VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ÁP DỤNG CƠ CHẾ

ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ TRONG CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ - BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ÁP DỤNG CƠ CHẾ ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ TRONG CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN ỨNG

DỤNG CÔNG NGHỆ - BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ)

Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ

Mã số: 8 34 04 12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TẠ DOÃN TRỊNH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập

của riêng tôi. Tất cả các số liệu và những trích dẫn trong luận văn đều có nguồn

gốc chính xác và rõ ràng. Những phân tích của luận văn cũng chưa từng được công

bố ở một công trình nào.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Ngọc

3

LỜI CÁM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Thầy giáo TS Tạ

Doãn Trịnh - người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết với kinh nghiệm cũng

như kiến thức của mình tận tình chỉ bảo, đưa ra những hướng dẫn cho tôi

trong suốt quá trình làm luận văn.

Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo của trường

Học viện Khoa Học Xã Hội, đặc biệt là các thầy cô thuộc khoa Chính sách

công, ngành Quản lý khoa học và công nghệ đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong

suốt thời gian học chuyển đổi và học cao học tại trường vừa qua.

Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn các cán bộ, công nhân viên chức Viện

Ứng dụng công nghệ đã chỉ bảo, chia sẻ những tài liệu và các đóng góp quý

báu để tôi có những tư liệu phục vụ cho việc hoàn thành luận văn này.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn bộ gia đình, bạn bè và người

thân, những người đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ

VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI Ở

CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG ..................................................... 8

1.1 Khái niệm và sự cần thiết thực hiện cơ chế PPP trong Khoa học và

Công nghệ ................................................................................................... 8

1.2 Tổng quan về mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng dụng và triển khai

kết quả nghiên cứu khoa học ..................................................................... 12

1.3. Những vấn đề phát sinh trong mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng

dụng và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học ...................................... 19

1.4 Triển vọng và thách thức .................................................................... 23

Tiểu kết chương ............................................................................................. 30

Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ ĐIỀU

CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ (PPP) Ở VIỆT NAM

VÀ THỰC TIỄN TRIỂN KHAI TẠI VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG

NGHỆ ............................................................................................................. 31

2.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác công - tư

tại Việt Nam .............................................................................................. 31

2.2 Văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác Công - Tư trong

hoạt động Khoa học và Công nghệ ........................................................... 39

2.3 Một số vấn đề vướng mắc về cơ chế, chính sách và luật pháp. .......... 42

2.4 Thực tiễn triển khai mô hình PPP tại Viện Ứng dụng công nghệ ...... 44

Chương 3: PPP TRONG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐÔI MỚI

SÁNG TẠO VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THÚC ĐẨY HÌNH THỨC ĐỐI

TÁC CÔNG - TƯ TRONG VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ. ............. 51

3.1 Khung phân tích PPP trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi

mới (STI) ................................................................................................... 51

3.2 Những điều kiện cần và đủ để thiết kế và thực hiện PPP trong hoạt

động Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo .................................. 60

3.3 Đề xuất trong việc triển khai PPP tại Viện Ứng dụng Công nghệ -

Bộ Khoa học và Công nghệ ...................................................................... 64

KẾT LUẬN .................................................................................................... 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tiếng việt

Tiếng anh Absorptive Capacity Build - Transfer Build - Lease - Transfer AC BT BLT

Build - Operate - Transfer BOT

Năng lực tiếp nhận xây dựng - chuyển giao Hợp đồng xây dựng - thuê dịch vụ - chuyển giao Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

Build - Transfer - Operate BTO

Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh

Cơ sở hạ tầng CSHT

Doanh nghiệp DN

Đại học ĐH

ĐHQG Đại học quốc gia

ICT

Công nghệ thông tin và chuyền thông Information - Coonmunication - Technology

Hệ thống đổi mới Innovation system IS

Quyền tài sản trí tuệ Intellectual property rights IPR

KH&CN Khoa học và Công nghệ NC&PT Nghiên cứu và phát triển

Nguồn ngân sách Nhà nước NNSN

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức (đầu tư nươc ngoài) Official Development Assistance

Quan hệ đối tác công – tư Public-Private Partnership PPP

Năng lực nghiên cứu Research Capacity RC

Nghiên cứu và phát triển

Research and Development

R&D

Khoa học, công nghệ và đổi mới

STI

Science - Technology - Innovation

doanh nghiệp nhỏ và vừa

Small and medium enterprises

SMEs

Trung ương

TW

Công nghệ & Thực hiện đổi mới

Technology & Innovation

TIP

Performance

Ủy ban nhân dân

UBND

DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG

Hình 1.1. Mô hình các khoa, bộ môn của Đại học quốc gia Hà Nội .............. 17

Hình 3.1. Hệ thống con theo chức năng, các tác nhân cơ sở và ..................... 53

tổ chức trung gian ............................................................................................ 53

Hình 3.2. Môi trường liền kề: yếu tố tác động liên quan và các chế độ

(mức meso) ............................................................................................ 55

Hình 3.3. Điều kiện khung: cấu trúc và lĩnh vực chính sách cấp độ vĩ mô .... 56

Bảng 3.1: Phân nhóm hoạt động có yếu tố chuyển giao tri thức và công

nghệ ....................................................................................................... 58

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Public-Private Partnership - PPP có thể tạm dịch là Quan hệ đối tác

công - tư. Thuật ngữ đối tác công - tư bắt nguồn từ Hoa Kỳ với các chương

trình giáo dục được cả khu vực công và khu vực tư cùng tài trợ trong thập

niên 50 của thế kỷ trước. Sau đó, nó được sử dụng rộng rãi để nói đến các liên

doanh giữa các chính quyền thành phố và các nhà đầu tư tư nhân trong việc

cải tạo các công trình đô thị ở Hoa Kỳ trong thập niên 60. Kể từ thập niên 80,

thuật ngữ đối tác công - tư dần phổ biến ở nhiều nước và được hiểu là sự hợp

tác giữa nhà nước và tư nhân để cùng xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) hay

cung cấp các dịch vụ công cộng. Mô hình đối tác này bắt đầu xuất hiện ở Việt

Nam từ đầu thập niên 90. Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình PPP,

nhưng phổ biến nhất là nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân cùng ký một hợp

đồng để phân chia lợi ích, chia sẻ rủi ro cũng như trách nhiệm của mỗi bên

trong việc xây dựng một CSHT hay cung cấp một dịch vụ công nào đó.

Trước nhu cầu vốn đầu tư CSHT của đất nước nói chung và mỗi

ngành/địa phương nói riêng là rất lớn, trong khi ngân sách nhà nước thì có

hạn và vốn của các nhà tài trợ ngày càng thu hẹp, thì PPP được xem là đòn

bẩy tích cực bù đắp sự thiếu hụt này. Thông qua PPP, nhà nước sẽ thiết lập

các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được khuyến khích cung cấp

vốn bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác

tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, nó

sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân.

Trước đây, PPP chủ yếu được áp dụng trong đầu tư phát triển kết cấu

hạ tầng, xây dựng đường xá, nhà máy phát điện hay hệ thống cấp thoát

nước… Tuy nhiên đến nay, hình thức đầu tư này đã được mở rộng ra nhiều

lĩnh vực, trong đó có KH&CN, với mục tiêu huy động sự tham gia của khu

vực tư nhân vào thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực này. Theo các chuyên gia,

1

PPP trong KH&CN có nhiệm vụ cơ bản là thu hút vốn đầu tư để xây dựng,

hoàn thiện kết cấu hạ tầng và các nhiệm vụ KH&CN; thay đổi phương thức tổ

chức và quản lý để khu vực tư tham gia nhiều hơn, tích cực và chủ động hơn

vào các chương trình, dự án KH&CN; và chia sẻ rủi ro trong nghiên cứu khoa

học. Khi dự án theo hình thức PPP được thực hiện cũng sẽ giúp nâng cao

chuỗi giá trị sản phẩm, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, thúc đẩy

khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN - Một mục tiêu

quan trọng trong phát triển KH&CN của Việt Nam.

PPP hỗ trợ đổi mới công nghệ và nâng cấp chuỗi giá trị. Nguồn lực đầu

tư cho đổi mới công nghệ luôn là vấn đề Nhà nước và doanh nghiệp hết sức

quan tâm, vì đây là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc nâng cấp

chuỗi giá trị sản phẩm. Với quan điểm không phân biệt các thành phần kinh tế

trong việc thụ hưởng các cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, thời

gian qua các doanh nghiệp trong nước đã và đang nhận được sự hỗ trợ từ khu

vực công, nhất là hỗ trợ về công nghệ và các chính sách ưu đãi. Tuy nhiên để

tiếp tục phát triển, nhanh chóng tiếp cận được các công nghệ mới, hiện đại,

các doanh nghiệp vẫn rất cần có thêm cơ chế và chính sách mang tính đột phá

nhằm thu hút hơn nữa các nguồn lực đầu tư từ xã hội (cả trong và ngoài nước)

để đổi mới công nghệ, sáng tạo ra các sản phẩm mới. Về cơ chế chính sách

thu hút đầu tư phục vụ cho đổi mới công nghệ, ngày 14/2/2015 Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP và ngày

28/6/2016, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 06/2016/TT-

BKHĐT hướng dẫn một số điều của Nghị định 15. Việc thu hút đầu tư phát

triển hạ tầng dịch vụ KH&CN được quy định tại: Điểm đ, e Khoản 1, Điều 4

của Nghị định 15. Các điểm này thể hiện mục tiêu của chính sách mới về thu

hút đầu tư, trong xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, quản lý khai thác các hạ

tầng sẵn có đều có thể áp dụng hình thức PPP. Đây là những điểm rất mới về

chính sách mà trước đây chưa từng được xây dựng và triển khai. Theo cơ chế

2

mới này, nếu áp dụng PPP đối với các hạ tầng kỹ thuật cơ sở nghiên cứu,

phòng thí nghiệm đã được Nhà nước đầu tư, có thể theo mô hình nhượng

quyền khai thác (Franchise). Theo mô hình này, các CSHT đã được Nhà nước

đầu tư sẽ được giao lại cho tư nhân quản lý và khai thác nhưng quyền sở hữu

vẫn thuộc về Nhà nước. Khi áp dụng mô hình này cùng với việc áp dụng các

quy định tự chủ về tài chính theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày

14/6/2016 quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập sẽ giúp

chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập thành doanh nghiệp KH&CN, đồng

thời tạo ra cơ chế giúp cho các đối tượng khởi nghiệp tiếp cận thuận lợi và sử

dụng được các hạ tầng kỹ thuật cho nghiên cứu và phát triển công nghệ mới

cho chuỗi giá trị. Khi áp dụng mô hình PPP cho các dự án đầu tư CSHT trong

các khu công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao… khó áp dụng mô hình

BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BTO (Hợp đồng xây

dựng - chuyển giao - kinh doanh) do khả năng hoàn vốn và sinh lời không

cao, không hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên các mô hình BTL (Hợp đồng xây

dựng - chuyển giao - thuê dịch vụ), hay BLT (Hợp đồng xây dựng - thuê dịch

vụ - chuyển giao) vẫn có tính hấp dẫn các nhà đầu tư nếu nguồn vốn từ ngân

sách được sử dụng để bù đắp cho phần chi phí mà nguồn thu từ phí thực hiện

các dịch vụ khoa học kỹ thuật không đủ bù đắp cho các nhà đầu tư. Để thực

hiện mô hình PPP cho nhiệm vụ KH&CN, ngày 7/10/2016 Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành Quyết định số 1931/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thí điểm thực

hiện cơ chế đối tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN (gọi

tắt là Đề án 1931). Đề án 1931 cho phép khu vực tư và khu vực công cùng

tiến hành xác định mục tiêu các nhiệm vụ KH&CN sẽ thực hiện để tạo ra các

sản phẩm mới định hướng thị trường và có tính cạnh tranh. Đề án thực hiện

theo hình thức PPP sẽ giúp tận dụng được khả năng nhanh nhạy về nắm bắt

nhu cầu thị trường của nhà đầu tư, doanh nghiệp ngay từ khâu xác định nhiệm

vụ và định hướng mục tiêu sản phẩm ngay từ khâu đầu vào. Bản chất đây

3

cũng là việc xây dựng lộ trình công nghệ cho sản phẩm tương lai theo định

hướng thị trường.

PPP hỗ trợ hình thành và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,

doanh nghiệp KH&CN. Trong mô hình PPP, khi thực hiện sẽ hình thành nên

doanh nghiệp dự án. Đây là chủ thể đại diện cho cả hai phía công và tư để tổ

chức triển khai thực hiện dự án trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng PPP.

Đối với một dự án đầu tư cho hạ tầng KH&CN, hay dự án KH&CN sau khi

được thành lập sẽ xuất hiện doanh nghiệp dự án là doanh nghiệp KH&CN. Số

lượng doanh nghiệp KH&CN được hình thành tùy thuộc vào tính chất và quy

mô của dự án.

Tuy nhiên, điểm riêng biệt của các doanh nghiệp tham gia hợp đồng

PPP là bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt hợp đồng, mọi sự thay đổi đều

không được phép hoặc phải có ý kiến của các bên và cơ quan nhà nước có

thẩm quyền, nhất là tổ chức tín dụng cho dự án PPP. Đây là điểm quan trọng

cần lưu ý trong quá trình khởi nghiệp sáng tạo và hình thành các doanh

nghiệp KH&CN .

Mặc dù đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới,

song hình thức hợp tác đối tác công - tư là khá mới ở Việt Nam, nhất là khi áp

dụng vào lĩnh vực KH&CN. Tuy nhiên đây là một xu hướng tất yếu. Do đó

việc nghiên cứu mô hình này cần được tiếp tục cả về phương diện lý luận

cũng như thực tiễn để PPP thực sự là một giải pháp đột phá thu hút các nguồn

lực xã hội (cả trong và ngoài nước) nhằm thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát

triển các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp KH&CN .

Vì vậy, việc lựa chọn và thực hiện đề tài khóa luận Thạc sĩ “Đề xuất

giải pháp áp dụng cơ chế đối tác công - tư trong các viện nghiên cứu ứng

dụng (Nghiên cứu trường hợp Viện Ứng dụng công nghệ - Bộ Khoa học và

Công nghệ)” là cần thiết và có ý nghĩa khoa học và thực tế.

4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Công trình nghiên cứu thực nghiệm PPP trên thế giới rất phong phú,

nhiều kết quả quan trọng đã được công bố, cụ thể nghiên cứu khẳng định

không tồn tại một hình thức PPP chuẩn và mỗi nước đều có chiến lược riêng

tùy thuộc bối cảnh của nước đó. Ở Việt Nam vai trò của công nghệ trong phát

triển đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Trong môi trường cạnh tranh ngày

càng tăng hiện nay, công nghệ là một yếu tố chiến lược sống còn cho phát

triển nhanh chóng kinh tế - xã hội. Kết quả của việc ứng dụng, khai thác công

nghệ phụ thuộc vào việc chúng ta tạo ra được những công nghệ phù hợp, có

khả năng áp dụng được vào hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp. Cho

nên, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích, đánh giá thực trạng các mô hình đối tác trong việc nghiên

cứu, ứng dụng và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.

Tổng hợp cơ sở Pháp lý điều chỉnh mô hình đối tác giữa các đơn vị/tổ

chức Nghiên cứu khoa học và các đối tác tư nhân theo mô hình đối tác công -

tư (PPP).

Đề xuất Mô hình đối công - tư (PPP) trong việc nghiên cứu, ứng dụng

và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học giữa nhà nước và tư nhân.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mô hình hợp tác công tư đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới

trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở Việt Nam, mô hình này chủ yếu được áp

dụng để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, và cũng mới bắt đầu manh nha

sang ngành KH&CN. Do đó có thể nói, đề tài liên quan tới vấn đề trong

ngành KH&CN vẫn còn rất mới .Vì là một đề tài mới và có phạm vi rộng,

nên luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu việc áp dụng cơ chế đối tác công -

tư ở Viện ứng dụng công nghệ.

5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Thực tiễn triển khai mô hình đối tác công - tư đã và đang được áp dụng

vào ngành KH&CN, đã đưa ra được những cơ hội và thách thức trong việc

triển khai mô hình đối tác công - tư. Đồng thời cũng nêu được những khó

khăn và thuận lợi của việc triển khai mô hình này. Tuy vẫn còn gặp nhiều khó

khăn nhưng cũng đã có bước thành công nhất định.

Luận văn dựa vào phương pháp Phương pháp nghiên cứu chính sau đây

Phương pháp tiếp cận thể chế được sử dụng để tiến hành các hoạt động

nghiên cứu làm rõ vai trò của từng đối tác trong dự án PPP, bao gồm cả vai

trò của người sử dụng/hưởng lợi từ dự án.

Tiếp cận theo lợi ích được sử dụng nhằm xem xét cân bằng lợi ích,

cách ứng xử liên quan đến các quy định, quy tắc, cam kết của các bên nếu

tham gia các dự án PPP, như đại diện Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân.

Phương pháp hỏi chuyên gia là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội

ngũ chuyên gia để xem xét nhận định bản chất của đối tượng, tìm ra một giải

pháp tối ưu.

Phương pháp phân tích tổng hợp phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý

luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc

về cơ chế PPP. Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được

phân tích tạo ra một hệ thông lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về cơ chế PPP.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Thực tiễn quốc tế cho thấy cách hiểu về PPP trong khoa học công nghệ

và đổi mới sáng tạo (STI) là rất đa dạng. Một thiết kế cụ thể bị chi phối bởi rất

nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến những vấn đề mà PPP nhằm giải quyết;

môi trường pháp lý và những thông lệ chi phối toan tính và hành xử của các

bên; mong muốn, năng lực và cơ hội hợp tác của các bên. Việc đạt được đồng

thuận giữa nhiều bên có lợi ích cốt lõi khác nhau để thành lập PPP và sau đó

triển khai thực hiện là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực. Kinh

6

nghiệm cũng cho thấy PPP đòi hỏi có thời gian để các bên hiểu về nhau tốt

hơn, do vậy ngoài những mục tiêu về những kết quả cụ thể, bản thân quá trình

tương tác giữa các bên cũng cần được coi là một mục tiêu của PPP.

Để PPP có kết quả tốt, sẽ cần đến những thử nghiệm, những điều chỉnh

chính sách, pháp luật liên quan. Không có công thức chung cho những việc

như vậy. Quá trình cùng tiến hóa giữa thực tiễn và chính sách là điều không

thể tránh khỏi và là điều hay nên thực hiện.

Trong bối cảnh Việt Nam nói chung, PPP được kỳ vọng là một sự bổ

sung chính sách để giải quyết những loại vấn đề mà các công cụ chính sách

hiện thời chưa đáp ứng được.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu

thành 3 chương.

Chương 1. Cơ sở lý luận của cơ chế đối tác công - tư và kinh nghiệm

quốc tế trong việc triển khai ở các viện nghiên cứu ứng dụng.

Chương 2. Thực trạng các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động đối tác

công - tư (PPP) ở Việt Nam và thực tiễn triển khai tại Viện ứng dụng công nghệ.

