ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHẠM THANH MAI

TÌM HIỂU HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THANH MAI

TÌM HIỂU HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã ngành: 8 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀO THỊ VÂN THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong bất

cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 09 năm 2019

Tác giả

PHẠM THANH MAI

i

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn khoa học là PGS.TS.

Đào Thị Vân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi thực hiện

luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể các thầy, cô giáo

trong Khoa Ngữ Văn, phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học

Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên

cứu tại trường.

Tôi xin cảm ơn tập thể lớp cao học K25B - ngành Ngôn ngữ Việt Nam

trường Đai học Sư phạm Thái Nguyên đã đồng hành và đóng góp ý kiến trong

quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp và cơ quan đã quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để giúp

tôi hoàn thành luận văn và khóa học này.

Mặc dù bản thân đã rất nỗ lực, cố gắng song khó tránh khỏi những hạn chế

thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô giáo và những người quan tâm đóng góp ý

kiến để luận văn được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 09 năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thanh Mai

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. vi

DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ vii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................... 2

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu .................................................... 3

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3

5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 4

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ........................................................ 4

7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 5

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ

LUẬN .................................................................................................................. 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ và các hành

động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết ...................................................................... 6

1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về các hành động ngôn ngữ .................. 6

1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết ................................................................................................................ 7

1.2. Cơ sở lý luận ................................................................................................. 9

1.2.1. Lí thuyết về ngữ cảnh ................................................................................ 9

1.2.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ ............................................................ 11

1.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết ................................................. 17

1.2.4. Lí thuyết hội thoại .................................................................................... 19

1.2.5. Khái quát về văn hóa và ngôn ngữ .......................................................... 23

1.2.6. Vài nét về văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ............................. 25

1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 28

iii

Chương 2. CÁC HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM

KẾT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 1930 - 1945 XÉT VỀ HÀNH ĐỘNG Ở LỜI VÀ PHƯƠNG

THỨC THỂ HIỆN ........................................................................................... 29

2.1. Kết quả khảo sát ......................................................................................... 29

2.1.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 29

2.1.2. Số lượng và phân loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ........................................................ 29

2.2.1. Hành động hứa ......................................................................................... 31

2.2.2. Hành động cam đoan ............................................................................... 42

2.2.3. Hành động thề .......................................................................................... 50

2.2.4. Hành động ngôn ngữ trung gian (mơ hồ) ................................................ 58

2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 65

Chương 3. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT

TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN

1930 - 1945 TỪ GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT HỘI THOẠI ...................... 67

3.1. Nhận xét chung ........................................................................................... 67

3.2. Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 ............... 68

3.1.1. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết .................... 68

3.1.2. Đối tượng tiếp nhận các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết .......... 71

3.2. Chức năng của các hành động thuộc lớp Cam kết trong một số tác

phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 .............................................. 72

3.2.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng dẫn

nhập .................................................................................................................... 72

3.2.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng hồi đáp ....... 74

3.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng

hồi đáp vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập .................................................... 77

iv

3.3. Vai trò của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác

phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 .............................................. 79

3.3.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ, tính cách

nhân vật .............................................................................................................. 79

3.3.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế và quan hệ

giữa các nhân vật giao tiếp ................................................................................ 86

3.3.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện văn hóa giao tiếp

của người Việt ................................................................................................... 89

3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 93

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 97

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội :

ĐKCB Điều kiện căn bản :

ĐKCB Điều kiện chuẩn bị :

ĐKCT Điều kiện chân thành :

ĐKNDMĐ Điều kiện nội dung mệnh đề :

NXB Nhà xuất bản :

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng tổng kết số lượng và số lượt dùng các hành động ngôn

ngữ thuộc lớp Cam kết ................................................................... 30

Bảng 2.2: Bảng tổng kết hành động hứa ........................................................ 31

Bảng 2.3: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động hứa ................... 39

Bảng 2.4: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động hứa .............. 42

Bảng 2.5: Bảng tổng kết hành động cam đoan ............................................... 43

Bảng 2.6: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động cam đoan .......... 48

Bảng 2.7: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động cam đoan ..... 50

Bảng 2.8: Bảng tổng kết hành động thề ......................................................... 51

Bảng 2.9: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động thề .................... 56

Bảng 2.10: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động thề ............... 58

Bảng 2.11: Bảng tổng kết hành động ngôn ngữ trung gian ............................. 59

Bảng 2.12: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động ngôn ngữ

trung gian thuộc lớp Cam kết ........................................................ 65

Bảng 3.1: Bảng phân loại chức năng của hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945 .... 72

vii

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Lí do khách quan

Dụng học là một chuyên ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu việc sử dụng

ngôn ngữ trong mối quan hệ với các nhân tố giao tiếp. Tuy ra đời chưa lâu song

bộ môn khoa học này đã phát triển mạnh mẽ cả về lý thuyết, cả về những nghiên

cứu cụ thể, khiến ngôn ngữ học không còn nằm trong hệ thống khép kín của cấu

trúc luận nội tại mà đã đi vào thực tế đa dạng của đời sống ngôn ngữ. Nghiên

cứu các hành động ngôn ngữ, đặc biệt là hành động ở lời, là một vấn đề cơ bản

và trọng tâm của Ngữ dụng học.

Khi giao tiếp, để bày tỏ được ý định, mục đích của mình, người nói thường

dùng nhiều loại hành động ngôn ngữ, mà mỗi loại hành động đó lại được thực hiện

bằng một số kiểu câu có hình thức, mục đích nói năng nhất định. Ví dụ khi muốn

bày tỏ thái độ xót thương, buồn rầu chúng ta sử dụng hành động cảm thán, muốn

bày tỏ sự hoài nghi hay thắc mắc về một vấn đề, một sự việc chúng ta sử dụng

hành động hỏi… Trong các hành động nói năng, hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết được người Việt sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp và cũng là một

trong những đối tượng được Ngữ dụng học quan tâm.

Trong những năm gần đây, xu hướng nghiên cứu hành động ngôn ngữ đã và

đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Hướng tới việc xây dựng

bức tranh khái quát về hành động ngôn ngữ của người Việt nói chung, của các nhân

vật trong tác phẩm văn chương nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các

nhóm hành động ngôn ngữ. Song, có thể nói rằng đến nay chưa có một công trình

nào nghiên cứu hành động thuộc lớp Cam kết của nhân vật trong văn xuôi Việt Nam

giai đoạn 1930 - 1945 một cách công phu, bài bản.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã có những đóng góp đáng kể

trong lịch sử văn học nước nhà. Sự đóng góp ở đây không chỉ thể hiện ở xu

hướng chọn đề tài, ở sự phản ánh trung thực lịch sử xã hội và cách mạng Việt

1

Nam giai đoạn này mà còn thể hiện ở phong cách nghệ thuật độc đáo qua ngôn

ngữ nhân vật, trong đó hành động ngôn từ của mỗi kiểu nhân vật thuộc các giai

tầng xã hội lại không giống nhau.

1.2. Lí do chủ quan

Là một giáo viên giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông, thiết nghĩ

muốn hiểu được lịch sử xã hội Việt Nam, hiểu được văn hóa giao tiếp con người

Việt Nam thuộc các tầng lớp khác nhau trong giai đoạn xã hội Việt Nam phân

chia giai cấp, không thể không nghiên cứu ngôn ngữ của họ. Vì vậy, chọn đề tài

Tìm hiểu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn

xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 để nghiên cứu, chúng tôi muốn khắc sâu

lý thuyết hành động ngôn ngữ và làm rõ thêm đặc điểm ngôn ngữ của các nhân

vật văn học trong giai đoạn lịch sử này, đồng thời giúp chúng tôi hiểu thêm về

nghệ thuật sử dụng ngôn từ của một số các tác giả có tên tuổi của nền văn học

Việt Nam.

2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết của nhân vật trong

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, người viết một mặt muốn làm rõ cách

dùng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết cũng như vị thế của các nhân vật

thuộc hai giai cấp ở xã hội Việt Nam thời kì trước Cách mạng tháng 8, mặt khác,

muốn góp phần củng cố lí thuyết hành động ngôn ngữ và làm tài liệu tham khảo

cho những ai muốn nghiên cứu ngôn ngữ văn chương nói chung, hành động ngôn

ngữ thuộc lớp Cam kết trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói riêng.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ chính sau đây:

(1) Nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận cho

việc xử lí đề tài.

(2) Khảo sát, thống kê và phân loại các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

2

Cam kết trong những tác phẩm được chọn làm nguồn ngữ liệu khảo sát.

(3) Miêu tả, phân tích và tổng kết các hành động ngôn ngữ lớp Cam kết

của nhân vật theo từng tiêu chí đã định trước.

(4) Ngoài ra, luận văn còn phân tích chức năng, vai trò của các hành động

ngôn ngữ lớp Cam kết trong việc thể hiện nghệ thuật của tác phẩm.

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Các hành động thuộc lớp Cam kết

trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945”.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về ngữ liệu khảo sát: Ngữ liệu khảo sát hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết của nhân vật là một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 -

1945, cụ thể: Tiểu thuyết Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bước Đường Cùng của

Nguyễn Công Hoan, Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao, Tuyển tập Ngô Tất Tố,

Tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Thừa tự của Khái Hưng, Đôi

bạn, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh, Gánh hàng hoa, Đời mưa gió của

Khái Hưng - Nhất Linh.

- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn này nghiên cứu hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết của nhân vật trong các tác phẩm trên về ba phương diện:

+ Hành động ở lời;

+ Phương thức thể hiện (hành động ngôn ngữ);

+ Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận của hành động thuộc lớp Cam kết;

+ Chức năng và vai trò của các hành động thuộc lớp Cam kết của nhân vật

trong các tác phẩm đã chọn làm ngữ liệu khảo sát.

4. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương pháp và thủ pháp

nghiên cứu chủ yếu sau đây:

- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được

dùng để thống kê và phân loại các hành động ngôn ngữ lớp Cam kết của nhân

vật trong các tác phẩm nói trên.

3

- Phương pháp miêu tả: Luận văn sử dụng phương pháp miêu tả để phân

tích, miêu tả các đặc điểm của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một

số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp nghiên cứu này

được dùng để phân tích, tổng hợp đặc điểm của các lớp hành động ngôn ngữ đã

được thống kê và phân loại...

- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Thủ pháp so sánh, đối chiếu được dùng để

so sánh những điểm đồng nhất và khác biệt giữa một số hành động ngôn ngữ thuộc

lớp hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong các tác phẩm đã nói trên.

5. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trên cơ sở kiến thức liên ngành ngôn

ngữ và văn học, luận văn đã có một số đóng góp như sau:

- Luận văn đã thống kê được những số liệu cụ thể về việc sử dụng các hành

động hứa, hành động thề, hành động cam đoan và hành động ngôn ngữ trung

gian trong các tác phẩm văn xuôi thuộc phạm vi khảo sát.

- Từ góc nhìn của lý thuyết hội thoại, luận văn đã chỉ ra những chức năng

và vai trò của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong các văn bản văn học

cụ thể.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lí luận

Luận văn góp phần làm rõ phương diện đích ở lời, phương thức thể hiện

của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi

Việt Nam giai đoạn 1930 -1945. Đồng thời luận văn nghiên cứu các hành động

ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết từ góc nhìn lý thuyết hội thoại.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp cho việc phân tích, giảng

dạy một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trên bình diện ngữ

dụng học thông qua việc miêu tả, phân tích các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết trong hội thoại giữa các nhân vật.

4

Luận văn là tư liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh, những người có

nhu cầu tìm hiểu về hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác

phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận

Chương 2: Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác

phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 xét về hành động ở lời và phương

thức thể hiện

Chương 3: Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nhìn từ lý thuyết hội thoại

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ và các hành

động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết

1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về các hành động ngôn ngữ

1.1.1.1. Các tác giả nước ngoài

Nói về các công trình nghiên cứu hành động ngôn ngữ (có người gọi là

“hành động ngôn từ”, “hành vi ngôn ngữ”) của các tác giả nước ngoài, không thể

không nhắc đến một số nhà ngôn ngữ học với những công trình nghiên cứu tiêu

biểu sau:

- J. Austin là người có công đầu trong việc xây dựng lí thuyết hành động

ngôn từ. Lí thuyết này được thể hiện trong 12 chuyên đề giảng dạy ở Đại học

Havard, sau này được học trò của ông tập hợp trong cuốn “How to do things with

words” (Hành động như thế nào bằng lời nói).

- J. Searle là người đã kế thừa và phát triển lí thuyết hành động ngôn từ

của J. Austin. Ông khẳng định bản chất hành động của mỗi lời nói thông qua việc

chỉ ra các phương tiện nhận diện lực ngôn trung trong câu. Để khắc phục những

hạn chế của J. Austin, J. Searle đã đưa ra một hệ thống gồm 12 tiêu chí phân loại

hành động ngôn từ, ngoài ra ông cũng xác lập một hệ thống thuận ngôn (bao gồm

nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện căn bản).

Đây là những đóng góp to lớn của tác giả trong việc phát triển lí luận về hành

động ngôn từ.

- A. Wierzbicka với công trình nghiên cứu mang tên “English speech act

verbs - a semantic dictionary” đã phân loại hành động ngôn từ khá chi tiết dựa

trên cơ sở 270 vị từ - động từ nói năng (speech act verbs). Các vị từ này được bà

qui về 37 nhóm, tiêu biểu là: ra lệnh (order), cầu xin (ask1), hỏi (ask2), mời gọi

(call), cấm (forbid), cho phép (permit), tranh cãi (argue), trách mắng

(reprimand),...

6

Quan trọng là trong quá trình miêu tả và giải thích, tác giả đã bám theo

những tiêu chí của điều kiện thuận ngôn như: cương vị của Sp1 và Sp2; Sp1 dùng

chiến lược nào (lí trí hay tình cảm) để hành động; Sp2 có quyền từ chối việc thực

hiện hành động được nêu trong nội dung mệnh đề hay không; khi công việc hoàn

tất, người hưởng lợi là Sp1 hay Sp2.

- Ngoài ba nhà ngôn ngữ học kể trên, còn một số nhà nghiên cứu kế tục

công việc phân loại hành động ngôn từ của J. Austin, đó là: D. Wunderlich, F.

Recanati, K. Bach, R.M. Hanish, K. Allan,... Song do khuôn khổ của luận văn,

chúng tôi không thể bàn thêm về các căn cứ phân loại cũng như quan điểm của

các tác giả này.

1.1.1.2. Các tác giả trong nước

Có nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm đến lí thuyết hành động ngôn ngữ,

xin được giới thiệu hai tác giả tiêu biểu:

- Tác giả Đỗ Hữu Châu là một trong những dịch giả và cũng là tác giả

dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về hành động ngôn ngữ (xin nói thêm, hành

động ngôn ngữ được tác giả gọi bằng cái tên khác là hành vi ngôn ngữ). Không

chỉ chuyển tải những quan điểm của J. Austin, J. Searle, tác giả Đỗ Hữu Châu

còn nêu định nghĩa về hành vi ngôn ngữ và các vấn đề liên quan như: phát ngôn

ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi, biểu thức ngữ vi tường minh và biểu

thức ngữ vi nguyên cấp,...

- Tác giả Nguyễn Đức Dân, ngoài những nội dung giới thiệu quan điểm

của J. Austin, J. Searle, còn chỉ ra những hiện tượng mơ hồ giữa vị từ ngôn hành

(tác giả dùng thuật ngữ động từ ngữ vi) và động từ trần thuật, giữa câu ngữ vi và

câu trần thuật để từ đó đề xuất một số cách phân biệt hai loại câu này.

1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết

Có thể nói, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hay

gián tiếp bàn về hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, dưới đây là một số công

trình tiêu biểu (xin liệt kê theo năm công bố):

7

Bài báo Hành vi cam kết và các động từ biểu thị hành vi cam kết in trên “Tạp

chí Ngôn ngữ, số 5, 2006” của tác giả Vũ Tố Nga đã chỉ ra khái niệm hành vi cam

kết và các động từ biểu thị hành vi cam kết. Đồng tác giả còn có bài báo “Sự kiện

lời nói và sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại” (Tạp chí Từ điển học và Bách

khoa thư, số 5 (31), tháng 9- 2014) đã đưa ra khái niệm sự kiện lời nói và nghiên

cứu về sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại. Bài báo đã xây dựng khái niệm sự

kiện lời nói cam kết, cấu trúc của sự kiện lời nói cam kết bao gồm cấu trúc tổng thể

và cấu trúc lõi. Ngoài ra, tác giả Vũ Tố Nga còn có công trình “Các thành phần của

một biểu thức ngữ vi cam kết tường minh” (Đỗ Hữu Châu - Hành trình và tiếp nối,

NXB ĐHQGHN, HN - 2015) đã miêu tả, phân tích chi tiết về các thành phần tạo

nên một biểu thức ngữ vi cam kết tường minh: người nói; động từ biểu thị hành vi

cam kết; người, đối tượng tiếp nhận hoặc chứng kiến hành vi cam kết và nội dung

mệnh đề. Có thể thấy tác giả Vũ Tố Nga đã có sự nghiên cứu chuyên sâu về hành

động cam kết. Từ đó, góp phần đem đến cho người đọc một cái nhìn tổng thể và

làm sáng tỏ thêm về hành động ngôn ngữ này.

Luận văn Thạc sĩ “Khảo sát hành động hứa hẹn và các phương thức biểu

hiện nó” (Trên ngữ liệu tiếng Việt và tiếng Anh) (2009) của tác giả Vũ Thị Minh

Thu đã vận dụng lý thuyết về hành vi ngôn ngữ, lý thuyết hội thoại… đưa ra một

cái nhìn bao quát và cụ thể về hành động hứa hẹn và các phương thức biểu hiện

nó và có so sánh với tiếng Anh để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong

hai nền văn hóa. Công trình này đã đưa ra cách phân loại hành động hứa hẹn theo

nội dung: hứa hẹn thuộc phạm trù giúp đỡ, nhượng bộ, hứa hẹn thuộc phạm trù

mời chào và hứa hẹn thuộc phạm trù giao kèo, thề bồi.

Luận án Tiến sĩ “Hành vi ngôn ngữ thề (swear) trong tiếng Việt” (2013)

của tác giả Nguyễn Thị Thu Nga đã vận dụng các lý thuyết về hành động ngôn

ngữ, lý thuyết hội thoại để nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của hành

động thề. Từ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, tác giả đưa ra một số đặc

trưng văn hóa dân tộc qua lời thề và một số đặc trưng của việc sử dụng lời thề

trong giao tiếp của người Việt hiện nay.

8

Với các công trình dẫn trên một lần nữa khẳng định đã có các nhà nghiên

cứu ngôn ngữ quan tâm đến hành động ngôn ngữ nói chung và hành động thuộc

lớp Cam kết trong tiếng Việt nói riêng. Song chưa có công trình nào nghiên cứu

về các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết qua lời thoại của nhân vật trong

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 một cách bài bản.

Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tiễn nghiên cứu về hành động ngôn

ngữ nói chung và các hành động hứa hẹn, cam kết, thề nói riêng, ở luận văn này

chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu hành động ngôn từ của nhân vật trong tác phẩm

văn chương cụ thể là các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết về các phương

diện: hành động ở lời, phương thức thể hiện và nghiên cứu các hành động ngôn

ngữ này từ góc nhìn lý thuyết hội thoại.

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Lí thuyết về ngữ cảnh

1.2.1.1. Khái niệm ngữ cảnh

Theo từ điển Encyclopedia of Language and Linguisticsđịnh nghĩa: “Ngữ

cảnh (situtional context; context of situation; context de situation) là bối cảnh

ngoài ngôn ngữ của một phát ngôn hay là những thông tin ngoài ngôn ngữ góp

phần tạo nên nghĩa (của phát ngôn)”. [27]

1.2.1.2. Các nhân tố thuộc ngữ cảnh

Các nhân tố của ngữ cảnh thường được nói tới là:

- Nhân vật giao tiếp: Nhân vật giao tiếp bao gồm người nói (viết) và người

nghe (đọc). Mỗi người có một vị thế nhất định: vị thế XH (trên, dưới, bình đẳng),

vị thế giao tiếp (quyền chủ động hay bị động). Các vị thế này hình thành quan hệ

giao tiếp (thân mật, gần gũi, khách sáo quan cách, nhiệt tình, hờ hững…).

- Hoàn cảnh giao tiếp: Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm hoàn cảnh giao tiếp

rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp.

- Hiện thực được nói tới: Đó có thể là hiện thực bên ngoài các nhân vật

giao tiếp hoặc là hiện thực tâm trạng của con người.

9

- Ngữ huống: Những thay đổi theo diễn biến của cuộc giao tiếp: nhân vật

giao tiếp mới xuất hiện, nhân vật giao tiếp cũ không tiếp tục tham gia giao tiếp

nữa, trạng thái tâm lí, trạng thái hiểu biết, ý đồ, đề tài... thay đổi.

- Văn cảnh: Văn cảnh bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ như âm, tiếng,

từ ngữ, câu... cùng có mặt trong văn bản, đi trước hoặc đi sau một yếu tố ngôn

ngữ nào đó đang được xem xét.

Mỗi một nhân tố trên đóng vai trò nhất định trong việc tạo lập lời nói phù

hợp và giúp lĩnh hội đầy đủ, thấu đáo lời nói của người mà mình giao tiếp.

1.2.1.3. Vai trò của ngữ cảnh trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ

Ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập văn bản và lĩnh hội

văn bản.

a. Đối với quá trình sản sinh văn bản (nói, viết): Ngữ cảnh chính là môi

trường sản sinh ra các phát ngôn giao tiếp, nó chi phối cả hình thức và nội dung

của phát ngôn. Việc dùng từ đặt câu phải phù hợp về ngữ nghĩa và ngữ pháp

với các từ ngữ khác được dùng trong văn bản, phải phù hợp với quan hệ giữa

người viết và người đọc (về vị thế, về quan hệ thân sơ, trạng thái tâm lí…), phải

phù hợp với cách thức giao tiếp (viết hay nói) và tình huống giao tiếp cụ thể

(giao tiếp có tính chất nghi lễ hay không có tính chất nghi lễ).

Ngoài ra còn cần phải chú ý đến hoàn cảnh giao tiếp. Vì điều đó sẽ ảnh

hưởng đến hiệu quả của cuộc giao tiếp. Chẳng hạn, ở Việt Nam khi mới gặp

nhau lần đầu người ta hay hỏi nhau về tuổi tác để xưng hô cho đúng. Nhưng ở

một số nước trên thế giới việc hỏi tuổi lại bị coi là khiếm nhã. Vì thế việc tìm

hiểu phong tục tập quán, nét văn hóa nơi mình giao tiếp cũng là việc rất quan

trọng. Nó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp của mình.

Tóm lại, ngữ cảnh đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo lập văn bản

(nói, viết). Muốn đạt hiệu quả giao tiếp cao, người nói (viết) cần chú ý đến ngữ

cảnh, đến từng nhân tố trong đó.

10

b. Đối với việc lĩnh hội văn bản, muốn lĩnh hội chính xác, thấu đáo một

phát ngôn nào đó người nghe (người đọc) cần căn cứ vào ngữ cảnh. Phải đặt phát

ngôn đó vào ngữ cảnh mà nó ra đời, dựa vào tình huống cụ thể để phân tích, lý

giải, hiểu cặn kẽ từng chi tiết về nội dung và hình thức.

1.2.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ

1.2.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ

Bằng cách sử dụng ngôn ngữ, con người thực hiện rất nhiều hoạt động

khác nhau trong giao tiếp. Các hành động này được thể hiện hết sức đa dạng và

được gọi chung là hành động ngôn ngữ. Mối liên hệ giữa ngôn ngữ và hành động

ngôn ngữ của con người là hiển nhiên. Có thể nói hành động ngôn ngữ là một

vấn đề cơ bản và trọng tâm của Ngữ dụng học.

Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, hành động ngôn ngữ

được định nghĩa là “Một đoạn lời có mục đích nhất định thực hiện trong những

điều kiện nhất định được tách biệt bằng các phương tiện trên ngữ liệu và hoàn

chỉnh thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói người nghe đều có liên

hệ với một ý nghĩa như nhau, trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó. Hành động ngôn

ngữ được thực hiện khi một người nói (người viết) nói (viết) ra một phát ngôn

cho người nghe (người đọc) trong một ngữ cảnh nhất định.” [41; tr.176].

Những năm 60 của thế kỉ XX, J. Austin và J. Searle đề xuất lý thuyết hành

động ngôn từ (speech act). Theo Austin, người ta thực hiện đến 3 loại hành động

trong khi nói ra một phát ngôn đó là: hành động tạo lời, hành động ở lời và hành

động mượn lời.

Hành động tạo lời (locutionary act) là hành động người nói sử dụng các

yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ để tạo ra phát ngôn

thành phẩm với một dạng thức cụ thể và một ý nghĩa ít nhiều xác định.

Hành động ở lời (illocutionarxy act) là hành động người nói thực hiện

ngay khi nói năng để tạo ra hiệu quả thuộc ngôn ngữ, đặt trong một thiết chế xã

hội, một môi trường văn hóa - ngôn ngữ nào đó. Đó là những hành động như:

cảm ơn, xin lỗi, hứa, ra lệnh, đề nghị, thề, bác bỏ...

11

Hành động mượn lời (perlocutionary act) là hành động thông qua phương

tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ, thể hiện qua tác động tâm

lí mà phát ngôn đem lại với người nghe.

