VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ÁP DỤNG CƠ CHẾ
ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ TRONG CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ - BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ÁP DỤNG CƠ CHẾ ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ TRONG CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN ỨNG
DỤNG CÔNG NGHỆ - BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ)
Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 8 34 04 12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TẠ DOÃN TRỊNH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi. Tất cả các số liệu và những trích dẫn trong luận văn đều có nguồn
gốc chính xác và rõ ràng. Những phân tích của luận văn cũng chưa từng được công
bố ở một công trình nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Ngọc
3
LỜI CÁM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Thầy giáo TS Tạ
Doãn Trịnh - người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết với kinh nghiệm cũng
như kiến thức của mình tận tình chỉ bảo, đưa ra những hướng dẫn cho tôi
trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo của trường
Học viện Khoa Học Xã Hội, đặc biệt là các thầy cô thuộc khoa Chính sách
công, ngành Quản lý khoa học và công nghệ đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học chuyển đổi và học cao học tại trường vừa qua.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn các cán bộ, công nhân viên chức Viện
Ứng dụng công nghệ đã chỉ bảo, chia sẻ những tài liệu và các đóng góp quý
báu để tôi có những tư liệu phục vụ cho việc hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn bộ gia đình, bạn bè và người
thân, những người đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI Ở
CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG ..................................................... 8
1.1 Khái niệm và sự cần thiết thực hiện cơ chế PPP trong Khoa học và
Công nghệ ................................................................................................... 8
1.2 Tổng quan về mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng dụng và triển khai
kết quả nghiên cứu khoa học ..................................................................... 12
1.3. Những vấn đề phát sinh trong mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng
dụng và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học ...................................... 19
1.4 Triển vọng và thách thức .................................................................... 23
Tiểu kết chương ............................................................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ ĐIỀU
CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ (PPP) Ở VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN TRIỂN KHAI TẠI VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG
NGHỆ ............................................................................................................. 31
2.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác công - tư
tại Việt Nam .............................................................................................. 31
2.2 Văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác Công - Tư trong
hoạt động Khoa học và Công nghệ ........................................................... 39
2.3 Một số vấn đề vướng mắc về cơ chế, chính sách và luật pháp. .......... 42
2.4 Thực tiễn triển khai mô hình PPP tại Viện Ứng dụng công nghệ ...... 44
Chương 3: PPP TRONG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐÔI MỚI
SÁNG TẠO VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THÚC ĐẨY HÌNH THỨC ĐỐI
TÁC CÔNG - TƯ TRONG VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ. ............. 51
3.1 Khung phân tích PPP trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi
mới (STI) ................................................................................................... 51
3.2 Những điều kiện cần và đủ để thiết kế và thực hiện PPP trong hoạt
động Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo .................................. 60
3.3 Đề xuất trong việc triển khai PPP tại Viện Ứng dụng Công nghệ -
Bộ Khoa học và Công nghệ ...................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng việt
Tiếng anh Absorptive Capacity Build - Transfer Build - Lease - Transfer AC BT BLT
Build - Operate - Transfer BOT
Năng lực tiếp nhận xây dựng - chuyển giao Hợp đồng xây dựng - thuê dịch vụ - chuyển giao Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao
Build - Transfer - Operate BTO
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
Cơ sở hạ tầng CSHT
Doanh nghiệp DN
Đại học ĐH
ĐHQG Đại học quốc gia
ICT
Công nghệ thông tin và chuyền thông Information - Coonmunication - Technology
Hệ thống đổi mới Innovation system IS
Quyền tài sản trí tuệ Intellectual property rights IPR
KH&CN Khoa học và Công nghệ NC&PT Nghiên cứu và phát triển
Nguồn ngân sách Nhà nước NNSN
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (đầu tư nươc ngoài) Official Development Assistance
Quan hệ đối tác công – tư Public-Private Partnership PPP
Năng lực nghiên cứu Research Capacity RC
Nghiên cứu và phát triển
Research and Development
R&D
Khoa học, công nghệ và đổi mới
STI
Science - Technology - Innovation
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Small and medium enterprises
SMEs
Trung ương
TW
Công nghệ & Thực hiện đổi mới
Technology & Innovation
TIP
Performance
Ủy ban nhân dân
UBND
DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG
Hình 1.1. Mô hình các khoa, bộ môn của Đại học quốc gia Hà Nội .............. 17
Hình 3.1. Hệ thống con theo chức năng, các tác nhân cơ sở và ..................... 53
tổ chức trung gian ............................................................................................ 53
Hình 3.2. Môi trường liền kề: yếu tố tác động liên quan và các chế độ
(mức meso) ............................................................................................ 55
Hình 3.3. Điều kiện khung: cấu trúc và lĩnh vực chính sách cấp độ vĩ mô .... 56
Bảng 3.1: Phân nhóm hoạt động có yếu tố chuyển giao tri thức và công
nghệ ....................................................................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Public-Private Partnership - PPP có thể tạm dịch là Quan hệ đối tác
công - tư. Thuật ngữ đối tác công - tư bắt nguồn từ Hoa Kỳ với các chương
trình giáo dục được cả khu vực công và khu vực tư cùng tài trợ trong thập
niên 50 của thế kỷ trước. Sau đó, nó được sử dụng rộng rãi để nói đến các liên
doanh giữa các chính quyền thành phố và các nhà đầu tư tư nhân trong việc
cải tạo các công trình đô thị ở Hoa Kỳ trong thập niên 60. Kể từ thập niên 80,
thuật ngữ đối tác công - tư dần phổ biến ở nhiều nước và được hiểu là sự hợp
tác giữa nhà nước và tư nhân để cùng xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) hay
cung cấp các dịch vụ công cộng. Mô hình đối tác này bắt đầu xuất hiện ở Việt
Nam từ đầu thập niên 90. Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình PPP,
nhưng phổ biến nhất là nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân cùng ký một hợp
đồng để phân chia lợi ích, chia sẻ rủi ro cũng như trách nhiệm của mỗi bên
trong việc xây dựng một CSHT hay cung cấp một dịch vụ công nào đó.
Trước nhu cầu vốn đầu tư CSHT của đất nước nói chung và mỗi
ngành/địa phương nói riêng là rất lớn, trong khi ngân sách nhà nước thì có
hạn và vốn của các nhà tài trợ ngày càng thu hẹp, thì PPP được xem là đòn
bẩy tích cực bù đắp sự thiếu hụt này. Thông qua PPP, nhà nước sẽ thiết lập
các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được khuyến khích cung cấp
vốn bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác
tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, nó
sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân.
Trước đây, PPP chủ yếu được áp dụng trong đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng, xây dựng đường xá, nhà máy phát điện hay hệ thống cấp thoát
nước… Tuy nhiên đến nay, hình thức đầu tư này đã được mở rộng ra nhiều
lĩnh vực, trong đó có KH&CN, với mục tiêu huy động sự tham gia của khu
vực tư nhân vào thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực này. Theo các chuyên gia,
1
PPP trong KH&CN có nhiệm vụ cơ bản là thu hút vốn đầu tư để xây dựng,
hoàn thiện kết cấu hạ tầng và các nhiệm vụ KH&CN; thay đổi phương thức tổ
chức và quản lý để khu vực tư tham gia nhiều hơn, tích cực và chủ động hơn
vào các chương trình, dự án KH&CN; và chia sẻ rủi ro trong nghiên cứu khoa
học. Khi dự án theo hình thức PPP được thực hiện cũng sẽ giúp nâng cao
chuỗi giá trị sản phẩm, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, thúc đẩy
khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN - Một mục tiêu
quan trọng trong phát triển KH&CN của Việt Nam.
PPP hỗ trợ đổi mới công nghệ và nâng cấp chuỗi giá trị. Nguồn lực đầu
tư cho đổi mới công nghệ luôn là vấn đề Nhà nước và doanh nghiệp hết sức
quan tâm, vì đây là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc nâng cấp
chuỗi giá trị sản phẩm. Với quan điểm không phân biệt các thành phần kinh tế
trong việc thụ hưởng các cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, thời
gian qua các doanh nghiệp trong nước đã và đang nhận được sự hỗ trợ từ khu
vực công, nhất là hỗ trợ về công nghệ và các chính sách ưu đãi. Tuy nhiên để
tiếp tục phát triển, nhanh chóng tiếp cận được các công nghệ mới, hiện đại,
các doanh nghiệp vẫn rất cần có thêm cơ chế và chính sách mang tính đột phá
nhằm thu hút hơn nữa các nguồn lực đầu tư từ xã hội (cả trong và ngoài nước)
để đổi mới công nghệ, sáng tạo ra các sản phẩm mới. Về cơ chế chính sách
thu hút đầu tư phục vụ cho đổi mới công nghệ, ngày 14/2/2015 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP và ngày
28/6/2016, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 06/2016/TT-
BKHĐT hướng dẫn một số điều của Nghị định 15. Việc thu hút đầu tư phát
triển hạ tầng dịch vụ KH&CN được quy định tại: Điểm đ, e Khoản 1, Điều 4
của Nghị định 15. Các điểm này thể hiện mục tiêu của chính sách mới về thu
hút đầu tư, trong xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, quản lý khai thác các hạ
tầng sẵn có đều có thể áp dụng hình thức PPP. Đây là những điểm rất mới về
chính sách mà trước đây chưa từng được xây dựng và triển khai. Theo cơ chế
2
mới này, nếu áp dụng PPP đối với các hạ tầng kỹ thuật cơ sở nghiên cứu,
phòng thí nghiệm đã được Nhà nước đầu tư, có thể theo mô hình nhượng
quyền khai thác (Franchise). Theo mô hình này, các CSHT đã được Nhà nước
đầu tư sẽ được giao lại cho tư nhân quản lý và khai thác nhưng quyền sở hữu
vẫn thuộc về Nhà nước. Khi áp dụng mô hình này cùng với việc áp dụng các
quy định tự chủ về tài chính theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày
14/6/2016 quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập sẽ giúp
chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập thành doanh nghiệp KH&CN, đồng
thời tạo ra cơ chế giúp cho các đối tượng khởi nghiệp tiếp cận thuận lợi và sử
dụng được các hạ tầng kỹ thuật cho nghiên cứu và phát triển công nghệ mới
cho chuỗi giá trị. Khi áp dụng mô hình PPP cho các dự án đầu tư CSHT trong
các khu công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao… khó áp dụng mô hình
BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BTO (Hợp đồng xây
dựng - chuyển giao - kinh doanh) do khả năng hoàn vốn và sinh lời không
cao, không hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên các mô hình BTL (Hợp đồng xây
dựng - chuyển giao - thuê dịch vụ), hay BLT (Hợp đồng xây dựng - thuê dịch
vụ - chuyển giao) vẫn có tính hấp dẫn các nhà đầu tư nếu nguồn vốn từ ngân
sách được sử dụng để bù đắp cho phần chi phí mà nguồn thu từ phí thực hiện
các dịch vụ khoa học kỹ thuật không đủ bù đắp cho các nhà đầu tư. Để thực
hiện mô hình PPP cho nhiệm vụ KH&CN, ngày 7/10/2016 Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 1931/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thí điểm thực
hiện cơ chế đối tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN (gọi
tắt là Đề án 1931). Đề án 1931 cho phép khu vực tư và khu vực công cùng
tiến hành xác định mục tiêu các nhiệm vụ KH&CN sẽ thực hiện để tạo ra các
sản phẩm mới định hướng thị trường và có tính cạnh tranh. Đề án thực hiện
theo hình thức PPP sẽ giúp tận dụng được khả năng nhanh nhạy về nắm bắt
nhu cầu thị trường của nhà đầu tư, doanh nghiệp ngay từ khâu xác định nhiệm
vụ và định hướng mục tiêu sản phẩm ngay từ khâu đầu vào. Bản chất đây
3
cũng là việc xây dựng lộ trình công nghệ cho sản phẩm tương lai theo định
hướng thị trường.
PPP hỗ trợ hình thành và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,
doanh nghiệp KH&CN. Trong mô hình PPP, khi thực hiện sẽ hình thành nên
doanh nghiệp dự án. Đây là chủ thể đại diện cho cả hai phía công và tư để tổ
chức triển khai thực hiện dự án trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng PPP.
Đối với một dự án đầu tư cho hạ tầng KH&CN, hay dự án KH&CN sau khi
được thành lập sẽ xuất hiện doanh nghiệp dự án là doanh nghiệp KH&CN. Số
lượng doanh nghiệp KH&CN được hình thành tùy thuộc vào tính chất và quy
mô của dự án.
Tuy nhiên, điểm riêng biệt của các doanh nghiệp tham gia hợp đồng
PPP là bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt hợp đồng, mọi sự thay đổi đều
không được phép hoặc phải có ý kiến của các bên và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, nhất là tổ chức tín dụng cho dự án PPP. Đây là điểm quan trọng
cần lưu ý trong quá trình khởi nghiệp sáng tạo và hình thành các doanh
nghiệp KH&CN .
Mặc dù đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới,
song hình thức hợp tác đối tác công - tư là khá mới ở Việt Nam, nhất là khi áp
dụng vào lĩnh vực KH&CN. Tuy nhiên đây là một xu hướng tất yếu. Do đó
việc nghiên cứu mô hình này cần được tiếp tục cả về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn để PPP thực sự là một giải pháp đột phá thu hút các nguồn
lực xã hội (cả trong và ngoài nước) nhằm thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát
triển các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp KH&CN .
Vì vậy, việc lựa chọn và thực hiện đề tài khóa luận Thạc sĩ “Đề xuất
giải pháp áp dụng cơ chế đối tác công - tư trong các viện nghiên cứu ứng
dụng (Nghiên cứu trường hợp Viện Ứng dụng công nghệ - Bộ Khoa học và
Công nghệ)” là cần thiết và có ý nghĩa khoa học và thực tế.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công trình nghiên cứu thực nghiệm PPP trên thế giới rất phong phú,
nhiều kết quả quan trọng đã được công bố, cụ thể nghiên cứu khẳng định
không tồn tại một hình thức PPP chuẩn và mỗi nước đều có chiến lược riêng
tùy thuộc bối cảnh của nước đó. Ở Việt Nam vai trò của công nghệ trong phát
triển đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Trong môi trường cạnh tranh ngày
càng tăng hiện nay, công nghệ là một yếu tố chiến lược sống còn cho phát
triển nhanh chóng kinh tế - xã hội. Kết quả của việc ứng dụng, khai thác công
nghệ phụ thuộc vào việc chúng ta tạo ra được những công nghệ phù hợp, có
khả năng áp dụng được vào hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp. Cho
nên, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng các mô hình đối tác trong việc nghiên
cứu, ứng dụng và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.
Tổng hợp cơ sở Pháp lý điều chỉnh mô hình đối tác giữa các đơn vị/tổ
chức Nghiên cứu khoa học và các đối tác tư nhân theo mô hình đối tác công -
tư (PPP).
Đề xuất Mô hình đối công - tư (PPP) trong việc nghiên cứu, ứng dụng
và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học giữa nhà nước và tư nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mô hình hợp tác công tư đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở Việt Nam, mô hình này chủ yếu được áp
dụng để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, và cũng mới bắt đầu manh nha
sang ngành KH&CN. Do đó có thể nói, đề tài liên quan tới vấn đề trong
ngành KH&CN vẫn còn rất mới .Vì là một đề tài mới và có phạm vi rộng,
nên luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu việc áp dụng cơ chế đối tác công -
tư ở Viện ứng dụng công nghệ.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Thực tiễn triển khai mô hình đối tác công - tư đã và đang được áp dụng
vào ngành KH&CN, đã đưa ra được những cơ hội và thách thức trong việc
triển khai mô hình đối tác công - tư. Đồng thời cũng nêu được những khó
khăn và thuận lợi của việc triển khai mô hình này. Tuy vẫn còn gặp nhiều khó
khăn nhưng cũng đã có bước thành công nhất định.
Luận văn dựa vào phương pháp Phương pháp nghiên cứu chính sau đây
Phương pháp tiếp cận thể chế được sử dụng để tiến hành các hoạt động
nghiên cứu làm rõ vai trò của từng đối tác trong dự án PPP, bao gồm cả vai
trò của người sử dụng/hưởng lợi từ dự án.
Tiếp cận theo lợi ích được sử dụng nhằm xem xét cân bằng lợi ích,
cách ứng xử liên quan đến các quy định, quy tắc, cam kết của các bên nếu
tham gia các dự án PPP, như đại diện Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân.
Phương pháp hỏi chuyên gia là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội
ngũ chuyên gia để xem xét nhận định bản chất của đối tượng, tìm ra một giải
pháp tối ưu.
Phương pháp phân tích tổng hợp phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý
luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc
về cơ chế PPP. Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được
phân tích tạo ra một hệ thông lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về cơ chế PPP.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn quốc tế cho thấy cách hiểu về PPP trong khoa học công nghệ
và đổi mới sáng tạo (STI) là rất đa dạng. Một thiết kế cụ thể bị chi phối bởi rất
nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến những vấn đề mà PPP nhằm giải quyết;
môi trường pháp lý và những thông lệ chi phối toan tính và hành xử của các
bên; mong muốn, năng lực và cơ hội hợp tác của các bên. Việc đạt được đồng
thuận giữa nhiều bên có lợi ích cốt lõi khác nhau để thành lập PPP và sau đó
triển khai thực hiện là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực. Kinh
6
nghiệm cũng cho thấy PPP đòi hỏi có thời gian để các bên hiểu về nhau tốt
hơn, do vậy ngoài những mục tiêu về những kết quả cụ thể, bản thân quá trình
tương tác giữa các bên cũng cần được coi là một mục tiêu của PPP.
Để PPP có kết quả tốt, sẽ cần đến những thử nghiệm, những điều chỉnh
chính sách, pháp luật liên quan. Không có công thức chung cho những việc
như vậy. Quá trình cùng tiến hóa giữa thực tiễn và chính sách là điều không
thể tránh khỏi và là điều hay nên thực hiện.
Trong bối cảnh Việt Nam nói chung, PPP được kỳ vọng là một sự bổ
sung chính sách để giải quyết những loại vấn đề mà các công cụ chính sách
hiện thời chưa đáp ứng được.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận của cơ chế đối tác công - tư và kinh nghiệm
quốc tế trong việc triển khai ở các viện nghiên cứu ứng dụng.
Chương 2. Thực trạng các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động đối tác
công - tư (PPP) ở Việt Nam và thực tiễn triển khai tại Viện ứng dụng công nghệ.
Chương 3. PPP trong khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và và
một số đề xuất thúc đẩy hình thức đối tác công - tư trong Viện ứng dụng công
nghệ.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI
Ở CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
1.1 Khái niệm và sự cần thiết thực hiện cơ chế PPP trong Khoa học và
Công nghệ
1.1.1 Khái niệm PPP
Quan hệ đối tác công - tư được nhìn nhận như một phương thức để tổ
chức và huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào những hoạt động từ
trước tới nay vẫn được coi là thuộc chức năng của Nhà nước, vừa giúp thúc
đẩy quá trình cải cách hoạt động của hệ thống Nhà nước, trong đó có cải cách
hành chính, vừa cho phép thu hút vốn để xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng
cho đất nước hoặc cho từng vùng, vừa cho phép thay đổi phương thức tổ chức
và quản lý, cho phép khu vực công tham gia nhiều hơn, tích cực và chủ động
hơn vào các chương trình, dự án công. Bên cạnh đó, PPP còn được nhìn nhận
từ khía cạnh chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và tư nhân trong quá trình thực hiện
dự án. Về bản chất, PPP là một hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực
tư nhân, nhằm tích hợp được những điểm mạnh, lợi thế nhất của cả hai khu
vực này trong việc thực hiện một dự án nào đó. Trong giai đoạn đầu mới xuất
hiện, lĩnh vực truyền thống của PPP là phát triển cơ sở hạ tầng song hiện tại
được mở rộng hơn sang các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ.
