ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHẠM THANH MAI
TÌM HIỂU HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHẠM THANH MAI
TÌM HIỂU HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã ngành: 8 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀO THỊ VÂN THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong bất
cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2019
Tác giả
PHẠM THANH MAI
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn khoa học là PGS.TS.
Đào Thị Vân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi thực hiện
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể các thầy, cô giáo
trong Khoa Ngữ Văn, phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu tại trường.
Tôi xin cảm ơn tập thể lớp cao học K25B - ngành Ngôn ngữ Việt Nam
trường Đai học Sư phạm Thái Nguyên đã đồng hành và đóng góp ý kiến trong
quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp và cơ quan đã quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để giúp
tôi hoàn thành luận văn và khóa học này.
Mặc dù bản thân đã rất nỗ lực, cố gắng song khó tránh khỏi những hạn chế
thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô giáo và những người quan tâm đóng góp ý
kiến để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thanh Mai
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ vii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu .................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 4
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ........................................................ 4
7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN .................................................................................................................. 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ và các hành
động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết ...................................................................... 6
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về các hành động ngôn ngữ .................. 6
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết ................................................................................................................ 7
1.2. Cơ sở lý luận ................................................................................................. 9
1.2.1. Lí thuyết về ngữ cảnh ................................................................................ 9
1.2.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ ............................................................ 11
1.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết ................................................. 17
1.2.4. Lí thuyết hội thoại .................................................................................... 19
1.2.5. Khái quát về văn hóa và ngôn ngữ .......................................................... 23
1.2.6. Vài nét về văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ............................. 25
1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 28
iii
Chương 2. CÁC HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM
KẾT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1930 - 1945 XÉT VỀ HÀNH ĐỘNG Ở LỜI VÀ PHƯƠNG
THỨC THỂ HIỆN ........................................................................................... 29
2.1. Kết quả khảo sát ......................................................................................... 29
2.1.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 29
2.1.2. Số lượng và phân loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ........................................................ 29
2.2.1. Hành động hứa ......................................................................................... 31
2.2.2. Hành động cam đoan ............................................................................... 42
2.2.3. Hành động thề .......................................................................................... 50
2.2.4. Hành động ngôn ngữ trung gian (mơ hồ) ................................................ 58
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 65
Chương 3. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1930 - 1945 TỪ GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT HỘI THOẠI ...................... 67
3.1. Nhận xét chung ........................................................................................... 67
3.2. Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 ............... 68
3.1.1. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết .................... 68
3.1.2. Đối tượng tiếp nhận các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết .......... 71
3.2. Chức năng của các hành động thuộc lớp Cam kết trong một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 .............................................. 72
3.2.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng dẫn
nhập .................................................................................................................... 72
3.2.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng hồi đáp ....... 74
3.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng
hồi đáp vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập .................................................... 77
iv
3.3. Vai trò của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 .............................................. 79
3.3.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ, tính cách
nhân vật .............................................................................................................. 79
3.3.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế và quan hệ
giữa các nhân vật giao tiếp ................................................................................ 86
3.3.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện văn hóa giao tiếp
của người Việt ................................................................................................... 89
3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 93
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 97
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội :
ĐKCB Điều kiện căn bản :
ĐKCB Điều kiện chuẩn bị :
ĐKCT Điều kiện chân thành :
ĐKNDMĐ Điều kiện nội dung mệnh đề :
NXB Nhà xuất bản :
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng tổng kết số lượng và số lượt dùng các hành động ngôn
ngữ thuộc lớp Cam kết ................................................................... 30
Bảng 2.2: Bảng tổng kết hành động hứa ........................................................ 31
Bảng 2.3: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động hứa ................... 39
Bảng 2.4: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động hứa .............. 42
Bảng 2.5: Bảng tổng kết hành động cam đoan ............................................... 43
Bảng 2.6: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động cam đoan .......... 48
Bảng 2.7: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động cam đoan ..... 50
Bảng 2.8: Bảng tổng kết hành động thề ......................................................... 51
Bảng 2.9: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động thề .................... 56
Bảng 2.10: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động thề ............... 58
Bảng 2.11: Bảng tổng kết hành động ngôn ngữ trung gian ............................. 59
Bảng 2.12: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động ngôn ngữ
trung gian thuộc lớp Cam kết ........................................................ 65
Bảng 3.1: Bảng phân loại chức năng của hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945 .... 72
vii
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khách quan
Dụng học là một chuyên ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu việc sử dụng
ngôn ngữ trong mối quan hệ với các nhân tố giao tiếp. Tuy ra đời chưa lâu song
bộ môn khoa học này đã phát triển mạnh mẽ cả về lý thuyết, cả về những nghiên
cứu cụ thể, khiến ngôn ngữ học không còn nằm trong hệ thống khép kín của cấu
trúc luận nội tại mà đã đi vào thực tế đa dạng của đời sống ngôn ngữ. Nghiên
cứu các hành động ngôn ngữ, đặc biệt là hành động ở lời, là một vấn đề cơ bản
và trọng tâm của Ngữ dụng học.
Khi giao tiếp, để bày tỏ được ý định, mục đích của mình, người nói thường
dùng nhiều loại hành động ngôn ngữ, mà mỗi loại hành động đó lại được thực hiện
bằng một số kiểu câu có hình thức, mục đích nói năng nhất định. Ví dụ khi muốn
bày tỏ thái độ xót thương, buồn rầu chúng ta sử dụng hành động cảm thán, muốn
bày tỏ sự hoài nghi hay thắc mắc về một vấn đề, một sự việc chúng ta sử dụng
hành động hỏi… Trong các hành động nói năng, hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết được người Việt sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp và cũng là một
trong những đối tượng được Ngữ dụng học quan tâm.
Trong những năm gần đây, xu hướng nghiên cứu hành động ngôn ngữ đã và
đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Hướng tới việc xây dựng
bức tranh khái quát về hành động ngôn ngữ của người Việt nói chung, của các nhân
vật trong tác phẩm văn chương nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các
nhóm hành động ngôn ngữ. Song, có thể nói rằng đến nay chưa có một công trình
nào nghiên cứu hành động thuộc lớp Cam kết của nhân vật trong văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 một cách công phu, bài bản.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã có những đóng góp đáng kể
trong lịch sử văn học nước nhà. Sự đóng góp ở đây không chỉ thể hiện ở xu
hướng chọn đề tài, ở sự phản ánh trung thực lịch sử xã hội và cách mạng Việt
1
Nam giai đoạn này mà còn thể hiện ở phong cách nghệ thuật độc đáo qua ngôn
ngữ nhân vật, trong đó hành động ngôn từ của mỗi kiểu nhân vật thuộc các giai
tầng xã hội lại không giống nhau.
1.2. Lí do chủ quan
Là một giáo viên giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông, thiết nghĩ
muốn hiểu được lịch sử xã hội Việt Nam, hiểu được văn hóa giao tiếp con người
Việt Nam thuộc các tầng lớp khác nhau trong giai đoạn xã hội Việt Nam phân
chia giai cấp, không thể không nghiên cứu ngôn ngữ của họ. Vì vậy, chọn đề tài
Tìm hiểu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn
xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 để nghiên cứu, chúng tôi muốn khắc sâu
lý thuyết hành động ngôn ngữ và làm rõ thêm đặc điểm ngôn ngữ của các nhân
vật văn học trong giai đoạn lịch sử này, đồng thời giúp chúng tôi hiểu thêm về
nghệ thuật sử dụng ngôn từ của một số các tác giả có tên tuổi của nền văn học
Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết của nhân vật trong
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, người viết một mặt muốn làm rõ cách
dùng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết cũng như vị thế của các nhân vật
thuộc hai giai cấp ở xã hội Việt Nam thời kì trước Cách mạng tháng 8, mặt khác,
muốn góp phần củng cố lí thuyết hành động ngôn ngữ và làm tài liệu tham khảo
cho những ai muốn nghiên cứu ngôn ngữ văn chương nói chung, hành động ngôn
ngữ thuộc lớp Cam kết trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ chính sau đây:
(1) Nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận cho
việc xử lí đề tài.
(2) Khảo sát, thống kê và phân loại các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
2
Cam kết trong những tác phẩm được chọn làm nguồn ngữ liệu khảo sát.
(3) Miêu tả, phân tích và tổng kết các hành động ngôn ngữ lớp Cam kết
của nhân vật theo từng tiêu chí đã định trước.
(4) Ngoài ra, luận văn còn phân tích chức năng, vai trò của các hành động
ngôn ngữ lớp Cam kết trong việc thể hiện nghệ thuật của tác phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Các hành động thuộc lớp Cam kết
trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về ngữ liệu khảo sát: Ngữ liệu khảo sát hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết của nhân vật là một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945, cụ thể: Tiểu thuyết Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bước Đường Cùng của
Nguyễn Công Hoan, Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao, Tuyển tập Ngô Tất Tố,
Tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Thừa tự của Khái Hưng, Đôi
bạn, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh, Gánh hàng hoa, Đời mưa gió của
Khái Hưng - Nhất Linh.
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn này nghiên cứu hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết của nhân vật trong các tác phẩm trên về ba phương diện:
+ Hành động ở lời;
+ Phương thức thể hiện (hành động ngôn ngữ);
+ Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận của hành động thuộc lớp Cam kết;
+ Chức năng và vai trò của các hành động thuộc lớp Cam kết của nhân vật
trong các tác phẩm đã chọn làm ngữ liệu khảo sát.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương pháp và thủ pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được
dùng để thống kê và phân loại các hành động ngôn ngữ lớp Cam kết của nhân
vật trong các tác phẩm nói trên.
3
- Phương pháp miêu tả: Luận văn sử dụng phương pháp miêu tả để phân
tích, miêu tả các đặc điểm của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một
số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp nghiên cứu này
được dùng để phân tích, tổng hợp đặc điểm của các lớp hành động ngôn ngữ đã
được thống kê và phân loại...
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Thủ pháp so sánh, đối chiếu được dùng để
so sánh những điểm đồng nhất và khác biệt giữa một số hành động ngôn ngữ thuộc
lớp hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong các tác phẩm đã nói trên.
5. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trên cơ sở kiến thức liên ngành ngôn
ngữ và văn học, luận văn đã có một số đóng góp như sau:
- Luận văn đã thống kê được những số liệu cụ thể về việc sử dụng các hành
động hứa, hành động thề, hành động cam đoan và hành động ngôn ngữ trung
gian trong các tác phẩm văn xuôi thuộc phạm vi khảo sát.
- Từ góc nhìn của lý thuyết hội thoại, luận văn đã chỉ ra những chức năng
và vai trò của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong các văn bản văn học
cụ thể.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần làm rõ phương diện đích ở lời, phương thức thể hiện
của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi
Việt Nam giai đoạn 1930 -1945. Đồng thời luận văn nghiên cứu các hành động
ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết từ góc nhìn lý thuyết hội thoại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp cho việc phân tích, giảng
dạy một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trên bình diện ngữ
dụng học thông qua việc miêu tả, phân tích các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết trong hội thoại giữa các nhân vật.
4
Luận văn là tư liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh, những người có
nhu cầu tìm hiểu về hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 xét về hành động ở lời và phương
thức thể hiện
Chương 3: Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nhìn từ lý thuyết hội thoại
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ và các hành
động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về các hành động ngôn ngữ
1.1.1.1. Các tác giả nước ngoài
Nói về các công trình nghiên cứu hành động ngôn ngữ (có người gọi là
“hành động ngôn từ”, “hành vi ngôn ngữ”) của các tác giả nước ngoài, không thể
không nhắc đến một số nhà ngôn ngữ học với những công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau:
- J. Austin là người có công đầu trong việc xây dựng lí thuyết hành động
ngôn từ. Lí thuyết này được thể hiện trong 12 chuyên đề giảng dạy ở Đại học
Havard, sau này được học trò của ông tập hợp trong cuốn “How to do things with
words” (Hành động như thế nào bằng lời nói).
- J. Searle là người đã kế thừa và phát triển lí thuyết hành động ngôn từ
của J. Austin. Ông khẳng định bản chất hành động của mỗi lời nói thông qua việc
chỉ ra các phương tiện nhận diện lực ngôn trung trong câu. Để khắc phục những
hạn chế của J. Austin, J. Searle đã đưa ra một hệ thống gồm 12 tiêu chí phân loại
hành động ngôn từ, ngoài ra ông cũng xác lập một hệ thống thuận ngôn (bao gồm
nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện căn bản).
Đây là những đóng góp to lớn của tác giả trong việc phát triển lí luận về hành
động ngôn từ.
- A. Wierzbicka với công trình nghiên cứu mang tên “English speech act
verbs - a semantic dictionary” đã phân loại hành động ngôn từ khá chi tiết dựa
trên cơ sở 270 vị từ - động từ nói năng (speech act verbs). Các vị từ này được bà
qui về 37 nhóm, tiêu biểu là: ra lệnh (order), cầu xin (ask1), hỏi (ask2), mời gọi
(call), cấm (forbid), cho phép (permit), tranh cãi (argue), trách mắng
(reprimand),...
6
Quan trọng là trong quá trình miêu tả và giải thích, tác giả đã bám theo
những tiêu chí của điều kiện thuận ngôn như: cương vị của Sp1 và Sp2; Sp1 dùng
chiến lược nào (lí trí hay tình cảm) để hành động; Sp2 có quyền từ chối việc thực
hiện hành động được nêu trong nội dung mệnh đề hay không; khi công việc hoàn
tất, người hưởng lợi là Sp1 hay Sp2.
- Ngoài ba nhà ngôn ngữ học kể trên, còn một số nhà nghiên cứu kế tục
công việc phân loại hành động ngôn từ của J. Austin, đó là: D. Wunderlich, F.
Recanati, K. Bach, R.M. Hanish, K. Allan,... Song do khuôn khổ của luận văn,
chúng tôi không thể bàn thêm về các căn cứ phân loại cũng như quan điểm của
các tác giả này.
1.1.1.2. Các tác giả trong nước
Có nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm đến lí thuyết hành động ngôn ngữ,
xin được giới thiệu hai tác giả tiêu biểu:
- Tác giả Đỗ Hữu Châu là một trong những dịch giả và cũng là tác giả
dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về hành động ngôn ngữ (xin nói thêm, hành
động ngôn ngữ được tác giả gọi bằng cái tên khác là hành vi ngôn ngữ). Không
chỉ chuyển tải những quan điểm của J. Austin, J. Searle, tác giả Đỗ Hữu Châu
còn nêu định nghĩa về hành vi ngôn ngữ và các vấn đề liên quan như: phát ngôn
ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi, biểu thức ngữ vi tường minh và biểu
thức ngữ vi nguyên cấp,...
- Tác giả Nguyễn Đức Dân, ngoài những nội dung giới thiệu quan điểm
của J. Austin, J. Searle, còn chỉ ra những hiện tượng mơ hồ giữa vị từ ngôn hành
(tác giả dùng thuật ngữ động từ ngữ vi) và động từ trần thuật, giữa câu ngữ vi và
câu trần thuật để từ đó đề xuất một số cách phân biệt hai loại câu này.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết
Có thể nói, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hay
gián tiếp bàn về hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, dưới đây là một số công
trình tiêu biểu (xin liệt kê theo năm công bố):
7
Bài báo Hành vi cam kết và các động từ biểu thị hành vi cam kết in trên “Tạp
chí Ngôn ngữ, số 5, 2006” của tác giả Vũ Tố Nga đã chỉ ra khái niệm hành vi cam
kết và các động từ biểu thị hành vi cam kết. Đồng tác giả còn có bài báo “Sự kiện
lời nói và sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại” (Tạp chí Từ điển học và Bách
khoa thư, số 5 (31), tháng 9- 2014) đã đưa ra khái niệm sự kiện lời nói và nghiên
cứu về sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại. Bài báo đã xây dựng khái niệm sự
kiện lời nói cam kết, cấu trúc của sự kiện lời nói cam kết bao gồm cấu trúc tổng thể
và cấu trúc lõi. Ngoài ra, tác giả Vũ Tố Nga còn có công trình “Các thành phần của
một biểu thức ngữ vi cam kết tường minh” (Đỗ Hữu Châu - Hành trình và tiếp nối,
NXB ĐHQGHN, HN - 2015) đã miêu tả, phân tích chi tiết về các thành phần tạo
nên một biểu thức ngữ vi cam kết tường minh: người nói; động từ biểu thị hành vi
cam kết; người, đối tượng tiếp nhận hoặc chứng kiến hành vi cam kết và nội dung
mệnh đề. Có thể thấy tác giả Vũ Tố Nga đã có sự nghiên cứu chuyên sâu về hành
động cam kết. Từ đó, góp phần đem đến cho người đọc một cái nhìn tổng thể và
làm sáng tỏ thêm về hành động ngôn ngữ này.
Luận văn Thạc sĩ “Khảo sát hành động hứa hẹn và các phương thức biểu
hiện nó” (Trên ngữ liệu tiếng Việt và tiếng Anh) (2009) của tác giả Vũ Thị Minh
Thu đã vận dụng lý thuyết về hành vi ngôn ngữ, lý thuyết hội thoại… đưa ra một
cái nhìn bao quát và cụ thể về hành động hứa hẹn và các phương thức biểu hiện
nó và có so sánh với tiếng Anh để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong
hai nền văn hóa. Công trình này đã đưa ra cách phân loại hành động hứa hẹn theo
nội dung: hứa hẹn thuộc phạm trù giúp đỡ, nhượng bộ, hứa hẹn thuộc phạm trù
mời chào và hứa hẹn thuộc phạm trù giao kèo, thề bồi.
