ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG

BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN

QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG

BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN

QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN MINH YẾN

XÁC NHẬN CỦA XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN CHẤM LUẬN VĂN

Hà Nội – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, bản Luận văn “Giải quyết việc làm cho lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên - thành phố Hà Nội” là công

trình nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham khảo và

trích dẫn được sử dụng trong Luận văn này đều nêu rõ xuất xứ tác giả và được

ghi trong Danh mục các tài liệu tham khảo.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên!

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Học viên

Nguyễn Thị Thu Hằng

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN...................................................i

DANH MỤC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN.......................................................ii

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 2

1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 3

1.4. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN,

THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ THU

HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP .................................................................................................. 4

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài............................ 4

1.1.1. Các nghiên cứu chủ yếu ............................................................................................................ 4

1.1.2. Những kết quả nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu ............................................... 10

1.2. Cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho các hộ dân bị thu hồi đất nông

nghiệp… ................................................................................................................... 11

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................................................... 11

1.2.2. Tác động của thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của người lao động bị thu hồi

đất ……………………………………………………………………………………..16

1.2.3. Tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp. ................................................................................................................................................ 20

1.2.3. Nội dung và tiêu chí đánh giá kết quả giải quyết việc làm cho người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp .................................................................................................................................... 22

1.2.4. Các hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp…. ..................................................................................................................................................... 26

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp ................................................................................................................................................. 29

1.3. Cơ sở thực tiễn giải quyết việc làm cho ngƣời lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp .............................................................................................................. 34

1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước ............................................................. 34

1.3.2. Bài học rút ra cho quận Long Biên ...................................................................................... 37

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................... 38

2.1. Cơ sở phƣơng pháp luận: ................................................................................ 38

2.2. Các phƣơng pháp cụ thể .................................................................................. 39

2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu .................................................................... 39

2.2.2. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học ....................................................... 41

2.2.3. Phương pháp thống kê mô tả ........................................................................ 41

2.2.5. Phương pháp so sánh..................................................................................... 43

2.2.6. Phương pháp kết hợp logic với lịch sử.......................................................... 43

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO

ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN LONG BIÊN – THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ......................................................................................................................... 45

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình thu hồi đất nông nghiệp ở

quận Long Biên -Thành phố Hà Nội ..................................................................... 45

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Long Biên ...................................................... 45

3.1.2. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp. ............................................................................................ 53

3.1.2.4. Tình hình thu hồi đất của các hộ điều tra .............................................................................. 60

3.2. Ảnh hƣởng của thu hồi đất nông nghiệp tới việc làm và đặc điểm của

ngƣời lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên ........................... 61

3.3. Các hoạt động giải quyết việc cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên

địa bàn quận Long Biên. ......................................................................................... 71

3.3.1. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về việc

làm và dạy nghề .......................................................................................................................................... 71

3.3.2. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm và cơ sở

dạy nghề… ................................................................................................................................................... 74

3.3.3. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua phát triển làng nghề truyền thống và các

doanh nghiệp ............................................................................................................................................... 77

3.3.4. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động ....................................... 79

3.3.5. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ..... 81

3.3.6. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua thị trường sức lao động ................................ 82

3.4. Đánh giá chung về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp trên địa bàn quận Long Biên ..................................................................... 84

3.3.1. Những kết quả chủ yếu .................................................................................................................. 84

3.3.2. Những hạn chế, và nguyên nhân ................................................................................................ 86

3.3.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập ............................................................................ 87

CHƢƠNG 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO

LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN LONG BIÊN –

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................................ 91

4.1. Bối cảnh mới và ảnh hƣởng của nó đến giải quyết việc làm cho lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên. ....................................... 91

4.1.1. Thuận lợi ........................................................................................................................................... 91

4.1.2. Khó khăn ........................................................................................................................................... 92

4.2. Định hƣớng về giải quyết việc làm cho ngƣời dân bị thu hồi đất nông

nghiệp ở quận Long Biên ........................................................................................ 92

4.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp ở quận Long Biên. ....................................................................... 96

4.3.1. Các giải pháp về cơ chế, chính sách và công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện. ................... 96

4.3.2. Giải pháp về công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho nông dân bị thu hồi đất .............. 103

4.3.3. Giải pháp nhằm nâng cao tính chủ động của người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp trong giải quyết việc làm và sử dụng nguồn kinh phí bồi thường một cách hiệu quả.104

4.3.2. Các giải pháp về tổ chức và quản lý ......................................................................................... 104

4.3.4. Một số giải pháp đặc thù khác ................................................................................................... 107

KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 110

PHỤ LỤC 1 ........................................................................................................................... 114

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Bảng 3.1: Tình hình dân số và lao động quận Long Biên ................................................. 48

Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế quận Long Biên (2011 - 2015) ................................................... 51

Bảng 3.3. Diện tích, cơ cấu các loại đất quận Long Biên qua các năm 2011, 2013,

2015 ....................................................................................................................................... 54

Bảng 3.4. Diện tích, tỷ trọng đất nông nghiệp quận Long Biên qua các năm 2011, 2013,

2015 ....................................................................................................................................... 55

Bảng 3.5. Tổng hợp diện tích đất bị thu hồi qua các năm 2011, 2013, 2015 quận

Long Biên ................................................................................................................................. 57

Bảng 3.6. Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp ở 3 phường (2011-2015) .......................... 59

Bảng 3.7. Kết quả điều tra các chỉ tiêu về thu hồi đất nông nghiệp ................................... 60

Bảng 3.8: Cơ cấu việc làm theo ngành của các hộ điều tra ................................................. 62

Bảng 3.9: Tình trạng việc làm trước và sau khi thu hồi đất của người lao động .............. 65

Bảng 3.10. Tình hình sử dụng tiền bồi thường ..................................................................... 68

Bảng 3.11. Bình quân thu nhập/hộ/năm của các nhóm hộ trước và sau khi thu hồi đất .. 69

Bảng 3.12: Kết quả đào tạo nghề giai đoạn 2011-2015 của quận Long Biên ................... 76

Bảng 3.13: Số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đi xuất khẩu lao động ....................... 80

Bảng 3.14. Kết quả lao động bị thu hồi đất tìm được việc làm tại các phiên giao dịch

i

việc làm của quận Long Biên giai đoạn 2011-2015 ............................................................ 84

DANH MỤC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Biểu đồ 3.1: Giá trị thu nhập các ngành kinh tế quận giai đoạn 2011 - 2015.................... 52

Biểu đồ 3.2: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quận Long Biên giai đoạn 2011- 2015 ........ 53

Biểu đồ 3.3. Diện tích đất nông nghiệp trước và sau khi thu hồi đất tại địa bàn

ii

điều tra ...................................................................................................................................... 59

MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa với mục tiêu

chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghi ệp sang nền kinh tế dựa trên công

nghiệp. Hệ quả tất yếu của quá trình đó là hình thành các khu công nghiê ̣p và kèm theo đó là quá trình đô th ị hóa được hình thành và phát triển, tạo ra sự thay đổi lớn

về kinh tế - xã hội.

Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước tất yếu sẽ dẫn đến quá trình

chuyển đổi mục đích sử dụng một bộ phận diện tích đất nông nghiệp sang phục vụ

quá trình phát triển đô thị và các khu kinh tế, khu công nghiệp. Vì vậy, có hàng

chục vạn hộ gia đình nông nghiệp, nông thôn phải hy sinh những quyền lợi cơ bản

của mình là nhường đất - tư liệu sản xuất quan trọng nhất của người nông dân cho

các dự án để tái định cư ở những nơi ở mới, dẫn đến sẽ có hàng triệu lao động nông

nghiệp buộc phải chuyển đổi nghề do bị mất đất sản xuất. Điều đó có tác động đến

toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của đối tượng dân cư phải nhường đất để đến các

khu tái định cư. Nhưng tác động lớn nhất là người nông dân rơi vào trạng thái bị

động và thiếu các điều kiện đảm bảo cuộc sống khi họ bị mất việc làm và buộc phải

chuyển đổi nghề từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Bên cạnh đó,

việc thực hiện các dự án phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, đô thị hóa thời gian

qua cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề như: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu

hẹp, lao động nông nghiệp mất việc làm truyền thống và khó chuyển đổi nghề

nghiệp, cách thức đền bù, giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường… Trong đó,

vấn đề giải quyết việc làm để ổn định đời sống cho người lao động sau khi bị thu

hồi đất nông nghiệp nổi lên như một hiện tượng vừa mang tính khách quan của quá

trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, vừa mang tính đặc thù của một nước nông nghiệp

như nước ta.

Với thực trạng thu hồi đất nông nghiệp hiện nay của cả nước, cũng như ở

nhiều tỉnh, thành phố không có quỹ đất dự phòng, trong khi số nhân khẩu ở nông

thông ngày một gia tăng đã dẫn đến tình trạng bức xúc về giải quyết việc làm ở

1

những khu vực này, nhất là những người nông dân ở độ tuổi lao động bị thu hồi đất.

Thực tiễn cho thấy có một số nông dân bị thu hồi đất rơi vào cảnh “ba không”:

không đất, không nghề nghiệp, không nhà cửa. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu tìm

ra giải pháp để giải quyết vấn đề việc làm cho các hộ nông dân bị thu hồi đất là điều

cần thiết.

Quận Long Biên đươ ̣c thành l ập theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày

6/11/2003 của Chính phủ “Về viê ̣c thà nh lập Quận Long Biên và quận Hoà ng Mai ”.

Từ khi thành lập đến nay, quận đã có thay đổi cơ bản về đô thị, đồng nghĩa với đó là diê ̣n tích đất nông nghiê ̣p bi ̣ thu hồi chuyển sang phát triển cơ sở ha ̣ tầng, xây dựng các khu đô thi ̣ và các công trình phú c lơ ̣i xã hô ̣i. Long Biên hiện nay được đánh giá là một quận có tốc độ đô thị hóa nhanh. Cũng giống như nhiều vùng đô thị hóa khác, nông

dân quận Long Biên cũng bị mất đất và rơi vào tình cảnh không có việc làm, cuộc sống

của bản thân họ và gia đình họ trở nên khó khăn. Chính vì vậy, việc giải quyết việc làm

cho lao động ở các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp ở Long Biên là một bài toán không

đơn giản. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài: “Giải quyết việc làm cho lao động

bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên - thành phố Hà Nội” làm đề

tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị.

Đề tài đƣợc thực hiện nhằm giải đáp cho câu hỏi nghiên cứu: Giải pháp

nào được đặt ra nhằm giải quyết việc làm ổn định cho lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp ở Quận Long Biên?

1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

1.2.1. Mục đích nghiên cứu:

Đánh giá tình hì nh thu hồi đất nông nghiệp và giải quyết việc làm cho lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết

việc làm cho các hộ dân khi bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên

1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về giải quyết việc

làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

2

- Đánh giá thực tra ̣ng vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên – thành phố Hà Nội.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hi ệu quả giải quyết việc làm cho lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp.

1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên - Thành phố Hà Nội.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi về không gian : Đề tài nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên, trong đó nghiên cứu và khảo sát

chủ yếu ở các phường: gồm phường Phúc Lợi, Việt Hưng, Giang Biên

Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn 2011- 2015.

1.4. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

04 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận, thực tiễn giải

quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp ở quận Long Biên - thành phố Hà Nội

Chương 4: Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên - thành phố Hà Nội

3

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN

VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG

BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

1.1.1. Các nghiên cứu chủ yếu

Vấn đề việc làm nói chung, việc làm của người có đất bị thu hồi nói riêng, là

một vấn đề rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng rất nhạy

cảm và tác động sâu rộng đến thành công của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, đô thị hóa nên là chủ đề nhận được sự quan tâm rộng rãi của các nhà khoa học,

các nhà quản lý kinh tế. Khi xem xét tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tác

giả chia các nghiên cứu thành các nhóm nội dung thu dần cấp độ mà các nghiên cứu

đề cập đến. Dưới đây là những nhóm nội dung nghiên cứu liên quan đến đề tài:

- Nhóm tài liệu nghiên cứu liên quan đến vấn đề việc làm nói chung:

+ Lê Thi (1991) nghiên cứu “Vấn đề việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị

người phụ nữ nông thôn hiện nay” [31]. Đây là những nghiên cứu có tính cơ bản và

hệ thống đầu tiên về vấn đề việc làm. Trong nghiên cứu này tác giả đã chỉ ra tính

bức xúc của vấn đề giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn và vấn đề việc làm

phát huy vai trò của người phụ nữ ở khu vực này.

+ Đề tài cấp Nhà nước KX 04.04 về "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng

chính sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần" [6]. Đây là một công trình lớn trong Chương trình KX 04 nằm

trong hệ thống 10 chương trình khoa học công nghệ được Nhà nước triển khai

nghiên cứu giai đoạn 1990-1995. Kết quả nghiên cứu của đề tài này đã đóng góp

một số luận cứ, cơ sở khoa học cho Đảng và Nhà nước ta trong việc hình thành các

chủ trương, chính sách về giải quyết vấn đề việc làm thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Ngân hàng thế giới (2011), “Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch

4

đất đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, định giá đất và giải quyết

khiếu nại của dân” [19]. Đây là kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của Ngân hàng

thế giới tại Việt Nam với chủ đề “Xã hội và các xung đột đất đai” nhằm hỗ trợ Bộ

Tài nguyên và Môi trường cải thiện chính sách và thực tiễn về thu hồi và chuyển

dịch đất đai để đạt được sự tăng trưởng bền vững trong quá trình đô thị hóa và công

nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng hiện nay. Nội dung của tác phẩm bao gồm ba báo

cáo: Đề xuất về hoàn thiện chính sách Nhà nước thu hồi đất và cơ chế chuyển dịch

đất đai tự nguyện ở Việt Nam; Nghiên cứu về cơ chế xác định giá đất phục vụ bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư tại Việt Nam; Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải quyết

khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại Việt Nam.

+ Nguyễn Duy Phương (2013),"Quan điểm và giải pháp giải quyết việc làm

ở nước ta hiện nay” [21]. Tác giả phân tích bốn nguyên nhân dẫn đến tình trạng

thiếu việc làm ở nước ta, trong đó có nguyên nhân do việc đẩy nhanh công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở

tất cả các thành phố lớn và các vùng phụ cận. Tác giả cho rằng, việc làm và giải

quyết việc làm cho người lao động đã trở thành một chính sách xã hội quan trọng

hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện thành công mục tiêu giải quyết

việc làm giai đoạn 2011-2020, theo tác giả cần quán triệt và thực hiện đồng bộ bốn

quan điểm và giải pháp sau: Một là, giải quyết việc làm phải thực hiện một nguyên

tắc cơ bản là đảm bảo công bằng xã hội; Hai là, cần cụ thể hóa các qui định tại điều

12, 13 và 14 Bộ luật Lao động năm 2012; Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách và tái cơ

cấu nền kinh tế; Bốn là, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đưa lao động đi làm

việc ở nước ngoài.

+ Trần Ngọc Diễn (2013), “Chất lượng việc làm ở Việt Nam: Thách thức và

giải pháp” [7]. Trên cơ sở những nghiên cứu ban đầu của Chương trình xếp hạng

Quốc gia về Việc làm (BestViet), tác giả nhận thấy một số thực trạng đáng lo ngại

trong vấn đề việc làm và môi trường làm việc tại các doanh nghiệp như: Chất lượng

việc làm đáng lo hơn tình trạng thất nghiệp? Nhu cầu của người lao động đang thay

đổi? Người lao động tập trung kỳ vọng vào các lợi ích ngắn hạn? Tác giả đề xuất năm

5

giải pháp cải thiện chất lượng việc làm trong doanh nghiệp là: xây dựng môi trường

làm việc an toàn, ổn định và thân thiện; khai thác và phát huy hiệu quả nguồn lực lao

động; doanh nghiệp cần chú trọng tới gây dựng thương hiệu nhà tuyển dụng; không

ngừng nâng cao trình độ tay nghề và ý thức của người lao động; đảm bảo hài hòa lợi

ích giữa người lao động, nhà đầu tư và Nhà nước.

- Nhóm tài liệu liên quan đến việc làm cho người lao động bị thu hồi đất:

+ Lê Du Phong (Chủ biên), “Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất

bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia” [20]. Nội dung cuốn sách

nêu một số vấn đề lý luận, thực trạng về thu nhập, đời sống, việc làm của người dân

có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh

tế - xã, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia trong thời gian qua ở

nước ta, đồng thời cho thấy những khó khăn, tồn tại. Qua đó, tác giả đưa ra những

quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm, đảm bảo thu nhập và đời

sống của người dân có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị,

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia

trong thời gian tới.

+ Nguyễn Thị Thơm - Phí Thị Hằng (Đồng chủ biên), “Giải quyết việc làm

cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa” [34]. Từ nghiên cứu thực

trạng một số tỉnh trọng điểm đồng bằng sông Hồng mà Hải Dương là tiêu biểu, các

tác giả đã bàn sâu về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, các khu

công nghiệp, cụm công nghiệp mọc lên khắp nơi đã làm cho đất đai sản xuất nông

nghiệp bị thu hẹp. Người nông dân mất đất, mất tư liệu sản xuất đồng nghĩa với mất

hoặc thiếu việc làm. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp lúc này là vấn

đề bức thiết đặt ra; từ đó các tác giả đưa ra phương hướng và giải pháp giải quyết

việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Hải Dương đến năm

2010 và những năm tiếp theo.

+ Nguyễn Hữu Dũng (2004), “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong

quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn” [8]. Tác giả nêu lên

6

thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong quá trình đô thị hóa và đưa ra

các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề này.

+ Nguyễn Hữu Dũng (2005), “Đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá với việc

đảm bảo điều kiện sống và làm việc của người lao động” [9]. Ở bài viết này, tác giả cho

rằng công nghiệp hóa kéo theo quá trình đô thị hóa và có tác động hai mặt: một mặt, làm

cho bộ mặt của các tỉnh, thành phố thay đổi theo hướng hiện đại; mặt khác, làm cho một số

lao động bị mất việc làm sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp và tác giả đưa ra các hướng

giải quyết cho vấn đề nêu ra.

+ Nguyễn Hữu Dũng (2008), “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động

việc làm” [10]. Tác giả cho rằng, việc phát triển các khu công nghiệp là một kênh giải

quyết việc làm một cách hữu hiệu nhất đối với lao động nông thôn, đặc biệt là lao động

ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Bài viết cũng cho rằng, để lao động nông

thôn, trong đó có lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất có thể tiếp cận

hoặc làm việc được ở các khu công nghiệp cần phải có hàng loạt các chính sách tác

động, nhất là tạo điều kiện để phát triển thị trường sức lao động. Muốn vậy, vấn đề đào

tạo nghề cho lao động nông thôn cần được đặt lên hàng đầu. Nếu không chuyển đổi

được nghề thì lao động ở các vùng bị mất đất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa sẽ luôn phải bị đứng ngoài quá trình ấy. Và do đó, đời sống và thu nhập của người

lao động nông thôn sẽ không thể cải thiện.

+ Hà Thị Hằng (2008), “Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân sau khi thu

hồi đất ở nước ta hiện nay” [14]. Tác giả đã đề cập khái quát tình trạng thu hồi đất

của nông dân ở nước ta, phân tích sự ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến việc làm,

thu nhập của nông dân từ đó đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho đối tượng

này trong thời gian tới.

+ Nguyễn Tiệp (2008), “Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển

đổi mục đích sử dụng đất” [33]. Tác giả đã giới thiệu cho người đọc một số nét

trong nghiên cứu về những khó khăn trong giải quyết việc làm của người dân vùng

chuyển đổi mục đích sử dụng đất, và tác giả cũng cho rằng, những khó khăn đó rất

khó tìm ra giải pháp giải quyết thoả đáng trong thời gian tới, vì theo tính toán của

7

tác giả, trong vòng 5 năm tới sẽ có khoảng 12 triệu lao động thiếu việc làm. Tác giả

cũng đã phân tích 5 khó khăn có tính khái quát trong giải quyết việc làm đối với dân

vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, và cho rằng, những khó khăn trong giải

quyết việc làm ở nhóm đối tượng này là do việc thu hồi đất nông nghiệp chưa có sự

gắn kết với quy hoạch, kế hoạch, chính sách và biện pháp chuyển đổi nghề, tạo việc

làm mới, tăng thu nhập cho người lao động; việc tổ chức triển khai còn thiếu công

khai, dân chủ, minh bạch, thiếu thông tin, tuyên truyền để người lao động chủ động

học nghề, chuyển nghề và tự tạo việc làm. Tồn tại này là căn nguyên xảy ra những

phức tạp trong đời sống, gây hậu quả nặng nề và mất lòng tin của một bộ phận nhân

dân vào chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng và Nhà nước, dẫn đến những khiếu

kiện, có nguy cơ mất ổn định xã hội.

+ Lê Văn Lợi (2013), “Những vấn đề xã hội nảy sinh từ việc thu hồi đất nông

nghiệp cho phát triển đô thị, khu công nghiệp và giải pháp khắc phục” [15]. Tác giả

phân tích thực tế cho thấy, quá trình thu thu hồi đất nông nghiệp cho phát triển khu đô

thị, khu công nghiệp đã làm nảy sinh một số vấn đề xã hội như: Nông dân mất tư liệu

sản xuất, cuộc sống bấp bênh; tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc làm; tình trạng

tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng kéo dài; tình trạng

“hẫng hụt” về văn hóa, lối sống của một bộ phận dân cư khi phải trở thành thị dân một

cách “bất đắc dĩ”; tệ nạn xã hội gia tăng; ô nhiễm môi trường sống. Từ đó tác giả đề

xuất có những đổi mới căn bản về thể chế quản lý đất đai, nhất là quy trình, cách thức

thu hồi, phân chia lợi ích và kèm theo đó là thực hiện đồng bộ các giải pháp về an sinh

xã hội, đảm bảo cuộc sống của nhân dân.

- Nhóm nghiên cứu về vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

ở một số địa phương.

+ Đề tài khoa học cấp Bộ (2010), “Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi

đất ở ngoại thành Hà Nội”. Đề tài tìm hiểu thực trạng thu hồi đất và giải quyết việc

làm cho người dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội, phát hiện những nguyên

nhân, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình thu hồi đất và giải quyết việc làm cho nông

dân, trên cơ sở đó đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết

8

việc làm cho người dân bị thu hồi đất.

+ Đề tài khoa học cấp Bộ (2010), “Việc làm và thu nhập của nông dân vùng

Đông Nam bộ dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa” [16]. Đề

tài phân tích, đánh giá những tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tới

phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tới việc làm, thu nhập của người dân nông

thôn vùng Đông Nam bộ nói riêng. Đánh giá đúng thực trạng về việc làm và thu

nhập của người dân nông thôn vùng Đông Nam bộ trong quá trình công nghiệp hóa,

đô thị hóa, khó khăn và những vấn đề còn tồn tại, phân tích nguyên nhân của những

vấn đề đó; làm rõ vai trò của nhà nước, các chủ thể tạo việc làm và người lao động

trong giải quyết việc làm cho lao động nông thôn của vùng Đông Nam bộ. Phân tích

tác động của một số chính sách liên quan đến tạo việc làm cho nông dân. Đề xuất

phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm và tăng thu nhập nhằm hạn chế

những khó khăn, nâng cao đời sống kinh tế của người dân nông thôn trong quá trình

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở

vùng này.

+ Nguyễn Văn Nhường (2010), "Chính sách an sinh xã hội đối với người

nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc

Ninh)” [18]. Tác giả đi sâu vào phân tích những nội dung lý luận về chính sách an

sinh xã hội đối với nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, đồng

thời đánh giá thực trạng đời sống người dân bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng

các khu công nghiệp tại Bắc Ninh. Qua việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế và

nguyên nhân bằng việc sử dụng mô hình SWOT, tác giả đề xuất các giải pháp xây

dựng và hoàn thiện chính sách về an sinh xã hội đối với người nông dân bị thu hồi

đất để xây dựng các khu công nghiệp.

Ngoài ra, còn nhiều công trình khoa học khác đã được công bố liên quan đến

đề tài như: “Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá

trình công nghiệp hóa” của tác giả Đặng Kim Sơn; “Vấn đề việc làm của nông dân

hiện nay - bài toán không dễ giải” của tác giả Phạm Thị Tuý; “Việc làm cho hộ

nông dân thiếu đất sản xuất- vấn đề và giải pháp” của tác giả Bùi Ngọc Thanh,

9

“Phát triển khu công nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất

đất nông nghiệp” của tác giả Nguyễn Sinh Cúc... Những công trình này đã phân tích

ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tới việc làm và thu nhập của

người nông dân; bước đầu đề xuất một số giải pháp cho vấn đề này.

1.1.2. Những kết quả nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu

Những công trình nghiên cứu trên thể hiện luận điểm, luận chứng của các nhà

nghiên cứu, nhà khoa học và các cơ quan quản lý nhà nước về biến động đất đai, xu

hướng chuyển đổi cơ cấu lao động, xu hướng phát triển đô thị, công nghiệp trong thời

gian qua. Một số nghiên cứu có đi sâu phân tích về mức sống, việc làm, thu nhập, lao

động của nông dân ở một số vùng, địa phương.

Nhìn chung, các công trình trên đã phần nào phản ánh được vấn đề việc làm

và giải quyết việc làm, trong đó có lao động nông nghiệp ở nước ta hiện nay, đó là

vấn đề không chỉ riêng ở một địa phương hay khu vực nào, mà đang diễn ra ở tất cả

mọi miền đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Qua đó cho thấy,

để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội

ngay trong từng bước phát triển như Đảng ta đã đề ra là cả một quá trình chông gai,

đòi hỏi sự đồng tâm, thống nhất của toàn xã hội mới có thể thực hiện được, trong

đó, Nhà nước là người “nhạc trưởng” với vai trò quản lý và điều hành, cần có

những cơ chế, chính sách huy động xã hội tham gia một cách tích cực, có vị trí quan

trọng nhất.

Đối với các công trình trong nước trên bình diện chung của quốc gia, việc

nghiên cứu về vấn đề lao động, việc làm được các tác giả đề cập trong các tác phẩm,

đề tài khoa học các cấp, luận án tiến sĩ nêu lên những quan niệm cơ bản, định hướng,

kinh nghiệm phát triển việc làm và giải quyết việc làm cho các đối tượng khác nhau.

Những quan niệm, định hướng, kinh nghiệm đó đã giúp cho tác giả có nhiều cơ sở

khoa học cũng như thực tiễn khi triển khai nghiên cứu vấn đề việc làm cho nông dân

bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở quận Long Biên (thành

phố Hà Nội) được thuận lợi hơn.

Tuy nhiên, những công trình trong nước đề cập đến những vấn đề có tính

10

hiện trạng chung, nhằm giới thiệu một số kết quả nghiên cứu ở các góc độ nhất định

của việc thực hiện chính sách về lao động, việc làm trên một số mặt, trên bình diện

chung của cả nước hoặc một vài địa phương nhất định; chưa phân tích sâu những

căn nguyên của tình hình biến động việc làm và áp lực tạo việc làm cho đối tượng là

nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.

Các nghiên cứu chưa đưa ra quan niệm chung nhất về việc làm cho nông dân

bị thu hồi đất, tạo việc làm cho họ; đặc biệt chưa chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến

việc làm và phương thức tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.

Đối với các nghiên cứu đánh giá về chính sách, phần lớn các nghiên cứu

nghiêng về góc độ quản lý kinh tế và cung cấp các thông tin về thu hồi đất, trong khi

đó mảng nghiên cứu, phân tích trực diện về chính sách cho nông dân bị thu hồi đất lại

khá hiếm, đặc biệt vấn đề đào tạo, chuyển đổi ngành nghề - mảng then chốt để tạo

việc làm cho nông dân bị thu hồi đất hiện nay hầu như chưa có những đầu tư phân

tích một cách thỏa đáng.

1.2. Cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho các hộ dân bị thu hồi đất

nông nghiệp

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Khái niệm về việc làm

Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)

đã đưa ra khái niệm: “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có

được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người

tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập

gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật”.

Theo quan niệm này thì người có việc làm là những người lao động ở tất cả

các khu vực công và tư nhân, cá thể, hộ gia đình đem lại nguồn thu nhập nuôi sống

bản thân, gia đình và xã hội. Do đó, khái niệm này khá hoàn chỉnh, phù hợp trong

nền kinh tế hiện đại và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay. Vì vậy, khái niệm này được các quốc gia thừa nhận và đã được áp dụng ở

nhiều nước trên thế giới.

11

Quan niệm của “Đại từ điển kinh tế thị trường”: “Việc làm là hành vi của nhân

viên, có năng lực lao động, thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu sản xuất,

để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh” [28]. Với quan niệm này, có rất nhiều hoạt

động của người lao động sẽ không được xem là việc làm. Ví dụ như những hoạt động

bảo đảm sự ổn định phát triển của xã hội, hỗ trợ cho những người thân tham gia trực

tiếp sản xuất, kinh doanh,... để có thu nhập ổn định không được tính đến. Chính những

hoạt động đó đã tạo nên sự ổn định về các điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản

xuất trực tiếp diễn ra suôn sẻ.

Theo PGS.PTS. Phạm Đức Thành, PGS Mai Quốc Chánh, “việc làm là phạm

trù dùng để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất và những

điều kiện cần thiết sử dụng sức lao động đó” [30]. Quan điểm này có mặt tích cực là

khái quát được bản chất của việc làm thừa nhận mọi hoạt động có ích đều là việc

làm và chỉ ra được cách thức tạo việc làm. Tuy nhiên, quan điểm này dễ làm người

ta lẫn lộn giữa việc làm hợp pháp và không hợp pháp, nhất là trong bối cảnh nước ta

hiện nay đang xuất hiện rất nhiều hoạt động có ích cho cá nhân hay một nhóm

người nào đó nhưng gây nguy hại cho xã hội, không được xã hội thừa nhận.

Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm, song đa số các tác giả đều

thống nhất quan điểm mà Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa

XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012: Luật số 10/2012/QH13 ở

Khoản 1, Điều 9, Chương II, Bộ luật Lao động (sửa đổi): “Việc làm là hoạt động lao

động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” [27]. Như vậy, việc làm là lao

động của con người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân và gia đình không

bị pháp luật ngăn cấm, bao gồm:

- Những người làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc

hiện vật (gọi là việc làm được trả công).

- Những người làm các công việc tự làm hoặc các công việc gia đình để thu lợi

nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng

tiền hoặc hiện vật cho các công việc đó (gọi là việc làm không được trả công)

Việc làm là khái niệm mang tính chất động. Vì vậy, người ta chia việc làm

12

thành những phạm trù xã hội - nghề nghiệp khác nhau như: Việc làm chính thức: Là

công việc chính mang lại thu nhập chính (đối với những việc làm được trả công) và

những thu nhập về của cải vật chất cho bản thân và gia đình (đối với những việc

làm không được trả công); Việc làm không chính thức: Là những công việc làm

thêm ngoài công việc chính. Chẳng hạn, đối với người nông dân, việc làm chính của

họ là sản xuất nông nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là những

việc làm thêm trong lúc nông nhàn; Việc làm bền vững: Là việc làm mà nó tạo ra

các cơ hội cho người lao động được làm việc một cách có hiệu quả, có thu nhập

công bằng, bảo đảm an toàn tại nơi làm việc, tạo điều kiện để cá nhân phát triển và

khuyến khích hòa nhập xã hội, cho phép mọi người được tự do bày tỏ những mối

quan tâm của mình, được tự do tổ chức và tham gia vào các quyết định ảnh hưởng

tới cuộc sống của họ và bảo đảm cho tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng và

được đối xử bình đẳng.

Việc làm của lao động nông thôn là những hoạt động lao động trong tất cả

các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế của một bộ phận lao

động sinh sống ở nông thôn để mang lại thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm.

Việc làm ở nông thôn gắn liền với môi trường, điều kiện sinh sống, làm việc

của người lao động nông thôn và có thể phân thành hai loại sau:

- Việc làm thuần nông: là những hoạt động trong lĩnh vực trồng trọt và chăn

nuôi dựa trên cơ sở kế thừa kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất được truyền qua các thế hệ.

