ cười, tiếng hát.

Khi tiếng hát được cất lên thì các anh “bỗng quên vừa qua cơn sốt. Rừng bỗng

quên vừa qua trận bom đạn”:

Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn

Người sốt rét hát cho người sốt rét

Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét

Cây mát cho người người mát cho nhau

Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao

Những năm tháng Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá

(Tiếng hát trong rừng – Hữu Thỉnh)

Thơ ca chống Mỹ đã khắc họa nhiều hình tượng lớn: hình tượng Tổ

quốc vĩ đại, hình tượng vị lãnh tụ kính yêu, hình tượng người Mẹ và hình

tượng người lính. Trong đó, hình tượng người lính là nơi tập trung rõ nét nhất

phẩm chất, tâm hồn đẹp đẽ và cao quý của con người Việt Nam trong đấu

tranh. Nguyễn Đức Mậu là người rất thành công khi khắc họa người lính với

những nét chân dung chân thực, rõ nét. Là người trực tiếp cầm súng chiến

đấu, Nguyễn Đức Mậu rất thấu hiểu những gì đồng đội phải trải qua. Bởi vậy

thơ anh viết cho đồng đội cũng là viết cho chính mình. Người lính trong thơ

Nguyễn Đức Mậu luôn lạc quan và tâm hồn phơi phới tin yêu:

59

Bộ đội bàn nhau tìm lá gói bánh chưng

Đoàn dân công gánh gồng thêm hương nếp

Ơi cô gái tên gì anh chẳng biết

Nghe tiếng chào cứ ngỡ quen quen

(Mùa xuân Trƣờng Sơn – Nguyễn Đức Mậu)

Người lính trong thơ Nguyễn Đức Mậu thông minh, sôi nổi. Họ tưởng

tượng ra một thành phố giữa rừng với đầy đủ những đồ dùng, hàng hóa của

một thành phố. Phải là những người yêu sâu sắc quê hương, yêu những phố

phường tấp nập trong yên bình thì những người lính bền bỉ ý chí cách mạng

mới có được tinh thần lạc quan đến thế. Họ yêu đời và yêu cuộc sống, là

những người lính đến từ trường học, từ cái nôi của chủ nghĩa xã hội nên họ rất

tươi trẻ và trong sáng:

Xác máy bay dọc đường nhiều lắm

Cho o dân công làm lược chải đầu

Đồi lốm đốm dù hàng xanh hàng đỏ

Quai nón bài thơ em chọn màu nào

(Thành phố trong rừng – Nguyễn Đức Mậu)

Tinh thần lạc quan, yêu đời, nét trẻ trong tâm hồn những người lính

được Phạm Tiến Duật khái quát với những câu thơ rất độc đáo:

Cái vết thương xoàng mà đưa đi viện

Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo…

Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến

Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo

(Nhớ - Phạm Tiến Duật)

Những cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật không chỉ

được phác họa bằng những phẩm chất của một người anh hùng mà còn hiện

lên với những nét tinh nghịch, trẻ trung đúng như tuổi đời của các cô. Trong

khói bom lửa đạn họ vẫn luôn đùa vui với đồng đội của mình:

60

-Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón

Em đóng cọc rào quanh hố bom

Cái miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn

-Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn

(Gửi em, cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật)

Chủ nghĩa lạc quan được biểu hiện trong muôn vàn sắc thái phong phú,

đôi khi nó chỉ là điệu bộ nghịch ngợm, thanh thản, vô tư của người lính giữa

chiến trường. Nhìn những người lính nằm chồng chất trong căn hầm chật hẹp,

gian khổ, nhọc nhằn, Nguyễn Đức Mậu tìm thấy trong những dáng nằm đó

nét độc đáo và ngộ nghĩnh:

Chữ I nằm thẳng đã quen

Đông người hầm chật nằm nghiêng đã đành

Một người thao thức năm canh

Nằm nghiêng chữ Z là mình nhớ ta

(Nằm hầm – Nguyễn Đức Mậu)

Người lính trong thơ Hữu Thỉnh những lúc chiến đấu thì quên mình

trên những đồi núi rực lửa, nhưng đêm đêm lại mơ màng, thả tâm hồn theo

những âm thanh của gió, của lá, của cây, rất yêu đời và tươi trẻ:

Gió từng hồi se sẽ đưa nôi

Trăng tủm tỉm như miệng người sắp hát

Qua binh trạm nhiều thang dây bậc nhất

Tiếng chim ngoan như ngụm nước lưng đèo

(Giấc ngủ trên đƣờng ra trận – Hữu Thỉnh)

Tiếng cười lạc quan là một nét đặc sắc của tâm hồn Việt Nam thể hiện

qua văn học như một biểu hiện của sức sống và sức chống chọi dẻo dai của

dân tộc trước mọi thử thách. Thơ Nguyễn Đức Mậu thể hiện tinh thần anh bộ

đội cụ Hồ thời chống Mỹ chiến đấu với tất cả niềm tin và sự lạc quan:

61

Người có vượt đèo rút ngắn đường truy kích

Đỉnh cao kia ngạo nghễ tiếng cười

(Dòng sông chảy ngƣợc – Nguyễn Đức Mậu)

Nhờ có tình yêu Tổ quốc, nhờ có niềm tin, niềm hi vọng nên họ đã vượt

lên tất cả. Sống giữa vùng đất chết mà họ vẫn tươi vui, vẫn rộn rã cất lên tiếng

hát, câu hò:

Nghe em hát mà anh buồn cười

Nhịp với phách xem chừng sai cả

(Nghe em hát trong rừng – Phạm Tiến Duật)

Sự hồn nhiên, tinh nghịch, yêu đời là những điều hết sức bình thường

của tuổi trẻ. Nhưng nếu hiểu được rằng họ có thể yêu đời, đùa vui khi họ đang

kề bên cái chết, ở hoàn cảnh chỉ mấy giây sau họ có thể tan xác thì mới thấy

tầm vóc của những con người ấy lớn lao nhường nào. Trong chiến tranh,

những người ra trận có ai dám tin rằng mình sẽ không chết? Dưới bom đạn

bất kỳ lúc nào cũng có thể chết, bất kỳ cuộc gặp gỡ nào cũng có thể là cuộc

gặp gỡ cuối cùng. Vậy mà họ đâu có khiếp sợ, họ vẫn mỉm cười trước cái chết

và như đang vượt lên tất cả để khẳng định sự sống. Đó là những phẩm chất

đáng quý không chỉ có riêng những người lính trong thơ Phạm Tiến Duật,

Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.

2.3.2. Tình yêu đối với Tổ quốc và Nhân dân anh hùng

Trong chiến tranh, bộ đội và nhân dân ta không chỉ phải sống trong

bom đạn mà còn sống trong bao thiếu thốn vật chất. Chúng ta có thể vượt qua

tất cả là nhờ tinh thần đoàn kết, nhờ sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của

đồng bào, đồng chí. Phạm Tiến Duật đã phản ánh rất chân thực, sinh động

tình quân dân ấy. Người đọc không khỏi xúc động trước cảnh hàng ngàn trẻ

em mồ côi ở Tây Nguyên đã được bộ đội ta cõng về nuôi nấng và dạy dỗ:

62

Đường về hậu phương xa thật là xa

Thôi ở lại đây, ống tay các anh cắt ra tha hồ mặc

Lá cây lợp thành nhà, gỗ kê thành bàn học

Lính quân đoàn thay nhau làm thầy giáo giảng bài

(Gửi các em bé ở trƣờng văn hóa Tây Nguyên ngày trƣớc – Phạm Tiến Duật)

Viết về tình yêu đối với nhân dân, Phạm Tiến Duật nói đến tình cảm đằm

thắm của những bà mẹ với anh lính xa quê hương . Anh viết về bà mẹ ở Nam

Hoành, bà mẹ thôn Nghi Vạn, đó là những con người rất cụ thể mà tác giả gặp họ

trên dọc đường hành quân, nhưng những tình cảm, suy nghĩ và phẩm chất đáng

quý ở họ cũng là những điểm chung của tất cả các bà mẹ Việt Nam. Những người

mẹ ấy đều có chồng, có con chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết mẹ cảm thông với sự

thiếu thốn của các con – thiếu thốn cả vật chất và tinh thần, mẹ hiểu được giá trị

của nền độc lập. Những người con đang hành quân qua đây mẹ cũng coi như các

con mình, họ cũng là con chung của tất cả các mẹ, con của dân tộc:

Các con mẹ đi mãi

Không ăn cam vườn nhà

Đã có phần cây quả

Của các mẹ quê xa

(Mùa cam trên đất Nghệ - Phạm Tiến Duật)

Chân dung những con người cụ thể ấy đã góp phần vẽ nên gương mặt

chung của con người Việt Nam, lớn hơn nữa là cả dân tộc Việt Nam:

Đi trong rừng anh nói với em

Nói với những ai mai sau sẽ hỏi

Về những vùng rừng không dân

Nơi bao người đi qua hầu hết tuổi thanh xuân

Để lại trong rừng những gì quý nhất

Mất mọi thứ để nhân dân không mất

(Đi trong rừng – Phạm Tiến Duật)

63

Hữu Thỉnh đã tạo nên giọng điệu thơ mới mẻ góp phần tạo ra cái hay,

cái lạ mang phong cách riêng của tác giả. Giản dị và trung thực trong tuyên

ngôn thơ cũng như trong khát vọng về hòa bình, độc lập, tự do. Thơ Hữu

Thỉnh đã dựng thành công về một hình tượng dân tộc Việt Nam bất tử:

Nhân dân

Vẫn nguyên vẹn nhân dân

Răng hạt lựu vẫn không cam đồng hóa

Đắng chát cũng tìm cánh kiến, cây sim

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Hồn thơ Hữu Thỉnh có thể hòa nhập cùng không gian dài rộng của cuộc

kháng chiến, trái tim của Hữu Thỉnh cùng đập vang lên những tình cảm gắn

bó với con người kháng chiến bởi chính là sự gắn bó máu thịt của anh với

cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Trong những năm Trường Sơn lửa

đạn, là những năm mà Hữu Thỉnh phác họa rất rõ nét hiện thực của cuộc

kháng chiến, và cũng chính nhờ những năm chiến đấu gian khổ đó mà anh

đã tạc dựng thành công hình tượng Tổ quốc. Tổ quốc của anh là một Việt

Nam kiên cường, bất khuất, đã khẳng định và “hoàn thiện tư cách dân tộc”

của mình. Tổ quốc phải trải qua những năm tháng đau thương vất vả nhưng

lại tràn trề nhựa sống:

Nổi chìm bao kiếp người

Qua tháng năm sứt mẻ

Cho Tổ quốc tròn tên

Việt Nam

Hai tiếng mẹ

(Trƣờng ca biển – Hữu Thỉnh)

Thơ Nguyễn Đức Mậu viết về nhân dân lúc nào cũng chân thành, tha

thiết bởi nhân dân là máu thịt của mình. Những con người Việt Nam ở mọi

tầng lớp, mọi lứa tuổi chính là biểu tượng của dân tộc. “Nhận thức về đất

64

nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân đó cũng là nét nổi bật trong chủ

nghĩa yêu nước của thơ thời kỳ này. Cuộc kháng chiến chống Mỹ một lần nữa

thể hiện sức mạnh vô tận, phẩm chất tuyệt vời và những hi sinh vô cùng to

lớn của nhân dân” [28, tr.205]. Chính ở cuộc kháng chiến gian khổ này, chúng

ta tìm được những rung cảm trữ tình lắng đọng và tình yêu sâu sắc đối với

nhân dân. Trong tình yêu đó, Nguyễn Đức Mậu muốn cắt nghĩa vai trò to lớn

của nhân dân trong chiến tranh. Chiến thắng chúng ta giành được chính là

chiến thắng của nhân dân. Là nhà thơ gắn bó với nhân dân bằng cả cuộc đời,

với tấm lòng yêu thương, kính trọng dân mình, Nguyễn Đức Mậu đã tạc nên

bức tượng đài về nhân dân trong sáng, nhân hậu, thủy chung và thắm đượm

nghĩa tình. Có khi đó chỉ là một bà mẹ nơi hậu phương mà anh gặp trên

đường hành quân:

Một sớm tôi qua sông rộng

Bà mẹ chở tôi sang không lấy tiền đò

Mẹ gọi tôi là con. Tôi chào mẹ

Đi xa rồi bóng mẹ sáng trong mưa

(Ý nghĩ của một chiến sĩ – Nguyễn Đức Mậu)

Viết về tình yêu nhân dân, hầu hết các nhà thơ đều tập trung vào hình

tượng người mẹ với tình cảm trân trọng nhất. Bởi mẹ là nơi quy tụ những

phẩm chất tốt đẹp từ trong truyền thống của dân tộc. Từ những người mẹ tiễn

con ra trận đến những người mẹ trực tiếp tham gia cách mạng, tham gia đội

du kích, những người mẹ ở hậu phương mòn mỏi mong tin con, những người

mẹ cô đơn đã tiễn bao đứa con lên đường ra trận rồi chẳng trở về. Hình ảnh

những người mẹ được xây dựng và chiếu sáng ở những khía cạnh khác nhau

nhưng họ cùng chung ở một phẩm chất đó là tình yêu của mẹ với Tổ quốc,

với những đứa con là vô cùng lớn lao :

65

Mẹ thương chúng con mặc áo bạc màu

Chúng con thương mẹ bạc màu áo vá

Mẹ thương chúng con nhạt muối, sốt rừng

Chúng con thương dáng lưng còng vất vả

(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

Bao trùm lên sáng tác của Hữu Thỉnh là tình yêu Tổ quốc. Bằng sự gắn

bó sâu sắc với cuộc kháng chiến của dân tộc, và bằng cả hồn thơ phong phú

của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần thể hiện khá toàn diện tình yêu đối với Tổ

quốc trong giai đoạn kháng chiến mãnh liệt và thiêng liêng. Giữa bao

nhiêu vấn đề cần bàn của cuộc chiến đấu, Hữu Thỉnh đã lựa chọn một tình

huống gay cấn nhất, chứa đầy thử thách gay go để thể hiện tình yêu của

mỗi công dân đối với Tổ quốc trong những giờ phút lâm nguy. Đó là hình

ảnh người chiến sĩ giành giật với kẻ thù từng gốc sim cằn trên điểm chốt,

để giành lại từng mảnh đất của Tổ quốc:

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Tình yêu Tổ quốc là chủ đề lớn lao bao trùm và có ý nghĩa to lớn trong

thơ Hữu Thỉnh:

Đảo hiện ra thử thách bạc mầu

Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc

(Trƣờng ca biển – Hữu Thỉnh)

Hướng về quê hương, Hữu Thỉnh hướng về với mẹ. “Mẹ và Tổ quốc là

hai vấn đề lớn nhất xuyên suốt” trong cuộc đời làm thơ của chính tác giả

Trải qua bao giai đoạn khó khăn, đau thương, nhà thơ ý thức rõ ràng về

vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với nhân dân. Dường như được soi

66

mình vào trong nhân dân, nhìn ra cái vô cùng lớn lao của nhân dân – Nhân

dân chính là nơi giúp ta hình dung ra Tổ quốc:

Những khu rừng, dòng sông, cánh đồng và những vỉa than

Là của cải mẹ dành nuôi chúng con đánh giặc

Lòng mẹ rộng vô cùng, chúng con đi suốt đời chưa hết

Lời mẹ vang trầm, mắt mẹ nhìn xuyên suốt xưa, sau

(Tổ quốc - Nguyễn Đức Mậu)

Thấm thía hơn hiện thực chiến tranh, nhà thơ càng nhận rõ hơn trách

nhiệm của thế hệ mình, càng thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, đất

nước:

Người chiến sĩ quê chung: Tổ quốc

Súng trong tay ngôi sao sáng trên đầu

(Thơ ngƣời đi biển gửi ngƣời đi rừng – Nguyễn Đức Mậu)

Bằng lời thơ mộc mạc, giản dị, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn

Đức Mậu đã khắc họa tình yêu Tổ quốc, nhân dân anh hùng rất chân thành,

xúc động và tự hào.

2.3.3. Dũng cảm chiến đấu, ý chí quật cường

Ba mươi năm kháng chiến là ba mươi năm những người con ưu tú nhất

của đất nước này lần lượt ra đi. Hết lớp này đến lớp khác, hết thế hệ này đến

thế hệ khác, khi Tổ quốc vẫn còn bóng giặc thù, khi những thôn làng vẫn còn

tiếng bom rơi, những đứa trẻ vẫn còn phải xa vòng tay mẹ,… thì những chàng

trai, cô gái vẫn còn tiếp tục lên đường chiến đấu để bảo vệ quê hương, giành

lại tự do, độc lập cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh những người lính qua thơ của

các nhà thơ trẻ không chỉ là những con người trẻ trung, lạc quan, yêu đời mà còn

là những con người bình tĩnh, can trường, dũng cảm, ý chí quật cường trong

chiến đấu.