Luận án Tiến sĩ “Hành vi ngôn ngữ thề (swear) trong tiếng Việt” (2013)
của tác giả Nguyễn Thị Thu Nga đã vận dụng các lý thuyết về hành động ngôn
ngữ, lý thuyết hội thoại để nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của hành
động thề. Từ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, tác giả đưa ra một số đặc
trưng văn hóa dân tộc qua lời thề và một số đặc trưng của việc sử dụng lời thề
trong giao tiếp của người Việt hiện nay.
8
Với các công trình dẫn trên một lần nữa khẳng định đã có các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ quan tâm đến hành động ngôn ngữ nói chung và hành động thuộc
lớp Cam kết trong tiếng Việt nói riêng. Song chưa có công trình nào nghiên cứu
về các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết qua lời thoại của nhân vật trong
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 một cách bài bản.
Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tiễn nghiên cứu về hành động ngôn
ngữ nói chung và các hành động hứa hẹn, cam kết, thề nói riêng, ở luận văn này
chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu hành động ngôn từ của nhân vật trong tác phẩm
văn chương cụ thể là các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết về các phương
diện: hành động ở lời, phương thức thể hiện và nghiên cứu các hành động ngôn
ngữ này từ góc nhìn lý thuyết hội thoại.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Lí thuyết về ngữ cảnh
1.2.1.1. Khái niệm ngữ cảnh
Theo từ điển Encyclopedia of Language and Linguisticsđịnh nghĩa: “Ngữ
cảnh (situtional context; context of situation; context de situation) là bối cảnh
ngoài ngôn ngữ của một phát ngôn hay là những thông tin ngoài ngôn ngữ góp
phần tạo nên nghĩa (của phát ngôn)”. [27]
1.2.1.2. Các nhân tố thuộc ngữ cảnh
Các nhân tố của ngữ cảnh thường được nói tới là:
- Nhân vật giao tiếp: Nhân vật giao tiếp bao gồm người nói (viết) và người
nghe (đọc). Mỗi người có một vị thế nhất định: vị thế XH (trên, dưới, bình đẳng),
vị thế giao tiếp (quyền chủ động hay bị động). Các vị thế này hình thành quan hệ
giao tiếp (thân mật, gần gũi, khách sáo quan cách, nhiệt tình, hờ hững…).
- Hoàn cảnh giao tiếp: Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm hoàn cảnh giao tiếp
rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp.
- Hiện thực được nói tới: Đó có thể là hiện thực bên ngoài các nhân vật
giao tiếp hoặc là hiện thực tâm trạng của con người.
9
- Ngữ huống: Những thay đổi theo diễn biến của cuộc giao tiếp: nhân vật
giao tiếp mới xuất hiện, nhân vật giao tiếp cũ không tiếp tục tham gia giao tiếp
nữa, trạng thái tâm lí, trạng thái hiểu biết, ý đồ, đề tài... thay đổi.
- Văn cảnh: Văn cảnh bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ như âm, tiếng,
từ ngữ, câu... cùng có mặt trong văn bản, đi trước hoặc đi sau một yếu tố ngôn
ngữ nào đó đang được xem xét.
Mỗi một nhân tố trên đóng vai trò nhất định trong việc tạo lập lời nói phù
hợp và giúp lĩnh hội đầy đủ, thấu đáo lời nói của người mà mình giao tiếp.
1.2.1.3. Vai trò của ngữ cảnh trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ
Ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập văn bản và lĩnh hội
văn bản.
a. Đối với quá trình sản sinh văn bản (nói, viết): Ngữ cảnh chính là môi
trường sản sinh ra các phát ngôn giao tiếp, nó chi phối cả hình thức và nội dung
của phát ngôn. Việc dùng từ đặt câu phải phù hợp về ngữ nghĩa và ngữ pháp
với các từ ngữ khác được dùng trong văn bản, phải phù hợp với quan hệ giữa
người viết và người đọc (về vị thế, về quan hệ thân sơ, trạng thái tâm lí…), phải
phù hợp với cách thức giao tiếp (viết hay nói) và tình huống giao tiếp cụ thể
(giao tiếp có tính chất nghi lễ hay không có tính chất nghi lễ).
Ngoài ra còn cần phải chú ý đến hoàn cảnh giao tiếp. Vì điều đó sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả của cuộc giao tiếp. Chẳng hạn, ở Việt Nam khi mới gặp
nhau lần đầu người ta hay hỏi nhau về tuổi tác để xưng hô cho đúng. Nhưng ở
một số nước trên thế giới việc hỏi tuổi lại bị coi là khiếm nhã. Vì thế việc tìm
hiểu phong tục tập quán, nét văn hóa nơi mình giao tiếp cũng là việc rất quan
trọng. Nó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp của mình.
Tóm lại, ngữ cảnh đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo lập văn bản
(nói, viết). Muốn đạt hiệu quả giao tiếp cao, người nói (viết) cần chú ý đến ngữ
cảnh, đến từng nhân tố trong đó.
10
b. Đối với việc lĩnh hội văn bản, muốn lĩnh hội chính xác, thấu đáo một
phát ngôn nào đó người nghe (người đọc) cần căn cứ vào ngữ cảnh. Phải đặt phát
ngôn đó vào ngữ cảnh mà nó ra đời, dựa vào tình huống cụ thể để phân tích, lý
giải, hiểu cặn kẽ từng chi tiết về nội dung và hình thức.
1.2.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ
1.2.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ, con người thực hiện rất nhiều hoạt động
khác nhau trong giao tiếp. Các hành động này được thể hiện hết sức đa dạng và
được gọi chung là hành động ngôn ngữ. Mối liên hệ giữa ngôn ngữ và hành động
ngôn ngữ của con người là hiển nhiên. Có thể nói hành động ngôn ngữ là một
vấn đề cơ bản và trọng tâm của Ngữ dụng học.
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, hành động ngôn ngữ
được định nghĩa là “Một đoạn lời có mục đích nhất định thực hiện trong những
điều kiện nhất định được tách biệt bằng các phương tiện trên ngữ liệu và hoàn
chỉnh thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói người nghe đều có liên
hệ với một ý nghĩa như nhau, trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó. Hành động ngôn
ngữ được thực hiện khi một người nói (người viết) nói (viết) ra một phát ngôn
cho người nghe (người đọc) trong một ngữ cảnh nhất định.” [41; tr.176].
Những năm 60 của thế kỉ XX, J. Austin và J. Searle đề xuất lý thuyết hành
động ngôn từ (speech act). Theo Austin, người ta thực hiện đến 3 loại hành động
trong khi nói ra một phát ngôn đó là: hành động tạo lời, hành động ở lời và hành
động mượn lời.
Hành động tạo lời (locutionary act) là hành động người nói sử dụng các
yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ để tạo ra phát ngôn
thành phẩm với một dạng thức cụ thể và một ý nghĩa ít nhiều xác định.
Hành động ở lời (illocutionarxy act) là hành động người nói thực hiện
ngay khi nói năng để tạo ra hiệu quả thuộc ngôn ngữ, đặt trong một thiết chế xã
hội, một môi trường văn hóa - ngôn ngữ nào đó. Đó là những hành động như:
cảm ơn, xin lỗi, hứa, ra lệnh, đề nghị, thề, bác bỏ...
11
Hành động mượn lời (perlocutionary act) là hành động thông qua phương
tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ, thể hiện qua tác động tâm
lí mà phát ngôn đem lại với người nghe.
Trong ba loại hành động này thì hành động ở lời là đối tượng nghiên cứu
của Ngữ dụng học. Và khái niệm hành động ngôn ngữ hiểu theo nghĩa hẹp chính
là hành động ở lời.
Tiếp theo Austin, John R. Searle, nhà triết học ngôn ngữ người Mĩ, đã tiếp
tục phát triển lý thuyết hành động ngôn ngữ với tác phẩm nổi tiếng nhất của
mình, đó là “Speech Acts” (1969). Với Searle, Speech Acts có thể hiểu là “Nói
là hành vi tuân theo điều kiện”. Mỗi hành động ngôn ngữ phải tuân theo những
điều kiện nhất định. Searle cũng tin rằng mỗi khi ai đó thực hiện một hành động
ngôn ngữ thì người đó có thể thực hiện ba hành động:
- Hành động phát ngôn (utterance act) là hành động mà người nói sử dụng
dòng âm thanh, từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp để tạo ra phát ngôn giao tiếp.
- Hành động mệnh đề (propositional act) là nội dung ý nghĩa của phát ngôn
và nội dung đó có thể nhận xét được là đúng hay sai.
- Hành động ở lời (Illocutionary act) là sự bày tỏ của người nói cho người
nghe biết chủ ý/ ý định tại lời (illocutionary intention) của mình nói ra một phát
ngôn. Searle cũng đưa ra một bộ tiêu chí để phân loại các hành động ở lời.
Có thể nói rằng tư tưởng của Austin và Searle đã tạo nền móng vững chắc
cho lí thuyết hành động ngôn ngữ.
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã nghiên cứu và đưa ra các khái niệm
về hành động ngôn ngữ (còn gọi là hành vi ngôn ngữ).
Theo Đỗ Hữu Châu: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng
ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện thể hiện là ngôn ngữ.
Hành động ngôn ngữ được thực hiện khi người nói (hoặc người viết) SP1 nói ra
một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) SP2 trong ngữ cảnh C” [10;
tr.88].
12
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp gọi hành động ngôn ngữ là hành động ngôn
từ, ông cho rằng: "Các hành động được thực hiện bằng lời gọi là hành động ngôn
từ (speech act). Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một
phát ngôn" [16; tr.42].
Như vậy, có thể khẳng định “hành động ngôn ngữ” chính là một hành
động sử dụng ngôn từ nhằm tác động đến người tiếp nhận lời trong giao tiếp,
nó gắn liền với hoạt động nói năng của con người và mang tính chất xã hội.
1.2.2.2. Phân loại hành động ngôn ngữ
Trước J. Austin, Wittgenstein đã nói tới các hành động ngôn ngữ mặc dù
nhà triết học này không dùng thuật ngữ hành động mà dùng thuật ngữ trò chơi
ngôn ngữ. Ông đã liệt kê hàng loạt những hành động ngôn ngữ như: đưa ra một
mệnh lệnh và tuân lệnh, miêu tả bề ngoài một vật và đo đạc nó, tường thuật lại
một sự kiện, nghiên cứu một vấn đề, hình thành và kiểm nghiệm một giả thuyết,
trình bày kết quả nghiên cứu bằng biểu bảng, viết và đọc truyện, diễn kịch, giải
câu đố, nói đùa, dịch, hỏi, cảm ơn, chửi, chào, cầu nguyện nhưng ông cho rằng
không thể phân loại được chúng.
J. Austin đã thử nghiệm phân loại những hành động ngôn ngữ mà
Wittgenstein đã liệt kê và được năm phạm trù đó là: phán xử, hành xử, cam kết,
trình bày và ứng xử.
Searle cho rằng Austin đã phân loại trên những tiêu chí chồng chéo
nhau và không rõ ràng nên đã có những yếu tố không tương hợp được xếp
trong một lớp, lại có những hành động về bản chất cùng loại nhưng được xếp
vào các lớp khác nhau. Searle đã đưa ra 4 tiêu chí quan trọng nhất là: đích
tại lời, hướng khớp ghép lời - hiện thực, trạng thái tâm lí được biểu hiện, nội
dung mệnh đề.
Searle đã phân loại các hành động ở lời thành 5 lớp lớn: Biểu hiện
(representatives) (còn gọi là trình bày, khảo nghiệm, thông tin miêu tả, xác tín),
Điều khiển (directives) (còn gọi là chi phối), Kết ước (commissives) (còn gọi là
Cam kết), Cảm thán (expressives), Tuyên bố (declarations).
13
1.2.2.3. Điều kiện thực hiện các hành động ở lời
Hành động ở lời, cũng giống như các hành động khác của con người,
chỉ được thực hiện thành công với những điều kiện nhất định. Hơn nữa, hành
động ở lời còn là một hành động xã hội, nên những điều kiện để thực hiện còn
chặt chẽ và đa dạng hơn. Những điều kiện đó được gọi là điều kiện sử dụng
hành động ở lời vì nếu có chúng thì hành động ở lời mới thực hiện được và
thực hiện có hiệu quả.
Tuy điều kiện sử dụng của mỗi hành động ở lời khác nhau nhưng vẫn có
thể tìm ra những cái chung trong những điều kiện riêng. Searle cho rằng có bốn
loại điều kiện sử dụng hành động ở lời sau đây:
a. Điều kiện nội dung mệnh đề
Điều kiện này chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Mỗi hành động ở
lời sẽ có một nội dung mệnh đề đặc trưng.
b. Điều kiện chuẩn bị
Đây là điều kiện liên quan tới các quan hệ giữa người nói và người tiếp
nhận hành động. Cũng thuộc điều kiện chuẩn bị là lợi ích, trách nhiệm, năng lực
vật chất, tinh thần cũng như quyền lực của người nói đối với hành động ở lời mà
mình đưa ra.
c. Điều kiện chân thành
Đây là điều kiện chỉ ra trạng thái tâm lí của người thực hiện hành động ở
lời thích hợp với hành động ở lời mà mình đưa ra. Điều kiện chân thành còn có
nghĩa là người nói thực sự, chân thành mong đợi hiệu quả ở lời của hành động ở
lời mà mình thực hiện.
d. Điều kiện căn bản
Theo điều kiện này thì người thực hiện một hành động ở lời nào đó khi
phát ra biểu thức ngữ vi tương ứng bị ràng buộc ngay vào trách nhiệm mà hành
động ở lời tạo ra biểu thức ngữ vi đó đòi hỏi.
14
1.2.2.4. Phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi
a. Phát ngôn ngữ vi
“Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn - sản phẩm của một hành động ở lời nào đó
khi hành động này được thực hiện một cách trực tiếp, chân thực.” [10; tr.91].
Trong thực tế chúng ta có thể gặp hai loại phát ngôn ngữ vi. Phát ngôn ngữ
vi tối giản là phát ngôn ngữ vi chỉ có biểu thức ngữ vi, chẳng hạn như:
Vi dụ 1: “Em hứa từ mai sẽ đi học đầy đủ.”
Và các phát ngôn ngữ vi mở rộng, ngoài biểu thức ngữ vi còn chứa những
thành phần phụ khác.
Ví dụ 2: "Để hoàn thành công việc sớm, tớ hứa sẽ chăm chỉ làm việc. Phát
ngôn ngữ vi này gồm biểu thức ngữ vi cốt lõi “Tớ hứa sẽ chăm chỉ làm việc” của
hành động hứa và thành phần mở rộng “Để hoàn thành công việc sớm”.
b. Biểu thức ngữ vi
Searle cho rằng tất cả các phát ngôn (do hành động tạo lời và hành động ở
lời tạo ra) đều có hai thành phần ngữ nghĩa kí hiệu là: F(p). (p) là nội dung thông
tin thường được biểu diễn bằng một nội dung mệnh đề (là sự phản ánh một sự
tình khách quan vào phát ngôn bằng cấu trúc vị từ - tham thể, cho nên (p) cũng
tương đương với cấu trúc vị từ - tham thể). F là kí hiệu chỉ hiệu lực ở lời do hành
động ở lời tạo ra phát ngôn đó mà có.
Trong một phát ngôn, có những dấu hiệu cho biết phát ngôn đó do hành
động ở lời nào tạo ra, tức có hiệu lực ở lời F gì. Chẳng hạn, một phát ngôn “Anh
có đi Huế không?” là một phát ngôn đặc trưng cho hành động ở lời hỏi vì nó có
những dấu hiệu đặc trưng như kiểu kết cấu “…có … không?” và ngữ điệu hỏi.
Những dấu hiệu này được gọi là phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (illocutionary
force indicating devices - IFIDs). Nhờ các dấu hiệu này mà người nghe có thể
nhận ra hành động ở lời nào đang được người nói thực hiện để hồi đáp lại bằng
một hành động thích hợp.
15
Biểu thức ngữ vi có thể có động từ ngữ vi hay không có động từ ngữ vi
trên bề mặt câu chữ. Nếu biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi trên bề mặt
câu chữ thì đó là biểu thức ngữ vi tường minh. [28, tr.81]
Nếu biểu thức ngữ vi không có các động từ ngữ vi trên bề mặt câu chữ thì
đó là biểu thức ngữ vi hàm ẩn hay còn gọi là biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
c. Động từ ngữ vi
Theo GS. Đỗ Hữu Châu “Trong các động từ nói năng có những động từ
đặc biệt, đó là những động từ có thể thực hiện trong chức năng ở lời. Những động
từ này được gọi tên là động từ ngữ vi. Động từ ngữ vi là những động từ mà khi
phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi (có khi không cần có biểu thức ngữ
vi đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành động ở lời do chúng biểu thị.”
[10; tr.97]
Tuy nhiên, không phải lúc nào một động từ ngữ vi cũng được dùng trong
chức năng ngữ vi. Austin cho rằng động từ ngữ vi có hiệu lực ngữ vi khi trong
phát ngôn nó được dùng ở ngôi thứ nhất, thời hiện tại, thể chủ động và thức
thực thi.
Ví dụ 3: “ - Em hứa sẽ giúp chị làm việc.”
“- Bạn ấy đã hứa giúp mình làm việc.”
Trong ví dụ trên, hứa ở câu thứ nhất được dùng trong hiệu lực ngữ vi, còn
hứa ở câu thứ hai dùng với ngôi thứ ba và trong thời gian quá khứ cho nên động
từ này có chức năng miêu tả thông thường.