PPP khác với mua sắm công. Trong một dự án mua sắm công điển
hình, cơ quan nhà nước đặt ra những thông số kỹ thuật và yêu cầu về thiết
kế/dịch vụ, gọi thầu trên cơ sở thiết kế chi tiết/dịch vụ đó, và thanh toán cho
các nhà thầu tư nhân. Nhà nước sẽ phải chi trả cho toàn bộ chi phí, kể cả
những chi phí phát sinh do thay đổi yêu cầu từ phía nhà nước. Việc vận hành
và bảo trì cũng hoàn toàn nằm trong tay Nhà nước và nhà thầu không chịu
8
trách nhiệm cho kết quả hoạt động dài hạn của cơ sở dịch vụ sau thời gian bảo
hành (thường là ngắn hơn rất nhiều).
Theo hình thức PPP, cơ quan nhà nước chỉ rõ những yêu cầu của họ
dưới dạng “đầu ra”. Khu vực tư nhân có mức độ tự do nhất định để thiết kế,
cấp vốn, xây dựng và vận hành cơ sở dịch vụ sao cho đáp ứng được những
yêu cầu “đầu ra” của nhà nước. Khu vực tư nhân sẽ được thanh toán (phí dịch
vụ) trong suốt quãng đời của hợp đồng PPP trên cơ sở thỏa thuận trước, theo
đó qua thời gian nhà đầu tư sẽ thu lại được vốn và lãi. Kết quả chủ yếu của
PPP là việc chuyển những rủi ro cơ bản liên quan tới dự án từ phía Nhà nước
sang doanh nghiệp thực hiện.
1.1.2 Sự cần thiết của cơ chế PPP trong thực hiện nhiệm vụ Khoa học và
Công nghệ
Thực tế đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN còn ít lại dàn trải và không tránh khỏi những trùng lặp trong các
nhiệm vụ cụ thể được thực hiện, là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn
chế về hiệu quả đầu tư, kết quả đạt được. Đặc biệt, sự liên kết, tham gia của
khu vực tư trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN có kinh phí từ ngân
sách nhà nước còn khá mờ nhạt.
Trên thực tế, nhà nước đã có một số cơ chế, chính sách khuyến khích
sự tham gia của khu vực tư trong việc tham gia và thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN của nhà nước. Những cơ chế, chính sách này đã có tác dụng huy
động, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp cùng với nhà nước thực
hiện các nhiệm vụ KH&CN. Mặc dù vậy, nhìn chung, vẫn còn những hạn chế
nhất định trong việc khuyến khích khu vực tư tham gia thực hiện nhiệm vụ
KH&CN cùng với khu vực công. Đặc biệt, việc tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ KH&CN của nhà nước vẫn còn thiếu sự tham gia một cách tích cực, chủ
động, mạnh mẽ và xuyên suốt của khu vực tư trong tất cả các bước, từ xác
định nhiệm vụ đến đóng góp kinh phí, tổ chức, quản lí việc thực hiện và
9
chuyển giao, ứng dụng sản phẩm tạo ra. Phân tích các cơ chế, chính sách hiện
hành có thể thấy một số điểm nổi bật như sau:
- Thông thường các đề xuất bắt nguồn từ một phía, Nhà nước hoặc tư
nhân. Sự tham dự của phía thứ hai có tính chất hưởng ứng khi thấy nhu cầu
của mình (về lợi ích, về sứ mệnh) được đồng thời thực hiện.
- Về tổ chức và quản lý, nhà nước có vai trò điều phối và đưa ra cơ chế
quản lý, thể hiện ở việc lựa chọn và xét duyệt đầu vào, kiểm tra và giám sát
việc tổ chức thực hiện, xét duyệt nghiệm thu kết quả và duyệt quyết toán kinh
phí được sử dụng.
- Nguồn kinh phí do hai bên cùng đóng góp theo tỷ lệ 30:70 hoặc 50:50
(trước đây quy định tỷ lệ thu hồi 100%, 80 hoặc 70% cũng có ý nghĩa tương
tự) nhưng cơ chế tài chính về sử dụng kinh phí áp dụng đối với các nhiệm vụ
KH&CN liên kết về cơ bản cũng giống như các nhiệm vụ được cấp 100%
kinh phí từ NSNN.
- Còn vắng bóng hình thức hợp tác mà cả hai phía cùng chủ động bàn
bạc và cùng khởi xướng ý tưởng nghiên cứu (không theo nghĩa 1 bên khởi
xướng và 1 bên phê duyệt hoặc ngược lại). Sự thiếu vắng này được thể hiện
cả từ khía cạnh quy định của pháp luật, cả từ khía cạnh thực tiễn quản lý các
nhiệm vụ KH&CN. Có thể thấy, gần như hoàn toàn chưa xây dựng được quan
hệ hợp tác hai bên, khi sứ mệnh của Nhà nước và lợi ích của tư nhân gặp nhau
trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
- Các qui định và cơ chế hiện hành đối với việc xác định, thực hiện
nhiệm vụ KH&CN vẫn theo tinh thần hoặc nhà nước chủ động đặt hàng,
doanh nghiệp tham gia thực hiện hoặc doanh nghiệp chủ động đề xuất, nhà
nước hỗ trợ thực hiện. Hiện chưa có những quy định pháp luật làm căn cứ cho
việc nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác cùng nhau chủ
động thiết lập quan hệ đối tác để cùng nhau xác định, thực hiện, khai thác kết
10
quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN mà tất cả các bên cùng quan tâm, nâng cao
hiệu quả sử dụng kinh phí công cho KH&CN .
Trong khi đó, kinh nghiệm nước ngoài cũng đã cho thấy, PPP là công
cụ mới, đáp ứng những nhiệm vụ mà những công cụ hiện có chưa đáp ứng
được (qui mô, kinh phí, tầm ảnh hưởng). PPP nhằm vào các chương trình
nghiên cứu trung và dài hạn với cam kết rõ ràng của khu vực tư nhân. Trong
quan hệ này, đóng góp khu vực công giữ vai trò đòn bẩy, tạo ra môi trường
thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và các tổ chức KH&CN. Nội dung
chương trình nghiên cứu được hình thành dựa trên đề xuất của doanh nghiệp
sẽ nâng cao tính khả thi và đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Thêm vào đó, với tính
chất bất đối xứng thông tin giữa nhà quản lý và nhà khoa học và nhu cầu cụ
thể của doanh nghiệp, cần xem xét đến khả năng quản lý rủi ro tốt hơn của
doanh nghiệp trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ để việc quản lý và sử dụng
nguồn lực chung của xã hội được hiệu quả hơn. Ngoài ra, một khi cơ chế quản
lý nhiệm vụ được trao cho bên đầu tư nhiều hơn quản lý (50-70% đồng vốn
góp chung vào thực hiện nhiệm vụ) thì khả năng hấp dẫn của loại hình hợp
tác công - tư đối với khu vực tư nhân cũng sẽ tăng lên.
Các vấn đề, hạn chế chung về đầu tư, thực hiện và hiệu quả của các
nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ, trong đó có việc đẩy
mạnh sự tham gia của khu vực tư. Ngoài việc có thêm nguồn kinh phí đầu tư
cho nhiệm vụ KH&CN, khu vực tư với những lợi thế về năng lực nghiên cứu
và phát triển, năng lực quản lí, phát triển thị trường, liên kết, tạo mạng lưới,
v.v…, trở thành một đối tác quan trọng mà nhà nước có thể hợp tác để nâng
cao hiệu quả đầu tư và thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Việc thu hút, khuyến
khích khu vực tư tham gia vào nhiệm vụ KH&CN cũng đáp ứng yêu cầu xã
hội hóa hoạt động KH&CN, tạo điều kiện khu vực tư tham gia một cách chủ
động, tích cực.
11
Thực tế đã cho thấy, đầu tư dự án theo hình thức đối tác công - tư trong
lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công là hình thức hợp tác tối ưu
hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, mang lại
lợi ích cho cả nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Luật Đầu tư công cũng
đã chính thức mở ra cơ chế đối tác công - tư để thực hiện, quản lí, vận hành
dự án kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp các dịch vụ công (Luật Đầu tư công,
2014). Việc xây dựng cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm
vụ KH&CN là một trong những giải pháp để tăng cường huy động các nguồn
lực xã hội, thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho KH&CN, hạn chế tình
trạng đầu tư manh mún từ ngân sách nhà nước, giảm chi phí, giảm rủi ro và
tạo ra được một môi trường cạnh tranh cao trong hoạt động KH&CN.
1.2 Tổng quan về mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng dụng và triển khai
kết quả nghiên cứu khoa học
1.2.1 Một số mô hình PPP ở nước ngoài
Quan hệ đối tác công - tư trong nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ tại Hoa Kỳ.
Tại Hoa Kỳ, PPP trong hoạt động R&D được coi là việc khu vực tư
nhân tham gia đầu tư kinh phí cho các dự án nghiên cứu của đại học và các
viện nghiên cứu nhà nước với kỳ vọng được tiếp cận sớm kết quả hoặc được
sở hữu (toàn bộ hoặc một phần) tài sản trí tuệ được tạo ra từ những nghiên
cứu này.
Năm 2000, chính phủ Hoa Kỳ trả tiền cho số lượng nghiên cứu nhiều
hơn so với số nghiên cứu mà chính phủ thực hiện; ngược lại, khu vực doanh
nghiệp và đại học tiến hành nhiều nghiên cứu bằng tiền cấp phát và hợp đồng
với chính quyền liên bang. NC&PT do khu vực doanh nghiệp thực hiện (chủ
yếu là nghiên cứu ứng dụng) chiếm tới ba phần tư tổng số NC&PT của Hoa
Kỳ, tuy nhiên NC&PT do các đại học và cơ quan chính phủ thực hiện cũng
chiếm một tỷ lệ quan trọng, đặc biệt khi tính tới yếu tố là NC&PT trong hai
12
khu vực này chủ yếu là nghiên cứu cơ bản. NC&PT của khu vực đại học tuy
chiếm có 14% tổng số NC&PT nhưng lại chiếm tới 50% tổng số nghiên cứu
cơ bản.
Trong một thời gian dài (từ 1953 đến 2000), khu vực doanh nghiệp của
Hoa Kỳ luôn nhận được khoản kinh phí NC&PT từ Chính phủ liên bang lớn
hơn nhiều so với khu vực đại học. Tuy nhiên, bản thân khu vực doanh nghiệp
cũng đầu tư mạnh mẽ cho NC&PT, nên phần kinh phí nhận được từ chính phủ
tuy lớn cũng chỉ chiếm 10% chi tiêu NC&PT của khu vực này. Trong khi đó,
khu vực đại học tuy nhận được kinh phí từ chính phủ ít hơn, nhưng số đó lại
chiếm tới 60% kinh phí NC&PT mà khu vực này có được.
Ngoài các cơ quan nhà nước trên đây, còn có khoảng 700 phòng thí
nghiệm quốc gia (FFRDC) thực hiện 8.8% ngân sách NC&PT của Hoa kỳ.
Các phòng thí nghiệm này thuộc sở hữu của chính quyền liên bang, phần lớn
ngân sách hoạt động của chúng là do Bộ năng lượng cấp, nhưng lại được quản
lý thông qua hợp đồng với các đại học hoặc doanh nghiệp lớn. Khi xin kinh
phí nghiên cứu các tổ chức này được đối xử giống như đại học, ngoài ra họ
cũng có những hợp đồng nghiên cứu, chủ yếu với Bộ Năng lượng.
Như vậy, có thể thấy hiện nay có sự đan xen về kinh phí từ cả nguồn
công và tư trong các hoạt động NC&PT của cả khu vực tư nhân, đại học và
nhà nước, đặc biệt là trong các hoạt động NC&PT của Hoa Kỳ. Ranh giới
giữa khoa học phi lợi nhuận, và khoa học vì lợi nhuận đang mờ dần đi. Sự đan
xen về nguồn tiền, và theo đó là mục tiêu, cùng với xu thế các doanh nghiệp
đầu tư ngày càng nhiều cho hoạt động NC&PT của khu vực đại học và khu
vực chính phủ, mặc dù vậy, cũng đặt ra những vấn đề trái chiều.
Có thể thấy việc ngày càng có nhiều đầu tư của tư nhân tham gia
NC&PT trong khu vực đại học và chính phủ ở Hoa Kỳ mới là nội hàm của
thuật ngữ đối tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực này. Ở đây, việc tư nhân đầu
tư cho nghiên cứu khoa học của đại học và chính phủ, những tổ chức có thiên
13
hướng nghiên cứu khoa học phục vụ công chúng, phục vụ nhân loại nói
chung, phần nào tương đồng với khái niệm PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng,
theo đó cơ sở hạ tầng phục vụ công cộng lại được đầu tư và khai thác bởi khu
vực tư nhân. Xung đột về lợi ích giữa khu vực tư nhân và khu vực đại học,
chính phủ đặt ra những dấu hỏi về những lợi ích và thiệt hại của PPP trong
NC&PT của hai khu vực sau này.
Những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu của các đại học Hoa Kì
ngày càng dựa nhiều vào kinh phí từ khu vực doanh nghiệp. Nhiều đại học ở
Hoa Kì đã lập ra những đơn vị nghiên cứu để thu hút và tiếp nhận những
nguồn kinh phí thương mại. Cách phổ biến là cam kết chuyển giao quyền đối
với tài sản trí tuệ được tạo nên từ những nghiên cứu trong các lĩnh vực công
nghệ mới, như công nghệ sinh học, vi điện tử, chế tạo, khoa học vật liệu, và
trí tuệ nhân tạo. Nhiều đại học đã tận dụng được sự bùng nổ của nhiều lĩnh
vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học để ký kết được những hợp
đồng nghiên cứu khổng lồ. Trong phần lớn trường hợp, giới doanh nghiệp
nhận được những cam kết về sở hữu những tài sản trí tuệ hình thành từ việc
thực hiện hợp đồng nghiên cứu.
Mục đích của doanh nghiệp khi cấp kinh phí nghiên cứu thường là để
khai thác được chất xám của các nhà khoa học, và thường gắn khoản kinh phí
đó với những vấn đề cụ thể cần giải quyết. Đổi lại cho khoản kinh phí cấp cho
đại học, nhà tài trợ tư nhân thường nhận được li-xăng toàn quyền theo một tỷ
lệ nhất định đối với những bằng sáng chế phát sinh, và cùng với đó là được
tiếp cận các kết quả nghiên cứu, tham gia các cuộc hội thảo khoa học, tiếp cận
đội ngũ giảng viên và các sinh viên nghiên cứu. Với việc cấp kinh phí nghiên
cứu, doanh nghiệp thường đòi hỏi một số đặc quyền, chẳng hạn như trì hoãn
công bố các kết quả nghiên cứu cho đến khi đảm bảo được sở hữu tài sản trí
tuệ. Một số doanh nghiệp trong những lĩnh vực nhạy cảm có thể lái kết quả
nghiên cứu theo hướng có lợi cho họ. Những điều trên đây đều ít nhiều hạn
chế tính cởi mở của khoa học.
14
Một vấn đề khác cần giải quyết khi tư nhân đầu tư vào NC&PT của khu
vực đại học là sự trộn lẫn các nguồn kinh phí của cả tư nhân và nhà nước
trong hoạt động của đại học, do vậy, khi tài sản trí tuệ được chuyển cho doanh
nghiệp thì về nguyên tắc, trong đó có chứa cả phần mà nhà nước đã đầu tư.
Vấn đề này trở nên đặc biệt nhạy cảm nếu nhà tài trợ tư nhân lại là một doanh
nghiệp nước ngoài. Người ta lo ngại rằng, với một số tiền tài trợ nghiên cứu
khiêm tốn, các nhà tài trợ tư nhân lại có thể thu được những thành quả trên
thực tế được đầu tư đáng kể từ nguồn của công. Tương tự với khu vực đại
học, đầu tư tư nhân cho NC&PT của các phòng thí nghiệm liên bang cũng gây
nên những quan ngại tương tự.
Như vậy, đối tác công - tư trong NC&PT một mặt khai thác được
những ưu điểm như có thêm nguồn lực tài chính cho nghiên cứu, định hướng
thực tiễn, khả năng áp dụng v.v., mặt khác, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần
giải quyết, như việc sở hữu các tài sản trí tuệ được tạo ra bằng cả hai nguồn
tiền, sự hạn chế tính mở của khoa học, khuynh hướng quá thiên về lợi nhuận.
Mô hình PPP tại Pháp
Năm 2005, nước Pháp bắt đầu triển khai quá trình cải tổ hệ thống đào
tạo đại học và nghiên cứu khoa học với các mục tiêu:
- Tạo cho hệ thống đào đạo đại học của Pháp có thể đáp ứng tốt hơn khả
năng cạnh tranh quốc tế;
- Tạo dựng những mối quan hệ hợp tác thực sự giữa các trường đại học,
các cơ sở nghiên cứu với các đối tác của nền kinh tế;
- Thực hiện chính sách quy mô, thông qua đó tạo được sự cân bằng giữa
các vùng, miền trên bình diện quốc gia về hệ thống đào tạo đại học và nghiên
cứu khoa học.
Trung tâm cạnh tranh là tổ chức được thành lập theo vùng địa lý đảm
nhận chức năng liên kết giữa các cơ sở đào tạo, các viện nghiên cứu với các
doanh nghiệp tạo nên nguồn lực cho quá trình hợp tác và phát triển với sự hỗ
15
trợ đắc lực của các đối tác khác như nhà nước, các cấp chính quyền địa
phương và các tổ chức quốc tế. Thực chất đây là một văn phòng điều hành
chung các hoạt động nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH&CN và thực tiễn
sản xuất. Trung tâm có nhiệm vụ:
- Trao đổi thông tin, xác định các nhu cầu về đổi mới và chuyển giao công
nghệ của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất nhằm định hướng cho các quá
trình nghiên cứu - triển khai tại các trường đại học và viện nghiên cứu;
- Tập hợp nguồn lực, nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh của các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo;
- Tìm kiếm, khai thác các nguồn lực tài chính cho các hoạt động nghiên
cứu và triển khai;
- Cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn
nhân lực chất lượng cao, tìm kiếm nguồn tài chính cho các đầu tư đổi mới
công nghệ.