Loại việc làm này thường thiếu sự ổn định và có mức thu nhập thấp, bấp bênh.

- Việc làm phi nông nghiệp: Đây là việc làm trong các ngành nghề, lĩnh vực

ngoài sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn (như công nghiệp, dịch vụ, quản

lý). Đây là những việc làm đòi hỏi nguồn lao động được đào tạo, rèn luyện để có tri

thức, kỹ năng nghề nghiệp tương ứng với yêu cầu công việc.

Từ những phân tích các quan niệm về vấn đề việc làm xuất phát từ thực tiễn

phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế hiện nay, có thể hiểu việc làm là hoạt động

lao động của con người, là dạng hoạt động kinh tế - xã hội, đó là sự kết hợp giữa

13

sức lao động với tư liệu sản xuất theo những điều kiện phù hợp nhất định, nhằm tạo

ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích con người (cá nhân, gia đình,

cộng đồng và xã hội). Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.

Như vậy, hoạt động được xem là việc làm phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, là hoạt động lao động của con người. Đây là hoạt động có mục đích

của con người, con người dùng sức cơ bắp và thần kinh tác động vào đối tượng lao

động thông qua công cụ lao động, cải biến nó phù hợp với nhu cầu của chính mình.

Thứ hai, để có việc làm đòi hỏi phải có tư liệu sản xuất và sức lao động. Với ý

nghĩa đó, để người lao động có việc làm đòi hỏi phải đầu tư phát triển sản xuất, phải

tạo ra một số lượng tư liệu sản xuất có khả năng đáp ứng yêu cầu của người lao động.

Đồng thời, cần thường xuyên nâng cao chất lượng, số lượng sức lao động để có thể

sử dụng hiệu quả tư liệu sản xuất có được.

Thứ ba, để có việc làm trình độ và năng lực của người lao động phải phù hợp

với tư liệu sản xuất. Nói cách khác, để sức lao động có thể kết hợp được với tư liệu

sản xuất, thì người lao động phải có một trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp

nhằm sử dụng tư liệu sản xuất đó.

Thứ tư, việc làm là kết quả của sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản

xuất phải tạo ra một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhất định nào đó. Sản phẩm

hàng hóa, dịch vụ đó phù hợp với lợi ích của con người.

Thứ năm, việc làm là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động không

bị luật pháp ngăn cấm. Điều kiện này phản ánh tính pháp lý của việc làm cho phép

người lao động độc lập, tự chủ lựa chọn việc làm cho mình trong khuôn khổ pháp

luật quy định. Người lao động được tự do hành nghề, liên doanh, liên kết, thuê

mướn lao động trong khuôn khổ pháp luật và sự hướng dẫn, tạo môi trường của Nhà

nước để có thể tự tạo việc làm cho mình.

1.2.1.2. Khái niệm về giải quyết việc làm

Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và

tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản than, gia đình, cộng đồng và xã hội.

Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiền năng của một

14

con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy,

giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở

chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó có

quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản than và gia đình góp

phần xây dựng quê hương đất nước. Giải quyết việc làm có thể hiểu ở một số khía

cạnh sau đây:

Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và chất lượng

tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản

xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.

Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động phụ

thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi và sự di chuyển của

lao động, chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục đào tạo,y tế,

chăm sóc sức khỏe cộng đồng…

Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả

cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu quả của

việc làm.

Trên cơ sở những phân tích trên, có thể hiểu giải quyết việc làm theo nghĩa

rộng là tổng thể những mục tiêu, quan điểm, cơ chế, chính sách, biện pháp kinh tế -

xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt

của đời sống kinh tế - xã hội tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo cho mọi người có

khả năng lao động có việc làm. Theo nghĩa hẹp, giải quyết việc làm là các biện pháp

chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, trong đó có nông dân bị

thu hồi đất, thiếu hoặc không còn đất sản xuất, nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người

lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.

1.2.1.3. Khái niệm về Nhà nước thu hồi đất nông nghiê ̣p

Theo khoản 5 điều 4 Luật Đất đai 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà

nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao

cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật

đất đai hiện hành”.

15

Mục đích thu hồi đất: Đảm bảo cho mọi diện tích đất đai được sử dụng hợp

pháp đúng mục đích, đạt hiệu quả cao, khắc phục trình trạng tuỳ tiện trong quản lý sử

dụng đất đai. Đáp ứng nhu cầu sử dụng đất, phục vụ lợi ích quốc gia.

1.2.1.4. Quan niệm về giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp

Dựa trên cơ sở lý luận về việc làm, giải quyết việc làm, thu hồi đất nông

nghiệp gắn liền với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng

như quận Long Biên, có thể hiểu rằng giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp là hoạt động lao động của người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp, là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất theo những điều kiện

phù hợp nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích của

bản thân người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, của cộng đồng và của xã hội.

Hoạt động lao động đó không bị luật pháp Việt Nam ngăn cấm.

Như vậy, hoạt động được xem là giải quyết việc làm cho người lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Giải quyết việc làm

cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp cần phải đầu tư phát triển sản xuất,

tạo ra một số lượng tư liệu sản xuất có khả năng đáp ứng yêu cầu của người lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp, cần quân tâm đào tạo, chuyển đổi nghề cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, số lượng sức lao

động để sử dụng hiệu quả tư liệu sản xuất có được; để sức lao động có thể kết hợp

được với tư liệu sản xuất, cần phải có sự phù hợp giữa trình độ tư liệu sản xuất và

năng lực lao động, nên người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp cần phải có trình

độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp; kết quả của hoạt động lao động của người lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp là tạo ra một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhất

định nào đó phù hợp với lợi ích của bản thân, cộng đồng, xã hội; những hoạt động

lao động của người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp phải không bị luật pháp

ngăn cấm.

1.2.2. Tác động của thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của người lao

động bị thu hồi đất

16

1.2.3.1. Tác động tích cực

Việc thu hồi đất nông nghiệp tạo ra những tác động tích cực nhất định đối

với việc làm của người bị thu hồi đất, có thể kể đến một số tác động sau:

- Tạo cơ hội việc làm có thu nhập ổn định cho một bộ phận lao động nông

thôn. Việc thu hồi đất nông nghiê ̣p để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị đã

giúp cho việc chuyển một số lao động từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang làm

việc ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Từ đó làm cho thu nhập của lao động nông

thôn tăng lên. Sau khi thu hồi đất nông nghiê ̣p , nhiều lao động nông thôn đã chuyển

sang các ngành phi nông nghiệp, đặc biệt là số lao động trẻ, lao động đã qua đào

tạo. Các khu công nghiệp đã thu hút được số lượng lớn lao động nông thôn, và thu

nhập cao hơn, ổn định hơn so với làm nông nghiệp.

- Tăng nguồn vốn cho người lao động (tiền được bồi thường): Khi Nhà nước thu

hồ i đất nông nghiê ̣p để thực hiện công nghiệp hóa và đô thị hóa thì phương thức bồi

thường được thực hiện nhiều nhất là bồi thường bằng tiền. Người lao động có thể dùng

khoản tiền này để đầu tư phát triển sản xuất tạo nguồn thu nhập, đầu tư học nghề, xây

dựng nhà cửa… Cùng với việc bồi thường thiệt hại, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp

cũng được thực hiện bằng tiền.

- Phát triển cơ sở hạ tầng và điều kiện tiếp cận dịch vụ việc làm đối với người lao

động. Cùng với quá trình đô thị hóa là sự phát triển mạng lưới giao thông, cầu cống, bến

cảng, chợ, siêu thị, mạng lưới thông tin, viễn thông, điện năng…., tạo điều kiện cho

người dân tiếp cận thuận lợi và hiệu quả hơn trong các hoạt động sản xuất, trao đổi hàng

hóa, cải thiện điều kiện giao lưu với bên ngoài. Bên cạnh đó, tốc độ chuyển đổi mục đích

sử dụng đất sang công nghiệp hóa, đô thị hóa càng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm và

tốc độ hội tụ dân số, lao động ở đô thị có quy mô càng lớn. Sự gia tăng về cả hai phía

cung và cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng động chính là những điều kiện

cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm giáo dục, đào tạo

nghề, dịch vụ thông tin thị trường sức lao động,... Do đó, người lao động có điều kiện

thuận lợi hơn để tiếp cận các dịch vụ việc làm, thiết lập, mở rộng các mối quan hệ làm ăn

và thực hiện các giao dịch trên thị trường sức lao động.

17

- Thu hồi đất để phục vụ công nghiệp hóa, đô thị hóa còn thúc đẩy quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là sự phát triển công

nghiệp chế biến và đa dạng hóa các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp. Từ đó, thu

hút một bộ phận lao động nông nhàn, lao động dư dôi từ nông nghiệp (do không

còn đất nông nghiệp để canh tác hoặc chuyển mục đích sử dụng đất) vào làm việc

và tăng thời gian lao động ở khu vực nông thôn. Do vậy, tạo sức ép chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa góp phần tạo ra sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp,

thương mại và dịch vụ, do đó cơ cấu lao động, việc làm của người lao động cũng có

sự thay đổi mạnh mẽ. Đó là do xuất phát từ sự gia tăng, hội tụ các hoạt động kinh tế

phi nông nghiệp ở đô thị khi mà ở đó những lợi thế về các nguồn lực dồi dào ở đô

thị ngày càng được tận dụng khai thác tối đa như: Chi phí giao dịch thấp, giao thông

vận tải thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn vốn đầu tư, thông tin, tiến bộ khoa

học - kỹ thuật,... Đồng thời, sự mở rộng không gian đô thị, cải tạo, nâng cấp cơ sở

hạ tầng kỹ thuật, xây dựng các khu thương mại, dịch vụ tập trung, sự thay thế lao

động thủ công bằng cơ khí, tự động hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề. cũng là

những nhân tố trực tiếp làm thay đổi cơ cấu lao động, việc làm của người lao động.

-Trình độ người lao động ngày càng được nâng cao. Do xu hướng giảm lao động

có trình độ chuyên môn thấp và tốc độ gia tăng dân số nên một bộ phận người lao động,

nhất là nông dân trong độ tuổi lao động khi chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp,

buộc phải tự trang bị cho mình kiến thức, trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Vì

vậy, thu hồi đất cho công nghiệp hóa, đô thị hóa đã tự động hướng một bộ phận lao động

tham gia vào các chương trình giáo dục, đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, làm chuyển

biến nhận thức của người dân trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình, từ đó giúp cho

những người lao động có điều kiện thuận lợi hơn về thời gian, tiền bạc, công sức,... để ưu

tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, vừa làm giảm

áp lực về nhu cầu phải giải quyết việc làm hiện tại ở đô thị, vừa nâng cao khả năng tự tạo

việc làm hoặc tìm kiếm việc làm cho bản thân và con em họ.

18

- Góp phần hiện đại hóa đời sống cư dân nông thôn và giữ gìn, phát huy bản

sắc văn hóa trên cơ sở lựa chọn, sàng lọc những giá trị truyền thống, tinh hoa văn

hóa vùng miền. Quá trình thu hồi đất để công nghiệp hóa, đô thị hóa tạo điều kiện

cải biến cư dân nông thôn từ những người nông dân với nền sản xuất lúa nước phụ

thuộc chủ yếu vào thiên nhiên trở thành những cư dân thành thị có tác phong công

nghiệp, nếp sống văn minh và có đời sống văn hóa cao hơn. Dân cư từ các vùng,

miền di cư vào các đô thị, đồng thời mang theo những giá trị truyền thống, bản sắc

và tinh hoa văn hóa riêng có của vùng, miền, do đó góp phần làm phong phú thêm

đời sống văn hóa chung của đô thị. Trải qua quá trình lựa chọn, sàng lọc những giá

trị văn hóa đã làm đa dạng thêm văn hóa đô thị.

1.2.3.2. Tác động tiêu cực

Bên cạnh những tác động tích cực đã nêu trên, quá trình thu hồi đất để công

nghiệp hóa, đô thị hóa cũng làm nảy sinh những tác động tiêu cực đối với đời sống

của người dân bị thu hồi đất, có thể kể đến một số tiêu cực sau:

- Trong ngắn hạn, giảm việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp, tăng

tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt là bộ phận người lao động trong độ tuổi lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp.Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các khu công nghiệp, khu

kinh tế, khu chế xuất, khu đô thị và các công trình công cộng đã làm giảm diện tích

đất nông nghiệp, do đó làm giảm việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp.

Đồng thời, thu nhập giảm cũng làm cho điều kiện sống của họ gặp nhiều khó khăn

hơn. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ phục vụ sản xuất nông

nghiệp sang phục vụ sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đô thị sẽ dẫn đến

một bộ phận không nhỏ những người lao động thuộc diện thu hồi đất sản xuất (đất

sản xuất nông nghiệp và mặt bằng sản xuất, kinh doanh các ngành nghề phi nông

nghiệp) bị mất việc làm hoặc buộc phải chuyển đổi việc làm. Trong khi đó, đại đa

số người lao động trong bộ phận này có trình độ học vấn thấp, không có tay nghề,

không có vốn để tự tổ chức việc làm nên sẽ hạn chế trong khả năng tự tạo việc làm,

tiếp cận các dịch vụ việc làm hội nhập cuộc sống đô thị, từ đó làm tỷ lệ thất nghiệp

ngày càng gia tăng.

19

- Gia tăng áp lực giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội đối với chính

quyền địa phương. Mức độ công nghiệp hóa, đô thị hóa càng cao, diện tích đất nông

nghiệp bị thu hẹp càng lớn, tỷ lệ lao động mất việc làm ở nông thôn càng cao, sự

chênh lệch về phát triển giữa nông thôn và thành thị càng lớn thì các luồng nhập cư

nông thôn - đô thị diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Đây là hiện tượng khách quan của

quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, nó có vai trò rất to lớn trong việc cung cấp

nguồn nhân lực cho sự phát triển của các đô thị. Tuy nhiên, các luồng nhập cư tự do

từ các vùng nông thôn chỉ tập trung chủ yếu vào một số rất ít những đô thị lớn

không những làm gia tăng sức ép về vấn đề nhà ở, cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, tệ

nạn xã hội, ô nhiễm môi trường... mà còn làm gia tăng sức ép đối với chính quyền

địa phương trong công tác quản lý xã hội, nhất là việc đảm bảo an ninh trật tự xã

hội, đảm bảo an sinh xã hội cho các bộ phận dân cư, trong đó có đối tượng là nông

dân bị thu hồi đất.

1.2.3. Tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động

bị thu hồi đất nông nghiệp.

Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình

công nghiệp hóa, đô thị hóa là vấn đề cần thiết phải được Đảng, Nhà nước, các địa

phương và chủ thể sử dụng đất thu hồi nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, từ đó có sự

quan tâm đúng mức và phải coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương. Tầm quan trọng của vấn đề này

thể hiện ở những lý do sau:

- Giải quyết việc làm cho các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp giúp ổn định cuộc

sống cho họ. Sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp, các hộ nông dân phải thay đổi nơi cư

trú, từ chỗ sống gắn với ruộng vườn đến sống ở các khu nhà phân lô hoặc diện tích

ruộng vườn nhỏ sẽ làm xáo trộn cuộc sống vốn có trước đây và ảnh hưởng rất lớn đến

các công việc làm thêm của họ. Khi bị thu hồi đất sản xuất làm cho một bộ phận lao

động nông nghiệp mất việc làm truyền thống, thất nghiệp hoặc buộc phải chuyển đổi

nghề nghiệp nhưng rất khó khăn, bởi đa số họ đều có trình độ học vấn thấp, không có

tay nghề, thiếu vốn để tổ chức việc làm. Hơn nữa, đối với họ, việc tìm kiếm một nghề

20

để ổn định cuộc sống là không đơn giản, vì thiếu những điều kiện cơ bản như vốn, mặt

bằng sản xuất, công nghệ.. .Do đó, Đảng, Nhà nước và chủ thể sử dụng đất thu hồi cần

thiết phải quan tâm tạo việc làm cho họ để ổn định cuộc sống, tránh tình trạng thu hồi

đất mà không có các chính sách hỗ trợ, hoặc quy hoạch treo, vì vậy phải quan tâm giải

quyết việc làm cho họ, nhất là giai đoạn đầu.

- Giải quyết việc làm cho các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp giúp giảm tỷ lệ

thất nghiệp. Một trong những thiếu sót lớn nhất của công tác thu hồi đất là các chính

sách xã hội bền vững sau thu hồi đất. Thực tế cho thấy, sau khi bị thu hồi đất nông

nghiệp một bộ phận nông dân, nhất là lao động lớn tuổi và lao động nữ bị thất

nghiệp, khó chuyển đổi được nghề nghiệp do trình độ học vấn, trình độ chuyên môn

kỹ thuật thấp, sức khỏe yếu, khó thích nghi được các công việc nặng nhọc như đạp

xích lô, xe thồ, vận chuyển cát sạn, thợ hồ... Do đó, dẫn đến thu nhập bình quân của

một số hộ sau thu hồi đất giảm sút, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn, trong khi

đó họ phải đối mặt với các khoản chi phí ngày càng cao như:học phí cho con cái,

chi phí khám chữa bệnh, vệ sinh môi trường, điện, nước. Do đó, đòi hỏi chính

quyền địa phương - nơi có đất nông nghiệp bị thu hồi phải tìm mọi biện pháp để tạo

việc làm hoặc tư vấn tạo việc làm nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động này.

Mặt khác, bản thân người nông dân trong độ tuổi lao động phải tích cực tự chuyển

đổi việc làm không ỷ lại hay trông chờ vào sự hỗ trợ của chính quyền.

- Giải quyết việc làm cho các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp giúp nâng cao

thu nhập, cải thiện đời sống của người nông dân bị thu hồi đất, góp phần thực hiện

tiến bộ và công bằng xã hội. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở nước ta diễn ra

trong bối cảnh nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường, có sự phân cực về mức

sống giữa các nhóm cư dân đô thị và nhóm nhập cư. Theo đó, những người biết

nắm lấy cơ hội, có vốn, có kiến thức càng ngày càng giàu lên, ngược lại những

người nghèo, trong đó đa số là người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, không có

trình độ, vốn,… đã nghèo lại càng nghèo hơn, khả năng tiếp cận các nguồn lực do

quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mang lại cũng kém hơn. Do đó, nó làm nới

rộng khoảng cách giàu nghèo, gây bất bình đẳng xã hội. Chính vì vậy, giải quyết tốt

21

vấn đề việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa không chỉ tăng thu

nhập, nâng cao mức sống cho người dân, mà còn góp phần thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội.

- Giải quyết việc làm cho các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp làm giảm các tệ

nạn xã hội. Tệ nạn xã hội đang trở thành vấn đề rất nghiêm trọng mà một trong

những nguyên nhân chủ yếu nhất là do chưa giải quyết tốt vấn đề việc làm cho

người lao động dẫn đến “nhàn cư vi bất thiện”. Qua kết quả điều tra và nghiên cứu,

nhiều nhà khoa học và quản lý xã hội đã đi đến kết luận rằng: Số người thất nghiệp

đóng góp vào các tệ nạn xã hội chiếm một tỷ lệ đáng kể, bao gồm, ma tuý, mại dâm,

trộm cắp, đâm thuê, chém mướn... Bởi lẽ, đối với người lao động, mất việc làm là

mất nguồn thu nhập, mất kế sinh nhai, con người sẽ mất đi phương cách sống chủ

yếu nhất để thể hiện và khẳng định mình, họ dễ rơi vào tình trạng khốn khó, túng

quẫn, khủng hoảng về tinh thần, thiếu niềm tin vào cuộc sống, mặc cảm, tự ti vì

nghèo hèn, dễ bị tổn thương, thậm chí bất mãn về chính trị, gây nên các tệ nạn xã

hội, vi phạm pháp luật...làm đảo lộn nếp sống lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến

thuần phong, mỹ tục, gây bất ổn xã hội. Chính vì vậy, đối với bộ phận này một khi

những nỗ lực tìm kiếm việc làm chính đáng mà pháp luật không cấm không thực

hiện được thì những việc làm phi pháp, tệ nạn xã hội là chỗ cho một bộ phận người

thất nghiệp bấu víu để tồn tại và xoa dịu sự tổn thương về tinh thần.

1.2.3. Nội dung và tiêu chí đánh giá kết quả giải quyết việc làm cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp

1.2.3.1. Nội dung giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp

Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố tư liệu sản xuất,

sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để đảm bảo cho hoạt động lao

động diễn ra và duy trì hoạt động đó. Giải quyết việc làm liên quan đến nhiều chủ

thể, bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Giải quyết việc

làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp là quá trình mà người lao động

tự do tìm kiếm một công việc phù hợp, và người sử dụng lao động tìm kiếm được

22

những người lao động thoả mãn được những yêu cầu của mình về cả mặt số lượng

và chất lượng, cùng với đó là quá trình Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để

người người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có thể thực hiện quá trình lao động

của họ. Do vậy, nội dung của tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất gồm:

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tổng thể về việc thu hồi đất nông

nghiệp và kế hoạch giải quyết việc làm cho lao động sau khi họ bị thu hồi đất nông

nghiệp. Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm trong việc xây dựng và tổ chức thực

hiện kế hoạch, vấn đề đó bao gồm các bước như sau: Trước hết, Nhà nước dựa trên

quy hoạch tổng thể về kế hoạch sử dụng đất do Chính phủ ban hành để thực hiện

việc thu hồi như: Tổng diện tích đất thu hồi, vị trí đất thu hồi…; sau đó, Nhà nước

tiến hành điều tra, đánh giá xã hội ban đầu để nắm được chính xác đặc điểm cộng

đồng dân chuyển cư, nguồn lao động của cộng đồng người sẽ bị ảnh hưởng bởi dự

án; thống kê, phân tích thực trạng cơ cấu và chất lượng nguồn lao động của nhóm

dân cư đó theo tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, đặc điểm gia đình và mức sống;

đánh giá tổng quát những ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến việc làm, thu nhập,

đời sống của người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

- Xây dựng môi trường pháp lý, các điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết nhằm

phát triển thị trường sức lao động. Trên cơ sở đánh giá những tác động của thu hồi đất

đến việc làm của nông dân, Nhà nước xây dựng các văn bản pháp quy để bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp theo hướng bảo đảm

ổn định việc làm và thu nhập hợp pháp cho bản thân người lao động bị mất đất nông

nghiệp và gia đình của họ. Cùng với đó, nhà nước cũng xây dựng các điều kiện kinh tế

- xã hội cần thiết để mở rộng và phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm, cơ sở dữ liệu

về tìm kiếm việc làm, hệ thống thông tin việc làm... để người lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp có cơ hội tiếp cận và tìm kiếm việc làm mới.

- Có chính sách khuyến khích, phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là những

ngành nghề sử dụng nhiều lao động để thu hút lao động nông nghiệp sau khi họ mất

đất, từ đó tạo ra nhu cầu về việc làm và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp.

23

- Xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề

nghiệp để người lao động mất đất nông nghiệp có cơ hội tìm được việc làm.

Nguyên nhân của thất nghiệp đối với những người lao động bị mất đất nông nghiệp

là do họ không có trình độ, chuyên môn nghề nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nước cần

xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp

cho người nông dân theo hướng phù hợp với khả năng của nông dân, phù hợp với

nhu cầu của thị trường sức lao động nhằm giúp người nông dân sau khi được đào

tạo nghề tìm kiếm được việc làm.

- Chính quyền địa phương tăng cường phối hợp chặt chẽ với các doanh

nghiệp - chủ đầu tư sử dụng đất thu hồi trong việc đào tạo và bố trí việc làm cho

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp vào làm việc trong các doanh nghiệp này.

Xây dựng cơ chế ràng buộc và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng

đất thu hồi của người nông dân trong việc giải quyết việc làm cho người lao động bị

thu hồi đất.

- Chính quyền địa phương, các cấp, ban ngành chức năng thực hiện tuyên

truyền, vận động, giúp đỡ người lao động bị mất đất nông nghiệp chủ động tìm

kiếm, lựa chọn nghề nghiệp và việc làm mới phù hợp với bản thân thông qua các

chính sách trợ giúp của Nhà nước và các doanh nghiệp. Bản thân người nông dân có

cơ hội tìm việc làm và duy trì việc làm ở các dự án sử dụng đất nông nghiệp thu hồi

hoặc tìm được các công việc khác do sự phát triển kinh tế - xã hội do hiệu ứng của

dự án đó mang lại. Để làm được điều đó phải xác định được trách nhiệm của từng

chủ thể có liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp trong giải quyết việc làm cho

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, đó là: Người nông dân, người sử dụng

lao động, và Nhà nước.

Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội cũng có vai trò quan trọng trong việc giải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp như: tuyên truyền đường

lối, chủ trương của Đảng, cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai đến

với người lao động bị mất đất nông nghiệp; Làm cho nông dân nhận thức đúng về việc

thu hồi đất nông nghiệp phục vụ lợi ích phát triển kinh tế - xã hội; Góp phần tích cực

24

trong việc hướng dẫn người lao động bị mất đất nông nghiệp trong chuyển đổi nghề

nghiệp, tìm kiếm việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động.

bị thu hồi đất nông nghiệp

1.2.3.2. Tiêu chí đánh giá kết quả giải quyết việc làm cho người lao động

Căn cứ vào nội dung giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp, có thể đưa ra một số tiêu chí sau để đánh giá kết quả của việc giải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp:

Một là, tỷ trọng số người lao động sau khi bị thu hồi đất tìm được việc làm

trong tổng số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Tiêu chí này phản ánh hiệu quả

của các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của doanh nghiệp và khả năng thích nghi

của chính bản thân người lao động bị mất đất nông nghiệp.

Hai là, tỷ trọng số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được hỗ trợ,

đào tạo lại nghề, chuyển đổi nghề nghiệp và tỷ trọng những người được đào tạo phù

hợp với nhu cầu của thị trường sức lao động trong tổng số người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp. Tiêu chí này phản ánh hiệu quả công tác hỗ trợ, đào tạo lại nghề,

chuyển đổi ngành nghề cho nông dân bị thu hồi đất.

Ba là, tỷ trọng những người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp không kiếm

được việc làm ổn định, đời sống bấp bênh, gặp nhiều khó khăn trong tổng số lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp. Tiêu chí đánh giá này phản ánh kết quả của công

tác giải quyết việc làm cho nông dân, nếu tỷ trọng những người nông dân khi thu

hồi đất không kiếm được việc làm ổn định, đời sống bấp bênh, gặp nhiều khó khăn

càng lớn thì chứng tỏ các giải pháp của Nhà nước, địa phương và doanh nghiệp là

chưa hiệu quả và không gắn với thực tế của địa phương đó.

Bốn là, tỷ trọng số người lao động sau khi thu hồi đất nông nghiệp được Nhà

nước hỗ trợ xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm trong tổng số nông dân bị thu

hồi đất. Tiêu chí này phản ánh hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động để giải quyết

việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.

Năm là, mức độ phối hợp giữa chính quyền địa phương với chủ đầu tư các

dự án trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, đào tạo lại nghề cho

25

người nông dân bị thu hồi đất để có thể thu hút họ vào làm việc trong các dự án đầu

tư. Tiêu chí đánh giá này phản ánh hiệu quả sự phối hợp hoạt động giữa chính

quyền địa phương và doanh nghiệp, chủ đầu tư các dự án trong đào tạo, đào tạo lại

nghề cho nông dân bị thu hồi đất để giải quyết việc làm cho họ.

Sáu là, việc thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương về giải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Tiêu chí này cho

thấy hiệu quả của việc thực hiện các chính sách về giải quyết việc làm cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, nó thể hiện tính minh bạch, hiệu quả của các

chính sách giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

1.2.4. Các hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp

1.2.4.1. Giải quyết việc làm thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia

Các chương trình mục tiêu quốc gia là chính sách của Nhà nước ban hành

nhằm hỗ trợ người lao động tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội góp

phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo. Nội dung các chương trình

được xây dựng trên cơ sở gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,

địa phương trong từng giai đoạn, phù hợp với từng vùng, miền, địa phương và từng

nhóm đối tượng lao động cụ thể. Ngày 31/8/2012, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết

định số 1201/QĐ – TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy

nghề giai đoạn 2012 – 2015 [2], trong đó có 3 dự án liên quan trực tiếp đến giải

quyết việc làm cho người lao động là: Đào tạo nghề cho người lao động; Vay vốn

tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm; Hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước

ngoài theo hợp đồng. Trong số các mục tiêu cụ thể của chương trình có mục tiêu: hỗ

trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho lao động thuộc hộ bị

thu hồi đất nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài… Với các chính sách điều tiết vĩ

mô của Chính phủ thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy

nghề đã góp phần tạo việc làm cho người lao động, trong đó có một phần lớn là lao

động nông thôn và người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

26

và cơ sở dạy nghề

1.2.4.2. Giải quyết việc làm thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm

Một trong những hoạt động giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp là phát triển hệ thống cơ sở dạy nghề tại các địa phương. Thông qua

các chương trình đào tạo của các trung tâm, cơ sở dạy nghề sẽ tạo điều kiện cho

người lao động được học các nghề phù hợp và nâng cao tay nghề, mở ra nhiều cơ

hội tìm và tạo việc làm. Ở nước ta, bộ luật lao động (sửa đổi năm 2012), luật việc

làm và luật dạy nghề là căn cứ pháp lý quan trọng cho việc hình thành và phát triển

hệ thống dạy nghề, giới thiệu việc làm trong cả nước. Các cơ sở dạy nghề ngoài

việc đào tạo tập trung dài hạn và đào tạo từ đầu còn hướng vào đào tạo lại để nâng

cao, cập nhật trình độ cho người lao động phù hợp với yêu cầu và tính chất công

việc. Một bộ phận người lao động sau khi học nghề đã có việc làm mới ở các cơ sở

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, được chuyển nghề, có việc làm ngay tại

địa phương và trong khu công nghiệp, thực hiện ly nông, bất ly hương. Một bộ phận

lao động nông thôn đã thành lập doanh nghiệp, tổ hợp tác, tạo việc làm cho bản thân

và các lao động khác. Tuy nhiên, công tác dạy nghề cho lao động nông thôn vẫn

chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa trong nền kinh tế

thị trường và hội nhập quốc tế.

và các doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.2.4.3. Giải quyết việc làm thông qua phát triển làng nghề truyền thống

Đây là một trong những hoạt động giải quyết việc làm rất hiệu quả. Làng

nghề là môi trường thuận lợi, tạo cơ hội cho người lao động dễ tìm được việc làm

tăng thu nhập. Hiện nay, cả nước có khoảng 2.790 làng nghề truyền thống, giải

quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, phương thức này đã, đang và sẽ được

duy trì, ngày càng có xu hướng phát triển tốt. Cùng với làng nghề, các doanh nghiệp

nhỏ và vừa cũng đóng vai trò quan trọng, tạo thêm việc làm và thu nhập cho lao

động. Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ góp phần vào phát triển sản

xuất kinh doanh, dịch vụ, mà còn góp phần tích cực trong tạo việc làm tăng thu

nhập cho người lao động, giảm sức ép về lao động, việc làm và các vấn đề xã hội

27

khác. Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ [3], quy

định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là

doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến dưới 200 người lao động được coi là doanh

nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là doanh nghiệp vừa. Các

doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp, tỷ lệ là

95%. Vì thế, đóng góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa vào tổng sản lượng và tạo việc

làm cho nền kinh tế là rất đáng kể.