1.2.2.5. Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp
a. Hành động ở lời trực tiếp
Theo GS. Đỗ Hữu Châu, hành động ở lời trực tiếp được hiểu là “…các
hành vi ngôn ngữ chân thực, có nghĩa là các hành vi được thực hiện đúng với các
điều kiện sử dụng, đúng với các đích ở lời của chúng.” [10; tr.256]
G. Yule quan niệm “Chừng nào có mối quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc
và một chức năng, thì ta có một hành động nói trực tiếp.” [17; tr.110]
16
b. Hành động ở lời gián tiếp
Hiện tượng người giao tiếp sử dung trên bề mặt hành động ở lời này nhưng
lại nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng
hành động theo lối gián tiếp. Một hành động được sử dụng gián tiếp là hành động
trong đó người nói thực hiện một hành động ở lời này nhưng người nghe phải
dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người
suy ra hiệu lực ở lời của một hành động khác như: hành động hỏi trực tiếp thể
hiện hành động cảm thán gián tiếp, hành động cảm thán trực tiếp thể hiện hành
động sai khiến gián tiếp…
Các hành động ngôn ngữ gián tiếp là một trong những phương thức tạo ra
tính mơ hồ cho lời nói. Tuy nhiên, chúng ta không thể tùy tiện dùng hành động
ở lời trực tiếp này để tạo ra hành động ở lời gián tiếp khác.
1.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết
Theo định nghĩa trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ
học xuất bản năm 2004, “cam kết” là chính thức cam đoan làm đúng những
điều đã hứa.
Khi phân loại hành động ngôn ngữ, mặc dù dựa trên những tiêu chí phân
loại khác nhau và quan điểm phân loại khác nhau nhưng cả Austin và Searle đều
đã tách cam kết (commissives, commissifs) ra thành một nhóm độc lập với các
nhóm hành động ngôn ngữ khác.
Austin cho rằng thuộc nhóm cam kết là những hành động ràng buộc người
nói vào chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao
ước, bảo đảm, thề nguyền, thông qua các quy ước, tham gia một phe nhóm.
Searle xác định nhóm hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết theo 4 tiêu
chí phân loại như sau:
- Đích ở lời: Trách nhiệm phải thực hiện hành động trong tương lai mà
người nói bị ràng buộc.
17
- Hướng khớp - ghép hiện thực - lời.
- Trạng thái tâm lý: Là ý định của người nói. Người nói phải thực sự mong
muốn và tự nguyện thực hiện điều nêu trong nội dung mệnh đề, bất chấp những
khó khăn thiệt hại mà mình phải gánh chịu.
- Nội dung mệnh đề: Là hành động trong tương lai của người nói.
Có thể thấy điểm thống nhất giữa quan điểm của Austin và Searle về nhóm
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết là người nói chịu trách nhiệm trước người
nghe về một hành động trong tương lai mà mình đã nêu trong phát ngôn.
Các biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi biểu thị các hành động thuộc
nhóm cam kết được gọi là biểu thức ngữ vi cam kết tường minh. Còn các biểu
thức ngữ vi không có động từ ngữ vi biểu thị các hành động thuộc nhóm cam kết
được gọi là phát ngôn ngữ vi cam kết nguyên cấp.
Ví dụ 4: Sp1 - Thưa cô, em xin hứa từ ngày mai em sẽ học hành chăm chỉ.
Sp2 - Cô tin em sẽ làm được.
Ví dụ 5: Sp1 - Cậu không định hướng dẫn tớ làm bài này à?
Sp2: - Tớ đang bận quá. Tớ thề sẽ hướng dẫn cậu làm bài tập vào ngày mai.
Ở ví dụ (4), phát ngôn của Sp có chứa động từ “hứa” được dùng trong hiệu
lực ngữ vi và Sp chịu trách nhiệm trước Sp2 về hành động sẽ thực hiện trong
tương lai (học hành chăm chỉ). Vì vậy, “Thưa cô, em xin hứa từ ngày mai em sẽ
học hành chăm chỉ.” là một biểu thức ngữ vi hứa tường minh.
Tương tự ở ví dụ (5), cũng có động từ “thề” được dùng trong hiệu lực ngữ
vi và Sp2 chịu trách nhiệm với Sp1 về hành động sẽ thực hiện trong tương lai
(hướng dẫn làm bài tập vài ngày mai). Nên “Tớ thề sẽ hướng dẫn cậu làm bài
tập vào ngày mai.” là một biểu thức ngữ vi thề tường minh.
Hay trong ví dụ 6: Sp1 - Nếu cậu quên không mang sách cho tớ thì sao?
Sp1- Yên tâm đi, ngày mai tớ sẽ mang sách đến cho cậu.
Mặc dù trong ví dụ (6), phát ngôn “Yên tâm đi, ngày mai tớ sẽ mang sách
đến cho cậu.” không có động từ ngữ vi biểu thị hành động thuộc nhóm cam kết
18
nhưng dựa vào ngữ cảnh của cặp thoại chúng ta có thể ngầm hiểu đây là một biểu
thức hứa / thề hoặc cam đoan nguyên cấp. Có thể bổ sung động từ dùng trong
hiệu lực ngữ vi cho phát ngôn như sau: “Yên tâm đi, ngày mai tớ hứa sẽ mang
sách đến cho cậu”./ “Yên tâm đi, ngày mai tớ thề sẽ mang sách đến cho cậu.”
hay “Yên tâm đi, ngày mai tớ cam đoan sẽ mang sách đến cho cậu.”.
1.2.4. Lí thuyết hội thoại
1.2.4.1. Khái niệm hội thoại
Lý thuyết hội thoại từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan
tâm. Theo GS.Đỗ Hữu Châu: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên,
phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ
khác.” [10; tr.201].
Các cuộc hội thoại có thể khác nhau ở nhiều yếu tố: đặc điểm của thoại
trường (không gian, thời gian mà ở đó diễn ra cuộc hội thoại), ở số lượng,
cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại; ở tính có đích hay
không có đích của cuộc thoại hay cũng có thể khác nhau về tính có hình thức
hay không có hình thức… Những yếu tố này không tách rời nhau mà liên kết
với nhau tạo thành một khối thống nhất để chi phối và điều hòa cuộc thoại
để mỗi nhân vật giao tiếp có thể đạt được đến mục đích giao tiếp cuối cùng.
Hội thoại có nhiều dạng thức khác nhau. Đó là đơn thoại, song thoại hay
đa thoại.
- Đơn thoại: Là dạng thức do lời của Sp1 phát ra hướng đến Sp2 nhưng
Sp2 không có lời đáp trực tiếp. Sp2 tiếp nhận nội dung lời thoại và phản hồi bằng
hành động, ánh mắt, cử chỉ…và những hành động, cử chỉ này có thể được tác giả
trực tiếp miêu tả hoặc không trực tiếp miêu tả.
- Song thoại: Là lời của Sp1 hướng đến Sp2 và Sp2 có sự đáp lời. Ở dạng
thức này các nhân vật tham gia hội thoại đảm bảo nguyên tắc luân phiên lượt lời
trong hội thoại.
19
- Đa thoại: Trong một ngữ cảnh hội thoại cụ thể có lời của nhiều nhân vật
giao tiếp đan xen vào nhau và những nhân vật này ban đầu được coi là nhân vật
đám đông. Những nhân vật này không được miêu tả rõ nét, không nằm trong mối
quan hệ nào mà chỉ có xuất hiện lượt lời cùng với lượt lời của người khác trong
đám đông. So với đơn thoại và song thoại thì đa thoại là dạng thoại mà các nhà
nghiên cứu lý thuyết hội thoại hiện đang rất quan tâm. Ngoài ra, cũng theo Đỗ
Hữu Châu thì trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao
lời, trao đáp và tương tác.
Để làm cơ sở tiền đề cho đề tài của luận văn, chúng tôi chọn cách quan
niệm về hội thoại của GS Đỗ Hữu Châu.
1.2.4.2. Các qui tắc hội thoại
Hội thoại diễn tiến theo những quy tắc nhất định. Muốn cho một cuộc hội
thoại thành công, các nhân vật tham gia hội thoại phải tuân thủ theo những
nguyên tắc nhất định trong hội thoại đó là: các quy tắc điều hành sự luân phiên
lượt lời, những quy tắc chi phối cấu trúc hội thoại và những quy tắc chi phối quan
hệ liên cá nhân trong hội thoại.
a. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
Trong một cuộc hội thoại, vai nói thường xuyên thay đổi (luân phiên lượt
lời), A nói B nghe và ngược lại. Một cuộc hội thoại có sự cân bằng về lượt lời
được coi là một cuộc hội thoại lí tưởng. Khi hai người tham gia hội thoại, lời
người này sẽ kế tiếp lời người kia. Ngoài ra quãng ngắt sau khi lượt lời của mỗi
người thực hiện xong không nên quá dài làm ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp.
b. Quy tắc cộng tác hội thoại
Quy tắc cộng tác hội thoại có nghĩa là hai bên tham gia giao tiếp cùng cố
gắng để đối tác của mình hưởng ứng, phát triển cuộc thoại để cả hai bên có thể
đạt tới đích của cuộc thoại. Quy tắc cộng tác này có hiệu quả đặc biệt với cả
người nói và người nghe. Khi nói, tham thoại phải quan sát và thực hiện nguyên
tắc cộng tác theo phương châm nhất định. Cũng theo H.P. Grice quy tắc này gồm
có các phương châm nhất định như sau:
20
- Phương châm về lượng: Lượng thông tin của mỗi bên tham gia hội thoại
chỉ nên vừa đủ đúng như yêu cầu của cuộc hội thoại, không nên quá nhiều hoặc
quá ít so với mục đích của cuộc thoại.
- Phương châm về chất: Thông tin mà mỗi bên đưa ra cần có căn cứ xác
đáng, không nên nói những điều mình không chắc chắn hay không có bằng chứng
xác thực.
- Phương châm về cách thức: Các bên tham gia cuộc thoại cần có cách
nói ngắn gọn, mạch lạc, có hệ thống, trách lối nói mập mờ, tối nghĩa sẽ gây
nên hiểu lầm.
- Phương chân về quan hệ: Các bên tham gia cuộc thoại cần trình bày, dẫn
dắt sao cho câu chuyện có liên quan đến chủ đề của cuộc đối thoại.
Tuy nhiên, trong giao tiếp không phải cuộc thoại nào cũng tuân thủ đầy đủ
các phương châm như trên nên thực tế giao tiếp đã nảy sinh những tình huống
vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự vi phạm
quy tắc là do sự khác biệt trình độ, về văn hóa, về kinh nghiệm ngôn ngữ và vốn
hiểu biết cuộc sống dù một bên tham gia cuộc thoại vẫn cố gắng tuân theo nguyên
tắc cộng tác. Vì thế để nhận rõ những vi phạm quy tắc cộng tác hội thoại chúng
ta phải căn cứ vào ngữ cảnh, gắn phát ngôn với hoàn cảnh giao tiếp và mối quan
hệ liên cá nhân.
c. Quy tắc lịch sự
Để đạt được mục đích hoặc duy trì được quan hệ hài hòa giữa những người
tham gia giao tiếp người ta thường chú ý đến phép lịch sự. Lịch sự có thể là
những hành động ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp ứng xử phù hợp với qui
định của xã hội. R. Lakoff định nghĩa “lịch sự như là một phương thức để giảm
thiểu sự xung đột trong diễn ngôn (...); những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc
biệt là làm cho cuộc tương tác được thuận lợi.” Để xem xét vấn đề lịch sự chi
phối thế nào tới hành động thuộc lớp Cam kết, luận văn này dựa vào lý thuyết về
lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn ngữ của một số tác giả dưới đây.
21
Quan điểm về lịch sự của R. Lakoff với ba quy tắc:
Quy tắc 1: Quy tắc lịch sự quy thức (formal politenness rule) tức là quy
tắc “không được áp đặt” (don 't impose). Đây là quy tắc thường thích hợp với
những ngữ cảnh mà người tham gia giao tiếp có những khác biệt về quyền lực,
cương vị… Theo quy tắc này, người nói sẽ lựa chọn các phát ngôn để tránh hoặc
giảm tối thiểu tính áp đặt trong phát ngôn của mình.
Quy tắc 2: Dành cho người đối thoại sự lựa chọn (Offer option). Quy tắc
này phù hợp với những người có quyền lực, địa vị tương đương nhau nhưng
không cần thiết phải gần gũi về quan hệ xã hội. Để thực hiện quy tắc này, người
phát ngôn phải diễn đạt làm sao cho lời hỏi của mình dễ được người nghe chấp
nhận nhất mà không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người hỏi và người nghe
trong cuộc thoại.
Quy tắc 3: Là quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè (Encourage feelings
of camaraderie). Quy tắc này phù hợp với những người có quan hệ bạn bè hay
thân tình. Những người đối thoại theo phép lịch sự này thường dùng các từ xưng
hô thân thuộc.
Hay Theo Leech, siêu quy tắc lịch sự là: (Trong những điều kiện khác
như nhau) hãy giảm thiểu biểu hiện của những niềm tin không lịch sự, hãy
tăng tối đa biểu hiện của những niềm tin lịch sự. Siêu quy tắc này gồm sáu
phương châm lịch sự lớn: Phương châm khéo léo, phương châm rộng rãi,
phương châm tán thưởng, phương châm khiêm tốn, phương châm tán đồng,
phương châm thiện cảm.
So sánh lí thuyết lịch sự của Lakoff và G. Leech thì thấy: Quy tắc lịch sự
của Lakoff bắt buộc người nói phải hướng đến đối tượng giao tiếp và ngữ cảnh
giao tiếp. Còn phương châm lịch sự của G. Leech thì chú ý đến cả đối tượng
người nói và người nghe. Mức độ lịch sự của Leech chuyên dụng cho hành động
ở lời nhất định và phải phụ thuộc vào ba nhân tố: bản chất của hành động, hình
thức ngôn từ hành động, mức độ quan hệ giữa đối tượng giao tiếp.
22
Các mối quan hệ trong xã hội vô cùng phong phú vì thế ở mỗi vị thế xã
hội nhất định, người nói phải có cách ứng xử lịch sự phù hợp với vai giao tiếp
của mình để đảm bảo nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp. Ngoài khái niệm lịch sự
chung người Việt Nam còn tuân theo những khái niệm nhỏ hơn phù hợp với từng
cảnh huống và vai giao tiếp xã hội, đó là lễ độ, lễ nghĩa và lễ phép.
1.2.5. Khái quát về văn hóa và ngôn ngữ
1.2.5.1. Khái niệm văn hóa
“Văn hóa” đã trở thành một khái niệm thông dụng trong nói năng hàng
ngày cũng như trong nghiên cứu khoa học. Nhưng định nghĩa văn hóa là gì vẫn
đang là vấn đề được quan tâm. Đã có rất nhiều khái niệm về “văn hóa” được
công bố. Cho đến nay đã có khoảng trên 400 định nghĩa về văn hóa.
Năm 2002, UNESSCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,
hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” [34].
Trong cuốn Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt, tác giả Nguyễn Văn
Chiến không đưa ra khái niệm ngắn gọn mà trả lời câu hỏi “Văn hoá là gì?” bằng
một số ý cơ bản sau:
- Văn hoá là một hiện tượng, một phạm trù thuộc về con người, do con
người làm nên. Vì vậy văn hoá là tiêu chuẩn, tiêu chí hiển nhiên khu biệt con
người - động vật với con vật.
- Văn hoá là một sản phẩm đặc thù của xã hội loài người.
- Một hiện tượng văn hoá luôn tồn tại với những lí do riêng của nó.
- Thành tựu của nền văn hoá là con người. Văn hoá không phải là các
vật đơn thuần ta sờ thấy được một cách cụ thể. Hiện tượng văn hoá hiện diện
trước mặt ta, trong ta như một thế giới được vật thể hoá, một thế giới được
khúc xạ rõ ràng.
23
Các nền văn hoá của các dân tộc trên thế giới vừa có tính riêng biệt vừa
có sự giao thoa với nhau.
Như vậy, có thể hiểu “văn hóa” là bao gồm tất cả những sản phẩm do con
người tạo ra trong đời sống, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía
cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật
chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện,...
Tóm lại, “văn hóa” là sản phẩm của loài người, được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia
vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Nó được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa, được tái
tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và
hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị
vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.2.5.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn
nhau trong quá trình hình thành và phát triển. Khi bàn về mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và văn hoá, tác giả Nguyễn Văn Chiến trong cuốn “Tiến tới xác lập vốn từ
vựng văn hóa Việt” đưa ra một số ý kiến như sau:
Thứ nhất: Ta nói ngôn ngữ bình đẳng với văn hoá hay độc lập với văn hoá
bởi vì cả hai đều là sản phẩm con người lao động có tư duy. Đó là những hiện
tượng nhân loại. Thế nhưng ngôn ngữ lại chính là sản phẩm văn hoá của nhân
loại giống như tất cả những sản phẩm văn hoá khác. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và văn hoá là mối quan hệ bao nhau.
Thứ hai: Ngôn ngữ là hiện tượng, là biểu trưng của văn hoá, thuộc phạm
trù văn hoá, cho nên tất cả những gì là đặc tính, thuộc tính của văn hoá cũng
đều tương tự như là đặc tính, thuộc tính của ngôn ngữ và được ẩn chứa trong
ngôn ngữ.
24
Thứ ba: Văn hóa chi phối tới việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ của
các nhân vật giao tiếp.