Kế hoạch thành lập trung tâm cạnh trang do chính phủ Pháp khởi
xướng năm 2005. Các trường đại học, các viện nghiên cứu và cộng đồng
doanh nghiệp của từng địa phương tùy theo thế mạnh của mình mà liên kết
với nhau và trình lên chính phủ đề án mang đặc thù riêng của mình. Ví dụ ở
vùng Grenoble có Trung tâm Minalogic chuyên sâu về lĩnh vực công nghệ
Chip và công nghệ Nano, vùng Bourgogne có Trung tâm Vitagora chuyên sâu
về công nghệ sinh học và công nghệ thực phẩm,… Hệ thống các trung tâm
này được đánh giá là đã có những đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển
của nền kinh tế Pháp trong những năm qua. Cụ thể 3 năm (2006 – 2008) đã
huy động được nguồn lực tài chính 3,6 tỷ Euro cho triển khai 544 dự án
nghiên cứu phát triển (R&D). Trong đó nguồn huy động từ nhà nước là 1,1 tỷ
Euro còn lại 2,5 tỷ huy động từ các doanh nghiệp. Với các kết quả đã đạt
được, chính phủ Pháp quyết định chi tiếp 1,5 tỷ Euro cho triển khai giai đoạn
tiếp theo.
16
Trung tâm có biên chế và nguồn tài chính riêng cho các hoạt động của
mình. Hàng năm, Ban điều hành Trung tâm phải có báo cáo hoạt động, quyết
toán tài chính và bản dự toán ngân sách cho năm sau trình tại Đại hội thường
niên. Đây là căn cứ để quyết định mức tài trợ của các cấp chính quyền và lệ
phí đóng góp của các thành viên. Đây là cách huy động tài chính theo phương
thức công - tư cùng hợp tác mà các tổ chức KH&CN của Việt Nam nên học
tập. Nhà nước, chính quyền địa phương góp một khoản tài trợ tượng trưng.
Các doanh nghiệp khi được trực tiếp tham gia xây dựng định hướng hoạt
động của các tổ chức KH&CN họ sẽ có cách huy động phần lớn nguồn tài
chính mà tổ chức này cần.
1.2.2 Một số mô hình PPP ở trong nước
Mô hình của Đại học Quốc gia Hà Nội
Đây là mô hình các khoa, bộ môn phối thuộc đã và đang được áp dụng
và được cho là khá thành công tại Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia
(ĐHQG) Hà Nội. Theo mô hình này, tại trường đã có khoa Cơ học kỹ thuật và
tự động hóa là đơn vị phối thuộc của Viện Cơ học; Bộ môn Công nghệ hàng
không - vũ trụ là bộ môn phối thuộc của Viện Công nghệ vũ trụ,…
Hình 1.1. Mô hình các khoa, bộ môn của Đại học quốc gia Hà Nội
Nguồn: Trường Đại học quốc gia Hà Nội
Theo đánh giá của một số chuyên gia đầu ngành về quản lý KH&CN,
mô hình khoa, bộ môn, phòng thí nghiệm phối thuộc giữa trường - viện -
17
doanh nghiệp thực sự là mô hình hay, là giải pháp quan trọng và hữu hiệu góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng kết quả KH&CN từ
các đề tài, dự án, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và của đất nước.
Mô hình hợp tác, liên kết giữa trường đại học - viện nghiên cứu - doanh
nghiệp đang dần được khẳng định, có một số đơn vị triển khai và hoạt động
khá hiệu quả, nhất là ở hai ÐHQG, các đại học vùng và một số trường đại
học, viện nghiên cứu lớn. Nhưng để mô hình hợp tác ba bên này mở rộng và
phát triển hơn thì các ngành, các cấp có liên quan còn cần tiếp tục nghiên cứu
giải quyết nhiều vấn đề phía trước.
Mô hình của Đại học Bách khoa Hà Nội
Một trong những thành công nổi bật của Đại học Bách khoa Hà Nội thể
hiện qua sự hợp tác với Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông
trong hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Quan hệ hợp tác
này đã mang lại nhiều đề tài, dự án và tăng cường năng lực nghiên cứu cho Đại
học Bách khoa Hà Nội. Đồng thời, góp phần tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc
của Rạng Đông. Hiện nay, hai bên đã có nhiều dự án chung, trong đó có dự án
xây dựng hai phòng thí nghiệm chung (01 đặt tại Rạng Đông và 01 tại Đại học
Bách khoa Hà Nội), mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Mô hình của Trường ĐH Nông Lâm - Đại học Huế
Là một trong những trường ĐH Đại học đầu tiên được chọn thí điểm
mô hình đào tạo theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE) từ năm
2005. Trường đã nỗ lực hợp tác với doanh nghiệp (DN) để đổi mới chương
trình đào tạo, giúp sinh viên tiếp cận nhiều hơn với thực tế, nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Sinh viên được
đào tạo theo Dự án POHE có nhiều cơ hội trực tiếp tham gia các hoạt động
quản lý, sản xuất, kinh doanh của các cơ quan, DN trong và ngoài nước, như:
Lào, Campuchia, Thái Lan... Đến nay, Trường đã có quan hệ hợp tác với gần
500 DN, mang lại cơ hội rất lớn cho người học. Chính điều này giúp sinh viên
18
tự tin, năng động và tìm kiếm được việc làm đúng với sở trường và ngành
nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.
1.3. Những vấn đề phát sinh trong mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng dụng
và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học
1.3.1. Vấn đề về quan điểm và cách tiếp cận mô hình liên kết
Một là, để tạo thành công khi liên kết, các doanh nghiệp cho rằng đó là
yếu tố: uy tín/danh tiếng của đối tác khi hợp tác, mục tiêu cần cụ thể khi hợp
tác. Trong khi đó, trường/viện thì cho rằng khả năng/năng lực, mức độ hợp
tác sẽ tạo thành công cho liên kết.
Hai là, doanh nghiệp cho rằng, từ sự khác biệt về đặc điểm hoạt động
đã làm giảm liên kết giữa doanh nghiệp và Viện do: doanh nghiệp tại Việt
Nam chưa quan tâm đến việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao làm vấn
đề quyết định tạo ưu thế cho doanh nghiệp, cạnh tranh dựa trên lao động trẻ,
thị trường khai thác rẻ hơn là dựa vào công nghệ.
Ba là, đối với trường/viện, kinh nghiệm thực tế trong mô hình liên kết
còn hạn chế do mục tiêu thiên về đào tạo và nghiên cứu của trường/viện khác
nhu cầu, quan điểm của doanh nghiệp.
1.3.2 Vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ đối với kết quả nghiên cứu Khoa
học và Công nghệ
Quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả nghiên cứu
Quyền sở hữu đối với tổng thể kết quả triển khai đề tài, dự án thể hiện
tập trung trong Báo cáo Toàn văn và Tóm tắt kết quả nghiên cứu, với tư cách
là hai tác phẩm được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả.
Quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ (SHTT) khác phát
sinh trong tiến trình triển khai kết quả nghiên cứu và thỏa mãn các tiêu chuẩn
bảo hộ tương ứng theo pháp luật SHTT.
Quyền công bố, quyền sử dụng các thông tin không tiết lộ phát sinh
trong tiến trình triển khai kết quả nghiên cứu. Đối với các thông tin mới và có
19
giá trị nhưng không phải là thông tin không tiết lộ và cũng không đáp ứng các
tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT liên quan, các bên tham gia triển khai kết quả
nghiên cứu đều có quyền công bố, sử dụng và khai thác.
Phân định tỷ lệ quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả
nghiên cứu.
Việc phân định tỷ lệ quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả
nghiên cứu trước tiên phải được giao kết về nguyên tắc trong Hợp đồng thực
hiện kết quả nghiên cứu giữa Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu (sau đây gọi là
các Bên đầu tư) với các bên có liên quan. Đối với các kết quả nghiên cứu có
huy động kinh phí hoặc cơ sở, phương tiện vật chất từ nhiều nguồn khác
nhau, tỷ lệ quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ phát sinh được phân định
như sau:
- Tỷ lệ quyền sở hữu đối với toàn bộ kết quả nghiên cứu cuối cùng, thể
hiện trong Báo cáo Toàn văn và Tóm tắt kết quả nghiên cứu, do các Bên đầu
tư quyết định bằng văn bản, trên cơ sở đề xuất của Hội đồng nghiệm thu kết
quả nghiên cứu, có sự đồng thuận của cơ quan chủ trì, cơ quan đặt hàng, cơ
quan sử dụng kết quả nghiên cứu, các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
khác (nếu có) … Sự đồng thuận này được ghi nhận trong Biên bản nghiệm
thu kết quả nghiên cứu.
- Tỷ lệ quyền sở hữu đối với từng đối tượng SHTT khác do các Bên đầu
tư quyết định bằng văn bản, trên cơ sở đề xuất của Chủ nhiệm kết quả nghiên
cứu và nhóm thực hiện, có sự thỏa thuận bằng văn bản của cơ quan chủ trì, cơ
quan đặt hàng, cơ quan sử dụng kết quả nghiên cứu, các bên có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan khác (nếu có).
- Quyền công bố, sử dụng các thông tin không tiết lộ được các Bên đầu
tư thỏa thuận bằng văn bản, tuân thủ các quy định liên quan của pháp luật về
bảo vệ bí mật Nhà nước. Các bên tham gia triển khai kết quả nghiên cứu đã
20
biết về các thông tin trên có nghĩa vụ bảo mật và không sử dụng, tiết lộ khi
chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Bên đầu tư liên quan.
- Quyền công bố đối với Báo cáo Toàn văn và Tóm tắt kết quả nghiên
cứu cần được các Bên đầu tư thỏa thuận và ghi nhận bằng văn bản, trên cơ sở
của điều khoản tuyên bố chuyển giao quyền từ Chủ nhiệm và nhóm thực hiện
trong Hợp đồng giao kết thực hiện kết quả nghiên cứu.
Xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả nghiên cứu.
Đối với các tài sản trí tuệ được xác định sẽ thuộc quyền sở hữu của một
chủ thể duy nhất, chủ thể đó tự chịu trách nhiệm xúc tiến các hoạt động xác
lập quyền tương ứng.
Đối với các tài sản trí tuệ được xác định sẽ thuộc quyền sở hữu của
nhiều chủ thể, trong đó không có Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu từ Ngân
sách, các bên liên quan thỏa thuận cách thức xúc tiến các hoạt động xác lập
quyền tương ứng.
Đối với các tài sản trí tuệ được xác định sẽ thuộc quyền sở hữu của
nhiều chủ thể trong đó có Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu từ Ngân sách, Cơ
quan này nên đảm nhận việc xúc tiến các hoạt động xác lập quyền tương ứng.
Đối với các tài sản trí tuệ tự xác lập quyền khi thỏa các điều kiện luật
định (bí mật kinh doanh, tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình…), chủ thể xúc
tiến việc xác lập quyền cần tiến hành các hoạt động lưu giữ và bảo vệ các
chứng cứ phát sinh quyền.
Đối với các tài sản trí tuệ phải xác lập quyền theo cơ chế đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (sáng chế, giống cây trồng…), hoặc có thể
đăng ký để giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh quyền (tác phẩm, bản ghi âm,
bản ghi hình…), chủ thể xúc tiến việc xác lập quyền cần ghi nhận và khai báo
đầy đủ, chính xác tên của các tác giả, đồng tác giả liên quan cùng tỷ lệ đóng
góp của từng người.
21
Đối với các tài sản trí tuệ là tác phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả,
phần quyền công bố tác phẩm thuộc quyền nhân thân của tác giả đã sáng tạo ra
tác phẩm được chuyển giao cùng các quyền tài sản liên quan cho các chủ thể có
quyền sở hữu tương ứng (như đã nêu trong mục Phân định tỷ lệ quyền sở hữu ở
trên), phù hợp với các quy định tại Điều 39 và khoản 2 Điều 45 Luật SHTT
[điều 39 và khoản 2 điều 45; 21].
Chi phí xác lập quỵền sở hữu trí tuệ do các chủ thể nắm giữ quyền sở
hữu tài sản trí tuệ liên quan thanh toán theo tỷ lệ quyền sở hữu tương ứng. Chi
phí xác lập quyền của Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu từ Ngân sách nên
được phép hạch toán trong kinh phí quản lý kết quả nghiên cứu liên quan, bao
gồm các khoản phí, lệ phí quốc gia và phí dịch vụ đại diện SHTT (nếu có).
Đối với các tài sản trí tuệ bị bỏ sót không được ghi nhận lại cho đến khi
đã nghiệm thu xong đề tài, dự án, đến thời điểm được phát hiện mà vẫn còn
đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật SHTT, cũng sẽ được phân định
và xác lập quyền sở hữu theo các quy định trên đây.
Đối với các đơn đăng ký bị từ chối bảo hộ do đối tượng đăng ký không
đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ tương ứng, các bên tham gia triển khai kết quả
nghiên cứu đều có quyền công bố, sử dụng, khai thác như nhau.
Sử dụng, khai thác và phân chia lợi ích đối với các tài sản trí tuệ
của kết quả nghiên cứu.
Quyền sử dụng, khai thác các tài sản trí tuệ và tỷ lệ phân chia lợi ích
(nếu có) được đặt cơ sở trên quyền sở hữu và tỷ lệ quyền sở hữu, trừ khi các
bên có thỏa thuận khác.
Bên khai thác sử dụng tài sản trí tuệ phải tôn trọng các quyền nhân
thân và quyền tài sản của các tác giảvà đồng tác giả theo quy định của
pháp luật SHTT.
Việc sử dụng, khai thác các tài sản trí tuệ thuộc kết quả nghiên cứu đã
được bảo hộ theo pháp luật SHTT, do Chủ nhiệm kết quả nghiên cứu hoặc của
22
bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác thực hiện mà không được phép của chủ sở
hữu, đều là hành vi xâm phạm quyền SHTT và phải chịu các chế tài liên quan
theo quy định của pháp luật.
1.4 Triển vọng và thách thức
Sự tham gia của khu vực tư nhân vào các hoạt động tài trợ cho phát
triển hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích, nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi
hỏi các tổ chức tài trợ phát triển phải có những chính sách, qui định, mục tiêu
rõ ràng cùng những hướng dẫn mang tính tác nghiệp chỉ đạo hoạt động hợp
tác với khu vực tư nhân, sao cho vừa khai thác được những thế mạnh của khu
vực tư nhân, lại vừa bảo toàn được trách nhiệm và sứ mệnh công ích của
những tổ chức này. Có rất nhiều ý kiến ủng hộ lẫn những lo ngại khác nhau
về lý lẽ của PPP trong tài trợ phát triển, đại thể như sau:
Huy động nguồn lực
Khả năng huy động được những thế mạnh, năng lực, khả năng và
nguồn lực khác nhau mà mỗi khu vực có thể đáp ứng là lợi ích phổ biến nhất,
chung nhất của PPP trong các dự án phát triển. Ở đây, người ta không coi tiền
bạc là nguồn lực duy nhất, hay thậm chí là nguồn lực được kỳ vọng nhất của
khu vực tư nhân. Khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ đóng góp nhiều nguồn lực
quan trọng khác ngoài tiền bạc, như kỹ năng quản lý, chuyên môn kỹ thuật, hạ
tầng, nền tảng, công nghệ, ý tưởng, cách nhìn nhận mới và các mạng lưới tác
nghiệp. Việc tham gia của khu vực tư nhân với nguồn lực đa dạng như vậy
còn giúp quá trình hoạch định chính sách có được nhiều thông tin hơn, phong
phú hơn, trúng hơn, do vậy nâng cao chất lượng ra quyết định, khả năng cùng
giải quyết vấn đề và hiệu quả hoạt động tốt hơn.
Tác dụng tuyên truyền
Có ý kiến cho rằng sự tham gia của khu vực tư nhân, đặc biệt là sự
tham gia của những doanh nhân nổi tiếng trong các dự án tài trợ phát triển có
thể có tác dụng tuyên truyền cho các dự án này, giúp quảng bá hình ảnh của
23
chương trình, mục đích, ý nghĩa của những chương trình đó v.v.. Tuy nhiên,
tác dụng trên cũng có thể theo chiều ngược lại, đối với nhiều hoạt động, ở một
số cộng đồng, sự tham gia của khu vực tư nhân với mục tiêu lợi nhuận có thể
tạo ra những nghi hoặc của công chúng về ý nghĩa công ích của những dự án
phát triển.
Đổi mới trong khu vực công
Gần đây, xuất hiện ngày càng nhiều nghiên cứu, trao đổi về đổi mới
trong khu vực công, trong việc nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công. Quan
hệ đối tác giữa các cơ quan tài trợ phát triển và khu vực tư nhân mở ra cơ hội
thử nghiệm những cách làm mới trong việc thực hiện những dự án phát triển,
hứa hẹn thúc đẩy đối mới trong hoạt động này. Điều này đòi hỏi các bên tham
gia đối tác một mặt phải tuân thủ những nguyên tắc cốt lõi của mình để giữ
được bản sắc, mặt khác phải có nhãn quan cởi mở, sẵn sàng tìm kiếm giải pháp
tháo gỡ những xung đột, sẵn sàng chấp nhận những nguyên tắc, cơ chế làm
việc mới. Quá trình này đòi hỏi các cơ quan tài trợ phát triển phải nhìn nhận,
đánh giá lại những giá trị thực sự là cốt lõi mà họ theo đuổi, loại bỏ đi những
giá trị hay nguyên tắc ngụy tạo, không thực chất, mở đường cho những cách
làm mới. Có thể nói, tham gia quan hệ đối tác với khu vực tư nhân là một tác
nhân để các tổ chức tài trợ phát triển phải đổi mới bản thân họ.
Các bên cùng có lợi
Quan hệ đối tác có thể được tổ chức theo cách mang lại lợi ích cho tất
cả các bên, nói cách khác đó có thể và cần là một quan hệ đối tác cùng có lợi
(win - win). Tuy nhiên, để hiện thực hóa điều này, các bên phải chỉ ra được
những lợi ích trực tiếp và lâu dài mà bên mình (đặc biệt là khu vực tư nhân)
có thể kỳ vọng khi tham gia quan hệ đối tác. Đối với đối tác tư nhân tiềm
năng, đó có thể là cơ hội thị trường mới, uy tín và hình ảnh được cải thiện,
quản lý rủi ro tốt hơn, tiếp cận được những kỹ năng hợp tác phát triển, tiếp
cận với chính phủ tốt hơn.
24
Các bên cùng có lợi là một nguyên tắc quan trọng để bảo đảm tính bền
vững trong các quan hệ đối tác mà mỗi bên thường có những lợi ích và mục
tiêu khác nhau. Tuy nhiên, thực tế sẽ xảy ra những tình huống xung đột lợi ích
và khi này cần phải đặt sứ mạng phục vụ cộng đồng lên trên những lợi ích
khác. Cơ chế đảm bảo cho điều này sẽ phải được tính đến trong quá trình thiết
kế cơ chế đối tác công - tư.
Cùng học hỏi, tin cậy và hiểu nhau hơn
Đối tác công - tư có thể mang lại những lợi ích từ việc học hỏi lẫn
nhau, xây dựng “vốn xã hội” hoặc lòng tin giữa các cơ quan tài trợ phát triển,
khu vực tư nhân, và các tổ chức phi chính phủ. Nó cũng giúp các bên có cơ
hội hiểu nhau hơn, gỡ bỏ những định kiến về nhau. Tuy nhiên đây cũng chính
là một thách thức trong hợp tác công - tư, bởi lẽ, tuy có những mẫu mực về
cách làm tốt, quan hệ đối tác giữa chính phủ, khu vực tư nhân, và các tổ chức
phi chính phủ vẫn bị phủ bóng bởi sự thiếu tin tưởng, thông tin sai lệch và
những cơ hội bị bỏ lỡ. Sự hoài nghi về những lý lẽ ủng hộ cho đối tác công -
tư trong tài trợ phát triển cũng là một rào cản.