Trong ba loại hành động này thì hành động ở lời là đối tượng nghiên cứu

của Ngữ dụng học. Và khái niệm hành động ngôn ngữ hiểu theo nghĩa hẹp chính

là hành động ở lời.

Tiếp theo Austin, John R. Searle, nhà triết học ngôn ngữ người Mĩ, đã tiếp

tục phát triển lý thuyết hành động ngôn ngữ với tác phẩm nổi tiếng nhất của

mình, đó là “Speech Acts” (1969). Với Searle, Speech Acts có thể hiểu là “Nói

là hành vi tuân theo điều kiện”. Mỗi hành động ngôn ngữ phải tuân theo những

điều kiện nhất định. Searle cũng tin rằng mỗi khi ai đó thực hiện một hành động

ngôn ngữ thì người đó có thể thực hiện ba hành động:

- Hành động phát ngôn (utterance act) là hành động mà người nói sử dụng

dòng âm thanh, từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp để tạo ra phát ngôn giao tiếp.

- Hành động mệnh đề (propositional act) là nội dung ý nghĩa của phát ngôn

và nội dung đó có thể nhận xét được là đúng hay sai.

- Hành động ở lời (Illocutionary act) là sự bày tỏ của người nói cho người

nghe biết chủ ý/ ý định tại lời (illocutionary intention) của mình nói ra một phát

ngôn. Searle cũng đưa ra một bộ tiêu chí để phân loại các hành động ở lời.

Có thể nói rằng tư tưởng của Austin và Searle đã tạo nền móng vững chắc

cho lí thuyết hành động ngôn ngữ.

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã nghiên cứu và đưa ra các khái niệm

về hành động ngôn ngữ (còn gọi là hành vi ngôn ngữ).

Theo Đỗ Hữu Châu: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng

ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện thể hiện là ngôn ngữ.

Hành động ngôn ngữ được thực hiện khi người nói (hoặc người viết) SP1 nói ra

một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) SP2 trong ngữ cảnh C” [10;

tr.88].

12

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp gọi hành động ngôn ngữ là hành động ngôn

từ, ông cho rằng: "Các hành động được thực hiện bằng lời gọi là hành động ngôn

từ (speech act). Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một

phát ngôn" [16; tr.42].

Như vậy, có thể khẳng định “hành động ngôn ngữ” chính là một hành

động sử dụng ngôn từ nhằm tác động đến người tiếp nhận lời trong giao tiếp,

nó gắn liền với hoạt động nói năng của con người và mang tính chất xã hội.

1.2.2.2. Phân loại hành động ngôn ngữ

Trước J. Austin, Wittgenstein đã nói tới các hành động ngôn ngữ mặc dù

nhà triết học này không dùng thuật ngữ hành động mà dùng thuật ngữ trò chơi

ngôn ngữ. Ông đã liệt kê hàng loạt những hành động ngôn ngữ như: đưa ra một

mệnh lệnh và tuân lệnh, miêu tả bề ngoài một vật và đo đạc nó, tường thuật lại

một sự kiện, nghiên cứu một vấn đề, hình thành và kiểm nghiệm một giả thuyết,

trình bày kết quả nghiên cứu bằng biểu bảng, viết và đọc truyện, diễn kịch, giải

câu đố, nói đùa, dịch, hỏi, cảm ơn, chửi, chào, cầu nguyện nhưng ông cho rằng

không thể phân loại được chúng.

J. Austin đã thử nghiệm phân loại những hành động ngôn ngữ mà

Wittgenstein đã liệt kê và được năm phạm trù đó là: phán xử, hành xử, cam kết,

trình bày và ứng xử.

Searle cho rằng Austin đã phân loại trên những tiêu chí chồng chéo

nhau và không rõ ràng nên đã có những yếu tố không tương hợp được xếp

trong một lớp, lại có những hành động về bản chất cùng loại nhưng được xếp

vào các lớp khác nhau. Searle đã đưa ra 4 tiêu chí quan trọng nhất là: đích

tại lời, hướng khớp ghép lời - hiện thực, trạng thái tâm lí được biểu hiện, nội

dung mệnh đề.

Searle đã phân loại các hành động ở lời thành 5 lớp lớn: Biểu hiện

(representatives) (còn gọi là trình bày, khảo nghiệm, thông tin miêu tả, xác tín),

Điều khiển (directives) (còn gọi là chi phối), Kết ước (commissives) (còn gọi là

Cam kết), Cảm thán (expressives), Tuyên bố (declarations).

13

1.2.2.3. Điều kiện thực hiện các hành động ở lời

Hành động ở lời, cũng giống như các hành động khác của con người,

chỉ được thực hiện thành công với những điều kiện nhất định. Hơn nữa, hành

động ở lời còn là một hành động xã hội, nên những điều kiện để thực hiện còn

chặt chẽ và đa dạng hơn. Những điều kiện đó được gọi là điều kiện sử dụng

hành động ở lời vì nếu có chúng thì hành động ở lời mới thực hiện được và

thực hiện có hiệu quả.

Tuy điều kiện sử dụng của mỗi hành động ở lời khác nhau nhưng vẫn có

thể tìm ra những cái chung trong những điều kiện riêng. Searle cho rằng có bốn

loại điều kiện sử dụng hành động ở lời sau đây:

a. Điều kiện nội dung mệnh đề

Điều kiện này chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Mỗi hành động ở

lời sẽ có một nội dung mệnh đề đặc trưng.

b. Điều kiện chuẩn bị

Đây là điều kiện liên quan tới các quan hệ giữa người nói và người tiếp

nhận hành động. Cũng thuộc điều kiện chuẩn bị là lợi ích, trách nhiệm, năng lực

vật chất, tinh thần cũng như quyền lực của người nói đối với hành động ở lời mà

mình đưa ra.

c. Điều kiện chân thành

Đây là điều kiện chỉ ra trạng thái tâm lí của người thực hiện hành động ở

lời thích hợp với hành động ở lời mà mình đưa ra. Điều kiện chân thành còn có

nghĩa là người nói thực sự, chân thành mong đợi hiệu quả ở lời của hành động ở

lời mà mình thực hiện.

d. Điều kiện căn bản

Theo điều kiện này thì người thực hiện một hành động ở lời nào đó khi

phát ra biểu thức ngữ vi tương ứng bị ràng buộc ngay vào trách nhiệm mà hành

động ở lời tạo ra biểu thức ngữ vi đó đòi hỏi.

14

1.2.2.4. Phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi

a. Phát ngôn ngữ vi

“Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn - sản phẩm của một hành động ở lời nào đó

khi hành động này được thực hiện một cách trực tiếp, chân thực.” [10; tr.91].

Trong thực tế chúng ta có thể gặp hai loại phát ngôn ngữ vi. Phát ngôn ngữ

vi tối giản là phát ngôn ngữ vi chỉ có biểu thức ngữ vi, chẳng hạn như:

Vi dụ 1: “Em hứa từ mai sẽ đi học đầy đủ.”

Và các phát ngôn ngữ vi mở rộng, ngoài biểu thức ngữ vi còn chứa những

thành phần phụ khác.

Ví dụ 2: "Để hoàn thành công việc sớm, tớ hứa sẽ chăm chỉ làm việc. Phát

ngôn ngữ vi này gồm biểu thức ngữ vi cốt lõi “Tớ hứa sẽ chăm chỉ làm việc” của

hành động hứa và thành phần mở rộng “Để hoàn thành công việc sớm”.

b. Biểu thức ngữ vi

Searle cho rằng tất cả các phát ngôn (do hành động tạo lời và hành động ở

lời tạo ra) đều có hai thành phần ngữ nghĩa kí hiệu là: F(p). (p) là nội dung thông

tin thường được biểu diễn bằng một nội dung mệnh đề (là sự phản ánh một sự

tình khách quan vào phát ngôn bằng cấu trúc vị từ - tham thể, cho nên (p) cũng

tương đương với cấu trúc vị từ - tham thể). F là kí hiệu chỉ hiệu lực ở lời do hành

động ở lời tạo ra phát ngôn đó mà có.

Trong một phát ngôn, có những dấu hiệu cho biết phát ngôn đó do hành

động ở lời nào tạo ra, tức có hiệu lực ở lời F gì. Chẳng hạn, một phát ngôn “Anh

có đi Huế không?” là một phát ngôn đặc trưng cho hành động ở lời hỏi vì nó có

những dấu hiệu đặc trưng như kiểu kết cấu “…có … không?” và ngữ điệu hỏi.

Những dấu hiệu này được gọi là phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (illocutionary

force indicating devices - IFIDs). Nhờ các dấu hiệu này mà người nghe có thể

nhận ra hành động ở lời nào đang được người nói thực hiện để hồi đáp lại bằng

một hành động thích hợp.

15

Biểu thức ngữ vi có thể có động từ ngữ vi hay không có động từ ngữ vi

trên bề mặt câu chữ. Nếu biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi trên bề mặt

câu chữ thì đó là biểu thức ngữ vi tường minh. [28, tr.81]

Nếu biểu thức ngữ vi không có các động từ ngữ vi trên bề mặt câu chữ thì

đó là biểu thức ngữ vi hàm ẩn hay còn gọi là biểu thức ngữ vi nguyên cấp.

c. Động từ ngữ vi

Theo GS. Đỗ Hữu Châu “Trong các động từ nói năng có những động từ

đặc biệt, đó là những động từ có thể thực hiện trong chức năng ở lời. Những động

từ này được gọi tên là động từ ngữ vi. Động từ ngữ vi là những động từ mà khi

phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi (có khi không cần có biểu thức ngữ

vi đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành động ở lời do chúng biểu thị.”

[10; tr.97]

Tuy nhiên, không phải lúc nào một động từ ngữ vi cũng được dùng trong

chức năng ngữ vi. Austin cho rằng động từ ngữ vi có hiệu lực ngữ vi khi trong

phát ngôn nó được dùng ở ngôi thứ nhất, thời hiện tại, thể chủ động và thức

thực thi.

Ví dụ 3: “ - Em hứa sẽ giúp chị làm việc.”

“- Bạn ấy đã hứa giúp mình làm việc.”

Trong ví dụ trên, hứa ở câu thứ nhất được dùng trong hiệu lực ngữ vi, còn

hứa ở câu thứ hai dùng với ngôi thứ ba và trong thời gian quá khứ cho nên động

từ này có chức năng miêu tả thông thường.

1.2.2.5. Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp

a. Hành động ở lời trực tiếp

Theo GS. Đỗ Hữu Châu, hành động ở lời trực tiếp được hiểu là “…các

hành vi ngôn ngữ chân thực, có nghĩa là các hành vi được thực hiện đúng với các

điều kiện sử dụng, đúng với các đích ở lời của chúng.” [10; tr.256]

G. Yule quan niệm “Chừng nào có mối quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc

và một chức năng, thì ta có một hành động nói trực tiếp.” [17; tr.110]

16

b. Hành động ở lời gián tiếp

Hiện tượng người giao tiếp sử dung trên bề mặt hành động ở lời này nhưng

lại nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng

hành động theo lối gián tiếp. Một hành động được sử dụng gián tiếp là hành động

trong đó người nói thực hiện một hành động ở lời này nhưng người nghe phải

dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người

suy ra hiệu lực ở lời của một hành động khác như: hành động hỏi trực tiếp thể

hiện hành động cảm thán gián tiếp, hành động cảm thán trực tiếp thể hiện hành

động sai khiến gián tiếp…

Các hành động ngôn ngữ gián tiếp là một trong những phương thức tạo ra

tính mơ hồ cho lời nói. Tuy nhiên, chúng ta không thể tùy tiện dùng hành động

ở lời trực tiếp này để tạo ra hành động ở lời gián tiếp khác.

1.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết

Theo định nghĩa trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ

học xuất bản năm 2004, “cam kết” là chính thức cam đoan làm đúng những

điều đã hứa.

Khi phân loại hành động ngôn ngữ, mặc dù dựa trên những tiêu chí phân

loại khác nhau và quan điểm phân loại khác nhau nhưng cả Austin và Searle đều

đã tách cam kết (commissives, commissifs) ra thành một nhóm độc lập với các

nhóm hành động ngôn ngữ khác.

Austin cho rằng thuộc nhóm cam kết là những hành động ràng buộc người

nói vào chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao

ước, bảo đảm, thề nguyền, thông qua các quy ước, tham gia một phe nhóm.

Searle xác định nhóm hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết theo 4 tiêu

chí phân loại như sau:

- Đích ở lời: Trách nhiệm phải thực hiện hành động trong tương lai mà

người nói bị ràng buộc.

17

- Hướng khớp - ghép hiện thực - lời.

- Trạng thái tâm lý: Là ý định của người nói. Người nói phải thực sự mong

muốn và tự nguyện thực hiện điều nêu trong nội dung mệnh đề, bất chấp những

khó khăn thiệt hại mà mình phải gánh chịu.

- Nội dung mệnh đề: Là hành động trong tương lai của người nói.

Có thể thấy điểm thống nhất giữa quan điểm của Austin và Searle về nhóm

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết là người nói chịu trách nhiệm trước người

nghe về một hành động trong tương lai mà mình đã nêu trong phát ngôn.

Các biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi biểu thị các hành động thuộc

nhóm cam kết được gọi là biểu thức ngữ vi cam kết tường minh. Còn các biểu

thức ngữ vi không có động từ ngữ vi biểu thị các hành động thuộc nhóm cam kết

được gọi là phát ngôn ngữ vi cam kết nguyên cấp.

Ví dụ 4: Sp1 - Thưa cô, em xin hứa từ ngày mai em sẽ học hành chăm chỉ.

Sp2 - Cô tin em sẽ làm được.

Ví dụ 5: Sp1 - Cậu không định hướng dẫn tớ làm bài này à?

Sp2: - Tớ đang bận quá. Tớ thề sẽ hướng dẫn cậu làm bài tập vào ngày mai.

Ở ví dụ (4), phát ngôn của Sp có chứa động từ “hứa” được dùng trong hiệu

lực ngữ vi và Sp chịu trách nhiệm trước Sp2 về hành động sẽ thực hiện trong

tương lai (học hành chăm chỉ). Vì vậy, “Thưa cô, em xin hứa từ ngày mai em sẽ

học hành chăm chỉ.” là một biểu thức ngữ vi hứa tường minh.

Tương tự ở ví dụ (5), cũng có động từ “thề” được dùng trong hiệu lực ngữ

vi và Sp2 chịu trách nhiệm với Sp1 về hành động sẽ thực hiện trong tương lai

(hướng dẫn làm bài tập vài ngày mai). Nên “Tớ thề sẽ hướng dẫn cậu làm bài

tập vào ngày mai.” là một biểu thức ngữ vi thề tường minh.

Hay trong ví dụ 6: Sp1 - Nếu cậu quên không mang sách cho tớ thì sao?

Sp1- Yên tâm đi, ngày mai tớ sẽ mang sách đến cho cậu.

Mặc dù trong ví dụ (6), phát ngôn “Yên tâm đi, ngày mai tớ sẽ mang sách

đến cho cậu.” không có động từ ngữ vi biểu thị hành động thuộc nhóm cam kết

18

nhưng dựa vào ngữ cảnh của cặp thoại chúng ta có thể ngầm hiểu đây là một biểu

thức hứa / thề hoặc cam đoan nguyên cấp. Có thể bổ sung động từ dùng trong

hiệu lực ngữ vi cho phát ngôn như sau: “Yên tâm đi, ngày mai tớ hứa sẽ mang

sách đến cho cậu”./ “Yên tâm đi, ngày mai tớ thề sẽ mang sách đến cho cậu.”

hay “Yên tâm đi, ngày mai tớ cam đoan sẽ mang sách đến cho cậu.”.

1.2.4. Lí thuyết hội thoại

1.2.4.1. Khái niệm hội thoại

Lý thuyết hội thoại từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan

tâm. Theo GS.Đỗ Hữu Châu: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên,

phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ

khác.” [10; tr.201].

Các cuộc hội thoại có thể khác nhau ở nhiều yếu tố: đặc điểm của thoại

trường (không gian, thời gian mà ở đó diễn ra cuộc hội thoại), ở số lượng,

cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại; ở tính có đích hay

không có đích của cuộc thoại hay cũng có thể khác nhau về tính có hình thức

hay không có hình thức… Những yếu tố này không tách rời nhau mà liên kết

với nhau tạo thành một khối thống nhất để chi phối và điều hòa cuộc thoại

để mỗi nhân vật giao tiếp có thể đạt được đến mục đích giao tiếp cuối cùng.

Hội thoại có nhiều dạng thức khác nhau. Đó là đơn thoại, song thoại hay

đa thoại.

- Đơn thoại: Là dạng thức do lời của Sp1 phát ra hướng đến Sp2 nhưng

Sp2 không có lời đáp trực tiếp. Sp2 tiếp nhận nội dung lời thoại và phản hồi bằng

hành động, ánh mắt, cử chỉ…và những hành động, cử chỉ này có thể được tác giả

trực tiếp miêu tả hoặc không trực tiếp miêu tả.

- Song thoại: Là lời của Sp1 hướng đến Sp2 và Sp2 có sự đáp lời. Ở dạng

thức này các nhân vật tham gia hội thoại đảm bảo nguyên tắc luân phiên lượt lời

trong hội thoại.

19

- Đa thoại: Trong một ngữ cảnh hội thoại cụ thể có lời của nhiều nhân vật

giao tiếp đan xen vào nhau và những nhân vật này ban đầu được coi là nhân vật

đám đông. Những nhân vật này không được miêu tả rõ nét, không nằm trong mối

quan hệ nào mà chỉ có xuất hiện lượt lời cùng với lượt lời của người khác trong

đám đông. So với đơn thoại và song thoại thì đa thoại là dạng thoại mà các nhà

nghiên cứu lý thuyết hội thoại hiện đang rất quan tâm. Ngoài ra, cũng theo Đỗ

Hữu Châu thì trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao

lời, trao đáp và tương tác.

Để làm cơ sở tiền đề cho đề tài của luận văn, chúng tôi chọn cách quan

niệm về hội thoại của GS Đỗ Hữu Châu.

1.2.4.2. Các qui tắc hội thoại

Hội thoại diễn tiến theo những quy tắc nhất định. Muốn cho một cuộc hội

thoại thành công, các nhân vật tham gia hội thoại phải tuân thủ theo những

nguyên tắc nhất định trong hội thoại đó là: các quy tắc điều hành sự luân phiên

lượt lời, những quy tắc chi phối cấu trúc hội thoại và những quy tắc chi phối quan

hệ liên cá nhân trong hội thoại.

a. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời

Trong một cuộc hội thoại, vai nói thường xuyên thay đổi (luân phiên lượt

lời), A nói B nghe và ngược lại. Một cuộc hội thoại có sự cân bằng về lượt lời

được coi là một cuộc hội thoại lí tưởng. Khi hai người tham gia hội thoại, lời

người này sẽ kế tiếp lời người kia. Ngoài ra quãng ngắt sau khi lượt lời của mỗi

người thực hiện xong không nên quá dài làm ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp.

b. Quy tắc cộng tác hội thoại

Quy tắc cộng tác hội thoại có nghĩa là hai bên tham gia giao tiếp cùng cố

gắng để đối tác của mình hưởng ứng, phát triển cuộc thoại để cả hai bên có thể

đạt tới đích của cuộc thoại. Quy tắc cộng tác này có hiệu quả đặc biệt với cả

người nói và người nghe. Khi nói, tham thoại phải quan sát và thực hiện nguyên

tắc cộng tác theo phương châm nhất định. Cũng theo H.P. Grice quy tắc này gồm

có các phương châm nhất định như sau:

20

- Phương châm về lượng: Lượng thông tin của mỗi bên tham gia hội thoại

chỉ nên vừa đủ đúng như yêu cầu của cuộc hội thoại, không nên quá nhiều hoặc

quá ít so với mục đích của cuộc thoại.

- Phương châm về chất: Thông tin mà mỗi bên đưa ra cần có căn cứ xác

đáng, không nên nói những điều mình không chắc chắn hay không có bằng chứng

xác thực.

- Phương châm về cách thức: Các bên tham gia cuộc thoại cần có cách

nói ngắn gọn, mạch lạc, có hệ thống, trách lối nói mập mờ, tối nghĩa sẽ gây

nên hiểu lầm.

- Phương chân về quan hệ: Các bên tham gia cuộc thoại cần trình bày, dẫn

dắt sao cho câu chuyện có liên quan đến chủ đề của cuộc đối thoại.

Tuy nhiên, trong giao tiếp không phải cuộc thoại nào cũng tuân thủ đầy đủ

các phương châm như trên nên thực tế giao tiếp đã nảy sinh những tình huống

vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự vi phạm

quy tắc là do sự khác biệt trình độ, về văn hóa, về kinh nghiệm ngôn ngữ và vốn

hiểu biết cuộc sống dù một bên tham gia cuộc thoại vẫn cố gắng tuân theo nguyên

tắc cộng tác. Vì thế để nhận rõ những vi phạm quy tắc cộng tác hội thoại chúng

ta phải căn cứ vào ngữ cảnh, gắn phát ngôn với hoàn cảnh giao tiếp và mối quan

hệ liên cá nhân.

c. Quy tắc lịch sự

Để đạt được mục đích hoặc duy trì được quan hệ hài hòa giữa những người

tham gia giao tiếp người ta thường chú ý đến phép lịch sự. Lịch sự có thể là

những hành động ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp ứng xử phù hợp với qui

định của xã hội. R. Lakoff định nghĩa “lịch sự như là một phương thức để giảm

thiểu sự xung đột trong diễn ngôn (...); những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc

biệt là làm cho cuộc tương tác được thuận lợi.” Để xem xét vấn đề lịch sự chi

phối thế nào tới hành động thuộc lớp Cam kết, luận văn này dựa vào lý thuyết về

lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn ngữ của một số tác giả dưới đây.

21

Quan điểm về lịch sự của R. Lakoff với ba quy tắc:

Quy tắc 1: Quy tắc lịch sự quy thức (formal politenness rule) tức là quy

tắc “không được áp đặt” (don 't impose). Đây là quy tắc thường thích hợp với

những ngữ cảnh mà người tham gia giao tiếp có những khác biệt về quyền lực,

cương vị… Theo quy tắc này, người nói sẽ lựa chọn các phát ngôn để tránh hoặc

giảm tối thiểu tính áp đặt trong phát ngôn của mình.

Quy tắc 2: Dành cho người đối thoại sự lựa chọn (Offer option). Quy tắc

này phù hợp với những người có quyền lực, địa vị tương đương nhau nhưng

không cần thiết phải gần gũi về quan hệ xã hội. Để thực hiện quy tắc này, người

phát ngôn phải diễn đạt làm sao cho lời hỏi của mình dễ được người nghe chấp

nhận nhất mà không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người hỏi và người nghe

trong cuộc thoại.

Quy tắc 3: Là quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè (Encourage feelings

of camaraderie). Quy tắc này phù hợp với những người có quan hệ bạn bè hay

thân tình. Những người đối thoại theo phép lịch sự này thường dùng các từ xưng

hô thân thuộc.

Hay Theo Leech, siêu quy tắc lịch sự là: (Trong những điều kiện khác

như nhau) hãy giảm thiểu biểu hiện của những niềm tin không lịch sự, hãy

tăng tối đa biểu hiện của những niềm tin lịch sự. Siêu quy tắc này gồm sáu

phương châm lịch sự lớn: Phương châm khéo léo, phương châm rộng rãi,

phương châm tán thưởng, phương châm khiêm tốn, phương châm tán đồng,

phương châm thiện cảm.

So sánh lí thuyết lịch sự của Lakoff và G. Leech thì thấy: Quy tắc lịch sự

của Lakoff bắt buộc người nói phải hướng đến đối tượng giao tiếp và ngữ cảnh

giao tiếp. Còn phương châm lịch sự của G. Leech thì chú ý đến cả đối tượng

người nói và người nghe. Mức độ lịch sự của Leech chuyên dụng cho hành động

ở lời nhất định và phải phụ thuộc vào ba nhân tố: bản chất của hành động, hình

thức ngôn từ hành động, mức độ quan hệ giữa đối tượng giao tiếp.

22

Các mối quan hệ trong xã hội vô cùng phong phú vì thế ở mỗi vị thế xã

hội nhất định, người nói phải có cách ứng xử lịch sự phù hợp với vai giao tiếp

của mình để đảm bảo nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp. Ngoài khái niệm lịch sự

chung người Việt Nam còn tuân theo những khái niệm nhỏ hơn phù hợp với từng

cảnh huống và vai giao tiếp xã hội, đó là lễ độ, lễ nghĩa và lễ phép.

1.2.5. Khái quát về văn hóa và ngôn ngữ

1.2.5.1. Khái niệm văn hóa

“Văn hóa” đã trở thành một khái niệm thông dụng trong nói năng hàng

ngày cũng như trong nghiên cứu khoa học. Nhưng định nghĩa văn hóa là gì vẫn

đang là vấn đề được quan tâm. Đã có rất nhiều khái niệm về “văn hóa” được

công bố. Cho đến nay đã có khoảng trên 400 định nghĩa về văn hóa.

Năm 2002, UNESSCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa

nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật

chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó

chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,

hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” [34].

Trong cuốn Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt, tác giả Nguyễn Văn

Chiến không đưa ra khái niệm ngắn gọn mà trả lời câu hỏi “Văn hoá là gì?” bằng

một số ý cơ bản sau:

- Văn hoá là một hiện tượng, một phạm trù thuộc về con người, do con

người làm nên. Vì vậy văn hoá là tiêu chuẩn, tiêu chí hiển nhiên khu biệt con

người - động vật với con vật.

- Văn hoá là một sản phẩm đặc thù của xã hội loài người.