Chương 3. PPP trong khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và và

một số đề xuất thúc đẩy hình thức đối tác công - tư trong Viện ứng dụng công

nghệ.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ

VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI

Ở CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

1.1 Khái niệm và sự cần thiết thực hiện cơ chế PPP trong Khoa học và

Công nghệ

1.1.1 Khái niệm PPP

Quan hệ đối tác công - tư được nhìn nhận như một phương thức để tổ

chức và huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào những hoạt động từ

trước tới nay vẫn được coi là thuộc chức năng của Nhà nước, vừa giúp thúc

đẩy quá trình cải cách hoạt động của hệ thống Nhà nước, trong đó có cải cách

hành chính, vừa cho phép thu hút vốn để xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng

cho đất nước hoặc cho từng vùng, vừa cho phép thay đổi phương thức tổ chức

và quản lý, cho phép khu vực công tham gia nhiều hơn, tích cực và chủ động

hơn vào các chương trình, dự án công. Bên cạnh đó, PPP còn được nhìn nhận

từ khía cạnh chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và tư nhân trong quá trình thực hiện

dự án. Về bản chất, PPP là một hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực

tư nhân, nhằm tích hợp được những điểm mạnh, lợi thế nhất của cả hai khu

vực này trong việc thực hiện một dự án nào đó. Trong giai đoạn đầu mới xuất

hiện, lĩnh vực truyền thống của PPP là phát triển cơ sở hạ tầng song hiện tại

được mở rộng hơn sang các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa

học và phát triển công nghệ.

PPP khác với mua sắm công. Trong một dự án mua sắm công điển

hình, cơ quan nhà nước đặt ra những thông số kỹ thuật và yêu cầu về thiết

kế/dịch vụ, gọi thầu trên cơ sở thiết kế chi tiết/dịch vụ đó, và thanh toán cho

các nhà thầu tư nhân. Nhà nước sẽ phải chi trả cho toàn bộ chi phí, kể cả

những chi phí phát sinh do thay đổi yêu cầu từ phía nhà nước. Việc vận hành

và bảo trì cũng hoàn toàn nằm trong tay Nhà nước và nhà thầu không chịu

8

trách nhiệm cho kết quả hoạt động dài hạn của cơ sở dịch vụ sau thời gian bảo

hành (thường là ngắn hơn rất nhiều).

Theo hình thức PPP, cơ quan nhà nước chỉ rõ những yêu cầu của họ

dưới dạng “đầu ra”. Khu vực tư nhân có mức độ tự do nhất định để thiết kế,

cấp vốn, xây dựng và vận hành cơ sở dịch vụ sao cho đáp ứng được những

yêu cầu “đầu ra” của nhà nước. Khu vực tư nhân sẽ được thanh toán (phí dịch

vụ) trong suốt quãng đời của hợp đồng PPP trên cơ sở thỏa thuận trước, theo

đó qua thời gian nhà đầu tư sẽ thu lại được vốn và lãi. Kết quả chủ yếu của

PPP là việc chuyển những rủi ro cơ bản liên quan tới dự án từ phía Nhà nước

sang doanh nghiệp thực hiện.

1.1.2 Sự cần thiết của cơ chế PPP trong thực hiện nhiệm vụ Khoa học và

Công nghệ

Thực tế đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ

KH&CN còn ít lại dàn trải và không tránh khỏi những trùng lặp trong các

nhiệm vụ cụ thể được thực hiện, là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn

chế về hiệu quả đầu tư, kết quả đạt được. Đặc biệt, sự liên kết, tham gia của

khu vực tư trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN có kinh phí từ ngân

sách nhà nước còn khá mờ nhạt.

Trên thực tế, nhà nước đã có một số cơ chế, chính sách khuyến khích

sự tham gia của khu vực tư trong việc tham gia và thực hiện các nhiệm vụ

KH&CN của nhà nước. Những cơ chế, chính sách này đã có tác dụng huy

động, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp cùng với nhà nước thực

hiện các nhiệm vụ KH&CN. Mặc dù vậy, nhìn chung, vẫn còn những hạn chế

nhất định trong việc khuyến khích khu vực tư tham gia thực hiện nhiệm vụ

KH&CN cùng với khu vực công. Đặc biệt, việc tổ chức thực hiện các nhiệm

vụ KH&CN của nhà nước vẫn còn thiếu sự tham gia một cách tích cực, chủ

động, mạnh mẽ và xuyên suốt của khu vực tư trong tất cả các bước, từ xác

định nhiệm vụ đến đóng góp kinh phí, tổ chức, quản lí việc thực hiện và

9

chuyển giao, ứng dụng sản phẩm tạo ra. Phân tích các cơ chế, chính sách hiện

hành có thể thấy một số điểm nổi bật như sau:

- Thông thường các đề xuất bắt nguồn từ một phía, Nhà nước hoặc tư

nhân. Sự tham dự của phía thứ hai có tính chất hưởng ứng khi thấy nhu cầu

của mình (về lợi ích, về sứ mệnh) được đồng thời thực hiện.

- Về tổ chức và quản lý, nhà nước có vai trò điều phối và đưa ra cơ chế

quản lý, thể hiện ở việc lựa chọn và xét duyệt đầu vào, kiểm tra và giám sát

việc tổ chức thực hiện, xét duyệt nghiệm thu kết quả và duyệt quyết toán kinh

phí được sử dụng.

- Nguồn kinh phí do hai bên cùng đóng góp theo tỷ lệ 30:70 hoặc 50:50

(trước đây quy định tỷ lệ thu hồi 100%, 80 hoặc 70% cũng có ý nghĩa tương

tự) nhưng cơ chế tài chính về sử dụng kinh phí áp dụng đối với các nhiệm vụ

KH&CN liên kết về cơ bản cũng giống như các nhiệm vụ được cấp 100%

kinh phí từ NSNN.

- Còn vắng bóng hình thức hợp tác mà cả hai phía cùng chủ động bàn

bạc và cùng khởi xướng ý tưởng nghiên cứu (không theo nghĩa 1 bên khởi

xướng và 1 bên phê duyệt hoặc ngược lại). Sự thiếu vắng này được thể hiện

cả từ khía cạnh quy định của pháp luật, cả từ khía cạnh thực tiễn quản lý các

nhiệm vụ KH&CN. Có thể thấy, gần như hoàn toàn chưa xây dựng được quan

hệ hợp tác hai bên, khi sứ mệnh của Nhà nước và lợi ích của tư nhân gặp nhau

trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN.

- Các qui định và cơ chế hiện hành đối với việc xác định, thực hiện

nhiệm vụ KH&CN vẫn theo tinh thần hoặc nhà nước chủ động đặt hàng,

doanh nghiệp tham gia thực hiện hoặc doanh nghiệp chủ động đề xuất, nhà

nước hỗ trợ thực hiện. Hiện chưa có những quy định pháp luật làm căn cứ cho

việc nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác cùng nhau chủ

động thiết lập quan hệ đối tác để cùng nhau xác định, thực hiện, khai thác kết

10

quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN mà tất cả các bên cùng quan tâm, nâng cao

hiệu quả sử dụng kinh phí công cho KH&CN .

Trong khi đó, kinh nghiệm nước ngoài cũng đã cho thấy, PPP là công

cụ mới, đáp ứng những nhiệm vụ mà những công cụ hiện có chưa đáp ứng

được (qui mô, kinh phí, tầm ảnh hưởng). PPP nhằm vào các chương trình

nghiên cứu trung và dài hạn với cam kết rõ ràng của khu vực tư nhân. Trong

quan hệ này, đóng góp khu vực công giữ vai trò đòn bẩy, tạo ra môi trường

thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và các tổ chức KH&CN. Nội dung

chương trình nghiên cứu được hình thành dựa trên đề xuất của doanh nghiệp

sẽ nâng cao tính khả thi và đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Thêm vào đó, với tính

chất bất đối xứng thông tin giữa nhà quản lý và nhà khoa học và nhu cầu cụ

thể của doanh nghiệp, cần xem xét đến khả năng quản lý rủi ro tốt hơn của

doanh nghiệp trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ để việc quản lý và sử dụng

nguồn lực chung của xã hội được hiệu quả hơn. Ngoài ra, một khi cơ chế quản

lý nhiệm vụ được trao cho bên đầu tư nhiều hơn quản lý (50-70% đồng vốn

góp chung vào thực hiện nhiệm vụ) thì khả năng hấp dẫn của loại hình hợp

tác công - tư đối với khu vực tư nhân cũng sẽ tăng lên.

Các vấn đề, hạn chế chung về đầu tư, thực hiện và hiệu quả của các

nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ, trong đó có việc đẩy

mạnh sự tham gia của khu vực tư. Ngoài việc có thêm nguồn kinh phí đầu tư

cho nhiệm vụ KH&CN, khu vực tư với những lợi thế về năng lực nghiên cứu

và phát triển, năng lực quản lí, phát triển thị trường, liên kết, tạo mạng lưới,

v.v…, trở thành một đối tác quan trọng mà nhà nước có thể hợp tác để nâng

cao hiệu quả đầu tư và thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Việc thu hút, khuyến

khích khu vực tư tham gia vào nhiệm vụ KH&CN cũng đáp ứng yêu cầu xã

hội hóa hoạt động KH&CN, tạo điều kiện khu vực tư tham gia một cách chủ

động, tích cực.

11

Thực tế đã cho thấy, đầu tư dự án theo hình thức đối tác công - tư trong

lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công là hình thức hợp tác tối ưu

hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, mang lại

lợi ích cho cả nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Luật Đầu tư công cũng

đã chính thức mở ra cơ chế đối tác công - tư để thực hiện, quản lí, vận hành

dự án kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp các dịch vụ công (Luật Đầu tư công,

2014). Việc xây dựng cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm

vụ KH&CN là một trong những giải pháp để tăng cường huy động các nguồn

lực xã hội, thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho KH&CN, hạn chế tình

trạng đầu tư manh mún từ ngân sách nhà nước, giảm chi phí, giảm rủi ro và

tạo ra được một môi trường cạnh tranh cao trong hoạt động KH&CN.

1.2 Tổng quan về mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng dụng và triển khai

kết quả nghiên cứu khoa học

1.2.1 Một số mô hình PPP ở nước ngoài

Quan hệ đối tác công - tư trong nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ tại Hoa Kỳ.

Tại Hoa Kỳ, PPP trong hoạt động R&D được coi là việc khu vực tư

nhân tham gia đầu tư kinh phí cho các dự án nghiên cứu của đại học và các

viện nghiên cứu nhà nước với kỳ vọng được tiếp cận sớm kết quả hoặc được

sở hữu (toàn bộ hoặc một phần) tài sản trí tuệ được tạo ra từ những nghiên

cứu này.

Năm 2000, chính phủ Hoa Kỳ trả tiền cho số lượng nghiên cứu nhiều

hơn so với số nghiên cứu mà chính phủ thực hiện; ngược lại, khu vực doanh

nghiệp và đại học tiến hành nhiều nghiên cứu bằng tiền cấp phát và hợp đồng

với chính quyền liên bang. NC&PT do khu vực doanh nghiệp thực hiện (chủ

yếu là nghiên cứu ứng dụng) chiếm tới ba phần tư tổng số NC&PT của Hoa

Kỳ, tuy nhiên NC&PT do các đại học và cơ quan chính phủ thực hiện cũng

chiếm một tỷ lệ quan trọng, đặc biệt khi tính tới yếu tố là NC&PT trong hai

12

khu vực này chủ yếu là nghiên cứu cơ bản. NC&PT của khu vực đại học tuy

chiếm có 14% tổng số NC&PT nhưng lại chiếm tới 50% tổng số nghiên cứu

cơ bản.

Trong một thời gian dài (từ 1953 đến 2000), khu vực doanh nghiệp của

Hoa Kỳ luôn nhận được khoản kinh phí NC&PT từ Chính phủ liên bang lớn

hơn nhiều so với khu vực đại học. Tuy nhiên, bản thân khu vực doanh nghiệp

cũng đầu tư mạnh mẽ cho NC&PT, nên phần kinh phí nhận được từ chính phủ

tuy lớn cũng chỉ chiếm 10% chi tiêu NC&PT của khu vực này. Trong khi đó,

khu vực đại học tuy nhận được kinh phí từ chính phủ ít hơn, nhưng số đó lại

chiếm tới 60% kinh phí NC&PT mà khu vực này có được.

Ngoài các cơ quan nhà nước trên đây, còn có khoảng 700 phòng thí

nghiệm quốc gia (FFRDC) thực hiện 8.8% ngân sách NC&PT của Hoa kỳ.

Các phòng thí nghiệm này thuộc sở hữu của chính quyền liên bang, phần lớn

ngân sách hoạt động của chúng là do Bộ năng lượng cấp, nhưng lại được quản

lý thông qua hợp đồng với các đại học hoặc doanh nghiệp lớn. Khi xin kinh

phí nghiên cứu các tổ chức này được đối xử giống như đại học, ngoài ra họ

cũng có những hợp đồng nghiên cứu, chủ yếu với Bộ Năng lượng.

Như vậy, có thể thấy hiện nay có sự đan xen về kinh phí từ cả nguồn

công và tư trong các hoạt động NC&PT của cả khu vực tư nhân, đại học và

nhà nước, đặc biệt là trong các hoạt động NC&PT của Hoa Kỳ. Ranh giới

giữa khoa học phi lợi nhuận, và khoa học vì lợi nhuận đang mờ dần đi. Sự đan

xen về nguồn tiền, và theo đó là mục tiêu, cùng với xu thế các doanh nghiệp

đầu tư ngày càng nhiều cho hoạt động NC&PT của khu vực đại học và khu

vực chính phủ, mặc dù vậy, cũng đặt ra những vấn đề trái chiều.

Có thể thấy việc ngày càng có nhiều đầu tư của tư nhân tham gia

NC&PT trong khu vực đại học và chính phủ ở Hoa Kỳ mới là nội hàm của

thuật ngữ đối tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực này. Ở đây, việc tư nhân đầu

tư cho nghiên cứu khoa học của đại học và chính phủ, những tổ chức có thiên

13

hướng nghiên cứu khoa học phục vụ công chúng, phục vụ nhân loại nói

chung, phần nào tương đồng với khái niệm PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng,

theo đó cơ sở hạ tầng phục vụ công cộng lại được đầu tư và khai thác bởi khu

vực tư nhân. Xung đột về lợi ích giữa khu vực tư nhân và khu vực đại học,

chính phủ đặt ra những dấu hỏi về những lợi ích và thiệt hại của PPP trong

NC&PT của hai khu vực sau này.

Những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu của các đại học Hoa Kì

ngày càng dựa nhiều vào kinh phí từ khu vực doanh nghiệp. Nhiều đại học ở

Hoa Kì đã lập ra những đơn vị nghiên cứu để thu hút và tiếp nhận những

nguồn kinh phí thương mại. Cách phổ biến là cam kết chuyển giao quyền đối

với tài sản trí tuệ được tạo nên từ những nghiên cứu trong các lĩnh vực công

nghệ mới, như công nghệ sinh học, vi điện tử, chế tạo, khoa học vật liệu, và

trí tuệ nhân tạo. Nhiều đại học đã tận dụng được sự bùng nổ của nhiều lĩnh

vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học để ký kết được những hợp

đồng nghiên cứu khổng lồ. Trong phần lớn trường hợp, giới doanh nghiệp

nhận được những cam kết về sở hữu những tài sản trí tuệ hình thành từ việc

thực hiện hợp đồng nghiên cứu.

Mục đích của doanh nghiệp khi cấp kinh phí nghiên cứu thường là để

khai thác được chất xám của các nhà khoa học, và thường gắn khoản kinh phí

đó với những vấn đề cụ thể cần giải quyết. Đổi lại cho khoản kinh phí cấp cho

đại học, nhà tài trợ tư nhân thường nhận được li-xăng toàn quyền theo một tỷ

lệ nhất định đối với những bằng sáng chế phát sinh, và cùng với đó là được

tiếp cận các kết quả nghiên cứu, tham gia các cuộc hội thảo khoa học, tiếp cận

đội ngũ giảng viên và các sinh viên nghiên cứu. Với việc cấp kinh phí nghiên

cứu, doanh nghiệp thường đòi hỏi một số đặc quyền, chẳng hạn như trì hoãn

công bố các kết quả nghiên cứu cho đến khi đảm bảo được sở hữu tài sản trí

tuệ. Một số doanh nghiệp trong những lĩnh vực nhạy cảm có thể lái kết quả

nghiên cứu theo hướng có lợi cho họ. Những điều trên đây đều ít nhiều hạn

chế tính cởi mở của khoa học.

14

Một vấn đề khác cần giải quyết khi tư nhân đầu tư vào NC&PT của khu

vực đại học là sự trộn lẫn các nguồn kinh phí của cả tư nhân và nhà nước

trong hoạt động của đại học, do vậy, khi tài sản trí tuệ được chuyển cho doanh

nghiệp thì về nguyên tắc, trong đó có chứa cả phần mà nhà nước đã đầu tư.

Vấn đề này trở nên đặc biệt nhạy cảm nếu nhà tài trợ tư nhân lại là một doanh

nghiệp nước ngoài. Người ta lo ngại rằng, với một số tiền tài trợ nghiên cứu

khiêm tốn, các nhà tài trợ tư nhân lại có thể thu được những thành quả trên

thực tế được đầu tư đáng kể từ nguồn của công. Tương tự với khu vực đại

học, đầu tư tư nhân cho NC&PT của các phòng thí nghiệm liên bang cũng gây

nên những quan ngại tương tự.

Như vậy, đối tác công - tư trong NC&PT một mặt khai thác được

những ưu điểm như có thêm nguồn lực tài chính cho nghiên cứu, định hướng

thực tiễn, khả năng áp dụng v.v., mặt khác, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần

giải quyết, như việc sở hữu các tài sản trí tuệ được tạo ra bằng cả hai nguồn

tiền, sự hạn chế tính mở của khoa học, khuynh hướng quá thiên về lợi nhuận.

Mô hình PPP tại Pháp

Năm 2005, nước Pháp bắt đầu triển khai quá trình cải tổ hệ thống đào

tạo đại học và nghiên cứu khoa học với các mục tiêu:

- Tạo cho hệ thống đào đạo đại học của Pháp có thể đáp ứng tốt hơn khả

năng cạnh tranh quốc tế;

- Tạo dựng những mối quan hệ hợp tác thực sự giữa các trường đại học,

các cơ sở nghiên cứu với các đối tác của nền kinh tế;

- Thực hiện chính sách quy mô, thông qua đó tạo được sự cân bằng giữa

các vùng, miền trên bình diện quốc gia về hệ thống đào tạo đại học và nghiên

cứu khoa học.

Trung tâm cạnh tranh là tổ chức được thành lập theo vùng địa lý đảm

nhận chức năng liên kết giữa các cơ sở đào tạo, các viện nghiên cứu với các

doanh nghiệp tạo nên nguồn lực cho quá trình hợp tác và phát triển với sự hỗ

15

trợ đắc lực của các đối tác khác như nhà nước, các cấp chính quyền địa

phương và các tổ chức quốc tế. Thực chất đây là một văn phòng điều hành

chung các hoạt động nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH&CN và thực tiễn

sản xuất. Trung tâm có nhiệm vụ:

- Trao đổi thông tin, xác định các nhu cầu về đổi mới và chuyển giao công

nghệ của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất nhằm định hướng cho các quá

trình nghiên cứu - triển khai tại các trường đại học và viện nghiên cứu;

- Tập hợp nguồn lực, nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh của các

cơ sở nghiên cứu và đào tạo;

- Tìm kiếm, khai thác các nguồn lực tài chính cho các hoạt động nghiên

cứu và triển khai;

- Cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn

nhân lực chất lượng cao, tìm kiếm nguồn tài chính cho các đầu tư đổi mới

công nghệ.