Phân định ranh giới và nêu rõ kỳ vọng
Mỗi bên trong quan hệ đối tác thường có những tôn chỉ mục đích khác
nhau, vai trò và trách nhiệm khác nhau, quy tắc hành xử khác nhau. Những
điều tưởng chừng là rõ ràng, không cần phải bàn cãi này trên thực tế lại không
dễ xác định, không dễ phát biểu một cách tường minh, mạch lạc. Điều này một
phần do khó khăn mang tính bản chất của việc phân định ranh giới về sứ mệnh
của một tổ chức, một phần do bản thân ranh giới đó (nếu có) cũng thay đổi theo
thời gian cùng với sự ra đời và ảnh hưởng của những tư tưởng mới. Phân định
rõ ranh giới của mỗi bên trong quan hệ đối tác sẽ đảm bảo tính tường minh,
đồng thời giúp thiết kế được những cơ chế hợp tác hữu hiệu hơn.
Việc nêu rõ kỳ vọng của các bên trong quan hệ đối tác cũng quan trọng
không kém. Hiểu được kỳ vọng của nhau sẽ tránh bớt những hiểu nhầm hoặc
25
ảo tưởng về nhau ngay từ trước khi đi vào quan hệ đối tác. Điều này cũng
giúp sớm xác định những xung đột tiềm tàng trong quan hệ đối tác để có thể
thiết kế cơ chế giải quyết xung đột hữu hiệu hơn.
Quản lý rủi ro
Quan hệ đối tác giữa các loại tổ chức có bản chất khác nhau thường
chứa đựng nhiều rủi ro. Dựa trên kinh nghiệm của các tổ chức tài trợ phát
triển và qua tham khảo cộng đồng doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức xã
hội dân sự, một số nhóm rủi ro sau đây được tổng kết:
- Rủi ro về uy tín
Khi thiết lập quan hệ đối tác với khu vực tư nhân, chính phủ hoặc các
tổ chức tài trợ phát triển phải chịu rủi ro về uy tín gắn với khả năng chọn phải
đối tác tư nhân không phù hợp, hoặc hoạt động hợp tác không phù hợp, hoặc
bị những bên liên quan chủ chốt nhìn nhận là không phù hợp. Điều này làm
giảm tiếng nói và uy tín của chính phủ hoặc các cơ quan liên quan.
- Rủi ro về quan hệ lợi ích
Loại rủi ro này gắn với quan hệ lợi ích giữa việc bên đối tác tư nhân
tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, tư vấn thiết kế chương trình, dự
án...vv. với ý đồ thương mại của họ khi tham gia thực hiện dự án sau này,
chẳng hạn khi thiết kế chương trình phía tư nhân có thể “cài cắm” những phần
việc mà sau này chính họ sẽ tham gia cung cấp. Hợp đồng hợp tác do vậy phải
chỉ rõ những hạn chế, vai trò, trách nhiệm của các bên, đồng thời có thể sử
dụng đánh giá độc lập trong những trường hợp cần thiết.
- Rủi ro về lợi thế không công bằng
Những người phê phán cho rằng hợp tác công - tư có thể tạo ra những
lợi thế không công bằng, bởi bên tư nhân có thể lợi dụng quan hệ đối tác, sử
dụng danh nghĩa của các đối tác chính phủ để mưu lợi riêng. Để khắc phục
nguy cơ này, hợp đồng đối tác cần phải có những điều khoản về nguyên tắc
minh bạch và quan hệ đối tác độc quyền. Cần ghi rõ trong hợp đồng rằng việc
26
tham gia quan hệ đối tác của một bên thuộc chính phủ sẽ không hạn chế bên
này tham gia quan hệ đối tác với các bên khác.
- Rủi ro về quản trị
Quản trị quan hệ đối tác không tốt sẽ khiến PPP thất bại khi không mang
lại những kết quả được kỳ vọng, hoặc mang lại kết quả với chi phí giao dịch
quá cao. Cơ cấu quản trị PPP rất dễ thiếu tính đại diện, kéo theo đó là tình trạng
mất cân bằng về quyền lực giữa các bên; dễ bỏ sót một số nhóm đối tượng thụ
hưởng, hoặc thiếu cơ chế chịu trách nhiệm đối với những nhóm bị ảnh hưởng,
do vậy có thể làm giảm sự tin cậy và chấp nhận của công chúng.
Nhiều nhà phê bình cho rằng tính chất đa dạng và phức tạp của những
loại rủi ro trên đây trong PPP cần phải được công khai thừa nhận, đánh giá và
quản lý thông qua quá trình hướng dẫn đầy đủ, dựa trên các thực hành mẫu
mực của quan hệ đối tác và khi cần thiết, thông qua đối thoại nhiều bên, cũng
như đánh giá, xem xét độc lập.
Xử lý khác biệt
PPP xét về bản chất sẽ có sự tham gia của các đối tác có lợi ích khác
nhau, động cơ khác nhau, đóng góp những loại nguồn lực và hiểu biết chuyên
môn khác nhau, ở mức độ khác nhau, kỳ vọng vào những kết quả và lợi ích
khác nhau. Sự khác biệt này chính là tiền đề để hình thành quan hệ đối tác với
hy vọng khai thác được thế mạnh của mỗi bên. Tuy nhiên cần phải thống nhất
được những đích đến và mục tiêu chung. Do vậy sự khác biệt cần phải được
nhận thức rõ và được quản lý nhằm tránh những rủi ro đã đề cập trong phần
trên, đồng thời đảm bảo một quan hệ đối tác hữu hiệu trong điều hành. Ngay từ
đầu khi thiết kế quan hệ đối tác cần có sự trao đổi để các bên hiểu nhau về
những khác biệt trong động cơ tham gia, khuôn khổ về thời gian, mục tiêu,
phong cách, văn hóa, ngôn ngữ, “thân chủ” của mỗi đối tác. Ngay từ đầu cũng
cần có sự đồng thuận về cơ chế trao đổi và giải quyết mâu thuẫn.
27
Quản lý kỳ vọng
Kỳ vọng ở đây được hiểu là kỳ vọng của các bên tham gia đối tác, lẫn
kỳ vọng của các thực thể chịu ảnh hưởng của quan hệ đối tác. Một trong
những thách thức cần giải quyết là làm rõ vai trò và trách nhiệm của từng
bên, ứng với chuyên môn sâu và hạn chế của mỗi bên. Để quản lý kỳ vọng,
quan hệ đối tác cần lường trước được những điều chỉnh cần có khi tình hình
thay đổi. Sự chia sẻ về kỳ vọng giữa các đối tác và những điều chỉnh cần
thiết khi hoàn cảnh thay đổi sẽ giúp vận hành quan hệ đối tác hiệu quả hơn,
trôi chảy hơn.
Trong PPP tài trợ phát triển, người ta thường kỳ vọng quá mức về đóng
góp của khu vực tư trong việc cung cấp hàng hóa công. Nhiều nghiên cứu cho
thấy, không nên xem doanh nghiệp là một sự thay thế cho chính phủ, đặc biệt
ở các nước nghèo hay ở các vùng sâu vùng xa nơi cơ sở hạ tầng chưa phát
triển và việc quản trị còn yếu kém. Khu vực công hay các nhà tài trợ vẫn sẽ
phải đóng vai trò dẫn dắt trong tài trợ phát triển. Đóng góp của khu vực tư
nhân cho tài trợ phát triển chủ yếu phải thông qua hoạt động đầu tư có trách
nhiệm, nhằm tối ưu hóa những tác động tích cực về kinh tế, xã hội và môi
trường, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực.
Cơ hội hợp tác không chỉ cho những doanh nghiệp lớn
Đối tác công - tư giữa các cơ quan tài trợ phát triển và khu vực tư nhân
thường xoay quanh một nhóm nhỏ những doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm
hợp tác nhiều bên. Những doanh nghiệp này thường có nguồn lực mạnh hơn
và có trình độ quản lý cao hơn, cho phép họ tham gia vào những quan hệ đối
tác với những bên có bản chất khác họ. Tuy nhiên, cơ hội hợp tác nên và cần
phải mở rộng cho mọi loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ
và vừa (SMEs) ở những địa bàn có đặc thù địa phương. Để hiện thực hóa điều
này sẽ cần đến những chỉ dẫn, hỗ trợ cụ thể, rõ ràng giúp SMEs không có
kinh nghiệm tham gia vào quan hệ đối tác phục vụ phát triển.
28
Xây dựng năng lực và khắc phục sự quan liêu
Các cơ quan của chính phủ cũng cần nâng cao năng lực đối tác với khu
vực tư nhân. Đối tác công - tư đòi hỏi những kỹ năng và chuyên môn mới,
cũng như đòi hỏi những nhân sự có khả năng hiểu và làm việc vượt qua ranh
giới hành chính của tổ chức, có khả năng tiếp nhận những tư duy mới, khác
biệt của những đối tác khác. Các cơ quan chính phủ thường có tiếng là quan
liêu, để tham gia hợp tác công - tư hữu hiệu, cần có những biện pháp sáng tạo
để vượt qua sự quan liêu mang tính bản chất này.
29
Tiểu kết chương
Như vậy, có thể thấy mô hình PPP trong lĩnh vực đầu tư đổi mới công
nghệ là một hướng đi mới, việc áp dụng các tiêu chuẩn và tiêu chí theo mô
hình PPP sẽ giúp thay đổi tư duy trong việc sử dụng ngân sách cho KH&CN,
theo đó các quan điểm sẽ được thay đổi từ “tài trợ hay hỗ trợ” sang “đầu tư
hay góp vốn”, và như vậy dòng vốn từ xã hội sẽ tìm thấy cơ hội để cùng đầu
tư vào giải quyết các vấn đề công nghệ để tạo ra các sản phẩm mới, sản phẩm
có giá trị gia tăng cao và hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,
doanh nghiệp KH&CN theo chuỗi giá trị. Mô hình PPP cũng sẽ đem đến sự
thay đổi về cách thức quản lý và thực hiện các dự án KH&CN, giúp tránh tình
trạng sản phẩm của quá trình nghiên cứu không tìm được địa chỉ ứng dụng.
Tuy nhiên để áp dụng hiệu quả mô hình PPP cho hạ tầng kỹ thuật, hay cho
các nhiệm vụ KH&CN cần xác định rõ những công việc mà các đối tác tham
gia trong khi thực hiện, cần có sự chuẩn bị tốt trong quá trình đàm phán giữa
khu vực công và tư để đảm bảo chất lượng của các hợp đồng dự án, cần xác
định rõ đối với các dự án KH&CN các nội dung nào là “tài trợ”, phần nào là
“đầu tư” và phương thức thực hiện như thế nào để ngăn ngừa các rủi ro xuất
hiện trong quá trình triển khai thực hiện dự án.
Thông qua các phân tích tổng hợp các vấn đề liên quan như khái niệm
mối quan hệ đối tác công - tư, vai trò trách nhiệm của mỗi bên có thể khẳng
định rằng đối tác giữa nhà nước và khối tư nhân là quan hệ bình đẳng, hai bên
cùng có lợi (win-win) trên cơ sở sự tin tưởng, bảo đảm các cam kết, chia sẻ
công tác quản lý điều hành, đảm bảo lợi ích cho các bên và chia sẻ rủi ro.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ (PPP) Ở VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN TRIỂN KHAI TẠI VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Ở chương 1 đã phân tích đưa ra những lợi ích mà mô hình đối tác công
- tư PPP đem lại cũng như kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Để từ đó hiểu
rõ hơn về mô hình đối tác công - tư PPP. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại có các
cơ chế, chính sách và luật pháp khác nhau. Ở chương 2 chúng ta cùng tìm
hiểu và phân tích thực trạng các quy định, cơ chế chính sách và luật pháp về
mô hình đối tác công - tư tại Việt Nam.
2.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác công - tư
tại Việt Nam
2.1.1 Hệ thống quy phạm văn bản pháp luật
Trong hệ thống khuôn khổ pháp luật Việt Nam các Luật, Nghị định và
các văn bản liên quan sau có những chính sách, quy định điều chỉnh đối với
mô hình hợp tác công - tư tại Việt Nam bao gồm:
- Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 ban hành ngày 16/12/2002;
- Luật Khoa học & Công nghệ số 29/2013/QH1 ban hành ngày
18/06/2013;
- Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ban hành ngày 13/11/2008;
- Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 ban hành ngày
19/6/2017;
- Luật Sở hữu trí tuệ 36/2009/QH12 ban hành ngày 19/6/2009;
- Luật Xây dựng số 16/2003/QH11; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản số 38/2009/QH12; Luật
xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/06/2014;
- Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005; Nghị định số
108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và
31
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Luật Đầu tư số
67/2014/QH13 ngày 26/11/2014;
- Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 ngày 18/06/2014;
- Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP; Quyết
định số 39/2008/QĐ-TTg; Quyết định số 256/2006/QĐ-TTg; Luật Đấu thầu
số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày
26/06/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa
chọn nhà thầu;
- Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11; Luật Doanh nghiệp số
68/2014/QH13 ngày 26/11/2014;
- Nghị định số 77/CP ngày 18/06/1997; Nghị định số 62/1998/NĐ-CP
ngày 15/08/1998; Nghị định số 02/1999/NĐ-CP ngày 27/01/1999;
- Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư
theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), Xây
dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT);
- Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Chính phủ về
việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư;
- Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số
108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức
hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT;
- Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 05/04/2011 sửa đổi Nghị định
108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh -
chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây
dựng - chuyển giao;
- Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình
thức đối tác công - tư;
32
- Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/03/2015 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư;
- Quyết định số 1931/QĐ-TTg ngày 7/10/2016 về phê duyệt Đề án “Thí
điêm cơ chế đối tác công - tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ”.
Hiện nay, trong khung pháp luật điều chỉnh mô hình đối tác Công - Tư
(PPP) tại Việt Nam có hai văn bản có tính pháp lý cao nhất là Luật Đấu thầu
và Luật Đầu tư. Luật Đầu tư quy định việc quản lý hoạt động đầu tư, nhằm
mục đích kinh doanh, bao gồm đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào tổ chức
kinh tế, đầu tư của nhà nước vào hoạt động công ích, đầu tư bằng nguồn tín
dụng phát triển. Luật Đấu thầu quy định về quy trình, thủ tục, các hình thức
đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư tham gia dự án, nhà thầu cung cấp dịch vụ tư
vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp đối với các gói thầu của các dự án (từ 30%
vốn nhà nước trở lên cho đầu tư phát triển; dự án sử dụng vốn nhà nước để
mua sắm tài sản) [điều 1 Luật Đấu thầu 2005; 19].
2.1.2 Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu
Luật Đầu tư
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo
sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo một "sân chơi" bình
đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, đơn giản hóa thủ tục đầu
tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu
tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường sự quản lý của nhà
nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư
có hiệu lực từ ngày 01/07/2005 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước. Ngoài một số bảo lưu nhất định, Luật Đầu
tư không còn những quy định mang tính phân biệt đối xử bất hợp lý hoặc áp
đặt có lợi cho "chủ nhà". Phần lớn các quy định của Luật, đặc biệt là quy định
về ưu đãi, hỗ trợ và đảm bảo đầu tư cũng như các quy định về quyền tự chủ
kinh doanh, quyền lựa chọn hình thức đầu tư đều được áp dụng thống nhất đối
33
với tất cả các nhà đầu tư không phân biệt thành phần kinh tế. Nhiều quy định
đã dành sự đối xử công bằng và thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài so
với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây (các quy định về quyền lựa chọn loại
hình doanh nghiệp, tổ chức kinh tế để thành lập và tổ chức kinh doanh, quyền
xuất khẩu, nhập khẩu, quyền góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt
Nam, quyền tiếp cận, sử dụng các nguồn tài nguyên theo pháp luật...). Chủ
đầu tư tự chịu trách nhiệm huy động các nguồn vốn thực hiện và chịu trách
nhiệm về hiệu quả dự án. Các chính sách ưu đãi được thực hiện theo ngành,
lĩnh vực và địa bàn nơi thực hiện dự án.
Ngày 11/06/2014 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư số 67/2014/QH13
với những điểm mới như: Quy định thêm các đối tượng ưu đãi đầu tư: dự án
có quy mô vốn từ 6000 tỷ đồng trở lên, dự án đầu tư tại vùng nông thôn có sử
dụng từ 500 lao động trở lên...; Bổ sung ngành, nghề ưu đãi đầu tư mới: sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng
từ 30% trở lên; sản phẩm tiết kiệm năng lượng; Quỹ tín dụng nhân dân, tổ
chức tài chính vi mô...; Quy định cụ thể các ngành, nghề ưu đãi như thu gom,
xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải (trước đây là lĩnh vực bảo vệ môi
trường sinh thái); Giáo dục mầm non, phổ thông, nghề nghiệp (trước đây là
phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo) và đặc biệt quy định cụ thể về PPP tại
Điều 27 - Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP [điều 27; 22].
Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ký kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo,
nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung
cấp dịch vụ công. Chính phủ quy định chi tiết lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực
hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng P PP
Luật Đấu thầu
Trong lĩnh vực đấu thầu, trước đây các quy định nằm rải rác trong nhiều văn
bản quy phạm pháp luật gây nên tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất
giữa các văn bản và gây khó khăn cho các đơn vị thực hiện và áp dụng.
34
Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày
26/11/2013 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2014) thì các quy định pháp luật đã
được tập trung, điều chỉnh mang tính hệ thống. Theo đó, đấu thầu để lựa chọn
nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức đối tác công - tư (PPP) nằm trong
phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu 2013 [khoản 3 Điều 1; 22].
Bên cạnh đó, còn kể tới sự liên quan của các hoạt động PPP với Luật
Ngân sách nhà nước và Luật Xây dựng. Luật Ngân sách nhà nước quy định
tổng thể về chi phí đầu tư phát triển, bao gồm đầu tư xây dựng các công trình
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương
quản lý; đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, tổ chức
tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; chỉ bổ sung dự trữ nhà
nước và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Luật Xây dựng quy
định quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư có hoạt động xây dựng, bao
gồm thẩm quyền lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng.
2.1.3 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công -
tư là bước tiến mới của Nghị định số 15/2015/NĐ-CP
Thứ nhất, về nguồn vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư. Theo Nghị định 15, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) có trách nhiệm huy động một số nguồn vốn hợp
pháp rồi cấp phát cho các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh. Nhưng theo Nghị định
63, các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh phải chủ động việc huy động vốn cho mục
đích này. Như vậy, nghị định mới đã chuyển trách nhiệm của Bộ KHĐT trong
việc huy động vốn phục vụ cho công tác chuẩn bị đầu tư sang cho các bộ,
ngành, UBND, và điều này cũng góp phần tránh được những rủi ro liên quan
do làm tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan này trong
cùng vấn đề.
35
Thứ hai, về vốn chủ sở hữu và vốn huy động của nhà đầu tư, Nghị định
63 đã nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư lên tối thiểu 20% so với mức
15% trong Nghị định 15 đối với dự án có tổng đầu tư đến 1.500 tỉ đồng.
