ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ HẰNG
CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN – NĂM 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ HẰNG HOÀNG THỊ HẰNG
CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60220121 Mã số: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thu Hằng Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thu Hằng
THÁI NGUYÊN – NĂM 2013 THÁI NGUYÊN – NĂM 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS Dương Thu Hằng.
Tôi cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
- Kết quả này không trùng với bất cứ tác giả nào đã được công bố
Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Hằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................ 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................... 5
7. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 5
8. Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 6
NỘI DUNG ............................................................................................................ 7
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI.......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm chủ đề đời tư.................................................................................... 7
1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài............................................................................... 7
1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư ................................................ 8
1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư................................................................................. 9
1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại ..............................................................12
1.2.1. Khái quát chung............................................................................................12
1.2.2. Chủ đề đời tư trong sáng tác của một số tác giả trước Nguyễn Khuyến .........13
1.3. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến.......................24
1.3.1 Con người và cuộc đời...................................................................................24
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ........................................................................................27
1.3.3. Mảng thơ viết về chủ đề đời tư trong trước tác của Nguyễn Khuyến .............28
Chương 2. CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA BỨC CHÂN DUNG TỰ HỌA...................30
2.1. Về hình thức ....................................................................................................30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2. Tâm hồn tính cách ...........................................................................................32
2.2.1. Con người hiếu học.......................................................................................33
2.2.2. Con người chua chát, sâu cay và cũng rất hài hước dân dã............................34
2.2.3. Con người luôn dằn vặt day dứt khôn nguôi..................................................41
Chương 3. CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN.............56
3.1. Mối quan hệ vợ chồng .....................................................................................56
3.2. Mối quan hệ cha con........................................................................................67
3.3. Quan hệ thầy trò ..............................................................................................78
3.4. Quan hệ bạn bè ................................................................................................82
3.5. Quan hệ làng xóm............................................................................................86
KẾT LUẬN ...........................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................91
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của lịch sử văn học dân tộc
nói chung và văn học trung đại nói riêng. Thơ văn Nguyễn Khuyến là điểm sáng
của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - những năm đầu thế kỷ XX.
Thơ ông đề cập tới nhiều mảng chủ đề, trong đó “chủ đề đời tư” chiếm một số
lượng khá lớn. Những dòng thơ ấy ông viết cho riêng mình, viết về đời sống cá
nhân và những mối quan hệ tình cảm riêng tư.
Chủ đề đời tư không phải là chủ đề lớn và xuất hiện phổ biến trong văn học
Việt Nam thời trung đại. Thời trung đại là thời kỳ mang đậm dấu ấn của tam giáo.
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng tam giáo, về cơ bản con người trong văn học trung đại
Việt Nam thường hướng về những chức năng, phận sự, sự hành đạo mà ít chú ý đến
vấn đề đời tư của con người suốt một thời gian dài. Khoảng năm thế kỉ đầu vấn đề
đời tư gần như không được nhắc đến. Sự in đậm dấu ấn cá nhân cùng với sự thể
hiện sâu sắc đời sống riêng tư của mình, Nguyễn Khuyến đã tạo ra một bước phát
triển mới cho văn học Việt Nam trung đại trong việc thể hiện con người. Đó là quá
trình đi từ cái “chung” đến cái “riêng”, từ “vô ngã ” đến “hữu ngã ” và chính cái
“riêng” cái “hữu ngã” này, trong chừng mực nhất định làm cho văn học có sự thay
đổi về chất.
Nguyễn Khuyến là một tác giả được giảng dạy trong nhà trường các cấp. Vì
vậy, thực hiện đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến ” sẽ góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học về tác giả Nguyễn Khuyến nói riêng, văn học trung đại
Việt Nam nói chung.
Xuất phát từ ba lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài : “Chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Khuyến” với hy vọng sẽ góp thêm một góc nhìn mới về tác giả quen thuộc này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Khuyến là một thi tài, là một trong những cây đại thụ của văn học dân
tộc. Bóng mát của cây đại thụ ấy đã rợp xuống thời gian suốt mấy trăm năm. Gốc rễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
của nó đã ăn sâu vào lòng đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn Việt. Vì thế từ lâu,
Nguyễn Khuyến và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến đã trở thành mảnh đất trù
phú nuôi trồng biết bao cây bút nghiên cứu, phê bình văn học.
Thơ văn Nguyễn Khuyến được công bố muộn, đăng tải lần đầu tiên trên Nam
phong tạp chí (1917). Nhưng phải đợi đến gần hai mươi năm sau thì công tác văn
học sử trên đường hình thành mới tìm đến Nguyễn Khuyến.
Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu thơ văn chữ Hán của Nguyễn Khuyến được
chính thức bắt đầu từ năm 1957, nhưng phải đến năm 1971, khi cuốn Thơ văn
Nguyễn Khuyến được công bố, công việc này mới đạt được những thành tựu đáng
kể. Kể từ đây, việc nhìn nhận “Nguyễn Khuyến – một nhà thơ yêu nước ” bắt đầu
được đề cập đến. Cũng trong khoảng thời gian này, bộ Hợp tuyển thơ văn yêu nước
Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX ra mắt và Nguyễn Khuyến cũng có một “chỗ ngồi”
không đến nỗi quá khiêm tốn trong bộ sách trên.
Từ đó đến nay đã có nhiều công trình lớn nhỏ nghiên cứu về thơ Nguyễn
Khuyến: Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm [30]; Nguyễn Khuyến thơ, lời bình
và giai thoại [31]; Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình [39]; Nguyễn Khuyến tác
phẩm [10]...
Có thể nói, Nguyễn Khuyến là nhà thơ để lại dấu ấn đậm nét trong văn học với
rất nhiều tác phẩm được lưu truyền hậu thế. Vì vậy, thơ văn ông đã được rất nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, đề tài “chủ đề đời tư trong
thơ Nguyễn Khuyến” thì vẫn chưa thấy có công trình nào được công bố. Nó chỉ
được đề cập đến ở một số bài viết, cụ thể như sau:
Trong bài “Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động của một
phong cách và dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc”, Nguyễn Huệ Chi
viết: Nguyễn Khuyến đã tự trào mình khá chua cay, đã vạch đúng chân tướng con
người bế tắc, thoái chí của mình: “Cờ đang dở cuộc không còn nước; Bạc chửa thâu
canh đã chạy làng”, (Tự trào) [30, tr. 62]. Bài viết mới chỉ ra một khía cạnh tự trào
trong tính bi kịch con người Nguyễn Khuyến, tuy nhiên tác giả lại chỉ nêu vấn đề
chứ cũng chưa đi sâu vào từng bài cụ thể để tìm hiểu và nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
Trong bài “Nhân vật trữ tình trong thơ trữ Hán”, Trần Thị Băng Thanh có
viết: “Hình ảnh một ông già xuề xòa giữa cộng đồng dân dã ở đây đã lùi lại phía
sau, nhường chỗ cho một hình ảnh khác: một trí thức ý thức rõ rệt về bản lĩnh và
nhân cách, về trách nhiệm kẻ sĩ trước những xáo động dữ dội của thời cuộc. Đây
chính là một dạng nhân vật đặc sắc và không kém quan trọng trong thơ Nguyễn
Khuyến, có quan hệ mật thiết với con người tác giả, nhưng không hoàn toàn đồng
nhất với tác giả... Vẻ đẹp hướng nội làm cho nhân vật ấy sống động lên, như là một
người anh em sinh đôi với Nguyễn Khuyến; và cũng chính con người nghệ thuật
này đã thống nhất anh đồ nho, ông quan Tam Nguyên và ông già Yên Đổ ẩn cư
trong Nguyễn Khuyến lại làm một” [30, tr. 240].
Ở bài viết này, Trần Thị Băng Thanh cũng nhắc đến hình ảnh con người
Nguyễn Khuyến, tuy nhiên tác giả lại chỉ nêu vấn đề chứ cũng chưa đi sâu khảo sát
tác phẩm cụ thể.
Trong bài “Tâm trạng Nguyễn Khuyến qua thơ tự trào” Vũ Thanh có nêu: “Ở
cả hai mảng chân dung, cũng chỉ là một Nguyễn Khuyến. Nhưng nếu ở chân dung
tự trào bằng chữ Hán tâm hồn tác giả cao quý quá, sâu xa quá thì ở chân dung tự
trào bằng chữ Nôm tác giả như cố tình bôi xấu đi, đánh lạc hướng đi, che dấu đi
“một tấm lòng son vẫn có thừa”... Hai bức chân dung tự họa ấy vừa là sự bổ sung
mật thiết vừa đối lập nhau một cách gay gắt” [30, tr. 275].
Nhà nghiên cứu Vũ Thanh đã đề cập đến chân dung tự trào. Tuy nhiên, tác giả
chỉ tìm hiểu về tâm hồn cao quý chứ chưa đi sâu tập trung phân tích làm rõ hình ảnh
chân dung, con người Nguyễn Khuyến.
Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đã đề cập
đến vai trò, ý nghĩa của chủ đề đời tư trong tiến trình phát triển của thể loại: “ Cùng
với việc phản ánh xã hội, đất nước, con người, ở giai đoạn cuối của Đường luật
Nôm đã xuất hiện khuynh hướng đi vào đời tư. Đây là một biểu hiện mới trong chức
năng thể loại, mặc dù nó chưa thực sự đậm nét. Những bước đi đầu tiên này chắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
hẳn có một ý nghĩa nào đó đối với sự phát triển và mở rộng chủ đề đời tư trong thơ
ca Việt Nam giai đoạn sau ”[40, tr. 6].
Rõ ràng, chủ đề đời tư trong văn học trung đại là vấn đề đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm, chú ý ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau. Tuy vậy, cho đến
nay chưa có một công trình nào coi chủ đề đời tư là đối tượng chính để nghiên cứu
một cách có hệ thống và toàn diện. Đây là một việc làm có ý nghĩa khoa học, ý
nghĩa thực tiễn và góp phần nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Vì vậy, chúng tôi tiếp thu
những ý kiến, những gợi dẫn quý báu của các nhà nghiên cứu đi trước để thực hiện
đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến ”.
3. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài đi sâu vào tìm hiểu chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến, qua đó góp
phần phác họa rõ thêm chân dung một tác giả văn học.
- Luận văn góp phần nâng cao chất lượng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập thơ văn Nguyễn Khuyến trong nhà trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những bài thơ mang chủ đề đời tư
trong cuốn “Nguyễn Khuyến tác phẩm” của tác giả Nguyễn Văn Huyền Sưu tầm –
Biên dịch – Giới thiệu, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1984.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm những bình diện sau :
4.2.1. Các sáng tác của Nguyễn Khuyến, đặc biệt là những bài thơ về chủ đề đời tư.
4.2.2. Các tư liệu, công trình nghiên cứu, bài báo có liên quan.
Ngoài ra, trong chừng mực có thể luận văn còn so sánh chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Khuyến với các tác giả thơ trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Công Trứ, Tú Xương...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Làm rõ một số khái niệm có liên quan đến đề tài
5.2.Khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm mang chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn
Khuyến
5.3. Phân tích và đánh giá về tác dụng, ý nghĩa của các phương diện thể hiện chủ đề
đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến. Qua đó, khẳng định vai trò vị trí của chủ đề đời tư
trong thơ Nguyễn Khuyến đối với tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt
Nam trong việc thể hiện con người nói chung, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Khuyến nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề tài
này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp này giúp chúng tôi phân loại và
lựa chọn chính xác đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình triển khai và giải quyết
vấn đề, phương pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá
trình tìm hiểu, khám phá và đánh giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu. Đây là
phương pháp không thể thiếu để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra
sự tiếp nối cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành (lịch
sử học, văn hóa học, toán học, xác suất thống kê…) nhằm giúp cho vấn đề được
nhìn nhận bao quát hơn và chính xác hơn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Chủ đề đời tư qua bức chân dung tự họa.
Chương 3: Chủ đề đời tư qua các mối quan hệ cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
8. Đóng góp của luận văn
Là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê những bài thơ về chủ đề đời tư mà
Nguyễn Khuyến thể hiện trong sáng tác của mình. Từ đó, phân tích, lập luận chỉ ra
nội dung tư tưởng mới mẻ và phong phú của mảng thơ này đối với sự nghiệp văn
học của Nguyễn Khuyến. Thông qua đó, giá trị thơ văn và tài năng của Nguyễn
Khuyến được khẳng định sâu sắc hơn.
Luận văn là một trong những nguồn tư liệu hữu ích phục vụ việc giảng dạy, học
tập và nghiên cứu về Nguyễn Khuyến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm chủ đề đời tư
1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài
Đề tài là “khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực
tiếp trong tác phẩm văn học ” [7, tr. 110]. Có thể hiểu đề tài là yếu tố cơ bản của tác
phẩm văn học dùng để chỉ phạm vi đời sống hoặc tâm trạng được phản ánh trong công
trình nghệ thuật của nhà văn.
Chủ đề là “vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra và qua
nội dung cụ thể của tác phẩm văn học ” [7, tr. 61].
Đề tài là một khái niệm về loại của hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao
nhiêu hiện tượng đời sống có bấy nhiêu đề tài. Khi nói đến đề tài tác phẩm, ta
không phải chỉ nói tới một đề tài, mà thực chất là một hệ thống đề tài liên quan
nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm. Tương tự như vậy, về bản
chất, chủ đề văn học không bao giờ là vấn đề đơn nhất. Nếu trong thực tại, bản chất
con người đã là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội, thì điều đó có nghĩa là bất cứ
một vấn đề nào của con người cũng liên quan đến hàng loạt vấn đề phức tạp khác
của quan hệ xã hội. Vì thế, trong một tác phẩm cũng có chủ đề chính và chủ đề phụ.
Như vậy, thực chất khái niệm đề tài, chủ đề mang tính hệ thống.
Đề tài và chủ đề có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối quan hệ đặc biệt
quan trọng với nội dung tác phẩm. Đề tài và chủ đề là những khái niệm chủ yếu thể
hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài
giúp ta xác định “Tác phẩm viết cái gì ?”, thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi
“Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? ”. Chủ đề bao giờ cũng được hình thành và
được thể hiện trên cơ sở đề tài. Đề tài và chủ đề là hai khái niệm khác biệt nhau
nhưng trong một số trường hợp đề tài và chủ đề hòa quyện với nhau không tách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
được như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình... Người
tiếp nhận có thể đi thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Như vậy đề tài và chủ đề là một con đường quan trọng giúp người đọc có thể đi vào
và tiếp nhận nội dung tác phẩm.
Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài và chủ đề trong tác phẩm văn học,
các nhà văn luôn quan tâm đến vấn đề này trong quá trình sáng tác. Mặc dù là
những phương diện khách quan của nội dung tác phẩm nhưng đề tài và chủ đề đều
có tính chất chủ quan. Không chỉ gắn với hiện thực khách quan, đề tài và chủ đề còn
do lập trường tư tưởng và vốn sống của nhà văn quy định. Các nhà văn chân chính
luôn có ý thức trong việc làm mới đề tài, chủ đề trong sáng tác của mình. Nguyễn
Khuyến với chủ đề đời tư trong thơ chính là một trường hợp như vậy.
1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư
Văn học là một hoạt động sáng tạo, sự sáng tạo mang tính cá nhân trực tiếp và
độc đáo. Vì thế, sáng tác văn học bộc lộ mạnh mẽ và phong phú vai trò của nhân tố
chủ quan (dấu ấn của chủ thể sáng tạo).
Ở thời nào cũng vậy, sức sáng tạo của dân tộc kết tinh ở những cây bút lớn đều
có những cách khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của riêng mình...
Điều đó cũng có nghĩa là: ở mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học viết bao
giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Dấu ấn cá nhân này không thể có ở dòng văn
học dân gian do sáng tác được tiến hành tập thể và lưu truyền bằng miệng, là kết
quả nhận thức - thẩm mĩ của một tập thể trong cộng đồng.
Dấu ấn cá nhân là cơ sở để nhận diện con người cá nhân trong văn học. Dấu
ấn cá nhân là biểu hiện của chủ thể con người riêng biệt. Khi nào con người riêng
biệt ấy có ý thức tự khẳng định sự tồn tại, khẳng định giá trị riêng của mình gắn với
ý nghĩa nhân sinh quan của con người thì xuất hiện con người cá nhân. Như vậy con
người cá nhân trong sáng tác văn chương là quá trình tự ý thức về mình của con
người, là cái “tôi” tác giả thể hiện trong tác phẩm - sự diễn tả giãi bày thế giới tư
tưởng, tình cảm, ước mơ khát vọng... thầm kín của nhà văn, sự khẳng định vai trò
bản ngã của nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Văn học viết Việt Nam thời kì trung đại với tư cách là những sản phẩm sáng tạo
tinh thần của những chủ thể - cá thể, đã xuất hiện con người cá nhân. Trong lời kết
cuốn “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam”, Trần Đình Sử khẳng định:
“Con người cá nhân trong văn học trung đại có một quá trình tự ý thức chậm chạp,
lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của các ý
thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó mà
phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời
sống” [26, tr. 194]. Đặc biệt “Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII... con người cá nhân khẳng
định mình bằng cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp
chung của cộng đồng, yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý...” [26, tr. 194].
Như vậy có con người cá nhân chưa hẳn đã có chủ đề đời tư. Trong những bài
thơ tự thuật, cảm hoài, ngôn chí, ngôn hoài..., các tác giả đã gửi gắm, bộc lộ tâm sự
của mình. Nhưng thời trung đại, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và giai đoạn
phát triển của nhà nước phong kiến, con người sống bằng các giá trị chủ yếu như
đạo lí cương thường, cho nên bộc lộ tâm sự mà không thấy tâm trạng, không thấy
cái “tôi” trữ tình riêng, không nhằm nói tiếng nói của cái “tôi” cá biệt mà nói tiếng
nói của cái “ta” (phần đạo lí trong cái “tôi” đó). Đây là tiếng nói của sự tự ý thức về
nghĩa vụ, về trách nhiệm của con người cá nhân trước vận mệnh đất nước chứ
không phải mang màu sắc của con người cá nhân ở một mức độ nhất định.
“Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (Các Mác). Văn học lại
là một bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng phản ánh chủ yếu cho nên
văn học phản ánh các mối quan hệ xung quanh con người. Chỉ khi nào con người
với những mối quan hệ riêng tư chiếm một vị trí lớn trong đời sống của họ, những
giá trị cá nhân như quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự
nhiên... được đề cao, được chú ý thì khi đó có sự xuất hiện của chủ đề đời tư trong
văn học.
1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư
Từ khái niệm chung về chủ đề có thể xác định: ở chủ đề đời tư, vấn đề chủ
yếu, vấn đề trung tâm mà nhà văn nêu lên, đặt ra trong tác phẩm là các vấn đề đời tư
của chính bản thân tác giả, thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
- Con người và cuộc sống riêng của chính tác giả.
- Các mối quan hệ riêng tư
Như vậy, trong tác phẩm văn học có sự xuất hiện của chủ đề đời tư, tác giả
đã đưa chính mình vào thơ văn mình như một nhân vật khách thể. Nhân vật ấy với
tác giả vừa là một, vừa không là một vì nó đã là một nhân vật của văn học được xây
dựng theo quy luật sáng tạo của nghệ thuật vốn dĩ là thiên hình vạn trạng, vừa thực
vừa hư nhưng tất cả đều trên một cái nền tâm trạng thực, một nhân cách thực.
Dễ thấy, có hai nguyên nhân chủ yếu của sự hình thành và xuất hiện chủ đề đời
tư trong văn học. Nguyên nhân thứ nhất có thể kể đến là do quy luật phát triển tất
yếu của văn học. Nguyên nhân thứ hai chính là do có sự phát triển của cá tính và ý
thức cá nhân trong văn học. Trên thực tế, chủ đề đời tư chỉ xuất hiện khi con người
có ý thức về cá nhân, cá tính của mình. Bởi thế, một số thể loại văn học dân gian
tiêu biểu không hề có chủ đề đời tư. Chẳng hạn, “Thần thoại là tập hợp những
truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn
hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con
người”. Thần thoại được coi là những sáng tác sớm nhất trong quá trình phát triển
của lịch sử văn học dân tộc. Thần thoại là sản phẩm của người nguyên thủy, khi con
người bắt đầu có ý thức nhưng chưa tách mình ra khỏi tự nhiên. Điều kiện sinh sống
của người nguyên thủy một mặt khiến cho họ không thể đấu tranh với lực lượng tự
nhiên, mặt khác gắn chặt họ với tự nhiên. Sáng tạo thần thoại, người nguyên thủy đã
“dùng tưởng tượng, mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên, chi phối tự
nhiên, hình tượng hóa tự nhiên” [21, tr. 69]. Hàng loạt truyện thần thoại của người
Việt như “Thần trụ trời”, “Sơn tinh thủy tinh”, “Thần mưa”, “Thần mặt trời” “Nữ
thần mặt trăng” “Mười hai bà mụ”... đã ra đời như một nhu cầu để nhận thức, lý giải
các hiện tượng tự nhiên và thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người Việt
cổ. Như vậy, thần thoại phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là chủ
yếu. Do đó, ở thần thoại chưa xuất hiện chủ đề đời tư. Tương tự, sử thi ra đời khi xã
hội nguyên thủy đã tan rã, xã hội phong kiến chưa hình thành; là bức tranh rộng và
hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
đại diện cho bộ tộc. Đó là những bài ca ca ngợi những kì tích của toàn thể cộng
đồng mà tiêu biểu là ca ngợi những nhân vật anh hùng trong sự nghiệp xây dựng
đời sống chung như chinh phục tự nhiên, chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ bộ tộc...
Con người sử thi là những dũng sĩ có sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thường. Họ
có thể giết tê giác, bắt voi rừng, quật ngã trâu như Khinh Dú, Xinh Nhã... Có thể
đánh bại các tù trưởng để trở thành “tù trưởng của các tù trưởng”, chặt cây thần, đi
bắt nữ thần mặt trời để chinh phục tự nhiên như Đam San... Con người sử thi có ý
thức và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ đối với cộng đồng, nhưng con người sử thi
chưa phải là những con người phát triển ý thức cá nhân, con người bên trong, con
người cho riêng mình, vì mình. Đại diện toàn năng cho bộ tộc, tiêu biểu cho những
gì tốt đẹp nhất của cộng đồng, rõ ràng sử thi chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa
con người và lịch sử, con người với cộng đồng. Không thể tìm thấy chủ đề đời tư
trong những tác phẩm này.
Đến thời trung đại, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng đồng; giá
trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể. Con người ý thức cá tính trong cái chuẩn mực
vô ngã. Theo giáo sư Trần Đình Sử, sự ý thức về cá tính trong xã hội Việt Nam
trung đại không nằm ngoài quy luật phổ biến trên nhưng có tính đặc thù. Con người
một mặt lấy luân thường đạo lí làm phương châm răn mình, làm khuôn đúc nhân
cách, mặt khác cá tính con người được ý thức bằng các phạm trù “siêu chuẩn”, “phi
chuẩn”. Các phạm trù đó có thể là “tài tình”, “nghịch tử”... Nó được ý thức qua
phạm trù “tâm sự” mang tính chất trữ tình. Khi Nguyễn Trãi viết:
Đống lương tài có mấy bằng mày,
Nhà cả nhiều phen chống khỏe thay .
(Tùng)
thì “tài” ở đây không phải để khoe mà nó là một phạm trù để ý thức cá tính, để nhận
ra giá trị tự thân của con người. Sang giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII, thế kỷ
XIX, lại xuất hiện hàng loạt các tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát... lấy “ngông” làm tài để khẳng định cá tính...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Tất cả đều là kết quả của việc con người tách mình ra khỏi môi trường xung
quanh, con người tự cho phép mình như một chủ thể tự nhận thức. Và chính sự vượt
lên khuôn khổ, sự tự nhận thức ấy, con người cá nhân đã được khẳng định.
1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại
1.2.1. Khái quát chung
Con người trong văn học chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng triết học, thần
học mỗi thời. Giống như con người trong văn học trung đại Trung Quốc mang đậm
dấu ấn của tam giáo Nho, Đạo, Phật, văn học trung đại Việt Nam ra đời và phát
triển dưới các triều đại phong kiến, ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến.
Đặc điểm chung của ý thức trung đại phản ánh vào các luồng tư tưởng này là quan
niệm về con người “vô ngã”. Cả Nho, Phật, Đạo đều chủ trương lý tưởng vô ngã,
phá ngã, vô kỷ... Điều này đã chi phối đến cách ứng nhân xử thế, xác định mối quan
hệ qua lại giữa cá nhân và cộng đồng của con người trong văn học.