1.2.4.4. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động

Xuất khẩu lao động là xuất khẩu sức lao động của con người, do người lao động

sử dụng sức lao động của mình bán cho chủ sử dụng lao động nước ngoài, sống và làm

việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động đã ký kết. Nên quan hệ mua bán sức lao động

trong xuất khẩu lao động là quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, đặc biệt phức tạp bởi

sự khác nhau về văn hóa, phong tục tập quán, luật pháp cũng như những điều ước quốc

tế của cả nước nhập khẩu lao động và nước xuất khẩu lao động. Hiện nay, xuất khẩu lao

động thường được tiến hành theo các hình thức: thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ

chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; các

doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài được

phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi

thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài; theo hợp đồng cá nhân lao động trực tiếp ký

kết với chủ sử dụng lao động nước ngoài. Xuất khẩu hàng hóa sức lao động là một chủ

trương có tính chiến lược, quan trọng của Đảng và Nhà nước, phù hợp với xu hướng phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu tích cực, chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Thông qua xuất khẩu lao động, việc làm cho người lao

động được giải quyết, nhất là lao động dôi dư từ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.

Đây là một hoạt động hiệu quả tạo việc làm cho lao động trong không gian “thế giới

phẳng” hiện nay. Tuy nhiên, xuất khẩu lao động cũng có những hạn chế cần khắc phục

như cần tiến hành thanh tra, giám sát chặt chẽ công tác quản lý lao động, doanh nghiệp

hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động, có chiến lược nghiên cứu thị trường

và cần đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu…

28

hội

1.2.4.5. Giải quyết việc làm thông qua các tổ chức đoàn thể chính trị - xã

Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức đoàn thể giữ vai trò nòng cốt trong

đào tạo và giải quyết việc làm, đã có nhiều giải pháp tích cực giúp người lao động,

trong đó có lao động bị thu hồi đất nông nghiệp giải quyết việc làm. Các tổ chức

đoàn thể, chính trị - xã hội như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông

dân… thông qua việc thực hiện các mô hình, dự án phát triển sản xuất, chuyển dịch

cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, vay vốn hỗ trợ sản xuất, vay

vốn xuất khẩu lao động, dạy nghề,... đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết

việc làm cho người lao động. Ở Hà Nội, cũng như quận Long Biên đã có nhiều kế

hoạch cụ thể, khai thác từ các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm

nghèo, giải quyết việc làm; lồng ghép với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội

của địa phương để tạo việc làm trong đó có đối tượng là người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp. Theo đó, các tổ chức đoàn thể, chính trị - xã hội đã thành lập hàng

chục trung tâm và cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc làm đào tạo nghề cho hàng triệu

lượt phụ nữ, thanh niên, nông dân; tư vấn nghề nghiệp, tư vấn việc làm cho các hội

viên giúp họ có việc làm hoặc tự tạo việc làm ổn định.

1.2.4.6. Tự giải quyết việc làm thông qua thị trường sức lao động

Đối với lao động bị thu hồi đất nông nghiệp thì sự phát triển thị trường sức

lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc tự tạo việc làm cho họ. Nó giúp cho

người lao động biết được các thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động, tư vấn về

học nghề, dạy nghề, số lượng và chất lượng việc làm... vì vậy, sẽ có nhiều cơ hội để

tìm kiếm việc làm chuyển đổi nghề nghiệp, tự giải quyết việc làm. Thực tế ở những

địa phương có thị trường sức lao động phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí

Minh đã tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tìm kiếm

được những việc làm tốt hơn, phù hợp với trình độ, năng lực.

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp

1.2.5.1. Vốn đầu tư và sự phát triển của khoa học - công nghệ

29

Vốn đầu tư, quy mô vốn đầu tư là cơ sở tạo lập, nâng cao quy mô, trình độ tư

liệu sản xuất. Cấu tạo hữu cơ (c/v) của vốn đầu tư lại quyết định quy mô, cơ cấu việc

làm theo hướng: nếu cấu tạo hữu cơ không thay đổi thì giữa vốn đầu tư và quy mô

việc làm tạo ra sẽ có quan hệ tỷ lệ thuận ; nếu c/v tăng theo hướng tăng cùng sự phát

triển của khoa học - công nghệ thì quy mô việc làm giản đơn giảm, nhưng quy mô

việc làm phức tạp (việc làm đòi hỏi được đào tạo, có chuyên môn kỹ thuật) sẽ tăng.

Hơn nữa, sự phát triển của khoa học - công nghệ là động lực thúc đẩy lực lượng sản

xuất phát triển sẽ làm xuất hiện nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mới và do vậy sẽ

tạo thêm nhiều việc làm mới.

Việc tăng hay giảm vốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng khoa học- công

nghệ cao, trung bình hay thấp sẽ tác động đến việc giải quyết việc làm cho người lao

động. Nếu tăng vốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng khoa học - công nghệ thấp

thì cơ hội có việc làm cho nông dân sau thu hồi đất sẽ tăng lên; nếu tăng vốn đầu tư

phát triển các ngành sử dụng khoa học - công nghệ cao thì cơ hội có việc làm cho nông

dân sau thu hồi đất gần như không có, nếu xét trong thời gian ngắn hạn. Chính vì vậy,

để có việc làm với thu nhập cao hơn, lao động nông thôn cần được đào tạo nâng cao

trình độ văn hóa nói chung và trình độ nghề nghiệp nói riêng.

Mặt khác, về cơ bản các hộ nông dân đều thiếu vốn sản xuất,do đó sẽ hạn

chế họ trong việc tự tạo ra việc làm cho bản thân. Vì vậy, cần phải giúp đỡ họ trong

huy động mọi nguồn vốn vào sản xuất, đồng thời cần hướng dẫn họ nâng cao khả

năng quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh và nguồn

tiền đền bù, giải tỏa, tái định cư.

1.2.5.2. Trình độ của người lao động

Việc nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, tái sản

xuất mở rộng theo chiều sâu của nền kinh tế, của doanh nghiệp luôn gắn liền với

việc nâng cao chất lượng lao động. Nếu chất lượng lao động tốt thì khả năng tạo

việc làm cho người lao động sẽ thuận lợi; ngược lại, chất lượng lao động thấp sẽ

gây khó khăn cho người lao động trong tìm kiếm việc làm. Người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp với xuất phát điểm thấp về trình độ học vấn, trình độ chuyên

30

môn kỹ thuật đã tạo ra sự không phù hợp giữa cung - cầu lao động. Thậm chí, với

những tác phong thiếu chuyên nghiệp, tâm lý tiểu nông cũng ảnh hưởng đến cơ hội

việc làm của họ. Vì vậy, công tác dạy nghề, chuyển đổi nghề cho nông dân cần phải

được quan tâm đúng mức. Các chương trình dạy nghề cho nông dân sau thu hồi đất

phải phù hợp với lứa tuổi, khả năng, giới tính và nhất là phải phù hợp với quá trình

công nghiệp hóa, đô thị hóa. Có như vậy mới tạo ra được nhiều việc làm phù hợp

cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

1.2.5.3. Nhân tố về chủ trương, chính sách phát triển của Nhà nước

Chủ trương, chính sách phát triển của Nhà nước là nhân tố có sự tác động

không nhỏ tới giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Cụ thể là:

Đối với các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế như: Chính

sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách phát triển khu vực kinh tế phi

chính thức, chính sách khôi phục và phát triển làng nghề, chính sách xuất khẩu lao

động… Theo đó, những chính sách này rất phù hợp để giải quyết việc làm cho

người lao động, nhất là lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề thấp, có độ tuổi

cao khó tìm kiếm việc làm ở các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ hoặc lao động

lao động không có tay nghề, lao động nông thôn nhập cư vào đô thị và nông dân sau

thu hồi đất cần những việc làm tạm thời. Đồng thời, những chính sách này còn góp

phần làm giảm áp lực về nhu cầu làm việc ở khu vực kinh tế chính thức. Chính sách

đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cũng là hướng đi có hiệu

quả để tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.

Đối với các chủ trương, chính sách phát triển xã hội như: Chính sách tiền

lương, tiền công, chính sách quản lý di dân… Với việc quy định mức lương tối

thiểu cao ở khu vực đô thị sẽ tạo động lực khuyến khích nâng cao năng suất lao

động, gia tăng sản lượng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm

mới ở cả khu vực kinh tế chính thức và khu vực kinh tế không chính thức. Đối với

chính sách quản lý di dân, cần phải xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong các chính sách

xã hội ở đô thị, nhất là chính sách lao động - việc làm.

Đối với các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân,

31

nông thôn có ảnh hưởng rất lớn tới giải quyết việc làm và thu nhập của lao động

nông thôn, đặc biệt là các chính sách phát triển nông nghiệp, ngành sản xuất chính

của khu vực nông thôn. Sự phát triển của ngành này chịu sự tác động rất lớn từ các

điều kiện tự nhiên: thiên tai, dịch bệnh. Thêm vào đó, thị trường nông sản luôn có

nhiều biến động, rủi ro lớn. Vì vậy, các chính sách đất đai như chính sách hạn điền

trong nông nghiệp, qui hoạch sử dụng đất nông nghiệp, các chính sách hỗ trợ tiêu

thụ nông sản, hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông sản, phát triển các làng

nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn...có ảnh hưởng rất lớn đến

việc làm, thu nhập của người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

1.2.5.4. Nhân tố về yêu cầu phát triển của địa phương

Yêu cầu phát triển của địa phương cũng là một trong những nhân tố có tác

động, ảnh hưởng trực tiếp đến giải quyết việc làm nói chung, giải quyết việc làm

cho nông dân bị thu hồi đất nói riêng. Những ảnh hưởng đó có thể nhìn nhận trên

các khía cạnh sau: Về tiềm lực kinh tế của địa phương, thể hiện rõ nét ở cơ sở hạ

tầng kỹ thuật, tính hiệu quả và đồng bộ của cơ chế quản lý, tốc độ và tính ổn định

của tăng trưởng kinh tế, khả năng kiểm soát tốt các yếu tố rủi ro và lạm phát. Tiềm

lực kinh tế của địa phương càng lớn, sức sản xuất của địa phương trên các lĩnh vực

công nghiệp, dịch vụ càng cao, càng tăng thêm cơ hội việc làm cho người lao động;

Về vị trí địa lý, địa phương có vị trí địa lý thuận lợi, có hệ thống kết cấu hạ tầng

giao thông thông suốt, sẽ tạo điều kiện để phát huy các nguồn lực nội tại cũng như

thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, từ đó góp phần tạo việc làm cho người lao động không chỉ trong nội tại địa

phương đó mà còn có khả năng đưa lao động sang các địa phương lân cận để tìm

kiếm việc làm; Về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, chiến lược

này thường được cụ thể hóa bằng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương, quy hoạch càng có tính khả thi, thì các dự án đầu tư càng có điều kiện thực

hiện thuận lợi và có hiệu quả kinh tế cao, do đó mà công tác giải quyết việc làm

giữa các chủ thể tham gia cũng trở nên thuận lợi và nhanh hơn.

32

1.2.5.5. Nhân tố về vận hành của thị trường sức lao động và tác động của

hội nhập kinh tế quốc tế

Sự phát triển của thị trường sức lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm

của người lao động. Nếu thị trường sức lao động phát triển sẽ làm cho cung-cầu lao

động dễ dàng gặp nhau, việc làm sẽ được giải quyết. Ngược lại, thị trường sức lao động

kém phát triển thì các bên cung-cầu lao động khó gặp nhau, dẫn đến nỗ lực giải quyết

việc làm cho người lao động gặp khó khăn.

Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đem lại cho nền kinh tế quốc dân nhiều

cơ hội việc làm, mà nó cũng tạo ra các điều kiện cho các địa phương phát triển kinh

tế, giải quyết việc làm cho người lao động. Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho các rào

cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế,

đối ngoại, lao động được thiết lập từ đó nhiều lao động sẽ tìm kiếm được việc làm ở

thị trường lao động nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, hội

nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện mở rộng thị trường cho hàng hóa và thúc đẩy

thương mại phát triển, các mặt hàng lợi thế của khu vực nông thôn như: hàng thủ

công mỹ nghệ, hàng gia công may mặc, nông sản chế biến... được trao đổi nhiều

hơn, điều này góp phần mở rộng sản xuất, tạo việc làm...Ngoài ra, đầu tư trực tiếp

và gián tiếp của nước ngoài cũng đem lại nhiều cơ hội cho địa phương trong vấn đề

giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại nhiều thách thức lớn như:

cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn dẫn đến một bộ phận doanh nghiệp không

thích nghi kịp có nguy cơ phá sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp, thiếu việc

làm nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp; lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động có

kỹ thuật, trình độ quản lý...), trong đó có cả lao động giản đơn (hoạt động không hợp

pháp) cũng có thể tham gia vào thị trường sức lao động ở các địa phương nhiều hơn

gây sức ép cạnh tranh về chất lượng lao động đối với địa phương.

1.2.5.6. Nhân tố về đặc điểm của người nông dân sau thu hồi đất

Đặc điểm của người lao động bao gồm đặc điểm về nhân khẩu (độ tuổi, giới

tính, dân tộc, quy mô và kiểu hộ gia đình, tình trạng hôn nhân), đặc điểm về giáo

33

dục (học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề), đặc điểm về kinh tế (mức

sống, thu nhập, quy mô và thói quen chi tiêu, nhà ở, tài sản...), đặc điểm về văn hóa,

lối sống, phong tục, tập quán, tác phong lao động,... Những kết quả từ sự tác động

của nhân tố này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hàng loạt vấn đề liên quan đến tạo

việc làm như: Năng suất lao động, số lượng, chất lượng nguồn lao động, khả năng

tham gia và thực hiện các giao dịch trên thị trường hàng hóa sức lao động, khả năng

thiết lập các mối quan hệ về công ăn việc làm của người lao động, khả năng chuyển

đổi nghề, tự tạo việc làm ...

1.3. Cơ sở thực tiễn giải quyết việc làm cho ngƣời lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp

1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước

1.3.1.1. Thành phố Đà Nẵng

Năm 1997, Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương và

đến cuối năm 2003 được chính phủ xếp hạng là đô thị loại I cấp quốc gia. Dân số của

thành phố đến cuối năm 2004 là 763.300 người, GDP đặt 9.564,4 nghìn tỷ đồng. Số

người trong độ tuổi lao động của thành phố là 349.439 người, được phân chia theo khu

vực thành thị là 276.480 người và khu vực nông thôn là 72.959 người.

Trong quá trình khảo sát thấy nổi lên một số vấn đề đó là: Lao động trong

khu vực nông nghiệp - ngư nghiệp thì có 30,05% giữ nguyên nghề cũ, chuyển sang

nghề khác là 18,94%, có việc làm không ổn định là 16,17% và không có việc làm là

34,84% tương đương với 1.232 người. Hơn nữa trong số này có 874 người có nhu

cầu học nghề còn lại là không đủ điều kiện để học nghề; Do số lượng lao động mất

việc làm là khá lớn đang trở thành những bức xúc đòi hỏi thành phố phải có những

giải pháp để khắc phục.

Để người dân đồng thuận với thu hồi đất nông nghiê ̣p thành phố Đà Nẵ ng đã

có những sáng tạo nhất định:

- Người dân tham gia góp đất xây dựng các công trình công cộng, nhờ đó

giúp thành phố tiết kiệm chi phí chỉnh trang đô thị và nâng gía trị đất của người dân

sau khi quy hoạch. Tất cả các dự án đều được lấy ý kiến nhân dân, khi có trên 80%

34

hộ dân trong diện giải tỏa đồng tình mới triển khai thực hiện.

- Quy hoạch mở rộng vệt giải tỏa dọc hai bên đường tạo ra quỹ đất vàng

trong kêu gọi đầu tư, bán đấu giá xây dựng các khu thương mại, dịch vụ... với giá

cao giúp thành phố có nguồn thu lớn cho ngân sách, tạo điều kiện đầu tư các công

trình phúc lợi xã hội khác. Thành phố thực hiện bồi thường bằng đất cho các hộ dân

tái định cư có quy định cụ thể về giá trị quy đổi, mỗi hộ được bồi thường từ 1 tới tối

đa 5 lô đất.

- Vận động nông dân lập trang trại, thuê mặt nước để nuôi trồng thủy sản tự

tạo việc làm cho mình cũng như cho người khác

- Miễn thuế, giảm thuế sản xuất kinh doanh đối với những hộ nông dân chịu

ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa buộc phải chuyển qua sản xuất kinh doanh ở

những ngành nghề khác.

Nhờ đó, thành phố Đà Nẵng đã thu được một số kết quả: giải quyết việc làm

cho 80.000 lao động mỗi năm, tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn lên

82%. Nhìn chung cư cấu lao động đã chuyển dịch phù hợp với cơ cấu phát triển của

thành phố theo hướng công nghiệp - du lịch - dịch vụ làm mũi nhọn.

1.3.1.2. Huyện Đại Từ - Thái Nguyên

Dự án khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo tại huyện Đại Từ, tỉnh

Thái Nguyên có tổng vốn đầu tư hơn 500 triệu đô la Mỹ, lớn nhất Việt Nam tính

đến thời điểm hiện tại. Để triển khai dự án, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn khai thác

chế biến khoáng sản Núi Pháo (Nuiphao Mining) - doanh nghiệp thực hiện dự án đã

tiến hành bồi thường, giải phóng mặt bằng tổng diện tích thu hồi cho tất cả các khu

là 9.21 km2 (bao gồm các khu hoạt động sản xuất , khu vùng đệm , khu tái định và

các khu mở rộng ) với tổng số hộ dân bị ảnh hưởng do thu hồi đất nông nghiê ̣p là

hơn 3.600 hộ, trong đó trên 1.300 hộ thuộc diện di dời . Tiến độ thu hồi đất nông

nghiê ̣p của toàn dự án đạt 87,23%, trong đó tiến độ bàn giao mặt bằng tại các khu

vực hoạt động của dự án đạt 98,65%. Tổng số tiền chi trả cho đền bù tính đến nay là

1.615.064.099.107 đồng. Cùng với việc xây dựng khu nhà máy chế biến khoáng

sản hiện đại bậc nhất thế giới, Nuiphao Mining đặc biệt chú trọng tới việc tạo sinh

35

, giúp hàng kế, đảm bảo an sinh xã hội cho người dân sau thu hồi đất nông nghiê ̣p

nghìn hộ dân sau thu hồi đất cho dự án ở Đại Từ ổn định cuộc sống, nâng cao thu

nhập, phát triển kinh tế một cách bền vững.

Qua thống kê ban đầu, đến nay, đã có hơn 2.200 người trong khu vực ảnh

hưởng của dự án được tham gia các chương trình đào tạo nghề, trang bị kiến thức làm

nông nghiệp, chăn nuôi và phi nông nghiệp để có cơ hội tìm việc làm, mưu sinh tại

chỗ; khoảng 600 người dân ở khu vực chịu ảnh hưởng của dự án được tuyển dụng dài

hạn tại dự án Núi Pháo. Tổng nguồn vốn đã giải ngân của doanh nghiệp cho việc tạo

sinh kế, hỗ trợ cộng đồng cho người dân sau thu hồi đất nông nghiê ̣p ở Đại Từ đã lên

tới 25 tỷ đồng. Các mô hình phục hồi kinh tế do Nuiphao Mining hỗ trợ đang từng

bước phát huy hiệu quả ở các xã Hà Thượng, Hùng Sơn, Tân Linh và Cát Nê. Điển

hình như mô hình sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGap ở xóm 7, xã Hà

Thượng. Được Nuiphao Mining hỗ trợ về tư vấn kỹ thuật, 50% số vốn mua tôn inox

sao chè, giúp in ấn, trình bày nhãn mác, bao bì, đăng ký mã số, mã vạch và quảng bá

sản phẩm… hiện cả 18 hộ trong tổ sản xuất chè VietGap ở xóm 7 đã thuần thục quy

trình sản xuất chè an toàn trên diện tích 6,43 ha với tổng sản lượng hơn 140 tấn búp

tươi/năm, tương đương gần 30 tấn chè búp khô/năm, đưa giá trị thu nhập từ cây chè

của các hộ trong tổ đạt từ 60 đến hơn 100 triệu đồng/hộ/năm, góp phần quan trọng vào

việc giúp người dân ổn định đời sống, phát triển kinh tế bền vững.

Các chương trình phục hồi kinh tế, tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng bị

ảnh hưởng của Nuiphao Mining rất đa dạng như: Đào tạo nghề cho người bị ảnh hưởng

bởi dự án sau đó tuyển dụng vào làm việc tại Công ty; hỗ trợ xây dựng các mô hình

phát triển kinh tế hộ phù hợp với điều kiện địa phương, tiêu biểu như mô hình trồng

chè an toàn sinh học, trồng nấm, nuôi nhím; thành lập các cơ sở địa phương cung ứng

dịch vụ cho Công ty Núi Pháo, tổ hợp chè Hà Thượng, cơ sở sản xuất túi đựng quặng,

giá đỡ quặng…. Ngoài việc hỗ trợ cụ thể thông qua các mô hình phục hồi kinh tế, mô

hình sản xuất mới, Công ty còn hỗ trợ đầu tư, nâng cấp trường học, đường sá, hệ thống

xử lý nước thải, cung cấp nước sinh hoạt, đường dây điện, điện thoại, trung tâm chăm

sóc sức khỏe cộng đồng, chợ theo chuẩn nông thôn mới; thực hiện các chương trình

36

cho các nhóm dễ bị tổn thương như nhóm hộ nghèo, hộ phụ nữ đơn thân... Được biết,

tuy chưa chính thức đi vào sản xuất, nhưng Nuiphao Mining đã được bầu chọn là một

trong 50 doanh nghiệp tiêu biểu trong cả nước thực hiện tốt trách nhiệm an sinh xã hội

và phát triển cộng đồng. Bài học rút ra cho việc giải quyết việc làm cho ngườ i lao đô ̣ng

bị thu hồi đất nông nghiệp quận Long Biên

1.3.2. Bài học rút ra cho quận Long Biên

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước và một số địa phương trong

, có thể rút ra nước về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiê ̣p

một số kinh nghiệm sau cho vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất

trên địa bàn quận Long Biên - Hà Nội như sau:

Một là, Hoàn thiện các quy định về định giá đất nói chung và định giá đất để

bồi thường, hỗ trợ nói riêng; công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết.

Hai là, tạo vệc làm tại chỗ cho những lao động bị thu hồi đất nông nghiê ̣p

tuổi đã cao, lao động nữ khó chuyển đổi nghề bằng các hình thức phát triển các làng

nghề truyền thống, giao đất dịch vụ có thu tiền sử dụng đất cho các hộ theo tỷ lệ

diện tích đất thu hồi sao cho phù hợp với quỹ đất của địa phương. Chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh

tế cao, cho thu nhập cao trên một đơn vị diện tích đất sản xuất, khả năng quay vòng

vốn nhanh.

Ba là, quy định và khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức đóng trên địa bàn

có đất bị thu hồi ưu tiên sử dụng lao động địa phương bằng các cơ chế, chính sách ưu đãi

phù hợp.

Bốn là, đầu tư phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, đa dạng hoá các hình

thức đào tạo nghề cho con em nông thôn, cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết về

cung - cầu trên thị trường lao động cho người dân và các chủ sử dụng lao động. Mở

rộng và phát triển các cơ sở đào tạo nghề, các trung tâm hỗ trợ và giới thiệu việc làm.

Năm là, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư, tăng cường chuyển

giao tiến bộ khoa học - công nghệ, hỗ trợ vốn, kỹ thuật sản xuất cho ngườ i lao đô ̣ng.

37

CHƢƠNG 2

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở phƣơng pháp luận:

Phép biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin

được sử dụng với nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có ngành kinh tế chính

trị. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là khoa học về các quy luật chung nhất của tự

nhiên, xã hội và tư duy. Những nguyên lý của nó có tác dụng hướng dẫn, gợi mở cách

thức xem xét các sự vật, hiện tượng trong cả tự nhiên, xã hội và trong nhận thức.

Những nguyên lý ấy cung cấp một thế giới quan khoa học, yêu cầu xem xét sự vật,

hiện tượng theo quan điểm toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể… Như vậy, có thể

coi phương pháp luận biện chứng duy vật là cơ sở phương pháp luận khoa học cho

các phương pháp cụ thể để nghiên cứu đề tài.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa

học. Thực chất của quan niệm duy vật lịch sử là những vấn đề mang tính nguyên lý.

Trong sản xuất, con người phải có mối quan hệ với nhau đó là quan hệ sản xuất trên

cả 3 mặt: Sở hữu, quản lý và phân phối. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính

chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến

một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn với chính quan hệ sản xuất mà trước đây đã

từng phù hợp với nó. Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ

sản xuất đó đã kìm hãm sự phát triển của nó và khi đó một sự thay đổi lớn tất yếu

phải diễn ra.

Dựa trên cơ sở phương pháp luận chung, vấn đề giải quyết việc làm cho

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên - Hà Nội được thực

hiện một cách toàn diện trong cả giai đoạn từ năm 2011-2015, đặt trong mối quan

hệ với các nhân tố tác động, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quận nói

riêng và của thủ đô Hà Nội nói chung. Bên cạnh việc xem xét, đánh giá dựa trên

những điều kiện lịch sử - cụ thể của quận Long Biên, đề tài không quên chú ý đặt

vấn đề giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động mất đất nông nghiệp ở Long

Biên trong sự liên kết với hoàn cảnh chung của thành phố Hà Nội cũng như Việt

38

Nam, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước. Việc đánh

giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở

quận Long Biên - Hà Nội phải khách quan, dưới sự tác động của bối cảnh chung.

Việc đưa ra các giải pháp cũng phải dựa trên cơ sở chính sách phát triển của cả nước,

của thành phố Hà Nội cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của quận.

2.2. Các phƣơng pháp cụ thể

2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu

2.2.1.1. Chọn điểm nghiên cứu

Việc lựa chọn điểm nghiên cứu có ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu quá

trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang xây dựng khu đô thị tới việc làm của hộ nông

dân sau khi bàn giao đất. Do vậy, để đạt được mục tiêu nghiên cứu chúng tôi tiến

hành chọn điểm nghiên cứu dựa trên diện tích đất nông nghiệp đã bàn giao đất cho

cho các khu đô thị hoặc phục vụ mục đích công công. Địa bàn nghiên cứu được

chọn là 3 phường Phúc Lợi, Việt Hưng, Giang Biên. Đây là những phường mà

trong mấy năm gần đây có tốc độ chuyển dịch đất nông nghiệp sang phát triển đô

thị mạnh và có số hộ bị tác động bởi việc thu hồi đất nông nghiệp.

2.2.1.2. Chọn hộ nghiên cứu

- Chọn hộ nghiên cứu: Để thuận tiện cho quá trình điều tra nghiên cứu chúng

tôi tiến hành điều tra 100 hộ dân. Số hộ nông dân điều tra được phân bổ cho các

phường như sau:

Phường Phúc Lợi: 35 hộ

Phường Việt Hưng: 35 hộ

Phường Giang Biên: 30 hộ

Trong 100 hộ được chia thành các nhóm:

+ Nhóm hộ I: Thu hồi trên 70% diện tích đất sản xuất nông nghiệp;

+ Nhóm hộ II: Thu hồi từ 50% -70 % diện tích đất sản xuất nông nghiệp;

+ Nhóm III: Thu hồi dưới 50% diện tích đất sản xuất nông nghiệp;

- Xây dựng phiếu điều tra

Phiếu điều tra được xây dựng cho các hộ điều tra bao gồm các thông tin về

39

chủ hộ, tình hình sản xuất kinh doanh của các hộ trước và sau khi thu hồi đất, tình

hình sử dụng lao động của hộ trước và sau khi thu hồi đất, thu nhập của hộ trước và

sau khi thu hồi đất, các câu hỏi mở về nhận thức quan điểm, yêu cầu kiến nghị của

nông dân đối với việc giải phóng mặt bằng cũng như giải quyết việc làm cho người

lao động sau khi thu hồi đất. Thu thập thông tin từ hộ sử dụng phương pháp phỏng

vấn trực tiếp qua sự hồi tưởng của người được điều tra và kết hợp với số liệu của xã

trước đây để biết thông tin đất đai của hộ.

2.2.1.3. Thu thập thông tin, số liệu, dữ liệu

* Số liệu thứ cấp

- Thu thập số liệu từ các báo cáo kinh tế xã hội của quận; báo cáo và tài liệu của

các phòng chuyên môn như: Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Quản lý đô thị,

Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng, Trung tâm phát triển quỹ đất, Ban quản lý dự án,

Chi Cục thống kê, phòng Lao động thương binh và Xã hội quận, phòng Kinh tế và

UBND các phường.

- Thu thập từ các văn bản quy phạm về thực hiện các chính sách quản lý, sử

dụng và thu hồi đất nông nghiệp, vấn đề lao động, việc làm. Các công trình nghiên

cứu khoa học, sách, tạp chí, mạng internet,...

* Số liệu sơ cấp

Điều tra số liệu thực tế từ các hộ gia đình: Tiến hành thu thập thông tin, số

liệu bằng phương pháp quan sát, phỏng vấn trực tiếp theo phiếu điều tra đã xây

dựng, tìm hiểu và trò chuyện với người dân để nắm bắt thực trạng về tình hình đời

sống, việc làm và tâm lý của họ khi bị thu hồi đất.

Hộ điều tra là các hộ gia đình cá nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi;

Các câu hỏi phục vụ cho đề tài nghiên cứu theo các nhóm thông tin sau:

+ Nhóm thông tin chung về hộ nông dân được điều tra.

+ Nhóm thông tin về tình hình sử dụng đất và sản xuất nông nghiệp của

hộ nông dân.

+ Nhóm thông tin về tình hình việc làm của hộ nông dân.

40

Sau khi đã thu thập được nguồn dữ liệu đáng tin cậy, luận văn sử dụng phương

pháp phân tích định tính để đưa ra các nhận xét, đánh giá, làm rõ vấn đề giải quyết việc

làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp , sau đó sử dụng phương pháp thống kê

toán học bằng các biểu bảng, đồ thị … để kiểm chứng, chứng minh cho các nhận xét,

đánh giá đã nêu ra.

2.2.2. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học

Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là phương pháp nghiên cứu đặc thù của

khoa học kinh tế chính trị. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ những

yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng được nghiên cứu,

tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó,

trên cơ sở đó nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản

chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những

bản chất đó.

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn phát hiện nhiều vấn đề lý luận và thực

tiễn đôi khi chưa phản ảnh đúng bản chất của vấn đề nghiên cứu. Do đó, phải sử

dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để giữ lại những yếu tố bản chất trong

giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên ,

thành phố Hà Nội , từ đó thấy được vai trò quan tro ̣ng củ a vi ệc giải quyết việc làm

, đưa ra những yếu tố quyết

cho lao đô ̣ng bi ̣ thu hồi đất nông nghiê ̣p là rất cần thiết định nhất đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp ở quận Long Biên. Trên cơ sở điều kiện cụ thể của quận và thành phố Hà

Nội, đề tài đưa ra những giải pháp phù hợp.

2.2.3. Phương pháp thống kê mô tả

Đây là phương pháp rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu các hiện tượng

kinh tế. Dựa vào phương pháp này tác giả có được những thông tin cần thiết để phục vụ

cho quá trình nghiên cứu. Việc thống kê được thực hiện dựa trên những số liệu, tài liệu

có độ tin cậy cao. Từ đó, quá trình mô tả được tiến hành để làm rõ những yếu tố tác động

đến đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này sử dụng nhiều ở chương 1, chương 2 và

chương 3 của luận văn.

41

Trong chương 1, luận văn thống kê mô tả các công trình nghiên cứu đã công

bố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài, cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế, cơ

cấu kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành trong nông nghiệp.

Ở chương 2, luận văn mô tả các phương pháp nghiên cứu được sử dụng cùng

với nội dung phương pháp, ý nghĩa của phương pháp đối với việc đạt được mục tiêu

nghiên cứu.

Đối với chương 3, sau khi thu thập số liệu, tiến hành thống kê, mô tả và tổng

hợp các số liệu, dữ liệu, luận văn đưa ra những đánh giá về giải quyết việc làm cho

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên. Nhằm làm rõ thực

trạng của thu hồi đất nông nghiệp cũng như vấn đề giải quyết việc làm cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên, đề tài sử dụng các loại đồ thị

toán học, các bảng thống kê số liệu để mô tả, đánh giá tác động của các nhân tố tới

vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận

Long Biên, từ đó tổng hợp những nguyên nhân tác động tới vấn đề giải quyết việc

làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên.