Với dự án có tổng đầu tư trên 1.500 tỉ đồng thì mức vốn chủ sở hữu theo quy
định mới cũng được sửa theo hướng nâng cao hơn. Cụ thể, vốn chủ sở hữu tối
thiểu là 20% với phần vốn đến 1.500 tỉ đồng và tối thiểu là 10% với phần vốn
trên 1.500 tỉ đồng (bằng với mức trong Nghị định 15). Như vậy, có thể thấy
quy định mới hướng đến việc lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tài chính vững
vàng hơn so với trước, tránh được tình trạng nhà đầu tư dựa phần lớn vào vốn
vay ngân hàng để thực hiện dự án, dễ dẫn đến những hệ lụy như mất khả năng
thanh toán, “treo” hoặc làm đội vốn dự án, tăng thời gian khai thác dự án...
Thứ ba, về hình thức nhà nước tham gia trong dự án PPP, ngoài vốn
góp và vốn thanh toán cho nhà đầu tư, điểm mới trong Nghị định 63 là Nhà
nước có thể tham gia dự án PPP bằng cách góp quỹ đất, trụ sở làm việc, tài
sản kết cấu hạ tầng thanh toán cho nhà đầu tư hoặc quyền kinh doanh, khai
thác công trình, dịch vụ được nhượng cho nhà đầu tư trong dự án áp dụng loại
hợp đồng BT (xây dựng - chuyển giao).
Cũng theo Nghị định 63, nếu vốn góp của Nhà nước có nguồn từ nguồn
vốn đầu tư công thì vốn này không được áp dụng với dự án BT. Ngoài ra,
Nghị định 63 còn quy định, đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất, Nhà nước chỉ
bố trí vốn góp hoặc vốn thanh toán cho nhà đầu tư khi dự án không áp dụng
hình thức chỉ định thầu đối với nhà đầu tư.
Những quy định mới nói trên vừa mở rộng các hình thức tham gia của
Nhà nước vào dự án PPP (có thêm hình thức tham gia bằng đất đai, hạ tầng,
quyền kinh doanh...), vừa góp phần làm giảm gánh nặng chi ngân sách cho
đầu tư công (không chi cho dự án BT), đồng thời làm giảm rủi ro thất thoát
vốn (không góp vốn hoặc thanh toán cho các dự án có chỉ định thầu).
36
Thứ tư, về lập kế hoạch vốn đầu tư công làm phần nhà nước tham gia
trong dự án PPP, Nghị định 63 đã không còn yêu cầu Bộ KHĐT và Bộ Tài
chính tổng hợp kế hoạch sử dụng vốn trong kế hoạch đầu tư công quốc gia
như trong Nghị định 15 nữa. Một mặt, điều này cho thấy sự phân cấp hoàn
toàn cho các bộ, ngành, địa phương trong việc lập kế hoạch vốn này. Mặt
khác, điều này cũng cho thấy khó khăn khi muốn biết Nhà nước sẽ phải bỏ ra
bao nhiêu vốn đầu tư vào các dự án PPP trong khắp các ngành, địa phương, vì
con số này sẽ không còn được tổng hợp và báo cáo một cách tập trung, thống
nhất như trước nữa.
Thứ năm, Nghị định 63 có thêm một mục về chuyển đổi từ dự án đang
được đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư công sang dự án PPP, trừ các loại hình
gồm hợp đồng kinh doanh - quản lý, và dự án đối ứng của dự án BT. Với quy
định này, sẽ có thể có nhiều dự án đầu tư công được chuyển đổi và nhận được
sự quan tâm của nhà đầu tư khi rủi ro liên quan đến dự án PPP được giảm
thiểu do cơ chế pháp lý rõ ràng và đầy đủ hơn liên quan đến dự án PPP đã
được công bố. Nhà nước do vậy cũng bớt đi được gánh nặng do vốn đầu tư
công bị dàn trải ở nhiều dự án đầu tư công khác nhau trên cả nước, có thể tập
trung vào một số dự án trọng điểm, ưu tiên mà không cần hoặc không có sự
tham gia của nhà đầu tư tư nhân.
Thứ sáu, Nghị định 63 dành hẳn một chương mới cho riêng hình thức
hợp đồng BT. Những điều khoản quan trọng trong chương này gồm các quy
định về phương thức thanh toán cho nhà đầu tư hợp đồng BT (gồm sử dụng
giá trị quyền sử dụng đất, trụ sở làm việc... và nhượng quyền kinh doanh...);
nguyên tắc thực hiện hợp đồng BT theo phương thức sử dụng giá trị quyền sử
dụng đất như xây dựng và điều chỉnh quy hoạch, điều chỉnh giá trị sử dụng
đất, tiền thuê đất; và nguyên tắc thực hiện hợp đồng BT theo phương thức
nhượng quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ cho nhà đầu tư, gồm
các nguyên tắc xác định phạm vi và thời hạn nhượng quyền kinh doanh...
37
Tuy nhiên, bên cạnh sự rạch ròi, chi tiết của những quy định liên quan
đến dự án BT như trên, có một điểm bất cập. Đó là trong nguyên tắc thực hiện
hợp đồng BT theo phương thức nhượng quyền kinh doanh khai thác công
trình, dịch vụ cho nhà đầu tư, Nghị định 63 quy định rằng “phạm vi, thời hạn
nhượng quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ cho nhà đầu tư được
xác định trên cơ sở cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và nhà đầu tư”. Quy định
như vậy tức là Nghị định 63 đã gạt ra bên lề quyền lợi của người dân - tối
thiểu là quyền được lựa chọn có sử dụng hay không dịch vụ cung cấp bởi dự
án BT, vốn là nguồn gốc gây xung đột giữa người dân và chủ đầu tư của
nhiều dự án giao thông thu phí hiện nay.
Và cuối cùng, để khắc phục lỗ hổng tạo tham nhũng, thất thoát trong dự
án PPP do thiếu thông tin minh bạch, Nghị định 63 đã bổ sung điều khoản về
công khai thông tin hợp đồng dự án, gồm thời hạn và nội dung thông tin được
công khai. Tuy nhiên, đây là một bước tiến nửa vời vì Nghị định 63 không bắt
buộc phải công bố rộng rãi những nội dung thông tin này, thay vào đó là
“khuyến khích” việc đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác.
Tóm lại, nghị định mới về dự án PPP có một số điểm mới quan trọng
như tăng cường tính phân cấp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các bộ, ngành,
địa phương; loại bớt những nhà đầu tư yếu kém về năng lực tài chính; gia tăng
hình thức tham gia của Nhà nước vào các dự án PPP, và ngược lại, gia tăng sự
tham gia của nhà đầu tư vào các dự án đầu tư công chuyển đổi sang dự án
PPP, giúp giảm gánh nặng chi lên ngân sách…
Nhưng nhìn chung, những điểm mới của Nghị định 63 chủ yếu hướng
đến hoặc xoay quanh chủ thể là Nhà nước. Về phía nhà đầu tư và người sử
dụng, không có thêm quy định quyền lợi, nghĩa vụ gì khác đáng kể so với
nghị định cũ, ngoài việc một số nội dung được trình bày đầy đủ, rõ ràng, chặt
38
chẽ và theo một trình tự hợp lý hơn, tạo cảm giác minh bạch hơn, tuy sự minh
bạch về thông tin dự án lại không bị bắt buộc.
2.2 Văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác Công - Tư trong
hoạt động Khoa học và Công nghệ
Tại Việt Nam, hình thức quan hệ đối tác công - tư (PPP) trong một số
lĩnh vực đã được thí điểm thực hiện từ năm 2010 theo Quyết định số
71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ và đã được sửa
đổi, bổ sung trong Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo
hình thức đối tác công - tư (sau đây viết tắt là Nghị định 15/2015/NĐ-CP).
Nghị định 15/2015/NĐ-CP đã mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh,
trong đó tại Điểm đ Mục 1 Điều 4 qui định “Công trình kết cấu hạ tầng
thương mại, khoa học và công nghệ, khí tượng thủy văn, khu kinh tế, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung; ứng dụng
công nghệ thông tin” [điểm đ mục 1 điều 4; 8] là một trong những lĩnh vực
được thực hiện dự án đầu tư theo PPP. Điều này có nghĩa là việc đầu tư phát
triển các kết cấu hạ tầng KH&CN như xây dựng các trường đại học, phòng thí
nghiệm, khu ươm tạo công nghệ, khu công nghệ cao, khu R&D v.v. đã có thể
thực hiện theo hình thức PPP và được điều chỉnh theo Nghị định
15/2015/NĐ-CP.
Tuy nhiên, khác với cầu đường hay các cơ sở tiện ích điện nước, đối
với hạ tầng KH&CN, việc thu phí từ người dùng hay những cơ chế thanh toán
thay thế sẽ phức tạp hơn nhiều, “rủi ro sử dụng” lớn hơn, nói tóm lại là dự án
loại này “xương hơn”. Do vậy, để kêu gọi được đầu tư của tư nhân theo PPP
trong lĩnh vực này có thể phải cần thêm những ưu đãi đặc biệt, nhưng điều
này lại đặt ra câu hỏi liệu cái giá phải trả cho PPP có đáng với lợi ích mà nó
mang lại hay không.
Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, khi mà PPP trong những lĩnh
vực truyền thống vẫn còn đang trong quá trình thử nghiệm và học hỏi thì có lẽ
39
hãy còn sớm để thực hiện PPP trong đầu tư phát triển hạ tầng cho KH&CN.
Tuy vậy, vẫn có một số lĩnh vực có triển vọng như là xây dựng cơ sở hạ tầng
các khu công nghệ cao, khu ươm tạo công nghệ, các đại học và những hạ tầng
cung cấp dịch vụ có nhu cầu cao như dịch vụ về đo lường, kiểm chuẩn, chứng
nhận chất lượng.
Bên cạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, hoạt động KH&CN còn bao gồm những
nội dung khác như nghiên cứu và phát triển (R&D) và PPP trong R&D cũng
bắt đầu được đề cập trong những thập niên gần đây. Tuy nhiên, PPP trong
R&D có bản chất khác hẳn PPP trong phát triển các kết cấu hạ tầng công ích.
Trong nhiều lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng công ích (đặc biệt là lĩnh vực
cầu, đường, nhà ga, bến cảng), nhà nước có sứ mệnh nhưng cũng là đặc quyền
đầu tư, do vậy có quyền cấp phép cho một đối tác tư nhân đầu tư xây dựng
và/hoặc khai thác hạ tầng tương ứng dưới danh nghĩa của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Đối với R&D, Nhà nước không có đặc quyền như vậy. Các
nghiên cứu cho thấy PPP trong R&D đề cập đến các quan hệ trong đó các đối
tác thuộc khu vực công và khu vực tư tham gia một cách tự nguyện và bình
đẳng trong việc cùng nhau đóng góp nguồn lực (tài chính và phi tài chính) để
thực hiện các hoạt động R&D mà các bên cùng quan tâm.
Mô tả trên đây, PPP trong R&D có tính chất của “PPP theo chương
trình”, một xu thế đã và đang được các tổ chức tài trợ phát triển song phương
và đa phương khuyến khích áp dụng trong khoảng hai thập niên gần đây cho
nhiều dự án tài trợ phát triển ở nhiều nơi trên thế giới.
Với những phân tích trên, nhận thấy PPP trong các hoạt động khoa học
và công nghệ, đặc biệt là trong các hoạt động R&D có những đặc thù khác
hẳn so với các lĩnh vực khác. Để từng bước áp dụng mô hình PPP trong khoa
học và công nghệ, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Thí điểm cơ chế đối tác
công - tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ” tại Quyết
định số 1931/QĐ-TTg ngày 7/10/2016 (Đề án 1931). Đề án 1931 đã xác định
40
cụ thể vai trò và cơ chế cho các đối tác tham gia các nhiệm vụ KH&CN theo
mô hình PPP như sau:
- Đối tác công: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW (bộ, ngành, địa phương)… hoạt
động chủ yếu bằng NSNN.
- Đối tác tư: Các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động vì mục tiêu lợi nhận
được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Phần đóng góp của đối
tác tư chiếm không dưới 40% tổng nguồn lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN
theo mô hình PPP (Chương trình).
- Các tổ chức hợp tác phát triển song phương và đa phương, các quỹ và
các tổ chức, các nhân khác tham gia đóng góp nguồn lực thực hiện Chương
trình được tính vào phần góp của đối tác công hoặc đối tác tư tùy theo trường
hợp cụ thể.
- Nguồn lực đóng góp của đối tác công được ưu tiên dành cho tổ chức, cá
nhân hoạt động KH&CN, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thực hiện
các kết quả nghiên cứu thuộc Chương trình.
- Việc xác định và điều chỉnh các danh mục kết quả nghiên cứu thuộc
Chương trình và tuyển chọn các nhóm doanh nghiệp, tổ chức cá nhân thực
hiện được quyết định bởi các hội đồng với 50% thành viên là đại diện của đối
tác công và 50% thành viên là đại diện của đối tác tư.
- Lợi ích từ Chương trình được phân chia theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực
của các đối tác hoặc theo thỏa thuận khác. Thiệt hại, rủi ro (nếu có) liên quan
đến Chương trình được chia theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực hoặc theo thỏa
thuận khác nhưng không vượt quá phần đóng góp thực tế của mỗi đối tác
trong Chương trình.
- Trong bối cảnh việc thực hiện dự án PPP theo Nghị định 15/2015/NĐ-
CP về đầu tư theo hình thức PPP đã bộc lộ một số hạn chế khiến các dự án
PPP được triển khai trong thời gian qua không hiệu quả và các dự án PPP
41
chưa hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân. Vì vậy, Nghị định 63 được thiết kế với
nhiều nội dung sửa đổi khá quan trọng và cụ thể về thẩm quyền và trình tự thủ
tục trong việc quyết định các dự án PPP; mở rộng các nguồn vốn nhà nước
tham gia dự án PPP; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối
với dự án PPP, góp phần cải cách thủ tục hành chính; và đẩy mạnh việc phân
cấp cho các đơn vị sự nghiệp công lập
Bên cạnh đó còn có nghị định mới là Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về
đầu tư theo hình thức đối tác công - tư được thiết kế với nhiều nội dung sửa
đổi khá quan trọng và cụ thể về thẩm quyền và trình tự thủ tục trong việc
quyết định các dự án PPP; mở rộng các nguồn vốn nhà nước tham gia dự án
PPP; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án PPP,
góp phần cải cách thủ tục hành chính; và đẩy mạnh việc phân cấp cho các đơn
vị sự nghiệp công lập…
2.3 Một số vấn đề vướng mắc về cơ chế, chính sách và luật pháp.
Đối với các cơ quan hoạch định chính sách cho mô hình PPP.
- Cần sớm xây dựng, ban hành văn bản pháp luật thống nhất việc thực
hiện dự án PPP trong KH&CN. Tăng cường việc hướng dẫn, định hướng cho
các cơ sở nghiên cứu khoa học và khối tư nhân lựa chọn thực hiện dự án PPP.
- Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện khung pháp lý về PPP, trong đó một
số vấn đề cần được lưu ý như:
+ Tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu - tư, cam kết, đảm bảo
của nhà nước, tạo linh hoạt cho quá trình đám phán và thực hiện dự án;
+ Hoàn thiện các điều khoản quy định trong quy trình triển khai PPP
trong KH&CN như quy định rõ về từng bước thực hiện, theo đó ghi rõ thời
gian, trách nhiệm của từng cơ quan, từng bên và phương thức giải quyết
vướng mắc trong quá trình đề xuất, đàm phán và triển khai dự án PPP.
42
Đối với các cơ quan quản lý
- Nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm (cả thành công và hạn chế) của
các nước trong hoạch định cơ chế, chính sách và trong thực tế triển khai dự án
PPP trong KH&CN. Từ đó, thông qua hợp tác quốc tế để phối hợp đào tạo,
huấn luyện, nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp theo dõi, quản lý, xúc tiến
các dự án PPP trong KH&CN ở bộ, ban, ngành và địa phương.
- Về căn cứ khoa học để quyết định phương án đầu tư, phương án chia sẻ
lợi ích/rủi ro, cần có quy định bắt buộc nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, dự
báo, lượng hóa các tác động khi thực hiện dự án PPP trong KH&CN. Trên cơ
sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro; cơ chế xác định giá/phí dịch vụ,
phương án quản lý; cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù hợp cho từng trường
hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của Nhà nước vừa bảo đảm lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư. Như vậy mới thúc đẩy và hiện thực hóa được các dự án PPP.
Kinh nghiệm thực hiện PPP trong KH&CN của nhiều nước trên
thế giới cho thấy
Việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện
thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án PPP thất bại. Phải đặc biệt
quan tâm đến các quy định về trách nhiệm tài chính đối với hỗ trợ tài chính
của Chính phủ, cơ chế lãi suất, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu
trách nhiệm thực hiện các dự án PPP trong KH&CN. Ngoài ra, vấn đề tiên
quyết đối với việc huy động các nhà đầu tư thực hiện mô hình PPP trong
KH&CN chính là cơ hội tìm kiếm lợi nhuận từ các dự án nhưng một số doanh
nghiệp còn băn khoăn về ràng buộc bảo lãnh vốn vay của Chính phủ và tỷ lệ
góp vốn 30-70 trong một dự án PPP.
Ngoài ra, kinh nghiệm triển khai các dự án PPP trong KH&CN ở một
số nước cho thấy, Nhà nước cần thận trọng khi quyết định triển khai mỗi dự
án và cam kết cung cấp những điều kiện để các nhà đầu tư tư nhân thực hiện.
Những dự án được chấp thuận cần dựa trên những nhu cầu thực sự cấp bách
43
và được điều tra, nghiên cứu, tính toán thận trọng để tránh những trường hợp
không được khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó, lường trước các rủi ro là yếu
tố có ảnh hưởng và tác động rất quan trọng tới việc đàm phán, ký kết và thực
hiện các dự án PPP trong KH&CN bởi lẽ dự báo về mức độ và những nhân tố
ảnh hưởng thường hay dẫn tới yêu cầu đàm phán để điều chỉnh nội dung của
hợp đồng PPP nhất. Thêm nữa, các dự án PPP trong KH&CN mang tính đặc
thù, có thể được tổ chức theo những mô hình khác nhau, trong đó có những
hạng mục có thể là những dự án độc lập, do vậy cần xây dựng tiêu chí để
quyết định mô hình tổ chức quản lý và thực hiện các hạng mục độc lập. Vấn
đề thường được thảo luận và mất thời gian đàm phán nhất là (i) hình thức thu
hồi vốn và lợi ích mà các nhà đầu tư được hưởng, (ii) mức lợi ích mà các nhà
đầu tư được hưởng và (iii) việc sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm. Để một
dự án PPP có thể được thực hiện thành công, cần thu hút sự tham gia thực sự
của các chủ thể liên quan ngay từ đầu và áp dụng một chế độ chia sẻ thông tin
đầy đủ và có hiệu quả trong suốt chu kỳ dự án.
2.4 Thực tiễn triển khai mô hình PPP tại Viện Ứng dụng công nghệ
2.4.1 Tổng quan về Viện Ứng dụng Công nghệ
Viện ứng dụng công nghệ là một viện nghiên cứu ứng dụng trực thuộc
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, được thành lập năm 1985.