Có thể nói, thời trung đại cái riêng chưa phát triển, mối quan hệ của con người
là mối quan hệ với cái chung, với cộng đồng, với dân tộc. Nhân cách con người
được tăng cường ở vị trí công dân – một phần tử của đất nước, ít có chỗ cho cá nhân
tự ý thức, có khi hy sinh cũng là sự xả thân để thành nhân.
Tuy vậy, đặc trưng này không phải là sự nhất thành bất biến trong suốt quá
trình phát triển của văn học trung đại. Lý tưởng chung của tam giáo có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống văn học là vậy, nhưng văn học lại là một lĩnh vực ý thức về
đời sống con người, không thể lược quy con người trong văn học vào các ô có sẵn
của triết học. Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối của tư tưởng triết học
Trung Quốc nhưng không đồng nhất với chúng. Con người ta sinh ra, ai cũng có cá
tính, có nhu cầu tự khẳng định mình trong xã hội, trong sự tồn tại của chính mình.
Con người cá nhân riêng tư với những nhu cầu, lợi ích của “đời sống hiện hữu” luôn
tồn tại bên “một đời sống tâm linh”. Người ta không chỉ coi trọng mặt tinh thần của
cuộc sống để trau dồi cho mình những đức tính cần thiết, khi phải đối diện với
những cái thường ngày, những vấn đề của riêng mình, sự tự ý thức về cá nhân sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
lớn dần lên đòi quyền được sống, quyền được tự bộc lộ. Con người “vô ngã” sẽ
chuyển dần sang con người “hữu ngã”, con người “chung” sẽ tiến dần đến con người
“riêng” như là một quy luật tất yếu. Tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong cuốn “Về con
người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” đã phát hiện: “Điều đặc biệt là với những
tác giả lớn (chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ....) thì các nguyên tắc lớn trên kia thường dễ được bỏ qua... tự thân các tác gia
cổ điển có khả năng vượt qua mọi vách ngăn của thời đại” [26, tr. 19].
Nếu như “vách ngăn” của thời trung đại là những tư tưởng chuẩn mực và vô
ngã thì con người đã “vượt qua” bằng sự tự khẳng định mình, ý thức về mình. “Văn
học Việt Nam trước thế kỷ XVIII khẳng định cá nhân trong các tư tưởng lớn. Từ thế
kỷ XVIII, nó ý thức về cái thân con người như một giá trị trần thế” [32. tr, 55]. Như
vậy, con người có thể khẳng định mình trong các chuẩn mực của luân lí xã hội,
trong bậc thanh danh vị; con người cũng có thể khẳng định mình bằng những biểu
hiện “phi chuẩn”, “ngoài chuẩn”. Văn học trung đại Việt Nam đã ghi dựng được
những mẫu hình anh hùng, tài nhân, quân tử, văn học trung đại cũng tái hiện được
những cái “tôi” rất ngông nghênh, kiêu bạc. Đây là những phạm trù biểu hiện cá
tính đặc trưng của thời trung đại. Với ý thức cá nhân sâu sắc, văn học Việt Nam
trung đại đã xuất hiện chủ đề đời tư. Có thể thấy rõ điều này qua những tác phẩm
của một số những nhà thơ tiêu biểu.
1.2.2. Chủ đề đời tư trong sáng tác của một số tác giả trước Nguyễn Khuyến
1.2.2.1. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi
Nói về con người Nguyễn Trãi là nói về một nhà yêu nước một nhà nhân đạo,
một nhà văn hóa lớn. Đó là con người có cái tài kinh bang tế thế, làm rạng rỡ cho đất
nước, từ xưa tới nay chưa từng có. Nguyễn Trãi xuất hiện ở cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV, là tác giả đầu tiên của giai đoạn văn học trung đại Việt Nam đã chú ý đến chủ đề
đời tư.
Với những sáng tác văn học có tính chất quan phương, Nguyễn Trãi từng được
biết đến như là một nghệ sĩ tài ba, một nhà tư tưởng vĩ đại, một anh hùng kiệt xuất của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
dân tộc. Tìm hiểu đời tư trong thơ ông, chúng ta còn hiểu hơn về một cá nhân giữa đời
thường, một nhà thơ luôn yêu thương trìu mến với cảnh vật với con người, với đời sống
nghèo mà trong sạch của quê hương: với mồ mả ông bà, với cha mẹ, họ hàng thân
thích; cả những khát khao âm thầm, những ưu sầu nặng lẽ đang diễn ra trong chính bản
thân nhà thơ. Ở giai đoạn lịch sử mà văn học còn chịu sự ngự trị của những tư tưởng
chuẩn mực, những mẫu hình lý tưởng, văn chương quan phương cung đình giàu ý
nghĩa tụng ca vương triều, tụng ca thánh đế thì sự xuất hiện chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Trãi có ý nghĩa như là “những sáng tạo đột xuất, vượt qua thông lệ, vượt
qua mọi ràng buộc...” [26, tr. 20]. Nguyễn Trãi vừa là tư cách một con người xã
hội, vừa “thấy sự bung tỏa, thấy những lực ly tâm của sự sáng tạo thơ ca ra xa quỹ
đạo quan phương chính thống” [26, tr. 20]. Điều này càng làm tăng thêm vẻ đẹp tài
năng, trí tuệ tâm hồn Nguyễn trãi, tăng thêm nhân cách của một nhà thơ lỗi lạc.
Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi trước hết được biểu hiện ở mối quan hệ
riêng tư. Đó là tình cảm của nhà thơ đối với cha mẹ, với vợ con, bạn bè, mối quan hệ
trong tình yêu nam nữ và ngay cả với chính bản thân mình.
Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm, trong một thời gian dài
phải sống xa quê hương, nỗi nhớ cha mẹ già, nỗi nhớ người thân, hình ảnh quê hương
lối cũ trở đi trở lại day dứt qua những vần thơ:
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,
Viên hạc chăng hờn lại những thương.
(Tự thán 1)
Trái tim nhạy cảm với cội với nguồn ấy không chỉ đập ngày một ngày hai mà trải
dài theo năm tháng:
Can qua thập tải thân bằng thiểu
Vũ trụ thiên niên biến cố đa..
( Hoạ Tân trai vận )
Dịch: Mười năm can qua bạn bè bà con đều ít
Nghìn năm trong vũ trụ biến cố xảy nhiều.
(Hoạ vần thơ Tân trai )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
Tiếng lòng 10 năm, nỗi xót xa đến quặn lòng ấy là của một người con nặng tình
nặng nghĩa luôn đau đáu niềm riêng, luôn thiết tha trong tâm khảm.
Sự xuất hiện của tình yêu nam nữ, của những tình cảm nồng ấm vợ chồng trong
thơ Nguyễn Trãi cũng là một khía cạnh mới mẻ và độc đáo.
Bài “Tiếc cảnh số 10”, nhiều người cho rằng đó là những câu thơ Nguyễn Trãi
viết cho Nguyễn Thị Lộ - người thiếp yêu của nhà thơ - ở tuổi 40 mà vẫn vô cùng
tình tứ và ý nhị:
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ?
Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng.
(Tiếc cảnh số 10)
Ẩn sau cái vẻ ngoài của lời lẽ trách móc là một tình cảm mãnh liệt của một tâm
hồn đang tràn ngập yêu thương. Vì yêu mới dằn vặt, vì yêu mới nghi ngờ và khát
khao. Tình cảm vợ chồng thắm đượm này đã trở thành một thứ đặc sản quý và vô
cùng hiếm của thơ ca trung đại Việt Nam.
Với bản thân, con người và cuộc sống sinh hoạt cá nhân, những nhu cầu, lợi
ích... cũng được Nguyễn trãi ý thức rất rõ, nó được biểu hiện sinh động và phong
phú trong những sáng tác của ông.
Hình ảnh một ông già tuổi cao, đầu bạc, đôi mắt lòa, ăn mặc giản dị là hình
ảnh Nguyễn Trãi tự họa mình trong thơ:
Lưỡng nhãn hôn hoa đầu cánh bạch,
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân.
(Thứ Cúc Pha tặng phi )
Dịch: Hai mắt đã lòa đầu lại bạc,
Ơn vua chưa đáp, dạ đâu đành.
(Hoạ thơ của Cúc Pha tặng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
Hay : Bít bả hài gai khăn cóc
Xềnh xoàng làm mấy đứa thôn nhân
(Mạn thuật 11)
Rồi cuộc sống cần kiệm, thanh đạm mà đầy vui thú, hòa đồng cùng cỏ cây, hoa
lá chim muông, cùng cuộc sống lao động nghèo nơi thôn dã. Đó chính là nơi mà
Nguyễn Trãi tìm lại được sự cân bằng cho tâm hồn bên chốn quan trường ồn ào với
những ganh đua chật hẹp:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
(Thuật hứng 19)
Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn
Ấp ủ cùng ta làm cái con.
(Ngôn chí 20)
Thời Nguyễn Trãi, Nho giáo đang thịnh hành, mọi giá trị văn thơ phải được thể
hiện bằng sự cao quý, trang nhã. Với những vần thơ chân thực, giản dị viết về mình
Nguyễn Trãi đã góp vào thơ ca dân tộc một tiếng nói độc đáo và táo bạo.
1.2.2.2. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Là nhà thơ lớn của thế kỉ XVI, vần thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là tiếng nói tiêu
biểu của tầng lớp nho sĩ trước thực tại khi xã hội phong kiến nước ta bước đầu đi
vào con đường khủng hoảng suy vong.
Hai tập thơ để lại của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Bạch Vân am thi tập” và “Bạch
Vân quốc ngữ thi tập” đã tái hiện rất rõ cuộc đời, con người và tư tưởng của nhà
thơ. Đặc biệt bộc lộ trực tiếp đời sống tâm hồn, tâm tư, xúc cảm là những bài thơ
ông tự thuật về cá nhân và gia cảnh của mình.
Cái nghèo là sự phản ánh trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng
ta đã biết, mãi năm 45 tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đi thi, đậu giải nguyên và năm
sau đó là trạng nguyên. Nhưng cuộc sống của nhà thơ không vì thế mà hết bần hàn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
nghèo khó. Vì nghèo mà dù đã cố giữ phong thái của một nhà nho, của người quân
tử vui với đèn sách, với “nửa rèm trăng gió” mà vẫn không quên được thực tế chua
cay. Tiếng thơ ông luôn bao hàm sự chua chát:
Vàng bạc nào ai vốn có phân,
Lạnh thay cơm hủ được no ăn.
Lạnh thuở đông, hằng nhờ bếp,
Nồng vụ hạ kẻo đắp chăn...
(Bài 23 )
Bên cạnh tiếng thơ đạo lí, tiếng thơ phê phán thói đời đen bạc của một tấm
lòng luôn ưu thời mẫn thế, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một nhà thơ trữ tình đằm
thắm và kín đáo. Người trí thức sâu sắc với những triết lí phương Đông kết hợp với
triết lí cuộc đời ấy không hề có cái nhìn cứng nhắc khô khan với cuộc đời, với con
người. Chất triết luận hài hòa với chất thơ đã tạo ra nét đặc sắc cho thơ trữ tình,
càng hiện rõ hơn trái tim giàu cảm xúc của nhà thơ.
Đây là chút nỗi niềm xốn xang những lúc thu về:
Đêm qua một trận gió vàng,
Nhớ thu sân vắng bàng hoàng lòng ta.
(Thu thanh 1)
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hoàn toàn sống với cõi riêng tư của mình, để mà mơ
màng, nhung nhớ, để vượt lên trên cái hiện thực thối nát của xã hội mà ông đã
không hề sợ sệt dám vạch trần, tố cáo. Con người tràn đầy nhiệt huyết vì nước vì
dân ấy cũng có lúc:
Đêm đợi trăng lồng bóng trúc,
Ngày chờ gió thổi tim hoa.
(Bài 19)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Và cũng bao lần:
Nương song ngày trước mùi hương lọt
Thỏa chén, đêm âu, bóng quế tan
(Bài 26)
Vui cùng cảnh lại nhớ người, hình ảnh ánh trăng đêm gợi lại những kỉ niệm
gắn bó son sắt giữa bạn và ta xưa. Tình cảm đậm đà luyến nhớ dâng ngập tâm hồn:
Sơ giao bạn cũ cách xa,
Tấm son biết có đậm đà nữa thôi?
Đau lòng vô cớ lệ rơi,
Nhớ ai luống những bồi hồi xiết đau!
( Cảm cựu 1)
Đó là những vần thơ chữ Hán mà tiếng thơ vẫn dào dạt tự đáy lòng. Trong thơ
quốc âm lại có những vần thơ trào lộng rất tự nhiên, bình dị, ông tặng cho môn sinh
cũng như cho chính người vợ yêu của mình:
... Ngày vắng gióng lòng ngồi lẳng lặng,
Đêm thanh ngửa thịt gáy pho pho
Làm văn rỗng quặc như mông ngựa,
Thấy gái đi qua nghếch cổ cò.
(Trách học trò lười)
Một bài khác ông xưng hô với vợ là “mụ” và “yêng” (anh) vừa dân dã vừa trìu mến:
Quen thân, yêng nhủ mụ lời này
Lợi lộc mặc duyên, chăng ấy chớ,
Đôi co thế sự chớ chua thay!
Thế gian có hỏi: lời ai nhủ?
Mụ hay rằng: lời thánh dại ngây!
(Bài 21)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
Lời khuyên nhủ chân thành cũng là lời thương mến tận trái tim. Thái độ cởi
mở như vậy ai dám bảo của một ông trạng chuyên nói lời giáo huấn, chỉ biết thuyết
giảng khô khan?
Tùy thời xuất xử là thái độ và hành vi thích ứng với thực tế cuộc đời của hầu
hết các nhà nho. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy, bên cạnh con người Nho giáo ưu ái
và tích cực, trong tư tưởng của ông cũng có cái phiêu diêu của Lão – Trang, cái
thoát tục của Phật giáo. Xã hội Nguyễn Bỉnh Khiêm sống là xã hội đầy mâu thuẫn.
Muốn nhập thế hành đạo nhưng không gặp thời, nhà thơ đành phải tìm con đường
nhàn tản xuất thế. Và thế là chữ “nhàn” đã trở thành một chủ đề nổi bật trong thơ
ông. “Nhàn” là biểu hiện của sự “lánh đục về trong”, không ràng buộc bởi vinh hoa
phú quý, không khuất phục bởi thế lực gian tà. “Nhàn” cũng là thái độ tôn trọng tự
do, tự tại, là giải phóng con người cá nhân, nhà thơ được sống với những nhu cầu,
khát vọng riêng của mình. Sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là tiêu
biểu cho tư tưởng tự do, khát vọng nhàn tản. Ông từng nói:
Trong sạch ai là thiên hạ sĩ,
An nhàn ta chính địa trung tiên.
(Ngụ hứng 25)
Tiên là hình tượng đẹp nhất, quý nhất đối với người trần nhưng tiên phải huyền
thoại, còn đây ông thành tiên giữa chính cõi trần. Đó là khi con người “vô sự”, khi
“danh, lợi lâng lâng gió thổi hoa”:
Thấy đám thanh vân bước ngại chen,
Được nhàn ta xá dưỡng thân nhàn. (Bài 08)
Dửng dưng mọi sự đà ngoài hết,
Nhàn một ngày là tiên một ngày. (Bài 10)
Rồi ông tìm cho mình một cái thú “một mai, một quốc, một cần câu” để sống
trọn niềm vui giữa cuộc đời thanh bần đạm bạc – cuộc đời của những người lao
động thôn quê nghèo khổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
Cũng như Nguyễn Trãi, chủ đề đời tư cũng đã biểu hiện khá sâu sắc trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đọc thơ ông chúng ta hiểu thêm về đời sống tình cảm, tâm tư
khát vọng riêng của một con người chỉ biết thuyết minh bằng trí tuệ mà cũng lắng
sâu tình cảm, có sức lay động lòng người.
1.2.2.3. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Công Trứ
Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là một nhà nho rất nổi danh vào
đầu thế kỉ XIX. Nói tới Nguyễn Công Trứ chúng ta có thể nhắc ngay tới một số chủ
đề lớn xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông: chí nam nhi; triết lí cầu nhàn
hưởng lạc; cảnh nghèo và nhân tình thế thái. Nếu như những vần thơ viết về chí
nam nhi của ông đã biểu hiện rất rõ ý thức về nghĩa vụ, về sứ mệnh của kẻ làm trai
trong cuộc đời thì triết lí hưởng lạc, cầu nhàn, cảnh nghèo và nhân tình thế thái lại
góp phần khẳng định một con người cá nhân Nguyễn Công Trứ hết sức mới mẻ
giữa thời đại mình – một cái tôi riêng tư, một cái tôi hơn người, một cái tôi tự cho
mình là đủ.
Cầu nhàn là biểu hiện cho lối sống cá nhân. Giống các nho sĩ xưa, Nguyễn
Công Trứ cũng tìm đến cảnh nhàn để sống thảnh thơi, để di dưỡng tinh thần và suy
tưởng, hướng đạo... Nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ dừng lại như Nguyễn Trãi:
“Nhàn” để thoát vòng danh lợi, để sống cuộc đời bình dị nơi thôn dã vui với sông
núi, gió trăng, làm bạn với cỏ cây hoa lá; cũng chẳng muốn thành tiên ngay giữa cõi
trần như Nguyễn Bỉnh Khiêm “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, “Dửng dưng mọi sự
hay ngoài hết”. Không nhàn trong ước ao mộng tưởng, Nguyễn Công Trứ có hẳn
một cách sống nhàn ngay cả khi làm khanh, làm tướng hay lúc làm lính thú ở biên
thùy. Không phải đợi về già, không cần đến xuất thế, nhà thơ “ngất ngưởng” ngay
lúc đương triều:
Khi Thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
(Bài ca ngất ngưởng)
Để con người hành động một cách tự do, để mọi tình thú của kiếp người đều
được thể hiện đầy đủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
Ở thời đại của Nguyễn Công Trứ, nền kinh tế đô thị đã phát triển mạnh, lễ giáo
và đạo đức phong kiến không còn đủ sức mạnh để kiềm tỏa con người như trước
nữa, yêu cầu giải phóng cá tính, giải phóng tình cảm ngày càng quyết liệt. Nguyễn
Công Trứ không chỉ hưởng nhàn mà đi đôi với nó là hành lạc. Cái nhàn của ông
không êm đềm, tĩnh lặng như của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, nó có tính
chất hoạt động. Cuộc sống cá nhân này rất sôi nổi nhộn nhịp, bên cạnh thú vui thanh
cao là những thú vui trần tục.
Đây là giây phút ngao du:
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn
(Luận kẻ sĩ)
Rồi thú cầm, kỳ, thi, tửu:
Thơ một túi gieo vần Đỗ, Lý
Rượu lưng bầu rót chén lưu linh
Đàn Bá Nha gảy khúc tính tang tình
Cờ Đế Thích đi về xe, pháo, mã.
(Cầm, kỳ, thi, tửu)
Cả bài bạc, xướng ca, thậm chí đắm mình trong sắc dục:
Thú tiêu sầu rượu rót đề thơ,
Có yến yến, hường hường mới thú.
Khi đắc ý mắt đi mày lại,
Đủ thiên nhiên thập thập thêm nồng.
(Tài tình)
Hưởng lạc không chỉ là phạm vi thể hiện con người tài tình mà còn dạt dào
phong thái tự do, tự tại nơi Nguyễn Công Trứ. “Nếu công danh là cái tự khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
bằng “hướng ngoại” thì hưởng lạc là sự khẳng định của bản thể cá nhân. Nếu công
danh là cách tự khẳng định cá nhân trong bất hủ với vô hạn thời gian thì hưởng lạc
là việc tự khẳng định mình trong thời gian hữu hạn của đời người” [26, tr. 181].
Kế với triết lý hưởng lạc cầu nhàn, cảnh nghèo với cuộc sống cùng khổ cũng là
một phương diện thơ biểu hiện con người riêng tư cá nhân Nguyễn Công Trứ.
Hơn nửa cuộc đời, kể từ lúc sinh ra cho đến khi thi đậu, bổ quan, Nguyễn Công
Trứ phải sống trong cảnh túng nghèo, bấn bách. Ông từng mô tả những nỗi khổ của
cảnh nghèo trong nhiều bài thơ, đặc biệt là một bài phú nhan đề “Hàn nho phong vị
phú”. Lúc đầu mới là nỗi khổ về vật chất – chỗ ở thì:
Kìa ai bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,
Đầu kèo một tạc vẻ sao, trước của nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp, nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê, đầu đỗ.
(Hàn nho phong vị phú)
Cái ăn:
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no.
Cái mặc:
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu!
Khăn lau dắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Có thể nói, đến Nguyễn Công Trứ, chất liệu hiện thực cuộc sống của nhà nho
nghèo đã được ông phản ánh vô cùng phong phú và sinh động.
Thêm vào nỗi khổ vật chất là những chịu đựng về tinh thần. Phải lụy nhục khi
vay mượn bị người đời khinh bỉ:
Thấy tớ sợ men tìm đến cửa ngoảnh mặt cúi đầu.
Chị em e vất lấm vào lưng trề môi nhọn mỏ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ
(Hàn nho phong vị phú)
Phải lép vế khi quá nghèo:
Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần,
Bởi vì nhà khó hóa bần thần.
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân.
(Vịnh nghèo)
Khổ hơn nữa, Nguyễn Công Trứ lại là người có dòng máu phong lưu, ngoài sự
thiếu thốn của con người tầm thường, lại thêm nỗi khổ của những khoản phong lưu.
Nhà nghèo rớt mà vẫn be, vẫn ấm, tuy chỉ là “be sành chắp cổ” “ấm đất sứt vòi”. Vẫn
tổ tôm, cờ tướng, mặc dù chỉ là “cỗ bài lá ba đời... hàng văn hàng sách lờ mờ”, “bàn
cờ săng bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó”.
Là một nhà nho tôn thờ chữ “trung”, chữ “hiếu”, Nguyễn Công Trứ đồng thời
cũng là nhà thơ tha thiết với chữ “tình”. Tình cảm gái trai lần đầu tiên đến với một
nhà thơ Nôm mặn nồng, gắn bó. Ông tả tâm trạng riêng tư:
Tương tư là cái sự làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào.
...
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
Một nước, một non, người một ngả,
Tương tư không biết cái làm sao!
(Tương tư) Nỗi nhớ thương bồi hồi trong cảnh ly biệt:
Kẻ về người ở,
Bồi hồi thay lúc phân kì.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Khéo quấy người hai chữ tình si,
Lửa ly biệt bầng bầng không tắt nguội.
Con người tài hoa tài tử gánh nặng trung hiếu, ôm nợ sách đèn ấy không ngờ
lại có lúc trái tim cháy lên mãnh liệt bởi mãnh lực của tình yêu. Phải ôm mối sầu lấp
đầy trời đất, phải ngẩn ngơ, thương nhớ ngậm ngùi:
Giống ở đâu vô ảnh, vô hình,
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình
Kiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng.
Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững,
Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi...
Với tiếng lòng da diết riêng tư, Nguyễn Công Trứ đã đưa vào thơ ca trung đại
tiếng nói khẳng định nhu cầu tự nhiên, khẳng định con người cảm tính để con người
được sống tự do với chính những tư tưởng của mình. Và điều ngược lại, chính những
tư tưởng ấy đã góp phần làm đổi thay diện mạo văn học.
1.3. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến
1.3.1 Con người và cuộc đời
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), tên lúc đầu là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn.
Sau khoa thi Hội không đỗ (năm 1865), ông đã đổi tên thành Nguyễn Khuyến để tỏ
rõ quyết tâm học tập của mình. Hiệu là Quế Sơn, tự là Miễn Chi. Nguyễn Khuyến
sinh ở quê mẹ làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông lớn lên và
sống chủ yếu ở quê cha làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo có truyền thống khoa bảng.
Ông nội là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh. Cha là Nguyễn Tông Khải đỗ liền ba
khoa tú tài.
Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là làng
Ngói, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Bà là một người phụ nữ đảm
đang, chịu thương, chịu khó, tính tình lại “đoan trang, trầm tĩnh, thuận hòa” và xứng
đáng là một bậc nữ lưu mẫu mực trong khuôn khổ xã hội cũ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là thông minh học giỏi nhưng con
đường học hành thi cử của ông cũng gặp rất nhiều lận đận. Năm 17 tuổi ông đã đi
thi hương nhưng không đỗ. Ba khoa thi hương tiếp theo (1855, 1858, 1861) ông đều
bị trượt. Con đường học hành không hề hanh thông với ông:
Bốn khoa hương thí không đâu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi...