2.2.4. Phương pháp phân tích tổng hợp

Phân tích là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ

phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, từ đó phát

hiện ra những thuộc tính bản chất của từng yếu tố đó. Tổng hợp là quá trình ngược lại

với quá trình phân tích, nhưng nó lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái

chung và cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để

có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động

của đối tượng nghiên cứu. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ,

quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo,

trong tính quy luật của bản thân sự vật.

Đối với đề tài này, phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu trong

chương 3 và chương 4 của luận văn. Ở chương 3, phương pháp phân tích được sử

dụng để làm rõ thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn việc giải quyết việc

42

làm cho người lao động bị thu hồi đất ở Long Biên từ năm 2011 - 2015, thực trạng

đó được mổ xẻ trên các mặt khác nhau. Ở chương 4, phương pháp phân tích được

sử dụng để phân tích định hướng và đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết việc

làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong chương 3 khi tổng hợp,

đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và

những vấn đề đặt ra khi giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp trên địa bàn quận Long Biên - thành phố Hà Nội.

2.2.5. Phương pháp so sánh

Thông qua nguồn số liệu thứ cấp đã thu thập, tác giả tiến hành so sánh với

các tiêu chí cụ thể để xem xét, đánh giá kết quả của thực tiễn vấn đề giải quyết việc

làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên.

Phương pháp so sánh được thực hiện trên cơ sở so sánh các số liệu về tình hình thu

hồi đất nông nghiệp giữa các năm, tỷ lệ giải quyết việc làm, tỷ lệ thất nghiệp trong

từng thời gian cụ thể… Từ đó, xác định rõ thực trạng của vấn đề giải quyết việc làm

cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tại quận Long Biên. Phương pháp

này được sử dụng trong chương 3 của luận văn khi phân tích tình hình thu hồi đất

nông nghiệp và việc làm của người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

2.2.6. Phương pháp kết hợp logic với lịch sử

Phương pháp kết hợp logic với lịch sử là phương pháp xem xét sự vật, hiện

tượng theo đúng trật tự thời gian như nó đã từng diễn ra trong quá khứ (phát sinh,

phát triển và kết thúc). Là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của

sự vật, hiện tượng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều góc cạnh, nhiều mặt trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Phương pháp này hướng đến mục tiêu tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện tượng thể hiện ở mô tả đầy đủ, cụ thể tính chất quanh co, phức tạp, bao gồm những cái ngẫu nhiên, cái tất yếu và tính đa dạng. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời

gian của các sự kiện, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự việc xung quanh. Phương pháp logic là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử

dưới dạng tổng quan, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận

43

động của lịch sử, từ đó có thể thoát khỏi hình thức lịch sử trực quan và tính ngẫu

nhiên phức tạp, tiến hành suy lý logic. Nhưng suy lý logic không phải là suy lý trừu

tượng thuần túy tách rời quá trình lịch sử, ngược lại, suy lý logic cần phải kết hợp với sự phát triển từ thấp đến cao của lịch sử, thông qua suy lý tư duy, bằng hình thức lý

luận khái quát, từ khái niệm đơn giản đến khái niệm phức tạp, tái hiện lại độ chân

thực của lịch sử. Chính vì vậy, phương pháp logic phải thống nhất hữu cơ với phương

pháp lịch sử.

Trên cơ sở của phương pháp kết hợp logic với lịch sử, trong phạm vi đề tài, tác giả đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động

bị thu hồi đất nông nghiệp ở Long Biên trong thời gian tới. Đó là kết quả của quá

trình nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên theo một trình tự liên tục, được xem xét trên nhiều mặt. Các nhân

tố tác động được xem xét một cách tổng thể để tìm ra được vấn đề căn bản trong

giải quyết việc làm trong quá trình thu hồi đất thực hiện cho quá trình công nghiệp

hóa, đô thị hóa. Vấn đề nghiên cứu cũng được đặt trong quan hệ với các điều kiện

kinh tế, xã hội, tự nhiên của địa phương, để từ đó cung cấp một cái nhìn toàn diện

về giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất ở quận Long Biên nói riêng

và thành phố Hà Nội cũng như Việt Nam nói chung.

Đặt vấn đề nghiên cứu trong một quá trình lịch sử giai đoạn từ 2011 - 2015,

gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chú ý

đến sự vận động logic của phát triển kinh tế - xã hội gắn với triển khai chính sách

của Nhà nước, từ đó, tác giả đánh giá được những ảnh hưởng của các chính sách đối

với việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất (cụ thể ở quận Long

Biên). Cuối cùng, tác giả rút ra được những kết quả, những hạn chế và đưa ra được

nguyên nhân của nó. Đây là điều kiện để tác giả xây dựng những giải pháp cho việc

giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động bị thu hồi đất ở quận Long Biên - thành phố Hà Nội. Phương pháp này được sử dụng trong chương 3 của luận văn với mục đích để đánh giá được tình hình giải quyết việc làm, đưa ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên.

44

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG

BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN LONG BIÊN –

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình thu hồi đất nông

nghiệp ở quận Long Biên -Thành phố Hà Nội

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Long Biên

3.1.1.1. Vị trí địa lý

Quận Long Biên nằm ở cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội, phía Bắc

có sông Đuống là giới hạn với Huyện Gia Lâm, Đông Anh; phía Đông giáp huyện

Gia Lâm; phía Tây giáp huyện Đông Anh; phía Nam có sông Hồng là giới hạn với

quận Hoàn Kiếm, Thanh Trì, Tây Hồ, Hai Bà Trưng. Quận có 14 phường gồm Cự

Khối, Thạch Bàn, Long Biên, Bồ Đề, Ngọc Thụy, Ngọc Lâm, Gia Thụy, Thượng

Thanh, Việt Hưng, Phúc Đồng, Sài Đồng, Phúc Lợi, Giang Biên, Đức Giang [37].

Quận Long Biên có một vị trí chiến lược rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội của Hà Nội và đất nước. Nơi đây có các tuyến đường giao thông quan trọng

như đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đường không nối liền với các tỉnh phía bắc,

đông bắc; có sân bay Gia Lâm, khu vực quân sự, nhiều khu công nghiệp liên doanh với

nước ngoài như: Khu công nghiệp kỹ thuật cao Sài Đồng B, khu công nghiệp Sài Đồng

A, nhiều công trình kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, cơ quan nhà máy, đơn vị sản

xuất kinh doanh của Trung ương, Thành phố và địa phương. Đặc biệt với lợi thế vị trí

cửa ngõ của Hà Nội, nối liền với trục tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng

Ninh, đồng thời cũng là trục kinh tế sôi động trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế.

Quâ ̣n Long Biên nằm trong pha ̣m vi hai tuyế n đê sông Hồng và sông Đuống . Đi ̣a hình tương đối đơn giản nhưng khá đa da ̣ng , tạo thuận lợi cho việc phát triển , các dự án công các công trình hạ tầng dân dụng và các khu thương mại dịch vụ

viên sinh thái, khu đô thi ̣ sinh thái…

45

3.1.1.2. Khí hậu

Nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, quận Long Biên mang sắc thái đặc trưng

của khí hậu vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, mưa

nhiều. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường hanh

khô nhưng đến nửa cuối của mùa đông lại thường ẩm ướt.

Nền nhiệt độ trong khu vực đồng đều và cũng khá cao, tương đương với nhiệt độ chung của toàn Thành phố. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23- 24oC. Biên độ nhiệt trong năm khoảng 12 - 13 oC, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6- 7oC.

Độ ẩm trung bình hàng năm của Quận và của thành phố Hà Nội nói chung là

khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng, thường chỉ dao động trong khoảng 78-

87%. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.600 - 1.800 mm.

3.1.1.3. Thủy văn

Quận Long Biên chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ văn của sông Hồng và sông Đuống: lưu lượng trung bình nhiều năm là 2.710 m3/s, mực nước mùa khô thường từ

2,5 - 3,5m, mùa lũ thường cao từ 9 - 12 m (độ cao trung bình mặt đê là 14 - 14,5 m).

Nhìn chung, điều kiện khí hậu và thuỷ văn không ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát

triển kinh tế – xã hội của Long Biên. Tuy vậy, sự chênh lệch lớn về mực nước giữa

mùa khô và mùa lũ cũng ảnh hưởng nhất định đến khả năng phát triển du lịch và

nông nghiệp sinh thái ở các vùng bãi.

3.1.1.4. Tình hình dân số , lao động của Quận Long Biên

Theo thống kê năm 2015, quận Long Biên có 296.780 người, có mật độ dân số bình quân 4.915 người/km2, tốc độ gia tăng dân số bình quân (cơ học) hàng năm là

8,38%. Tốc độ tăng dân số hàng năm của quận là khá cao chính vì vậy sức ép về nhà

ở, việc làm và một số vấn đề xã hội khác trên địa bàn quận thực sự là vấn đề búc xúc.

Mặc dù là quận nội đô nhưng do xuất phát điểm từ một huyện ngoại thành, nên dân

cư làm nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng dân cư của quận. Số hộ

nông nghiệp chiếm 17,45%. Năm 2011, dân số trong đô ̣ tuổi lao đô ̣ng là 149.260 ngườ i (đã loa ̣i trừ những ngườ i không có khả năng lao đô ̣ng ), chiếm 71,4 % dân số ,

46

trong đó ngườ i tham gia lao đô ̣ng trong c ác thành phần kinh tế của Quận là 145.356 ngườ i chiếm 69,5 %; số ngườ i chưa có viê ̣c làm 3904 chiếm 1.87 % tổng số dân và 2,46 % tổng số lao đô ̣ng trong đô ̣ tuổi lao đô ̣ng . Năm 2015, dân số trong đô ̣ tuổ i lao

đô ̣ng là 180.245 ngườ i (đã loa ̣i trừ những ngườ i không có khả năng lao đô ̣ng), chiếm

76,9 % dân số , trong đó ngườ i tham gia lao đô ̣ng trong các thành phần kinh tế củ a Quâ ̣n là 169.356 ngườ i chiếm 72,29 % dân số ; số ngườ i chưa có viê ̣c làm 10.919 chiếm 4,7 % tổng số dân và 6,1 % tổng số lao đô ̣ng trong đô ̣ tuổi lao đô ̣ng. Lao đô ̣ng chưa có viê ̣c làm năm 2015, số ngườ i không có viê ̣c làm là 10.919 ngườ i chủ yếu là

lao đô ̣ng nông nghiê ̣p do bi ̣ thu hồi đất, họ bị mất tư liệu sản xuất.

47

Bảng 3.1: Tình hình dân số và lao động quận Long Biên

So sánh năm Đơn vị Năm Chỉ tiêu 2015/2011 tính

2011 2012 2013 2015 + (-) %

Người 209.142 225.743 260.541 296.780 87.635 41,9 1. Tổng số nhân khẩu

Người/km2 3.490 3.523 3.636 4.915 1.425 40,8 2. Mật độ dân số

3. Số khẩu nông Người 52.750 50.820 47.350 43.750 - 9000 - 17,06 nghiệp

4. Tổng số lao động Người 149.260 160.683 171.768 180.245 30.985 12,08 trong độ tuổi

+ Lao động trong các 145.356 156.690 165.028 169.356 24.000 16,5 ngành kinh tế Người

- Lao động nông 8.120 7.247 5.145 4.120 - 4.000 - 49,26 nghiệp Người

- Lao động Công

nghiệp, tiểu thủ công 36.150 42.281 44.680 45.150 9.000 24,89 Người nghiệp, xây dựng.

- Lao động ngành dịch 97.182 103.169 108.463 109.182 12.000 12,34 vụ thương mại Người

- Lao động chưa có 3.904 3.993 6.740 10.919 7.015 279 việc làm Người

5. Trình độ lao động

- Lao động phổ thông 102.163 105.994 107.458 108.063 5.900 5,77 Người

- Công nhân kỹ thuật 18.530 21.523 23.143 26.276 7.764 41,8 Người

- Cao đẳng, Đại học, 24.663 29.173 34.427 35.017 10.354 41,98 trên Đại học. Người

Nguồn: Phòng thống kê quận Long Biên

48

Về trình đô ̣ lao đô ̣ng so v ới tổng số lao động trong độ tuổi: lao đô ̣ng củ a quâ ̣n Long Biên vẫn chủ yếu là lao đô ̣ng phổ thông chưa qua đào ta ̣o . Năm 2011 số lao động phổ thông là 102.163 người chiếm 68,4 %, lao động có trình độ công nhân

kỹ thuật là 18.530 người chiếm 12,4 %, lao động có trình độ Cao đẳng, Đại học,

trên Đại học là 24.663 người chiếm 16,5 %. Đến năm 2015 số lao động phổ thông là

108.063 người chiếm 60,0 %, lao động có trình độ công nhân kỹ thuật là 26.276

người chiếm 14,6 %, lao động có trình độ Cao đẳng, Đại học, trên Đại học là 35.017

người chiếm 19,4 %.

Đời sống các tầng lớp dân cư từng bước ổn định và cải thiện về nhiều mặt.

Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và sự nỗ

lực tạo việc làm của từng hộ gia đình, từng người lao động đời sống nông thôn ngày

càng được nâng cao, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm, những nhu cầu về sinh

hoạt, ăn ở, đi lại của người dân được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người trên

1.700.000 đồng/người/tháng. Toàn quận không có hộ đói, tỷ hệ hộ nghèo 1,07 %.

3.1.1.5. Cơ sở hạ tầng của quận Long Biên

Tính đến hết năm 2015 quận Long Biên có 14 phường. Cùng với sự phát triển

của nền kinh tế thị trường thì tốc độ đô thị hoá ở khu vực nội thị diễn ra khá nhanh, các

phường đang phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu đồng thời các hoạt động dịch vụ

thương mại, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thúc

đẩy kinh tế phát triển góp phần gia tăng tổng sản phẩm của quận. Quận Long Biên là

nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng với nhiều đường giao thông lớn

như đường sắt, đường quốc lộ, đường thuỷ nối liền các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía

Đông Bắc. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự liên kết kinh tế giữa quận với các tỉnh và

thành phố lân cận, mở rộng thị trường. Trên địa bàn quận có các tuyến đường giao

thông quan trọng đi qua: Đường Nguyễn Văn Cừ (rộng 60m), Ngô Gia Tự (rộng 80

m), Nguyễn Văn Linh (rộng 60 m) đường vành đai III từ cầu Phủ Đổng đi cầu

Thanh Trì. Đây là các tuyến đường huyết mạch đi qua các tỉnh phía Bắc và nối liền

tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Lạng Sơn.

Hệ thống giao thông của quận có chiều dài hơn 334,5 km trong đó đường nhựa

49

và đường bê tông có tổng chiều dài 333,9 km, mặt cắt ngang trung bình đạt từ 6 - 15

m, quận Long Biên đang tiếp tục đầu tư một số tuyến đường rộng như đường 40 m

nối từ Ngọc Thụy với đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường 21,22 khu đô thị

Việt Hưng, khu đô thị sinh thái VinCom. tuyến đường đê Hữu Hồng và đường đê

Sông Đuống); hệ thống đường sắt Hà Nội - Hải phòng; đường sắt Hà Nội-Thái

Nguyên, Hà Nội-Lạng Sơn; đường không là sân bay Gia Lâm; có các cầu bắc qua

sông Hồng như cầu Long Biên, cầu Chương Dương, cầu Vĩnh Tuy, cầu Thanh Trì;

cầu bắc qua sông Đuống như cầu Phù Đồng, cầu Đuống; đường thủy sông Hồng,

sông Đuống.

Nhìn chung hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của quận Long Biên được đầu

tư tương đối tập trung và tiến độ đầu tư nhanh tạo điều kiện cho việc giao thông đi lại

thuận tiện và phát triển ngành dịch vụ thương mại.

3.1.1.6. Tình hình phát triển kinh tế của Quận Long Biên

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế chung của thành

phố và của cả nước, quận Long Biên đã có những bước phát triển đáng kể về kinh

tế, chính trị, xã hội. Nhiều chỉ tiêu hoàn thành và vượt mức kế hoạch do Đảng bộ

quận đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân chung của quận Long Biên hàng

năm từ 16 - 18%. Trong đó nông nghiệp tăng: 3,85%; công nghiệp - xây dựng cơ

bản tăng 16,0%; dịch vụ, thương mại tăng 20,3% [37]. Tuy nhiên, cùng với bước

phát triển kinh tế, xã hội là ngày càng gây áp lực lớn đối với việc sử dụng đất đai

trong quận.

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế chung của thành phố

thời kỳ đổi mới, kinh tế quận Long Biên cũng phát triển với nhịp độ cao, hiệu quả,

bền vững. Trong kinh tế đã có sự đầu tư đúng hướng tạo môi trường thuận lợi cho

các nhà đầu tư phát triển nhanh trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, chuyển đổi cơ

cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế

và cải thiện đời sống cho nhân dân.

50

Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế quận Long Biên (2011 - 2015) (Đơn vị tính: %)

Năm Tốc độ tăng

2011 2012 2013 2014 2015 trƣởng

Các ngành 2015/2011

Nông nghiệp 2,5 2,35 2,2 1,9 1,8 5,23

Công nghiệp 51,7 48,5 47,0 42,5 41,08 7,68

Thương mại-dịch vụ 45,8 49,15 50,8 55,6 57,12 20,73

(Nguồn: Phòng Thống kê quận Long Biên)

Từ năm 2011 đến năm 2015 cơ cấu kinh tế quận Long Biên có sự chuyển

dịch rõ rệt và hợp lý theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, thương mại, giảm dần

tỷ trọng ngành công nghiệp, nông nghiệp.

Tỷ trọng ngành dịch vụ, thương mại đã tăng mạnh từ 45,8% năm 2011 lên

57,12 % năm 2015. Ngành công nghiệp và xây dựng giảm dần từ 51,7 % năm 2011

đến năm 2015 chiếm 41,08%. Ngành nông nghiệp giảm dần tỷ trọng từ 2,5% năm

2011 còn 1,8% năm 2015. Như vậy, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ rệt và hợp

lý theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, công nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng

ngành dịch vụ và thương mại (biểu đồ 3.2). Ngành thương mại dịch vụ đóng vai trò

quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của quận Long Biên. Cùng với quá

trình đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng và đời sống người dân ngày một nâng

cao, ngành thương mại dịch vụ trên địa bàn quận đang phát triển với tốc độ nhanh,

đặc biệt tại một số phường như phường Đức Giang, Ngọc Lâm, Bồ Đề. Mặt khác,

một số phường như: Long Biên, Việt Hưng, Thạch Bàn, Phúc Lợi, Cự Khối, Thượng

Thanh, Giang Biên...hầu hết diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là để phục vụ các dự

án mang tính chất công cộng, dân sinh như: Công viên, sân thể thao, nhà văn hóa, khu

đô thị, khu nhà ở...do đó việc giải quyết việc làm tại chỗ là khó thực hiện được. Đây là

bài toán đặt ra cho các ngành, các cấp nhằm cân bằng giữa phát triển kinh tế với các

vấn đề xã hội.

51

Thu nhập của các ngành kinh tế trên đi ̣a bàn Quận giai đoạn 2011 - 2015 thể hiện qua

biểu đồ 3.1 sau đây:

Tỷ đồng 6000

5000

4000

3000

2000

1000

0

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm

Nông nghiệp

DV-TM

Công nghiệp

Biểu đồ 3.1: Giá trị thu nhập các ngành kinh tế quận giai đoạn 2011 - 2015

- Năm 2011 tỷ trọng cơ cấu kinh tế của Quận: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

là 51,7%; Nông nghiệp chiếm 2,5%; Thương mại dịch vụ 45,8%.

- Năm 2015 tỷ trọng cơ cấu kinh tế của Quận; Công nghiệp - xây dựng cơ

bản 41,08%; Thương mại, dịch vụ 57,12%; Nông nghiệp còn 1,78%.

Như vậy, có thể nói tổng giá trị thu nhập các ngành kinh tế của quận có xu

hướng ngày càng tăng. Giá trị của các ngành công nghiệp, dịch vụ thương mại có

tốc độ tăng nhanh hơn so với ngành nông nghiệp, điều này phản ánh quá trình công

nghiệp hóa – đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng trên địa bàn quận. Các khu đô thị,

khu nhà ở (khu đô thị Thạch Bàn; khu đô thị Việt Hưng, khu đô thị Sài Đồng, khu

đô thị Thượng Thanh, Ngọc Thụy) công viên công nghệ thông tin có hàm lượng

chất xám cao (25 ha phường Phúc Lợi). Trung tâm thương mại như Savico, Big C,

VinCom Center, các salon ô tô...đang dần dần thay thế những cánh đồng lúa, hoa

52

màu. Đây là một xu thế tất yếu, tuy nhiên cũng là một áp lực rất lớn đối với Quận

trong việc giải quyết việc làm cho một bộ phận nông dân khi bị mất đất.

%

70

60

50

40

30

20

10

0

2011

2012

2013

2014

2015

Năm

DV-TM

Công nghiệp

Nông nghiệp

Biểu đồ 3.2: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quận Long Biên

giai đoạn 2011- 2015

3.1.2. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp.

3.1.2.1. Khái quát chung về quỹ đất đai và tình hình sử dụng đất nông nghiệp

trên địa bàn quận Long Biên.

Theo số liệu thống kê đất đai quận Long Biên, tổng diện tích đất tự nhiên của

quận là 6.038 ha, là quận có diện tích lớn nhất trong số các quận nội thành Hà Nội.

Qua 9 năm hoạt động quỹ đất của quận có nhiều biến động theo hướng giảm dần

diện tích đất nông nghiệp và tăng đất ở, đất đô thị, đất chuyên dùng. Quỹ đất của

Long Biên là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của

quận. Với quỹ đất hiện có, điều kiện địa chất tốt, khả năng phát triển một đô thị hiện

đại, đồng bộ, phát triển các khu công nghiệp có công nghệ cao, các khu thương mại

và đô thị là hoàn toàn hiện thực.

53

Theo kết quả thống kê, kiểm kê qua các năm 2011-2015 của quận Long Biên

cho thấy, diện tích các loại đất có sự biến động đáng kể, đặc biệt là diện tích đất sản

xuất nông nghiệp giảm xuống 261,7 ha. Nguyên nhân là do thu hồi đất để thực hiện

các dự án phát triển hạ tầng và phát triển các khu đô thị. Qua bảng 3.3 cho thấy: Cơ

cấu diện tích các loại đất trên địa bàn quận biến động tích cực theo hướng phát triển

đô thị; diện tích đất nông nghiệp năm 2011 là 1779,28 ha, đến năm 2015 giảm xuống còn

1517,58 ha; diện tích đất phi nông nghiệp tăng từ 4077,57 ha (năm 2011) lên 4340,76 ha

(năm 2015). Đối với đất chưa sử dụng biến động không đáng kể;

Bảng 3.3. Diện tích, cơ cấu các loại đất quận Long Biên qua các năm 2011, 2013, 2015

Năm 2011 Năm 2013 Năm 2015

Tỷ Loại đất Diện tích Diện Tỷ trọng Diện Tỷ trọng trọng (ha) tích (ha) (%) tích (ha) (%) (%)

Tổng diện tích đất tự nhiên 5.993,02 100,00 5.993,02 100,00 5.993,02 100,00

1. Đất nông nghiệp 1779,28 29,69 1604,75 26,78 1517,58 25,32

- Đất sản xuất nông nghiệp 1680,96 94,47 1506,43 93,87 1420,02 93,57

- Đất nuôi trồng thủy sản 93,79 5,27 93,79 5,84 93,08 6,13

- Đất nông nghiệp khác 4,52 0,25 4,52 0,28 4,46 0,29

2. Đất phi nông nghiệp 4077,57 68,04 4252,7 70,96 4340,76 72,43

3. Diện tích đất chưa sử dụng 136,17 2,27 135,57 2,26 134,68 2,25

Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Long Biên

Hiện trạng sử dụng đất năm 2015, diện tích đất nông nghiệp 1517,58 ha

chiếm 25,32% so với tổng diện tích đất tự nhiên, đất phi nông nghiệp 4340,76 ha

chiếm 72,43% so với tổng diện tích đất tự nhiên; đất chưa sử dụng là 134,68 ha

chiếm tỷ lệ 2,25 % so với tổng diện tích đất tự nhiên.

Trong 1517,58 ha đất nông nghiệp năm 2015 của quận, phần lớn là diện tích

đất sản xuất nông nghiệp 1420,04 ha, chiếm 93,57 % diện tích đất nông nghiệp; còn

lại là đất trồng cây lâu năm (247,62 ha), nuôi trồng thủy sản (93,08 ha), đất nông

54

nghiệp khác (4,46 ha). Trong đất sản xuất nông nghiệp có 1172,4 ha đất trồng cây

hàng năm chiếm 82,56% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Gồm: Đất trồng lúa

591,38 ha chiếm 50,4%; diện tích đất trồng cây hàng năm. Đất trồng cây hàng năm

khác 581,02 ha chiếm 49,56% diện tích đất trồng cây hàng năm.

Bảng 3.4. Diện tích, tỷ trọng đất nông nghiệp quận Long Biên qua các năm 2011, 2013, 2015

Năm 2011 Năm 2013 Năm 2015

Tỷ Loại đất Diện Diện Tỷ trọng Diện tích Tỷ trọng trọng tích (ha) tích (ha) (%) (ha) (%) (%)

Đất nông nghiệp 1779,28 100,0 1604,75 100,0 1517,58 100,0

1. Đất sản xuất nông nghiệp 1680,97 94,47 1506,44 93,87 1420,04 93,57

a. Đất trồng cây hàng năm 1580,78 94,04 1266,6 84,08 1172,4 82,56

- Đất trồng lúa 843,15 53,34 684,13 54,01 591,38 50,44

- Đất trồng cây hàng năm khác 735,67 46,54 582,31 45,97 581,02 49,56

b. Đất trồng cây lâu năm 100,17 5,96 239,82 15,92 247,62 17,44

c. Đất nuôi trồng thủy sản 93,79 5,27 93,79 5,84 93,08 6,13

d. Đất nông nghiệp khác 4,52 0,25 4,52 0,28 4,46 0,29

Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Long Biên

3.1.2.2. Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên

Công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng là công việc nhạy

cảm, phức tạp và khó khăn. Vấn đề đặt ra là làm sao để cân bằng lợi ích giữa Người

dân - Nhà nước - Doanh nghiệp đầu tư. Đây là công việc vừa đòi hỏi tính nguyên

tắc nhưng cũng đòi hỏi tính linh hoạt, mỗi dự án có một điều kiện khác nhau có các

yếu tố cụ thể khác nhau mà không theo một khuôn mẫu nhất định.

Luật Đất đai 2003 ra đời với nhiều thay đổi trong quy định về đất đai. Chính

phủ ban hành Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 hướng dẫn thi hành

về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Để giải quyết một

số vướng mắc còn tồn tại khi thực hiện theo Luật đất đai 2003, ngày 25/5/2007

Chính phủ ban hành Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp

55

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,

trình tự, thủ tục bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải

quyết khiếu nại về đất đai. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành các

văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định của Chính Phủ. Năm 2009, Chính phủ tiếp

tục ban hành nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 12/08/2009 quy định bổ sung về quy

hoạch, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Theo đó, ủy ban nhân dân

thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 108/2009/QĐ-UBND ngày 29/09/2009 về

việc ban hành quy định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Tuy nhiên trong quá trình giải quyết bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều

bất cập.

Do tính chưa ổn định, chưa thống nhất của pháp luật đất đai, vì thế công tác

bồi thường, giải phóng mặt bằng đã gặp khá nhiều khó khăn về giá đất. Mặt khác,

đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của nền kinh

tế -xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất đai, đòi hỏi các văn

bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính ổn định cao và phù hợp với

tình hình thực tế. Bên cạnh đó, đòi hỏi nâng cao năng lực và trách nhiệm làm việc

của cán bộ quản lý đất đai để hiệu quả sử dụng đất thu hồi tăng lên và giảm thiểu

những ảnh hưởng không tốt đến người bị thu hồi đất, đặc biệt khi họ là nông dân,

những người vốn dựa vào đất đai để sản xuất và ổn định cuộc sống.

Trong những năm từ 2011-2015, trên địa bàn quận đã triển khai 315 dự án.

Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hồi là 260,94 ha, với tổng số tiền bồi

thường, hỗ trợ là 6.494,25 tỷ đồng [25]. Trong đó, có nhiều dự án thu hồi với diện

tích lớn như: Dự án khu đô thị sinh thái (Vincom) thu hồi 153,36 ha đất sản xuất

nông nghiệp của 3 phường Phúc Lợi, Việt Hưng, Giang Biên, với tổng số tiền bồi

thường hỗ trợ là 1.988,7 tỷ đồng, dự án Công viên công nghệ thông tin tại phường

Phúc Lợi…

56

Bảng 3.5. Tổng hợp diện tích đất bị thu hồi qua các năm 2011, 2013, 2015 quận Long Biên Trong đó Đơn vị Tổng Chỉ tiêu Năm Năm Năm tính cộng 2013 2011 2015

98 123 94 - Dự án phê duyệt là Dự án 315

43,5 - Diện tích đất thu hồi 277,63 178,9 55,23 Ha

Đất sản xuất nông nghiệp 260,94 141,93 32,6 86,41 Ha

Nguồn: Ban bồi thường giải phóng mặt bằng - quận Long Biên

Qua đó, hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn quận được xây dựng đồng bộ, hệ thống

giao thông thuận lợi, các khu đô thị được hình thành và là những đô thị kiểu mẫu với

quy mô lớn, góp phần thúc đẩy kinh tế của quận phát triển. Tuy nhiên, việc thu hồi đất

sản xuất nông nghiệp đã có tác động mạnh mẽ đến việc làm người dân. Đó là vì, đối

với một số hộ gia đình đây là những mảnh ruộng cuối cùng họ bị thu hồi, một số lao

động trong độ tuổi 35 trở lên đã lâm vào tình trạng thất nghiệp hoàn toàn.

Mặc dù những lợi ích về kinh tế mà các dự án đầu tư trên địa bàn quận mang

lại là không hề nhỏ, song việc thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa,

công nghiệp hóa vẫn còn một số tồn tại, có thể kể đến như sau:

- Chế độ chính sách về bồi thường thường xuyên thay đổi, đặc biệt là các văn

bản, Quyết định của ủy ban nhân dân thành phố còn nhiều mâu thuẫn chưa thống

nhất, khó thực hiện đặc biệt là việc xác định loại đất được bồi thường giữa hội đồng

bồi thường Thành phố và các Sở, ban ngành cấp tỉnh chưa thống nhất dẫn đến việc

lập phương án bồi thường chậm; nhiều phương án đã được phê duyệt nhưng không

thể thực hiện được.

- Theo nguyên tắc công tác bồi thường giải phóng mặt bằng phải được triển khai

thực hiện trong thời gian chuẩn bị đầu tư (đồng thời với việc lập dự án đầu tư), khi khởi công

xây dựng thì công tác giải phóng mặt bằng phải hoàn tất. Thế nhưng, hầu hết các dự án sau

khi tổ chức đấu thầu xong chủ đầu tư mới triển khai công tác bồi thường giải phóng mặt

bằng, dẫn đến vừa thi công, vừa giải phóng mặt bằng cho nên một số công trình khi vướng

mắc về giải phóng mặt bằng phải ngừng thi công hoặc thi công dở dang không triệt để.

57

- Một số phương án sử dụng vốn ngân sách nhà nước khi phương án được

phê duyệt chủ đầu tư giải quyết kinh phí để chi trả còn chậm, khi có kinh phí thì giá

cả bồi thường thay đổi phải lập lại phương án.

- Công tác xây dựng các khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng phải

được thực hiện trước khi lập phương án bồi thường giải phóng mặt bằng, nhưng trong

thời gian vừa qua, việc chuẩn bị đất tái định cư không đáp ứng được yêu cầu, có

nhiều dự án quá trình thực hiện việc giải phóng mặt bằng phải dừng lại do chưa bố trí

được đất tái định cư.