- Một hiện tượng văn hoá luôn tồn tại với những lí do riêng của nó.

- Thành tựu của nền văn hoá là con người. Văn hoá không phải là các

vật đơn thuần ta sờ thấy được một cách cụ thể. Hiện tượng văn hoá hiện diện

trước mặt ta, trong ta như một thế giới được vật thể hoá, một thế giới được

khúc xạ rõ ràng.

23

Các nền văn hoá của các dân tộc trên thế giới vừa có tính riêng biệt vừa

có sự giao thoa với nhau.

Như vậy, có thể hiểu “văn hóa” là bao gồm tất cả những sản phẩm do con

người tạo ra trong đời sống, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía

cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật

chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện,...

Tóm lại, “văn hóa” là sản phẩm của loài người, được tạo ra và phát triển

trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia

vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Nó được

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa, được tái

tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.

Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và

hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị

vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.

1.2.5.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa

Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn

nhau trong quá trình hình thành và phát triển. Khi bàn về mối quan hệ giữa ngôn

ngữ và văn hoá, tác giả Nguyễn Văn Chiến trong cuốn “Tiến tới xác lập vốn từ

vựng văn hóa Việt” đưa ra một số ý kiến như sau:

Thứ nhất: Ta nói ngôn ngữ bình đẳng với văn hoá hay độc lập với văn hoá

bởi vì cả hai đều là sản phẩm con người lao động có tư duy. Đó là những hiện

tượng nhân loại. Thế nhưng ngôn ngữ lại chính là sản phẩm văn hoá của nhân

loại giống như tất cả những sản phẩm văn hoá khác. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ

và văn hoá là mối quan hệ bao nhau.

Thứ hai: Ngôn ngữ là hiện tượng, là biểu trưng của văn hoá, thuộc phạm

trù văn hoá, cho nên tất cả những gì là đặc tính, thuộc tính của văn hoá cũng

đều tương tự như là đặc tính, thuộc tính của ngôn ngữ và được ẩn chứa trong

ngôn ngữ.

24

Thứ ba: Văn hóa chi phối tới việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ của

các nhân vật giao tiếp.

Văn hóa và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Ngôn

ngữ là phương tiện để thể hiện văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ.

Nhờ vào sự truyền bá rộng rãi của ngôn ngữ mà văn hóa được phổ biến và lưu

truyền rộng rãi, nền văn hóa cũng nhờ đó mà phát triển. Sự biến đổi và phát triển

của ngôn ngữ luôn tồn tại song song với sự phát triển của văn hóa.

1.2.6. Vài nét về văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

1.2.6.1. Sơ lược về lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu thế

kỷ XX, kinh tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân ta

phải sống trong cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần. Thời kì

1930-1945 là một thời kì đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hết sức gay

gắt. Một giai đoạn lịch sử tuy chỉ 15 năm, nhưng trải qua bao biến cố, gồm

bao sự kiện quan trọng, tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần

của con người. Nhân dân ta chịu tác động nặng nề của chế độ thực dân kiểu

cũ nên rất lạc hậu. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc

địa Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp

tục tăng lên.

Từ những năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương,

phong trào công nhân và các phong trào yêu nước khác như những cơn sóng ngày

một dâng cao, tấn công dồn dập vào bè lũ cướp nước và bán nước. Cuộc tổng

khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đã chấm dứt chế độ thực dân và lật đổ chế độ

phong kiến trên đất nước ta.

1.2.6.2. Đặc điểm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Ở Việt Nam, các trào lưu văn học lần đầu tiên xuất hiện vào khoảng

những năm 30 của thế kỉ XX. Trong giai đoạn 1930 - 1945 đã xảy ra biết bao

25

sự kiện của lịch sử, xã hội thay đổi dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức

và tâm lí con người. Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy văn học vươn mình, mang

cho nó nhiều dạng vẻ, hương sắc. Và rồi nảy sinh nhiều trào lưu văn học khác

nhau, nổi bật lên đó là các trào lưu văn học lãng mạn, văn học hiện thực, văn

học cách mạng.

Văn học hiện thực như một cây cọ của người họa sĩ tài ba vẽ lên mặt trái

của xã hội đương thời. Với bút pháp điển hình hóa những nhà văn của dòng văn

học hiện thực đã mang đến cho người đọc những số phận con người chân thực

nhất, để bất cứ ai ở thời điểm đó soi vào cũng thấy thấp thoáng bóng dáng mình.

Các nhà văn cùng đau, cùng khóc với những con người khốn khổ,cùng đồng cảm

với họ và trân trọng những giá trị tốt đẹp bên trong họ. Hiện thực cuộc sống với

những lầm than cơ cực đã được phơi bày dưới những cây bút sắc bén như Ngô

Tất Tố với tập phóng sự “Việc làng” ở đó ta thấy được những hủ tục nặng nề của

nông thôn Việt Nam. Với “Tắt đèn”, người đọc thấy được một thứ tai họa khủng

khiếp ở nông thôn, đó là những người dân bần cố nông phải điêu đứng, quằn quại

trong sự đè nén vì sưu thuế. Đó còn là Vũ Trọng Phụng với tiếng cười châm biếm

sắc sảo, sâu cay trong các tác phẩm như “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”... “Cạm

bẫy người”, “Kỹ nghệ lấy Tây”... Những tác phẩm này đã tái hiện rõ nét bộ mặt

xã hội Việt Nam cả thành thị lẫn nông thôn.

Lịch sử giai đoạn 1930 - 1945 đầy biến động, sau nhiều phong trào cách

mạng không thành, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống.

Thanh niên lớn lên không có lí tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc,

họ thoát li trong những tình cảm cá nhân. Trào lưu văn học lãng mạn bắt đầu từ

đấy. Đặc điểm chính của trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi và khát vọng của

cá nhân với sự bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng. Họ muốn thoát li đời

sống, vượt ra khỏi thực tại thỏa sức dùng trí tưởng tượng bay bổng để thực hiện

ước mơ, lí tưởng. Ta thấy một Xuân Diệu trốn chạy trong tình yêu với ngập tràn

hương sắc. Một Huy Cận đắm chìm trong mối sầu vạn kỉ với cái mênh mông

26

không cùng. Một Nguyễn Tuân ngụp lặn trong quá vãng với những thú chơi

thanh tao của cha ông. Những tôn chỉ “tươi trẻ, yêu đời”, “có chí phấn đấu và tin

vào sự tiến bộ”, “tôn trọng tự do cá nhân” trong các tiểu thuyết của Nhất Linh,

Hoàng Đạo, Khải Hưng. Họ đã tạo nên một trường sáng tạo mới, những đóng

góp mới. Chính họ dám phủ nhận cái hủ lậu để khai phá những miền đất mà trước

đây không dành cho hai từ bản ngã.

Bên cạnh hai trào lưu văn học được công khai ấy, còn có một trào lưu ẩn

dật, bí mật không được phép lưu hành - nằm ngoài vòng pháp luật nhưng lại hứa

hẹn sự phát triển nhanh chóng khi có cơ hội, đó là trào lưu văn học cách mạng.

Trào lưu này gồm những tác phẩm thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt mảng thơ

ca trong tù. Nếu ở giai đoạn đầu, trong thơ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh

sáng ngời hình ảnh người chiến sĩ cách mạng nhiệt huyết sôi trào, sẵn sàng xả

thân vì tổ quốc thì ở giai đoạn tiếp theo, với hàng loạt những cây bút trẻ như

Trường Sơn, Xuân Thủy, Tố Hữu... luôn thể hiện sự thức tỉnh của tâm hồn, thơ

văn của họ lan tỏa sức sống và ánh sáng của ngọn lửa cách mạng. Phải khẳng

định rằng, những sáng tác của Hồ Chí Minh và Tố Hữu là những tác phẩm tiêu

biểu nhất của trào lưu văn học này. Nổi bật hơn cả là những vần thơ giản dị đậm

chất nhân văn nhưng cũng chứa đầy chất thép.

Vì phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nằm trong tác phẩm văn xuôi của

giai đoạn này cho nên chúng tôi chỉ lựa chọn một số tác phẩm tiêu biểu thuộc bộ

phận văn học hiện thực và văn học lãng mạn, cụ thể là một số tiểu thuyết đặc sắc

hơn cả của Tự lực văn đoàn.

Một số tác phẩm văn học hiện thực: tiểu thuyết “Giông tố” (Vũ Trọng

Phụng), tiểu thuyết “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan), tiểu thuyết “Tắt

đèn” của Ngô Tất Tố, tuyển tập “Truyện ngắn của Nam Cao”.

Một số tác phẩm văn học lãng mạn: tiểu thuyết “Nửa chừng xuân”, “Hồn

bướm mơ tiên”, “Thừa tự” của Khái Hưng; tiểu thuyết “Đoạn tuyệt”, “Lạnh

lùng”, “Đôi bạn” của Nhất Linh; tiểu thuyết “Đời mưa gió”, “Gánh hang hoa”

của Nhất Linh - Khái Hưng.

27

1.3. Tiểu kết

Trong chương này, chúng tôi đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu

về hành động ngôn ngữ nói chung, tình hình nghiên cứu một số hành động ngôn

ngữ như hành động hứa hẹn, hành động thề… nói riêng và một số vấn đề về lý

thuyết bước đầu làm tiền đề cho quá tình nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945.

Chúng tôi đã tìm hiểu về các công trình nghiên cứu hành động ngôn ngữ

của các tác giả nước ngoài như J. Austin và J. Searle đã kế thừa và phát triển

lí thuyết hành động ngôn từ của J. Austin. Tiếp thu các công trình nghiên cứu

của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài đi trước, có nhiều nhà Việt ngữ học

quan tâm đến lý thuyết hành động ngôn ngữ như tác giả Đỗ Hữu Châu, tác giả

nguyễn Đức Dân.

Đồng thời chúng tôi đã tham khảo các công trình nghiên cứu về các hành

động ngôn ngữ hứa hẹn, thề, cam kết như: Bài báo Hành vi cam kết và các động

từ biểu thị hành vi cam kết in trên “Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, 2006”, bài báo “Sự

kiện lời nói và sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại” (Tạp chí Từ điển học và

Bách khoa thư, số 5 (31), tháng 9- 2014) của tác giả Vũ Tố Nga, Luận văn Thạc

sĩ “Khảo sát hành động hứa hẹn và các phương thức biểu hiện nó” (Trên ngữ liệu

tiếng Việt và tiếng Anh) (2009) của tác giả Vũ Thị Minh Thu, Luận án Tiến sĩ

“Hành vi ngôn ngữ thề (swear) trong tiếng Việt” (2013) của tác giả Nguyễn Thị

Thu.

Những vấn đề cơ bản của lí thuyết mà theo chúng tôi có liên quan đến đề

tài như vấn đề về ngữ cảnh, hành động ngôn ngữ, những vấn đề về hội thoại,

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và mối liên hệ mật thiết giữa ngôn ngữ

và văn hóa đã được xem xét một cách có hệ thống. Bên cạnh đó chúng tôi cũng

trình bày những đặc điểm của nền văn hóa, văn học Việt Nam giai đoạn 1930-

1945. Những vấn đề này sẽ là cơ sở lý luận quan trọng có quan hệ trực tiếp và

có ý nghĩa thiết thực để làm căn cứ cho những biện giải của chúng tôi thể hiện ở

hai chương sau.

28

Chương 2

CÁC HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT TRONG

MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

XÉT VỀ HÀNH ĐỘNG Ở LỜI VÀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN

2.1. Kết quả khảo sát

2.1.1. Nhận xét chung

- Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong các tác phẩm được chọn

làm ngữ liệu khảo sát được dùng không nhiều. Chúng tôi chỉ thống kê được

208 trường hợp trong 12 tác phẩm. Lý do sử dụng ít như vậy có lẽ vì người

nói bị ràng buộc trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã cam kết

với người nghe. Tạo lời cam kết lúc nào cũng dễ nhưng việc thực hiện thì

ngược lại. Việc người nói thất hứa đối với người khác thì với họ (người nói)

chỉ là chuyện thường nhưng đối với người nghe - người đã đặt niềm tin vào

lời cam kết thì đó là điều khó có thể bỏ qua.

- Số lượt sử dụng hành động thuộc lớp Cam kết trong các tác phẩm không

giống nhau. Tác phẩm sử dụng nhiều nhất là tiểu thuyết “Giông tố” với 60 trường

hợp. Tác phẩm “Đôi bạn” sử dụng ít nhất là 4 trường hợp.

- Căn cứ vào hành động ở lời với các tiêu chí mà Searle đã đưa ra, chúng

tôi tạm chia các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thành 4 loại: hứa, cam

đoan, thề, trung gian. Trong bốn loại này, hành động hứa chiếm số lượng nhiều

nhất (89 trường hợp) chiếm sấp xỉ 42,78%, tiếp theo là loại trung gian (82 trường

hợp) chiếm sấp xỉ 39,42%, rồi đến cam đoan (20 trường hợp) chiếm sấp xỉ 9,61%

và cuối cùng là thề chỉ có 17 trường hợp chiếm sấp xỉ 8,61%.

2.1.2. Số lượng và phân loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Số lượng và các loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong văn

xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 có thể hình dung trong bảng tổng kết 2.1

dưới đây:

29

Bảng 2.1. Bảng tổng kết số lượng và số lượt dùng các hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết

Số lượng, tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Hành động ngôn ngữ (lượt) (%)

Hứa 42,78 89

Trung gian 39,42 82

Cam đoan 9,61 20

Thề 8,17 17

Tổng kết 208 99,98%

2.2. Miêu tả các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác

phẩm văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945

Mục này chúng tôi sẽ phân loại và miêu tả các hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết theo các nội dung chính:

1. Đích ở lời

2. Phương thức thể hiện

Căn cứ vào các tiêu chí phân loại hành động ngôn ngữ của Austin và Searle,

chúng tôi đã xác định được ba hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một

số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, đó là: hành động hứa, hành

động cam đoan và hành động thề. Ngoài ba hành động ngôn ngữ được xác định

một cách rõ ràng này, còn một số hành động ngôn ngữ tương đối khó xác định một

cách cụ thể bởi chúng có thể xếp vào ba hành động ngôn ngữ nói trên. Chúng tôi

tạm xếp chúng vào lớp hành động ngôn ngữ trung gian.

Để tìm hiểu, miêu tả các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong

một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, ở chương này chúng

tôi phân loại và mô tả từng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết theo đích ở

lời và phương diện thể hiện. Dưới đây là các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết mà chúng tôi đã thống kê được từ các tác phẩm đã nói ở trên.

30

2.2.1. Hành động hứa

2.2.1.1. Khái niệm hành động hứa:

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, “Hứa là nói với ai, với ý thức

tự ràng buộc mình là sẽ làm điều gi đó mà người ấy đang quan tâm.” [38]

Hứa thường là một kiểu cam kết giữa người này với người khác, bên này

với bên kia, có khi với chính mình “thầm hứa”. Hứa đã bắt đầu có sắc thái trịnh

trọng, nghiêm túc.

2.2.1.2. Số lượt sử dụng

Như đã nói, trong bốn hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết mà chúng

tôi khảo sát, hành động hứa có tần số xuất hiện nhiều nhất với 89 lượt, chiếm

42,78%. Có thể hình dung số lượt sử dụng hành động hứa trong 12 tác phẩm

chúng tôi đã chọn làm ngữ liệu thống kê bằng bảng tổng kết 2.2 dưới đây:

Bảng 2.2: Bảng tổng kết hành động hứa

Số lượng; tỉ lệ % STT Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm

Giông tố - Tác phẩm và dư luận 1 22 24,71

Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 2 19 21,34

3 Bước đường cùng 13 14,60

4 Đời mưa gió 6 6,74

5 Nửa chừng xuân 6 6,74

6 Lạnh lùng 5 5,61

7 Đôi bạn 4 4,49

8 Đoạn tuyệt 4 4,49

9 Thừa tự 4 4,49

10 Gánh hàng hoa 3 3,37

11 Ngô Tất Tố tuyển tập 3 3,37

12 Hồn bướm mơ tiên 0 0

Tổng số 89 99,95

31

2.2.1.3. Điều kiện sử dụng

Searle (1977) cho rằng một hành động ở lời muốn thực hiện thành công

thì phải thoả mãn 4 điều kiện sau đây:

- Điều kiện nội dung mệnh đề (ĐKNDMĐ)

- Điều kiện chuẩn bị (ĐKCB)

- Điều kiện chân thành (ĐKCT)

- Điều kiện căn bản (ĐKCB)

Căn cứ vào những điều kiện trên và qua thực tế nghiên cứu, chúng ta có

thể đưa ra tiêu chí về các điều kiện thoả mãn đối với việc sử dụng hành động hứa

như sau:

- ĐKNDMĐ: Hành động hứa có nội dung mệnh đề là hành động tương lai

của người nói mang lại những lợi ích tinh thần và vật chất cho người nghe, hành

động tương lai của người nói trong nội dung mệnh đề.

- ĐKCB: Đối với hành động hứa, điều kiện chuẩn bị là những hiểu biết của

người thực hiện hành động hứa về lợi ích, tâm thế… của người nghe và mối quan hệ

giữa người nói và người nghe. Sự hứa hẹn đòi hỏi người hứa hẹn có ý muốn thực

hiện lời hứa và người nghe cũng thực sự mong muốn lời hứa được thực hiện.

- ĐKCT: Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của

người thực hiện hành động hứa. Hứa hẹn đòi hỏi ý định của chủ ngôn. Tuy nhiên,

trong thực tế giao tiếp không phải lúc nào hành động hứa cũng được thực hiện

với điều kiện chân thành này. Trong một số hoàn cảnh, người nói chỉ đưa ra lời

hứa để đối phó với một tình huống nhất định, không hề có ý định thực hiện lời

hứa đó. Kiểu hứa này được gọi là hứa xuông.

- ĐKCB: Đây là điều kiện đưa ra trách nhiệm rơi vào hành động sẽ được

thực hiện của người nói.

Ví dụ 7: “- Dạ, lạy quan, rồi có thế nào thì trăm sự con nhờ quan.

- Mày về gọi chồng mày đến đây tao vẽ cách cho mà làm.”

[12; tr.35]

32

Ví dụ 8: “- Không biết còn tiền nhuận bút thì sao đây? Họ sẽ gửi cho mình

hay là mình phải đến tận nhà báo mà lãnh?

- Anh cứ để việc ấy cho tôi. Tôi sẽ đến lãnh hộ cho anh.

- Nhưng liệu người ta có chịu giao tiền cho anh không mới được chứ?”

[2; tr.97]

Trong ví dụ (7), phần in nghiêng trong phát ngôn “Mày về gọi chồng mày

đến đây tao vẽ cách cho mà làm.” là một hành động hứa của nhân vật nghị Lại

trong tiểu thuyết “Bước đường cùng”. Khi nhân vật vợ trương Thi đến nhờ cậy

nghị Lại giúp chồng thoát tội và kiện nhà anh Pha và nghị Lại đã hứa sẽ giúp vợ

chồng thị. Phát ngôn này đã thỏa mãn bốn điều kiện nêu trên:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của nghị Lại “vẽ cách giúp trương

Thi không những thoát tội mà còn kiện được cả Pha”.

- ĐKCB: Khi nghị Lại đưa ra lời hứa đã thỏa mãn lợi ích của vợ trương

Thi đó là giúp chồng thị thoát tội và kiện gia đình anh Pha. Nhân vật nghị Lại

có đủ năng lực để thực hiện lời hứa và đó cũng là điều mà vợ chồng trương Thi

mong muốn.

- ĐKCT: Nghị Lại có ý định giúp trương Thi để hòng trục lợi.

- ĐKCB: Nghị Lại có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình

đã hứa.

Tương tự, ở ví dụ (8), phát ngôn của nhân vật Văn “Tôi sẽ đến lãnh hộ cho

anh” trong “Gánh hàng hoa” cũng là một phát ngôn có hiệu lực ngữ vi hứa, thỏa

mãn các điều kiện:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của Văn “đến lãnh lương hộ Minh”.

- ĐKCB: Nhân vật Văn hứa sẽ đi lấy tiền nhuận bút giúp Minh và đó cũng

là điều mà Minh mong muốn. Trong hoàn cảnh mù lòa, bản thân còn không tự

chăm sóc được thì làm sao Minh có thể đi lãnh lương. Vì vậy khi Văn đưa ra lời

hứa và thực hiện lời hứa sẽ đem lại lợi ích cho Minh. Và Văn có đủ năng lực để

thực hiện lời hứa đó.

- ĐKCT: Văn thật sự có ý định thực hiện lời hứa với Minh.

33

- ĐKCB: Văn có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.

Tuy nhiên, không phải lúc nào hành động hứa đưa ra cũng được người nói

thực thi. Có nhiều trường hợp, người nói chỉ hứa cho xong chuyện, hứa để đạt

được mục đích công việc của mình. Có thể xét ví dụ sau:

Ví dụ 9: “Lý luận cũng hay hay. Nhưng viên y sĩ không để cho mình bị

cám dỗ. Ông khăng khăng từ chối. Hài phát khóc. Hắn đành nói dối:

- Ngài thương cho. Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ

không dạy học."

- Không có lý!

- Tôi xin hứa… Ngài thương cho!...”

[11; tr.309]

Hai phát ngôn “Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ

không dạy học.” và “Tôi xin hứa” là hành động hứa thuộc lớp Cam kết của

nhân vật Hài trong truyện ngắn “Quên điều độ” của tác giả Nam Cao. Mặc

dù trong người có bệnh và được y sĩ khuyên không nên dạy học nhưng Hài

vẫn cố nài nỉ để được chứng nhận đủ sức khỏe mở trường tư. Đó là hành

động hứa vì trong biểu thức ngữ vi có chứa động từ “hứa” được dùng với

hiệu lực ngữ vi và phát ngôn này thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động

ở lời:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói (Hài) “chỉ đứng

làm hiệu trưởng trông coi chứ không dạy học”.

- ĐKCB: Nhân vật Hài hứa sẽ giữ gìn sức khỏe và y sĩ cũng thực sự mong

Hài sẽ thực hiện đúng lời hứa.

- ĐKCT: Ý định thực hiện hành động “chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi

chứ không dạy học” của Hài. Tuy nhiên, trong ví dụ này, hành động hứa của

nhân vật Hài không được thực hiện với điều kiện chân thành. Anh ta chỉ đưa ra

34

lời hứa nhằm lấy được sự tin tưởng của y sĩ, để y sĩ chứng nhận cho anh ta đủ

sức khỏe mở trường dạy học.

- ĐKCB: Hài có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa

(đứng làm hiệu trưởng chứ không dạy học).

2.2.1.4. Phương thức thể hiện

a. Hành động hứa được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi tường minh hay

nguyên cấp

Về mặt cấu trúc của hành động hứa thuộc lớp Cam kết trực tiếp được chia

làm hai dạng: biểu thức ngữ vi hứa tường minh và biểu thức ngữ vi hứa nguyên

cấp. Để có được sự phân chia như vậy, chúng tôi căn cứ vào sự có mặt hoặc

không có mặt của động từ hứa (dùng với chức năng ngữ vi).

* Biểu thức ngữ vi hứa tường minh

Hứa tường minh là hành động hứa sử dụng động từ ngữ vi “hứa” để tường

minh hóa hành động hứa.

Vận dụng các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi nhận thấy công

thức của một biểu thức ngữ vi hứa tường minh ở dạng đầy đủ có thể khái quát

như sau:

Sp1 + ĐTNV + với Sp2 (có A/ trước A) + (rằng/là) + Sp1 + S2

Trong đó: Sp1 là người nói (chủ ngôn); ĐTNV là động từ hứa; A là đối

tượng chứng kiến hành động hứa; Sp2 là người nghe (đối tượng tiếp nhận hành

động hứa); S2 là nội dung mệnh đề nêu hành động tương lai của người thực hiện

hành động hứa.

Trong 89 hành động hứa, chúng tôi khảo sát được 2 hành động hứa tường

minh.

Ví dụ 10: “Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ không dạy

học.

Ví dụ 11: “Tôi xin hứa…” [11; tr.309]

35

Áp dụng công thức trên vào cả hai ví dụ có thể thấy cả hai biểu thức ngữ

vi hứa tường minh đều ở thể rút gọn:

Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ không dạy học.

Sp1 ĐTNV S2

Ở biểu thức hứa này, người nói đã lược thành phần Sp2 (hoặc A) vì

trong hội thoại trực tiếp, người nghe luôn có mặt khi chủ ngôn thực hiện hành

động hứa.

Tương tự: Tôi xin hứa…

Sp1 ĐTNV

Các thành phần Sp2, S2 đã bị tỉnh lược trong biểu thức “Tôi xin hứa”.

Dạng biểu thức này thường gặp trong trường hợp biểu thức ngữ vi hứa tường

minh đóng vai trò là tham thoại hồi đáp cho một tham thoại dẫn nhập trước.

Như vậy, để thuận tiện trong giao tiếp và trong trường hợp giao tiếp thân

mật, gần gũi, người nói thường lược bỏ đi một số thành phần trong công thức

của biểu thức ngữ vi hứa tường minh mà nghĩa của câu vẫn không thay đổi. Chỉ

có thành tố ĐTNV là không thể rút gọn bởi nó chính là dấu hiệu nhận biết một

hành động ngôn ngữ tường minh.