Kế hoạch thành lập trung tâm cạnh trang do chính phủ Pháp khởi

xướng năm 2005. Các trường đại học, các viện nghiên cứu và cộng đồng

doanh nghiệp của từng địa phương tùy theo thế mạnh của mình mà liên kết

với nhau và trình lên chính phủ đề án mang đặc thù riêng của mình. Ví dụ ở

vùng Grenoble có Trung tâm Minalogic chuyên sâu về lĩnh vực công nghệ

Chip và công nghệ Nano, vùng Bourgogne có Trung tâm Vitagora chuyên sâu

về công nghệ sinh học và công nghệ thực phẩm,… Hệ thống các trung tâm

này được đánh giá là đã có những đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển

của nền kinh tế Pháp trong những năm qua. Cụ thể 3 năm (2006 – 2008) đã

huy động được nguồn lực tài chính 3,6 tỷ Euro cho triển khai 544 dự án

nghiên cứu phát triển (R&D). Trong đó nguồn huy động từ nhà nước là 1,1 tỷ

Euro còn lại 2,5 tỷ huy động từ các doanh nghiệp. Với các kết quả đã đạt

được, chính phủ Pháp quyết định chi tiếp 1,5 tỷ Euro cho triển khai giai đoạn

tiếp theo.

16

Trung tâm có biên chế và nguồn tài chính riêng cho các hoạt động của

mình. Hàng năm, Ban điều hành Trung tâm phải có báo cáo hoạt động, quyết

toán tài chính và bản dự toán ngân sách cho năm sau trình tại Đại hội thường

niên. Đây là căn cứ để quyết định mức tài trợ của các cấp chính quyền và lệ

phí đóng góp của các thành viên. Đây là cách huy động tài chính theo phương

thức công - tư cùng hợp tác mà các tổ chức KH&CN của Việt Nam nên học

tập. Nhà nước, chính quyền địa phương góp một khoản tài trợ tượng trưng.

Các doanh nghiệp khi được trực tiếp tham gia xây dựng định hướng hoạt

động của các tổ chức KH&CN họ sẽ có cách huy động phần lớn nguồn tài

chính mà tổ chức này cần.

1.2.2 Một số mô hình PPP ở trong nước

Mô hình của Đại học Quốc gia Hà Nội

Đây là mô hình các khoa, bộ môn phối thuộc đã và đang được áp dụng

và được cho là khá thành công tại Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia

(ĐHQG) Hà Nội. Theo mô hình này, tại trường đã có khoa Cơ học kỹ thuật và

tự động hóa là đơn vị phối thuộc của Viện Cơ học; Bộ môn Công nghệ hàng

không - vũ trụ là bộ môn phối thuộc của Viện Công nghệ vũ trụ,…

Hình 1.1. Mô hình các khoa, bộ môn của Đại học quốc gia Hà Nội

Nguồn: Trường Đại học quốc gia Hà Nội

Theo đánh giá của một số chuyên gia đầu ngành về quản lý KH&CN,

mô hình khoa, bộ môn, phòng thí nghiệm phối thuộc giữa trường - viện -

17

doanh nghiệp thực sự là mô hình hay, là giải pháp quan trọng và hữu hiệu góp

phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng kết quả KH&CN từ

các đề tài, dự án, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và của đất nước.

Mô hình hợp tác, liên kết giữa trường đại học - viện nghiên cứu - doanh

nghiệp đang dần được khẳng định, có một số đơn vị triển khai và hoạt động

khá hiệu quả, nhất là ở hai ÐHQG, các đại học vùng và một số trường đại

học, viện nghiên cứu lớn. Nhưng để mô hình hợp tác ba bên này mở rộng và

phát triển hơn thì các ngành, các cấp có liên quan còn cần tiếp tục nghiên cứu

giải quyết nhiều vấn đề phía trước.

Mô hình của Đại học Bách khoa Hà Nội

Một trong những thành công nổi bật của Đại học Bách khoa Hà Nội thể

hiện qua sự hợp tác với Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông

trong hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Quan hệ hợp tác

này đã mang lại nhiều đề tài, dự án và tăng cường năng lực nghiên cứu cho Đại

học Bách khoa Hà Nội. Đồng thời, góp phần tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc

của Rạng Đông. Hiện nay, hai bên đã có nhiều dự án chung, trong đó có dự án

xây dựng hai phòng thí nghiệm chung (01 đặt tại Rạng Đông và 01 tại Đại học

Bách khoa Hà Nội), mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.

Mô hình của Trường ĐH Nông Lâm - Đại học Huế

Là một trong những trường ĐH Đại học đầu tiên được chọn thí điểm

mô hình đào tạo theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE) từ năm

2005. Trường đã nỗ lực hợp tác với doanh nghiệp (DN) để đổi mới chương

trình đào tạo, giúp sinh viên tiếp cận nhiều hơn với thực tế, nâng cao kỹ năng

nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Sinh viên được

đào tạo theo Dự án POHE có nhiều cơ hội trực tiếp tham gia các hoạt động

quản lý, sản xuất, kinh doanh của các cơ quan, DN trong và ngoài nước, như:

Lào, Campuchia, Thái Lan... Đến nay, Trường đã có quan hệ hợp tác với gần

500 DN, mang lại cơ hội rất lớn cho người học. Chính điều này giúp sinh viên

18

tự tin, năng động và tìm kiếm được việc làm đúng với sở trường và ngành

nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.

1.3. Những vấn đề phát sinh trong mô hình hợp tác nghiên cứu, ứng dụng

và triển khai kết quả nghiên cứu khoa học

1.3.1. Vấn đề về quan điểm và cách tiếp cận mô hình liên kết

Một là, để tạo thành công khi liên kết, các doanh nghiệp cho rằng đó là

yếu tố: uy tín/danh tiếng của đối tác khi hợp tác, mục tiêu cần cụ thể khi hợp

tác. Trong khi đó, trường/viện thì cho rằng khả năng/năng lực, mức độ hợp

tác sẽ tạo thành công cho liên kết.

Hai là, doanh nghiệp cho rằng, từ sự khác biệt về đặc điểm hoạt động

đã làm giảm liên kết giữa doanh nghiệp và Viện do: doanh nghiệp tại Việt

Nam chưa quan tâm đến việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao làm vấn

đề quyết định tạo ưu thế cho doanh nghiệp, cạnh tranh dựa trên lao động trẻ,

thị trường khai thác rẻ hơn là dựa vào công nghệ.

Ba là, đối với trường/viện, kinh nghiệm thực tế trong mô hình liên kết

còn hạn chế do mục tiêu thiên về đào tạo và nghiên cứu của trường/viện khác

nhu cầu, quan điểm của doanh nghiệp.

1.3.2 Vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ đối với kết quả nghiên cứu Khoa

học và Công nghệ

Quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả nghiên cứu

Quyền sở hữu đối với tổng thể kết quả triển khai đề tài, dự án thể hiện

tập trung trong Báo cáo Toàn văn và Tóm tắt kết quả nghiên cứu, với tư cách

là hai tác phẩm được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả.

Quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ (SHTT) khác phát

sinh trong tiến trình triển khai kết quả nghiên cứu và thỏa mãn các tiêu chuẩn

bảo hộ tương ứng theo pháp luật SHTT.

Quyền công bố, quyền sử dụng các thông tin không tiết lộ phát sinh

trong tiến trình triển khai kết quả nghiên cứu. Đối với các thông tin mới và có

19

giá trị nhưng không phải là thông tin không tiết lộ và cũng không đáp ứng các

tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT liên quan, các bên tham gia triển khai kết quả

nghiên cứu đều có quyền công bố, sử dụng và khai thác.

Phân định tỷ lệ quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả

nghiên cứu.

Việc phân định tỷ lệ quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả

nghiên cứu trước tiên phải được giao kết về nguyên tắc trong Hợp đồng thực

hiện kết quả nghiên cứu giữa Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu (sau đây gọi là

các Bên đầu tư) với các bên có liên quan. Đối với các kết quả nghiên cứu có

huy động kinh phí hoặc cơ sở, phương tiện vật chất từ nhiều nguồn khác

nhau, tỷ lệ quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ phát sinh được phân định

như sau:

- Tỷ lệ quyền sở hữu đối với toàn bộ kết quả nghiên cứu cuối cùng, thể

hiện trong Báo cáo Toàn văn và Tóm tắt kết quả nghiên cứu, do các Bên đầu

tư quyết định bằng văn bản, trên cơ sở đề xuất của Hội đồng nghiệm thu kết

quả nghiên cứu, có sự đồng thuận của cơ quan chủ trì, cơ quan đặt hàng, cơ

quan sử dụng kết quả nghiên cứu, các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

khác (nếu có) … Sự đồng thuận này được ghi nhận trong Biên bản nghiệm

thu kết quả nghiên cứu.

- Tỷ lệ quyền sở hữu đối với từng đối tượng SHTT khác do các Bên đầu

tư quyết định bằng văn bản, trên cơ sở đề xuất của Chủ nhiệm kết quả nghiên

cứu và nhóm thực hiện, có sự thỏa thuận bằng văn bản của cơ quan chủ trì, cơ

quan đặt hàng, cơ quan sử dụng kết quả nghiên cứu, các bên có quyền lợi và

nghĩa vụ liên quan khác (nếu có).

- Quyền công bố, sử dụng các thông tin không tiết lộ được các Bên đầu

tư thỏa thuận bằng văn bản, tuân thủ các quy định liên quan của pháp luật về

bảo vệ bí mật Nhà nước. Các bên tham gia triển khai kết quả nghiên cứu đã

20

biết về các thông tin trên có nghĩa vụ bảo mật và không sử dụng, tiết lộ khi

chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Bên đầu tư liên quan.

- Quyền công bố đối với Báo cáo Toàn văn và Tóm tắt kết quả nghiên

cứu cần được các Bên đầu tư thỏa thuận và ghi nhận bằng văn bản, trên cơ sở

của điều khoản tuyên bố chuyển giao quyền từ Chủ nhiệm và nhóm thực hiện

trong Hợp đồng giao kết thực hiện kết quả nghiên cứu.

Xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của kết quả nghiên cứu.

Đối với các tài sản trí tuệ được xác định sẽ thuộc quyền sở hữu của một

chủ thể duy nhất, chủ thể đó tự chịu trách nhiệm xúc tiến các hoạt động xác

lập quyền tương ứng.

Đối với các tài sản trí tuệ được xác định sẽ thuộc quyền sở hữu của

nhiều chủ thể, trong đó không có Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu từ Ngân

sách, các bên liên quan thỏa thuận cách thức xúc tiến các hoạt động xác lập

quyền tương ứng.

Đối với các tài sản trí tuệ được xác định sẽ thuộc quyền sở hữu của

nhiều chủ thể trong đó có Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu từ Ngân sách, Cơ

quan này nên đảm nhận việc xúc tiến các hoạt động xác lập quyền tương ứng.

Đối với các tài sản trí tuệ tự xác lập quyền khi thỏa các điều kiện luật

định (bí mật kinh doanh, tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình…), chủ thể xúc

tiến việc xác lập quyền cần tiến hành các hoạt động lưu giữ và bảo vệ các

chứng cứ phát sinh quyền.

Đối với các tài sản trí tuệ phải xác lập quyền theo cơ chế đăng ký tại cơ

quan nhà nước có thẩm quyền (sáng chế, giống cây trồng…), hoặc có thể

đăng ký để giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh quyền (tác phẩm, bản ghi âm,

bản ghi hình…), chủ thể xúc tiến việc xác lập quyền cần ghi nhận và khai báo

đầy đủ, chính xác tên của các tác giả, đồng tác giả liên quan cùng tỷ lệ đóng

góp của từng người.

21

Đối với các tài sản trí tuệ là tác phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả,

phần quyền công bố tác phẩm thuộc quyền nhân thân của tác giả đã sáng tạo ra

tác phẩm được chuyển giao cùng các quyền tài sản liên quan cho các chủ thể có

quyền sở hữu tương ứng (như đã nêu trong mục Phân định tỷ lệ quyền sở hữu ở

trên), phù hợp với các quy định tại Điều 39 và khoản 2 Điều 45 Luật SHTT

[điều 39 và khoản 2 điều 45; 21].

Chi phí xác lập quỵền sở hữu trí tuệ do các chủ thể nắm giữ quyền sở

hữu tài sản trí tuệ liên quan thanh toán theo tỷ lệ quyền sở hữu tương ứng. Chi

phí xác lập quyền của Cơ quan cấp kinh phí nghiên cứu từ Ngân sách nên

được phép hạch toán trong kinh phí quản lý kết quả nghiên cứu liên quan, bao

gồm các khoản phí, lệ phí quốc gia và phí dịch vụ đại diện SHTT (nếu có).

Đối với các tài sản trí tuệ bị bỏ sót không được ghi nhận lại cho đến khi

đã nghiệm thu xong đề tài, dự án, đến thời điểm được phát hiện mà vẫn còn

đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật SHTT, cũng sẽ được phân định

và xác lập quyền sở hữu theo các quy định trên đây.

Đối với các đơn đăng ký bị từ chối bảo hộ do đối tượng đăng ký không

đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ tương ứng, các bên tham gia triển khai kết quả

nghiên cứu đều có quyền công bố, sử dụng, khai thác như nhau.

Sử dụng, khai thác và phân chia lợi ích đối với các tài sản trí tuệ

của kết quả nghiên cứu.

Quyền sử dụng, khai thác các tài sản trí tuệ và tỷ lệ phân chia lợi ích

(nếu có) được đặt cơ sở trên quyền sở hữu và tỷ lệ quyền sở hữu, trừ khi các

bên có thỏa thuận khác.

Bên khai thác sử dụng tài sản trí tuệ phải tôn trọng các quyền nhân

thân và quyền tài sản của các tác giảvà đồng tác giả theo quy định của

pháp luật SHTT.

Việc sử dụng, khai thác các tài sản trí tuệ thuộc kết quả nghiên cứu đã

được bảo hộ theo pháp luật SHTT, do Chủ nhiệm kết quả nghiên cứu hoặc của

22

bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác thực hiện mà không được phép của chủ sở

hữu, đều là hành vi xâm phạm quyền SHTT và phải chịu các chế tài liên quan

theo quy định của pháp luật.

1.4 Triển vọng và thách thức

Sự tham gia của khu vực tư nhân vào các hoạt động tài trợ cho phát

triển hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích, nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi

hỏi các tổ chức tài trợ phát triển phải có những chính sách, qui định, mục tiêu

rõ ràng cùng những hướng dẫn mang tính tác nghiệp chỉ đạo hoạt động hợp

tác với khu vực tư nhân, sao cho vừa khai thác được những thế mạnh của khu

vực tư nhân, lại vừa bảo toàn được trách nhiệm và sứ mệnh công ích của

những tổ chức này. Có rất nhiều ý kiến ủng hộ lẫn những lo ngại khác nhau

về lý lẽ của PPP trong tài trợ phát triển, đại thể như sau:

Huy động nguồn lực

Khả năng huy động được những thế mạnh, năng lực, khả năng và

nguồn lực khác nhau mà mỗi khu vực có thể đáp ứng là lợi ích phổ biến nhất,

chung nhất của PPP trong các dự án phát triển. Ở đây, người ta không coi tiền

bạc là nguồn lực duy nhất, hay thậm chí là nguồn lực được kỳ vọng nhất của

khu vực tư nhân. Khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ đóng góp nhiều nguồn lực

quan trọng khác ngoài tiền bạc, như kỹ năng quản lý, chuyên môn kỹ thuật, hạ

tầng, nền tảng, công nghệ, ý tưởng, cách nhìn nhận mới và các mạng lưới tác

nghiệp. Việc tham gia của khu vực tư nhân với nguồn lực đa dạng như vậy

còn giúp quá trình hoạch định chính sách có được nhiều thông tin hơn, phong

phú hơn, trúng hơn, do vậy nâng cao chất lượng ra quyết định, khả năng cùng

giải quyết vấn đề và hiệu quả hoạt động tốt hơn.

Tác dụng tuyên truyền

Có ý kiến cho rằng sự tham gia của khu vực tư nhân, đặc biệt là sự

tham gia của những doanh nhân nổi tiếng trong các dự án tài trợ phát triển có

thể có tác dụng tuyên truyền cho các dự án này, giúp quảng bá hình ảnh của

23

chương trình, mục đích, ý nghĩa của những chương trình đó v.v.. Tuy nhiên,

tác dụng trên cũng có thể theo chiều ngược lại, đối với nhiều hoạt động, ở một

số cộng đồng, sự tham gia của khu vực tư nhân với mục tiêu lợi nhuận có thể

tạo ra những nghi hoặc của công chúng về ý nghĩa công ích của những dự án

phát triển.

Đổi mới trong khu vực công

Gần đây, xuất hiện ngày càng nhiều nghiên cứu, trao đổi về đổi mới

trong khu vực công, trong việc nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công. Quan

hệ đối tác giữa các cơ quan tài trợ phát triển và khu vực tư nhân mở ra cơ hội

thử nghiệm những cách làm mới trong việc thực hiện những dự án phát triển,

hứa hẹn thúc đẩy đối mới trong hoạt động này. Điều này đòi hỏi các bên tham

gia đối tác một mặt phải tuân thủ những nguyên tắc cốt lõi của mình để giữ

được bản sắc, mặt khác phải có nhãn quan cởi mở, sẵn sàng tìm kiếm giải pháp

tháo gỡ những xung đột, sẵn sàng chấp nhận những nguyên tắc, cơ chế làm

việc mới. Quá trình này đòi hỏi các cơ quan tài trợ phát triển phải nhìn nhận,

đánh giá lại những giá trị thực sự là cốt lõi mà họ theo đuổi, loại bỏ đi những

giá trị hay nguyên tắc ngụy tạo, không thực chất, mở đường cho những cách

làm mới. Có thể nói, tham gia quan hệ đối tác với khu vực tư nhân là một tác

nhân để các tổ chức tài trợ phát triển phải đổi mới bản thân họ.

Các bên cùng có lợi

Quan hệ đối tác có thể được tổ chức theo cách mang lại lợi ích cho tất

cả các bên, nói cách khác đó có thể và cần là một quan hệ đối tác cùng có lợi

(win - win). Tuy nhiên, để hiện thực hóa điều này, các bên phải chỉ ra được

những lợi ích trực tiếp và lâu dài mà bên mình (đặc biệt là khu vực tư nhân)

có thể kỳ vọng khi tham gia quan hệ đối tác. Đối với đối tác tư nhân tiềm

năng, đó có thể là cơ hội thị trường mới, uy tín và hình ảnh được cải thiện,

quản lý rủi ro tốt hơn, tiếp cận được những kỹ năng hợp tác phát triển, tiếp

cận với chính phủ tốt hơn.

24

Các bên cùng có lợi là một nguyên tắc quan trọng để bảo đảm tính bền

vững trong các quan hệ đối tác mà mỗi bên thường có những lợi ích và mục

tiêu khác nhau. Tuy nhiên, thực tế sẽ xảy ra những tình huống xung đột lợi ích

và khi này cần phải đặt sứ mạng phục vụ cộng đồng lên trên những lợi ích

khác. Cơ chế đảm bảo cho điều này sẽ phải được tính đến trong quá trình thiết

kế cơ chế đối tác công - tư.