- Việc xây dựng, bảng giá đất, giá tài sản phục vụ công tác giải phóng mặt

bằng chưa phù hợp, không sát với giá thị trường (chỉ bằng 50% đến 70% giá trị

trường) cho nên các hộ dân bị ảnh hưởng không chấp nhận, phát sinh nhiều kiến

nghị, khiếu nại.

3.1.2.3. Tình hình thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở 3 phường điều tra

Kết quả điều tra tại các phường Giang Biên, Việt Hưng, Phúc Lợi cho thấy:

Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp giao cho các hộ gia đình cá nhân tính đến

ngày 1/1/2011 là 511,43 ha. Từ năm 2011-2015, diện tích đất nông nghiệp bị thu

hồi cho các dự án với diện tích lớn (228,09 ha), chiếm 87,41 % diện tích đất nông

nghiệp bị thu hồi trên toàn quận; phường có diện tích đất sản xuất nông nghiệp thu

hồi nhiều nhất là phường Phúc Lợi với diện tích 166,26 ha, phường có diện tích

nông nghiệp thu hồi ít là phường Giang Biên với diện tích 7,11 ha. Tổng số lượt

hộ có đất nông nghiệp bị thu hồi là 4758 hộ. Phường có số lượt hộ bị thu hồi nhiều

nhất là Phúc lợi (3.689 hộ), phường có số lượt hộ thu hồi ít nhất là Giang Biên

(314 hộ).

58

Bảng 3.6. Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp ở 3 phƣờng (2011-2015)

Diện tích đất Diện tích Diện tích

STT Đơn vị hành chính Số lượt hộ bị thu hồi nông nghiệp trước năm 2011 thu hồi từ 2011-2015 còn lại sau khi thu hồi (hộ) (ha) (ha) (ha)

1 Phường Giang Biên 134,1 7,11 126,99 314

2 Phường Việt Hưng 126,93 54,72 72,21 755

3 Phường Phúc Lợi 250,40 166,26 84,14 3689

Tổng cộng 511,43 228,09 283,34 4758

Nguồn: Phòng Kinh tế - quận Long Biên

Sự khác nhau về tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi giữa các phường trong Quận sẽ đặt ra những vấn đề và khả năng giải quyết khác nhau. Do đặc điểm quy

hoạch quận Long Biên chỉ tập trung phát triển đô thị, phát triển hạ tầng nên

những lao động mất đất nông nghiệp sẽ khó khăn trong việc tạo việc làm từ

nguồn đất đai bị thu hồi. Đây là vấn đề cần lưu ý đối với mỗi loại đất sử dụng để

có thể chủ động khai thác ngay từ khi lập dự án đầu tư xây dựng trên đất bị thu

hồi ở các địa phương.

Biểu đồ 3.3. Diện tích đất nông nghiệp trƣớc và sau khi thu hồi đất

tại địa bàn điều tra

59

3.1.2.4. Tình hình thu hồi đất của các hộ điều tra

Tổng số hộ thực hiện điều tra là 100 hộ (Việt Hưng 35 hộ, Phúc Lợi 35 hộ,

Giang Biên 30 hộ). Số hộ bị thu hồi trên 70% diện tích đất sản xuất nông nghiệp

được giao là 28 hộ (Việt Hưng 15 hộ, Phúc Lợi 13 hộ), chiếm 28%; số hộ bị thu hồi

từ 50 - 70% diện tích đất nông nghiệp được giao là 40 hộ (Việt Hưng 12 hộ, Phúc

Lợi 12 hộ, Giang Biên 16 hộ), chiếm 40%; số hộ bị thu hồi dưới 50% diện tích đất

sản xuất nông nghiệp được giao là 32 hộ (Việt Hưng 8 hộ, Phúc Lợi 10 hộ, Giang

Biên 14 hộ), chiếm 32%. (Bảng 3.7).

Tổng số diện tích đất của 100 hộ điều tra trước khi bị thu hồi là 479.192,5 m2, sau khi bị thu hồi chỉ còn lại 177.781,36 m2, diện tích đất bị thu hồi là 301.411,14 m2 chiếm 62,9% diện tích đất sản xuất nông nghiệp của các hộ, bình quân mỗi hộ bị thu hồi 1678,43 m2/hộ. Trong đó hộ bị thu hồi nhiều nhất là 5986,0 m2/hộ, hộ bị thu hồi ít nhất là 2256 m2/hộ.

Nhìn chung, thời gian qua đại bộ phận nhân dân thuộc các phường điều tra

đã ý thức được chủ trương công nghiệp hóa, đô thị hóa nên đã đồng tình và ủng hộ

việc thu hồi đất. Tuy nhiên, một số hộ có đất bị thu hồi không chịu nhận tiền bồi

thường và bàn giao mặt bằng, tình trạng các hộ tiếp tục canh tác trên đất đã giải tỏa

vẫn xảy ra, thực tế trên địa bàn vẫn còn một số diện tích đất của các dự án chưa giải

phóng xong mặt bằng.

Bảng 3.7. Kết quả điều tra các chỉ tiêu về thu hồi đất nông nghiệp

Phân theo các phường điều tra Tổng TT Chỉ tiêu Đơn vị Giang cộng Việt Hưng Phúc Lợi Biên

Số người có đất bị thu hồi Hộ 120 40 40 1 40 được hỏi, trong đó:

+ Số hộ bị thu hồi trên 70% Hộ 40 18 22 - đất nông nghiệp (Nhóm I)

+ Số hộ bị thu hồi trên 50% - Hộ 40 12 12 16 70 % đất NN (Nhóm II)

60

+ Số hộ bị thu hồi dưới Hộ 40 16 10 14 50% (Nhóm III)

Diện tích đất sản xuất nông

3 nghiệp của các hộ trước khi 479.192,5 176.715,1 207.445,4 95.032,0 m2

thu hồi

Bình quân đất sản xuất

nông nghiệp trước khi thu m2/hộ 3993,27 3927,0 4609,89 3167,73

hồi

Diện tích đất sản xuất nông 301.411,1 117.755,22 134.438,82 49.217,1 m2 4 4 nghiệp của các hộ bị thu hồi

Bình quân đất sản xuất m2/hộ 2511,75 2616,78 2987,52 1640,57 nông nghiệp bị thu hồi

Diện tích đất sản xuất NN còn 177.781,3 58.959,88 73.006,58 45.814,9 m2 5 6 lại sau khi bị thu hồi

Bình quân diện tích đất sản m2/hộ 1481,51 1310,22 1622,36 1527,16 xuất nông nghiệp còn lại

Tỷ lệ đất nông nghiệp của 7 % 62,9 66,4 64,81 51,79 một hộ bị thu hồi

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra

3.2. Ảnh hƣởng của thu hồi đất nông nghiệp tới việc làm và đặc điểm

của ngƣời lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên

3.2.1. Ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp tới việc làm của người lao

động ở quận Long Biên

3.2.1.1. Tác động tích cực

Trên thực tế, phục vụ lợi ích quốc gia trong thời gian qua của các phường

chủ yếu là đất nông nghiệp. Nói cách khác, những người bị mất đất chủ yếu là nông

dân. Tuy nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp của mỗi hộ là khác nhau, vì vậy mức

độ ảnh hưởng đến điều kiện sống và việc làm của các hộ là khác nhau.

Đất đai là một đại lượng có hạn, chính vì tính chất đó cho nên khi người lao

61

động bị thu hồi đất nông nghiệp thì có rất ít khả năng cấp đất lại cho họ để tiếp tục

sinh sống bằng nghề nông, đại bộ phận trong số họ phải chuyển sang hoạt động

trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy, mặc dù diện tích đất nông

nghiệp bị thu hẹp, xong nó cũng tạo ra nhiều cơ hội việc làm phi nông nghiệp cho

người lao động tại đây. Rõ ràng những việc làm do quá trình đô thị hóa, công

nghiệp hóa tạo ra giúp cho người dân có thu nhập ổn định hơn. Nếu trước đây, canh

tác nông nghiệp chỉ mang đến cho người lao động khoản thu nhập trung bình hàng

tháng là 2 triệu đồng, thì nhờ vào những công việc có được trong khu vực công

nghiệp và khu vực dịch vụ hàng tháng mang đến cho họ thu nhập từ 4 – 5 triệu. Đặc

biệt, đối với những lao động được đào tạo nghề, họ có thể tự tạo việc làm cho mình

sau khi đã được đào tạo nghề và thu nhập của họ có thể lên đến hàng chục triệu

trong vòng 1 tháng như những người làm nghề cơ khí, sửa chữa xe máy, ô tô… Các

khu công nghiệp cũng thu hút được số lượng lớn lao động nông thôn, và thu nhập

cao hơn, ổn định hơn so với làm nông nghiệp.

Bảng 3.8: Cơ cấu việc làm theo ngành của các hộ điều tra

Trước khi thu hồi Sau khi thu hồi

Chỉ tiêu Số lượng Số lượng Cơ cấu (%) Cơ cấu (%) (người) (người)

Tổng số lao động trong độ tuổi 465 100 490 100

1. Có việc làm 456 98,06 426 86,94

- Nông nghiệp 413 88,82 300 61,22

- Công nghiệp 16 3,44 22 4,49

- Thương mại dịch vụ 8 1,72 58 11,84

- Ngành nghề khác 19 4,09 46 9,39

2. Không có việc làm 9 1,94 64 13,06

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra

So sánh cơ cấu việc làm trước và sau khi thu hồi đất (Bảng 3.9) trên địa bàn

các phường có thể thấy sự chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp như vậy là theo xu

hướng tiến bộ, số lượng việc làm trong khu vực công nghiệp và thương mại dịch vụ

62

tăng đáng kể. Nếu trước khi thu hồi đất số lượng việc làm trong khu vực này chỉ là

5,16% thì sau khi thu hồi đất số việc làm trong khu vực này tăng lên 16,33%, gấp

đến 3 lần. Trong khi đó, việc làm nông nghiệp lại giảm dần từ 88,82% xuống còn

61,22%. Giải thích cho hiện tượng này đó là do sự gia tăng, hội tụ các hoạt động

kinh tế phi nông nghiệp ở Long Biên trong quá trình đô thị hóa, những lợi thế về

các nguồn lực dồi dào ngày càng được tận dụng, khai thác tối đa, không gian đô thị

được mở rộng, các trung tâm thương mại được hình thành, lao động tự động hóa, cơ

khí ngày càng thay thế lao động thủ công…làm cho cơ cấu việc làm của người lao

động thay đổi.

Việc thu hồi đất nông nghiệp và hỗ trợ bằng tiền mặt giúp cho người lao

động có được một nguồn vốn khá lớn. Đối với khoản tiền này, nhiều hộ gia đình đã

đầu tư vào kinh doanh, buôn bán,… để tự tạo việc làm cho con em mình. Có những

hộ đầu tư vào học nghề và tự mở cửa hàng, cửa hiệu để tạo việc làm không những

cho mình mà cho những người xung quanh. Do đó, có thể nói rằng việc thu hồi đất

góp phần làm cho nguồn vốn đầu tư trong dân tăng lên và kích thích sức sản xuất,

kinh doanh của người lao động hơn.

Thêm vào đó, vì đất đai bị thu hồi là để phát triển cơ sở hạ tầng và điều kiện

tiếp cận dịch vụ việc làm đối với người lao động. Ở Long Biên, đất nông nghiệp

được thu hồi là để phục vụ cho những công trình dân sinh, những công trình công

cộng. Tại 3 phường điều tra, có hai dự án lớn được hình thành là khu đô thị sinh thái

Vincom, công viên công nghệ thông tin tại phường Phúc Lợi, cùng với đó là sự hình

thành của những siêu thị, những chợ lớn… Những công trình này đã góp phần tạo

điều kiện cho người dân tiếp cận thuận lợi và hiệu quả hơn trong các hoạt động sản

xuất, trao đổi hàng hóa. Từ đó, nguồn việc làm được tạo ra nhiều hơn, cũng có

nghĩa là cả cung và cầu về lao động đều gia tăng, đồng thời nó cũng làm cho đời

sống kinh tế của quận ngày càng năng động hơn, các hoạt động tư vấn, giới thiệu

việc làm, hoạt động giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin thị trường sức lao

động cũng theo đó mà phát triển. Điều này cũng làm cho người lao động có nhiều

63

cơ hội cải thiện chất lượng việc làm của bản thân, mở rộng nhiều hơn các mối quan

hệ làm ăn.

Việc thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên tạo ra lượng lao

động dôi dư do không còn đất nông nghiệp để canh tác, có nhiều hộ gia đình đất

nông nghiệp vẫn còn nhưng ít nên thời gian nông nhàn cũng nhiều hơn, lượng lao

động này thường tìm đến các khu công nghiệp, khu đô thị, các siêu thị, chợ để làm

việc, hoặc có những hộ thường góp chung vốn có được từ tiền bồi thường để mở

các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, hoặc đầu tư vào công nghiệp chế biến ngay

trên mặt bằng diện tích đất còn lại, hoặc nhiều gia đình đầu tư vào trồng rau sạch

phục vụ cho nhu cầu của những khu đô thị mới… Như vậy, quá trình đô thị hóa,

công nghiệp hóa mặc dù làm diện tích đất nông nghiệp bị giảm đi nhưng nó lại tạo

điều kiện để thúc đẩy quá trình đô thị hóa, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp chế

biến và đa dạng hóa các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, làm tăng thời gian lao

động ở nông thôn. Từ đó, việc thu hồi đất cũng góp phần tạo ra sức ép chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa.

3.2.1.2. Tác động tiêu cực

Việc thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, trong ngắn hạn sẽ

làm cho tỷ lệ người không có việc làm, hoặc không đủ việc làm gia tăng (bảng 3.9).

Nguyên nhân là do đa số những người nông dân bị thu hồi đất là những người lao

động thuần tuý theo kiểu cha truyền con nối, chưa hề được đào tạo nghề. Do đó, họ

rất khó kiếm được việc làm tốt, có thu nhập tương đối cao và ổn định trong ngành

công nghiệp và dịch vụ. Theo kết quả điều tra cho thấy:

- Tại thời điểm trước khi thu hồi đất: Trong 465 người trong độ tuổi lao

động, số lao động chưa có việc làm là 9 người, chiếm 1,94%. Số lao động không đủ

việc làm (không có việc làm liên tục dưới 12 tháng) là 175 người, chiếm 37,6%, số

lao động đủ việc làm là 281 người chiếm 60.47%.

64

Bảng 3.9: Tình trạng việc làm trƣớc và sau khi thu hồi đất của ngƣời lao động

theo kết quả điều tra

(Đơn vị: người)

Trước khi thu hồi Sau khi thu hồi Độ tuổi Không Chưa Đủ Không người lao Tổng Tổng Đủ việc Chưa có đủ việc có việc việc đủ việc động cộng cộng làm việc làm làm làm làm làm

131 15-25 143 110 30 3 51 55 25

120 26-35 111 75 35 1 25 82 13

128 36-45 95 52 41 2 20 87 21

111 46-60 116 44 69 3 17 89 5

490 Tổng 465 9 64 281 175 113 313

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra

- Tại thời điểm sau khi thu hồi đất: Có sự chuyển dịch về lao động và việc

làm sau khi thu hồi đất. Trong tổng số 490 người trong độ tuổi lao động chỉ có 113

người đủ việc làm, chiếm 23,06%, tập trung chủ yếu ở độ tuổi 15-25, đây là độ tuổi

có khả năng chuyển đổi được nghề nghiệp, đối với độ tuổi từ 26-60 do khó khăn

trong việc chuyển đổi nghề nghiệp nên phải bám vào diện tích đất nông nghiệp còn

lại của gia đình dẫn đến có việc làm nhưng không đủ, thời gian nhàn rỗi lớn; số lao

động không đủ việc làm là 313 người chiếm 63,88%; số lao động không có việc làm

là 64 lao động chiếm 13,06% tập trung chủ yếu ở độ tuổi 15-25, do trình độ văn hoá

thấp, mặt khác một số lao động sau khi nhận tiền bồi thường đã sử dụng vào các mục

đích như mua sắm xe máy, cờ bạc, lười lao động hoặc không thích lao động nông

nghiệp nên dẫn đến không có việc làm. Có thể thấy số lao động không có việc làm

tăng lên rõ rệt từ 1,94% lên 13,06%, ngoài ra số lao động không đủ việc làm tăng từ

37,6% lên 63,88% và số lao động đủ việc làm giảm đáng kể từ 60,47% xuống còn

23,06%.

Như vậy, việc thu hồi đất sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng trực tiếp đến

việc làm của người dân, số người bị mất việc làm do thu hồi đất đã tìm việc làm

65

mới không cao, nguyên nhân và biểu hiện với các mức độ khác nhau giữa các nhóm

và các phường. Song, chủ yếu tập trung vào các nguyên nhân như: không có việc gì

làm hoặc việc làm không phù hợp với khả năng của người lao động. Vì vậy giúp đỡ

người dân trong việc đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới thích

hợp với trình độ và năng lực của người lao động, trên cơ sở đó họ có được thu nhập

tốt hơn, ổn định hơn là trách nhiệm của các cấp chính quyền quận.

Sau khi bị thu hồi đất, căn cứ vào quy định của Chính phủ, của thành phố Hà

Nội, cũng như quận Long Biên, các chủ dự án, các doanh nghiệp trên địa bàn quận

cũng đã cố gắng giúp người dân trong việc đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp,

nhất là đối với lao động trẻ, dưới 35 tuổi, nhằm giúp họ kiếm được việc làm mới

trong công nghiệp hoặc dịch vụ với thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Tuy nhiên,

trong thực tiễn việc đào tạo nghề cho người lao động diễn ra không có bài bản, thiếu

chiến lược và kế hoạch rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, số lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp, không có nghề, cần đào tạo thì nhiều, song thực tế đào tạo không được bao

nhiêu và việc làm nghề nghiệp của họ về cơ bản vẫn chưa tiến triển theo hướng tiến

bộ, chưa theo mong muốn. Ngoài ra, tình trạng làm việc không ổn định, số lao động

nông nghiệp chuyển sang đi làm thuê, công nhân, thợ xây, thợ mộc, đồng nát, xe

ôm…và đi làm việc ở nơi khác tăng nhanh, trong số người có việc làm, số người lao

động gắn với quá trình công nghiệp hoá tăng ít.

Ủy ban nhân dân quận, phòng lao động - thương binh và xã hội quận Long Biên

cũng đã quan tâm hỗ trợ cho người dân trong việc đào tạo nghề, thu xếp bố trí công

việc mới, tuy nhiên kết quả mang lại chưa nhiều. Trên thực tế, việc đào tạo chuyển đổi

nghề cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp chưa đưa ra một cách quyết liệt và chưa

tiến hành một cách bài bản. Hầu như sau khi giao tiền bồi thường cho dân xong coi như

đã hoàn thành trách nhiệm. Trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hồi rất

lớn, nhiều đô thị mới được mọc lên, hạ tầng kỹ thuật về giao thông và xã hội được

đầu tư, song việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra không phù hợp với xu thế

phát triển chung, tỷ lệ lao động có việc làm vẫn còn thấp, số lao động không có việc

làm chiếm tỷ lệ khá cao, tình trạng lao động đi làm thuê theo mùa vụ ở các nơi khác

66

khá lớn. Chính điều này đã, đang và sẽ gây sức ép đối với chính quyền quận trong

vấn đề giải quyết việc làm.

3.2.2. Đặc điểm của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp

Từ thực tế ở 3 phường cho thấy: Nhu cầu về việc làm của người lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp là rất lớn. Trong 100 hộ được điều tra tại 3 phường, hầu

như hộ nào cũng có người lao động trong độ tuổi chưa có việc làm ổn định hoặc có

nhưng chỉ mang tính chất tạm thời. Trong khi đó nhu cầu tuyển dụng của các doanh

nghiệp trên địa bàn quận lại rất lớn. Tuy nhiên, chất lượng nhân lực bị thu hồi đất

nông nghiệp lại chưa đáp ứng được nhu cầu ấy. Điều đó xuất phát ngay từ đặc điểm

của người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tại quận Long Biên. Đặc điểm đó

được nhìn nhận thông qua điều tra, khảo sát như sau:

Thứ nhất, đặc điểm về nhận thức việc làm.

Từ áp lực của việc làm bị mất do mất đất sản xuất, một số hộ dân đã nhận thức

được lý do không có việc làm, sau khi nhận được tiền bồi thường đã tự đầu tư vào đào

tạo cùng với việc tham gia các chương trình đào tạo theo các chính sách. Tuy nhiên, số

người nằm trong diện tự đào tạo tăng lên rất ít, mức chuyển biến này chưa đáp ứng

được cung ứng về lao động cho các doanh nghiệp cũng như chưa giải quyết được nhu

cầu lao động của người dân. Hầu hết các hộ dân sau khi nhận được tiền bồi thường sử

dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Nhiều hộ gia đình khi nhận được tiền bồi thường,

thay cho việc đầu tư vào sản xuất lại sử dụng vào mua sắm các đồ dùng đắt tiền để tiêu

dùng. Đây là một nguyên nhân làm cho điều kiện sống của số hộ bị thu hồi đất nông

nghiệp tăng lên. Tuy nhiên, việc sử dụng tiền bồi thường như vậy sẽ tiềm ẩn những

điều bất ổn về thu nhập, điều kiện sống khi những vấn đề xã hội nảy sinh, khi nếp sống

hiện tại không phù hợp với khả năng tài chính của họ. Nhiều hộ dân sử dụng tiền bồi thường tương đối hợp lý vào mục đích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh… Theo kết quả khảo sát tại 3 phường, số tiền bồi thường sử dụng đầu tư vào đầu tư cho học nghề, học tập và kinh doanh dịch vụ là 22,68%; trong khi tiền sử dụng cho các mục đích như xây dựng, sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ dùng sinh hoạt là 59,82%. Điều đó phản ánh nhận thức về việc làm của người dân còn chưa đúng đắn, nhiều hộ không tính toán trong việc sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích.

67

Bảng 3.10. Tình hình sử dụng tiền bồi thƣờng

Số tiền sử dụng Tỷ lệ % STT Mục đích sử dụng (đồng) số tiền sử dụng

Thuê đất hoặc nhận chuyển nhượng đất 1 3.099.027.931,8 2,30 nông nghiệp để tiếp tục sản xuất

2 Đầu tư vào sản xuất kinh doanh dịch vụ 24.226.314.005,8 17,98

3 Đầu tư học nghề, học tập 6.332.796.208,4 4,70

4 Xây dựng, sửa chữa nhà cửa 71.951.344.155,2 53,40

5 Mua sắm đồ dùng 8.650.330.140,0 6,42

6 Cho vay 2.681.332.862,7 1,99

7 Gửi tiết kiệm ngân hàng 13.083.287.485,9 9,71

8 Đầu tư khác 4.715.912.070,1 3,50

Tổng tiền bồi thường 134.740.344.860,0 100,00

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra

Thứ hai, đặc điểm về thu nhập và cơ cấu thu nhập.

Theo kết quả điều tra của luận văn, sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp, thu

nhập của các nhóm hộ đều tăng, tuy nhiên cơ cấu thu nhập lại có sự thay đổi, thu

nhập từ nông nghiệp giảm, thu nhập từ công nghiệp-dịch vụ thương mại và thu nhập

khác tăng lên (Bảng 3.11)

68

Bảng 3.11. Bình quân thu nhập/hộ/năm của các nhóm hộ

trƣớc và sau khi thu hồi đất

Đơn vị tính: Triệu đồng

Trước khi thi hồi Sau khi thu hồi

Nhóm

II

Chỉ tiêu Nhóm Nhóm Nhóm Nhóm II Nhóm III I III I

1.Tổng số hộ 40 40 40 40 40 40

2.Tổng thu nhập bình quân/hộ 65,766 66,12 56,23 72,45 74,49 72,79

- Nông nghiệp 44,696 40,1 43,28 15,15 22,51 26,57

+ Trồng trọt 43,136 36,9 42,16 13,47 19,61 25,16

+ Chăn nuôi 1,56 3,2 1,12 1,68 2,9 1,41

- Công nghiêp-DVTM 7,5 8,57 4,28 26,1 25,01 36,12

- Thu nhập khác 13,57 17,45 8,67 31,2 26,97 10,1

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra

Từ bảng 3.11, cho thấy: Thu nhập của các nhóm hộ tăng lên không giống

nhau. Nhóm hộ I tăng 6,684 triệu đồng/hộ/năm, nhóm hộ II tăng 8,37 triệu

đồng/hộ/năm, nhóm hộ III tăng 16,56 triệu/hộ/năm. Việc tăng thu nhập của các hộ

là phù hợp với sự phát triển của quận, tuy nhiên mức tăng ở các nhóm hộ lại khác

nhau như: Nhóm hộ I có tỷ lệ tăng thấp là do sau khi bị thu hồi, bình quân diện tích

đất sản xuất nông nghiệp trên hộ thấp, thu nhập bình quân của diện tích đất sản xuất

nông nghiệp còn lại ước đạt 13,47 triệu đồng/hộ, số lao động tìm kiếm được việc

làm ít nên thu nhập từ các ngành nghề khác thấp, nhưng do được bồi thường khoản

tiền lớn và các hộ đã dành một phần để gửi tiết kiệm tăng thu nhập; Nhóm hộ III

tăng cao, là do diện tích đất sản xuất nông nghiệp còn lại lớn và được sự đầu tư của

quận Long Biên về xây dựng vùng rau an toàn chất lượng cao, vùng cây ăn quả nên

thu nhập từ nông nghiệp của các hộ vẫn ở mức cao, mặt khác số hộ tại phường Việt

Hưng do có điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp nên thu nhập từ ngành công nghiệp-

thương mại, dịch vụ tăng.

69

Các nguyên nhân khiến cho thu nhập của nhiều hộ dân giảm cũng liên quan

đến công việc. Nguyên nhân đầu tiên thu nhập giảm là không có việc làm và việc làm

không ổn định là họ không được đào tạo, không có tay nghề hoặc trình độ tay nghề

thấp. Trong khi tiêu chuẩn của các công ty, doanh nghiệp đóng trên địa bàn quận đòi

hỏi cao, đại đa số nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp không đáp ứng được, nên

những việc họ tìm được thường là lao động thủ công. Loại lao động này không lâu

dài, ít ổn định. Một nguyên nhân nữa dẫn đến thu nhập giảm là công việc làm ăn

không thuận lợi, phần lớn là đi làm thuê ở nơi khác, công việc bấp bênh, hôm thì có

việc, hôm thì không có việc để làm.

Như vậy, thu nhập của người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tăng hay

giảm, hay nói cách khác là những thay đổi mức sống của người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp trên địa bàn quận không bắt nguồn trực tiếp từ việc chuyển đổi mục

đích sử dụng đất mà bắt nguồn từ tính chất và mức độ thường xuyên của việc làm mà

người dân có được sau khi thu hồi đất nông nghiệp. Điều này cho thấy tính tích cực

và sự năng động của người nông dân trong tìm kiếm việc làm mới có ảnh hưởng nhất

định đến vấn đề có việc làm hay không của họ và có tác động không nhỏ đến mức độ

thu nhập của người nông dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ ba, đặc điểm về trình độ văn hoá:

Qua điều tra tại 3 phường, cho thấy trình độ chuyên môn của những người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp là khá thấp. Số người không có trình độ chuyên

môn chiếm tới 84,5%, số người có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chỉ có

13,42%. Tuy trước đây là vùng ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, có nhiều điều kiện

thuận lợi để tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp nhưng

trình độ học vấn của người nông dân còn thấp, tập quán canh tác lạc hậu, chủ yếu là

trồng lúa và một số cây rau màu. Sản xuất nông nghiệp hay kinh doanh buôn bán của

hộ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm truyền thống tích lũy trong quá trình làm việc, thiếu

tính sáng tạo trong sản xuất, tư duy cũ nên hiệu quả kinh tế thường không cao, năng

suất lao động thấp, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật nên rất khó tìm được việc

làm trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay. Với trình độ chuyên môn

70

nói trên, cơ hội tự tìm việc làm sau khi bị thu hồi đất đối với người lao động là rất

khó khăn và hỗ trợ nâng cao trình độ cho họ là việc làm cần thiết.

3.3. Các hoạt động giải quyết việc cho lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp trên địa bàn quận Long Biên.

3.3.1. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua các chương trình mục tiêu

quốc gia về việc làm và dạy nghề

Trong chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề, hoạt động cho

vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm là một hoạt động khá hiệu quả. Hoạt động này giúp

cho người lao động có thể tự tạo việc làm và tạo việc làm cho người khác thông qua

phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Dựa vào đó, quận đã phối hợp chặt chẽ với

các hội đoàn thể như Ngân hàng Chính sách xã hội, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội

Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Ban chỉ đạo vay vốn các phường triển khai và xét

duyệt cho vay 152 dự án thuộc nguồn vốn Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm với 1549 hộ

tham gia, giải quyết tạo mới việc làm cho 2860 lao động với tổng số tiền là 20 tỷ 540

triệu đồng. 07 dự án cho 29 hộ nghèo (trong tổng số 525 hộ nghèo trên địa bàn quận)

với tổng số tiền 355 triệu đồng tạo việc làm mới cho 42 lao động và 02 doanh nghiệp

tham gia vay vốn tạo việc làm ổn định cho 40 lao động. Kết quả là 14/14 phường đều

đã triển khai tốt công tác vay vốn, trong đó các phường Ngọc Thuỵ, Sài Đồng, Long

Biên, Thạch Bàn…làm tốt; Hội Phụ nữ , Hội Nông dân từ phường tới quận đều triển

khai và thực hiện có hiệu quả công tác vay vốn [22].

Công tác xây dựng kế hoạch, phân bổ nguồn vốn, cơ chế thẩm định, giải

ngân các dự án vay vốn, quản lý hiệu quả sử dụng nguồn vốn.... ngày càng được

hoàn thiện, từ đó đã rút ngắn được thời gian từ khâu lập dự án đến giải ngân, tỷ lệ

dự án nợ quá hạn năm sau giảm hơn năm trước, năm 2011, tỷ lệ dự án nợ quá hạn là

6,025 tỷ đồng, đến năm 2015 giảm xuống còn 1,477 tỷ đồng.

Về công tác đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, trên

cơ sở thực hiện Chỉ thị 11/2006/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế

hoạch hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm và vay vốn giải quyết việc làm cho người lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp [4] và Nghị quyết 1956/QĐ-TTg ngày 17/1/2009

71

của Thủ tướng về việc thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến

năm 2020”[5], ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã Quyết định phê duyệt một số

kế hoạch dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn trên địa bàn. Người nông dân

bị thu hồi đất được hưởng một số ưu đãi về dạy nghề như: được hỗ trợ hoàn toàn chi

phí học nghề tại các lớp dạy nghề do Phòng Lao động - Thương binh xã hội quận tổ

chức, được hướng dẫn tham gia tìm việc làm tại các phiên giao dịch việc làm, tư

vấn những ngành nghề mới phù hợp với sở trường lao động của họ. Những ngành

nghề đào tạo gồm điện dân dụng, gò hàn, sửa chữa xe máy, cắt may, nấu ăn… Quận

Long Biên đã phối hợp trung tâm dạy nghề mở các lớp dạy nghề tại địa phương

theo hình thức lưu động tại tổ dân phố để nông dân bị thu hồi đất có nhiều cơ hội

học nghề hơn. Các lớp học có từ 25-30 người, kéo dài từ 1 tháng trở lên. Sau khi

học xong được cấp thẻ học nghề, tạo điều kiện hỗ trợ vay vốn ở các ngân hàng

chính sách xã hội để xin việc và tổ chức sản xuất.

Trước đòi hỏi của công tác đào tạo nghề cho người lao động nói chung và

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng, quận đã thực hiện một số nội dung

nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp, cụ thể:

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của hội chợ, các phiên giao dịch

việc làm và hướng dẫn người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tham gia tìm cơ hội

việc làm tại đó.

