BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

N G U Y Ễ N A N H T U Ấ N

NGUYỄN ANH TUẤN

GIỌNG ĐIỆU TRONG DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN

C H U Y Ê N N G À N H

:

V Ă N H Ọ C V I Ệ T N A M

K H Ó A

:

1 9

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN ANH TUẤN

GIỌNG ĐIỆU TRONG DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. La Nguyệt Anh

(Chữ ký của người hướng dẫn)

HÀ NỘI, 2017

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

với đề tài “Giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên”, tôi đã nhận được sự quan

tâm của Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, của

quí thầy cô giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam (Cao học khóa 19 – Đại

học Sư phạm Hà Nội 2). Đặc biệt, tôi vinh dự nhận được sự giúp đỡ hết sức tận

tình và nhiệt thành của Tiến sĩ La Nguyệt Anh - người trực tiếp hướng dẫn tôi

hoàn thành luận văn này.

Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Tiến sĩ La Nguyệt Anh, Ban Chủ nhiệm

khoa Ngữ văn, quí thầy cô, các phòng ban của trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

cùng gia đình, bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời

gian qua.

Xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Anh Tuấn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

trung thực, không trùng lặp với bất cứ đề tài nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi

sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn

trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Học viên

Nguyễn Anh Tuấn

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục

1 MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7

4. Mục đích nghiên cứu 7

5. Phương pháp nghiên cứu 7

6. Đóng góp của luận văn 8

7. Cấu trúc của luận văn 8

9 NỘI DUNG

9

Chương 1. Những vấn đề chung về giọng điệu và Di cảo thơ Chế Lan Viên

1.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật 9

1.1.1. Giọng và giọng điệu 9

1.1.2. Giọng điệu thơ trữ tình 12

1.2. Chế Lan Viên và hành trình kiến tạo giọng điệu nghệ thuật 15

1.3. Vị trí Di cảo thơ trong sự nghiệp thi ca của Chế Lan Viên 20

23

Chương 2. Những sắc thái giọng điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan Viên

2.1. Giọng suy tư, chiêm nghiệm 23

2.1.1. Suy tư, chiêm nghiệm về bản thể 23

2.2.2. Suy tư, chiêm nghiệm về thế sự, đời thường 32

2.2. Giọng chất vấn, đối thoại 36

2.2.1. Chất vấn, đối thoại về nghề 36

2.2.2. Chất vấn, đối thoại với người 43

54 Chương 3. Những yếu tố nghệ thuật góp phần biểu hiện giọng

điệu Di cảo thơ Chế Lan Viên

3.1. Ngôn ngữ thơ 54

3.1.1. Ngôn ngữ thơ giàu chất trữ tình 54

3.1.2. Ngôn ngữ thơ đậm tính tự sự 57

3.2. Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ 59

3.2.1. So sánh 59

3.2.2. Đối lập, tương phản và tương đồng 62

3.2.3. Câu hỏi tu từ 66

3.3. Thể thơ và nhịp điệu 68

3.3.1. Sự đa dạng trong nhịp điệu thơ tứ tuyệt 68

3.3.2. Cách tạo nhịp lạ trong thể thơ tự do 71

77 KẾT LUẬN

80 TÀI LIỆU THAM KHẢO

85 PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Vận động và phát triển là phương thức tồn tại của văn học nghệ thuật.

Quy luật ấy mang tính phổ quát cho mọi nền văn học trên thế giới và ở mọi thời

đại. Đối với những nhà văn, nhà thơ lớn đã từng sống và sáng tác vào những thời

điểm lịch sử và văn học chuyển mình mang ý nghĩa bước ngoặt thì dấu ấn của chủ

thể sáng tạo càng thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Nền văn học viết Việt Nam đã

có lịch sử hình thành và phát triển trên một nghìn năm nay. Qua bao nhiêu bước

thăng trầm, các thế hệ nhà văn Việt Nam đã xây dựng nên một nền văn học tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong cả chặng đường dài phát triển, có thể khẳng

định văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay được xem là giai đoạn có nhiều

bước biển chuyển mạnh mẽ nhất. Đây là thời kỳ văn học vận động và không

ngừng đổi mới theo xu hướng hiện đại hóa và dân chủ hóa cả về nội dung và hình

thức biểu hiện. Sự chuyển biến này có ý nghĩa cách mạng, làm thay đổi phạm trù

văn học, chuyển văn học Việt Nam từ thời trung đại sang hiện đại.

Nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, để chiếm lĩnh những giá trị

nhân văn và giá trị thẩm mĩ của nó, chúng ta không thể không chú ý đến sự vận

động và phát triển chung của cả nền văn học Việt Nam và cụ thể hóa ở những

tác gia, tác giả tiêu biểu.

1.2. Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt

Nam hiện đại. Con đường thơ của Chế Lan Viên trải dài hơn nửa thế kỷ, qua ba

thời kỳ: thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thời kỳ kháng chiến và

thời kỳ sau 1975. Thơ ông luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, gắn với một

phong cách đặc sắc và có vẻ đẹp riêng. Thơ Chế Lan Viên được đánh giá là đạt

đến đỉnh cao về tư tưởng, nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn

học nước nhà. Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam hiện đại, hiếm có

một nhà thơ nào chiếm lĩnh được cả ba đỉnh cao ở cả ba thời kỳ sáng tác như

Chế Lan Viên. Chính tài năng và những thành tựu to lớn trong sự nghiệp sáng

tác mà Chế Lan Viên đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là

2

những vần thơ Di cảo được người bạn đời của ông - nhà văn Vũ Thị Thường

miệt mài sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu cùng bạn đọc ba tập Di cảo thơ vào

các năm 1992, 1993, 1996. Mặc dù phần lớn Di cảo thơ mới chỉ ở dạng phác

thảo nhưng tác phẩm đã cho ta thấy một Chế Lan Viên chân thực, luôn trăn

trở không ngừng để đổi mới bản thân, một con người dám sống thật với chính

mình, dám nói lên tiếng nói của mình.

1.3. Trong thế giới nghệ thuật của Di cảo thơ Chế Lan Viên thì vấn đề

“giọng điệu” giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Nó đã góp phần tạo nên chân

dung một Chế Lan Viên mới, mang lại cho Di cảo thơ những giá trị riêng. Giọng

điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên đã được nghiên cứu ở nhiều mức độ khác

nhau. Nhưng việc nghiên cứu chuyên sâu giọng điệu Chế Lan Viên ở từng giai

đoạn sáng tác vẫn còn nhiều bỏ ngỏ với nhiều khía cạnh cần được kiến giải thấu

đáo, thấy được những đặc sắc nghệ thuật trong từng giai đoạn sáng tác của tác

giả. Bởi vậy, nghiên cứu giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên là một việc

làm hữu hiệu để thấy được nét độc đáo trong phong cách, sự ổn định, vận động,

biến đổi cùng những đóng góp của Chế Lan Viên trong tiến trình thơ Việt Nam

hiện đại.

1.4. Thơ Chế Lan Viên “là một minh chứng cho sức nghĩ, sức cảm của một

tâm hồn thơ không ngừng tỏa sáng trong suốt cuộc đời từ những vần thơ tài

năng của tuổi mười sáu trong những trang Di cảo cuối đời” [1, tr.12]. Nhiều tác

phẩm của Chế Lan Viên được đưa vào giảng dạy trong chương trình ngữ văn ở

các cấp học từ Trung học đến Cao đẳng, Đại học. Tìm hiểu thơ Chế Lan Viên

nói chung, vấn đề giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên nói riêng sẽ góp

phần thiết thực vào việc giảng dạy, nghiên cứu tác giả, tác phẩm trong nhà

trường. Chúng tôi hi vọng việc nghiên cứu đề tài này sẽ là sự để bổ sung thêm

kiến thức về Chế Lan Viên đồng thời góp phần khẳng định tài năng và phong

cách nghệ thuật của nhà thơ.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giọng

điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên”.

3

2. Lịch sử vấn đề

Chế Lan Viên là cây đại thụ trong thi ca Việt Nam hiện đại. Thơ Chế Lan

Viên thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn học với nhiều ý

kiến. Đặc biệt, ngay khi ba tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên ra mắt đã dành

được những tình cảm yêu mến của bạn đọc, sự quan tâm lớn của các nhà nghiên

cứu phê bình.

Trong Đôi điều suy nghĩ bộc bạch cùng bạn đọc, tác giả Phong Lan viết:

“Cũng giống như bất kỳ nhà văn, nhà thơ lớn hiện đại nào khác, việc đánh giá

từng tác phẩm nói riêng hay toàn bộ sự nghiệp văn chương của Chế Lan Viên

nói chung trải dài trong suốt sáu mươi năm, hẳn không tránh khỏi ở thời kỳ này

hay thời kỳ khác, ở tác giả này hay tác giả khác, do chi phối của lịch sử hay sự

ràng buộc của điều kiện khách quan, chủ quan nào đó mà đã có nhiều cách

đánh giá thơ ông khác biệt nhau, thậm chí trái ngược nhau tùy theo quan điểm

thẩm định riêng của mỗi thời và mỗi người. Đó cũng là điều bình thường và là

quyền của người viết. Lẽ thường xưa nay, nhà văn tầm vóc càng lớn, các tác

phẩm của họ càng đa diện, đa thanh, đa sắc, đa tầng bao nhiêu thì sự đánh giá

họ càng phong phú, phức tạp bấy nhiêu. Tuy nhiên, rồi sự định giá công tâm

sáng suốt và đáng tin cậy nhất bao giờ cũng là của thời gian và các thế hệ độc

giả hôm nay và mai sau” [25, tr.32].

Trần Thanh Đạm đã viết: “những bài thơ đang còn dở dang anh để lại trong

Di cảo phần lớn là những chiếc lá thơm hái lúc về già, mỗi chiếc mang một chút

hương tư tưởng từ cuộc đời anh như cây đó lâu năm ruột hóa thành trầm và

hương trầm đó đã chuyển chất thơm lên lá. Đó là những mảnh suy tư và xúc cảm

về vũ trụ, về nhân sinh, về nghệ thuật, về thơ”. Đồng thời ông khẳng định:

“Trong các nhà thơ của thế kỉ chúng ta, Chế Lan Viên vẫn là nhà thơ giàu chất

triết lí hơn cả” [48, tr.106].

Tác giả Võ Tấn Cường viết bài Di cảo thơ Chế Lan Viên coi đó là “di chúc

thơ về cuộc đời và nghệ thuật... đã gây nên những dao động về cảm xúc thẩm mỹ

trong người đọc” và nhà thơ “hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sinh

4

tồn của nhân loại”. Tác giả Trần Hoài Anh với bài viết Nhà thơ trong quan niệm

thơ Chế Lan Viên đã nhận xét: “trong tư duy của Chế Lan Viên nhà thơ không

phải là người bình thường mà vẫn là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường.

Song cái khác thường ở đây không phải là một kiểu lập dị, xa lạ đối với thế giới

con người mà đó là cái khác thường cần có và phải có trong phẩm chất mỗi thi

nhân.” [45, tr.93]. Tác giả Huỳnh Văn Hoa trong bài Chế Lan Viên với cái nhìn

nghệ thuật trong viết cho rằng: “vấn đề sống chết, ý nghĩa thời gian, về công

nghiệp một đời người, về cõi quên là những vấn đề triết học muôn đời của con

người” [40, tr.287]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên trong bài Chế Lan Viên

- Người đi tìm mặt nhận xét: “Thành thực giãi bày và thừa nhận những góc khuất

đời thật của mình, đó là điểm khá thú của Di cảo thơ Chế Lan Viên” [48, tr.216].

Những ý kiến trên cho thấy sự chuyển hướng trong tư duy thơ, bản lĩnh

nghệ thuật của Chế Lan Viên, khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của

Chế Lan Viên qua những vần thơ được tiếp tục công bố sau khi tác giả qua đời.

Vấn đề giọng điệu nghệ thuật ở thơ Chế Lan Viên sau 1975, đặc biệt là

giọng điệu trong ba tập Di cảo thơ cũng nhận được nhiều đánh giá. Bản thân nhà

thơ đã tuyên ngôn về sự chuyển giọng trong sáng tác thi ca của mình: “Giọng

cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm” (Giọng trầm) [62, tr.187]. Có ý

kiến cho rằng “giọng trầm” trong Di cảo thơ là bước lùi, yếu đuối. Tác giả

Nguyễn Bá Thành trong bài Đọc hai tập Di cảo thơ cũng nhận thấy: “Chế Lan

Viên chủ động đổi giọng”, “cố tình xuống giọng” [43, tr.114]. Theo tác giả,

giọng điệu trong Di cảo: “là giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có phần chua chát”.

Giọng thơ từ “than” thành “hỏi”, từ “hát” thành “nói”: “Xưa tôi hát mà bây

giờ tôi tập nói - Chỉ nói thôi mới nói hết được đời”; “Thơ Chế Lan Viên giờ đây

là lời độc thoại để tự trấn an”; “ở Di cảo Chế Lan Viên rơi vào cái trận đồ siêu

hình... hạ thấp thơ mình” [43, tr.116].

Bên cạnh đó, khi nhận xét về giọng điệu trong Di cảo thơ, có nhiều ý kiến

khẳng định tính tích cực của sự chuyển giọng trong sáng tác của Chế Lan Viên.

Trần Thanh Đạm khi tìm hiểu Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua

5

những trang Di cảo đã nhận thấy “cách nói riêng” của Chế Lan Viên và cho

rằng: “Cái hay của những bài thơ triết lý như trên thường ở giọng thơ. Cái khác

nhau cũng ở đó. Có giọng than thở, đau buồn. Có giọng ung dung, thanh thản.

Giọng thơ Chế Lan Viên thuộc loại thứ hai” [48, tr.117]. Tác giả Hoài Anh

trong bài Chế Lan Viên - một bản lĩnh, một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng và

bí ẩn lại nhận xét về những vần thơ cuối đời của Chế Lan Viên “mang giọng

tiêu tao, hiện thực pha màu huyền ảo”[45, tr.102]. Tác giả Nguyễn Quốc Khánh

trong bài viết Di cảo thơ Chế Lan Viên - hành trình tìm lại chính mình đã khẳng

định những vần Di cảo “đã giúp cho chúng ta nhìn ra nhiều mặt khác nhau của

một thiên tài”: “Chúng ta từng biết, từng quen với “màu sen đỏ rực”, cùng với

giọng cao hùng tráng của thơ ông suốt ba chục năm qua. Nay chúng ta cũng cần

biết “nỗi buồn hoa súng”, và giọng trầm buồn nhưng không kém phần âm vang

và ám ảnh của thơ ông” [47, tr.432]. Nhà thơ Vũ Quần Phương qua bài Chế Lan

Viên trong Di cảo đã viết: “Đọc các tập Di cảo... chúng ta được biết thêm một

thế giới khác nữa của Chế Lan Viên. Đây chính là thơ bổ sung, thế giới bổ sung

vào đời thơ Chế Lan Viên. Chúng ta sẽ còn tốn nhiều bút mực về các thi phẩm

này” [46, tr.218]. Đánh giá về những bài thơ trong Di cảo, nhà thơ Vũ Quần

Phương nhận xét: “Về kết cấu bài có thể chưa hoàn chỉnh, đôi câu, đôi đoạn còn

non lép hoặc trùng chất liệu với các bài khác, nhưng chủ đề, ý tứ đã rõ và chúng

như có riêng một giọng thơ, một cách nói. Cái cách nói như đang chuyện trò,

đang lập luận, bình dị, bình dân” [46, tr.220-221]. Tác giả nhận thấy ở những

vần thơ Di cảo, Chế Lan Viên “Không lạc quan mà là chiêm nghiệm những

chiêm nghiệm trụi trần, không màu mè mỹ tự nhưng sâu sắc” [47, tr.223].

Đoàn Trọng Huy trong nhiều bài viết đã đề cập đến vấn đề giọng điệu thơ

Chế Lan Viên sau 1975, nhất là giọng điệu Di cảo thơ. Khi tìm hiểu Khuynh

hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975, tác giả Đoàn Trọng Huy nhận

thấy: “Chế Lan Viên luôn tỉnh táo lựa chọn giọng điệu phù hợp với thời sự” [20,

tr.113]. Tác giả cho rằng: “Sự chuyển giọng đâu chỉ là yêu cầu của hình thức

nghệ thuật đơn thuần. Giọng thơ nói lên chính chuyển biến điệu tâm hồn nghệ

6

sĩ” [20, tr.115]. Cụ thể hơn, trong bài viết Đọc những trang để lại, thêm hiểu

một hồn thơ Di cảo, Đoàn Trọng Huy nhận thấy: “Những tập thơ tiếp theo nhau

từ sau 1975 Hái theo mùa, Hoa trên đá, Ta gửi cho mình đã đánh dấu một

chặng đường sáng tác mới của Chế Lan Viên, chặng đường thơ chuyển mạnh

vào loại đề tài thế sự đời thường với giọng trầm tư sâu lắng” [21, tr.209]. Trong

bài viết Chế Lan Viên - Độc đáo một tiếng thơ giàu sắc điệu, tác giả Đoàn Trọng

Huy đã khái quát Sự vận động và biến hoá giọng điệu thơ Chế Lan Viên. Theo

tác giả: “một cách tóm lược, ta có thể nhận diện được giọng điệu cơ bản như âm

hưởng thơ của một thời”. Theo đó, tác giả đã phác thảo “một cái nhìn đại thể”

về giọng điệu thơ Chế Lan Viên:

“- Thời kỳ đầu đời: Giọng điệu sầu hận, kinh hoàng, gay gắt.

- Thời kỳ từ sau Cách mạng: Giọng điệu oai nghiêm, tha thiết, hào sảng.

- Thời kỳ cuối đời: Giọng điệu thâm trầm, suy tưởng, day dứt.

Mỗi thời kỳ, giai đoạn những giọng điệu ấy lại mang những sắc thái,

những cung bậc phong phú nội tại theo những càm hứng đa dạng, cụ thể khác

nhau”. Tác giả khẳng định: “Tiếng thơ Chế Lan Viên là một quá trình biểu hiện

của một giọng điệu biến hoá đa thanh sắc” [21, tr.216]. Ý kiến của Đoàn Trọng

Huy vừa khái quát, vừa cụ thể, cho chúng tôi một điểm tựa và sự gợi mở quí báu

trong quá trình tìm hiểu giọng điệu thơ Chế Lan Viên nói chung và giọng điệu

Di cảo thơ Chế Lan Viên nói riêng.

Như vậy, qua các ý kiến trên, có thể thấy, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến

giọng điệu chủ đạo và những sắc điệu riêng trong việc biểu hiện những nội dung

trữ tình trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên. Đó là tiếng thơ với những trăn trở

suy tư khi nghĩ về thế sự, đời tư, khi tranh biện, đối thoại, chất vấn… Nhưng do

mục đích nghiên cứu và những định hướng tiếp cận, chưa có công trình nào tập

trung tìm hiểu chuyên sâu về giọng điệu nghệ thuật trong Di cảo thơ Chế Lan

Viên hoàn chỉnh cả về hình thức biểu hiện lẫn nội dung. Trên cơ sở lịch sử vấn

đề đã nêu ở trên, chúng tôi sẽ cố gắng tìm tòi phát hiện vấn đề giọng điệu trong

Di cảo thơ Chế Lan Viên một cách toàn diện hơn.

7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Những vấn đề lí luận về giọng điệu, giọng

điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên và những yếu tố nghệ thuật góp phần biểu

hiện giọng điệu ấy.

- Phạm vi tư liệu nghiên cứu: ba tập Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1996)

của Chế Lan Viên đã xuất bản gồm 566 bài thơ. Khi cần thiết, chúng tôi có sự so

sánh với các tập thơ khác của Chế Lan Viên và của các nhà thơ cùng thời.

4. Mục đích nghiên cứu

Về mặt lí luận, chúng tôi cố gắng khẳng định thêm vai trò của giọng điệu

trong sáng tác văn chương. Trên cơ sở đó, luận văn thực hành nghiên cứu ba tập

Di cảo thơ và tập trung vào vấn đề trọng tâm là giọng điệu - một trong những

phương diện quan trọng thể hiện phong cách nghệ thuật.

Từ đó, chúng tôi hi vọng có thể góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí đặc

biệt của ba tập Di cảo thơ trong hành trình nghệ thuật thơ Chế Lan Viên và phần

nào nhận diện toàn vẹn, chính xác hơn chân dung của nhà thơ. Qua đó làm nổi

bật giá trị nội dung Di cảo thơ cùng bước phát triển về phong cách nghệ thuật

thơ Chế Lan Viên, chỉ ra quá trình vận động của thơ Chế Lan Viên.

Mục đích cuối cùng mà đề tài hướng tới là nhằm vận dụng vào việc học tập,

nghiên cứu của sinh viên, đặc biệt là sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư

phạm Hà Nội 2 cùng những người yêu thích thơ Chế Lan Viên.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này có sự phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:

5.1. Phương pháp thống kê, phân loại

Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê, tập hợp những bài thơ của Chế

Lan Viên trong ba tập Di cảo thơ, sau đó tiến hành phân loại theo những tiêu chí

khác nhau gắn với mục đích nghiên cứu của đề tài.

8

5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu

Đánh giá, khẳng định một vấn đề bất kì, người nghiên cứu bao giờ cũng phải

đặt vấn đề ấy trong mối quan hệ với những vấn đề khác và chỉ trong quan hệ so

sánh đối chiếu, vị trí, giá trị của vấn đề mới được khẳng định. Với phương pháp

này, tác giả luận văn sẽ làm rõ hơn quá trình vận động, chuyển biến tất yếu trong

thơ Chế Lan Viên, làm rõ được nét độc đáo của giọng điệu trong Di cảo thơ.

Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu chủ yếu trên bình diện lịch đại nghĩa là

nhằm so sánh đối chiếu Di cảo thơ Chế Lan Viên với những sáng tác khác của

ông để thấy sự vận động, phát triển, đổi mới của hồn thơ.

5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Sau khi thống kê số liệu và có những so sánh, tác giả luận văn sẽ tiến hành

phân tích các ý kiến, các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về

giọng điệu Di cảo thơ. Từ những phân tích đó sẽ tổng hợp thành những luận điểm

chính nhằm làm rõ những sắc thái giọng điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan

Viên cũng như các yếu tố góp phần biểu hiện giọng điệu nghệ thuật của ông.

6. Đóng góp của luận văn

Chỉ ra những sắc thái giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên, những yếu

tố nghệ thuật góp phần thể hiện giọng điệu thơ của ông. Từ đây có thể thấy được:

- Thơ Chế Lan Viên ở hành trình cuối có sự vận động, thay đổi trong tư duy

nghệ thuật, quan niệm của nhà thơ.

- Phong cách thơ Chế Lan Viên thống nhất, nhưng ở mỗi giai đoạn phát

triển có những biểu hiện đa dạng, phong phú.

7. Cấu trúc của luận văn

Tương ứng với những mục đích nghiên cứu đặt ra, ngoài phần Mở đầu, Kết

luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai trong

ba chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề chung về giọng điệu và Di cảo thơ Chế Lan Viên.

Chương 2. Những sắc thái giọng điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan Viên.

Chương 3. Những yếu tố nghệ thuật góp phần biểu hiện giọng điệu Di cảo thơ

Chế Lan Viên

9

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỌNG ĐIỆU

VÀ DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN

1.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật

1.1.1. Giọng và giọng điệu

Theo Từ điển văn học, giọng được xác định: “Độ cao thấp mạnh yếu của

lời nói, tiếng hát, cách phát âm riêng của một địa phương, cách diễn đạt bằng

ngôn ngữ, biểu thị tình cảm thái độ nhất định, gam đã xác định âm chủ”[15,

tr.298]. Cũng theo Từ điển văn học, giọng điệu được hiểu là: “Giọng nói, lối nói

biểu thị một thái độ nhất định; Ngữ điệu” [15, tr.295].

Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: giọng điệu vốn được ghép trên cơ sở hai thành

tố: giọng và điệu. Về cơ bản giọng “biểu thị mặt âm thanh “khí lực” của người

nói”, điệu “chủ yếu biểu thị đường nét, màu sắc của giọng” [5, tr.34]. Như vậy,

điểm chung giữa giọng và giọng điệu là đều nhấn mạnh đặc tính âm thanh của lời

nói.

Khi đề cập đến vấn đề âm thanh (sound) của diễn ngôn, giới nghiên cứu

thường sử dụng hai khái niệm voice và tone. Trong đó voice được hiểu là giọng;

tone được hiểu là giọng điệu. Bách khoa thư Mỹ định nghĩa: “Voice là âm thanh

được sinh vật phát ra”, “Tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của

trường độ, cường độ, âm sắc và âm lượng của nó” [dẫn theo 11, tr.9].

K.Danzger và S.Johnson khẳng định giọng điệu (tone): “Là một phạm trù có

liên quan đến tất cả các yếu tố tạo nên văn phong (style) bao gồm: cách diễn

đạt, hình tượng, cú pháp, âm thanh và nhịp điệu, là biểu hiện của một thái độ về

phía đối tượng (object) được nêu rõ hay ngụ ý” [dẫn theo 11, tr.10]. Katie

Wales trong Từ điển phong cách học quan niệm: “Giọng được dùng để miêu tả

ai là người nói”. “Giọng điệu được dùng với nghĩa một phẩm chất âm thanh

đặc biệt nào đó có liên quan đến những xúc cảm hoặc tình cảm đặc biệt nào đó.

Đôi lúc giọng điệu được dùng để chỉ một chất giọng phổ quát được điều hành

10

bởi một tác giả ẩn” [dẫn theo 11, tr.11]. M. Bakhtin lại đưa ra khái niệm “đa

thanh” nhằm ghi nhận sự phát triển của giọng và giọng điệu.

Trong văn học, giọng điệu (hay giọng điệu nghệ thuật) là yếu tố quan trọng

cấu thành nét đặc trưng riêng cho mỗi loại hình lời văn nghệ thuật, nó góp phần

khu biệt đặc trưng phong cách của nhà văn, khuynh hướng sáng tác. Theo Từ

điển thuật ngữ văn học, giọng điệu biểu hiện: “Thái độ, tình cảm, lập trường tư

tưởng, đạo đức của nhà văn đối với các hiện tượng được miêu tả thể hiện trong

lời văn, qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ

xa, gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [13,

tr.108].

Tiến hành hàng loạt phân biệt với ngữ điệu, nhạc điệu, nhịp điệu, tiết điệu,

Nguyễn Đăng Điệp đã thiết lập một hệ thống khái niệm đầy đủ, cặn kẽ về giọng

điệu. Ông cho rằng giọng điệu là một hiện tượng siêu ngôn ngữ, nó không nằm

ở trong một thành tố, một khu vực cục bộ mà nó toát lên từ toàn bộ tác phẩm.

“Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng tạo” [5,

tr.46] và: “Giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát

ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy hướng tới” [5,

tr.341]. Giọng điệu là thứ hình thức mang tính quan niệm, bao giờ cũng là sản

phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn và mang tính chất lượng, giọng điệu chính

là thần thái toát lên từ tác phẩm. Tìm hiểu giọng điệu chính là tìm hiểu ngôn ngữ

chủ thể - nhân lõi tạo thành phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Giọng điệu trong văn chương không phải được thể hiện ở chỗ nói cái gì

(nội dung nói) mà ở chỗ nói như thế nào (hình thức nói). Nhà văn, nhà thơ trước

khi bắt tay vào viết phải bắt đầu từ “khúc ca bên trong” như cách nói của

Larmartine, phải chọn được một giọng điệu từ một “tâm trạng mang màu sắc

nhạc tính” (quan niệm của M. Amaudov). Giọng điệu là một thành tố quan

trọng để làm nên “cấu trúc chỉnh thể” của tác phẩm nghệ thuật, tạo nên phong

cách nghệ thuật của người nghệ sĩ, là thước đo tài năng của người nghệ sĩ.

11

Trong văn học, khái niệm giọng điệu vừa được biểu hiện ở phương diện

ngữ âm: trầm, bổng, trong, đục, nhanh, chậm, dài, ngắn... vừa được biểu hiện ở

phương diện phong cách: nóng, lạnh, nhu, cương, khoan thai hay dồn dập, sôi

nổi, trân trọng hay mỉa mai, khinh bỉ hay ngợi ca, yêu thương hay căm giận,

mềm mại, dịu dàng hay cứng cỏi, kiên quyết, tha thiết gắn bó hay thờ ơ, lãnh

đạm... Giọng điệu là âm hưởng chung toát lên từ toàn bộ tác phẩm nghệ thuật.