Viện Ứng dụng công nghệ có nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng các
công nghệ mới, cao (công nghệ laser, hồng ngoại, điện tử - tin học, vật liệu,
sinh học và môi trường) bằng cách tiếp thu các công nghệ hiện đại, cải tiến và
làm chủ các công nghệ, tiến tới sáng tạo công nghệ, tổ chức chuyển giao công
nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Năm 2018, Viện Ứng dụng công nghệ thực hiện 27 nhiệm vụ thường
xuyên theo chức năng với tổng chi phí là 10.840tr đồng. Các nhiệm vụ được
44
đề xuất phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết thúc tháng
12/2018 nghiệm thu, thanh lý hợp đồng 100%.
Các báo cáo về bài báo, sở hữu trí tuệ trong năm 2018. Tổng số công
trình khoa học, bài báo đã được đăng trên các tạp chí, hội nghị khoa học trong
nước và quốc tế của đơn vị trong Viện là 42, trong đó có 6 bài quốc tế. Đăng
ký 02 giải pháp hữu ích: “Quy trình sản xuất bột sinh khối nấm đông trùng hạ
hảo Cordyceps militaris” và “phương pháp hàn linh kiện cao tần công suất lớn
sử dụng coin đồng”
2.4.2 Thực tiễn tình hình triển khai mô hình PPP
Chủ trương bám sát nhu cầu thị trường, chú trọng triển khai sản phẩm
nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu tạo sản phẩm mới, trong những năm
qua mức doanh thu hoạt động dịch vụ KH&CN của các đơn vị mỗi năm đã
tiến thêm một bước mới. Đây là cố gắng đáng kể vì giá trị các hợp đồng dịch
vụ KH&CN thường không cao.
Điều quan trọng là hàm lượng KH&CN trong các nhiệm vụ được nâng
cao, một số hoạt động mới có ý nghĩa cao cả về tính khoa học lẫn thực tiễn.
Ngoài ngân sách nhà nước cấp cho Viện để thực hiện, phát triển các nhiệm vụ
khoa học công nghệ thường xuyên, Viện cũng đã thực hiện thí điểm cơ chế
quan hệ đối tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công
nghệ. Cụ thể:
+ Dự án “cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân
chủng Phòng Không - Không Quân là đơn vị đồng tài trợ, Trung tâm Tích
hợp công nghệ của Viện đã nghiệm thu thành công với mức chi phí 12.769 tỷ
đồng. Kết quả kiểm tra, bắn đạn thật tại trường bắn TB1 (Bắc Giang) tháng
11/2018 cho thấy: Máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháp phòng không
57mm bắn trúng mục tiêu ở điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu
chiến-kỹ thuật được phê duyệt.
45
+ Hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa giá trị
5.714tr đồng do Trung tâm Công nghệ laser của Viện thực hiện, trong đó thay
thế công nghệ thu ảnh bằng công nghệ quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả
năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên
lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến khoảng 40 km) trong cả
điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm được triển khai lắp đặt trang bị tại
đơn vị bộ đội tên lửa của Quân chủng Phòng Không - Không Quân.
+ Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu cho điện thoại di động cho tập đoàn
Samsung của Trung tâm Công nghệ laser của Viện (hợp đồng đầu tiên trị giá
400tr đồng với hơn 200.000 sản phẩm). Việc nghiên cứu xây dựng quy trình
công nghệ gia công, hàn kim loại bằng bức xạ laser với độ chính xác cao của
Trung tâm Công nghệ laser đã được đối tác là doanh nghiệp FDI Hàn quốc ký
kết hợp đồng gia công sản xuất, sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di
động với công suất 100.000 sản phẩm/tháng. Kết quả này mở ra một hướng đi
mới cho việc vận dụng mô hình đối tác công - tư PPP.
+ Các giải pháp quản lý bãi xe thông minh, quản lý công nhân ra vào bằng
thẻ RFID của Trung tâm Vi điện tử của Viện cho các tòa HH2, C37 đường Tỗ
Hữu và công trình xây dựng tòa nhà C51 Tây Hồ có trị giá 231,8 tr đồng.
Bên cạnh đó còn một số dự án hợp tác với Tập đoàn Sunhouse (70tr
đồng cho 20.000 chi tiết sản phẩm), bộ sản phẩm Nacen phos + Nacen Cu +
Nacen tricho giúp phòng ngừa bệnh đốm trắng gây hại trên cây thanh long tại
Bình thuận…vv.
Trong năm 2018, Viện đã mở rộng quan hệ hợp tác với các địa phương
và doanh nghiệp trong nước, đã thiết lập được nhiều quan hệ hợp tác hiệu quả
với các địa phương, doanh nghiệp thông qua phối hợp xây dựng, thực hiện
nhiệm vụ KHCN giải quyết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội thiết thực của địa
phương, doanh nghiệp. Cụ thể như chế biến dừa, thành phố thông minh ở Bến
Tre, chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối ở Sóc Trăng, làng thông
46
minh ở Đồng tháp, chế biến xả ở Quảng Nam, canh tác dưa lưới, trầu không,
chiếu sáng thông minh, điều khiển giao thông thông minh ở Hà Nam, quản lý
điều hành giao thông thông minh ở Bắc Giang, phục vụ hiện đại hóa của các
ngành giao thông vận tải (tự động hóa trong đường sắt) hay Tập đoàn than
khoáng sản (hoán cải toa xe hàng, giám sát băng chuyền tải than,…)
Nhìn nhận một cách khách quan cho thấy các dự án và đang triển khai
của Viện liên kết với các đối tác bên ngoài đã thành công và mang lại lợi ích
không chỉ choViện mà còn cho cả nhà đầu tư. Cụ thể Viện đã thu hút vốn đầu
tư để xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng và các nhiệm vụ KH&CN, thay đổi
phương thức tổ chức và quản lý, tích cực và chủ động hơn vào các chương
trình, dự án KH&CN, đồng thời chia sẻ rủi ro trong nghiên cứu khoa học với
các nhà đầu tư dự án. Còn đối với nhà đầu tư, các dự án đã nâng cao chuỗi giá
trị sản phẩm của mình, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, thúc đẩy
khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN.
Có thế thấy mô hình đối tác công - tư, đồng tại trợ là một mô hình mới
nhưng nó đã giải quyết được sứ mệnh của nó là cả hai bên hợp tác với nhau
cùng cơ lợi và đang đem lại hiệu quả cao .
2.4.3 Thuận lợi và khó khăn
- Thuận lợi
Một là, Viện là một trung tâm nghiên cứu hàng đầu quốc gia, có lịch sử
phát triển lâu đời và là một viện có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng
KH&CN vào đời sống. Bên cạnh đó,Viện được trang bị hệ thống máy móc,
trang thiết bị chuyên dụng hiện đại để nghiên cứu ra các sản phẩm chất lượng
cao, phù hợp để thực hiện thí điểm mô hình đối tác công - tư PPP.
Hai là, Viện có một đội ngũ nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng, có trình
độ chuyên môn cao. Cụ thể ở viện có 18 cán bộ trình độ tiến sĩ, 58 thạc sỹ,
111 đại học.
47
Ba là, các lĩnh vực ưu tiên của Viện đều là lĩnh vực công nghệ cao,
được chính phủ ưu tiên. Đây cũng là cơ hội cho Viện có những bước đi mạnh
dạn hơn trong quá trình triển khai mô hình đối tác công - tư PPP.
Bốn là, lĩnh vực nghiên cứu đa dạng, áp dụng cho nhiều ngành trong
cuộc sống: thiết bị y tế, nông nghiệp, CNTT, quân đội... Mở ra cho Viện
nhiều có hội hợp tác với nhiều nhà đầu tư ở nhiều các lĩnh vực khác nhau.
Không bị gò bó trong khuân khổ nhất định.
Năm là, Viện có các mối quan hệ mật thiết, đa dạng với nhiều đơn vị
trong và ngoài nước cả về NCKH, chuyển giao công nghệ và phát triển thị
trường.
- Khó khăn
Về luật pháp và cơ chế nhà nước nói chung và Viện nói riêng tuy vẫn
còn rất chặt chẽ nhưng cũng đã dần tạo một "sân chơi" bình đẳng, không phân
biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo điều kiện
thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt
động đầu tư
Nhận định rằng cơ chế đối tác công - tư PPP trong các viện nghiên cứu
ứng dụng ở Việt Nam mới sơ khai. Do đó trong quá trình triển khai mô hình
PPP cho thấy còn nhiều thách thức, nhiều rào cản cần vượt qua Bên cạnh
những thuận lợi Viện còn vướng mắc những khó khăn sau:
Thứ nhất, Một số cán bộ giỏi, có uy tín đều đã lớn tuổi; Ngoại ngữ yếu),
tiềm năng tài chính thấp (thu nhập của cán bộ, viên chức và người lao động ở
mức thấp, chưa đủ thu hút các nguồn nhân lực chất lượng cao), các kết quả
thu được chủ yếu là các dịch vụ mang tính ứng dụng, chưa có tầm định hướng
lớn, ổn định, cơ sở hạ tầng phân tán, không đủ trang thiết bị và tiện nghi cần
thiết, đội ngũ cán bộ tham mưu, quản lý chưa chuyên nghiệp và năng động,
vẫn mang nặng lề lối làm việc theo kiểu hành chính và bao cấp, ...
48
Thứ hai, khi thiết lập quan hệ đối tác với khu vực tư nhân, Viện hoặc các
tổ chức tài trợ phát triển phải chịu rủi ro về uy tín gắn với khả năng chọn phải
đối tác tư nhân không phù hợp, hoặc bị những bên liên quan chủ chốt nhìn
nhận là không phù hợp. Điều này làm giảm tiếng nói và uy tín của Viện chưa
hài hòa về cả lợi ích và cơ chế chia sẻ rủi ro giữa các bên.
Thứ ba, khi đã bắt đầu thiết lập mối quan hệ đối tác công - tư thì việc
lựa chọn nhà đầu tư quả là một điều khó khăn, khi phải lựa chọn nhà đầu tư
làm sao cho phù hợp với lĩnh vực Viện nghiên cứu, do năng lực quản lý chưa
nhận biết được các rủi ro, quản lý rủi ro, phân bổ chưa phù hợp của Viện dẫn
tới chưa thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ tư, việc huy động vốn cho các dự án PPP gặp nhiều khó khăn; các
nhà đầu tư tham gia các dự án KH&CN của Viện chủ yếu là các nhà đầu tư
trong nước có năng lực tài chính chưa mạnh, vay vốn chủ yếu trong nước nên
có chỉ số tín nhiệm thấp. Trong khi đó, để thực hiện các dự án đầu tư trong
lĩnh vực KH&CN đòi hỏi thời gian hoàn thành dự án dài nên phải có nguồn
vốn dài hạn. Do vậy, đây là một khó khăn không nhỏ đối với các nhà đầu tư
tư nhân. Việc huy động vốn dài hạn đang là một thách thức đối với nhà đầu tư
trong nước và cả ngân sách nhà nước.
Thứ năm, Viện đang thiếu một kế hoạch tổng thể với tầm nhìn dài hạn
cho mô hình đối tác công - tư PPP.
49
Tiểu kết chương
Xây dựng môi trường pháp lý, qui định và chính sách thuận lợi là yếu tố
tối quan trọng cho một mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân bền vững. Ở
mức độ ban đầu, cần phải có một môi trường pháp lý có thể hỗ trợ sự tham gia
của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực dịch vụ quan trọng. Môi trường pháp lý
này cần giảm thiểu sự xuất hiện của tham nhũng và phải đủ tin cậy để khuyến
khích đầu tư và sự tham gia của tư nhân. Nếu môi trường luật pháp và môi
trường tư pháp không được xác định, các nhà đầu tư và những người tham gia
dự án sẽ đánh giá dự án là không thể dự đoán được và có độ rủi ro cao.
Khuôn khổ về các quy định kinh tế cũng cần phải rõ ràng như vậy.
Điều này có thể dẫn đến việc cần phải thiết lập một cơ quan quản lý độc lập,
một cơ quan quản lý thuộc chính phủ hoặc một hình thức quản lý khác. Có thể
sẽ đem lại hiệu quả nếu các nguyên tắc quản lý điều tiết được đưa vào trong
hợp đồng và năng lực cần thiết từ bên ngoài chỉ giới hạn ở năng lực theo dõi
một cách hiệu quả và năng lực đánh giá kết quả thực hiện. Các điều khoản
hợp đồng hết sức cụ thể, trong đó thiết lập các nghĩa vụ, mục tiêu hoạt động,
cơ cấu biểu phí dịch vụ và mức phí dịch vụ, quy tắc thay đổi biểu phí, thủ tục
giải quyết tranh chấp, sẽ giúp khu vực tư nhân dự đoán chính xác hơn mức lợi
nhuận khi đầu tư và quyết định xem liệu hợp đồng đó có giá trị hay không.
Nguyên tắc cơ bản là mức độ nhu cầu đối với dịch vụ và các chi phí cho
những dịch vụ đó phải cân bằng một cách hợp lý, đồng thời tạo ra những
động lực cho việc tăng cường tính hiệu quả của hệ thống.
Bằng cái nhìn tổng thể khách quan cho thấy việc áp dụng cơ chế đối
tác công - tư vào Viện Ứng dụng đã có những bước tiến mới, có những thuận
lợi nhất định. Nhưng bên cạnh đó những khó khăn vẫn còn và cẫn khắc phục
một cách triệt để tạo điều kiện cho mô hình đối tác công - tư PPP được triển
khai nhiều hơn và mang lại lợi ích nhiều hơn nữa trong công cuộc phát triển
của ngành KH&CN.
50
Chương 3
PPP TRONG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐÔI MỚI SÁNG TẠO
VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THÚC ĐẨY HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG -
TƯ TRONG VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
3.1 Khung phân tích PPP trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi
mới (STI)
3.1.1 Mô hình chức năng của hệ thống đổi mới (IS)
Tương tác giữa các thực thể công và tư luôn được coi là yếu tố quan
trọng góp phần hỗ trợ và tạo nên những đổi mới thành công. Nhiều học giả đã
phân tích chủ đề này từ các góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Mô hình
“vòng xoáy 3” (triple helix) mô tả quan hệ giữa nhà nước, đại học và giới
doanh nghiệp là một ví dụ. Mô hình này đề cao tương tác giữa các tổ chức
nghiên cứu (bên cung) và doanh nghiệp (bên cầu) và nhấn mạnh tầm quan
trọng của các cơ quan nhà nước trong vai trò hỗ trợ, làm cầu nối cho những
tương tác nói trên. Tuy thành công trong việc chỉ ra một hướng phân tích về
quá trình và tính động của sự cùng tiến hóa của những loại hình tổ chức khác
nhau, mô hình lại không đưa ra được những công cụ phân tích “điểm tắc
nghẽn” và những đề xuất chính sách tương ứng. Mức độ can thiệp khác nhau
cùng chức năng tương ứng của nhà nước cũng không được bàn luận thấu đáo
trong mô hình. Một tiếp cận phù hợp hơn về đối tác công - tư trong R&D và
đổi mới được cho là tiếp cận hệ thống đổi mới .
Hệ thống đổi mới (viết tắt theo tên tiếng Anh là IS) được một số học
giả đề xuất vào đầu những năm 1990 như là một hướng tiếp cận mới để lý giải
bản chất và tính động của đổi mới. Đi tiên phong theo hướng này là những
nhà kinh tế học nghiên cứu đổi mới theo truyền thống thể chế (như Freeman,
1987; Lundvall, 1992) và các học giả của lý thuyết tiến hóa (như Nelson &
Winter, 1982). Theo các tác giả này thì hệ thống đổi mới là một hệ thống động,
nơi các thể chế (bao gồm cả tổ chức và luật chơi), việc học hỏi, mạng lưới tác
nghiệp đóng một vai trò trung tâm tạo ra đổi mới và sự thay đổi công nghệ.
51
Hệ thống đổi mới đặt đổi mới và doanh nghiệp ở trung tâm, coi đổi mới
là kết quả của quá trình học hỏi mang tính tương tác, tích lũy, xây dựng năng
lực chuyên môn, học hỏi dựa trên khoa học và học hỏi dựa trên kinh nghiệm.
Chính sách dựa trên tiếp cận hệ thống đổi mới chú trọng đến việc khai thông,
tăng cường tương tác giữa các thực thể, phát triển những thể chế hỗ trợ cho
học hỏi mang tính tương tác, xây dựng môi trường thân thiện cho đổi mới,
tăng khả năng ứng phó, đáp ứng của hệ thống trước những thay đổi. Tiếp cận
hệ thống đổi mới cho rằng ngoài những lực thị trường, nhiều tương tác trong
hệ thống đổi mới bị chi phối bởi các thể chế phi thị trường. Do hiệu quả ở
mức vĩ mô của quá trình tương tác phụ thuộc vào hành vi của từng tác nhân
riêng lẻ và các thể chế qui định tương tác giữa chúng, do vậy phát sinh vấn đề
điều phối và sự cần thiết phải chỉ ra chức năng của hệ thống đổi mới.
Đi theo hướng này, một số học giả đã phân tích hệ thống đổi mới
theo các chức năng. Edquist (2005) đưa ra 10 chức năng của hệ thống đổi
- Thực hiện R&D và tạo ra tri thức mới;
- Xây dựng năng lực chuyên môn;
- Tạo lập thị trường sản phẩm mới;
- Phổ biến những yêu cầu về chất lượng;
- Tạo ra và thay đổi các tổ chức cho đổi mới;
- Kết mạng thông qua thị trường và các cơ chế khác;
- Tạo ra và thay đổi các thể chế;
- Ươm tạo;
- Cấp kinh phí cho quá trình đổi mới;
- Tư vấn.
mới, bao gồm:
Cũng theo cách tiếp cận theo chức năng, Kadura (2011) phát triển một
mô hình chức năng của hệ thống đổi mới, tập trung mô tả ở mức vi mô các hệ
thống con cùng chức năng, tương tác bên trong và tương tác giữa các hệ thống
con của IS. Mô hình này cũng thuận tiện cho những phân tích ở mức trung mô
(meso) và vĩ mô (macro) để đánh giá tác động của công cụ chính sách, môi
52
trường thể chế ở các tầng nấc khác nhau. Ở mức vi mô, mô hình chức năng
của hệ thống đổi mới của Kadura (2011) phân chia các thực thể trong IS theo
hai nhóm đối tượng (nhóm tạo ra tri thức và nhóm sử dụng tri thức) và hai
khu vực (khu vực công và khu vực tư), rất thuận tiện cho phân tích về các
tương tác có sự tham gia của các thực thể thuộc khu vực công và khu vực tư.
Chi tiết của mô hình này được minh họa trong hình 3.1 dưới đây.