67

Người chiến sĩ trong thơ Nguyễn Đức Mậu hiện lên thật cao cả và

thiêng liêng, anh hi sinh trong tư thế anh dũng tấn công kẻ thù:

Ngực lấp lỗ châu mai Hùng đứng thẳng

Đồng đội xông lên nhìn thấy Hùng cười

Khi giặc đến, những người lính đã cùng toàn thể nhân dân sát cánh, kề

vai bên nhau, chiến đấu với tinh thần dũng cảm và ý chí quyết tâm cao nhất:

Giặc đến

Người ốm chống giường, chống phản đứng lên

Trẻ con vơ tro, vơ cát đứng lên

Người đang ăn thì cầm lấy đũa

Người đi gặt thủ lấy chuôi liềm

Không quay mặt chẳng bao giờ tiếc máu

Dù cho phải đốt dãy Trường Sơn

(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)

Hình ảnh người lính không còn là hình ảnh đơn thuần mà trở thành một

hình tượng, một tượng đài bất khuất, dẻo dai và bền bỉ đại diện cho dân tộc, là

một hình tượng thách thức kẻ thù trong những năm tháng đạn bom vô cùng ác

liệt. Dù là khoảnh khắc hay một hành trình dài đấu tranh không ngừng nghỉ

thì tinh thần chiến đấu của người lính vẫn hiện lên là những điểm sáng lung

linh nhất trong bức tranh hiện thực:

Cứ mười lăm phút từ vọng gác

Từng chùm lựu đạn quăng ra

Mặc nó

Quả nào ở gần

Chiến sĩ cầm quăng đi

Những bàn tay lòe lửa xanh lè

(Viết trong đêm đào hầm vây ép – Nguyễn Đức Mậu)

68

Bằng tài năng của mình cùng những trải nghiệm trực tiếp từ tiền tuyến

ác liệt, cả ba nhà thơ sử dụng các biện pháp nghệ thuật thành công khi khắc

họa người lính. Kết hợp với thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn không hạn

chế, cùng với việc tổ chức không gian, thời gian hợp lý, hình ảnh người lính

hiện lên trong những thời khắc quan trọng, những không gian ác liệt để thấy

được sự đấu tranh sinh tồn, gay go, ác liệt, tàn khốc nhất của quân ta và địch

trên trận chiến giành lại độc lập, tự do. Người lính trong thơ dù ở cương vị

nào, nhiệm vụ nào thì tố chất của họ vẫn là những phẩm chất vô cùng đáng

quý. Đối diện giữa sự sống và cái chết, người lính cụ Hồ hiện lên với một ý

chí kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi hiểm nguy. Họ ý thức được trách

nhiệm, nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng của mối nợ nước thù nhà. Trước kẻ

thù hung ác và nguy hiểm, người lính vẫn không hề nao núng. Cái ý chí

quật cường của một đất nước tuy nhỏ bé nhưng chẳng bao giờ khuất phục

vẫn chảy mãi trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Sự trưởng

thành của những người lính trong những năm tháng chiến tranh tàn phá là

một minh chứng hùng hồn cho lòng quyết tâm, ý chí quật cường của quân

và dân ta. Anh dũng, gan góc, kiên cường trong chiến đấu là phẩm chất

chung hiện lên trong thơ viết về người lính của Phạm Tiến Duật, Hữu

Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.

2.3.4. Tình đồng đội

Truyền thống yêu thương, đùm bọc, chở che của con người Việt Nam đã có

từ ngàn đời. Khi đất nước hòa bình hay có giặc ngoại xâm, truyền thống ấy vẫn

mãi thắp sáng theo năm tháng. Những người lính từ mọi miền quê hương lên

đường nhập ngũ. Mỗi con người trong số họ có những cá tính, những đặc điểm

khác nhau nhưng trải qua bao bom đạn dập vùi, trải qua bao hiểm nguy cay đắng,

tình đồng chí, đồng đội trở thành hai tiếng thiêng liêng, là điểm tựa, là sức mạnh

giúp nhau vượt qua những tháng năm nhiều gian khó. Nhận về mình cái chết,

nhận về mình những gian khổ hi sinh để đồng đội được sống đã đi vào con tim, trí

69

óc của người lính cụ Hồ, nghĩa cử cao đẹp ấy đã trở thành một điều hiển nhiên, tất

yếu. Chiến tranh như một cơn bão dữ quật lên cuộc đời, số phận, ở đó sự sống và

cái chết chỉ cách nhau gang tấc. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn và nghiệt ngã

ấy, bản chất người lính hiện lên như một ngôi sao sáng lung linh về tình yêu đồng

loại, về một nhân cách sống cao đẹp trong cuộc đời mỗi con người mà chúng ta

cần hướng tới. Cảm nhận nét đẹp trong chiến tranh, những vần thơ không chỉ ca

ngợi phẩm chất anh hùng, tình đồng chí, đồng đội của người lính mà còn khái quát

tình cảm ấy trở thành chân lý bất hủ về cách sống của con người trong cuộc đời.

Tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn tiếp nối ngọn

nguồn mọi xúc cảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sự đồng cam, cộng khổ,

chia ngọt sẻ bùi trong năm tháng chiến tranh sẽ sống mãi trong trái tim người lính

và với con người thuộc thế hệ mai sau.

Với Nguyễn Đức Mậu, sự nhạy cảm của trái tim cùng những năm tháng

nếm mật nằm gai nơi đạn bom máu lửa, tình đồng đội trong anh là những gì giản dị

nhất, trung thực nhất và cũng con người nhất. Trong không gian lạnh lẽo của núi

rừng, những cơn mưa xối xả đổ xuống lưng trời, đấy là lúc con người cảm thấy cô

đơn, lẻ loi. Cái lạnh không chỉ cảm nhận từ cơ thể mà còn buốt giá từ con tim. Đấy

là lúc người chiến sĩ sưởi ấm cho nhau, chiếc chăn mỏng manh đắp chung nhau để

thấy mình không cô đơn, lạnh lẽo giữa nơi hoang vu sương gió này:

Tay quờ hơi ấm cho nhau

Là chăn của bạn đắp đầu hở đuôi

(Nằm hầm – Nguyễn Đức Mậu)

Tình cảm đồng đội trong những năm tháng đất nước gian lao đã tạo nên

một gia đình lớn, một khối đoàn kết lớn để đi đến chiến thắng cuối cùng cho ngày

hôm nay. Vì bảo vệ đồng đội mà những người lính có thể sẵn sàng hi sinh:

Khi anh lên ôm bộc phá lao lên

Khi anh xuống dìu đồng đội ngã

(Điệp khúc những cây cầu – Hữu Thỉnh)

70

Thơ Nguyễn Đức Mậu viết trong chiến tranh về hình ảnh bạn bè, đồng chí rất

đỗi thiêng liêng, cảm động. Nhà thơ gửi nỗi niềm thương tiếc, xót xa vào

hương trầm bên mộ người bạn, người đồng chí ngã xuống:

Đất đắp mộ Hùng, bom trộn lẫn

Cây trầm cháy dở thay nén nhang

(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)

Tình đồng đội, đồng chí của những người lính trở thành tiếng nói chung cho

tình đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, chở che nhau trong những năm tháng chiến

tranh. Khi chiến đấu hay trong đời sống hàng ngày, tình cảm người lính trở thành

những bức tranh đẹp về tình người, về lẽ sống qua bao nhiêu mất mát hi sinh:

Trong chiến đấu một điều đơn giản nhất

Mỗi con người đều biết sống thương nhau

Đều muốn thành công sự chở che nhau

(Công sự trên điểm cao – Nguyễn Đức Mậu)

Tình đồng đội cao cả như mạch nước ngầm cứ tuôn chảy bất tận, tiếp

nối hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nó có mặt và hiện hữu trong cuộc sống

của cả những người đã mất và những người còn sống. Một thứ tình cảm

thiêng liêng đã trở thành ý thức hệ, một lối sống đẹp của cả dân tộc Việt Nam

trong những năm chiến tranh đã được các nhà thơ khắc họa thành công nhờ

những quan sát tinh tế và sự chắt lọc nhạy cảm từ chính tâm hồn. Tình cảm

đồng chí, đồng đội trong thơ của ba nhà thơ – chiến sĩ được phản ánh chân

thực, cụ thể nhưng cũng vô cùng thấm thía và sâu sắc. Lời thơ giản dị, hình

ảnh mộc mạc nhưng có sức truyền tải mạnh mẽ về lý tưởng sống của con

người trong thời đại.

2.3.5. Tình yêu đôi lứa

Những chàng trai trẻ với nhiều mộng mơ, với tâm hồn yêu đời khi bước

vào cuộc chiến đấu cũng đã kịp có cho riêng mình hình bóng người yêu. Tình

yêu đôi lứa cũng là một đề tài muôn thủa trong thi ca bởi nó khơi gợi mọi

71

ngọn nguồn cảm xúc, những rung động chân thành của con người để thấy

cuộc sống này tươi đẹp và nhiệm màu hơn. Tình yêu với dư vị ngọt ngào như

một “liều thuốc” thần kỳ, khiến những khó khăn, thử thách của người lính

như tan biến. Sau giây phút tàn khốc nhất, hiện thực chiến tranh lùi lại, chỉ

còn những xúc cảm ngọt ngào của tình yêu, của khuôn mặt người thương hiện

về trong sâu thẳm tâm hồn, cũng đủ tiếp thêm nguồn sinh khí mới cho người

lính trên bước đường hành quân. Bom đạn chiến tranh không làm tình yêu

nguội lạnh. Ngược lại, trước những mất mát, chia ly, tình yêu thêm nảy nở,

trân trọng những phút giây hạnh phúc bên nhau:

Bao kỷ niệm cứ theo anh ra trận

Ngôi sao nào anh ngỡ mắt em xanh

Buổi mới yêu nhau bên hàng rào đêm ấy

Tàu cau rung, hai đứa giật mình

(Hòm thƣ bƣu điện ở trạm giao liên – Nguyễn Đức Mậu)

Tình yêu trong thơ các anh luôn chân thành và sâu sắc. Người lính trẻ ấy yêu

bằng cả trái tim, họ luôn hướng về nhau với niềm tin và tình yêu thương vô bờ:

-Em nhớ thương ơi Chúng ta sống vì nhau Chúng ta hát vì nhau

(Một lần – Hữu Thỉnh)

-Trường Sơn Tây anh đi, thương em

Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo

Muỗi bay rừng già cho dài tay áo

Rau hết rồi, em có lấy măng không?

(Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)

Tình yêu người lính trong thời kỳ chống Mỹ luôn gắn với tình yêu và vận

mệnh đất nước, tình yêu ấy đã giúp cho những người lính luôn ý thức được trách

nhiệm cao cả, thiêng liêng của mình. Chiến đấu và yêu sao cho xứng đáng với quê

hương, với người yêu. Nhà thơ đã nói lên tiếng nói chung cho cả thế hệ mình:

72

Anh không ngại phong thư có những dòng dang dở

Anh không ngại đỉnh đèo những thân cây gục đổ

Anh không ngại nghìn hôm chẳng được thấy em

Trong cuộc chiến này

Đừng để ngượng với nhau khi gặp mặt…

(Ý nghĩ không vần – Hữu Thỉnh)

Với một trái tim yêu trẻ trung của lứa tuổi, tình yêu người lính trong

những ngày chiến đấu hiện lên thật đẹp, với những rung động thật trong sáng,

thật chan chứa ý tình:

Em lại xa cho lòng anh nhớ

Chiến trường rộng, mùa măng nhiều nước lũ

Anh nhìn theo chấm nhỏ khuất rừng xanh

Em đi rồi: Câu hát ở cùng anh.

(Gửi em gái văn công giải phóng – Nguyễn Đức Mậu)

Tình yêu như nhân lên sức mạnh cho những người lính, cổ vũ tinh thần

người lính trên mỗi chặng đường chiến đấu gian lao:

Từ nơi em gửi đến nơi anh

Những đoàn quân trùng trùng ra trận

Như tình yêu nối lời vô tận

Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn

(Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)

Tình yêu trong chiến đấu với người lính không chỉ là chỗ dựa tinh thần

mà còn thể hiện những phẩm chất cao quý của những con người trẻ tuổi trước

vận mệnh của đất nước. Họ đã hi sinh tất cả hạnh phúc riêng để bước vào

tuyến lửa khốc liệt. Trái tim luôn dành cho nhau tất cả niềm tin yêu. Bằng sự trải

nghiệm và những rung động chan chứa yêu thương, mỗi vần thơ Phạm Tiến

Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu viết về tình yêu thật chân thành, xúc động

và trong trẻo.

73

2.4. Cái nhìn về chiến tranh sau chiến tranh

Những tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh cùng những nỗi buồn

đau nó để lại trong thời hậu chiến đã có một độ lùi cần thiết. Mặc dù chiến tranh

đã đi qua, các nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu vẫn chung

thủy với đề tài chiến tranh và quân đội. Với họ chiến tranh vẫn như là một cảm

hứng nguồn cội cứ lay trở, day dứt khôn nguôi trên trang viết của các anh.

Với độ lùi của thời gian, cách cảm nhận của Phạm Tiến Duật, Hữu

Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu về chiến tranh có sự từng trải, thấu đáo và đa dạng

hơn. Các anh viết về chiến tranh và người lính trên những bình diện mới, cấp

độ mới và cách diễn đạt mới. Ở đó có sự đồng cảm âm thầm mà mãnh liệt của

sức sống nội tâm. Các anh đã kí thác, gửi gắm những tình cảm, tâm trạng làm

thức dậy một thời đạn bom đã qua và khai thác sâu thêm vào hiện thực tâm

trạng, phẩm chất người lính trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.

Bước sang cuộc sống mới, cuộc sống trong hòa bình, Phạm Tiến Duật vẫn tiếp

tục sáng tác nhưng dường như thơ anh thâm trầm hơn. Bên cạnh việc khẳng

định những giá trị, chân lý chung của thời đại, anh còn có những phát hiện,

suy tư, trăn trở về những vấn đề trong cuộc sống hôm nay. Đến lúc này, Phạm

Tiến Duật cũng như những người cầm bút có điều kiện nhìn lại cuộc chiến

tranh một cách toàn diện hơn. Chiến tranh kéo dài chiếm hết cả thời thanh

xuân của các chàng trai, cô gái trẻ trung, đầy nhiệt huyết ngày nào. Họ không

có cơ hội để thực hiện ước mơ, hoài bão của mình:

Tôi những muốn trở thành tài tử

Nhưng chiến tranh tới tôi trở thành người lính

Chỉ mấy cái chớp mắt thôi, một thế kỷ kết thúc

Tuổi trẻ của tôi chỉ dùng để lên đường

Tôi chẳng thể nào trở thành tài tử

Cái đích vẫn còn kia dù tóc đã ngả màu sương

(Tôi những muốn trở thành tài tử - Phạm Tiến Duật)

74

Sau hòa bình thống nhất đất nước, thân phận con người không giống như

trước nữa, nhưng Hữu Thỉnh – người cựu chiến binh năm xưa vẫn không quên quá

khứ, vẫn không quên cuộc đời người lính của mình đã từng trải trong những năm

chiến tranh. Để rồi những cảnh vật, những sự việc vẫn ám ảnh, trăn trở trong thơ:

Cổ nhân vẫn còn đây

Máu chưa lành vết chém

Mồ hôi vẫn còn đây

Còn mặn hơn biển mặn

Nợ cũ còn đây

Biển nham nhở sẹo

(Trƣờng ca biển – Hữu Thỉnh)

Đau đớn khi phải đối diện với hiện thực, giữa cuộc đời không bền chặt,

nhà thơ thường trực cảm giác không hi vọng, không niềm tin:

Đụng một kẻ ngấm đủ mặt cái ác

Sống một ngày lội qua cả kiếp người

(Thấy – Hữu Thỉnh)

Tựa đề của những tập thơ viết về chiến tranh sau 1975 của Nguyễn Đức

Mậu đều không nghiêng về chiến trường, trận mạc, những bài thơ cũng không

ào ạt, dữ dội như trước đây. Bình dị và hiền hòa nhưng đau đớn khôn nguôi.

Mỗi bài thơ là nỗi nhớ da diết những đồng đội đã ngã xuống, là hồi ức, là

chiêm nghiệm về nỗi đau thể xác và tinh thần mà người lính trở về phải chịu

đựng trong hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Bởi thế, Nguyễn Đức Mậu

luôn luôn dằn vặt về trách nhiệm với cây bút của mình:

Tôi viết gì trên cây, tôi viết gì trên đất

Khi dưới chân tôi ngang dọc lũy thành

Lời non nước khắc vào cột mốc

Xương máu đời hóa thạch chốn rừng xanh

(Trên mái nhà Tổ quốc – Nguyễn Đức Mậu)

75

Chiến tranh thực sự là nối đau buồn mênh mang. Nó để lại những vết

thương đau đớn không baog giờ có thể lành trên thể xác và trong tâm hồn

những ai đã phải đi qua nó. Bởi thế mà bao năm chiến tranh đã đi qua, nhịp

sống mới ồn ào xô đẩy, nhưng vẫn:

Còn lại những chiếc đinh gỉ han kí ức

Như vết đạn găm, như giọt máu bầm

(Bức tƣờng câm – Nguyễn Đức Mậu)

Nhưng sâu sắc và đau đớn hơn cả vẫn là những vần thơ viết về sự hi

sinh của đồng đội trong chiến tranh. Những cái chết chứng tỏ sự khốc liệt của

chiến trường khiến anh không thể nào quên:

Hà Nội, ba mươi năm trước

Bao bạn bè ta đã khuất

Có người bị cháy thành than

Có người cụt chân, nát ngực

Ta chôn đồng đội trong đêm

Tàn hương đỏ hoe nhức buốt

Ta chôn đồng đội trong ngày

Người không còn mắt để vuốt

(Tâm sự - Nguyễn Đức Mậu)

Năm tháng qua đi, những hoài niệm, kí ức âm thầm mà mãnh liệt bừng

thức trong tâm hồn Nguyễn Đức Mậu, mở đường cho cảm xúc nhà thơ tìm về

với quá khứ, tìm về với thời gian không thể nào quên. Anh tưởng niệm về sự

hi sinh của đồng đội và ước ao:

Nếu tất cả trở về đông đủ

Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn

(Gửi sƣ đoàn cũ – Nguyễn Đức Mậu)

76

Đau đớn khi phải đối diện với hiện thực, giữa cuộc đời không bền chặt,

ngỡ tưởng sau chiến tranh, mọi mất mát sễ được bù đắp bằng cuộc sống hạnh

phúc, nhưng không, càng sống, càng tin yêu nhà thơ lại càng đắng cay nhiều:

Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa

Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế

(Nghe tiếng cuốc kêu – Hữu Thỉnh)

Sẵn sàng “Mất mọi thứ để nhân dân không mất”, những người lính

Trường Sơn năm xưa trở về trong vinh quang chiến thắng, nhưng cùng với đó

là “cái ba lô xẹp” và đôi bàn tay trắng. Họ lại mang đôi tay đã cầm súng bao

năm ấy đến nơi nào cần họ. Đó là một trong những hình ảnh “hậu chiến

tranh”, “hậu Trường Sơn”, mà ta rất dễ gặp ngoài đời, nhưng không phải ai

cũng thấy cảm thông, ngậm ngùi trước hoàn cảnh của họ:

Các anh đứng đó thưa dần trong chiều muộn

Chỉ còn lại một người, tôi bỗng nhận ra anh

Đức kiên trì đứng cùng vết sẹo

Anh là mảnh vỡ cuối cùng của cuộc chiến tranh

(Chợ lao động Giảng Võ – Phạm Tiến Duật)

Trở về với cuộc sống đời thường, những cựu chiến binh Trường Sơn

dường như trở nên lạc lõng trong sự bon chen nơi phồn hoa đô hội, họ lại

khoác ba lô lên vai “ngược rừng” tìm về nơi cứu rỗi tâm hồn mình:

Thời nay thiên hạ ùa ra phố

Giữa tháng mưa anh lại ngược rừng

Trong cuộc tranh khôn anh chọn dại

Ơi người lính cũ của Trường Sơn.