* Biểu thức ngữ vi hứa nguyên cấp

Hành động hứa nguyên cấp là hành động hứa không sử dụng động từ ngữ

vi hứa. Nên ngoài căn cứ vào việc phát ngôn thỏa mãn các điều kiện của Searle

thì cần phải dựa vào các yếu tố khác để xác định xem đó có phải hành động thuộc

lớp Cam kết hay không. Qua khảo sát, chúng tôi tổng hợp được những yêu tố để

xác định như sau:

Thứ nhất, trong phát ngôn có trạng từ, mệnh đề chỉ thời gian tương lai,

phó từ chỉ thời gian “sẽ” kết hợp với động từ chỉ hoạt động để chỉ hành động

trong tương lai của người nói.

Ví dụ 12: “Ông L. lại hỏi:

- Thế sao nó lại quến được tiền công của mày?

- Thưa cậu, cho con hút xong điếu thuốc, sẽ xin kể để cậu nghe.”

[1; tr.132]

36

Trên đây là lời đối thoại của nhân vật anh xe và ông L. trong truyện ngắn

“Món nợ chung thân”. Trong phát ngôn được in nghiêng ở trên, “cho con hút

xong điếu thuốc” là mệnh đề chỉ thời gian trong tương lai, “sẽ” là phó từ chỉ thời

gian. Đồng thời phát ngôn đó đã thỏa mãn các điều kiện ở lời:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của anh xe “kể cho cậu nghe” sau

khi được ông L. hỏi.

- ĐKCB: Khi anh xe đưa ra lời hứa đã thỏa mãn lợi ích của ng L. (thỏa

mãn điều ông L. đang muốn biết). Anh xe hứa sẽ kể câu chuyện của mình và có

đủ năng lực để thực hiện, đó cũng là điều mà ông L. đang thắc mắc.

- ĐKCT: Anh xe có ý định thực hiện việc mình đã nói.

- ĐKCB: Anh xe có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.

Ví dụ 13: “Minh hết sức cảm động nói:

− Anh tử tế với chúng tôi quá. Tôi biết lấy gì để đáp lại tấm lòng quý báu

của anh cho xứng đáng đây!

Văn thấy vậy vội gạt đi:

− Anh hay lôi thôi lắm! Thôi, chào anh chị. Mai tôi sẽ đến sớm để báo tin

mừng, yên trí đi.” [2; tr.102]

Trong phát ngôn của nhân vật Văn, có trạng từ “mai” chỉ thời gian tương

lai, phó từ chỉ thời gian “sẽ” và thỏa mãn các điều kiện:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của Văn “đến sớm báo tin mừng”.

- ĐKCB: Nhân vật Văn hứa sẽ đến sớm báo tin tốt cho Minh, đây cũng là

điều Minh mong muốn. Lời hứa của Văn mang lại lợi ích cho nhân vật Minh bởi

Minh lúc này đang bị mù không thể tự làm được gì và chỉ có Minh cs khả năng

giúp Văn.

- ĐKCT: Văn thật sự có ý định đến sớm để thông báo tin mừng cho Minh.

- ĐKCB: Văn có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.

37

Thứ hai, dựa vào các yếu tố khác để xác định biểu thức ngữ vi hứa nguyên

cấp.

Trong nhiều đoạn hội thoại, phát ngôn của các nhân vật không có chứa

động từ được sử dụng với chức năng cam kết, cũng không xuất hiện những trạng

từ, phó từ chỉ thời gian đứng trước động từ chỉ hành động, trạng thái. Vì vậy,

muốn biết phát ngôn đó có phải hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết hay

không thì chúng ta phải xét đến các yếu tố khác như ngữ cảnh, lời thoại của các

nhân vật khác.

Xét ví dụ (13), có thể thấy ngoài các yếu tố chỉ hành động trong tương lai

của chủ ngôn thì trong phát ngôn “yên trí đi” mang dấu hiệu có chức năng cam

kết. Đây là một lời khẳng định của nhân vật Văn dành cho nhân vật Minh. Văn

chắc chắn sẽ thực hiện lời hứa, Minh không cần phải lo lắng.

Ví dụ 14: “- Chị kén chồng cho con, mà chỉ cần kén cái chức tước thôi ư?

Người chẳng tốt thì huyện mà làm gì?

Bà phủ hơi có giọng gắt:

- Tôi mời cậu lại để cậu khuyên bảo cháu giúp tôi mà cậu lại cứ nói ngang,

rõ bực cả mình.

- Nếu thế thì được, để em bảo cháu.” [3; tr.40]

Cuộc thoại trên giữa hai nhân vật trong tiểu thuyết “Đời mưa gió” là bà

phủ và người em trai. Bà phủ muốn gả chồng cho con gái và có ý muốn nhờ cậu

khuyên cháu. Vì vậy nhân vật người em trai đã có hành động hứa với bà phủ về

việc khuyên răn cháu gái “Nếu thế thì được, để em bảo cháu.”

Nếu bổ sung động từ ngữ vi cho các biểu thức hứa nguyên cấp ta được

các phát ngôn ngữ vi tường minh giả định:

- Thưa cậu, cho con hút xong điếu thuốc, con xin hứa sẽ kể để cậu nghe.

- Tôi hứa mai sẽ đến sớm để báo tin mừng, yên chí đi.

- Nếu thế thì được, em hứa sẽ bảo cháu.

38

Cần phải nói thêm, không phải tất cả các phát ngôn ngữ vi nguyên cấp đều

có khả năng cải biến thành phát ngôn ngữ vi tường minh bằng cách thêm động

từ ngữ vi như các ví dụ vừa dẫn.

Vì vậy có thể thấy trong một biểu thức ngữ vi hứa mặc dù không có động

từ ngữ vi thực hiện chức năng ngữ vi hứa, chúng ta có thể căn cứ vào các điều

kiện khác để nhận diện đó là một biểu thức ngữ vi hứa nguyên cấp.

Bảng 2.3: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động hứa

STT Hình thức diễn đạt Số lượng Tỉ lệ

1 Biểu thức ngữ vi hứa tường minh 2 2,24

2 Biểu thức ngữ vi hứa nguyên cấp 87 97,75

Tổng số 89 99,99%

b) Hành động hứa được thực hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp

Để phân biệt hành động hứa trực tiếp và hành động hứa gián tiếp trong

một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, chúng tôi dựa vào lý

thuyết hành động ngôn ngữ. Những câu được luận văn xác định là câu thể hiện

hành động hứa trực tiếp thỏa mãn 4 điều kiện sử dụng hành động ở lời mà Searle

nêu trên: điều kiện nội dung mệnh đề; điều kiện chuẩn bị; điều kiện chân thành;

điều kiện căn bản. Ngược lại, những hành động ngôn ngữ được sử dụng trên bề

mặt hành động khác không phải hành động hứa nhưng lại lại nhằm hiệu quả của

hành động hứa người ta gọi là hành động hứa gián tiếp. Theo số lượng thống kê

của chúng tôi, trong tổng số 89 phát ngôn biểu thị hành động hứa có 85 hành

động hứa trực tiếp, 4 hành động hứa gián tiếp.

* Hành động hứa trực tiếp

Ví dụ 15: “Ông khăng khăng từ chối. Hài phát khóc. Hắn đành nói dối:

- Ngài thương cho. Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ

không dạy học."

- Không có lý!

- Tôi xin hứa… Ngài thương cho!...” [11; tr.309]

39

Hai phát ngôn “Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ không

dạy học.” và “Tôi xin hứa” là hành động hứa trực tiếp. Đây là hành động hứa

trực tiếp vì trong biểu thức ngữ vi có chứa động từ “hứa” được dùng trong hiệu

lực ngữ vi và phát ngôn này thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động ở lời như

đã phân tích ở ví dụ (12).

Tương tự trong ví dụ 16 dưới đây, hành động hứa mà nhân vật Pha thực

hiện cũng là hành động hứa trực tiếp:

Ví dụ 16: “- Mày nói lạ, hẹn của mày đến từ rằm, tao chờ mãi đến hôm

nay mới hỏi, lại còn giả ngô giả ngọng nói là đánh đùng!

- Thôi thì trăm sự nhờ quan cho con khất vậy, để xong gặt con bán thóc đi

nộp quan.” [12; tr.132]

Trên đây là cuộc thoại giữa nhân vật Pha và nghị Lại. Cuộc thoại này diễn

ra khi quan nghị Lại gọi Pha đến để đòi tiền. Tuy nhiên, vì chưa có tiền để trả

quan, Pha đã có phát ngôn “Thôi thì trăm sự nhờ quan cho con khất vậy, để xong

gặt con bán thóc đi nộp quan”. Đây là một phát ngôn biểu thị hành động hứa bởi

vì trong thời điểm hiện tại Pha chưa có tiền để trả quan lớn nên hành động “xong

gặt bán thóc đi nộp quan” là hành động trong tương lai. Đồng thời phát ngôn này

cũng thỏa mãn 4 điều kiện:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của Pha “xong gặt bán thóc đi

nộp quan”.

- ĐKCB: Nhân vật Pha hứa sẽ trả tiền sau mùa gặt và nghị Lại cũng

mong lấy lại được số tiền đã cho vay. Hành động hứa của Pha thỏa mãn lợi ích

của nghị Lại – hoàn trả lại số tiền đã được nghị Lại cho vay.

- ĐKCT: Pha thật sự có ý định trả tiền cho quan trên.

- ĐKCB: Pha có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.

* Hành động hứa gián tiếp

Hành động hứa gián tiếp là hành động có đích ở lời hứa nhưng được thực

hiện bằng biểu thức của hành động ngôn trung khác như: hỏi, cảm thán, khẳng

40

định… trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Từ ngữ liệu khảo sát, chúng tôi

thống kê được 4 hành động hứa gián tiếp trên tổng số 89 hành động hứa, chiếm

4,49%.

Cả 4 hành động gián tiếp hứa mà chúng tôi khảo sát được đều được thể

hiện bằng hành động trực tiếp khẳng định.

Ví dụ 17: “- Phải, mà tôi sẽ giảng cho cậu những điều bí mật của cuộc đời

cậu nữa. Nhưng mà cậu phải hứa với tôi hai điều...

- Xin cụ cứ dạy.” [11; tr.149]

Ví dụ 18: “- Tùy đấy mày có tin nhà tao thì điểm chỉ vào đem về cho chồng

mày ký tên, và xin chữ lý trưởng nhận thực tử tế. Rồi mang sang đây, thì tao sẽ

giao tiền cho. Nếu mày không tin thì thôi. Ðây tao không ép.

…. Một lát sau, chị quả quyết:

- Con xin vâng theo lời cụ.” [1; tr.243]

Ví dụ 19: “Nhượng bật cười:

- Thật nhá! Vậy chị làm xong đấy thì làm thêm chỗ này hộ tôi… Tôi

chạy ra ngoài đường một lát rồi về làm với chị. Chị đừng lo! Thế nào cũng kịp.

Tôi về ngay đấy!

- Ừ! Mày phải về ngay đấy! Nếu không về, tao mặc kệ!”

[10; tr.213]

Trong các ví dụ trên, các phát ngôn in nghiêng đều là hành động gián tiếp

hứa được thể hiện bằng hành động trực tiếp khẳng định. Ở ví dụ (17) và (18),

“Xin cụ cứ dạy.” “Con xin vâng theo lời cụ.” là các hành động trực tiếp khẳng

định nhưng đích ở lời lại là hành động hứa. Trước lời đề nghị của ông lão Hải

Vân và ông Nghị, Long và chị Dậu đã có hành động hứa sẽ thực hiện đúng như

lời của ông ta dạy. Mặc dù không sử dụng biểu thức ngữ vi hứa nhưng chúng ta

vẫn có thể biết được “Xin cụ cứ dạy.” và “Con xin vâng theo lời cụ.” là hành động

hứa. Tương tự ví dụ (19) cũng vậy, “Ừ” cũng là một hành động trực tiếp khẳng

định nhưng lại có đích ở lời là hành động hứa.

41

Trong giao tiếp, khi người này muốn thực hiện lời hứa với người kia mà

không muốn phải nhắc lại lời đề nghị hay yêu cầu của đối phương, chủ ngôn của

hành động hứa thường sử dụng hành động trực tiếp khẳng định để thể hiện hành

động hứa gián tiếp.

Bảng 2.4: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động hứa

STT Phương thức thể hiện Số lượng Tỉ lệ

1 Hành động hứa trực tiếp 85 95,20

2 Hành động hứa gián tiếp 4 4,49

Tổng số 89 99,99

2.2.2. Hành động cam đoan

2.2.2.1. Khái niệm hành động cam đoan

Theo định nghĩa trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ xuất

bản năm 2004, “Cam đoan có nghĩa là nói chắc và hứa chịu trách nhiệm về lời

nói của mình để cho người khác tin.” Cũng giống như hành động hứa, hành

động cam đoan cũng thể hiện trách nhiệm của người nói về một hành động

trong tương lai mà người nói sẽ thực hiện cho người nghe. Tuy nhiên, so với

hành động hứa, lực ngôn trung của hành động cam đoan đã cao hơn. Ngoài ra,

hành động cam đoan còn nghiêng về đảm bảo, khẳng định về điều mà người

nói nói tới.

2.2.2.2. Số lượt sử dụng

Hành động cam đoan xuất hiện trong một số tác phẩm văn xuôi Việt

Nam giai đoạn 1930-1945 không nhiều. Theo kết quả khảo sát của chúng

tôi, kiểu hành động cam đoan có số lượt sử dụng là 20 lượt, chiếm sấp sỉ

9,61%.

42

Bảng 2.5: Bảng tổng kết hành động cam đoan

Số lượng; tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % STT Tác phẩm

1 Giông tố - Tác phẩm và dư luận 8 40

2 Nửa chừng xuân 7 35

3 Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 2 10

4 Gánh hàng hoa 1 5

5 Hồn bướm mơ tiên 1 5

6 Bước đường cùng 1 5

7 Đôi bạn 0 0

8 Đoạn tuyệt 0 0

9 Lạnh lùng 0 0

10 Thừa tự 0 0

11 Ngô Tất Tố tuyển tập 0 0

12 Đời mưa gió 0 0

Tổng số 20 100%

2.2.2.3. Điều kiện sử dụng

Tương tự như hành động hứa, hành động cam đoan được sử dụng với chức

năng ở lời cũng phải thỏa mãn 4 điều kiện theo quan điểm của Searle:

- ĐKNDMĐ: Hành động cam đoan có nội dung mệnh đề là hành động

tương lai hoặc sự đảm bảo, khẳng định về một vấn đề của người nói mang lại

những lợi ích tinh thần và vật chất cho người nghe.

- ĐKCB: Tương tự hành động hứa, điều kiện chuẩn bị của hành động cam

đoan là những hiểu biết của người thực hiện hành động cam đoan về lợi ích, tâm

thế… của người nghe và mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Sự cam

đoan đòi hỏi người nói có ý muốn thực hiện lời cam đoan, chắc chắn về điều mà

mình cam đoan và người nghe cũng thực sự mong muốn lời cam đoan được thực

hiện và tin vào điều mà người nói đã cam đoan.

43

- ĐKCT: Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của

người thực hiện hành động cam đoan. Cam đoan đòi hỏi ý định, tính trung thực

của chủ ngôn.

- ĐKCB: Đây là điều kiện đưa ra trách nhiệm rơi vào hành động sẽ được

thực hiện trong tương lai của người nói hoặc tính chân thực của sự việc mà người

nói muốn người nghe tin.

Hành động cam đoan có những quy ước nhất định buộc người cam đoan

và người được cam đoan phải tuân thủ.

Ví dụ 20: “Chàng giơ tay bắt tay Huy và nói luôn:

- Nhất là có hai việc mẹ dặn, anh đều quên nói cả hai. Việc thứ nhất là đón

em. Việc thứ hai là xin em cho Ái về ở với bà.

Mai rất ôn tồn:

- Em cam đoan với anh rằng ngày sau thế nào em cũng cho nó về ở với

anh. Em nói câu này xin anh đừng giận, em chỉ sợ con em, nó nhiễm cái giáo

dục nghiêm khắc... tàn nhẫn của cụ Án…” [6; 208]

Đoạn thoại trên của nhân vật Lộc và Mai trong “Nửa chừng xuân” diễn ra

khi Lộc tìm đến Mai để xin đón cô và con trai là Ái về. Nhưng Mai không bằng

lòng mà cam kết với Lộc sau này khi Ái lớn sẽ cho cha con đoàn tụ. Phát ngôn “Em

cam đoan với anh rằng ngày sau thế nào em cũng cho nó về ở với anh.” Là hành

động cam đoan, thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động ở lời:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “cho Ái về ở với Lộc”.

- ĐKCB: Nhân vật Mai cam đoan sau này sẽ cho Ái và Lộc đoàn tụ và

đó cũng là điều mà Lộc mong muốn. Hành động cam đoan của Mai đã thỏa

mãn lợi ích của Lộc và bà Án.

- ĐKCT: Mai có ý định thực hiện lời đã nói ra.

- ĐKCB: Mai có trách nhiệm với việc mà mình đã cam đoan với Lộc.

Ví dụ 21: “Ngọc ngẫm nghĩ rồi quả quyết nói:

44

- Vâng, tôi xin thuận theo những lời vàng ngọc của chú. Vậy bây giờ

muốn tránh khỏi sự ngờ vực thì ta trở lại Long Vân. Tôi xin cam đoan rằng ngoài

tôi ra không ai biết rõ được sự bí mật của chú.” [5; tr60]

Phát ngôn “Tôi xin cam đoan rằng ngoài tôi ra không ai biết rõ được sự

bí mật của chú.” là một hành động cam đoan vì đã thỏa mãn các điều kiện sử

dụng hành động ở lời:

- ĐKNDMĐ: Sự đảm bảo của Ngọc về bí mật của chú tiểu Lan.

- ĐKCB: Hành động cam đoan của nhân vật Ngọc thỏa mãn lợi ích của

nhân vật Lan, đó là việc bí mật của Lan sẽ không có ai biết đến. Ngọc chắc

chắn việc bí mật của Lan sẽ không ai biết và việc thực hiện hành động cam

đoan đó hoàn toàn nằm trong khả năng của Ngọc.

- ĐKCT: Ngọc có ý định giữ bí mật cho chú tiểu Lan.

- ĐKCB: Ngọc đảm bảo sẽ giúp Lan giữ bí mật về thân phận thật của cô.

2.2.2.4. Phương thức thể hiện

a. Hành động cam đoan được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi tường minh

hay nguyên cấp

Về mặt cấu trúc, hành động cam đoan thuộc lớp Cam kết trực tiếp được

chia làm hai dạng: Biểu thức cam đoan tường minh và biểu thức cam đoan

nguyên cấp.

* Biểu thức ngữ vi cam đoan tường minh

Một biểu thức ngữ vi cam đoan tường minh dạng đầy đủ sẽ có công thức

như sau:

Sp1 + ĐTNV + với Sp2/ có A/ trước A + (rằng/là) + Sp1 + S2

Trong đó: Sp1 là người nói (chủ ngôn); ĐTNV là động từ cam đoan; A là

đối tượng chứng kiến (làm chứng) hành động cam đoan; Sp2 là người nghe (đối

tượng tiếp nhận hành động cam đoan); S2 là nội dung mệnh đề nêu hành động

tương lai của người thực hiện hành động cam đoan.

45

Ví dụ 22:

“Tôi cam đoan (với) cô (rằng) thế nào tôi cũng lấy được vợ cho con tôi.”

Sp1 ĐTNV Sp2 Sp1 S2

[6; tr.105]

Trong thực tế sử dụng, các tác giả còn biểu diễn biểu thức ngữ vi cam đoan

tường minh còn xuất hiện ở các dạng rút gọn như sau:

Sp1 + ĐTNV + (rằng/là) + S2

Ví dụ 23:

“Tôi xin cam đoan (rằng) ngoài tôi ra không ai biết rõ được sự bí mật của chú.”

Sp1 ĐTNV S2

[5; tr.60]

Trong biểu thức ngữ vi này, người nói đã lược bỏ thành phần Sp2 và Sp1.

Sp1 + S2 + Sp1 + ĐTNV

Ví dụ 24:

“Đây này: tôi xin kiếm đất lại cho bác, làm cho bác lên được ghế

Sp1 S2

nghị trưởng, và được bắc đẩu bội tinh năm nay, tôi cam đoan...”

Sp1 ĐTNV

[11; tr.253]

Ở dạng này, thành phần mệnh đề nêu hành động tương lai đã được đảo lên

trước động từ ngữ vi.

* Biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp

Hành động cam đoan nguyên cấp là hành động trong biểu thức ngữ vi

không có động từ ngữ vi cam đoan. Để xác định một biểu thức ngữ vi có phải

biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp hay không chúng tôi căn cứ vào điều kiện

sử dụng ở lời của phát ngôn, khái niệm cam đoan, ngữ cảnh giao tiếp, lực ngôn

trung của phát ngôn.

46

Ví dụ 25: “- Có cái gì là chứng cớ không?

- Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con. Bẩm cụ

lớn, chắc là họ chỉ nhắm mắt nghe theo bọn phiến loạn chúng mớm nhời mà thôi.

Họ vu cho con là giết người, là hiếp tróc đàn bà con gái, là bóp hầu, bóp cổ bọn

dân nghèo, thôi thì đủ những tội ác… Bẩm cụ lớn, con thấy rằng cái phong trào

ấy sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà trình

báo để cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.” [11; tr.34]

Phát ngôn “Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà trình báo để

cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.” mặc dù không có động từ ngữ vi

nhưng người đọc vẫn có thể xác định đây là một biểu thức ngữ vi cam đoan

nguyên cấp. Phát ngôn này là lời nói chắc chắn cho những điều mà nghị Hách

nói về người dân làng và hứa chịu trách nhiệm về điều đó (mang tư cách người

dân biểu ra để cam đoan). Đồng thời, phát ngôn đã đáp ứng 4 điều kiện hành

động ở lời:

- ĐKNDMĐ: Hành động trình báo của nghị Hách với quan công sứ.

- ĐKCB: Nhân vật nghị Hách lấy tư cách một người dân biểu mà trình báo

để quan công sứ tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.

- ĐKCT: Nghị Hách chắc chắn và hứa chịu trách nhiệm về những điều y

đã trình báo.

- ĐKCB: Nghị Hách có trách nhiệm trước những lời đã nói ra với quan

công sứ.

Ví dụ 26: “- Nhưng con lấy người ta đã khai giá thú đâu, khi người ta sinh

nở, con có nhận con con đâu?

- Được, tao sẽ có cách.” [6; tr.178]

Phát ngôn “tao sẽ có cách” là một biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp.

Trong biểu thức này không có động từ ngữ vi cam đoan nhưng đã thỏa mãn điều

kiện hành động ở lời:

- ĐKNDMĐ: Hành động sẽ tìm cách bắt con về cho Lộc của bà Án.

47

- ĐKCB: Bà Án cam đoan chắc chắn sẽ có cách bắt cháu nội về.

- ĐKCT: Bà Án chắc chắn về hành động của mình.

- ĐKCB: Bà Án có trách nhiệm trước lời hứa với con trai.

Bảng 2.6: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động cam đoan

STT Hình thức diễn đạt Số lượng Tỉ lệ

1 Biểu thức ngữ vi cam đoan tường minh 9 45

2 Biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp 11 55

Tổng số 20 100

b) Hành động cam đoan được thực hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp

Để phân biệt hành động cam đoan trực tiếp và hành động cam đoan gián

tiếp trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, chúng tôi

cũng căn cứ vào điều kiện sử dụng hành động ở lời mà Searle đưa ra. Những

hành động ngôn ngữ được sử dụng trên bề mặt hành động khác không phải hành

động cam đoan nhưng lại lại nhằm hiệu quả của hành động cam đoan gọi là hành

động cam đoan gián tiếp. Theo số lượng thống kê của chúng tôi, trong tổng số

20 phát ngôn biểu thị hành động cam đoan có 18 hành động cam đoan trực tiếp,

2 hành động cam đoan gián tiếp.

* Hành động cam đoan trực tiếp

Ví dụ 27: “- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long

ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ. Tôi

khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.

- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu quý suốt đời.

Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của Mịch tức là một

vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế nào rửa cho sạch vết nhọ ấy thì

mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng khóc nữa.”

[11; tr.44]

48

Trong ví dụ (27), đây là đối thoại giữa nhân vật Long và Mịch trong tiểu

thuyết “Giông tố” sau khi Mịch tự tử bất thành vì nỗi xấu hổ bị làm nhục. Mịch

không còn mặt mũi nào để đối diện với người chồng sắp cưới là Long. Để chứng

minh tình cảm của mình không hề thay đổi, vẫn luôn yêu quý Mịch, Long đã đưa

ra lời cam đoan “Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu

quý suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của

Mịch tức là một vết nhọ trên trán anh.”. Phát ngôn này là hành động cam đoan

trực tiếp vì có động từ “cam đoan” được dùng với hiệu lực ngữ vi cam đoan và

thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động ở lời:

- ĐKNDMĐ: Sự bảo đảm của Long về việc “vẫn yêu quý Mịch như trước,

yêu quý mãi, yêu quý suốt đời”, “rửa thù cho Mịch”.

- ĐKCB: Nhân vật Long cam đoan vẫn sẽ yêu quý Mịch suốt đời và đó

chính là điều mà Mịch mong muốn.

- ĐKCT: Long có ý muốn thực hiện ý nguyện của Mịch.

- ĐKCB: Long có trách nhiệm phải thực hiện việc mà mình đã cam đoan

với Mịch.

* Hành động cam đoan gián tiếp

Từ ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thống kê được 2 hành động cam đoan gián

tiếp trên tổng số 20 hành động cam đoan, chiếm 10%. Hành động cam đoan gián

tiếp mà chúng tôi khảo sát được là hành động cam đoan được tạo ra bằng biểu

thức của hành động ngôn trung hỏi.