Nó là hình thức bộc lộ rõ nhất chủ quan người nghệ sĩ. Toàn bộ cách cảm, cách

nhìn, phương pháp tư duy, kiểu nhận thức thế giới, tình cảm, thái độ, lập trường,

quan điểm, đạo đức của nhà văn được thể hiện đậm nét qua giọng điệu, tạo nên

giọng nói riêng, phong cách riêng, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo, không thể

bắt chước hoặc thay thế. Vì vậy mà giọng điệu văn chương còn có ý nghĩa như

một tiêu chí để xác định chân tài của nhà văn. Như thế đứng ở bình diện thi

pháp, chủ yếu chúng ta tìm hiểu các giọng điệu gắn với tình điệu, với văn khí,

với hơi văn, mạch văn, giọng văn, cái giai điệu, cái “hồn” chi phối toàn tác

phẩm và đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phân biệt nhà

văn này so với nhà văn khác.

Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Giọng điệu tác phẩm là biểu hiện cụ thể của

giọng điệu nhà văn, và đến lượt mình giọng điệu nhà văn là cơ sở tạo nên âm

hưởng chung của một thời đại văn học. Tuy nhiên, giọng điệu nhà văn, nhà thơ

không phải là một hiện tượng tĩnh tại, bất biến mà vận động, biến hóa. Mỗi một

nghệ sĩ lớn thường là một nghệ sĩ tạo ra được một dải phổ giọng điệu rộng lớn,

phong phú mà thống nhất. Đó là sự thống nhất của cái đa dạng” [5, tr.342]. Từ

đó nó đề cao, coi trọng vai trò chủ thể sáng tạo.

Có thể phân loại giọng điệu theo nhiều cách: Phân loại theo sắc thái tình

cảm: giọng trang trọng hay thân mật, giọng mến thương hay gay gắt, dịu dàng

hay dữ dội...; Theo nội dung tình cảm: bi, hài, anh hùng ca, lãng mạn hiện thực;

Theo khuynh hướng cảm hứng: thông cảm, phê phán, khẳng định, phủ định, yêu

thương, căm thù; Theo cấu trúc giọng: giọng đơn, giọng chính, giọng phụ; Theo

cấu trúc thể loại: tự sự, trữ tình, chủ quan, khách quan... Ngoài ra còn có thể

12

phân chia giọng theo tính chất, đặc điểm của giọng: giọng tường thuật, giọng

nghi vấn, giọng mệnh lệnh, giọng hát, giọng ngâm...

1.1.2. Giọng điệu thơ trữ tình

Khrapchencô nhận định: “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện

trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi của thái độ cảm xúc

nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó” [24,

tr.173]. Thực tế cho thấy, giọng điệu là một thành tố không thể thiếu được trong

việc xây dựng và triển khai tư tưởng, xúc cảm của nhà thơ. Ở một phương diện

khác, giọng điệu chịu áp lực của thể loại.

Thơ trữ tình chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng cả chủ

thể và khách thể gần gũi nhau đến mức “trong đa số trường hợp xem như hòa

lẫn cùng nhau”. Trong các bài thơ trữ tình nhập vai, nhân vật có mối quan tâm

riêng, có cảnh ngộ và đời sống riêng. Việc đẩy nhân vật trữ tình ra khỏi tầm

kiểm soát thông thường của nhà thơ đã biến nhân vật có khi trở thành đối tượng

nhận thức của chính tác giả. Dù vậy, nhìn vào mối quan hệ ngầm ẩn bên trong,

người đọc có thể nhận ra nhân tố tự thuật tâm trạng và nhân tố nhập vai. Hai

nhân tố này khiến nhà thơ trở thành “một sự thống nhất trong hai con người”.

Chính trên cái nền thống nhất có tính bản chất này mà thơ trữ tình trực tiếp bộc

lộ giọng điệu tác giả, được chảy trong một trường nhìn, một kênh giọng chỉ đạo.

Vì thế, giọng điệu trữ tình là sự tương hợp nội tại giữa ý thức có tính độc thoại

và sự lựa chọn thể loại phù hợp.

Thơ trữ tình có điểm xuất phát từ thế giới bên trong, thế giới tinh thần

phong phú và bí ẩn của tâm hồn, của “trạng thái nội cảm” (Hêghen). Nó là “một

điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu” (Tố Hữu), là “tiếng vang cảm xúc”,

“tiếng lòng”... Thơ trữ tình là kiểu thơ thiên về tình cảm. Trong thơ trữ tình luôn

đề cập tới “cái tôi trữ tình” là biểu hiện tập trung của tính chủ quan trong thơ trữ

tình. Bởi vậy ở đó cuộc sống được nhận thức, lý giải, đánh giá bằng suy nghĩ,

tình cảm, thái độ, nhân cách của chủ thể trữ tình. Trong thơ trữ tình, nhà thơ

13

mượn lời thơ để nói với chính mình, để tự giải tỏa những xúc cảm, bức xúc đang

dồn dập trong lòng. Nó bộc lộ tất cả những gì trong sâu thẳm lòng người.

Giọng điệu nổi bật và bao trùm của thơ trữ tình là tự biểu hiện, thể hiện

trực tiếp, trực diện quan niệm, thái độ lập trường của nghệ sĩ mà giọng điệu thơ

mang tính chủ quan. Tự biểu hiện mình (và thời đại mình) qua niềm vui, nỗi

khổ, đớn đau, hạnh phúc, chua cay, ngọt bùi. Giọng điệu chung để thể hiện nội

dung thơ trữ tình là trình bày, giãi bày, tâm tình, thổ lộ các nỗi niềm, suy tư,

khát vọng để giải tỏa, giải thoát hoặc tìm sự đồng cảm, sẻ chia. Theo Bakhtin

“cả những cái xa lạ với mình nhà thơ cũng nói đến bằng tiếng nói của mình”

[dẫn theo 11, tr.34]. Nhà thơ trữ tình có thể viết về cái chung hay cái riêng,

nhưng dù là chung hay riêng bao giờ cũng phải gắn với một xúc cảm mãnh liệt,

chân thành tạo nên giọng điệu riêng của mình, thơ trữ tình là “bản tự thuật tâm

trạng”, là những mảng tâm trạng điển hình, những nhát cắt của dòng cảm xúc

mãnh liệt cho nên giọng điệu tác phẩm thường trùng khít, tương hợp với ý đồ tác

giả. Tâm trạng là trạng thái tâm hồn vừa cụ thể vừa trừu tượng không dễ gì gọi

tên ra được. Nó giống như một giai điệu đang vang lên trong tâm hồn. Giai điệu

ấy buồn hay vui, hạnh phúc hay đau khổ nó sẽ được biểu hiện ra bằng giọng

điệu tương tự, bằng nội dung tương tự.

Xuất phát từ quan điểm loại hình lịch sử, Nguyễn Đăng Điệp đã tiến hành

khảo sát các loại hình giọng điệu bao hàm từ thơ ca dân gian đến thơ ca trung

đại, thơ ca hiện đại và thơ lãng mạn, thơ siêu thực. Ông phát hiện giọng điệu

trong thơ dân gian là: “Giọng điệu của một tập thể, nó thể hiện cảm xúc, thái độ

của một lớp người, một tập thể nào đó chứ không phải là sản phẩm của một cá

tính sáng tạo đơn nhất, không lặp lại như thơ trữ tình sau này” [5, tr.343]. Thơ

trung đại: “Do tập trung thể hiện con người siêu cá thể, nhìn con người trong sự

tương thong với vũ trụ theo kiểu “tâm vật cảm ứng” nên giọng điệu chủ thể tuy

đã xuất hiện song chưa thật phát triển” [5, tr.343]. Thơ lãng mạn: “Do đặt lên

hàng đầu vai trò của cảm xúc cá nhân, nhìn thế giới qua lăng kính của cái tôi cá

nhân nên giọng điệu thơ ca đặc biệt nổi bật” [5, tr.344]. Còn thơ tượng trưng và

14

siêu thực thì yếu tố giọng điệu chìm xuống bởi đề cao những ám thị “vô thức” và

chủ trương lối viết “tự động”. Thơ cách mạng mang giọng điệu lạc quan, tin

tưởng vào tương lai sáng.

Giọng điệu bao giờ cũng chi phối đến các phương diện hình thức, được bộc

lộ qua những tín hiệu có tính hình thức. Giọng điệu không hiện ra chắp vá, rời

rạc mà được toát ra từ cách xây dựng nhịp điệu và khả năng điều phối các kỹ

thuật sử dụng hình ảnh, gieo vần, các thủ pháp nghệ thuật... tạo thành mối quan

hệ bên trong, góp phần làm nên sự thống nhất cơ bản của tác phẩm. Nó chi phối

toàn bộ các yếu tố khác của tác phẩm như ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, âm thanh,

nhịp điệu, hình ảnh... Về giọng điệu và sức mạnh của ngôn từ, Liliem Jimenes

cho rằng: “Mỗi từ có tiếng nói riêng của nó, mỗi từ nôn nao một nỗi xúc động

riêng. Mỗi từ mang sẵn trong nó một tiếng vang cực kỳ sâu sắc Có những từ có

đọng cả nước mắt, mồ hôi, hơi thở con người” [dẫn theo 11, tr.21]. Từ đó ta thấy

mỗi nhà thơ có một ưu thế riêng trong việc sử dụng sức mạnh của ngôn ngữ tạo

nên giọng điệu thơ riêng cho mình. Nhà thơ luôn đi trên hành trình tìm được

giọng thích hợp với tâm trạng mình và ngôn ngữ phù hợp để biểu hiện tâm trạng

ấy. Thơ trữ tình luôn có một hệ thống biểu tượng, hình ảnh phong phú. Hình ảnh

trong thơ không chỉ có tính chất trực quan, mà nó còn có giọng của nó, việc lựa

chọn hình ảnh để tổ chức nên câu thơ, bài thơ cũng quan hệ gắn bó đến việc tạo

nên giọng điệu riêng. Hình ảnh trong thơ làm cho thế giới trữ tình vốn vô hình, vô

ảnh được hữu hình hóa. Về âm thanh, nhịp điệu ta thấy con người ở trạng thái tình

cảm nào, sẽ tự nhiên cất lên giọng điệu tương tự và nhịp điệu góp phần diễn tả cái

giọng điệu ấy. Trong tác phẩm, nhịp điệu xuất hiện trong hai tư thế là xương cốt

vận hành của giọng điệu, là tiết chế để giọng điệu thể hiện một cách trung thực

lập trường, thái độ, cảm xúc nhà thơ. Nhịp điệu trong thơ xuất hiện trên cơ sở

nhịp điệu của cuộc sống, mang bản sắc riêng của từng nhà thơ. Trong thơ, ngắt

nhịp hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của ngôn ngữ thơ chứ không phụ thuộc

vào quãng cách như trong âm nhạc. Ngữ điệu trong thơ là âm thanh biểu thị ở

giọng lên cao hay xuống thấp, lời chậm và nhanh, giọng mạnh và yếu, ngắt hơi

15

nhiều ít. Ngữ điệu vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của tính gợi cảm. Tính gợi

cảm tự nó không có ý nghĩa độc lập mà nó sống trong một văn cảnh nhất định.

Trong thơ trữ tình, ngữ điệu là một dấu hiệu mang tính chủ quan của người nghệ

sĩ và nó cũng là dấu hiệu của giọng điệu. Ngữ điệu trong thơ chia thành hai nhóm

cơ bản: thơ trữ tình điệu nói và trữ tình điệu ngâm. Trữ tình điệu ngâm là sản

phẩm của tư duy thơ truyền thống, biểu hiện cái phi ngã. Trữ tình điệu nói lại

hướng tới cái bản ngã, cái cá nhân. Phải đến trữ tình điệu nói, giọng điệu cá nhân

nghệ sĩ mới thực sự có đường nét; Mỗi thể loại thơ hàm chứa trong nó những sức

mạnh nội tại riêng nên nó phát ra những giọng điệu riêng: lục bát thường ngọt

ngào, vỗ về, song thất lục bát ngâm nga, thống thiết, sâu lắng, thơ năm chữ nén

chặt và bay bổng, thơ tự do chân thành phóng khoáng... Tùy sở trường, tùy chất

giọng của mỗi nhà thơ mà các thể loại thơ khác nhau được sử dụng. Chế Lan Viên

hay viết theo thể thơ tự do nhưng ông cũng có nhiều bài tứ tuyệt.

Giọng điệu hiện ra như một yếu tố cơ bản thuộc phong cách nghệ thuật,

giọng điệu cho phép người đọc nhận ra vẻ riêng nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một

tiêu chí xác định chân tài nhà văn. Xét ở tầng sâu, giọng điệu còn chi phối cả kết

cấu nghệ thuật. Đây thực sự là mối liên hệ bên trong và sự chi phối, tương liên

này góp phần làm nên sự thống nhất cơ bản của tác phẩm. Giọng điệu còn bộc lộ

ở việc tổ chức, bài trí điểm nhìn nghệ thuật. Chính ở đây người đọc nhận ra thái

độ cảm thụ, cự ly soi ngắm hiện tượng, khoảng cách giữa cái đang nói và cái

được nói, mức độ gần gũi, xa cách, thân sơ hay ngợi ca, châm biếm của giọng

điệu; Giọng điệu bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá tính nghệ sĩ. Dấu vết môi

trường, vùng miền văn hóa, các quan hệ có liên quan đến nhà thơ cũng góp phần

tạo nên sự phong phú và màu sắc độc đáo của giọng điệu.

1.2. Chế Lan Viên và hành trình kiến tạo giọng điệu nghệ thuật

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng

10 năm 1920. Quê tại làng An Xuân, xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng

Trị. Song, từ lúc lớn lên, học hành, ông lại gắn bó đặc biệt với Bình Định. Chế

Lan Viên đã từng vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Cách mạng

16

tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi

ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy

Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết

thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng

chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà

Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên vinh dự gia nhập Đảng Cộng sản

Đông Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên

báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban

tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn

học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn

Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc

hội các khóa IV, V và VI, Ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của Quốc

hội. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19

tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống

Nhất, thành phố Hồ Chí Minh. Ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ

Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996). Con đường thơ của Chế Lan

Viên trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi

không ngừng của nhà thơ.

Tiếng thơ Chế Lan Viên là một quá trình biểu hiện của một giọng điệu đa

thanh sắc bởi ông là nhà thơ mang tâm hồn cực kỳ nhạy cảm, thích ứng rất

nhanh nhạy với các tiến bộ trong nghệ thuật.. Con đường thơ Chế Lan Viên chia

thành ba chặng: trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ 1945 đến 1975, sau

1975 và những năm cuối đời. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Chế Lan

Viên luôn trăn trở giữa cái “Ta chung” và cái “Tôi cá nhân” kèm theo đó là sự

diễn biến đa dạng của các phương tiện biểu hiện trữ tình: thay đổi cảm hứng, sự

thay đổi của giọng điệu, ngôn ngữ, hình ảnh thơ...

Trong thơ Chế Lan Viên nổi lên những giọng điệu cơ bản. Thời kỳ đầu là

giọng điệu ảo não pha màu sắc huyền bí trong Điêu tàn. Người thanh niên trẻ họ

Phan lúc ấy đã nhập vai một công dân Chàm, than khóc cho đất nước Chiêm

17

Thành. Tâm hồn nhà thơ trôi lạc vào dòng sông Linh hư ảo với những hồn ma

vất vưởng, những thành quách đổ nát trong một sắc màu tàn lụi, kinh dị. Nhà thơ

chìm đắm trong bóng tối cô đơn lạnh lẽo với những cơn mê sảng: “Mi nhớ gì,

tưởng gì trong đêm tối / Mi trông mong ao ước điều chi” (Cái sọ người) [46,

tr.28], “Ai kêu ta trong cùng thẳm Hư Vô? / Ai réo gọi trong muôn sao, chới

với?” (Ngủ trong sao) [46, tr.29]. Thậm chí “Ta” như hoảng loạn: “Hồn của ai

trú ẩn ở đầu ta?” (Ta) [46, tr.30]. Hỏi ngoại cảnh, không có lời đáp, thi sĩ đành

quay về hỏi lòng mình: “Mảnh hồn ta tiêu diệt tự bao giờ?” [46, tr.31]. Với hồn

thơ cô độc, Chế Lan Viên tìm tới cảnh ngộ buồn đau. Giọng điệu thơ Chế Lan

Viên mang sắc độ sầu bi, uất hận với thái độ quyết liệt chối bỏ hiện tại, chối bỏ

cả sự tồn tại của chính mình:“Ai bảo giùm: Ta có Ta không?”.

Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975, giọng điệu chủ

đạo trong thơ Chế Lan Viên là giọng hùng ca. Nếu tập Gửi các anh mới chỉ

đánh dấu sự chuyển giọng trong thơ Chế Lan Viên, thì Ánh sáng và phù sa là sự

định hình, phát lộ của một sắc điệu mới: hào sảng, say sưa ca ngợi đất nước và

cuộc đời mới. Đứng ở đỉnh cao của thời đại, với niềm tự hào của người dân làm

chủ đất nước, nhà thơ cất cao giọng hỏi: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”.

Chất giọng mới này là của con người gắn bó với cuộc sống hiện tại trong niềm

vui giữa muôn người. Cái tôi trữ tình hướng nội trong thế giới tưởng tượng của

riêng mình thời Điêu tàn đã nhường chỗ cho cái tôi trữ tình hướng ngoại. Thi

nhân trải lòng với đất nước, với cuộc đời chung rộng lớn, tạo nên giọng đa thanh

trong thơ Chế Lan Viên. Trong giọng điệu ấy thấm đượm màu sắc và triết lý

nhân sinh mới: “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Tuy nhiên, Ánh sáng và

phù sa cũng là một bản tự kiểm điểm đầy nuối tiếc, ân hận, một cái tôi trăn trở,

trầm tư khi nhìn lại mình, nhưng với một sắc diện mới, một tư thế mới không

còn bi quan chán nản mà đầy tự tin và từ đó là một giọng điệu mới: “Soi gương

hồng cả gương soi / Đứng, đã với cành cao ngất / Đi, mơ những bước dài” [50,

tr.61]. Đến Hoa ngày thường, chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc, giọng

điệu thơ Chế Lan Viên tiêu biểu cho khuynh hướng thơ sử thi với âm hưởng chủ

18

đạo: giọng điệu hùng ca khi trang nghiêm, tha thiết, khi hào sảng, hồ hởi. Trên

dải phổ giọng điệu, ta có thể nhận ra những gam màu chủ đạo ứng với nội dung

cảm hứng. Trữ tình nhân bản nổi bật gam giọng tha thiết, đằm thắm (Hoa ngày

thường...), trữ tình chính luận sắc điệu hùng hồn, mạnh mẽ bộc lộ nhiệt thành

của nhà thơ trước những vấn đề trọng đại của đất nước (Chim báo bão...). Cơ sở

của cảm hứng sử thi thơ Chế Lan Viên là những xúc động chân thành, mãnh liệt

về cách mạng, về Tổ quốc, về Đảng và Lãnh tụ, về lịch sử và dân tộc. Thơ Chế

Lan Viên là tiếng nói, là lời kêu gọi đầy sức mạnh, quyền uy với ý chí và tinh

thần cách mạng: “Ôi! Tổ quốc, ta yêu như máu thịt / Như mẹ cha ta, như vợ như

chồng! / Ôi, Tổ quốc! Nếu cần ta chết / Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con

sông...” (Sao chiến thắng) [47, tr.116]. Người chiến sĩ kiêu hùng cũng là một

người tình đằm thắm với tình yêu: “Dù nắng trưa không ở/ Ta vẫn còn sao

khuya/ Hạnh phúc trên đầu ta / Mọc sao vàng chi chít/ Mai, hoa em lại về...”

(Tình ca ban mai) [46, tr.109]. Chất anh hùng ca và tình ca hoà quyện trong một

tiếng nói của thời đại: “Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu” (Suy nghĩ 1966) [47,

tr.214]. Chủ đề Đảng và Lãnh tụ được thể hiện với một giọng điệu đặc sắc: vừa

trang trọng, linh thiêng lại vừa ân tình, tha thiết: “Đâu chẳng đất lành Tổ quốc /

Chẳng tình Đảng dạy dân nuôi” (Ngoảnh lại mùa đông) [47, tr.231]. Tập thơ

Hoa trước lăng Người thấm đượm một giọng thành kính, thiêng liêng với Người

đi tìm hình của Nước, Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi…

Thời kỳ sau 1975 và những năm cuối đời là giọng điệu thâm trầm, suy

tưởng, day dứt của con người cá nhân thức dậy sau chiến tranh, của “cái tôi” thế

sự với bao trăn trở trong Hái theo mùa, Hoa trên đá, Ta gửi cho mình, Di cảo

thơ. Đây là một sự hạ giọng cố ý kèm theo một chủ định tạo sắc giọng mới với

cảm hứng thế sự, đời thường. Ở những bài thơ, tập thơ viết ngay sau 1975, Chế

Lan Viên như một ca sĩ của thời đại, vẫn say sưa với giọng hát say mê, tự hào

khi ca ngợi Tổ quốc, nhân dân trong sự nghiệp chiến đấu anh hùng. Bên cạnh đó

là giọng phẫn nộ giận dữ, căm hờn như trút lửa để lên án, tố cáo, luận tội kẻ thù

với lời lẽ đanh thép về ý thức hệ như chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét

19

lại, chủ nghĩa thực dân và bọn bành trướng khi nêu cao lý tưởng chiến đấu: “Bịp

thế giới bằng số tỉ dân, bằng khối thịt biển người đồ sộ / Lũ “thái thú” tân trang

bằng một ngọn cờ hồng” (Thần chiến thắng) [47, tr.302]. Dù vậy, người đọc vẫn

dễ dàng nhận thấy sự hạ giọng trong thơ Chế Lan Viên. Sự chuyển giọng này

thể hiện trên cả lí luận lẫn thực hành thơ. Nhà thơ tuyên ngôn: “Giọng cao bao

nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm” (Giọng trầm) [62, tr.187]. Có thể thấy, thơ

Chế Lan Viên có sự chuyển giọng từ cao xuống thấp, chất hùng biện, chính luận

được thay bằng chất suy tưởng, triết luận. Từ vị thế của chiến sĩ - ca sĩ thời đại,

nhà thơ trở về với tư cách của một công dân giữa đời thường là con người trầm

tư. Chế Lan Viên nhìn đời với con mắt của người đã đi qua những trải nghiệm

và bằng một thế ứng xử mới. Với âm điệu chủ đạo là trầm lắng, giọng thơ Chế

Lan Viên vẫn thể hiện sự phong phú qua những cung bậc khác nhau. Có khi đều

là trầm ấm, lắng đọng nhân tình, có lúc là trầm buồn, đau xót. Có lúc Chế Lan

Viên phiêu diêu trong hư tưởng, trong hoài nghi: “Cuộc sống của vũ trụ là một

Bi Kịch Vui/ Hay đó là một nỗi Buồn vĩ đại làm ta phấn chấn” (Từ thế chi ca II)

[62, tr.27]; có khi lại rất trầm tĩnh, an nhiên, siêu thoát: “Anh còn một đêm, anh

còn một sáng/ Anh còn một tháng, anh còn một năm/ Đừng sợ mất gỗ đi, nếu

anh có ý niệm trầm” (Chuẩn bị đi) [61, tr.173]. Dễ nhận thấy, Di cảo thơ Chế

Lan Viên thường có sự đan lồng, xen kẽ linh hoạt những sắc thái giọng điệu

khác nhau: trầm buồn man mác, bâng khuâng, u hoài nhưng vẫn trầm ấm, yêu

thương, có lúc mang khí vị mỉa mai, cay đắng, có lúc cười mà đầy chua xót...

Chế Lan Viên không chỉ hạ giọng, hình thức thể hiện giọng cũng thay đổi: Từ

“hát” chuyển sang “nói”, từ “nói to” chuyển “nói nhỏ”, thầm thì với những trạng

thái, những tâm thế mới. Bởi thế, vượt lên trên tất cả những phức tạp của thế sự,

của nhân tình thế thái vẫn là một giọng trầm ngâm triết luận thanh thản chứ

không bi quan, chán nản như thuở Điêu tàn. Có thể nói, hành trình thơ Chế Lan

Viên cũng chính là hành trình kiến tạo giọng điệu nghệ thuật. Nếu Tố Hữu là

nhà thơ của tình đời với giọng điệu chủ đạo là tâm tình, ngọt ngào tha thiết, thì

Chế Lan Viên là nhà thơ của lẽ đời với giọng điệu chủ đạo là triết luận, suy

20

tưởng. Ở Chế Lan Viên luôn có sự đan xen, tiếp diễn những sắc điệu, thậm chí

có khi ta bắt gặp sự trở lại của giọng thơ cũ nhưng đã mang sắc thái khác. Mỗi

thời kỳ, giai đoạn, giọng điệu ấy lại mang những sắc thái, những cung bậc phong

phú nội tại theo những cảm hứng đa dạng nhưng thống nhất với phong cách của

nhà thơ - một con người đầy triết lý mà luôn dạt dào tình cảm.

1.3. Vị trí Di cảo thơ trong sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên

Sau khi Chế Lan Viên mất năm 1989 còn để lại cho đời, cho chúng ta một

di sản thơ ca đồ sộ. Bà Vũ Thị Thường – vợ của cố nhà thơ đã tập hợp, tuyển

chọn và cho công bố một phần di sản đồ sộ đó qua ba tập Di cảo thơ gồm 566

bài thơ. Trong đó có những bài thơ hoàn chỉnh viết ở những giai đoạn khác nhau

nhưng chưa được công bố, có những bài thơ mới ở dạng phác thảo, nhưng đáng

nói nhất là khối lượng tác phẩm Chế Lan Viên sáng tác trong hai năm cuối đời

(1987-1988). Khi đọc ba tập Di cảo thơ, ta nhận thấy ở đó có một Chế Lan Viên

vừa quen, vừa lạ. Nếu ở những chặng đường trước ông cống hiến hết mình cho

Tổ quốc, gạt bỏ “cái tôi” cá nhân, đồng hành cùng nhân dân trên đại lộ cách

mạng, đến những năm cuối đời, ông trở về với chính mình, với cuộc sống

thường nhật, bình thản nhìn lại hành trình đã qua, suy tư chiêm nghiệm về cuộc

đời, về nhân tình thế thái…

Di cảo thơ là tiếng lòng chân thành đến mức muốn “lộn trái tâm hồn mình”

ra cùng bạn đọc. Qua Di cảo thơ, chúng ta có dịp hiểu hơn một chiều kích mới

trong tư duy thơ Chế Lan Viên. Đó cũng là tiếng nói, suy nghiệm của ông về

nghề thơ, về xã hội và về con người trong thời đại mới. Do đó, ở chặng đường

cuối này chính là lúc ta nhìn ra một Chế Lan Viên thật nhất từ trước đến nay và

nó đồng thời cũng chính là “di chúc thơ về cuộc đời và nghệ thuật của ông” (Võ

Tấn Cường): Trong những trang thơ cuối cùng này là những trăn trở khôn nguôi

về đời, về thơ và bao trùm lên tất cả là một nỗi buồn thương, sự cay đắng trước

nhân tình thế thái với giọng trầm gắn với những suy tư, chiêm nghiệm, những

tâm tình đầy trắc ẩn của một người trải đời. Di cảo thơ là bản tổng kết đời

thơ ông, ông viết nó với một thái độ trung thực, ông nhìn nhận thẳng vào

21

sự thật đời mình không hề né tránh:“Thơ chỉ sống một phần - phần cho mình

còn ba phần cho nhiệm vụ/ Nghĩ mà thương.” (Sử) [61, tr.79]. Đây là quá trình

ông khám phá nhận thức lại chính mình, một hành trình vô cùng gian lao và đầy

thử thách của một thi sĩ có bản lĩnh.