(Tiễn ngƣời đi Ialy – Phạm Tiến Duật)

Đây là một trong những vấn đề đáng để mọi người phải suy ngẫm trước thực

tại đời sống, về những con người đã từng một thời vào sinh ra tử để chúng ta có

được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như hôm nay, xin chớ lãng quên họ:

77

Các anh đã vì nước quên thân

Thì nước đừng quên các anh, đừng quên ai cả

Các anh vì nhân dân này chung thủy

Thì xin đừng ai phản bội các vong linh

(Trƣờng ca – Tiếng bom và tiếng chuông chùa – Phạm Tiến Duật)

Chiến tranh đi qua mang theo cả tuổi xuân, mang theo cái thì con gái

của những nữ thanh niên xung phong năm xưa. Giờ trở về, họ cũng không còn

cơ hội để lo cho hạnh phúc của riêng mình nữa. Họ lại đến những nông

trường mới, góp sức mình xây dựng cuộc sống mới cho quê hương, đất nước:

Em bảo với tôi rằng nay: nghề mới trồng dâu

Xưa ngụy trang cho đường, nay ngụy trang cho núi,

Xưa vội mở đường, nay khai hoang cũng vội

Lấp hố bom rồi nghe đất gọi lên đây

(Áo của hôm nào, ngƣời của hôm nay – Phạm Tiến Duật)

Có thể nói, cái giá phải trả cho cuộc chiến tranh còn là sự gánh chịu

những thiệt thòi, những đau đớn trong sự cô đơn và chờ đợi của người phụ

nữ. Trong hoàn cảnh ấy, thiên chức của người phụ nữ mai một dần theo năm

tháng. Chiến tranh không chỉ có bom đạn tàn phá, hủy diệt đời sống, nhà thơ

đã phát hiện thêm sức phá hoại vô hình khác, đó chính là nỗi cô đơn, lẻ loi.

Nguyễn Đức Mậu đã thực sự cảm thông với nỗi đau của người phụ nữ và qua

những câu thơ viết về thân phận của họ, di hại của chiến tranh đã hiện ra cụ

thể và khốc liệt hơn trong đời sống hôm nay:

Chiến tranh đã tắt từ lâu

Cau vàng trái rụng, giàn trầu héo hon

Nửa đêm gió lạnh, trăng mòn

Có người nghe tiếng ru con… khóc thầm.

(Ngƣời ấy – Nguyễn Đức Mậu)

78

Và cũng chỉ còn mình mẹ già, chiếc bóng “liêu xiêu” đi giữa hàng bia

mộ chăm sóc từng vuông cỏ:

Dáng mẹ liêu xiêu giữa hàng bia mộ

Núi bạc đầu và tóc trắng sương rơi

Ôi đời mẹ không chồng con đơn lẻ

Tám mươi năm dài dặc kiếp người

(Mẹ già coi nghĩa trang – Nguyễn Đức Mậu)

Hòa bình đã về nhiều năm, nhưng hậu quả và di chứng chiến tranh vẫn

còn ám ảnh, đè nặng lên đời sống, số phận của con người không chỉ hôm nay

mà còn nhiều năm sau nữa. Là những người lính, Phạm Tiến Duật, Hữu

Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu có cái nhìn rất sâu sắc và nhân văn, mang tính trải

nghiệm về cuộc sống, tâm tư của những người lính sau cuộc chiến.

Cả ba nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đều là

những người lính trong cuộc kháng chiến trường kỳ này. Không chỉ từ những

quan sát bên ngoài mà hình ảnh người lính trong thơ của ba tác giả là những

trải nghiệm trực tiếp trên chiến trường với bom đạn, với thiếu thốn vất vả, đối

diện giữa cái sống và cái chết. Do đó hình ảnh người lính trong thơ của ba nhà

thơ – chiến sĩ là những bức chân dung sinh động, chân thực về những con

người đã từng làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Khắc họa người lính ở

nhiều góc độ khác nhau, cả ba nhà thơ đã tạo nên một bức tranh đa màu về

hình ảnh người lính – hài hòa giữa trữ tình đằm thắm và tính chất anh hùng ca

trang nghiêm. Phản ánh chân thực, sắc nét hình ảnh người lính từ nhiều góc

độ, khía cạnh khác nhau, cho người đọc cảm nhận được bức tranh toàn cảnh

về người lính và cuộc chiến. Hình ảnh trong thơ giản dị nhưng chứa đựng một

tình yêu vô bờ với người lính. Thơ Phạm Tiến Duật thường đi vào sự khái

quát về cuộc sống, như một bản tình ca dài về người lính. Đối với Hữu Thỉnh,

anh đã viết thật xúc động về chiến tranh, về lòng quả cảm và đức hi sinh của

79

người lính. Trong mỗi trang thơ anh viết ta thấy cả trí tuệ và trái tim, tài năng

và nghị lực cùng những khát khao, mơ ước cháy bỏng của anh. Ta ghi nhận ở

Hữu Thỉnh một hồn thơ giàu xúc cảm, đằm thắm mà cũng rất khỏe khoắn ,

rắn rỏi. Với Nguyễn Đức Mậu, lời thơ của anh lại là những lời thủ thỉ tâm

tình, nó chầm chậm nhưng xoáy sâu vào trong đó là tình yêu, là sự đồng cảm

sâu sắc trước bao khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua. Dù cách thể

hiện khác nhau nhưng người lính trong thơ của ba nhà thơ chiến sĩ vẫn hiện

lên thật đẹp. Cái đẹp của họ hiện lên trong giây phút chiến đấu ngoan cường,

cái đẹp và cái hùng hiện lên trong sự hài hào cân xứng. Và ngay cả khi nhắc

tới cái bi, thì nó vẫn mang âm hưởng hào hùng bi tráng. Chính vì vậy, mà

người lính hiện lên trong thơ toát lên khí thế mạnh mẽ, quật cường đại diện

cho dân tộc Việt Nam.

80

CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN

TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH,

NGUYỄN ĐỨC MẬU

3.1. Thể thơ

Thơ ca là hình thức độc đáo của văn học ở cơ chế vận hành bộ máy

ngôn ngữ. Sự phong phú của ngôn ngữ thơ ca Việt Nam về mặt thanh điệu,

nhịp, hình ảnh thơ… đã tạo cơ sở để hình thành nhiều thể loại thơ giàu năng

lực, biểu hiện. Trong quá trình sáng tác, việc lựa chọn thể thơ cho phù hợp

với mạch cảm xúc quả thật không đơn giản đối với những người nghệ sĩ. Để

hiểu được nội dung tư tưởng của một bài thơ, chúng ta không thể bỏ qua thể

thơ mà tác giả đã sử dụng. Nó là một phần quan trọng trong việc hình thành

giá trị của tác phẩm. Để xác định thể thơ người ta căn cứ vào số tiếng và vần.

Khi căn cứ vào số âm tiết trong dòng thơ, chúng ta có thể phân thành các thể

thơ, như: ngũ ngôn (5 tiếng), lục ngôn (6 tiếng), thất ngôn (7 tiếng), lục bát

(6/8 tiếng), thơ tự do (không phân định số tiếng),… Còn căn cứ vào vần luật

có hai loại: cách luật (có quy tắc, luật lệ) và không cách luật (tự do về số

tiếng, câu, vần,…).

3.1.1. Thể thơ tự do

Thơ tự do xuất hiện cùng với sự ra đời của phong trào thơ Mới. Nó

khác với các thể thơ ra đời trước đó ở sự cách tân về thể loại âm tiết và vần.

Thơ tự do là loại thơ không có quy định bắt buộc về số câu, số chữ trong câu,

về vần, bằng trắc và nhịp điệu. Tất cả các yếu tố hình thức này đều có thể thay

đổi tùy thuộc vào cảm xúc của người viết. Theo Từ điển thuật ngữ văn học

thơ tự do là “Hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ

không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối…

Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ văn bản có phần dài dòng nhưng

81

không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm

theo các thể thơ khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do” [3]

Sau 1975, ít người làm thơ thuần khiết theo một thể loại nào mà phần

lớn đều có xu hướng làm thơ tự do. Chúng ta thấy các thể thơ truyền thống đã

giảm dần tần số xuất hiện và thơ tự do trở nên chiếm ưu thế. Có thể nói đến

nay thơ tự do đã có một vị trí quan trọng, là một thể thơ quen thuộc và gần gũi

với mọi người. Thơ tự do thông thường phù hợp với những đề tài rộng lớn, sự

đa dạng của cuộc sống, cùng nhịp biến chuyển của thời đại. Hình thức thơ

không định sẵn mà được hình thành từ tâm nhà thơ, khi họ tìm thấy ở đó sự

diễn tả phù hợp nhất để giãi bày những cảm xúc nội tâm về một vấn đề nào đó

trong hiện thực. Từ những tìm tòi mới mẻ này, thơ tự do ngày càng khẳng

định vị trí trong sự phát triển thơ ca nước nhà.

Thuộc thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ, rất nhạy cảm với thời cuộc, Phạm

Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã vận dụng triệt để những ưu thế

của thơ tự do vào sáng tác của mình. Qua kết quả khảo sát cho thấy, số lượng

thơ tự do được Phạm Tiến Duật sử dụng là 110/150 bài, chiếm 73,3%, Hữu

Thỉnh là 63/88 bài, chiếm 71,5%, Nguyễn Đức Mậu là 61/159 bài, chiếm

38,4%.

Trong đó, những bài thơ viết về chiến tranh của Phạm Tiến Duật đa

phần đều xuất sắc và thể hiện phong cách thơ độc đáo. Anh cũng sử dụng thể

thơ tự do để biểu lộ cảm xúc của mình về một thời “máu lửa”. Cái bi khuất

sau cái hùng cùng chất hiện thực “tươi màu áo lính” đã tạo nên nét riêng biệt

cho thơ anh thời kháng chiến chống Mỹ:

Cao xạ thình lình điểm đầu canh ba

Giật mình thức giấc nhìn lên mái nhà

Ngói vỡ bởi bom rung hở một mảnh trời trời nho nhỏ

Qua mảnh trời ngói vỡ

Thấy ánh đạn bay trên đó

82

Cũng đủ nhìn sao đứng, sao sa

Cũng đủ để gió sông Lam vào nhà

Ru ta ngủ lại

(Qua một mảnh trời thành phố Vinh – Phạm Tiến Duật)

Cái hay và đặc sắc của thơ tự do là nhà thơ đã liên kết nhiều thể thơ

khác nhau, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng mà vẫn không mất ý nghĩa

truyền đạt. Thể thơ thấp nhất thường được sử dụng là thể thơ 4 tiếng, và cao

nhất là thể thơ 12 tiếng, đan xen cùng thể thơ 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8

tiếng,… hình thành lối sáng tạo riêng của Phạm Tiến Duật. Với cách kết hợp

như thế dẫn đến hình thức câu thơ thay đổi, không đồng đều và người viết có

điều kiện thả cho cảm xúc bay bổng tùy theo cảm hứng của nghệ sĩ:

Trước mùa xuân điều tôi muốn nói

Cứ ghìm trong lồng ngực tôi đây

Giặc trút bom B.52

Hố bom trong ruộng cày, hố bom trong thành phố

Giặc muốn dựng mùa xuân bằng cây thập tự

Chúng trang trí mùa xuân bằng những dải khăn tang

(Trƣớc mùa xuân – điều tôi muốn nói – Phạm Tiến Duật)

Thể thơ không chỉ gắn với nghệ thuật ngôn từ mà thực ra nó còn là

“biểu hiện của quan niệm thẩm mỹ đối với đời sống” (Phạm Quốc Ca). Khi ý thức về

xã hội với những khuôn phép, rào cản bó buộc như thời trung đại, người ta sáng tạo các

thể thơ cách luật rõ ràng. Nhưng khi ý thức cá nhân bùng nổ, cảm hứng thơ ca có nhiều

thay đổi, nhằm phản ánh thế giới đời tư, thế sự thì hình thức thơ trở nên tự do. Thơ tự

do của Hữu Thỉnh có nhịp thơ, những chỗ ngắt hơi, tiết tấu đều rất linh hoạt, khi nhịp

khoan khi nhịp gấp, chỗ có vần, chỗ không có vần, chỗ câu dài, chỗ câu ngắn… Nếu

như ở giai đoạn Thơ mới, thơ tự do chỉ chiếm khoảng 5% thì từ 1975 trở lại đây, thơ tự

do đã trở thành thể loại số một được các nhà thơ lựa chọn. Trong các sáng tác của Hữu

Thỉnh, thơ tự do cũng là thể loại chủ yếu, anh sử dụng thể thơ tự do nhuần nhuyễn như

83

là sự tìm kiếm tất yếu của tâm hồn thi nhân đến với thể thơ nhiều thế mạnh này. Tất

nhiên, thể thơ tự do dù bứt phá, phóng túng tới đâu cũng phải tuân theo quy luật chung

của ngôn ngữ dân tộc, tiếp thu vẻ đẹp của thơ ca dân tộc về hình ảnh và nhạc điệu. Thơ

tự do của Hữu Thỉnh thực chất cũng là việc phát triển của các thể thơ dân tộc, giống

như Nguyễn Phan Cảnh nhận xét: “Ngay những bài thơ tự do nhất, nếu đọc kỹ thì sẽ

thấy cái khí toàn bài cũng phải dựa trên một cốt nào đấy”, trong số 4 thể thơ cốt lõi: 5,

6, 7, 8. Nếu nhà thơ mở rộng hay rút ngắn câu thơ thì cũng là sự kết hợp hay chia nhỏ

các dòng thơ của một số thể thơ truyền thống. Ta sẽ nhận ra điều đó khi xem xét nhịp

điệu trong thơ tự do Hữu Thỉnh. Cách nhà thơ kiến trúc nhịp thơ toàn bài rất “linh hoạt,

sự đắp đổi các câu thơ dài ngắn phù hợp với việc diễn tả cảm xúc”. Nhịp điệu thơ lúc

nhanh, lúc chậm nhưng vẫn dựa trên nhịp thơ cơ bản của thơ 5 chữ và kết hợp một số

nhịp thơ khác:

Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé

Tôi mất hai người anh

Cả hai đều rất trẻ

Sáng nay, lại có người hàng xóm chạy sang

Mỗi lần, sau đám tang

Lòng ai cũng héo

Dạ ai cũng sầu

(Nghe tiếng cuốc kêu – Hữu Thỉnh)

Đoạn thơ bị cắt ra thành nhiều nhịp ngắn đặt bên cạnh một số nhịp dài

hơn như sự “đứt nối”, “rạc rời”. Điển hình cho cách ngắt nhịp nhuần nhuyễn,

tạo xúc cảm lúc trào dâng, lúc trầm lắng, rất thích hợp để diễn tả trạng thái

tinh vi của tâm hồn con người khi yêu, phải nhắc tới bài Thơ viết ở biển:

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

84

Vắng cánh buồm một chút mà vách núi phải mòn

Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn

Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến

Dù sóng đã làm anh

Nghiêng ngả

Vì em

Từ hồn cốt của thể thơ dân tộc (thơ 5 chữ, 8 chữ là chủ yếu) Hữu Thỉnh

đã phát triển thể thơ tự do với những sáng tạo về nhịp điệu làm tăng nhạc tính

cho bài thơ và diễn tả cảm xúc trong lòng mình.

Cùng với việc sử dụng thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, Nguyễn Đức Mậu sử

dụng kiểu thơ tự do có sự kết hợp của nhiều thể. Trong thời hiện đại thơ tự do

rất năng động, dễ dàng đi vào ngõ ngách của đời sống tâm hồn con người.

Nằm trong dòng chảy chung của thơ tự do giai đoạn cuối của cuộc kháng

chiến chống Mỹ là tăng cường chất chính luận và tư duy thơ vượt ra khỏi

những rung động trực tiếp đến luận bàn, phân tích và triết luận, suy tưởng có

sức lắng đọng cao, mạch thơ phóng khoáng, tứ thơ dào dạt:

Vì những vết thương trên mình mẹ bầm đau

Chúng con hành quân qua mùa khô oi nồng, mùa mưa ẩm ướt

Ngàn cây số đường rừng chân bước mòn trăm dốc

Đội ngũ điệp trùng khắp núi Trường Sơn

(Tổ quốc – Nguyễn Đức Mậu)

Các đoạn trong bài vừa có tả, vừa có cả bình như: Nấm mộ và cây

trầm, Ghi ở chiến trƣờng, Anh Pa – Thét Lào ngủ trong chum đá, Nói về

cánh cò… Kiểu phối hợp này không chỉ giúp cho hình tượng thơ tự nhiên

như vốn có ngoài đời mà còn làm cho cuộc sống hiện lên cụ thể, sinh động,

lời thơ đậm chất trữ tình ngay cả trong những hình ảnh tưởng chừng như

chẳng thơ chút nào.