Hình 3.1. Hệ thống con theo chức năng, các tác nhân cơ sở và
tổ chức trung gian
Khu vực công
Khu vực tư
dùng/khách
theo sau, hàng
Đối tượng sử dụng tri thức
Năng lực tiếp nhận Doanh nghiệp người trung gian và cuối cùng Thị trường hàng hóa và
Đối tượng sử dụng tri thức
Vốn xã hội và con người Đại học, Trường kỹ thuật, tổ chức TC-ĐL-CL Giáo dục & đào tạo hàn lâm và công nghệ / đảm bảo chất lượng
dịch vụ
Tổ chức trung gian KTT gắn với nhân lực, giáo dục ĐH, tư vấn
Tổ chức trung gian KTT gắn với khu vực doanh nghiệp
Tổ chức trung gian KTT gắn với nghiên cứu khoa học và nguồn nhân lực
Tổ chức trung gian KTT độc lập hoặc theo hình thức PPP
Năng lực nghiên cứu Đại học, cơ quan R&D không phải ĐH Nghiên cứu khoa học cơ
Đối tượng tạo ra tri thức
Công nghệ & Thực hiện đổi mới Bộ phận R&D của DN, DN sáng tạo R&D ứng dụng, phát triển
bản và ứng dụng
Tổ chức trung gian KTT gắn với nghiên cứu khoa học
Đối tượng tạo ra tri thức
sản phẩm và qui trình
Khu vực công
Khu vực tư
Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)
53
Ở mức vi mô, cấu trúc của hệ thống đổi mới gồm bốn hệ thống con và
các thể chế, tổ chức đảm bảo tương tác giữa chúng. Các hệ thống con bao
- Vốn con người và xã hội (HC - Human Capital);
- Năng lực tiếp nhận (AC - Absorptive Capacity);
- Năng lực nghiên cứu (RC - Research Capacity);
- Công nghệ & Thực hiện đổi mới (TIP - Technology & Innovation
gồm bao gồm:
Performance).
Mô hình trên phân biệt chức năng tạo ra tri thức và sử dụng tri thức của
các thực thể khác nhau. Thực thể tạo ra tri thức có thể ở cả khu vực công
(trường đại học, PROs-những tổ chức nghiên cứu,.. = RC) và khu vực tư
(những tổ chức nghiên cứu của khu vực tư - TIP). Tương tự đối tượng sử
dụng tri thức cũng có ở cả khu vực công (trường đại học, các tổ chức = HC)
và khu vực tư (doanh nghiệp đi sau, người sử dụng trung gian và cuối cùng =
AC). Mô hình đồng thời mô tả mối quan hệ giữa các hệ thống con và chức
năng cụ thể trong chuyển giao tri thức và công nghệ giữa các tác nhân.
Các tác nhân cơ sở thuộc khu vực công và tư hoạt động trong những
khuôn khổ và thể chế cụ thể (được gọi là các “chế độ” - Regime), mang dấu
ấn về lịch sử và chính trị, do vậy khác nhau giữa các quốc gia. Xét về tầm ảnh
hưởng tới đổi mới và định hình chính sách đổi mới, một số “chế độ” tỏ ra
quan trọng hơn những “chế độ” khác. Những “chế độ” ảnh hưởng ngay tới
các tác nhân cấp vi mô bao gồm những ưu đãi tài chính (dưới dạng khoản hỗ
trợ trực tiếp của nhà nước hay ưu đãi thuế), hỗ trợ phi tài chính cho R&D và
đổi mới, “chế độ” về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, và “chế độ” sở hữu tài
sản trí tuệ (IPR).
Trong khi các “chế độ” ở cấp trung mô (meso) có tác động trực tiếp đến
hành vi của các tác nhân, hoạt động đổi mới còn bị chi phối một cách gián
tiếp hơn bởi những lĩnh vực chính sách rộng hơn có ảnh hưởng đến vận hành
54
của toàn hệ thống (mức vĩ mô). Chúng bao gồm chế độ kinh tế và thể chế
(quản trị STI, các chính sách và chương trình), chất lượng và mức độ (ảnh
hưởng) của chính sách giáo dục, sự lan truyền công nghệ thông tin truyền
thông và tiếp cận Internet (cơ sở hạ tầng ICT) và những giá trị văn hóa được
xã hội công nhận (giá trị văn hóa thường được coi là những thể chế không
định hình). Các chế độ ở mức vĩ mô được thể hiện trong hình 3.2 dưới đây.
Hình 3.2. Môi trường liền kề: yếu tố tác động liên quan và các chế độ
(mức meso)
Chế độ đảm bảo chất lượng -Tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định kỹ thuật - Dịch vụ đo lường, kiểm tra và quản lý chất lượng - Nền tảng (Platform) công nghệ
Hình 3.1: Mức vi mô
việc
trợ
Chế độ R&D phi tài chính và hỗ trợ đổi mới - Dịch vụ thông tin, trình diễn và môi giới - Các biện pháp kết mạng và qui tụ cùng một nơi - Dịch vụ tư vấn và đào tạo (bao gồm hỗ trợ doanh nhân khởi nghiệp mới)
Chế độ R&D ở khu vực công và ưu đãi đổi mới - Mua sắm công (bao gồm bỏ thầu công) - Kích cầu khu vực tư đối với R&D và đổi mới - Ưu đãi thuế/tài chính cho R&D và đổi mới - Hỗ luân chuyển/tuyển dụng nhân sự R&D - Trợ cấp cho đào tạo, quản lý dự án R&D
Chế độ về IPR - Bảo hộ IPR và sáng chế - Bảo hộ thương hiệu và thiết kế
Chế độ tài chính cho đổi mới và R&D - Trợ cấp công trực tiếp (theo thể chế, theo dự án) - Các biện pháp cho vay và bảo lãnh - Vốn rủi ro (vốn mồi, vốn mạo hiểm)
Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)
55
Hình 3.3. Điều kiện khung: cấu trúc và lĩnh vực chính sách cấp độ vĩ mô
Hạ tầng ICT
Lan truyền công nghệ ICT và tiếp cận Internet
Chế độ kinh tế và thể chế
Cấu trúc và hệ thống kinh tế, quản trị, các chính sách và chương trình
Hình 3.2: Mức trung mô
Hình 3.1: Mức vi mô
Hệ thống giáo dục Nghiên cứu và công nghệ dựa trên định hướng giáo dục và đào tạo hướng tới tuyển dụng nhân lực
Đa cấu trúc văn hóa
Giá trị, Quy tắc xã hội, thông lệ, thái độ, khuôn khổ & hệ thống, tầm nhìn và chiến lược của NN và xã hội
Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)
Những cấu trúc và thể chế ở mức vĩ mô đóng vai trò rất quan trọng đối
với quá trình đổi mới bởi lẽ chúng tác động tích cực hoặc tiêu cực đến mong
muốn, khả năng, và cơ hội hợp tác của các tác nhân trong IS. Chẳng hạn việc
thay đổi đột ngột và quá thường xuyên các qui định và chính sách kinh tế, hay
nạn tham nhũng tràn lan sẽ làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin giữa các tác
nhân liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến mong muốn hợp tác sâu rộng giữa
các tác nhân.
3.1.2 Phân loại tương tác công - tư trong mô hình chức năng của Hệ thống
đổi mới
Xét đại thể, tương tác giữa các thực thể thuộc khu vực công và khu vực
tư có thể phân theo các tiêu chí sau đây.
56
Chính thức và không chính thức. Ở đây sự chính thức được hiểu là giữa
hai bên có ký kết thỏa thuận hay hợp đồng; chẳng hạn như hợp đồng nghiên
cứu giữa một doanh nghiệp và một cơ quan nghiên cứu trong đó có các điều
khoản về thù lao, vấn đề IPR, cách tiến hành công việc và kết quả giao nộp.
Việc nhà nước hỗ trợ các cơ quan khoa học hợp tác với doanh nghiệp cũng
được coi là tương tác chính thức, tuy nhiên vai trò của nhà nước là gián tiếp
trong trường hợp này. Trong khi đó, nếu cơ quan nhà nước ký hợp đồng với
doanh nghiệp để cùng thực hiện một dự án R&D và đổi mới nào đó thì vai trò
của nhà nước sẽ là trực tiếp. Quan hệ lâu năm giữa doanh nghiệp và cơ quan
nghiên cứu có thể cho phép hai bên nhờ cậy lẫn nhau khi cần thiết mà không
cần phải ký kết hợp đồng là một ví dụ về loại tương tác không chính thức.
Khung thời gian. Tương tác có thể là ngắn hạn, chẳng hạn một hợp
đồng giải quyết sự vụ có thời hạn dưới một năm; hay trung hạn với những hợp
đồng có tham vọng và sự bất định lớn hơn với thời hạn đến 3 năm; hay dài hạn
khi quan hệ đối tác không còn ở một dự án đơn lẻ mà là một loạt các hoạt động
chung có khung thời gian đến 5 năm, 7 năm hoặc thậm chí lâu hơn nữa.
Tầm cỡ. Tương tác có thể nhắm tới những giá trị, lợi ích cốt lõi của
nhiều bên, những cũng có thể là thường nhật, hướng tới giải quyết những vấn
đề nhỏ lẻ.
Mức độ chuyên biệt. Tương tác có thể nhắm tới những mục tiêu cụ thể
nhưng cũng có thể rộng hơn, chẳng hạn như cùng hướng tới việc tạo ra tri thức
mới trong các dự án trao đổi nhân sự giữa các tổ chức, xây dựng năng lực v.v.
Đi vào chi tiết, mô hình chức năng của IS cho thấy tương tác công - tư
trong R&D và đổi mới là rất da dạng, liên quan tới nhiều loại hoạt động khác
nhau. Với mục đích xác định những ưu tiên chính sách nhằm thúc đẩy tương
tác công - tư trong R&D và đổi mới, Wilde et al (2015) đưa ra một phân loại
dựa trên tính chất của những hoạt động có yếu tố chuyển giao tri thức giữa các
bên công và tư. Hệ thống phân loại này được trình bầy trong bảng sau đây.
57
Bảng 3.1: Phân nhóm hoạt động có yếu tố chuyển giao tri thức và công nghệ
Nhóm
Các hoạt động có yếu tố chuyển giao
Loại 1: Giáo dục và giáo dục đào tạo chuyên sâu Giáo dục và đào tạo
Xây dựng chương trình đào tạo (Các đại học thiết lập một ngành học mới hoặc một chương trình giáo dục chuyên nghiệp cùng với khu vực doanh nghiệp) Mời giảng viên thỉnh giảng của đối tác tham gia giảng dạy
Chuyển giao bí quyết cho đối tác thông qua giảng dạy
Trao đổi nhân sự
Biệt phái ngắn hạn
Trao đổi các nhà khoa học / kỹ thuật viên giữa doanh nghiệp
và các cơ quan nghiên cứu, đại học
Loại 2: Trao đổi khoa học
Công bố của các
Công bố (nội bộ) của các cơ quan nghiên cứu và đại học về
cơ quan nghiên
các kết quả nghiên cứu
cứu
Công bố ở bên
Công bố trên các tạp chí khoa học
ngoài
Chuyển giao tri thức trên cơ sở các hội thảo, hội nghị
Bài trình bầy tại các hội chợ và triển lãm
Loại 3: Làm dịch vụ
Dịch vụ tư vấn của các đại học/cơ quan nghiên cứu Dịch vụ đánh giá của đại học/cơ quan nghiên cứu công Dịch vụ của các tổ chức chuyển giao độc lập/vì lợi nhuận
Doanh nghiệp khởi sự từ các cơ quan nghiên cứu và đại học Liên doanh giữa doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu
Dịch vụ của các đối tác cơ sở hoặc cơ quan chuyển giao Loại 4: Tạo ra doanh nghiệp mới dựa trên công nghệ Loại 5: Các công cụ liên quan tới các dự án (chuyển giao trực tiếp)
Nghiên cứu theo
Nghiên cứu theo đặt hàng
đặt hàng
Luận án tiến sỹ, thạc sĩ, cử nhân
Hợp tác R&D
Phối hợp giữa nhiều bên thực hiện R&D (collaborative R&D)
Nghiên cứu chung của ít nhất hai đối tác (joint research)
Loại 6: Quyền tài sản trí tuệ (IPR)
Pa-tăng (bán đứt)
Li-xăng (cấp quyền)
Các quyền khác
Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)
58
Phân loại trên đây cho thấy, tương tác giữa các đối tác công và tư trong
R&D và đổi mới xuất hiện trong đủ loại hoạt động khác nhau, ở các mức độ
khác nhau liên quan đến nhiều đối tác khác nhau. Theo tiếp cận hệ thống đổi
mới, nhà nước cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy mọi tương tác trong hệ
thống, đặc biệt các tương tác công - tư thông qua việc tạo dựng môi trường
thuận lợi để các bên có thể tương tác một cách dễ dàng, hiệu lực, hiệu quả.
Tuy nhiên, ở các giai đoạn khác nhau, trong các hoàn cảnh, điều kiện khác
nhau, ưu tiên chính sách là cần thiết và khi này các biện pháp can thiệp cần
được thiết kế phục vụ cho loại tương tác mục tiêu.
3.1.3 Vị trí của Nhà nước trong mô hình đối tác công - tư trong hoạt động
Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo
Trong mô hình chức năng của IS, nhà nước xuất hiện ở nhiều nơi khác
nhau với vai trò khác nhau (cả ở khu vực công, khu vực tư và nhiều nơi khác).
Thuộc khu vực công trong mô hình là các tổ chức phục vụ lợi ích của cộng
đồng, không vì mục tiêu lợi nhuận như các đại học, viện nghiên cứu phục vụ
cộng đồng, trường dạy nghề, cơ quan tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng v.v..
Đây thường là những tổ chức của nhà nước, do nhà nước thành lập nhưng
cũng có thể là những tổ chức dân sự hoạt động dựa vào kinh phí từ nhà nước
hay các nguồn tài trợ và nguồn thu khác. Nhà nước cũng có thể hiện diện ở
khu vực tư trong vai trò một “người mua công nghệ”, là một bên trong các
giao dịch thị trường. Nhà nước cũng đóng vai trò trung gian gắn kết hoặc hỗ
trợ gắn kết các hệ thống con trong mô hình vi mô của IS. Ngoài ra, vai trò của
nhà nước trong mô hình chủ yếu được thể hiện ở các yếu tố tầm trung mô
(Hình 3.2) và vĩ mô (Hình 3.3).
Các phân tích trên đây cho thấy, nhà nước vừa tham gia vào các hoạt
động R&D và đổi mới một cách trực tiếp (thông qua các cơ quan quản lý nhà
nước) hoặc gián tiếp (thông qua các tổ chức thuộc khu vực công như đại học
và viện nghiên cứu), vừa tạo dựng môi trường và đảm bảo hỗ trợ cho các hoạt
59
động này (tầm trung mô và vĩ mô). Mỗi vai trò như vậy thường dựa trên
những căn cứ khác nhau, đôi khi trái ngược nhau, được thực hiện thông qua
những cách thức, hình thức khác nhau tùy theo hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử
cụ thể và lựa chọn của mỗi quốc gia. Ở một nước đang phát triển và đang
chuyển đổi như Việt Nam, sự đan xen, chồng lấn, thiếu mạch lạc về vai trò
của nhà nước nói chung, vai trò nhà nước trong các tương tác công - tư về
R&D và đổi mới nói riêng (cả về lý luận và thực tiễn) là không thể tránh khỏi.
Nhận thức rõ sự không hoàn hảo nói trên, khi thiết kế các chính sách thúc
đẩy tương tác công - tư trong R&D và đổi mới, đặc biệt đối với các hoạt động có
sử dụng nguồn lực của cả doanh nghiệp và nhà nước, cần phân biệt vai trò của nhà
nước trong việc cung cấp các khoản trợ cấp cho doanh nghiệp thực hiện R&D và
đổi mới và vai trò của nhà nước như một bên tham gia trong quan hệ đối tác với
khu vực tư để thực hiện R&D và đổi mới. Trong cả hai trường hợp, Nhà nước đều
sử dụng nguồn lực công để thực hiện vai trò của mình, tuy nhiên lý lẽ và tính chất
sử dụng nguồn lực công không hoàn toàn giống nhau.
Ở vai trò thứ nhất, nhà nước xem xét, trợ cấp cho những dự án R&D và đổi
mới của doanh nghiệp nếu thấy những dự án này có triển vọng mang lại lợi ích xã
hội lớn hơn lợi ích riêng của doanh nghiệp này (và lợi ích xã hội đó còn phải lớn
hơn bản thân khoản trợ cấp và chi phí quản lý). Ở vai trò thứ hai, thường là với
những dự án R&D và đổi mới đảm bảo lợi ích cốt lõi của cả nhà nước và doanh
nghiệp (mặc dù lợi ích của doanh nghiệp và nhà nước là khác nhau) và hai bên có
thể đạt được thỏa thuận để cùng nhau thực hiện, nhà nước sẽ là một bên cùng với
doanh nghiệp đóng góp nguồn lực, tổ chức thực hiện dự án đó.
3.2 Những điều kiện cần và đủ để thiết kế và thực hiện PPP trong hoạt
động Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo
3.2.1 Điều kiện khung và quyền sở hữu trí tuệ
Các điều kiện khung và quyền sở hữu trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp đến
nền tảng của PPP trong STI. PPP muốn hình thành và vận hành được phải
60
không vi phạm pháp luật hiện hành. Ở một số nước có nền kinh tế thị trường
phát triển, việc thành lập quan hệ đối tác, dù là giữa các doanh nghiệp hay
giữa doanh nghiệp với các tổ chức công, có thể bị xem là vi phạm luật chống
độc quyền. Vấn đề đặt ra khi thiết kế PPP là vừa phải cho phép các bên thiết
lập được quan hệ đối tác một cách thuận lợi, vừa đảm bảo không làm mất đi
tính cạnh tranh. Yêu cầu này lại đặt ra vấn đề về giai đoạn nào trong chuỗi
nghiên cứu, phát triển, đổi mới là phù hợp với PPP, hay nói cách khác loại
nhiệm vụ KH&CN nào là phù hợp với PPP.
Quan điểm chủ đạo cho rằng PPP chỉ phù hợp và được phép thực hiện
với một số loại nghiên cứu nhất định. Thứ nhất là những nghiên cứu ở giai
đoạn tiền cạnh tranh, tức là những nghiên cứu mà kết quả của nó giúp làm
sáng tỏ một số vấn đề KH&CN cơ bản mà các bên cùng quan tâm, nhưng
doanh nghiệp sẽ cần phải đầu tư phát triển thêm nữa mới ra được sản phẩm
cuối cùng. Thứ hai là các nghiên cứu phát triển các công nghệ nền tảng
(generic technologies), tức là các công nghệ có thể được sử dụng cho nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Thứ ba là các nghiên cứu nhằm giải quyết
các vấn đề lớn, cấp thiết đối với một ngành, đối với xã hội, chẳng hạn việc
tìm kiếm các giải pháp chống biến đổi khí hậu, phát triển kháng sinh thế hệ
mới đối phó với các vi khuẩn kháng thuốc v.v..
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy PPP cũng có thể thành công với những
nghiên cứu ở giai đoạn gần hơn với thị trường, hay ở những hoạt động có hàm
lượng R&D thấp như dịch vụ khuyến công nghệ. Ngoài ra, PPP cũng được thử
nghiệm và mang lại thành công nhất định trong các hoạt động khác như phát
triển các chương trình đào tạo kỹ sư đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp.