Cùng học hỏi, tin cậy và hiểu nhau hơn

Đối tác công - tư có thể mang lại những lợi ích từ việc học hỏi lẫn

nhau, xây dựng “vốn xã hội” hoặc lòng tin giữa các cơ quan tài trợ phát triển,

khu vực tư nhân, và các tổ chức phi chính phủ. Nó cũng giúp các bên có cơ

hội hiểu nhau hơn, gỡ bỏ những định kiến về nhau. Tuy nhiên đây cũng chính

là một thách thức trong hợp tác công - tư, bởi lẽ, tuy có những mẫu mực về

cách làm tốt, quan hệ đối tác giữa chính phủ, khu vực tư nhân, và các tổ chức

phi chính phủ vẫn bị phủ bóng bởi sự thiếu tin tưởng, thông tin sai lệch và

những cơ hội bị bỏ lỡ. Sự hoài nghi về những lý lẽ ủng hộ cho đối tác công -

tư trong tài trợ phát triển cũng là một rào cản.

Phân định ranh giới và nêu rõ kỳ vọng

Mỗi bên trong quan hệ đối tác thường có những tôn chỉ mục đích khác

nhau, vai trò và trách nhiệm khác nhau, quy tắc hành xử khác nhau. Những

điều tưởng chừng là rõ ràng, không cần phải bàn cãi này trên thực tế lại không

dễ xác định, không dễ phát biểu một cách tường minh, mạch lạc. Điều này một

phần do khó khăn mang tính bản chất của việc phân định ranh giới về sứ mệnh

của một tổ chức, một phần do bản thân ranh giới đó (nếu có) cũng thay đổi theo

thời gian cùng với sự ra đời và ảnh hưởng của những tư tưởng mới. Phân định

rõ ranh giới của mỗi bên trong quan hệ đối tác sẽ đảm bảo tính tường minh,

đồng thời giúp thiết kế được những cơ chế hợp tác hữu hiệu hơn.

Việc nêu rõ kỳ vọng của các bên trong quan hệ đối tác cũng quan trọng

không kém. Hiểu được kỳ vọng của nhau sẽ tránh bớt những hiểu nhầm hoặc

25

ảo tưởng về nhau ngay từ trước khi đi vào quan hệ đối tác. Điều này cũng

giúp sớm xác định những xung đột tiềm tàng trong quan hệ đối tác để có thể

thiết kế cơ chế giải quyết xung đột hữu hiệu hơn.

Quản lý rủi ro

Quan hệ đối tác giữa các loại tổ chức có bản chất khác nhau thường

chứa đựng nhiều rủi ro. Dựa trên kinh nghiệm của các tổ chức tài trợ phát

triển và qua tham khảo cộng đồng doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức xã

hội dân sự, một số nhóm rủi ro sau đây được tổng kết:

- Rủi ro về uy tín

Khi thiết lập quan hệ đối tác với khu vực tư nhân, chính phủ hoặc các

tổ chức tài trợ phát triển phải chịu rủi ro về uy tín gắn với khả năng chọn phải

đối tác tư nhân không phù hợp, hoặc hoạt động hợp tác không phù hợp, hoặc

bị những bên liên quan chủ chốt nhìn nhận là không phù hợp. Điều này làm

giảm tiếng nói và uy tín của chính phủ hoặc các cơ quan liên quan.

- Rủi ro về quan hệ lợi ích

Loại rủi ro này gắn với quan hệ lợi ích giữa việc bên đối tác tư nhân

tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, tư vấn thiết kế chương trình, dự

án...vv. với ý đồ thương mại của họ khi tham gia thực hiện dự án sau này,

chẳng hạn khi thiết kế chương trình phía tư nhân có thể “cài cắm” những phần

việc mà sau này chính họ sẽ tham gia cung cấp. Hợp đồng hợp tác do vậy phải

chỉ rõ những hạn chế, vai trò, trách nhiệm của các bên, đồng thời có thể sử

dụng đánh giá độc lập trong những trường hợp cần thiết.

- Rủi ro về lợi thế không công bằng

Những người phê phán cho rằng hợp tác công - tư có thể tạo ra những

lợi thế không công bằng, bởi bên tư nhân có thể lợi dụng quan hệ đối tác, sử

dụng danh nghĩa của các đối tác chính phủ để mưu lợi riêng. Để khắc phục

nguy cơ này, hợp đồng đối tác cần phải có những điều khoản về nguyên tắc

minh bạch và quan hệ đối tác độc quyền. Cần ghi rõ trong hợp đồng rằng việc

26

tham gia quan hệ đối tác của một bên thuộc chính phủ sẽ không hạn chế bên

này tham gia quan hệ đối tác với các bên khác.

- Rủi ro về quản trị

Quản trị quan hệ đối tác không tốt sẽ khiến PPP thất bại khi không mang

lại những kết quả được kỳ vọng, hoặc mang lại kết quả với chi phí giao dịch

quá cao. Cơ cấu quản trị PPP rất dễ thiếu tính đại diện, kéo theo đó là tình trạng

mất cân bằng về quyền lực giữa các bên; dễ bỏ sót một số nhóm đối tượng thụ

hưởng, hoặc thiếu cơ chế chịu trách nhiệm đối với những nhóm bị ảnh hưởng,

do vậy có thể làm giảm sự tin cậy và chấp nhận của công chúng.

Nhiều nhà phê bình cho rằng tính chất đa dạng và phức tạp của những

loại rủi ro trên đây trong PPP cần phải được công khai thừa nhận, đánh giá và

quản lý thông qua quá trình hướng dẫn đầy đủ, dựa trên các thực hành mẫu

mực của quan hệ đối tác và khi cần thiết, thông qua đối thoại nhiều bên, cũng

như đánh giá, xem xét độc lập.

Xử lý khác biệt

PPP xét về bản chất sẽ có sự tham gia của các đối tác có lợi ích khác

nhau, động cơ khác nhau, đóng góp những loại nguồn lực và hiểu biết chuyên

môn khác nhau, ở mức độ khác nhau, kỳ vọng vào những kết quả và lợi ích

khác nhau. Sự khác biệt này chính là tiền đề để hình thành quan hệ đối tác với

hy vọng khai thác được thế mạnh của mỗi bên. Tuy nhiên cần phải thống nhất

được những đích đến và mục tiêu chung. Do vậy sự khác biệt cần phải được

nhận thức rõ và được quản lý nhằm tránh những rủi ro đã đề cập trong phần

trên, đồng thời đảm bảo một quan hệ đối tác hữu hiệu trong điều hành. Ngay từ

đầu khi thiết kế quan hệ đối tác cần có sự trao đổi để các bên hiểu nhau về

những khác biệt trong động cơ tham gia, khuôn khổ về thời gian, mục tiêu,

phong cách, văn hóa, ngôn ngữ, “thân chủ” của mỗi đối tác. Ngay từ đầu cũng

cần có sự đồng thuận về cơ chế trao đổi và giải quyết mâu thuẫn.

27

Quản lý kỳ vọng

Kỳ vọng ở đây được hiểu là kỳ vọng của các bên tham gia đối tác, lẫn

kỳ vọng của các thực thể chịu ảnh hưởng của quan hệ đối tác. Một trong

những thách thức cần giải quyết là làm rõ vai trò và trách nhiệm của từng

bên, ứng với chuyên môn sâu và hạn chế của mỗi bên. Để quản lý kỳ vọng,

quan hệ đối tác cần lường trước được những điều chỉnh cần có khi tình hình

thay đổi. Sự chia sẻ về kỳ vọng giữa các đối tác và những điều chỉnh cần

thiết khi hoàn cảnh thay đổi sẽ giúp vận hành quan hệ đối tác hiệu quả hơn,

trôi chảy hơn.

Trong PPP tài trợ phát triển, người ta thường kỳ vọng quá mức về đóng

góp của khu vực tư trong việc cung cấp hàng hóa công. Nhiều nghiên cứu cho

thấy, không nên xem doanh nghiệp là một sự thay thế cho chính phủ, đặc biệt

ở các nước nghèo hay ở các vùng sâu vùng xa nơi cơ sở hạ tầng chưa phát

triển và việc quản trị còn yếu kém. Khu vực công hay các nhà tài trợ vẫn sẽ

phải đóng vai trò dẫn dắt trong tài trợ phát triển. Đóng góp của khu vực tư

nhân cho tài trợ phát triển chủ yếu phải thông qua hoạt động đầu tư có trách

nhiệm, nhằm tối ưu hóa những tác động tích cực về kinh tế, xã hội và môi

trường, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực.

Cơ hội hợp tác không chỉ cho những doanh nghiệp lớn

Đối tác công - tư giữa các cơ quan tài trợ phát triển và khu vực tư nhân

thường xoay quanh một nhóm nhỏ những doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm

hợp tác nhiều bên. Những doanh nghiệp này thường có nguồn lực mạnh hơn

và có trình độ quản lý cao hơn, cho phép họ tham gia vào những quan hệ đối

tác với những bên có bản chất khác họ. Tuy nhiên, cơ hội hợp tác nên và cần

phải mở rộng cho mọi loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ

và vừa (SMEs) ở những địa bàn có đặc thù địa phương. Để hiện thực hóa điều

này sẽ cần đến những chỉ dẫn, hỗ trợ cụ thể, rõ ràng giúp SMEs không có

kinh nghiệm tham gia vào quan hệ đối tác phục vụ phát triển.

28

Xây dựng năng lực và khắc phục sự quan liêu

Các cơ quan của chính phủ cũng cần nâng cao năng lực đối tác với khu

vực tư nhân. Đối tác công - tư đòi hỏi những kỹ năng và chuyên môn mới,

cũng như đòi hỏi những nhân sự có khả năng hiểu và làm việc vượt qua ranh

giới hành chính của tổ chức, có khả năng tiếp nhận những tư duy mới, khác

biệt của những đối tác khác. Các cơ quan chính phủ thường có tiếng là quan

liêu, để tham gia hợp tác công - tư hữu hiệu, cần có những biện pháp sáng tạo

để vượt qua sự quan liêu mang tính bản chất này.

29

Tiểu kết chương

Như vậy, có thể thấy mô hình PPP trong lĩnh vực đầu tư đổi mới công

nghệ là một hướng đi mới, việc áp dụng các tiêu chuẩn và tiêu chí theo mô

hình PPP sẽ giúp thay đổi tư duy trong việc sử dụng ngân sách cho KH&CN,

theo đó các quan điểm sẽ được thay đổi từ “tài trợ hay hỗ trợ” sang “đầu tư

hay góp vốn”, và như vậy dòng vốn từ xã hội sẽ tìm thấy cơ hội để cùng đầu

tư vào giải quyết các vấn đề công nghệ để tạo ra các sản phẩm mới, sản phẩm

có giá trị gia tăng cao và hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,

doanh nghiệp KH&CN theo chuỗi giá trị. Mô hình PPP cũng sẽ đem đến sự

thay đổi về cách thức quản lý và thực hiện các dự án KH&CN, giúp tránh tình

trạng sản phẩm của quá trình nghiên cứu không tìm được địa chỉ ứng dụng.

Tuy nhiên để áp dụng hiệu quả mô hình PPP cho hạ tầng kỹ thuật, hay cho

các nhiệm vụ KH&CN cần xác định rõ những công việc mà các đối tác tham

gia trong khi thực hiện, cần có sự chuẩn bị tốt trong quá trình đàm phán giữa

khu vực công và tư để đảm bảo chất lượng của các hợp đồng dự án, cần xác

định rõ đối với các dự án KH&CN các nội dung nào là “tài trợ”, phần nào là

“đầu tư” và phương thức thực hiện như thế nào để ngăn ngừa các rủi ro xuất

hiện trong quá trình triển khai thực hiện dự án.

Thông qua các phân tích tổng hợp các vấn đề liên quan như khái niệm

mối quan hệ đối tác công - tư, vai trò trách nhiệm của mỗi bên có thể khẳng

định rằng đối tác giữa nhà nước và khối tư nhân là quan hệ bình đẳng, hai bên

cùng có lợi (win-win) trên cơ sở sự tin tưởng, bảo đảm các cam kết, chia sẻ

công tác quản lý điều hành, đảm bảo lợi ích cho các bên và chia sẻ rủi ro.

30

Chương 2

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH

HOẠT ĐỘNG ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ (PPP) Ở VIỆT NAM VÀ

THỰC TIỄN TRIỂN KHAI TẠI VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ

Ở chương 1 đã phân tích đưa ra những lợi ích mà mô hình đối tác công

- tư PPP đem lại cũng như kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Để từ đó hiểu

rõ hơn về mô hình đối tác công - tư PPP. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại có các

cơ chế, chính sách và luật pháp khác nhau. Ở chương 2 chúng ta cùng tìm

hiểu và phân tích thực trạng các quy định, cơ chế chính sách và luật pháp về

mô hình đối tác công - tư tại Việt Nam.

2.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác công - tư

tại Việt Nam

2.1.1 Hệ thống quy phạm văn bản pháp luật

Trong hệ thống khuôn khổ pháp luật Việt Nam các Luật, Nghị định và

các văn bản liên quan sau có những chính sách, quy định điều chỉnh đối với

mô hình hợp tác công - tư tại Việt Nam bao gồm:

- Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 ban hành ngày 16/12/2002;

- Luật Khoa học & Công nghệ số 29/2013/QH1 ban hành ngày

18/06/2013;

- Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ban hành ngày 13/11/2008;

- Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 ban hành ngày

19/6/2017;

- Luật Sở hữu trí tuệ 36/2009/QH12 ban hành ngày 19/6/2009;

- Luật Xây dựng số 16/2003/QH11; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản số 38/2009/QH12; Luật

xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/06/2014;

- Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005; Nghị định số

108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và

31

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Luật Đầu tư số

67/2014/QH13 ngày 26/11/2014;

- Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 ngày 18/06/2014;

- Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP; Quyết

định số 39/2008/QĐ-TTg; Quyết định số 256/2006/QĐ-TTg; Luật Đấu thầu

số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày

26/06/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa

chọn nhà thầu;

- Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11; Luật Doanh nghiệp số

68/2014/QH13 ngày 26/11/2014;

- Nghị định số 77/CP ngày 18/06/1997; Nghị định số 62/1998/NĐ-CP

ngày 15/08/1998; Nghị định số 02/1999/NĐ-CP ngày 27/01/1999;

- Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư

theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), Xây

dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT);

- Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Chính phủ về

việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư;

- Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 của Bộ Kế hoạch

và Đầu tư về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số

108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức

hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT;

- Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 05/04/2011 sửa đổi Nghị định

108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh -

chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây

dựng - chuyển giao;

- Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình

thức đối tác công - tư;

32

- Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/03/2015 quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư;

- Quyết định số 1931/QĐ-TTg ngày 7/10/2016 về phê duyệt Đề án “Thí

điêm cơ chế đối tác công - tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và

công nghệ”.

Hiện nay, trong khung pháp luật điều chỉnh mô hình đối tác Công - Tư

(PPP) tại Việt Nam có hai văn bản có tính pháp lý cao nhất là Luật Đấu thầu

và Luật Đầu tư. Luật Đầu tư quy định việc quản lý hoạt động đầu tư, nhằm

mục đích kinh doanh, bao gồm đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào tổ chức

kinh tế, đầu tư của nhà nước vào hoạt động công ích, đầu tư bằng nguồn tín

dụng phát triển. Luật Đấu thầu quy định về quy trình, thủ tục, các hình thức

đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư tham gia dự án, nhà thầu cung cấp dịch vụ tư

vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp đối với các gói thầu của các dự án (từ 30%

vốn nhà nước trở lên cho đầu tư phát triển; dự án sử dụng vốn nhà nước để

mua sắm tài sản) [điều 1 Luật Đấu thầu 2005; 19].

2.1.2 Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu

Luật Đầu tư

Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo

sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo một "sân chơi" bình

đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, đơn giản hóa thủ tục đầu

tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu

tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường sự quản lý của nhà

nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư

có hiệu lực từ ngày 01/07/2005 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật

Khuyến khích đầu tư trong nước. Ngoài một số bảo lưu nhất định, Luật Đầu

tư không còn những quy định mang tính phân biệt đối xử bất hợp lý hoặc áp

đặt có lợi cho "chủ nhà". Phần lớn các quy định của Luật, đặc biệt là quy định

về ưu đãi, hỗ trợ và đảm bảo đầu tư cũng như các quy định về quyền tự chủ

kinh doanh, quyền lựa chọn hình thức đầu tư đều được áp dụng thống nhất đối

33

với tất cả các nhà đầu tư không phân biệt thành phần kinh tế. Nhiều quy định

đã dành sự đối xử công bằng và thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài so

với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây (các quy định về quyền lựa chọn loại

hình doanh nghiệp, tổ chức kinh tế để thành lập và tổ chức kinh doanh, quyền

xuất khẩu, nhập khẩu, quyền góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt

Nam, quyền tiếp cận, sử dụng các nguồn tài nguyên theo pháp luật...). Chủ

đầu tư tự chịu trách nhiệm huy động các nguồn vốn thực hiện và chịu trách

nhiệm về hiệu quả dự án. Các chính sách ưu đãi được thực hiện theo ngành,

lĩnh vực và địa bàn nơi thực hiện dự án.

Ngày 11/06/2014 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư số 67/2014/QH13

với những điểm mới như: Quy định thêm các đối tượng ưu đãi đầu tư: dự án

có quy mô vốn từ 6000 tỷ đồng trở lên, dự án đầu tư tại vùng nông thôn có sử

dụng từ 500 lao động trở lên...; Bổ sung ngành, nghề ưu đãi đầu tư mới: sản

phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng

từ 30% trở lên; sản phẩm tiết kiệm năng lượng; Quỹ tín dụng nhân dân, tổ

chức tài chính vi mô...; Quy định cụ thể các ngành, nghề ưu đãi như thu gom,

xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải (trước đây là lĩnh vực bảo vệ môi

trường sinh thái); Giáo dục mầm non, phổ thông, nghề nghiệp (trước đây là

phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo) và đặc biệt quy định cụ thể về PPP tại

Điều 27 - Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP [điều 27; 22].

Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ký kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà

nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo,

nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung

cấp dịch vụ công. Chính phủ quy định chi tiết lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực

hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng P PP

Luật Đấu thầu

Trong lĩnh vực đấu thầu, trước đây các quy định nằm rải rác trong nhiều văn

bản quy phạm pháp luật gây nên tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất

giữa các văn bản và gây khó khăn cho các đơn vị thực hiện và áp dụng.

34

Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày

26/11/2013 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2014) thì các quy định pháp luật đã

được tập trung, điều chỉnh mang tính hệ thống. Theo đó, đấu thầu để lựa chọn

nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức đối tác công - tư (PPP) nằm trong

phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu 2013 [khoản 3 Điều 1; 22].

Bên cạnh đó, còn kể tới sự liên quan của các hoạt động PPP với Luật

Ngân sách nhà nước và Luật Xây dựng. Luật Ngân sách nhà nước quy định

tổng thể về chi phí đầu tư phát triển, bao gồm đầu tư xây dựng các công trình

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương

quản lý; đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, tổ chức

tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp

thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; chỉ bổ sung dự trữ nhà

nước và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Luật Xây dựng quy

định quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư có hoạt động xây dựng, bao

gồm thẩm quyền lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng.

2.1.3 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công -

tư là bước tiến mới của Nghị định số 15/2015/NĐ-CP

Thứ nhất, về nguồn vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư. Theo Nghị định 15, Bộ

Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) có trách nhiệm huy động một số nguồn vốn hợp

pháp rồi cấp phát cho các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh. Nhưng theo Nghị định

63, các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh phải chủ động việc huy động vốn cho mục

đích này. Như vậy, nghị định mới đã chuyển trách nhiệm của Bộ KHĐT trong

việc huy động vốn phục vụ cho công tác chuẩn bị đầu tư sang cho các bộ,

ngành, UBND, và điều này cũng góp phần tránh được những rủi ro liên quan

do làm tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan này trong

cùng vấn đề.