85

Thơ tự do có khả năng diễn tả những trạng thái tinh vi nhất của tâm hồn

con người. Không chỉ thế, việc mở rộng biên độ câu thơ, khổ thơ và các luật

lệ khác cho phép thơ tự do có ưu thế trong việc ôm chứa hiện thực, tăng dung

lượng đời sống trong thơ. Đây là loại thơ phát huy cao độ sự sáng tạo của

người viết. Với những đặc tính và ưu thế nổi bật, thơ tự do đang ngày chiếm

vị trí quan trọng, phổ biến trong thơ ca hiện đại. Nhìn chung, thơ Phạm Tiến

Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu là loại thơ trữ tình nội tâm, thơ phản ánh

hiện thực, nắm bắt đời sống chiến trường sôi động, dư âm chiến tranh nhiều

lắng đọng và trăn trở. Những câu thơ theo thể thơ tự do đã tạo điều kiện cho

các anh bộc bạch tấm lòng của mình theo một mạch nguồn tuôn trào, tạo cho

hình thức câu thơ linh hoạt phóng khoáng. Không phải thơ tự do đem lại cái

tùy tiện, cẩu thả mà luôn có vẻ đẹp xác định, có tính cân đối và cấu tạo chặt

chẽ của tổ chức kết cấu, tính hàm súc của ngôn ngữ thi ca. Cho đến nay thể

thơ tự do vẫn là thể thơ có sức sống diệu kỳ nhất, gần gũi cuộc sống hơn bất

cứ thể thơ nào. Như vậy, với thể thơ tự do Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,

Nguyễn Đức Mậu đã diễn tả được tất cả nỗi niềm, những tâm tư, những mạch

nguồn cảm xúc trong lòng. Tất nhiên mỗi nhà thơ, một cá tính sáng tạo đã

mang lại cho thể thơ tự do nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau, tạo nên dấu ấn

nhất định trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

3.1.2. Thơ lục bát

“Lục bát là thể thơ truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, được hình

thành từ văn học dân gian với mảng ca dao giàu trữ tình, sau đó được các nhà

thơ đưa vào văn viết. Thơ lục bát có nhịp điệu uyển chuyển, nhịp nhàng,

thanh điệu của câu thơ nghiêng về bằng hơn trắc, hơi thơ cần liên tục ngắt

quãng” [25, tr.89]. Có thể nói đây là một thể thơ đặc biệt nhất của người

Việt. Đã có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng với thể loại thơ truyền thống này như

Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy,

Đồng Đức Bốn, … Mỗi nhà thơ một phong cách, một dấu ấn khác nhau đã tạo

86

nên những thành công nhất định ở thể loại này. Ngoài vần điệu, niêm luật chặt

chẽ, thơ lục bát còn có nhạc tính cao. So với thể thơ Haiku của người Nhật

được xem là thể thơ ngắn nhất thế giới chỉ có 17 âm tiết, thì thể thơ lục bát

(6/8) của Việt Nam chỉ với 14 âm tiết có thể biến hóa để trở thành thể thơ dài

nhất thế giới. Niêm luật thơ lục bát đơn giản, thường gieo vần bằng ở tiếng

thứ 6 câu lục, tiếng thứ 6, 8 ở câu bát. Các tiếng 4, 6, 8 phải theo trắc bằng cố

định, tiếng thứ hai có thể linh động bằng hay trắc. Hiệp vần cả ba loại vần:

chân, lưng và thông. Nhịp thơ chẵn: nhịp 2/2/2, 4/2 ở câu lục, nhịp 2/2/4,

4/2/2 ở câu bát. Đôi khi tùy thuộc vào tâm trạng thể hiện, câu thơ chuyển sang

nhịp thơ lẻ: nhịp 3/3, 1/5 (câu lục), nhịp 3/5 (câu bát). Thơ lục bát thích hợp

với giọng tâm tình, nhẹ nhàng, tình cảm. Hướng về những giá trị truyền

thống, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu cũng đã lựa chọn thơ

lục bát để sáng tạo và tạo nên những cá tính riêng không thể lẫn. Phạm Tiến

Duật ít sử dụng thể loại thơ này để sáng tác, các sáng tác của anh hầu hết

được viết theo lối thơ tự do, phóng khoáng và dễ biểu cảm. Riêng với Hữu

Thỉnh và Nguyễn Đức Mậu ngoài việc sử dụng các thể thơ tự do, các anh còn

tìm được sự đồng điệu của cảm xúc khi sử dụng thể thơ truyền thống này, và

đã tạo được những thành công nhất định.

Với những ưu điểm của thơ lục bát, Phạm Tiến Duật tiếp tục vận dụng

thể thơ này vào sáng tác, đặc biệt là những bài viết về chiến tranh, và cũng tạo

được dấu ấn riêng cho phong cách sáng tác của mình:

Áo xanh đổi lấy áo xanh

Bom ngừng mà bước chân anh chẳng ngừng

Niềm vui như ngọn lửa bừng

Ấm từ mạch đất anh hùng ấm lên

Có nghe giục giã không em

Miền Nam nửa nước ngày đêm bên lòng

(Thay áo – Phạm Tiến Duật)

87

Bài thơ mộc mạc, giản dị với lời tâm tình chân thành của người lính trẻ

về chiếc áo xanh đang khoác trên mình. Tuy không chau chuốt về mặt ngôn từ

nhưng lời thơ chắc gọn, mạnh mẽ, khẳng định ý chí kiên cường, sắt đá của

người lính về con đường đã chọn và niềm tin vào ngày đất nước hoàn toàn

thống nhất, non sông thu về một mối. Mặc dù phải hi sinh cả thời tuổi trẻ và

một phần thân thể gửi vào đất mẹ, thì lòng kiên trung với nước, với dân của

người lính không thay đổi. Vì mục đích cao cả của đời người là phấn đấu cho

cuộc sống tươi đẹp của dân tộc.

Nhịp câu thơ biến chuyển theo dòng cảm xúc của tác giả. Các câu thơ luân

phiên nhau đổi nhịp: ở câu lục nhịp 2/2/2, 2/4, 4/2 và câu bát nhịp 2/4/2, 4/4, 3/5

tạo âm hưởng sâu lắng nơi người đọc. Dù số lượng thơ lục bát anh sáng tác rất ít

(chỉ 16/150 bài, chiếm 10,7%) nhưng cũng để lại một số bài khá hay. Với giọng

điệu pha trò hóm hỉnh, những hình ảnh ví von tinh nghịch, anh đã thể hiện phần

nào đời sống tinh thần phong phú của người lính trong chiến tranh:

Con trai đội nón bao giờ

Vì mưa nên phải đi nhờ nón em

Bấy lâu mũ sắt đội quen

Buồn cười cái nón toòng teng trên đầu

(Cái chao đèn – Phạm Tiến Duật)

Khi đọc những bài thơ lục bát của anh, chúng ta như được tắm mình

trong vùng trời của người chiến sĩ. Với kết cấu chặt chẽ, nhịp điệu êm ái, nhẹ

nhàng, từng câu thơ như thấm vào lòng người đọc, dâng tràn bao xúc cảm về

thời chiến:

Anh đi núi biếc trập trùng

Non xa mấy dải, một vùng quân đi

Thấy núi nổi lúc xuống khe

Thấy non xa xuống ấy khi lên đèo

(Cái cập kênh – Phạm Tiến Duật)

88

Thể thơ lục bát đã được Phạm Tiến Duật sử dụng một cách phong phú,

đa dạng để thể hiện thiên nhiên, cuộc sống người lính. Qua cách tách âm tiết

mà vẫn giữ nguyên ý, cùng việc sử dụng thanh trắc và vần thông đã tạo nên

giá trị riêng cho thơ Phạm Tiến Duật. Đây chính là bước sáng tạo trong thể

thơ dân tộc của Phạm Tiến Duật.

Với Hữu Thỉnh, thơ anh có nhiều nét truyền thống dân gian. Sự lựa

chọn tiếp thu “tinh nhụy, mật ngọt” của thơ ca dân tộc trong thơ anh không

chỉ ở cảm hứng, từ ngữ mà cả ở thể thơ, ở cách tạo nhạc thơ đậm thanh âm

của thơ Việt. Điều đó được thể hiện rõ ở thể lục bát trong thơ anh. Tuy sáng

tác không nhiều thơ lục bát, chỉ có 9 bài nhưng Hữu Thỉnh đã đem đến cho

thể thơ đậm chất dân tộc này những nét lôi cuốn, duyên dáng.

Cách nhà thơ tạo nhịp điệu cho thể thơ lục bát có những nét vừa dân tộc vừa

hiện đại. Hữu Thỉnh dựa trên cách ngắt nhịp chẵn là chính nhưng nhịp thơ không chỉ

chia nhỏ kiểu nhịp 2 truyền thống mà kéo dài ra nhịp 4, đồng thời nó được kết hợp

với cách ngắt nhịp 3/5 ở câu bát tựa như tiết tấu của thể 8 chữ mà anh vẫn quen dùng:

Ở đây trời bị bỏ quên

Hoa biếng nở, đá chen hết người

(Trƣớc tƣợng Bay – on – Hữu Thỉnh)

Chúng tôi đã khảo sát được 31 bài lục bát trên tổng số 159 bài thơ của

Nguyễn Đức Mậu ở các tập, chiếm 22,6%. Có thể nói thơ lục bát của anh cũng có

những thành công đáng kể, có được nét độc đáo riêng. Trong 39 bài lục bát được

tuyển chọn có những bài khá dài như: Lời tâm tình, Nói với con, Dọc miền quan

họ… (từ 40 câu trở lên). Những bài có nội dung trung bình như: Những cô gái

mở đƣờng và bầy chim núi, Rƣợu cần, Nhà bạn bên cầu Chƣơng Dƣơng,

Gửi ngƣời đón tết một mình (28 – 40 câu). Và những bài ngắn (từ 26 câu trở

xuống): Khúc cảm, Suối mát, Hoa gửi em, Không đề, Thƣ những ngày xa.

Thơ lục bát Nguyễn Đức Mậu thường ít có sự phá cách, ngắt nhịp khác với truyền

thống (2/2/2; 4/2). Thơ anh thường ngắt nhịp chẵn:

89

Thương vầng trăng khuyết đêm đêm

Không gian vời vợi nỗi niềm nhớ nhau

Thương loài hoa muộn rừng sâu

Mong manh cánh mỏng có màu nắng mưa

(Thƣ những ngày xa – Nguyễn Đức Mậu)

Chỗ sáng tạo của anh lại là những hình ảnh thơ. Anh thường có những

liên tưởng thú vị, độc đáo:

Cho tôi gọi đó là em

Hỡi hình vũ nữ của miền xa xưa

Thuở đấy chưa hóa rừng già

Áo nâu lam lũ tìm ra đền đài

(Nghìn năm tuổi đá – Nguyễn Đức Mậu)

Nếu như thơ lục bát Phạm Tiến Duật vẫn mang nét tinh nghịch, hóm

hỉnh, thơ lục bát Hữu Thỉnh gần gũi với ca dao, dân ca thì thơ lục bát Nguyễn

Đức Mậu lại nhẹ nhàng, sâu lắng, rất phù hợp với đạo đức, tình cảm, nếp cảm,

nếp nghĩ của người Việt Nam. Nhưng dù cách thể hiện như thế nào thì mỗi

vần thơ của các anh đều mang đến cho người đọc những tình cảm trong sáng,

thấm nhuần chất nhân văn cao cả.

3.1.3. Trường ca

“Bản thân thi liệu của cuộc sống cùng với nội dung, tính chất hiện thực

của đời sống buộc nhà thơ phải tìm đến một phương thức thể hiện tương ứng

của nó. Từ sau 1975, nhiều nhà thơ trẻ đã tìm đến với thể loại trường ca” [6,

tr.376].

Năm 1997, khi biết ở Thái Bình có hàng trăm sư nữ vốn là cán bộ,

chiến sĩ thanh niên xung phong thời chống Mỹ, Phạm Tiến Duật đến tận nơi

rồi viết Trƣờng ca Tiếng bom và tiếng chuông chùa. Ta hãy nghe: Nhưng

tại sao, tại sao họ lại đi tu - Những đồng đội của anh, của tôi, tại sao lại thế -

Chẳng lẽ trong trái tim chúng ta, chẳng nhẽ - Không còn chỗ nào cho đồng

90

đội nữa hay sao? - Chẳng lẽ trong xóm mạc kia, không có một nơi nào - Đủ

hơi ấm cho những người mấy chục năm ra trận? - Chẳng lẽ cuộc đời này quá

nhiều lận đận - Để những anh hùng mệt mỏi nghỉ rồi sao?... Dưới mái chùa

kia là bóng mát u trầm - U uẩn, u mê, u minh và u uất nữa - Tìm đến nơi Phật

ở - Người đời dễ nhớ mái chùa, đâu dễ nhớ nhà sư - Sư mặc áo vàng, áo nâu

là tự ngàn xưa - Chẳng khi nào pha sắc xanh bộ đội - Anh muốn hỏi và tôi

muốn hỏi - Chỉ màu chiều tím biếc trả lời thôi.

Từ các sư nữ Thái Bình, Phạm Tiến Duật nhớ và viết về đồng đội: Hình

như một lớp người thuộc thế hệ các anh đều thế - Đã từng lấy vợ mà không

được làm chồng - Đã từng có con mà không được làm bố - Việc vất vả thay là

phải làm một anh hùng! v.v... Rõ ràng, “tâm chấn” Trường Sơn của Phạm

Tiến Duật không dừng lại, những năm tháng Trường Sơn luôn day dứt trong

anh sau những ngày hòa bình. Có thể nói, Trƣờng ca Tiếng bom và tiếng

chuông chùa là nỗi lòng suy tư, khôn nguôi của nhà thơ về Trường Sơn một

Trường ca Đƣờng tới thành phố của Hữu Thỉnh như cuốn nhật ký

thời đạn lửa.

ghi lại cảm xúc và suy nghĩ trên con đường dẫn tới thành phố cũng là con

đường đến với ngày non sông thống nhất của một chiến sĩ Giải phóng quân

binh chủng Tăng thiết giáp. Khi viết Đƣờng tới thành phố, bút lực của Hữu

Thỉnh thật sung mãn. Cấu trúc từng chương, từng khúc nhỏ trong chương đó,

vừa có hình tượng thơ độc lập, lại có những liên kết với nhau, tạo thành chỉnh

thể lớn của trường ca. Ngôn ngữ thơ giàu xúc cảm và cũng phong phú chi tiết

sống: Gạo chỉ mang đủ mười ngày/ Còn dành mang súng/ Còn mang thuốc/

Còn mang bao nhiêu tai biến dọc đường... Nhiều khi, qua một chi tiết sống có

phần đau thương, xúc cảm thơ trào dâng một vẻ đẹp cao cả, như chi tiết

những người lính thêu họ, tên, đơn vị mình lên ngực áo, để có thể: Người ta

tìm áo báo tin cho mẹ/ Nếu chẳng may anh ngã xuống nơi đâu/ Đến cái chết

đã chẳng cần giấu giếm/ Trái tim anh càng đập ngang tàng...

91

Sau trường ca Đƣờng tới thành phố được dư luận bạn đọc và đồng

nghiệp đánh giá cao, Hữu Thỉnh tiếp tục âm thầm đi vào cuộc chuẩn bị cho

một trường ca mới. Đó là Trƣờng ca biển khởi sự từ 1981, và hơn mười năm

sau, anh mới sửa chữa lại, rồi xuất bản năm 1994. Cũng xin nói thêm, bài thơ

dài Sức bền của đất mà báo Văn Nghệ trao tặng giải Nhất cuộc thi thơ 1975-

1976 (cùng bài thơ Chuyến đò đêm giáp ranh) là một trường ca, Hữu Thỉnh

viết trước cả trường ca Đƣờng tới thành phố. Trong Trƣờng ca biển, Hữu

Thỉnh vẫn sáng tạo được những câu thơ rất giàu mỹ cảm, như những câu thơ

mô tả những người lính đảo trên bãi cát mép đảo: Ngồi ghép nhau bao nỗi

nhớ nhà/ Chiều áo rộng vài vạt mây hờ hững/ Họ cứ ngồi như chum vại hứng

mưa... Hoặc những câu trữ tình về cuộc đời người mẹ trong quá khứ buồn

khổ: Mẹ đành gọi bán lúa non/ Liềm hái buồn quang gánh cũng buồn... / Rơm

rạ sang khói bếp nhà người.

Trƣờng ca biển có một tầm vóc đích thực của nó. Nó càng có giá trị

hiện hữu với hôm nay hơn bao giờ hết, khi gần đây, cả nước đang đồng lòng,

dốc sức hướng ra biển đảo trong chiến lược bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh

thổ của Tổ quốc. Với 6 chương được cấu trúc: Đối thoại biển, Cát, Tự thuật

của ngƣời lính, Đất này, Hóa thạch những dòng sông, Bão biển, Trƣờng

ca biển nếu nhìn theo góc độ tài nguyên “rừng vàng biển bạc” thì có cấu trúc

của 6 kho tàng biển (lục khố). Nếu nhìn theo âm nhạc thì đây là một tổ khúc

giao hưởng mà ở giữa các chương có những đoạn chuyển tiếp qua các Lời

sóng từ 1 đến 5.

Đọc Trƣờng ca biển của Hữu Thỉnh, ta thấy chứa chất những ngẫm

nghĩ đáng giá, đáng quý về vùng biển thân yêu của Tổ quốc, chứa chất những

biến ảo về thi pháp mà tác giả muốn gửi vào đấy bằng toàn bộ dụng công khi

vắt kiệt cảm xúc của mình. Nghe vang lên từ chữ nghĩa dạt dào cả một tổ

khúc giao hưởng như Trƣờng ca biển, chúng ta mới thấm thía hết những gì

phải ứng xử khi hội nhập toàn cầu trong một thế giới mới đầy biến động.