Ví dụ 28: “- Tao bảo mày không nghe thì thôi, về nhà làm với ông lý cựu,

với ông phó Năng nhà mày. Đây tao không thừa cơm.

Pha lạy van để minh oan, nói:

- Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông lý vào hỏi ba mặt một lời

xem con có ký vào đơn kiện không?” [12; tr.89]

Ví dụ 29: Hắn xông đến chỗ chị Dậu và nói thật lớn;

- Ðứng dậy, đi lên phủ!

49

Chị Dậu phát cáu;

- Lên phủ thì lên. Tôi có trốn đâu? Nhưng ông hãy để cho tôi ăn xong bữa

cơm cái nào! [1; tr.308]

Hai phát ngôn “Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông lý vào hỏi ba

mặt một lời xem con có ký vào đơn kiện không?”, “Tôi có trốn đâu?” có dấu hiệu

hình thức của câu hỏi nhưng không dùng để hỏi mà thực chất là một hành động

cam đoan gián tiếp. Phát ngôn của nhân vật Pha trong ví dụ (28) là lời cam đoan

y không kí vào đơn kiện. Còn phát ngôn trong ví dụ (29) là lời cam đoan sẽ lên

phủ của chị Dậu:

Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông lý vào hỏi ba mặt một lời xem con

có ký vào đơn kiện không? - Con cam đoan con không hề ký vào đơn kiện.

Tôi có trốn đâu? - Tôi cam đoan sẽ theo ông lên phủ.

Bảng 2.7: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động cam đoan

STT Phương thức thể hiện Số lượng Tỉ lệ

1 Hành động cam đoan trực tiếp 18 90

2 Hành động cam đoan gián tiếp 2 10

Tổng số 20 100

2.2.3. Hành động thề

2.2.3.1. Khái niệm hành động thề

Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ (2004),

“Thề có nghĩa là nói chắc, hứa chắc một cách trịnh trọng, viện ra vật thiêng

liêng hay cái quý báu nhất (như danh dự, tính mạng) để bảo đảm.” Vậy so

với hành động hứa và hành động bảo đảm, hành động thề có lực ngôn trung

cao nhất. Chúng tôi khảo sát được 17 lượt sử dụng hành động thề, chiếm sấp

sỉ 8,17%.

50

2.2.3.2. Số lượt sử dụng

Có thể hình dung số lượt sử dụng hành động thề trong 12 tác phẩm chúng

tôi đã chọn làm ngữ liệu thống kê bằng bảng tổng kết dưới đây:

Bảng 2.8: Bảng tổng kết hành động thề

Số lượng; tỉ lệ % STT Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm

1 Giông tố - Tác phẩm và dư luận 3 17,64

2 Gánh hàng hoa 3 17,64

3 Đời mưa gió 3 17,64

4 Thừa tự 3 17,64

5 Hồn bướm mơ tiên 2 11,64

6 Nửa chừng xuân 1 5,88

7 Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 1 5,88

8 Bước đường cùng 1 5,88

9 Đôi bạn 0 0

10 Đoạn tuyệt 0 0

11 Lạnh lùng 0 0

12 Ngô Tất Tố tuyển tập 0 0

Tổng số 17 99,84

2.2.3.3. Điều kiện sử dụng

Một hành động thề được sử dụng với đích ở lời cần thỏa mãn 4 điều kiện

theo quan điểm của Searle.

* ĐKNDMĐ: Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất của hành động

ngôn ngữ. Cũng như hành động hứa, hành động thề có nội dung mệnh đề chỉ

hành động tương lai của người nói. Nếu như trong hành động hứa là sẽ làm việc

gì đó “cho đối phương” thì đối với hành động thề còn thể hiện sẽ làm việc gì đó

“xảy ra với đối phương”. Xét ví dụ sau:

51

Ví dụ 30: “- Vậy hứa đi. Ta nên lấy danh dự mà thề với nhau đi...

- Tôi xin thề.” [11; tr.154]

Đoạn hội thoại trên là của nhân vật Nghị Hách và viên quan Tây thương

lượng về việc nghị Hách ra tranh cử nghị trưởng. ĐKNDMĐ của hành động thề

trong ví dụ trên là hành động trong tương lai của nghị Hách - tham gia tranh cử

nghị trưởng. Việc nghị Hách tranh cử sẽ mang lại lợi ích cho viên quan Tây, đó

là độc quyền nước mắm.

* ĐKCB: Đối với hành động thề, điều kiện chuẩn bị là những hiểu biết của

người thực hiện hành động thề về lợi ích, tâm thế, ý định… của người nghe và

mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Quan hệ giữa người nói và người

nghe sẽ chi phối nội dung thề cũng như cách thức đưa ra lời thề.

Xét ví dụ (30) ĐKCB là sự hiểu biết của nghị Hách về lợi ích mà mình và

quan Tây sẽ có được nếu hắn ra tranh cử. Việc nghị Hách ra tranh cử cũng là

điều mà viên quan Tây mong muốn. Mối quan hệ giữa nghị Hách và viên quan

Tây dựa trên lợi ích đôi bên cùng có được.

* ĐKCT: Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của

người thực hiện hành động thề. Một hành động thề đích thực đòi hỏi người nói

phải thực sự mong muốn và tự nguyện thực hiện điều được nêu trong nội dung

mệnh đề, bất chấp những khó khăn và thiệt hại mà mình có thể gánh chịu. Tuy

nhiên, trong nhiều trường hợp người nói chỉ “thề cá trê chui ống”, lời thề được

nói ra chỉ để cho qua chuyện.

Trong ví dụ (30), đứng trước những lợi ích sẽ có được, nghị Hách thật sự

muốn thực hiện lời thề ra tranh cử chức nghị trưởng.

* ĐKCB: Đây được coi là là điều kiện thiết yếu để một hành động ở lời

được thực hiện thành công. Đối với hành động thề, ngay khi đưa ra lời thề, người

nói tự ràng buộc trách nhiệm phải thực hiện hành động. Đã thề thì phải làm. Đã

đưa ra lời thề thì không thể “thất tín”, không thể không giữ lời. Nếu người nói

không thực hiện đúng hành động nêu ra trong nội dung mệnh đề thì người nói

52

phải chịu tổn thất về danh dự, tính mạng…Có thể nói thề là hành động có mức

độ cam kết cao nhất (so với các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết khác).

Xét ví dụ sau:

Ví dụ 31: “Long lại bắt đầu yêu... Chàng gục đầu vào mặt người vợ

chưa cưới:

- Tuyết ơi! Tuyết yêu quí nhất đời của anh ơi, anh xin lỗi Tuyết. Đừng việc

gì mà lo buồn, đó là chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu? Từ đây mà đi, anh xin

thề với Tuyết là sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó,

mà nếu không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử, mặc lòng là tại Tuyết

hay tại ai cũng vậy.” [11; tr194]

Phát ngôn được in nghiêng trong ví dụ (30) được sử dụng với hiệu lực ngữ

vi thề vì biểu thức ngữ vi có chứa động từ “thề” và thỏa mãn các điều kiện:

- ĐKNDMĐ: là hành động trong tương lai mà người nói (Long) sẽ thực

hiện “sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó, mà nếu

không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử”.

- ĐKCB: Long biết Tuyết yêu mình và Tuyết cũng mong muốn có được

tình yêu của Long. Mối qua hệ giữa Long và Tuyết là mối quan hệ tình nhân.

- ĐKCT: Long mong muốn và tự nguyện yêu Tuyết, mong muốn được

sống chung với Tuyết.

- ĐKCB: Long tự ràng buộc trách nhiệm bản thân phải thực hiện lời thề,

cho rằng bản thân phải có trách nhiệm đối với Tuyết, với tình yêu của Tuyết.

2.2.3.4. Phương thức thể hiện

a. Hành động thề được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi tường minh hay

nguyên cấp

Tương tự như hành động hứa, hành động cam đoan, về mặt cấu trúc, biểu

thức ngữ vi hành động thề cũng được chia làm hai dạng: biểu thức ngữ vi thề

tường minh và biểu thức ngữ vi thề nguyên cấp.

* Biểu thức ngữ vi thề tường minh

53

Biểu thức ngữ vi thề tường minh đầy đủ cũng có dạng:

Sp1 + ĐTNV + với Sp2/ có A/ trước A + (rằng/là) + Sp1 + S2

Ví dụ 32: "Tôi xin thề (với) Lan (rằng) tôi giữ được mãi như thế".

Sp1 ĐTNV Sp2 Sp1 S2

[5; tr.72]

Hay trong ví dụ sau, các thành phần trong biểu thức ngữ vi thề đã có sự

thay đổi trình tự:

Ví dụ 33: "Tôi xin viện Phật tổ tôi thề với Lan (rằng) suốt một đời,

Sp1 có A Sp1 ĐTNV Sp2 S2

tôi sẽ chân thành thờ trong tâm trí cái linh hồn dịu dàng của Lan".

[5; tr.72]

Tuy nhiên, không phải lúc nào biểu thức ngữ vi thề tường minh dạng đầy

đủ cũng được sử dụng thường xuyên. Trong một số hoàn cảnh giao tiếp, người

nói có thể sử dụng biểu thức ngữ vi thề tường minh ở dạng không đầy đủ.

Các biểu thức ngữ vi thề tường minh ở dạng khuyết thiếu mà chúng tôi

khảo sát được là:

Sp1 + ĐTNV + với Sp2/ có A/ trước A + (rằng/ là) + S2

Ví dụ 34:

“Từ đây mà đi, anh xin thề (với) Tuyết (là) sẽ yêu em trọn đời, sẽ

Sp1 ĐTNV Sp2 S2

trung thành với Tuyết như một con chó”

[11; tr194]

Ở phát ngôn trên, người nói đã lược bỏ thành phần Sp1 (chủ ngữ của mệnh

đề nêu hành động trong tương lai).

Sp1 + ĐTNV + S2

Ví dụ 35: "Tôi xin thề không lấy vợ lẽ cho chồng tôi".

Sp1 ĐTNV S2

[4; tr.19]

Sp1 + ĐTNV

54

Ví dụ 36: “Tôi xin thề.”

Sp1 ĐTNV

* Biểu thức ngữ vi thề nguyên cấp

Tương tự như các hành động ngôn ngữ khác thuộc lớp Cam kết, hành động

thề nguyên cấp là hành động không sử dụng động từ ngữ vi thề. Chúng tôi cũng

căn cứ vào điều kiện sử dụng ở lời của phát ngôn, khái niệm thề, ngữ cảnh giao

tiếp, mức độ kết ước (xác tín) của phát ngôn để xác định một biểu thức ngữ vi

thề nguyên cấp.

Ví dụ 37: "Thầy đội vuốt râu, gật gù:

- Ký cược đồng bạc, tao cho vợ chồng gặp nhau. Không thì thôi."

[12; tr.57]

- ĐKNDMĐ: Hành động đồng ý cho vợ chồng Pha gặp nhau của thầy đội.

- ĐKCB: Nếu chị Pha hối lộ thây đội một đồng bạc, hắn sẽ cho chị gặp chồng.

- ĐKCT: Thầy đội có ý định cho vợ chồng Pha đoàn tụ nếu có một đồng

bạc cược.

- ĐKCB: Thầy đội có trách nhiệm trước những lời đã nói với chị Pha.

Trong truyện ngắn Tắt đèn cũng có một ví dụ tương tự:

Ví dụ 38: "- Lạy ông, ông xét lại cho. Con bán cả con lẫn chó mới được

có hai đồng bạc.

- Mặc kệ. Không biết, đủ một đồng bạc thì ông sẽ đóng triện cho."

[1; tr.255]

Với kiểu câu ghép chính phụ chỉ điều kiện, để liên kết các mệnh đề ta sử

dụng cặp liên từ “nếu thì”. Trong đó, liên từ chỉ điều kiện “nếu” đứng trước mệnh

dề điều kiện, còn liên từ “thì” đứng trước mệnh đề chỉ hệ quả. Cấu trúc “nếu -

thì” khi được dùng với chức năng của một biểu thức ngữ vi hành động thuộc lớp

Cam kết thì một mệnh đề trình bày giả định tiêu cực (có thể tích cực) điều kiện

này được coi như điều kiện đủ để dẫn đến hệ quả trong mệnh đề kia.

Ví dụ 39: “Khoa uống hết cốc rượu, tiếp luôn:

55

- Nếu em lấy vợ lẽ thì đời em sẽ cạn như cốc rượu này.

Bỉnh khôi hài:

- Chú chẳng thề thì thím ấy cũng chẳng để chú lấy vợ lẽ.”

[4; tr.19]

Xét ví dụ trên, mệnh đề “nếu” nêu điều kiện giả định “nếu Khoa lấy vợ

lẽ” là nguyên nhân dẫn đến hệ quả trong mệnh đề chính “đời Khoa sẽ cạn như

cốc rượu”.

Có thể thấy, quan hệ giữa điều kiện giả định và hệ quả giả định là quan

hệ nhân quả. Nếu sự việc này diễn ra thì sự việc kia cũng diễn ra. Còn nếu

việc này không xảy ra thì việc kia chắc chắn không xảy ra. Cho nên quan hệ

hiển ngôn của mệnh đề “nếu - thì” như ví dụ trên không phải là điều mà người

nói mong đợi. Nhưng mệnh đề kết quả chính là lời thề của người nói đối với

người nghe.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi sử dụng phát ngôn dưới dạng

mệnh đề “nếu - thì”, quan hệ hiển ngôn của mệnh đề lại là điều mà người nói

muốn người nghe tiếp nhận.

Ví dụ 40: “- Tôi hỏi thật ông rằng: nếu tôi ra tranh cử nữa, thì có lợi hại gì

cho ông không?

- Tôi cũng xin nói thật ngay rằng nếu ông tranh cử nữa, thì cả đôi ta sẽ

cùng có lợi.” [11; tr.153]

Ở ví dụ trên, mệnh đề “nếu” nêu điều kiện giả định “ông tranh cử nữa”

là nguyên nhân dẫn đến hệ quả “cả đôi ta sẽ cùng có lợi”. Khi đưa ra phát ngôn

này, viên quan Tây muốn cho nghị Hách thấy được lợi ích của việc ra tranh cử.

Vì vậy mệnh đề hệ quả chính là lời cam kết của viên quan Tây đối với nghị

Hách.

Bảng 2.9: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động thề

56

STT Hình thức diễn đạt Số lượng Tỉ lệ

1 Hành động thề tường minh 58,82 10

2 Hành động thề nguyên cấp 41,17 7

Tổng số 99,99 17

b) Hành động thề được thực hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp

Những biểu thức được luận văn xác định là biểu thức thể hiện hành động

thề trực tiếp thỏa mãn 4 điều kiện sử dụng hành động ở lời mà Searle nêu trên:

điều kiện nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện

căn bản. Ngược lại, những hành động ngôn ngữ được sử dụng trên bề mặt hành

động khác không phải hành động thề nhưng lại lại nhằm hiệu quả của hành động

thề người ta gọi là hành động thề gián tiếp. Theo số lượng thống kê của chúng

tôi, trong tổng số 18 phát ngôn biểu thị hành động thề thì có 16 trường hợp là

hành động thề trực tiếp và 2 trường hợp là hành động thề gián tiếp.

* Hành động thề trực tiếp

Ví dụ 41: “Minh “thề” rằng:

− Nếu anh mà nói dối em thì anh chết ngay tại chỗ.

Liên không chịu, lắc đầu dù Minh không nhìn thấy gì:

− Không, nếu anh nói dối em thì em chết kia!” [3; tr.84]

Ví dụ 42: “Pha quả quyết nói:

- Tôi thề rằng sẽ chống đến cùng. Trước hết, tôi hãy giúp bác trương Thi

gặt chỗ năm sào của bác ấy đã, rồi đến mẫu hai của bác San.” [12; tr.135]

Các phát ngôn được in nghiêng trong hai ví dụ trên đều biểu thị hành động

thề trực tiếp.

* Hành động thề gián tiếp

Hành động thề gián tiếp mà chúng tôi khảo sát được là hành động gián tiếp

thề được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung hỏi và cảm thán. Ví dụ

(43) dưới đây là ví dụ về hành động thề được dùng theo lối gián tiếp.

Ví dụ 43: “- Nói dở lắm, không yêu thì ai lại lấy!

57

- Tôi ước rằng ông cụ nhà tôi gả tôi cho anh, không vì tham giàu, mà ông

cụ nhà anh hỏi tôi cho anh, không vì tham sang. Tôi ước rằng trong việc này chỉ

có lòng yêu của anh, và của tôi, của đôi ta… là đáng kể. Như thế thì mới có hạnh

phúc.” [11; tr196]

Trong ví dụ này, phát ngôn của nhân vật Tú Anh có hình thức là một hành

động cảm thán nhưng biểu thị nội dung của hành động thề “Nói dở lắm, không

yêu thì ai lại lấy!” - Anh thề anh yêu em mới lấy.

Bảng 2.10: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động thề

STT Phương thức thể hiện Số lượng Tỉ lệ

1 Hành động thề trực tiếp 16 94,11

2 Hành động thề gián tiếp 1 5,88

Tổng số 17 99,99

2.2.4. Hành động ngôn ngữ trung gian (mơ hồ)

2.2.4.1. Quan niệm về các hành động ngôn ngữ trung gian thuộc lớp Cam kết

Chúng tôi xếp vào nhóm này những hành động ngôn ngữ khó có thể xác

định được chính xác là hành động gì thuộc lớp Cam kết. Nói cụ thể hơn, đây là

những hành động ngôn ngữ có thể xếp vào loại hành động hứa, cũng có thể cho

là hành động thề hoặc cam đoan. Điều giống nhau của các hành động ngôn ngữ

này là vắng động từ ngữ vi và ngữ cảnh chưa đủ để ta có thể xếp chúng vào loại

hành động gì. Bởi tuy có sự mơ hồ về hành động ngôn ngữ nhưng chúng vẫn

mang đặc điểm của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và tồn tại hiển nhiên

trong tác phẩm, nên chúng tôi vẫn thống kê và tạm xếp chúng vào loại với tên

gọi “hành động ngôn ngữ trung gian”.

Loại này có số lượt dùng là 82 lượt, chiếm 39,42% số lượng hành động

ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết chúng tôi đã thống kê.

2.2.4.2. Số lượt sử dụng

58

Có thể hình dung số lượt sử dụng hành động ngôn ngữ trung gian trong

12 tác phẩm chúng tôi đã chọn làm ngữ liệu thống kê bằng bảng tổng kết 2.11

dưới đây:

Bảng 2.11: Bảng tổng kết hành động ngôn ngữ trung gian

Số lượng; tỉ lệ % STT Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm

1 Giông tố - Tác phẩm và dư luận 26 31,70

2 Bước đường cùng 19 23,17

3 Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 12 14,63

4 Nửa chừng xuân 10 12,19

5 Gánh hàng hoa 5 6,09

6 Lạnh lùng 3 3,65

7 Ngô Tất Tố tuyển tập 3 3,65

8 Đoạn tuyệt 2 2,43

9 Hồn bướm mơ tiên 2 2,43

10 Thừa tự 0 0

11 Đời mưa gió 0 0

12 Đôi bạn 0 0

Tổng kết 82 99,94

2.2.4.2. Điều kiện sử dụng

Tương tự như ba trường hợp đã phân tích cụ thể bên trên, để một hành

động được thực hiện với đích ở lời thì cần thỏa mãn 4 điều kiện theo quan điểm

của Searle.

Hành động ngôn ngữ trung gian là những hành động mà biểu thức ngữ vi

của nó không có động từ được sử dụng với hiệu lực ngữ vi, nên ngoài căn cứ vào

việc phát ngôn thỏa mãn các điều kiện của Searle thì cần phải dựa vào các yêu tố

khác để xác định được đó có phải hành động thuộc lớp Cam kết hay không. Trong

59

phát ngôn có trạng từ, phó từ chỉ thời gian “sẽ” kết hợp với động từ chỉ hoạt động,

trạng thái để chỉ hành động trong tương lai của người nói thì phát ngôn đó được

coi là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết.

Ví dụ 44: “Chàng đưa khăn lên lau nước mắt, ngập ngừng nói mấy lời, tỏ

lòng biết ơn:

- Thưa bác sĩ. Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi sẽ chẳng bao giờ quên...

Ông bác sĩ cố giấu đi tất cả niềm kiêu hãnh bằng một câu nhún nhường:

- Tôi mổ mắt cho ông thì tôi lấy tiền, là tôi cũng vì tiền. Đó chẳng qua là

vì sinh kế của tôi thôi chứ ơn với nghĩa gì!”. [2; tr.114]

Phát ngôn “Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi sẽ chẳng bao giờ quên...” của

nhân vật Minh trong “Gánh hàng hoa” là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết. Bởi vì trong biểu thức ngữ vi có phó từ chỉ thời gian “sẽ không bao

giờ” kết hợp với động từ chỉ hoạt động “quên” để chỉ hành động ghi nhớ công

ơn của bác sĩ đã chữa khỏi mắt cho Minh. Và phát ngôn này cũng thỏa mãn các

điều kiện:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “không bao

giờ quên”.

- ĐKCB: Minh luôn biết ơn vị bác sĩ.

- ĐKCT: Minh biết ơn bác sĩ đã chữa khỏi mắt cho mình.

- ĐKCB: Minh có trách nhiệm thực hiện hành động đã nói ra.

Có thể bổ sung động từ ngữ vi cho phát ngôn như sau:

“Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi hứa sẽ chẳng bao giờ quên...”

“Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi thề sẽ chẳng bao giờ quên...”

Ví dụ 45: “Thấy bà Hai vẫn ngồi xoay mặt vào tường nức nở khóc, Loan

đứng dậy lại gần thưa:

- Dẫu sao thầy me cũng chớ nên phiền muộn. Rồi con sẽ nghĩ lại và con

sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất định về việc ấy ra sao.” [8; tr.22]

60

Trên đây là lời của Loan (Đoạn tuyệt) nói với mẹ của mình trong tình huống

cha mẹ cô muốn sắp đặt cho cô một cuộc hôn nhân. Là một cô gái được theo học

trường tây và có tư tưởng hiện đại về tình yêu hôn nhân nên Loan nhất mực phản

đối việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tuy nhiên trước thái độ của mẹ mình, cô

cũng không thể hoàn toàn phản kháng. Vì vậy Loan đã đưa ra lời cam kết sẽ suy

nghĩ và trình bày về vấn đề này trong tương lai. Phát ngôn “Rồi con sẽ nghĩ lại và

con sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất định về việc ấy ra sao.” được coi là một

hành động ngôn ngữ trung gian thuộc lớp Cam kết vì trong biểu thức ngữ vi phó từ

chỉ thời gian tương lai “sẽ” kết hợp với động từ “nghĩ lại”, “trình bày” để chỉ hành

động mà Loan sẽ thực hiện trong tương lai chứ không phải ở quá khứ hay hiện tại.

Đồng thời nó cũng thỏa mãn các điều kiện:

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “suy nghĩ, trình

bày”.

- ĐKCB: Loan sẽ suy nghĩa về vấn đề lấy người mà cha mẹ sắp đặt và đó

cũng là điều mà ông bà Hai mong muốn.

- ĐKCT: Loan có ý định thực hiện những hành động đó.

- ĐKCB: Loan có trách nhiệm phải thực hiện hành động đã nói với bố mẹ.

Có thể bổ sung động từ ngữ vi cho phát ngôn như sau:

“Con hứa rồi sẽ nghĩ lại và con sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất định

về việc ấy ra sao.”

“Con cam đoan rồi con sẽ nghĩ lại và con sẽ trình bầy thầy me biết ý con

nhất định về việc ấy ra sao.”

“Con thề rồi con sẽ nghĩ lại và con sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất

định về việc ấy ra sao.”

Trong nhiều đoạn hội thoại, phát ngôn của các nhân vật không có chứa động

từ được sử dụng với chức năng cam kết, cũng không xuất hiện những trạng từ phó từ

chỉ thời gian đứng trước động từ chỉ hành động, trạng thái. Vì vậy, muốn biết phát

ngôn đó có phải hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết hay không thì chúng ta phải

xét đến các yếu tố khác như ngữ cảnh, lời thoại của các nhân vật khác.

61

Ví dụ 46: “Mụ bèn năn nỉ nói:

- Chết chửa, thế thì làm thế nào? Thưa ông, nhờ ông nghĩ giùm cháu, nhờ

ông châm chước đi cho.

- Châm chước thế nào? Xác chết ở hàng nhà bà, chẳng lẽ bây giờ bà bảo

tôi đem về nhà tôi chăng?

- Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu không

dám quên ơn ông.” [1; tr.92]

Đoạn hội thoại trên diễn ra trong hoàn cảnh có một bà lão ăn mày chết ở

trước gian hàng của bà Ngần, ông lý Bá bèn nghĩ ra cách để trục lợi từ việc này.

Thấy có người chết trước cửa quán mình, sợ sinh chuyện lôi thôi cho nên bà

Ngần tìm đến lý Bá nhờ giúp đỡ. Muốn giải quyết sớm cho xong chuyện, bà

Ngần đã có ý sẽ hậu tạ cho lý Bá và đó cũng là mục đích mà lý Bá muốn đạt

được. Vì vậy phát ngôn “Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu

nhờ thì cháu không dám quên ơn ông.” là một hành động ngôn ngữ trung gian.

Có thể bổ sung động từ ngữ vi cho phát ngôn như sau:

“Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu cam

đoan không dám quên ơn ông.”

“Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu thề

không dám quên ơn ông.”