Văn hóa và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Ngôn
ngữ là phương tiện để thể hiện văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ.
Nhờ vào sự truyền bá rộng rãi của ngôn ngữ mà văn hóa được phổ biến và lưu
truyền rộng rãi, nền văn hóa cũng nhờ đó mà phát triển. Sự biến đổi và phát triển
của ngôn ngữ luôn tồn tại song song với sự phát triển của văn hóa.
1.2.6. Vài nét về văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
1.2.6.1. Sơ lược về lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu thế
kỷ XX, kinh tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân ta
phải sống trong cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần. Thời kì
1930-1945 là một thời kì đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hết sức gay
gắt. Một giai đoạn lịch sử tuy chỉ 15 năm, nhưng trải qua bao biến cố, gồm
bao sự kiện quan trọng, tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần
của con người. Nhân dân ta chịu tác động nặng nề của chế độ thực dân kiểu
cũ nên rất lạc hậu. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc
địa Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp
tục tăng lên.
Từ những năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương,
phong trào công nhân và các phong trào yêu nước khác như những cơn sóng ngày
một dâng cao, tấn công dồn dập vào bè lũ cướp nước và bán nước. Cuộc tổng
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đã chấm dứt chế độ thực dân và lật đổ chế độ
phong kiến trên đất nước ta.
1.2.6.2. Đặc điểm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Ở Việt Nam, các trào lưu văn học lần đầu tiên xuất hiện vào khoảng
những năm 30 của thế kỉ XX. Trong giai đoạn 1930 - 1945 đã xảy ra biết bao
25
sự kiện của lịch sử, xã hội thay đổi dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức
và tâm lí con người. Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy văn học vươn mình, mang
cho nó nhiều dạng vẻ, hương sắc. Và rồi nảy sinh nhiều trào lưu văn học khác
nhau, nổi bật lên đó là các trào lưu văn học lãng mạn, văn học hiện thực, văn
học cách mạng.
Văn học hiện thực như một cây cọ của người họa sĩ tài ba vẽ lên mặt trái
của xã hội đương thời. Với bút pháp điển hình hóa những nhà văn của dòng văn
học hiện thực đã mang đến cho người đọc những số phận con người chân thực
nhất, để bất cứ ai ở thời điểm đó soi vào cũng thấy thấp thoáng bóng dáng mình.
Các nhà văn cùng đau, cùng khóc với những con người khốn khổ,cùng đồng cảm
với họ và trân trọng những giá trị tốt đẹp bên trong họ. Hiện thực cuộc sống với
những lầm than cơ cực đã được phơi bày dưới những cây bút sắc bén như Ngô
Tất Tố với tập phóng sự “Việc làng” ở đó ta thấy được những hủ tục nặng nề của
nông thôn Việt Nam. Với “Tắt đèn”, người đọc thấy được một thứ tai họa khủng
khiếp ở nông thôn, đó là những người dân bần cố nông phải điêu đứng, quằn quại
trong sự đè nén vì sưu thuế. Đó còn là Vũ Trọng Phụng với tiếng cười châm biếm
sắc sảo, sâu cay trong các tác phẩm như “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”... “Cạm
bẫy người”, “Kỹ nghệ lấy Tây”... Những tác phẩm này đã tái hiện rõ nét bộ mặt
xã hội Việt Nam cả thành thị lẫn nông thôn.
Lịch sử giai đoạn 1930 - 1945 đầy biến động, sau nhiều phong trào cách
mạng không thành, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống.
Thanh niên lớn lên không có lí tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc,
họ thoát li trong những tình cảm cá nhân. Trào lưu văn học lãng mạn bắt đầu từ
đấy. Đặc điểm chính của trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi và khát vọng của
cá nhân với sự bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng. Họ muốn thoát li đời
sống, vượt ra khỏi thực tại thỏa sức dùng trí tưởng tượng bay bổng để thực hiện
ước mơ, lí tưởng. Ta thấy một Xuân Diệu trốn chạy trong tình yêu với ngập tràn
hương sắc. Một Huy Cận đắm chìm trong mối sầu vạn kỉ với cái mênh mông
26
không cùng. Một Nguyễn Tuân ngụp lặn trong quá vãng với những thú chơi
thanh tao của cha ông. Những tôn chỉ “tươi trẻ, yêu đời”, “có chí phấn đấu và tin
vào sự tiến bộ”, “tôn trọng tự do cá nhân” trong các tiểu thuyết của Nhất Linh,
Hoàng Đạo, Khải Hưng. Họ đã tạo nên một trường sáng tạo mới, những đóng
góp mới. Chính họ dám phủ nhận cái hủ lậu để khai phá những miền đất mà trước
đây không dành cho hai từ bản ngã.
Bên cạnh hai trào lưu văn học được công khai ấy, còn có một trào lưu ẩn
dật, bí mật không được phép lưu hành - nằm ngoài vòng pháp luật nhưng lại hứa
hẹn sự phát triển nhanh chóng khi có cơ hội, đó là trào lưu văn học cách mạng.
Trào lưu này gồm những tác phẩm thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt mảng thơ
ca trong tù. Nếu ở giai đoạn đầu, trong thơ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
sáng ngời hình ảnh người chiến sĩ cách mạng nhiệt huyết sôi trào, sẵn sàng xả
thân vì tổ quốc thì ở giai đoạn tiếp theo, với hàng loạt những cây bút trẻ như
Trường Sơn, Xuân Thủy, Tố Hữu... luôn thể hiện sự thức tỉnh của tâm hồn, thơ
văn của họ lan tỏa sức sống và ánh sáng của ngọn lửa cách mạng. Phải khẳng
định rằng, những sáng tác của Hồ Chí Minh và Tố Hữu là những tác phẩm tiêu
biểu nhất của trào lưu văn học này. Nổi bật hơn cả là những vần thơ giản dị đậm
chất nhân văn nhưng cũng chứa đầy chất thép.
Vì phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nằm trong tác phẩm văn xuôi của
giai đoạn này cho nên chúng tôi chỉ lựa chọn một số tác phẩm tiêu biểu thuộc bộ
phận văn học hiện thực và văn học lãng mạn, cụ thể là một số tiểu thuyết đặc sắc
hơn cả của Tự lực văn đoàn.
Một số tác phẩm văn học hiện thực: tiểu thuyết “Giông tố” (Vũ Trọng
Phụng), tiểu thuyết “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan), tiểu thuyết “Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố, tuyển tập “Truyện ngắn của Nam Cao”.
Một số tác phẩm văn học lãng mạn: tiểu thuyết “Nửa chừng xuân”, “Hồn
bướm mơ tiên”, “Thừa tự” của Khái Hưng; tiểu thuyết “Đoạn tuyệt”, “Lạnh
lùng”, “Đôi bạn” của Nhất Linh; tiểu thuyết “Đời mưa gió”, “Gánh hang hoa”
của Nhất Linh - Khái Hưng.
27
1.3. Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu
về hành động ngôn ngữ nói chung, tình hình nghiên cứu một số hành động ngôn
ngữ như hành động hứa hẹn, hành động thề… nói riêng và một số vấn đề về lý
thuyết bước đầu làm tiền đề cho quá tình nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945.
Chúng tôi đã tìm hiểu về các công trình nghiên cứu hành động ngôn ngữ
của các tác giả nước ngoài như J. Austin và J. Searle đã kế thừa và phát triển
lí thuyết hành động ngôn từ của J. Austin. Tiếp thu các công trình nghiên cứu
của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài đi trước, có nhiều nhà Việt ngữ học
quan tâm đến lý thuyết hành động ngôn ngữ như tác giả Đỗ Hữu Châu, tác giả
nguyễn Đức Dân.
Đồng thời chúng tôi đã tham khảo các công trình nghiên cứu về các hành
động ngôn ngữ hứa hẹn, thề, cam kết như: Bài báo Hành vi cam kết và các động
từ biểu thị hành vi cam kết in trên “Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, 2006”, bài báo “Sự
kiện lời nói và sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại” (Tạp chí Từ điển học và
Bách khoa thư, số 5 (31), tháng 9- 2014) của tác giả Vũ Tố Nga, Luận văn Thạc
sĩ “Khảo sát hành động hứa hẹn và các phương thức biểu hiện nó” (Trên ngữ liệu
tiếng Việt và tiếng Anh) (2009) của tác giả Vũ Thị Minh Thu, Luận án Tiến sĩ
“Hành vi ngôn ngữ thề (swear) trong tiếng Việt” (2013) của tác giả Nguyễn Thị
Thu.
Những vấn đề cơ bản của lí thuyết mà theo chúng tôi có liên quan đến đề
tài như vấn đề về ngữ cảnh, hành động ngôn ngữ, những vấn đề về hội thoại,
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và mối liên hệ mật thiết giữa ngôn ngữ
và văn hóa đã được xem xét một cách có hệ thống. Bên cạnh đó chúng tôi cũng
trình bày những đặc điểm của nền văn hóa, văn học Việt Nam giai đoạn 1930-
1945. Những vấn đề này sẽ là cơ sở lý luận quan trọng có quan hệ trực tiếp và
có ý nghĩa thiết thực để làm căn cứ cho những biện giải của chúng tôi thể hiện ở
hai chương sau.
28
Chương 2
CÁC HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT TRONG
MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
XÉT VỀ HÀNH ĐỘNG Ở LỜI VÀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
2.1. Kết quả khảo sát
2.1.1. Nhận xét chung
- Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong các tác phẩm được chọn
làm ngữ liệu khảo sát được dùng không nhiều. Chúng tôi chỉ thống kê được
208 trường hợp trong 12 tác phẩm. Lý do sử dụng ít như vậy có lẽ vì người
nói bị ràng buộc trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã cam kết
với người nghe. Tạo lời cam kết lúc nào cũng dễ nhưng việc thực hiện thì
ngược lại. Việc người nói thất hứa đối với người khác thì với họ (người nói)
chỉ là chuyện thường nhưng đối với người nghe - người đã đặt niềm tin vào
lời cam kết thì đó là điều khó có thể bỏ qua.
- Số lượt sử dụng hành động thuộc lớp Cam kết trong các tác phẩm không
giống nhau. Tác phẩm sử dụng nhiều nhất là tiểu thuyết “Giông tố” với 60 trường
hợp. Tác phẩm “Đôi bạn” sử dụng ít nhất là 4 trường hợp.
- Căn cứ vào hành động ở lời với các tiêu chí mà Searle đã đưa ra, chúng
tôi tạm chia các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thành 4 loại: hứa, cam
đoan, thề, trung gian. Trong bốn loại này, hành động hứa chiếm số lượng nhiều
nhất (89 trường hợp) chiếm sấp xỉ 42,78%, tiếp theo là loại trung gian (82 trường
hợp) chiếm sấp xỉ 39,42%, rồi đến cam đoan (20 trường hợp) chiếm sấp xỉ 9,61%
và cuối cùng là thề chỉ có 17 trường hợp chiếm sấp xỉ 8,61%.
2.1.2. Số lượng và phân loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Số lượng và các loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong văn
xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 có thể hình dung trong bảng tổng kết 2.1
dưới đây:
29
Bảng 2.1. Bảng tổng kết số lượng và số lượt dùng các hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết
Số lượng, tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
Hành động ngôn ngữ (lượt) (%)
Hứa 42,78 89
Trung gian 39,42 82
Cam đoan 9,61 20
Thề 8,17 17
Tổng kết 208 99,98%
2.2. Miêu tả các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác
phẩm văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945
Mục này chúng tôi sẽ phân loại và miêu tả các hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết theo các nội dung chính:
1. Đích ở lời
2. Phương thức thể hiện
Căn cứ vào các tiêu chí phân loại hành động ngôn ngữ của Austin và Searle,
chúng tôi đã xác định được ba hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một
số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, đó là: hành động hứa, hành
động cam đoan và hành động thề. Ngoài ba hành động ngôn ngữ được xác định
một cách rõ ràng này, còn một số hành động ngôn ngữ tương đối khó xác định một
cách cụ thể bởi chúng có thể xếp vào ba hành động ngôn ngữ nói trên. Chúng tôi
tạm xếp chúng vào lớp hành động ngôn ngữ trung gian.
Để tìm hiểu, miêu tả các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong
một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, ở chương này chúng
tôi phân loại và mô tả từng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết theo đích ở
lời và phương diện thể hiện. Dưới đây là các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết mà chúng tôi đã thống kê được từ các tác phẩm đã nói ở trên.
30
2.2.1. Hành động hứa
2.2.1.1. Khái niệm hành động hứa:
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, “Hứa là nói với ai, với ý thức
tự ràng buộc mình là sẽ làm điều gi đó mà người ấy đang quan tâm.” [38]
Hứa thường là một kiểu cam kết giữa người này với người khác, bên này
với bên kia, có khi với chính mình “thầm hứa”. Hứa đã bắt đầu có sắc thái trịnh
trọng, nghiêm túc.
2.2.1.2. Số lượt sử dụng
Như đã nói, trong bốn hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết mà chúng
tôi khảo sát, hành động hứa có tần số xuất hiện nhiều nhất với 89 lượt, chiếm
42,78%. Có thể hình dung số lượt sử dụng hành động hứa trong 12 tác phẩm
chúng tôi đã chọn làm ngữ liệu thống kê bằng bảng tổng kết 2.2 dưới đây:
Bảng 2.2: Bảng tổng kết hành động hứa
Số lượng; tỉ lệ % STT Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm
Giông tố - Tác phẩm và dư luận 1 22 24,71
Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 2 19 21,34
3 Bước đường cùng 13 14,60
4 Đời mưa gió 6 6,74
5 Nửa chừng xuân 6 6,74
6 Lạnh lùng 5 5,61
7 Đôi bạn 4 4,49
8 Đoạn tuyệt 4 4,49
9 Thừa tự 4 4,49
10 Gánh hàng hoa 3 3,37
11 Ngô Tất Tố tuyển tập 3 3,37
12 Hồn bướm mơ tiên 0 0
Tổng số 89 99,95
31
2.2.1.3. Điều kiện sử dụng
Searle (1977) cho rằng một hành động ở lời muốn thực hiện thành công
thì phải thoả mãn 4 điều kiện sau đây:
- Điều kiện nội dung mệnh đề (ĐKNDMĐ)
- Điều kiện chuẩn bị (ĐKCB)
- Điều kiện chân thành (ĐKCT)
- Điều kiện căn bản (ĐKCB)
Căn cứ vào những điều kiện trên và qua thực tế nghiên cứu, chúng ta có
thể đưa ra tiêu chí về các điều kiện thoả mãn đối với việc sử dụng hành động hứa
như sau:
- ĐKNDMĐ: Hành động hứa có nội dung mệnh đề là hành động tương lai
của người nói mang lại những lợi ích tinh thần và vật chất cho người nghe, hành
động tương lai của người nói trong nội dung mệnh đề.
- ĐKCB: Đối với hành động hứa, điều kiện chuẩn bị là những hiểu biết của
người thực hiện hành động hứa về lợi ích, tâm thế… của người nghe và mối quan hệ
giữa người nói và người nghe. Sự hứa hẹn đòi hỏi người hứa hẹn có ý muốn thực
hiện lời hứa và người nghe cũng thực sự mong muốn lời hứa được thực hiện.
- ĐKCT: Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của
người thực hiện hành động hứa. Hứa hẹn đòi hỏi ý định của chủ ngôn. Tuy nhiên,
trong thực tế giao tiếp không phải lúc nào hành động hứa cũng được thực hiện
với điều kiện chân thành này. Trong một số hoàn cảnh, người nói chỉ đưa ra lời
hứa để đối phó với một tình huống nhất định, không hề có ý định thực hiện lời
hứa đó. Kiểu hứa này được gọi là hứa xuông.
- ĐKCB: Đây là điều kiện đưa ra trách nhiệm rơi vào hành động sẽ được
thực hiện của người nói.
Ví dụ 7: “- Dạ, lạy quan, rồi có thế nào thì trăm sự con nhờ quan.
- Mày về gọi chồng mày đến đây tao vẽ cách cho mà làm.”
[12; tr.35]
32
Ví dụ 8: “- Không biết còn tiền nhuận bút thì sao đây? Họ sẽ gửi cho mình
hay là mình phải đến tận nhà báo mà lãnh?
- Anh cứ để việc ấy cho tôi. Tôi sẽ đến lãnh hộ cho anh.
- Nhưng liệu người ta có chịu giao tiền cho anh không mới được chứ?”
[2; tr.97]
Trong ví dụ (7), phần in nghiêng trong phát ngôn “Mày về gọi chồng mày
đến đây tao vẽ cách cho mà làm.” là một hành động hứa của nhân vật nghị Lại
trong tiểu thuyết “Bước đường cùng”. Khi nhân vật vợ trương Thi đến nhờ cậy
nghị Lại giúp chồng thoát tội và kiện nhà anh Pha và nghị Lại đã hứa sẽ giúp vợ
chồng thị. Phát ngôn này đã thỏa mãn bốn điều kiện nêu trên:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của nghị Lại “vẽ cách giúp trương
Thi không những thoát tội mà còn kiện được cả Pha”.
- ĐKCB: Khi nghị Lại đưa ra lời hứa đã thỏa mãn lợi ích của vợ trương
Thi đó là giúp chồng thị thoát tội và kiện gia đình anh Pha. Nhân vật nghị Lại
có đủ năng lực để thực hiện lời hứa và đó cũng là điều mà vợ chồng trương Thi
mong muốn.
- ĐKCT: Nghị Lại có ý định giúp trương Thi để hòng trục lợi.
- ĐKCB: Nghị Lại có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình
đã hứa.