35

Thứ hai, về vốn chủ sở hữu và vốn huy động của nhà đầu tư, Nghị định

63 đã nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư lên tối thiểu 20% so với mức

15% trong Nghị định 15 đối với dự án có tổng đầu tư đến 1.500 tỉ đồng.

Với dự án có tổng đầu tư trên 1.500 tỉ đồng thì mức vốn chủ sở hữu theo quy

định mới cũng được sửa theo hướng nâng cao hơn. Cụ thể, vốn chủ sở hữu tối

thiểu là 20% với phần vốn đến 1.500 tỉ đồng và tối thiểu là 10% với phần vốn

trên 1.500 tỉ đồng (bằng với mức trong Nghị định 15). Như vậy, có thể thấy

quy định mới hướng đến việc lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tài chính vững

vàng hơn so với trước, tránh được tình trạng nhà đầu tư dựa phần lớn vào vốn

vay ngân hàng để thực hiện dự án, dễ dẫn đến những hệ lụy như mất khả năng

thanh toán, “treo” hoặc làm đội vốn dự án, tăng thời gian khai thác dự án...

Thứ ba, về hình thức nhà nước tham gia trong dự án PPP, ngoài vốn

góp và vốn thanh toán cho nhà đầu tư, điểm mới trong Nghị định 63 là Nhà

nước có thể tham gia dự án PPP bằng cách góp quỹ đất, trụ sở làm việc, tài

sản kết cấu hạ tầng thanh toán cho nhà đầu tư hoặc quyền kinh doanh, khai

thác công trình, dịch vụ được nhượng cho nhà đầu tư trong dự án áp dụng loại

hợp đồng BT (xây dựng - chuyển giao).

Cũng theo Nghị định 63, nếu vốn góp của Nhà nước có nguồn từ nguồn

vốn đầu tư công thì vốn này không được áp dụng với dự án BT. Ngoài ra,

Nghị định 63 còn quy định, đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất, Nhà nước chỉ

bố trí vốn góp hoặc vốn thanh toán cho nhà đầu tư khi dự án không áp dụng

hình thức chỉ định thầu đối với nhà đầu tư.

Những quy định mới nói trên vừa mở rộng các hình thức tham gia của

Nhà nước vào dự án PPP (có thêm hình thức tham gia bằng đất đai, hạ tầng,

quyền kinh doanh...), vừa góp phần làm giảm gánh nặng chi ngân sách cho

đầu tư công (không chi cho dự án BT), đồng thời làm giảm rủi ro thất thoát

vốn (không góp vốn hoặc thanh toán cho các dự án có chỉ định thầu).

36

Thứ tư, về lập kế hoạch vốn đầu tư công làm phần nhà nước tham gia

trong dự án PPP, Nghị định 63 đã không còn yêu cầu Bộ KHĐT và Bộ Tài

chính tổng hợp kế hoạch sử dụng vốn trong kế hoạch đầu tư công quốc gia

như trong Nghị định 15 nữa. Một mặt, điều này cho thấy sự phân cấp hoàn

toàn cho các bộ, ngành, địa phương trong việc lập kế hoạch vốn này. Mặt

khác, điều này cũng cho thấy khó khăn khi muốn biết Nhà nước sẽ phải bỏ ra

bao nhiêu vốn đầu tư vào các dự án PPP trong khắp các ngành, địa phương, vì

con số này sẽ không còn được tổng hợp và báo cáo một cách tập trung, thống

nhất như trước nữa.

Thứ năm, Nghị định 63 có thêm một mục về chuyển đổi từ dự án đang

được đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư công sang dự án PPP, trừ các loại hình

gồm hợp đồng kinh doanh - quản lý, và dự án đối ứng của dự án BT. Với quy

định này, sẽ có thể có nhiều dự án đầu tư công được chuyển đổi và nhận được

sự quan tâm của nhà đầu tư khi rủi ro liên quan đến dự án PPP được giảm

thiểu do cơ chế pháp lý rõ ràng và đầy đủ hơn liên quan đến dự án PPP đã

được công bố. Nhà nước do vậy cũng bớt đi được gánh nặng do vốn đầu tư

công bị dàn trải ở nhiều dự án đầu tư công khác nhau trên cả nước, có thể tập

trung vào một số dự án trọng điểm, ưu tiên mà không cần hoặc không có sự

tham gia của nhà đầu tư tư nhân.

Thứ sáu, Nghị định 63 dành hẳn một chương mới cho riêng hình thức

hợp đồng BT. Những điều khoản quan trọng trong chương này gồm các quy

định về phương thức thanh toán cho nhà đầu tư hợp đồng BT (gồm sử dụng

giá trị quyền sử dụng đất, trụ sở làm việc... và nhượng quyền kinh doanh...);

nguyên tắc thực hiện hợp đồng BT theo phương thức sử dụng giá trị quyền sử

dụng đất như xây dựng và điều chỉnh quy hoạch, điều chỉnh giá trị sử dụng

đất, tiền thuê đất; và nguyên tắc thực hiện hợp đồng BT theo phương thức

nhượng quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ cho nhà đầu tư, gồm

các nguyên tắc xác định phạm vi và thời hạn nhượng quyền kinh doanh...

37

Tuy nhiên, bên cạnh sự rạch ròi, chi tiết của những quy định liên quan

đến dự án BT như trên, có một điểm bất cập. Đó là trong nguyên tắc thực hiện

hợp đồng BT theo phương thức nhượng quyền kinh doanh khai thác công

trình, dịch vụ cho nhà đầu tư, Nghị định 63 quy định rằng “phạm vi, thời hạn

nhượng quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ cho nhà đầu tư được

xác định trên cơ sở cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và nhà đầu tư”. Quy định

như vậy tức là Nghị định 63 đã gạt ra bên lề quyền lợi của người dân - tối

thiểu là quyền được lựa chọn có sử dụng hay không dịch vụ cung cấp bởi dự

án BT, vốn là nguồn gốc gây xung đột giữa người dân và chủ đầu tư của

nhiều dự án giao thông thu phí hiện nay.

Và cuối cùng, để khắc phục lỗ hổng tạo tham nhũng, thất thoát trong dự

án PPP do thiếu thông tin minh bạch, Nghị định 63 đã bổ sung điều khoản về

công khai thông tin hợp đồng dự án, gồm thời hạn và nội dung thông tin được

công khai. Tuy nhiên, đây là một bước tiến nửa vời vì Nghị định 63 không bắt

buộc phải công bố rộng rãi những nội dung thông tin này, thay vào đó là

“khuyến khích” việc đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác.

Tóm lại, nghị định mới về dự án PPP có một số điểm mới quan trọng

như tăng cường tính phân cấp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các bộ, ngành,

địa phương; loại bớt những nhà đầu tư yếu kém về năng lực tài chính; gia tăng

hình thức tham gia của Nhà nước vào các dự án PPP, và ngược lại, gia tăng sự

tham gia của nhà đầu tư vào các dự án đầu tư công chuyển đổi sang dự án

PPP, giúp giảm gánh nặng chi lên ngân sách…

Nhưng nhìn chung, những điểm mới của Nghị định 63 chủ yếu hướng

đến hoặc xoay quanh chủ thể là Nhà nước. Về phía nhà đầu tư và người sử

dụng, không có thêm quy định quyền lợi, nghĩa vụ gì khác đáng kể so với

nghị định cũ, ngoài việc một số nội dung được trình bày đầy đủ, rõ ràng, chặt

38

chẽ và theo một trình tự hợp lý hơn, tạo cảm giác minh bạch hơn, tuy sự minh

bạch về thông tin dự án lại không bị bắt buộc.

2.2 Văn bản quy phạm pháp luật về mô hình đối tác Công - Tư trong

hoạt động Khoa học và Công nghệ

Tại Việt Nam, hình thức quan hệ đối tác công - tư (PPP) trong một số

lĩnh vực đã được thí điểm thực hiện từ năm 2010 theo Quyết định số

71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ và đã được sửa

đổi, bổ sung trong Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo

hình thức đối tác công - tư (sau đây viết tắt là Nghị định 15/2015/NĐ-CP).

Nghị định 15/2015/NĐ-CP đã mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh,

trong đó tại Điểm đ Mục 1 Điều 4 qui định “Công trình kết cấu hạ tầng

thương mại, khoa học và công nghệ, khí tượng thủy văn, khu kinh tế, khu công

nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung; ứng dụng

công nghệ thông tin” [điểm đ mục 1 điều 4; 8] là một trong những lĩnh vực

được thực hiện dự án đầu tư theo PPP. Điều này có nghĩa là việc đầu tư phát

triển các kết cấu hạ tầng KH&CN như xây dựng các trường đại học, phòng thí

nghiệm, khu ươm tạo công nghệ, khu công nghệ cao, khu R&D v.v. đã có thể

thực hiện theo hình thức PPP và được điều chỉnh theo Nghị định

15/2015/NĐ-CP.

Tuy nhiên, khác với cầu đường hay các cơ sở tiện ích điện nước, đối

với hạ tầng KH&CN, việc thu phí từ người dùng hay những cơ chế thanh toán

thay thế sẽ phức tạp hơn nhiều, “rủi ro sử dụng” lớn hơn, nói tóm lại là dự án

loại này “xương hơn”. Do vậy, để kêu gọi được đầu tư của tư nhân theo PPP

trong lĩnh vực này có thể phải cần thêm những ưu đãi đặc biệt, nhưng điều

này lại đặt ra câu hỏi liệu cái giá phải trả cho PPP có đáng với lợi ích mà nó

mang lại hay không.

Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, khi mà PPP trong những lĩnh

vực truyền thống vẫn còn đang trong quá trình thử nghiệm và học hỏi thì có lẽ

39

hãy còn sớm để thực hiện PPP trong đầu tư phát triển hạ tầng cho KH&CN.

Tuy vậy, vẫn có một số lĩnh vực có triển vọng như là xây dựng cơ sở hạ tầng

các khu công nghệ cao, khu ươm tạo công nghệ, các đại học và những hạ tầng

cung cấp dịch vụ có nhu cầu cao như dịch vụ về đo lường, kiểm chuẩn, chứng

nhận chất lượng.

Bên cạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, hoạt động KH&CN còn bao gồm những

nội dung khác như nghiên cứu và phát triển (R&D) và PPP trong R&D cũng

bắt đầu được đề cập trong những thập niên gần đây. Tuy nhiên, PPP trong

R&D có bản chất khác hẳn PPP trong phát triển các kết cấu hạ tầng công ích.

Trong nhiều lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng công ích (đặc biệt là lĩnh vực

cầu, đường, nhà ga, bến cảng), nhà nước có sứ mệnh nhưng cũng là đặc quyền

đầu tư, do vậy có quyền cấp phép cho một đối tác tư nhân đầu tư xây dựng

và/hoặc khai thác hạ tầng tương ứng dưới danh nghĩa của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền. Đối với R&D, Nhà nước không có đặc quyền như vậy. Các

nghiên cứu cho thấy PPP trong R&D đề cập đến các quan hệ trong đó các đối

tác thuộc khu vực công và khu vực tư tham gia một cách tự nguyện và bình

đẳng trong việc cùng nhau đóng góp nguồn lực (tài chính và phi tài chính) để

thực hiện các hoạt động R&D mà các bên cùng quan tâm.

Mô tả trên đây, PPP trong R&D có tính chất của “PPP theo chương

trình”, một xu thế đã và đang được các tổ chức tài trợ phát triển song phương

và đa phương khuyến khích áp dụng trong khoảng hai thập niên gần đây cho

nhiều dự án tài trợ phát triển ở nhiều nơi trên thế giới.

Với những phân tích trên, nhận thấy PPP trong các hoạt động khoa học

và công nghệ, đặc biệt là trong các hoạt động R&D có những đặc thù khác

hẳn so với các lĩnh vực khác. Để từng bước áp dụng mô hình PPP trong khoa

học và công nghệ, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Thí điểm cơ chế đối tác

công - tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ” tại Quyết

định số 1931/QĐ-TTg ngày 7/10/2016 (Đề án 1931). Đề án 1931 đã xác định

40

cụ thể vai trò và cơ chế cho các đối tác tham gia các nhiệm vụ KH&CN theo

mô hình PPP như sau:

- Đối tác công: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,

UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW (bộ, ngành, địa phương)… hoạt

động chủ yếu bằng NSNN.

- Đối tác tư: Các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động vì mục tiêu lợi nhận

được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Phần đóng góp của đối

tác tư chiếm không dưới 40% tổng nguồn lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN

theo mô hình PPP (Chương trình).

- Các tổ chức hợp tác phát triển song phương và đa phương, các quỹ và

các tổ chức, các nhân khác tham gia đóng góp nguồn lực thực hiện Chương

trình được tính vào phần góp của đối tác công hoặc đối tác tư tùy theo trường

hợp cụ thể.

- Nguồn lực đóng góp của đối tác công được ưu tiên dành cho tổ chức, cá

nhân hoạt động KH&CN, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thực hiện

các kết quả nghiên cứu thuộc Chương trình.

- Việc xác định và điều chỉnh các danh mục kết quả nghiên cứu thuộc

Chương trình và tuyển chọn các nhóm doanh nghiệp, tổ chức cá nhân thực

hiện được quyết định bởi các hội đồng với 50% thành viên là đại diện của đối

tác công và 50% thành viên là đại diện của đối tác tư.

- Lợi ích từ Chương trình được phân chia theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực

của các đối tác hoặc theo thỏa thuận khác. Thiệt hại, rủi ro (nếu có) liên quan

đến Chương trình được chia theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực hoặc theo thỏa

thuận khác nhưng không vượt quá phần đóng góp thực tế của mỗi đối tác

trong Chương trình.

- Trong bối cảnh việc thực hiện dự án PPP theo Nghị định 15/2015/NĐ-

CP về đầu tư theo hình thức PPP đã bộc lộ một số hạn chế khiến các dự án

PPP được triển khai trong thời gian qua không hiệu quả và các dự án PPP

41

chưa hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân. Vì vậy, Nghị định 63 được thiết kế với

nhiều nội dung sửa đổi khá quan trọng và cụ thể về thẩm quyền và trình tự thủ

tục trong việc quyết định các dự án PPP; mở rộng các nguồn vốn nhà nước

tham gia dự án PPP; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối

với dự án PPP, góp phần cải cách thủ tục hành chính; và đẩy mạnh việc phân

cấp cho các đơn vị sự nghiệp công lập

Bên cạnh đó còn có nghị định mới là Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về

đầu tư theo hình thức đối tác công - tư được thiết kế với nhiều nội dung sửa

đổi khá quan trọng và cụ thể về thẩm quyền và trình tự thủ tục trong việc

quyết định các dự án PPP; mở rộng các nguồn vốn nhà nước tham gia dự án

PPP; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án PPP,

góp phần cải cách thủ tục hành chính; và đẩy mạnh việc phân cấp cho các đơn

vị sự nghiệp công lập…

2.3 Một số vấn đề vướng mắc về cơ chế, chính sách và luật pháp.

Đối với các cơ quan hoạch định chính sách cho mô hình PPP.

- Cần sớm xây dựng, ban hành văn bản pháp luật thống nhất việc thực

hiện dự án PPP trong KH&CN. Tăng cường việc hướng dẫn, định hướng cho

các cơ sở nghiên cứu khoa học và khối tư nhân lựa chọn thực hiện dự án PPP.

- Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện khung pháp lý về PPP, trong đó một

số vấn đề cần được lưu ý như:

+ Tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu - tư, cam kết, đảm bảo

của nhà nước, tạo linh hoạt cho quá trình đám phán và thực hiện dự án;

+ Hoàn thiện các điều khoản quy định trong quy trình triển khai PPP

trong KH&CN như quy định rõ về từng bước thực hiện, theo đó ghi rõ thời

gian, trách nhiệm của từng cơ quan, từng bên và phương thức giải quyết

vướng mắc trong quá trình đề xuất, đàm phán và triển khai dự án PPP.

42

Đối với các cơ quan quản lý

- Nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm (cả thành công và hạn chế) của

các nước trong hoạch định cơ chế, chính sách và trong thực tế triển khai dự án

PPP trong KH&CN. Từ đó, thông qua hợp tác quốc tế để phối hợp đào tạo,

huấn luyện, nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp theo dõi, quản lý, xúc tiến

các dự án PPP trong KH&CN ở bộ, ban, ngành và địa phương.

- Về căn cứ khoa học để quyết định phương án đầu tư, phương án chia sẻ

lợi ích/rủi ro, cần có quy định bắt buộc nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, dự

báo, lượng hóa các tác động khi thực hiện dự án PPP trong KH&CN. Trên cơ

sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro; cơ chế xác định giá/phí dịch vụ,

phương án quản lý; cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù hợp cho từng trường

hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của Nhà nước vừa bảo đảm lợi ích hợp pháp của

nhà đầu tư. Như vậy mới thúc đẩy và hiện thực hóa được các dự án PPP.

Kinh nghiệm thực hiện PPP trong KH&CN của nhiều nước trên

thế giới cho thấy

Việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện

thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án PPP thất bại. Phải đặc biệt

quan tâm đến các quy định về trách nhiệm tài chính đối với hỗ trợ tài chính

của Chính phủ, cơ chế lãi suất, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu

trách nhiệm thực hiện các dự án PPP trong KH&CN. Ngoài ra, vấn đề tiên

quyết đối với việc huy động các nhà đầu tư thực hiện mô hình PPP trong

KH&CN chính là cơ hội tìm kiếm lợi nhuận từ các dự án nhưng một số doanh

nghiệp còn băn khoăn về ràng buộc bảo lãnh vốn vay của Chính phủ và tỷ lệ

góp vốn 30-70 trong một dự án PPP.

Ngoài ra, kinh nghiệm triển khai các dự án PPP trong KH&CN ở một

số nước cho thấy, Nhà nước cần thận trọng khi quyết định triển khai mỗi dự

án và cam kết cung cấp những điều kiện để các nhà đầu tư tư nhân thực hiện.

Những dự án được chấp thuận cần dựa trên những nhu cầu thực sự cấp bách

43

và được điều tra, nghiên cứu, tính toán thận trọng để tránh những trường hợp

không được khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó, lường trước các rủi ro là yếu

tố có ảnh hưởng và tác động rất quan trọng tới việc đàm phán, ký kết và thực

hiện các dự án PPP trong KH&CN bởi lẽ dự báo về mức độ và những nhân tố

ảnh hưởng thường hay dẫn tới yêu cầu đàm phán để điều chỉnh nội dung của

hợp đồng PPP nhất. Thêm nữa, các dự án PPP trong KH&CN mang tính đặc

thù, có thể được tổ chức theo những mô hình khác nhau, trong đó có những

hạng mục có thể là những dự án độc lập, do vậy cần xây dựng tiêu chí để

quyết định mô hình tổ chức quản lý và thực hiện các hạng mục độc lập. Vấn

đề thường được thảo luận và mất thời gian đàm phán nhất là (i) hình thức thu

hồi vốn và lợi ích mà các nhà đầu tư được hưởng, (ii) mức lợi ích mà các nhà

đầu tư được hưởng và (iii) việc sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm. Để một

dự án PPP có thể được thực hiện thành công, cần thu hút sự tham gia thực sự

của các chủ thể liên quan ngay từ đầu và áp dụng một chế độ chia sẻ thông tin

đầy đủ và có hiệu quả trong suốt chu kỳ dự án.