(Giễu mình chưa đỗ)
Sau đó cha mất, nhà nghèo, ông phải bỏ học đi dạy thuê kiếm ăn nuôi mẹ. Về
sau ông nghè Vũ Văn Lý (người làng Vĩnh Trụ, huyện thanh Liêm, tỉnh Hà Nam,
trước là học trò của bác ruột Nguyễn Khuyến), thấy ông thông minh, học giỏi nên
đem về nuôi cho ăn học tiếp. Năm 1864 Nguyến Khuyến đậu giải nguyên trường
Nam Định. Năm 1871 ông đỗ Hội nguyên rồi Đình nguyên. Vì đỗ đầu cả ba kì thi
nên người ta gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Vua Tự Đức khi ban cờ biển cho
Nguyễn Khuyến cũng viết hai chữ “ Tam Nguyên”. Ở tuổi 37, nhiều người cùng
thời Nguyễn Khuyến đã thành danh, hưởng bổng lộc của triều đình, yên vị xã hội,
thế nhưng Nguyễn Khuyến lúc này mới bước những bước đầu tiên vào con đường
danh vọng.
Sau khi thi đậu, Ông được bổ làm quan ở Nội Các Huế, năm sau đổi làm Đốc
học Thanh Hóa rồi án sát Nghệ An. Năm 1883 Nguyễn Khuyến làm phó sứ cùng
với Lã Xuân Oai để đi công cán nhà Thanh. Nhưng do Thuận An bị thất thủ (tháng
8 năm 1883) nên việc đi sứ bị đình, ông lại trở về chức cũ. Bấy giờ, thực dân Pháp
đang đánh chiếm dần nước ta, triều đình thì ngày càng bộc rõ sự bảo thủ, bạc
nhược. Năm 1884, buồn vì không làm được gì được để cứu vãn tình thế và không
cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, Nguyễn Khuyến đã lấy cớ đau mắt nặng, cáo quan
về quê.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo túng ở nông thôn, sau hơn mười năm làm
quan thanh liêm, Nguyễn Khuyến lại trở về cuộc đời thanh bạch ở quê nhà. Sự sinh
nhai của cả gia đình hoàn toàn nhờ cậy vào bàn tay đảm đang của bà vợ “hay lam
hay làm”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
Tưởng chừng được sống một cuộc đời thanh bạch nơi quê nghèo nhưng bọn
thống trị đã không để cho ông được sống yên trong cảnh ẩn dật. Chúng đã nhiều lần
cử người đến mua chuộc con người có “tâm hồn cao quý” này, ép buộc Nguyễn
Khuyến trở lại làm quan. Viện cớ già yếu, Nguyễn Khuyến đã nhất quyết từ chối.
Sau Hoàng Cao Khải (kinh lược sứ Bắc Kì) lại mời ông đến làm gia sư cho con hắn.
Bất đắc dĩ, Nguyễn Khuyến phải đi nhưng chỉ ít lâu sau, nhà thơ đã cho con là
Nguyễn Hoan đến dạy thay. Vì giữ một thái độ bất mãn với bọn thực dân nên
Nguyễn Khuyến bị chúng nghi ngờ, theo dõi. Để có thể sống một cuộc đời yên ổn,
ông đành phải cho con trai là Nguyễn Hoan ra làm quan.
Năm 1905, Lê Hoan (tổng đốc Hưng Yên) tổ chức cuộc thi vịnh Kiều đã cố mời
Nguyễn Khuyến vào làm ban giám khảo. Không thể từ chối được, nhà thơ buộc lòng
phải tham gia. Nhưng vốn căm ghét bọn làm tay sai cho giặc, ông đã kín đáo gửi gắm
tâm sự của mình trong những bài thơ vịnh Kiều để đả kích Lê Hoan và đồng bọn:
Thằng bán tơ kia giở mối ra
Làm cho bận đến cụ viên già
(Kiều bán mình)
Nguyễn Khuyến là một nhà nho, cả đời phấn đấu cho khoa cử thế nhưng khi ra
làm quan Nguyễn Khuyến lại chỉ làm quan có 11 năm. Đó là một dấu hỏi lớn trong
cuộc đời của Nho sĩ chân chính Nguyễn Khuyến. Để trả lời câu hỏi này ta phải xét ở
khía cạnh thời đại.
Như ta đã biết, thời đại mà Nguyễn Khuyến sống là một thời đại đầy biến
động. Không chỉ do tiếng súng xâm lăng của thực dân Pháp gây nên mà còn do
những biến loạn trong lòng dân tộc. Đây là thời kì những luân lí đạo đức cũ không
còn được như xưa, hệ tư tưởng, nhân sinh quan và hệ ứng xử văn hóa cũ xây dựng
từ mấy ngàn năm nay đã bị sụp đổ. Nguyễn Khuyến cũng như bao nho sĩ cuối mùa
khác luôn bị hối thúc bởi hai ngả đường không biết nên về hay nên ở: một là cáo
quan về quê ở ẩn và hai là tiếp tục ở lại làm quan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
Lui về ở ẩn là sự lựa chọn cuối cùng của Nguyễn Khuyến, khép lại sau lưng
chốn quan trường lố lăng. Nguyễn Khuyến không chỉ được tiếng là một vị quan
thanh liêm chính trực mà trong gia đình ông còn là một người chồng, người cha có
trách nhiệm. Ông có tới bốn bà vợ và rất đông con. Bà cả được ba con là Nguyễn
Hoan, Nguyễn Thuần và Nguyễn Thị Duy. Bà thứ được ba con là Nguyễn Điềm,
Nguyễn Đôn, Nguyễn Thị Búp. Bà ba sinh một con là Nguyễn Khắc. Bà thứ tư họ
Phạm mất sớm, không có con.
Cuối đời Nguyễn Khuyến chủ yếu sống ở quê nhà với vợ con. Trở về với
xóm làng, thôn quê, ông trở thành nhà thơ của làng quê với những vần thơ gần gũi,
chân quê mà vô cùng đằm thắm sâu sắc. Trong khoảng thời gian đó ông sống gần
gũi với dân làng, hiểu biết những lo toan và tâm tình của họ. Chính sự hòa mình vào
cuộc sống hồn nhiên nơi thôn dã đã giúp cho nhà thơ phần nào giải tỏa được tâm
trạng luôn day dứt, đau khổ và mặc cảm của mình. Đây chính là khoảng thời gian
nhà thơ có những trước tác đặc sắc để lại cho đời.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Khuyến trước hết là một nhà Nho – một nhà Nho chính thống. Trong
suốt gần ba mươi năm lăn lộn ở “cửa Khổng, sân Trình”. Tư tưởng Nho giáo đã
thấm sâu vào con người Nguyễn Khuyến nhưng tên tuổi Nguyễn Khuyến đi cùng
năm tháng lại là Nguyễn Khuyến với tư cách của một nhà thơ.
Ông làm thơ từ khá sớm và làm bằng nhiều thể tài. Những năm sống ở quê
nhà Nguyễn Khuyến sống chan hòa gắn bó với cảnh sắc thôn quê và chính mảnh đất
quê hương ấy đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ sáng tác nên hơn 800 tác phẩm
gồm thơ, văn, câu đối, hát nói… viết bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng thành công
nhất là ở thể loại thơ Nôm. Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra chữ Nôm
hoặc viết bằng chữ Nôm rồi dịch ra chữ Hán, cả hai đều rất điêu luyện. Thơ Nguyễn
Khuyến tiêu biểu cho tâm hồn người Việt và mang phong vị cốt cách Á Đông.
Những tuyển tập tác phẩm của Nguyễn Khuyến có quy mô lớn phải kể đến “Thơ
văn Nguyễn Khuyến” (NXB Văn học, Hà Nội 1971), “Nguyễn Khuyến tác phẩm”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
(NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1984), “Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình”
(NXB Văn học, Hà Nội 2007)...
Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến được cắm mốc lớn khi ông cáo quan
về ở ẩn. Thời kì từ quan về ở ẩn là thời kì sáng tác chủ yếu của nhà thơ. Tác phẩm
của Nguyễn Khuyến chủ yếu được xoay quanh ba nội dung lớn: Bộc bạch tâm sự của
mình; viết về con người cảnh vật và cuộc sống ở quê hương – vùng đồng bằng chiêm
trũng ở Bắc Bộ; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỉ, cơ hội thời bấy giờ.
Thơ văn Nguyễn Khuyến để lại giá trị nhiều mặt cho nền văn học Việt Nam. Qua
những tác phẩm của mình, Nguyễn Khuyến đã cho thấy tâm sự yêu nước thiết tha, tình
yêu con người, cảnh vật thiên nhiên và phong tục tập quán vùng đồng bằng chiêm trũng
Bắc Bộ. Bên cạnh đó những tác phẩm của ông còn thể hiện sự thâm thúy sâu cay của
một nhà thơ luôn dùng tiếng cười để đả kích, chế giễu, phản kháng đối với bọn thống trị
thực dân Pháp, bọn quan lại và những người xấu xa trong xã hội. Nguyễn Khuyến không
chỉ là một nhà thơ trữ tình mà ông còn là một nhà thơ trào phúng, tiếng nói trữ tình và
trào phúng trong thơ ông hòa quyện với nhau đã tạo nên một phong cách độc đáo trong
thơ ca trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Toàn bộ sáng tác của mình, những vần thơ Nguyễn Khuyến viết về nông thôn
là đặc sắc hơn cả và những vần thơ ấy đã làm nên cái riêng của thơ ông. Trong
mảng thơ ca viết về nông thôn, Nguyễn Khuyến có những vần thơ viết cuộc sống
một cách chân thật mà sâu sắc. Đặc biệt là những dòng thơ ông viết cho riêng mình,
viết về đời sống cá nhân và những mối quan hệ tình cảm riêng tư của mình. Đó là
những dòng thơ thể hiện rõ nhất con người sâu sắc của Tam Nguyên Yên Đổ. Chủ
đề đời tư xuất hiện là một nhu cầu tất yếu của đời sống, của tình cảm và trở thành
một hiện tượng nghệ thuật đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến.
1.3.3. Mảng thơ viết về chủ đề đời tư trong trước tác của Nguyễn Khuyến
Như trên đã nói, ở chủ đề đời tư, vấn đề chủ yếu, vấn đề trung tâm mà nhà văn
nêu lên, đặt ra trong tác phẩm là các vấn đề đời tư của chính bản thân tác giả, thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
hiện trên hai phương diện cơ bản sau là Con người và cuộc sống riêng và Các mối
quan hệ riêng tư của chính tác giả. Với cách hiểu ấy, chúng tôi đã khảo sát và thống
kê được một số lượng khá lớn những bài thơ viết về chủ đề đời tư trong cuốn
Nguyễn Khuyến tác phẩm. Cụ thể như sau: có 102 trên tổng số 353, chiếm 35,2 %.
Trong đó, có 62 bài thơ viết bằng chữ Hán (xem Phụ lục 1) và 40 bài thơ viết bằng
chữ Nôm (xem phụ lục 2). Điều quan trọng là, hai mảng thơ viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm này đã bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo nên một diện mạo phong phú, sinh
động và thú vị về cụ Tam Nguyên rất cụ thể, chi tiết: từ hình thức bên ngoài, đời
sống nội tâm đến các mối quan hệ cá nhân.
* Tiểu kết
Toàn bộ sự phân tích ở trên, chúng ta nhận thấy: đã có sự xuất hiện và phát
triển của chủ đề đời tư trong văn học Việt Nam thời trung đại. Sự phát triển này diễn
tiến theo quá trình phát triển của lịch sử tâm hồn dân tộc và quá trình phát triển của
văn học. Sự xuất hiện của ý thức cá nhân con người là điều kiện để xuất hiện chủ đề
đời tư. Khi ý thức cá nhân phát triển ở một mức độ nào đó con người trở thành
những cái “tôi” cá thể riêng biệt tồn tại trong sự đối lập với xã hội, với cộng đồng
thì vấn đề đời tư sẽ trở thành vấn đề lớn, vấn đề trung tâm, thành chủ đề trong các
sáng tác.
Qua thống kê, khảo sát những bài thơ viết về chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn
Khuyến, chúng tôi nhận thấy: mảng thơ viết về chủ đề đời tư trong trước tác của
Nguyễn Khuyến có số lượng lớn, phong phú, hứa hẹn nhiều đóng góp. Mảng thơ
này sẽ góp phần khẳng định Nguyễn Khuyến là người rất gần gũi với đời thường, là
nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam. Quan trọng hơn, chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Khuyến đã đánh một dấu mốc trên tiến trình phát triển của văn học trung
đại nói riêng, văn học Việt Nam nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
Chương 2
CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA BỨC CHÂN DUNG TỰ HỌA
Như ở phần mở đầu đã nêu rõ, thơ Nguyễn Khuyến có sự xuất hiện rõ nét
của chủ đề đời tư. Nó được ý thức qua phạm trù tâm sự mang tính chất trữ tình. Đó
là kết quả của quá trình tác giả tự ý thức, tự đánh giá, tự miêu tả - mà các nhà
nghiên cứu gọi chung là “tự họa”. Đưa chính mình vào thơ văn, và như vậy đã có sự
thống nhất giữa cái tôi trữ tình trong sáng tác và cuộc đời nhà thơ. Đi nghiên cứu
bức chân dung mà Nguyễn Khuyến tự họa trong văn thơ chúng ta thấy hiện ra một
con người cá nhân cá thể sinh động và đầy đủ. Nhà thơ đã đem chính cái “ tôi ” của
mình để thuật tả trong văn chương, biến mình thành một đề tài để họa, để than, để
giễu cợt... Con người với dáng vẻ, tâm hồn tính cách,...là nét chân dung mà Nguyễn
Khuyến tự vẽ cho mình.
2.1. Về hình thức
Nguyễn Khuyến tự nhận mình là một ông già khắc khổ: “mặt sạm”, “mặt gầy
võ”, gầy võ đến cả dáng hình: “hình gầy võ”, “phờ phạc”, gợi nỗi buồn thương:
“hình ngây ngô mà bóng cũng ngây ngô”.
Mặt sạm, râu đốm bạc, mắt lại đỏ hoe.
(Tự than)
Da mồi, tóc bạc, ta già nhỉ.
(Ta lại người cho hoa trà)
Năm mươi mốt tuổi tôi hay,
Xem chừng tóc bạc, răng long mắt lòa.
(Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi)
Trong bài Than già, ông còn miêu tả rất kỹ, cận cảnh về bản thân, từ mái tóc, hàm
răng, đến đôi mắt:
Mái tóc chòm xanh, chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Và đặc biệt là tư thế Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say đầy ấn tượng. Trong bài “Tự
trào” Nguyễn Khuyến đã mô tả mình như sau:
Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng
Các từ láy "làng nhàng", "nhập nhèm", "khấp khểnh" đã phác họa bức chân
dung ông già Nguyễn Khuyến với những đường nét thật hài hước. Dường như, mỗi
khi ngắm lại mình, ông thường dâng trào nhiều cảm xúc. Không chỉ là lời than mà
còn là tiếng cười đầy ngụ ý:
Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
...................................................
Mỗi năm một tuổi trời cho tớ
Tuổi tớ trời cho tớ lại càng...
(Lên lão)
Vẫn cách nói hóm hỉnh pha chút cao ngạo "tuổi trời cho tớ", "tuổi tớ trời cho"
rồi cách xưng hô "tớ" cho thấy thái độ ung dung, vui vẻ của Nguyễn Khuyến.
Dường như trên khuôn mặt ông không toát lên chút gì ưu tư mà tràn trề sinh khí.
"Tớ lại càng..." “càng” ở đây là càng dẻo dai, sức người dẻo dai và sức viết cũng
dẻo dai, xuất phát từ câu tục ngữ “càng già càng dẻo càng dai”.
Cũng có lúc Nguyễn Khuyến đem cái gàn dở của mình ra để mua vui cho thiên
hạ và cũng là để kín đáo bộc lộ tâm sự của bản thân. Hiện lên trong thơ tự trào là
hình ảnh một ông say:
Khi vui chén rượu say không biết
Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa
(Cáo quan về ở nhà)
Một "anh giả điếc": Khéo ngơ ngơ, ngác ngác ngỡ là ngây
... Hỏi anh, anh cứ ậm ờ.
(Anh giả điếc)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
Đó là một con người gàn dở, lập dị, khờ khạo:
Đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
(Mẹ Mốc)
Tác giả tự cười cái già nua, gàn dở, vô dụng của bản thân. Dường như, đằng
sau đó là nỗi lòng xót xa, cay đắng của nhà thơ. Trên thực tế, Nguyễn Khuyến là
người rất thông minh và tỉnh táo. Biết ông mắt kém, có kẻ xỏ lá đã tặng ông một
chậu hoa trà – một loài hoa hữu sắc vô hương, ông đã “hậu tạ” bằng bài Tạ lại
người cho hoa trà với lời lẽ sâu cay, thấm thía:
Tết đến người cho một chậu trà,
Đương say ta chẳng biết rằng hoa.
Da mồi, tóc bạc, ta già nhỉ?
Áo tía đai vàng, bác đấy a!
Mưa nhỏ, những kinh phường xỏ lá!
Gió to, luống sợ nó rơi già.
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
Đếch thấy mùi thơm một tiếng khà!
(Tạ lại người cho hoa trà)
Tóm lại, tự hoạ dung nhan của mình từ diện mạo: chẳng gầy, chẳng béo...,
đến hình dáng lụ khụ, khấp khểnh..., hay các chi tiết đặc tả như mặt sạm, tóc bạc, râu
đốm bạc, răng long, mắt lòa, da mồi ... là cách Nguyễn Khuyến hí họa mình trong văn
chương. Khi thì ông vẽ mình hóm hỉnh hài hước, lúc lại bằng giọng điệu chân thực và
nghiêm trang. Về cơ bản, bức chân dung cụ Tam Nguyên tự hoạ thường được nội tâm
hoá, cố ý vẽ mình bằng những đặc điểm không hề đẹp đẽ, trong mô tả đã mấp mé
muốn bộc lộ nỗi niềm “mắt lại đỏ hoe”.
2.2. Tâm hồn tính cách
Những nét vẽ về hình dáng chỉ là một khía cạnh là hình thức bên ngoài, con
người thực của Nguyễn Khuyến là chính con người bên trong kín đáo, con người
mang một bầu tâm sự không thể giãi bày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
2.2.1. Con người hiếu học
Năm 1952, Nguyễn Khuyến lấy vợ, và đi thi hương lần thứ nhất cùng với
cha, song không đỗ. Ngay năm sau, địa phương có dịch thương hàn, cha và em ruột,
bố mẹ vợ đều qua đời. Gia đình Nguyễn Khuyến lâm vào cảnh tiêu điều xơ xác, đời
sống càng ngày càng đói rét.
Từ năm 1854, Nguyễn Khuyến nối lại nghề cha đi bảo học để lấy lương ăn.
Ba khoa thi hương tiếp theo 1855, 1858, 1861, ông đều bị trượt. Ông không dấu nổi
ngậm ngùi, cay đắng trước thực tế này:
Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôi,
Tuổi đã ba mươi kém một thôi...
... Bốn khoa hương thí không đâu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.
( Giễu mình chưa đỗ)
Tuy nợ: Lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi.
(Than nợ)
và nghèo đến độ Danh giá nhường này không nhẽ bán.
(Than nghèo)
chàng sĩ tử quyết tâm vượt khó, quyết tâm mang bảng vàng về sau khi “lều chõng”.
Quyết chí phen này trang trải sạch,
Cho đời rõ mặt cái thằng tao.
(Than nợ)
Khoa thi năm 1864 ông mới đỗ cử nhân đầu trường Hà Nội. Tiếp theo, ông
giải Thắng thi hội các khoa 1865, 1868 đều bị trượt. Ông ở lại Huế, vào học Quốc
Tử Giám, ân khoa năm 1869 lại trượt.
Tuổi trẻ không nản chí, lý tưởng, mơ mộng mở ra niềm hy vọng tươi sáng cho
người con Yên Đổ:
Gặp hội rồng mây cao chót vót
Đã lên, lên bổng tít bao chừng
(Cá chép vượt đăng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
Cho đến năm 1871, ông mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình, khi đã 37 tuổi.
Nguyễn Khuyến phải lận đận gần ba mươi năm đèn sách, với chín khóa lều chõng.
Trong hoàn cảnh Nguyễn Khuyến, đó là một cố gắng phi thường.
Như vậy, xuyên suốt hành trình cuộc đời mình, từ đi thi đến thi hỏng, nợ
nần nghèo đói, tuổi già, muốn vượt lên trên hoàn cảnh, Nguyễn Khuyến nhiều lần
động viên mình. Dẫu nghèo khó, tư thế một nhà quan, một nhà nho, ông đã có lúc
đầy khí thế:
Vốn lăm chí xông pha trời thẳm,
Đâu phải là điều én, sẻ hay.
(Vân ngoại bằng đoàn)
Ở bài “Hý thủy thanh danh” viết bằng chữ Hán, ta thấy ở ông một cái tôi
“rạo rực những ước mơ”. Dưới đây là hai câu thơ dịch:
Những ước được thời, cơn gió cả
Chút vui thôi cũng vượt muôn trùng
Rõ ràng, ngay ở thơ "tự trào" của Nguyễn Khuyến, người đọc tinh ý nhận ra một
cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình. Qua đó, hình
ảnh một con người hiếu học đã được khắc hoạ rõ nét.
2.2.2. Con người chua chát, sâu cay và cũng rất hài hước dân dã
Mang tâm sự:
Ơn vua chưa chút đền công
Cúi xuống hổ đất ngửa trông thẹn trời
và:
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng
hình ảnh Nguyễn Khuyến hiện lên trong thơ tưởng chừng như mâu thuẫn vừa chua
chát, sâu cay lại vừa hài hước, dân dã. Đó chính là tiếng lòng của một vị đại nho có
khao khát trị quốc, bình thiên hạ nhưng sinh bất phùng thời, luôn thấy mình lạc
lõng, bất lực và vô dụng trong mọi phương diện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
Mất nửa đời vật lộn chốn trường thi, khi đã đạt đến đỉnh cao rồi lại tự ngộ ra
một thực tế phũ phàng: dẫu “bia xanh, bảng vàng” chung quy cũng chỉ là vô dụng
cho nước nhà. Ông đã vô cùng chua chát cho sự nghiệp của mình:
Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
(Tự trào)
Đèn sách ích chi cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
(Ngày xuân dặn các con)
Không chỉ vô dụng, cộng thêm tuổi già sầm sập đến, ông thấy rõ tuổi già bất
lực nên thường băn khoăn suy nghĩ về nó. Trái với thói thường của kẻ giàu sang
thoả mãn ở đời, muốn được hưởng lâu tuổi trời, mỗi lần thêm tuổi thì vui mừng
chúc tụng, ông thấy cảnh già thật không có gì đáng làm vinh dự lắm:
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thì ông chống gậy ra.
(Lên lão)
“Ăn dưng” nghĩa là ăn không, nghĩa là gánh nặng cho con cháu. Lời thơ mộc
mạc, nhẹ nhàng nhưng chứa chan tâm sự. Nguyễn Khuyến đã dùng tiếng cười để
giễu cợt, phủ định mình một cách chua chát. Tiếng cười mang nặng tâm trạng ưu tư,
đó là nỗi đau đớn bất lực, hổ thẹn cho chút tài lực của bản thân không thể đem ra
phò vua giúp nước.
Đối với những hiện tượng xấu trong xã hội, nhà thơ dùng tiếng cười đánh vào thói
lố lăng, rởm đời, những biểu hiện suy vi đạo đức trong buổi giao thời. Đó là đội ngũ
thầy đồ, sư sãi cho đến lũ đĩ điếm, me Tây hay nhưng trò rởm đời khác. Đó là hình
ảnh thầy đồ ve gái goá:
Người bảo rằng thầy yêu cháu đây
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
Bắc cầu câu cũ không hờ hững
Cầm kính tình xưa vẫn đắng cay
(Thầy đồ ve gái góa)
Từ câu ca dao giàu ý nghĩa đạo lí:
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy (Ca dao)
Tác giả chuyển thành chuyện hài hước, do đó tiếng cười không hề lộ liễu
trong khi vẫn có sự phê phán, giáo dục. Đằng sau tiếng cười còn chứa đựng sự cảm
thông của tác giả với tình cảnh éo le: “thầy yêu mẹ cháu”, vì nỗi “dạy cháu rồi mẹ
cháu ngây”.
Cũng tiếng cười đầy bao dung nhân hậu đó, Nguyễn Khuyến dùng để chế
giễu ông sư:
Đầu trọc lóc bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi.
Y a kinh một bộ,
Lóc cóc mõ ba hồi. (Vịnh sư)
Chân dung vị sư hiện lên thật nực cười, không còn vẻ hào quang, linh thiêng
vốn có. Tiếng cười được tạo nên từ cách sử dụng ngôn ngữ hài hước, dí dỏm: “trọc
lóc”, “nhảy tót”, “y a”, “lóc cóc”...tiếng cười đầy xót thương, cảm thông.