Trong Di cảo thơ ta nhận thấy sự giãi bày, tự vấn với một thái độ chân thành

của Chế Lan Viên. Tuy chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn cuối đời nhưng đó

là sự tiếp tục của một nhà thơ luôn ý thức được vai trò quan trọng của nghệ thuật

đối với cuộc sống và đó là quy luật muôn đời mà cuộc đời nghệ thuật của Chế Lan

Viên cũng không nằm ngoài quy luật đó. Cũng vì lẽ đó, sau bao nhiêu năm Chế

Lan Viên hát “giọng cao”, giờ đây nhà thơ nói “giọng trầm”. Đây không phải là sự

đổi giọng đến bất ngờ như cảm nghĩ của một số người khi đánh giá Di cảo thơ. Sự

tự nhận thức, nghiền ngẫm về bản thân đã giúp cho Chế Lan Viên không rơi vào sự

“ảo tưởng”, ông quan niệm “mỗi câu thơ đều phải vượt lên mình” và ông sống với

sức mạnh của tấm lòng nhân hậu, sự yêu đời, vì thế, tâm hồn nhà thơ càng trở nên

thanh cao hơn, bởi: “Sau anh còn mênh mông nhân loại / Đừng nghĩ mình là người

đi cuối/ Phải để lại dấu chân, nhành cây, viên sỏi… / Cho người theo sau không cô

đơn (Sau anh) [60, tr.50]. Di cảo thơ đã góp phần khẳng định trên từng chặng

đường sáng tác, ngay cả khi nằm trên giường bệnh Chế Lan Viên vẫn luôn sống hết

mình cho đời và cho thơ. Ông tìm tòi, sáng tạo với khát vọng để lại cho người đọc

những vần thơ ngọc. Đó cũng là sự chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ đời, sự tử sinh:

“Anh không mang đi. Anh chỉ để lại./ Để lại một câu thơ, một lời tạ tội/ Để lại

những lời “Nhớ lấy!” hoặc “Quên đi!”” (Để lại) [61, tr.127].

Ba tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên ngổn ngang bao suy nghĩ với những

trăn trở về thơ, về đời: từ những vấn đề cốt thiết của bản chất thơ đến bao

chuyện thuộc về kỹ thuật của công việc làm thơ; từ sự sống đến cái chết, cái

được và cái mất… Chế Lan Viên ra đi nhưng còn bao dự định chưa thành, bao

câu hỏi còn vương vấn chưa đủ lời giải đáp. Và những câu trả lời

của Chế Lan Viên không phải không bộc lộ những điều bất cập. Song có một

22

điều mà không ai có thể phủ nhận được – Đó là ý thức trách nhiệm rất cao của

ông về thơ, về con người, xã hội, cuộc sống, thời đại.

23

CHƯƠNG 2

NHỮNG SẮC THÁI GIỌNG ĐIỆU ĐẶC TRƯNG

TRONG DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN

2.1. Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm

2.1.1. Suy tư, chiêm nghiệm về bản thể

Theo Từ điển tiếng Việt thì suy tư là: “suy nghĩ sâu lắng, với trạng thái vẻ

mặt suy tư, giấu kín những suy nghĩ”, chiêm nghiệm là: “động từ, xem xét và

đoán định bằng kinh nghiệm, sự từng trải chiêm nghiệm mọi lẽ phải trái ở đời”

[49, tr.487].

“Bản thể” theo triết gia Aristotle là một hữu thể độc lập và duy nhất luôn

có sự hiện hữu của cả chất thể lẫn hình thể. Tuy nhiên, các loại bản thể rất đa

dạng, chỉ cần khi tính “này” của một sự vật được tồn tại trong thế giới thực là

khi đó bản thể cũng hiện hữu. Aristotle đưa ra bốn chiều kích khác nhau của bản

thể tính: một là theo những phạm trù đa dạng hoặc những cách ám dụ mà sự tồn

tại được thể hiện; Hai là theo những sai lầm và chân lý của chính bản thân nó;

Ba là hoặc nó tồn tại trong chính nó hoặc là nó là sự đi đến đơn giản như một

ngẫu nhiên; Bốn là theo tính mục đích của nó mà nó tồn tại. Bản thể luận là

thuật ngữ bàn về mối quan hệ giữa hành vi và cấu trúc, giữa cái ý thức với cái

vô thức, giữa tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân… Nó bao hàm hai vấn đề: cách

nhìn nhận thực tế xã hội (là khách quan hay chủ quan?) và xã hội quy định hành

vi cá nhân hay chính các hành vi của con người tạo thành sự tồn tại của xã

hội (Cái nào quyết định cái nào?).

Trong Di cảo thơ, Chế Lan Viên một lần nữa trở về cái bản thể của chính

mình. Ông dằn vặt, vật lộn với cái hữu thể độc lập và duy nhất của bản thân

bằng một giọng điệu mang sắc thái suy tư, chiêm nghiệm của một người từng

trải. Qua bao thăng trầm của cuộc sống, Chế Lan Viên vẫn đau đáu với câu hỏi:

“ta là ai” và trăn trở đi “tìm mình”. “Người làm vườn vĩnh cửu” ấy không ngừng

suy nghĩ về mình, tự nhận thức về sự hữu hạn của bản thân: “Ta mải mê chạm

cái vẩy sau đuôi con cá/ Mà lắm khi quên quẫy mình theo ngọn sóng triều /

24

Cuộc đời lớn mà trang thơ thì lại bé / Con mèo nhà đòi át tiếng hổ kêu” (Nghĩ về

thơ II) [3, tr.411].

Chế Lan Viên sâu sắc khi đã đi qua đủ sự sôi nổi mãnh liệt. Chế Lan Viên

thêm hào hứng với nghệ thuật, được tôn thêm vẻ chín chắn, sâu sắc. Trong cuộc

đấu tranh của mỗi con người thì cuộc đấu tranh với chính bản thân mình, tự nhìn

nhận lại mình, mổ xẻ chính mình có lẽ không phải ai cũng làm được và lại có

thể làm một cách thẳng thắn, quyết liệt. Chế Lan Viên là nhà thơ đã thực hiện

được điều đó. Trong suốt hành trình thơ của mình Chế Lan Viên luôn có những

phút dừng lại để tự mình nhìn nhận, đánh giá chính mình. Và từ đó Chế lan Viên

trưởng thành hơn, có thêm những nhận thức sâu sắc hơn về chính mình và về

thơ. Trước Di cảo thơ có rất nhiều tập thơ của Chế Lan Viên đã được xuất bản,

những vấn đề về bản thể cũng được đề cập ở một số tập thơ giai đoạn kháng

chiến chống Mỹ.

Trong các tập thơ này Chế Lan Viên dũng cảm đưa con người cá nhân của

mình ra để mổ xẻ, để thấy rõ cái đớn hèn, bé nhỏ của mình và rộng ra là một lớp

người thuộc thế hệ mình với tinh thần sám hối và một ý thức tự kiểm điểm: “Đất

nước sắp đổi thay rồi mà tôi chẳng biết / Người thay đổi đời ta đã về kia, ta vẫn

không hay/ Tôi vẫn khép phòng văn hì hục viết/ Nắng trôi đi oan uổng biết bao

ngày/ Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy / Tổ quốc trong lòng

ta mà có cũng như không / Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy / Thơ xuôi tay

như nước chảy xuôi dòng! / Tôi ở đâu? Đi đâu? Tôi đã làm gì?” (Người thay

đổi đời tôi, người thay đổi thơ tôi) [52, tr.35]. Chế Lan Viên đau xót và hối hận

với một giọng cao đầy tự vấn, ông nói to lên cho mình và cho người, nhắc nhở

chính bản thân cũng là lời kêu gọi, thúc giục con người. Từ đó đưa ông tới

những nhận thức mới về xã hội, con người và về nghề thơ. Nhà thơ sống trong

không khí đấu tranh giải phóng dân tộc, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng

dâng cao nhưng có những lúc ông lãng quên điều ấy. Có lúc, Chế Lan Viên đã

xa rời cuộc đấu tranh của quần chúng, bỏ mặc thời gian vàng ngọc trôi đi, khép

mình trong những gian phòng nhỏ bé với tác phẩm dở dang mà đề tài thật nghèo

25

nàn vô vị, cùng với đó là một tâm trạng cô đơn ngậm ngùi. Nhìn lại quãng

đường ấy Chế Lan Viên dằn vặt tự vấn bản thân và đây cũng là những câu hỏi

không phải chỉ của riêng Chế Lan Viên mà của bao nhà văn khác sống cùng thế

hệ với ông đã hỏi. Ở khía cạnh khác, để nói về công lao của chủ tịch Hồ Chí

Minh, Chế Lan Viên nói bằng giọng chua xót về thế hệ mình: “Lũ chúng ta ngủ

trong giường chiếu hẹp / Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng

trong một tà áo đẹp / Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” (Người đi tìm

hình của Nước) [47, tr.175]. Đó là một thế hệ còn chưa biết suy nghĩ, đắm mình

vào lạc thú tầm thường và quên đi vai trò, sứ mệnh của mình với dân với nước.

Không chỉ riêng Chế Lan Viên mà các nhà thơ cùng thời cũng có sự chuyển

giọng, tiêu biểu là Tố Hữu với hai tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” sử

dụng giọng thơ chiêm nghiệm và suy tư làm chủ đạo để thể hiện nỗi buồn và sự

cô đơn trước một hiện thực mới mẻ, ngổn ngang vật vã với biết bao chấn động

dữ dội: “ Mấy hôm rồi nhà bỗng vắng teo/ Nhớ cháu trái tim ông muốn khóc/

Sáng mai ra ông cứ nhìn theo/ Những mẹ trẻ đèo con đi học./ Tan tổ ấm rã rời

đôi mảnh/ Cháu về đâu bên mẹ bên cha?/ Ôi tội nghiệp! Non tơ đôi cánh Con bồ

câu ngơ ngác xa nhà (Ly hôn). Sự thay đổi giọng điệu trong thơ Tố Hữu phù

hợp với trạng thái vận động của tình cảm và tư duy qua nhiều năm tháng và

trước yêu cầu của thời cuộc, từ cảm xúc yêu thương đến suy nghĩ Việt Nam là

mối quan tâm lớn của nhà thơ trong lúc này; Con người không còn vì lý tưởng

cao xa mà bỏ quên hiện thực: “Không có gì cao xa ngoài hạnh phúc thực sự một

kiếp người” (Võ Thanh An). Con người tự tước bỏ mọi danh vọng phi thực tế,

chỉ mong được là người: “Anh không mong làm thánh - Chỉ mong làm người”

(Ngô Văn Phú). Thái độ của nhân vật trữ tình tỉnh táo đến đáng thương: “Chị

thản nhiên mối tình đầu - Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm” (Chồng chị,

chồng em - Đoàn Thị Lam Luyến). Nhân vật trữ tình tự “giải huyền thoại”, “giải

cổ tích” (Đò Lèn - Nguyễn Duy, Bánh chưng, bánh giày - Bằng Việt). Cái nhìn

thế sự trong thơ đậm tính triết lý: “-Thường là bèo bọt nổi lên/ Thường là vàng

ngọc nhận chìm đáy sâu/ Chữ tâm càng nặng càng đau/ Khi vui lắm bạn khi sầu

26

mình ta.” (Tô Hoàn); “Tôi khóc những người bay không có chân trời / Lại khóc

nhưng chân trời không có người bay.”(Trần Dần). Và Chế Lan Viên vẫn hiện

lên với những sắc điệu đầy riêng biệt trong ba tập Di cảo thơ.

Đến với Di cảo thơ ta sẽ bắt gặp một Chế Lan Viên với biết bao suy nghĩ,

chiêm nghiệm về bản thể. Những suy tư được ông nói bằng giọng điệu đầy suy

tư, chiêm nghiệm của một con người đã từng trải, không còn sợ những tiếng

“sấm bất ngờ” (Hữu Thỉnh) của cuộc sống. Chế Lan Viên là một nhà thơ, muốn

làm được thơ cần phải gắn mình với cuộc sống nhưng nhiều khi ông lại mắc vào

vòng luẩn quẩn với những suy nghĩ chỉ của riêng mình mà quên mất còn biết

điều thú vị ngọt ngào lẫn đắng cay ngoài cuộc sống. Những cây đời xanh tươi hò

reo với gió là nguồn cảm hứng vô tận của nghệ thuật nhưng một lúc nào đó Chế

Lan Viên của chúng ta lại quên đi và đắm mình trong thế giới nhỏ hẹp của bồn

bức tường vô cảm. Ông tự vấn về chính bản thân: “(...) Ta mải mê chạm cái vẩy

sau đuôi con cá/ Mà lắm khi quên quẫy mình theo ngọn sóng triều / Cuộc đời

lớn mà trang thơ thì lại bé / Con mèo nhà đòi át tiếng hổ kêu (…)” (Nghĩ về thơ

II) [61, tr.211]. Ông cho rằng nhà thơ không bao giờ được tách mình ra khỏi

hiện thực mà ngược lại phải biết hòa mình vào trong cuộc sống, lấy cuộc sống

làm thước đo cho sức sáng tạo. Điều ấy không phải dễ dàng có thể nhận ra mà

Chế Lan Viên cùng bao thế hệ nhà văn cùng thời phải vật lộn với chính mình

với cuộc sống để thấu hiểu và thực hành: “(…) Trộn hạt giống anh vào trăm

giống cao sang hay hèn hạ của đời/ Muốn đổi Lời ư? Anh phải đổi ĐờiI” (Đổi

Đời) [60, tr.171].

Chế Lan Viên sống trong thời loạn thế và lại là con người có trái tim mẫn

cảm nên không tránh khỏi ông có những phút hoài nghi, tự vấn về thời cuộc, về

chính mình. Giọng thơ đầy chiêm nghiệm về cuộc sống bụi trần, cảm thấy trong

mình có một nỗi sợ mơ hồ đang xuất hiện: “Tự lúc em ra đi, hai lần gió mùa

đông bắc thổi qua phòng / Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt / Ở đất nước

đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa không sợ giặc / Chỉ sợ lòng mình, ai sợ gió

mùa đông” (Gió mùa đông bắc) [61, tr.117]. Chế Lan Viên những lúc ấy đã bị

27

yếu lòng, cảm thấy mình thật nhỏ bé trước không gian thời gian vô tận. Nhưng

đó chỉ là thoáng qua bởi tận sâu trong tư tưởng nhà thơ vẫn là một con người

gắn bó với cuộc sống, với giếng đời say sưa: “(…)Tôi muốn người ta yêu tôi như

yêu người đào giếng hơn người làm ra rượu / Rượu không thể giải khát được

môi người nhưng giếng đời có thể làm say (…)” (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ,

nghĩ....) [62, tr.204].

Trong sự suy tư về bản thể cho ta thấy Chế Lan Viên luôn hoài nghi với

chính bản thân mình. Đó là một cuộc đấu tranh không bao giờ hết giữa “mình”

và “ta”: “Mình là ta đấy thôi ta vẫn gửi cho mình / Sâu thẳm mình ư? Lại là ta

đấy / Ta gửi tro mình nhen thành lửa cháy / Gửi viên đá con mình lại dựng nên

thành” (Mình và ta) [62, tr.138]. “Mình” và “ta” tuy hai mà một để rồi tự thiêu

hủy lẫn nhau trong ngọn lửa tâm hồn nhưng tất cả rồi sẽ được giải phóng ra

ngoài cuộc đời đa màu sắc. Cũng có những lần Chế Lan Viên mổ xẻ chính tâm

hồn thơ của mình, một tâm hồn đầy tội lỗi bọn ngoài sự trong sáng thuần khiết.

Tâm hồn ấy đã kiệt quệ, héo khô đi bởi chính bản thân nó đang vô cớ ngày đêm

giết đi những mầm non sáng tạo đầy sức sống bởi sự mù quáng: “(…)Tôi giết

bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ / Và giết luôn mặt trời trên biển, /

Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể / Cho nên câu thơ tôi gày còm

như thế / Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình. / Và thơ này rơi đến

tay anh / Anh bảo đấy là tôi ? / Không phải! / Nhưng cũng chính là tôi - người

có lỗi! / Ðã giết đi bao nhiêu cái / Có khi không có tội như mình!” (Trừ đi) [60,

tr.147]. Cuộc giết chóc ấy làm cho thơ và tâm hồn thơ tàn tạ và cuối cùng hiện

lên là chân dung một con người mà ở đó mang hạt rễ của tội lỗi. Giọng của Chế

Lan Viên nhẹ nhàng nhưng đầy sự chiêm nghiệm, suy tư về bản thể của mình rất

đặc biệt và đầy dũng cảm. Nếu không phải một người từng trải đời, vượt qua

nhiều phong ba sóng gió khó có thể làm được.

Sau những cuộc mổ xẻ, nhìn nhận lại chính mình ấy đã đưa Chế Lan Viên

tới những nhận thức mới về nhiều mặt mà trước hết là nhận thức trong bản thể

của chính mình. Chế Lan Viên nhận ra mình trở lại là một đứa trẻ mới bi bô tập

28

nói, bởi chỉ nói mới diễn tả được hết những trăn trở trong ông. Nó cũng tuân

theo quy luật nhân – quả: “Xưa tôi hát và bây giờ tôi tập nói/ Chỉ nói thôi mới

nói hết được đời. / Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại. / Khúc hát

hay, đâu có lắm lời. / Người gieo là anh và người gặt cũng là anh, / Chỉ gieo

những cơn gió và gặt về mùa đào sao được ? / Anh muốn gặt trang phì nhiêu

sao anh lại cầm thóc lép để mà gieo?” (Sổ tay thơ) [60, tr.213]. Bằng một giọng

đầy suy tư để nói lên con người - nhà thơ – Chế Lan Viên và thơ giờ đây đứng

ngang hàng trong sự suy tư về bản thể, cần phải có sự thay đổi để phù hợp với

thời đại, thơ phải nói lên được hiện thực cuộc sống, phải có sự đổi mới trong cả

nội dung lẫn hình thức và đồng nghĩa với nó là sự nhận thức mới trong chính tư

tưởng nhà thơ. Nhà thơ bây giờ ở giữa cuộc đời, chịu trách nhiệm cho chính họ,

đấu tranh cho cây đời mãi xanh tươi, đập tan mọi dòng nước xiết cản trở tâm

hồn nhà thơ bơi lội ra đại dương rộng lớn. Và nhà thơ đã từng bước chạm tới

được cuộc sống để giải phóng chính mình: “Gọi là độc thoại chả can gì. Ta gọi

bằng đối thoại / Đối với một trận đánh, một màu hoa, đối cùng nhân loại /

Trước trang giấy - dòng sông nước xiết kia, độc một mình anh đứng lại bên bờ /

Một ngọn đèn khuya với một tiếng gà / Chịu trách nhiệm về anh, độc có mình

anh đấy! / Bờ bên kia, bờ bên kia... Trang giấy... / Có thể anh qua hay chẳng thể

nào qua! / Chả lẽ lại phải làm lại cuộc đời từ lúc ấy / Để có thể đối thoại cùng

trận đánh, màu hoa, đối cùng nhân loại / Mà không phải độc chỉ có mình anh,

đèn khuya và một tiếng gà” (Thơ bình phương, đời lập phương) [60, tr.219].

Một Chế Lan Viên dũng cảm dám tự đưa mình ra trước ánh sáng một cách thẳng

thắn quyết liệt, phơi bày chính mình để rồi từ đó trưởng thành hơn, vững vàng

hơn. Cuộc đấu tranh mổ xẻ bản thể bằng nhiều nhát dao như thế bao giờ vế đầu

cũng đáng trân trọng. Đó cũng là một trong những nét làm nên con người Chế

Lan Viên.

Đến với thế giới bản thể của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ ta nhận thấy

một Chế Lan Viên dũng cảm tự đưa mình ra trước ánh sáng, tự soi chiếu mình

bằng con mắt thơ với những nhận thức và biểu hiện mới so với các giai đoạn

29

trước. Những điều đó được Chế Lan Viên nói bằng giọng đầy chất suy tư, chiêm

nghiệm. Trước hết do sống trong xã hội mới với nhiều thay đổi và sự phức tạp

hiển hữu khiến Chế Lan Viên chợt nhận ra bản thân xuất hiện sự bất lực, thậm

chí không nhận ra được nhân loại vô cùng rộng lớn, đôi khi đã tự hài lòng với

chính mình. Trong khi đó có nhiều người có tài hơn mình, còn bản thân mình

thật nhỏ nhoi, tội nghiệp: “Sau anh còn mênh mông nhân loại / Đừng nghĩ mình

là người đi cuối / Phải để lại dấu chân, nhành cây, viên sỏi…. / Cho người theo

sau không cô đơn” (Sau anh) [62, tr.50]. Chế Lan Viên đau đớn nhận ra mình

bây giờ giống như một chiếc tháp với nhiều mặt nhưng mặt thật của mình luôn

được che đậy đằng sau sự giả dối để rồi trong tiếng cười khóc của tâm hồn đang

quằn quại ông làm tổn thương chính mình: “Anh là tháp Bay-on bốn mặt / Giấu

đi ba còn lại đấy là anh / Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc / Làm đau ba mặt

kia trong cõi ẩn hình” (Tháp Bay-on bốn mặt) [60, tr.81]. Bằng sự chiêm

nghiệm của bản thân, một lần nữa ông mổ xẻ chính mình, một trái tim với sự

đau đớn, bất lực sống giữa hiện thực. Ông nói lên điều đó bằng giọng suy tư

càng làm chúng ta thêm chua xót. Không chỉ dừng lại ở đó, Chế Lan Viên thầm

trách móc bản thân tài năng chưa đủ lớn, không biết rằng bản thân mình giờ đây

có bao nhiêu là khó khăn nhưng vì nghiệp thơ nên: “(…)Tôi tài năng chưa đầy

nửa giọt / Có hộc tốc chạy đến chân trời cũng là đồ bất lực / Sao chỉ ấy, kim kia

tôi vẫn phải cầm” (Xâu kim) [60, tr.71]. Nhà thơ nhận ra chính mình khi mình

đang bước vào vòng khó khăn, nhận ra mình đang cố chống lại chính mình và

ông đã tự thừa nhận sự bất lực của mình khi tuổi già ập tới. Chế Lan Viên đau

đớn, giày vò, suy tư về bản thể vô ngã.

Chế Lan Viên cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình khi là một nhà thơ

từng xông pha trong khói lửa đạn bom nay đứng giữa hiện thực với một sự bất

lực cay đắng. Sự thật nghiệt ngã đẩy ông vào sự tự trách, tự trách bản thân ông

nhiều khi quên đi mình đang ở hiện thực, quên đi mình cần phải là một nhà thơ

giữa cuộc đời: “(…)Mà tôi xấu hổ / Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay / Giúp

người ấy nuôi đàn con nhỏ / Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười(…)”

30

(Ai?Tôi!) [60, tr.228]. Chế lan Viên nhận ra hiện thực xô bồ đầy bon chen khiến

nhà thơ phải gồng mình chống chọi với hiện thực và từ đó ông xa dần thơ, xa

dần một tâm hồn ẩn mình trong tháp Bay-on: “Còng lưng tưới nước vạt rau khô

/ Bơm hỏng mà đâm khổ cả nhà / Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá / Xa dần truyện

ngắn, bớt dần thơ”(Cảnh điền viên) [61, tr.42]. Lúc này ông đối mặt với chính,

ông nghẹn ngào nhận ra mình “như một vị tướng già chiến bại” (Mùa thu quân)

[61, tr.144] thất thủ không còn gì nữa để rồi mặc cho “gió mùa đến quét anh đi”

(Mùa thu quân) [61, tr.144]. Và ông trở lại với những nhận thức về “bản ngã”,

về sự tồn tại của mình giữa vũ trụ, đó là sự tồn tại đầy khó khăn, nhiều “tạp âm”

và chỉ có thể hiểu về cái bản thể của mình khi chạm tới ranh giới giữa cái chết

và sự sống:

“Trút hết tạp âm của vũ trụ đi, chỉ còn một dây bản ngã của anh thôi

Bản ngã anh chứa những tạp âm rạn vỡ của sao trời, chứa những âm u của

vũ trụ

Bản ngã anh, anh chỉ tìm ra, hiểu rõ

Khi chạm số phận mình cùng một vì sao lạ đổi ngôi” (Đàn bầu) [62, tr.20]

Chế Lan Viên giờ đây như một dây đàn ngân lên một tiếng khóc cho chính

mình, một tiếng nhận ra mình và cũng là một tiếng chiêm nghiệm về mình. Chế

Lan Viên nhận ra mình chỉ là mình khi gắn với cuộc sống, với hiện thực, với con

người. Tuy nhiên cũng có những khi nhà thơ tự suy tư lại, soi lại mình dưới một

cái nhìn huyễn hoặc, mờ mờ để rồi đau đớn: “Có một kẻ vô hình trong gió kia,

nó là ai kia / Có một kẻ hữu hình trong mùi hương, đấy là anh, chẳng lẽ / Có

một cái gì, đâu đó / Anh tìm anh, thử hỏi làm gì?/ Tìm phiên bản nào rồi anh

cũng đốt đi…” (Tự tìm mình) [62, tr.106]

Trong Di cảo thơ ông bộc bạch chính nỗi lòng của mình bằng giọng điệu

suy tư, chiêm nghiệm để thấy rõ cái đớn hèn, bé nhỏ của chính mình. Qua đó ta

ngẫm thấy một chút chua xót, đắng cay và buồn tủi. Chính sự kết hợp những sắc

thái giọng điệu đó góp phần thể hiện một chân dung tinh thần đậm màu hiện

thực của Chế Lan Viên. Tổng kết về cái “Tôi” trên hành trình nghệ thuật, trên

31

cuộc đời ông khẳng định tâm hồn ông mang nhiều mặt nạ nhưng chỉ có một mặt

duy nhất là thật song mặt thật đó luôn phải ẩn đi bên cạnh những mặt giả dối.

Chiếc mặt thật đó giờ đây muốn được xuất hiện giữa ánh sáng mặt trời. Ông

mượn hình tượng tháp Bay-on để diễn tả nỗi lòng mình. Chế Lan Viên đau xót

trong cả giấc ngủ bởi giờ đây ông không còn là chính ông nữa bởi con người

không thể không đối mặt với đời sống vật chất đầy cay đắng này: “Còng lưng

tưới nước. Vạt rau khô/ Bơm hỏng mà đam khổ cả nhà/ Đêm ngủ chỉ toàn lo vật

giá/ Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ”. (Cảnh điền viên) [61, tr.42]. Con người

bình thường không tham cốt mong mua một chữ “Nhàn” nhưng Chế Lan Viên

không bao giờ an nhàn, không bao giờ chịu ngừng nghỉ trên con đường nghệ

thuật cao cả. Ông bộc bạch nỗi lòng mình muốn được cống hiến hết mình vì

nghệ thuật song cũng như Xuân Diệu từng nói:“Cuộc đời cơ cực giơ nanh vuốt/

Cơm áo không đùa với khách thơ”. Vì cuộc sống, vì những thứ vật chất không

thể không quan tâm, vì những người thân không thể không bỏ mặc khiến Chế

Lan Viên trong tâm thì tràn trề khát vọng nhưng hiện thực là một con người bé

nhỏ khép mình. Cũng có khi chán trường, cũng có khi tự chiêm nghiệm chính

mình ông tâm sự mình giống như một viên tướng già mang trên mình bao

thương tích, bao đau thương chỉ chờ một trận gió phong ba quét sạch tất cả để

lại trên thế gian khóc cười này một hình ảnh đáng tiếc nuối: “Anh như vị tướng

già chiến bại/ Cho đánh một trận còn không đánh nổi/ Thu về làm chi…/ Và gió

mùa đến quét anh đi (Mùa thu quân) [61, tr.144]. Thái độ ấy có phần hơi bi

quan nhưng ẩn sâu trong sự bi quan, chán nản ấy là một Chế Lan Viên đã biết

mình, đã dũng cảm thừa nhận mình.