Tương tự, ở ví dụ (8), phát ngôn của nhân vật Văn “Tôi sẽ đến lãnh hộ cho
anh” trong “Gánh hàng hoa” cũng là một phát ngôn có hiệu lực ngữ vi hứa, thỏa
mãn các điều kiện:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của Văn “đến lãnh lương hộ Minh”.
- ĐKCB: Nhân vật Văn hứa sẽ đi lấy tiền nhuận bút giúp Minh và đó cũng
là điều mà Minh mong muốn. Trong hoàn cảnh mù lòa, bản thân còn không tự
chăm sóc được thì làm sao Minh có thể đi lãnh lương. Vì vậy khi Văn đưa ra lời
hứa và thực hiện lời hứa sẽ đem lại lợi ích cho Minh. Và Văn có đủ năng lực để
thực hiện lời hứa đó.
- ĐKCT: Văn thật sự có ý định thực hiện lời hứa với Minh.
33
- ĐKCB: Văn có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.
Tuy nhiên, không phải lúc nào hành động hứa đưa ra cũng được người nói
thực thi. Có nhiều trường hợp, người nói chỉ hứa cho xong chuyện, hứa để đạt
được mục đích công việc của mình. Có thể xét ví dụ sau:
Ví dụ 9: “Lý luận cũng hay hay. Nhưng viên y sĩ không để cho mình bị
cám dỗ. Ông khăng khăng từ chối. Hài phát khóc. Hắn đành nói dối:
- Ngài thương cho. Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ
không dạy học."
- Không có lý!
- Tôi xin hứa… Ngài thương cho!...”
[11; tr.309]
Hai phát ngôn “Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ
không dạy học.” và “Tôi xin hứa” là hành động hứa thuộc lớp Cam kết của
nhân vật Hài trong truyện ngắn “Quên điều độ” của tác giả Nam Cao. Mặc
dù trong người có bệnh và được y sĩ khuyên không nên dạy học nhưng Hài
vẫn cố nài nỉ để được chứng nhận đủ sức khỏe mở trường tư. Đó là hành
động hứa vì trong biểu thức ngữ vi có chứa động từ “hứa” được dùng với
hiệu lực ngữ vi và phát ngôn này thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động
ở lời:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói (Hài) “chỉ đứng
làm hiệu trưởng trông coi chứ không dạy học”.
- ĐKCB: Nhân vật Hài hứa sẽ giữ gìn sức khỏe và y sĩ cũng thực sự mong
Hài sẽ thực hiện đúng lời hứa.
- ĐKCT: Ý định thực hiện hành động “chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi
chứ không dạy học” của Hài. Tuy nhiên, trong ví dụ này, hành động hứa của
nhân vật Hài không được thực hiện với điều kiện chân thành. Anh ta chỉ đưa ra
34
lời hứa nhằm lấy được sự tin tưởng của y sĩ, để y sĩ chứng nhận cho anh ta đủ
sức khỏe mở trường dạy học.
- ĐKCB: Hài có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa
(đứng làm hiệu trưởng chứ không dạy học).
2.2.1.4. Phương thức thể hiện
a. Hành động hứa được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi tường minh hay
nguyên cấp
Về mặt cấu trúc của hành động hứa thuộc lớp Cam kết trực tiếp được chia
làm hai dạng: biểu thức ngữ vi hứa tường minh và biểu thức ngữ vi hứa nguyên
cấp. Để có được sự phân chia như vậy, chúng tôi căn cứ vào sự có mặt hoặc
không có mặt của động từ hứa (dùng với chức năng ngữ vi).
* Biểu thức ngữ vi hứa tường minh
Hứa tường minh là hành động hứa sử dụng động từ ngữ vi “hứa” để tường
minh hóa hành động hứa.
Vận dụng các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi nhận thấy công
thức của một biểu thức ngữ vi hứa tường minh ở dạng đầy đủ có thể khái quát
như sau:
Sp1 + ĐTNV + với Sp2 (có A/ trước A) + (rằng/là) + Sp1 + S2
Trong đó: Sp1 là người nói (chủ ngôn); ĐTNV là động từ hứa; A là đối
tượng chứng kiến hành động hứa; Sp2 là người nghe (đối tượng tiếp nhận hành
động hứa); S2 là nội dung mệnh đề nêu hành động tương lai của người thực hiện
hành động hứa.
Trong 89 hành động hứa, chúng tôi khảo sát được 2 hành động hứa tường
minh.
Ví dụ 10: “Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ không dạy
học.
Ví dụ 11: “Tôi xin hứa…” [11; tr.309]
35
Áp dụng công thức trên vào cả hai ví dụ có thể thấy cả hai biểu thức ngữ
vi hứa tường minh đều ở thể rút gọn:
Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ không dạy học.
Sp1 ĐTNV S2
Ở biểu thức hứa này, người nói đã lược thành phần Sp2 (hoặc A) vì
trong hội thoại trực tiếp, người nghe luôn có mặt khi chủ ngôn thực hiện hành
động hứa.
Tương tự: Tôi xin hứa…
Sp1 ĐTNV
Các thành phần Sp2, S2 đã bị tỉnh lược trong biểu thức “Tôi xin hứa”.
Dạng biểu thức này thường gặp trong trường hợp biểu thức ngữ vi hứa tường
minh đóng vai trò là tham thoại hồi đáp cho một tham thoại dẫn nhập trước.
Như vậy, để thuận tiện trong giao tiếp và trong trường hợp giao tiếp thân
mật, gần gũi, người nói thường lược bỏ đi một số thành phần trong công thức
của biểu thức ngữ vi hứa tường minh mà nghĩa của câu vẫn không thay đổi. Chỉ
có thành tố ĐTNV là không thể rút gọn bởi nó chính là dấu hiệu nhận biết một
hành động ngôn ngữ tường minh.
* Biểu thức ngữ vi hứa nguyên cấp
Hành động hứa nguyên cấp là hành động hứa không sử dụng động từ ngữ
vi hứa. Nên ngoài căn cứ vào việc phát ngôn thỏa mãn các điều kiện của Searle
thì cần phải dựa vào các yếu tố khác để xác định xem đó có phải hành động thuộc
lớp Cam kết hay không. Qua khảo sát, chúng tôi tổng hợp được những yêu tố để
xác định như sau:
Thứ nhất, trong phát ngôn có trạng từ, mệnh đề chỉ thời gian tương lai,
phó từ chỉ thời gian “sẽ” kết hợp với động từ chỉ hoạt động để chỉ hành động
trong tương lai của người nói.
Ví dụ 12: “Ông L. lại hỏi:
- Thế sao nó lại quến được tiền công của mày?
- Thưa cậu, cho con hút xong điếu thuốc, sẽ xin kể để cậu nghe.”
[1; tr.132]
36
Trên đây là lời đối thoại của nhân vật anh xe và ông L. trong truyện ngắn
“Món nợ chung thân”. Trong phát ngôn được in nghiêng ở trên, “cho con hút
xong điếu thuốc” là mệnh đề chỉ thời gian trong tương lai, “sẽ” là phó từ chỉ thời
gian. Đồng thời phát ngôn đó đã thỏa mãn các điều kiện ở lời:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của anh xe “kể cho cậu nghe” sau
khi được ông L. hỏi.
- ĐKCB: Khi anh xe đưa ra lời hứa đã thỏa mãn lợi ích của ng L. (thỏa
mãn điều ông L. đang muốn biết). Anh xe hứa sẽ kể câu chuyện của mình và có
đủ năng lực để thực hiện, đó cũng là điều mà ông L. đang thắc mắc.
- ĐKCT: Anh xe có ý định thực hiện việc mình đã nói.
- ĐKCB: Anh xe có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.
Ví dụ 13: “Minh hết sức cảm động nói:
− Anh tử tế với chúng tôi quá. Tôi biết lấy gì để đáp lại tấm lòng quý báu
của anh cho xứng đáng đây!
Văn thấy vậy vội gạt đi:
− Anh hay lôi thôi lắm! Thôi, chào anh chị. Mai tôi sẽ đến sớm để báo tin
mừng, yên trí đi.” [2; tr.102]
Trong phát ngôn của nhân vật Văn, có trạng từ “mai” chỉ thời gian tương
lai, phó từ chỉ thời gian “sẽ” và thỏa mãn các điều kiện:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của Văn “đến sớm báo tin mừng”.
- ĐKCB: Nhân vật Văn hứa sẽ đến sớm báo tin tốt cho Minh, đây cũng là
điều Minh mong muốn. Lời hứa của Văn mang lại lợi ích cho nhân vật Minh bởi
Minh lúc này đang bị mù không thể tự làm được gì và chỉ có Minh cs khả năng
giúp Văn.
- ĐKCT: Văn thật sự có ý định đến sớm để thông báo tin mừng cho Minh.
- ĐKCB: Văn có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.
37
Thứ hai, dựa vào các yếu tố khác để xác định biểu thức ngữ vi hứa nguyên
cấp.
Trong nhiều đoạn hội thoại, phát ngôn của các nhân vật không có chứa
động từ được sử dụng với chức năng cam kết, cũng không xuất hiện những trạng
từ, phó từ chỉ thời gian đứng trước động từ chỉ hành động, trạng thái. Vì vậy,
muốn biết phát ngôn đó có phải hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết hay
không thì chúng ta phải xét đến các yếu tố khác như ngữ cảnh, lời thoại của các
nhân vật khác.
Xét ví dụ (13), có thể thấy ngoài các yếu tố chỉ hành động trong tương lai
của chủ ngôn thì trong phát ngôn “yên trí đi” mang dấu hiệu có chức năng cam
kết. Đây là một lời khẳng định của nhân vật Văn dành cho nhân vật Minh. Văn
chắc chắn sẽ thực hiện lời hứa, Minh không cần phải lo lắng.
Ví dụ 14: “- Chị kén chồng cho con, mà chỉ cần kén cái chức tước thôi ư?
Người chẳng tốt thì huyện mà làm gì?
…
Bà phủ hơi có giọng gắt:
- Tôi mời cậu lại để cậu khuyên bảo cháu giúp tôi mà cậu lại cứ nói ngang,
rõ bực cả mình.
- Nếu thế thì được, để em bảo cháu.” [3; tr.40]
Cuộc thoại trên giữa hai nhân vật trong tiểu thuyết “Đời mưa gió” là bà
phủ và người em trai. Bà phủ muốn gả chồng cho con gái và có ý muốn nhờ cậu
khuyên cháu. Vì vậy nhân vật người em trai đã có hành động hứa với bà phủ về
việc khuyên răn cháu gái “Nếu thế thì được, để em bảo cháu.”
Nếu bổ sung động từ ngữ vi cho các biểu thức hứa nguyên cấp ta được
các phát ngôn ngữ vi tường minh giả định:
- Thưa cậu, cho con hút xong điếu thuốc, con xin hứa sẽ kể để cậu nghe.
- Tôi hứa mai sẽ đến sớm để báo tin mừng, yên chí đi.
- Nếu thế thì được, em hứa sẽ bảo cháu.
38
Cần phải nói thêm, không phải tất cả các phát ngôn ngữ vi nguyên cấp đều
có khả năng cải biến thành phát ngôn ngữ vi tường minh bằng cách thêm động
từ ngữ vi như các ví dụ vừa dẫn.
Vì vậy có thể thấy trong một biểu thức ngữ vi hứa mặc dù không có động
từ ngữ vi thực hiện chức năng ngữ vi hứa, chúng ta có thể căn cứ vào các điều
kiện khác để nhận diện đó là một biểu thức ngữ vi hứa nguyên cấp.
Bảng 2.3: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động hứa
STT Hình thức diễn đạt Số lượng Tỉ lệ
1 Biểu thức ngữ vi hứa tường minh 2 2,24
2 Biểu thức ngữ vi hứa nguyên cấp 87 97,75
Tổng số 89 99,99%
b) Hành động hứa được thực hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp
Để phân biệt hành động hứa trực tiếp và hành động hứa gián tiếp trong
một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, chúng tôi dựa vào lý
thuyết hành động ngôn ngữ. Những câu được luận văn xác định là câu thể hiện
hành động hứa trực tiếp thỏa mãn 4 điều kiện sử dụng hành động ở lời mà Searle
nêu trên: điều kiện nội dung mệnh đề; điều kiện chuẩn bị; điều kiện chân thành;
điều kiện căn bản. Ngược lại, những hành động ngôn ngữ được sử dụng trên bề
mặt hành động khác không phải hành động hứa nhưng lại lại nhằm hiệu quả của
hành động hứa người ta gọi là hành động hứa gián tiếp. Theo số lượng thống kê
của chúng tôi, trong tổng số 89 phát ngôn biểu thị hành động hứa có 85 hành
động hứa trực tiếp, 4 hành động hứa gián tiếp.
* Hành động hứa trực tiếp
Ví dụ 15: “Ông khăng khăng từ chối. Hài phát khóc. Hắn đành nói dối:
- Ngài thương cho. Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ
không dạy học."
- Không có lý!
- Tôi xin hứa… Ngài thương cho!...” [11; tr.309]
39
Hai phát ngôn “Tôi xin hứa chỉ đứng làm hiệu trưởng trông coi chứ không
dạy học.” và “Tôi xin hứa” là hành động hứa trực tiếp. Đây là hành động hứa
trực tiếp vì trong biểu thức ngữ vi có chứa động từ “hứa” được dùng trong hiệu
lực ngữ vi và phát ngôn này thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động ở lời như
đã phân tích ở ví dụ (12).
Tương tự trong ví dụ 16 dưới đây, hành động hứa mà nhân vật Pha thực
hiện cũng là hành động hứa trực tiếp:
Ví dụ 16: “- Mày nói lạ, hẹn của mày đến từ rằm, tao chờ mãi đến hôm
nay mới hỏi, lại còn giả ngô giả ngọng nói là đánh đùng!
- Thôi thì trăm sự nhờ quan cho con khất vậy, để xong gặt con bán thóc đi
nộp quan.” [12; tr.132]
Trên đây là cuộc thoại giữa nhân vật Pha và nghị Lại. Cuộc thoại này diễn
ra khi quan nghị Lại gọi Pha đến để đòi tiền. Tuy nhiên, vì chưa có tiền để trả
quan, Pha đã có phát ngôn “Thôi thì trăm sự nhờ quan cho con khất vậy, để xong
gặt con bán thóc đi nộp quan”. Đây là một phát ngôn biểu thị hành động hứa bởi
vì trong thời điểm hiện tại Pha chưa có tiền để trả quan lớn nên hành động “xong
gặt bán thóc đi nộp quan” là hành động trong tương lai. Đồng thời phát ngôn này
cũng thỏa mãn 4 điều kiện:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của Pha “xong gặt bán thóc đi
nộp quan”.
- ĐKCB: Nhân vật Pha hứa sẽ trả tiền sau mùa gặt và nghị Lại cũng
mong lấy lại được số tiền đã cho vay. Hành động hứa của Pha thỏa mãn lợi ích
của nghị Lại – hoàn trả lại số tiền đã được nghị Lại cho vay.
- ĐKCT: Pha thật sự có ý định trả tiền cho quan trên.
- ĐKCB: Pha có trách nhiệm phải thực hiện hành động mà mình đã hứa.
* Hành động hứa gián tiếp
Hành động hứa gián tiếp là hành động có đích ở lời hứa nhưng được thực
hiện bằng biểu thức của hành động ngôn trung khác như: hỏi, cảm thán, khẳng
40
định… trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Từ ngữ liệu khảo sát, chúng tôi
thống kê được 4 hành động hứa gián tiếp trên tổng số 89 hành động hứa, chiếm
4,49%.
Cả 4 hành động gián tiếp hứa mà chúng tôi khảo sát được đều được thể
hiện bằng hành động trực tiếp khẳng định.
Ví dụ 17: “- Phải, mà tôi sẽ giảng cho cậu những điều bí mật của cuộc đời
cậu nữa. Nhưng mà cậu phải hứa với tôi hai điều...
- Xin cụ cứ dạy.” [11; tr.149]
Ví dụ 18: “- Tùy đấy mày có tin nhà tao thì điểm chỉ vào đem về cho chồng
mày ký tên, và xin chữ lý trưởng nhận thực tử tế. Rồi mang sang đây, thì tao sẽ
giao tiền cho. Nếu mày không tin thì thôi. Ðây tao không ép.
…. Một lát sau, chị quả quyết:
- Con xin vâng theo lời cụ.” [1; tr.243]
Ví dụ 19: “Nhượng bật cười:
- Thật nhá! Vậy chị làm xong đấy thì làm thêm chỗ này hộ tôi… Tôi
chạy ra ngoài đường một lát rồi về làm với chị. Chị đừng lo! Thế nào cũng kịp.
Tôi về ngay đấy!
- Ừ! Mày phải về ngay đấy! Nếu không về, tao mặc kệ!”
[10; tr.213]
Trong các ví dụ trên, các phát ngôn in nghiêng đều là hành động gián tiếp
hứa được thể hiện bằng hành động trực tiếp khẳng định. Ở ví dụ (17) và (18),
“Xin cụ cứ dạy.” “Con xin vâng theo lời cụ.” là các hành động trực tiếp khẳng
định nhưng đích ở lời lại là hành động hứa. Trước lời đề nghị của ông lão Hải
Vân và ông Nghị, Long và chị Dậu đã có hành động hứa sẽ thực hiện đúng như
lời của ông ta dạy. Mặc dù không sử dụng biểu thức ngữ vi hứa nhưng chúng ta
vẫn có thể biết được “Xin cụ cứ dạy.” và “Con xin vâng theo lời cụ.” là hành động
hứa. Tương tự ví dụ (19) cũng vậy, “Ừ” cũng là một hành động trực tiếp khẳng
định nhưng lại có đích ở lời là hành động hứa.