- Điều tra, rà soát nhu cầu học nghề, phối hợp với chính quyền cơ sở, các tổ

chức chính trị xã hội như hội nông dân, hội phụ nữ các phường tham gia tư vấn

chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký thất nghiệp của người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp, vừa thực hiện hỗ trợ thất nghiệp vừa tư vấn học nghề và việc làm cho họ.

Dự án đổi mới và phát triển dạy nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn

thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Việc làm và Dạy nghề được thực hiện trên

địa bàn quận Long Biên với hai dự án được hỗ trợ gồm dự án đổi mới và phát triển

dạy nghề và dự án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đã triển khai thực hiện

72

được 02 nội dung sau:

- Phối hợp với các cơ sở dạy nghề tiến hành tuyển sinh, đào tạo nghề cho

1780 người thuộc diện ưu tiên (hộ nghèo, con gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ,

lao động vùng chuyển đổi), quận đã tổ chức 46 lớp dạy nghề ngắn hạn từ 1 tháng

đến 1,5 tháng, số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp chiếm 43%, cụ thể:

Phối hợp với Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội, Trung tâm Giáo dục thường

xuyên Việt Hưng mở 18 lớp dạy nghề kỹ thuật nấu ăn cho 567 người tham gia đến

từ 12 phường có đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn quận, 05 lớp tin học văn

phòng cho 154 học viên là con em các gia đình có đất nông nghiệp bị thu hồi, 06

lớp dạy nghề kỹ thuật pha chế đồ uống, 07 lớp kinh doanh dịch vụ thương mại với

160 học viên tham gia, tổ chức 04 lớp dạy nghề làm hoa nghệ thuật cho 120 học

viên, cho 60 học viên thêu nghệ thuật…; Phối hợp với Trung tâm đào tạo máy tính

TCT mở 02 lớp tin học văn phòng cho 60 học viên tham gia; Phối hợp với Hội Phụ

nữ quận tổ chức 02 lớp cắm tỉa hoa nghệ thuật cho 80 học viên tham gia đến từ các

phường Giang Biên, Đức Giang, Ngọc Lâm, Ngọc Thụy, Thạch Bàn; Phối hợp với

Hội Nông dân Quận tổ chức 01 lớp tin học văn phòng cho 38 hội viên Hội nông dân

vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất [22].

- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề

nhằm nâng cao năng lực đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói chung và nông

dân bị thu hồi đất nói riêng với kinh phí là 120-200 triệu đồng/ năm.

Tính đến hết năm 2015 số lao động được đào tạo nghề của quận Long Biên

là 13.417 người, trong đó có 6.570 nông dân bị thu hồi đất chiếm (48,96%). Các

ngành nghề đăng ký chủ yếu: điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, cơ khí, xây dựng,

lái xe, bảo vệ, may, giầy da, bán hàng… Tuy nhiên, trong số 6.570 được học nghề

chỉ có 3.044 lao động tìm được việc làm (chiếm 46,33%) [23]. Có thể thấy tạo việc

làm cho nông dân bị thu hồi đất ngày càng khó khăn hơn, số người tìm được việc

làm ngày càng giảm, nhất là trong mấy năm gần đây.

Nhìn chung, hoạt động giải quyết việc làm thông qua các chương trình mục

tiêu quốc gia đã đạt được nhiều kết quả. Cụ thể là đã góp phần hỗ trợ tạo cơ hội cho

73

người lao động có cơ hội vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, tạo và tự tạo việc

làm cho bản thân, tạo việc làm ổn định cho nhiều người lao động, đặc biệt đã giải

quyết kịp thời cho lao động các hộ/nhóm hộ gia đình thuộc diện thu hồi đất sản

xuất, di dời, giải toả vay vốn và lao động nữ chủ hộ gia đình, xem đây là một giải

pháp hỗ trợ gián tiếp về vốn để người lao động tự tạo việc làm ổn định cuộc sống

lâu dài cho gia đình. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia

về việc làm chưa cao, ngoài những nguyên nhân do giá cả tăng nhanh, công tác điều

hành, quản lý, thực hiện cho vay tạo việc làm còn hạn chế, đối tượng vay là các cơ

sở kinh doanh chiếm tỷ lệ thấp... Việc bổ sung nguồn vốn phân bổ mới cho Quỹ

quốc gia về việc làm chậm, từ đó đã ảnh hưởng nhất định đến việc giải ngân cho

vay tạo việc làm. Việc triển khai các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho đối

tượng mất đất sản xuất nông nghiệp vẫn còn gặp khó khăn như: các đối tượng đã

lớn tuổi, trình độ văn hoá thấp... không thể đào tạo, tìm việc làm.

3.3.2. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua các trung tâm giới thiệu

việc làm và cơ sở dạy nghề

Vì những người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đều có trình độ chuyên

môn thấp, nên trong quá trình tìm việc của họ cũng gặp khó khăn do không đáp ứng

được yêu cầu của công việc. Do đó, để giải quyết việc làm cho người lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp việc dạy nghề cho họ là một việc làm cần thiết để họ có thể

tiếp cận được việc làm hoặc có thể tự tạo việc làm cho bản thân.

Nhận thức được yêu cầu đó, quận Long Biên đã tạo điều kiện cho các cơ sở

dạy nghề từng bước được phát triển. Hiện nay, trên địa bàn quận đã có 5 trường cao

đẳng nghề, 6 trường trung cấp nghề và nhiều trung tâm, cơ sở dạy nghề, đăng ký

dạy 28 nghề ở các cấp, trình độ (cao đẳng nghề 13 nghề, trung cấp nghề 7 nghề, sơ

cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng 8 nghề). Hình thức đào tạo bao gồm: Ngắn hạn 3

tháng, 6 tháng, trung hạn 1 năm, dài hạn từ trên 1 năm đến 3 năm [22]. Có thể đào tạo

tập trung, chính quy, tại chức vừa học vừa làm hoặc truyền nghề tại gia đình. Để nâng

cao năng lực và chất lượng dạy nghề đáp ứng nhu cầu xã hội, quận đã và đang tập

trung nâng cao năng lực, hiệu quả các cơ sở dạy nghề như Trường trung cấp Đa

74

ngành, Trường trung cấp Y - Dược Phạm Ngọc Thạch, Trường cao đẳng nghề Long

Biên, Trường trung cấp Quang Trung, Trường cao đẳng nghề Đường Sắt, Trung tâm

dạy nghề Phương Nam.... để đáp ứng yêu cầu học nghề của người lao động trên địa

bàn quận.

Bên cạnh đó, quận Long Biên đã triển khai chính sách hỗ trợ cho đối tượng

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận khi tham gia học nghề

ngắn hạn với 8 nhóm nghề; kinh phí hỗ trợ 350.000 đồng/tháng cho lao động học nghề

và 200.000 đồng/tháng cho cán bộ thực hiện giải quyết việc làm tại 14 phường từ

nguồn ngân sách địa phương; phòng Lao động-Thương binh xã hội phối hợp với Trung

tâm lái xe Long Biên, trường Cao đẳng nghề Long Biên, Trường trung cấp Quang

Trung, trường dạy nghề Phương Nam, công ty máy tính TCT… dạy nghề cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp; hàng năm phòng.. Lao động-Thương binh xã hội

quận mở một số lớp dạy nghề trong đó ưu tiên cho nông dân và con em nông dân bị thu

hồi đất. Hoạt động dạy nghề ở quận thật sự trở thành thường xuyên từ năm 2008 đến

nay, mỗi năm mở được 4 lớp, mỗi lớp từ 130 - 150 học viên, trong đó đối tượng là lao

động nông nghiệp và con em nông dân bị mất đất chiếm 30%.

75

Bảng 3.12: Kết quả đào tạo nghề giai đoạn 2011-2015

của quận Long Biên

Số lao động được đào tạo nghề (Người) Kinh phí thực hiện (Triệu đồng)

Trong đó Trong đó

Người lao Lao động Lao Lao động bị Năm Đối tượng động bị thu nông thôn, động thu hồi đất Tổng số Tổng số đặc thù hồi đất lao động nông nông khác nông đặc thù thôn nghiệp

4.240 2011 1.214 1.792 1.232 2.920 nghiệp 603 khác 2.317

2012 3.178 1.225 1.952 761 2.347 800 1.547

2014 3.123 922 1.423 347 2.768 207 2.561

2015 2.876 873 1.403 273 1.500 163 1.337

6.570 7.762 Tông 13.417 4.234 2.613 9.535 1.773

(Nguồn: Phòng lao động thương binh – xã hội quận Long Biên)

Qua 05 năm 2011-2015, số lượng người lao động bị thu hồi đất được đào tạo

nghề thông qua hệ thống các cơ sở học nghề trên địa bàn quận là 6.570 người với

kinh phí là 1,773 tỷ đồng. Các ngành nghề đào tạo gồm: Kỹ thuật nấu ăn, kỹ thuật

pha chế đồ uống, cắm tỉa hoa nghệ thuật, kỹ thuật trồng rau, cây ăn quả, điện tử,

điện lạnh, cơ khí... Với trình độ và tay nghề của người lao động, sau khi kết thúc

khóa đào tạo, số lao động được giải quyết việc làm trung bình qua các năm chiếm tỷ

lệ trên 50% (trong đó, tỷ lệ lao động tự tạo việc làm chiếm 73% và 27% là lao động

được các doanh nghiệp tuyển dụng).

Các hoạt động giải quyết việc làm thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm

và cơ sở dạy nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được chính quyền

quận quan tâm chỉ đạo. Số lượng đào tạo nghề, chất lượng đào tạo cho lao động bị thu

hồi đất sản xuất được nâng lên. Kết quả trên đã góp phần thực hiện đề án đào tạo nghề,

giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho lao động bị thu hồi đất, phát triển kinh tế và

76

an sinh xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp vẫn còn một số hạn chế như: Chính sách hỗ trợ đào

tạo nghề cho nông dân bị thu hồi đất chỉ tập trung đào tạo nghề ở trình độ sơ cấp, chưa

bố trí kinh phí để hợp đồng đào tạo nghề ở trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề;

Cơ sở vật chất dạy nghề tuy có đầu tư nhưng chưa đồng bộ, chủ yếu dựa vào hỗ trợ của

trung ương; Đội ngũ giáo viên còn thiếu và một số giáo viên chưa đáp ứng nhu cầu đào

tạo theo yêu cầu của thị trường lao động, trong đó thiếu đội ngũ thợ lành nghề, các

nghệ nhân có kinh nghiệm để dạy nghề, truyền nghề ở một số nghề đặc thù; Việc rà

soát, quản lý lao động bị thu hồi đất chưa qua đào tạo nghề ở địa phương chưa được

thực hiện thường xuyên nên công tác xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện ở cấp

quận, huyện và xã, phường đôi lúc, đôi nơi còn bị động; Công tác tuyên truyền vận

động học nghề, chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm chưa được thực hiện tích

cực; Nhận thức của nông dân bị thu hồi đất trong việc học nghề còn hạn chế, tư tưởng

trông chờ, ỷ lại, lười lao động còn tồn tại ở một bộ phận lao động hiện nay; Quy mô

sản xuất của các mô hình dạy nghề và giải quyết việc làm còn nhỏ lẻ, nguồn kinh phí

hỗ trợ cho các mô hình còn ít, chưa có chính sách cụ thể để triển khai thực hiện các mô

hình tại địa phương.

3.3.3. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua phát triển làng nghề

truyền thống và các doanh nghiệp

Việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, không chỉ làm sống

lại một số ngành nghề đã có từ lâu đời ở các địa phương, khai thác được tay nghề

của các nghệ nhân, mà còn tạo điều kiện để sử dụng có hiệu quả lao động, nguyên

vật liệu sẵn có ở nông thôn để tạo ra các sản phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu. Tuy

nhiên, ở quận Long Biên hoạt động tạo việc làm này vẫn chưa được chú trọng. Mới

chỉ có một số ngành nghề truyền thống được phát triển như khai thác và chế biến

gỗ, gỗ dán ở Đức Giang, vì vậy chưa giải quyết được nhiều việc làm cho nhiều

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Thêm vào đó, số lượng và quy mô các

làng nghề không tăng nên việc sử dụng lao động hầu như không biến đổi nhiều.

Bên cạnh làng nghề truyền thống, việc phát triển các doanh nghiệp cũng là

77

một hoạt động giải quyết việc làm khá hiệu quả. Đặc biệt trong những năm gần đây,

quận Long Biên là quận có tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh. Điều này không chỉ

làm cho quận thay da, đổi thịt mà còn tạo ra nhiều việc làm, trong đó có việc làm

cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất. Sự phát triển các doanh nghiệp là cách

thức tạo ra nhiều việc làm một cách ổn định và mang lại thu nhập bền vững cho

người dân nói chung và đặc biệt là người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nói

riêng. Từ năm 2011-2015, việc phát triển các doanh nghiệp và các thành phần kinh

tế của quận đã giải quyết việc làm cho số lượng không nhỏ người lao động nông

nghiệp bị thu hồi đất. Cụ thể như sau:

- Giải quyết lao động thông qua phát triển các doanh nghiệp và các hình thức

sản xuất kinh doanh thương mại và dịch vụ như chợ Việt Hưng, chợ Thạch Bàn, Sài

Đồng, Dốc Cẩm, Ngọc Thụy, đã đi vào hoạt động, một số các siêu thị như Hapro,

Fivimart, Big C, Savico, AEON… đã và đang phát triển rất mạnh tại các phường Sài

Đồng, Gia Thụy, Đức Giang, Việt Hưng, Ngọc Lâm, Thạch Bàn … đây là những nơi

giải quyết số lượng không nhỏ khoảng trên 1000 người lao động buôn bán nhỏ có trình

độ lao động thấp phục vụ nhu cầu lương thực, thực phẩm hàng ngày.

- Phát triển các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp có chọn lọc, một số

ngành nghề mũi nhọn để tạo nhiều việc làm như: may gia công tại Sài Đồng, Đức

Giang, đẩy mạnh thêm các lĩnh vực như lắp ráp thiết bị gia dụng, văn phòng, thay

thế sửa chữa máy tính, máy in, điện thoại … tạo việc làm cho 600 - 800 lao động

ổn định[23].

- Phát triển nông nghiệp theo hướng đô thị sinh thái, hình thành các doanh

nghiệp sản xuất nông nghiệp. Từ năm 2011 đến nay, các phường như Ngọc Thụy, Việt

Hưng, Giang Biên, Phúc Lợi, Cự Khối, Thạch Bàn đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề sản

xuất rau sạch, rau an toàn, xây dựng trang trại nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả dài

ngày, các dịch vụ ăn uống vui chơi giải trí phát triển mạnh. Kết quả đạt được ở lĩnh vực

này đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 300 - 400 lao động [23].

- Các khu đô thị Việt Hưng, khu tái định cư phường Long Biên, hoặc trên

các trục đường mới được nâng cấp mở rộng tại tất cả các phường đều là những cơ

78

hội tạo điều kiện cho việc mở các cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ nhưng rất hiệu quả

tạo nhiều việc làm mới và tăng thu nhập cho người dân. Trong 5 năm đã giải quyết

việc làm cho trên 28.500 lao động trong đó có trên 8.000 người lao động thuộc các

hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp [23].

Ngoài ra, các doanh nghiệp nhận đất thu hồi cũng thực hiện cam kết tuyển

dụng lao động bị thu hồi đất của quận, nhưng họ chỉ tuyển một số ít những lao động

trẻ. Trong số 15.861 lao động bị thu hồi chỉ có 2500 lao động là người thuộc quận

Long Biên được tuyển dụng làm việc tại các doanh nghiệp nhận đất nông nghiệp thu

hồi. Nguyên nhân của thực trạng đó là các doanh nghiệp chỉ tuyển những lao động có

khả năng học nghề và đáp ứng được nhu cầu làm việc của họ, trong khi đó tỷ lệ lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp học nghề tại quận Long Biên rất thấp.

3.3.4. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động

Ngoài việc tổ chức giải quyết việc làm tại chỗ, quận Long Biên cũng chú ý

đến việc tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở nước ngoài,

hình thức này ngày càng được mở rộng. Quận chủ động tạo điều kiện cho các đơn

vị có chức năng xuất khẩu lao động triển khai tuyên truyền và tuyển dụng lao động

đi làm việc ở nước ngoài đến các phường.

Từ năm 2011 đến hết năm 2015, phòng Lao động-Thương binh xã hội đã

phối hợp cùng các công ty có chức năng xuất khẩu lao động, ủy ban nhân dân các

phường tổ chức tuyên truyền tới toàn thể nhân dân trên địa bàn các chỉ tiêu lao động

xuất khẩu như đi lao động xuất khẩu ở Nhật, Nga, Malaixia, Đài Loan... Tuy nhiên,

số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số lao động có việc làm.

79

Bảng 3.13: Số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đi xuất khẩu lao động

Các chỉ tiêu Đơn Giai đoạn

2011 2013 2015

Số lao động có việc làm sau khi bị thu hồi đất vị tính người 6.929 6.847 7.115

nông nghiệp. Trong đó: - Lao động nông nghiệp người 1.108 1.764 1.954

- Lao động phi nông nghiệp người 5.816 5.079 5.161

- Lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng người 5 9 7

Nguồn: Phòng lao động thương binh xã hội quận Long Biên

Để tránh các hành vi lợi dụng hoạt động xuất khẩu lao động để trục lợi, thời

gian qua phòng Lao động -Thương binh xã hội quận đã phối hợp chặt chẽ với các

ngành, các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động làm cho công tác xuất

khẩu lao động trên địa bàn hoạt động tương đối tốt và có hiệu quả. Quận cũng có

những hình thức hỗ trợ xuất khẩu lao động như phối hợp với các trung tâm dạy nghề

mở các lớp dạy ngôn ngữ, văn hóa, kỹ năng cho lao động xuất khẩu. Các doanh

nghiệp có nhiều nỗ lực và cố gắng trong việc tích cực, chủ động mở rộng, khai thác

các thị trường, tìm kiếm nguồn lao động xuất khẩu thông qua thị trường sức lao động,

tổ chức đoàn thể của địa phương để đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Tuy nhiên, hoạt động giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động ở Long

Biên còn rất khiêm tốn, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó như: Thị trường lao

động ngoài nước ngày càng bất ổn do sự biến động về tình hình thiên tai, chính trị, kinh tế

của các nước trên thế giới; Nông dân bị thu hồi đất chưa được đào tạo chuyển đổi nghề, ít

có nhu cầu đi xuất khẩu lao động do hạn chế về nghề nghiệp chuyên môn, ngoại ngữ; Các

doanh nghiệp xuất khẩu lao động chưa chú trọng tới đào tạo kỹ năng cho các nhân viên

chuyên trách xuất khẩu lao động, công tác tư vấn cho người lao động làm chưa tốt; Công

tác thông tin tuyên truyền về xuất khẩu lao động tuy có nhưng vẫn chưa mạnh, chỉ tập

trung vào danh sách doanh nghiệp xuất khẩu lao động, chưa công khai các thủ tục, mức

kinh phí khi đi xuất khẩu lao động; Công tác kiểm tra, kiểm soát còn chưa chặt chẽ…

80

3.3.5. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua các tổ chức đoàn thể

chính trị - xã hội

Trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp trên địa bàn quận Long Biên, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội có vai trò

quan trọng, đặc biệt là trong việc khuyến khích người lao động tự tạo việc làm cho

bản thân và những người khác. Trong những năm qua, Phòng lao động-thương binh

xã hội đã phối hợp với Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ và Phòng Kinh tế tổ

chức tuyên truyền, tư vấn và hỗ trợ thực hiện các mô hình đào tạo nghề và giải

quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn, lao động thuộc diện di dời, giải toả

bị thu hồi đất sản xuất. Mặt khác, quận cũng đã chỉ đạo các cấp hội, đoàn thể tuyên

truyền về công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đến từng hội viên, đoàn

viên, các tầng lớp nhân dân, qua đó tạo sự nhận thức về tầm quan trọng của công tác

dạy nghề, học nghề, chuyển đổi ngành nghề cho lao động nông thôn, nông dân bị

thu hồi đất.

Đối với công tác tư vấn, hướng nghiệp, Phòng Lao động-Thương binh xã hội

quận đã phối hợp với phòng Văn hóa thông tin, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ

nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Ban chỉ huy quân sự Quận, các trung tâm

giới thiệu việc làm tổ chức 248 buổi tư vấn hướng nghiệp cho 8.720 lượt người lao

động có nhu cầu tìm việc làm và phát triển kinh tế nhằm tạo cho họ có nhận thức

đúng đắn về việc làm, để từ đó họ tự chọn cho mình một công việc phù hợp với bản

thân và nhu cầu xã hội. Hỗ trợ 50 triệu đồng cho 14 phường để tăng cường sinh

hoạt các câu lạc bộ hướng nghiệp, dạy nghề của phường. Hoạt động của 14 Trung

tâm học tập cộng đồng của 14 phường đã tập trung vào công tác tuyên truyền, tư

vấn hướng nghiệp về chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của Quận, nhất là vùng

chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Năm 2011 đến nay đã hỗ trợ 500 triệu đồng cho

350 chuyên đề được tổ chức tại 14 phường với trên 4000 lượt người tham gia với

các nội dung về hướng nghiệp và dạy nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều

kiện Việt Nam gia nhập WTO trong đó: Đã tổ chức 168 chuyên đề (các Hội đoàn

thể 88 chuyên đề, Uỷ ban dân số- kế hoạch hóa gia đình 14 chuyên đề, Trung tâm

81

Giáo dục thường xuyên Việt Hưng 8 chuyên đề, Phòng kinh tế 28 chuyên đề, Phòng

Giáo dục 32 chuyên đề), và 44 chuyên đề do Phòng Lao động- Thương binh xã hội

tổ chức. Riêng trong năm 2015, tổng số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được

tuyển sinh học nghề thông qua các tổ chức đoàn thể, chính trị - xã hội là 153 người.

3.3.6. Hoạt động giải quyết việc làm thông qua thị trường sức lao động

Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường sức lao động trong giải quyết

việc làm, trong những năm qua quận Long Biên đã tổ chức thành công các “Hội chợ

việc làm”, kêu gọi được tổng số 95 đơn vị tham gia trong đó có 34 đơn vị thuộc địa

bàn Quận Long Biên [24]; Thuộc các lĩnh vực như: Dệt may, da giầy, công nghệ

thực phẩm, sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất kinh doanh đồ gia dụng, điện tử,

điện lạnh, xây dựng giao thông, bưu chính viễn thông …Hội chợ đã thu hút khoảng

10.000 lượt người tham gia thuộc đủ mọi tầng lớp người lao động, trong đó tập

trung vào lứa tuổi 20-35 tuổi. Ngoài nhân dân thuộc Quận Long Biên còn có khá

nhiều người lao động đến từ huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, quận Hoàn

Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Thanh Xuân, Tây Hồ. Thậm chí có cả người lao

động đến từ Tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh … Kết quả đăng ký tuyển dụng vào các vị

trí làm việc mới là 5.599 người, nộp hồ sơ tuyển sinh đào tạo nghề là 4.157 người

(tuyển dụng trực tiếp tại phòng phỏng vấn là 1.540 người). Trong đó con em các hộ

gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp là 245 lao động, con hộ nghèo 126 người, 98

người là bộ đội xuất ngũ, con em các hộ gia đình chính sách là 27 người [24].

Năm 2011, quận thành lập 05 điểm giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận,

huyện trong đó có “Điểm giao dịch việc làm quận Long Biên”. Điểm giao dịch

viêc làm là đầu mối thông tin về thị trường lao động, là nơi cung cấp cho người lao

động và người sử dụng lao động những thông tin về cung - cầu lao động để họ lựa

chọn tìm việc làm; Là nơi liên hệ trực tiếp giữa nhà tuyển dụng và người tìm việc;

là điểm tổng hợp thông tin, chia sẻ thông tin giữa hệ thống Trung tâm giới thiệu

việc làm Hà Nội với Điểm giao dịch việc làm quận. Tạo điều kiện để các doanh

nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động, các trung tâm giới thiệu việc làm, các trường

đào tạo nghề tổ chức các hoạt động tư vấn, hướng nghiệp, tuyển dụng, tuyển sinh để

82

đáp ứng nhu cầu của mình. Tư vấn, hướng dẫn thực hiện các chính sách về Bảo hiểm

thất nghiệp cho người lao động. Với mục đích hỗ trợ người lao động tìm việc làm,

học nghề, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tuyển được lao động và các trung tâm dạy

nghề, các cơ sở đào tạo trong tuyển sinh đào tạo, góp phần giải quyết tốt mối quan

hệ cung-cầu của thị trường lao động Thủ đô.

Điểm giao dịch việc làm quận Long Biên có 5 nhiệm vụ như sau:

1. Tư vấn việc làm cho người lao động

2. Thông tin liên quan đến lao động-việc làm, đào tạo nghề.

3. Tiếp nhận đăng ký tìm việc, đăng ký học nghề của người lao động.

4. Tiếp nhận đăng ký tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp.

5. Tiếp nhận đăng ký thất nghiệp, hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Bên cạnh đó, quận chỉ đạo ủy ban nhân dân các phường triển khai kế hoạch của

Phiên giao dịch việc làm tới 100% tổ dân phố. Hệ thống, truyền thanh, tờ rơi, panô áp

phích đã được căng treo, tuyên truyền kịp thời, đầy đủ. Do vậy người lao động được

tiếp cận đầy đủ thông tin của các doanh nghiệp, nên khi phỏng vấn, tuyển dụng đạt

hiệu quả cao. Tổng số có 107 đơn vị tham gia. Trong đó có 35 đơn vị đóng trên địa

bàn quận Long Biên và huyện Gia Lâm. Có khoảng trên 30000 lượt người tham dự

các phiên giao dịch việc làm qua các năm thuộc đủ mọi tầng lớp người lao động.

Trong đó, số lượt người lao động được phỏng vấn và tuyển dụng là 15.483 lượt

người; Tổng số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được tuyển dụng là 9.006

người chủ yếu tập trung vào các ngành nghề thuộc lĩnh vực Tài chính- ngân hàng, công

nghệ thông tin, Quản trị kinh doanh, quản trị nhân sự, Luật, Kỹ sư xây dựng, Tư vấn,

chăm sóc khách hàng, sản xuất, lắp ráp điện tử, cơ khí... Trong đó, số lao động được

học nghề chỉ chiếm 46,33%.

83

Bảng 3.14. Kết quả lao động bị thu hồi đất tìm đƣợc việc làm tại các

phiên giao dịch việc làm của quận Long Biên giai đoạn 2011-2015

(Đơn vị: Lao động)

Số người lao động bị thu hồi đất nông Số lao động nghiệp tìm được việc làm Phiên giao dịch tuyển dụng Đã học nghề Chưa học nghề

Năm 2011 977 636 341

Năm 2012 688 403 285

Năm 2013 1368 317 1051

Năm 2014 380 281 93

Năm 2015 479 394 85

Tổng số 3.892 2.037 1.855

Tỷ lệ (%) 100 62,9 37,1

Nguồn: Phòng Lao động-thương binh xã hội quận Long Biên

Qua 5 năm, quận đã thiết lập được một hệ thống thông tin, dữ liệu 2 chiều

với các nhà tuyển dụng lao động bao gồm các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất có

nhu cầu tuyển dụng lao động. Hiện nay, thường xuyên có từ 15- 20 đơn vị liên hệ

trực tiếp với phòng để cung cấp nhu cầu tuyển dụng lao động, tuyển sinh học nghề.

Thường xuyên thông báo nhu cầu tuyển dụng lao động của các đơn vị trên hệ thống

đài truyền thanh các phường để người lao động được biết.

3.4. Đánh giá chung về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên

3.3.1. Những kết quả chủ yếu

Với sự nỗ lực trong các hoạt động giải quyết việc làm của quận Long Biên,

của doanh nghiệp, của bản thân người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, trong

những năm qua quận đã thu được nhiều kết quả trong việc giải quyết việc làm cho

người lao động nói chung và người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng,

cụ thể là:

84

Về tỷ trọng số người lao động sau khi bị thu hồi đất tìm được việc làm trong

tổng số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, từ 2011 đến năm 2015, quận Long

Biên đã giải quyết việc làm cho 9.485 lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, chiếm

46,33 % số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

Về tỷ trọng số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được hỗ trợ, đào

tạo lại nghề, chuyển đổi nghề nghiệp chiếm 48,96 % số người lao động bị thu hồi

đất. Tỷ trọng những người được đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường sức lao

động được thể hiện ở tỷ trọng số người xin được việc làm sau khi được đào tạo

chiếm 34,1% trong tổng số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

Về tỷ trọng những người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp không kiếm

được việc làm ổn định, đời sống bấp bênh, gặp nhiều khó khăn chiếm 53,67% trong

tổng số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

Về tỷ trọng số người lao động sau khi thu hồi đất nông nghiệp được Nhà

nước hỗ trợ xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm chiếm 0,1% trong tổng số

nông dân bị thu hồi đất.

Chính quyền địa phương và chủ đầu tư các dự án đã có sự phối hợp trong

việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, đào tạo lại nghề cho người nông dân

bị thu hồi đất để có thể thu hút họ vào làm việc trong các dự án đầu tư.

Các chính sách giải quyết việc làm của trung ương và địa phương được quận

chỉ đạo thực hiện thường xuyên nhằm giải quyết việc làm không chỉ cho nông dân

bị thu hồi đất nông nghiệp mà còn cho người lao động nói chung đã bước đầu có

hiệu quả nhất định như đã tổ chức được một số hội trợ việc làm, tổ chức các lớp đào

tạo nghề…

Như vậy, mặc dù mục đích của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển

kinh tế và nhằm chuyển đổi một lượng lớn lao động nông nghiệp sang hoạt động

công nghiệp, dịch vụ nhưng tỷ lệ này chưa cao. Trên thực tế, sự phát triển này chỉ

giải quyết việc làm cho một nửa trong số rất nhiều lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp đang mất việc. Đây là một thách thức lớn cho chính quyền quận Long Biên

trong thời gian tới.

85

3.3.2. Những hạn chế, và nguyên nhân

3.3.2.1. Những hạn chế

Bên cạnh những thành công mà quận Long Biên đã đạt được trong vấn đề gải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, công tác này vẫn còn

nhiều hạn chế, có thể kể đến một số hạn chế sau:

- Số người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được giải quyết việc làm

trong tổng số lao động vẫn còn thấp (46,33%).

- Số lượng người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được đào tạo nghề, hỗ

trợ chuyển đổi nghề nghiệp chưa cao (48,96%), trong khi tỷ lệ lao động đào tạo

nghề tạo được việc làm còn thấp (34,1%).

- Tỷ trọng những người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp không kiếm

được việc làm ổn định, đời sống bấp bênh, gặp nhiều khó khăn còn cao (53,67%).

- Kết quả xuất khẩu lao động cho nông dân bị thu hồi đất thấp (chiếm 0,1%

trong tổng số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp).

- Mức độ phối hợp giữa chính quyền địa phương và các chủ đầu tư dự án

chưa cao. Chính quyền chưa thực sự vào cuộc để giải quyết việc làm, chủ dự án

thường chỉ hứa khi thu hồi nhưng sau đó ít có những hỗ trợ thiết thực đến người

nông dân. Cụ thể là số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp được tuyển dụng vào các

doanh nghiệp thu hồi đất chỉ chiém 15,67% tổng số lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp.

- Các chính sách giải quyết việc làm đôi khi chưa bám sát thực tế như công

tác đào tạo nghề, công tác hỗ trợ chuyển đổi việc làm còn nhiều bất cập... Việc tổ

chức đào tạo nghề cho người lao động khi thu hồi đất nông nghiệp chưa được

nghiên cứu một cách chu đáo, dẫn đến nghề nghiệp được đào tạo chưa phù hợp với

nhu cầu của thị trường sức lao động, cho nên, người lao động đã được đào tạo

nhưng vẫn không tìm được việc làm.

- Sự phối hợp giữa chính quyền quận và người lao động trong tạo việc làm

sau thu hồi đất chưa thực sự thống nhất, gây khó khăn cho người dân, nhất là người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trong việc ổn định cuộc sống.