Ngoài ra, với bọn thực dân Pháp - kẻ thù chính và lớn nhất của dân tộc, Nguyễn
Khuyến đã châm biếm, đả kích sâu cay khiến chúng hiện lên trong thơ thật thảm hại:
Ba vuông phất phới cờ bay dọc,
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
(Lấy Tây)
Khi dùng hình ảnh lá quốc kì ba sắc, một biểu tượng cho linh hồn nước Pháp đặt
bên cạnh chiếc váy của người đàn bà, Nguyễn Khuyến đã cho ta thấy sự thảm hại, thấp
hèn của bọn chúng. Sự đối lập tương phản gay gắt giữa hai sự vật ở đây có tác dụng nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
thuật độc đáo trong việc chế giễu, mỉa mai của tác giả. Cái giá trị tinh thần cao cả của
thực dân Pháp đã bị hạ thấp trong con mắt của nhà thơ nó còn thảm hại hơn chiếc váy
của người đàn bà.
Cũng với giọng điệu ấy, trong bài “Hội Tây” Nguyễn Khuyến đã vạch ra sự vô
nghĩa của trò hề kỉ niệm cách mạng tư sản Pháp thắng lợi do chúng bày ra. Chua
chát trước những trò chơi đê tiện, lố lăng xúc phạm đến danh dự của dân tộc:
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Tác giả đã phải thốt lên:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu. (Hội Tây)
Lối nói ngược có ý nghĩa quan trọng giúp tác giả kín đáo thể hiện thái độ của
mình. Lời “khen” chứa đựng thái độ mỉa mai. “Khen” thực chất là chế giễu, phê
phán những trò lố lăng, kệch cỡm của bè lũ xâm lược.
Nguyễn Khuyến xem bọn vua quan phong kiến chỉ là những thằng hề tiêu
khiển. Tiếng cười hài hước, chế giễu được thể hiện gián tiếp qua lời vợ anh phường
chèo. Chúng cũng là những vai hề trên sân khấu, cũng hò, cũng hét, cũng làm “quan
to” uy nghi đường vệ nhưng thực chất chỉ là lũ vô tích sự, không làm nên trò trống
gì. Dưới cái bóng bao trùm của chủ nghĩa thực dân, từ vua đến quan chỉ như những
tên hề, bù nhìn mua vui cho thiên hạ:
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.
(Lời vợ anh phường chèo)
Tiếng cười có ý nghĩa sâu sắc, qua đó Nguyễn Khuyến phủ nhận hoàn toàn vai
trò lịch sử của giai cấp phong kiến Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
Trong khi nước nhà lâm nguy chúng không hề ngó ngàng đến việc quốc gia đại sự mà
trái lại còn tỏ ra trơ tráo. Tất cả bọn người ấy ông gọi là “phỗng đá”, nghĩa là hạng
người không còn nghĩ gì đến tổ quốc cứ trơ trơ trước sự nguyền rủa của người đời:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
Ông đứng làm chi đó hỡi ông,
Trơ trơ như đá vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không.
(Ông phỗng đá)
Ở đây, Nguyễn Khuyến thật tài tình khi từ một cá thể đáng cười nâng lên bóc
trần thành một tổng thể đáng cười đó là cả triều đình phong kiến bù nhìn.
Nguyễn Khuyến không chỉ chế giễu sự bất tài, vô dụng của vua quan phong kiến,
ông còn dành tiếng cười chế giễu đến bọn quan tham vô lại, bán nước hại dân. Tác giả đã
gửi gắm tiếng cười mỉa mai và trình độ non yếu của tên Đốc học Hà Nam:
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
(Mừng Đốc học Hà Nam)
Cái hài hước được bộc lộ qua dáng vẻ già nua và hình thức giả tạo trong chân
dung tên Đốc học. Thế nhưng nhờ dựa dẫm vào quan Tây, cậy có cái “bảng vàng
treo nhị giáp” hữu danh vô thực đó, hắn ra sức đục khoét bạn bè cốt là để “túi mình
cho nặng chặt”, quên đi nỗi nhục, nỗi hổ thẹn mất nước hắn can tâm làm tay sai cho
giặc để hưởng vinh hoa phú quý. Qua lời hỏi thăm tưởng như thân tình, Nguyễn
Khuyến đã kín đáo sự vô liêm sỉ đó:
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.
(Mừng Đốc học Hà Nam)
Những tên quan vô lại trong xã hội thực dân đó làm giàu ngay trên mồ hôi, nước
mắt của nhân dân lao động và dựa vào thói luồn cúi các quan Tây. Nguyễn Khuyến đã
thấy rõ sự thật ấy trong bài thơ “Hỏi thăm quan tuần mất cướp”:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ,
Thân già da cóc có đau không?
Bây giờ mới khẽ xầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa,
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông.
Cả bài thơ có vẻ là một lời hỏi thăm, một sự quan tâm. Nhưng cách dùng từ và
đặt câu hỏi không đúng chỗ, cách nói toạc những điều lẽ ra theo phép lịch sự không
nên nói chính là dụng ý của nhà thơ để nhằm đả kích. Đặc biệt việc sử dụng thành
ngữ dân gian “thân già da cóc” với trợ từ “nhỉ” đặt cuối câu làm nổi bật lên tiếng
cười chế giễu. Sự đối lập giữa bộ dạng hiện tại “sầy da trán” với vẻ sang trọng, về
hình thức trước đó càng tạo nên tính khôi hài đáng cười ở tên quan tuần. Dưới lời
thăm hỏi có vẻ như rất chân tình, Nguyễn Khuyến đã phê phán thói “ki cóp” của tên
quan tuần.
Bên cạnh đó, Nguyễn Khuyến còn dành tiếng cười cho chế độ thi cử. Thi cử
đã trở thành một tệ nạn và những ông nghè, ông cống thời nay đâu phải là những
nhân tài thực sự. Cho nên Nguyễn Khuyến đã đem cái danh vị hão của trí thức Hán
học cũ ra hài hước.
Cũng cờ cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh thế mới hời.
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi.
(Tiến sĩ giấy)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
Tác giả đã lột tả sự hài hước bằng một vài nét tiêu biểu. Để làm được một hình
Nộm ông tiến sĩ giấy không khó, chỉ cần một mảnh giấy và ít màu mè tô điểm cho
ông. Tác giả sử dụng hàng loạt các từ liên quan đến khoa bảng như: thân giáp bảng,
văn khôi, tấm thân xiêm áo, khoa danh nhưng lại kết hợp với những từ mang tính
mỉa mai. “Mảnh giấy” ở đây là những mảnh giấy tầm thường, vô giá trị nhưng lại
làm nên được hẳn bảng vàng để xứng danh Tiến sĩ. Nó nói lên được sự vô giá trị
của đạo học, không cần học hành, không cần dùi mài kinh sử cũng đỗ được Tiến sĩ.
Rồi cũng xiêm áo, khoa danh nhưng bị người đời khinh thường, rẻ rúng, làm trò tiêu
khiển. Trong con mắt của tác giả, những ông nghè đang oai phong, đường vệ ngồi
trên cao kia chỉ là thứ “đồ chơi” rỗng tếch và vô dụng. Tiếng cười hài hước cất lên
song cũng chứa đựng sự xót xa cay đắng.
Trong con mắt Nguyễn Khuyến, giá trị ân tứ vinh quy cao quý mà chúng đạt
được hết sức tầm thường, rẻ rúng:
Anh mừng cho chú đỗ ông nghè,
Không đỗ thì trời cũng chẳng nghe.
Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng,
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.
... Hiển quý đến nay đà mới rõ,
Rõ từ những lúc tổng chưa đe.
(Mừng ông nghè mới đỗ)
Nguyễn Khuyến dùng cách xưng hô “anh”, “chú” nghe thật dí dỏm nhưng vẫn
đậm chất trào lộng. “Không đỗ... trời không nghe” bởi vì chú không đỗ thì còn ai
đỗ. Ở đây người đọc thừa hiểu ông nghè này đỗ vì giỏi hay vì cái khác. “Ân tứ” là
ơn vua ban, “vinh quy” là trở về. Câu thứ thơ ba Nguyễn Khuyến nói ơn vua không
dám coi rẻ rúng nhưng câu thơ dưới lại đả kích đám rước vinh quy. Từ “tùng xòe”
là âm thanh kết hợp của chiêng, trống, nó gợi lên sự náo nhiệt nhưng có gì đó kệch
cỡm, lố lăng như trò trẻ con hay chơi. Ẩn sau lời chúc là thái độ châm biếm kín đáo,
“mừng” thực ra là giễu, là chế nhạo. Trong con mắt tác giả, tất cả ân tứ vinh quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
bỗng chốc không còn giá trị bởi hai tiếng “tùng xòe” thật hài hước. Đặc biệt,
Nguyễn Khuyến còn vận dụng sáng tạo câu tục ngữ “chưa đỗ ông nghè đã đe hàng
tổng” để kết thúc bài thơ khiến cho tiếng cười còn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
2.2.3. Con người luôn dằn vặt day dứt khôn nguôi
Những nét vẽ về hình dáng, tính cách chỉ là một khía cạnh là hình thức bên
ngoài, con người thực của Nguyễn Khuyến là chính con người mang một bầu tâm
sự không thể giãi bày. Đó là niềm ưu thời mẫn thế, là lòng yêu nước thương dân,
lòng căm thù giặc xâm lược, muốn chống lại thực dân... nhưng rốt cuộc chẳng làm
được gì. Nhà thơ luôn dằn vặt day dứt: dằn vặt mâu thuẫn trong bản thân; về hay
ở?; say; cuối cùng cho mình là người vô tích sự.
Nguyễn Khuyến dằn vặt day dứt ở những mâu thuẫn ngay trong chính bản
thân mình - từ việc nhỏ nhặt như nhận hay không nhận miếng thịt đến sự day dứt
không làm tròn trách nhiệm của một đấng nam nhi thời loạn.
“Nhân tặng nhục” được viết nhân dịp, có người đi ăn cỗ đám ma về, đưa biếu
ông miếng thịt. Gặp hồi đói kém, người cho thịt lại có ý rất ân cần, nên ông không
phải là không thích:
Tử ý nhất hà ân,
Dư tâm nguyên bất dục. (Nhân tặng nhục)
Dịch: Ơn người có ý ân cần,
Lòng ta đâu có ngại ngần mảy may. (Có người cho thịt)
Nhưng vừa thích lại chợt nghĩ đến mình trong tư cách người nhận, ông thấy xấu
hổ vì rõ ràng mình đã bị liệt vào một loại người thấp hèn. Ông cố sức đem bao
nhiêu điển cố ra để thanh minh... nhưng cuối cùng vẫn phải nhìn thẳng vào tình
cảnh hiện của mình, và sự ươn hèn của con người mình:
Ta dư bệnh nhi bần,
Phong trần thái lục đục.
Dịch: Thương ta đau ốm, nghèo nàn,
Phong trần lại quá ươn hèn hơn ai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
Trong lúc cảm thán nhất, ông hiểu ra tất cả cái thế “lưỡng đao” của mình: nhận
hay không nhận chỉ là danh giới giả tạo chia cắt hai nỗi đau có thực, luôn luôn bám
riết lấy cuộc đời ở ẩn của ông, mà ông không có cách gì cùng một lúc chối bỏ cả
hai: một bên là cái nhục vì lụy người, và một bên là cái nghèo. Miếng thịt ở đây đã
trở thành một biểu tượng đa nghĩa, chứa đầy mâu thuẫn giữa phần con và phần
người, bản năng và xã hội:
Bất thực linh nhân cơ,
Thực chi linh nhân nhục.
Bất thực linh nhân bì,
Thực chi linh nhân tục.
Dịch: Không ăn, cái bụng đói meo,
Ăn vào, cái nhục mang theo bên người.
Không ăn, mình phải còm còi,
Ăn vào, mang tiếng con người bê tha.
Tiếp nữa, niềm day dứt đối với cụ Tam Nguyên là sự bất lực trước những biến
đổi của thời cuộc. Ông cô đơn, trống trải khi mình đang bị chính thực tại mà mình
đã dày công vun đắp, đã bỏ bao nhiêu trí lực để mà cải tạo nó giờ đây nó lại bỏ rơi
và loại dần ông. Thay vào đó là bao nhiêu cảnh tượng buồn đau hiện ra trước mắt,
người thì bán nước chạy theo giặc, người thì không hiểu được những thủ đoạn của
bọn đế quốc nên vô hình chung trở thành những con rối trong tay chúng. Bạn bè thì
thưa dần, mưu của người cũng đã cùng, còn cơ trời thì không biết ra sao. Cuộc sống
hiện tại đã chôn vùi tất cả những gì là đẹp đẽ, tinh túy của cuộc đời. Cho nên con
người như Nguyễn Khuyến không biết đi đâu về đâu trước bao nhiêu vận hội mới
của hiện tại:
Mãn mục đa tân thức,
Thương Tâm cố cựu hy.
Nhân cùng thiên vị định?
Đạo táng, ngã an quy?
(Ký Châu Giang Bùi Ân Niên)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
Dịch nghĩa:
Bao nhiêu thể thức mới hiện ra đầy trước mắt,
Đau lòng về nỗi những người bạn cũ thưa dần.
Mưu của người đã cùng rồi, mà cơ trời vẫn chưa biết ra sao?
Đạo học mất rồi ta biết đi về hướng nào?
(Gửi ông Bùi Ân Niên ở Châu Giang)
Tất cả những nề nếp của xã hội, những tư tưởng của đạo nho giờ đã tan biến.
Thay vào đó là một lối sống mới, một cách nhìn nhận mới nên một vị nho học như
Nguyễn Khuyến không còn “đất để dụng võ” nữa. Bởi vậy Nguyễn Khuyến đã chán
cảnh làm quan, ông coi hơn mười năm làm quan ở chốn quan trường là một việc
làm đầy “lặn lội” vất vả. Ông tự thấy cảm thương mình nửa đời chịu nhiều lênh
đênh trong cõi phù thế.
Con người luôn dằn vặt day dứt ở Nguyễn Khuyến còn thể hiện ở việc về hay
ở ?. Đối với một nhà nho đã từng theo đuổi học hành ra làm quan để thực hiện hoài
bão, lí tưởng của mình như Nguyễn Khuyến thì việc cáo quan về nhà không phải là
chuyện dễ dàng. Hành động “dứt áo từ quan” của ông không có được cái thanh thản
như các bậc hiền nhân khi xưa. Ông luôn sống trong mâu thuẫn, giằng xé nội tâm
mạnh mẽ giữa quyết định “về hay ở”. Có lúc những âm thanh quen thuộc gợi tình
quê da diết:
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà rừng gáy sáng tẻ tè te.
... Lại còn giục giã về hay ở,
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe.
(Về hay ở)
Tiếng chim quyên đã gọi hè hay tiếng gà gáy buổi sớm đã làm động lòng
người xa quê. Âm thanh như giục giã, mời gọi nhà thơ trở về chốn thanh bình yên ả
khi xưa. Nhưng, hơn ai hết, ông thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm với nước, với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
dân “Ơn vua chưa chút đền công. Cúi xuống hổ đất, ngửa trông thẹn trời”. Thêm
nữa, ông thường đắn đo ngẫm trước, nghĩ sau:
Bỏ nước há không bạn bè ở lại,
Về nhà chưa chắc con cháu đã khen hay.
(Cảm tác)
Đặt mình trong các mối quan hệ cơ bản, Nguyễn Khuyến lại càng day dứt, xót
xa trước quyết định “về hay ở”. Với nước, ông thấy mình là kẻ đớn hèn, bỏ cuộc;
với bạn bè ông là kẻ lạc loài, tự đi một lối riêng; với con cháu, ông chẳng ra gì vì
phụ lòng tin yêu của chúng bởi quan niệm của người xưa “một người làm quan cả
họ được nhờ”, ông đã mất 37 năm đèn sách giờ lại tháo lui, sống cuộc đời thiếu
thốn, đầy bi kịch tinh thần.
Trở về “vườn Bùi chốn cũ” Nguyễn Khuyến lúc nào cũng dằn vặt day dứt về sự
lựa chọn của mình. Nhà thơ khẳng định ông cũng như “Bành Trạch”, “Ôn Công” khi
xưa treo ấn từ quan lui về ở ẩn, tìm đến thơ văn, đàn hát hay uống rượu để tiêu sầu
cũng là do thời thế mà thôi. Nhưng đây chỉ là cái cớ để nhà thơ tự động viên an ủi mình
“sao chẳng về đi”, còn thực chất trong lòng nhà thơ luôn có sự trăn trở, giày vò.
Có thể nói, suốt một phần tư thế kỉ về quê, không một lúc nào Nguyễn
Khuyến xa rời vận mệnh đất nước. Xuân qua, hạ đến, nỗi buồn vì đất nước cứ dâng
lên, lòng nhà thơ dường như héo hon, thổn thức vì vận hội giang sơn. Nghe một
tiếng hát giữa đêm khuya nhà thơ cũng buồn tê tái :
Một khúc đêm khuya tiếng giã chày,
Nửa chen mặt nước, nửa tầng mây.
Mình nghĩ vườn cũ vừa lui bước,
Ngán kẻ phương trời chẳng dứt day.
(Nghe hát đêm khuya)
Đã lui bước trở về “vườn cũ”, nhà thơ vẫn không nguôi lo lắng cho những
người khác vẫn ở lại không dứt được chốn danh lợi phú quý. Nhà thơ còn tự động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
viên mình không nên hối tiếc quá khứ, yên phận với con đường mà mình lựa chọn
mặc dù ông biết rằng thân phận ở ẩn giống như “trồng lan trong ngõ tối”, cô đơn,
không có người tri ngộ
Bẻ liễu thành đài thôi cũng xếp,
Trồng lan ngõ tối ngát nào hay.
(Nghe hát đêm khuya)
Nguyễn Khuyến trở về với nông thôn nhưng tấm lòng của ông không hề nguội
lạnh đối với việc nước. Cho đến lúc chết, tâm hồn ông cũng không mấy khi thanh
thản. Suốt một phần ba cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến đã sống trong một thứ âm
thanh tuy ảo não nhưng luôn vấn vít bên tai ông: tiếng cuốc kêu tượng trưng cho
lòng nhớ nước:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
(Cuốc kêu cảm hứng)
Khi xưa các nhà thơ thường mượn tiếng cuốc để bộc bạch nỗi niềm tâm sự
nhớ nước thầm kín của mình. Bà Huyện Thanh Quan đã từng mượn tiếng cuốc kêu
để biểu lộ tâm trạng hoài cổ và một nỗi buồn thoáng qua. Trong thơ Nguyễn
Khuyến, ta bắt gặp tiếng cuốc kêu réo rắt và bi thương hơn nhiều. Mượn hình ảnh
tiếng cuốc kêu hè nhà thơ cực tả nỗi đau rỉ máu, nỗi buồn đến thấu nát ruột gan
trước cảnh điêu linh của nước nhà. Nỗi đau đó khắc khoải, triền miên thường trực từ
“đêm năm canh” cho đến “ngày sáu khắc”. Hơn thế, nỗi đau đó như được nhân lên
gấp bội bởi đó là nỗi đau cô đơn, niềm tâm sự không biết bày tỏ cùng ai. Tâm trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
đau đớn, nhớ tiếc bắt nguồn từ tình cảm tha thiết của nhà thơ với vận mệnh đất
nước. Tuy cáo quan về ở ẩn nhưng thẳm trong sâu kín tâm hồn Nguyễn Khuyến vẫn
trăn trở lo âu cho nước, cho dân. Thế nhưng non nước thôi thúc, giục giã người ra đi
cứu nước mà bản thân ông tự cảm thấy bất lực nên trăm chiều bối rối ruột tằm, dạ
ngẩn ngơ.
Cuối cùng Nguyễn Khuyến cũng như bao nhà thơ tiền bối của ta cũng như của
đời Đường (Trung Quốc) là tìm vào rượu, tìm vào những cơn say để lánh đời.
Nguyễn Khuyến mong muốn uống một chập hàng trăm chén rượu, nhận mình là
một túy ông. Đây là một phương sách của nhiều nhà thơ cổ. Thi tiên Lý Bạch của
thơ Đường Trung Quốc cũng đã tràn ngập trong bao cơn say. Nguyễn Khuyến dùng
rượu như một phương tiện “áp muộn, bài ưu” (dẹp lo, nén buồn) để trút đi những ưu
tư, phiền muộn. Nguyễn Đình Chú từng nhận xét: “Kể cũng lạ, Nguyễn Khuyến là
người nghiêm túc, mực thước nhưng chính Nguyễn Khuyến lại say nhiều, có lẽ say nhiều
nhất trong thơ” [ 9, tr. 221].
Túy ông ý chẳng say vì rượu,
Say vì nước thẳm với non cao.
................................................
Có người say rượu tiếng còn nay,
Cho nên say, say khướt cả ngày.
Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng
.......................................................
Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng say,
Xin người gắng cạn chén này.
(Uống rượu ở vườn Bùi)
Trong bài thơ ngắn chỉ có mười ba câu nhưng Nguyễn Khuyến sử dụng đến
tám từ “say”. Đây là khoảng thời gian Nguyễn Khuyến trở về nhà sau mười năm gió bụi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
Ta có thể nhận ra ông đang ngập tràn trong sự bế tắc. Nguyễn Khuyến, một con người đầy
hoài bão, một người dành cả đời mình cho văn chương cử tử nhưng rốt cuộc tay trắng vẫn
hoàn tay trắng. Trong ông không tránh khỏi những phút giây bão tố. Đất nước trầm luân,
những người tài giỏi, cương nghị như Nguyễn Khuyến nay trở thành bọt bèo trong cuộc
đời. Ông mượn rượu để giải sầu. Nguyễn Khuyến không say vì rượu mà say vì “nước
thẳm với non cao”. Cũng như các nhà nho xưa Nguyễn Khuyến tìm đến rượu để bầu bạn
để quên đi sự đời. Nhưng rút cuộc rượu cũng không thể giúp nhà thơ quên đi nỗi đau thực
tại, quên đi nỗi sầu mất nước:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Độ dăm ba chén đã say nhè.
(Uống rượu mùa thu)
Mượn việc uống rượu, Nguyễn Khuyến đã miêu tả thiên nhiên và gửi gắm những tâm sự
của mình. Bài thơ vừa là bức tranh tả cảnh đặc trưng một buổi chiều mùa thu ở đồng bằng Bắc
Bộ đồng thời nó cũng là bức tranh tâm trạng của chính tác giả. Mùa thu gợi lên nỗi buồn, sự
mất mát, nhưng Nguyễn Khuyến lại uống rượu một mình vào buổi chiều thu, điều đó càng
làm tăng thêm sự cô liêu trống vắng. “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” có chắc đó là sắc đỏ do
rượu gây ra không?. Chắc là không bởi “năm ba chén đã say nhè” phải chăng đó là sự nén
nhịn, cố nuốt đi một thứ gì đó cay cực trong lòng. Cảm xúc cứ trào dâng nhưng thi nhân cố
gắng để giọt lệ không trào ra, cố gắng để dấu đi nỗi buồn đang dâng đến nghẹn lòng.
Vậy là trong thơ ông, hình ảnh một túy ông ngất ngưởng cứ hiện diện đây đó:
Bắc say độc chước đồi nhiên túy
Nhất dục xuyên hài thương thúy vi. (Xuân nhật III)
Dịch: Một mình ngồi uống rượu say ngả nghiêng bên cửa sổ
Những toan xỏ dép để vượt non xanh.
(Ngày xuân III)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
Và đây nữa, một túy ông uống rượu dưới bóng trăng và ngâm thơ:
Trầm ngâm tọa đối hàn đăng trước
Nhất cú liên miên hứng vị cùng.
(Trừ tịch I)
Dịch: Ngồi lặng lẽ dưới bóng đèn rót rượu nồng
Ngâm một câu thơ kéo dài hai năm liền hứng vẫn chưa cạn.
(Đêm cuối năm )
Cứ thế, uống rồi say, say lại uống, uống vào lại ngâm thơ:
Túy đảo phục ngâm, ngâm phục túy.
(Tự thuật I)
Dịch: Say khướt rồi lại ngâm thơ, ngâm chán rồi lại uống say.
(Tự thuật I)
Nếu không say thì Nguyễn Khuyến biết làm gì nữa đây. Ông đã già, mắt mờ chân
yếu, đi đâu cũng kẻ đỡ người dìu, công việc của Tam Nguyên này chỉ có say và ngủ.
Nhưng liệu say khướt, say miên man như vậy có làm cho con người Yên Đổ vơi đi nỗi sầu
được không? Không! Rượu cũng không làm cho nhà thơ quyên đi thế sự, một túy ông vẫn
trằn trọc, giày vò hiện lên.