92

Với ý nghĩa lớn lao đó, thiết nghĩ trong hôm nay, Trƣờng ca biển nên được

tái bản, được làm quà tặng trao cho tất cả những người lính biển đảo như trao

thêm cho họ một niềm tin, một chỗ tựa như những lời kinh, lời ru của Mẹ Việt

Nam để tất cả họ có thể đứng vững trước mọi sóng gió, mọi mưu toan thâm

độc. Đấy là sức mạnh của tác phẩm này, một người bạn lớn đồng hành cùng

những người lính biển đảo hôm nay…

Nguyễn Đức Mậu cũng dùng trường ca để tổng kết chiến tranh, phản

ánh những bức tranh hiện thực rộng lớn của cuộc kháng chiến như: Trƣờng

ca sƣ đoàn, Trƣờng ca Côn Đảo. Chính vì dung lượng đồ sộ với cảm hứng

mãnh liệt, mang đậm chất sử thi, nội dung hoành tráng, âm điệu hào hùng, có

khả năng ôm chứa nhiều hình thức thể loại khác nhau, nên hai bản trường ca

sử dụng rất nhiều thể loại thơ khác nhau: thơ lục bát, thơ tự do…

Tính chất tổng hợp của Trƣờng ca sƣ đoàn, Trƣờng ca Côn Đảo

không chỉ ở phương thức thể hiện, ở liên tưởng đa dạng phong phú mà còn ở

sự biến hóa linh hoạt của câu thơ cùng với ngôn ngữ thơ đa giọng điệu. Người

đọc không rơi vào cảm giác nhàm chán khi đọc Trƣờng ca sƣ đoàn nhờ câu

thơ liên tục thay đổi, giọng thơ không rơi vào độc thoại cảm xúc một chiều.

Chúng ta có cảm giác thú vị đôi khi quên đi hình thức của câu thơ, chăm chú

theo dõi diễn biến của tình cảm, cảm xúc mà không nghĩ rằng chính sự thay

đổi hình thức tạo nên điều đó. Các thể thơ dân tộc như lục bát, bảy chữ, năm

chữ, được đặt cạnh các thể thơ hiện đại khác như thơ tự do, thơ văn xuôi, tạo

không khí riêng cho từng đoạn, từng khúc và cho cả trường ca. Ở Trƣờng ca

sƣ đoàn, thơ lục bát được dùng ở những khúc tâm tình, những khúc hát ru,

những suy tư về nhân dân, đất nước, về những điều gần gũi thân thương… thể

thơ 4 chữ, 5 chữ lại thường dễ diễn tả hành động khẩn trương, những nhịp gấp

của cảm xúc. Thơ tự do, thơ văn xuôi biến đổi linh hoạt khi thì kể chuyện, khi

lại diễn tả cảm xúc. Nhịp thơ nhanh, gấp như những thước phim, nhà thơ đã

tạo được ấn tượng hùng mạnh của đoàn quân ra trận, bao đau thương địch đã

93

reo rắc cho dân tộc ta, những bước cản người lính gặp suốt dọc đường chiến

đấu. Ngoài ra nhịp đều của thơ 7 chữ giúp Nguyễn Đức Mậu có được nội

dung phản ánh mới trong một hình thức cũ.

Sự thay đổi liên tục câu thơ kéo dài theo hệ quả tất yếu là ngôn ngữ thơ

cũng biến đổi. Là một bài thơ dài, trường ca sẽ rơi vào nhàm chán nếu chỉ sử

dụng đều đều một giọng thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của các thể thơ không

mất đi hơi thở dân tộc nhờ những thể thơ truyền thống nhưng vẫn hiện đại,

mới mẻ nhờ những câu thơ tự do. Truyền thống và hiện đại, hiện thực nhưng

giàu chất thơ, giàu chi tiết cụ thể mà vẫn khái quát là điểm cần ghi nhận ở

trường ca của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.

3.2. Biểu tƣợng

3.2.1. Khái niệm biểu tượng

Biểu tượng đã trở thành một thuật ngữ của mỹ học, lý luận học và ngôn

ngữ học. Một tác phẩm văn học muốn sống mãi với thời gian không thể

không tự xây dựng cho mình thế giới biểu tượng bởi xét cho cùng văn học

chính là cuộc sống, văn học sẽ tái hiện lại cuộc sống bằng biểu tượng nghệ

thuật và nhiệm vụ của biểu tượng là làm cho cuộc sống hiện lên như thật. Khi

nói về biểu tượng người ta hay quan tâm đến nghĩa trực tiếp và nghĩa gián

tiếp hay nói cách khác là nghĩa đen hay nghĩa bóng của biểu tượng. Theo

nghĩa đen, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của

văn học nghệ thuật. Hiểu theo nghĩa bóng, biểu tượng là phương thức chuyển

nghĩa của lời nói hoặc một hình thức nghệ thuật nào đấy, vừa thể hiện một

quan niệm, một tư tưởng, hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời.

Jean Chevalier và Aliem Geerbrant cũng đã chỉ ra biểu tượng “tiết lộ mà che

dấu, che dấu mà tiết lộ” [21]. Biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ

thể sinh động, gợi cảm nhưng mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của

người đọc. Các từ ngữ thông thường khi đi vào văn bản đều có thể trở thành

biểu tượng nghệ thuật mang nội dung cảm xúc khái quát. Biểu tượng mang

94

tính đa nghĩa, tính văn hóa truyền thống. Biểu tượng chịu sự chi phối của

ngôn ngữ, của tâm lý, quan niệm dân tộc và thời đại, nhiều loại biểu tượng

mang dấu ấn cá nhân của người sáng tác. Nhờ có tính biểu tượng mà ngôn

ngữ văn học nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng có khả năng biểu đạt phong

phú, sâu rộng hơn so với ngôn ngữ thông thường.

3.2.2. Một số biểu tượng tiêu biểu trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,

Nguyễn Đức Mậu

3.2.2.1. Biểu tượng ngọn lửa, ngọn đèn

Thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu có hệ thống hình

ảnh mang tính chất biểu tượng, chúng có những ý nghĩa khái quát cao. Vẫn

xuất phát từ các biểu tượng, các mẫu gốc đã có trong thơ ca nhưng các anh có

nhiều khám phá, phát hiện riêng, bổ sung cho chúng những nét nghĩa mới,

khiến chúng giàu ý nghĩa hơn. Trong thơ các anh có khá nhiều hình ảnh mang

tính chất biểu tượng như: lửa, ngọn đèn, rừng, con đường, cỏ, cây súng, hầm,

chiến hào…

Đọc thơ Phạm Tiến Duật, ta thường xuyên gặp lửa và ánh sáng, nhưng

ở mỗi hoàn cảnh, chúng lại mang một ý nghĩa, một sắc thái thẩm mỹ khác

nhau. Khi ta thấy lửa đèn, ánh lửa (lửa que diêm, lửa đèn dầu, lửa đèn hàn,

lửa bếp…) thì ta gặp ở đó một sức sống âm thầm, lặng lẽ mà hết sức mãnh

liệt, bền bỉ.

Hình ảnh lửa đèn trong bài thơ cùng tên là một hình ảnh đa nghĩa và nó

biểu tượng cho sức mạnh, cho truyền thống lịch sử lâu đời của dân tộc. Ngọn

lửa ấy có từ thời hoang sơ, được truyền từ đời này qua đời khác. Như một

nguồn mạch chảy mãi, được nuôi dưỡng trong lòng dân tộc, ngọn lửa ấy còn

vận động, biến hóa mang tính chất biểu tượng cho sự sống, sự tồn tại vĩnh

hằng. Dưới mưa bom bão đạn, lửa vẫn âm thầm cháy trong lòng đất nước.

Lửa đèn được thắp trên từng nhành cây, kẽ lá. Lửa vẫn cháy lên trong ống

nứa, trong “lòng trái núi”, khi cần thì lửa đèn được thắp lên trên đỉnh núi,

95

trong chớp lòe ánh đạn để rồi ngày mai lửa thắp lên ngọn đèn lồng, đèn sao

năm cánh, đèn kéo quân soi rõ “những người những cảnh hôm nay”, tỏa sáng

đến muôn đời. Ngọn lửa bền bỉ, mãnh liệt đó chính là “lửa tim ta đấy”, nó như

luôn rực cháy và tỏa sáng trong mỗi tâm hồn con người. Lửa có khi lại mang

ý nghĩa tượng trưng cho sự hủy diệt. Ấy là khi anh nói đến những “quầng

lửa”, đến ánh sáng ma quái phát ra từ bom đạn, từ máy bay của giặc (như lũ

ma trơi). Nhưng ấn tượng sâu đậm để lại trong lòng người đọc vẫn là hình ảnh

lửa đèn trong sự vận động nhiều chiều, nó đã mang lại ý nghĩa biểu tượng cho

sức sống của dân tộc, cho tinh thần, lẽ sống, niềm tin không bao giờ tắt của

nhân dân Việt Nam anh hùng.

Sống trong một thời kỳ rực lửa – lửa của bom đạn kẻ thù, lửa của lòng

căm thù giặc, lửa của tình yêu quê hương đất nước và nhiệt huyết với cách

mạng - nên đọc thơ Phạm Tiến Duật ta thấy anh “nói nhiều đến lửa, chỗ nào

cũng lửa, lửa trong từng câu, trong từng bài và cả ở ngoài bìa những tập thơ”,

“Lửa với anh Duật là những kỷ niệm không phai nhạt, là một biểu tượng

sống, là một phẩm chất làm nên cốt cách của anh… Dễ hiểu thôi vì Phạm

Tiến Duật là người sống trong lửa, bước vào lửa và từ lửa lại bước ra” (Tuyển

tập thơ Phạm Tiến Duật, tr.302).

Trong thơ Hữu Thỉnh, ngọn lửa cũng được nâng lên thành biểu tượng.

Mở đầu trường ca Đƣờng tới thành phố (5 chương) là chương Ngọn lửa

chiến trƣờng đã tạo dựng không gian, thời gian cho nhân vật người lính xuất

hiện. Trong 21 trang thơ của chương này có đến 15 câu thơ chứa từ “lửa,

ngọn lửa” và 24 lần xuất hiện từ, cụm từ liên quan đến lửa (nhóm lên, cháy,

đốm tàn hoa cải, bay lên, vun cao ấm, lại hơ, chào, sưởi, ném tàn, xua muỗi,

đốt lên, bập bùng thương nhớ, bớt đi nhiều khuya khoắt, đốt, chí bình yên, tìm

vào tri kỷ, chín thành than đỏ, nói (lửa nói), bén, bắt vào (củi ấm), soi mặt đất

mấy tầng đêm, đỏ…). Đây là ngọn lửa trong căn hầm giấu quân giữa rừng

Trường Sơn những đêm chuẩn bị chiến dịch mùa xuân 1975. Ngọn lửa có

96

dáng hình cụ thể “đốm tàn hoa cải, vun cao vách đất bóng người, ném tàn xua

muỗi, bập bùng” nhưng ngọn lửa còn có ý nghĩa tượng trưng cho lý tưởng

cách mạng, cho tình yêu Tổ quốc nồng nàn, cho niềm tin bất diệt về tương lai

hòa bình, hạnh phúc của dân tộc. Mấy câu thơ “Ngọn lửa này. Và hi vọng của

anh/…/ Của chúng tôi những người mới đến” láy đi láy lại như một điệp

khúc. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ấy, niềm tin và hi vọng như

nguồn động lực giúp cho dân tộc ta đương đầu với khó khăn thử thách.

Ngọn lửa còn liên kết các chiến sĩ, ngọn lửa liên kết tiền phương và hậu

phương, người lính với quê hương, với mẹ và em:

Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa

Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm

Ngọn lửa ấy còn là biểu tượng cho tình yêu và lý tưởng của những lứa đôi,

bởi trong chiến tranh tình yêu lứa đôi luôn gắn với tình yêu đất nước, khát vọng hòa

bình cho toàn dân tộc. Ngọn lửa của tình yêu chỉ tỏa sáng khi cả hai cùng chung

nhịp đập và hòa chung nhịp tim với mọi người, chung tay giải phóng quê hương, và

khi đó tình yêu cá nhân đã hòa vào tình yêu đất nước và hóa thành bất tử.

Hình ảnh ngọn lửa trong thơ Nguyễn Đức Mậu là hình ảnh của sự sống

trường tồn, của sức mạnh dân tộc trước mưa bom, bão đạn:

Trường Sơn giờ hóa quê hương

Khói vương ngày nắng, bập bùng lửa đêm

(Chuyện nhỏ trong rừng – Nguyễn Đức Mậu)

Lửa đã trở thành một biểu tượng đẹp, giàu lý tưởng trong thơ các anh-

những người chiến sỹ Trường Sơn có những tháng ngày sống chung với lửa.

Những ngọn lửa biểu trưng cho ý chí dân tộc, cho niềm tin mãnh liệt vào

chiến thắng, cho tình yêu bất diệt của con người hay chính là ngọn lửa lòng

của các nhà thơ đang bùng cháy khi chứng kiến những hiện thực chiến

tranh, hay đó cũng chính là lòng tự hào dân tộc đã hòa nhịp vào thơ như

một sự hóa thân kỳ diệu.

97

3.2.2.2. Con đường

Biểu tượng con đường là một trong những biểu tượng phổ biến của thơ

ca cách mạng Việt Nam và thơ ca cách mạng thế giới, con đường là biểu

tượng của sự thống nhất không gian và thời gian, con đường là không gian

vận động, không gian để con người vươn lên, đến với cách mạng.

Con đường là không gian nghệ thuật xuất hiện khá nhiều lần trong thơ

Phạm Tiến Duật. Với anh, hình tượng con đường gắn liền với Trường Sơn

lịch sử - là con đường ra trận, con đường tất thắng. Sự ra đời của những con

đường trên dải Trường Sơn là một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của

đất nước, con người Việt Nam. Chỉ trong những năm kháng chiến chống Mỹ,

thanh niên xung phong đã làm được những con đường dài hơn tất cả độ dài

của đường xá đời xưa để lại: “Chỉ tính riêng ở Hà Tĩnh, số đường làm mới

trong ba năm chống Mỹ cứu nước (1965 – 1967) bằng toàn bộ số đường

của cả thế kỷ 19 dân ta làm được cộng lại” (Thơ một chặng đƣờng). Đó là

thành quả của lòng quyết tâm, ý chí và lý tưởng cách mạng của một thế hệ

anh hùng.

Con đường là biểu tượng chứa nhiều ý nghĩa, có khi nó gắn với sự khốc

liệt của bom đạn kẻ thù (“Một con đường không ngớt tiếng bom rung” – Áo

của hôm nào, ngƣời của hôm nay; “Đường gập ghềnh ngổn ngang cây đổ” –

Niềm tin có thật)… Cũng có khi nó biểu tượng cho lý tưởng cách mạng của

quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ - đó là con đường ra trận, là đường

tải đạn, tải gạo, và còn là con đường đồng đội, con đường tình yêu (Trƣờng

Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây, Chim lạc). Là con đường của lý tưởng cách

mạng nên nó chỉ chạy theo một hướng duy nhất, hướng Nam:

Đèo nhằm hướng Nam, đường nhằm hướng Nam

Xe đạn cũng nhằm hướng Nam, vượt dốc

(Đèo ngang)

98

Thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thuộc phạm trù “cái cao cả”,

muốn trở thành cao cả thì không gian không chỉ cần bao la (hoặc vô bờ bến)

mà còn phải có phương hướng và con người trong đó phải vận động về một

mục đích. Không gian ấy phải trở thành con đường [20, tr.37] và điều này thể

hiện rõ nét nhất trong các trường ca của Hữu Thỉnh. Xét ở khía cạnh nào đó,

Trƣờng ca Sức bền của đất (hoàn thành dịp tết Ất Mão 1975) là một kiểu

tổng kết chiến tranh qua việc đi tìm nguồn gốc sức mạnh của người lính, của

quân đội từ chiều sâu văn hóa dân tộc, từ “mạch đất ông cha”. Đƣờng tới

thành phố (hoàn thành tháng 4/1978, ba năm sau khi chiến tranh chống Mỹ

kết thúc thắng lợi) là “bản tổng kết” giai đoạn hào hùng nhất, giai đoạn cuối

cùng quyết định của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đƣờng tới thành phố đã

viết lại chặng đường lịch sử: từ Trường Sơn xuống đồng bằng, tiến về thành

phố Sài Gòn. Đó cũng là con đường của các sư đoàn bộ đội từ sau Mậu Thân

1968, bị hất qua biên giới, rồi những ngày tháng giữ từng tấc đất sau hiệp

định Pari (1973), cho tới khi tiến về giải phóng đồng bằng sau chiến dịch Tây

Nguyên, kết thúc bằng toàn thắng ngày 30/4/1975; đây thực sự là con đường

trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta qua hình ảnh các thế hệ chiến sĩ,

con đường trải qua gian khổ hi sinh của dân tộc để tới đích vinh quang, con

đường nối liền hậu phương với tiền tuyến, con đường từ lòng Mẹ đến với trái tim

người chiến sĩ trên mặt trận, giữa chiến hào.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt của dân tộc hiện ra rõ nét

qua những con đường khác nhau. Đó là con đường cụ thể của người lính. Hữu thỉnh

cảm nhận con đường với điểm nhìn của người lính đang đi trên con đường ấy. Con

đường mang tâm hồn tươi trẻ của người lính, với đầy âm thanh và màu sắc:

Tiếng hát nâng nhẹ bước chân ta

Qua mỗi cung đường chân trời lại mới

Tim ta đập ở bên kia trái núi

Chân bồn chồn bước lên sườn non

99

Con đường người lính đi trong chiến tranh của thơ Hữu Thỉnh là con

đường đầy chông gai, gian khổ, mọi thử thách đều được cảm nhận một cách

trực tiếp, đem lại cho biểu tượng con đường tính tạo hình cao:

Đường ngổn ngang, đường đất còn cháy khét

Gập ghềnh đường tôi đi

Trong hành trình chiến đấu gian khổ và lâu dài, trên tất cả các nẻo đường mà

người lính trải qua, con đường nào cũng đầy niềm tự hào, kiêu hãnh của dân tộc:

Đi suốt tuần trăng chưa hết con đường

Như cuộc đời anh chưa một lần dừng lại

Mai sau nữa trăm con đường vươn mãi

Chẳng có nơi đâu ghi cột số cuối cùng

Đường có tên và đường không tên

Trăm con đường xuyên vào tim giặc

Một cái tên chung mọi người tự đặt

Là con đường chiến sĩ công binh

(Theo những con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)