86

3.3.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập

Những hạn chế trên của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, bất cập trong ban hành, thực hiện chủ trương, chính sách của nhà

nước trong giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Mặc

dù, chính quyền quận Long Biên đã có nhiều cố gắng trong giải quyết việc làm cho

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, nhưng trên thực tế hiệu lực, hiệu quả còn

thấp, điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau: Quận đã xây dựng và thông qua nhiều dự

án giải quyết việc làm cho người lao động, có sự theo dõi tình hình thực hiện của

những dự án đó qua từng năm, trên địa bàn từng phường, tuy nhiên, những dự án đó

chưa gắn trách nhiệm đối với doanh nghiệp sử dụng đất. Điều này, dẫn đến tình

trạng là các doanh nghiệp chưa quan tâm đến người lao động mà mình lấy đất để sử

dụng vào mục đích kinh doanh, làm cho việc thực thi các văn bản của chính quyền

hiệu quả, hiệu lực còn thấp; Hệ thống các doanh nghiệp chưa có điều kiện để phát

triển do thiếu vốn, thiếu đầu ra nên hạn chế về số lượng, chất lượng việc làm được

giải quyết do bộ phận doanh nghiệp; Sự phối hợp giữa các ban, ngành chức năng

như phòng Lao động -Thương binh và xã hội, phòng Tài chính - Kế hoạch, các ban

dự án đền bù, giải tỏa còn chưa thống nhất, chưa cụ thể về trách nhiệm trong giải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp; thiếu sự kiểm tra,

giám sát và theo dõi diễn biến giải quyết việc làm cho người lao động, do đó không

nắm được tình hình cụ thể về số lượng lao động bị thu hồi đất cần giải quyết việc

làm và thực tế giải quyết được bao nhiêu và nguyên nhân vì sao thì chưa có sự đánh

giá cụ thể; công tác tuyên truyền, tư vấn cho người lao động bị mất đất nặng về hình

thức và phong trào, thiếu tính thực tế, cụ thể dẫn đến sự hoài nghi vào cơ chế, chính

sách của người dân bị thu hồi đất…

Thứ hai, bất cập trong công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho nông dân bị thu

hồi đất (chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất). Công tác đào tạo

chuyển đổi nghề có vai trò rất quan trọng trong giải quyết việc làm cho số lượng lớn

lao động mất việc làm do bị thu hồi đất, nó tạo điều kiện cho người lao động tự tạo

87

ra việc làm phù hợp. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai thường gặp nhiều

khó khăn, cụ thể: Ngành nghề đào tạo chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu

của người học nghề. Chỉ tiêu đào tạo những nghề phù hợp với lao động nữ ít hơn so

với những nghề dành cho lao động nam, trong khi nhu cầu giải quyết việc làm của

lao động nữ lại khá cao; các trung tâm dạy nghề vẫn bị động trong việc tìm kiếm

thông tin cần thiết để điều chỉnh những nội dung giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu

của nhiều đối tượng sử dụng lao động khác nhau. Trang thiết bị của trường dạy

nghề thì lạc hậu, giáo viên cần đào tạo lại; trong số lao động được học nghề thì do

nhiều nguyên nhân khác nhau nên học viên nghỉ học, bỏ tiết gây khó khăn cho các

cơ sở dạy nghề trong việc quản lý lớp. Một trong những nguyên nhân khiến nông

dân không mặn mà với chuyện học nghề là họ chưa quen với những việc cần phải

suy nghĩ, học các kiến thức mới; Vẫn còn tình trạng học viên sau khi tốt nghiệp các

khoá đào tạo nhưng trình độ tay nghề không đáp ứng được yêu cầu của thị trường

lao động nên không có việc làm hoặc việc làm không đúng nghề được đào tạo, thu

nhập thấp. Điều này được lý giải là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở

dạy nghề với nhà tuyển dụng. Các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư để đào tạo

tại chỗ; sự tham gia của các doanh nghiệp được giao đất sản xuất kinh doanh dịch

vụ còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đúng cam kết trước khi nhận

đất; Người dân còn thiếu nhiều thông tin về chuyển nghề, đào tạo nghề; các chương

trình mục tiêu về hướng nghiệp còn đơn lẻ, dàn trải chưa có sự kết hợp thường

xuyên; các tổ chức, các doanh nghiệp chưa thường xuyên quan tâm đến đào tạo

nghề, giải quyết việc làm cho người dân, đặc biệt là những lao động lớn tuổi; Riêng

đối với đào tạo thợ thủ công: chỉ có 3% được dạy nghề tại trường và truyền nghề tại

doanh nghiệp, 97% số thợ còn lại học theo hình thức “cha truyền con nối”. Các

trường dạy nghề thường không quan tâm hỗ trợ cho các làng nghề. Trong khi thanh

niên trong làng nghề lại không đủ điều kiện về văn hoá để tuyển sinh, hơn nữa họ

phải nuôi gia đình không thể bỏ làm việc để xa nhà theo học hàng năm trời trong

trường dạy nghề. Với những thợ đang làm thuê cho doanh nghiệp trong làng nghề

thì không dám đi học vì sợ đi học sẽ mất việc. Điều này dẫn đến kết quả là hai hình

88

thức đào tạo bị tách biệt nhau: trường chủ yếu đào tạo cho các đối tượng xã hội,

làng nghề phải tự lo đào tạo cho con em mình.

Theo số liệu điều tra cho thấy có đến 75% số hộ khi được hỏi về chất lượng

của việc đào tạo nghề trên địa bàn quận Long Biên cho rằng không tốt, 15% cho là

bình thường và chỉ có 10% đánh giá tốt; Về việc đào tạo nghề có giúp cho người lao

động trong gia đình các hộ được điều tra tìm được việc làm thì có tới 60% trả lời là

không và chỉ có 40% là có. Như vậy, có thể nói rằng chất lượng đào tạo nghề trên

địa bàn quận chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm cho người

lao động, chưa phù hợp với đòi hỏi của các doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu đặt ra là

cần phải nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người lao động nói chung và người

lao động bị mất đất nông nghiệp nói riêng đáp ứng được yêu cầu của xã hội và phục

vụ tốt cho người lao động trong vấn đề giải quyết việc làm.

Thứ ba, đa số những hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp chưa có ý thức

chủ động trong việc tự đào tạo để chuyển đổi nghề để có việc làm ổn định cuộc sống,

chưa biết sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí bồi thường. Theo kết quả điều tra, khảo

sát trên địa bàn quận, chỉ có 5,29% số tiền được sử dụng cho mục đích học tập, đào

tạo nghề. Sau khi mất đất, 51% nông dân vẫn giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp,

13% chuyển sang nghề mới, 36% không có việc làm hoặc việc làm không ổn định.

Từ đó, thu nhập của họ thấp, khả năng chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội

tham gia vào môi trường lao động công nghiệp đòi hỏi kỹ năng và tính kỷ luật cao là

không dễ dàng. Các doanh nghiệp chủ yếu chỉ tuyển những lao động trẻ khoẻ, từ chối

tiếp nhận những đối tượng lao đông đã cao tuổi vào làm việc. Trong khi một bộ phận

lao động trẻ ham chơi, thích hưởng thụ, không chịu được vất vả nên cũng khó đào tạo

để chuyển đổi nghề.

Thứ tư, trong vấn đề tổ chức – quản lý chiến lược, quy hoạch và lao động

của quận vẫn còn nhiều bất cập. Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác dự

báo quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị, các khu công nghiệp có ý nghĩa rất quan

trọng. Do công tác dự báo quy hoạch, kế hoạch chưa tốt nên việc đảm bảo việc làm,

thu nhập điều kiện sống của người dân có đất bị thu hồi trên địa bàn những năm qua

89

được thực hiện một cách thụ động. Việc thu hồi đất nông nghiệp chưa gắn với quy

hoạch, kế hoạch phát triển đô thị và các khu công nghiệp, chưa có kế hoạch, chính

sách và biện pháp chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới cho người lao động, nhất là

chính sách hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất

nông nghiệp. Thêm vào đó, việc tổ chức triển khai chưa thực sự công khai, dân chủ

và minh bạch, chưa tổ chức thông tin tuyên truyền về chủ trương thu hồi đất để

người lao động chủ động học nghề, chuyển nghề và tự tạo việc làm. Đây là tồn tại

lớn nhất, là căn nguyên gốc rễ dẫn đến những phức tạp trong thực tiễn, gây hậu quả

nặng nề và mất lòng tin của nhân dân vào chủ trương của Đảng và Nhà nước, dẫn

đến những khiếu kiện, có nguy cơ mất ổn định xã hội.

90

CHƢƠNG 4

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG

BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN LONG BIÊN –

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4.1. Bối cảnh mới và ảnh hƣởng của nó đến giải quyết việc làm cho lao

động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên.

4.1.1. Thuận lợi

Thời gian tới là thời kỳ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển

của quận Long Biên với mục tiêu trở thành đô thị trung tâm phía bắc Thủ đô phát

triển bền vững, đồng bộ, hiện đại. Trong bối cảnh đó, chúng ta có những thuận lợi

cơ bản, đó là: Thành phố Hà Nội đã được “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, “Quy hoạch chung xây

dựng Thủ đô đến 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; quận Long Biên tiếp tục nhận được

sự quan tâm chỉ đạo của Thành phố, sự phối hợp giúp đỡ có hiệu quả của các sở ngành.

Trên địa bàn quận, quy hoạch phân khu đô thị N10 tỷ lệ 1/2000 được phê

duyệt và tiếp tục triển khai quy hoạch R5, R6. Các dự án lớn đồng loạt được thực

hiện, hạ tầng đô thị cơ bản được hoàn thiện và khớp nối. Một số dự án hạ tầng kỹ

thuật của Trung ương, Thành phố và các dự án ngoài ngân sách sẽ hoàn thành: nút

giao cầu Thanh Trì, dự án đường sắt trên cao, dự án mở rộng cầu Vĩnh Tuy, dự án

Khai Sơn, nút giao trung tâm. Các khu đô thị tiếp tục được đẩy nhanh tiến độ, thu

hút các doanh nghiệp đầu tư các dự án quy mô lớn: Khu đô thị sinh thái Sài Đồng

96 ha, công viên công nghệ thông tin, khu đô thị Him Lam tại phường Cự Khối,

Long Biên, Thạch Bàn 300 ha; khu phụ trợ công nghiệp Hanel 37 ha. Tiếp tục hình

thành và đưa các trung tâm thương mại lớn vào hoạt động như: dự án trung tâm đô

thị có diện tích 400ha tại khu vực bãi Sông Hồng; dự án 100 ha do tập đoàn Vincom

đầu tư; Trung tâm thương mại Nhật Bản Aeon Mall 10 ha tại phường Thạch Bàn.

Bên cạnh đó, tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

luôn ổn định; hệ thống chính trị đồng bộ, hoạt động hiệu quả; năng lực lãnh đạo và

91

sức chiến đấu của cấp ủy từ quận tới cơ sở ngày càng được nâng lên. Đây là những

điều kiện thuận lợi để quận Long Biên phát triển nhanh và bền vững hơn trong

những năm tới.

4.1.2. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi, thời gian tới công tác giải quyết việc làm cho

người lao động bịt thu hồi đất trên địa bàn quận Long Biên cũng có không ít khó

khăn như: Tốc độ phát triển đô thị nhanh hơn; dân số cơ học tiếp tục gia tăng gây

sức ép lớn về hạ tầng xã hội trong khi nguồn vốn đầu tư phát triển khó khăn, nguồn

lực về đất đai dần hạn hẹp; nhu cầu định hướng nghề nghiệp, giải quyết việc làm

cho người dân trong độ tuổi lao động, đảm bảo an sinh xã hội đặt ra ngày càng gay

gắt; công tác đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, quản lý đô thị, quản

lý đất đai, tài nguyên môi trường, xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh đô thị của

nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn.

4.2. Định hƣớng về giải quyết việc làm cho ngƣời dân bị thu hồi đất nông

nghiệp ở quận Long Biên

Sau khi thành lập quận Long Biên, diện tích đất sản xuất nông nghiệp cần

phải chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn để đáp ứng cho sự

phát triển thủ đô giàu đẹp vững mạnh nói riêng và quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước nói chung. Điều này đồng nghĩa với việc thu hồi đất diễn ra mạnh

hơn, trên phạm vi rộng hơn, theo đó số lượng nông dân mất đất nông nghiệp tăng

lên và số lao động dư thừa do quá trình này ngày càng cao. Trên cơ sở lý luận và

thực tiễn đã nghiên cứu và tổng kết được, đối với thành phố Hà Nội việc đảm bảo

việc làm, đời sống cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi cần phải dựa trên

các quan điểm chủ yếu sau:

- Giải quyết vấn đề đời sống, việc làm của người dân sau khi bị thu hồi đất phải

đặt trong chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị

trường. Đây phải được xem là quan điểm chủ đạo, xuyên suốt trong các chính sách

của Nhà nước cũng như của Thành phố Hà Nội đối với việc đảm bảo việc làm, thu

nhập và điều kiện sống cho người có đất bị thu hồi. Vấn đề đời sống, việc làm của

92

người dân sau khi bị thu hồi đất phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

Hà Nội đến năm 2020 và tầm nhìn 2030; trong chiến lược phát triển kinh tế vùng

thủ đô, vùng đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt

phải xem xét vấn đề cải thiện đời sống, việc làm cho người dân sau khi bị thu hồi

đất trong quy hoạch chung của Hà Nội mở rộng. Các dự án, đồ án phải phù hợp với

quy hoạch và không được phá vỡ quy hoạch chung; giải quyết các vấn đề về lao

động, việc làm sau thu hồi đất chính là khắc phục những yến kém do nguyên nhân

khách quan và chủ quan gây ra mà chủ yếu là nguyên nhân khác quan, bảo đảm cho

chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chung phát triển kinh tế xã hội Thủ đô bền vững,

thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng vẫn giữ gìn hài hoà bản sắc văn hoá

ngàn năm Thăng Long - Hà Nội.

- Đảm bảo hài hoà các lợi ích: lợi ích quốc gia, lợi ích của người dân có đất

nông nghiệp bị thu hồi và lợi ích của nhà đầu tư

Về phía xã hội, thu hồi đất sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao

động theo hướng phát triển và nâng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, đẩy

mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hoá. Nhờ đó, phát triển kinh

tế - xã hội tốt hơn, tăng trưởng kinh tế cao hơn, đưa đất nước tiến nhanh trên con

đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

Đối với người dân có đất bị thu hồi: Thu hồi đất để phát triển đất nước nhưng

nó ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản và có thể nói là sống còn của mỗi người dân có đất

bị thu hồi. Họ không còn ruộng đất để sản xuất, không có công ăn việc làm, thu

nhập thiếu ổn định, cuộc sống sẽ bị xáo trộn, do đó nếu không đảm bảo cho họ việc

làm, thu nhập thường xuyên thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn. Vì vậy, giải quyết việc

làm, thu nhập, điều kiện sống cho người dân là vấn đề đặt ra hàng đầu khi thu hồi

đất nông nghiệp.

Đối với nhà đầu tư, có thể đó là Nhà nước với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc gia, có thể đó là chủ doanh nghiệp

thuộc các thành phần kinh tế khác nhau do mua quyền sử dụng đất của dân nên sẽ

có đất để phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển các doanh nghiệp tiến

93

hành sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận cao hơn khi chưa đầu tư.

Quá trình thu hồi đất diễn ra thành công hay không phụ thuộc vào việc giải

quyết các mối quan hệ lợi ích này có đúng đắn hay không, có hài hoà hay không,

nhưng trong đó trước hết phải chú ý đến lợi ích của người dân, phải giải quyết một

cách cơ bản thoả đáng các lợi ích và được coi là gốc rễ thắng lợi của chủ trương thu

hồi đất để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy điều quan trọng là cán bộ

địa phương phải công tâm, trong sạch, Nhà nước phải phải công khai, minh bạch

xây dựng và thực hiện chính sách trên cơ sở quán triệt quan điểm kết hợp hài hoà

các lợi ích.

- Giải quyết đồng bộ các vấn đề đời sống, việc làm của người dân sau khi bị

thu hồi đất trên cơ sở phân tích cụ thể vấn đề nảy sinh của từng dự án. Căn cứ vào

tính lịch sử cụ thể để giải quyết, tuy nhiên phải chú ý đến quan hệ với những vấn đề

chủ yếu như: giá đất đền bù, công ăn việc làm, nhà tái định cư, kết cấu hạ tầng kỹ

thuật và hạ tầng xã hội, môi trường sống và sự phát triển bền vững, dịch vụ đời sống

vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân… Giải quyết vấn đề hướng tới ổn định

chính trị và bảo đảm ổn định chính trị, thu hút đầu tư xây dựng và phát triển Thủ đô,

thực hiện hài hoà các lợi ích, nâng cao đời sống cho nhân dân.

- Đảm bảo việc làm, điều kiện sống cho người dân có đất nông nghiệp bị thu

hồi là một nhiệm vụ quan trọng vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa mang tính

lâu dài trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hoá theo hướng hiện đại ở thủ đô. Việc đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa sẽ đi liền với việc mở rộng thu hồi đất của người dân để phục vụ quá trình phát

triển. Điều này cũng có nghĩa là số người không có việc làm do mất đất mỗi năm

tăng lên và còn diễn ra trong thời gian tương đối dài. Vì vậy, giải quyết việc làm,

thu nhập và điều kiện sống của người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi vừa là

nhiệm vụ cấp bách, vừa mang tính lâu dài trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

của thủ đô Hà Nội, đòi hỏi các cấp, các ngành phải quán triệt một cách đầy đủ và

nghiêm túc. Đây chính là một hình thức thực hiện các chủ trương nhất quán của

Đảng và Nhà nước về việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội

94

theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là vấn đề bức xúc trong quá trình

phát triển đất nước theo hướng hiện đại.

- Cần tuân theo nguyên tắc thị trường, đồng thời Nhà nước tạo môi trường và

thực hiện điều tiết vĩ mô để đảm bảo việc làm, thu nhập và điều kiện sống cho người có

đất bị thu hồi

Thực tiễn cho thấy, những khó khăn phức tạp trong công tác thu hồi đất thời

gian qua là chưa có sự thống nhất và quán triệt đầy đủ các nguyên tắc này, không

đảm bảo ngang giá, công khai, minh bạch và bình đẳng trong việc thực hiện chính

sách đền bù, hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Vì vậy, trong điều kiện phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết việc làm, thu

nhập và điều kiện sống cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi nên thực hiện

theo cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc pháp luật và chính sách phù hợp. Giải

quyết việc làm, cải thiện điều kiện sống cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi

cũng cần phải tuân thủ hai yêu cầu:

+ Tuân thủ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ

giải quyết việc làm, thu nhập cải thiện điều kiện sống cho người dân có đất nông

nghiệp bị thu hồi. Điều này thể hiện trước hết ở giá cả đền bù, hỗ trợ phải được thoả

thuận giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người mất đất sản xuất. Đồng thời theo nguyên

tắc thị trường cũng đòi hỏi người lao động nâng cao tính chủ động trong việc tìm lại

việc làm, sử dụng tiền đền bù hiệu quả có thu nhập ổn định, cũng như Nhà nước

giải quyết các yêu cầu bức xúc về việc làm, thu nhập, điều kiện sống của bản thân

gian đình họ.

+ Phải tăng cường điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua việc hoàn thiện hệ

thống pháp luật và chính sách kinh tế, tạo nên sự đồng bộ, hợp lý của hệ thống

chính sách giải quyết lợi ích cho người nông dân và các doanh nghiệp liên quan.

- Đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống cho lao động vùng chuyển đổi

mục đích sử dụng đất là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền từ trung

ương xuống địa phương và cơ sở của các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, xã hội

nghề nghiệp của các doanh nghiệp và của mọi người dân có liên quan, phát huy tính

95

chủ động sáng tạo của người dân bị thu hồi đất trong học nghề, tự tạo việc làm và

tham gia thị trường lao động.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu dẫn đến việc chuyển đổi mục đích sử

dụng các loại đất, đặc biệt là chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất

phi nông nghiệp. Theo đó một bộ phận lớn nông dân sẽ mất việc làm trong ngành

nông nghiệp. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức rất lớn đối với nước ta nói chung

và với các quận, huyện của thủ đô Hà Nội nói riêng. Cơ hội có điều kiện để chuyển

đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp. Thách thức bởi lẽ đây là vấn

đề cực kỳ khó khăn và nan giải để chuyển dân số nông thôn thành dân số thành thị.

Vì vậy trong quá trình thực hiện, cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ

Đảng, sự chỉ đạo của Chính quyền các cấp trong việc thực hiện các phương án đền

bù và phương án dạy nghề, tạo việc làm cho người lao động trong vùng chuyển đổi

mục đích sử dụng đất. Các mục tiêu phát triển, các giải pháp thực hiện công nghiệp

hóa, hiện đại hóa cần được thảo luận một cách nghiêm túc, đảm bảo được chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đem lại lợi ích thiết thực và bền vững cho mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là những người có đất nông nghiệp bị thu hồi

phục vụ cho quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên.

Sau khi thủ đô được mở rộng, công tác thu hồi đất nông nghiệp của Hà Nội

tăng cả về số lượng dự án, diện tích đất thu hồi và số hộ bị ảnh hưởng do thu hồi

đất. Cơ chế chính sách đan xen kế thừa, cũ mới làm nảy sinh nhiều vấn đề cần phải

tập trung tháo gỡ và tổ chức thực hiện. Để làm tốt công tác này cần có các giải pháp

tích cực về cơ chế chính sách, tổ chức quản lý, về chỉ đạo thực hiện cụ thể đối với từng địa bàn, dự án.

4.3.1. Các giải pháp về cơ chế, chính sách và công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện.

4.3.1.1. Chính sách tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp

Do đặc điểm của người lao động ở những độ tuổi khác nhau là không giống

nhau, nên tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp cũng phải

quan tâm đến vấn đề này để có những chính sách đặc thù sao cho hợp lý.

- Đối với lao động trẻ tuổi của các hộ bi thu hồi đất nông nghiệp là những người

96

đã được đào tạo chuyển đổi nghề: Nhà nước cần có qui định cụ thể về trách nhiệm của

các nhà đầu tư có sử dụng đất chuyển đổi mục đích sử dụng trong việc tuyển dụng, sử

dụng lao động của các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp.

Thực tế cho thấy, ở nhiều địa phương đã có yêu cầu các doanh nghiệp sử

dụng đất thu hồi phải ưu tiên sử dụng lao động tại chỗ, tuỳ điều kiện từng địa

phương, có qui định cụ thể mỗi ha đất thu hồi phục vụ cho dự án, chủ doanh nghiệp

phải đào tạo và sử dụng một lượng lao động nhất định của địa phương. Thời gian

qua, các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố đã thực hiện đúng các qui định này,

nhưng hầu như chỉ mang tính chất đối phó vì sau một thời gian ngắn, họ lại thải hồi

số lao động này vì nhiều lý do, chủ yếu là không đáp ứng nhu cầu công việc hoặc

do người lao động không thích ứng với môi trường công nghiệp nên xin ra khỏi

doanh nghiệp.

Kết quả là lao động trẻ của các hộ bị thu hồi đất vẫn không có việc làm. Vì vậy,

trách nhiệm có tầm quan trọng đặc biệt của các doanh nghiệp là phải đào tạo, huấn

luyện, bồi dưỡng cho người lao động về tay nghề và tạo môi trường, bầu không khí lao

động tập thể thuận lợi để duy trì lao động. Bên cạnh đó, hướng giải quyết thiết thực là

nên dùng một phần tiền đền bù để đào tạo nghề bắt buộc, có chính sách ưu tiên xuất

khẩu lao động kỹ thuật đối với lao động trẻ qua đào tạo chuyển đổi nghề của các hộ bị

thu hồi đất nông nghiệp.

- Đối với lao động trẻ của các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp chưa có việc

làm, chưa qua đào tạo: Loại lao động này chiếm tỷ lệ cao nhất trong lực lượng lao

động trẻ của các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, bao gồm đa

số những người chỉ làm nông nghiệp, khả năng cạnh tranh và hội nhập thị trường

lao động rất kém. Do đó, các giải pháp tạo việc làm cho lao động trẻ nhóm này cần

hướng vào hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề phù hợp, theo các hình thức linh hoạt, sát

với yêu cầu của thị trường lao động để nâng cao khả năng tìm việc làm; hỗ trợ kinh

nghiệm quản lý, kinh doanh, chuyển giao công nghệ, tiếp cận hệ thống tín dụng để

họ phát triển kinh tế gia đình, kinh doanh cá thể, tiểu thương, tiểu chủ; hoàn thiện

chính sách thu hút lao động trẻ nhóm này vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu

97

dịch vụ; phát triển mạng lưới thông tin việc làm, giới thiệu việc làm thông qua hội

chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm, việc làm qua Internet…

- Đối với đối tượng lao động nông nghiê ̣p trên 35 tuổi, cần có những hỗ trơ ̣ riêng biê ̣t. Tâ ̣p trung đào ta ̣o nghề ngắn ha ̣n đối vớ i đối tươ ̣ng này , chủ yếu là các nghề di ̣ch vu ̣. Đồng thời ngân sách nhà nư ớc cũng cần thiết kế những khoản hỗ trơ ̣ giúp những đối tươ ̣ng này phát triển đươ ̣c nghề nghiê ̣p sau đào ta ̣o , mở rô ̣ng kinh doanh di ̣ch vu ̣ xung quanh các cu ̣m , khu công nghiê ̣p tâ ̣p trung ho ặc đi lao đô ̣ng xuất khẩu...

Các khó khăn đối với số nhóm đối tượng này là: Họ chỉ có kinh nghiệm

trong sản xuất nông nghiệp truyền thống, khi bị thu hồi đất họ rất khó thích nghi với

môi trường mới, khó hội nhập vào thị trường lao động hơn là lao động trẻ tuổi; Tâm

lý ngại xa gia đình, ngại chi phí cho đào tạo hoặc không đủ điều kiện về trình độ

văn hoá để tham gia các khoá đào tạo chuyển nghề; Với nhóm lao động trình độ học

vấn thấp, do không có nền tảng cơ sở để tiếp thu trong quá trình đào tạo chuyển đổi

nghề. Họ chỉ có thể tham gia vào phân mảng thị trường lao động phổ thông hoặc tự

tạo việc làm trong lĩnh vực dịch vụ thương mại đời sống.

Để giải quyết việc làm cho nhóm lao động cao tuổi và nhóm lao động có

trình độ văn hoá thấp cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp:

+ Phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, nghề phi nông nghiệp;

Mở rộng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống cho dân cư để

tạo nhiều việc làm trong lĩnh vực này.

+ Có chính sách cho vay vốn ưu đãi, miễn, giảm thuế với người lao động lớn

tuổi, lao động trình độ học vấn thấp để họ tự tạo việc làm trong lĩnh vực dịch vụ đời

sống, du lịch, thương mại…

+ Có chính sách hỗ trợ khuyến khích người lao động tích cực tham gia vào

các lớp khuyến nông, ứng dụng công nghệ mới.

+ Chính quyền quận kết hợp với Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh

mở các lớp đào tạo nghề ngắn hạn, khuyến nông miễn phí hoặc chi phí thấp cho lao động

tuổi 35 trở lên để giúp họ tạo việc làm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.

98

4.3.1.2. Chính sách đầu tư

Trong việc đầu tư cho các hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động

bị thu hồi đất nông nghiệp tại quận Long Biên, ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ

đạo. Tuy nhiên, việc phân phối ngân sách nhà nước cho các hoạt động này cần đảm

bảo một cơ cấu hợp lý sao cho hiệu quả nhất. Trong cơ cấu chi ngân sách nhà nư ớc

cho đào ta ̣o nghề củ a ng ười dân bị thu hồi đất canh tác , cần chú tro ̣ng đă ̣c biê ̣t tớ i tăng dần tỷ tro ̣ng đầu tư cho đào ta ̣o nghề dài ha ̣n thay vì đầu tư chú tro ̣ng đào ta ̣o nghề ngắn ha ̣n như hiê ̣n nay . Đây là mô ̣t hướ ng đi mang tính tro ̣ng tâm , trọng điểm và là hướng đi chiến lược giúp thay đổi căn bản hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề

chuyển đổi nghề nghiê ̣p củ a ngườ i nông dân ngoa ̣i thành Hà Nô ̣i trong tiến trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ.

Chính quyền quận Long Biên có thể thực hiện hình thức xã hội hóa đầu tư

chính sách hỗ trợ khác . Mở rô ̣ng quyền tự chủ

dành cho hoạt động đào tạo nghề bằng cách khuyến khích viê ̣c xây dựng các cơ sở đào ta ̣o nghề ngoài công lâ ̣p đươ ̣c quản lý như là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n hữu cơ trong hê ̣ thố ng giáo du ̣c quốc dân và đươ ̣c khuyế n khích giú p đỡ , hê ̣ thống chương trình đào tạo theo qui định của pháp luật . Nhà nước thực hiện hỗ trợ về thuế , đất đai và các , tự chi ̣u trách nhiê ̣m trong tổ chứ c cung cấp dịch vụ đào tạo nghề đối với các cơ sở đào tạo nghề công lập : Xây dựng

cơ chế tự chủ tài chính để các đơn vi ̣ này phát huy đươ ̣c các tiềm năng về nhân lực , tài lực và vật lực , gia tăng cung cấp di ̣ch vu ̣ đào ta ̣o cho xã hô ̣i, tăng thu, tiết kiê ̣m

chi, giảm dần sự bao cấp của ngân sách nhà nư ớc, cải thiện đời sống cho đội ngũ

cán bộ, công nhân viên trong đơn vi ̣.

Đối với các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền quận nên khuyến

khích người dân đầu tư tiền đền bù vào phát triển sản xuất - kinh doanh, tự tạo việc

làm, hoặc chủ động định hướng cho người dân sử dụng tiền đền bù một cách có

hiệu quả. Từ kinh nghiệm của nhiều địa phương, số tiền bồi thường được chia làm

hai phần. Một phần giao cho người dân xây dựng nhà cửa, chi tiêu vào các việc cần

thiết trong gia đình, phần còn lại có thể được góp vốn vào doanh nghiệp với hình

hình thức như mua cổ phần, gửi ngân hàng, mua bảo hiểm,… Với cách làm này

99

người dân sau khi bị thu hồi đất vẫn được chia lợi nhuận từ kết quả sản xuất công

nghiệp, kể cả có việc làm ngay trên mảnh đất của mình hoặc nhận tiền từ lãi suất

tiền gửi để có thu nhập ổn định. Đây là việc cần thiết đối với người hết tuổi lao

động, với người già không còn khả năng lao động.

4.3.1.3. Chính sách hỗ trợ tài chính

Chính sách hỗ trợ tài chính cần được xây dựng đối với từng đối tượng trong

hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Theo

đó, quận cần chú ý một số vấn đề sau:

- Xác định rõ ràng trách nhiệm của các bên trong hỗ trơ ̣ đào ta ̣o nghề cho ngườ i dân bi ̣ thu hồi đất nông nghi ệp: Giữa nhà nướ c mà đa ̣i diê ̣n là chính quyền đi ̣a phương các cấp , chủ đầu tư là các doanh nghiệp thực hiện đầu tư và bản thân

cũng phải có trách nhiệm tài chính với đào tạo nghề .

ngườ i lao đô ̣ng đươ ̣c đền bù Hiê ̣n nay, viê ̣c xác đi ̣nh trách nhiê ̣m hỗ trơ ̣ giải phóng mă ̣t bằng , hỗ trơ ̣ ổn đi ̣nh đờ i số ng củ a các chủ đầu tư đối vớ i ngườ i dân trong vù ng bi ̣ thu hồi đất canh tác l à khá rõ ràng, nhưng viê ̣c xác đi ̣nh trách nhiê ̣m hỗ trơ ̣ đào ta ̣o nghề và trách nhiê ̣m hỗ trơ ̣

tạo công ăn việc làm cho người lao động sau khi đào tạo nghề đối với doanh nghiệp

chủ đầu tư còn chưa thực sự minh bạch . Nếu như xác định rõ ràng trách nhiệm này

và kêu gọi đầu tư từ chủ đầu tư các dự án sẽ là một nguồn tài chính đáng kể để phát

triển đào ta ̣o nghề cho ngườ i dân bi ̣ thu hồi đất canh tác trên đi ̣a bàn thành phố. Đặc biê ̣t, cần quan tâm đa da ̣ng hoá nguồn và phương thứ c trả ho ̣c phí đối vớ i ngườ i dân , cũng học nghề để thu hút huy động thêm nguồn vốn cho các cơ sở đào tạo nghề

như để nâng cao trách nhiê ̣m ho ̣c tâ ̣p đối vớ i ngườ i dân ho ̣c nghề .