Mặc quái bằng song liên nhật túy,
Ngã vi bất túy thục vi tinh. (Lão thái)
Dịch: Đừng trách bên song lúc nào cũng say sưa
Nếu ta mà không say thì tỉnh với ai đây. (Vẻ già)
Như ta đã biết, Nguyễn Trãi trở về ở ẩn sau khi non sông đã thu về một mối, vấn đề
trong ông nặng về thế thái nhân tình. Thơ ở ẩn Nguyễn Trãi vươn tới cái thanh cao, buồn
nhưng không bế tắc. Nguyễn Khuyến không có được cái thong rong cao cả ấy, ông phải
chia sẻ cuộc sống chìm đắm với nhân dân. Đã có lúc Nguyễn Khuyến buông xuôi, phó
mặc cho cuộc đời:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
Đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây. (Mẹ Mốc)
Thái độ yêu nước của ông cuối cùng chỉ có thể cứu vớt được nhân phẩm của
ông, còn thì:
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế thế thời thôi!
... Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mây trăng về đau nước chảy xuôi. (Hoài cổ)
Nỗi lòng tâm trạng đau đớn bất lực của Nguyễn Khuyến được ông đẩy lên cao độ,
ông coi mình là con người vô tích sự, con người đứng ngoài cuộc:
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy ra. (Lên lão)
“Ăn dưng” tức là ăn không. Nguyễn Khuyến quan niệm mình là người thừa
của xã hội, mình không giúp ích gì được cho đời và phải ăn nhờ vào xã hội. Bao
nhiêu năm đèn sách dùi mài kinh sử để rồi không giúp gì được cho nước cho dân.
Nếu không là người có lương tâm thì có lẽ Nguyễn Khuyến đã không bao giờ phải
chìm đắm trong những suy tư dằn vặt như vậy.
Nguyễn Khuyến là một nhà nho, con đường công danh là thi đỗ làm quan.
Nhưng từ khi cụ Tam Nguyên bước vào chính trường được hơn một năm thì thực tế
xã hội có nhiều thay đổi xáo trộn mạnh mẽ, thực dân Pháp tiến hành đánh Bắc Kì
lần thứ nhất. Chính cuộc tấn công ấy đã làm cho con đường làm quan của ông
không suôn sẻ. Ông thấu hiểu rõ nỗi nhục của kẻ sĩ nếu phải chịu thua kẻ thù, đặc
biệt là đối với ông, một "Tam Nguyên" ba lần đỗ đầu mà lại không có một phương
kế, không có khả năng để dẹp giặc cứu xã tắc, và Nguyễn Khuyến còn phải chịu
một điều day dứt có lẽ là lớn hơn, ấy là đang bị thực tế loại dần, vô hình ông trở
thành một con người đứng ngoài cuộc:
Thuật nghiệp vô tha lãn thả dung,
An nhiên nhất thất vũ hoàn trung.
Dĩ ưng bất khó thiên tâm hậu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
Hà hạnh vô thu thánh lượng hồng.
Tài tiểu nan phân đa lũy nhục,
Vị ty hề bổ tứ thời công?
(Nhàn vịnh I)
Dịch nghĩa:
Công nghiệp theo người xưa không có gì khác là lười và rỗi
Được yên ổn trong một ngôi nhà giữa cõi nhân gian
Đã không bỏ tấm lòng trung hậu trời phú cho,
May mắn sao lại không nhận ơn lớn vua ban
Tài kém không thể chia sẻ nỗi nhục bốn cõi đầy đồn giặc
Chức quan thấp bổ ích gì cho công việc bốn mùa?
(Vịnh nhàn I)
Xưa kia, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm từng cáo quan về ở ẩn song chưa ai có
tâm trạng bất lực như Nguyễn Khuyến. Ông thấy hổ thẹn cho chút tài lực của mình và nhìn
thấy rõ sự trống rỗng, vô vị của nó. Cái tri thức của một vị đại khoa đã ngấm nghiệm sách
thánh hiền cộng với tài lực của bản thân bỗng chốc trở nên vô nghĩa trong xã hội phong
kiến thực dân. Nguyễn Khuyến dám nhìn vào sự thật để thấy sự vô nghĩa của mình cũng
như của cả tầng lớp Nho học trước yêu cầu của lịch sử. Chính điều đó dẫn đến sự day dứt
dằn vặt trong lòng ông. Mặc cảm về sự vô trách nhiệm với đất nước luôn trở lại trong thơ:
Cờ đang dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng. (Tự trào)
Hình ảnh thơ mang tính chất đa nghĩa: có lẽ đây là cuộc cờ, canh bạc còn mang hình
tượng cuộc đời. Một sự dở dang lỡ cỡ trên con đường nhà thơ đã đi qua, dù Yên Đổ tiên
sinh cố tình gọi một cách hài hước là “chạy làng” nhưng vẫn không sao giấu được chút
ngậm ngùi xót xa. Câu thơ càng đọc càng đau bởi nó phanh phui tất cả, nó lộn trái hành
động “chạy làng” của một con người đã vào ngõ cụt. Trốn tránh trách nhiệm với bản thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
đã đành nhưng trốn tránh cả trách nhiệm với dân, với nước thì cái cười ấy ở nhà thơ đã là
tiếng khóc vò xé, day dứt, đớn đau.
Đọc thơ Nguyễn Khuyến, ta thấy con người ông dù thức hay ngủ, tỉnh hay mộng, lang
thang giữa chốn quan trường hay đã về “vườn Bùi chốn cũ” dường như luôn có sự day dứt
không nguôi. Ông luôn ý thức được sự già nua, bất lực của bản thân:
Tuổi thêm, thêm được râu tóc phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích chi cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Gặp người khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa.
(Ngày xuân dặn các con)
Bài thơ “dặn con” chỉ có tám câu thơ thì sáu câu là lời tâm sự của người dặn còn lời
dặn chỉ có hai câu. Có lẽ chỉ cốt để người nghe cảm thông mà thành tâm, thấu suốt bởi
người dặn là người đang ưu tư một nỗi niềm tâm sự cần đến sự sẻ chia. Nguyễn Khuyến
hơn ai hết rất biết mình, biết mình “ngẩn ngơ”, “lơ láo”. Ông đau đớn nhận thấy cái học
vấn của mình trở thành vô dụng. Vì mình đã không thi hành được đạo thánh hiền, không
cứu vãn được thời cuộc:
Sách vở ích chi cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
(Ngày xuân dặn các con)
Nguyễn Khuyến yêu nước nhưng bất lực vì không thể giúp nước. Niềm day dứt u
uất ấy, bản thân ông chưa tìm được lối ra nhưng người quân tử, bậc đại nho ấy luôn khẳng
định phẩm giá và khí tiết của mình thông qua những biểu tượng hai mặt: Anh giả điếc, Mẹ
Mốc, Lời gái góa...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
Tác giả cũng giống như anh giả điếc: “khéo ngơ ngơ, ngác ngác ngỡ là ngây”
(Anh giả điếc), không thèm để ý những điều xảy ra xung quanh để được yên thân,
trách sự quấy rầy, sách nhiễu. Giả điếc để tránh xa sự dụ dỗ của kẻ thù, để được
sống trong cảnh vui thú nơi điền viên:
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu,
Khi chè sen năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu.
(Anh giả điếc)
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, Nguyễn Khuyến đã nhận mình là một “Anh giả
điếc” mặc sự khen chê của thiên hạ. Đó chính là khí tiết, bản lĩnh của một nhà nho
yêu nước.
Tấm lòng kiên trinh của tác giả còn được gửi gắm qua hình ảnh mẹ Mốc:
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.
(Mẹ Mốc)
Mẹ Mốc tuy hình hài nhem nhuốc, rách rưới nhưng bao giờ cũng giữ trọn tấm
lòng thủy chung son sắt với chồng con. Phẩm chất cao đẹp của mẹ chính là tấm
gương tiết nghĩa cho muôn đời soi chung. Ca ngợi mẹ Mốc: “sạch” “trắng” “trong”
cũng là gián tiếp khẳng định tấm lòng kiên trung với dân với nước của nhà thơ. Tấm
lòng đó được tác giả giữ sâu kín trong lòng mặc tiếng khen chê của thiên hạ:
Đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
(Mẹ Mốc)
Hơn thế nữa nhà thơ bao giờ cũng giữ trọn đạo thủy chung như nhất:
Thương thì gạo vải cho vay
Lấy chồng thì gái góa này xin van
(Lời gái góa)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
Theo quan niệm của đạo đức phong kiến, gái ngoan chỉ thờ một chồng, thần
dân thì thờ một vua. Sự thật là gái góa, ai cũng mong có một tấm chồng đề nhờ cậy,
nhưng phải tìm được người xứng đáng, còn nếu không thì đành “Buồn nằm suông,
suông cả áo cơm”
Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc
Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi
(Lời gái góa)
Lấy chồng mà không đạt được mục đích của hôn nhân thì phỏng có ích gì? Nó
vô duyên và kệch cỡm không khác gì cảnh: “Bà già đã tám mươi tư; Ngồi trong cửa
sổ viết thư lấy chồng”.
Mặt thứ hai của hình tượng, nếu như vị thiên tử không xứng đáng với xứ mệnh
“thay trời hành đạo” thì việc làm quan của nhà thơ cũng vô ích không kém. Bài thơ
gợi được cái ngổn ngang của một người đứng trước ngã ba đường: ngổn ngang, lỡ
cỡ vì nước đã mất nên không thể đi tiếp, nhưng cũng không thể quay lại. Một người
chồng trong đời người đàn bà và một minh chúa cho một tôi trung, không thể so
sánh tương đồng, nhưng ít ra cả hai chủ thể này (người đàn bà và bậc tôi trung) đều
rất cần hai chủ thể kia (người chồng và minh chúa). Và rốt cuộc, điều làm cho
chúng ta cảm động nhất là tấm lòng trong sạch, kiên trinh của Nguyễn Khuyến,
trước sau không chịu đồng hành cùng bóng tối.
Và thái độ, phẩm giá thanh sạch ấy ông nguyện giữ đến hơi thở cuối cùng.
Ông muốn nói với người đời:
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. (Di chúc)
Như vậy, ta thấy trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Khuyến là nỗi đau đớn, sự
bế tắc, tuyệt vọng đến cùng cực của một con người luôn trăn trở, day dứt trước vận
mệnh dân tộc đang rên xiết trong vòng vây của kẻ thù. Nỗi lòng đó lúc nào cũng
thường trực trong lòng thi sĩ, có khi là giằng xé, giày vò, xót xa đau đớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
Nỗi lòng này cũng được nhà thơ Tú Xương chia sẻ qua hình ảnh chú Mán, Với
hình tượng chú Mán, nhà thơ đã gửi gắm tư tưởng tình cảm của mình trong buổi
loạn ly:
Phong lưu nhất ai bằng chú Mán,
Trong anh em chúng bạn kém thua xa.
Buổi loạn ly bốn bể không nhà,
Răng chẳng nhuộm, vợ chẳng lấy, lụa là chẳng mặc.
Mán chỉ làm đủ tiền tiêu vặt
Khi cao lâu, khi cà phê, khi nước đá, khi thuốc lá, khi
đủng đỉnh ngồi xe.
Sự đời Mán chẳng muốn nghe.
(Chú Mán)
Mán là một nhân vật có thật ở thành phố Nam Định, quê hương nhà thơ Tú
Xương, một người chuyên nghề gánh thuê, vác mướn nhưng có tính tình và phong
cách sống ngất ngưởng lạ kì: không vợ con, chẳng có cửa nhà... nhưng với Tú
Xương, Mán phong lưu nhất mực, “anh em chúng bạn kém thua xa”. Bởi vì con
người ấy đã biết tách mình ra khỏi thói tục, sống đối lập với xung quanh, ung dung
vòng cương tỏa. Trong thời buổi ấy, hoàn cảnh ấy còn gì tiết tháo hơn là chỉ “ấm ớ
giả câm giả điếc” “chốn quyền môn luồn cúi mặc ai”... Triết lý này chẳng phải đã
xuất phát từ lối sống “xuất xử hành tàng”, muốn “muốn độc thiện kì thân” của Nho
gia, từ quan niệm đạo đức cổ truyền của dân tộc, để con người đạt tới tự do cá nhân,
thoát vòng tục lụy.
Tóm lại, dưới chế độ xã hội phong kiến, Nguyễn Khuyến mang trong mình tư
tưởng và mong ước muốn phò vua giúp nước, kinh bang tế thế, trị quốc bình thiên hạ.
Nhưng những ý tưởng cao đẹp đó lại không thực hiện được, Nguyễn Khuyến phải sống
trong nỗi day dứt dằn vặt của lương tâm. Không thực hiện được hoài bão, lí tưởng, nên
Nguyễn Khuyến có tư tưởng xuất - xử, hành – tàng, lui vào cuộc sống ẩn dật để giữ trọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
danh tiết. Dù sống xa lánh việc đời, không màng đến danh lợi nhưng trong con người
Nguyễn Khuyến mối liên hệ với cuộc đời với vận nước vận dân mãi không xa rời.
* Tiểu kết
Có thể nói, trong văn học Việt Nam trung đại, chưa có nhà thơ nào lại đưa cái
“tôi” vào để tự thuật một cách sinh động và đầy đủ như Nguyễn Khuyến.Ông đã
đem đến cho văn học dân tộc bức kí họa chân dung đầu tiên về đời sống cá nhân
chân thực, cụ thể, chi tiết và sâu sắc. Qua số phận, qua cuộc đời mình, Nguyễn
Khuyến cũng đồng thời làm hiện lên số phận, đời sống của cả dân tộc, của cả một
lớp người trong xã hội buổi giao thời.
Với những nét vẽ tự họa về dáng vẻ bề ngoài và phẩm chất tính cách, Nguyễn
Khuyến đã góp vào nền thơ văn truyền thống Việt Nam một cách tân lớn về xây
dựng hình tượng nhân vật trữ tình theo hướng phi lý tưởng hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
Chương 3
CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Văn học thời trung đại chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa con người với cái
chung, với cộng đồng làng nước. Mối quan hệ chung này đã bao trùm lên mối quan
hệ riêng, đôi khi mối quan hệ riêng không được nói đến hoặc chỉ là phụ. Đến
Nguyễn Khuyến, bên cạnh con người nho giáo vẫn hiện lên một con người cá nhân
cá thể với những mối quan hệ riêng tư như: Tình cảm vợ chồng, cha con, bạn bè,
làng xóm…
3.1. Mối quan hệ vợ chồng
Xã hội phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, trong gia đình truyền thống, người
đàn ông vẫn là người có quyền quyết định mọi việc lớn nhỏ trong gia đình, nên đàn
ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình không lấy gì làm lạ. Chính tư tưởng
này làm cho đàn ông tự cho mình quyền gia trưởng. Vai trò của người phụ nữ trong
gia đình không được đề cao, thậm chí còn bị coi rẻ. Trong văn thơ cũng vậy, rất ít
nhà thơ viết về cuộc sống tình cảm riêng tư của mình, đặc biệt viết về người vợ.
Trước Nguyễn Khuyến, ta hầu như chỉ thấy những bậc nam nhi, trượng phu gửi vào
trong thơ những điều to tát như trung quân ái quốc, trí quân trạch dân; hay chí, tâm,
đạo…Còn làm thơ tặng vợ để phân trần tình cảm thì Nguyễn Khuyến có lẽ là một
trong những người tiên phong.
Đến với sáng tác của Nguyễn Khuyến, ta bắt gặp rất nhiều bài ông viết về
người vợ của mình. Nguyễn Khuyến có tới bốn bà vợ nhưng ông vẫn duy trì được
hoà khí. Lí do chính ở chỗ Nguyễn Khuyến là một người chồng thương vợ nên ông
rất quan tâm đến suy nghĩ của các bà. Thương yêu vợ Nguyễn Khuyến còn đề cao vợ:
Nghĩ chuyện trần gian cũng nực cười!
Giời nào hơn vợ, vợ hơn giời?
Khôn đến mẹ mày là có một,
Khéo như con tạo cũng thời hai.
Giời khéo yêu vì, nhưng có phận,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
Vợ mà vụng dại, đếch ăn ai.
Cớ sao vợ lại hơn giời nhỉ?
Vợ chỉ hơn giời có cái trai!
(Nhất vợ nhì giời)
Qua bài “Nhất vợ nhì giời” ta nhận thấy một giọng thơ hài hước hóm hỉnh nhưng vẫn
thấy được sự đề cao vợ của Nguyễn Khuyến. Vợ chỉ có một và vợ hơn cả trời. Nguyễn
Khuyến viết về cảnh đầm ấm vui vẻ trong gia đình mình với một giọng thơ hồn nhiên, vui
đùa. Điều đó chứng tỏ rằng, nhà thơ có một cuộc sống khá yên ấm, hạnh phúc.
Trong một gia đình có bốn người đàn bà chắc hẳn không tránh khỏi những
chuyện xô xát, va chạm, ghen tị giữa các bà mà người không thoải mái nhất đó
chính là vợ cả.
Thấu hiểu điều đó, ông đã làm bài thơ để khuyên vợ cả, phân trần, động viên
và bày tỏ rõ tình cảm của mình với vợ cả:
Ta chẳng như ai lối nguyệt hoa,
Trước là ngẫm nghĩ lối gần xa.
Lấy năm thì cũng dành ngôi chính,
Dẫu bảy càng thêm vững việc nhà.
Mọi việc cửa nhà là việc nó,
Mấy con trai gái ấy con ta.
Thôi đừng nghĩ sự chi chi cả:
Chẳng chữ gì hơn chữ thuận hòa.
(Khuyên vợ cả)
Vợ cả là người ông yêu quý nhất bởi bà là người chăm sóc, ở bên động viên,
đỡ đần, lo lắng, cùng ông trải qua biết bao hoạn nạn trong suốt quãng thời gian ông
thi cử, đỗ trượt. Nguyễn Khuyến là người nhạy cảm và biết quan tâm đến người
khác nên ông đã nhận ra sự khó xử của vợ cả. Ông không hề tỏ thái độ gia trưởng
để răn đe, bắt bà làm theo, ngược lại ông đưa ra những lời lẽ thuyết phục vừa có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
tình vừa có lí. Ông muốn bà hiểu được rằng, dù lấy bốn vợ không phải vì ông là
người quen lối trăng hoa mà vì ông muốn có người đỡ đần gánh vác công việc gia
đình cùng bà. Như thế chứng tỏ ông hiểu được nỗi gian truân, vất vả của bà. Có thể
nói, Nguyễn Khuyến là một nhà Nho chân chính, ông được thừa hưởng toàn bộ hệ
thống giáo dục của Nho giáo, lại sống trong một xã hội nam quyền phong kiến thế
nhưng Nguyễn Khuyến lại có những suy nghĩ khác người, khác đời và nó mang tính
chất tích cực. Có lẽ từ nhỏ, hình ảnh của một người mẹ đoan trang thùy mị, một
người tần tảo, yêu thương chồng con rất mực, luôn động viên ông những lúc ông
thoái chí đã khắc sâu trong tâm trí ông, hình thành ở ông một cái nhìn nhân ái với
cuộc đời. Lớn lên, những vấp váp trong hoạn lộ cũng hình thành nên cho ông sự
nhẫn nhịn, trầm lắng. Nguyễn Khuyến khuyên vợ nghe vừa có lí, vừa có tình. Ông
còn viện đến cả các con:
Mấy con trai gái ấy con ta...
Người xưa hay nói “bát đũa còn có lúc xô” huống chi là chuyện gia đình. Tuy
nhiên, mỗi khi xô xát xảy ra mâu thuẫn người ta lại nghĩ đến những đứa con, con
cái là sợi dây ràng buộc, niềm an ủi lớn lao của cha mẹ. Nguyễn Khuyến đã tác
động vào tình mẫu tử, thiên tính nữ của vợ. Ông quả là người khéo léo, tế nhị. Ta
cảm nhận lời thơ như lời nói hằng ngày mà hàm ý vẫn rất sâu sắc. Cuối cùng ông
lấy hai chữ “thuận hòa” để khuyên vợ:
Thôi đừng nghĩ sự chi chi cả,
Chẳng chữ gì hơn chữ thuận hòa.
Để tránh mâu thuẫn trong gia đình, tránh sứt mẻ tình cảm vợ chồng thì có lẽ hai
chữ thuận hòa là hai chữ có ý nghĩa nhất. Dân gian vẫn nói “thuận vợ thuận chồng
tát biển Đông cũng cạn”. Quả đúng như vậy, Nguyễn Khuyến đã dùng những lời lẽ
chân tình để khuyên vợ bởi ông biết dù giận dỗi, bực tức nhưng người vợ của ông
lúc nào cũng tần tảo, chăm lo và yêu thương chồng con hết mực. Đó cũng là người
mà Nguyễn Khuyến vui vầy, chia sẻ, tâm sự chuyện trăm năm. Có lẽ Khuyến
Khuyến là người mở đường cho một cái nhìn bình đẳng trong quan hệ vợ chồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
Ông không tỏ ra gia trưởng, độc đoán mà dùng lời lẽ chân tình để tác động vào tình
cảm. Và sau Nguyễn Khuyến ta mới thấy một Tú Xương quan tâm và “thương vợ”
rất mực.
Càng yêu vợ bao nhiêu, khi vợ mất nỗi đau càng lớn bấy nhiêu. Ông không chỉ buồn
khổ mà còn đau đớn đến tột độ. Khi bà cả mất ông đã viết bài Điếu nội để khóc bà:
Cân trất truy tùy ngũ thập niên,
Y hòe nhất mộng dĩ thành miên.
Bạch câu hốt hốt hữu như thị,
Thanh trủng luy luy thùy bất nhiên.
Tĩnh thổ an tri phi nhị lạc,
Trần đồ vị tất vọng nhân liên.
Nhược giao ngã thọ như Bành Tổ,
Bát ách xuân thu kỷ khấp huyền.
(Điếu nội)
Dịch : Khăn lược theo nhau đã năm mươi năm,
Một giấc mộng tựa cây hòe đã thành giấc ngủ dài.
Bóng câu trắng vùn vụt nhanh như thế đó!
Nấm mồ xanh ngổn ngang, ai rồi cũng vậy mà!
Nơi tĩnh thổ, biết đâu chẳng là nơi vui sướng của bà,
Đường trần gian, chưa chắc đã mong người khác thương.
Nếu để tôi sống lâu được như ông Bành Tổ,
Thì tám trăm năm biết bao lần phải khóc vợ.
(Khóc vợ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
Bà vợ cả là người ông cưới về từ lúc ông mới mười tám tuổi, cùng ông chung
sống suốt năm mươi năm trời và suốt thời gian ấy một lòng một dạ với chồng,
thương con hết mực:
Khăn lược theo nhau đã năm mươi năm,
Một giấc mộng tựa cây hòe đã thành giấc ngủ dài.
Chưa bao giờ bà được sống trong cảnh giàu sang phú quý, bởi Nguyễn Khuyến là
một ông quan thanh liêm, cuối đời lại cáo về ở ẩn tại quê nhà và với ông cảnh giàu sang
phú quý trên đời chỉ là mơ hồ như một giấc mộng dài.
Cuộc đời con người cũng thế, chỉ như bóng ngựa câu chạy qua khe hở, chỉ thoáng qua
rồi lại trở về với cát bụi. Bà cả cũng không tránh được quy luật của cuộc đời “sinh – lão –
bệnh – tử”.
Nấm mồ xanh ngổn ngang, ai rồi cũng vậy mà!
Nhưng biết đâu ở “nơi tĩnh thổ” lại là nơi “vui sướng của bà” bởi ở nơi đó bà không
còn những lo toan, những gánh nặng trần gian.
Hai câu cuối Nguyễn Khuyến nhắc đến tích ông Bành Tổ, sống 800 năm và 49 lần
góa vợ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khuyến nhắc đến tích này, ông muốn nói rằng
nếu sống lâu như Bành Tổ thì có lẽ đã phải bao lần nhà thơ khóc lóc nhớ thương. Bởi với
Nguyễn Khuyến, vợ là một trong những người quan trọng nhất của đời ông.
Tuy dành nhiều tình cảm cho bà cả nhất nhưng Nguyễn Khuyến cũng không quá
thiên vị ai mà ông san sẻ tình cảm của mình cho cả bốn bà. Nguyễn Khuyến không chỉ làm
thơ cho vợ cả, khóc vợ cả mà ông còn có những bài thơ chan chứa tình yêu thương viết để
khóc bà hai, bà tư. Bài thơ nào ông cũng thể hiện tình cảm chân thành và sâu sắc.