Nhưng sáng lên giữa bao nhiêu gian khổ, con đường ra trận vẫn luôn

rạo rực niềm vui, sáng ngời lý tưởng chiến đấu cao đẹp và điều này càng làm

nổi bật hình tượng lớn lao của người lính:

Đường ra trận mùa này đẹp lắm

(Trƣờng Sơn Đông, Trƣờng Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)

Chính trên con đường ấy, người lính cảm nhận đất mẹ quê hương đang

nhân thêm cho mình sức mạnh bởi họ đang đi trên đất đai, núi sông Tổ quốc

với tư thế, tầm vóc của người làm chủ, của người ra đi vì sự sống còn của dân

tộc, cho nên lòng bâng khuâng, xao xuyến, “ngẩn ngơ”, “tần ngần”, bước

chân “bồn chồn”, “mê say”, “xao động”. Người lính in bóng tâm hồn trên mỗi

con đường của đất nước đã đi qua:

100

Đã để ít đời mình nơi ngã ba khốc liệt

Đã bông đùa xen kẽ với bom rơi

(Hữu Thỉnh)

Cuộc đời người lính, tuổi trẻ của người lính gắn bó máu thịt với con đường :

Đường lên đèo xuống dốc, chênh vênh

Mỗi bận mở đường, mỗi lần sáng tạo

Bao nhiêu năm nắng mưa, giông bão

Tuổi đời anh ràng rịt với con đường

(Theo những con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)

Con đường trong thơ Hữu Thỉnh (đặc biệt là trong trường ca) là con

đường vận động có hướng của tập thể người lính. Nhìn vào Đƣờng tới thành

phố ta như dõi theo bước chân của các binh đoàn, sư đoàn bộ đội, ta có thể

hình dung được hướng đi, điểm mở đầu và kết thúc của con đường. Bắt đầu là

con đường chiến lược mở ra sau hiệp định Pari (1973) xuyên qua những khu

đồi tranh chấp giữa ta và địch, xuyên qua bãi mìn hòng tủ vành đai; con

đường khi ấy đồng nghĩa với “ cửa mở”, người lính muốn đi tới phải mở lấy,

bước qua hiểm nguy, bước qua những trở ngại của tư tưởng “cầu an nghe

ngóng” tồn tại ngay trong chính bản thân mình:

Để có được con đường

Mở vào lúc chiến trường vơi tiếng súng

Anh xa lạ với cầu an nghe ngóng

Đường với anh là cách hiểu kẻ thù

(Hữu Thỉnh)

Con đường vận động có hướng gắn với phương hướng phát triển của

lịch sử, của thời gian. Con đường là biểu tượng cho quá trình cách mạng của

cả dân tộc, vượt qua đau thương, thử thách để không ngừng lớn mạnh:

Đất nước đổ ra đường

Tiềm lực lớn những binh đoàn chiến lược

(Hữu Thỉnh)

101

Con đường trong thơ Hữu Thỉnh đã trở thành biểu tượng khái quát cao

cho bước trưởng thành của quân đội cách mạng. Mỗi một địa danh trên con

đường ấy như những cột mốc trên chặng đường giải phóng nhân dân, gợi lên

chiều sâu lịch sử:

Dốc Pha Đin là cái dốc cuối cùng

Các anh qua để tiến về Hà Nội

Con đường là nhịp đập chính của nhịp đập chiến trường, môi trường tồn tại

chủ yếu của nhân vật trong thơ ca viết về chiến tranh của Phạm Tiến Duật, Hữu

Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Trên con đường ấy, bao “nhân vật” được xuất hiện,

cùng với bao cảnh ngộ, tâm tư, chịu đựng khổ đau, khát vọng, niềm vui, hạnh

phúc. Những nhân vật ấy là người lính thuộc nhiều thế hệ, từ vị chỉ huy cho đến

người chiến sĩ, người cộng sản nằm vùng, bà mẹ, người chị miềm Nam và nhân

dân rộng lớn. Có thể nói biểu tượng con đường đã trở thành một thành tố của nội

dung hiện thực. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sự kiện được mô tả trong tác

phẩm, là định hướng triển khai ý đồ sáng tác của các anh.

3.2.2.3. Cỏ

Dùng cỏ cây để nói về con người là điều không xa lạ trong truyền thống

thơ ca cũng như trong ngôn ngữ nghệ thuật của dân tộc. Từ cây để hiểu người

cũng là một thao tác quan thuộc trong cảm thụ văn học (thơ Nguyễn Trãi,

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…)

Trong thơ Phạm Tiến Duật “cỏ” hiện lên thật bình dị, như những con

người chất phác, hồn hậu, như là biểu tượng không phân chia giai cấp giữa

những người giàu và người nghèo, không phân biệt màu da, lãnh thổ giữa

quốc gia này với quốc gia khác:

Biên giới đôi bên cỏ không xanh màu khác

Kiếp giàu nghèo đây đó thế mà thôi

(Chú Lƣ phố khách – Phạm Tiến Duật)

102

Cỏ còn là nhân chứng tố cáo tội của giặc:

-Đường núi cỏ cây bom vùi hết

(Bài thơ không tên – Phạm Tiến Duật)

-Tai còn ù, ngực còn tức đây

Hơi đạn ép cỏ cây nằm rạp

(Buổi chiều ở trong hầm đại bác – Phạm Tiến Duật)

Cỏ như người bạn nâng niu người lính trong những phút giây ngắn ngủi

trước giờ chiến đấu. Cỏ và con người như có sự giao thoa và gắn bó:

Người cán bộ già nằm trên bãi cỏ

Đăm đăm nhìn tàn lá đang rơi

(Những mảnh tàn lá – Phạm Tiến Duật)

Cỏ là dấu hiệu của mùa xuân, sự sống. Bài thơ Mùa xuân đi đón, cỏ

xuất hiện 6 lần, không khổ thơ nào mà không nói đến cỏ: cỏ non, cỏ mềm, cỏ

biếc, cỏ đội bờ… cỏ là không gian yên bình, xoa dịu bàn chân, làm dịu lại sự

căng thẳng của chiến trường, khơi lên tình yêu cuộc sống, gợi nhớ quê hương

trong lòng người lính:

Được màu xanh tắm gội

Lòng rân rân cả lên

(Hữu Thỉnh)

Cỏ là biểu tượng của sức sống vẫn được nảy sinh dù trong chiến tranh

mưa bom ác liệt:

-Vùng chiến trường xưa cỏ đã xanh

Mấy dải đồi hoang cây đã mọc

(Tráng khúc – Nguyễn Đức Mậu)

-Mùa xuân trong cỏ chỉ

Kéo mầm trong nắng soi

(Những tiếng chim xuân – Hữu Thỉnh)

103

Cỏ là những kỉ niệm êm đềm về quê hương yêu dấu của người lính:

Vùng trung du Hùng thường kể tôi nghe

Cỏ may mọc áo mùa thu thuở nhỏ

Cánh ong mật bay vù qua nỗi nhớ

Thả phấn vàng ngọt lịm làn môi

(Tƣởng nhớ số II – Nguyễn Đức Mậu)

Cỏ là hình ảnh cho những khó khăn, gian khổ của người lính trong mỗi

cuộc chiến đấu:

Đây nơi tổ ba người đào hầm

Đất đầy cỏ tranh, lắm gai góc

(Tráng khúc – Nguyễn Đức Mậu)

Thơ Hữu Thỉnh có rất nhiều “cỏ”. Cỏ đặc tính cơ bản là mềm yếu,

hoang dại nhưng có sức sống mãnh liệt, nhà thơ đã mang lại cho “cỏ” nhiều

lớp nghĩa tượng trưng. Ở các tập thơ viết trong kháng chiến, Hữu Thỉnh dùng

nhiều lần biểu tượng cỏ tượng trưng cho những giá trị vĩnh hằng:

Tôi xin làm cỏ ru anh

Trồng cây ơn nghĩa xung quanh hồn người

(Đƣờng tới thành phố)

Cỏ như lòng mẹ ru giấc ngủ ngàn năm bình yên cho những người lính

đã ngã xuống:

-Tấm bia nào trong cỏ vẫn nằm trơ

Ta dừng lại bên nén hương nức nở

(Cây dƣơng xanh – Phạm Tiến Duật)

-Người thương binh lần theo lối cũ

Vào nghĩa trang thăm mộ bạn mình

(Hai ngƣời bạn – Nguyễn Đức Mậu)

-Anh ở vào đồi anh xanh với cỏ

Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình

(Phan Thiết có anh tôi – Hữu Thỉnh)

104

Có thể nói, “cỏ” là biểu tượng cho sự bền bỉ, trường tồn, cho niềm tin

con người trong chiến đấu cũng như trong hòa bình vào những giá trị cuộc

sống. Thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu viết về “cỏ” đã đạt

được những giá trị cao đẹp ấy.

3.2.2.4. Cây súng

Cây súng với mỗi người lính gắn bó máu thịt như những người bạn.

Trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh cây súng

hiện lên thật đẹp, nó tượng trưng cho tâm hồn, tình cảm và ý chí chiến đấu

quật cường của người lính nơi chiến trường.

Cây súng trong tay người lính lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu

ngay cả trong giấc ngủ, “súng” như canh cho giấc ngủ người lính một chút bình yên:

-Súng bên cạnh thâu đêm mắt thức

Ngỏ tâm tình cùng mùi lá cơm xôi

(Giấc ngủ trên đƣờng ra trận – Hữu Thỉnh)

-Chờ diệt thù ngay cả phút bình yên

Người ôm súng, súng bên người cảnh giác

(Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc – Nguyễn Đức Mậu)

Súng cùng người lính hành quân vào trong tuyến lửa Trường Sơn:

Đi giữa những sư đoàn ùn ùn súng pháo

(Chào những đạo quân tuyên truyền – chào những đạo quân nghệ thuật

– Phạm Tiến Duật)

Chiến trường đang gọi đi

Súng hành quân mải miết

(Mùa xuân đi đón – Hữu Thỉnh)

Nơi chiến trường giây phút nào tiếng súng cũng vang lên, cái dữ dội,

khốc liệt của cuộc chiến không giây phút nào ngừng:

Cái mặt bẩn quân thù

Chỗ nào nó cũng nhúng

105

Cả những lúc ngồi câu

Cũng phải cầm cây súng

(Câu cá bên bờ sông Sê Pôn – Hữu Thỉnh)

Súng là bạn của người lính chiến mọi lúc mọi nơi:

-Súng với người ủ trong lòng đất

Trận đánh ngày mai thức dậy với mầm cây

(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)

-Anh chiến sĩ súng quàng vai

Say nhìn chiếc mỏ gại mồi thơ ngây

(Chuyện nhỏ trong rừng – Nguyễn Đức Mậu)

Súng như tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường

hành quân gian lao, vất vả:

Qua một chặng đường dài

Chính khẩu súng đã làm ta tươi tốt

(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)

Súng là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần chiến đấu quật cường của

những người lính nơi chiến trường mưa bom, đạn nổ, gian khổ và hi sinh:

-Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện

(Trƣớc mặt là Tổ quốc – Hữu Thỉnh)

-Súng to, súng nhỏ dồn thêm đạn

Đánh lặn trăng đêm lại tiếp ngày

(Tráng khúc – Nguyễn Đức Mậu)

Hình ảnh của cây súng còn tượng trưng cho những mất mát, hi sinh

trong chiến tranh:

Tôi đã thấy có lần ông khóc

Khi lặng nhìn cáng tử sĩ đi qua

Một trận đánh hụt hai mươi tay súng

(Một chiến binh già – Nguyễn Đức Mậu)

106

Biểu tượng cây súng là biểu tượng chiến đấu và mang tầm khái quát

cao, nơi chiến trường gian khổ cây súng cũng như những người lính: hành

quân, chiến đấu, dũng cảm, hi sinh… Bằng những trải nghiệm đời mình, Phạm

Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã cho chúng ta thấy hình ảnh cây

súng đẹp hào hùng đến như thế, cái đẹp ấy không phải thơ ca giai đoạn nào cũng

khắc họa được.

3.2.2.5. Cánh rừng

Rừng với những người lính trong những năm tháng chiến đấu chính là ngôi

nhà thứ hai. Trong thơ ba nhà thơ chiến sĩ, rừng hiện lên với rất nhiều cung bậc cảm

xúc. Hình ảnh rừng trở đi trở lại trong mỗi trang thơ viết về chiến tranh của các anh.

Mỗi cánh rừng già là mỗi bước chân người lính đi qua, với biết bao gắn bó:

-Mười năm ta ở rừng

Mười năm đi đánh giặc

(Nhớ về lũ trẻ - Phạm Tiến Duật)

-Ta đi trong rừng suốt một thời trai trẻ

Đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng

(Đêm chuẩn bị - Hữu Thỉnh)

-Mười năm sống với rừng sâu

Áo xanh màu lá bạn bầu cùng cây

(Khúc rừng – Nguyễn Đức Mậu)

-Chúng ta lên rừng mười tám đôi mươi

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Những năm tháng đi chiến đấu người lính gắn bó với rừng như nhà,

như người thân. Ở rừng người lính cũng sống và sinh hoạt với bao khó khăn,

gian khổ nhưng luôn toát lên tinh thần lạc quan:

-Muỗi bay tối một góc rừng

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh)

107

Những năm tháng ở rừng mấy ai không sốt rét

Nhìn vào mắt nhau thấy rừng núi hiện hình

Cây ký ninh mọc dọc đường chiến dịch

Cơn sốt quây quần nhóm lửa suốt rừng hoang

(Nhật ký sau cơn sốt – Nguyễn Đức Mậu)

-Ngủ giường vẫn chỉ giường thôi

Ngủ đất mới thật là nôi của rừng

(Ngủ rừng – Phạm Tiến Duật)

Rừng cũng có những phút giây được bình yên như những phút giây

bình yên của người lính sau mỗi trận đánh nhiều đau thương:

Gần ba triệu dân Lào có bao nhiêu em bé?

Ôi cánh rừng chiều nay rất đỗi yên lành

(Theo bƣớc chân của trẻ em Lào – Phạm Tiến Duật)

Rừng trong nỗi nhớ của người lính với những nỗi nhớ rất riêng tư:

Mùi khói thuốc rừng bay

Chiều nay vùng dậy nhớ

Nhớ ai như nhớ đất rừng

(Một nét Tây Nguyên – Phạm Tiến Duật)

Rừng không chỉ là nhà của người lính mà còn là ngôi nhà chở che

những em bé mồ côi đáng thương, cha mẹ các em bị bom đạn giết chết, đến

với rừng các em như tìm lại được cuộc sống:

Giặc tàn sát buôn làng và các em bé chạy

Những đứa trẻ mồ côi lạc giữa rừng già.

(Gửi các em bé ở trƣờng văn hóa Tây Nguyên ngày trƣớc – Phạm Tiến Duật)

Hình ảnh rừng cứ trở đi trở lại trong ký ức người lính như nỗi đau nhức

nhối về những mất mát, hi sinh của người lính khi trở về sau cuộc chiến, cuộc

sống mới như đang được hồi sinh mỗi ngày:

108

Chúng con đã về từ cánh rừng sâu

Áo quân phục sạm màu gió nắng

(Thi khúc thành Huế - Nguyễn Đức Mậu)

Bao năm trực tiếp sống và cầm súng trên đường Trường Sơn rực lửa,

các anh đã đưa thẳng hiện thực những năm tháng sống ở rừng vào thơ mình,

giúp người đọc thấy được sự thiếu thốn, gian khổ, tàn khốc, dữ dội của chiến

tranh, đồng thời các anh cũng tập trung khắc họa chân dung của thế hệ mình.

Với những chi tiết cụ thể, nhỏ bé, chân thực mà giàu khái quát, các anh đã ghi

lại khí thế ra trận hào hùng của cả dân tộc trong thời kỳ đất nước đang sục sôi

đánh Mỹ.

3.2.2.6. Máu

Đất nước đằng đẵng bao năm gian khó, đế quốc Mỹ ra sức tàn phá Tổ

quốc ta. Dân tộc ta đã tồn tại từ ngàn đời không thể rơi vào tay giặc, tất cả tạo

thành một khối thống nhất nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. Mỗi con

người đều sống vì nhau, vì mục đích cao cả thiêng liêng là giải phóng quê

hương, đất nước. Để đi đến được ngày thống nhất toàn vẹn ấy cả dân tộc ta đã

hi sinh xương máu không biết bao nhiêu mà kể. Có bao người lính đã ngã

xuống cho mảnh đất quê hương được hồi sinh.

Máu là biểu tượng cho những hi sinh anh dũng của người lính. Họ đã

chiến đấu với lòng dũng cảm và ý chí quật cường, mỗi người lính ngã xuống

là một bức tượng đài về các anh. Sống hiên ngang, chết ngẩng cao đầu. Mỗi

con đường, mỗi mảnh đất quê hương nhuộm đỏ máu người lính:

-Bàn chân bợt da non, máu ứa

Đã mấy mùa mưa đi khắp lối mòn

(Điệp khúc một con đƣờng – Nguyễn Đức Mậu)

-Loe ánh lửa,

Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa

(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)

109

Đó là nỗi xót xa, đau nhức của người lính về mỗi mảnh đất quê hương

đang ngày đêm chảy máu:

Giặc Mỹ vẫn hình hài giặc Mỹ

Ôi miền Nam, bao đồng chí đồng bào

Có thể nào yên, có thể nào

Có thể nào quên vết thương đang chảy máu

(Trƣớc mùa xuân – điều tôi muốn nói – Phạm Tiến Duật)

Trong gian khổ và hi sinh ấy, những người lính vẫn sống chết vì nhau,

tiếp máu cho đồng đội:

Những người cho máu

Là những người gầy xanh vì sốt rét

(Tiếp máu – Phạm Tiến Duật)

Mỗi người đồng đội ngã xuống, người lính đau đớn như chính thân thể

của mình. Tình đồng đội gắn bó, yêu thương như ruột thịt, luôn day dứt khôn

nguôi. Máu của đồng đội đã trở thành nỗi ám ảnh trong mỗi vần thơ các anh:

-Vết trọng thương không cứu được rồi

Chúng tôi chôn anh, chôn cả những giọt máu mình ở đó

(Tiếp máu – Phạm Tiến Duật)

-Máu Bường ướt đầm vết thương giập nát

Tôi vội xé quần, xé áo làm băng

Dòng máu thấm vào tôi cùng tiếng rên nhức nhối

(Đêm thành Cổ năm 1972 – Nguyễn Đức Mậu)

Chiến tranh là đau thương, máu đổ. Trong ký ức của các anh, những cái

chết của đồng đội, sự mất mát, những kỷ niệm chiến trường là những ký ức

không nguôi ngoai. Bằng việc khắc họa biểu tượng máu, các anh đã phần nào

mang đến cho chúng ta cái nhìn về chiến tranh chân thực hơn, từ đó ta thêm

110

yêu, thêm trân trọng từng mảnh đất quê hương mà những người lính đã hi

sinh cả tuổi trẻ, cuộc đời và tính mạng của mình để giữ lấy.