2.4 Thực tiễn triển khai mô hình PPP tại Viện Ứng dụng công nghệ

2.4.1 Tổng quan về Viện Ứng dụng Công nghệ

Viện ứng dụng công nghệ là một viện nghiên cứu ứng dụng trực thuộc

Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, được thành lập năm 1985.

Viện Ứng dụng công nghệ có nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng các

công nghệ mới, cao (công nghệ laser, hồng ngoại, điện tử - tin học, vật liệu,

sinh học và môi trường) bằng cách tiếp thu các công nghệ hiện đại, cải tiến và

làm chủ các công nghệ, tiến tới sáng tạo công nghệ, tổ chức chuyển giao công

nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Năm 2018, Viện Ứng dụng công nghệ thực hiện 27 nhiệm vụ thường

xuyên theo chức năng với tổng chi phí là 10.840tr đồng. Các nhiệm vụ được

44

đề xuất phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết thúc tháng

12/2018 nghiệm thu, thanh lý hợp đồng 100%.

Các báo cáo về bài báo, sở hữu trí tuệ trong năm 2018. Tổng số công

trình khoa học, bài báo đã được đăng trên các tạp chí, hội nghị khoa học trong

nước và quốc tế của đơn vị trong Viện là 42, trong đó có 6 bài quốc tế. Đăng

ký 02 giải pháp hữu ích: “Quy trình sản xuất bột sinh khối nấm đông trùng hạ

hảo Cordyceps militaris” và “phương pháp hàn linh kiện cao tần công suất lớn

sử dụng coin đồng”

2.4.2 Thực tiễn tình hình triển khai mô hình PPP

Chủ trương bám sát nhu cầu thị trường, chú trọng triển khai sản phẩm

nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu tạo sản phẩm mới, trong những năm

qua mức doanh thu hoạt động dịch vụ KH&CN của các đơn vị mỗi năm đã

tiến thêm một bước mới. Đây là cố gắng đáng kể vì giá trị các hợp đồng dịch

vụ KH&CN thường không cao.

Điều quan trọng là hàm lượng KH&CN trong các nhiệm vụ được nâng

cao, một số hoạt động mới có ý nghĩa cao cả về tính khoa học lẫn thực tiễn.

Ngoài ngân sách nhà nước cấp cho Viện để thực hiện, phát triển các nhiệm vụ

khoa học công nghệ thường xuyên, Viện cũng đã thực hiện thí điểm cơ chế

quan hệ đối tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công

nghệ. Cụ thể:

+ Dự án “cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân

chủng Phòng Không - Không Quân là đơn vị đồng tài trợ, Trung tâm Tích

hợp công nghệ của Viện đã nghiệm thu thành công với mức chi phí 12.769 tỷ

đồng. Kết quả kiểm tra, bắn đạn thật tại trường bắn TB1 (Bắc Giang) tháng

11/2018 cho thấy: Máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháp phòng không

57mm bắn trúng mục tiêu ở điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu

chiến-kỹ thuật được phê duyệt.

45

+ Hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa giá trị

5.714tr đồng do Trung tâm Công nghệ laser của Viện thực hiện, trong đó thay

thế công nghệ thu ảnh bằng công nghệ quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả

năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên

lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến khoảng 40 km) trong cả

điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm được triển khai lắp đặt trang bị tại

đơn vị bộ đội tên lửa của Quân chủng Phòng Không - Không Quân.

+ Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu cho điện thoại di động cho tập đoàn

Samsung của Trung tâm Công nghệ laser của Viện (hợp đồng đầu tiên trị giá

400tr đồng với hơn 200.000 sản phẩm). Việc nghiên cứu xây dựng quy trình

công nghệ gia công, hàn kim loại bằng bức xạ laser với độ chính xác cao của

Trung tâm Công nghệ laser đã được đối tác là doanh nghiệp FDI Hàn quốc ký

kết hợp đồng gia công sản xuất, sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di

động với công suất 100.000 sản phẩm/tháng. Kết quả này mở ra một hướng đi

mới cho việc vận dụng mô hình đối tác công - tư PPP.

+ Các giải pháp quản lý bãi xe thông minh, quản lý công nhân ra vào bằng

thẻ RFID của Trung tâm Vi điện tử của Viện cho các tòa HH2, C37 đường Tỗ

Hữu và công trình xây dựng tòa nhà C51 Tây Hồ có trị giá 231,8 tr đồng.

Bên cạnh đó còn một số dự án hợp tác với Tập đoàn Sunhouse (70tr

đồng cho 20.000 chi tiết sản phẩm), bộ sản phẩm Nacen phos + Nacen Cu +

Nacen tricho giúp phòng ngừa bệnh đốm trắng gây hại trên cây thanh long tại

Bình thuận…vv.

Trong năm 2018, Viện đã mở rộng quan hệ hợp tác với các địa phương

và doanh nghiệp trong nước, đã thiết lập được nhiều quan hệ hợp tác hiệu quả

với các địa phương, doanh nghiệp thông qua phối hợp xây dựng, thực hiện

nhiệm vụ KHCN giải quyết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội thiết thực của địa

phương, doanh nghiệp. Cụ thể như chế biến dừa, thành phố thông minh ở Bến

Tre, chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối ở Sóc Trăng, làng thông

46

minh ở Đồng tháp, chế biến xả ở Quảng Nam, canh tác dưa lưới, trầu không,

chiếu sáng thông minh, điều khiển giao thông thông minh ở Hà Nam, quản lý

điều hành giao thông thông minh ở Bắc Giang, phục vụ hiện đại hóa của các

ngành giao thông vận tải (tự động hóa trong đường sắt) hay Tập đoàn than

khoáng sản (hoán cải toa xe hàng, giám sát băng chuyền tải than,…)

Nhìn nhận một cách khách quan cho thấy các dự án và đang triển khai

của Viện liên kết với các đối tác bên ngoài đã thành công và mang lại lợi ích

không chỉ choViện mà còn cho cả nhà đầu tư. Cụ thể Viện đã thu hút vốn đầu

tư để xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng và các nhiệm vụ KH&CN, thay đổi

phương thức tổ chức và quản lý, tích cực và chủ động hơn vào các chương

trình, dự án KH&CN, đồng thời chia sẻ rủi ro trong nghiên cứu khoa học với

các nhà đầu tư dự án. Còn đối với nhà đầu tư, các dự án đã nâng cao chuỗi giá

trị sản phẩm của mình, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, thúc đẩy

khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Có thế thấy mô hình đối tác công - tư, đồng tại trợ là một mô hình mới

nhưng nó đã giải quyết được sứ mệnh của nó là cả hai bên hợp tác với nhau

cùng cơ lợi và đang đem lại hiệu quả cao .

2.4.3 Thuận lợi và khó khăn

- Thuận lợi

Một là, Viện là một trung tâm nghiên cứu hàng đầu quốc gia, có lịch sử

phát triển lâu đời và là một viện có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng

KH&CN vào đời sống. Bên cạnh đó,Viện được trang bị hệ thống máy móc,

trang thiết bị chuyên dụng hiện đại để nghiên cứu ra các sản phẩm chất lượng

cao, phù hợp để thực hiện thí điểm mô hình đối tác công - tư PPP.

Hai là, Viện có một đội ngũ nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng, có trình

độ chuyên môn cao. Cụ thể ở viện có 18 cán bộ trình độ tiến sĩ, 58 thạc sỹ,

111 đại học.

47

Ba là, các lĩnh vực ưu tiên của Viện đều là lĩnh vực công nghệ cao,

được chính phủ ưu tiên. Đây cũng là cơ hội cho Viện có những bước đi mạnh

dạn hơn trong quá trình triển khai mô hình đối tác công - tư PPP.

Bốn là, lĩnh vực nghiên cứu đa dạng, áp dụng cho nhiều ngành trong

cuộc sống: thiết bị y tế, nông nghiệp, CNTT, quân đội... Mở ra cho Viện

nhiều có hội hợp tác với nhiều nhà đầu tư ở nhiều các lĩnh vực khác nhau.

Không bị gò bó trong khuân khổ nhất định.

Năm là, Viện có các mối quan hệ mật thiết, đa dạng với nhiều đơn vị

trong và ngoài nước cả về NCKH, chuyển giao công nghệ và phát triển thị

trường.

- Khó khăn

Về luật pháp và cơ chế nhà nước nói chung và Viện nói riêng tuy vẫn

còn rất chặt chẽ nhưng cũng đã dần tạo một "sân chơi" bình đẳng, không phân

biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo điều kiện

thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu

cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt

động đầu tư

Nhận định rằng cơ chế đối tác công - tư PPP trong các viện nghiên cứu

ứng dụng ở Việt Nam mới sơ khai. Do đó trong quá trình triển khai mô hình

PPP cho thấy còn nhiều thách thức, nhiều rào cản cần vượt qua Bên cạnh

những thuận lợi Viện còn vướng mắc những khó khăn sau:

Thứ nhất, Một số cán bộ giỏi, có uy tín đều đã lớn tuổi; Ngoại ngữ yếu),

tiềm năng tài chính thấp (thu nhập của cán bộ, viên chức và người lao động ở

mức thấp, chưa đủ thu hút các nguồn nhân lực chất lượng cao), các kết quả

thu được chủ yếu là các dịch vụ mang tính ứng dụng, chưa có tầm định hướng

lớn, ổn định, cơ sở hạ tầng phân tán, không đủ trang thiết bị và tiện nghi cần

thiết, đội ngũ cán bộ tham mưu, quản lý chưa chuyên nghiệp và năng động,

vẫn mang nặng lề lối làm việc theo kiểu hành chính và bao cấp, ...

48

Thứ hai, khi thiết lập quan hệ đối tác với khu vực tư nhân, Viện hoặc các

tổ chức tài trợ phát triển phải chịu rủi ro về uy tín gắn với khả năng chọn phải

đối tác tư nhân không phù hợp, hoặc bị những bên liên quan chủ chốt nhìn

nhận là không phù hợp. Điều này làm giảm tiếng nói và uy tín của Viện chưa

hài hòa về cả lợi ích và cơ chế chia sẻ rủi ro giữa các bên.

Thứ ba, khi đã bắt đầu thiết lập mối quan hệ đối tác công - tư thì việc

lựa chọn nhà đầu tư quả là một điều khó khăn, khi phải lựa chọn nhà đầu tư

làm sao cho phù hợp với lĩnh vực Viện nghiên cứu, do năng lực quản lý chưa

nhận biết được các rủi ro, quản lý rủi ro, phân bổ chưa phù hợp của Viện dẫn

tới chưa thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ tư, việc huy động vốn cho các dự án PPP gặp nhiều khó khăn; các

nhà đầu tư tham gia các dự án KH&CN của Viện chủ yếu là các nhà đầu tư

trong nước có năng lực tài chính chưa mạnh, vay vốn chủ yếu trong nước nên

có chỉ số tín nhiệm thấp. Trong khi đó, để thực hiện các dự án đầu tư trong

lĩnh vực KH&CN đòi hỏi thời gian hoàn thành dự án dài nên phải có nguồn

vốn dài hạn. Do vậy, đây là một khó khăn không nhỏ đối với các nhà đầu tư

tư nhân. Việc huy động vốn dài hạn đang là một thách thức đối với nhà đầu tư

trong nước và cả ngân sách nhà nước.

Thứ năm, Viện đang thiếu một kế hoạch tổng thể với tầm nhìn dài hạn

cho mô hình đối tác công - tư PPP.

49

Tiểu kết chương

Xây dựng môi trường pháp lý, qui định và chính sách thuận lợi là yếu tố

tối quan trọng cho một mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân bền vững. Ở

mức độ ban đầu, cần phải có một môi trường pháp lý có thể hỗ trợ sự tham gia

của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực dịch vụ quan trọng. Môi trường pháp lý

này cần giảm thiểu sự xuất hiện của tham nhũng và phải đủ tin cậy để khuyến

khích đầu tư và sự tham gia của tư nhân. Nếu môi trường luật pháp và môi

trường tư pháp không được xác định, các nhà đầu tư và những người tham gia

dự án sẽ đánh giá dự án là không thể dự đoán được và có độ rủi ro cao.

Khuôn khổ về các quy định kinh tế cũng cần phải rõ ràng như vậy.

Điều này có thể dẫn đến việc cần phải thiết lập một cơ quan quản lý độc lập,

một cơ quan quản lý thuộc chính phủ hoặc một hình thức quản lý khác. Có thể

sẽ đem lại hiệu quả nếu các nguyên tắc quản lý điều tiết được đưa vào trong

hợp đồng và năng lực cần thiết từ bên ngoài chỉ giới hạn ở năng lực theo dõi

một cách hiệu quả và năng lực đánh giá kết quả thực hiện. Các điều khoản

hợp đồng hết sức cụ thể, trong đó thiết lập các nghĩa vụ, mục tiêu hoạt động,

cơ cấu biểu phí dịch vụ và mức phí dịch vụ, quy tắc thay đổi biểu phí, thủ tục

giải quyết tranh chấp, sẽ giúp khu vực tư nhân dự đoán chính xác hơn mức lợi

nhuận khi đầu tư và quyết định xem liệu hợp đồng đó có giá trị hay không.

Nguyên tắc cơ bản là mức độ nhu cầu đối với dịch vụ và các chi phí cho

những dịch vụ đó phải cân bằng một cách hợp lý, đồng thời tạo ra những

động lực cho việc tăng cường tính hiệu quả của hệ thống.

Bằng cái nhìn tổng thể khách quan cho thấy việc áp dụng cơ chế đối

tác công - tư vào Viện Ứng dụng đã có những bước tiến mới, có những thuận

lợi nhất định. Nhưng bên cạnh đó những khó khăn vẫn còn và cẫn khắc phục

một cách triệt để tạo điều kiện cho mô hình đối tác công - tư PPP được triển

khai nhiều hơn và mang lại lợi ích nhiều hơn nữa trong công cuộc phát triển

của ngành KH&CN.

50

Chương 3

PPP TRONG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐÔI MỚI SÁNG TẠO

VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THÚC ĐẨY HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG -

TƯ TRONG VIỆN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ

3.1 Khung phân tích PPP trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi

mới (STI)

3.1.1 Mô hình chức năng của hệ thống đổi mới (IS)

Tương tác giữa các thực thể công và tư luôn được coi là yếu tố quan

trọng góp phần hỗ trợ và tạo nên những đổi mới thành công. Nhiều học giả đã

phân tích chủ đề này từ các góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Mô hình

“vòng xoáy 3” (triple helix) mô tả quan hệ giữa nhà nước, đại học và giới

doanh nghiệp là một ví dụ. Mô hình này đề cao tương tác giữa các tổ chức

nghiên cứu (bên cung) và doanh nghiệp (bên cầu) và nhấn mạnh tầm quan

trọng của các cơ quan nhà nước trong vai trò hỗ trợ, làm cầu nối cho những

tương tác nói trên. Tuy thành công trong việc chỉ ra một hướng phân tích về

quá trình và tính động của sự cùng tiến hóa của những loại hình tổ chức khác

nhau, mô hình lại không đưa ra được những công cụ phân tích “điểm tắc

nghẽn” và những đề xuất chính sách tương ứng. Mức độ can thiệp khác nhau

cùng chức năng tương ứng của nhà nước cũng không được bàn luận thấu đáo

trong mô hình. Một tiếp cận phù hợp hơn về đối tác công - tư trong R&D và

đổi mới được cho là tiếp cận hệ thống đổi mới .

Hệ thống đổi mới (viết tắt theo tên tiếng Anh là IS) được một số học

giả đề xuất vào đầu những năm 1990 như là một hướng tiếp cận mới để lý giải

bản chất và tính động của đổi mới. Đi tiên phong theo hướng này là những

nhà kinh tế học nghiên cứu đổi mới theo truyền thống thể chế (như Freeman,

1987; Lundvall, 1992) và các học giả của lý thuyết tiến hóa (như Nelson &

Winter, 1982). Theo các tác giả này thì hệ thống đổi mới là một hệ thống động,

nơi các thể chế (bao gồm cả tổ chức và luật chơi), việc học hỏi, mạng lưới tác

nghiệp đóng một vai trò trung tâm tạo ra đổi mới và sự thay đổi công nghệ.

51

Hệ thống đổi mới đặt đổi mới và doanh nghiệp ở trung tâm, coi đổi mới

là kết quả của quá trình học hỏi mang tính tương tác, tích lũy, xây dựng năng

lực chuyên môn, học hỏi dựa trên khoa học và học hỏi dựa trên kinh nghiệm.

Chính sách dựa trên tiếp cận hệ thống đổi mới chú trọng đến việc khai thông,

tăng cường tương tác giữa các thực thể, phát triển những thể chế hỗ trợ cho

học hỏi mang tính tương tác, xây dựng môi trường thân thiện cho đổi mới,

tăng khả năng ứng phó, đáp ứng của hệ thống trước những thay đổi. Tiếp cận

hệ thống đổi mới cho rằng ngoài những lực thị trường, nhiều tương tác trong

hệ thống đổi mới bị chi phối bởi các thể chế phi thị trường. Do hiệu quả ở

mức vĩ mô của quá trình tương tác phụ thuộc vào hành vi của từng tác nhân

riêng lẻ và các thể chế qui định tương tác giữa chúng, do vậy phát sinh vấn đề

điều phối và sự cần thiết phải chỉ ra chức năng của hệ thống đổi mới.

Đi theo hướng này, một số học giả đã phân tích hệ thống đổi mới

theo các chức năng. Edquist (2005) đưa ra 10 chức năng của hệ thống đổi

- Thực hiện R&D và tạo ra tri thức mới;

- Xây dựng năng lực chuyên môn;

- Tạo lập thị trường sản phẩm mới;

- Phổ biến những yêu cầu về chất lượng;

- Tạo ra và thay đổi các tổ chức cho đổi mới;

- Kết mạng thông qua thị trường và các cơ chế khác;

- Tạo ra và thay đổi các thể chế;

- Ươm tạo;

- Cấp kinh phí cho quá trình đổi mới;

- Tư vấn.

mới, bao gồm:

Cũng theo cách tiếp cận theo chức năng, Kadura (2011) phát triển một

mô hình chức năng của hệ thống đổi mới, tập trung mô tả ở mức vi mô các hệ

thống con cùng chức năng, tương tác bên trong và tương tác giữa các hệ thống

con của IS. Mô hình này cũng thuận tiện cho những phân tích ở mức trung mô

(meso) và vĩ mô (macro) để đánh giá tác động của công cụ chính sách, môi

52

trường thể chế ở các tầng nấc khác nhau. Ở mức vi mô, mô hình chức năng

của hệ thống đổi mới của Kadura (2011) phân chia các thực thể trong IS theo

hai nhóm đối tượng (nhóm tạo ra tri thức và nhóm sử dụng tri thức) và hai

khu vực (khu vực công và khu vực tư), rất thuận tiện cho phân tích về các

tương tác có sự tham gia của các thực thể thuộc khu vực công và khu vực tư.

Chi tiết của mô hình này được minh họa trong hình 3.1 dưới đây.