Khi khóc bà hai đã mất ở nơi đất khách mà nhà thơ chưa kịp gặp mặt, Nguyễn
Khuyến có bài thơ Lữ thấn khốc nội:
Tương kỳ giai lão, lão vô duyên,
Nhất biệt du niên, tiện bách niên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
Chiêu nhĩ hồn hề, lai thử tá?
Viết dư đổng hỹ, vị thùy liên?
Bội, Dung nhi hạ phong tư biến,
Tần, Hán chi gian lễ tắc nhiên.
Văn phó bất thăng suy bệnh cửu,
Lữ phần thanh thảo dĩ thiên nhiên.
Dịch: Hẹn cùng nhau sống đến già, già lại vô duyên,
Xa nhau hơn một năm mà thành trăm năm.
Chiêu hồn bà về, có về đây chăng?
Ta khóc nức nở đây, đau xót vì ai?
Từ Bội phong, Dung phong trở xuống, Quốc phong đã biến,
Khoảng giữa nhà Tần, nhà Hán, lễ giáo thế thôi.
Đau yếu đã lâu nghe tin buồn khôn xiết,
Nấm mồ đất khách, cỏ xanh rì.
(Khóc vợ chôn nơi đất khách)
Mỗi dòng, mỗi câu thấm đẫm nỗi đau của Nguyễn Khuyến. Mỗi dòng thơ là một nỗi
niềm tâm sự mà nhà thơ kí thác. Đã hẹn thề sẽ cùng nhau chung sống đến đầu bạc răng
long thế mà giờ đây người vợ mà nhà thơ thương yêu lại bỏ ông mà đi về thế giới bên kia.
Mới xa nhau có hơn một năm thôi đã có biết bao thay đổi và biến cố xảy ra. Mất mát và
biến cố lớn đó chính là sự ra đi của bà hai nơi đất khách “xa nhau hơn một năm mà thành
trăm năm”. Như vậy không phải xa nhau hơn một năm nữa mà là xa nhau mãi mãi.
Nguyễn Khuyến day dứt ân hận vì đã không kịp gặp mặt bà lần cuối cùng, tác giả phân
vân đau đớn liệu rằng :
Chiêu hồn bà về, có về đây chăng?
Ta khóc nức nở đây, đau xót vì ai?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
Ông khóc, tiếng khóc nghẹn ngào, nức nở và đau đớn tột cùng. Nghe tin bà bị bệnh
đau ốm đã lâu, Nguyễn Khuyến buồn khôn xiết nhưng vì việc nước ông không thăm được
bà đến khi chỉ còn là nấm mộ xanh rì nơi đất khách thì đã quá muộn. Ở đây, một lần nữa
nhắc đến hình ảnh “nấm mồ” – biểu tượng cho cái chết. Nếu ở bài Điếu nội đó là “nấm mồ
xanh ngổn ngang” thì đây là “nấm mồ đất khách” không được chôn ở chốn quê nhà. Đây
chính là điều càng làm cho nhà thơ cảm thấy day dứt và ân hận.
Còn đối với bà tư chết trẻ không con, Nguyễn Khuyến khóc vợ mà thấy tiếc nuối cho
vợ, vì bà đã rời bỏ ông đi quá nhanh. Để khóc thương bà, ông viết bài thơ Vãn thiếp Phạm
thị (Khóc người thiếp họ Phạm) để tỏ bày nỗi đau buồn:
Ai ai nhĩ Phạm ky!
Tòng ngã kim thất kỳ.
Tu du khí ngã khứ,
Kết nhiên vô nhất di.
Tuy nhiên hữu thành hiệu,
Mang mang bất khả kỳ.
(Vãn thiếp Phạm thị)
Dịch: Thương ôi! Nàng là người con gái họ Phạm,
Theo ta đến nay đã bảy năm.
Bỗng chốc nàng bỏ ta mà đi,
Chẳng để lại mụn con nào cả!
Dẫu rằng đã có lời thề ước mãi bên nhau,
Nhưng nay thì mờ mịt biết lúc nào mới gặp lại!
(Khóc người thiếp họ Phạm)
Ông hẳn là vô cùng đau khổ vì nhà thơ phải lần lượt tiễn đưa các bà về nơi
suối vàng. Ngay cả bà tư là người trẻ nhất, ít hơn Nguyễn Khuyến khá nhiều tuổi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
thế mà cũng bỏ ông đi trước. Mới chung sống được với nhau có bảy năm, bà cũng
chưa sinh cho Nguyễn Khuyến đứa con nào vậy mà đã vội rời bỏ ông ra đi. Nguyễn
Khuyến trách bà sao ra đi vội, giờ thì biết lúc nào mới gặp lại. Trách bà nhưng thực
ra là ông tự trách mình bởi Nguyễn Khuyến không ở bên chăm sóc bà, đến tận khi
bà tư mất cũng “có ai biết đấy là đâu”:
Bằng viễn phương huyền thụ,
Đương thời mạc chi tri.
Hà dĩ nhất tử hậu?
Bích thảo sinh tân kỳ (từ).
Thẩn nhĩ thị phụ thân,
Phủ ngưỡng vô sở ti (tư).
(Vãn thiếp Phạm thị)
Dịch:
Bạn thì xa, ta đang mong tin bạn,
Lúc đó nàng mất, có ai biết đó là đâu!
Sao mà sau khi nàng mất,
Trên nấm mồ xanh đã lập đền thờ mới rồi.
Huống chi nàng lại là phận đàn bà,
Việc phụng dưỡng cha mẹ không biết trông cậy vào ai.
(Khóc người thiếp họ Phạm)
Bà đi rồi bây giờ lấy ai phụng dưỡng và chăm sóc cho cha mẹ già. Nguyễn Khuyến
đề cao vai trò của bà trong gia đình, ở đó có một sự tin tưởng của ông đối với vợ. So sánh
với bài “Giã vợ đi làm quan” của Phan Thanh Giản, ta sẽ thấy được cả hai ông có nhắc
đến việc phụng dưỡng cha mẹ chồng của vợ. Nhưng nếu Phan Thanh Giản là sự nhắc nhở
“dặn bảo” vợ “xuất giá tòng phu”, việc chăm sóc cha mẹ chồng là việc phải làm thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
Nguyễn Khuyến “trông cậy” vào vợ. Khác với “dặn bảo” yêu cầu của người trên đối với
người dưới thì “trông cậy” tức là tin tưởng, nhờ vả. Chỉ với hai từ đó, người đọc có thể
nhận thấy sự khác nhau trong quan niệm và ý nghĩ của Phan Thanh Giản và Nguyễn
Khuyến về vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Nguyễn Khuyến yêu thương vợ nên ông thấy cả nỗi bất hạnh của vợ không chỉ
bởi bà chết trẻ không con mà còn bởi ngay cả khi sống bà cũng gặp phải cảnh tượng
thật trớ trêu:
Phấn thân hiệu cân quắc,
Thức mục vô tu mi.
Thế đạo hữu như thử,
Nhĩ tâm lương bất khi.
Khốc tử phi vị sinh,
Khẳng khái xứng tửu chi.
Phi phi thất tịch vũ,
Hòa lệ vi tân thi.
(Vãn thiếp Phạm thị)
Dịch: Nàng đã sẵn sàng đem yếm khăn ra để kiếm tấm chồng,
Song dụi mắt tìm cũng chẳng có ai đáng mặt mày râu.
Đường đời có những chuyện trớ trêu như vậy,
Song lòng nàng quả thực không lầm khi lấy ta.
Khóc người chết không phải vì người sống!
Đau buồn ta đành nâng chén rượu,
Mưa ngâu tháng bảy rơi lã chã,
Ta đem hòa với dòng lệ để viết bài thơ mới này.
(Khóc người thiếp họ Phạm)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
Bà đã chẳng kiếm được một người đáng mặt mày râu nhưng ông vẫn khẳng định
“song lòng nàng quả thực không lầm khi lấy ta”. Không phải Nguyễn Khuyến đề cao
mình mà là cách khẳng định chắc chắn tình cảm của ông đối với vợ. Tuy không cho bà
được sự giàu sang phú quý nhưng ông đã trao cho bà tình cảm chân thành, lòng thương
yêu hết mực và với Nguyễn Khuyến đó mới là thứ quý giá nhất. Những dòng thơ kết đã
trực tả nỗi đau khôn xiết mà ông đang phải chịu đựng. Đó là những tiếng thơ kết tinh từ
những giọt nước mắt của một người chồng thương yêu vợ.
Ngoài những bài thơ viết cho vợ, Nguyễn Khuyến còn làm câu đối khóc vợ khi
vợ chết:
Lão cũng đã mừng thay! Nhờ được bà hay lam, hay làm, thắt lưng bó que,
xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì lão đỡ đần trong mọi việc;
Bà đi đâu vội bấy! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông
quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
(Khóc vợ)
Câu đối khóc vợ của ông thật chân thành, cảm động. Nó là tiếng khóc riêng của ông
với bà vợ lam lũ, suốt đời chịu thương chịu khó.
Nguyễn Khuyến hình ảnh một bà nghè chân quê không có chút gì đài các quý
phái. Ông mừng vì có được người vợ “hay lam, hay làm” bao nhiêu thì nỗi đau khi
mất vợ càng lớn bấy nhiêu. Nhìn cái kiểu ăn mặc “thắt lưng bó que, xắn váy quai
cồng”, dáng đi tất tả “ chân đăm đá chân chiêu” của bà thì cho thấy bà chính là một
người phụ nữ nhà quê một mùa.
“Ở quanh vùng Yên Đổ cũng truyền lại một giai thoại: bà Tam Nguyên là một người
rất quê mùa. Bà không quen giao tiếp và cũng chẳng biết gì đến võng lọng. Ngày ông Tam
Nguyên vinh quy cả làng, cả huyện kéo nhau đi đón rước linh đình, riêng bà vẫn cặm cụi
làm cỏ lúa ở cánh đồng xa. Người ta phải đi tìm bà về, giúp mặc áo đi dép, đặt ngồi trên
võng đi đón ông. Nhưng bà vất vả với công việc đồng áng bao nhiêu thì lại càng vất vả
hơn thế với giầy dép, võng lọng… Giai thoại còn kể rằng: cụ Tam được nhờ cái đức của
vợ và điều này chính cụ Tam cũng đã thừa nhận” [ 30, tr. 257].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
Có lẽ, giai thoại kể đúng bởi qua chân dung mà nhà thơ khắc hoạ thì bà nghè đúng là
người chỉ biết công việc đồng áng, nhà cửa, chăm chỉ, siêng năng làm lụng, đỡ đần ông
trong mọi việc. Chính như vậy, mà khi bà mất đi cũng tức là ông mất đi một chỗ dựa đến
nỗi “để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm
tay chén”. Thiếu bà, ông không người chăm sóc, áo quần luộm thuộm, ăn uống thất
thường… Ông trách “bà đi đâu vội bấy” để giờ đây ông sống “vất vưởng” một mình ở nơi
trần thế, biết cùng ai “kể lể chuyện trăm năm”. Ở đây, Nguyễn Khuyến coi bà là tri kỉ, là
người cùng ông chia sẻ mọi buồn vui trong cuộc sống.
Đây là một quan niệm rất mới mẻ mà trong văn học trung đại hầu như chưa có ai nói
đến. Quan niệm mới mẻ tiến bộ ấy cho ta liên tưởng đến câu thơ của Hồ Dzếnh trong văn
học hiện đại:
Mình vừa là chị là em,
Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời.
(Bài thơ tặng vợ)
Hay như Trần Thị Băng Thanh - Phạm Tú Châu trong bài “Hai loại chân dung phụ nữ”
đã có nhận xét: “Khóc bà, ông không tỏ ra nuối tiếc xót xa nhưng tình cảm của ông sâu
nặng làm sao! Bất chấp tất cả những thăng trầm trong cuộc sống, những thay đổi của
tháng năm, bà Tam Nguyên chỉ tồn tại trong ông một nguyên mẫu: chịu thương chịu khó,
tận tuỵ với chồng con, cho đến tận lúc chết vẫn như chưa xong phận sự! Còn ông, cũng
bất chấp mọi hoàn cảnh, mọi khoảng cách cho đến tận lúc kẻ khuất người còn, vẫn trân
trọng bà và biết ơn bà!” [30, tr. 257].
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều có một điểm chung khi nói về hình ảnh người vợ
đó là cả hai ông đều thấy đựơc nỗi gian truân vất vả của các bà. Nếu như hình ảnh bà Tú
trong thơ Tú Xương là:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
(Thương vợ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
thì hình ảnh bà nghè, bà Bố (Nguyễn Khuyến từng giữ chức Bố Chánh) có vẻ cụ thể hơn,
“cận cảnh” hơn là “thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì
lão đỡ đần trong mọi việc”.
Cả hình ảnh bà Tú và bà Bố đều tiêu biểu cho những người phụ nữ đảm đang, biết lo
toan, gánh vác công việc gia đình mà không hề than vãn trách móc. Nguyễn Khuyến và Tú
Xương đều thấy được vẻ đẹp tâm hồn, những đức tính tốt đẹp của vợ, trân trọng, yêu quý
vợ chỉ có điều cách thể hiện của hai ông có sự khác nhau. Nếu Tú Xương tự trách mình vì
không đỡ đần được gì giúp vợ thì Nguyễn Khuyến không chỉ tự trách mà còn nói đến cuộc
sống “vất va vất vưởng” khi không có sự quan tâm chăm sóc của vợ. Nguyễn Khuyến
không chỉ viết thơ cho vợ khi còn sống mà ông còn viết thơ thể hiện nỗi đau của mình khi
vợ mất. Điều đó chứng tỏ rằng, với Nguyễn Khuyến người vợ có tầm quan trọng đặc biệt
và có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của ông. Với nhiều bài thơ, câu đối khóc vợ, lần
đầu tiên Nguyễn Khuyến đem đến cho văn học chân dung người vợ thật độc đáo và có lẽ
sẽ không tìm thấy được một bức vẽ thứ hai như thế.
Qua thơ Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh một gia đình vui vẻ đầm ấm. Gia đình
ấy cũng gìn giữ được những nét đẹp truyền thống như sự gắn bó cao về tình cảm
giữa các thành viên trong gia đình mà trước hết đó là quan hệ tình cảm thân thiết, tri
kỉ của ông với vợ.
3.2. Mối quan hệ cha con
Không chỉ thể hiện tình cảm, làm thơ cho vợ, Nguyễn Khuyến còn làm thơ cho các
con. Ở mỗi bài thơ, Nguyễn Khuyến lại thể hiện những sắc thái cung bậc tình cảm khác
nhau khi vui, khi lo lắng, dạy bảo khi lại chua chát xót xa, khi đau đớn đến tột đỉnh.
Ông vui khi con đỗ đạt cao, khi con dựng được nhà. Khi con đỗ Phó bảng Nguyễn
Khuyến không chỉ vui mà ông còn tự hào vì:
Nhất môn hạnh đắc hậu tiên kế,
Thập lý hà năng bát cửu như.
(Tứ tử Hoan hội thi trúng Phó bảng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
Dịch: Một nhà, may mắn kẻ trước người sau,
Mười điều làm, sao được cả tám chín.
(Gửi con là Hoan đỗ Phó bảng)
Ông tự hào vì con đã đỗ đạt và nối nghiệp được cha. Nguyễn Khuyến thấy nhà
mình may mắn vì cha đỗ Tam nguyên, giờ con lại đỗ Phó bảng, những điều muốn làm
đã thực hiện được gần hết:
Vũ trụ tư văn thiên vị tang,
Tổ tông tích khách địa lưu dư.
(Tứ tử Hoan hội thi trúng Phó bảng)
Dịch: Trời chưa nỡ dứt mạch văn chương của vũ trụ,
Đất còn lưu lại phúc đức của tổ tông.
(Gửi con là Hoan đỗ Phó bảng)
Như vậy, Nguyễn Khuyến mong con cố gắng rong ruổi cho kịp thời thế để khỏi
bị tụt lại phía sau “Dữ thế trì khu nhật vọng cừ” (Ngày ngày mong con về sẽ cùng đời
rong ruổi).
Nguyễn Khuyến vui khi con dựng được nhà với một tâm trạng vui khôn tả:
Nghĩ ta cũng sướng ru mà!
Mừng thấy con ta dựng được nhà.
Năm mới lệ thường thêm tuổi một,
Cỗ phe ngôi đã trốc bàn ba.
Rượu ngon đến bữa nghiêng bầu dốc,
Chữ “dại” đầu năm xổ túi ra.
Một khóm thuỷ tiên năm bảy cụm,
Xanh xanh như sắp thập thò hoa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
Không chỉ vui với niềm vui của con mà nhiều lúc nhà thơ còn thấy lo lắng cho
con. Đặc biệt là người con cả Nguyễn Hoan - người con mà ông yêu quý và tin tưởng
vô cùng. Nguyễn Khuyến dõi theo từng chặng đường, từng bước đi của con từ khi
Nguyễn Hoan đi thi cho đến khi con đỗ đạt và ra làm quan. Mỗi bài thơ Nguyễn
Khuyến gửi gắm một nỗi niềm, một tâm sự của người cha dành cho “giọt máu”
của mình.
Nguyễn Khuyến lo lắng cho con từ những bước đi đầu tiên. Khi Nguyễn Hoan bắt
đầu vào kinh thi hội, ông đã họa thơ tặng con, gửi thư cho con để con tự tin và vững
vàng thi cử:
Thiên cổ văn chương vô hiển hối,
Lịch triều hiển tắc hữu sơ chung.
(Tử hoạn lai kinh hội thí phú thi hoạ nguyên vận dĩ tặng)
Dịch: Văn chương ngàn thuở không hề có chuyện khi tỏ, khi mờ,
Luật lệ các triều hết thảy đều có đầu có cuối.
(Con là Hoan vào kinh thi hội, ta làm thơ hoạ nguyên vận gửi cho)
Ông chỉ cho con thấy văn chương thuở nào cũng vậy, dù thời cuộc có suy vi thì
chữ nghĩa vẫn là thứ cần thiết và tồn tại lâu dài vì vậy con hãy vững tin mà bước tiếp.
Ông cũng động viên con bằng cách nói đến uy nghi chủ quyền của một nước văn minh
tự chủ để khơi gợi lòng tự hào và tự tôn dân tộc. Nguyễn Khuyến hy vọng và tin tưởng
vào lớp người đi sau, trong đó có con ông sẽ làm nên cuộc giải phóng dân tộc:
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Thử xem trời mãi thế này ư? (Đại lão)
Do đó, ông viết những dòng này gửi con khích lệ con cố gắng để thay ông thực
hiện lý tưởng “trí quân trạch dân” và giải phóng dân tộc mà ông chưa làm được. Ông tự
thấy mình tuy say nhưng chưa trở thành “ông say”. Bởi ông say Âu Dương Tu đã có
điều kiện cống hiến tài năng cho đất nước còn ông có tâm huyết nhưng vẫn chưa thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
hiện lý tưởng tốt đẹp này. Nguyễn Khuyến hy vọng con ông có thể nối chí của các bậc
thánh hiền để gây dựng non sông. Mặc dù, ông cũng nhận ra “Sách vở ích gì cho buổi
ấy”, nhận ra được sự suy đồi của đạo Nho, sự hạn chế của lối văn chương cử tử nhưng
ông vẫn mong muốn con đi thi sẽ đỗ đạt cao để vui lòng cha mẹ.
Không chỉ lo cho con, ông còn nhớ con da diết, nỗi nhớ ấy thường trực từng
giờ, từng phút không lúc nào nguôi ngoai. Ngồi bên song cửa sổ lòng nặng trĩu ưu tư:
Động song vũ hậu giác vi hàn,
Túng ẩm, cuồng ca, hứng vi lan.
(Ức gia nhi)
Dịch: Sau cơn mưa ngồi trước cửa sổ phía Đông cảm thấy lành lạnh
Uống rượu bừa, ngâm thơ tràn, hứng thú vẫn chưa cạn.
(Nhớ con)
Nỗi ưu tư ấy xuất phát từ nỗi nhớ con và vì nhớ con nên khi con vào Huế đi thi
Nguyễn Khuyến bấm đốt ngón tay theo dõi từng ngày:
Khuất chỉ ngô nhi kinh lộ thướng,
Kim triêu đương thị quá Hoàng san (sơn).
(Ức gia nhi)
Dịch: Bấm đốt tay tính đường con ta vào kinh,
Sáng nay chừng đã quá Đèo Ngang rồi.
(Nhớ con)
Nguyễn Khuyến là một nhà nho chân chính, tiến thân bằng con đường học hành
khoa cử vì thế ông hiểu vai trò của việc học. Ông muốn học, đi thi không phải để được
hưởng vinh hoa phú quý mà để phò vua giúp nước. Hiểu được tầm quan trọng của việc
học nên Nguyễn Khuyến đã khuyên các con và học trò của mình cũng phải coi trọng
việc học để nối nghiệp cha anh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
Đen thì gần mực, đỏ gần son.
Học lấy cho hay, con hỡi con!
Cái bút, cái nghiên là của quý.
Câu kinh, câu sử ấy mùi ngon!
(Thơ khuyên học)
Nguyễn Khuyến động viên con cái phải biết chăm chỉ học hành bởi: chỉ có dùi
mài kinh sử thì mới có thể làm nên nghiệp lớn. Và có lẽ điều này ông rút ra từ trải
nghiệm của chính cuộc đời mình: quyết chí đi thi và đỗ đạt cao. Vì vậy, ông mới răn
dạy con cái:
Vàng mua chứa để, vàng hay hết,
Chữ bán dư ăn, chữ hãy còn.
(Thơ khuyên học)
Của cải tiền bạc dù có nhiều đến đâu đi nữa thì vẫn có thể hết vì nó là thứ thuộc về
vật chất mà vật chất dễ dàng bị mất đi, nó không như những giá trị về tinh thần có thể tồn
tại lâu dài và mãi mãi. “Vàng” dù quý đến đâu cũng không thể đem ra so sánh với chữ
nghĩa. Vì chữ nghĩa chính là thứ sản phẩm vô giá, nó vô cùng vô tận không bao giờ bị tiêu
biến hay mất đi. Nó chính là thứ keo dính gắn kết con người với cuộc sống.
Những bài thơ Nguyễn Khuyến viết cho con chủ yếu là khoảng thời gian sau khi
ông cáo quan về Yên Đổ, khi con ông bắt đầu bước chân vào con đường hoạn lộ. Lúc
này, ông đã nhận ra sự suy đồi của đạo Nho và sự xuống cấp của lối văn chương cử tử.
Viết những bài thơ này, Nguyễn Khuyến muốn truyền lại những điều tâm huyết, gan
ruột từ chính cõi lòng mình cho con cái.
Nguyễn Khuyến rời bỏ chốn quan trường vì ông thấy mình không hợp với cảnh quan
trường lố lăng ấy nữa, nhưng con ông lại vẫn cứ lao vào con đường khoa cử bởi ở thời bấy
giờ muốn lập nghiệp không có con đường nào khác ngoài việc đi thi và làm quan. Do đó,
khi ông khuyên con, tâm sự với con mà ta thấy có cái gì đó thật cay đắng, nghẹn ngào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
Chúng ta có thể thấy rõ tâm sự ấy của Nguyễn Khuyến qua bài thơ ông tự dịch
sang chữ Nôm là bài Ngày xuân dặn các con:
Tuổi xuân, thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Trải cuộc đời gió bụi, Nguyễn Khuyến đã thấy được sự vô ích của chữ nghĩa
thánh hiền trong “buổi ấy” bởi giờ đây khi mà đất nước đang chịu cảnh lầm than, con
người sống trong cảnh nô lệ, chữ thánh hiền không còn giữ được vai trò của nó nữa.
“Áo xiêm” biểu tượng của học vị học hàm ông phải cố gắng bao nhiêu mới đạt được
thế mà cũng không giúp ích được gì cho thời cuộc lúc bấy giờ nên khi về ông tự thấy
hổ thẹn. Nước nhà loạn lạc, con người lâm vào cảnh đường cùng, ngày xuân mà đầy
tâm trạng:
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
(Ngày xuân dặn các con)
Và hai câu kết là lời nhắc nhở và cũng là lời trách cứ của ông với con:
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
(Ngày xuân dặn các con)
Ông đang buồn chán, tự dằn vặn bản thân vậy mà sao con ông vẫn mải mê đàn hát,
chơi bời, lơ là việc học. Ông thấy tiếc thời gian, bởi chỉ một khắc trôi qua thôi con người
cũng có thể làm bao nhiêu việc, thế mà các con ông lại không hiểu điều ấy. Nguyễn
Khuyến ân cần khuyên bảo con hãy biết tự thức tỉnh chính mình khỏi những thú vui phù
phiếm ấy mà nghĩ đến điều quan trọng hơn đó là làm sao để giúp nước giúp dân.