- Đối với tiền hỗ trợ, có thể chuyển từ phương thứ c hỗ trơ ̣ mô ̣t lần, hình thức chi trả trực tiếp, sang hình thứ c hỗ trơ ̣ nhiều lần theo suốt quá trình đào ta ̣o . Đây là mô ̣t cách thức làm mới và hiệu quả hơn đối với phương thức thanh toán một lần. Lúc này,

chính quyền địa phương sẽ kiểm soát được việc sử dụng tiền tệ trong việc hỗ trợ người

dân bi ̣ thu hồi đất canh tác, gắn vớ i kết quả củ a quá trình đào ta ̣o nghề. Có thể phân ra làm các giai đoạn chi trả khác nhau. Ngườ i dân tham gia ho ̣c nghề phải đưa đươ ̣c minh chứ ng kết quả ho ̣c nghề qua các giai đoa ̣n làm căn cứ để thanh toán.

100

- Cần tăng mứ c hỗ trơ ̣ cho ngườ i dân bi ̣ thu hồi đất canh tác tham gia ho ̣c

. Hỗ trơ ̣ cho

nghề. Mứ c tăng thêm , phải tính toán đến sự cân đối của ngân sách đồng thời phát triển nguồn thu từ các nguồn ngoài ngân sách tù y theo tình hình thực tế ngườ i dân thông qua thẻ ho ̣c nghề . Để đảm bảo sử du ̣ng đú ng mu ̣c đích củ a các

khoản tài chính hỗ trợ dạy nghề ở các khu vực nói trên , chủ dự án sẽ lập danh sách

nhu cầu ho ̣c nghề củ a các hô ̣ bi ̣ thu hồi đất , sau đó gử i ho ̣ đến các cơ sở da ̣y nghề

phù hợp. Khi đó cả ngườ i da ̣y và ngườ i ho ̣c nghề đề u đươ ̣c thu ̣ hưở ng đú ng ưu đãi

tài chính cho người lao động tại các vùng đô thị hoá nhanh ở ngoại thành .

- Đối với những người lao động tuổi đời trên 35 tuổi, khó có khả năng học nghề,

thì cần tạo điều kiện mở các lớp đào tạo ngắn hạn về các ngành nghề dịch vụ, đồng thờ i

có cơ chế khuyến khích phát triển các dịch vụ xung quanh khu công nghiệp, giúp người

dân có cơ hô ̣i chuyể n đổi nghề nghiê ̣p tốt hơn . Chế đô ̣ miễn giảm ho ̣c phí cũng cần thực hiê ̣n công bằng giữa trườ ng công và trườ ng tư, đồng thờ i cần có lô ̣ trình cu ̣ thể vớ i chủ trương này. Trướ c mắt Nhà nướ c, thành phố có thể hỗ trợ 50% đối vớ i đối tươ ̣ng diê ̣n chính sách ho ̣c ta ̣i các cơ sở đào ta ̣o nghề ngoài công lâ ̣p. 4.3.1.4. Chính sách về thị trường sức lao động

- Cần có chính sách phát triển hiệu quả thị trường sức lao động qua đó phổ

biến rộng rãi thông tin về việc làm để người lao động nông thôn nói chung, nông

dân bị thu hồi đất nói riêng tiếp cận kịp thời nhu cầu về việc làm trong xã hội: Hoàn

thiện và hiện đại hóa hệ thống thông tin thị trường lao động; Hiện đại hóa và chuẩn

hóa hoạt động giao dịch việc làm tại sàn giao dịch việc làm trở thành hoạt động

hàng tháng tại Trung tâm giới thiệu việc làm của quận; Phát triển mạnh các trung

tâm dịch vụ việc làm theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động để tạo điều kiện

thuận lợi cho người lao động nói chung, người lao động bị thu hồi đất nói riêng có

thể tìm được việc làm.

- Có chính sách mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, tạo điều kiện cho người

lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tham gia xuất khẩu lao động. Xuất khâu lao động

là một giải pháp quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu

giải quyết việc làm và giảm nghèo bền vững. Để người lao động nói chung, lao động bị

101

thu hồi đất nói riêng hiểu biết một cách đầy đủ thông tin về lợi ích, tính chất, điều kiện

cũng như hàng loạt các vấn đề về văn hóa, điều kiện làm việc, những quy định của

nước nhập khẩu lao động... việc phổ biến rộng rãi và đẩy đủ thông tin về xuất khẩu lao

động cần được thực hiện nghiêm túc. Lâu nay, có rất nhiều lao động muốn được tham

gia xuất khẩu lao động nhưng do không nắm được đầy đủ thông tin về những nơi mình

sẽ đến làm việc, những công việc cụ thể mình phải làm nên đã bị rất nhiều kẻ môi giới

lừa đảo, làm cho tiền mất, không được làm việc, đã nghèo lại thêm nợ nần chồng chất,

làm nản lòng những người muốn tham gia xuất khẩu lao động khác. Đặc biệt, những

thông tin về xuất khẩu lao động ít được phổ biến rộng rãi nên người lao động, nhất là

lao động khu vực nông thôn chỉ biết được qua người thân, hoặc các môi giới để kiếm

lợi, các luồng thông tin chính thức từ các đơn vị chức năng rất khó tiếp cận. Chính vì

vậy, để tăng cường giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động, quận cần có

những chính sách để công khai hóa, minh bạch hóa các tiêu chí, số lượng về lao động

xuất khẩu của từng thị trường, đồng thời phải có cơ chế kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ

đối với hoạt động này.

4.3.1.5. Về công tác chỉ đạo và thực hiện

- Cần có sự thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo thực hiện chính sách

thu hồi đất. Việc hồi đất, giải quyết việc làm, quan tâm tới điều kiện sống của người

dân có đất nông nghiệp bị thu hồi phải được thực hiện đồng bộ.

- Về tổ chức thực hiện, cần huy động và có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ

quan chức năng trong thu hồi đất, giải quyết việc làm, ổn định thu nhập và điều

kiện sống cho người dân. Đây là trách nhiệm của các ban ngành, các tổ chức có liên

quan, không chỉ cơ quan quản lý đất đai, mà cả cơ quan pháp luật, các ngành công

nghiệp, nông nghiệp, thương mại, các cơ quan tài chính, ngân hàng, giáo dục, đào

tạo,… do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong thành

phố và đơn vị cấp huyện, xã.

- Tăng cường cán bộ chuyên trách làm công tác thu hồi, chuyển đổi mục đích

sử dụng đất đai: Trong những năm gần đây, khối lượng thu hồi, chuyển đổi mục

102

đích sử dụng đất đai diễn ra mạnh mẽ. Điều đó liên quan đến việc lập, duyệt các

quy hoạch chi tiết, các thủ tục thẩm định, thiết kế kỹ thuật dự toán, đấu thầu, cân

đối tài chính, tổ chức giải quyết việc làm, thu nhập và điều kiện sống của người dân

tăng lên rất nhanh, làm cho công tác này trở nên quá tải đối với bộ máy và cán bộ

các huyện, xã, phường.

Vì vậy, trong thời gian tới cần có định biên cho các cơ sở làm công tác này,

căn cứ từ những dự báo về chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xác định đội ngũ

cán bộ chuyên trách, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Cần có chế độ đãi

ngộ, thưởng phạt công minh, đảm bảo chất lượng cán bộ, giữ vững phẩm chất của

người cán bộ.

4.3.2. Giải pháp về công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho nông dân bị thu hồi đất

Trong những năm tới, quận Long Biên cần phải đa dạng hóa các ngành nghề

đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học nghề. Tăng chỉ tiêu đào tạo những nghề

phù hợp với lao động nữ để giải quyết nhu cầu giải quyết việc làm của lao động nữ

còn khá cao. Chính quyền quận và các cơ quan chuyên môn cần phối hợp với các

trung tâm dạy nghề trong việc tìm kiếm thông tin cần thiết để điều chỉnh những nội

dung giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng sử dụng lao động

khác nhau, đầu tư trang thiết bị cho các trường dạy nghề, đào tạo lại và nâng cao

chuyên môn của giáo viên dạy nghề. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý

học viên tại các cơ sở đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Quận cần xây

dựng cơ chế để tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở dạy nghề với nhà tuyển

dụng. Quận cần khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đầu tư để đào tạo tại chỗ;

tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp được giao đất sản xuất kinh doanh

dịch vụ vào công tác đào tạo nghề cho người lao động bị mất đất nông nghiệp đúng

như cam kết trước khi nhận đất. Quận cần thực hiện phổ biến các về chuyển nghề,

đào tạo nghề; các chương trình mục tiêu về hướng nghiệp cần có sự kết hợp thường

xuyên; có những chính sách khuyến khích các tổ chức, các doanh nghiệp thường

xuyên quan tâm đến đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân, đặc biệt là

những lao động lớn tuổi. Quận cũng cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các

103

làng nghề tham gia vào công tác đào tạo nghề để đảm bảo người lao động được đào

tạo, nâng cao năng lực sản xuất.

4.3.3. Giải pháp nhằm nâng cao tính chủ động của người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp trong giải quyết việc làm và sử dụng nguồn kinh phí bồi

thường một cách hiệu quả.

Đối với người lao động trên địa bàn quận nói chung và người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp nói riêng, chính quyền quận cùng các ban, ngành đoàn thể cần

đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân ý thức được vấn đề giải quyết việc

làm, chủ động trong tìm kiếm việc làm, tránh tư tưởng ỷ lại, chông chờ, thụ động.

Bên cạnh đó, quận cũng cần đầu tư phát triển, cũng như tuyên truyền nhân rộng các

mô hình sản xuất kinh doanh mới như làng ẩm thực, du lịch sinh thái, nông trại hữu

cơ ở Tuệ Viên – Cự Khối, trang trại giáo dục tại phường Long Biên… nhằm giải

quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận. Quận

cũng cần có những định hướng cho các hộ bị thu hồi đất về sử dụng nguồn kinh phí

bồi thường để tham gia đào tạo nghề hoặc tự tạo việc làm, làm cho nguồn kinh phí

được sử dụng hiệu quả.

4.3.2. Các giải pháp về tổ chức và quản lý

4.3.2.1. Tổ chức – quản lý về chiến lược, quy hoạch

- Phải có sự gắn kết giữa các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược

phát triển ngành kinh tế kỹ thuật, các khu kinh tế, khu công nghiệp, tiến trình thực

hiện đô thị hoá thành phố Hà Nội,… với chiến lược đào tạo ngành nghề để chuẩn bị

một đội ngũ lao động phù hợp với yêu cầu của việc chuyển đổi mục đích sử dụng

các loại đất ở các huyện ngoài thành. Việc chuẩn bị này phải đi trước một bước,

phải được tuyên truyền thường xuyên, thông báo rộng rãi để người lao động ở các

huyện, các xã có đất nông nghiệp bị thu hồi chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn kỹ

thuật phù hợp với các doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh trên mảnh đất mà

họ chuyển giao, đồng thời có thông báo rộng rãi về quy hoạch phát triển, doanh

nghiệp mới có định hướng đầu tư phát triển và có thể có được nguồn lao động đáp

104

ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện công khai hoá quy

hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu vực Hà Nội mở rộng nội đô, công khai

hoá giá đất và hình thức hỗ trợ tạo việc làm,… Theo đó, các cơ sở đào tạo cũng chủ

động trong công tác chuẩn bị xây dựng chương trình kế hoạch đào tạo nguồn nhân

lực phù hợp.

Khắc phục triệt để tình trạng "quy hoạch treo" đối với các dự án trên địa bàn

thành phố; những diện tích đất đã bị thu hồi nhưng không triển khai thực hiện đúng

tiến độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng không triển khai xây dựng dẫn đến dân mất

đất không có việc làm mà doanh nghiệp, các nhà đầu tư cũng không thu hút được

lao động. Kiên quyết loại bỏ tình trạng một số người dân lợi dụng quy hoạch để lấy

đất của nông dân hoặc bố trí cho các dự án không khả thi, hoặc đầu cơ bất động sản,

dẫn đến đất nông nghiệp bị bỏ không, người dân thì không có đất để sản xuất. Để

giải quyết tình trạng này, cần phát triển các khu công nghiệp làng nghề theo hình thức

đổi đất. Các huyện có điều kiện có thể quy hoạch các khu công nghiệp làng nghề nằm

trên các khu vực không bị ảnh hưởng đến việc canh tác nông nghiệp.

- Phải xây dựng một chiến lược chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang

phi nông nghiệp của cả quận. Cũng như rà soát lại quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp,

điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp gắn với kế hoạch dạy nghề, tạo việc

làm, đặc biệt giữa kế hoạch phát triển các doanh nghiệp với kế hoạch tuyển dụng lao

động tại chỗ cho người trong độ tuổi lao động. Phải thể chế hoá cam kết của người sử

dụng đất, ưu tiên thu hút lao động tại chỗ.

4.3.2.2. Tổ chức – quản lý về lao động

- Các cấp chính quyền cần nắm rõ thực trạng lao động, việc làm ở những khu

vực có đất nông nghiệp bị thu hồi, từ đó đề xuất kế hoạch đào tạo nghề cho lao động

tại địa phương mình. Kế hoạch đào tạo của huyện, xã phải được xây dựng chi tiết,

trên cơ sở phân loại lao động, độ tuổi, sức khoẻ,… mức độ dáp ứng yêu cầu của các

105

doanh nghiệp. Từ đó thành phố sẽ có đề án, chương trình phát triển nguồn nhân lực

dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để tạo việc làm cho người lao động.

- Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc

thu hồi, tạo việc làm và điều kiện sống cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.

Cần có những cuộc điều tra và nghiên cứu lắng nghe tâm tư nguyện vọng, những

bức xúc và mức độ hài lòng của người dân. Từ đó nghiêm túc đánh giá những thành

công và hạn chế trong công tác tổ chức. Chính sách việc làm, thu nhập và điều kiện

sống của người dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp cần được xây dựng cùng với

sự thảo luận dân chủ, rộng rãi của người dân. Đồng thời, các cấp chính quyền cần

có biện pháp để thực hiện nghiêm túc mọi cam kết với dân khi thực hiện chuyển đổi

mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Lãnh đạo thành phố, các quận cần đối thoại trực

tiếp để giải quyết vấn đề này. Các cán bộ trong ban đền bù, giải phóng mặt bằng cần

làm việc trực tiếp với dân, động viên, giải thích mọi vướng mắc để người dân chấp

thuận tạo điều kiện giải phóng mặt bằng. Cần chủ động góp sức với chính quyền

giải quyết những bức xúc về việc làm và điều kiện sống của người dân sẽ đem lại

hiệu quả hơn.

- Giải quyết việc làm, điều kiện sống cho người dân có đất nông nghiệp bị thu

hồi để phát triển các khu công nghiệp và phát triển quận Long Biên, cũng như thành

phố Hà Nội để Hà Nội trở thành đô thị đặc biệt là việc làm phức tạp, nhạy cảm. Do

đó cần có đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có chuyên môn nghiệp vụ, công

tâm trong tổ chức thực hiện. Vì thế công tác đào tạo đội ngũ cán bộ để đảm bảo việc

thực thi công vụ đó chính là yếu tố có tính quyết định cho sự thắng lợi của công tác

đào tạo, bồi dưỡng. Vậy vấn đề đào tạo cán bộ cần được chú trọng lựa chọn những

cán bộ có đủ phẩm chất đạo đức, đồng thời cần có sự giáo dục tinh thần, trách nhiệm

của người cán bộ và cần nâng cao năng lực công tác nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ từ

thành phố đến các quận (huyện), xã (phường).

106

- Thành phố cần rà soát lại các chính sách có liên quan đến việc thu hồi đất

nông nghiệp, các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm, đánh giá hiệu quả của các giải

pháp, từ đó đưa ra các chính sách mới phù hợp hơn, đảm bảo hài hoà các lợi ích.

4.3.4. Một số giải pháp đặc thù khác

Ngoài những giải pháp chung nói trên, từ thực tế phân tích tình hình giải

quyết việc làm ở quận Long Biên, xét trên đặc thù riêng có của quận là một quận

đang trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh chóng, công tác giải quyết

việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng và người lao động

nói chung trên địa bàn quận cần phải tập trung vào một số giải pháp sau đây:

- Tập trung phát triển mô hình trang trại trong nông nghiệp, chuyển dịch cơ

cấu cây trồng, phát triển hình thức nông nghiệp sinh thái gắn liền với các dịch vụ

trong nông nghiệp. Hình thành các vùng chuyên canh cây ăn quả như ổi ở Phúc Lợi,

rau sạch ở Cự Khối, Ngọc Thụy… nhằm cung cấp cho các khu đô thị, khu công

nghiệp, siêu thị ngay trên địa bàn quận. Giải pháp này vừa khai thác được lợi thế ở

tốc độ đô thị hóa của quận, vừa đảm bảo vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm cho

người dân và giải quyết việc làm cho người lao động khá hiệu quả.

- Phát triển mô hình kinh tế theo hướng thương mại – dịch vụ - du lịch sinh

thái như mô hình làng ẩm thực Lệ Mật – Việt Hưng, thiền viện Sùng Phúc – Cự

Khối… Những mô hình này là những mô hình mới nhưng đã cho thấy hiệu quả

trong sản xuất kinh doanh cũng như giải quyết việc làm. Hiện tại, làng ẩm thực Việt

Hưng sử dụng từ 300 – 400 lao động. Như vậy, nếu mô hình này được mở rộng sẽ

giải quyết được việc làm cho hàng nghìn lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.

- Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một lợi thế của quận Long Biên, hiện nay trên

địa bàn quận có tới 7000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, mỗi doanh nghiệp sử dụng ít

nhất hàng chục lao động. Dự báo trong thời gian tới, với tốc độ đô thị hóa, hiện đại

hóa của Long Biên, hình thức doanh nghiệp này còn tiếp tục phát triển. Đây là một

kênh giải quyết được nhiều việc làm cho lao động bị thu hồi đất, đặc biệt đối với

107

loại hình doanh nghiệp này, đòi hỏi về trình độ của người lao động không quá cao.

Trong thời gian tới, Long Biên nên có chính sách tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp vừa và nhỏ phát triển nhằm thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm cho người

lao động nói chung và người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.

- Long Biên đang là quận ngoại thành Hà Nội có tốc độ đô thị hóa nhanh, chỉ

trong vài năm gần đây bộ mặt của quận đã “thay da, đổi thịt” khá nhiều, kèm theo

đó là tốc độ tăng dân số cao (chủ yếu là do tăng dân số cơ học), trên địa bàn quận

hình thành nhiều khu đô thị, khu dân cư như khu đô thị Việt Hưng, khu biệt thự

Vincom, khu đô thị Sài Đồng… Trong khi đó, quá trình phát triển kinh tế của quận

ngày càng năng động nên nhu cầu đối với người giúp việc nhà ngày càng lớn. Đây

cũng là một kênh để giải quyết việc làm, nhất là đối với đối tượng người lao động

đã lớn tuổi, đối tượng rất khó để có thể chuyển sang làm việc trong khu vực công

nghiệp. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu đối với công việc giúp việc gia đình,

quận cần có chính sách hỗ trợ người lao động bị thu hồi đất trong việc đào tạo các

kỹ năng lao động giúp việc gia đình. Đối với Long Biên nói riêng và Hà Nội nói

chung, đây sẽ là một hoạt động giải quyết việc làm đầy hứa hẹn cho đối tượng lao

động lớn tuổi.

108

KẾT LUẬN

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi đất

nông nghiệp để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế ở các địa phương là không

thể tránh khỏi. Long Biên là quận mới thành lập nhưng đang có tốc độ đô thị hóa,

công nghiệp hóa mạnh, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi đang ngày một lớn, vấn

đề giải quyết việc làm cho người lao động bịt hu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn

quận lại càng trở nên cấp thiết, đó không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã

hội của quận. Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp cao học, đề tài đã hệ thống

hóa những vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm, giải quyết việc làm cho

người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp cũng như lý luận về thu hồi đất nông

nghiệp. Đề tài cũng đã đưa ra cơ sở thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề giải quyết

việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp thông qua kinh nghiệm của

một số địa phương trong nước.

Trên cơ sở phân tích những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc thù của

quận Long Biên, tình hình thu hồi đất của quận Long Biên và các hộ điều tra, sự

ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp tới việc làm và đặc điểm của người lao động

bị thu hồi đất, các hoạt động giải quyết việc làm mà quận Long Biên đã thực hiện,

từ đó đề tài đánh giá những kết quả mà quận Long Biên đã đạt được trong giải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên các phương diện

như số lao động được giải quyết việc làm, đào tạo nghề, sự phối hợp giữa các cơ

quan chức năng trong giải quyết việc làm…Bên cạnh những kết quả, các hoạt động

giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận

Long Biên vẫn còn một số hạn chế như hạn chế về chính sách, về quy hoạch,…

Từ việc phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong

giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận

Long Biên, đề tài đưa ra ba nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác

giải quyết việc làm bao gồm: Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách, nhóm giải pháp

về tổ chức – quản lý, nhóm giải pháp về công tác chỉ đạo thực hiện. Các nhóm giải

pháp này cần phải thực hiện một cách đồng bộ sẽ nâng cao chất lượng của công tác

giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên.

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hà Văn Cơ, 2007. Nghiên cứu thực trạng việc làm và thu nhập của

những hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở Thị trấn Trâu Quỳ - Huyện

Gia Lâm - Hà Nội. Luận văn tốt nghiệp Đại học, Đại học Nông nghiệp Hà Nội

2. Chính phủ, 2012. Quyết định số 1201/QĐ – TTg phê duyệt chương trình

mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề giai đoạn 2012 – 2015. Hà Nội.

3. Chính phủ, 2009. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009. Hà Nội

4. Chính phủ, 2006. Chỉ thị 11/2006/CT-TTG về xây dựng kế hoạch hỗ trợ

dạy nghề, tạo việc làm và vay vốn giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp. Hà Nội

5. Chính phủ, 2009. Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm

2020”. Hà Nội.

6. Chương trình KX 04, 1995. Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính

sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần. Đề tài cấp Nhà nước KX 04.04, Hà Nội.

7. Trần Ngọc Diễn, 2013. Chất lượng việc làm ở Việt Nam: Thách thức và

giải pháp, Tạp chí Lao động và Xã hội, (467).

8. Nguyễn Hữu Dũng, 2004. Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong

quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Tạp chí Lao động và

Xã hội, (246).

9. Nguyễn Hữu Dũng, 2005. Đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá với

việc đảm bảo điều kiện sống và làm việc của người lao động. Tạp chí Lý

luận Chính trị, (11).

10. Nguyễn Hữu Dũng, 2008. Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao

động việc làm. Tạp chí Cộng sản, (5).

11. Trần Đình Đằng, Đinh Văn Đán; 1996. Kinh tế hộ gia đình. Hà Nội:

NXB Nông nghiệp Hà Nội.

12. Vũ Phương Đông, 2012. Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến

đời sống và việc làm của người dân ở một số dự án trên đại bàn quận Long Biên,

110

Thành phố Hà Nội.

13. Nguyễn Hương Giang, 2008. Những thay đổi về viê ̣c là m và thu nhập của các hộ nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.

Đại học Nông Nghiệp - Hà Nội.

14. Hà Thị Hằng, 2008. Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân sau khi thu

hồi đất ở nước ta hiện nay. Tạp chí Khoa học Chính trị, (6).

15. Lê Văn Lợi, 2013. Những vấn đề xã hội nảy sinh từ việc thu hồi đất nông

nghiệp cho phát triển đô thị, khu công nghiệp và giải pháp khắc phục. Tạp chí Khoa

học Chính trị, (6).

16. Hoàng Thị Ngọc Loan, 2010. Việc làm và thu nhập của nông dân vùng

Đông Nam bộ dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Đề tài

khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực II. Hà Nội.

17. Trần Thị Minh Ngọc, 2010. Việc làm của nông dân trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến 2010. Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

dân sau khi thu hồi đất để ph

18. Nguyễn Văn Nhườ ng , 2010. Chính sách an sinh xã hội với người nông (nghiên cứ u tại Bắ c át triển các khu công nghiệp

Ninh). Luận văn Tiến sỹ kinh tế, Đại học Nông Nghiệp - Hà Nội.

19. Ngân hàng thế giới, 2011. Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch

đất đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, định giá đất và giải quyết

khiếu nại của dân.

20. Lê Du Phong, 2007. Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu

hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, các

công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia.

21. Nguyễn Duy Phương, 2013. Quan điểm và giải pháp giải quyết việc làm

ở nước ta hiện nay. Tạp chí Lao động và Xã hội, (464 + 465).

22. Phòng Lao động – Thương binh và xã hội, Ủy ban nhân dân quận Long

Biên. Báo cáo kết quả công tác Lao động, Thương binh và xã hội năm 2011, 2012,

111

2013, 2014,2015.

23. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, quận Long Biên; 2015. Thực

trạng lao động và việc làm ở quận Long Biên giai đoạn 2011 – 2015.

24. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, quận Long Biên, Trung tâm

giới thiệu việc làm, 2015. Báo cáo kết quả hoạt động các phiên giao dịch việc làm

từ năm 2011 đến 6/2015, Long Biên – Hà Nội.

25. Phòng tài nguyên và môi trường quận Long Biên. Báo cáo về tình hình

quy hoạch đất đai của quận Long Biên, thành phố Hà Nội tới năm 2020.

26. Phòng Thống kê quận Long Biên. Báo cáo công tác thống kê trên địa bàn

quận Long Biên năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015. Hà Nội

27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013. Luật Việc

làm. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

28. Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ biên), 1998. Đại từ điển kinh tế thị trường,

Viện Nghiên cứu và phát triển kiến thức bách khoa xuất bản, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Sử u, 2010. Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến

sinh kế của nông dân Viê ̣t Nam: Trườ ng hợp một là ng ven đô Hà Nội.

30. Phạm Đức Thành, Mai Quốc Chánh, 1998. Kinh tế lao động, Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội.

31. Lê Thi, 1991. Vấn đề việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị người phụ

nữ nông thôn hiện nay. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Mai Thi, 2012. Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở một số dự án trên địa bàn

quận Long Biên, Thành phố Hà Nội.

33. Nguyễn Tiệp, 2008. Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển

đổi mục đích sử dụng đất. Tạp chí Cộng sản, (7).

34. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (đồng chủ biên), 2009. Giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa . Hà Nội: NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

35. Phạm Thị Thúy, 2014. Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở Hà Nội.

112

Luận án tiến sĩ. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

36. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội . Báo cáo về công tá c đền bù giải

phóng mặt bằng năm 2015.

37. Uỷ ban nhân dân quận Long Biên. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm

2011, 2012, 2013, 2014 và 2015.

38. Uỷ ban nhân dân phường Giang Biên, Việt Hưng, Phúc Lợi. Ủy ban nhân

dân phường Thạch Bàn, Cự Khối, Long Biên về tình hình kinh tế - xã hội năm

2011,2012,2013,2014 và 2015.

113

PHỤ LỤC 1

PHIẾU KHẢO SÁT ẢNH HƢỞNG THU HỒI ĐẤT ĐÉN VIỆC LÀM

CỦA NÔNG DÂN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN

Tổ dân phố số …………………

Phường ……………………

Quận Long Biên.

Thành phố Hà Nội

Để có những số liệu, thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài:

“Giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội”, xin Ông (Bà) hợp tác, giúp đỡ bằng cách trả

lời các câu hỏi dưới đây.

Tôi xin cam đoan các thông tin thu được chỉ phục vụ duy nhất cho mục đích

nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn!

A. Thông tin về hộ gia đình

1. Họ và tên ngƣời đƣợc hỏi…………………………………Tuổi:……….

2. Gia đình ta có mấy khẩu? (chỉ kể những người ăn chung) .............. người

Cụ thể là: (bắt đầu từ chủ hộ)

TT Họ và Tên Trình độ Ghi chú Năm Giới

sinh tính Học vấn Chuyên

môn

1

2

3

4

5

6

7

8

114

+ Học vấn, chuyên môn: 0. THCS; 1. THPT; 2. TC, CĐ; 3. ĐH; 4. Ths; 5. TS

3. Đất đai của hộ ?

- Ông (bà) cho biết các thông tin về tình hình đất nông nghiệp của gia

đình trước và sau khi bị thu hồi đất?

STT Thời điểm Diện tích (m2) Cơ cấu (%)

1 Trước khi bị thu hồi đất

2 Sau khi bị thu hồi đất

- Hiện tại ông (bà) đang sử dụng diện tích đất nông nghiệp còn lại để làm

gì?....................

4. Tình hình sử dụng tiền bồi thường sau khi bị thu hồi đất của gia đình?

- Tổng số tiền được bồi thường của gia đình là bao nhiều?.......................

- Trong đó:

STT Mục đích sử dụng Số tiền sử dụng (đồng)

Thuê đất hoặc nhận chuyển nhượng đất nông 1 nghiệp để tiếp tục sản xuất

Đầu tư vào sản xuất kinh doanh dịch vụ 2

3 Đầu tư học nghề, học tập

4 Xây dựng, sửa chữa nhà cửa

5 Mua sắm đồ dùng

6 Cho vay

7 Gửi tiết kiệm ngân hàng

8 Đầu tư khác

115

4. Tình hình thu nhập của gia đình ông (bà) trước và sau khi bị thu hồi

đất? (đơn vị: triệu đồng)

Sau khi thu Chỉ tiêu Trƣớc khi thi hồi hồi

Tổng thu nhập bình quân của gia đình

-Thu nhập từ nông nghiệp

+ Trồng trọt

+ Chăn nuôi

-Thu nhập từ công nghiêp-dịch vụ thương mại

- Thu nhập khác

B. Việc làm

1. Tình trạng việc làm của các thành viên trong gia đình ông (bà)?

Chỉ tiêu Trƣớc khi thu hồi Sau khi thu hồi

Tổng số lao động trong độ tuổi

1. Có việc làm

- Nông nghiệp

- Công nghiệp

- Thương mại dịch vụ

- Ngành nghề khác

2. Không có việc làm

3. Đang học

4. Chưa đến tuổi lao động đã bỏ học

5. Hết tuổi lao động

6. Mất khả năng lao động

116

2. Sau khi bị thu hồi đất, người lao động trong gia đình thường tìm việc

làm bằng cách nào?

Thông qua sàn giao dịch việc làm của quận Thông qua các hội chợ việc làm

Việc làm của các doanh nghiệp đầu tư

Xuất khẩu lao động

Tự tạo việc làm (kinh doanh, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp…)

Hình thức khác

2. Có bao nhiêu người trong gia đình ông (bà) tham gia các lớp đào tạo

nghề, hướng nghiệp do phường, quận tổ chức?

..............................................................................................................

3. Ông (bà) đánh giá thế nào về các lớp đào tạo nghề? Tốt

Bình thường

Không tốt

4. Việc đào tạo nghề có giúp gì cho người lao động trong gia đình ông

(bà) trong việc tìm việc làm (hoặc tạo việc làm) không?

Không

5. Ông (bà) đánh giá thế nào về những nỗ lực giải quyết việc làm của

quận (phường)?

…………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………… ……………………………………………

6. Ông bà có ý kiến gì đối với công tác giải quyết việc làm cho lao động bị

thu hồi đất nông nghiệp?(đối với chính quyền, cơ quan, đoàn thể)

…………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………..

Xin chân thành cảm ơn!

117