41
Trong giao tiếp, khi người này muốn thực hiện lời hứa với người kia mà
không muốn phải nhắc lại lời đề nghị hay yêu cầu của đối phương, chủ ngôn của
hành động hứa thường sử dụng hành động trực tiếp khẳng định để thể hiện hành
động hứa gián tiếp.
Bảng 2.4: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động hứa
STT Phương thức thể hiện Số lượng Tỉ lệ
1 Hành động hứa trực tiếp 85 95,20
2 Hành động hứa gián tiếp 4 4,49
Tổng số 89 99,99
2.2.2. Hành động cam đoan
2.2.2.1. Khái niệm hành động cam đoan
Theo định nghĩa trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ xuất
bản năm 2004, “Cam đoan có nghĩa là nói chắc và hứa chịu trách nhiệm về lời
nói của mình để cho người khác tin.” Cũng giống như hành động hứa, hành
động cam đoan cũng thể hiện trách nhiệm của người nói về một hành động
trong tương lai mà người nói sẽ thực hiện cho người nghe. Tuy nhiên, so với
hành động hứa, lực ngôn trung của hành động cam đoan đã cao hơn. Ngoài ra,
hành động cam đoan còn nghiêng về đảm bảo, khẳng định về điều mà người
nói nói tới.
2.2.2.2. Số lượt sử dụng
Hành động cam đoan xuất hiện trong một số tác phẩm văn xuôi Việt
Nam giai đoạn 1930-1945 không nhiều. Theo kết quả khảo sát của chúng
tôi, kiểu hành động cam đoan có số lượt sử dụng là 20 lượt, chiếm sấp sỉ
9,61%.
42
Bảng 2.5: Bảng tổng kết hành động cam đoan
Số lượng; tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % STT Tác phẩm
1 Giông tố - Tác phẩm và dư luận 8 40
2 Nửa chừng xuân 7 35
3 Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 2 10
4 Gánh hàng hoa 1 5
5 Hồn bướm mơ tiên 1 5
6 Bước đường cùng 1 5
7 Đôi bạn 0 0
8 Đoạn tuyệt 0 0
9 Lạnh lùng 0 0
10 Thừa tự 0 0
11 Ngô Tất Tố tuyển tập 0 0
12 Đời mưa gió 0 0
Tổng số 20 100%
2.2.2.3. Điều kiện sử dụng
Tương tự như hành động hứa, hành động cam đoan được sử dụng với chức
năng ở lời cũng phải thỏa mãn 4 điều kiện theo quan điểm của Searle:
- ĐKNDMĐ: Hành động cam đoan có nội dung mệnh đề là hành động
tương lai hoặc sự đảm bảo, khẳng định về một vấn đề của người nói mang lại
những lợi ích tinh thần và vật chất cho người nghe.
- ĐKCB: Tương tự hành động hứa, điều kiện chuẩn bị của hành động cam
đoan là những hiểu biết của người thực hiện hành động cam đoan về lợi ích, tâm
thế… của người nghe và mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Sự cam
đoan đòi hỏi người nói có ý muốn thực hiện lời cam đoan, chắc chắn về điều mà
mình cam đoan và người nghe cũng thực sự mong muốn lời cam đoan được thực
hiện và tin vào điều mà người nói đã cam đoan.
43
- ĐKCT: Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của
người thực hiện hành động cam đoan. Cam đoan đòi hỏi ý định, tính trung thực
của chủ ngôn.
- ĐKCB: Đây là điều kiện đưa ra trách nhiệm rơi vào hành động sẽ được
thực hiện trong tương lai của người nói hoặc tính chân thực của sự việc mà người
nói muốn người nghe tin.
Hành động cam đoan có những quy ước nhất định buộc người cam đoan
và người được cam đoan phải tuân thủ.
Ví dụ 20: “Chàng giơ tay bắt tay Huy và nói luôn:
- Nhất là có hai việc mẹ dặn, anh đều quên nói cả hai. Việc thứ nhất là đón
em. Việc thứ hai là xin em cho Ái về ở với bà.
…
Mai rất ôn tồn:
- Em cam đoan với anh rằng ngày sau thế nào em cũng cho nó về ở với
anh. Em nói câu này xin anh đừng giận, em chỉ sợ con em, nó nhiễm cái giáo
dục nghiêm khắc... tàn nhẫn của cụ Án…” [6; 208]
Đoạn thoại trên của nhân vật Lộc và Mai trong “Nửa chừng xuân” diễn ra
khi Lộc tìm đến Mai để xin đón cô và con trai là Ái về. Nhưng Mai không bằng
lòng mà cam kết với Lộc sau này khi Ái lớn sẽ cho cha con đoàn tụ. Phát ngôn “Em
cam đoan với anh rằng ngày sau thế nào em cũng cho nó về ở với anh.” Là hành
động cam đoan, thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động ở lời:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “cho Ái về ở với Lộc”.
- ĐKCB: Nhân vật Mai cam đoan sau này sẽ cho Ái và Lộc đoàn tụ và
đó cũng là điều mà Lộc mong muốn. Hành động cam đoan của Mai đã thỏa
mãn lợi ích của Lộc và bà Án.
- ĐKCT: Mai có ý định thực hiện lời đã nói ra.
- ĐKCB: Mai có trách nhiệm với việc mà mình đã cam đoan với Lộc.
Ví dụ 21: “Ngọc ngẫm nghĩ rồi quả quyết nói:
44
- Vâng, tôi xin thuận theo những lời vàng ngọc của chú. Vậy bây giờ
muốn tránh khỏi sự ngờ vực thì ta trở lại Long Vân. Tôi xin cam đoan rằng ngoài
tôi ra không ai biết rõ được sự bí mật của chú.” [5; tr60]
Phát ngôn “Tôi xin cam đoan rằng ngoài tôi ra không ai biết rõ được sự
bí mật của chú.” là một hành động cam đoan vì đã thỏa mãn các điều kiện sử
dụng hành động ở lời:
- ĐKNDMĐ: Sự đảm bảo của Ngọc về bí mật của chú tiểu Lan.
- ĐKCB: Hành động cam đoan của nhân vật Ngọc thỏa mãn lợi ích của
nhân vật Lan, đó là việc bí mật của Lan sẽ không có ai biết đến. Ngọc chắc
chắn việc bí mật của Lan sẽ không ai biết và việc thực hiện hành động cam
đoan đó hoàn toàn nằm trong khả năng của Ngọc.
- ĐKCT: Ngọc có ý định giữ bí mật cho chú tiểu Lan.
- ĐKCB: Ngọc đảm bảo sẽ giúp Lan giữ bí mật về thân phận thật của cô.
2.2.2.4. Phương thức thể hiện
a. Hành động cam đoan được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi tường minh
hay nguyên cấp
Về mặt cấu trúc, hành động cam đoan thuộc lớp Cam kết trực tiếp được
chia làm hai dạng: Biểu thức cam đoan tường minh và biểu thức cam đoan
nguyên cấp.
* Biểu thức ngữ vi cam đoan tường minh
Một biểu thức ngữ vi cam đoan tường minh dạng đầy đủ sẽ có công thức
như sau:
Sp1 + ĐTNV + với Sp2/ có A/ trước A + (rằng/là) + Sp1 + S2
Trong đó: Sp1 là người nói (chủ ngôn); ĐTNV là động từ cam đoan; A là
đối tượng chứng kiến (làm chứng) hành động cam đoan; Sp2 là người nghe (đối
tượng tiếp nhận hành động cam đoan); S2 là nội dung mệnh đề nêu hành động
tương lai của người thực hiện hành động cam đoan.
45
Ví dụ 22:
“Tôi cam đoan (với) cô (rằng) thế nào tôi cũng lấy được vợ cho con tôi.”
Sp1 ĐTNV Sp2 Sp1 S2
[6; tr.105]
Trong thực tế sử dụng, các tác giả còn biểu diễn biểu thức ngữ vi cam đoan
tường minh còn xuất hiện ở các dạng rút gọn như sau:
Sp1 + ĐTNV + (rằng/là) + S2
Ví dụ 23:
“Tôi xin cam đoan (rằng) ngoài tôi ra không ai biết rõ được sự bí mật của chú.”
Sp1 ĐTNV S2
[5; tr.60]
Trong biểu thức ngữ vi này, người nói đã lược bỏ thành phần Sp2 và Sp1.
Sp1 + S2 + Sp1 + ĐTNV
Ví dụ 24:
“Đây này: tôi xin kiếm đất lại cho bác, làm cho bác lên được ghế
Sp1 S2
nghị trưởng, và được bắc đẩu bội tinh năm nay, tôi cam đoan...”
Sp1 ĐTNV
[11; tr.253]
Ở dạng này, thành phần mệnh đề nêu hành động tương lai đã được đảo lên
trước động từ ngữ vi.
* Biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp
Hành động cam đoan nguyên cấp là hành động trong biểu thức ngữ vi
không có động từ ngữ vi cam đoan. Để xác định một biểu thức ngữ vi có phải
biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp hay không chúng tôi căn cứ vào điều kiện
sử dụng ở lời của phát ngôn, khái niệm cam đoan, ngữ cảnh giao tiếp, lực ngôn
trung của phát ngôn.
46
Ví dụ 25: “- Có cái gì là chứng cớ không?
- Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con. Bẩm cụ
lớn, chắc là họ chỉ nhắm mắt nghe theo bọn phiến loạn chúng mớm nhời mà thôi.
Họ vu cho con là giết người, là hiếp tróc đàn bà con gái, là bóp hầu, bóp cổ bọn
dân nghèo, thôi thì đủ những tội ác… Bẩm cụ lớn, con thấy rằng cái phong trào
ấy sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà trình
báo để cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.” [11; tr.34]
Phát ngôn “Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà trình báo để
cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.” mặc dù không có động từ ngữ vi
nhưng người đọc vẫn có thể xác định đây là một biểu thức ngữ vi cam đoan
nguyên cấp. Phát ngôn này là lời nói chắc chắn cho những điều mà nghị Hách
nói về người dân làng và hứa chịu trách nhiệm về điều đó (mang tư cách người
dân biểu ra để cam đoan). Đồng thời, phát ngôn đã đáp ứng 4 điều kiện hành
động ở lời:
- ĐKNDMĐ: Hành động trình báo của nghị Hách với quan công sứ.
- ĐKCB: Nhân vật nghị Hách lấy tư cách một người dân biểu mà trình báo
để quan công sứ tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.
- ĐKCT: Nghị Hách chắc chắn và hứa chịu trách nhiệm về những điều y
đã trình báo.
- ĐKCB: Nghị Hách có trách nhiệm trước những lời đã nói ra với quan
công sứ.
Ví dụ 26: “- Nhưng con lấy người ta đã khai giá thú đâu, khi người ta sinh
nở, con có nhận con con đâu?
- Được, tao sẽ có cách.” [6; tr.178]
Phát ngôn “tao sẽ có cách” là một biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp.
Trong biểu thức này không có động từ ngữ vi cam đoan nhưng đã thỏa mãn điều
kiện hành động ở lời:
- ĐKNDMĐ: Hành động sẽ tìm cách bắt con về cho Lộc của bà Án.
47
- ĐKCB: Bà Án cam đoan chắc chắn sẽ có cách bắt cháu nội về.
- ĐKCT: Bà Án chắc chắn về hành động của mình.
- ĐKCB: Bà Án có trách nhiệm trước lời hứa với con trai.
Bảng 2.6: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động cam đoan
STT Hình thức diễn đạt Số lượng Tỉ lệ
1 Biểu thức ngữ vi cam đoan tường minh 9 45
2 Biểu thức ngữ vi cam đoan nguyên cấp 11 55
Tổng số 20 100
b) Hành động cam đoan được thực hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp
Để phân biệt hành động cam đoan trực tiếp và hành động cam đoan gián
tiếp trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, chúng tôi
cũng căn cứ vào điều kiện sử dụng hành động ở lời mà Searle đưa ra. Những
hành động ngôn ngữ được sử dụng trên bề mặt hành động khác không phải hành
động cam đoan nhưng lại lại nhằm hiệu quả của hành động cam đoan gọi là hành
động cam đoan gián tiếp. Theo số lượng thống kê của chúng tôi, trong tổng số
20 phát ngôn biểu thị hành động cam đoan có 18 hành động cam đoan trực tiếp,
2 hành động cam đoan gián tiếp.
* Hành động cam đoan trực tiếp
Ví dụ 27: “- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long
ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ. Tôi
khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.
- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu quý suốt đời.
Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của Mịch tức là một
vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế nào rửa cho sạch vết nhọ ấy thì
mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng khóc nữa.”
[11; tr.44]
48
Trong ví dụ (27), đây là đối thoại giữa nhân vật Long và Mịch trong tiểu
thuyết “Giông tố” sau khi Mịch tự tử bất thành vì nỗi xấu hổ bị làm nhục. Mịch
không còn mặt mũi nào để đối diện với người chồng sắp cưới là Long. Để chứng
minh tình cảm của mình không hề thay đổi, vẫn luôn yêu quý Mịch, Long đã đưa
ra lời cam đoan “Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu
quý suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của
Mịch tức là một vết nhọ trên trán anh.”. Phát ngôn này là hành động cam đoan
trực tiếp vì có động từ “cam đoan” được dùng với hiệu lực ngữ vi cam đoan và
thỏa mãn các điều kiện sử dụng hành động ở lời:
- ĐKNDMĐ: Sự bảo đảm của Long về việc “vẫn yêu quý Mịch như trước,
yêu quý mãi, yêu quý suốt đời”, “rửa thù cho Mịch”.
- ĐKCB: Nhân vật Long cam đoan vẫn sẽ yêu quý Mịch suốt đời và đó
chính là điều mà Mịch mong muốn.
- ĐKCT: Long có ý muốn thực hiện ý nguyện của Mịch.
- ĐKCB: Long có trách nhiệm phải thực hiện việc mà mình đã cam đoan
với Mịch.
* Hành động cam đoan gián tiếp
Từ ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thống kê được 2 hành động cam đoan gián
tiếp trên tổng số 20 hành động cam đoan, chiếm 10%. Hành động cam đoan gián
tiếp mà chúng tôi khảo sát được là hành động cam đoan được tạo ra bằng biểu
thức của hành động ngôn trung hỏi.
Ví dụ 28: “- Tao bảo mày không nghe thì thôi, về nhà làm với ông lý cựu,
với ông phó Năng nhà mày. Đây tao không thừa cơm.
Pha lạy van để minh oan, nói:
- Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông lý vào hỏi ba mặt một lời
xem con có ký vào đơn kiện không?” [12; tr.89]
Ví dụ 29: Hắn xông đến chỗ chị Dậu và nói thật lớn;
- Ðứng dậy, đi lên phủ!
49
Chị Dậu phát cáu;
- Lên phủ thì lên. Tôi có trốn đâu? Nhưng ông hãy để cho tôi ăn xong bữa
cơm cái nào! [1; tr.308]
Hai phát ngôn “Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông lý vào hỏi ba
mặt một lời xem con có ký vào đơn kiện không?”, “Tôi có trốn đâu?” có dấu hiệu
hình thức của câu hỏi nhưng không dùng để hỏi mà thực chất là một hành động
cam đoan gián tiếp. Phát ngôn của nhân vật Pha trong ví dụ (28) là lời cam đoan
y không kí vào đơn kiện. Còn phát ngôn trong ví dụ (29) là lời cam đoan sẽ lên
phủ của chị Dậu:
Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông lý vào hỏi ba mặt một lời xem con
có ký vào đơn kiện không? - Con cam đoan con không hề ký vào đơn kiện.
Tôi có trốn đâu? - Tôi cam đoan sẽ theo ông lên phủ.
Bảng 2.7: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động cam đoan
STT Phương thức thể hiện Số lượng Tỉ lệ
1 Hành động cam đoan trực tiếp 18 90
2 Hành động cam đoan gián tiếp 2 10
Tổng số 20 100
2.2.3. Hành động thề
2.2.3.1. Khái niệm hành động thề
Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ (2004),
“Thề có nghĩa là nói chắc, hứa chắc một cách trịnh trọng, viện ra vật thiêng
liêng hay cái quý báu nhất (như danh dự, tính mạng) để bảo đảm.” Vậy so
với hành động hứa và hành động bảo đảm, hành động thề có lực ngôn trung
cao nhất. Chúng tôi khảo sát được 17 lượt sử dụng hành động thề, chiếm sấp
sỉ 8,17%.
50
2.2.3.2. Số lượt sử dụng
Có thể hình dung số lượt sử dụng hành động thề trong 12 tác phẩm chúng
tôi đã chọn làm ngữ liệu thống kê bằng bảng tổng kết dưới đây:
Bảng 2.8: Bảng tổng kết hành động thề
Số lượng; tỉ lệ % STT Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm
1 Giông tố - Tác phẩm và dư luận 3 17,64
2 Gánh hàng hoa 3 17,64
3 Đời mưa gió 3 17,64
4 Thừa tự 3 17,64
5 Hồn bướm mơ tiên 2 11,64
6 Nửa chừng xuân 1 5,88
7 Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 1 5,88
8 Bước đường cùng 1 5,88
9 Đôi bạn 0 0
10 Đoạn tuyệt 0 0
11 Lạnh lùng 0 0
12 Ngô Tất Tố tuyển tập 0 0
Tổng số 17 99,84
2.2.3.3. Điều kiện sử dụng
Một hành động thề được sử dụng với đích ở lời cần thỏa mãn 4 điều kiện
theo quan điểm của Searle.