Bằng cảm xúc trữ tình mãnh liệt và khả năng tổng hợp khái quát cao,

Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã tạo nên một hệ thống hình

ảnh biểu tượng phong phú. Xây dựng hệ thống biểu tượng đó như là biểu

tượng cho Tổ quốc, đất nước – biểu tượng vừa gần gũi, thân thương và biết

bao hùng vĩ, đó là tài năng, và sâu xa hơn đó là tình cảm gắn bó máu thịt, là

tình yêu thiết tha, sâu sắc nhất của các anh với quê hương, đất nước.

3.3. Ngôn ngữ

“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki). Ngôn ngữ là

công cụ trực tiếp của tư duy. Ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên, không thể thiếu

của những sáng tác văn chương. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn học là

ngôn ngữ của nhân dân được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của

các nhà văn nên ngoài tính nhân dân, ngôn ngữ còn mang dấu ấn chủ quan

của nhà văn. Tuy nhiên, dù cùng là ngôn ngữ nghệ thuật nhưng ngôn ngữ thơ

và ngôn ngữ văn xuôi có những đặc trưng khác nhau. Trong thơ ngôn ngữ có

những đòi hỏi khắt khe riêng, hàm súc, gợi tả, giàu nhạc điệu, giàu liên tưởng…

Ngôn ngữ thơ được đánh giá là ngôn ngữ tiêu biểu nhất của ngôn ngữ văn học

bởi những thuộc tính ấy tập trung cao độ với yêu cầu cao nhất của thơ ca.

Về mặt ngôn ngữ, thơ của thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ có nhiều tìm tòi

và sáng tạo. Các nhà thơ trẻ có ý thức giữ lại cho thơ chất thi vị riêng của

ngôn ngữ chọn lọc và giàu cảm xúc. Mặt khác, thơ cũng được tăng cường

nhiều chất liệu ngôn ngữ mới, tạo nên sắc thái tươi mới và gần gũi với đời

sống thực tế hơn.

Ngôn ngữ của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ nói chung, thơ Phạm Tiến

Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu nói riêng nằm trong khuynh hướng

chung của nền thơ hiện đại Việt Nam – đưa ngôn ngữ thơ trở về gần với ngôn

ngữ đời sống, như nhà thơ Chế Lan Viên đã nói:

111

Xưa tôi hát mà nay tôi tập nói

Chỉ nói thôi mới nói hết được đời

(Nghĩ về thơ)

Là những gương mặt tiêu biểu của thơ ca thời chống Mỹ, ngôn ngữ

thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu vừa nằm trong dòng

chảy chung vừa mang những đặc điểm riêng, thể hiện phong cách cá tính

của tác giả.

3.3.1. Ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, giàu chất hiện thực đời sống

Nhằm khám phá, thể hiện đời sống ở nhiều góc độ, nhiều phương diện

khác nhau, đặc biệt là để phản ánh được hiện thực phóng phú, đa dạng, phức

tạp của đời sống chiến trường, ba nhà thơ chiến sĩ đã mở rộng cánh cửa để

cho ngôn ngữ hàng ngày, ngôn ngữ đời sống ùa vào thơ mình. Ngôn ngữ thơ

các anh giản dị, mộc mạc, tự nhiên, gần với đời sống, gần với lời nói thường

ngày. Yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi được tăng cường trong các sáng

tác chính là một minh chứng cụ thể của mối liên hệ mật thiết giữa thi ca

và cuộc sống.

Phạm Tiến Duật đưa nhiều khẩu ngữ, nhiều từ ngữ của phong cách sinh

hoạt vào thơ mình. Bởi vậy, thơ anh có được cái hơi thở nồng nàn của cuộc

sống, tạo nên không khí cởi mở, tâm tình. Nó còn làm cho ngôn ngữ thơ trở

nên sinh động, hấp dẫn, có khi còn là điểm nhấn của câu thơ, bài thơ đó.

Người đọc có thể hình dung ra cái “ngang ngang”, hồn nhiên, tinh nghịch của

người lính qua những câu thơ:

-Không có kính không phải vì xe không có kính

-Không có kính ừ thì có bụi

-Không có kính ừ thì ướt áo

-Cái vết thương xoàng mà đưa viện…

Đó là những câu thơ mang chất liệu của khẩu ngữ tự nhiên mà không

thô bởi nó được kết nối chặt chẽ theo một tư tưởng chủ đạo của tác giả. Nhờ

112

cách chọn lọc hình ảnh, cách lập tứ thơ nên những câu thơ ấy đã chuyển hóa

thành ngôn ngữ thi ca thực sự. Đằng sau những lời nói bình thường ấy là cái đẹp

của sự dũng cảm, điềm tĩnh, dám chấp nhận mọi khó khăn, gian khổ của người

lính lái xe.

Cuộc sống chiến trường bề bộn, ngổn ngang chỉ có thể sống dậy một

cách cụ thể, sinh động trong những câu thơ mộc mạc như thế này:

-Muỗi bay rừng già cho dài tay áo

Rau hết rồi em có lấy măng không?

-Náo nức hành quân đường dài vui nhỉ

(Phạm Tiến Duật)

Những từ ngữ, quán ngữ, khẩu ngữ vốn được sử dụng trong cuộc sống

hàng ngày (như: hơi, đã, cứ, mà, thì, là, ừ, ơi, có lẽ nào, chẳng có gì, vì thế,

hóa ra…) xuất hiện rất nhiều trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn

Đức Mậu. Đặt những từ ngữ ấy vào đúng vị trí cần thiết nên ngôn ngữ sinh

hoạt đã biến thành ngôn ngữ thơ ca, đem lại những sắc thái thẩm mỹ riêng

cho mỗi tác phẩm:

-Vẫn ngỡ tiếng mưa, giật mình thức dậy

Hóa ra là giọng hò em đấy.

(Nghe hò đêm bốc vác – Phạm Tiến Duật)

-Hùng ơi, ,ai gió mùa đông bắc

Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng

Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm

Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá

(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)

Những cô thanh niên xung phong cũng được hiện lên thật ấn tượng qua

từng giọng nói, nụ cười:

113

-Cái miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn

Giọng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để

-Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn…

Hay khi nhà thơ muốn bộc lộ tình cảm trìu mến, gần gũi, thân thiết với đối

tượng được miêu tả: những người đồng đội, “những người con gái ở rừng”:

-Buồn cười mất ngủ mấy đêm

Nào ngờ đi hái thuốc

Em lội suối thế nào mà ống quần rách mướp

Em trèo núi thế nào mà xước cả da tay

(Lá lạc tiên – Phạm Tiến Duật)

-Em thấy không?

Trước em, anh vụng về

Giờ thành ra khôn khéo

(Ý nghĩ không vần – Hữu Thỉnh)

Là nhà thơ – người lính sống và viết giữa chiến trường nên ngôn ngữ

thơ các anh còn mang đậm chất lính – thể hiện rõ sự khỏe khoắn, thô nhám và

cũng rất tự nhiên. Các anh đưa vào thơ mình mọi tên gọi thông thường của vật

liệu, kỹ thuật công tác ngổn ngang ngoài mặt trận, làm cho thơ các anh bật ra

tự nhiên, không mất công sức gọt rũa:

-Hòm đạn ngả xuống vai người bốc vác

Xe pháo ì ầm

Xẻng cuốc thức thâu đêm

Cần ăng – ten lẫn vào cây cỏ

Máy bộ đàm phát sóng truyền tin

(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

-Thừa thãi ống bom bi, thùng rốc két

Thả sức cưa làm cốc, làm ca…

(Tiếng cƣời của đồng chí coi kho – Phạm Tiến Duật)

114

Nhiều câu thơ như còn giữ được chất nguyên sơ, tươi ròng của cuộc sống:

Nào cuốc, nào choòng, xoong nồi xủng xoảng

(Gửi em cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật)

Ngôn ngữ đời thường giản dị, tự nhiên còn biểu hiện qua sự gia tăng

chất văn xuôi trong ngôn ngữ thơ. Nó đưa thơ ca đến gần với đời sống hơn,

tạo nên những sắc thái tươi mới cho tác phẩm. Thơ cuả ba nhà thơ chiến sĩ có

nhiều câu mấp mé, “là là” văn xuôi nhưng nó vẫn ở bên này danh giới của

thơ, vẫn thiết tha sâu lắng với bao nhiêu ý tình. Câu thơ của các anh được tổ

chức dưới dạng điệu nói, dưới hình thức câu trần thuật, câu đối thoại.

Thế kỷ 20 già đi cùng viên đạn gỉ

Thế kỷ mới còn đang cởi truồng đánh đáo ở đằng kia

(Gửi các em ở sân bay Tà Cơn – Phạm Tiến Duật)

-Tư lệnh nói: Nếu phải vứt thì phải vứt quần áo chứ cấm ai vứt chỉ

Tư lệnh nói: Một nắm cỏ ngụy trang có thể làm người đào hầm bị chết

Tư lệnh nói: Một đại đội thám báo dò đường không tinh bằng viên

thuốc đánh rơi

(Văn xuôi một ngƣời lính – Hữu Thỉnh)

-Bom tọa độ!

-Cậu bám vào vai tớ!

-Khẩu súng mày đâu?

-Nước cuốn rồi…

Sóng òa theo hòng nuốt lấy lời

(Trƣờng ca sƣ đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

Yếu tố đời thường, yếu tố tự sự, chất văn xuôi đã xâm nhập vào thơ,

góp phần phản ánh hiện thực đời sống chiến đấu thời kháng chiến một cách

sinh động, gần gũi. Nhìn vào ngôn ngữ thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,

ta dễ dàng nhận ra ngôn ngữ cởi mở, tự nhiên, tinh nghịch của Phạm Tiến

Duật, ngôn ngữ đằm thắm, thiết tha, lắng sâu của Hữu Thỉnh, ngôn ngữ giản

115

dị, mộc mạc, chân thành và chan chứa của Nguyễn Đức Mậu. Sử dụng thứ

chất liệu có nhiều ưu thế này, các anh đã tạo dựng được cho mình một phong

cách với những cách nói riêng, bằng cách đó thơ các anh đã đi tạo ấn tượng

khó quên và tình cảm sâu lắng đối với bạn đọc.

3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất trí tuệ, chính luận

Tăng cường chất trí tuệ, chính luận trong thơ là một đòi hỏi của thời đại chống

Mỹ. Cuộc chiến đấu không cân sức với một kẻ thù hung bạo nhất của thời đại đã đặt ra

cho dân tộc ta những vấn đề trọng đại, cấp thiết. Một nền thơ thoát thai trong một hoàn

cảnh lịch sử đặc biệt ấy cũng không chỉ bằng lòng với việc thể hiện cảm xúc, tình cảm

của con tim nữa mà còn hướng tới tiếng nói trí tuệ của bộ óc căng thẳng những suy tư.

Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu cũng như các nhà thơ trẻ thời kỳ

chống Mỹ không chỉ dừng lại ở việc miêu tả, trình bày mà còn có ý thức khám phá,

phát hiện, bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc của mình về con người và cuộc sống, về dân

tộc và thời đại. Nói như Chế Lan Viên là “phát giác sự vật ở những bề chưa thấy ở cái

bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa”. Thơ muốn vươn tới khả năng nhận thức lý tính các

vấn đề của đất nước và dân tộc… So với thời kỳ chống Pháp, đây là một nét mới, một

bước tiến của thơ chống Mỹ. Khát vọng muốn trả lời câu hỏi lớn của thời đại, khám

phá bản chất của con người và cuộc sống đã tạo nên chất trí tuệ cho cả một nền thơ.

Trong xu thế chung ấy, thơ của ba nhà thơ chiến sĩ cũng cất lên tiếng nói trí tuệ mang

sắc thái riêng của thế hệ mình.

Ở những bài thơ thành công, thơ trẻ không hề bồng bột mà thường lắng đọng

trong những suy tư. Ấy là những suy tư già dặn, sâu sắc trong thơ Nguyễn Đức Mậu:

Trời Điện Biên cao xanh

Cuộc đời anh viết lên vòm mây trắng

Anh nằm đây không hào quang, không dáng tượng

Cánh chim bay về chốn vô cùng

Có thể tuổi hai mươi, tuổi ba mươi, trái tim trẻ trung nối vào ngực đất

Có thể người vợ xa chồng hóa đá nỗi chờ mong

116

Ba mươi năm… hoa cứ nở trắng rừng

Một phần hoa nở cho người ngã xuống.

(Một chiến sĩ vô danh – Nguyễn Đức Mậu)

Ấy là những suy nghĩ sâu xa về người lính sau cuộc chiến. Có khi từ

những chi tiết, hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đời thường, thơ Phạm Tiến

Duật đã đem đến cho chúng ta những suy nghĩ sâu sắc, đầy bất ngờ:

Nhưng tôi biết các anh,

Những mảnh vỡ của trái đất

Những tảng phù sa bứng từ sông lên

Những tảng đá vỡ ra từ núi đá

Chỉ khác chăng là trong bụng đói mèm

(Chợ lao động ở Giảng Võ – Phạm Tiến Duật)

Chất trí tuệ và chính luận trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,

Nguyễn Đức Mậu cũng như thơ thời kỳ chống Mỹ mang đậm sắc thái riêng

của cái tôi - thế hệ. Đó là cái tôi tự bộc lộ mình, đại diện cho thế hệ mình –

thế hệ những người trẻ tuổi (chủ yếu là những người lính) đang tôi luyện

trong ngọn lửa của chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách, tự

nguyện đem máu xương của mình để bảo vệ quê hương, đất nước.

Ba nhà thơ chiến sĩ đã rọi vào hiện thực chiến trường những ánh sáng

tư tưởng, bắt chi tiết, hình ảnh hiện thực nói lên ý nghĩa sâu xa của nó. Trong

Trƣờng ca Biển, Hữu Thỉnh đã trăn trở về nỗi vất vả của người lính đảo ngay

trong thời bình:

Đời bao nhiêu trớ trêu mà đêm còn quá rộng

Đêm như là vắt kiệt các vì sao

Chúng tôi là lính đảo thời bình

Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất

117

Chất trí tuệ, chính luận không phải là một nét riêng của thơ trẻ mà là một đặc

điểm chung của thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Tăng cường chất trí tuệ, chính

luận là khuynh hướng chung của cả nền thơ hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, chất suy

nghĩ, chính luận trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu vẫn có

sắc thái riêng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của mình. Đó là chất suy nghĩ, chính luận

được nảy sinh từ hiện thực đời sống của đất nước trong những năm tháng chiến

tranh, đặc biệt là từ hiện thực gian khổ, ác liệt của đời sống chiến trường thông qua

sự trải nghiệm sâu sắc của cái tôi thế hệ của ba nhà thơ chiến sĩ. Với chất trí tuệ,

chính luận này, chân dung tinh thần của thế hệ trẻ cầm súng thời kỳ chống Mỹ hiện

lên như những con người giàu có những suy tư, đầy tinh thần trách nhiệm đối với

nhân dân, đất nước.

3.4. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ

Trong thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, ta bắt gặp những thủ pháp tu từ truyền

thống được sử dụng theo kiểu tư duy hiện đại. Với những phương thức tu từ này,

các nhà thơ trẻ đã khai thác có hiệu quả khả năng thể hiện cảm xúc, tình cảm cũng

như phản ánh đời sống hiện thực phong phú, phức tạp của ngôn ngữ thơ ca, đồng

thời tạo được sự bất ngờ, thú vị đối với người đọc. Những trang thơ trẻ mở ra trước

mắt người đọc những liên tưởng đằm thắm mà biết bao thú vị. Thơ kháng chiến

chống Mỹ của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu cũng nằm trong

dòng chảy chung ấy.

Trong thơ Nguyễn Đức Mậu mở ra trước mắt người đọc những liên

tưởng rất độc đáo:

Đất phẫn nộ ném lên trời trăm tiếng nổ

Đất rung nghiêng ngả cây rừng

Đồng đội nhìn mắt nhau gặp đất

Có sấm sét và một vùng chớp giật…

Nhưng cứ đêm đêm những phút giây bình yên

118

Đất cười nói, đất phập phồng ca hát

Đất bồng bế chúng tôi trong chiếc nôi êm

Đất nắm ngủ như cuộc đời rất thực

(Đất)

Để khai thác sức gợi cảm của ngôn từ, Phạm Tiến Duật tạo ra sự kết hợp

trùng điệp về âm thanh, từ ngữ nhằm làm nổi bật cảm xúc, suy nghĩ trong thơ.