Khi răn dạy con cái, ông không nói đến những điều quá xa vời mà những lời
khuyên bảo của ông đều rất thiết thực và gắn liền với cuộc sống:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Nhữ phụ phong trần mấn tiệm ban,
Nhĩ niên kim diệc dĩ gia quan.
Trầm tư ty lạp quân ân trọng,
Bội giác thi thư thế nghiệp nam.
(Xuân nhật thị nhi I)
Dịch: Cha trải cuộc đời gió bụi, tóc đã đóm bạc dần,
Con nay cũng đã đến tuổi đội mũ.
Ngẫm nghĩ sợi tơ hạt gạo đều mang nặng ơn vua,
Càng thấy rằng nối được nghiệp nhà thi thư là khó.
(Ngày xuân dạy con I)
Nguyễn Khuyến trải qua bao năm lăn lộn ở chốn quan trường, giờ sợi bạc đã
điểm, tuổi già cũng đã đến còn con ông đã đến tuổi trưởng thành “đội mũ”, ông
khuyên con nói với con cần biết ơn sợi tơ hạt gạo nuôi mình, đặc biệt là phải “mang
nặng ơn vua”.
Trong khoảng mười năm làm quan ông tỏ ra rất tận tụy, trung thành và cũng
không phải ngẫu nhiên mà cuối đời trong bài Di chúc ông lại viết:
Đề vào mấy chữ trên bia,
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.
Không chỉ vậy, Nguyễn Khuyến còn chỉ cho con thấy cái khó của nghiệp “thi
thư”. Bởi việc học hành thi cử là chuyện chẳng dễ dàng gì vì ông cũng đã sáu bảy lần
thi trượt. Ông còn khuyên con:
Học hải yếu nghi phòng phiếm dật,
Nho gia thận vật yếm cơ hàn.
(Xuân nhật thị nhi I)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
Dịch: Bể học cần nên phòng ngừa sự không thiết thực,
Nhà nho nhất thiết chớ ngại đói rét.
(Ngày xuân dạy con I)
Ngay từ thời Nguyễn Khuyến ông đã dạy con việc học phải đi đôi với hành “Bể
học cần nên phòng ngừa sự không thiết thực”. Học không phải là để lấy cái danh hão,
để ra oai với đời mà học để giúp nước giúp dân. Cái “thiết thực” mà ông nói ở đây
chính là việc đem kiến thức đã được học ra giúp đời. Nguyễn Khuyến còn khuyên các
con phải biết chịu đựng “đói rét”. Nhiều người vì không chịu được “đói rét” mà bán cả
thể xác lẫn linh hồn, con người rơi vào vòng tội lỗi. Vì vậy, ông muốn các con của
mình hãy có nghị lực để sống tốt, không sợ đói, sợ khổ. Đó chính là những tâm huyết
mà Nguyễn Khuyến muốn gửi gắm cho con:
Quan san viễn tích tâm nhưng cận,
Ký ngữ đăng tiền tử tế khan.
(Xuân nhật thị nhi I)
Dịch: Chốn quan san xa xôi nhưng lòng ta vẫn gần gụi,
Gửi con mấy lời, hãy đem ra trước đèn đọc cho kỹ.
(Ngày xuân dạy con I)
Dù có xa cách về mặt địa lý nhưng tấm lòng của Nguyễn Khuyến lúc nào cũng
muốn ở gần con, ông mong con luôn đem những lời dạy bảo ấy ra đọc để ghi nhớ và
thực hiện.
Nguyễn Khuyến là một vị quan thanh liêm, chính trực, tuy có làm quan nhưng
cuộc sống gia đình cũng không có gì là khá giả, cuối đời ông về quê sống cuộc sống
giản dị, thanh bần nhưng ông vẫn cảm thấy vui vẻ vì:
Tân tuế phương lai cựu tuế trừ,
Thanh bần ngô tự ái ngô lư.
(Xuân nhật thị chư nhi - II)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
Dịch: Năm mới đương đến, năm cũ đã qua,
Cảnh nhà trong sạch, ta yêu nhà ta.
(Ngày xuân dạy các con - II)
Với ông, cuộc sống thanh đạm, giản dị mà trong sạch là đáng quý hơn cả và ông yêu
ngôi nhà ấy của mình. Đó chính là điều đầu tiên mà Nguyễn Khuyến muốn tâm sự với con
bởi ông cũng lo lắng con mình chạy theo danh vọng mà quên đi rằng sống trong sạch là
điều cần thiết nhất. Tài sản mà ông để lại cho con cũng chẳng có gì nhiều ngoài:
Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,
Tố nghiệp vô tha nhất thúc thư.
(Xuân nhật thị chư nhi - II)
Dịch: Khu nhà ở quây quần không đầy chín sào đất,
Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách.
(Ngày xuân dạy các con - II)
Chỉ có chín sào đất để con cái an cư lạc nghiệp và một bó sách cũ để lại cho con.
Điều này chứng tỏ rằng với Nguyễn Khuyến mà nói, chữ nghĩa sách vở cũng là một
thứ tài sản vô giá mà ông để lại cho con, ông coi trọng chữ nghĩa. Nhưng điều Nguyễn
Khuyến khuyên con lại là:
Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,
Bút nghiễn vô hoang đạo, thúc, sơ.
(Xuân nhật thị chư nhi - II)
Dịch: Các con nếu có thể theo chí ta,
Thì chăm bút nghiên nhưng đừng bỏ lúa, đậu, cà.
(Ngày xuân dạy các con - II)
Không khuyên con điều gì to tát, Nguyễn Khuyến mong muốn rằng dù các con có
chăm học chữ đến đâu nhưng điều quan trọng vẫn là không được quên thứ đã nuôi
sống mình. Đây là một quan niệm hết sức tiến bộ. Sống gần nhân dân, lại là một người
gắn bó với mảnh đất quê hương nên Nguyễn Khuyến hiểu được tầm quan trọng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
“lúa, đậu, cà” những thứ hết sức bình dị mà quen thuộc. Trong văn học trung đại có lẽ
ít ai nói lên những điều bình dị như Nguyễn Khuyến. Nho sĩ xưa thường tự tôn việc
học hành và hạ thấp các nghề khác: “Vạn ban giai hạ phẩm/ Duy hữu độc thư cao”
(Mọi nghề trong thiên hạ đều hèn kém/ Chỉ duy có đọc sách là cao quý mà thôi). Còn
Nguyễn Khuyến coi nghề nông cũng là một nghề cao quý và ông đặt nó ngay cạnh
“Nghiên bút” biểu tượng của nghiệp khoa cử văn chương.
Như vậy, ở mấy bài thơ răn dạy con ngày đầu xuân, Nguyễn Khuyến đều
khuyên con cái biết sống trong sạch, không nên vì hư danh mà đánh mất đi nhân
phẩm con người.
Trong bài khác, ông lại chỉ ra cái khó của việc làm quan và ông dặn con:
Hoạn đào chỉ dĩ khinh tâm trạo,
Lợi cục hà năng lãnh nhỡn khan. (Thị tử Hoan)
Dịch: Bể hoạn sóng gió chỉ nên chèo bằng tấm lòng coi nhẹ,
Thấy cuộc đời sao có được con mắt lạnh lùng.
(Dặn con là Hoan)
Nguyễn Hoan ra làm quan với tất cả cái hăng say của một “thiếu niên đăng khoa”,
không tránh khỏi tâm lí “ngựa non” và nhiều tham vọng. Thấy được điều đó, Nguyễn
Khuyến khuyên con không nên quá vội vàng hấp tấp mà chỉ nên đi từ từ từng bước
một, nên nhìn danh lợi bằng con mắt lãnh đạm bởi đã nhiều người vì danh lợi mà đánh
mất hình hài.
Nguyễn Khuyến cả đời sống trong sạch liêm khiết nhìn thấy con như vậy có lẽ rất
đau lòng. Phải chăng Nguyễn Hoan ra làm quan không mang trong mình lí tưởng cao
đẹp giống Nguyễn Khuyến mà người con cả này lại coi trọng danh lợi, không yêu dân
như con và mến dân bằng tình yêu ruột thịt mà nhiều khi tỏ ra hống hách. Vì vậy,
Nguyễn Khuyến mới khuyên con:
Đương nhật sự tuỳ đương nhật ứng,
Nhất phần tứ thị nhất phần khoan.
(Xuân nhật thị tử Hoan)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
Dịch: Việc ngày nào thì ứng phó theo ngày ấy,
Khoan dung một phần tức là dân được nhờ một phần.
(Ngày xuân khuyên con là Hoan)
Làm quan là phải thường xuyên theo sát tình hình của dân không được lơ là, việc
ngày nào thì phải giải quyết ngay không được để tồn đọng đặc biệt là phải biết “khoan
dung” yêu dân như con, chỉ như vậy thì dân mới được nhờ. Và trong bài Thị tử Hoan
Nguyễn Khuyến cũng lại khuyên con về đạo làm quan:
Lãng chú kim ngân nang dĩ khánh,
Bất tri hà đổ cục tương tàn.
Dịch: Dốc bừa tiền bạc ra, túi đã rỗng tuếch,
Không biết rằng canh tổ tôm đã sắp tàn.
Nguyễn Khuyến không muốn con đục khoét của nhân dân, vung phí những đồng
tiền được làm từ giọt mồ hôi và nước mắt của dân, không muốn con bắt tay với thực
dân Pháp. Đặc biệt đã là quan phải biết chăm lo đến đời sống của nhân dân, hiểu được
ý nguyện của dân chỉ có như vậy thì dân mới một lòng phục vụ vua quan. Ông muốn
con lúc nào cũng phải ghi nhớ những điều ông răn dạy đó và coi đó là nguyên tắc sống,
nguyên tắc làm việc của mình.
Trước Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi cũng từng khuyên con như thế. Ông nói
với con “Chăm dân, mựa nữa mất lòng dân”. Làm quan phải biết hướng dẫn dìu dắt
nhân dân, phải biết yêu dân, tránh mất lòng dân.
Trị dân sơ rắp lòng cho chính,
Có nước thường in nguyệt khá xoay.
(Bài 10 - Bảo kính cảnh giới)
Dịch: Làm quan là phải ngay thẳng,
Chân chính chứ không được bòn rút của dân.
Như vậy, hai nhà thơ tuy có cách thể hiện khác nhau nhưng những câu thơ viết cho
con của họ đều nhằm mục đích khuyên răn và chỉ bảo. Ở một góc độ nào đó, họ đều có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
những tư tưởng khá giống nhau đó là đều khuyên con phải biết yêu những thứ bình dị
quanh mình và phải biết yêu dân, vì dân.
Ngoài những bài thơ viết cho con, Nguyễn Khuyến còn làm câu đối khóc con.
Chính vì yêu thương và đặt ra rất nhiều kì vọng ở con nên khi Nguyễn Hoan bỏ ông ra
đi vĩnh viễn ông đã vô cùng đau khổ và nuối tiếc cho con. Câu đối khóc con của ông
như một tiếng nấc nghẹn ngào:
Bảng vàng bia đá nghìn thu tiếc cho người ấy!
Tóc bạc da mồi trăm tuổi, thiệt lắm con ơi! (Khóc con)
Thật đau xót biết bao khi người đầu bạc phải tiễn kẻ đầu xanh. Ta có thể cảm nhận
được sự ra đi của Nguyễn Hoan là một mất mát to lớn đối với nhà thơ. “Bảng vàng, bia
đá” biểu trưng cho sự nghiệp thì còn đó, vậy mà người thì đã không còn. Ông thấy thiệt
thòi cho con vì không sống được đến lúc “tóc bạc da mồi trăm tuổi” để cống hiến tài
năng cho đất nước.
Thông qua những bài thơ Nguyễn Khuyến viết cho con, gửi con, khóc con ta thấy
Nguyễn Khuyến quả là một người cha thương yêu con hết mực. Tình cảm mà ông dành
cho các con của mình đằm thắm mà da diết, giản dị mà sâu sắc. Những lời mà ông răn
dạy con cái không phải là những gì quá xa vời mà là những gì hết sức cụ thể, thiết thực.
Nó không chỉ giúp cho các con ông có nghị lực để bước tiếp mà còn giúp họ luôn tỉnh
táo để không mắc sai lầm.
Như vậy, đối với con cái, Nguyễn Khuyến là một người cha gương mẫu, có trách
nhiệm, có uy tín và thương con nhưng không để con nhờn. Những điều ông khuyên
con hết sức bình dị, gần gũi mà sâu sắc.
3.3. Quan hệ thầy trò
Hiếu học vốn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Những người có
trách nhiệm thường rất hay khích lệ, động viên thế hệ sau dùi mài đèn sách để bước
tiếp cha ông. Trước khi về Yên Đổ, Nguyễn Khuyến vừa làm quan, vừa làm thầy
dạy học. Đây cũng là khoảng thời gian Nguyễn Khuyến vẫn rất tâm huyết với sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
nghiệp giáo dục. Ông gửi gắm những tâm sự, những lời khuyên chân thành của
mình tới học trò:
Đen thì gần mực, đỏ gần son,
Học lấy cho hay, con hỡi con.
Cái bút, cái nghiên là của quý,
Câu kinh, câu sử ấy mùi ngon…
(Thơ khuyên học)
Vận dụng tục ngữ dân gian “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” Nguyễn
Khuyến muốn khuyên các học trò phải biết lựa chọn môi trường, hoàn cảnh sống
sao cho thuận lợi. Cách xưng hô gọi học trò là “con”, tạo ra khoảng cách thân mật
giữa thầy và trò, đồng thời Nguyễn Khuyến cũng động viên học trò chăm chỉ dùi
mài kinh sử. “Bút nghiên” biểu tượng cho sự nghiệp khoa cử mà nam nhi trong xã
hội xưa cần phấn đấu, “câu kinh câu sử” chỉ nội dung cơ bản của Nho học, chỉ khi
nắm vững được những thứ đó thì học trò mới nên công trạng được. Qua tiểu sử,
cuộc đời Nguyễn Khuyến ta có thể biết được Nguyễn Khuyến đã dành rất nhiều thời
gian, công sức cho việc học hành, thi cử. Khi đứng ở vị trí người thầy, ông lại
truyền những lời tâm huyết ấy cho những học trò của mình.
Vàng mua chứa để, vàng hay hết,
Chữ bán dư ăn, chữ hãy còn.
(Thơ khuyên học)
“Vàng” là thứ thuộc về vật chất, vật chất dù có nhiều đến bao nhiêu thì trước
nhu cầu của con người nó cũng sẽ bị mai một. “Chữ” thuộc về mặt tri thức, nó thuộc
tinh hoa của nhân loại, thì dù có đem bán đi, đem dùng vào việc này hay việc khác thì
chữ hãy còn trong mỗi con người, mặt khác nếu đem thi thố tài năng, biết tận dụng tri
thức thì có thể sẽ còn được thêm nhiều chữ nữa. Lời khuyên rất chí tình, chí lí. Nó chỉ
có thể được nói lên từ một trái tim thực sự tâm huyết, yêu người, yêu nghề. Hai câu
thơ cuối thể hiện ứoc mơ Nguyễn Khuyến gửi gắm vào học trò của mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
Nhờ phật một mai nên đấng cả,
Bõ công cha mẹ mới là khôn.
(Thơ khuyên học)
Nên “đấng cả” là nên đấng bậc ở địa vị cao sang, có tiếng tăm. Ở đây ý muốn
nói học trò đỗ đạt làm quan. Nguyễn Khuyến dùng từ “khôn” để chỉ những học trò
biết chọn bạn mà chơi, biết học thầy, học bạn, không để phí công sức của thầy, tiền
của của cha mẹ. Có thể nhận thấy tình cảm, tâm huyết mà Nguyễn Khuyến dành
cho học trò của mình là rất nhiều.
Khi con người quyết tâm, tin tưởng vào việc mình làm càng nhiều thì khi kết
quả trái với mong muốn họ trở nên hụt hẫng và rất thất vọng. Dạy học là một nghề
đặc biệt và học trò cũng là một sản phẩm đặc biệt. Những người làm thầy nếu
chứng kiến học trò của mình đỗ đạt thì sẽ hạnh phúc vô bờ bến, nhưng một khi học
trò đã không tu chí, quyết tâm rồi lại phụ công thầy thì đó quả là một điều đau xót.
Nguyễn Khuyến càng gia công bao nhiêu thì học trò lại càng phụ công ông bấy
nhiêu, bởi đạo học bấy giờ đã bộc lộ rất nhiều rạn nứt. Trong bài “Học trò phụ công
thầy” Nguyễn Khuyến viết:
Bấy lâu trú ngụ chốn sơn đông,
Bảo chúng nên rồi chúng phụ công.
Bể thánh mênh mông nhờ cái ốc,
Rừng nho lai láng bắt con ong…
(Học trò phụ công thầy)
“Nguyễn Khuyến dạy học ở nhiều nơi khác nhau nhưng chủ yếu ở phía đông
núi Nho Quan, Kỳ Cầu, liễu Đôi…” [ 30, tr. 112]. Khác cách xưng hô gọi học trò là
“con” như trong bài “Thơ khuyên học”, ở đây Nguyễn Khuyến gọi học trò là
“chúng”, một thái độ vừa coi thường, vừa thất vọng, vừa bực tức, ta có cảm giác
như Nguyễn Khuyến cố giấu đi sự nghẹn ngào bởi ông nhận thấy một nỗ lực của
mình dành cho học trò chẳng khác nào “dã tràng xe cát”. Quan trọng hơn cả là nỗi
lo tương lai nước nhà sẽ ra sao với tầng lớp Nho sĩ này?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
Thành ngữ ta có câu “nhạt như nước ốc ao bèo”, tục ngữ thì nói “nuôi ông tay
áo”, Nguyễn Khuyến đã mượn thành ngữ, tục ngữ kết hợp với các hình ảnh tượng
trưng: cái ốc trong bể mênh mông, con ong trong rừng nho để ngụ ý chỉ thái độ nhạt
nhẽo của học trò với đạo học, đồng thời thể hiện thái độ thất vọng với những học trò
của mình. Và cuối cùng, như không nén được tức giận, ông đã mỉa mai một cách
sâu cay những người học trò ấy:
Cửa Vũ những toan loài trắm chép,
Đòng đong cân cấn giỗ mồi không.
(Học trò phụ công thầy)
Nguyễn Khuyến đã sử dụng hai hình ảnh tương phản là loài trắm chép với
đòng đong, cân cấn. “Theo Đại Nam nhất thống chí, Vũ môn - cửa Vũ ở dãy núi
Khai Trương (Giăng Màn) thuộc huyện Hương Khê (tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) là một
dòng suối ba bậc, tương truyền mỗi năm đến tháng tư có nước nguồn thì cá chép
vượt dòng để hoá rồng” [ 30, tr. 113]. Nguyễn Khuyến dùng hình ảnh cá chép để
nói về những người học trò có chí, vượt qua khó khăn thử thách để đi thi, đỗ đạt
làm quan, làm rạng rỡ cho thầy và cho cha mẹ. Còn đòng đong, cân cấn là loại cá
bé, ít có giá trị nhưng khi câu thì lại rỉa rất tốn mồi, hàm ý chỉ những cậu học trò
lười biếng, học không chịu học, cốt chỉ đến học để làm tốn sức thầy giáo và tốn tiền
cha mẹ.
Nguyễn Khuyến xuất hiện trước Tú Xương một thời gian, ông đã sớm nhận ra
sự mục ruỗng, suy đồi trong đạo học, và sau đó, Tú Xương cũng phải thốt lên rằng:
Đạo học làng ta chán lắm rồi,
Mười người đi học chín người thôi.
(Than đạo học)
Có thể thấy sự buồn chán, nỗi ưu tư và thất vọng ngập tràn trong lòng Nguyễn
Khuyến. Nguyễn Khuyến là một nhà Nho yêu nước, lòng yêu nước ấy thể hiện qua
việc ông cố gắng đào tạo cho đất nước một thế hệ văn sỹ tài giỏi, thế nhưng ước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
nguyện của ông lại vấp phải một thực tại đó là xã hội lố lăng buổi giao thời. Giáo dục
là công cụ để cải tạo xã hội, nhưng một khi xã hội ấy dột từ nóc dột xuống, không ai
chăm lo cho giáo dục thì vô hình chung biến giáo dục thành một thứ phản tác dụng.
Trong xã hội ấy, mọi giá trị đều bị hạ bệ và trở nên kệch kỡm giữa thời đại.
3.4. Quan hệ bạn bè
Nhà nho vẫn coi “bằng hữu” như một đạo trong “ngũ luân” và sự kết bạn là một
điều cần thiết cho cuộc đời. Nho gia đề cao bằng hữu gắn với quan niệm đạo đức:
“lấy văn chương kết bạn, lấy bạn để giúp lòng nhân” (Tăng Tử) còn phần tình cảm
ở nghĩa bạn bè ít được các cụ nói tới. Đến Nguyễn Khuyến, tình bạn hầu như không
còn cái quan niệm đạo đức kiểu Nho gia mà đó là sự liên kết bền chặt của những
tấm lòng, của nhu cầu tình cảm. Viết về bạn với Nguyễn Khuyến bao giờ cũng là
tiếng nói của con tim chân thành và cởi mở.
Tình cảm Nguyễn Khuyến dành cho bạn mình được bộc lộ một cách kín đáo
và chân thành. Tình cảm ấy được thể hiện trong nhiều bài thơ viết về tình bạn của
ông. Hẳn người đọc đã rất quen thuộc với thi phẩm tiêu biểu Bạn đến chơi nhà:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Câu thơ đầu là lời vào đề rất tự nhiên như một tiếng reo vui khi lâu ngày mới
được gặp lại bạn. Lời thơ vừa như thông báo, vừa như bộc lộ tình cảm của tác giả.
Bạn bè đến thăm nhau đã là một đáng quý, đây lại là người bạn lâu ngày mới gặp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
Theo tâm lí của người Việt, người đọc hình dung ra cảnh Nguyễn Khuyến sẽ tiếp
bạn rất chu đáo. Thế nhưng những câu thơ tiếp theo lại làm cho người đọc hoàn
toàn bất ngờ: “Trẻ đi vắng”, “Cải, bầu” thì đã hết mùa, “cà, mướp” thì chưa ra hoa.
Có lẽ Nguyễn Khuyến làm bài thơ tiếp bạn vào cuối mùa xuân, đầu mùa hạ. Ta thấy
tất cả các loại thực phẩm đều xuất hiện: cá, gà, bầu, mướp, cà… nhưng đều không
bắt được, hoặc hết hoặc vẫn còn ở dạng tiềm ẩn, ta có thể nhận thấy sự đạm bạc
được đẩy lên tới mức tối đa nhưng nó còn đạm bạc tới mức:
Đầu trò tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Miếng trầu – món ăn, tập tục rất phổ biến khi xưa trong mỗi cuộc nói chuyện
mà Nguyễn Khuyến cũng không có. Ta thấy giọng văn không hề cầu kì, khuôn sáo,
màu mè của ông Tam nguyên. Văn chương bộc lộ nguyên hình một phong cách dân
gian, bình dị mà sâu sắc. Nét đẹp ấy được bao phủ bởi tình cảm thiết tha, tri âm tri
kỷ chân thành của con người. Và cuộc tiếp bạn chỉ còn “ta với ta”, lúc này chủ và
khách không phan biệt ngôi thứ nữa, tuy hai mà là một. Ẩn sau bên trong sự nghèo
khó thanh bần ấy là một tình bạn đẹp, cao quý, vượt lên mọi vật chất bình thường.
Với những bài thơ, câu đối viết về tình bạn, tình hàng xóm, Nguyễn Khuyến
thực sự trở thành nhà thơ của làng quê, của tình đời, tình người:
Ai lên nhắn gửi bác Châu Cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con rày lớn bé?
Vài gian nếp cái, ngập nông sâu?
(Lụt hỏi thăm bạn)
Đọc câu thơ đầu tiên ta đã cảm nhận thấy tình cảm tha thiết mà tác giả dành
cho người bạn của mình – ông tuần phủ người làng Châu Cầu tên là Bùi Văn Quế.
Tình cảm ấy được thể hiện ở sự quan tâm sâu sắc mà Nguyễn Khuyến dành cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
bạn. Câu thơ đầu nghe như một lời nói bình thường hàng ngày, không hề trau chuốt
gọt giũa. Nguyễn Khuyến quan tâm tới bạn từ chỗ ở (vì Hà Nam là miền đất trũng,
những ngày nước lụt thì việc ở và đi lại rất khó khăn), rồi đến “gia tài” của bạn đó
là mấy ổ lợn con, sau đó là cái ăn “vài gian nếp cái”. Sự quan tâm, lo lắng cho bạn
trong lúc khó khăn hoạn nạn thật đáng quý. “Ổ lợn con”, “gian nếp cái” là những
chi tiết rất bình dị, chân thực. Chúng ta ít thấy trong văn học trung đại nhưng vần
thơ như thế. Văn chương đã lột xác từ vỏ bọc của những tượng trưng ước lệ, của
điển tích, điển cố để gần hơn với đời thường.