2.2.4.3. Phương thức thể hiện

Mặc dù quan niệm về hành động ngôn ngữ trung gian còn mơ hồ, nhưng

chúng tôi vẫn nghiên cứu phương thức thể hiện của kiểu hành động này trên hai

phương diện. Đó là hành động ngôn ngữ trung gian được diễn đạt bằng biểu thức

ngữ vi tường minh hay nguyên cấp và hành động ngôn ngữ trung gian được thực

hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp.

a) Hành động ngôn ngữ trung gian được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi

nguyên cấp

Hành động ngôn ngữ trung gian có đặc điểm là trong biểu thức ngữ vi

không có động từ ngữ vi nên về mặt hình thức, hành động ngôn ngữ trung gian

chỉ được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi nguyên cấp.

62

Ví dụ 47: “Bác trai Tân lắc đầu nói:

- Thế thì thế nào lão cũng ních đến hai mươi phân.

Chị Pha quả quyết:

- Bao nhiêu thì bao, trả cho bằng được.” [12; tr79]

Ví dụ 48: “- Chị sẽ tìm hết cách giúp em.

Nhung thấy mình nói bằng một giọng thờ ơ như không tin ở công hiệu

việc mình làm, nhưng Phương khi nghe câu ấy sung sướng lộ ra nét mặt.

- Chị nói thì thế nào mẹ cũng nghe.” [9; tr.29]

Các phát ngôn được in nghiêng trong hai ví dụ trên đều là những biểu

thức ngữ vi nguyên cấp, thỏa mãn các điều kiện ở lời của hành động thuộc lớp

Cam kết.

- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “trả cho bằng

được”; “tìm hết cách giúp em”.

- ĐKCB: Chị Pha quả quyết trả hết nợ; Nhung luôn muốn giúp em gái.

- ĐKCT: Chị Pha và Nhung có ý định thực hiện những hành động đó.

- ĐKCB: Chị Pha và Nhung có trách nhiệm phải thực hiện hành động

đã nói.

b) Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp hay

gián tiếp

* Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp

Ví dụ 49: “Mụ vừa kéo vạt áo lên quệt nước mũi, vừa bảo:

- Chúng cháu không dám chắc lép, nhưng quả là ít vốn.

Hắn quát lên:

- Ít vốn chỉ tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?”

[10; 26]

Ví dụ 50: “Lý trưởng gật đầu nói:

- Bẩm đúng thế đấy ạ… Toàn làm lấy tiếng.

63

Ông nghị cười:

- Mẹ kiếp, ở nhà quê còn thể dục với thể dịch, lại chưa được làm bằng chân

tay ựa cơm ra à? Việc mở trường hương học làng này, tôi nhất định phản đối.”

[12; tr.91]

Các phát ngôn được in nghiêng ở hai ví dụ trên đều là hành động ngôn

ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp, thỏa mãn điều kiện đích ở lời

của các hành động thuộc lớp Cam kết.

* Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối gián tiếp

Hành động ngôn ngữ trung gian gián tiếp là hành động có mục đích cam

kết được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung khác như: hỏi, cảm

thán, khẳng định… trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Luận văn đã thống

kê được 58 lượt hành động ngôn ngữ trung gian trực tiếp (sấp sỉ 70,73%), 24

lượt hành động ngôn ngữ trung gian gián tiếp (sấp sỉ 29,27%).

Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, hành động ngôn ngữ trung gian gián

tiếp được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung khẳng định, hỏi và

cảm thán.

Ví dụ 51: “Minh cười, giọng âu yếm:

- Cứ nói đi. Không lẽ anh là hạng người đi mắng vợ lo lắng cho anh à?”

[2; tr.21]

Ví dụ 52: “- Thế mà không giữ lời hứa thì sao?

Nghị Hách phát cáu, đứng lên:

- Thế bác coi tôi là người hay là chó?” [11; tr.171]

Trong hai ví dụ trên, các phát ngôn được in nghiêng hành động ngôn ngữ

trung gian gián tiếp được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung nghi

vấn. Cả hai phát ngôn đều có hình thức của một câu nghi vấn nhưng lại biểu thị

ý nghĩa cam kết:

Không lẽ anh là hạng người đi mắng vợ lo lắng cho anh à?- Anh thề/ hứa

không mắng em.

Thế bác coi tôi là người hay là chó? - Tôi thề/ hứa đấy.

64

Ví dụ 53: “- Mình không bao giờ được phụ em đấy nhé?

- Còn phải nhắc lại cái câu ấy đến một nghìn lần thì bực lắm!”

[11; tr.194]

Ví dụ 54: “Nghị Hách ngẩn người ra mà rằng:

- Từ rầy tôi không dám giấu bác điều gì nữa đấy!

- Như thế là biết điều lắm. ”

[11; tr.202]

Trong hai ví dụ trên, các phát ngôn được in nghiêng hành động ngôn ngữ

trung gian gián tiếp được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung cảm

thán. Cả hai phát ngôn đều có hình thức của một câu cảm thán nhưng lại biểu thị

ý nghĩa cam kết:

Còn phải nhắc lại cái câu ấy đến một nghìn lần thì bực lắm! - Anh thề/

cam đoan không bao giờ phụ em.

Từ rầy tôi không dám giấu bác điều gì nữa đấy! - Tôi thề từ đầy tôi không

giấu bác điều gì.

Bảng 2.12: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của

hành động ngôn ngữ trung gian thuộc lớp Cam kết

STT Phương thức thể hiện Tỉ lệ Số lượng

1 58 70,73

2 24 29,26 Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối gián tiếp

Tổng số 82 99,99

2.3. Tiểu kết

Từ việc sử dụng các khái niệm công cụ đã trình bày trong chương 1, với

hệ thống ngữ liệu đã thu thập được, chương này đã trình bày được một số vấn đề

sau.

65

Thứ nhất, vận dụng lý thuyết phân loại các nhóm hành động ngôn ngữ của

Austin và Searle chúng tôi khảo sát được có 4 hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đó là:

hành động thề, hành động cam đoan, hành động hứa và hành động ngôn ngữ

trung gian. Sự phân loại như vậy chỉ mang tính tương đối bởi những quan điểm

về hành động ngôn ngữ trung gian cũng chỉ tương đối.

Thứ hai, số lượt xuất hiện của mỗi loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết không giống nhau. Được sử dụng nhiều nhất là hành động hứa với 89

lượt, tiếp đến là hành động ngôn ngữ trung gian với 82 lượt, hành động cam đoan

20 lượt và ít nhất là hành động thề 17 lượt. Chúng tôi đã thực hiện miêu tả các

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trên các phương diện:

- Điều kiện sử dụng: Một hành động ngôn ngữ được sử dụng với hiệu lực

ngữ vi phải đảm bảo 4 điều kiện theo quan niệm của Searle:

+ Điều kiện nội dung mệnh đề (ĐKNDMĐ)

+ Điều kiện chuẩn bị (ĐKCB)

+ Điều kiện chân thành (ĐKCT)

+ Điều kiện căn bản (ĐKCB)

Các hành động hứa, hành động cam đoan và hành động thề tuy cùng thể

hiện sự cam kết nhưng ở mỗi hành động lại có lực ngôn trung và điều kiện nội

dung mệnh đề không giống nhau.

- Phương thức thể hiện:

+ Hành động hứa/ cam đoan/ thề được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi

tường minh hay nguyên cấp. Chỉ có hành động ngôn ngữ trung gian vì không có

động từ ngữ vi nên chỉ được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi nguyên cấp.

+ Hành động hứa/ cam đoan/ thề/ trung gian được thực hiện theo lối trực

tiếp hay gián tiếp.

66

Chương 3

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT

TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN

1930 - 1945 TỪ GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT HỘI THOẠI

3.1. Nhận xét chung

Theo lý thuyết hội thoại, có thể nghiên cứu các hành động thuộc lớp Cam

kết trong nhiều phương diện. Song, ở chương này, chúng tôi chỉ xem xét các

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt

Nam giai đoạn 1903-1945 ở các phương diện sau:

1. Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết.

2. Phương diện chức năng của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết.

Xét theo chức năng của hành động ngôn ngữ trong một cuộc thoại, có thể

thấy rằng các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn

xuôi Việt Nam giai đoạn 1903-1945 có thể đảm nhiệm một trong ba chức năng:

Thứ nhất, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng

dẫn nhập.

Thứ hai, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng

hồi đáp.

Thứ ba, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng

dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng hồi đáp.

3. Vai trò của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp hành động Cam kết.

Dễ dàng nhận thấy trong hoạt động giao tiếp, các hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết thể hiện được ba vấn đề cơ bản:

Thứ nhất, các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ, tính

cách nhân vật.

Thứ hai, các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế và quan

hệ giữa các nhân vật giao tiếp.

Thứ ba, các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện văn hóa giao

tiếp của người Việt.

67

3.2. Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945

Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận là hai đối tượng có tác động và chịu ảnh

hưởng trực tiếp từ hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết. Trong giao tiếp,

không phải lúc nào các hành động hứa, thề, cam đoan... cũng được sử dụng

thường xuyên. Khi xây dựng hội thoại trong văn chương cũng vậy, các tác giả

cũng phải có sự lựa chọn, chọn lọc để sử dụng các hành động này cho hợp lý.

3.1.1. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, chủ ngôn của các hành động ngôn

ngữ thuộc lớp Cam kết luôn xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít (trừ trường hợp các biểu

thức ngữ vi đã giản lược thành phần Sp1) và ngôi thứ nhất số nhiều.

Ví dụ 55: Tôi thề rằng sẽ chống đến cùng. Trước hết, tôi hãy giúp bác

trương Thi gặt chỗ năm sào của bác ấy đã, rồi đến mẫu hai của bác San.

[12; tr.135]

Ví dụ 56: “Tớ sẽ nói hết tất cả những cái tội ác của lúy ở ngoài mỏ, ở

trong xưởng máy, ở đồn điền...”

[11; tr.58]

Ví dụ 57: “Nếu việc là đích xác thì chúng tôi xin hết sức công kích kẻ làm

bậy, mà bênh vực người yếu thế, mặc lòng kẻ làm bậy, là người quyền thế như

thế nào.”

[11; tr.22]

Chủ ngôn của hai hành động hứa trong các ví dụ (55), (56) là “tôi”, “tớ”

đều là các đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất số ít và ở ví dụ (57) “chúng tôi” là

đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất số nhiều.

Ngoài hai trường hợp nêu trên, chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết còn xuất hiện các trường hợp sau:

- Chủ ngôn sử dụng danh từ chỉ quan hệ thân tộc để xưng hô với người

tiếp nhận hành động.

68

Ví dụ 58: “Xin mẹ đừng lo phiền... Con sẽ tuân theo lời mẹ dặn.”

[9; tr101]

Ví dụ 59: “Một vài năm nữa, nếu có lệnh cử cha về điều ra nước nhà lần

nữa, thì cha sẽ lại đi kiếm con.” [11; tr.226]

Ví dụ 60: “Con xin cam đoan với bố rằng nếu bố cứ chịu khó lấy độ

dăm đồng bạc một lá số tử vi thôi, thì chỉ trong một tuần lễ, bố cũng kiếm nổi

trăm bạc.” [11; tr184]

Trong ba ví dụ trên, chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết đã sử dụng các danh từ chỉ quan hệ thân tộc “con”, “cha” chỉ ngôi thứ nhất số ít

để xưng hô. Trong ví dụ (57), (58) chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận có quan hệ con

- mẹ và cha - con nên sử dụng cách xưng hô như vậy là điều hiển nhiên, tất yếu.

Nhưng trong ví dụ (59), chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận hành động cam đoan mặc

dù là hai người xa lạ, không có mối quan hệ ruột thịt nhưng chủ ngôn lại xưng là

con gọi bố để thể hiện mối quan hệ thân thiết như ruột thịt.

- Sử dụng danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ chỉ ngôi thứ nhất dùng để

xưng hô.

Ví dụ 61: “Mà thằng chánh này xin thề với cả làng này, nếu thằng chánh

này không kiện nổi cái thằng cha dâm ác nào đó, thì thằng chánh này đem mẹ

nó triện đồng mà lên trả lại quan trên.” [11; tr.18]

Ở ví dụ này, chủ ngôn của hành động thề đã sử dụng từ chỉ chức vụ

“chánh” để xưng hô với đối tượng tiếp nhận hành động. Khi sử dụng từ ngữ

chỉ chức vụ để xưng hô, chủ ngôn của hành động muốn làm tăng lực ngôn

trung của lời thề.

Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống đời thường bởi vậy qua các

tác phẩm văn chương, các tác giả đã cho người đọc một hình ảnh chân thực về

xã hội, con người Việt Nam trong bối cảnh lịch sử giai đoạn 1930-1945. Trong

thời kì này, ở nước ta có sự phân hóa giai cấp xã hội sâu sắc. Kết quả khảo sát

cho thấy vị thế xã hội cũng là một trong những yếu tố tác động đến giao tiếp giữa

con người với con người. Đặc biệt là trong việc sử dụng hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết khi tham gia hội thoại.

69

Theo kết quả khảo sát, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết có chủ

ngôn là người có vị thế xã hội cao xuất hiện 78 lượt. Trong đó:

+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội cao nói với đối tượng tiếp nhận là

người có vị thế xã hội ngang bằng xuất hiện 32 lượt chiếm sấp sỉ 41,02%.

Ví dụ 62: “- Vậy ông có bằng lòng ra tranh cử nữa không?

- Đã thế, thì tôi phải ra nữa.”

[11; tr.155]

Ví dụ 63: “- Ha ha ha! Vâng! Đa tạ cụ lớn vạn bội! Mà tôi muốn việc

chóng xong.

- Được rồi. Muốn chóng xong thì sẽ chóng xong.”

[11; tr.35]

Chủ ngôn của hành động ngôn ngữ trung gian trong ví dụ (62) là Nghị

Hách nói với quan Tây cũng là người có vị thế cao trong xã hội. Tương tự ở

ví dụ (63), chủ ngôn hành động hứa là cụ Tổng đốc và đối tượng tiếp nhận

là nghị Hách.

+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội cao nói với đối tượng tiếp nhận là

người có vị thế thấp hơn chiếm sấp sỉ 36,97% (46 lượt).

Ví dụ 64: “- Mày ăn cướp hay ăn trộm, cứ nói cho thật, tao liệu cách

gỡ tội cho.

Pha tuy ngu dốt, nhưng đã biết nghi ngờ, vả anh nói có tội gì mà cần giấu,

nên nói:

- Chỉ tại con chưa kịp đưa tiền trình nên quan giam con, có thế thôi.”

[12; tr.50]

Chủ ngôn của hành động hứa trong ví dụ trên là nghị Lại - người có vị thế

xã hội cao hơn anh Pha - đối tượng tiếp nhận.

Trong 208 lượt sử dụng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, chủ ngôn

của hành động là ngươi có vị thế xã hội thấp chiếm số lượng lớn hơn 130 trường

hợp. Trong đó:

+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội thấp nói với đối tượng tiếp nhận là

ngươi có vị thế ngang bằng chiếm sấp sỉ 42,30% (55 lượt).

70

Ví dụ 65: “Nhu làm hết phần của mình rồi, phải bảo em:

- Thôi chị lạy em! Em chịu khó làm đi kẻo mẹ về mẹ chửi, chị làm xong

phần chị, chị làm giúp em một nửa.

Nhượng bật cười:

- Thật nhá! Vậy chị làm xong đấy thì làm thêm chỗ này hộ tôi...”

[10; tr.213]

Xét ngữ cảnh giao tiếp trong hội thoại trên có thể thấy Nhu và Nhượng là

hai chị em nên có mối quan hệ trên dưới. Vì vậy, trong vi dụ này, chủ ngôn có vị

thế cao hơn so với đối tượng tiếp nhận.

+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội thấp nói với đối tượng tiếp nhận là

ngươi có vị thế cao xuất hiện 75 lượt chiếm khoảng 57,69%.

Ví dụ 66: “- Dạ, lạy quan, từ nay đến cuối tháng, con xin nộp.

Ông nghị mắng:

- Chà, bao giờ nộp cũng được.” [12; tr.64]

Chủ ngôn của hành động hứa trong ví dụ trên là nhân vật Pha - có vị thế

xã hội thấp hơn đối tượng tiếp nhận hành động là nghị Lại.

3.1.2. Đối tượng tiếp nhận các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết

Từ những ngữ liệu mà chúng tôi thu thập được, đối tượng tiếp nhận hành

động thuộc lớp Cam kết chính là người nghe trực tiếp. Đối tượng tiếp nhận các hành

động thuộc lớp Cam kết luôn có mặt khi các hành động đó được thực hiện.

Ví dụ 67: “Lan không sợ, tôi xin viện lòng từ bi của đức Quán Âm, tôi thề

với Lan rằng tôi không phải là hạng gió trăng bậy bạ.” [5; tr.58]

Trong đối thoại trực tiếp, có nhiều trường hợp biểu thức ngữ vi thể hiện

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết ở dạng tỉnh lược đi thành phần đối tượng

tiếp nhận hành động, nhưng người nghe vẫn biết được người nói đang hướng đến

mình. Vì vậy, đối tượng tiếp nhận hành động thuộc lớp Cam kết luôn hiện diện.

Bởi vì người nói chỉ đưa ra những hành động thuộc lớp Cam kết khi cho rằng

hành động của mình sẽ tác động trực tiếp đến trạng thái tinh thần, niềm tin hoặc

cảm xúc của người nghe.

71

Xét ví dụ (55), trong biểu thức “Tôi thề rằng sẽ chống đến cùng” đều

không xuất hiện đối tượng tiếp nhận nhưng dựa vào ngữ cảnh chúng ta vẫn biết

đối tượng tiếp nhận hành động thề là nhân vật trương Thi và San.

Ví dụ 68: “Tôi xin thề.” [11; tr.155]

Trong ví dụ (68), đây là lời thề của nghị Hách với quan Tây. Có thể thấy

đối tượng tiếp nhận không xuất hiện trong biểu thức ngữ vi của hành động hứa

nhưng xét ngữ cảnh giao tiếp, ta vẫn xác định được đối tượng tiếp nhận hành

động thề là viên quan Tây.

3.2. Chức năng của các hành động thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Kết quả phân loại chức năng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong

một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945 theo tiêu chí trên được trình bày

ở bảng sau:

Bảng 3.1: Bảng phân loại chức năng của hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945

STT Chức năng của hành động cam kết Tỉ lệ (%)

Số lượt (lần) 12 5,76 1

67 32,21 2

129 62,01

3

Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng dẫn nhập Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng hồi đáp. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng hồi đáp

Tổng số 208 99,98

3.2.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng dẫn nhập

Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong giao tiếp nói chung và hành

động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai

đoạn 1930 - 1945 nói riêng có thể đảm nhận chức năng dẫn nhập trong một cặp

thoại. Tuy nhiên, theo tư liệu của chúng tôi, kiểu hành động ngôn ngữ này xuất

hiện với tần số thấp, chỉ có 12 trường hợp, chiếm sấp sỉ 5,76%

72

Ví dụ 69: “Anh quả quyết đứng dậy, đi vào nói với ông nghị:

Sp1: - Lạy quan, mấy hôm nay nhà con ốm, con đi làm cả ngày, không ai

trông nom thuốc thang cho. Vả ruộng con, con phải thuê người nhổ cỏ mất mấy

buổi cũng tốn kém, con xin phép quan cho con ở nhà ít ngày, quan cho con nhờ

vài đồng, đến bữa mùa con xin nộp.

Bà nghị nhiếc:

Sp2: - Quân này đến bạc, vừa làm có mấy hôm, đã nóng đít. Mày không

làm nữa thì vay làm gì?

Ông nghị lườm vợ và gạt đi:

Sp3: - Tùy mày, tao không ép. Mày muốn vay bao nhiêu tao cũng cho.

Nhưng tao không có tiền đâu, có lấy thóc thì lấy.” [12; tr.114]

Ví dụ trên là đoạn hội thoại giữa nhân vật Pha và ông bà Nghị trong tác

phẩm “Bước đường cùng”. Lượt lời của nhân vật Pha có hai tham thoại. “Lạy

quan, mấy hôm nay nhà con ốm, con đi làm cả ngày, không ai trông nom thuốc

thang cho.” có chức năng cung cấp thông tin - nhân vật trình bày hoàn cảnh của

mình. Phát ngôn “Vả ruộng con, con phải thuê người nhổ cỏ mất mấy buổi cũng

tốn kém, con xin phép quan cho con ở nhà ít ngày, quan cho con nhờ vài đồng,

đến bữa mùa con xin nộp.” là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết có

chức năng ở lời dẫn nhập thể hiện trách nhiệm phải thực hiện hành động trong

tương lai mà Sp1 bị ràng buộc. Cụ thể ở ví dụ này, Sp1 (nhân vật Pha) hỏi vay

tiền ông Nghị và cam kết có trách nhiệm hoàn trả vào bữa mùa. Đồng thời, phát

ngôn này cũng đặt ra trách nhiệm buộc ông bà Nghị phải đưa ra câu trả lời có

đồng ý cho Pha vay tiền hay không.

Ví dụ 70: “Ngẫm nghĩ một lúc, bà nói:

Sp1: - Trước khi cô đi, cô lại đằng nhà, tôi sẽ giúp cô một số tiền, xứng

đáng với sự hy sinh của cô, với tấm lòng hào hiệp của cô, và khi nào cô có cần

điều gì đến tôi giúp, cô cứ lại nhà tôi, bao giờ tôi cũng sẵn lòng giúp cô.

Mai lạnh lùng:

Sp2: - Cảm ơn bà lớn, nhưng tôi không phải hạng ăn xin.” [6; tr.108]

73

Phát ngôn của Sp1 (nhân vật bà Án) là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết có chức năng dẫn nhập cho cặp thoại. Lời dẫn nhập trong ví dụ này cũng

mang chức năng cam kết thể hiện trách nhiệm phải thực hiện lời hứa của Sp1 (bà

Án) đối với Sp2 (nhân vật Mai). Và nó cũng đặt ra trách nhiệm trả lời đối với

Sp2.

Một số ví dụ khác:

Ví dụ 71: “Thất vọng, chị Dậu rũ rượi ngồi im. Ðến lượt anh Dậu năn nỉ

thay vợ:

- Thưa ông, con có muốn chi thế này! Trời làm vận hạn đau yếu nên con phải

chịu. Xin ông thương lại vợ chồng nhà con, một đồng bạc con cũng xin vâng, nhưng

con hãy khất ngày mai đóng thuế con bắt nhà con cấy trừ hầu ông.

Chánh tổng phì cười;

- Bây giờ lại có lối đóng triện cấy trừ nữa. Thôi cũng được! Ông Lý nhận

lời cho nó đi, đừng để chúng nó nói mãi điếc tai.” [1; tr.255]

Ví dụ 72: “Các cụ uống rượu cũng xong rồi, hai bàn đã giải mâm. Lại hát

nhà tơ. Ông Cửu ngồi thưởng trống. Ông bảo đào, bảo kép:

- Hát cho thật hay vào mới được. Tôi nghe hát, nếu vừa ý, bao giờ cũng có

thưởng.

Cô đầu tủm tỉm cười:

- Bẩm vâng!” [10; tr.241]

3.2.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng hồi đáp

Một cuộc thoại được duy trì khi có sự tương tác giữa người nói và người

nghe với sự luân phiên lượt lời. Tức là Sp2 hồi đáp Sp1 và ngược lại cứ như vây

để cuộc thoại được diễn ra. Kết quả khảo sát hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 cho thấy hành

động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết giữ chức năng hồi đáp xuất hiện với tần số

khá cao với 67 trường hợp, sấp sỉ 32,21%.

74

Ví dụ 73: “Bà Ba đăm đăm nhìn con, ngẫm nghĩ. Rồi như chợt nhớ ra, bà

bảo nhà sư:

- Hôm đúc tượng đức thánh Mẫu cụ nhắc tôi để tôi cúng chiếc nhẫn này

vào lò đồng.

Cúc vội kêu:

- Con chịu thôi!

Bà Ba gắt:

- Con bé mới dại chứ! Chả phúc nào bằng đâu con ạ. Con cứ cúng vào rồi

me đánh cho chiếc khác.” [4; tr.54]

Ví dụ trên gồm hai cặp thoại:

Cặp thoại 1:

Sp1: - Hôm đúc tượng đức thánh Mẫu cụ nhắc tôi để tôi cúng chiếc nhẫn

này vào lò đồng.

Sp2: - Con chịu thôi!

Cặp thoại 2:

Sp1: - Con chịu thôi!

Sp2: - Con bé mới dại chứ! Chả phúc nào bằng đâu con ạ. Con cứ cúng

vào rồi me đánh cho chiếc khác.

Trong đó, phát ngôn “... rồi me đánh cho chiếc khác.” là tham thoại hồi

đáp cho tham thoại dẫn nhập “Con chịu thôi” ở cặp thoại thứ hai. Tham thoại hồi

đáp đã dẫn là hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết biểu thị hành động hứa sẽ

đánh cho Cúc một chiếc nhẫn mới của bà Ba khi cô từ chối cúng chiếc nhẫn cũ

vào lò đồng.

Hay trong ví dụ 74: “Bà Hai bảo con:

- Tao lo buồn nên cửa hàng để mặc cho người nhà trông nom.

Loan nói:

- Để từ nay, con sẽ ráng hết sức trông nom việc buôn bán cho mẹ.”