* ĐKNDMĐ: Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất của hành động
ngôn ngữ. Cũng như hành động hứa, hành động thề có nội dung mệnh đề chỉ
hành động tương lai của người nói. Nếu như trong hành động hứa là sẽ làm việc
gì đó “cho đối phương” thì đối với hành động thề còn thể hiện sẽ làm việc gì đó
“xảy ra với đối phương”. Xét ví dụ sau:
51
Ví dụ 30: “- Vậy hứa đi. Ta nên lấy danh dự mà thề với nhau đi...
- Tôi xin thề.” [11; tr.154]
Đoạn hội thoại trên là của nhân vật Nghị Hách và viên quan Tây thương
lượng về việc nghị Hách ra tranh cử nghị trưởng. ĐKNDMĐ của hành động thề
trong ví dụ trên là hành động trong tương lai của nghị Hách - tham gia tranh cử
nghị trưởng. Việc nghị Hách tranh cử sẽ mang lại lợi ích cho viên quan Tây, đó
là độc quyền nước mắm.
* ĐKCB: Đối với hành động thề, điều kiện chuẩn bị là những hiểu biết của
người thực hiện hành động thề về lợi ích, tâm thế, ý định… của người nghe và
mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Quan hệ giữa người nói và người
nghe sẽ chi phối nội dung thề cũng như cách thức đưa ra lời thề.
Xét ví dụ (30) ĐKCB là sự hiểu biết của nghị Hách về lợi ích mà mình và
quan Tây sẽ có được nếu hắn ra tranh cử. Việc nghị Hách ra tranh cử cũng là
điều mà viên quan Tây mong muốn. Mối quan hệ giữa nghị Hách và viên quan
Tây dựa trên lợi ích đôi bên cùng có được.
* ĐKCT: Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của
người thực hiện hành động thề. Một hành động thề đích thực đòi hỏi người nói
phải thực sự mong muốn và tự nguyện thực hiện điều được nêu trong nội dung
mệnh đề, bất chấp những khó khăn và thiệt hại mà mình có thể gánh chịu. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp người nói chỉ “thề cá trê chui ống”, lời thề được
nói ra chỉ để cho qua chuyện.
Trong ví dụ (30), đứng trước những lợi ích sẽ có được, nghị Hách thật sự
muốn thực hiện lời thề ra tranh cử chức nghị trưởng.
* ĐKCB: Đây được coi là là điều kiện thiết yếu để một hành động ở lời
được thực hiện thành công. Đối với hành động thề, ngay khi đưa ra lời thề, người
nói tự ràng buộc trách nhiệm phải thực hiện hành động. Đã thề thì phải làm. Đã
đưa ra lời thề thì không thể “thất tín”, không thể không giữ lời. Nếu người nói
không thực hiện đúng hành động nêu ra trong nội dung mệnh đề thì người nói
52
phải chịu tổn thất về danh dự, tính mạng…Có thể nói thề là hành động có mức
độ cam kết cao nhất (so với các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết khác).
Xét ví dụ sau:
Ví dụ 31: “Long lại bắt đầu yêu... Chàng gục đầu vào mặt người vợ
chưa cưới:
- Tuyết ơi! Tuyết yêu quí nhất đời của anh ơi, anh xin lỗi Tuyết. Đừng việc
gì mà lo buồn, đó là chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu? Từ đây mà đi, anh xin
thề với Tuyết là sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó,
mà nếu không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử, mặc lòng là tại Tuyết
hay tại ai cũng vậy.” [11; tr194]
Phát ngôn được in nghiêng trong ví dụ (30) được sử dụng với hiệu lực ngữ
vi thề vì biểu thức ngữ vi có chứa động từ “thề” và thỏa mãn các điều kiện:
- ĐKNDMĐ: là hành động trong tương lai mà người nói (Long) sẽ thực
hiện “sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó, mà nếu
không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử”.
- ĐKCB: Long biết Tuyết yêu mình và Tuyết cũng mong muốn có được
tình yêu của Long. Mối qua hệ giữa Long và Tuyết là mối quan hệ tình nhân.
- ĐKCT: Long mong muốn và tự nguyện yêu Tuyết, mong muốn được
sống chung với Tuyết.
- ĐKCB: Long tự ràng buộc trách nhiệm bản thân phải thực hiện lời thề,
cho rằng bản thân phải có trách nhiệm đối với Tuyết, với tình yêu của Tuyết.
2.2.3.4. Phương thức thể hiện
a. Hành động thề được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi tường minh hay
nguyên cấp
Tương tự như hành động hứa, hành động cam đoan, về mặt cấu trúc, biểu
thức ngữ vi hành động thề cũng được chia làm hai dạng: biểu thức ngữ vi thề
tường minh và biểu thức ngữ vi thề nguyên cấp.
* Biểu thức ngữ vi thề tường minh
53
Biểu thức ngữ vi thề tường minh đầy đủ cũng có dạng:
Sp1 + ĐTNV + với Sp2/ có A/ trước A + (rằng/là) + Sp1 + S2
Ví dụ 32: "Tôi xin thề (với) Lan (rằng) tôi giữ được mãi như thế".
Sp1 ĐTNV Sp2 Sp1 S2
[5; tr.72]
Hay trong ví dụ sau, các thành phần trong biểu thức ngữ vi thề đã có sự
thay đổi trình tự:
Ví dụ 33: "Tôi xin viện Phật tổ tôi thề với Lan (rằng) suốt một đời,
Sp1 có A Sp1 ĐTNV Sp2 S2
tôi sẽ chân thành thờ trong tâm trí cái linh hồn dịu dàng của Lan".
[5; tr.72]
Tuy nhiên, không phải lúc nào biểu thức ngữ vi thề tường minh dạng đầy
đủ cũng được sử dụng thường xuyên. Trong một số hoàn cảnh giao tiếp, người
nói có thể sử dụng biểu thức ngữ vi thề tường minh ở dạng không đầy đủ.
Các biểu thức ngữ vi thề tường minh ở dạng khuyết thiếu mà chúng tôi
khảo sát được là:
Sp1 + ĐTNV + với Sp2/ có A/ trước A + (rằng/ là) + S2
Ví dụ 34:
“Từ đây mà đi, anh xin thề (với) Tuyết (là) sẽ yêu em trọn đời, sẽ
Sp1 ĐTNV Sp2 S2
trung thành với Tuyết như một con chó”
[11; tr194]
Ở phát ngôn trên, người nói đã lược bỏ thành phần Sp1 (chủ ngữ của mệnh
đề nêu hành động trong tương lai).
Sp1 + ĐTNV + S2
Ví dụ 35: "Tôi xin thề không lấy vợ lẽ cho chồng tôi".
Sp1 ĐTNV S2
[4; tr.19]
Sp1 + ĐTNV
54
Ví dụ 36: “Tôi xin thề.”
Sp1 ĐTNV
* Biểu thức ngữ vi thề nguyên cấp
Tương tự như các hành động ngôn ngữ khác thuộc lớp Cam kết, hành động
thề nguyên cấp là hành động không sử dụng động từ ngữ vi thề. Chúng tôi cũng
căn cứ vào điều kiện sử dụng ở lời của phát ngôn, khái niệm thề, ngữ cảnh giao
tiếp, mức độ kết ước (xác tín) của phát ngôn để xác định một biểu thức ngữ vi
thề nguyên cấp.
Ví dụ 37: "Thầy đội vuốt râu, gật gù:
- Ký cược đồng bạc, tao cho vợ chồng gặp nhau. Không thì thôi."
[12; tr.57]
- ĐKNDMĐ: Hành động đồng ý cho vợ chồng Pha gặp nhau của thầy đội.
- ĐKCB: Nếu chị Pha hối lộ thây đội một đồng bạc, hắn sẽ cho chị gặp chồng.
- ĐKCT: Thầy đội có ý định cho vợ chồng Pha đoàn tụ nếu có một đồng
bạc cược.
- ĐKCB: Thầy đội có trách nhiệm trước những lời đã nói với chị Pha.
Trong truyện ngắn Tắt đèn cũng có một ví dụ tương tự:
Ví dụ 38: "- Lạy ông, ông xét lại cho. Con bán cả con lẫn chó mới được
có hai đồng bạc.
- Mặc kệ. Không biết, đủ một đồng bạc thì ông sẽ đóng triện cho."
[1; tr.255]
Với kiểu câu ghép chính phụ chỉ điều kiện, để liên kết các mệnh đề ta sử
dụng cặp liên từ “nếu thì”. Trong đó, liên từ chỉ điều kiện “nếu” đứng trước mệnh
dề điều kiện, còn liên từ “thì” đứng trước mệnh đề chỉ hệ quả. Cấu trúc “nếu -
thì” khi được dùng với chức năng của một biểu thức ngữ vi hành động thuộc lớp
Cam kết thì một mệnh đề trình bày giả định tiêu cực (có thể tích cực) điều kiện
này được coi như điều kiện đủ để dẫn đến hệ quả trong mệnh đề kia.
Ví dụ 39: “Khoa uống hết cốc rượu, tiếp luôn:
55
- Nếu em lấy vợ lẽ thì đời em sẽ cạn như cốc rượu này.
Bỉnh khôi hài:
- Chú chẳng thề thì thím ấy cũng chẳng để chú lấy vợ lẽ.”
[4; tr.19]
Xét ví dụ trên, mệnh đề “nếu” nêu điều kiện giả định “nếu Khoa lấy vợ
lẽ” là nguyên nhân dẫn đến hệ quả trong mệnh đề chính “đời Khoa sẽ cạn như
cốc rượu”.
Có thể thấy, quan hệ giữa điều kiện giả định và hệ quả giả định là quan
hệ nhân quả. Nếu sự việc này diễn ra thì sự việc kia cũng diễn ra. Còn nếu
việc này không xảy ra thì việc kia chắc chắn không xảy ra. Cho nên quan hệ
hiển ngôn của mệnh đề “nếu - thì” như ví dụ trên không phải là điều mà người
nói mong đợi. Nhưng mệnh đề kết quả chính là lời thề của người nói đối với
người nghe.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi sử dụng phát ngôn dưới dạng
mệnh đề “nếu - thì”, quan hệ hiển ngôn của mệnh đề lại là điều mà người nói
muốn người nghe tiếp nhận.
Ví dụ 40: “- Tôi hỏi thật ông rằng: nếu tôi ra tranh cử nữa, thì có lợi hại gì
cho ông không?
- Tôi cũng xin nói thật ngay rằng nếu ông tranh cử nữa, thì cả đôi ta sẽ
cùng có lợi.” [11; tr.153]
Ở ví dụ trên, mệnh đề “nếu” nêu điều kiện giả định “ông tranh cử nữa”
là nguyên nhân dẫn đến hệ quả “cả đôi ta sẽ cùng có lợi”. Khi đưa ra phát ngôn
này, viên quan Tây muốn cho nghị Hách thấy được lợi ích của việc ra tranh cử.
Vì vậy mệnh đề hệ quả chính là lời cam kết của viên quan Tây đối với nghị
Hách.
Bảng 2.9: Bảng tổng kết hình thức diễn đạt của hành động thề
56
STT Hình thức diễn đạt Số lượng Tỉ lệ
1 Hành động thề tường minh 58,82 10
2 Hành động thề nguyên cấp 41,17 7
Tổng số 99,99 17
b) Hành động thề được thực hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp
Những biểu thức được luận văn xác định là biểu thức thể hiện hành động
thề trực tiếp thỏa mãn 4 điều kiện sử dụng hành động ở lời mà Searle nêu trên:
điều kiện nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện
căn bản. Ngược lại, những hành động ngôn ngữ được sử dụng trên bề mặt hành
động khác không phải hành động thề nhưng lại lại nhằm hiệu quả của hành động
thề người ta gọi là hành động thề gián tiếp. Theo số lượng thống kê của chúng
tôi, trong tổng số 18 phát ngôn biểu thị hành động thề thì có 16 trường hợp là
hành động thề trực tiếp và 2 trường hợp là hành động thề gián tiếp.
* Hành động thề trực tiếp
Ví dụ 41: “Minh “thề” rằng:
− Nếu anh mà nói dối em thì anh chết ngay tại chỗ.
Liên không chịu, lắc đầu dù Minh không nhìn thấy gì:
− Không, nếu anh nói dối em thì em chết kia!” [3; tr.84]
Ví dụ 42: “Pha quả quyết nói:
- Tôi thề rằng sẽ chống đến cùng. Trước hết, tôi hãy giúp bác trương Thi
gặt chỗ năm sào của bác ấy đã, rồi đến mẫu hai của bác San.” [12; tr.135]
Các phát ngôn được in nghiêng trong hai ví dụ trên đều biểu thị hành động
thề trực tiếp.
* Hành động thề gián tiếp
Hành động thề gián tiếp mà chúng tôi khảo sát được là hành động gián tiếp
thề được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung hỏi và cảm thán. Ví dụ
(43) dưới đây là ví dụ về hành động thề được dùng theo lối gián tiếp.
Ví dụ 43: “- Nói dở lắm, không yêu thì ai lại lấy!
57
- Tôi ước rằng ông cụ nhà tôi gả tôi cho anh, không vì tham giàu, mà ông
cụ nhà anh hỏi tôi cho anh, không vì tham sang. Tôi ước rằng trong việc này chỉ
có lòng yêu của anh, và của tôi, của đôi ta… là đáng kể. Như thế thì mới có hạnh
phúc.” [11; tr196]
Trong ví dụ này, phát ngôn của nhân vật Tú Anh có hình thức là một hành
động cảm thán nhưng biểu thị nội dung của hành động thề “Nói dở lắm, không
yêu thì ai lại lấy!” - Anh thề anh yêu em mới lấy.
Bảng 2.10: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của hành động thề
STT Phương thức thể hiện Số lượng Tỉ lệ
1 Hành động thề trực tiếp 16 94,11
2 Hành động thề gián tiếp 1 5,88
Tổng số 17 99,99
2.2.4. Hành động ngôn ngữ trung gian (mơ hồ)
2.2.4.1. Quan niệm về các hành động ngôn ngữ trung gian thuộc lớp Cam kết
Chúng tôi xếp vào nhóm này những hành động ngôn ngữ khó có thể xác
định được chính xác là hành động gì thuộc lớp Cam kết. Nói cụ thể hơn, đây là
những hành động ngôn ngữ có thể xếp vào loại hành động hứa, cũng có thể cho
là hành động thề hoặc cam đoan. Điều giống nhau của các hành động ngôn ngữ
này là vắng động từ ngữ vi và ngữ cảnh chưa đủ để ta có thể xếp chúng vào loại
hành động gì. Bởi tuy có sự mơ hồ về hành động ngôn ngữ nhưng chúng vẫn
mang đặc điểm của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và tồn tại hiển nhiên
trong tác phẩm, nên chúng tôi vẫn thống kê và tạm xếp chúng vào loại với tên
gọi “hành động ngôn ngữ trung gian”.
Loại này có số lượt dùng là 82 lượt, chiếm 39,42% số lượng hành động
ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết chúng tôi đã thống kê.
2.2.4.2. Số lượt sử dụng
58
Có thể hình dung số lượt sử dụng hành động ngôn ngữ trung gian trong
12 tác phẩm chúng tôi đã chọn làm ngữ liệu thống kê bằng bảng tổng kết 2.11
dưới đây:
Bảng 2.11: Bảng tổng kết hành động ngôn ngữ trung gian
Số lượng; tỉ lệ % STT Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm
1 Giông tố - Tác phẩm và dư luận 26 31,70
2 Bước đường cùng 19 23,17
3 Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn 12 14,63
4 Nửa chừng xuân 10 12,19
5 Gánh hàng hoa 5 6,09
6 Lạnh lùng 3 3,65
7 Ngô Tất Tố tuyển tập 3 3,65
8 Đoạn tuyệt 2 2,43
9 Hồn bướm mơ tiên 2 2,43
10 Thừa tự 0 0
11 Đời mưa gió 0 0
12 Đôi bạn 0 0
Tổng kết 82 99,94
2.2.4.2. Điều kiện sử dụng
Tương tự như ba trường hợp đã phân tích cụ thể bên trên, để một hành
động được thực hiện với đích ở lời thì cần thỏa mãn 4 điều kiện theo quan điểm
của Searle.
Hành động ngôn ngữ trung gian là những hành động mà biểu thức ngữ vi
của nó không có động từ được sử dụng với hiệu lực ngữ vi, nên ngoài căn cứ vào
việc phát ngôn thỏa mãn các điều kiện của Searle thì cần phải dựa vào các yêu tố
khác để xác định được đó có phải hành động thuộc lớp Cam kết hay không. Trong
59
phát ngôn có trạng từ, phó từ chỉ thời gian “sẽ” kết hợp với động từ chỉ hoạt động,
trạng thái để chỉ hành động trong tương lai của người nói thì phát ngôn đó được
coi là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết.
Ví dụ 44: “Chàng đưa khăn lên lau nước mắt, ngập ngừng nói mấy lời, tỏ
lòng biết ơn:
- Thưa bác sĩ. Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi sẽ chẳng bao giờ quên...
Ông bác sĩ cố giấu đi tất cả niềm kiêu hãnh bằng một câu nhún nhường:
- Tôi mổ mắt cho ông thì tôi lấy tiền, là tôi cũng vì tiền. Đó chẳng qua là
vì sinh kế của tôi thôi chứ ơn với nghĩa gì!”. [2; tr.114]
Phát ngôn “Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi sẽ chẳng bao giờ quên...” của
nhân vật Minh trong “Gánh hàng hoa” là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết. Bởi vì trong biểu thức ngữ vi có phó từ chỉ thời gian “sẽ không bao
giờ” kết hợp với động từ chỉ hoạt động “quên” để chỉ hành động ghi nhớ công
ơn của bác sĩ đã chữa khỏi mắt cho Minh. Và phát ngôn này cũng thỏa mãn các
điều kiện:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “không bao
giờ quên”.