Ta gặp rất nhiều điệp từ, điệp ngữ được anh sử dụng một cách hiệu quả:

-Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu

-Anh đa đi rất nhiều, rất nhiều

-Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm

-Thương em, thương em, thương em biết mấy

(Gửi em, cô thanh niên xung phong)

-Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già

(Cô bộ đội ấy đi rồi)

-Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa

Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa

(Nghe em hát trong rừng) Phạm Tiến Duật còn dùng lối nói đưa đẩy theo lối hát giao duyên trong những

làn điệu dân ca nhằm tăng sức biểu cảm uyển chuyển, mềm mại cho lời thơ:

Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi

Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói

Bông hoa làm duyên phải lụy hương bay

(Lửa đèn)

Là một nhà thơ luôn có ý thức khám phá hiện thực và sáng tạo nét mới,

Hữu Thỉnh không chỉ dừng lại ở việc học tập từ tinh hoa ngôn ngữ dân tộc mà

anh còn là người rất có ý thức trong việc tạo ra ngôn ngữ lạ, độc đáo. Nó

khiến người đọc ngỡ ngàng và bị lôi cuốn vào những câu thơ đầy sức mạnh

liên tưởng với khả năng tạo sức mạnh biểu hiện trực tiếp, kích thích rất mạnh

vào mọi giác quan và óc tưởng tượng: đoạn đường nóng bỏng, sông xanh màu

119

vai áo, tiếng chim hồi hộp giữa trời, vầng trăng cuối tháng mới quăng lên,

chiều lưỡi hái, trăng non múi bưởi, suối trong trẻo rung muôn điệp khúc, cánh

chim năm ngoái, thu mới chập chờn thu, điệp khúc mùa màng, búi tóc cao

hơn chịu thương chịu khó, hi vọng bời bời, cánh diều nhỏ cô đơn, cuống rạ bơ

vơ, những nụ cười vành mũ sáng trưng, những ban mai dang dở, mặt trời cháy

một niềm mong mỏi, tình yêu cường tráng và dai dẳng, những cánh đồng sủi

tăm phù sa, thử thách bạc màu, cây cỏ cũng ra tù…

Bên cạnh việc tái tạo những thủ pháp tu từ theo lối tư duy hiện đại,

Phạm Tiến Duật còn vận dụng kiểu tư duy liên tưởng – chuyển đổi cảm giác,

chuyển đổi ấn tượng – để sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh thơ, nó mở rộng ý

nghĩa đặc trưng của sự vật, tạo nên những bất ngờ trong mối liên tưởng, vừa

đổi mới ngôn ngữ lại vừa đổi mới về hình tượng và cảm xúc thơ. Bài thơ

Nghe hò đêm bốc vác đem lại cho người đọc một sự bất ngờ, bất ngờ bởi nhà

thơ “lạ hóa” cách diễn đạt, có sự liên tưởng độc đáo tạo nên những cảm giác

mới lạ và hết sức thú vị:

Đang thiu thiu ngủ trong nắng gió Lào

Bỗng một giọt nước rơi vào cổ anh

Vẫn ngỡ tiếng mưa, giật mình thức dậy

Hóa ra là giọng hò em đấy

(Nghe hò đêm bốc vác)

Hữu Thỉnh đã tạo được sự kết hợp giữa cái hữu hình và cái vô hình,

giữa thực và ảo, giữa giản dị và huyền diệu, đập mạnh vào giác quan, mở

rộng chân trời liên tưởng, tưởng tượng:

Gió chùng chình qua ngõ

Dường như thu đã về

(Sang thu)

120

Trong thơ của mình, Nguyễn Đức Mậu sử dụng nghệ thuật liên tưởng

để chuyển hóa, liên kết ý thơ và liên kết toàn bộ các phần. Liên tưởng giúp

anh tạo được sự phong phú trong các hình tượng thơ đặc biệt là trong Trƣờng ca

sƣ đoàn. Liên tưởng giúp kết cấu của trường ca thêm chặt chẽ, các hình tượng thơ

rời rạc tưởng chừng không liên quan có thể gắn bó lại với nhau. Trƣờng ca sƣ

đoàn của Nguyễn Đức Mậu có đường dây liên tưởng dựa vào lịch sử có thật của

sư đoàn. Từ đó chúng ta thấy rõ hơn tầm vóc của đất nước, của người lính trong

suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Để rồi người lính hiểu rằng:

Đất nước trải đắng cay cơ cực

Người cho tôi biết mấy ngọt lành

Ở những bài thơ sáng tác trong thời bình, Nguyễn Đức Mậu đã tái hiện

lại cuộc chiến tranh, trí tưởng tượng đưa anh về với quá khứ. Giữa một không

gian thực ở hiện tại và một không gian tưởng tượng trong quá khứ, nhà thơ

liên tưởng để từ đó cảm xúc được khơi sâu thêm:

Đêm giao thừa bom trải dày điểm chốt

Mười hai lính trẻ hi sinh

Cành hoa đón xuân thành cành hoa tưởng niệm

Như mây xót hoa rơi trên mồ bạn

Cả rừng Lào lã chã hoa rơi

(Kỷ niệm hoa đào – Nguyễn Đức Mậu)

Có thể nói, ba nhà thơ chiến sĩ không thể duy trì cảm xúc cho thơ của

mình nếu không tạo được phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh

thơ. Bằng khả năng làm chủ ngôn ngữ, sử dụng khéo léo, linh hoạt hàng loạt

các biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ…) để xây dựng nên

những câu thơ đầy tính liên tưởng, hàm súc. “Ngôn ngữ thơ ca đòi hỏi sự

chọn lọc chính xác, tinh tế và có sáng tạo. Thông qua sự chọn lựa này nhà thơ

vừa phải tuân thủ một cách đầy đủ những quy tắc của ngôn ngữ đời sống lại

121

vừa thể hiện tính chất chủ động trong sáng tạo” [14, tr.417]. Thơ Phạm Tiến

Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã đáp ứng được những yêu cầu đó.

Ngôn ngữ thơ các anh vừa mang tính chân thực, giản dị, tự nhiên của đời sống

lại vừa mang chiều sâu của sức suy nghĩ, sự tinh tế, tài hoa trong sáng tạo,

những trạng thái rung động của tâm hồn. Các anh đã góp thêm một tiếng nói

mới cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ.

122

PHẦN KẾT LUẬN

1. Có thể thấy rằng văn học giai đoạn kháng chiến chống Mỹ nói chung và

thơ ca giai đoạn này nói riêng đã có những thành quả rực rỡ của một nền thơ ca

cách mạng toàn diện và sâu sắc. Trong sự thành công đó có sự đóng góp một phần

không nhỏ của đội ngũ các nhà thơ - chiến sĩ trong công cuộc xây dựng một nền

thơ kháng chiến phục vụ đắc lực cho văn học cách mạng.

Vận động trong dòng chảy chung, thơ ca kháng chiến chống Mỹ của

cả ba nhà thơ – chiến sĩ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu mang

đặc điểm của thơ ca kháng chiến, hoàn tất sứ mệnh lịch sử của dân tộc. Không

chỉ là người cầm bút trên mặt trận văn hóa, các nhà thơ còn là những người

khoác áo lính, trực tiếp cầm súng chiến đấu, vì vậy thơ ca của họ là minh

chứng hùng hồn cho hào khí thời đại. Sự kết hợp của tâm hồn nghệ sĩ tài hoa

và chất lính trong thơ tạo nên sự phong phú cho diện mạo thơ ca Việt Nam

giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước

không chỉ góp tiếng nói cổ vũ, động viên khích lệ con người trong những năm

tháng đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh mà còn là sự chuyển mình

của đội ngũ sáng tác và chất lượng tác phẩm.

2. Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu là những cây bút

tiêu biểu cho thơ ca chống Mỹ và họ đã khẳng định được chỗ đứng của mình

trong thơ ca Việt Nam thế kỷ XX. Điểm gặp gỡ của họ trước hết là tài năng

và một ý thức công dân sâu sắc trước đất nước, nhân dân. Tài năng thơ ca của

họ phát lộ từ khá sớm và đều nảy nở trong môi trường quân ngũ. Nếu Phạm

Tiến Duật đến với thơ bắt đầu từ những rung động trước sự hùng vĩ, khốc liệt

của Trường Sơn trong mưa bom bão đạn, Hữu Thỉnh bắt đầu từ những rung

động, suy tư về con người trong chiến tranh, thì Nguyễn Đức Mậu lại bắt đầu

từ sự giản dị, mộc mạc, chân thành về con người và cuộc chiến. Nói cách

khác, nếu thơ Phạm Tiến Duật thể hiện cảm hứng sử thi rõ nét thì thơ Hữu

Thỉnh và Nguyễn Đức Mậu lại nghiêng về cảm hứng thế sự đời tư.

123

3. Chiến tranh là đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam, và là đề tài

bao trùm của thơ ca chống Mỹ. Trong bản hợp âm đa thanh nhiều cung bậc

của thơ chống Mỹ, ba nhà thơ – chiến sĩ đã khẳng định được mình trước hết ở

cái nhìn về chiến tranh. Tư tưởng các anh gặp nhau ở nhận thức sâu sắc về ý

nghĩa cao cả, thiêng liêng của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Là những người

lính, trực tiếp đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh, hơn ai hết họ hiểu ý

nghĩa của sự hi sinh và cái giá phải trả của chiến tranh. Họ bước vào cuộc

chiến với tâm thế của những con người được giác ngộ “đi theo ánh lửa từ trái

tim mình”. Chiến tranh với các anh, vì thế không có chỗ cho những yếu đuối,

hèn nhát. Nếu Phạm Tiến Duật luôn phơi phới một niềm tin vào tương lai với

ánh mắt dõi theo đoàn quân điệp trùng ra trận để cảm nhận được cái hào hùng

của cuộc chiến tranh thì Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu lại có xu hướng lắng

lại với những suy tư để nhận ra mình trong lớp người ra trận. Có thể nói, viết

về chiến tranh trong những ngày chống Mỹ, nếu Phạm Tiến Duật thiên về

cảm xúc, nặng về biểu cảm thì Hữu Thỉnh thiên về lý trí, Nguyễn Đức Mậu

nặng về suy tư. Đó là sự khác biệt không khó để nhận biết giữa họ.

4. Phạm Tiến Duật là một cây bút tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ. Anh

viết nhiều thể loại nhưng thành công và để lại dấu ấn sâu đậm nhất là thơ ca.

Cảm xúc sáng tạo của anh được chắt lọc từ hiện thực chiến trường Trường

Sơn. Bởi thế cũng rất tự nhiên, chất liệu hình ảnh trong thơ anh cũng hết sức

quen thuộc với Trường Sơn. Đó là những con đường, những đoàn quân trùng

điệp ra trận, những cánh rừng già, những dòng suối mát và cả những vầng

trăng, quầng lửa, những cơn sốt rét rừng, những tiểu đội xe không kính…

“Nhà thơ của Trường Sơn”, “nhà thơ của con đường huyền thoại”… những

danh xưng ấy về anh phần nào được bắt nguồn từ đó. Với Hữu Thỉnh, chiến

tranh và hòa bình, tình yêu và hạnh phúc, sự sống và cái chết… là những suy

tư của người lính làm thơ như anh. Đó là nỗi niềm, suy tư về cuộc đời, con

người và những khuất lấp phía sau cuộc chiến tranh của nhà thơ. Đó là cái

124

nhìn hiện thực trần trụi, đau đớn, xót xa nhưng cũng đầy yêu thương, hi vọng.

Vì thế, thơ chiến tranh của Hữu Thỉnh giàu cảm xúc và suy tư. Bên cạnh đó,

thơ Nguyễn Đức Mậu từ những vần thơ tươi xanh của người ra trận với tâm

hồn lạc quan, tươi sáng của người lính giữa hiện thực chiến trường đầy bom

đạn đến những vần thơ đầy khắc khoải của ký ức chiến tranh đều sống động.

Đọc thơ Nguyễn Đức Mậu, hiện thực chiến tranh hiển hiện trong từng trang,

từng bài với những hình ảnh “ra trận”, “sư đoàn”,… những người lính lấm

lem mà nụ cười tràn lạc quan, ánh mắt đầy tin cậy,… có cả những tận cùng

của mất mát hi sinh,… Tất cả được ghi lại bằng một giọng thơ chân thành, sâu

lắng yêu thương, được chắt chiu từ một tâm hồn giàu rung cảm, giàu suy

ngẫm và trải nghiệm.

Là những nhà thơ tài năng, lại được trang bị một hành trang tri thức khá dày

dặn, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã thể hiện một năng lực sáng

tạo dồi dào, đề tài chiến tranh trong thơ các anh vì thế được thể hiện vừa mang tính

chất bao quát, vừa mang tính chất cụ thể, vừa hiện thực lại vừa hào hùng.

5. Chiến tranh đã đi qua, chúng ta đã có độ lùi thời gian cần thiết để

bàn về hôm qua, về những năm tháng chiến tranh hào hùng mà khốc liệt.

Nhiều vấn đề được nhận thức lại trong đó có thơ ca. Việc sưu tầm và xuất bản

nhiều bài thơ chưa được công bố trước đây của ba nhà thơ đã phần nào giúp ta

có một cái nhìn thỏa đáng hơn về cách nhìn, cách nghĩ của các anh khi bước

vào cuộc chiến. Tôi muốn mượn lời của nhà thơ Phạm Tiến Duật để kết thúc

cho luận văn của mình: “Ở bất cứ thời kỳ nào và bất kỳ ở đâu, văn học viết về

chiến tranh luôn dựng đứng một khối sáng in đậm vào trí nhớ của người

đương thời và hậu thế” [8, tr.225]. Những kết quả mà luận văn làm được còn

hết sức khiêm tốn. Tuy nhiên có nhiều vấn đề đã được gợi mở từ những kết

quả nghiên cứu bước đầu về đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật,

Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Chúng tôi hi vọng được trở lại vấn đề này ở

một phạm vi khảo sát quy mô hơn, có chiều sâu hơn.

125

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristote. Nghệ thuật thơ ca. NXB Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 1964.

2. Vũ Tuấn Anh. Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1975. NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1997.

3. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐHQG, Hà Nội, 2004.

4. Ngô Vĩnh Bình. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Tạp chí Nhà văn, 12.2001

5. Phạm Quốc Ca. Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000. NXB Hội

nhà văn, Hà Nội, 2003.

6. Nguyễn Phan Cảnh. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin,

Hà Nội, 2001.

7. Phạm Tiến Duật. Tuyển tập thơ một chặng đường. NXB Quân đội, Hà

Nội, 1994.

8. Phạm Tiến Duật. Vừa làm vừa nghĩ. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1996.

9. Hữu Đạt. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1996.

10. Nguyễn Đăng Điệp. Giọng điệu trong thơ trữ tình. NXB Văn học, Hà

Nội, 2002.

11. Hà Minh Đức (chủ biên). Lý luận văn học. NXB Giáo Dục, 1999.

12. Hà Minh Đức. Một thế kỷ thơ Việt Nam (1900 – 2000). NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội, 2012.

13. Hà Minh Đức. Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại. NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.

14. Vu Gia. Người đánh rơi kỷ niệm dọc đường. Báo Sài Gòn Giải Phóng

15. Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1972 – 1973 (Ban chung khảo),

Văn nghệ số 10, 1973.

16. Nguyễn Văn Hạnh. Chuyện văn chuyện đời. NXB Giáo Dục, TPHCM, 2004.

17. Trần Mạnh Hảo. Nguyễn Đức Mậu – cuộc chiến tranh chưa kết thúc.

Văn hóa văn nghệ công an số 12, 1998.

126

18. Trần Mạnh Hảo. Thư mùa đông của Hữu Thỉnh. Tạp chí Văn nghệ quân

đội tháng 4 năm 1996.

19. Lưu Hiệp. Tinh hoa lý luận cổ điển Trung Hoa. NXB Văn hóa thông tin,

1997.

20. Iu.M.Lotman. Cấu trúc văn bản nghệ thuật. NXB ĐHQG, Hà Nội.

21. Jean Chevalier và Aliem Geerbrant. Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới. NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, 1997.

22. Phạm Khải. Người gặp trong ngày thơ đọc trong đêm - Phê bình chân

dung văn học. NXB Văn học, 1992.

23. Lê Đình Kỵ. Nhận diện thơ sau cách mạng tháng Tám. Tạp chí Văn

nghệ, số 35, 1995.

24. Đỗ Trung Lai (chủ biên), Phạm Sông Hồng, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn

Văn Long. Phạm Tiến Duật toàn tập. NXB Hội nhà văn, 2009.

25. Mã Giang Lân (2002). Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. NXB Giáo

Dục, Hà Nội.

26. Mã Giang Lân. Thơ hình thành và tiếp nhận. NXB ĐHQG, Hà Nội, 2004.

27. Nguyễn Văn Long. Hướng đi của một số nhà thơ trẻ. Tạp chí Văn nghệ,

số 531, 1973.

28. Nguyễn Đăng Mạnh. Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.

NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1999.

29. Phan Ngọc. Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ. NXB Trẻ, TPHCM,

2002.

30. Phạm Xuân Nguyên. Lưu Quang Vũ, di cảo thơ. Viện văn học, Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 8, 2008.

31. Lê Lưu Oanh. Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990. NXB ĐHQG, Hà

Nội, 1998.

32. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002). Thơ Việt

Nam hiện đại. NXB Lao Động, Hà Nội.

127

33. Vũ Quần Phương. Một số đóng góp của thơ Quân đội và thơ Việt Nam: Sự

đổi mới thi liệu, xu hướng tiếp cận đời sống. Tạp chí Văn học, số 6,

1979.

34. Trần Đình Sử. Những thế giới nghệ thuật thơ. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000.

35. Nguyễn Bá Thành. Tư duy thơ hiện đại Việt Nam. NXB QGHN, Hà

Nội, 2012.

36. Hữu Thỉnh. Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến.

Tạp chí Văn học, số 2, 2000.

37. Trần Thị Thắng. Tạp chí Văn học tháng 09, 2010.

38. Lưu Khánh Thơ (2005). Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện

đại. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Lưu Khánh Thơ (2003). Thơ năm 1992. Tạp chí Văn học, số 2

40. Lý Hoài Thu. Thơ Hữu Thỉnh – một hướng tìm tòi và sáng tạo từ truyền

thống đến hiện đại. Tạp chí sông Hương, số 142, tháng 12 năm 2000.

41. Hoàng Trung Thông (chủ biên). Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước.

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.

42. Vũ Duy Thông. Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975.

NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000.

128

i