Chế Lan Viên đạt tới đỉnh cao của sự suy tư về bản thể khi từ nỗi đau của

người khác ông nhìn nhận ra chính mình, tự bộc bạch chửi mắng bản thân vô

dụng với cách nói trực tiếp. Ông xấu hổ trước họ, những con người ông từng

viết ông từng ca ngợi và ông lại cười một cái cười đầy đau đớn tủi hổ: “Mà tôi

xấu hổ/ Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay/ Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ/

Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười” (Ai ? Tôi!) [60, tr.228]. Và cho tới sau

32

chót đằng sau tất cả những tâm sự, câu hỏi được đặt ra ông chua xót thừa nhận

mình đã làm sai: “Mình đánh bẫy mình trong nồng nàn hương xạ/ Cái mùi

hương mê lộ phía loa thành” (Hương đêm) [62, tr.11]. Chế Lan Viên bằng một

giọng suy tư, chiêm nghiệm ông nhận ra mình như một người vô hình trong hiện

thực của cuộc đời để rồi ông khám phá chính mình như những phiên bản sai

lầm, phiên bản để rồi ông đốt đi và khóc trong tòa tháp Bay-on. Cũng có khi nhà

thơ chợt cười mình tốn công lớn mà hiệu quả thu về thật nhỏ nhoi: “Cười mình

vung lưới rộng / Thu về con tép con / Nhặt bốn câu bé bỏng / Sải cánh cả tâm

hồn / Quên mất mình vừa sáu chục / Mở trang giấy rộng, viết dài / Gương nhắc

mái đầu chớm bạc / Lại làm có bốn câu thôi.” (Tuổi già làm thơ tứ tuyệt) [60,

tr.152]. Nhà thơ bỏ bao công sức vung một chiếc lưới rộng mong rằng thu được

cá lớn nhưng quên mất rằng tuổi già đã tới, sức lực đã giảm đi nhiều nên hiệu

quả thu về thật nhỏ bé. Nhà thơ tự cười mình với một nụ cười chua chát, cười

bản thân mình không tự nhận ra mình mà nhiều khi quên mất mình trong hiện

thực là một con người mà bóng chiều đang chợt tắt. Chế Lan Viên nhận ra đã

đến lúc phải thay đổi con người mình trong cả hành động và suy nghĩ, đừng nghĩ

rằng cái đẹp chỉ xuất hiện trong những thứ đẹp đẽ mà trái lại cái đẹp xuất hiện từ

những thứ xấu xa, nhơ nhớp của cuộc sống: “Hôi hám thế mới thực tình là

Chúa/ Muốn đổi Lời ư? Anh phải đổi đời” (Đổi đời) [60, tr.171]. Muốn rũ bỏ tất

cả những đấu tranh, những sai lầm của bản thân Chế Lan Viên đã tìm tới một

biện pháp đó là hòa nhập mình vào cuộc sống, hòa nhập mình vào thế giới hiện

thực với bao cây đời xanh tười, khơi nguồn mọi cảm hứng sáng tạo không quản

ngại trên con đường ấy có biết bao hôi hám, chông gai… Và cuối cùng ông đã

nhận ra bản thể chính mình với Di cảo thơ, những bài thơ hòa nhập tâm hồn Chế

Lan Viên với hiện thực bằng giọng điệu đầy suy tư, chiêm nghiệm của con

người từng trải, của một thi nhân mang tâm hồn nhạy cảm trước cuộc sống, yêu

cuộc sống mãnh liệt, yêu thơ hơn chính bản thân mình.

2.2.2. Chiêm nghiệm về thế sự, đời thường

33

Hành trình thơ Chế Lan Viên từ Điêu tàn tới Ánh sáng và phù sa, qua

Những bài thơ đánh giặc, Hoa trên đá cho đến Di cảo thơ là những chặng

đường mà đất nước chưa bao giờ nghỉ ngơi, dân tộc và nhân dân luôn gồng mình

gánh vác sứ mệnh lịch sử. Chế Lan Viên không nằm ngoài guồng quay đó. Di

cảo thơ trải qua lăng kính thi nhân, qua thời gian là sự chiêm nghiệm về thế sự,

đời thường sâu sắc được thể hiện bằng giọng điệu đầy suy tư, chiêm nghiệm.

Trước hết đó là những vấn đề thế sự nhìn nhận lại quá khứ. Quá khứ đã qua đi

và con người cần phải sống hướng tới hiện thực và tương lai tươi đẹp phía trước.

Đó là một việc làm đúng đắn nhưng không phải vì vậy mà quá khứ không còn ý

nghĩa và giá trị mà trái lại con người càng cần phải biết trân trọng quá khứ. Quá

khứ làm nên hiện tại và mở ra chân trời tương lai, nếu biết trân quý quá khứ thì

đó chính là một bàn đạp vững bền đưa con người bay cao bay xa. Và hơn nữa

những ý nghĩa và giá trị của quá khứ mang lại thì không bao giờ bị phai nhòa,

đặc biệt là quá khứ của một dân tộc mấy ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước

và giữ nước như Việt Nam. Nó mang lại một hệ tư tưởng mãi thấm sâu bền chặt

trong lòng dân tộc, đem tới truyền thống anh hùng bất khuất, tinh thần nhân đạo

to lớn… Những điều đó mãi ghi trong lịch sử và nó trở thành những trang sử vẻ

vang nhất, đem tới lòng tự hào dân tộc cho thế hệ sau, giúp thế hệ sau có những

tấm gương sáng ngời, noi theo và học tập. Vai trò của quá khứ đầy giá trị nhưng

trong thời buổi cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỉ XX thì con

người thế hệ sau dường như quên mất vị trí của quá khứ bởi giờ đây họ chìm

đắm mình trong những Mô-đéc [61, tr.120] sai lệch, trong cái bản ngã đầy

những mâu thuần và trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt…Tất cả khiến

một bộ phận thế hệ sau quên đi một thời máu lửa, một thời đạn bom…với họ

bây giờ trước hết phải đương đầu với một cuộc chiến giống như cuộc “cách

mạng nhung”. Ở đó không có chỗ cho tình thương, cho quá khứ hay cho bất cứ

thứ gì mà đó là nơi đồng tiền ngự trị.

Chế Lan Viên đầy trí tuệ nhìn thấu hiện thực xã hội ấy và ông nhận thức

được vai trò của quá khứ. Ông cất tiếng nói đầy suy tư vọng tới những con

34

người đã lãng quên đi một thời đáng để nhớ và ông cũng thầm tự trách mình quá

nhỏ bé không thể hét vang một tiếng nói bất mãn. Ông đành gửi những trăn trở

ấy vào Di cảo thơ với những người bình thường trong thời bình nhưng anh hùng

một thời chiến đã qua: “Ánh sáng gì trong mắt/ Hay huân chương trên tường/

Có khi bản thân anh cũng muốn quên giữa cuộc đời chật vật/ Còn ta à! Thì bận

vì dạ hội, liên hoan,/ Tình ca, hội thảo… / Bao nhiêu điều láo nháo chúng ta

quên/ Quên rằng giờ chiến thắng mười năm/ Anh ta vẫn khổ/ Con vào trường

không có chỗ/ Đến bệnh viện không có tiền/ Ra đường không ai nhớ/ Về làng

người ta quên (Một người thường) [61, tr.173]. Sự lãng quên quá khứ biểu hiện

đầu tiên của nó chính là quên đi những con người của một thời dĩ vãng. Những

con người ấy đang sống trong sự bỏ rơi của xã hội, không ai biết họ, không ai

nhớ họ, không ai quan tâm họ…Và họ tự mình lăn lộn giữa dòng đời. Tại sao

không ai biết họ vì lí do con người bây giờ đang bận, lúc nào cũng bận với sự ăn

chơi, với tiệc tùng và họ thờ ơ lãnh đạm mặc cho người đã cống hiến xương máu

để có hiện tại đang khổ. Bao huân chương, bao bằng khen ghi nhận chiến công

giờ chỉ là hư vô không thể nuôi sống các anh cùng gia đình. Nhưng những con

người còn sót lại trong quá khứ mà đáng ra cần phải được chăm sóc ấy chấp

nhận hiện thực không oán than. Họ sẵn sàng để con người quên mình nhưng họ

không quên quá khứ. Chính vì vậy họ lại càng đẹp hơn. Chế Lan Viên ngậm

ngùi thay cho những người thường ấy và lên tiếng nói suy tư bênh vực cho quá

khứ, thầm nhắc nhở bọn người ngày đêm chỉ biết hưởng lạc mà quên mất rằng

cái “Lạc” ấy được xây đắp nên từ những người thường.

Biểu hiện cao hơn nữa của sự lãng quên là con người muốn xóa toàn bộ quá

khứ, muốn rũ sạch quá khứ ra khỏi hiện tại. Quá khứ giờ đây chỉ là sách vở chả

ai thèm đọc, chỉ là mớ kí ức cũ rích đáng bị bỏ rơi vào một góc xó xỉnh nào đó.

Đau xót thay khi nghĩ tới lời dạy của Bác Hồ năm xưa vẫn văng vẳng bên tai

“Dân ta phải biết sử ta”, dân ta phải biết tới quá khứ vẻ vang dân tộc…Chế Lan

Viên đứng rất gần với sự bình tĩnh, lạnh lùng cùng giọng chiêm nghiệm nói lên

một sự thật đắng cay:

35

“(…) Cũng chả màn huỳnh quang nào, vệt sáng nào cà lên các vế thương

cháy vì bom

Cái giá máu, giá người, giá nhân phẩm, thịt xương một dân tộc như ta phải

trả là bao để độc lập như ta giữa thời nguyên tử?

Bắc cân giữa máu bên này và vinh quang bên kia thì máu lệch cân rồi.

Ấy thế mà cả dân tộc đang đi vào quên đấy!

Sử, thơ, toán có ghi mà! Nhưng ai đọc nữa đâu”

(Ai đọc nữa đâu) [62, tr.92]

Chế Lan Viên nhắc lại những chiến công đẫm máu và vinh quang của quá

khứ để rồi ông trách móc những con người máu lạnh đang phủ nhận quá khứ dù

với bất kì lí do nào. Quá khứ vẫn nguyên vẹn giá trị to lớn của nó, vẫn tồn tại

giữa chúng ta và ông thầm nhắn nhủ con người phải biết trân trọng nó. Đồng

thời Chế Lan Viên đã chỉ ra những sai lầm của con người khi nhìn nhận lại quá

khứ, một bộ phận con người với tư tưởng chưa đúng đắn đã nhìn về quá khứ với

một cái nhìn thiên lệch. Với họ quá khứ chỉ là đau khổ, thấp hèn đáng bị tẩy xóa

mà trước hết họ trông thấy đó là những ông Vua phong kiến quèn: “Vua Hùng,

vua Lê, cả dân tộc sống trong chấu Á đói nghèo/ Dẫm chân trong bùn, dẫm

chân tại chỗ/ Có làm vua cũng là vua thứ quèn/ Mũ triều thiên lẫn cùng rổ rá/

Áo long bào lắm khi phải vá…” (Vua) [60, tr.199]. Đây là một thực tế, nước ta

còn nghèo, dân ta vẫn phải chịu đói khổ trong quá khứ. Nhưng chỉ nhìn ở một

khía cạnh, một con mắt một chiều ấy thì có lẽ quá khứ không mang ý nghĩa

nhưng Chế Lan Viên đã chỉ ra nhìn quá khứ không chỉ nhìn ở mặt bề nổi của nó

mà phải tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân. Ông nói sở dĩ Vua ta khác thứ Vua tam

cung lục viện khác chính là ở hai chữ “vì dân”, vì phải lo miếng cơm manh áo

cho dân tộc nên phải như thế. Ông tự hào về Vua nước ta vì vua nước ta biết lo

cho dân, biết nghĩ cho dân. Bởi vậy ông bảo bọn người có cái nhìn sai lệch: “Do

đó ta có chửi vua nước mình cũng chửi cho chừng mực” (Vua) [60, tr.199].

Những cái nhìn sai lệch chưa được uốn nắn đó vô tình tạo ra những “giọt buồn”

nhỏ vào quá khứ và đã làm quá khứ bị tổn thương:

36

“(…) Máu họ dâng Tổ Quốc thắm tươi rạng rỡ mắt nhìn

Anh đến sau đừng nhỏ vào đấy giọt buồn cho nó bầm đen”

(Giọt buồn) [61, tr.58]

Với giọng điệu chiêm nghiệm, Chế Lan Viên miêu tả con người sống với

những cái nhìn một chiều, đánh giá chủ quan để lấy cớ đó họ muốn rũ bỏ quá

khứ và vô tình họ tạo ra những cuộc tranh luận, cuộc chiến vô lí mà ở đó họ luôn

thất bại, những tên rác rưởi:

“Những cuộc cái cọ giữa chân lí và bọn cầm cờ trắng cờ đen nghiêng ngả

Giữa mặt trời lên và các ngôi sao chết

Giữa cờ đỏ thiêng liêng và những kẻ đổi màu (…)” (Tranh luận) [62, tr47].

Chế Lan Viên đẩy giọng chiêm nghiệm về thế sự, đời thường đạt tới mức

độ cao nhất khi tự nhận thức về mình và ông thầm trách chính mình bởi mình

cũng đã vô tình hơn một lần quên đi quá khứ: “Ca tụng người không tiếc mạng

mình trong mọi cuộc xung phong./ Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về

sau mười năm/ Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ/ Quán treo huân

chương đầy, mọi cỡ,/ Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!/ Ai chịu

trách nhiệm vậy?/………………………………. / Mà tôi xấu hổ/ Tôi chưa có câu

thơ nào hôm nay/ Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ”(Ai! Tôi?) [60, tr.228]. Ông

lên tiếng hỏi ai chịu trách nhiệm, ai tạo ra bi kịch này… Một câu hỏi đầy đau

thương mà không thể trả lời. Đồng thời ông cũng suy tư với chính mình, ông

chưa làm gì để chống lại hiện thực, để bảo vệ những huân chương và con người

ấy. Giọng chiêm nghiệm thể hiện những nỗi đau đớn trong Chế Lan Viên, ông

xấu hổ bởi từng có lúc mình ca ngợi họ và cũng đã có lúc mình quên họ, quên

quá khứ. Qua đó hiện lên chân dung Chế Lan Viên đầy dũng cảm dám sống thật

với lòng mình mang tâm hồn đẹp.

2.2. Giọng điệu chất vấn, đối thoại

2.2.1. Chất vấn, đối thoại về nghề

37

Theo từ điển tiếng Việt “Chất vấn” là động từ mang nghĩa “hỏi và yêu cầu

phải giải thích rõ ràng”; “Đối thoại” là động từ mang nghĩa “nói chuyện qua lại

giữa hai hay nhiều người khác nhau”.

Giọng điệu chất vấn, đối thoại xuất hiện nhiều và là một trong những giọng

điệu cơ bản của thơ Chế Lan Viên thời kì này. Đồng thời thể hiện một bước

chuyển mình quan trọng trên con đường thơ Chế Lan Viên. Nếu trước đây giọng

điệu ở thơ Chế Lan Viên nghiêng về chính luận vì ông sống thời chiến thì nay

trong hòa bình với bao lo âu trăn trở bộn bề của cuộc sống thường nhật ông

chuyển sang triết luận chất vấn, đối thoại mà Di cảo thơ là một minh chứng. Khi

xã hội trở nên dân chủ hơn, tiến bộ hơn thì nhiều nhà văn cũng ít nhiều nhìn lại

quá trình sáng tác của mình với một cái nhìn tỉnh táo hơn, gần với cuộc sống

hơn. Văn học và thơ ca lúc này hướng vào vấn đề thế sự và đời tư (những vấn đề

mà trước đây, trong hoàn cảnh chiến tranh ít có điều kiện đề cập), tới bây giờ cá

nhân trở thành trung tâm của thi ca. Chế Lan Viên không đứng ngoài quy luật

ấy. Bằng giọng chất vấn, đối thoại trong Di cảo thơ Chế Lan Viên đã bộc lộ

quan niệm về thơ và nghề thơ của ông đã có sự thay đổi trong tình hình mới. Giờ

đây quan niệm thơ và nghề thơ cần nói về những vấn đề thế sự, phản ánh cuộc

sống con người. Đây chính là một quan niệm mang tính thời đại của nhà thơ.

Chế Lan Viên chất vấn: “Thơ bây giờ vẫn thế mà lại không phải thế/ Nó không

cần thẩm mỹ/ Mà cần thẩm lậu cái chất máu, chất người ra mọi kẽ/ Thơ cần

nhân thế” (Thơ hiện đại) [62, tr.236]. Với Chế Lan Viên, thơ phải hướng tới

những vấn đề mới của nhân thế! Vì vậy, trước những nhức nhối của

thế sự và đời tư, như bất cứ người nghệ sĩ nào, Chế Lan Viên không thể thờ ơ,

không thể đứng ngoài cuộc. Bây giờ thơ không phải là những lời ru êm ái hay

những bản diễn thuyết sử thi đồ sộ nữa mà là sự kết hợp giữa những gì ở kiếp

sống con người như được - mất, niềm vui - đau khổ, cay đắng - thành công hòa

với cuộc sống nhân sinh. Bởi thế, như ông viết trong thơ, thơ “không chỉ đưa ru,

mà còn thức tỉnh”: “Câu thơ có nghĩa đơn mà hồn phải kép/ Viết cái ấm của ta

mà không quên cái rét của mình” (Hai xứ) [60, tr.190]. Chế Lan Viên chất vấn

38

thơ giờ phải sống “giữa cỏ”,“giữa đời thường” chứ không phải là sống trong

những ngọn “tháp cao tăng”: “Ta sinh ra giữa đời, không có bí quyết cao tăng/

Đâu dám dựng thơ như tháp nhiều tầng/ Tôi lại thích bài thơ nằm giữa cỏ”

(Tháp cao tăng) [61, tr.72]. Thơ với ông bây giờ bài “Thuốc” để chữa lành nỗi

đau người: “Cũng chỉ vì mình là người/ Thơ nói cho ta điều đó/ Có nỗi đau mới

có ích cho người (Thuốc) [62, tr.214]. Bản thân thơ ca cũng đã có sự xáo trộn

lớn. Thơ bây giờ không phải để cho nhà thơ nghe trong những gian phòng khép

kín nữa mà phải mở rộng đón độc giả, đón những vang động từ cuộc sống bởi có

như thế thơ mới có thể tồn tại. Sự thay đổi đó mở ra một hướng đi khác cho thơ:

“(…) Những câu thơ chay đôi khi nhớ đời liền thậm thụt/ Phá cái giới nghìn đời

ràng buộc, bỗng phi thơ,/ Bỗng ăn mặn vào miếng đời phàm tục./ Thơ thế kỉ 20

là thế mà. Đừng quá lọc./ Phải văn xuôi. (Thơ thế kỉ 20) [60, tr.201]. Thơ bây

giờ phải gần như là văn xuôi bởi cần phải truyền tải hiện thực, thơ bây giờ

không thể quá lọc bởi hiện thực cuộc sống đâu dung nạp loại thơ đó, thơ bây giờ

cần phải được cởi trói thả mình ra giữa dòng đời, giữa cuộc sống.

Thơ không còn là những gì mượt mà, chau truốt, lãng mạn đưa tâm hồn

con người bay bổng nữa mà nó phải gắn chặt với thực tại, phải thuật tả những

điều con người muốn che dấu. Từ đó thơ như một bài thuốc chữa bệnh – căn

bệnh trầm kha: bệnh xã hội. Muốn như vậy, thơ phải gắn bó chặt chẽ hơn nữa

với con người và đừng mơ mộng hão huyền về những cái còn ở một chân trời xa

xăm, phải đặt con người làm đối tượng hướng tới trung tâm. Và đó mới là “thơ

cao cả”. Giọng Chế Lan Viên thay đổi sang đối thoại như muốn nói với người,

với đời và với chính mình đã đến lúc cần sự thay đổi hãy hướng tới cái bình

thường trong cuộc sống bởi những cái cao cả nhất được nảy sinh từ đó: “Những

phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về/ Dù tem vẽ các vĩ nhân, thần thánh/

Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh/ Viết cho người độc

giả bình thường gần gụi đọc thơ anh.” (Thơ cao cả) [61, tr.129].

Trong Di cảo thơ Chế Lan Viên luôn chất vấn, đối thoại lại mình và giá

trị đích thực của thơ ca. Ông sống trong trạng thái hoài nghi chán nản nhưng ông

39

không rơi vào bế tắc bởi ông là Chế Lan Viên. Với trí tuệ của mình ông đã tìm

ra bản chất đích thực của cuộc đời và của thơ: thơ phải gắn chặt với nhân thế và

cuộc đời cần gắn hiện thực vào thơ. Ông đã nâng quan niệm của mình thành triết

lí sống, triết lí thơ cho những nhà thơ muốn ẩn mình nơi hồng trần đang vùng

vẫy những đói khát hòa mình vào thế giới thực. Chế Lan Viên đối thoại giữa thơ

và đời, trăng và nhà thơ, cần thêm muối đời cho cuộc sống mặn mà, thêm muối

đời cho thơ thêm hương sắc cuộc sống:

“Nhà thơ đem đến thức ăn và nỗi đói

Vạn năm nay ta đã no thừa mứa chán chê trăng,

Nhà thơ lại làm ta đói một lần nữa

Trăng gợi khát thèm cho ta nguyên thừa mứa

……………..

Anh cũng chưa phải đã sống một đời

Sáng hôm nay, sau trang thơ, anh mới đẻ.

Nhiệm vụ thơ, à ra thế thế

Thêm vị muối cho đời thêm hạt lệ

Cho thơ. Thêm tiếng cười cho kẻ sống trơ trơ (Đói) [62, tr.152]

Nhưng sau những triết lí, chất vấn, đối thoại về cuộc sống ấy ông chợt nhận

ra thơ mình vẫn còn lẩn khuất ở một góc tối nào đó. Ông lại ngậm ngùi nhìn lại

mình, nhìn lại thơ mình để rồi cay đắng nhận ra: “Những câu thơ ta gởi lại/ Một

phần khôn, chín phần trót dại/ Nhưng biết đâu chính ở những câu thơ dại khờ/

Ta mới thực là ta? (Những câu thơ) [62, tr.148]. Cái “Ta” trong ông đã mất đi

tự bao giờ. Bây giờ với một quan niệm thơ mới ông mới lại tìm về với chính cái

“Ta” của ông. Nó thể hiện một tâm hồn thơ trong sáng thanh cao, một tư cách

nghệ sĩ đầy trách nhiệm trước cuộc đời, một tư duy thơ đầy triết lí và khiến cho

thơ Chế Lan viên mang đậm chất nhân văn. Giọng thơ đầy sự chất

vấn: “Thơ ngày nay là để đọc trong phòng riêng lẻ/ Cho cả tiềm thức, ẩn ức

mình nghe những điều phi lí (Thơ hiện đại) [62, tr.236]

40

Thơ với Chế Lan Viên không thể nằm ngoài cuộc sống và nhà thơ cũng

vậy. Quan niệm về thơ và nghề thơ của Chế Lan Viên không nằm ngoài biến đổi

lịch sử xã hội. Bằng giọng điệu chất vấn, đối thoại sâu sắc Chế Lan Viên đã thể

hiện quan niệm thơ của ông trong thời đại mới đã có sự thay đổi rõ rệt từ “Làm

thơ là làm sự phi thường”, “thơ cần có ich” tới cuối cùng là “thơ cần nhân

thế”. Rõ ràng quan niệm ấy không phải ngẫu nhiên có mà phải trải qua một đời

thơ từ trẻ tới già. Và bao giờ sự thừa nhận chính mình vế đầu đáng để được

chúng ta trân trọng.

Chế Lan Viên mang sự trải nghiệm lớn, ông đau đớn khi nhận thấy trong

thơ và nghề thơ đang có những bước đi lạc lối, những bước đi ấy đang dần giết

chết thơ, nhà văn. Chế Lan Viên sử dụng giọng điệu chất vấn, đối thoại nhẹ

nhàng đầy oán trách và mang một nỗi buồn trong đó để gửi gắm tâm sự mang

tính thế sự. Trước hết, Chế Lan Viên nhận ra sự xa rời thực tế của mình và của

nhiều người khác. Ở bài Hái trên trời, ông viết: “Mẹ già chạy gạo nuôi anh từng

ngày từng buổi/ Một tháng bao lần ngô ghế theo khoai/ Thế mà anh đi tìm nắm

cỏ tiên để hái/ Mẹ cần ăn, anh cho nắm cỏ hái trên trời” (Hái trên trời) [62,

tr.58]. Ông cất tiếng trách móc những nhà thơ trốn tránh hiện thực, không muốn

nhìn vào cuộc sống để viết. Họ tìm về cõi tiên, tìm tới những nắm “cỏ hái trên

trời” bỏ mặc hiện thực là những bà mẹ đang đói khổ. Những con người ấy vì

trốn chạy hiện thực nên dần họ đắm chìm vào cõi mơ tưởng do chính mình dệt

nên và thơ họ cũng dần lạc lối. Trong thời đại mới bên cạnh những nhà thơ sớm

tự ý thức được mình như Chế Lan Viên thì vẫn còn những nhà thơ bị lac lối

trong rừng già bí hiểm của chính mình, những nhà thơ chưa tự tìm được lối đi

đúng cho tơ mình. Và kết cục là tự họ giết chết chính mình và giết dần thơ

mình.

Bằng giọng điệu đối thoại, chất vấn Chế Lan Viên muốn nói với những nhà

thơ không chân chính chỉ muốn tìm chữ lạ để lừa người chứ thực chất không có

gì mới. Nhà thơ vì tham danh lợi nên đã dần mất đi giá trị vốn có: “Những

nhà thơ mất giá/ Lại thường hay đổi tiền/ Mong dùng nhiều chữ lạ/ Lừa người

41

tiêu quá quen (Mất giá) [60, tr.75]. Nhà thơ dùng chữ nghĩa văn chương rỗng

tuếch, dùng thơ mà chẳng trau chuốt, không đem tâm hồn nhà thơ chứng tỏ sự

lười động não trong sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ mong dùng những “chữ lạ” vô

nghĩa để lừa gạt người đọc. Nhà thơ mang người đọc như một thứ để kinh doanh

kiếm lời và những sự lừa lọc ấy được hết nhà thơ này tới nhà thơ khác học tập

và làm theo. Hậu quả tất yếu là thơ đó sẽ chết, nhà thơ cũng dần mất đi lửa sáng

tạo thi ca đích thực và cái đẹp không còn thuộc về nhà thơ. Chế Lan Viên chửi

thề những kẻ mang thơ – vật của thần linh trao tặng chơ con người ra để trục lợi:

“Mẹ kiếp! Một triệu thi sĩ giết trăng mà trăng chẳng chết/ Mà có khi trăng chết

vì con lí ngư vọng nguyệt/ Mê đôi mắt cá si dại kia, trăng rơi tõm xuống hồ. (Lý

ngư vọng nguyệt) [60, tr.76]. Vì quá để tâm vào tiền tài danh lợi

mà nhà thơ quên mất phải nâng cao tâm hồn, nâng cao những giá trị của thơ ca.

Nhà thơ bởi vậy mang trên mình mối “Nợ” với người đọc và với chính mình

nhưng họ không có khái niệm trả nợ mà lại luôn quỵt nợ. bằng giọng điệu đối

thoại Chế Lan Viên khẳng định đó là những kẻ có tội với người đọc và có lỗi với

chính thơ: “Trả, anh là anh/ Không trả, anh có tội với mười phương tám hướng/

Anh moi bộ óc không phải bằng vàng ra để trả/ Thế mà có nhiều nhà thơ đã

không trả còn vay, còn ăn quỵt/ Họ có mười mà tên tuổi đến mười mươi” (Nợ)

[60, tr.185]. Dù cho tên tuổi có “mười mươi” nhưng Chế Lan Viên đã nhìn ra đó

chỉ là hư danh sẽ tan biến trong mây khói. Nhà thơ thời nay quá hư vinh, đã lãng

quên đi những giá trị đích thực của bản thân mình. Tâm hồn những nhà thơ và

thơ đang dần biến mất, thay vào đó là sự giả dối:

“Phét lác các điều bao la sóng to gió cả

Chữ nghĩa thơ anh nước ốc nhạt phèo

…………………………….

Cái gì yên lặng chẳng điêu toa mà tồn tại” (Ba chữ) [61, tr.83]

Cái “điêu toa” ấy đang dần phổ biến trong hiện tại bởi những nhà thơ giả

dối, hám lợi hay đã tự họ lãng quên chính mình. Chế Lan Viên thấy có cả những

nhà thơ vô cảm không biết đến cây đời với bao điều hấp dẫn. Chế Lan Viên sử

42

dụng giọng điệu chất vấn rất nhẹ nhàng mà đầy oán trách những kẻ lãnh đạm với

cuộc đời nhân sinh: “Những nhà thơ không nghe biếc đầu cây gọi họ/ Gặp mùa

đào mà không có nỗi buồn Thôi Hộ/ Đi qua mùa xuân không ngoái cổ lấy một

lần/ Họ sống ba trăm sáu chục ngày, không biết một ngày xuân” (Lãnh đạm)

[61, tr.158]. Hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ với bao âm điệu hình ảnh

nhưng lại có những nhà thơ sống lãnh đạm, co mình trong một cái kén riêng, xa

rời tất cả để mong cho tâm hồn mình thanh sạch. Nhưng chính vì ngày càng thu

mình lại nên những nhà thơ ấy dần giết chết thơ mình bởi họ chưa biết tới hiện

thực muôn màu hấp dẫn bởi đó chính là ngọn nguồn của mọi đề tài, mọi sáng tác

văn chương. Thông qua những điều ấy hiện lên một Chế Lan Viên sâu lắng đầy

chất triết lí. Ông không cần mạnh bạo thẳng tiếng lên án nhưng vẫn đủ cho ta

hiểu hết nỗi lòng của ông, một nhà thơ tận tụy làm hết nghĩa vụ của mình: “(…)

Tôi chôn hàng trăm hài hoa vào trang thơ/ Bới lên chỉ nhặt được xương gà” (Cô

Tấm) [60, tr.182]. Ẩn sâu bên trong những suy tư trầm lắng ấy là một con người

ở cuối vòng số mệnh đang trở mình thức giấc. Thời gian đã qua đi nhưng với Di

cảo thơ dường như Chế Lan Viên vẫn còn sống, đang nói những tiếng để chúng

ta phải suy ngẫm.