Khi đã về hưu, nỗi nhớ về những người bạn cũ lại trào dâng trong lòng
Nguyễn Khuyến. Qua bài thơ, ta có thể nhận ra một đời sống tình cảm rất phong
phú của tác giả:
Ngày trước cùng lên lạy cửa trời,
Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi.
Nước non man mác về đâu tá,
Bè bạn lơ thơ sót mấy người…
(Gửi bạn)
Nguyễn Khuyến cũng có thời gian làm quan, ông cũng có những người bạn.
“Lạy cửa trời” là những ngày Nguyễn Khuyến cùng bạn vào trầu yết kiến vua, ý nói
làm quan trong triều. Nếu làm quan trong một xã hội thái bình, yên ổn thì có lẽ
Nguyễn Khuyến và những người bạn đồng môn đã có quãng thời gian làm việc, gắn
bó lâu dài, nhưng do hoàn cảnh đất nước, do sự bấn loạn của triều đình nên giờ mỗi
người một nơi, người thì chọn con đường về ở ẩn như Nguyễn Khuyễn, có người thì
sẽ tiếp tục làm quan cho triều đình. Từ “man mác” gợi lên tâm trạng trống trải, vắng
lặng. “Lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi, buồn thảm. Hai từ láy diễn tả tâm trạng cô đơn, hoài
niệm của tác giả về một thời cùng bạn bè công tác, đồng thời đưa tác giả trở lại thực
tại của đất nước đang trong cảnh loạn lạc, bi thương. Nhớ về bạn bè đồng thời cũng
là nhớ về một thời hào quang của chính mình. Bao nhiêu tâm sức của Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
Khuyến dồn cả vào sự nghiệp học hành, thi cử, nhưng tâm nguyện không trọn, ông
đành ôm sầu muộn về quê hương. Những câu thơ này mang đậm nỗi niềm ưu tư,
sầu muộn của Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Khuyến sống với tình cảm chân thành nên khi những người bạn thân
của ông ra đi ông đã viết lên những vần thơ hết sức cảm động. Bài thơ Khóc Dương
Khuê là một bài thơ hay và gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc về tình cảm
Nguyễn Khuyến dành cho bạn. Dương Khuê - người đỗ cử nhân cùng khoa với
Nguyễn Khuyến. Ông là một trong những người bạn thân nhất của Nguyễn Khuyến.
Cả bài thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào. Dù rất đau xót nhưng Nguyễn Khuyến
đều né tránh không viết những từ nói về việc Dương Khuê ra đi như: chết, mất, từ
trần, qua đời… mà chỉ nói:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Hai từ “thôi” đặt trong một dòng thơ như gợi nên sự buồn bã, thương xót, ngỡ
ngàng của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi của bạn. Có lúc ông lại nói khác đi:
Làm sao bác vội về ngay?
Hay:
Sao vội vàng đã mải lên tiên?
Những câu hỏi: “làm sao?”, “sao?”, kết hợp những từ chỉ sự nhanh chóng, gấp
gáp như: “vội”, “mải” cho thấy sự hờn giận, trách móc của Nguyễn Khuyến với
bạn, cũng chỉ vì quá thương bạn và khó có thể chấp nhận một sự thật là bạn đã ra đi.
Không khí của bài thơ thật xúc động: Phần đầu bài thơ Nguyễn Khuyến ôn lại kỉ
niệm của hai người từ thời hàn vi, khi hai người còn trẻ. Nguyễn Khuyến còn ví tình
cảm của mình và bạn chẳng khác đâu “duyên trời”:
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời…
Nhịp điệu của bài thơ theo nhịp điệu chậm và buồn nhưng càng về cuối khi
trực tiếp nói đến cái chết của bạn thì nhịp điệu, giọng thơ dồn dập, nức nở, thống
thiết, nghẹn ngào:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương…
Những câu thơ với những cú pháp được lặp lại như: không mua… không
phải… không mua, viết đưa ai… ai biết mà đưa, chẳng ở… dẫu van chẳng ở,
thương… lấy nhớ làm thương… thể hiện một sự bức bối như bị dồn nén, cảm xúc
như muốn vỡ oà. Có thể nói Nguyễn Khuyến là người yêu thương bạn rất mực, ông
viết lên những dòng thơ là tiếng nói của trái tim, tình bạn với ông là thiêng liêng và
cao quý, ông viết chân thực đến nỗi đọc lên ai cũng phải xúc động. Ai cũng có bên
mình những người bạn tri kỉ, khi mất bạn ai cũng đau xót, nhưng để viết được những
vần thơ tha thiết, xót xa như Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê thì quả thực văn học
không có nhiều. Bởi vậy nên tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê luôn
được sánh ngang với những tình bạn lớn như: Bá Nha - Tử Kỳ, Trần Phồn - Từ Trĩ…
3.5. Quan hệ làng xóm
Nguyễn Khuyến là một ông Tam nguyên được mọi người kính nể và trọng
vọng, ông từng được bổ nhiệm nhiều chức quan. Ấy vậy mà giữa Nguyễn Khuyến
với những người nhà quê dường như không bao giờ có khoảng cách, ông hoà mình
vào đời sống của nhân dân một cách tự nhiên, giản dị và thân mật:
Nay tiết mừng ông mới bảy mươi,
Cổ hy chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt,
Đầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
Bè bạn bầy vai kèo chén Lý,
Cháu con dưới gối múa sân Lai.
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thật,
Chữ “đức giả xương” máu để đời.
(Mừng ông lão hàng thịt)
Nguyễn Khuyến làm bài thơ tặng ông Ước Đà, người cùng làng với nhà thơ,
gia đình ông này đã có mấy đời làm hàng thịt. Từ câu thơ đầu tiên ta đã thấy giọng
thơ rất hài hước. Ở Việt Nam ta xưa tuổi bảy mươi được coi là “tuổi xưa nay hiếm”,
thế nhưng Nguyễn Khuyến lại dùng từ “mới bảy mươi” ngụ ý rằng ông lão hàng
xóm vẫn còn rất trẻ, khỏe, giọng thơ rất hóm hỉnh. “Chửa tắc tai”, cách nói suồng
xã, thân mật, làm thơ nhưng vẫn bình dị như lời nói hàng ngày. Nét đặc sắc trong
bài thơ này là ở chỗ nó thể hiện được tài nghệ chơi chữ của Nguyễn Khuyến. Ta
thấy, trong tám câu thơ câu nào cũng có những từ “chuyên dụng” để chỉ nghề hàng
thịt như: tiết, cổ, răng, mắt, đầu, tai, vai, gối, lòng, chân, xương, máu… Nguyễn
Khuyến không những tài nghệ trong việc làm thơ mà còn sáng tạo ra những hình
ảnh, chi tiết độc đáo, đọc lên người nào cũng có thể hiểu được mà ý nghĩa lại vô
cùng sâu sắc.
Quan hệ tình cảm làng xóm còn được Nguyễn Khuyến thể hiện ở việc mời
khách quý dự lễ chúc thọ:
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm muơi ông cũng lão đây mà.
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Giò bánh, trâu heo, cũng gọi là!
Chú Láo bên người lên với tớ,
Ông Từ ngõ chợ lễ cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy ra.
(Lên lão)
Theo phong tục cũ, khi làng mở hội lễ mừng các cụ lên lão, đình làng sẽ bầy
cỗ bàn, cờ quạt, chiêng trống linh đình. Các cụ được ngồi võng ra đình, được ngồi
mâm nhất, được tặng áo lụa đỏ. Bài thơ thể hiện tính cộng đồng, tình người. Mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
khi ra đình nào có việc hoặc làng có việc là tất cả anh em làng xóm đến tề tựu đông
đủ, từ các bô lão cho đến các cháu nhỏ. Việc ăn uống, cỗ bàn luôn được chú trọng.
Không khí nhộn nhịp không chỉ ở tiếng cười, tiếng nói rôm rả mà còn là tiếng lạch
cạch của mâm bát, tiếng giết mổ trâu heo, tất cả những hỗn hợp âm thanh ấy tạo nên
không khí vui vẻ, ấm cúng.
Tình cảm của những người nhà quê được Nguyễn Khuyến thể hiện ở việc
mời những người ở làng bên như chú Láo, ông Từ. Làng Vị Hạ trước cách mạng
gồm hai giáp là Đông và Đoài. Giáp nọ gọi giáp kia là “giáp bên người”. Nhà thơ ở
giáp Đông, chú Láo ở giáp Đoài vì vậy gọi là giáp người. Còn ông Từ ở xóm chợ
gần làng Vị Hạ, ông giữ chức thủ từ (trông coi đình) nên dân làng quen gọi là ông
Từ. Dù hai người đều không ở cùng làng, không phải người có địa vị, nhưng với
Nguyễn Khuyến họ đều sang chung vui với ông với tư cách như người khách quý
bất kể sang hèn. Ta như cảm nhận được nụ cười vui vẻ trên khuôn mặt của vị quan
nhân cuối thời Nguyễn, nó thể hiện tình người rất chân thành, đằm thắm ở làng quê
Việt xưa.
Bên cạnh việc làm thơ, Nguyễn Khuyến còn làm câu đối tặng cho làng xóm.
Đây là cảnh vợ thợ rèn khóc chồng thì có: than, bễ, rèn cặp, đe loi:
Nhà cửa để lầm than, con thơ dại lấy ai rèn cặp,
Công việc đành bỏ bễ, vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.
(Vợ thợ rèn khóc chồng)
Anh hàng gà khóc vợ thì: có gánh có lồng, có gà con nháo nhác tìm mẹ, gà
trống lục cục nuôi con:
Lồng tạo hoá, đáy sụt rồi, nháo nhác con tìm mẹ,
Gánh càn khôn, ai xẻ nửa, lục cục trống nuôi con.
Với câu đối khóc người thợ nhuộm, nhà thơ tìm ra các dấu hiệu màu sắc như:
tím, dỏ, xanh, vàng, tía thắm…
Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, khi vận tía,
lúc cơn đen điều dại, điều khôn, nhờ bố đỏ,
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng,
Con răng trắng, tím gan, tím ruột với ông xanh.
(Vợ thợ nhuộm khóc chồng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
Bài “Mừng vợ chồng anh coi chợ làm nhà mới”
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa tích tằng xưng tị ốc,
Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay đã vểnh râu tôm.
Câu đối này có một vế là Nôm, một vế là Hán vì “hai vợ chồng anh này vốn là
khán thị tức là người coi chợ. Do làm ăn khấm khá, chồng mua được chân phó lý lại
làm được nhà mới nên anh chồng muốn xin câu đối nhưng là chữ Hán, chị vợ lại
muốn xin câu đối Nôm, bởi vậy tác giả làm một vế chữ Hán, một vế chữ Nôm mà
lại đối rất chỉnh thị - làng, giang - nước, ốc – tôm” [ 10, tr. 607]. Câu thứ nhất mặc
dù là chữ Hán nhưng lại có thành ngữ, cụm từ “tị ốc” có xuất phát từ thành ngữ “tị
ốc khả phong” tức là phong tục tốt đẹp, nhà nhà đều đáng được khen. “Nhất cận
giang, nhị cận thị” cũng là câu tục ngữ cửa miệng của nhân dân ta để chỉ chỗ ở đẹp,
dễ sinh sống, làm ăn, nó đối rất chỉnh với câu: giàu ở làng, sang ở nước.
Nguyễn Khuyến có tài nghệ đưa ca dao, tục ngữ vào trong các vế đối, có thể
giữ nguyên hoặc biến tấu đi đôi chút nhưng không hề làm giảm sút ý nghĩa của câu
mà làm tăng thêm giá trị của câu đối. Những câu đối viết tặng hàng xóm, ông luôn
nhìn vào đặc điểm nghề nghiệp, hoàn cảnh sống để đưa ra những vế đối có tình, có
lý, có sức truyền cảm, lan toả rộng rãi, dễ nhớ dễ thuộc với tất cả mọi người.
* Tiểu kết
Tìm hiểu các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân cụ thể trong thơ Nguyễn
Khuyến ta thấy nhà thơ không chỉ sống theo lý trí, theo những khuân khổ mẫu mực
của Nho giáo mà vượt lên trên nó, ông đến với mọi người bằng tiếng nói của lòng
nhân ái. Các mối quan hệ cá nhân trong thơ ông bởi thế rất sâu nặng tình người, tình
đời: với vợ ông là một người chồng tri âm, tri kỷ; với con ông là một người cha yêu
thương con hết mực, khuyên dạy con cái bằng cả tấm lòng; với bạn bè ông sống
chân thành và sâu sắc; với làng xóm ông sống gần gũi, chan hoà thương dân; với
học trò ông khuyên, dạy những gì hết sức thiết thực.
Qua những mối quan hệ đó, đời sống riêng tư cũng như nhân cách, tâm hồn
của Nguyễn Khuyến hiện lên chân thực hơn, sinh động hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
KẾT LUẬN
1. Có thể nói, đến Nguyễn Khuyến, vấn đề đời tư của bản thân nhà thơ -
những mối quan hệ riêng tư, con người và cuộc sống cá nhân của chính tác giả - đã
trở thành vấn đề chủ yếu, vấn đề trung tâm mà nhà văn nêu lên và đặt ra trong tác
phẩm. Đó là kết quả của quá trình tiếp thu, tiếp nối và phát triển trên cơ sở sự đổi
mới quan niệm về con người trong văn học trung đại từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ... Ở hoàn cảnh xã hội
còn tồn tại nhiều những quy định khắt khe đối với cuộc sống con người, thì sự xuất
hiện chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến có giá trị như là quá trình con người
nhìn lại mình, tự đánh giá mình và dám làm mình. Đây là cái nhìn hết sức táo bạo
và mới mẻ để con người thực sự tồn tại với những bản tính vốn có, con người có thể
phát huy những giá trị nhân bản sâu sắc của mình.
2. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến là một trong những chủ đề tiêu
biểu và đặc sắc trong sáng tác của nhà thơ. Nó được thể hiện một cách chân thực
sinh động thông qua những vần thơ viết về con người cá nhân. Đặt trong dòng chảy
của văn học trung đại, đến Nguyễn Khuyến chủ đề đời tư được hiện lên rõ nét.
Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến cho thấy quan niệm về con người gần
với quan niệm con người hiện đại.
3. Cùng với sự xuất hiện của chủ đề đời tư trong văn học trung đại thì sự phát
triển khá đa dạng và phong phú của chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến đã làm
cho văn học có sự đổi thay mới mẻ hơn, sâu sắc hơn.
Tất nhiên chủ đề đời tư trong văn học trung đại Việt Nam nói chung trong thơ
của Nguyễn Khuyến nói riêng chưa được toàn vẹn và đầy đủ như văn học hiện đại
sau này, nhưng những bước đi của nó lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển và mở rộng của chủ đề đời tư trong thơ ca Việt Nam những giai đoạn sau.
4. Ở đề tài này chúng tôi mới chỉ khảo sát và tìm hiểu những bài thơ viết về
chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến. Sau này có điều kiện, chúng tôi sẽ mở
rộng hướng nghiên cứu để tìm hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về nghệ thuật thể hiện
chủ đề đời tư trong thơ ông. Không chỉ vậy, chúng tôi sẽ khảo sát trên mọi thể loại
không chỉ là thơ mà còn cả câu đối, hát nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AJA. Gurêvich (1998), Các phạm trù văn hoá trung cổ, Nhà xuất bản giáo dục,
Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Đình Chú, Lê Mai (1984), Thơ văn Trần Tế Xương, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
4. Xuân Diệu (giới thiệu) (1971), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội.
5. Xuân Diệu (1981- 1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội.
6. Trịnh Bá Đĩnh (1994) – Phong cách dân gian trong thơ Yên Đổ - Tạp chí Văn
học, số 1.
7. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nhà xuất bản
Đại học quốc gia, Hà Nội.
9. Mai Hương (2000), Nguyễn Khuyến thơ, lời bình và giai thoại, Nhà xuất bản Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
10.. Nguyễn Văn Huyền (1984), Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nhà xuất bản khoa học
xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Hoàn (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Văn
học, Hà Nội.
12. Trần Đình Hượu, Lê Trí Dũng (1988) Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900-1930, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
13. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nhà xuất
bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
14. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1978), Văn học Việt Nam thế
kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, tập I, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội.
15. Nguyễn Đức Khuông (2005), Tác giả tác phẩm văn học Việt Nam trong con mắt
người nước ngoài, Nhà xuất bản Đại học sư phạm, Hà Nội.
16. Nguyễn Lộc (2007), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
17. Phương Lựu – Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – Lê Khắc
Hòa – Thành Thế Thái Bình (2007), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
18. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại
Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
19. Hoàng Mai Quyên (2011) Giá trị văn hóa truyền thống trong trước tác của
Nguyễn Khuyến – Đại học sư phạm Thái Nguyên.
20. Bùi Văn Nguyên, Phan Sĩ Tấn (1971), Lịch sử văn học Việt Nam, tập II, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
21. Nhiều tác giả (1978), “Văn học dân gian”, trong sách: Lịch sử văn học Việt
Nam, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (1990) Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ
XIX, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả (1989), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (1996), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
25. Nhiều tác giả (1998), Nguyễn Khuyến – con người và tác phẩm, Nhà xuất bản
Hội nhà văn, Hà Nội.
26. Nhiều tác giả (1998), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
27. Nhiều tác giả (1999), Tư liệu văn học 11, phần văn học Việt Nam, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
28. Nhiều tác giả (2001), Phân tích bình giảng văn học 11, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
29. Nhiều tác giả (2001), Phân tích bình giảng văn học 11, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
30. Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Khuyến - về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
31. Nhiều tác giả (2007), Nguyễn Khuyến lời bình và giai thoại, Nhà xuất bản Văn
học, Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
34. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
36. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Văn
học Đại học Quốc gia, Hà Nội.
37. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
38. Vũ Thanh (1998), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
39. Tuấn Thành – Anh Vũ (2007), Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình, Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội.
40. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
41. Lã Nhâm Thìn (2002), Bình giảng thơ Nôm đường luật, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
42. Thơ văn Nguyễn Trãi (1980), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
43. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (1997), Nhà xuất bản Văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
44. Thân Thị Minh Trang (2012), Tình cảm gia đình trong thơ Nguyễn Khuyến - Đại
học sư phạm Thái Nguyên.
45. Lê Trí Viễn (1973), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
46. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
47. Hoàng Hữu Yên (1984), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng thống kê những bài thơ về chủ đề đời tư viết bằng
chữ Hán trong thơ Nguyễn Khuyến
STT Thơ chữ Hán
1 Bài muộn (Giải buồn)
2 Bắc quy, lưu giản tại Kinh chư đồng chí (Về Bắc gửi lại các bạn đồng tâm ở
Kinh)
3 Bệnh trung (Trong lúc ốm)
4 Bùi viên cựu trạch ca (Bài ca nhà cũ ở xứ vườn Bùi)
5 Ca tịch (Trầu hát)
6 Cảm tác (Cảm tác)
7 Cảm sự (Cảm việc)
8 Chỉ trảo (Móng tay)
9 Dạ muộn (Nỗi buồn ban đêm)
10 Dữ ấp nhân dục thoại (Muốn nói chuyện với người làng)
11 Dữ hữu nhân Đồng, Tốn dạ thoại (Ban đêm nói chuyện với bạn là Đồng và Tốn)
12 Dữ thị độc Trần đài ẩm thoại (Cùng ông thị độc họ Trần uống rượu nói chuyện)
13 Đề ảnh
14 Độc thán (Than một mình)
15 Đối trướng phát khách (Bán hàng đối trướng)
16 Điền gia tự thuật (Nhà nông tự thuật)
17 Điệu quyên (Viếng con cuốc)
18 Điếu nội (Khóc vợ)
19 Hạ thực (Ăn cơm mùa hè)
20 Hưng niên (Mất mùa)
21 Hữu cảm (Cảm xúc)
22 Hoàn gia tác (Về nhà)
23 Hồi Kinh lưu giản thị đồng chí (Về Kinh gửi lại bạn đồng tâm)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24 Khách xá nguyên đán (Tết nguyên đán ở đất khách)
25 Khổ nhiệt (Khổ vì nực)
26 Ký Châu giang Bùi Ân Niên (Gửi ông Bùi Ân Niên ở Châu Cầu)
27 Ký Khắc Niệm Dương niên ông (Gửi bạn đồng khoa họ Dương ở xã khắc niệm)
28 Lão thái (Vẻ già)
29 Lưu giản thị môn đệ (Viết để lại cho học trò)
30 Mộ xuân tiểu thán (Lời than lúc cuối xuân)
31 Ngẫu thành I (Ngẫu thành I)
32 Ngẫu thành II (Ngẫu thành II)
33 Nhàn vịnh
34 Nhân tạo (Ngồi nhàn)
35 Nhân tặng nhục (Có người cho thịt)
36 Nữ thấn khóc nội (Khóc vợ chôn nơi đất khách)
37 Tặng song khế Chi Long sĩ nhân Lê Đài (Tặng bạn học là bác Lê, sĩ nhân ở
Chi Long)
38 Thất tam tam (Mất con ba ba)
39 Thị tử Hoan (Dặn con là Hoan)
40 Tiễn môn đệ Nghĩa Định sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn
đệ (Tiễn học trò là Nghĩa Định sứ quân Lê Như Bạch, nhân tiện gửi cho các
học trò ở Kinh thành)
41 Thoại tăng (Nói chuyện với sư)
42 Thư đường cảm thị (Trong nhà học, nhân cảm xúc nhủ bảo các con)
43 Thứ Dương Khuê tiễn tặng nguyên vận (Hoạ nguyên vận thơ tiễn của Dương Khuê)
44 Thượng Ninh hậu chỉ qui tác (Vào Kinh đợi chỉ, trở về)
45 Trị mệnh (Lời dặn lúc còn tỉnh)
46 Trừ tịch (Đêm cuối năm)
47 Tuý hậu (Sau khi say)
48 Tuý ngâm (Thơ say)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49 Tuý ông ngâm (Thơ ông say)
50 Tứ tử Hoan hội thí trúng phó bảng (Gửi cho con là Hoan đỗ phó bảng)
51 Tử Hoan lai Kinh hội thí, phú thi hoạ nguyên vận dĩ tặng (Con là Hoan vào
Kinh thi hội, ta làm thơ họa nguyên vận gửi cho)
52 Tự thán (Tự than)
53 Tự thuật (Tự thuật)
54 Tự trào (Tự giễu mình)
55 U sầu (U sầu)
56 Ức gia nhi (Nhớ con)
57 Vãn thiếp Phạm thị (Khóc người thiếp họ Phạm)
58 Xuân bệnh (Mưa xuân, bị ốm)
59 Xuân dạ liên nga (Đêm xuân thương con thiêu thân)
60 Xuân nguyên hữu cảm (Cảm nghĩ đầu xuân)
61 Xuân nhật (Ngày Xuân)
62 Xuân nhật thị nhi (Ngày xuân dạy con)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phụ lục 2: Bảng thống kê những bài thơ về chủ đề đời tư viết bằng
trong thơ chữ Nôm trong thơ Nguyễn Khuyến
STT Thơ chữ Nôm
1 Anh giả điếc
2 Bạn đến chơi nhà
3 Bóng đè
4 Chúc thọ
5 Đại lão
6 Đêm đông cảm hoài
7 Đến chơi nhà bác Đặng
8 Gửi bác Châu Cầu
9 Gửi bạn
10 Gửi đốc học Hà Nam
11 Gửi người con gái xóm Đông
12 Gửi ông đốc học Ngũ Sơn
13 Giễu mình chưa đỗ
14 Hỏi thăm quan tuần mất cướp
15 Khai bút
16 Khóc Dương Khuê
17 Khuyên vợ cả
18 Lên lão
19 Lụt hỏi thăm bạn
20 Lời vợ anh phường chèo
21 Mừng anh vợ
22 Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi
23 Mừng ông nghè mới đỗ
24 Mừng ông lão hàng thịt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25 Ngày xuân dạy các con
26 Nguyên đán ngẫu vịnh
27 Nhà nông than thở
28 Nhất vợ, nhì giời
29 Nói chuyện với bạn
Ta lại người cho hoa trà 30
Tặng bà Hậu Cẩm 31
Tặng người làng ra làm quan 32
Than già 33
Than nghèo 34
Than nợ 35
Tự thuật 36
Tự trào 37
Trở về vườn cũ 38
Trời nói 39
40 Uống rượu ở vườn Bùi