Hình 3.1. Hệ thống con theo chức năng, các tác nhân cơ sở và

tổ chức trung gian

Khu vực công

Khu vực tư

dùng/khách

theo sau, hàng

Đối tượng sử dụng tri thức

Năng lực tiếp nhận Doanh nghiệp người trung gian và cuối cùng  Thị trường hàng hóa và

Đối tượng sử dụng tri thức

Vốn xã hội và con người Đại học, Trường kỹ thuật, tổ chức TC-ĐL-CL  Giáo dục & đào tạo hàn lâm và công nghệ / đảm bảo chất lượng

dịch vụ

Tổ chức trung gian KTT gắn với nhân lực, giáo dục ĐH, tư vấn

Tổ chức trung gian KTT gắn với khu vực doanh nghiệp

Tổ chức trung gian KTT gắn với nghiên cứu khoa học và nguồn nhân lực

Tổ chức trung gian KTT độc lập hoặc theo hình thức PPP

Năng lực nghiên cứu Đại học, cơ quan R&D không phải ĐH  Nghiên cứu khoa học cơ

Đối tượng tạo ra tri thức

Công nghệ & Thực hiện đổi mới Bộ phận R&D của DN, DN sáng tạo  R&D ứng dụng, phát triển

bản và ứng dụng

Tổ chức trung gian KTT gắn với nghiên cứu khoa học

Đối tượng tạo ra tri thức

sản phẩm và qui trình

Khu vực công

Khu vực tư

Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)

53

Ở mức vi mô, cấu trúc của hệ thống đổi mới gồm bốn hệ thống con và

các thể chế, tổ chức đảm bảo tương tác giữa chúng. Các hệ thống con bao

- Vốn con người và xã hội (HC - Human Capital);

- Năng lực tiếp nhận (AC - Absorptive Capacity);

- Năng lực nghiên cứu (RC - Research Capacity);

- Công nghệ & Thực hiện đổi mới (TIP - Technology & Innovation

gồm bao gồm:

Performance).

Mô hình trên phân biệt chức năng tạo ra tri thức và sử dụng tri thức của

các thực thể khác nhau. Thực thể tạo ra tri thức có thể ở cả khu vực công

(trường đại học, PROs-những tổ chức nghiên cứu,.. = RC) và khu vực tư

(những tổ chức nghiên cứu của khu vực tư - TIP). Tương tự đối tượng sử

dụng tri thức cũng có ở cả khu vực công (trường đại học, các tổ chức = HC)

và khu vực tư (doanh nghiệp đi sau, người sử dụng trung gian và cuối cùng =

AC). Mô hình đồng thời mô tả mối quan hệ giữa các hệ thống con và chức

năng cụ thể trong chuyển giao tri thức và công nghệ giữa các tác nhân.

Các tác nhân cơ sở thuộc khu vực công và tư hoạt động trong những

khuôn khổ và thể chế cụ thể (được gọi là các “chế độ” - Regime), mang dấu

ấn về lịch sử và chính trị, do vậy khác nhau giữa các quốc gia. Xét về tầm ảnh

hưởng tới đổi mới và định hình chính sách đổi mới, một số “chế độ” tỏ ra

quan trọng hơn những “chế độ” khác. Những “chế độ” ảnh hưởng ngay tới

các tác nhân cấp vi mô bao gồm những ưu đãi tài chính (dưới dạng khoản hỗ

trợ trực tiếp của nhà nước hay ưu đãi thuế), hỗ trợ phi tài chính cho R&D và

đổi mới, “chế độ” về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, và “chế độ” sở hữu tài

sản trí tuệ (IPR).

Trong khi các “chế độ” ở cấp trung mô (meso) có tác động trực tiếp đến

hành vi của các tác nhân, hoạt động đổi mới còn bị chi phối một cách gián

tiếp hơn bởi những lĩnh vực chính sách rộng hơn có ảnh hưởng đến vận hành

54

của toàn hệ thống (mức vĩ mô). Chúng bao gồm chế độ kinh tế và thể chế

(quản trị STI, các chính sách và chương trình), chất lượng và mức độ (ảnh

hưởng) của chính sách giáo dục, sự lan truyền công nghệ thông tin truyền

thông và tiếp cận Internet (cơ sở hạ tầng ICT) và những giá trị văn hóa được

xã hội công nhận (giá trị văn hóa thường được coi là những thể chế không

định hình). Các chế độ ở mức vĩ mô được thể hiện trong hình 3.2 dưới đây.

Hình 3.2. Môi trường liền kề: yếu tố tác động liên quan và các chế độ

(mức meso)

Chế độ đảm bảo chất lượng -Tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định kỹ thuật - Dịch vụ đo lường, kiểm tra và quản lý chất lượng - Nền tảng (Platform) công nghệ

Hình 3.1: Mức vi mô

việc

trợ

Chế độ R&D phi tài chính và hỗ trợ đổi mới - Dịch vụ thông tin, trình diễn và môi giới - Các biện pháp kết mạng và qui tụ cùng một nơi - Dịch vụ tư vấn và đào tạo (bao gồm hỗ trợ doanh nhân khởi nghiệp mới)

Chế độ R&D ở khu vực công và ưu đãi đổi mới - Mua sắm công (bao gồm bỏ thầu công) - Kích cầu khu vực tư đối với R&D và đổi mới - Ưu đãi thuế/tài chính cho R&D và đổi mới - Hỗ luân chuyển/tuyển dụng nhân sự R&D - Trợ cấp cho đào tạo, quản lý dự án R&D

Chế độ về IPR - Bảo hộ IPR và sáng chế - Bảo hộ thương hiệu và thiết kế

Chế độ tài chính cho đổi mới và R&D - Trợ cấp công trực tiếp (theo thể chế, theo dự án) - Các biện pháp cho vay và bảo lãnh - Vốn rủi ro (vốn mồi, vốn mạo hiểm)

Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)

55

Hình 3.3. Điều kiện khung: cấu trúc và lĩnh vực chính sách cấp độ vĩ mô

Hạ tầng ICT

Lan truyền công nghệ ICT và tiếp cận Internet

Chế độ kinh tế và thể chế

Cấu trúc và hệ thống kinh tế, quản trị, các chính sách và chương trình

Hình 3.2: Mức trung mô

Hình 3.1: Mức vi mô

Hệ thống giáo dục Nghiên cứu và công nghệ dựa trên định hướng giáo dục và đào tạo hướng tới tuyển dụng nhân lực

Đa cấu trúc văn hóa

Giá trị, Quy tắc xã hội, thông lệ, thái độ, khuôn khổ & hệ thống, tầm nhìn và chiến lược của NN và xã hội

Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)

Những cấu trúc và thể chế ở mức vĩ mô đóng vai trò rất quan trọng đối

với quá trình đổi mới bởi lẽ chúng tác động tích cực hoặc tiêu cực đến mong

muốn, khả năng, và cơ hội hợp tác của các tác nhân trong IS. Chẳng hạn việc

thay đổi đột ngột và quá thường xuyên các qui định và chính sách kinh tế, hay

nạn tham nhũng tràn lan sẽ làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin giữa các tác

nhân liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến mong muốn hợp tác sâu rộng giữa

các tác nhân.

3.1.2 Phân loại tương tác công - tư trong mô hình chức năng của Hệ thống

đổi mới

Xét đại thể, tương tác giữa các thực thể thuộc khu vực công và khu vực

tư có thể phân theo các tiêu chí sau đây.

56

Chính thức và không chính thức. Ở đây sự chính thức được hiểu là giữa

hai bên có ký kết thỏa thuận hay hợp đồng; chẳng hạn như hợp đồng nghiên

cứu giữa một doanh nghiệp và một cơ quan nghiên cứu trong đó có các điều

khoản về thù lao, vấn đề IPR, cách tiến hành công việc và kết quả giao nộp.

Việc nhà nước hỗ trợ các cơ quan khoa học hợp tác với doanh nghiệp cũng

được coi là tương tác chính thức, tuy nhiên vai trò của nhà nước là gián tiếp

trong trường hợp này. Trong khi đó, nếu cơ quan nhà nước ký hợp đồng với

doanh nghiệp để cùng thực hiện một dự án R&D và đổi mới nào đó thì vai trò

của nhà nước sẽ là trực tiếp. Quan hệ lâu năm giữa doanh nghiệp và cơ quan

nghiên cứu có thể cho phép hai bên nhờ cậy lẫn nhau khi cần thiết mà không

cần phải ký kết hợp đồng là một ví dụ về loại tương tác không chính thức.

Khung thời gian. Tương tác có thể là ngắn hạn, chẳng hạn một hợp

đồng giải quyết sự vụ có thời hạn dưới một năm; hay trung hạn với những hợp

đồng có tham vọng và sự bất định lớn hơn với thời hạn đến 3 năm; hay dài hạn

khi quan hệ đối tác không còn ở một dự án đơn lẻ mà là một loạt các hoạt động

chung có khung thời gian đến 5 năm, 7 năm hoặc thậm chí lâu hơn nữa.

Tầm cỡ. Tương tác có thể nhắm tới những giá trị, lợi ích cốt lõi của

nhiều bên, những cũng có thể là thường nhật, hướng tới giải quyết những vấn

đề nhỏ lẻ.

Mức độ chuyên biệt. Tương tác có thể nhắm tới những mục tiêu cụ thể

nhưng cũng có thể rộng hơn, chẳng hạn như cùng hướng tới việc tạo ra tri thức

mới trong các dự án trao đổi nhân sự giữa các tổ chức, xây dựng năng lực v.v.

Đi vào chi tiết, mô hình chức năng của IS cho thấy tương tác công - tư

trong R&D và đổi mới là rất da dạng, liên quan tới nhiều loại hoạt động khác

nhau. Với mục đích xác định những ưu tiên chính sách nhằm thúc đẩy tương

tác công - tư trong R&D và đổi mới, Wilde et al (2015) đưa ra một phân loại

dựa trên tính chất của những hoạt động có yếu tố chuyển giao tri thức giữa các

bên công và tư. Hệ thống phân loại này được trình bầy trong bảng sau đây.

57

Bảng 3.1: Phân nhóm hoạt động có yếu tố chuyển giao tri thức và công nghệ

Nhóm

Các hoạt động có yếu tố chuyển giao

Loại 1: Giáo dục và giáo dục đào tạo chuyên sâu Giáo dục và đào tạo

Xây dựng chương trình đào tạo (Các đại học thiết lập một ngành học mới hoặc một chương trình giáo dục chuyên nghiệp cùng với khu vực doanh nghiệp) Mời giảng viên thỉnh giảng của đối tác tham gia giảng dạy

Chuyển giao bí quyết cho đối tác thông qua giảng dạy

Trao đổi nhân sự

Biệt phái ngắn hạn

Trao đổi các nhà khoa học / kỹ thuật viên giữa doanh nghiệp

và các cơ quan nghiên cứu, đại học

Loại 2: Trao đổi khoa học

Công bố của các

Công bố (nội bộ) của các cơ quan nghiên cứu và đại học về

cơ quan nghiên

các kết quả nghiên cứu

cứu

Công bố ở bên

Công bố trên các tạp chí khoa học

ngoài

Chuyển giao tri thức trên cơ sở các hội thảo, hội nghị

Bài trình bầy tại các hội chợ và triển lãm

Loại 3: Làm dịch vụ

Dịch vụ tư vấn của các đại học/cơ quan nghiên cứu Dịch vụ đánh giá của đại học/cơ quan nghiên cứu công Dịch vụ của các tổ chức chuyển giao độc lập/vì lợi nhuận

Doanh nghiệp khởi sự từ các cơ quan nghiên cứu và đại học Liên doanh giữa doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu

Dịch vụ của các đối tác cơ sở hoặc cơ quan chuyển giao Loại 4: Tạo ra doanh nghiệp mới dựa trên công nghệ Loại 5: Các công cụ liên quan tới các dự án (chuyển giao trực tiếp)

Nghiên cứu theo

Nghiên cứu theo đặt hàng

đặt hàng

Luận án tiến sỹ, thạc sĩ, cử nhân

Hợp tác R&D

Phối hợp giữa nhiều bên thực hiện R&D (collaborative R&D)

Nghiên cứu chung của ít nhất hai đối tác (joint research)

Loại 6: Quyền tài sản trí tuệ (IPR)

Pa-tăng (bán đứt)

Li-xăng (cấp quyền)

Các quyền khác

Nguồn: Tổ chức hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015)

58

Phân loại trên đây cho thấy, tương tác giữa các đối tác công và tư trong

R&D và đổi mới xuất hiện trong đủ loại hoạt động khác nhau, ở các mức độ

khác nhau liên quan đến nhiều đối tác khác nhau. Theo tiếp cận hệ thống đổi

mới, nhà nước cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy mọi tương tác trong hệ

thống, đặc biệt các tương tác công - tư thông qua việc tạo dựng môi trường

thuận lợi để các bên có thể tương tác một cách dễ dàng, hiệu lực, hiệu quả.

Tuy nhiên, ở các giai đoạn khác nhau, trong các hoàn cảnh, điều kiện khác

nhau, ưu tiên chính sách là cần thiết và khi này các biện pháp can thiệp cần

được thiết kế phục vụ cho loại tương tác mục tiêu.

3.1.3 Vị trí của Nhà nước trong mô hình đối tác công - tư trong hoạt động

Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trong mô hình chức năng của IS, nhà nước xuất hiện ở nhiều nơi khác

nhau với vai trò khác nhau (cả ở khu vực công, khu vực tư và nhiều nơi khác).

Thuộc khu vực công trong mô hình là các tổ chức phục vụ lợi ích của cộng

đồng, không vì mục tiêu lợi nhuận như các đại học, viện nghiên cứu phục vụ

cộng đồng, trường dạy nghề, cơ quan tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng v.v..

Đây thường là những tổ chức của nhà nước, do nhà nước thành lập nhưng

cũng có thể là những tổ chức dân sự hoạt động dựa vào kinh phí từ nhà nước

hay các nguồn tài trợ và nguồn thu khác. Nhà nước cũng có thể hiện diện ở

khu vực tư trong vai trò một “người mua công nghệ”, là một bên trong các

giao dịch thị trường. Nhà nước cũng đóng vai trò trung gian gắn kết hoặc hỗ

trợ gắn kết các hệ thống con trong mô hình vi mô của IS. Ngoài ra, vai trò của

nhà nước trong mô hình chủ yếu được thể hiện ở các yếu tố tầm trung mô

(Hình 3.2) và vĩ mô (Hình 3.3).

Các phân tích trên đây cho thấy, nhà nước vừa tham gia vào các hoạt

động R&D và đổi mới một cách trực tiếp (thông qua các cơ quan quản lý nhà

nước) hoặc gián tiếp (thông qua các tổ chức thuộc khu vực công như đại học

và viện nghiên cứu), vừa tạo dựng môi trường và đảm bảo hỗ trợ cho các hoạt

59

động này (tầm trung mô và vĩ mô). Mỗi vai trò như vậy thường dựa trên

những căn cứ khác nhau, đôi khi trái ngược nhau, được thực hiện thông qua

những cách thức, hình thức khác nhau tùy theo hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử

cụ thể và lựa chọn của mỗi quốc gia. Ở một nước đang phát triển và đang

chuyển đổi như Việt Nam, sự đan xen, chồng lấn, thiếu mạch lạc về vai trò

của nhà nước nói chung, vai trò nhà nước trong các tương tác công - tư về

R&D và đổi mới nói riêng (cả về lý luận và thực tiễn) là không thể tránh khỏi.

Nhận thức rõ sự không hoàn hảo nói trên, khi thiết kế các chính sách thúc

đẩy tương tác công - tư trong R&D và đổi mới, đặc biệt đối với các hoạt động có

sử dụng nguồn lực của cả doanh nghiệp và nhà nước, cần phân biệt vai trò của nhà

nước trong việc cung cấp các khoản trợ cấp cho doanh nghiệp thực hiện R&D và

đổi mới và vai trò của nhà nước như một bên tham gia trong quan hệ đối tác với

khu vực tư để thực hiện R&D và đổi mới. Trong cả hai trường hợp, Nhà nước đều

sử dụng nguồn lực công để thực hiện vai trò của mình, tuy nhiên lý lẽ và tính chất

sử dụng nguồn lực công không hoàn toàn giống nhau.

Ở vai trò thứ nhất, nhà nước xem xét, trợ cấp cho những dự án R&D và đổi

mới của doanh nghiệp nếu thấy những dự án này có triển vọng mang lại lợi ích xã

hội lớn hơn lợi ích riêng của doanh nghiệp này (và lợi ích xã hội đó còn phải lớn

hơn bản thân khoản trợ cấp và chi phí quản lý). Ở vai trò thứ hai, thường là với

những dự án R&D và đổi mới đảm bảo lợi ích cốt lõi của cả nhà nước và doanh

nghiệp (mặc dù lợi ích của doanh nghiệp và nhà nước là khác nhau) và hai bên có

thể đạt được thỏa thuận để cùng nhau thực hiện, nhà nước sẽ là một bên cùng với

doanh nghiệp đóng góp nguồn lực, tổ chức thực hiện dự án đó.

3.2 Những điều kiện cần và đủ để thiết kế và thực hiện PPP trong hoạt

động Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo

3.2.1 Điều kiện khung và quyền sở hữu trí tuệ

Các điều kiện khung và quyền sở hữu trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp đến

nền tảng của PPP trong STI. PPP muốn hình thành và vận hành được phải

60

không vi phạm pháp luật hiện hành. Ở một số nước có nền kinh tế thị trường

phát triển, việc thành lập quan hệ đối tác, dù là giữa các doanh nghiệp hay

giữa doanh nghiệp với các tổ chức công, có thể bị xem là vi phạm luật chống

độc quyền. Vấn đề đặt ra khi thiết kế PPP là vừa phải cho phép các bên thiết

lập được quan hệ đối tác một cách thuận lợi, vừa đảm bảo không làm mất đi

tính cạnh tranh. Yêu cầu này lại đặt ra vấn đề về giai đoạn nào trong chuỗi

nghiên cứu, phát triển, đổi mới là phù hợp với PPP, hay nói cách khác loại

nhiệm vụ KH&CN nào là phù hợp với PPP.

Quan điểm chủ đạo cho rằng PPP chỉ phù hợp và được phép thực hiện

với một số loại nghiên cứu nhất định. Thứ nhất là những nghiên cứu ở giai

đoạn tiền cạnh tranh, tức là những nghiên cứu mà kết quả của nó giúp làm

sáng tỏ một số vấn đề KH&CN cơ bản mà các bên cùng quan tâm, nhưng

doanh nghiệp sẽ cần phải đầu tư phát triển thêm nữa mới ra được sản phẩm

cuối cùng. Thứ hai là các nghiên cứu phát triển các công nghệ nền tảng

(generic technologies), tức là các công nghệ có thể được sử dụng cho nhiều

ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Thứ ba là các nghiên cứu nhằm giải quyết

các vấn đề lớn, cấp thiết đối với một ngành, đối với xã hội, chẳng hạn việc

tìm kiếm các giải pháp chống biến đổi khí hậu, phát triển kháng sinh thế hệ

mới đối phó với các vi khuẩn kháng thuốc v.v..

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy PPP cũng có thể thành công với những

nghiên cứu ở giai đoạn gần hơn với thị trường, hay ở những hoạt động có hàm

lượng R&D thấp như dịch vụ khuyến công nghệ. Ngoài ra, PPP cũng được thử

nghiệm và mang lại thành công nhất định trong các hoạt động khác như phát

triển các chương trình đào tạo kỹ sư đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp.