Thơ ca trong thời đại mới bên cạnh những bài thơ đi vào cuộc sống,

lấy “nhân thế” làm trung tâm, tập trung phản ánh đi vào thế sự, vào đời tư con

người thì vẫn còn vô số những bài thơ rập khuân máy móc, thứ thơ làm cho vui,

những thơ giả dối đánh lừa bạn đọc. Những thơ ấy đi theo thị trường dần mất

hút trong tối tăm. Chế Lan Viên đối thoại với thơ: “Có những bài thơ trống

hoác/ Ý thơ như gà cục tác/ Cách làng còn nghe/ Có bài thơ in ra/ Im lìm hơn

cả dế/ Có những bài thơ như nhà có hội/ Treo đèn kết hoa…” (Mở và khép) [61,

tr.121]. Những bài thơ ấy nội dung máy móc, ý tứ như “gà cục tác”, đầy giả dối

và dung tục “khiến người ta hững hờ”. Thơ đang dần đi sâu vào con đường phi

hiện thực mà nguyên nhân sâu xa do chính người sáng tạo ra thơ sai trái, họ là

“những nhà thơ phét lác” (Tâm và hồn) [62, tr.154]. Bởi vậy người đọc dần xa

lánh thơ, lên án thơ và lên án cả nhà thơ. Thơ không sống trong lòng đọc giả, thơ

43

không sống trong đời thực và nhà thơ ở trong “buổi phát thanh”, trong

“Tuyển”: “(…)Tên anh người ta nhớ ở buổi phát thanh/ Rồi quên đi ngoài chợ/

Có tên trong Tuyển chớ không có trong lòng độc giả” (Cứu mình) [62, tr.167].

Có nhiều trường hợp “dịch thơ” lại hóa “diệt thơ”, một sự không may chăng

hay cố tình nào đó. Chế Lan Viên cay đắng nhận ra đó là do cố tình: cố tình giết

thơ, hủy hoại văn chương cao quý mà trời ban tặng cho con người. Chế Lan

Viên sử dụng giọng điệu chất vấn để thấy sự căm hờn trong một nhà thơ chân

chính bị những kẻ có danh lừa: “Nghe tên một nhà thơ lớn/ Bỏ mấy trăm đồng ra

mua/ Đọc, chả hiểu gì hết/ Hóa ra mình bị lừa/ Lừa bởi thằng dịch/ Không hiểu

mà dịch bừa/ Tiền nó bỏ vào túi/ Còn thơ giả cho nhà thơ (…)” (Bị lừa) [62,

tr.22]. Trong xã hội còn có những con người vô đạo đức sẵn sàng hủy diệt thơ ca

chân chính chỉ vì đồng tiền vô tri gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Nhà

thơ đau xót phải thốt lên “tất cả vĩ nhân vào tay chúng nó; Chả ma nào còn” (Bị

lừa) [62, tr.22]. Những vĩ nhân ấy đang bị bọn người bất lương hủy diệt không

thương tiếc.

Sử dụng thành công giọng điệu chất vấn, đối thoại Chế Lan Viên khẳng

định vô tình nhà thơ đã tự tìm cái chết cho mình vì không giữ được tâm hồn,

hướng đi đúng trong thời đại mới. Họ đã bước đi lạc lối trên con đường nghệ

thuật cao cả. Ẩn sâu trong những bài thơ đó là một nỗi lòng của một nhà thơ

đang oằn mình cố chấp nhận sự thật dù không muốn. Chế Lan Viên hận chính

bản thân mình bởi mình cũng là một nhà thơ nhưng đang phải chứng kiến thơ và

nghề thơ đi lạc lối mà bản thân bất lực. Và có lẽ sâu hơn nữa ông hận chính cái

tuổi già, cái cuộc đời quá ư ngắn ngủi của mình khiến mình trở thành kẻ có tội

với văn chương. Sự tự nhận thức ấy thể hiện một tâm hồn thơ trong sáng thanh

cao, một tư cách nghệ sĩ đầy trách nhiệm trước cuộc đời, một tư duy thơ đầy

triết lí và khiến cho thơ Chế Lan Viên mang đậm chất nhân văn

2.2.2. Chất vấn, đối thoại với người

Cùng với những chất vấn, đối thoại về nghề, về thơ, Chế Lan Viên chất vấn,

đối thoại với người. Trong Di cảo thơ Chế Lan Viên sử dụng giọng điệu chất

44

vấn, đối thoại khi nói tới những bất cấp của cuộc sống con người thời đổi

mới. Bằng giọng điệu chất vấn, đối thoại, Chế Lan Viên đã thẳng thắn khi đề

cập tới những bất cập trong cuộc sống con người thời đổi mới. Chế Lan Viên đã

làm hiện lên một bức tranh xã hội đầy ma mị và mê lực với bao cám dỗ, ở đó có

người tốt, có kẻ xấu, có người dũng cảm vượt lên chính mình nhưng cũng có

người vùi sâu dưới đáy bùn tội lỗi. Trong bài Mô-đéc, Chế Lan Viên đã rung lên

hồi chuông cảnh tỉnh trước một hiện thực xô bồ khi đồ vật lên ngôi, “là chúa tể”.

Ông thấy rõ mặt trái của “thời thượng” khi mọi thang giá trị đang bị đảo lộn.

Một thực tế hiện hữu trong cuộc sống mới là có không ít những quan niệm

làm đảo điên cuộc sống xuất hiện bởi cuộc sống mới đã mở ra cánh cửa cho cá

nhân cùng những quan niệm mới trỗi dậy. Chế Lan Viên đứng giữa cuộc sống

và ông nhìn thấy mặt tốt lẫn mặt xấu của nó. Chế Lan Viên rất nhạy cảm, ông đã

sớm nhận thức được sự nguy hiểm mà những quan niệm đó mang lại. Ông muốn

cảnh tỉnh con người, những người đã, đang và sắp học theo những quan niệm

nguy hiểm chết người đó. Ông sử dụng giọng đối thoại để thấy sự nguy hiểm

của mặt trái trong tư tưởng cá nhân thái quá: “Thế kỉ 20. Nôn mửa thành cổ điển/

Và phá phách vào Hàn lâm viện/ Họ chia ra buồn tiền chiến và say hậu chiến/

Biến chén rượu hạt mít và cái ao nhà thành ra biển/ Dựng cặp đùi lên thành

Khải hoàn môn/ Giết hết hoa sen để vạn tuế buồn/ Họ lao trượt ái tình như trẻ

con chơi cầu trượt…/ Đồ vật là chúa tể mà./ Nhân loại sắp hoàng hôn.” (Mô-

đéc) [61, tr.120]. Một bộ phận con người trong thời đại mới sống không tuân

theo những quy luật sống - tâm lí như bình thường mà họ quan niệm phải có sự

phá cách, một sự phá cách đáng sợ cùng những hoang tưởng kinh hoàng. Họ cho

rằng sống không cần phải có chuẩn mực, cứ “nôn mửa”, đập phá là thành ra thế

giới mới với những ảo tưởng “dựng đùi thành Khải hoàn môn”. Con người quan

niệm “đồ vật” (vật chất bao quanh con người) là trên tất cả không cần tới giá trị

tinh thần. Quá khứ với họ là cái đáng phải quên và cần quên, họ lao vào ái tình

như những con thiêu thân để giết chết nỗi buồn và thời gian…Những quan niệm

ấy hoàn toàn phản đạo đức, phản lại những giá trị văn hóa truyền thống của

45

người Việt, đó là những Mô-đéc sai lầm do những bộ óc hủ bại tạo dựng đang

đưa con người vào con đường tối tăm. Chế Lan Viên nhận thức rất rõ, ông cảnh

tỉnh con người nếu không sớm thoát ra, bài trừ những tư tưởng, quan niệm ấy thì

“Nhân loại sắp hoàng hôn”. Bóng đen của sự hủy diệt ẩn náu sẵn trong những

thứ sai lầm mà con người đang sa vào.

Con người còn có những quan niệm hoang tưởng đầy tính siêu nhiên, phi

hiện thực hóa nhưng cứ nghĩ mình đúng. Với giọng điệu chất vấn, đối thoại Chế

Lan Viên khẳng định những quan niệm phi logic đang giết chết con người trong

hiện thực, đưa con người vào những cõi mơ mộng và đẩy họ xa rời lao

động: “Nhân loại mơ những siêu cá, siêu chim, siêu người, siêu vật/ Không chịu

là là bay mặt đất/ Thì là mà đi bằng hai chân/ Thèm thấy mình có cánh/ Thèm

gặp nhiều trung tâm/ Thèm gặp tầng di chỉ hoa văn/ Chớ chỉ gà, vịt, ngan,

ngỗng sao đủ/ Rồi thì xe cúp xe kiếc, ti vi, bàn tủ… (Cần gì) [62, tr.123]. Con

người trong xã hội mới quá tham lam, cầu tiến và không bao giờ chịu bằng lòng

với những gì họ có. Họ cần những thứ không bao giờ có được, đòi hỏi quá nhiều

thứ mới lạ mà ngay cả bản thân họ sẽ không bao giờ thực hiện được. Đó là

những mơ ước, quan điểm phi thực tế: muốn được có cánh, muốn mơ những

giấc mơ hoang đường… Những quan niệm ấy đã và đang thâm nhập vào cuộc

sống mới, làm đảo điên cuộc sống, chúng làm cho hệ giá trị tư tưởng bị rạn vỡ.

Ý thức được điều này ông cảnh tỉnh con người, mong muốn đưa con người về

với những giá trị tư tưởng truyền thống tốt đẹp gạt bỏ những quan niệm sai lầm.

Chế Lan Viên có những mong muốn con người hãy tìm về với những giá trị của

tinh thần để con người đẹp hơn. Ông có những mong ước thật đẹp: “Cầu cho

đừng khôn vặt như thế kỉ này;/ Để nuôi sống xác thân, đem làm thịt linh

hồn”(Đoạn cuối thế kỉ) [61, tr.139]. Đó là mong ước mang tầm vĩ mô làm cho

cuộc sống ngày càng tốt hơn, con người biết sống hạnh phúc…

Chế Lan Viên bằng giọng điệu chất vấn sắc sảo một lần nữa ông chỉ những

quan niệm sai lệch xuất hiện mà ngay trong chính mối quan hệ giữa người với

người cũng có những thay đổi tới mức chóng mặt, gây nên những hỗn loạn trong

46

xã hội. Nếu còn tồn tại lâu dài cách đối nhân xử thế như vậy tất yếu sẽ gây ra

những bất ổn định trong chính nội bộ đời sống và nội tâm con người. Nói tới vấn

đề này, trong bài Thời thượng Chế Lan Viên nói: “Chả ai yêu vầng trăng

và hương lúa ngoài đồng/ Yêu bà Tiên hay đám mây trên lầu Hoàng Hạc/

Giờ là thế giới của xe cúp, ti-vi, phim màu ngũ sắc/ Của quyền lực, tuổi tên, đốp

chát…/ Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng!/ Chả ai nhớ bà mẹ cắm chông bạc tóc/

Nhớ một cô gái chèo đò vượt lửa qua sông (Thời thượng) [60, tr.205]. Con

người giờ đây mải mê theo đuổi những hào nhoáng bên ngoài, chạy theo quyền

lực mà quên mất những giá trị truyền thống vốn có như văn hóa dân gian, lòng

yêu thương. Con người quên mất giá trị của lao động, lãng quên đi quá khứ hào

hùng. Bây giờ con người chỉ quan tâm đến đời sống vật chất xa xỉ, đến quyền

lực… mà quên đi rằng cái đã làm nên điều ấy. Hơn nữa con người cấu xé, ăn thịt

lẫn nhau để tranh giành những thứ không đáng để tranh giành. Thật đau lòng

biết bao khi chứng kiến cảnh ấy, nhà thơ bây giờ “như rác đổ thùng” không mảy

may giá trị. Ghê gớm hơn con người quỳ lạy dưới chân quyền lực và đồng tiền,

đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, nó thay đổi vị trí con người, định giá con

người. Con người giờ đây mải mê theo đuổi những hào nhoáng bên ngoài, chạy

theo quyền lực mà đang dần lãng quên những giá trị truyền thống, quên ngày

hôm qua, quên đi quá khứ hào hùng. Bây giờ con người chỉ quan tâm đến đời

sống vật chất xa xỉ, đến quyền lực. Thậm chí con người sẵn sàng quỳ lạy dưới

chân quyền lực và đồng tiền: “Trong lễ đón người tự thiên hà/ Anh bị gạt ra/ Vì

không cấp bậc/ Lương anh quá thấp / Lại không bằng cấp/ Ốm chưa bao giờ

nằm lầu A/ Họ đi xe Mecesdes, còn anh com-măng-ca” (Đón người tự thiên hà)

[61, tr.89]. Chính quyền lực, địa vị làm nên giá trị con người chứ không phải

phẩm chất con người làm nên con người. Con người giờ đây chỉ biết có bản thân

mình, chỉ ích kỉ, chỉ sống vì lợi ích của mình bỏ mặc người khác. Họ sống theo

kiểu “người không vì mình trời chu đất diệt”. Chế Lan Viên với giọng điệu chất

vấn pha lẫn đối thoại nhẹ nhàng đầy thâm thúy: “(…) Cái mùi hương biệt phái/

Chỉ biết có mình thôi”(Huệ) [60, tr.61].

47

Con người giờ đây trong guồng quay số phận không quan tâm, sống

thờ ơ lãnh đạm với mọi việc trừ những việc liên quan tới mình. Con người sống

với nhau mà như băng tuyết. Không chỉ vậy, trong mối quan hệ gia đình cha

mẹ - con cái cũng có những ranh giới đáng sợ. Chế Lan Viên chất vấn đứa con

ngoan ngày nào: “Mẹ già chạy gạo nuôi anh từng ngày từng buổi/ Một tháng

bao ngày ngô ghế theo khoai/ Thế mà anh đi tìm nắm cỏ tiên để hái/ Mẹ cần ăn,

anh cho nắm cỏ hái tên trời (Hái trên trời) [62, tr.58]. Người mẹ ấy cần một sự

chăm sóc thực tế chứ không phải những thứ cao xa nhưng người con đã quên đi

nghĩa vụ và bổn phận của mình với gia đình, với cha mẹ, quên đi đạo lí làm

người có thể sẵn sàng cho mẹ mình ăn “cỏ tiên” để sống chứ không phải cơm

gạo hàng ngày. Con người mất hết nhân tính, quên đi những truyền thống đạo lí

cơ bản: đạo Hiếu. Thậm chí ngay cả lời “Cảm ơn” (một phép xã giao thông

thường) cũng bị biến dạng đi ý nghĩa vốn có của nó trong cuộc sống mới. Chế

Lan Viên bằng giọng đối thoại đã vạch trần tất cả, đau xót nói lên nỗi căm hờn

của chính ông: “Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cảm ơn/ Cảm ơn một lần,

hai lần thôi thế là rảnh nợ/ Người giúp ta làm cho ta xấu hổ/ Và để khỏi xấu ư?

Ta sẽ căm hờn” (Cảm ơn) [62, tr.129]. Con người “Cảm ơn” nhau giữa cuộc

sống đầy bộn bề toan tính cũng là một cách để thoát nợ và để thù ghét nhau, một

cách đối nhân xử thế xứng đáng được liệt vào hàng đáng sợ của con người. Con

người có trái tim băng giá, vô cảm, họ sẵn sàng hủy diệt tất cả để bản thân họ

được tồn tại, được có lợi ích. Nguyên nhân sâu xa là do con người bị đồng tiền

và quyền lực làm mờ mắt, chính xã hội đồng tiền biến trái tim con người thành

đá, khiến con người dần trở nên vô cảm chỉ biết tới lợi ích mà quên đi tình

người. Đó là cách sống tiêu cực cần phải nhanh chóng loại bỏ nếu không hậu

quả khôn lường. Xã hội và con người mới tuy đã có nhiều đổi mới và khác trước

song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số thói quen không còn phù hợp với thời

đại của con người. Những thói quen ấy cần phải được xóa bỏ nhưng con người

chưa dám thực hiện. Chế Lan Viên công khai đưa những vấn đề “nóng” ấy vào

Di cảo thơ. Với giọng điệu chất vấn, đối thoại ông mô tả những thói quen ấy để

48

mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn với những con người thật sự

“mới”. Trong bài “Ba lần” ông chất vấn, đối thoại với những con người quá ư

máy móc: “Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!/ Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!/ Kiên

quyết! Kiên quyết! Kiên quyết!/ Thành công! Thành công! Thành công!/ Tại sao

lại phải ba lần?/Chúng ta bỗng dưng thành ra con vẹt!” (Ba lần) [62, tr.71]. Chế

Lan Viên đặt ra câu hỏi đầy mâu thuẫn nhưng rất đúng. Trong lúc xã hội

cũ những khẩu hiệu như vậy thường được đề cao để gắn chặt tình đoàn kết

và ý chí của con người cách mạng nhưng tới bây giờ (khi hoàn cảnh đã có nhiều

thay đổi) con người vẫn giữ thói quen ấy. Cố nhiên Chế Lan Viên không khẳng

định điều ấy là xấu nhưng “tại sao lại phải ba lần?”, cứ ba lần lặp lại nhàm

chán như vậy là yêu nước, là đoàn kết, là có thể thành công còn những người nói

một lần như đinh đóng cột thì không như thế ư. Chế Lan Viên nhắc nhở con

người không nên mãi giữ những điều đó bởi nếu không trong xã hội mới con

người lại giống “con vẹt” chỉ biết rập khuân. Hoan hô rất nhiều lần nhưng hành

động không như họ hoan hô.

Chế Lan Viên với giọng điệu chất vấn, đối thoại tiếp tục đặt ra những vấn

đề trong xã hội hết sức nhức nhối, như một thứ ung nhọt cần giải quyết. Trong

bài Hương sen, ông viết: “Anh có cho tôi làm hoa sen không, tôi trong lí lịch

có bùn?/ Thân phận người mà, ai chả có bùn đen?/ Giết chết một mùi hương, dễ

thôi, cứ quậy bùn lên để giết” (Hương sen) [62, tr.79]. Họ vẫn mang ánh

mắt đánh giá con người bằng giấy tờ, bằng lí lịch chứ không quan tâm tới cách

sống, năng lực, phẩm chất bên trong con người. Với thói quen nhận xét đánh

giá con người như thế không may chính họ đã giết chết con người tốt, những

con người muốn được làm “hoa sen” (biểu trưng cho sự thanh cao, trong sạch).

Hơn nữa thói “quậy bùn” kia thật là nhẫn tâm nhưng con người vẫn tiếp tục sử

dụng để đào thải những kẻ mà theo họ là xấu vì “lí lịch có bùn”. Điều ấy cũng

phản ánh con mắt nhìn người của nhiều người luôn đánh giá mọi thứ thông qua

cái bề ngoài hào nhoáng. Và từ đó nhận xét, tán đồng, chê bai…Tất cả làm trong

một ánh mắt một chiều. Từ đó ta nhận thấy sự sâu sắc của Chế Lan Viên, ông

49

cảnh tỉnh không chỉ một lúc mà cảnh tỉnh cả một đất nước từ quá khứ tới hiện tại

và tương lai. Những thói quen xấu nhưng không chịu sửa của con người trong

thời đại mới được Chế Lan Viên tìm tòi và với giọng điệu chất vấn, đối thoại

nhẹ nhàng nhưng sâu cay ông đâu đớn lên án những nhức nhối, tồn tại trong xã

hội buộc con người phải sửa để trong xã hội mới con người cũng phải mới hoàn

toàn, không còn những thiên kiến xưa cũ. Có thể nói đây là những vấn đề

“nóng” của xã hội và qua đó cho ta thấy một phần tính thời sự trong Di cảo thơ.

Trong cuộc sống mới đầy rẫy những xô bồ con người phải đối mặt với

biết bao nguy hiểm khó khăn, Chế Lan Viên nhận thấy con người không còn

sống thật với bản thân. Vẫn sử dụng giọng điệu chất vấn, đối thoại Chế Lan

Viên một lần nữa nghiêm khắc kiểm điểm chính mình, vạch trần những con

người luôn mang bộ mặt giả tạo, không dám sống thật với chính mình, không

dám suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Họ sống theo người khác, lúc nào cũng

mang trong mình một chiếc mặt nạ để phòng thân và để đánh lừa người

khác: “Anh ta có nhiều mặt nạ/ Cái nào cũng là mặt thật của mình/ Vì cái thật

hơn nó phải ẩn hình/ Sau mặt thật vốn là giả ấy/ Chiếc mặt nạ anh đánh lừa

người khác/ Lẫn cùng bao mặt nạ bao người” (Mặt nạ) [62, tr.83]. Con người

khoác trên mình không biết bao nhiêu bộ mặt giả dối hòng che đậy cái xấu xa

nhơ bẩn trong chính bản thân họ. Họ tự dối gạt mình và dối gạt những người

xung quanh bằng những bộ mặt giả tạo đã được sắp xếp sẵn từ trước. Chúng có

một “Thời gian biểu” ghê rợn, đầy mưu mô tính toán. Đó là những mưu mô xảo

quyệt rắp tâm muốn hãm hại con người, gây ra cái ác: “(…) Vứt mặt nạ đi, mang

mặt người, chúng về ngủ ngon lành với vợ/ Chủ nhật đến giáo đường thờ lạy

chúa ba ngôi” (Thời gian biểu) [62, tr.133]. Không chỉ thế con người tự dối gạt

chính mình bằng những ý nghĩ điên rồ hoang tưởng và họ đắm chìm trong cái

sai mãi mãi, trong cái không có thật do chính mình tạo ra: “(…) Cho nên đau thì

đau, mà ca cứ Vui Ca; Hỏi đời có xám không, ngó về đêm Đen, anh đáp; Đời

Hồng” (Về Đông) [61, tr181]. Màu hồng ấy hoàn toàn là màu của sự dối gạt,

hoang tưởng tạo nên, một màu mà trong nó là sự bẩn thỉu, lọc lừa… Con người

50

sống trong vòng xoáy của sự giả tạo ấy và cũng từ đó tạo nên bao cái xấu.

Chứng kiến và bản thân Chế Lan Viên cũng dường như bị cuốn vào vòng quay

ấy, ông chất vấn chính mình thật đau xót: “(…) Anh đứng giữa lệ mình

trơ trơ không dám khóc/ Vui nỗi gì khán giả vỗ tay ran” (Rối cạn và rối nước)

[60, tr.83]. Con người không nên sống hai mặt nhưng trong xã hội bấy

giờ thật đau xót biết bao khi chứng kiến những người quanh mình đang

ngày đêm sống giả tạo. Nguy hiểm hơn sự giả tạo ấy ngày một tinh vi, được bọc

lót cẩn thận. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là do xã hội xô bồ đẩy con

người vào những hoàn cảnh không thể không dùng “mặt nạ”. Và từ đó nó trở

thành thói quen, một thói quen giúp con người tự hủy hoại bản chất vốn có của

mình, không dám đối diện với mình mà chỉ có thể đối diện với cái giả trong cái

thật của chính mình.

Trong Di cảo thơ ta còn nhận ra Chế Lan Viên đã dùng giọng chất vấn, đối

thoại để mô tả bức tranh xã hội đổi mới kèm theo nhiều tiến bộ hơn trước nhưng

bên cạnh đó cũng là cơ hội cho các tệ nạn có cơ hội phát triển. Những tệ nạn ấy

mang vô vàn nguy hại, chúng làm thoái hóa biến chất con người, như một thứ

axít bào mòn xã hội. Chế Lan Viên dành không ít bài thơ trong Di cảo thơ để

nói về vấn đề nhức nhối này. Chế Lan Viên nói về tệ xóc đĩa, đánh bài, đánh

bạc nhưng không như các trò thông thường mà muốn nói đến những canh bạc

cuộc đời, các trò đỏ đen của cuộc đời. Mỗi bài thơ luôn mang tính đa nghĩa. Lấy

hình ảnh, sự việc thật để đưa con người vào vòng đỏ đen số mệnh, con người

luôn u mê đem cả thân xác lẫn linh hồn cho quỷ dữ. Họ say mê tới quên hết tất

cả mọi thứ, bỏ đi lịch sử, bỏ đi truyền thống, bỏ đi đất nước. Với những kẻ xóc

đĩa thì chỉ có “mở bát” và “chẵn lẻ”. Bao hỗn tạp, uế thải tràn vào đời sống con

người, khiến nhà thơ buồn phiền và khổ đau. Với giọng chất vấn, đối thoại, Chế

Lan Viên đã thẳng thắn bộc bạch nỗi lòng đau đáu, xót xa trước những vấn đề

nhức nhối của đời sống. Qua đó hiện lên chân dung một Chế Lan Viên dám trải

lòng mình với hiện thực khắc nghiệt: “Đất nước những ngày ấy, nướng tinh hoa

mình trong canh bạc/ Chưa ai tìm lại mộ vua Hùng mà đã đánh mất kiếm vua

51

Lê!/ Ngôi sao vàng trên cờ đỏ còn trong tối, trong xà lim chưa mọc/ Cửa chẵn

phía bên này mà ta đặt tâm hồn cửa lẻ phía bên kia/ Ta mất cả ta mỗi lần

mở bát/ Mà vẫn say tiếng xóc siêu hình trong đĩa của trời khuya (…)” (Xóc đĩa)

[62, tr.94]. Chế Lan Viên nói về tệ xóc đĩa, đánh bài, đánh bạc không như các

trò thông thường, mà muốn nói đến những canh bạc cuộc đời, các trò đỏ đen của

cuộc đời. Mỗi bài thơ luôn mang tính đa nghĩa. Lấy hình ảnh, sự việc thật để

đưa con người vào vòng đỏ đen số mệnh, con người luôn u mê đem cả thân xác

lẫn linh hồn cho quỷ dữ. Họ say mê tới quên hết tất cả mọi thứ, bỏ đi lịch sử, bỏ

đi truyền thống, bỏ đi đất nước. Với những kẻ xóc đĩa thì chỉ có “mở bát” và

“chẵn lẻ”. Hoặc nói về tệ nạn“Đánh bài”, Chế Lan Viên sử dụng giọng đối

thoại với chính mình để hóa thân vào nhân vật và cười, khóc:

“Ta xóc chia lại ván bài ta

Cho khác ngày hôm trước

Ta ù ván này, ta bày ván khác

Không thua là thắng

Mà thua là hòa

……………………

Hoan hô ta!

Thế rồi cho đến xóc bài cũng không còn sức nữa

Ném bài vào huyệt hư vô mặc nó

Ta là con bài mà bóng tối chơi ta.” (Đánh bài) [62, tr.35].

Trong thế giới tinh thần của con người không có phương hướng xác định,

không có điểm đến, không có tương lai. Họ vùi đầu vào những canh bạc, đem sức

lực, trí lực và cả tinh lực và những con bài mà chỉ có “thắng – thua”. Trong không

gian và thời gian chỉ chìm ngập một màu bóng tối, tiếng nói của con người giống

như tiếng thú vật đang gào thét. Dường như con người không hề tồn tại trong

những canh bạc đỏ đen ấy “ta là con bài mà bóng tối chơi ta”. Con người giờ đây

là những con rối, những con búp bê mang thân xác là con người đấy song tinh thần

52

hoàn toàn bị “những con bài” thay thế. Họ sống trong địa ngục trần gian, tự tung

hô mình nhưng không bao giờ tỉnh ngộ vì không ai gọi họ dậy.