Pháp luật và chính sách về quyền sở hữu trí tuệ (viết tắt là IPRs) cũng
ảnh hưởng trực tiếp đến PPP. Nếu không trao quyền sở hữu trí tuệ hình thành
từ các nghiên cứu theo PPP cho doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp
thương mại hóa các kết quả đó thì sẽ giảm thu hút doanh nghiệp tham gia
61
PPP. Tuy nhiên, nếu trao các quyền này cho doanh nghiệp thì lại vướng vào
vấn đề đạo lý là tiền của công lại được dùng để làm lợi cho nhóm nhỏ, tức là
các doanh nghiệp tham gia PPP. Xu thế hiện nay đối với PPP trong các
nghiên cứu tiền thương mại là trao quyền cho doanh nghiệp bởi thực tế cho
thấy nguồn lực mà doanh nghiệp phải đầu tư để thương mại hóa kết quả
nghiên cứu thường lớn hơn nhiều chi phí R&D ban đầu. Suy cho cùng, doanh
nghiệp có thành công thì mới đảm bảo nguồn thu cho ngân sách công trong
tương lai.
Quay lại vấn đề về quyền được tham gia PPP, một số khảo sát cho thấy
không phải cơ quan KH&CN nào cũng ủng hộ việc tham gia PPP hoặc cho
phép cán bộ nghiên cứu của mình tham gia PPP. Trong các trường đại học,
những quy tắc hợp tác học thuật với khu vực doanh nghiệp có thể khuyến
khích hoặc cản trở quan hệ đối tác. Những cơ cấu tổ chức nhiều tầng nấc,
cứng nhắc thường ngăn cản các hoạt động phối hợp giữa các bộ phận trong
cùng trường đại học và trong cùng doanh nghiệp.
Một khó khăn cơ bản khi thiết kế PPP là phải hài hòa được những mục
đích khác nhau của các bên đối tác có bản chất khác nhau. Sự khác biệt trong
văn hóa và trong kì vọng giữa trường đại học và khu vực doanh nghiệp, bao
gồm cả tầm nhìn về thời gian khác nhau phải được các bên hiểu rõ. Các bên
cũng cần lường trước những xung đột có thể phát sinh và thống nhất được cơ
chế giải quyết xung đột ngay từ giai đoạn thiết kế PPP.
Ngoài những thách thức kể trên thì quan hệ đối tác không phải là không
tốn chi phí. Trước hết, PPP cần những chi phí không thu lại được (sunk costs)
để khởi động và những chi phí giao dịch đáng kể cho cả doanh nghiệp và đối
tác công. Việc xác định và lựa chọn đối tác cũng phát sinh chi phí về thời gian
và thông tin. Vận hành PPP cũng phát sinh chi phí về tổ chức, điều hành, đặc
biệt là những vấn đề phát sinh do các đối tác khác nhau bị quy định bởi các
luật lệ khác nhau. Thực tiễn cho thấy cần phải có những quy định đặc thù cả
62
về tài chính, nhân sự và tổ chức để hậu thuận cho việc thành lập và hoạt động
của PPP trong STI.
3.2.2 Cơ chế tài chính
Một vấn đề quan trọng khi thiết kế PPP là cơ chế tài chính. Câu hỏi đặt
ra là tài chính công cho quan hệ đối tác nên được thiết kế như thế nào? Dạng
nào của cơ chế tài chính là thích hợp nhất cho từng loại quan hệ đối tác? Câu
trả lời là những loại quan hệ đối tác công - tư khác nhau đòi hỏi những thỏa
thuận tài trợ ở những phạm vi hợp tác khác nhau (từ hoạt động R&D đến hoạt
động thương mại hóa). Từ quan điểm về kinh tế, có hai câu hỏi chính về vấn
đề tài chính trong quan hệ đối tác. Thứ nhất là số lượng nguồn lực công tối ưu
dành tham gia PPP. Thứ hai là cơ chế hiệu quả nhất để sử dụng nguồn lực
này. Đây là những câu hỏi không dễ trả lời và thực tiễn cho thấy việc thí điểm
và hoàn thiện dần chính sách là cần thiết.
Tuy không dễ có giải pháp cho cơ chế tài chính đối với PPP, những
- Những dự án tốt nhất, hội tụ được những lợi ích cốt lõi của cả khu vực
thỏa thuận tài chính và thể chế cho PPP phải được thiết kế sau cho:
- Những đối tác tư nhân tốt nhất sẽ được lựa chọn;
- Sự chia sẻ tốt nhất về chi phí, rủi ro, tiền thưởng giữa đối tác của khu
tư và khu vực công sẽ được lựa chọn;
vực công và khu vực tư sẽ được thực hiện, tránh được chi tiêu không cần thiết
- Hạn chế được lỗi ứng xử cơ hội và đảm bảo rằng các đối tác sẽ thực
của Chính phủ;
hiện nghiêm túc cam kết về đóng góp nguồn lực cả về số lượng và chất lượng.
3.2.3 Đánh giá kết quả PPP
Việc đánh giá PPP là cần thiết để cải thiện việc thiết kế chương trình,
đánh giá chi phí, lợi ích và tạo ra những thông tin phản hồi quan trọng cho
việc cải thiện chính sách. Không may là, nghiên cứu thực nghiệm toàn diện về
những sáng kiến trong quan hệ đối tác R&D bị giới hạn, dù cho số lượng các
nghiên cứu trường hợp về những quan hệ đối tác có quy mô lớn và nổi tiếng
63
vẫn tồn tại. Nhìn chung, những nghiên cứu như vậy có liên quan nhiều đến
những đặc thù và những mục tiêu của những người tham gia trong quan hệ
đối tác hơn là đến những yếu tố thúc đẩy hợp tác hoặc những kết quả đo
lường. Điều này một phần phản ánh sự thiếu khung phương pháp hiệu quả
cho việc đo lường đầu vào và đầu ra của quá trình hợp tác cũng như khung
thời gian của việc đánh giá (ngắn hạn vs dài hạn). Những kết quả của quan hệ
đối tác như bằng sáng chế hoặc những sản phẩm thương mại, những dịch vụ và
thậm chí là việc làm có thể được đo đêm dễ dàng trong 1 số ngành công nghiệp,
nhưng lại không phù hợp ở một số lĩnh vực, ngành khác. Một số nghiên cứu đã
chỉ ra rằng nhiều khi thực tế rất khác với giả định ban đầu khi thiết kế PPP.
Chẳng hạn, trong một số cuộc khảo cứu doanh nghiệp cho rằng mục tiêu tiếp cận
tri thức là quan trọng hơn cả khi họ tham gia PPP chứ không phải là những lợi
ích trước mắt, ngắn hạn và hữu hình, như chia sẻ chi phí và rủi ro.
Cần nhắc lại rằng, bên cạnh những mục tiêu cụ thể cần đạt được liên quan
tới các chương trình nghiên cứu theo PPP, bản thân những quan hệ được thiết
lập thông qua PPP và quá trình thực hiện PPP cũng là một kết quả quan trọng.
Đến đây, có thể nói thiết kế PPP trong STI là một việc không dễ dàng.
Một mặt, PPP sẽ cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản, mặt khác phải có
được sự linh hoạt và những cơ chế đặc thù để PPP có thể được hình thành và
hoạt động hữu hiệu. Loại vấn đề mà PPP nhằm giải quyết, tính chất của PPP,
bối cảnh của mỗi nước, các điều kiện khung và tính chất, năng lực cụ thể của
các bên đối tác sẽ là những yếu tố phải cân nhắc khi thiết kế một PPP cụ thể.
3.3 Đề xuất trong việc triển khai PPP tại Viện Ứng dụng Công nghệ - Bộ
Khoa học và Công nghệ
3.3.1 Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu, sớm hoàn thiện khung
pháp lý và thể chế, các văn bản hướng dẫn và chính sách ưu đãi đầu tư cho
PPP một cách linh hoạt, chặt chẽ đủ hấp dẫn các Nhà đầu tư.
64
Nhà nước cần hỗ trợ một phần kinh phí cho đầu tư trang thiết bị nghiên
cứu, cơ sở hạ tầng như phòng thí nghiệm …và kinh phí đào tạo nguồn nhân lực.
Nhà nước cần có chính sách cụ thể thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn
vốn của quỹ phát triên KH&CN quốc gia và quỹ đổi mới KH&CN quốc gia
để DN có thể vay ưu đãi, vay vốn được hỗ trợ lãi suất, được nhà nước bảo
lãnh để vay vốn. Ngoài ra, nhà nước nên cho phép các Viện ứng dụng công
nghệ dùng tài sản là máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ làm tài sản thế
chấp để vay vốn trong quá trình hoạt động.
Thành lập và phát triển các quỹ hỗ trợ dự án trong giai đoạn thí điểm và
trong tương lai. Tạo chính sách ưu đãi tốt nhất có thể cho các Nhà đầu tư
tham gia các dự án thí điểm hiện nay.
3.3.2 Với khu vực tư nhân
Các Nhà đầu tư phải có cái nhìn tổng thể để nhận thấy rằng PPP là một
sự phát triển tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là một cơ hội rất lớn của các
Nhà đầu tư trong đầu tư về KH&CN.
Khuyến khích các Nhà đầu tư đề xuất dự án gửi lên cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền xem xét, tích cực đóng góp ý kiến trong các cuộc tham luận,
hội nghị về PPP.
Đào tạo nguồn nhân lực, tạo tiền đề cho quá trình hoạt động sau này của
DN, bắt kịp, thích nghi với mô hình đầu tư theo hình thức PPP để chủ động
tham gia các dự án PPP một cách hiệu quả.
- Về phía Viện cần tập trung, lồng ghép kinh phí ngân sách nhà nước từ
3.3.3 Đối với Viện Ứng dụng công nghệ
các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, các chương trình dự án khác nhau có
- Khai thác, sử dụng cơ sở vật chất và tài sản chí tuệ của Viện Khi tham
mục tiêu phù hợp đóng góp thực hiện Nhiệm vụ KH&CN.
gia thực hiện Nhiệm vụ KH&CN các đối tác từ khu vực tư được ưu tiên, ưu
đãi cao nhất theo quy định của pháp luật trong sử dụng trang thiết bị, phòng
65
thí nghiệm và cơ sở vật chất cần thiết khác của Viện; được ưu tiên khai thác
- Cơ chế tài chính trong việc thực hiện Nhiệm vụ KH&CN, vận dụng nội
các cơ sở dữ liệu, tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của Viện.
dung, định mức và phương thức chi thuận lợi nhất được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hoặc đã được áp dụng đối với những
nhiệm vụ KH&CN khác. Chủ động điều chỉnh dự toán, vận dụng chế thực
thanh, thực chi trong giới hạn được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận.
Sử dụng kết quả của Nhiệm vụ KH&CN, lợi ích từ Nhiệm vụ KH&CN
được phân chia theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực của các đôi tác, hoặc theo thỏa
thuận khác. Thiệt hại, rủi ro (nếu có) liên quan đến Nhiệm vụ KH&CN được
chia sẻ theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực hoặc theo thỏa thuận khác nhưng không
vượt quá phần đóng góp thực tế của mỗi đối tác thực hiện Nhiệm vụ.
66
Tiểu kết chương
Thực tiễn quốc tế cho thấy cách hiểu về PPP trong khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo (STI) là rất đa dạng. Một thiết kế cụ thể bị chi phối bởi rất
nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến những vấn đề mà PPP nhằm giải quyết;
môi trường pháp lý và những thông lệ chi phối toan tính và hành xử của các
bên; mong muốn, năng lực và cơ hội hợp tác của các bên. Việc đạt được đồng
thuận giữa nhiều bên có lợi ích cốt lõi khác nhau để thành lập PPP và sau đó
triển khai thực hiện là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực. Kinh
nghiệm cũng cho thấy PPP đòi hỏi có thời gian để các bên hiểu về nhau tốt
hơn, do vậy ngoài những mục tiêu về những kết quả cụ thể, bản thân quá trình
tương tác giữa các bên cũng cần được coi là một mục tiêu của PPP.
Thực tiễn quốc tế cũng cho thấy, để PPP có kết quả tốt sẽ cần đến
những thử nghiệm, những điều chỉnh chính sách, pháp luật liên quan. Không có
công thức chung cho những việc như vậy. Quá trình cùng tiến hóa giữa thực
tiễn và chính sách là điều không thể tránh khỏi và là điều hay nên thực hiện.
Trong bối cảnh Việt Nam nói chung, PPP được kỳ vọng là một sự bổ
sung chính sách để giải quyết những loại vấn đề mà các công cụ chính sách
hiện thời chưa đáp ứng được. Đối với thực tế của Viện ứng dụng công nghệ
nói riêng, việc thử nghiệm mô hình hợp tác PPP trong nghiên cứu và ứng
dụng kết quả nghiên cứu là sự vận dụng linh hoạt mọi nguồn lực và các chính
sách ưu đãi của một đơn vị sự nghiệp công lập kết hợp với nguồn lực của các
đối tác từ khu vực tư nhằm đảm bảo mục tiêu của sự hợp tác và đảm bảo các
quyền và lợi ích của các bên tham gia.
Bên cạnh đó Viện cũng đã đưa ra một số đề xuất nhất định khi thực
hiện mô hình đối tác công - tư PPP.
67
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế và quá trình hội nhập, kinh tế Việt Nam có
tốc độ phát triển cao nhưng cơ sở hạ tầng lại không thể theo kịp tốc độ phát
triển này. Hơn nữa, Nhà nước lại đang rơi vào tình trạng nợ công nghiêm trọng
vì vậy Nhà nước không đủ sức bao tiêu cho các dự án. Các nguồn tài trợ của
các tổ chức tài chính quốc tế cũng ngày càng hạn hẹp. Vấn đề về vốn cho phát
triển cơ sở hạ tầng KH&CN càng ngày càng trở nên khó khăn. Trong tình hiện
nay, việc áp dụng hình thức đối tác công - tư là một hình thức tất yếu trong sự
phát triển của nền kinh tế thị trường và cũng là giải pháp tối ưu để thu hút vốn
của khu vực tư nhân trong đầu tư cơ sở hạ tầng KH&CN. Cũng đã có nhiều dự
án thực hiện trong thời gian qua phần nào thu hút được sự đầu tư và các dự án
này có dáng dấp của PPP nhưng hệ thống luật ở Việt Nam chưa chặt chẽ nên đã
bị lợi dụng kẽ hở để tạo ra cuộc diện có lợi cho khu vực tư nhân.
Vì đây là mô hình mới xuất hiện ở Việt Nam, vì vậy trong luận văn đã
đi sâu vào phân tích kinh nghiệm của các nước đã thực hiện PPP từ trước và
phân tích các cơ sở pháp lý cũng như kinh nghiệm áp dụng thí điểm theo nghị
định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công -
tư. Tuy nhiên các dự án này chưa nhiều và chỉ mới bắt đầu ở giai đoạn báo
cáo tiền khả thi và số ít đang báo cáo nghiên cứu khả thi. Luận văn hoàn
thành những nội dung nghiên cứu sau:
Đã nghiên cứu, hệ thống hóa tình hình phát triển cơ sở hạ tầng
KH&CN tại Việt Nam và thực trạng áp dụng mô hình PPP trong đầu tư cơ sở
hạ tầng ở Viện ứng dụng công nghệ và trên Thế Giới;
Đã nghiên cứu phân tích nguyên nhân, các cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý
và kinh nghiệm thực tiễn việc áp dụng PPP trong Viện ứng dụng công nghệ;
Đề xuất một số các giải pháp nhằm hỗ trợ quá trình chuẩn bị dự án, các
mô hình quản lý phân định trách nhiệm quản lý, giám sát và báo cáo việc thực
hiện dự án PPP đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư.
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Thông tư 03/2011/TT-BKHĐT hướng dẫn
thực hiện một số quy định của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27
tháng 11 năm 2009 về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT
ngày 27/01/2011, Hà Nội.
2. Báo cáo tổng kết của Viện ứng dụng công nghệ năm 2018
3. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư ngày 22/09/2006, Hà Nội.
4. Chính phủ (2009), Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hợp đồng
xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT), Hợp đồng xây dựng - chuyển
giao - kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) ngày
27/11/2009, Hà Nội.
5. Chính phủ (2010), Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công
- tư ngày 09/11/2010, Hà Nội.
6. Chính phủ (2012), Quyết định số 1597/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ban hành cơ chế quản lý và thực hiện Dự án đầu tư xây dựng đường cao
tốc Dầu Giây - Phan Thiết thí điểm theo hình thức đối tác công - tư ngày
26/10/2012, Hà Nội.
7. Chính phủ (2014), "Dự thảo Nghị định về hợp tác công - tư",
www.chinhphu.vn, ngày 20/8/2014, Hà Nội
8. Chính phủ (2014), Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu ngày 26/6/2014, Hà Nội.
9. Chính phủ (2015), Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức
hợp tác công - tư ngày 14/02/2015, Hà Nội.
69
10. Chính phủ (2015), Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư ngày 17/03/2015,
Hà Nội.
11. Chính phủ (2016), Quyết định số 1931/QĐ-TTg đã phê duyệt Đề án “Thí
điểm cơ chế đối tác công – tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ” ngày 7/10/2016(Đề án 1931)
12. Huỳnh Thế Du (2011), "Hợp tác công - tư, chiếc đũa thần"
www.thesaigontimes.vn, ngày 19/01/2011.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Đình Đức. “Mô hình hợp tác trường - Viện - Doanh nghiệp: kết
quả và bài học kinh nghiệm từ trường Đại học Công nghệ”. Tạp chí Khoa
học và công nghệ Việt Nam, 2 (3), 2014, 60 – 63.
15. Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), Hình thức hợp tác công - tư (Public
Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt
Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh.
16. Nguyễn Duy Hà (2014), "Hợp tác công - tư - Giải pháp thu hút các nguồn
lực từ khu vực tư nhân", http://bacninhbusiness.gov.vn, ngày 20/04/2014.
17. Trịnh Thị Hoa Mai. Liên kết đào tạo giữa nhà trường đại họcvới doanh
nghiệp ở Việt Nam.Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 24, 2008, 30-34.
18. Mô hình PPP là giải pháp tối ưu cho đô thị Việt Nam" (2011),
www.diaocvietonline.vn, ngày 06/3/2011.
19. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ban hành ngày
29/11/2005, Hà Nội.
20. Quốc hội (2005), Luật đầu thầu số 61/2005/QH11 ban hành ngày
29/11/2005, Hà Nội.
70
21. Quốc hội (2005), Luật SHTT số 50/2005/QH11 ban hành ngày
29/11/2005, Hà Nội.
22. Quốc hội (2013), Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ban hành ngày
26/11/2013, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ban hành ngày
11/6/2014, Hà Nội.
24. Mỹ Quyên (2013),"Cẩn trọng chọn dự án PPP", http://dddn.com.vn,
ngày 10/10/2013.
25. Nguyễn Hồng Thái (2013), "Hợp tác công - tư trong đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng", www.cauduongonline.com.vn, ngày 30/12/2013.
Tài liệu tiếng Anh
26. ADB (2006), Public private partnership (PPP) handbook, p. 142-155.
27. Akintoye, A., Hardcastle, C., Beck, M., Chinyio, E., and Asenova, D.
(2003), Achieving Best Value in Private Finance Iniative Project
Procurement, Construction Management and Economic, July 2003, p.
461-470.
28. Bernard Pasquier (2008), Restructuring the Libyan Economy in Light of
the New Role of the Government and the Private Sector, Private Sector
Development Workshop, Tripoli, April 29-30, 2008, p. 208-210.
29. European Commission (2003), Guidelines for Successful Public-Private
Partnerships, p. 346-356.
30. Gildenhuys, J.S.H and Snipe, A. (2000), The Organisation of
Government: An Introduction, Petoria: van Schailk, p320-340.
71