[8; tr.133]

75

Ở ví dụ trên, “Để từ nay, con sẽ ráng hết sức trông nom việc buôn bán cho

mẹ.” là tham thoại có chức năng hồi đáp. Đây là tham thoại có chức năng hồi

đáp tích cực. Khi nhân vật bà Hai than thở về việc cửa hàng không ai trông nom

thì Loan đã đưa ra lời hứa sẽ cố gắng hết sức trông nom việc buôn bán cho mẹ.

Tức là tham thoại này khẳng định bổn phận thực hiện việc mà Loan đã nói.

Ngoài ra còn rất nhiều ví dụ khác:

Ví dụ 75: “Mụ vừa kéo vạt áo lên quệt nước mũi, vừa bảo:

- Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả là ít vốn.

- Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?”

[8; tr.26]

Phát ngôn “Ít vốn thì tối nay ông trả.” là tham thoại có chức năng hồi đáp.

Đây là tham thoại có chức năng hồi đáp tiêu cực. Khi nhân vật mụ bán hàng rượu

tỏ ý không muốn cho Chí Phèo nợ tiền với lý do “ít vốn” thì Chí đã đưa ra lời

hứa tối sẽ trả tiền để ngầm từ chối việc trả tiền rượu ngay lúc đó.

Ví dụ 76: “Lan nghe tới đó cười khanh khách nói tiếp theo:

-Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đí chấy? Nhưng cô Thi

tôi quen biết chắc không phải là cô Thi của ông đâu, xin ông đừng vội mừng.

Ðáng lẽ ở trước cửa từ bi chẳng nên nói tới câu chuyện nhăng nhít, nhưng xin

Ngài cũng thấu nỗi khổ tâm của kẻ tu hành này mà tha thứ cho. Ông nghe câu

chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé!

- Được, tôi xin giữ bí mật.” [5; tr.35]

Trong ví dụ trên, phát ngôn “Được, tôi xin giữ bí mật” là một lời hồi đáp

tích cực. Khi nhân vật chú tiểu Lan ngỏ ý kể cho Ngọc nghe câu chuyện cuộc

đời mình và cầu xin Ngọc không nói với ai thì nhân vật Ngọc đã có lời hồi đáp

khẳng định đồng ý sẽ giúp Lan giữ bí mật. Tức là Ngọc có bổn phận thực hiện

hành động đã cam kết với chú tiểu Lan.

76

3.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng hồi

đáp vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập

Kiểu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đa chức năng này chiếm tỉ

lệ cao nhất trong tư liệu khảo sát của chúng tôi: 129 trường hợp, chiếm sấp sỉ

62,01%. Đây là hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết nằm trung gian giữa hai

cặp thoại. Nó vừa đảm nhiệm chức năng hồi đáp của cặp thoại đứng trước vừa

đảm nhiệm chức năng dẫn nhập cho cặp thoại tiếp theo. Cuộc thoại giữa bà phủ

và ông đốc trong tiểu thuyết “Đời mưa gió” có chứa tham thoại đảm nhiệm cả

hai chức năng như vừa nói ở trên:

Ví dụ 77: “Bà phủ hơi có giọng gắt:

- Tôi mời cậu lại để cậu khuyên bảo cháu giúp tôi mà cậu cứ nói ngang, rõ

bực cả mình.

- Nếu thế thì được, để em bảo cháu.

- Nó mến cậu lắm đấy, chắc thế nào cậu bảo nó cũng nghe.”

[3; tr.40]

Cuộc thoại trên gồm các cặp trao đáp được móc nối với nhau thành một

chuỗi liên tục. Ta có thể nhận thấy, tham thoại hồi đáp của cặp thoại trước chính

là tham thoại dẫn nhập (trao lời) của cặp thoại tiếp theo. Có thể phân tích liên kết

của các tham thoại trong cuộc thoại này như sau:

A1- Tôi mời cậu lại để cậu khuyên bảo cháu giúp tôi mà cậu cứ nói

1 ngang, rõ bực cả mình.

B1- Nếu thế thì được, để em bảo cháu.

2

A2- Nó mến cậu lắm đấy, chắc thế nào cậu bảo nó cũng nghe.

Cuộc hội thoại trên gồm 2 cặp thoại và 3 tham thoại. Tham thoại B1 “Nếu

thế thì được, để em bảo cháu.” là lời hồi đáp của cặp thoại (cặp trao đáp) thứ

77

nhất, đồng thời là lời dẫn nhập của cặp thoại thứ hai. Tham thoại B1 là hành động

ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết (lời hứa của ông đốc sẽ giúp bà tham khuyên nhủ

Cúc - con gái bà tham). Đây là một biểu thức cam kết nguyên cấp không có động

từ ngữ vi.

Tương tự như cuộc thoại vừa dẫn, đoạn thoại giữa nhân vật chú tiểu Lan

và Ngọc trong tiểu thuyết “Hồn bướm mơ tiên” cũng chứa một tham thoại đảm

nhiệm hai chức năng hồi đáp và dẫn nhập.

Ví dụ 78: “Lan nghe tới đó cười khanh khách nói tiếp theo:

- Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đích ấy?... Ông nghe

câu chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé!

- Được, tôi xin giữ bí mật.

- Có gì đâu! … mà buông tha cho kẻ tu hành này ra.” [5; tr.34,35]

Phát ngôn “Được, tôi xin giữ bí mật.” có chứa hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết của nhân vật Ngọc (hứa giữ bí mật câu chuyện của chú tiểu Lan).

Có thể mô tả chức năng của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết giữ vai trò

liên chức năng này như sau:

A1- Tôi yêu cô Thi, sắp sửa hỏi làm vợ thì bỗng cô ấy đi đâu mất.

Dáng chừng chú cũng quen biết cô ta nên cho là một sự lạ chứ gì? Có 1 người bảo tôi rằng cô ấy đi tu, nên tôi cứ lần mò các chùa chiền để đi

tìm...

B1- Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đích ấy? … Ông

nghe câu chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé! 2

A2- Được, tôi xin giữ bí mật.

B2- Có gì đâu! Gần đây, một người thiếu nữ hơi có chút nhan sắc, hễ gặp 3

tôi là thả lời chòng ghẹo, tôi van thế nào cũng không được. …

buông tha cho kẻ tu hành này ra.

Quan sát mô hình liên kết các cặp thoại trong hội thoại trên ta thấy tham

thoại A2 “Được, tôi xin giữ bí mật.” vừa là tham thoại hồi đáp của cặp thoại 2

vừa là tham thoại dẫn nhập của cặp thoại 3. Cụ thể, trong cặp thoại 2, tham thoại

78

A2 là câu trả lời cho tham thoại B1 và đã thỏa mãn trách nhiệm (giữ bí mật) mà

tham thoại B1 đặt ra. Tham thoại A2 có chức năng ở lời hồi đáp tích cực khẳng

định cam kết giữ bí mật cho câu chuyện của chú tiểu Lan. Còn xét trong cặp thoại

3, tham thoại A2 là tham thoại dẫn nhập đặt ra trách nhiệm cung cấp thông tin

đối với người đối thoại.

3.3. Vai trò của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác

phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

3.3.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ, tính cách nhân

vật

3.3.1.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ nhân vật

Văn học giai đoạn 1930-1945 phát triển đa dạng và phong phú với sự phân

hoá thành các trào lưu, khuynh hướng và các nhóm văn học. Giữa các trào lưu,

khuynh hướng, nhóm văn học thường xuyên có sự tương tác, ảnh hưởng và bản

thân trong từng tác giả hoặc khuynh hướng văn học cũng thường không thuần

nhất. Đọc các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này, người ta thường thấy hiện lên

một thế giới nhân vật vô cùng sinh động với các mối quan hệ khác nhau. Đối với

từng mối quan hệ, từng đối tượng được nói đến và trong từng hoàn cảnh khác

nhau, các nhân vật lại có thái độ ứng xử nhất định. Trong phát ngôn của nhân

vật, bên cạnh các hành động ngôn ngữ khác, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết cũng là một phương tiện ngôn ngữ rất hiệu quả bộc lộ thái độ của người nói.

Xin dẫn một vài ví dụ làm minh chứng:

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độcăm ghét và bài

trừ chế độ đa thê:

Ví dụ 79: “Trình bảo nàng:

- Chị thề trước đi.

- Tôi xin thề không lấy vợ lẽ cho chồng tôi.

Khoa uống hết cốc rượu, tiếp luôn:

- Nếu em lấy vợ lẽ thì đời em sẽ cạn như chén rượu này.”

[4 tr.19]

79

Trên đây là cuộc thoại giữa Trâm cùng hai người em chồng là Trình và

Khoa trong tiểu thuyết “Thừa tự”. Đoạn thoại này diễn ra khi Trình và Khoa đang

bày tỏ quan điểm về việc lấy vợ lẽ. Bởi vì bản thân sống trong cảnh “mẹ ghẻ con

chồng” với biết bao ấm ức cho nên các phát ngôn cam kết “Tôi xin thề không lấy

vợ lẽ cho chồng tôi.”, “Nếu em lấy vợ lẽ thì đời em sẽ cạn như chén rượu này.”

của Trâm và Khoa đều mang thái độ căm ghét, cương quyết bài trừ chế độ đa thê

của nhân vật

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ kính cản, van

lơn, quỵ lụy của nhân vật:

Ví dụ 80: “ - Thì tôi tưởng quan lớn làm như không khám thấy gi.

- Không được, có hẳn hoi và có hương lý làm chứng.

- Ồ, là gì! Hương lý ở đây là đầy tớ tôi cả, tôi bảo gì chúng nó không phải

nghe. Quan lớn làm ơn xé biên bản đi, thế nào tôi cũng không giám quên ơn

quan lớn.” [12; tr.30]

Ở ví dụ trên, phát ngôn của Nghị Lại “Quan lớn làm ơn xé biên bản đi, thế nào

tôi cũng không giám quên ơn quan lớn.” biểu thị hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết. Đây là lời Nghị Lại nói với Tây Đoan khi hắn bị án phạt do chôn rượu lậu. Hắn

cầu xin quan trên xé biên bản để hòng thoát tội và hứa sẽ trả ơn quan hậu hĩnh. Chúng

ta có thể thấy, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong ví dụ (80) thể hiện thái

độ kính cẩn, van lơn, quỵ lụy của Nghị Lại đối với Tây Đoan.

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ ăn năn hối lỗi

của nhân vật:

Tương tự ví dụ 81: “Nhung nói với mẹ chồng:

- Thưa mẹ, con thật là vô tâm để mẹ phải nhắc. Từ nay con xin có ý tứ hơn.

Bà Án lộ vẻ vui mừng:

- Mợ nghĩ thế là phải. Họ khác, họ tự do được. Còn mợ, không phải

mợ chỉ giữ gìn cho nhà chồng, cho nhà mợ lại còn làng nước người ta trông

vào nữa.” [9; tr.90]

80

Cặp hội thoại trên diễn ra khi nhân vật Nhung (Lạnh lùng) được mẹ chồng

nhắc nhở vì nàng ham vui đi chơi cả ngày. Nhung là con dâu bà Án, cô sớm trở

thành góa bụa khi tuổi còn rất trẻ. Sau này cô đem lòng yêu thầy giáo Nghĩa

nhưng vì lễ giáo phong kiến, vì “tiết hạnh khả phong” cô chỉ dám yêu đương lén

lút. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết của Nhung trong ví dụ trên biểu lộ

thái độ ăn năn, hối lỗi.

Như vậy, qua phân tích các ví dụ vừa dẫn có thể thấy rằng hành động ngôn

ngữ thuộc lớp Cam kết bộc lộ rất rõ thái độ của nhân vật (chủ ngôn). Trong mỗi

hoàn cảnh khác nhau, đối tượng giao tiếp khác nhau thì các hành động ngôn ngữ

lại thể hiện thái độ khác nhau của nhân vật.

3.3.1.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách nhân vật

Văn xuôi Việt Nam giai đoan 1930-1945 có thế giới nhân vật vô cùng

phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc. Mỗi một kiểu nhân vật lại được các nhà văn

xây dựng với những nét tính cách riêng. Làm nên thành công trong việc khắc họa

tính cách nhân vật có sự đóng góp không nhỏ của các hành động ngôn ngữ nói

chung và hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết nói riêng.

Với ngồi bút hiện thực sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa thành công

một đại tư bản cỡ “phú gia địch quốc” - Nghị Hách, và Long - một nhân vật tha

hóa mạnh mẽ trước xã hội tàn bạo, thối nát.

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách dối trá của

nhân vật:

Ví dụ 82: “- Thưa quan, quan dùng hết cả gánh, hay độ bao nhiêu con tháo...

- À, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho tiền.”

[11; tr.13]

Ví dụ 83: “- Bẩm cụ lớn, vậy mà con thì con thấy rằng phong trào ấy đã

bắt đầu lan đến tỉnh ta.

Quan công sứ giật nẩy mình lên, trợn mắt hỏi:

- Đã lan đến tỉnh ta, ông bảo!

81

- Bẩm cụ lớn, hình như thế.

- Có cái gì là chứng cớ không?

- Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con … Bẩm cụ

lớn, con thấy rằng cái phong trào ấy sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư

cách một người dân biểu mà trình báo để cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên

ổn.” [11; tr.34]

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách dâm ô, trụy

lạc, trâng tráo, vô liêm sỉ của nhân vật:

Ví dụ 84: “Nghị Hách thở dài, cười nhạt rất to, lại nói:

- Nhưng tôi bỏ mặc ngoài tai dư luận. Tôi đã có lương tâm tôi xét xử tôi.

Đẻ ra là bình dân, tôi xin gửi lòng trung thành với bình dân cho đến chết!”

[11; tr.219]

Ở ví dụ 84, chúng ta có thể thấy Nghị Hách là một tên bạo chúa dâm ô,

ranh ma, xảo quyệt khi âm mưu hãm hại cướp đi sự trong trắng của cô thôn nữ

Mịch. Phát ngôn “Tháo đi rồi quan cho tiền.” là một hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết hứa hẹn sẽ cho tiền cô Mịch. Nhưng sâu xa hơn đó là bộ mặt giả

dối ngụy trang sau lớp mặt nạ của sự tử tế. Sau khi bị đâm đơn kiện, Nghị Hách

tìm đủ mọi cách hòng thoát tội. Lão đến dinh Công Sứ rồi ton hót với “quan cai

trị” đầu tỉnh về “cái phong trào cộng sản” nhằm che đậy, đánh lạc hướng đi sự

vụ hắn gây ra. Hắn tự nhận mình như một người dân biểu bình thường và đem

tư cách của bản thân ra để cam đoan những gì đã trình báo chỉ nhằm mục đích

giúp quan Công Sứ cai trị dân chúng. Rồi với tham vọng ngồi lên ghế nghị

trưởng, sở hữu cái mề đay Bắc đẩu và tư lợi nhiều việc khác, Nghị Hách hăng

hái nhảy ra tranh cử theo kế hoạch đã được vạch sẵn. Hắn lấy cái chết ra để thề,

khẳng định lòng trung thành của mình với bình dân “Đẻ ra là bình dân, tôi xin

gửi lòng trung thành với bình dân cho đến chết!”. Trâng tráo, vô liêm sỉ đó là

nét tính cách nổi bật của hạng người tham tàn, bỉ ổi như Nghị Hách.

82

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách cao thựng,

thẳng thắn của nhân vật

Ở đầu tác phẩm “Giông tố”, Long được giới thiệu như một người ngay

thẳng có một, có chí khí, có hoài bão. Khi Mịch - vợ sắp cưới của Long bị hãm

hiếp, anh chàng đã nói những lời lẽ cao thượng và cảm động với cô, cam đoan

yêu cô suốt đời, coi nỗi nhục của cô như vết nhọ của cuộc đời mình và hứa

quyết chí trả thù:

Ví dụ 85: “- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long

ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ. Tôi

khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.

- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu quý

suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của

Mịch tức là một vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế nào rửa

cho sạch vết nhọ ấy thì mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng

khóc nữa.

- Chúng tôi nghèo hèn lắm, làm gì được?

- Nó dùng tiền bạc và thế lực, thì ta sẽ dùng mưu sâu, Anh đã nói Mịch sẽ

được trả thù thì rồi thế nào Mịch cũng rửa được thù.” [11; tr.44]

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách thiếu kiên

định của nhân vật

Trước sự xô đẩy của số mệnh và sự cám dỗ của bả vật chất, cuộc đời và

lương tâm chàng thư kí nghèo cứ lay lắt, vật vờ. Mới ngày nào còn bao dung

cuộc đời cô Mịch, tình cảm của Long đã lung lay trước tiểu thư Tuyết xinh đẹp

- con gái Nghị Hách. Long đã mang cả danh dự và mạng sống thề cả đời trung

thành với Tuyết:

83

Ví dụ 86: “Chàng gục đầu vào mặt người vợ chưa cưới:

- Tuyết ơi! Tuyết yêu quí nhất đời của anh ơi, anh xin lỗi Tuyết. Đừng việc

gì mà lo buồn, đó là chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu? Từ đây mà đi, anh xin

thề với Tuyết là sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó,

mà nếu không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử, mặc lòng là tại Tuyết

hay tại ai cũng vậy.

- Nói nhời xin giữ lấy nhời!

- Chúng ta chẳng lấy nhau đến nơi rồi hay sao? Việc gì mà khóc?”

[11; tr.194]

Từ một anh hàn sĩ đầy lòng thương đời, ghét cay ghét đắng những cái xa

hoa vật chất và căm hận sự vô tình của bọn giả trưởng. Long đã trở nên một kẻ

hư hỏng. Cái tâm hồn trong sạch, cái chí khí cao cả bị tha hóa, biến chất.

Nếu như trong các tác phẩm văn học hiện thực, các tác giả làm bật lên

những nét tính cách của bọn quan lại, cường hào và những người nông dân chân

lấm tay bùn, chịu nhiều áp bức, bóc lộ, thì đến với những sáng tác của Tự lực

văn đoàn, chúng ta sẽ thấy bật lên con người cá nhân hiện đại khẳng định quyền

được tồn tại độc lập, tự quyết định số phận của mình. Họ đòi tự do trong cuộc

sống, trước hết là tự do yêu đương, tự do kết hôn. Họ tìm thấy cái đẹp, thấy giá

trị trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do, hạnh phúc.

* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách mạnh mẽ,

cứng rắn, khảng khái của nhân vật:

Lan (Hồn bướm mơ tiên) giả trai đi tu, chấp nhận cuộc đời tu hành khổ

cực, xa lánh những vui thú trần tục. Lan cha mẹ mất sớm, ở với chú bị chú ép gả

chồng. Nàng có tâm hướng về đạo Phật từ nhỏ do ảnh hưởng của mẹ và không

chấp nhận cuộc hôn nhân sắp đặt nên đã bỏ trốn khỏi nhà và để lại đôi dép bên

bờ sông khiến mọi người tưởng cô đã chết. Từ đây cuộc đời Lan sang một trang

mới, không còn dính dáng đến cuộc đời cũ, không còn ai biết đến thân phận trước

84

đây của cô nữa. Lan chứng minh cho sự tự quyết định cuộc đời của người phụ

nữ, đã lựa chọn là nhất quyết không thay đổi. Kể cả đến khi Ngọc phát hiện ra

chú tiểu Lan thực chất là con gái thì Lan vẫn cương quyết:

Ví dụ 87: “Lan nức nở:

- Tôi chỉ còn … có một cái chết. Nếu tôi có thể thổ lộ can trường cho ông

biết vì sao tôi phải cải trang, vì sao tôi phải quy y đầu Phật… Nhưng sự bí mật

ấy, tôi nhất định sống để dạ, chết mang theo.” [5; tr.58]

Không chỉ có ý thức cá nhân mạnh mẽ mà một số nhân vật trong các sáng

tác của Tự lực văn đoàn còn mang ý thức về danh dự, nhân phẩm sâu sắc. Nhân

vật Mai (Nửa chừng xuân) dù vô cùng yêu Lộc, nàng vẫn âm thầm lặng lẽ ra đi

để “không bị người ta khinh mạn”, để làm tròn chữ tín.

Ví dụ 88: “Bà Án mỉm cười, khinh bỉ:

- Chữ nghĩa cũng khá đấy! Hữu tài vô hạnh!

- Thôi bà không cần nhiều lời. Tôi sẽ đi. Tôi rời cái nhà này ngày hôm

nay. Trách nhiệm nặng nề sau này bà chịu lây.” [6; tr.107]

Ví dụ 89: “Bà án chỉ lưu ý đến một việc là Mai đi, nên lại hỏi như để nhắc:

- Vậy bao giờ cô đi?

Mai cười:

- Thưa bà lớn, một lời đã hứa thì bao giờ cũng phải giữ.Tôi nói nội nhật

ngày hôm nay thì chắc không phải ngày mai. Bà lớn cứ yên lòng. Trong năm

điều nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, bà lớn viện ra ban nãy, có hai điều tôi trọng nhất là:

nhân và tín. Bà lớn không lo tôi thất tín.” [6; tr.108]

Mặc dù rất yêu Lộc và đang mang trong mình giọt máu của anh, nhưng

khi bà Án - mẹ của Lộc cương quyết muốn lấy vợ cho Lộc và ngỏ ý sẽ cưới Mai

làm lẽ, cô đã từ chối và cam kết sẽ rời khỏi đây ngay lập tức. Tình yêu và danh

dự của Mai không cho phép cô chịu cảnh chung chồng. Mặc dù đau khổ trước

tình yêu tan vỡ và cuộc sống dường như đã đi vào đường cùng, nhưng với tính

cách mạnh mẽ, Mai đã đứng dậy, tiếp tục cuộc sống vì con vì em. Mai là phụ nữ

hiếm có trong buổi giao thời, vừa mang vẻ đẹp hiện đại dám yêu dám chịu trách

85

nhiệm cho tình yêu của mình, vừa mang vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống

đủ cả công, dung, ngôn, hạnh. Mai còn là người phụ nữ giàu nghị lực dám chấp

nhân khó khăn, vượt lên đau thương của số phận.

Như vậy, để khắc họa tính cách nhân vật các tác giả không chỉ diễn tả trực

tiếp mà có thể gián tiếp thông qua việc sử dụng các hành động ngôn ngữ như

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết.

3.3.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế và quan hệ giữa

các nhân vật giao tiếp

3.3.2.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế giữa các nhân

vật giao tiếp

Vị thế xã hội và mức độ thân cận cũng là những yếu tố thuộc hình ảnh tinh

thần mà những người tham gia giao tiếp xây dựng về nhau. Vị thế giao tiếp xã

hội được xác định qua các yếu tố như tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị, điệu bộ, cử

chỉ, cách nói năng... Trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-

1945, vị thế xã hội cũng được thể hiện qua cách sử dụng các hành động ngôn

ngữ thuộc lớp Cam kết.

Ví dụ 90: “- Bẩm bà lớn nhà con không có mà đi lấy lẽ.

Bà Án thở dài:

- Cái đó tùy cô! Nhưng đến tháng tám này, thế nào tôi cũng cưới vợ cho

con tôi. Tôi cam đoan với cô rằng thế nào tôi cũng cưới được vợ cho con tôi.

- Vâng, cái đó là quyền ở bà lớn.” [6; tr.105]

Xuất hiện trong đoạn thoại là hai nhân vật có vị thế hoàn toàn đối lập nhau,

một bên là vợ quan Án và một bên là cô thôn nữ mồ côi từ quê nhà lên Hà Nội

sinh nhai. Xét về cả vị thế xã hội và vị thế giao tiếp, bà Án đều cao hơn Mai, đó là

do yếu tố về tuổi tác và đặc biệt là yếu tố về địa vị xã hội (vợ quan Án - cô thôn

nữ). Vì không chấp nhận Lộc yêu một người không môn đăng hộ đối mà bà Án

tìm đến tận nhà Mai hòng tách cô ra khỏi cuộc sống của Lộc. Trước phản ứng gay

gắt của Mai về lời đề nghị lấy cô làm lẽ cho Lộc, bà Án đã sử dụng hành vi cam

đoan chắc nịch về việc sẽ lấy vợ khác cho con trai nhằm áp đặt cho Mai “Tôi cam

đoan với cô rằng thế nào tôi cũng cưới được vợ cho con tôi.”

86

Vi dụ 91: “Rồi Lộc nói:

- Cái ý tưởng cao thượng ấy sẽ làm cho anh phấn khởi. Phải, thở than,

buồn bực có ích chi! Cái đời tẻ ngắt của anh mà anh cho là hết hy vọng, anh sẽ

cam đoan với em rằng vì em nó sẽ thành một đời đầy đủ.

Thấy Lộc mặt đỏ bừng và mắt long lanh, Mai lo lắng:

- Anh không nên nghĩ xa xôi quá. Anh sung sướng là em sung sướng

rồi.” [6; tr.224]

Xét về đặc điểm của nhân vật giao tiếp trong ví dụ trên, Lộc là người có

vị thế cao hơn trên phương diện tuổi tác và địa vị xã hội (quan Án - cô thôn nữ).

Ở đây, nhân vật Lộc đã chủ động hạ thấp khoảng cách vị thế giữa hai người, điều

này được thể hiện qua phương tiện ngôn ngữ được nhân vật sử dụng cách xưng

hô thân mật, gần gũi anh - em. Bởi vì Mai là người mà Lộc yêu thương, lại mà

mẹ của con anh, đã vì anh mà hi sinh, chịu ấm ức cho nên Lộc đã hạ thấp vị thế

của mình để thực hiện hành vi cam đoan với cô.