Với giọng điệu chất vấn, đối thoại đặc trưng Chế Lan Viên không chỉ dừng

lại ở việc đề cập tệ nạn cờ bạc mà Chế Lan Viên còn công khai đề cập tới những

quốc nạn như tham ô, tham nhũng. Trong bài Hốt lá ông viết: “Giờ hòa bình tôi

vẫn làm thơ-nhặt lá/ Không phải vì đất nước mình còn chiến tranh, nghèo khó/

Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa/ Vì có bọn người thoái hóa/ Khiến

cho thắng trận rồi vẫn còn nhặt lá-kẻ làm thơ! (Hốt lá) [61, tr.105]. Chế Lan

Viên đã thẳng thắn đề cập trong Di cảo thơ những vấn đề rất “nóng” của thời đại

như quốc nạn tham ô tham nhũng. Và điều ấy nói lên tư cách nhà thơ chân

chính, không sợ uy quyền, dám đứng lên bảo vệ lẽ phải. Ông sẵn sàng đả

phá bè lũ “sống xa hoa - thoái hóa”, những kẻ đang sống dựa vào mồ hôi xương

máu nhân dân để nhân dân phải chịu “nhặt lá”. Chế Lan Viên nói trong di cảo

để mọi người thấy rõ bộ mặt bản chất của những kẻ vẫn nêu cao tiếng nói phục

vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Trong bài Nhà không trần, ông tiếp tục chất vấn

nhẹ nhàng nhưng đầy thâm thúy bằng việc mô tả hiện thực xung quanh: “Chung

quanh bọn tham ô/ Xây biệt thự lớn, nhỏ/ Còn lên lớp cho thơ/“Cần chịu đựng

gian khổ”” (Nhà không trần) [60, tr.69]. Cách nói quyết liệt, công khai với

giọng đầy chất vấn. Ngay cạnh nơi sống của nhà thơ chân chính cũng có bọn

tham ô đang ngày đêm vơ vét của cải về làn giàu cho bản thân, chúng xây nhà,

xây biệt thự từ chính mồ hôi công sức nhân dân. Hơn nữa chúng còn tự che phủ

mình bằng những lời nói dối trá với chính nhà thơ “Cần chịu đựng gian khổ”.

Chế Lan Viên nhận ra rằng nếu nó còn tiếp tục tồn tại và hoành hành thì hậu quá

khôn lường. Bởi vậy đằng sau những ngôn từ đầy công kích là một Chế lan Viên

luôn âu lo trăn trở cho vận mệnh quốc gia cùng một trái tim đầy yêu

thương. Tuy rằng khi đọc ta cảm thấy ông rất bình thản nói nhưng ẩn sâu bên

trong ông đang khóc. Một nhạy cảm như Chế Lan Viên đứng trước thời cuộc rối

ren, mọi giá trị có từ trước bị đảo lộn, thậm chí một lời cảm ơn cũng bị biến tấu

mà mình thì bất lực khiến sự buồn chán, tân trạng đau đớn là điều có thể chấp

53

nhận được. Nụ cười và sự thanh thản ấy đứng cùng với nỗi đau nghẹn ngào

không thốt lên lời của Chế Lan Viên. Và đó cũng chính là nhân cách cao quý

của một tâm hồn lớn.

Chế Lan Viên còn phát hiện ra ở trong xã hội nảy sinh tệ nạn luồn lách,

chạy trọt của con người để mong mưu lợi cá nhân. Trong bài Ngọc ông cất tiếng

chất vấn những con người nhìn bên ngoài là những viên ngọc trai quý phái trang

trọng nhưng bên trong là bao nhơ nhuốc bẩn thỉu nhưng họ biết “ăn con

sóng” để nuôi mình và để làm “trong veo lí lịch của mình”: “Tiểu sử của ngọc

trai là thế đấy/ Ăn con sóng mà nuôi giọt máu/ Rồi trong veo lí lịch của mình.”

(Ngọc) [61, tr.170]. Con người biết xử lí chính mình và biết làn như thế nào để

tốt cho bản thân. Hay trong bài “Qua cửa khẩu” ông lên án con người vì tham

lam, mưu lợi cá nhân đã nhận vật chất phi nghĩa và tự mình làm mù chính mình

để cho “(…) Các nỗi buồn qua cửa khẩu” (Qua cửa khẩu) [62, tr.90]. Và cũng

từ đó bao hỗn tạp uế thải tràn vào đời sống con người, mang lại buồn phiền và

khổ đau. Những “nỗi buồn” ấy cũng như nỗi buồn của chính nhà thơ khi phải

đối diện với cuộc sống đầy hủ bại. Chế Lan Viên lại một lần nữa nấc nghẹn ngào

trong Di cảo thơ.

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ đi tiên phong trong công cuộc

đổi mới văn học. Nghiên cứu những sắc thái giọng điệu trong Di cảo thơ cho ta

thấy thơ Chế Lan Viên ở hành trình cuối có sự vận động, thay đổi trong tư duy

thơ, quan niệm của nhà thơ về con người, về cuộc đời. Ẩn sâu trong Di cảo thơ

là hình ảnh Chế Lan Viên – một người luôn trăn trở, tự mổ xẻ, phân tích chính

mình, luôn khao khát hiểu người, hiểu đời. Di cảo thơ cũng thể hiện phần nào

phong cách thơ, sự gắn mình với hiện thực, với cây đời của Chế Lan Viên.

Đồng thời cho ta thấy phong cách thơ Chế Lan Viên đa thanh nhưng thống

nhất, ở mỗi giai đoạn phát triển có những biểu hiện đa dạng, phong phú.

54

CHƯƠNG 3

NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT GÓP PHẦN THỂ HIỆN

GIỌNG ĐIỆU DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN

3.1. Ngôn ngữ thơ

Văn học là nghệ thuật ngôn từ, nhà thơ là nhà sáng tạo nghệ thuật bằng

chính ngôn từ. Hơn bất cứ thứ chất liệu và phương tiện nghệ thuật nào, ngôn

ngữ là chất liệu và là phương tiện tối ưu của nhà thơ trong sáng tác. Ngôn ngữ

cho phép nhà thơ sử dụng nó để thể hiện vẻ đẹp sống động, lung linh của thế

giới tự nhiên, của đời sống xã hội và cả nội tâm con người – tùy thuộc vào chỗ

đứng, cách nhìn, cách cảm khác nhau với đủ mọi sắc thái cung bậc. Ngôn ngữ

còn có ưu thế về tính khái quát, tính trừu tượng và tính đa nghĩa, là nhân tố chắp

cánh giúp cho nhà văn nhân lên rất nhiều lần hiệu lực của sản phẩm mà họ sáng

tạo nên. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng và điều đáng lưu ý là ngôn ngữ bao giờ

cũng gắn với thái độ và giọng điệu của nhà văn. Tìm hiểu “Những phương thức

biểu hiện chung của giọng điệu trong văn học”, Nguyễn Đăng Điệp đã khẳng

định: “... tựa vào ngôn ngữ, văn học thể hiện giọng điệu của chủ thể sáng tạo

theo cách riêng của mình” [5, tr.53].

3.1.1. Ngôn ngữ thơ giàu chất trữ tình

Giọng điệu là một hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, được thể hiện qua ngôn

ngữ, một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra Chế Lan Viên và thời

đại. Ngôn ngữ thơ trong Di cảo thơ mặc dù chưa được nhà thơ biên tập nhưng

ở đó có chất trữ tình sâu lắng, nó đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện

giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm. Ông viết: “Bao giờ thuộc hết tiếng của đời ta

xin hát lại/ Khúc hát hay đâu có lắm lời?” (Sổ tay thơ) [60, tr.213]. Chế Lan

Viên ít miêu tả hiện thực một cách trần trụi mà trái lại hình ảnh của hiện thực

bao giờ cũng hiện lên qua các trạng thái cảm xúc dưới các từ “hóa suối”, “vang

rân”, “rì rầm”, “chao ôi nhớ”, “một trời không mẹ”, “một đời cách xa”, “trời

đẹp quá”, “hãy để dòng Thương thương hộ”, “nhớ một tiếng ve”, “cháy đỏ

hoa yêu”, “cuộc đời rất tuyệt”, “mùa hoa xoan xứ Huế”, “mùa hoa trong vườn

55

mẹ”..., góp phần đáng kể trong quá trình kiến tạo giọng điệu suy tư. Nó mang

lại sức mạnh riêng, tạo hiệu ứng giọng điệu trong việc phản ánh hiện thực cuộc

sống cũng như thái độ, tình cảm của nhà thơ trước sự đổi thay của thời đại:

“Chả còn ai yêu vầng trăng và hương lúa ngoài đồng…/ Giờ là thế giới của xe

cúp, ti vi, phim màu ngũ sắc/ Của quyền lực, tuổi tên, đốp chát./ Vị trí nhà thơ

như rác đổ thùng!/ Chả ai nhớ bà mẹ cắm chông tóc bạc/ Nhớ một cô gái chèo

đò vượt lửa qua sông (Thời thượng) [62, tr.205]. Ngôn ngữ thơ được tinh luyện

từ chất liệu phong phú, đa dạng của ngôn ngữ đời sống. Bởi thế, nó vừa biểu

hiện được sự trữ tình, tinh tế, đằm thắm, thiết tha trong cảm xúc, vừa ngời sáng

bởi chất trí tuệ, mang sắc điệu chiêm nghiệm: “Anh làm thơ qua đại dương

bằng con thuyền độc mộc/ Thơ người ta nay hỏa tiễn vượt thiên hà/ Anh chậm

với thế kỉ mình anh bất lực/ Thôi đành gọi cành hoa bằng tên cũ: cành

hoa.”(Hiện đại) [61, tr.236] . Chế Lan Viên có ý thức sử dụng tối đa khả năng

biểu đạt của từ ngữ, Chế Lan Viên quan niệm: “Ý ở thế giới này/ chữ đẩy qua

đời khác/ Ý dò dò từng bước/ Chữ làm cho ý bay”. Cho nên, cùng với hệ thống

những từ ngữ quen thuộc, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên còn có những sáng tạo

về cách sử dụng từ ngữ đậm chất trữ tình với những từ như: “Cháy đỏ hoa yêu,

nhớ thương dài tiếng ve, màu sen anh đỏ rực, nỗi buồn hoa súng tím, thơm bồi

hồi bổi hổi, răng cắn trái mùa yêu chín nũng, lửa hoan lạc một giây, tro cay

đắng một mùa, hoa phong lan nửa tím, nửa màu ... em”. Sử dụng các từ này để

thể hiện thể hiện những hình ảnh được nâng lên thành biểu tượng, mang đậm

sắc thái suy tư.

Ngôn ngữ trong Di cảo thơ mang đậm dấu ấn của chủ thể trữ tình, biểu hiện

trực tiếp các trạng thái cảm xúc của Chế Lan Viên trước các hiện tượng đời

sống, tạo giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm. Trữ lượng tình cảm trong các câu

thơ lớn, mang tính triết luận cao, thể hiện phong cách thơ Chế Lan Viên. Nhiều

bài thơ trong Di cảo thơ là sự giãi bày, tự vấn chân tình cũng như chiêm nghiệm

sâu sắc của nhà thơ về những đổi thay của cuộc đời, quy luật của nghệ thuật,

cuộc sống trong những năm tháng cuối đời. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên vừa

56

đằm thắm, thiết tha khi thể hiện tình cảm với những người thân yêu và khát

vọng sống trong các từ như: Hóa suối, Vang rân, Chao ôi nhớ, Hãy để dòng

Thương thương hộ, Cháy đỏ hoa yêu, Mùa hoa trong vườn mẹ… vừa trần trụi,

xót xa khi thể hiện những nghịch lí của cuộc sống và thái độ của nhà thơ qua các

từ như: Bỏ mẹ, Cóc cần, Cóc khô, Toi công…. Nỗi buồn, nỗi đau là trạng thái

cảm xúc trừu tượng, khó nắm bắt nhưng Chế Lan Viên tinh vi nhận ra “Chính ta

vô công ở chỗ bể hồn nhiên, ta chẻ sợi tóc ra phiền phức. Rồi buồn với sóng bọt

bèo hay với muối cô đơn” (Triết của bể) [61, tr.134]. Hay “Cái sắc, cái đa sắc

rực rỡ như kính vạn hoa một mùa/ Nay trắng hư không” (Tuyết) [60, tr.69].

Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện

là những dấu hiệu tiêu biểu của tính trữ tình trong thơ, của giọng đầy suy tư về

bản thể. Dòng ý thức chủ quan của chủ thể được bộc lộ một cách trực tiếp,

khẳng định những sắc điệu đặc trưng. Trước hết nó thể hiện ở sự tự khẳng định

của ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân được bộ một cách đầy đủ. Đặc trưng là cái

tôi chủ thể khát khao bộc lộ “thành thực” cảm xúc, được nói lên “sự thật” của

tâm hồn bằng tiếng nói riêng của Chế Lan Viên “Anh tồn tại mãi/ Không bằng

tuổi tên, mà như tro bụi/ Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên” (Từ thế chi ca)

[62, tr.221]. Đó là một con người sống chân thành với lá thơ của cuộc sống

“Như cốm mùa thu nằm giữa tờ sen/ Màu xanh của nắng trời chừng dịu lại/

Những yêu thương của lòng tôi, tôi với/ Trong lá thơ vừa hái ở đời lên” (Như

cốm mùa thu) [61, tr69]. Nhà thơ thành khát khao, tận hưởng cuộc sống “Đời

cho anh nắm đất Anh làm nên cái bình/ Đời cho anh nhành hoa/ Anh vẽ lên màu

sứ” (Đời cho anh) [61, tr.204]. Đồng thời ta thấy một Chế Lan Viên mạnh mẽ

sau những chuyến xe thời gian với sự bất tử trong trái tim độc giả “Chuyến xe

sau không còn anh nữa/ Xe vẫn chạy nghìn đời chỉ vắng anh thôi/ Nguyễn Trãi,

Nguyễn Du … từng đi chuyến trước/ Những chuyến xe không có khứ hồi.”

(Chuyến xe) [61, tr.169]. Chế Lan Viên là người sở hữu cái đẹp. Ý niệm sở hữu

trong Chế Lan Viên khiến mọi sự vật hiện tượng màu sắc chủ quan của chủ thể

trữ tình. Tình yêu với ông như cơn bão“Tình yêu chập chờn như cơn bão rớt/ Cứ

57

nắng rồi mưa, rồi tạnh, rồi mưa…thảng thốt/ Em thoắt ở, thoắt đi, thoắt về, thoắt

lại xa anh/ Bao giờ cho tình yêu là một mảng trời xanh”(Bão rớt) [61, tr.210],

ông vội vàng bước đi những bước trải dài trong không gian và thời gian “Thôi

không còn chờ mùa hoa phía trước/ Mà ngoái đầu nhẩm lại các mùa hoa phía

sau” (Các mùa hoa) [62, tr.218].

Ngôn ngữ trong Di cảo thơ tràn đầy cảm xúc, coi trọng nhạc tính khiến

giọng điệu thay đổi liên tục, đa thanh, khi thì suy tư, khi lại đối thoại, khi lại

quay về với sự chiêm nghiệm. Tư duy thơ hướng vào phía trong để phân tích

cảm giác, trình bày các trạng thái tình cảm. Chủ trương đào sâu nội cảm, Chế

Lan viên đã hữu hình hóa những vi diệu của đời sống tâm hồn, bộc lộ một cách

trực tiếp tất cả mọi cung bậc và sắc thái của tình cảm: vui, buồn, hờn, giận, thiết

tha, say đắm, mộng mơ, cay đắng, xót xa.... Cái tôi trữ tình trở về đúng nghĩa

của nó – một cái tôi cảm xúc. Sự đa dạng của cảm xúc hiện ra trong từng thế

giới ngôn từ nhiều cung bậc gắn với nó là những sắc thái giọng điệu đặc trưng

“Nơi trên biên giới bây giờ đang chảy máu/ Nơi những nhà đang thiếu gạo cơm/

Khác nơi đây anh đang yên ổn giữa gia đình” (Nơi kia) [61, tr.184] hay “Tuyết

này đòi tan, tuyết kia tồn tại/ Phía chấp nhận hóa bùn, phía kỳ vọng cỏ xanh

non” (Cuộc chiến) [62, tr.41]. Năng lượng cảm xúc trong ngôn ngữ dồi dào

“Hạnh phúc đến thình lình ở thế đơn côi/ Còn tai ương thì dồn dập đánh vu hồi”

(Hai chiều) [62, tr.188], “Anh đắn đo chi câu ngắn với câu dài/ Mưa bắc lòng

hay nam lòng cũng thế” (Đằng nào cũng vậy) [62, tr.148], “Anh sẽ về xứ tuyết

trắng, ở đó tuyết không nuôi mà giết chết/ Vào xứ bùn đen, ở đó muốn tồn tại ư,

anh hóa nên bùn.” (Về xứ trắng đen) [61, tr.120].

3.1.2. Ngôn ngữ thơ đậm tính tự sự

Tính tự sự, mang hơi thở văn xuôi với chất kể là yếu tố kiến tạo giọng điệu,

mang lại cho Di cảo thơ giọng điệu chất vấn, đối thoại đặc trưng. Ngôn ngữ thơ

chịu sự chi phối của tính thời đại - thời sự bởi nó là tiếng nói của thời hiện tại,

của thời đại Chế Lan Viên sống. Nó được Chế Lan Viên dụng công xây dựng.

Ngôn ngữ thơ sử dụng trong Di cảo thơ nhạy cảm có tính thích ứng cao và ngày

58

càng gần với tiếng nói của đời sống, phù hợp với sự biến chuyển của thời đại.

Trong bài “Thơ thế kỉ XX” ông khẳng định thơ cần phải “phá giới” để “ăn mặn

vào miếng đời phàm tục”:“Thơ thế kỉ XX là thế mà. Đừng quá lọc/ Phải văn

xuôi” (Thơ thế kỉ XX) [60, tr.201]. Ngôn ngữ ấy mang dấu ấn lịch sử, là ngôn

ngữ thời sự hôm nay với bộn bề sự kiện, hiện tượng, hoạt động sôi động trong

không - thời gian “- Phải ngủ nhà lạ không quen, phải học thầy giáo khác,/

Không được nhớ mẹ, không được chơi xa, không được thả diều… (Phải và không

được) [62, tr.158]. Điều đó còn được thể hiện sâu sắc trong kho từ vựng được

ông sử dụng, đó là kho từ vựng của cuộc sống muôn màu muôn vẻ, phong phú

và giàu tính hiện thực như toán học với “cộng và trừ, nhân, chia, ẩn số, đại số,

hình học, đường thang”, tôn giáo - triết học với “ Thần thánh tham dự các vụ

giết người dữ dằn hơn hôm qua/ Chúa không thể treo trên khổ giá bình yên

và Phật cầm hoa sen tĩnh tại trên chùa, /Tất cả rời bỏ thượng tầng kiến trúc

siêu hình và đi vào thế tục.” (Tôn giáo mới) [60, tr.49], quân sự với “ chiến

công, thu quân”, những vũ khí tối tân “ trực thăng, súng đại bác, pháo, thần

công, bom” tô đậm tội ác dã man của giặc, tinh thần chiến đấu của ta, võ thuật

là “đà đao, thế thủ, thế vu hồi, giáp lá cà”, âm nhạc với “Beethoven,

Mozart, Chopin, Debussy, bản giao hưởng, hòa âm, dạ khúc…”. Chế Lan Viên

sử dụng ngôn ngữ văn xuôi diễn tả, bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc của mình

về hiện thực đời sống. Nó được xuất phát từ tầm cao trí tuệ tuyệt vời, sự dạt dào

về cảm xúc và bản lĩnh nghệ thuật tài hoa của ông.

Đồng thời ngôn ngữ thơ mang tính tự sự thể hiện ngôn ngữ thời đại, là ngôn

ngữ của ngày hôm nay hiện đại sôi nổi “vịt gà, cá thịt, cây xoài, cây mít, đống

rác, A, H, Nơ-tơ-rôn…”, nó luôn hướng về tương lai để vươn tới cái hoàn thiện,

tạo nên giọng điệu đặc trưng: “Thơ là cộng đời anh cùng vô vàn cái không phải

nó” (Chống lại với thơ Đường) [60, tr.138], “Làm thơ là tạo ra một hành tinh

thứ hai bằng ngôn ngữ,” (Đừng đi chân đất) [60, tr.230], “Có như thế, anh mới

thấy thơ là cốt lõi/ Là trái tim anh móc lại/ Cho đời.” (Dồn vào chân tường) [60,

tr.213] , “Thơ là tiếng hú lên vô vọng giữa bể thời gian trắng xóa” (Tiếng hú)

59

[60, tr.155]…. Ngôn ngữ thơ nhích lại gần văn xuôi để kiến tạo giọng đối thoại,

đây là một đặc trưng của thơ hiện đại. Chế Lan Viên rất tài tình trong việc vận

dụng khẩu ngữ trong thơ với các từ xù xì, thô ráp “bỏ mẹ”, “cóc cần”, “cóc khô”,

“toi công”, “mẹ kiếp”, “thổ tả”, “dòi bọ”, “ai thèm ngó”, “khói thịt người”,

“người điếc lác…” mà khẩu ngữ được coi là “máu của văn xuôi”. Điều ấy nói

lên văn xuôi trở thành một yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc thơ. Ngoài ra do

khuynh hướng tự do hóa hình thức trong đó có ngôn ngữ tất yếu đưa Chế Lan

Viên tìm tới với thơ tự do và thơ văn xuôi. Chính nhà thơ từng hơn một lần ra

tuyên ngôn về xu hướng này: “Xưa tôi hát mà giờ tôi tập nói/ Chỉ nói thôi mới

nói hết được đời” (Sổ tay thơ) [60, tr.213]. Chất văn xuôi có phần nổi trội để

kiến tạo giọng đối thoại bởi có lẽ chỉ có như vậy Chế Lan Viên mới có thể bộc

bạch đầy đủ và sâu sắc những suy nghĩ trăn trở của ông. Nó cũng thể hiện một

nét phong cách sáng tác độc đáo của Chế Lan Viên: “Cuộc sống của vũ trụ là

một Bi Kịch Vui/ Hay đó là môt nỗi Buồn vĩ đại làm ta phấn chấn” (Từ thế thi

ca (2)) [60, tr.27]. Nhờ tính tự sự đã đem đến những chiêm nghiệm, khám phá

thú vị cho người đọc về cuộc sống ở bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở

cái bề xa, tham gia tạo sắc điệu độc đáo “Hạnh phúc không đến hồi đầu thì đến

hồi kết thúc”(Kịch) [62, tr.113], “Con sông Cái chảy về Đông, nó là nỗi đau

nhân loại/ Và nỗi đau anh chỉ là sông con phụ lưu của sông Cái ấy xuôi dòng”/

Ấy thế, ấy thế mà Bể Đông lại là Vui Lớn, Hoan Lạc lớn, giữa đời không bỗng

dưng Nó có” (Học tập lẫn nhau) [61, tr.181].

3.2. Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ

3.2.1. So sánh

So sánh là “Phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa

trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi

bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện

tượng kia” [49, tr.190], là yếu tố quan trọng tạo giọng trong Di cảo thơ. So sánh

nghệ thuật nhằm xây dựng hình ảnh, hình tượng đẹp có tính thẩm mỹ cao, giàu

sức biểu cảm. Nhà ngôn ngữ học người Đức Paul từng nói “Sức mạnh của so

60

sánh là ở nhận thức”, Chế Lan Viên đã sử dụng thành công sức mạnh này. Sử

dụng so sánh nghệ thuật để tạo giọng đa thanh mang lại giá trị nhận thức lí trí

cao. Những so sánh nghệ thuật như “Anh…Tháp Bay-on bốn mặt [60, tr.81];

Cuộc đời…rệp, bọ chét [60, tr.98]; Những câu thơ…hạt sương hạt móc đọng tờ

sen [60, tr.179].v.v…mang lại sắc điệu đặc trưng nhưng lại ẩn sâu dưới nhiều

tầng nghĩa mà không dễ gì nhận ra được. Nó đòi hỏi người đọc phải suy ngẫm,

đặt lí trí vào nhận thức, thơ Chế Lan Viên vì vậy không dễ tiếp nhận. Điều đó

thể hiện ở tư duy nghệ thuật, thi pháp và phong cách độc đáo của Chế Lan Viên:

luôn có sức khái quát hóa cao, sự kết hợp đan xen nhiều tầng nghĩa cùng một

sức đối lập phong phú. Những so sánh nghệ thuật được sử dụng còn đầy chất trí

tuệ, thuyết phục người đọc bằng lí trí qua những tầng nghĩa phong phú. Việc

khám phá những tầng nghĩa ấy dần đưa tới những nhận thức sâu hơn.

Di cảo thơ của Chế Lan Viên có hai kiểu so sánh “A như B”, “A là B”.

Hình ảnh so sánh B với đặc tính đặc thù đã tạo nên nét riêng, sự chuyển biến.

Nó góp phần quan trọng tạo sắc điệu. Kiểu A như B là kiểu so sánh quen thuộc

được vận dụng phổ biến nhất trong Di cảo thơ. Sử dụng kiểu cấu trúc này, Chế

Lan Viên đẩy xa khả năng tưởng tượng, đối lập của vế B sang nhiều mối quan

hệ để tạo ra những chuỗi so sánh mới nhằm khẳng định phẩm chất mới của

mệnh đề A. Đây là yếu tố tạo giọng đối thoại, chất vấn. Việc so sánh là cách tác

giả nghiền ngẫm, nhìn nhận bản chất của thơ ca, lí tưởng cả đời nhà thơ theo

đuổi. Đây cũng là cách nghiên cứu thơ đậm chất Chế Lan Viên triết lí, suy

nghiệm, đúc rút bản chất bằng hình ảnh ví von, so sánh. Nhiều cấp độ so sánh

được nhà thơ vận dụng, thường là chuỗi tập hợp hình ảnh liên đới hoặc một

hình ảnh kèm theo nhiều thuộc tính, tính chất: “Thơ như con nai trắng, con

ngựa hồng, anh không bao giờ gặp trong cuộc đời thường nhật/ Dễ gặp như cò,

chứ ít khi đến cùng anh như vạt ăn đêm.” (Tìm) [60, tr.191], “Có những bài thơ

trống hoác/ Ý thơ như gà cục tác/ Cách làng còn nghe./ Có bài thơ im re/ Im

lìm hơn cả dế/ Gió mùa thu se se…/ Có những bài thơ như nhà có hội” (Mở và

khép) [61, tr.119], “Vần như đội xích hầu tuần tra mạo hiểm” (Vần) [60,

61

tr249], “Nhân loại đón thơ như đón Đức Chúa Trời giữa cuộc mít- tinh” (Thơ

hiện đại) [60, tr.236], “Làm thơ xưa như ông từ trịnh trọng vào đền/ Như chú

rể lần đầu tiên sang nhà bố vợ/ Như thần tử quỳ trước ngôi mặt Chúa/ Như là

người mọc cánh thành tiên…/ Làm thơ ngày nay như người diễn xiếc/ Như chú

hề lùn yêu cô nàng mắt biếc” (Quan niệm thơ) [60, tr.228], “Thi sĩ có tâm hồn

đôi như cái bóng những đêm nhiều nến” (Tâm hồn đôi) [60, tr.193]… Nội dung

về cái đẹp, đặc biệt vẻ đẹp thiên nhiên, thường được nhà thơ thể hiện bằng biện

pháp so sánh qua đó tạo giọng suy tư: Cỏ như suối uống vào chân ta bước/ Cây

rực rỡ sắc màu/ Như những tình nhân thắp đuốc/ Để tìm nhau.” (Mỗi lần hoa)

[60, tr.78], “Cái phút đầu tiên tuyết chạm vào đất thế nào?/ Như tà áo bay, như

hơi thở nhẹ…/ Trắng tinh như lòng yêu ngày chưa yêu” (Tuyết (II)), “Xanh như

chưa bao giờ nghe tôn giáo rủa nguyền.” (Liễu (2)), “Ấy là màu hoa giấy rực

hồng sắp vào đêm/ Như lần cuối môi hôn và cháy đỏ” (Nhạc (2)), “Như người

không chịu ra đi còn quẩn mãi bên thềm/ Mùi hoa đại chiến tranh không giết

nổi.” (Không giết nổi)… Chế Lan Viên đưa cái đẹp của hiện thực vào thơ rồi

mĩ hóa trên cơ sở đời thường vẻ đẹp ấy thì cái đẹp kia nhân lên gấp bội lần

bằng những sắc điệu đa thanh. Những tâm sự kín đáo của Chế Lan Viên vào

những năm cuối đời được thể hiện bằng giọng suy tư, chiêm nghiệm gói ghém

thông qua tu từ so sánh, giúp nhà thơ nói với chính mình và nhìn nhận lại toàn

bộ cuộc đời, tổng kết đời sống và đời thơ chính mình. Cấu tạo có vế A là anh,

tôi, mình, ta…: “Trong cốc rượu cuộc đời, thơ anh như chút cặn” (Cây và

người), “Anh như con nhện đòi dệt tơ tằm, được sao?” (Cứu mình), “Anh ở

trong loài người như sợi chỉ trong bức thêu chằng chịt” (Sợi chỉ),“Tôi thu dọn

đời mình như người sắp về quê cũ” (Đừng tuyệt vọng)… Lấy chính đời mình ra

so sánh, nhà thơ nghiêm túc nhìn nhận, dùng giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm

phán xét toàn bộ đời mình. Vế B thường mang nghĩa tiêu cực, hạn chế (cặn,

bức thêu chằng chịt, vị tướng già chiến bại, con gà sặc sỡ trong tranh tết…),

thể hiện sự ám ảnh thời gian, cái chết luôn thường trực trong lòng tác giả những

năm cuối đời. Bởi vậy giọng có sự biến chuyển liên tục với các sắc điệu từ suy

62

tư sang chiêm nghiệm, chuyển tiếp tới đối thoại, chất vấn. So sánh trong Di cảo

thơ như bản tự kiểm nghiêm túc, nghiệt ngã nhà thơ dành cho chính đời mình.