Pháp luật và chính sách về quyền sở hữu trí tuệ (viết tắt là IPRs) cũng

ảnh hưởng trực tiếp đến PPP. Nếu không trao quyền sở hữu trí tuệ hình thành

từ các nghiên cứu theo PPP cho doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp

thương mại hóa các kết quả đó thì sẽ giảm thu hút doanh nghiệp tham gia

61

PPP. Tuy nhiên, nếu trao các quyền này cho doanh nghiệp thì lại vướng vào

vấn đề đạo lý là tiền của công lại được dùng để làm lợi cho nhóm nhỏ, tức là

các doanh nghiệp tham gia PPP. Xu thế hiện nay đối với PPP trong các

nghiên cứu tiền thương mại là trao quyền cho doanh nghiệp bởi thực tế cho

thấy nguồn lực mà doanh nghiệp phải đầu tư để thương mại hóa kết quả

nghiên cứu thường lớn hơn nhiều chi phí R&D ban đầu. Suy cho cùng, doanh

nghiệp có thành công thì mới đảm bảo nguồn thu cho ngân sách công trong

tương lai.

Quay lại vấn đề về quyền được tham gia PPP, một số khảo sát cho thấy

không phải cơ quan KH&CN nào cũng ủng hộ việc tham gia PPP hoặc cho

phép cán bộ nghiên cứu của mình tham gia PPP. Trong các trường đại học,

những quy tắc hợp tác học thuật với khu vực doanh nghiệp có thể khuyến

khích hoặc cản trở quan hệ đối tác. Những cơ cấu tổ chức nhiều tầng nấc,

cứng nhắc thường ngăn cản các hoạt động phối hợp giữa các bộ phận trong

cùng trường đại học và trong cùng doanh nghiệp.

Một khó khăn cơ bản khi thiết kế PPP là phải hài hòa được những mục

đích khác nhau của các bên đối tác có bản chất khác nhau. Sự khác biệt trong

văn hóa và trong kì vọng giữa trường đại học và khu vực doanh nghiệp, bao

gồm cả tầm nhìn về thời gian khác nhau phải được các bên hiểu rõ. Các bên

cũng cần lường trước những xung đột có thể phát sinh và thống nhất được cơ

chế giải quyết xung đột ngay từ giai đoạn thiết kế PPP.

Ngoài những thách thức kể trên thì quan hệ đối tác không phải là không

tốn chi phí. Trước hết, PPP cần những chi phí không thu lại được (sunk costs)

để khởi động và những chi phí giao dịch đáng kể cho cả doanh nghiệp và đối

tác công. Việc xác định và lựa chọn đối tác cũng phát sinh chi phí về thời gian

và thông tin. Vận hành PPP cũng phát sinh chi phí về tổ chức, điều hành, đặc

biệt là những vấn đề phát sinh do các đối tác khác nhau bị quy định bởi các

luật lệ khác nhau. Thực tiễn cho thấy cần phải có những quy định đặc thù cả

62

về tài chính, nhân sự và tổ chức để hậu thuận cho việc thành lập và hoạt động

của PPP trong STI.

3.2.2 Cơ chế tài chính

Một vấn đề quan trọng khi thiết kế PPP là cơ chế tài chính. Câu hỏi đặt

ra là tài chính công cho quan hệ đối tác nên được thiết kế như thế nào? Dạng

nào của cơ chế tài chính là thích hợp nhất cho từng loại quan hệ đối tác? Câu

trả lời là những loại quan hệ đối tác công - tư khác nhau đòi hỏi những thỏa

thuận tài trợ ở những phạm vi hợp tác khác nhau (từ hoạt động R&D đến hoạt

động thương mại hóa). Từ quan điểm về kinh tế, có hai câu hỏi chính về vấn

đề tài chính trong quan hệ đối tác. Thứ nhất là số lượng nguồn lực công tối ưu

dành tham gia PPP. Thứ hai là cơ chế hiệu quả nhất để sử dụng nguồn lực

này. Đây là những câu hỏi không dễ trả lời và thực tiễn cho thấy việc thí điểm

và hoàn thiện dần chính sách là cần thiết.

Tuy không dễ có giải pháp cho cơ chế tài chính đối với PPP, những

- Những dự án tốt nhất, hội tụ được những lợi ích cốt lõi của cả khu vực

thỏa thuận tài chính và thể chế cho PPP phải được thiết kế sau cho:

- Những đối tác tư nhân tốt nhất sẽ được lựa chọn;

- Sự chia sẻ tốt nhất về chi phí, rủi ro, tiền thưởng giữa đối tác của khu

tư và khu vực công sẽ được lựa chọn;

vực công và khu vực tư sẽ được thực hiện, tránh được chi tiêu không cần thiết

- Hạn chế được lỗi ứng xử cơ hội và đảm bảo rằng các đối tác sẽ thực

của Chính phủ;

hiện nghiêm túc cam kết về đóng góp nguồn lực cả về số lượng và chất lượng.

3.2.3 Đánh giá kết quả PPP

Việc đánh giá PPP là cần thiết để cải thiện việc thiết kế chương trình,

đánh giá chi phí, lợi ích và tạo ra những thông tin phản hồi quan trọng cho

việc cải thiện chính sách. Không may là, nghiên cứu thực nghiệm toàn diện về

những sáng kiến trong quan hệ đối tác R&D bị giới hạn, dù cho số lượng các

nghiên cứu trường hợp về những quan hệ đối tác có quy mô lớn và nổi tiếng

63

vẫn tồn tại. Nhìn chung, những nghiên cứu như vậy có liên quan nhiều đến

những đặc thù và những mục tiêu của những người tham gia trong quan hệ

đối tác hơn là đến những yếu tố thúc đẩy hợp tác hoặc những kết quả đo

lường. Điều này một phần phản ánh sự thiếu khung phương pháp hiệu quả

cho việc đo lường đầu vào và đầu ra của quá trình hợp tác cũng như khung

thời gian của việc đánh giá (ngắn hạn vs dài hạn). Những kết quả của quan hệ

đối tác như bằng sáng chế hoặc những sản phẩm thương mại, những dịch vụ và

thậm chí là việc làm có thể được đo đêm dễ dàng trong 1 số ngành công nghiệp,

nhưng lại không phù hợp ở một số lĩnh vực, ngành khác. Một số nghiên cứu đã

chỉ ra rằng nhiều khi thực tế rất khác với giả định ban đầu khi thiết kế PPP.

Chẳng hạn, trong một số cuộc khảo cứu doanh nghiệp cho rằng mục tiêu tiếp cận

tri thức là quan trọng hơn cả khi họ tham gia PPP chứ không phải là những lợi

ích trước mắt, ngắn hạn và hữu hình, như chia sẻ chi phí và rủi ro.

Cần nhắc lại rằng, bên cạnh những mục tiêu cụ thể cần đạt được liên quan

tới các chương trình nghiên cứu theo PPP, bản thân những quan hệ được thiết

lập thông qua PPP và quá trình thực hiện PPP cũng là một kết quả quan trọng.

Đến đây, có thể nói thiết kế PPP trong STI là một việc không dễ dàng.

Một mặt, PPP sẽ cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản, mặt khác phải có

được sự linh hoạt và những cơ chế đặc thù để PPP có thể được hình thành và

hoạt động hữu hiệu. Loại vấn đề mà PPP nhằm giải quyết, tính chất của PPP,

bối cảnh của mỗi nước, các điều kiện khung và tính chất, năng lực cụ thể của

các bên đối tác sẽ là những yếu tố phải cân nhắc khi thiết kế một PPP cụ thể.

3.3 Đề xuất trong việc triển khai PPP tại Viện Ứng dụng Công nghệ - Bộ

Khoa học và Công nghệ

3.3.1 Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu, sớm hoàn thiện khung

pháp lý và thể chế, các văn bản hướng dẫn và chính sách ưu đãi đầu tư cho

PPP một cách linh hoạt, chặt chẽ đủ hấp dẫn các Nhà đầu tư.

64

Nhà nước cần hỗ trợ một phần kinh phí cho đầu tư trang thiết bị nghiên

cứu, cơ sở hạ tầng như phòng thí nghiệm …và kinh phí đào tạo nguồn nhân lực.

Nhà nước cần có chính sách cụ thể thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn

vốn của quỹ phát triên KH&CN quốc gia và quỹ đổi mới KH&CN quốc gia

để DN có thể vay ưu đãi, vay vốn được hỗ trợ lãi suất, được nhà nước bảo

lãnh để vay vốn. Ngoài ra, nhà nước nên cho phép các Viện ứng dụng công

nghệ dùng tài sản là máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ làm tài sản thế

chấp để vay vốn trong quá trình hoạt động.

Thành lập và phát triển các quỹ hỗ trợ dự án trong giai đoạn thí điểm và

trong tương lai. Tạo chính sách ưu đãi tốt nhất có thể cho các Nhà đầu tư

tham gia các dự án thí điểm hiện nay.

3.3.2 Với khu vực tư nhân

Các Nhà đầu tư phải có cái nhìn tổng thể để nhận thấy rằng PPP là một

sự phát triển tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là một cơ hội rất lớn của các

Nhà đầu tư trong đầu tư về KH&CN.

Khuyến khích các Nhà đầu tư đề xuất dự án gửi lên cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền xem xét, tích cực đóng góp ý kiến trong các cuộc tham luận,

hội nghị về PPP.

Đào tạo nguồn nhân lực, tạo tiền đề cho quá trình hoạt động sau này của

DN, bắt kịp, thích nghi với mô hình đầu tư theo hình thức PPP để chủ động

tham gia các dự án PPP một cách hiệu quả.

- Về phía Viện cần tập trung, lồng ghép kinh phí ngân sách nhà nước từ

3.3.3 Đối với Viện Ứng dụng công nghệ

các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, các chương trình dự án khác nhau có

- Khai thác, sử dụng cơ sở vật chất và tài sản chí tuệ của Viện Khi tham

mục tiêu phù hợp đóng góp thực hiện Nhiệm vụ KH&CN.

gia thực hiện Nhiệm vụ KH&CN các đối tác từ khu vực tư được ưu tiên, ưu

đãi cao nhất theo quy định của pháp luật trong sử dụng trang thiết bị, phòng

65

thí nghiệm và cơ sở vật chất cần thiết khác của Viện; được ưu tiên khai thác

- Cơ chế tài chính trong việc thực hiện Nhiệm vụ KH&CN, vận dụng nội

các cơ sở dữ liệu, tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của Viện.

dung, định mức và phương thức chi thuận lợi nhất được quy định trong các

văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hoặc đã được áp dụng đối với những

nhiệm vụ KH&CN khác. Chủ động điều chỉnh dự toán, vận dụng chế thực

thanh, thực chi trong giới hạn được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận.

Sử dụng kết quả của Nhiệm vụ KH&CN, lợi ích từ Nhiệm vụ KH&CN

được phân chia theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực của các đôi tác, hoặc theo thỏa

thuận khác. Thiệt hại, rủi ro (nếu có) liên quan đến Nhiệm vụ KH&CN được

chia sẻ theo tỷ lệ đóng góp nguồn lực hoặc theo thỏa thuận khác nhưng không

vượt quá phần đóng góp thực tế của mỗi đối tác thực hiện Nhiệm vụ.

66

Tiểu kết chương

Thực tiễn quốc tế cho thấy cách hiểu về PPP trong khoa học, công nghệ

và đổi mới sáng tạo (STI) là rất đa dạng. Một thiết kế cụ thể bị chi phối bởi rất

nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến những vấn đề mà PPP nhằm giải quyết;

môi trường pháp lý và những thông lệ chi phối toan tính và hành xử của các

bên; mong muốn, năng lực và cơ hội hợp tác của các bên. Việc đạt được đồng

thuận giữa nhiều bên có lợi ích cốt lõi khác nhau để thành lập PPP và sau đó

triển khai thực hiện là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực. Kinh

nghiệm cũng cho thấy PPP đòi hỏi có thời gian để các bên hiểu về nhau tốt

hơn, do vậy ngoài những mục tiêu về những kết quả cụ thể, bản thân quá trình

tương tác giữa các bên cũng cần được coi là một mục tiêu của PPP.

Thực tiễn quốc tế cũng cho thấy, để PPP có kết quả tốt sẽ cần đến

những thử nghiệm, những điều chỉnh chính sách, pháp luật liên quan. Không có

công thức chung cho những việc như vậy. Quá trình cùng tiến hóa giữa thực

tiễn và chính sách là điều không thể tránh khỏi và là điều hay nên thực hiện.

Trong bối cảnh Việt Nam nói chung, PPP được kỳ vọng là một sự bổ

sung chính sách để giải quyết những loại vấn đề mà các công cụ chính sách

hiện thời chưa đáp ứng được. Đối với thực tế của Viện ứng dụng công nghệ

nói riêng, việc thử nghiệm mô hình hợp tác PPP trong nghiên cứu và ứng

dụng kết quả nghiên cứu là sự vận dụng linh hoạt mọi nguồn lực và các chính

sách ưu đãi của một đơn vị sự nghiệp công lập kết hợp với nguồn lực của các

đối tác từ khu vực tư nhằm đảm bảo mục tiêu của sự hợp tác và đảm bảo các

quyền và lợi ích của các bên tham gia.

Bên cạnh đó Viện cũng đã đưa ra một số đề xuất nhất định khi thực

hiện mô hình đối tác công - tư PPP.

67

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh nền kinh tế và quá trình hội nhập, kinh tế Việt Nam có

tốc độ phát triển cao nhưng cơ sở hạ tầng lại không thể theo kịp tốc độ phát

triển này. Hơn nữa, Nhà nước lại đang rơi vào tình trạng nợ công nghiêm trọng

vì vậy Nhà nước không đủ sức bao tiêu cho các dự án. Các nguồn tài trợ của

các tổ chức tài chính quốc tế cũng ngày càng hạn hẹp. Vấn đề về vốn cho phát

triển cơ sở hạ tầng KH&CN càng ngày càng trở nên khó khăn. Trong tình hiện

nay, việc áp dụng hình thức đối tác công - tư là một hình thức tất yếu trong sự

phát triển của nền kinh tế thị trường và cũng là giải pháp tối ưu để thu hút vốn

của khu vực tư nhân trong đầu tư cơ sở hạ tầng KH&CN. Cũng đã có nhiều dự

án thực hiện trong thời gian qua phần nào thu hút được sự đầu tư và các dự án

này có dáng dấp của PPP nhưng hệ thống luật ở Việt Nam chưa chặt chẽ nên đã

bị lợi dụng kẽ hở để tạo ra cuộc diện có lợi cho khu vực tư nhân.

Vì đây là mô hình mới xuất hiện ở Việt Nam, vì vậy trong luận văn đã

đi sâu vào phân tích kinh nghiệm của các nước đã thực hiện PPP từ trước và

phân tích các cơ sở pháp lý cũng như kinh nghiệm áp dụng thí điểm theo nghị

định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công -

tư. Tuy nhiên các dự án này chưa nhiều và chỉ mới bắt đầu ở giai đoạn báo

cáo tiền khả thi và số ít đang báo cáo nghiên cứu khả thi. Luận văn hoàn

thành những nội dung nghiên cứu sau:

Đã nghiên cứu, hệ thống hóa tình hình phát triển cơ sở hạ tầng

KH&CN tại Việt Nam và thực trạng áp dụng mô hình PPP trong đầu tư cơ sở

hạ tầng ở Viện ứng dụng công nghệ và trên Thế Giới;

Đã nghiên cứu phân tích nguyên nhân, các cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý

và kinh nghiệm thực tiễn việc áp dụng PPP trong Viện ứng dụng công nghệ;

Đề xuất một số các giải pháp nhằm hỗ trợ quá trình chuẩn bị dự án, các

mô hình quản lý phân định trách nhiệm quản lý, giám sát và báo cáo việc thực

hiện dự án PPP đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư.

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Thông tư 03/2011/TT-BKHĐT hướng dẫn

thực hiện một số quy định của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27

tháng 11 năm 2009 về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT

ngày 27/01/2011, Hà Nội.

2. Báo cáo tổng kết của Viện ứng dụng công nghệ năm 2018

3. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư ngày 22/09/2006, Hà Nội.

4. Chính phủ (2009), Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hợp đồng

xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT), Hợp đồng xây dựng - chuyển

giao - kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) ngày

27/11/2009, Hà Nội.

5. Chính phủ (2010), Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công

- tư ngày 09/11/2010, Hà Nội.

6. Chính phủ (2012), Quyết định số 1597/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

ban hành cơ chế quản lý và thực hiện Dự án đầu tư xây dựng đường cao

tốc Dầu Giây - Phan Thiết thí điểm theo hình thức đối tác công - tư ngày

26/10/2012, Hà Nội.

7. Chính phủ (2014), "Dự thảo Nghị định về hợp tác công - tư",

www.chinhphu.vn, ngày 20/8/2014, Hà Nội

8. Chính phủ (2014), Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu ngày 26/6/2014, Hà Nội.

9. Chính phủ (2015), Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức

hợp tác công - tư ngày 14/02/2015, Hà Nội.

69

10. Chính phủ (2015), Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư ngày 17/03/2015,

Hà Nội.

11. Chính phủ (2016), Quyết định số 1931/QĐ-TTg đã phê duyệt Đề án “Thí

điểm cơ chế đối tác công – tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và

công nghệ” ngày 7/10/2016(Đề án 1931)

12. Huỳnh Thế Du (2011), "Hợp tác công - tư, chiếc đũa thần"

www.thesaigontimes.vn, ngày 19/01/2011.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Đình Đức. “Mô hình hợp tác trường - Viện - Doanh nghiệp: kết

quả và bài học kinh nghiệm từ trường Đại học Công nghệ”. Tạp chí Khoa

học và công nghệ Việt Nam, 2 (3), 2014, 60 – 63.

15. Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), Hình thức hợp tác công - tư (Public

Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt

Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí

Minh.

16. Nguyễn Duy Hà (2014), "Hợp tác công - tư - Giải pháp thu hút các nguồn

lực từ khu vực tư nhân", http://bacninhbusiness.gov.vn, ngày 20/04/2014.

17. Trịnh Thị Hoa Mai. Liên kết đào tạo giữa nhà trường đại họcvới doanh

nghiệp ở Việt Nam.Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 24, 2008, 30-34.

18. Mô hình PPP là giải pháp tối ưu cho đô thị Việt Nam" (2011),

www.diaocvietonline.vn, ngày 06/3/2011.

19. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ban hành ngày

29/11/2005, Hà Nội.

20. Quốc hội (2005), Luật đầu thầu số 61/2005/QH11 ban hành ngày

29/11/2005, Hà Nội.

70

21. Quốc hội (2005), Luật SHTT số 50/2005/QH11 ban hành ngày

29/11/2005, Hà Nội.

22. Quốc hội (2013), Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ban hành ngày

26/11/2013, Hà Nội.

23. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ban hành ngày

11/6/2014, Hà Nội.

24. Mỹ Quyên (2013),"Cẩn trọng chọn dự án PPP", http://dddn.com.vn,

ngày 10/10/2013.

25. Nguyễn Hồng Thái (2013), "Hợp tác công - tư trong đầu tư phát triển cơ

sở hạ tầng", www.cauduongonline.com.vn, ngày 30/12/2013.

Tài liệu tiếng Anh

26. ADB (2006), Public private partnership (PPP) handbook, p. 142-155.

27. Akintoye, A., Hardcastle, C., Beck, M., Chinyio, E., and Asenova, D.

(2003), Achieving Best Value in Private Finance Iniative Project

Procurement, Construction Management and Economic, July 2003, p.

461-470.

28. Bernard Pasquier (2008), Restructuring the Libyan Economy in Light of

the New Role of the Government and the Private Sector, Private Sector

Development Workshop, Tripoli, April 29-30, 2008, p. 208-210.

29. European Commission (2003), Guidelines for Successful Public-Private

Partnerships, p. 346-356.

30. Gildenhuys, J.S.H and Snipe, A. (2000), The Organisation of

Government: An Introduction, Petoria: van Schailk, p320-340.

71