Ví dụ 92: “Chàng gục đầu vào mặt người vợ chưa cưới:

- Tuyết ơi! Tuyết yêu quí nhất đời của anh ơi, anh xin lỗi Tuyết. Đừng việc

gì mà lo buồn, đó là chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu? Từ đây mà đi, anh xin

thề với Tuyết là sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó,

mà nếu không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử, mặc lòng là tại Tuyết

hay tại ai cũng vậy.

- Nói nhời xin giữ lấy nhời!” [11; tr194]

Cặp thoại trên là của nhân vật Long và Tuyết (Giông tố), diễn ra trong

hoàn cảnh hai người đang hẹn hò và Tuyết muốn kiểm chứng tình yêu của Long.

Long từ nhỏ mồ côi lại chỉ là viên thư kí của anh trai Tuyết. Còn Tuyết là cô tiểu

thư cành vàng lá ngọc, con gái nghị Hách. Giữa hai người có khoảng cách nhất

định về địa vị xã hội. Long là người có vị thế xã hội thấp hơn Tuyết. Vì vậy, mặc

dù yêu nhau, nhưng khi thực hiện lời thề với người yêu Long vẫn thể hiện sự tôn

kính dành cho Tuyết. Dù là người yêu nhưng nàng vẫn là tiểu thư không cùng

tầng lớp với Long. Vì vậy, trong phát ngôn của mình, Long xưng anh nhưng lại

gọi tên Tuyết.

87

3.3.2.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện mối quan hệ giữa các

nhân vật giao tiếp

Ở các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa, khi giao tiếp người ta chỉ sử

dụng các đại từ nhân xưng để xưng hô. Trong tiếng Việt ngoài các đại từ nhân

xưng còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô,

và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Giao

tiếp của người Việt có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi mọi người

trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.

Ví dụ 93: “- Anh bứa lắm. Nhưng này anh Chí ạ, anh muốn đâm người

cũng không khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến

đòi cho tôi, đòi được tự nhiên có vườn.” [10; tr.27]

Trên đây là phát ngôn của bá Kiến nói với Chí Phèo khi Chí sang nhà lão

làm loạn. Sau khi ở tù ra, Chí Phèo sẵn sàng làm mọi cách để ăn vạ kể cả tự rạch

chính mặt mình. Không muốn dây vào chuyện lôi thôi, bá Kiến tìm cách xoa dịu

Chí bằng việc nhận họ hàng với hắn. Điều đó được thể hiện qua cách xưng hô

của bá Kiến với Chí Phèo: gọi anh xưng tôi.

Hệ thống từ xưng hô của người Việt có tính chất cộng đồng hóa cao - trong

hệ thống này không có những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào các yếu tố

như tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi

khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hô có khi thể hiện được hai quan hệ khác

nhau: chú - cháu, ông - con, mẹ - con, anh - tôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên

cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)

Ví dụ 94: “Bà Án tức giận mắng:

- Thằng con bất hiếu bất mục đến thế?

- Bẩm bà lớn, vì anh con, nào con có vượt ra ngoài vòng lễ nghi đâu? Mà

nếu, bẩm bà lớn, vì anh con, có phải hy sinh đến lễ nghi nữa, con cũng cam chịu.”

[6; tr.103]

88

Ví dụ 95: “- Không, tôi nói thực đấy. Mợ không nên để tôi hối hận suốt

đời, vì một điều lẫm lỗi trong giây phút...

Mai làm bộ như không hiểu:

- Nhưng, thưa cụ, có điều gì cụ cứ cho biết, nếu có thể giúp được thì thực

con không dám từ chối.” [6; tr.188]

Cả hai phát ngôn “Mà nếu, bẩm bà lớn, vì anh con, có phải hy sinh đến lễ

nghi nữa, con cũng cam chịu.”, Nhưng, thưa cụ, có điều gì cụ cứ cho biết, nếu có

thể giúp được thì thực con không dám từ chối.” trong ví dụ (94) và (95) đều là của

nhân vật Mai nói với bà Án trong tiểu thuyết “Nửa chừng xuân”. Tuy nhiên trong

mỗi ví dụ, cách xưng hô của nhân vật lại không giống nhau. Bởi mỗi ví dụ lại trong

một ngữ cảnh khác nhau. Nếu như ở ví dụ (94), Mai thực hiện hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết trong hoàn cảnh bị bà Án chia rẽ tình yêu cho nên cách xưng hô

có phần khách sáo, thể hiện địa vị khác nhau trong xã hội: gọi bà lớn xưng con. Còn

ở ví dụ (95), Mai thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết khi đã có một

cuộc sống mới, phần nào quên đi những tổn thương về mặt tinh thần mà bà Án đã

gây ra cho mình và lúc này Mai đã sinh cho bà Án một đứa cháu nội cho nên cách

xưng hô cũng có sự thay đổi: gọi cụ xưng cháu.

3.3.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện văn hóa giao tiếp của

người Việt

Như đã trình bày trong chương 1, mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ

là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, có sự tương tác hết sức mật thiết. Là một thành

tố quan trọng của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ là phương tiện, điều kiện

cho sự nảy sinh, phát triển và tương tác của các thành tố khác trong hệ sinh thái

văn hoá. Đồng thời văn hoá với tư cách là một hiện tượng xã hội cũng lại tác

động một cách sâu sắc tới sự hình thành và phát triển ngôn ngữ, làm nên đặc

trưng ngôn ngữ dân tộc. Trong chương 3, chúng tôi khảo sát và lí giải một số

biểu hiện văn hóa trong lời cam kết của tiếng Việt được các tác giả vận dụng

89

vào văn chương, từ đó hướng đến khái quát nên đặc trưng văn hoá dân tộc qua

các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và mối quan hệ giữa văn hóa, văn

học và ngôn ngữ.

Người Việt Nam với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước sống nương tựa

lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi người trong

cộng đồng, chính đó là nguyên nhân dẫn đến việc coi trọng giao tiếp. Tính cộng

đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc điểm

là trọng danh dự. Vì vậy trong giao tiếp, khi thực hiện các hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết, để củng cố niềm tin với người tham gia đối thoại, người nói

thường đưa ra những thiệt hại tổn thất gắn với danh dự cá nhân và tính mạng của

mình.

3.3.3.1. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thường đưa

ra những tổn thất về danh dự cá nhân

Trong tổng số 208 lượt sử dụng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, có

14 trường hợp người cam kết tự nhận những thiệt hại tổn thất, trong đó hành động

thuộc lớp Cam kết gắn với những thiệt hại tổn thất về danh dự cá nhân là 12 lượt

chiếm 85,71%. Người Việt trọng danh dự “Được tiếng còn hơn được miếng”, “Tốt

danh hơn lành áo”, “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”... Trong suốt cuộc đời,

người Việt luôn quan tâm giữ gìn danh dự vì “Người chết nết còn”, và rất sợ “Mua

danh ba vạn, bán danh ba đồng”… Như đã nói, người Việt rất coi trọng danh dự

của bản thân và gia đình, bất kì phát ngôn nào cũng có thể gây tổn thất về mặt

danh dự: lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều

người, tạo nên tai tiếng. Chính vì vậy, danh dự là thiêng liêng, được viện để thực

hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết. Nếu như người phương Tây thường

nói: “Tôi xin thề danh dự…” thì người Việt thường thề rất độc về mình: không

bằng con chó, tôi làm con cho anh, không xứng làm người, không còn mặt mũi

nhìn ai… Bởi vậy, trong các tác phẩm văn học, các nhà văn cũng vận dụng linh

hoạt đặc điểm này để xây dựng những hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết cho

nhân vật của mình.

90

Ví dụ 96: “- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long

ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ. Tôi

khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.

- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu quý suốt

đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của Mịch tức

là một vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh phải làm thế nào rửa cho sạch vết nhọ

ấy thì mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng khóc nữa.”

[11; tr.44]

Trong văn hoá Việt, rồng là loài vật thiêng bởi tổ tiên Bách Việt đã từng

có tô tem rồng, rồng ngự trị trong tâm thức người Việt như một linh vật đặc biệt,

là “vạn vật chi đế”, là biểu tượng cho những gì cao quý nhất: những vật dụng

gắn liền với nhà vua đều có họa tiết rồng. Ngược lại, chó, lợn lại là những con

vật tầm thường, bởi chúng thường được thấy trong cuộc sống trần tục thường

nhật với những quan niệm định kiến: tham như lợn, hỗn như chó… Vì vậy khi

muốn nhấn mạnh vào sự tổn thất về mặt danh dự khi không thực hiện đúng cam

kết người ta thường thề: “không bằng con chó”… Đó là cách tự nhận những tổn

hại về danh dự khá phổ biến trong cách thề của người Việt.

Ví dụ 97: - Thế mà không giữ lời hứa thì sao?

- Thế bác coi tôi là người hay chó? [11; tr.171]

Ở ví dụ (97), “Thế bác coi tôi là người hay chó?” là phát ngôn của nghị

Hách, ý muốn khẳng định nếu mình không giữ lời thì không bằng con chó. Tức

là muốn khẳng định trách nhiệm hành động giữ lời, thuyết phục quan Tây về điều

mình muốn hứa bằng cách tự nhận lấy điều tồi tệ: coi như con chó. Nghĩa là

không được là người mà hơn thế không bằng cả con chó loài vật bị khinh miệt,

coi thường.

Hai ví dụ trên cho thấy chủ thể của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam

kết tự nhận về mình những thiệt hại, tổn thất về mặt danh dự cá nhân cũng là một

nét trong văn hóa Việt Nam. Đối với văn hóa phương Tây danh dự cá nhân được

đánh giá chủ yếu qua hành động và kết quả của công việc. Còn đối với văn hóa

91

phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng danh dự cá nhân được đặt trong

cả quá trình hình thành nhân cách, được nhìn nhận trong tiêu chí đánh giá của

toàn cộng đồng trên đạo lí sống hơn là hành động.

3.3.3.2. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thường đưa

ra những tổn thất về tính mạng

Không chỉ tự nhận những tổn thất về mặt danh dự cá nhân, người Việt

cũng viện dẫn sự thiệt hại về tính mạng khi thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết. Theo khảo sát của chúng tôi, trong một số tác phẩm văn học Việt

Nam giai đoạn 1930-1945, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết chứa đựng

những thiệt hại tổn thất gắn với tính mạng của người nói chiếm tỉ lệ rất nhỏ, chỉ

sấp sỉ 14,28%.

Đối với các nền văn hóa trên thế giới, quan niệm về sinh - tử có thể không

hoàn toàn đồng nhất nhưng đều có điểm chung “sự sống là đáng quý, cái chết là

đáng sợ”. Vì vậy, khi thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, người

nói mang cái chết ra để làm tin đối với người nghe về những gì sẽ thực hiện trong

tương lai.

Nếu như trong văn hóa phương Tây quan niệm “Thân cát bụi lại trở về

với cát bụi”, họ chỉ quan tâm đến cuộc sống thực tại, chết là hết. Thì người

Việt lại quan niệm “sống khôn, chết thiêng”, “sống gửi thác về”… Cái chết là

sự chuyển hóa từ thế giới hữu hình sang thế giới tâm linh, để những con người

bình dị trong cuộc sống đời thường trở nên thiêng liêng trong cõi tâm thức.

Người Việt có tục thờ cúng người chết “trần sao âm vậy”. Niềm tin của người

Việt về thuyết luân hồi - cuộc sống ở thế giới bên kia sau khi chết - khiến

người Việt sợ “Chết không toàn thây”, “Chết không nhắm mắt”, “Chết không

có ai than khóc”, “chết không có đất chôn”… Đối với người Việt, chết là tiếp

tục sống ở một thế giới khác. Vì thế chết phải toàn thây, phải được con cháu

nhớ đến. Phúc đức sau khi chết là được mồ yên mả đẹp. Đó là văn hóa nông

nghiệp định cư với tính cộng đồng tự trị rất đặc trưng. Vì vậy, khi thực hiện

92

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết để tăng tính thuyết phục đối với người

nghe một cách tuyệt đối, người nói thường lấy cái chết ra để hứa hẹn, thề thốt,

cam đoan…

Ví dụ 98: “- Nếu mình nói dối em thì sao?

Minh thề rằng:

- Nếu anh mà nói dối em thì anh chết ngay tại chỗ.

Liên không chịu, lắc đầu dù Minh không nhìn thấy gi:

- Không nếu anh nói dối thì em sẽ chết kìa!”

[2; tr.84]

Có thể thấy, trong ví dụ trên, nhân vật Minh và Liên đều viện cái chết để

tăng tính thuyết phục cho lời cam kết của mình.

3.4. Tiểu kết

Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu các hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 từ

góc nhìn của lý thuyết hội thoại và có kết luận khái quát sauu đây:

Thứ nhất, về chủ ngôn và tiếp ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết: Chủ ngôn của các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết luôn tồn tại ở

ngôi thứ nhất số ít và số nhiều. Có thể là các đại từ nhân xưng như tôi, chúng tôi,

tớ, anh..., có thể là các danh từ chỉ quan hệ thân tộc như cha, con, bà... hay danh

từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ như ông Án, Chánh Tổng... Đối tượng tiếp nhận các

hành động thuộc lớp Cam kết được xác định là người nghe.

Thứ hai, về phương diện chức năng: Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 mang

chức năng dẫn nhập với tần số xuất hiện ít nhất 12 lượt (chiếm khoảng 5,76%),

tiếp đến là các hành động mang chức năng hồi đáp với 67 lượt xuất hiện (chiếm

khoảng 32,21%) và với tần số xuất hiện nhiều nhất là các hành động vừa đảm

nhiệm chức năng hồi đáp vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập với 129 lượt

(khoảng 62,01%).

93

Thứ ba, về vai trò của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết: Dễ

dàng nhận thấy, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 thể hiện được ba vai trò cơ bản là:

- Thể hiện thái độ tính cách nhân vật: Bên cạnh việc miêu tả các nhân vật,

việc vận dụng các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết một cách linh hoạt,

các tác giả đã khắc họa thành công thái độ, tính cách nhân vật văn học.

- Thể hiện vị thế và quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp: Xã hội Việt Nam

những năm 1930-1945 với sự phân hóa giai cấp sâu sắc thể hiện trên nhiều

phương diện khác nhau. Giao tiếp là một trong những phương tiện thể hiện rõ

ràng vị thế xã hội của con người ở các tầng lớp khác nhau. Với việc lựa chọn từ

ngữ xưng hô, ngữ điệu nói khi thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết

của mỗi nhân vật khác nhau sẽ thể hiện vị thế và quan hệ giữa các nhân vật khác

nhau.

- Thứ ba, thể hiện văn hóa giao tiếp của người Việt: Khi nghiên cứu đặc

trưng văn hóa dân tộc qua các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, chúng tôi

nhận thấy nó thể hiện rõ nét nhất qua những thiệt hại, tổn thất mà chủ ngôn tự

nhận nhằm thuyết phục người nghe tin vào lời mình nói và những việc mình sẽ

làm. Đó là những thiệt hại, tổn thất thường gắn với sự thiệt hại về tính mạng và

danh dự của chủ ngôn.

94

KẾT LUẬN

Nghiên cứu “Các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số

tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 chúng tôi rút ra những kết

luận sau đây:

1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “các hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945”.

Để thực hiện đề tài này, luận văn đã sử dụng các phương pháp và thủ pháp

nghiên cứu chủ yếu là:

- Phương pháp miêu tả.

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp phân tích tổng hợp.

- Thủ pháp so sánh, đối chiếu.

2. Về tổng quan tình hình nghiên cứu: Luận văn đã tổng quan được tình

hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ qua các công trình nghiên cứu của

các tác giả nước ngoài và trong nước. J.Austin đã có công đầu trong việc xây

dựng lí thuyết hành động ngôn ngữ, sau đó đã được J.Searle, A.Wierzbicka kế

thừa và phát triển. Có rất nhiều nhà Việt ngữ hoc quan tâm đến lí thuyết hành

động ngôn ngữ, trong đó phải kể đến GS.TS Đỗ Hữu Châu và GS.TS Nguyễn

Đức Dân với nhiều công trình nghiên cứu đóng góp cho nền khoa học ngôn

ngữ nước ta. Bên cạnh đó, luận văn còn tổng quan tình hình nghiên cứu về các

hành động ngôn ngữ cụ thể như hành động thề, hành động hứa hẹn, hành động

cam kết của các tác giả Nguyễn Thị Thu Nga, Nguyễn Thị Minh Thu và Vũ

Tố Nga.

3. Về cơ sở lí luận: Luận văn đã sử dụng một số vấn đề lí thuyết cơ bản

làm căn cứ lí luận cho đề tài là: lí thuyết về ngữ cảnh, lí thuyết về hành động

ngôn ngữ, lí thuyết về hội thoại và một số nét về văn hóa.

4. Về tần số sử dụng: Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết được

sử dụng trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 xuất

95

hiện không nhiều, chúng tôi đã khảo sát được 4 hành động: hứa, cam đoan, thề,

hành động ngôn ngữ trung gian. Số lượt sử dụng các hành động này cũng không

giống nhau. Theo khảo sát của chúng tôi, có 208 trường hợp hành động ngôn ngữ

thuộc lớp Cam kết. Căn cứ vào hành động ở lời, chúng tôi đã chia 208 trường

hợp này thành: hành đông hứa được sử dụng nhiều nhất với tỉ lệ sấp sỉ 42,78%

(89 lượt), tiếp đến là hành động ngôn ngữ trung gian với tỉ lệ sấp sỉ 39,42% (82

lượt), hành động cam đoan được sử dụng với tỉ lệ sấp sỉ 9,61% (20 lượt), hành

động thề với tỉ lệ sử dụng ít nhất 17 lượt chiếm sấp sỉ 8,17%.

5. Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết được luận văn nghiên cứu

về các phương diện:

- Về hành động ở lời: Căn cứ vào cách phân loại hành động ngôn ngữ của

Searle, luận văn đã xác định được bốn hành động: hành động hứa, hành động

cam đoan, hành động thề và hành động ngôn ngữ trung gian.

- Về phương thức thể hiện: Các hành động hứa, thề, cam đoan về mặt hình

thức đều tồn tại dưới hai dạng biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi

nguyên cấp. Tuy nhiên, chỉ có hành động ngôn ngữ trung gian chỉ tồn tại dưới

dạng biểu thức ngữ vi nguyên cấp vì trong phát ngôn hay trong biểu thức ngữ vi

không có sự xuất hiện của động từ ngữ vi. Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết được chia thành hai loại là hành động trực tiếp và gián tiếp. Các hành

động ngôn ngữ trực tiếp thuộc lớp Cam kết được nhân biết dựa vào dấu hiệu hình

thức là động từ ngữ vi và dấu hiệu thỏa mãn điều kiện đích ở lời. Tuy nhiên, qua

khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy khi thực hiện các hành động thề, hứa, cam

đoan các tác giả không sử dụng nhiều các động từ ngữ vi. Các phát ngôn có chứa

động từ ngữ vi chỉ xuất hiện 21 lượt trên tổng số 208 lượt, chiếm sấp sỉ 10,05%.

Vì vậy, để xác định các hành động hứa, thề, cam đoan, trung gian trực tiếp hay

gián tiếp chúng tôi dựa vào điều kiện đích ở lời là chủ yếu. Các hành động hứa,

thề, cam đoan, trung gian gián tiếp được thể hiện bởi các hành động khẳng định,

hỏi, cảm thán trực tiếp.

96

- Về chủ ngôn và tiếp ngôn: Chủ ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết luôn ở ngôi thứ nhất số ít hoặc số nhiều. Trong một số trường hợp, chủ

ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết còn sử dụng danh từ chỉ quan

hệ thân tộc hoặc nghề nghiệp, chức vụ để xưng hô chỉ ngôi thứ nhất. Tiếp ngôn

của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết chính là người nghe trực tiếp bởi

người nói chỉ đưa ra lời cam kết khi cho rằng nó sẽ tác động trực tiếp đến người

nghe. Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với sự phân chia giai cấp, địa vị xã

hội sâu sắc đã được các tác giả đưa vào văn chương một cách khéo léo. Chúng

tôi đã thống kê được có 78 trường hợp chủ ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc

lớp Cam kết là người có vị thế xã hội cao, 130 trường hợp chủ ngôn là người có

vị thế xã hội thấp.

- Về chức năng trong cặp thoại, luận văn đã chỉ ra được ba chức năng của

hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết. Ba chức năng đó là: chức năng dẫn nhập,

chức năng hồi đáp, vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng

hồi đáp. Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của các hành động thuộc lớp Cam kết được

sử dụng ít nhất: 12 lượt sử dụng (sấp sỉ 5,76%). Chức năng hồi đáp của các hành

động thuộc lớp Cam kết được sử dụng 67 lượt (sấp sỉ 32,21%). Còn các hành động

thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng

hồi đáp xuất hiện với tần suất lớn nhất 129 lượt (sấp sỉ 62,01%).

- Về vai trò, các hành động thuộc lớp Cam kết còn đóng vai trò quan trọng

trong việc thể hiện thái độ, tính cách của nhân vật; thể hiện vị thế và quan hệ

giữa các nhân vật giao tiếp. Văn hóa và ngôn ngữ là hai đối tượng đặc biệt, chúng

là chất keo gắn kết các thành viên của một dân tộc với nhau, chúng làm nên tính

đặc thù của dân tộc đó, do vậy mà chúng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết.

Vì vậy, các hành động ngôn ngữ nói chung và các hành động ngôn ngữ thuộc lớp

Cam kết nói riêng góp phần thể hiện một phần văn hóa giao tiếp của người Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

97

1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Tp Hồ Chí Minh.

2. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 2, Nxb Giáo dục.

3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb

Giáo dục.

4. Diệp Quang Ban (2009), Ngữ pháp Việt Nam, Nxb Giáo dục.

5. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập1,

Nxb Giáo dục.

6. Đỗ Hữu Châu (1992), Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của ngữ dụng

học, Tạp chí Ngôn ngữ số 1 và 2.

7. Đỗ Hữu Châu (1995), Giáo trình giản yếu về ngữ dụng học, Nxb Giáo dục,

Huế.

8. Đỗ Hữu Châu (1996), Giản yếu về ngữ dụng học, NxbGD.

9. Đỗ Hữu Châu (2000), Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ,

số 10.

10. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương Ngôn ngữ học, tập hai - Ngữ dụng học,

Nxb Giáo dục.

11. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2007), Đại cương Ngôn ngữ học, tập một,

Nxb Giáo dục.

12. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Đức Dân (1987), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.

14. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NXB Văn

hóa thông tin.

15. Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục.

16. Lê Đông (1996), Ngữ nghĩa - Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS

khoa học Ngữ văn, Hà Nội.

17. Nguyễn Thiện Giáp (2007), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

18. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB

98

Giáo dục, Hà Nội.

19. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

ngôn ngữ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

20. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2007), Dẫn

luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.

21. Cao Xuân Hạo (1997), Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo

dục.

22. Cao Xuân Hạo (1999), Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Công Hoan (2010), Tác giả và tác phẩm trong nhà trường, Nxb

Văn học.

24. Nguyễn Công Hoan (2011), Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học.

25. Vũ Thị Thanh Hương (2006) (đồng dịch giả), Ngôn ngữ, văn hoá và xã hội:

Một cách tiếpcận liên ngành, NXB Thế Giới, Hà Nội.

26. Phạm Khiêm Ích (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỉ XX, Viện thông tin

Khoa học Xã hội.

27. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.

28. Vũ Tố Nga (2006), Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và các động từ

biểu thị hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, Tạp chí ngôn ngữ số 5.

29. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lí giải nghĩa hàm ẩn của các hành

độngngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại, Luận án TS Ngữ văn, Đại học Sư

phạm Hà Nội.

30. Lê Quang Thiêm, Ngữ nghĩa học (tập bài giảng), Nxb Giáo dục.

31. Tạ Thị Thúy (2014), Lịch sử Việt Nam (tập 9), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Trần Ngọc Thiêm (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.

33. Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng văn hóa (2002)

34. Phạm Thái Việt (chủ biên), Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa

Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

35. Trần Quốc Vượng (1980), Suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam, Tạp chí

99

dân tộc học số 1 -1980.

36. Trần Quốc Vượng (chủ biên, 1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn

hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. G. Yule (2001), Dụng học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

38. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb

Giáo dục.Nguyễn Như Ý, Từ điển tiếng Việt (1996), Nxb GD.

39. Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên)(2006), Từ điển tiếng Việt, NXB

Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, Hà Nội-Đà Nẵng

40. Viện Văn hóa (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hóa, NXB Văn hóa.

NGỮ LIỆU KHẢO SÁT

1. Dương Dương (2012), Ngô Tất Tố tuyển tập, Nxb Văn học.

2. Khái Hưng - Nhất Linh (2015), Gánh hàng hoa, Nxb Văn học.

3. Khái Hưng - Nhất Linh (2018), Đời mưa gió, Nxb Hội nhà văn.

4. Khái Hưng (1953), Thừa tự, Nxb Phượng Giang.

5. Khái Hưng (2015), Hồn bướm mơ tiên, Nxb Nhã Nam.

6. Khái Hưng (2015), Nửa chừng xuân, Nxb Nhã Nam.

7. Nhất Linh (2006), Đôi bạn, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

8. Nhất Linh (2016), Đoạn tuyệt, Nxb Nhã Nam.

9. Nhất Linh (2016), Lạnh lùng, Nxb Văn học.

10. Nhiều tác giả, Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn (2005), Nxb Văn học.

11. Phạm Thị Ngọc - Vũ Nguyễn (2008), Giông tố - Tác phẩm và dư luận, Nxb

Văn học.

12. Tuấn Thành - Vũ Nguyễn (2007), Bước đường cùng - Tác phẩm và lời bình,

Nxb Văn học.

100