Kiểu so sánh A là B mang nội hàm khẳng định tư duy logic, triết luận của

Chế Lan Viên, tạo giọng suy tư, chiêm nghiệm. Từ “là” nối hai đẳng thức có

khi được đặt ở đầu câu, khi đặt gần cuối câu, xen kẽ cả hai kiểu trong cùng một

khổ, được nối trùng điệp, hình thành sự khẳng định song song, tạo ra những so

sánh mới lạ với những thuộc tính lí thú có tính phát hiện. Vế B đa số là những

hình ảnh mang tính trừu tượng, khái quát, mới mẻ, là sự sáng tạo của riêng tác

giả. Vì thế, vế A, khi so sánh kết hợp với từ nối “là”, sẽ được mở rộng nội

hàm, ý nghĩa được khái quát và nâng cao lên. Việc so sánh này như cách suy

nghiệm và triết lí của riêng Chế Lan Viên về những vấn đề muôn thuở của kiếp

người, được đúc kết trong toàn bộ cuộc đời: “Anh chỉ là ngọn đèn con con” (Số

phận), “Hãy nhớ mình là nước, hãy trôi đi, đừng quẩn mãi chân cầu” (Tiếc

nuối), “Ta là con bài mà bóng tối chơi ta.” (Đánh bài), “Anh đừng là viên

ngọc/ Mà là viên sỏi, cục gạch lẫn lộn cùng cỏ rác” (Chuẩn bị đi), “Anh là đất

đêm nằm nghe sóng bể” (Nơi kia), “Còn tôi là hạt bụi” (Học tập lẫn nhau),

“Ván này ta là ngựa hồng/ Ván sau ta là ngọn gió/ Ván nữa ta hóa côn trùng”

(Trò chơi)… Đứng trước giới hạn của thời gian và chính mình nhưng khát khao

mạnh mẽ, nhà thơ rơi vào bi kịch tâm lí, khiến những vần thơ đầy nghiệt ngã

mang sắc điệu suy tư đầy buồn thương. So sánh để chuyển tải suy tư nặng trĩu

và cuộc giằng xé tâm hồn dữ dội của nhà thơ. Đồng thời thể hiện đặc trưng cho

phong cách thơ Chế Lan Viên là giàu chất triết lí, chiêm nghiệm sâu sắc, mang

màu sắc trí tuệ.

3.2.2. Đối lập, tương phản và tương đồng

Giọng điệu trong Di cảo thơ mang màu sắc triết lí. Tính triết lí đó trong

thơ Chế Lan Viên đạt đến mức phổ quát một phần nhờ khả năng tư duy đối lập.

Chế Lan Viên biết tận dụng khai thác những qui luật mang tính phổ quát, vĩnh

cửu. Ông đặc biệt chú trọng khám phá mặt cá biệt, góc đối lập nhằm phát hiện

những tầng sâu triết lí ẩn sau mỗi sự vật, hiện tượng. Những đối lập, tương

63

phản và tương đồng góp phần kiến tạo giọng điệu. Đặc biệt, với cách sử dụng

linh loạt những đối lập tương phản, nhà thơ tỏ rõ năng lực tư duy biện chứng

khi phát kiến, khả năng nhập vai, nhằm hiểu được những cảm xúc và quan điểm

của họ, thể hiện tinh thần dân chủ qua sự biểu hiện, biến hóa, linh hoạt giữa các

mặt đối lập. Với kết cấu đối lập, Chế Lan Viên làm hiện ra những mặt đa dạng,

vừa tương phản vừa bổ sung, luôn luôn vận động, hướng tới chân lý, mang tính

phổ quát cao. Đối tượng thẩm mỹ trong thơ Chế Lan Viên không chỉ được nhìn,

được cảm mà còn được lật trở, xem xét các khía cạnh, đặt nó trong các mối

tương quan, thể hiện ở nhiều cấp độ: từ vựng, ngữ nghĩa, hình ảnh, cấu tứ…;

giữa lí tưởng và hiện thực, giữa xưa và nay, giữa khát vọng bản thân – giới hạn

bản thân và thời gian nghiệt ngã. Lí tưởng và hiện thực là hai khía cạnh trong

đời sống. Lí tưởng biểu trưng cho phần cao đẹp, mĩ tính của hồn người. Hiện

thực chỉ thực tại đời sống với qui luật vận động nội tại không bị tác động, lay

chuyển bởi ý thức chủ quan của con người. Mối tương quan của hai đối tượng

này thường có khoảng chênh nhất định. Chế Lan Viên nhấn mạnh phạm trù

hiện thực với kiểu đối lập được thể hiện ở mức độ cấu tứ: “Thế mà sáng nay

hoa chỉ ở cùng anh một ngày một buổi/ Và anh lại khép cửa, quay lưng, đứng

ngắm vịt gà!” (Hoa nở), “Anh dựng những câu thơ cầu vồng ngũ sắc,/ Ra khỏi

đó, người ta rơi tõm vào đống rác,/ Anh dựng những câu thơ hoa quỳnh, hoa

huệ, đầm hương/ Ra khỏi đó chạm phải điều thối hoắc/ Của những điều chó

chết bên đường.” (Ảo tưởng), “Chả lẽ vác thanh gươm cứu đời mà lết bộ quanh

năm?” (Lừa), “Khi tôi cười trên mây/ Thì máu người rên dưới đất.” (Tìm

đường). Đồng thời mức độ hình ảnh:“Nhiều A, nhiều H, nhiều Nơ-tơ-rôn và

quá ít Bụt, quá ít nàng Tiên hóa phép,”, “Vần dắt anh từ Thiên Thai, Thi Sơn

đến hàng cá thịt/ Từ cây liễu, cây tùng đến cây xoài, cây mít…” (Vần), “Gió

bụi, trăng, hoa, chó mèo vào được tuốt.” (Lẫn lộn)… Chế Lan Viên tạo kiểu

đối lập từ vựng với sự kết hợp từ ngồn ngộn chất đời thường: “điều thối hoắc”,

“điều chó chết bên đường”… thể hiện thái độ thất vọng trước thực tại xã hội

những năm đổi mới, con người chú trọng đời sống vật chất mà những giá trị

64

tinh thần bị xem nhẹ. Những câu thơ triển khai hai phạm trù đối lập kiến tạo

giọng điệu nghệ thuật, thể hiện một con người tâm huyết, trách nhiệm với đất

nước, thời cuộc. Nhà thơ tôn vinh chiến thắng vinh quang của lí tưởng, lòng

người trước hiện thực: “Với lại, biết đâu, biết đâu trong cả những con người

nhơ nhuốc/ Vẫn có tia sáng sao trời chói rạng bình minh.” (Nơi mìn nổ). Ông

vẫn giữ vững cái nhìn, cách nhìn toàn vẹn ở con người, cuộc đời, nhìn nhận vấn

đề chân xác, khách quan, toàn diện bằng tấm lòng tâm huyết với cuộc đời và tin

yêu con người.

Chế Lan Viên đối sánh giữa xưa và nay để kiến tạo giọng điệu suy tư.

Hôm nay và hôm qua vững vàng các hệ giá trị, Chế Lan Viên bám chặt thời đại,

gắn kết các giá trị quá khứ làm hệ qui chiếu đối sánh nhằm bật lên sự lung lay,

rạn vỡ của những phẩm giá đương thời: “Thơ xưa khóc hoặc cười, còn thơ nay

thì dở cười dở khóc/ Giữa lúc ta lâm ly thì chú Cuội xen vào đùa cợt,” (Thơ

hiện đại). Đó là niềm trăn trở, băn khoăn trước cái đẹp và nghệ thuật thời đại có

pha tạp của nhiều đặc tính, không thanh khiết như xưa, ông nhận rõ sự tuột dốc

của tâm hồn thời đại, sự tiến bộ vượt bật của nay so với xưa: “Xưa là bộ dây

nay thêm bộ gõ,/ Xưa là bộ gõ nay bộ hơi…” (Cho dù). Các hình ảnh đối lập

không tương phản ở thế trắng đen rạch ròi mà ẩn sâu ở mức hàm nghĩa. Tất cả

làm nổi bật bước phát triển của thời cuộc cùng niềm hạnh phúc và lòng tin đối

với “nay”, với con người và thời đại của Chế Lan Viên. Đồng thời bày tỏ nỗi

niềm cá nhân với sự hoài niệm, nhớ tiếc. Thi nhân thương nhớ mẹ qua tu từ đối

lập giữa hôm qua có mẹ và hôm nay xa mẹ: “Giữa Cảng lớn dầu khí ngày nay,

con thương mẹ ngày xưa leo lét ngọn đèn dầu”, hình ảnh đời thường hôm qua,

hôm nay và chủ thể trữ tình giữa còn mẹ và mất mẹ.

Giọng điệu chiêm nghiệm trước thế sự, đời thường được kiến tạo trong sự

suy tư trước mối tương quan giữa khát vọng cá nhân với hạn chế bản thân và

thời gian nghiệt ngã. Nhà thơ bày tỏ nỗi tuyệt vọng, bất lực trước sự hữu hạn

của khả năng và vô hạn của thời gian: “Anh là nhà thơ có một chuỗi dây dài

thừa thãi/ Mà thiếu hạt để xâu cho đủ”, “Xâu hết rồi mà dây vẫn cứ thừa ra.”

65

(Lại ví dụ); “Nhà thơ ơi! Trước mắt anh có một triệu lỗ bi/ Mà trên tay anh chỉ

vài ba viên sỏi” (Rủi may), “Nghĩ xem một bên bụi đất ta chưa đầy một nắm/

Bên kia vũ trụ chói lòa” (Đánh bài)... Đối lập cấp độ cấu tứ thể hiện giọng thơ

trữ tình xen lẫn triết lí tỏ bày tâm sự người nghệ sĩ vào cuối đời, khi nhiệt huyết

và khát khao sáng tạo là vô tận mà khả năng dần vơi cạn theo thời gian. Từ đó

nâng tầm nhân cách thi nhân. Sự đối lập không hiển hiện ngoài câu chữ mà

ngầm trong ý tứ, nhà thơ sẻ chia nỗi đau bất lực của người nghệ sĩ khi sáng tạo

căng tràn mà thời gian lại dần vơi cạn thể hiện giọng chiêm nghiệm của một

người từng trải: “Cái mầm non tơ, thơ dại nứt trên cành/ Mà tế bào anh đang

tàn héo mỗi ngày mỗi bữa” (Nghịch cảnh), “Ngưu Lang chỉ cần một cái bến

con, anh cần cả dải Ngân Hà”, “Anh đi dọc nó tìm thơ chứ không phải bơi

ngang tìm Chức Nữ.”, “Thời hạn đi tìm của anh hết rồi mà bờ bến tít mù xa”

(Tìm thơ)… Những đối lập cấu tứ thể hiện tâm sự chung của muôn thuở kiếp

người, những người tâm huyết với cuộc đời và con người. Từ tâm sự cá nhân,

nhà thơ chiêm nghiệm vấn đề bản chất con người. Nhờ thủ pháp đối lập mở ra

giọng điệu suy tư giữa khát vọng của con người và thử thách nghiệt ngã của

thời gian khiến ý thơ mang những nỗi trăn trở, day dứt. Chế Lan Viên càng

hiểu mình càng suy tư để đấu tranh sống đúng với bản thể. Chế Lan Viên đấu

tranh đến sự lạc quan và tin tưởng vào chính mình, tin ở nhân cách và tài năng

bản thân: “Trút tiếng thở dài vào câu thơ ngắn” (Tiếng thở dài). Thi nhân,

bằng khát khao sáng tạo khôn cùng, đã phá vỡ giới hạn chật hẹp của cuộc đời,

thời gian để vượt biên cống hiến dồi dào: “Anh, người bị mất/ Vẫn luôn luôn

có gì để cho” (Phía trước), “Anh cho đời những cái đời không cho.” (Ví dụ)…

Người nghệ sĩ chân chính luôn phấn đấu tận hiến đến giây phút hiện hữu cuối

cùng của kiếp sống: “Tôi học theo cái mặt trời soi tôi, tôi sáng trước lúc lụi

tàn” (Học tập lẫn nhau). Chế Lan Viên khát khao bất tử qua văn chương: “Cho

dù trái đất không còn anh/ Anh vẫn còn nguyên trái đất tặng cho mình.” (Từ

thế thi ca). Nghệ thuật được Chế Lan Viên linh hoạt vận dụng, là yếu tố quan

trọng tạo giọng trong Di cảo thơ. Chế Lan Viên dành giọng điệu suy tư cho con

66

người và cuộc đời, bộc bạch tâm sự kín đáo, sẻ chia cuộc chiến nảy lửa giữa

khát vọng và giới hạn. Ông tái hiện cuộc đời bằng thơ gắn với những chuyển

biến của thực tại cuộc sống, toát lên vẻ đẹp trí tuệ qua những đối lập vi mô và

vĩ mô. Nó hoàn chỉnh và tổng kết phong cách nghệ thuật đặc trưng của Chế Lan

Viên là triết lí, giàu chất trí tuệ. Chế Lan Viên khám phá sự thật ở bề chưa thấy

bằng tư duy và nghệ thuật đối lập khiến giọng điệu âm vang, đa thanh nhưng

thống nhất khiến người đọc như nghe thấy, xem thấy Chế Lan Viên.

3.2.3. Câu hỏi tu từ

Trong Di cảo thơ, câu hỏi tu từ được vận dụng với tần suất cao, là yếu tố

kiến tạo sự đa thanh trong giọng điệu. Sử dụng câu hỏi tu từ khẳng định tư duy

đa chiều và giọng điệu đối thoại đặc trưng của phong cách Chế Lan Viên. Nhà

thơ hỏi không cần trả lời, chất vấn, phán xét bản thân, suy tư, nghiền ngẫm về

những vấn đề muôn thuở của con người, cuộc đời. Những câu hỏi cho chính

Chế Lan Viên luôn da diết, cấp bách, nghiêm trọng với giọng điệu biến chuyển

suy tư sang chất vấn, đối thoại nhanh hơn: “Đi đâu? Đến đâu? Nào anh biết

đâu?” (Vần), “Thì anh có ngu không?” (Mặt rỗ), “Thế anh ngồi chi bên thành

khung cửi?” (Con thoi), “Ngày mai anh chết, thế là sớm hay là muộn?/ Đáng

tiếc hay là không?”, “Nếu còn thắp, liệu đèn anh còn sáng?/ Nếu tắt sớm hơn,

biết đâu không gây ra những phiền hà?”, “Anh còn sống, thế là tai ương hay là

hạnh phúc?/ Anh sống thế là đủ? Là vừa?/ Hay còn mắc nợ?/ Mà trả nợ ư?

Vốn phải có lời.” (Câu hỏi sỗ sàng)… Dạng thức các câu hỏi này đa dạng và

linh hoạt. Có câu buông ra mà không nhận được lời đáp. Có câu gợi mở, dẫn

dắt đồng thời đối thoại, chất vấn chính mình để rồi đưa ra ngay câu trả lời sau

đó. Có câu ở dạng lựa chọn một trong hai. Có câu dạng đi tìm lời đáp. Có câu

như cái cớ để nhà thơ triển khai ý ở những câu sau. Chế Lan Viên bằng giọng

điệu chất vấn, đối thoại với bản thân rất nghiêm khắc. Chế Lan Viên phán

quyết chính mình, người xét xử là tội nhân. Câu hỏi chất vấn mọi vấn đề: cuộc

đời, con người, thực trạng xã hội, thơ ca và chính mình. Nhà thơ dùng giọng

67

điệu suy tư nhằm thức tỉnh con người, khiến người đọc tự rút ra cho mình nhiều

bài học, cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Chế Lan Viên.

Chế Lan Viên đặt câu hỏi đối với người đọc, cho con người và cuộc đời.

Những câu hỏi ấy xoay quanh các vấn đề mang tầm thời đại và muôn thuở kiếp

người: “Người ta đau gì đây? Đau cái kiếp người,” (Thuốc), “Vở kịch có thể

bi, có thể hài, ai biết?” (Họ), “Ai nói ngày mai không thành kỷ niệm” (Kỷ

niệm)… Cũng có những câu hỏi chất vấn chính thời đại nhà thơ đang sống:

“Cái giá máu, giá người, giá nhân phẩm, thịt xương một dân tộc như ta phải

trả là bao để độc lập như ta giữa thời nguyên tử?”, “Sử, thơ, toán có ghi mà!

Nhưng ai đọc nữa đâu?” (Ai đọc nữa đâu?), “Cân với tiếng bom gần và pháo

cấp tập bên ngoài, chả lẽ ôm mặt khóc?” (Vô phương)… Có một số câu hỏi nhà

thơ đặt ra cho người đọc để hỏi về chính mình: “Vào nhà tôi, có thể là một gã

lưu manh/ Tôi làm sao được?” (Lẫn lộn). Nhà thơ chất vấn chính thơ ca: “Thơ

có dám theo chăng?” (Vần), “Ồ, sao ta không có thơ như hải mã, như con la

hay như giống cá chuồn?/ Lại tạo giữa hồn ta với vạn vật không phải hồn,

không phải ta, thơ nhỉ?” (Lai)… Bằng những câu hỏi tu từ kiến tạo giọng điệu

chất vấn, đối thoại đặc trưng giúp Chế Lan Viên đối diện và đối thoại với lí

tưởng đời mình, Di cảo thơ là một câu hỏi lớn da diết Chế Lan Viên gửi lại cho

đời. Những câu hỏi tu từ trong Di cảo thơ không đơn điệu mà đa dạng tạo sự

mới mẻ trong giọng điệu chất vấn, đối thoại. Câu hỏi tu từ phát huy sức mạnh

của giọng điệu, khiến ta có cảm tưởng hệ trọng bởi những vấn đề nhà thơ đặt ra

không dừng ở một thời mà còn hướng đến muôn đời, không chỉ khơi tiếng lòng

của bản thân tác giả mà còn vươn đến tâm hồn của muôn thuở kiếp người.

Trọng tâm những câu hỏi trong Di cảo thơ là rơi vào vùng đau của đời và

người. Chế Lan Viên bày tỏ nỗi trăn trở, da diết khôn nguôi và không lời đáp về

những vấn đề dở dang, ngang trái hoặc đã thành qui luật nghiệt ngã của cuộc

đời. Giọng điệu chất vấn gắn với chủ quan thể trữ tình khơi dậy khát vọng, mở

ra khoảng suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc. Câu hỏi tu từ được vận dụng trong Di

cảo thơ in đậm dấu ấn phong cách của Chế Lan Viên những năm cuối đời.

68

3.3. Thể thơ và nhịp điệu

3.3.1. Sự đa dạng trong nhịp điệu thơ tứ tuyệt

Theo Bùi Văn Nguyên, tứ tuyệt “là một thể thơ gồm bốn câu hoặc ngũ

ngôn, hoặc lục ngôn hay thất ngôn, phổ biến là ngũ ngôn, thất ngôn”... “là một

thể chuyển tiếp giữa phong cách cổ phong với phong cách luật thi...” [4, tr.134].

Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Ở ta quen gọi là “tứ tuyệt”. Nghĩa rộng là những

bài thơ bốn câu, mỗi câu năm chữ hoặc bảy chữ. Loại câu năm chữ gọi là ngũ

ngôn tuyệt cú hay ngũ tuyệt, loại câu bảy chữ gọi là thất ngôn tuyệt cú hay thất

tuyệt. Theo nghĩa hẹp là một dạng của thơ Đường luật, có quy định bằng, trắc,

niêm, đối” [4, tr.135].

Chế Lan Viên là nhà thơ nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật, thơ ông là

sự tìm tòi, thể nghiệm nhằm tạo cho thơ có khả năng biểu đạt trọn vẹn những ý

tưởng của thi nhân trước đối tượng thể hiện. Trong Di cảo thơ, Chế Lan Viên sử

dụng nhiều thể thơ tứ tuyệt (238/566 bài thơ, chiếm tỉ lệ 42,05%) để bộc lộ bản

lĩnh nghệ thuật và cá tính sáng tạo, nó thể hiện quy luật vận động thơ hiện đại

nhằm biểu đạt tư tưởng tình cảm, phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của thời đại mới.

Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp nhà thơ kiến tạo giọng

điệu. Thơ tứ tuyệt đòi hỏi người làm thơ phải biết sử dụng ngôn từ một cách tinh

luyện, phải có cách nhìn, điểm nhìn, tầm nhìn hợp lí để thâu tóm, nén chặt đối

tượng khám phá ở mức độ cô đọng nhất. Mặt khác, nhà thơ cần phải biết tạo ra

những khoảng lặng “vô thanh” để cho ý thơ có được sức gợi, sức ngân xa và sức

ám ảnh đối với người đọc. Chế Lan Viên có ý thức sâu sắc trong việc vận dụng

thể thơ tứ tuyệt: “Uốn cả hồn anh thành tứ tuyệt/ Kẹt trong hẽm đá voi quỳ

chân/ Đã đưa ngà được lên trăng sáng/ Vòi chửa buông xong để uống vần” (Tứ

tuyệt), “Cười mình vung lưới rộng/ Thu về con tép con/ Nhặt bốn câu bé bỏng/

Sải cánh cả tâm hồn (Tuổi già làm thơ tứ tuyệt). Chế Lan Viên làm lạ hóa thơ tứ

tuyệt về kết cấu, vần điệu, sự vận động của tứ thơ. Ngoài những bài tuân theo thi

luật của thơ tứ tuyệt truyền thống, thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên có nhiều đổi thay

về vần điệu, tiết tấu, số chữ trong một dòng, cách trình bày văn bản. Chế Lan

69

Viên khi sử dụng thể thơ tứ tuyệt đã có những sáng tạo độc đáo. Sự sáng tạo ấy

khiến cho thơ tứ tuyệt của ông có một vẻ đẹp riêng, vừa rất truyền thống, lại vừa

hiện đại. Thơ tứ tuyệt trong Di cảo thơ có khả năng chiếm lĩnh và thể hiện đời

sống được mở rộng, nâng cao, mang vẻ đẹp hài hòa giữa truyền thống và hiện

đại với sự đa dạng trong nhịp điệu tạo sự đa thanh trong giọng điệu. Ở những bài

thơ thất ngôn tứ tuyệt, Chế Lan Viên thường ngắt nhịp 4/3. Đây là nhịp thơ đặc

trưng của thơ tứ tuyệt truyền thống Việt Nam: “Bốn năm đạn lửa/ chim bay hết;

Nay tiếng bom im,/ cánh biếc về; Tiếng hót đầu tiên/, ơ lạ lắm !; Cả làng rưng

lệ/ đứng im nghe…” (Cánh biếc Vĩnh Linh). Ngoài ra thơ Chế Lan Viên còn

được ngắt theo nhiều kiểu khác nhau:

- Nhịp 2/2/3: “Xóm cũ,/ em đi,/ anh chẳng lại”

- Nhịp 2/5: “Tám mươi,/ nay mẹ hẳn lưng còng”

- Nhịp 3/2/2: “Trời như ngọc/ như hồn,/ như bể”

- Nhịp 2/4: “Côn Sơn/ thơm mùi hoa dại”

- Nhịp 2/5, 3/4: “Rực rỡ/mùa hoa giấy suốt hè; Ơ xuân!/ Lơ đãng bấy lòng

ta; Ôi sông Hồng!/ Sông Hồng vạm vỡ; Lá đủ rồi,/phải đợi gì hoa”…

Với những cách tạo những nhịp lạ trong nhịp thơ tứ tuyệt có tác dụng hiệu

ứng tạo sự đa thanh trong giọng điệu, mỗi một nhịp gợi những giọng điệu khác

nhau, mang lại sự cảm nhận rõ hơn về khát vọng giãi bày, giọng điệu đối thoại,

chất vấn của cái tôi cá nhân. Mặt khác, các cung bậc ở giọng điệu thơ tứ tuyệt

Chế Lan Viên qua đó càng trở nên đa dạng và phong phú hơn, phù hợp với mạch

cảm xúc của cái tôi trữ tình.

Với cách tạo nhịp mới, thơ Chế Lan Viên đã tạo được những hiệu ứng

mới, mở rộng biên độ của câu thơ. Câu thơ trở nên đa điệu, dung chứa những

suy ngẫm, triết lí về lẽ đời, tình đời, phát hiện được cái sâu thẳm trong cõi tâm

linh của con người. Câu thơ Chế Lan Viên đã vượt khỏi quy phạm của thơ 7

chữ truyền thống để tăng khả năng biểu đạt của nó. Bên cạnh những bài thơ tứ

tuyệt có hình dáng câu thơ quen thuộc như: Thư mùa nước lũ, Nhớ Việt Bắc,

Mẹ, Trông thư, Trưa, Tiếng chim, Tranh ngựa, Mây của em, Sen Huế, Trở lại

70

An Nhơn, Hoa trắng… có nhiều câu thơ được mở rộng với số tiếng từ 10 âm

tiết trở lên. Biểu hiện rõ ở các bài như: Giống quê ta, Gió mùa đông bắc, Hai

danh hiệu, Tự trách mình, Ong và mật, Ra hoa và đậu củ, Tượng Hy Lạp, Hai

thứ tiếng, Tháp đồng Đào Thịnh, Cây, Đọc Kiều một ngày kia, Sân bay,... Đặc

biệt những câu thơ tứ tuyệt xưa nay chưa từng có ở sự mở rộng khó ngờ với 22

tiếng và nhịp thơ khá linh hoạt 5/3/2/5/7 như: “Sao chổi vinh quang kia,/ quỹ

đạo nó/ cắt ngang/ qua quỹ đạo tất cả/ các hành tinh trong hệ mặt trời”(Vĩ mô

và vi mô), hay là câu thơ 25 tiếng, nhịp 5/16/3 như: “Chẳng qua là anh sợ/ cặp

sừng kềnh càng chơi trội kia đi ngang rừng có làm phiền cho lá cành,/ cho

đồng loại?” (Cẩn thận). Chế Lan Viên đã vượt ra khỏi sự gò bó của niêm luật

và thơ tứ tuyệt truyền thống, cấu trúc lại câu thơ điệu ngâm và cải tạo nó trở

thành câu thơ điệu nói hiện đại, bộc lộ rõ ngữ điệu tự nhiên của cái tôi trong

việc giãi bày nỗi niềm tình cảm và nhận thức của nhà thơ trước cuộc đời với

nhịp thơ mang dáng dấp văn xuôi rất dài, thay đổi liên tục trong cả bài thơ:

“Những vết thương gây bởi mùi hương, lâu lành hơn cả Chữa lành ư ?/ Lại

phải có mùi hương.May quá!/ Đấy là vết thương không chảy máu, không có

hình, không có sẹo/ Và anh có thể đi lại, tươi cười, dầu bị tử thương.” (Chữa

lành). Sự mở rộng câu thơ tứ tuyệt kết hợp với nhiều nhịp lạ khẳng định tư duy

thơ Chế Lan Viên thay đổi trên phương diện thể thơ, đòi hỏi tính hàm súc cao

và phù hợp với việc diễn tả những cảm xúc mới mẻ, sâu lắng, thiết tha khi viết

về đời, về thơ và về chính bản thân mình. Qua đó tạo nên những sắc điệu đặc

trưng.

Thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên rất đa dạng. Có những bài thơ, câu thơ

vượt qua biên giới của dòng thơ bất chấp sự giới hạn về mặt hình thức:

“Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ

trở về. Nắng sớm cũng mong. Cây

cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm

cũng thêm màu trên cánh đang bay”

(Tập qua hàng )

71

Đặc biệt, trong Di cảo thơ, hình thức câu thơ rất phong phú. Có những bài

ngắn gọn, xinh xắn kiểu ngũ ngôn tư tuyệt:

“Ý ở thế giới này

Chữ đẩy qua đời khác

Ý dò dò từng bước

Chữ làm cho ý hay”

(… Và chữ)

Có những bài thơ, số tiếng trong mỗi dòng không hạn định:

“Mẹ già chạy gạo nuôi anh hùng từng ngày từng buổi

Một tháng bao lần ngô ghế theo khoai

Thế mà anh đi tìm nắm cỏ tiên để hái

Mẹ cần ăn, anh cho nắm cỏ trên trời”

(Hái trên trời)

Gắn với đó là sự thể hiện rõ nét giọng điệu chiêm nghiệm về khả năng

diễn đạt những cảm nghĩ tuôn trào trong mạch tình cảm của nhà thơ, nỗi niềm,

sự triết lí của nhà thơ về những vấn đề của đời sống, khẳng định cái tôi trữ tình.

Thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên bởi vậy có những đóng góp lớn vào tiến trình thơ tứ

tuyệt trong văn học Việt Nam hiện đại, là sự biểu hiện sinh động một tâm hồn

thơ phong phú, đa dạng, đầy bản lĩnh, giàu sức sáng tạo, một nhà thơ mang màu

sắc trí tuệ đậm nét, Chế Lan Viên bởi vậy vẫn sống giữa chúng ta với những

vần thơ đậm đà tình cảm chất chứa.

3.3.2. Cách tạo nhịp lạ trong thể thơ tự do

Thơ tự do: “phân biệt với thơ cách luật ở chỗ không bị ràng buộc bởi các

quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối”... “Nhưng thơ tự do khác thơ văn

xuôi ở chỗ văn bản có phân dòng và xếp song song thành hàng, thành khổ như

những đơn vị nhịp điệu, có thể có vần”... “Thơ tự do xuất hiện từ nhu cầu đòi

hỏi thơ đi sát cuộc đời hơn, phản ánh được những cách nhìn nghệ thuật mới của

nhà thơ” [35, tr.117-118]. Maiakovski: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng

lượng cơ bản của câu thơ. Sự ngắt đoạn và nhịp điệu của bài thơ còn hệ trọng

72

hơn sự chấm câu…”. Charles Hartman quyết liệt hơn nữa: “Nhịp điệu đóng góp

toàn bộ ý nghĩa của bài thơ, và phép làm thơ là chuyển nó trở thành ý nghĩa”

[dẫn theo 12, tr. 56-59].

Các nhà thơ đã tạo những nhịp điệu là như một phương tiện thể hiện giọng

điệu nghệ thuật. Nhịp điệu thơ được giải phóng hoàn toàn. Ở đây, đơn vị cơ bản

của nhịp điệu có những biến tấu trên theo dòng thơ. Trong một thơ câu dài, ta

có thể ngắt nhịp một cách linh hoạt. Có thể thấy, nhịp điệu thơ tự do không bị

khuôn theo qui phạm, ít lệ thuộc luật thơ mà chủ yếu dựa trên quan hệ cú pháp,

logic, biểu cảm và nhịp thở của nhà thơ và của người tiếp nhận. Ví dụ như trong

những câu thơ sau:

“– Tháng Tám về rồi đây

Hôm nay / nghìn năm / gió thổi

Trời muôn xưa

Đàn con hè phố

Môi hớn hở

Ngày hẹn đến rồi

Các anh ngậm cười / bãi núi / ven sông.” (Nguyễn Đình Thi)

“Những chiều xa quê / tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời /

cho tôi được nhìn thấy

Cho đôi mắt nhớ thương của tôi / như hai hốc đất ven bờ / nơi những chú

bống đến làm tổ / được giàn giụa nước mưa sông.” (Nguyễn Quang Thiều)

Trong những sáng tác gần đây, thế hệ các nhà thơ trẻ đương đại cũng sử

dụng thủ pháp vắt dòng, chủ đích tạo nên những nhịp trúc trắc. Với cách thể

hiện đó, các nhà thơ trẻ đã làm mới thơ tự do, đóng góp quan trọng trong việc

cách tân nhịp điệu thơ:

“Nằm nghiêng lạnh

hơi lạnh cũ. Ngoài đường khô tiếng ngáy

Nằm nghiêng. Mùa đông

nằm nghiêng trên thảm gió mùa” (Phan Huyền Thư)

73

“Dòng thời gian xuyên thủng tầng tầng quá khứ,

nối kết mạch mạch tương lai

Và chữ, chữ đổ xuống thơ như những lớp áo

Đừng tìm chữ hãy tìm thơ

Thơ ở phía sau chữ. Lộng lẫy!

(Nguyễn Hữu Hồng Minh)

Bằng việc sử dụng thể thơ tự do, Chế Lan Viên hoàn toàn thuận lợi để thể

hiện mạch tư duy và phát triển cảm xúc. Theo đó, có thể thấy, nhịp điệu trong

thơ Chế Lan Viên cũng được giải phóng khỏi mọi ràng buộc của vần điệu, luật

bằng trắc, số lượng âm tiết hay số câu... Nhịp điệu trong thơ Chế Lan Viên có

luật riêng. Đó là nhịp điệu nội tại được phát sinh qua trường cảm xúc. Với hi

vọng mở toang mọi cánh cửa để thơ đến thẳng tâm hồn người đọc, không qua

lăng kính thẩm mĩ thi nhân nhằm thể hiện tối đa, trọn vẹn những sắc thái giọng

điệu. Vì không bị lệ thuộc vào một luật lệ nào, không bị hạn định về số câu, số

tiếng nên thơ tự do nói chung, thơ tự do của Chế Lan Viên nói riêng, nhất là

những bài thơ tự do trong Di cảo thơ đã thể hiện nhu cầu phản ánh thời đại và

thực tại cuộc đời ngày một phong phú, đa dạng, diễn tả thành công những trạng

thái vi diệu của tình cảm. Đặc biệt, Chế Lan Viên tạo những nhịp lạ trong thể

thơ tự do, góp phần thể hiện những sắc thái giọng điệu đặc trưng. Chế Lan Viên

mở rộng câu thơ và nhịp thơ, tạo khả năng diễn tả thoải mái sự cảm nhận đối

với cuộc đời, thể hiện dòng cảm xúc, trong cách lập luận, triết lí về đời sống:

“Những nhà thơ/ bị tác phẩm phản thùng phản chủ; Hàng ngày/ anh khoét sâu

vào hang,/ vào giếng thẳm lòng mình; Dẫu anh là nhà thơ/ nhưng tu hú không

gọi mùa/, anh biết đâu ngày vải chín; Lịch sử đã chỉ còn/ là tiếng ù ù trong vỏ

ốc,/ các chiến công/ lẫn cùng sóng bể…”. Câu thơ tự do mở rộng không lệ

thuộc vào khuôn nhịp nào mà tùy thuộc vào cách cảm nhận, khám phá cuộc

sống của nhà thơ và sự vận động của cái tôi trữ tình.

74

Chế Lan Viên có những cách tân về cấu trúc câu thơ tự do nhưng vẫn chú

ý đảm bảo tính hàm súc, cân đối, hài hòa, biến hóa và linh hoạt trong nhịp điệu.

Vì vậy, mỗi câu thơ, bài thơ luôn có nhịp điệu riêng. Nhịp điệu trong thơ tự do

Chế Lan Viên là kết quả của sự hòa quyện giữa nhịp điệu cuộc sống với nhịp

điệu tâm hồn nhà thơ và nhịp điệu đã trở thành một phương tiện hữu hiệu góp

phần biểu đạt giọng điệu nghệ thuật. Thực tế, tạo nên nhịp điệu trong một câu

thơ, bài thơ không chỉ đơn thuần là cách ngắt thành những đoạn tiết tấu, mà còn

bởi các yếu tố khác như: thanh điệu, vần, sự đối xứng về ngôn từ... Câu thơ tự

do của Chế Lan Viên có sự mở rộng dung lượng, nhưng với tài biến hóa, linh

hoạt trong cách ngắt nhịp nên vẫn giữ được sự nhất quán trong việc triển khai

tứ thơ: “Ta nhớ Tố Như/ đọc chậm lại Kiều; Đọc chậm từng vầng trăng,/ từng

nỗi buồn li biệt; Ta yêu Nguyễn /có lúc như gió lùa nhanh /ào ạt qua đèo;

Không hương rừng nào /ngăn lại kịp!/ Nhưng có lúc /yêu như đêm mưa rét;

Nghe nước nhỏ/ từng giọt con /giọt một / trước hiên nhà.” (Thơ bình phương -

Đời lập phương). Nhịp thơ thường được ngắt rất linh hoạt phù hợp với mạch

cảm xúc của nhà thơ, tạo nên ngữ điệu nói với giọng điệu riêng, khi là lời tâm

tình, lúc lại mang sắc thái chất vấn:

- Nhịp 4/3/3: “Mẹ gửi lòng mình / trong nắm đất/trong bàn tay”

- Nhịp 3/6: “Có phải thế/mà thời gian quay trở lại ?”

- Nhịp 3/5: “Tuổi thời gian / là tuổi sáng mai này.”

- Nhịp 3/4/4: “Anh chép sử/ mùa nhựa lên cành /và sương xuống lá”

- Nhịp 4/5: “Tốc kỉ âm thanh / giao hưởng các mùa hoa”

- Nhịp 6/4: “Và lưu trữ giữa lòng mình / một nhúm than tro.”

Câu thơ tự do nhưn vẫn cân đối, hài hòa về nhịp: khi thiết tha, trầm lắng,

khi sôi nổi, hào hùng, và có khi khẩn trương, dồn dập, nâng cao khả năng diễn

tả và sức tác động mãnh liệt đối với tâm hồn người đọc, kiến tạo những sắc

điệu suy tư, chiêm nghiệm đặc trưng ( Thời sự hè 72, bình luận). Bên cạnh đó,

câu thơ tự do mở rộng còn có sự phối hợp luân phiên của các thanh bằng

(không dấu, huyền), thanh trắc (ngã, hỏi, sắc, nặng), thanh cao (không dấu, ngã

75

sắc), thanh thấp (huyền, hỏi, nặng). Điều đó đã góp phần tạo nên những âm

điệu lạ, gắn với quá trình tạo giọng. Câu thơ tự do của Chế Lan Viên các tiếng

có thanh bằng, trắc và ở âm vực cao hay thấp được sử dụng xuất phát từ mạch

cảm xúc, từ những rung động mãnh liệt của nhà thơ trước đối tượng thể hiện,

kiến tạo sự đa thanh trong giọng điệu.

Tạo nên những nhịp lạ, tạo vẻ đẹp hài hòa, cân đối trong câu thơ tự do còn

có sự tham gia của vần thơ. Cách gieo vần trong thơ tự do nói chung và ở

những câu thơ tự do mở rộng nói riêng cũng rất đa dạng như: vần liên tiếp, vần

giao nhau, vần ôm nhau... Sự đa dạng này phần nào thể hiện được giọng điệu

thơ của Chế Lan Viên: “Có người bảo năm xưa tìm thấy một hoa sen (vần 1)/

Cái phát hiện mỗi đời mỗi khác (vần 2)/ Cái hồn của nhà sư chắc phải tìm

ngoài đỉnh tháp (vần 2)/ Nơi thẳm xanh trời, chỗ tháp vươn lên. (vần 1)” (Tháp

cao tăng). Vần thông được Chế Lan Viên sử dụng khá phổ biến, linh hoạt trong

các bài thơ tự do: “Lúc trẻ anh có tài như con kiến có tài, con ong có tài/ Bản

năng sống biết tìm ra tín hiệu trong mùi hương, trong điệu múa.../ Cái tài lúc

về già là cầm hòn đá đánh lên ngọn lửa,/ Cái lửa bẩm sinh trời cho nay đã hết

rồi.” (Thơ về thơ). Với cách tạo nhịp lạ trong thể thơ tự do đã khẳng định Chế

Lan Viên đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của thể thơ tự do

trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ đã tạo được vẻ đẹp riêng cho

câu thơ tự do mở rộng với nhịp điệu lạ được cách tân hài hòa nhằm thích ứng

cho việc tạo giọng, mở rộng hiện thực phản ánh, diễn tả những cảm nhận sâu

sắc của ông trước cuộc đời, thể hiện dòng chảy mãnh liệt của cảm xúc, phù hợp

với nhu cầu thẩm mĩ của thời đại.

Hơn nửa thế kỉ lao động sáng tạo nghệ thuật, Chế Lan Viên đã tạo cho

mình một phong cách nghệ thuật riêng trong cách cảm nhận, tìm tòi, khám phá,

và thể hiện đời sống. Điều đó được thể hiện chân thực, hiển hiện trước chúng ta

một lần nữa qua các yếu tố nghệ thuật thể hiện giọng điệu trong Di cảo thơ.

Những yếu tố nghệ thuật là phương tiện hữu hiệu thể hiện giọng điệu. Ngôn ngữ

thơ đầy sức mạnh, chất chứa từ vựng cuộc sống phong phú, nhặt chữ đời kết hợp

76

với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật tạo nên giọng điệu suy tư, chiêm

nghiệm, đối thoại, thể hiện tầm khái quát sâu trước các vấn đề của cuộc sống.

Về phương diện thể thơ qua Di cảo thơ cho ta thấy Chế Lan Viên kết hợp uyển

chuyển giữa truyền thống và đổi mới tạo nên những sắc thái giọng điệu đặc

trưng, mang màu sắc trí tuệ.

77

KẾT LUẬN

Việc tạo lập giọng điệu cá nhân bao giờ cũng là một thử thách đối với

người viết và Chế Lan Viên đã làm được điều đó. Giọng điệu trong Di cảo thơ

Chế Lan Viên, vì vậy, vừa mang âm hưởng thời đại, vừa mang tính cá nhân, cá

biệt. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội đã thay đổi từ chiến tranh sang hòa bình, văn

học cũng từ văn học chiến tranh chuyển sang văn học hậu chiến, văn học của

muôn mặt đời thường. Một thời đại mới cần phải có một nền văn học mới, cần

có một giọng nói mới, phù hợp. Do đó, nhu cầu đổi mới văn học là một yêu cầu

tất yếu. Việc chuyển giọng thơ của Chế Lan Viên nằm trong xu hướng tổng

quát của văn học đương thời. Điều đáng nói là trong lúc nhiều nhà thơ vẫn đang

loay hoay tìm giọng mới, thì Chế Lan Viên đã định vị được giọng riêng của

mình: “Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm” (Giọng trầm).

Giọng điệu trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên cho thấy thái độ, tư tưởng,

tình cảm, ý thức thẩm mĩ của nhà thơ, là sự thể hiện của lý trí tỉnh táo, nhìn

thẳng vào hiện thực để thấy được bề sâu, bề xa của cuộc sống. Sự nói hoá đầy

nghịch âm của thơ Chế Lan Viên đã thể hiện các quan hệ phức tạp, đầy mâu

thuẫn trong đời sống đang đổi thay từng ngày. Với bản lĩnh nghệ thuật và sự

say sưa tìm tòi, thể nghiệm trong sáng tác, Chế Lan Viên đã tạo được những

đặc điểm nghệ thuật riêng trên phương diện giọng điệu. Chính điều đó đã góp

phần làm nên vẻ đẹp độc đáo và sức sống lâu bền cho thơ ông, đồng thời,

những tìm tòi, sáng tạo của ông cũng góp phần hiện đại hóa thơ Việt Nam.

Một nền văn học phát triển phong phú, đa dạng cũng có nghĩa là nền văn

học ấy chấp nhận đa phong cách, đa giọng điệu. Giọng điệu thơ Chế Lan Viên

đa thanh nhưng thống nhất, chân thực, thể hiện khát vọng vươn tới cái cao cả,

cái đẹp nhân văn. Thơ Chế Lan Viên mang điệu hồn của ông: chân thành tuyệt

đối với cuộc đời, với bạn đọc, với thơ và với chính mình. Tùy đối tượng phản

ánh mà thơ ông lúc thì có giọng hùng biện, chính luận, lúc có giọng triết lý trữ

tình, lúc giọng cao, lúc giọng trầm, khi đanh thép, khi trầm lắng, khi có giọng

ngợi ca, khi lại thủ thỉ tâm tình ... Vì đạt đến sự hài hòa ấy, giọng điệu thơ Chế

78

Lan Viên trở thành một nhân tố lôi cuốn, thuyết phục người đọc bằng sự truyền

cảm khó cưỡng nổi.

Chế Lan Viên mang tới trong đời sống văn học, thơ ca có thêm một dòng

cảm nghĩ mới, một cách nói mới được thể hiện qua cách sử dụng giọng điệu tài

hoa với những sắc điệu đặc trưng: suy tư, chiêm nghiệm, đối thoại, chất vấn.

Những sắc điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan Viên dung chứa nhiều giá

trị và trữ lượng tư tưởng, nghệ thuật. Trên cơ sở nhận diện, phân tích, khẳng

định giọng điệu trong Di cảo thơ cho ta hiểu sâu hơn nội dung tư tưởng, ý thức

nghệ thuật của Chế Lan Viên những năm cuối đời. Đồng thời giúp khẳng định

tài năng của Chế Lan Viên trong việc sử dụng giọng điệu như một phương thức

thể hiện nội dung của ba tập Di cảo thơ mang dấu ấn tâm hồn nói chung và tâm

trạng cuối đời nói riêng của Chế Lan Viên. Những sắc điệu đặc trưng Di cảo thơ

thể hiện theo cách riêng ứng với phong cách độc đáo của Chế Lan Viên là đậm

chất trí tuệ, triết lí, đối thoại và in sâu tâm sự, tâm trạng nhà thơ vào cuối đời,

thể hiện sự chuyển biến của nội dung tư tưởng thơ Chế Lan Viên, khẳng định sự

đóng góp của Chế Lan Viên trong tiến trình đổi mới thơ Việt Nam. Nó như là

tiếng chuông báo hiệu văn học Việt Nam, thơ Việt Nam bước vào một thời kì

mới với nhiều khó khăn và thách thức: thời kì đổi mới theo định hướng của Nghị

quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) trong tinh thần dân chủ, hướng

tới bản thể, khám phá những cảm xúc trong trái tim con người.

Nghiên cứu những sắc thái giọng điệu trong Di cảo thơ cho ta thấy thơ Chế

Lan Viên ở hành trình cuối có sự vận động, thay đổi trong phong cách thơ, quan

niệm của nhà thơ về con người. Ẩn sâu trong Di cảo thơ là một Chế Lan Viên bản

lĩnh, an nhiên trước những ba động của cuộc sống, thấu hiểu lẽ đời. Di cảo thơ

cũng thể hiện phần nào tư duy thơ, sự gắn mình với hiện thực, với cây đời của Chế

Lan Viên. Đồng thời cho ta thấy giọng điệu thơ Chế Lan Viên đa thanh nhưng

thống nhất, ở mỗi giai đoạn phát triển có những biểu hiện phong phú. Nó mang dấu

ấn tâm hồn nói chung và tâm trạng cuối đời nói riêng của Chế Lan Viên.

79

Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông

luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương dân tộc và nhân

loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức

sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ

đối với cuộc sống. Vốn văn hóa cộng với tài năng và công phu rèn luyện của

Chế Lan Viên dường như chắp thêm cho lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại một

đôi cánh mới, qua những chặng đường mới với những sáng tác có sức sáng tạo

mạnh mẽ. Di cảo thơ đã chạm đến cốt lõi của đời, mang tính nhân văn sâu sắc.

Vấn đề nghiên cứu giọng điệu thơ là phạm trù của thi pháp học. Nó chưa

bao giờ cũ và đủ kể từ khi được giới nghiên cứu nhận diện và đề xuất. Vấn đề

này càng có nhiều tiềm năng khơi sâu hơn khi soi chiếu vào sự nghiệp thơ Chế

Lan Viên, đặc biệt là Di cảo thơ, bởi cả tác giả lẫn tác phẩm đều dung chứa

nhiều giá trị tư tưởng, nghệ thuật, giọng điệu là nơi giao thoa mạnh mẽ giữa nội

dung và nghệ thuật, mang lại cho công chúng bao hiểu biết mà trước hết đó là

những kiến thức quý báu về một thời kì trọng đại của dân tộc: những năm đầu

thời kì đổi mới với bao biến động, xáo trộn. Việc tiếp cận và nghiên cứu Di cảo

thơ Chế Lan Viên qua giọng điệu thơ đóng vai trò vô cùng quan trọng bởi đây là

lời bộc bạch, lời thơ cuối cùng trên con đường thơ của một nhà thơ lớn có nhiều

đóng góp cho văn học dân tộc. Chắc chắn thông qua đó sẽ cho ta những cái nhìn

khác về Chế Lan Viên, về xã hội và về lịch sử.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu (2003), Chế Lan Viên - về tác gia và

tác phẩm, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Lại Nguyên Ân (1997), Giọng văn xuôi tiểu luận Chế Lan Viên in trong

Sống với văn học cùng thời, Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Dương Thị Kim Dư (2006), Yếu tố tự vấn trong Di cảo thơ Chế Lan Viên,

Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, Hà

Nội.

4. Nguyễn Lâm Điền (2010), Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb

Văn học.

5. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, tập 2,

Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

7. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

8. Hà Minh Đức (2001), “Chế Lan Viên – Nghĩ về cuộc sống, nghĩ về thơ”, Tạp

chí Nhà văn, (8), tr.96-102.

9. Hà Minh Đức (2010), “Di cảo thơ những vần thơ thiêng nặng nghĩa tình”,

Tạp chí Thơ, (7), tr.32-41.

10. Nguyễn Văn Đức (2007), Phong cách ngôn ngữ thơ ca Việt Nam giai đoạn

1930 – 1945: so sánh phương thức ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận,

Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa

học xã hội và nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Hoàng Minh Hà (2000), Giọng điệu thơ Chế Lan Viên, Luận văn

thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí

Minh.

12. Hồ Thế Hà (1999), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án tiến sĩ

Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

81

13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học, vấn đề và

suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Đỗ Đức Hiểu chủ biên (2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

16. Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình (biên soạn) (1995), Những bậc thầy văn

chương thế giới, tư tưởng và quan niệm, Nxb Văn học, Hà Nội.

17. Vũ Thị Thu Hoàn (2007), Tư duy đối lập tương phản trong thơ Chế Lan

Viên, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân

văn, Hà Nội.

18. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

19. Đoàn Trọng Huy (1994), Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức nghệ

thuật thơ Chế Lan Viên từ sau 1945, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội I, Hà Nội.

20. Đoàn Trọng Huy (2010), “Đọc lại Di cảo thơ Chế Lan Viên”, Tạp chí Thơ,

(11), tr.22-26.

21. Đoàn Trọng Huy, “Chế Lan Viên – độc đáo một tiếng thơ giàu sắc điệu”,

http://llc.tdu.edu.vn/nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-khoa-

h%E1%BB%8Dc/260-ch%E1%BA%BF-lan-vi%C3%AAn-

%C4%91%E1%BB%99c-%C4%91%C3%A1o-m%E1%BB%99t-

ti%E1%BA%BFng-th%C6%A1-gi%C3%A0u-s%E1%BA%AFc-

%C4%91i%E1%BB%87u.html

22. Mai Hương, Thanh Việt tuyển chọn và biên soạn (2000), Thơ Chế Lan Viên

những lời bình, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

23. Nguyễn Quốc Khánh (1999), Thi pháp thơ Chế Lan Viên, Luận án tiến sĩ,

Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí

Minh.

82

24. Khrapchenko, M.B (2006), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

của văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

25. Phong Lan sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn (1995), Chế Lan Viên, người làm

vườn vĩnh cửu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

26. Mã Giang Lân (2010), “Kinh nghiệm sống và biểu tượng thơ”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học, (3), tr.13-27.

27. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện

đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

28. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại – những chân dung tiêu biểu,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

29. Nguyễn Diệu Linh (2008), “Nhận thức về quá khứ trong Di cảo thơ của Chế

Lan Viên”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (3), tr.47-55.

30. Nguyễn Diệu Linh (2011), “Cảm hứng phê phán trong Di cảo thơ của Chế

Lan Viên”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.80-85.

31. Nguyễn Diệu Linh (2012), Di cảo thơ của Chế Lan Viên trong tiến trình đổi

mới văn học Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện KHXH, Hà Nội.

32. Nguyễn Văn Long (1990), Văn học Việt Nam 1954 – 1975, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên (2006), Văn học Việt Nam

sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Vân Long tuyển chọn (2008), Nét độc đáo trong thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn

hóa – Thông tin, Hà Nội.

35. Phương Lựu chủ biên (2010), Lý luận văn học, tập 1, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

36. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), “Chế Lan Viên và cái ách nặng văn chương”,

Tạp chí Văn học, (4), tr.19-24.

37. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

83

38. Nguyễn Xuân Nam (2003), Chế Lan Viên - trí tuệ và tài hoa: phân tích, phê

bình, tiểu luận văn học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

39. Đào Thị Kim Ngân (2012), Quan niệm thơ, hình tượng và ngôn từ nghệ

thuật qua Di cảo thơ của Chế Lan Viên, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường

Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

40. Thảo Nguyên tuyển chọn (2013), Chế Lan Viên một tài năng đặc sắc đầy cá

tính, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

41. Đỗ Hà Quỳnh (2013), Tín hiệu thẩm mĩ trong tập Di cảo thơ (phần 3) của

Chế Lan Viên, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ, Trường Đại học Đà Nẵng, Đà

Nẵng.

42. Rimma.K (2007), “Là thi sĩ ai cũng có khả năng tiên tri”, Tạp chí Thơ, (4),

tr.88-92.

43. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

44. Đỗ Tiến Thắng (2009), Ngữ điệu tiếng Việt sơ khảo, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

45. Lưu Khánh Thơ (2007), Chế Lan Viên, nhà thơ song hành cùng thời đại,

Nhà xuất bản Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh,

Tp. Hồ Chí Minh.

46. Vũ Thị Thường (biên soạn) (2002), Chế Lan Viên toàn tập, tập 1, Nxb Văn

học, Hà Nội.

47. Vũ Thị Thường (biên soạn) (2002), Chế Lan Viên toàn tập, tập 2, Nxb Văn

học, Hà Nội.

48. Lê Quang Trang, La Yên (2000), Chế Lan Viên giữa chúng ta, Nxb Giáo

dục, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

49. Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.

50. Chế Lan Viên (1960), Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội.

51. Chế Lan Viên (1962), Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

84

52. Chế Lan Viên (1967), Hoa ngày thường,chim báo bão, Nxb Văn học, Hà

Nội.

53. Chế Lan Viên (1975), Ngày vĩ đại, Nxb Văn học, Hà Nội.

54. Chế Lan Viên (1976), Bay theo đường dân tộc đang bay, Nxb Văn hóa giải

phóng, Tp. Hồ Chí Minh.

55. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

56. Chế Lan Viên (1981), Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác

phẩm mới, Hà Nội.

57. Chế Lan Viên (1985), Tuyển tập Chế Lan Viên, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

58. Chế Lan Viên (1986), Ta gửi cho mình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

59. Chế Lan Viên (1990), Tuyển tập Chế Lan Viên, tập 2,Nxb Văn học, Hà Nội.

60. Chế Lan Viên (1993), Di cảo thơ, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Thanh Hóa.

61. Chế Lan Viên (1994), Di cảo thơ, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Thanh Hóa.

62. Chế Lan Viên (1996), Di cảo thơ, tập 3, Nxb Thuận Hóa, Thanh Hóa.

63. Chế Lan Viên (2010), “Nói chuyện làm thơ”, Tạp chí Thơ, (11), tr.55-58.

85

PHỤ LỤC

1. Bảng thống kê số lượng các bài thơ trong Di cảo thơ

STT Sau Điêu tàn Các bài hoàn chỉnh Các bài phác thảo Tổng

93 48 Tập 1 17 158

42 136 Tập 2 14 192

216 Tập 3 216

566

2. Bảng thống kê tỷ lệ các bài thơ có dấu hiệu sử dụng giọng điệu đặc trưng

trong Di cảo thơ

Giọng suy tư, chiêm nghiệm Giọng chất vấn, đối thoại STT Về bản thể Về thế sự, đời thường Với người Về nghề

39 29 Tập 1 47 19

26 24 Tập 2 34 26

46 32 Tập 3 41 79

Tổng 122/566 111/566 85/566 124/566

Tỉ lệ (%) 21,55 19,61 15,02 21,90

3. Bảng thống kê tỷ lệ các thể thơ được sử dụng trong Di cảo thơ

Thể thơ Tứ tuyệt Bảy chữ Tám chữ Tự do

Số lượng 238/566 41/566 32/566 255/566

Tỉ lệ (%) 42,05% 7,24% 5,65% 45,05%