- ĐKCB: Minh luôn biết ơn vị bác sĩ.
- ĐKCT: Minh biết ơn bác sĩ đã chữa khỏi mắt cho mình.
- ĐKCB: Minh có trách nhiệm thực hiện hành động đã nói ra.
Có thể bổ sung động từ ngữ vi cho phát ngôn như sau:
“Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi hứa sẽ chẳng bao giờ quên...”
“Cái ơn cứu chữa của bác sĩ tôi thề sẽ chẳng bao giờ quên...”
Ví dụ 45: “Thấy bà Hai vẫn ngồi xoay mặt vào tường nức nở khóc, Loan
đứng dậy lại gần thưa:
- Dẫu sao thầy me cũng chớ nên phiền muộn. Rồi con sẽ nghĩ lại và con
sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất định về việc ấy ra sao.” [8; tr.22]
60
Trên đây là lời của Loan (Đoạn tuyệt) nói với mẹ của mình trong tình huống
cha mẹ cô muốn sắp đặt cho cô một cuộc hôn nhân. Là một cô gái được theo học
trường tây và có tư tưởng hiện đại về tình yêu hôn nhân nên Loan nhất mực phản
đối việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tuy nhiên trước thái độ của mẹ mình, cô
cũng không thể hoàn toàn phản kháng. Vì vậy Loan đã đưa ra lời cam kết sẽ suy
nghĩ và trình bày về vấn đề này trong tương lai. Phát ngôn “Rồi con sẽ nghĩ lại và
con sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất định về việc ấy ra sao.” được coi là một
hành động ngôn ngữ trung gian thuộc lớp Cam kết vì trong biểu thức ngữ vi phó từ
chỉ thời gian tương lai “sẽ” kết hợp với động từ “nghĩ lại”, “trình bày” để chỉ hành
động mà Loan sẽ thực hiện trong tương lai chứ không phải ở quá khứ hay hiện tại.
Đồng thời nó cũng thỏa mãn các điều kiện:
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “suy nghĩ, trình
bày”.
- ĐKCB: Loan sẽ suy nghĩa về vấn đề lấy người mà cha mẹ sắp đặt và đó
cũng là điều mà ông bà Hai mong muốn.
- ĐKCT: Loan có ý định thực hiện những hành động đó.
- ĐKCB: Loan có trách nhiệm phải thực hiện hành động đã nói với bố mẹ.
Có thể bổ sung động từ ngữ vi cho phát ngôn như sau:
“Con hứa rồi sẽ nghĩ lại và con sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất định
về việc ấy ra sao.”
“Con cam đoan rồi con sẽ nghĩ lại và con sẽ trình bầy thầy me biết ý con
nhất định về việc ấy ra sao.”
“Con thề rồi con sẽ nghĩ lại và con sẽ trình bầy thầy me biết ý con nhất
định về việc ấy ra sao.”
Trong nhiều đoạn hội thoại, phát ngôn của các nhân vật không có chứa động
từ được sử dụng với chức năng cam kết, cũng không xuất hiện những trạng từ phó từ
chỉ thời gian đứng trước động từ chỉ hành động, trạng thái. Vì vậy, muốn biết phát
ngôn đó có phải hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết hay không thì chúng ta phải
xét đến các yếu tố khác như ngữ cảnh, lời thoại của các nhân vật khác.
61
Ví dụ 46: “Mụ bèn năn nỉ nói:
- Chết chửa, thế thì làm thế nào? Thưa ông, nhờ ông nghĩ giùm cháu, nhờ
ông châm chước đi cho.
- Châm chước thế nào? Xác chết ở hàng nhà bà, chẳng lẽ bây giờ bà bảo
tôi đem về nhà tôi chăng?
- Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu không
dám quên ơn ông.” [1; tr.92]
Đoạn hội thoại trên diễn ra trong hoàn cảnh có một bà lão ăn mày chết ở
trước gian hàng của bà Ngần, ông lý Bá bèn nghĩ ra cách để trục lợi từ việc này.
Thấy có người chết trước cửa quán mình, sợ sinh chuyện lôi thôi cho nên bà
Ngần tìm đến lý Bá nhờ giúp đỡ. Muốn giải quyết sớm cho xong chuyện, bà
Ngần đã có ý sẽ hậu tạ cho lý Bá và đó cũng là mục đích mà lý Bá muốn đạt
được. Vì vậy phát ngôn “Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu
nhờ thì cháu không dám quên ơn ông.” là một hành động ngôn ngữ trung gian.
Có thể bổ sung động từ ngữ vi cho phát ngôn như sau:
“Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu cam
đoan không dám quên ơn ông.”
“Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu thề
không dám quên ơn ông.”
2.2.4.3. Phương thức thể hiện
Mặc dù quan niệm về hành động ngôn ngữ trung gian còn mơ hồ, nhưng
chúng tôi vẫn nghiên cứu phương thức thể hiện của kiểu hành động này trên hai
phương diện. Đó là hành động ngôn ngữ trung gian được diễn đạt bằng biểu thức
ngữ vi tường minh hay nguyên cấp và hành động ngôn ngữ trung gian được thực
hiện theo lối trực tiếp hay gián tiếp.
a) Hành động ngôn ngữ trung gian được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi
nguyên cấp
Hành động ngôn ngữ trung gian có đặc điểm là trong biểu thức ngữ vi
không có động từ ngữ vi nên về mặt hình thức, hành động ngôn ngữ trung gian
chỉ được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
62
Ví dụ 47: “Bác trai Tân lắc đầu nói:
- Thế thì thế nào lão cũng ních đến hai mươi phân.
Chị Pha quả quyết:
- Bao nhiêu thì bao, trả cho bằng được.” [12; tr79]
Ví dụ 48: “- Chị sẽ tìm hết cách giúp em.
Nhung thấy mình nói bằng một giọng thờ ơ như không tin ở công hiệu
việc mình làm, nhưng Phương khi nghe câu ấy sung sướng lộ ra nét mặt.
- Chị nói thì thế nào mẹ cũng nghe.” [9; tr.29]
Các phát ngôn được in nghiêng trong hai ví dụ trên đều là những biểu
thức ngữ vi nguyên cấp, thỏa mãn các điều kiện ở lời của hành động thuộc lớp
Cam kết.
- ĐKNDMĐ: Hành động trong tương lai của người nói “trả cho bằng
được”; “tìm hết cách giúp em”.
- ĐKCB: Chị Pha quả quyết trả hết nợ; Nhung luôn muốn giúp em gái.
- ĐKCT: Chị Pha và Nhung có ý định thực hiện những hành động đó.
- ĐKCB: Chị Pha và Nhung có trách nhiệm phải thực hiện hành động
đã nói.
b) Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp hay
gián tiếp
* Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp
Ví dụ 49: “Mụ vừa kéo vạt áo lên quệt nước mũi, vừa bảo:
- Chúng cháu không dám chắc lép, nhưng quả là ít vốn.
Hắn quát lên:
- Ít vốn chỉ tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?”
[10; 26]
Ví dụ 50: “Lý trưởng gật đầu nói:
- Bẩm đúng thế đấy ạ… Toàn làm lấy tiếng.
63
Ông nghị cười:
- Mẹ kiếp, ở nhà quê còn thể dục với thể dịch, lại chưa được làm bằng chân
tay ựa cơm ra à? Việc mở trường hương học làng này, tôi nhất định phản đối.”
[12; tr.91]
Các phát ngôn được in nghiêng ở hai ví dụ trên đều là hành động ngôn
ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp, thỏa mãn điều kiện đích ở lời
của các hành động thuộc lớp Cam kết.
* Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối gián tiếp
Hành động ngôn ngữ trung gian gián tiếp là hành động có mục đích cam
kết được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung khác như: hỏi, cảm
thán, khẳng định… trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Luận văn đã thống
kê được 58 lượt hành động ngôn ngữ trung gian trực tiếp (sấp sỉ 70,73%), 24
lượt hành động ngôn ngữ trung gian gián tiếp (sấp sỉ 29,27%).
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, hành động ngôn ngữ trung gian gián
tiếp được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung khẳng định, hỏi và
cảm thán.
Ví dụ 51: “Minh cười, giọng âu yếm:
- Cứ nói đi. Không lẽ anh là hạng người đi mắng vợ lo lắng cho anh à?”
[2; tr.21]
Ví dụ 52: “- Thế mà không giữ lời hứa thì sao?
Nghị Hách phát cáu, đứng lên:
- Thế bác coi tôi là người hay là chó?” [11; tr.171]
Trong hai ví dụ trên, các phát ngôn được in nghiêng hành động ngôn ngữ
trung gian gián tiếp được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung nghi
vấn. Cả hai phát ngôn đều có hình thức của một câu nghi vấn nhưng lại biểu thị
ý nghĩa cam kết:
Không lẽ anh là hạng người đi mắng vợ lo lắng cho anh à?- Anh thề/ hứa
không mắng em.
Thế bác coi tôi là người hay là chó? - Tôi thề/ hứa đấy.
64
Ví dụ 53: “- Mình không bao giờ được phụ em đấy nhé?
- Còn phải nhắc lại cái câu ấy đến một nghìn lần thì bực lắm!”
[11; tr.194]
Ví dụ 54: “Nghị Hách ngẩn người ra mà rằng:
- Từ rầy tôi không dám giấu bác điều gì nữa đấy!
- Như thế là biết điều lắm. ”
[11; tr.202]
Trong hai ví dụ trên, các phát ngôn được in nghiêng hành động ngôn ngữ
trung gian gián tiếp được tạo ra bằng biểu thức của hành động ngôn trung cảm
thán. Cả hai phát ngôn đều có hình thức của một câu cảm thán nhưng lại biểu thị
ý nghĩa cam kết:
Còn phải nhắc lại cái câu ấy đến một nghìn lần thì bực lắm! - Anh thề/
cam đoan không bao giờ phụ em.
Từ rầy tôi không dám giấu bác điều gì nữa đấy! - Tôi thề từ đầy tôi không
giấu bác điều gì.
Bảng 2.12: Bảng tổng kết phương thức thể hiện của
hành động ngôn ngữ trung gian thuộc lớp Cam kết
STT Phương thức thể hiện Tỉ lệ Số lượng
1 58 70,73
2 24 29,26 Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối trực tiếp Hành động ngôn ngữ trung gian được thực hiện theo lối gián tiếp
Tổng số 82 99,99
2.3. Tiểu kết
Từ việc sử dụng các khái niệm công cụ đã trình bày trong chương 1, với
hệ thống ngữ liệu đã thu thập được, chương này đã trình bày được một số vấn đề
sau.
65
Thứ nhất, vận dụng lý thuyết phân loại các nhóm hành động ngôn ngữ của
Austin và Searle chúng tôi khảo sát được có 4 hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đó là:
hành động thề, hành động cam đoan, hành động hứa và hành động ngôn ngữ
trung gian. Sự phân loại như vậy chỉ mang tính tương đối bởi những quan điểm
về hành động ngôn ngữ trung gian cũng chỉ tương đối.
Thứ hai, số lượt xuất hiện của mỗi loại hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết không giống nhau. Được sử dụng nhiều nhất là hành động hứa với 89
lượt, tiếp đến là hành động ngôn ngữ trung gian với 82 lượt, hành động cam đoan
20 lượt và ít nhất là hành động thề 17 lượt. Chúng tôi đã thực hiện miêu tả các
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trên các phương diện:
- Điều kiện sử dụng: Một hành động ngôn ngữ được sử dụng với hiệu lực
ngữ vi phải đảm bảo 4 điều kiện theo quan niệm của Searle:
+ Điều kiện nội dung mệnh đề (ĐKNDMĐ)
+ Điều kiện chuẩn bị (ĐKCB)
+ Điều kiện chân thành (ĐKCT)
+ Điều kiện căn bản (ĐKCB)
Các hành động hứa, hành động cam đoan và hành động thề tuy cùng thể
hiện sự cam kết nhưng ở mỗi hành động lại có lực ngôn trung và điều kiện nội
dung mệnh đề không giống nhau.
- Phương thức thể hiện:
+ Hành động hứa/ cam đoan/ thề được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi
tường minh hay nguyên cấp. Chỉ có hành động ngôn ngữ trung gian vì không có
động từ ngữ vi nên chỉ được diễn đạt bằng biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
+ Hành động hứa/ cam đoan/ thề/ trung gian được thực hiện theo lối trực
tiếp hay gián tiếp.
66
Chương 3
HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP CAM KẾT
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1930 - 1945 TỪ GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT HỘI THOẠI
3.1. Nhận xét chung
Theo lý thuyết hội thoại, có thể nghiên cứu các hành động thuộc lớp Cam
kết trong nhiều phương diện. Song, ở chương này, chúng tôi chỉ xem xét các
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt
Nam giai đoạn 1903-1945 ở các phương diện sau:
1. Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết.
2. Phương diện chức năng của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết.
Xét theo chức năng của hành động ngôn ngữ trong một cuộc thoại, có thể
thấy rằng các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn
xuôi Việt Nam giai đoạn 1903-1945 có thể đảm nhiệm một trong ba chức năng:
Thứ nhất, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng
dẫn nhập.
Thứ hai, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng
hồi đáp.
Thứ ba, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng
dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng hồi đáp.
3. Vai trò của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp hành động Cam kết.
Dễ dàng nhận thấy trong hoạt động giao tiếp, các hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết thể hiện được ba vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ, tính
cách nhân vật.
Thứ hai, các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế và quan
hệ giữa các nhân vật giao tiếp.
Thứ ba, các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện văn hóa giao
tiếp của người Việt.
67
3.2. Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945
Chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận là hai đối tượng có tác động và chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết. Trong giao tiếp,
không phải lúc nào các hành động hứa, thề, cam đoan... cũng được sử dụng
thường xuyên. Khi xây dựng hội thoại trong văn chương cũng vậy, các tác giả
cũng phải có sự lựa chọn, chọn lọc để sử dụng các hành động này cho hợp lý.
3.1.1. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, chủ ngôn của các hành động ngôn
ngữ thuộc lớp Cam kết luôn xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít (trừ trường hợp các biểu
thức ngữ vi đã giản lược thành phần Sp1) và ngôi thứ nhất số nhiều.
Ví dụ 55: Tôi thề rằng sẽ chống đến cùng. Trước hết, tôi hãy giúp bác
trương Thi gặt chỗ năm sào của bác ấy đã, rồi đến mẫu hai của bác San.
[12; tr.135]
Ví dụ 56: “Tớ sẽ nói hết tất cả những cái tội ác của lúy ở ngoài mỏ, ở
trong xưởng máy, ở đồn điền...”
[11; tr.58]
Ví dụ 57: “Nếu việc là đích xác thì chúng tôi xin hết sức công kích kẻ làm
bậy, mà bênh vực người yếu thế, mặc lòng kẻ làm bậy, là người quyền thế như
thế nào.”
[11; tr.22]
Chủ ngôn của hai hành động hứa trong các ví dụ (55), (56) là “tôi”, “tớ”
đều là các đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất số ít và ở ví dụ (57) “chúng tôi” là
đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất số nhiều.
Ngoài hai trường hợp nêu trên, chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết còn xuất hiện các trường hợp sau:
- Chủ ngôn sử dụng danh từ chỉ quan hệ thân tộc để xưng hô với người
tiếp nhận hành động.
68
Ví dụ 58: “Xin mẹ đừng lo phiền... Con sẽ tuân theo lời mẹ dặn.”
[9; tr101]
Ví dụ 59: “Một vài năm nữa, nếu có lệnh cử cha về điều ra nước nhà lần
nữa, thì cha sẽ lại đi kiếm con.” [11; tr.226]
Ví dụ 60: “Con xin cam đoan với bố rằng nếu bố cứ chịu khó lấy độ
dăm đồng bạc một lá số tử vi thôi, thì chỉ trong một tuần lễ, bố cũng kiếm nổi
trăm bạc.” [11; tr184]
Trong ba ví dụ trên, chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết đã sử dụng các danh từ chỉ quan hệ thân tộc “con”, “cha” chỉ ngôi thứ nhất số ít
để xưng hô. Trong ví dụ (57), (58) chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận có quan hệ con
- mẹ và cha - con nên sử dụng cách xưng hô như vậy là điều hiển nhiên, tất yếu.
Nhưng trong ví dụ (59), chủ ngôn và đối tượng tiếp nhận hành động cam đoan mặc
dù là hai người xa lạ, không có mối quan hệ ruột thịt nhưng chủ ngôn lại xưng là
con gọi bố để thể hiện mối quan hệ thân thiết như ruột thịt.
- Sử dụng danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ chỉ ngôi thứ nhất dùng để
xưng hô.
Ví dụ 61: “Mà thằng chánh này xin thề với cả làng này, nếu thằng chánh
này không kiện nổi cái thằng cha dâm ác nào đó, thì thằng chánh này đem mẹ
nó triện đồng mà lên trả lại quan trên.” [11; tr.18]
Ở ví dụ này, chủ ngôn của hành động thề đã sử dụng từ chỉ chức vụ
“chánh” để xưng hô với đối tượng tiếp nhận hành động. Khi sử dụng từ ngữ
chỉ chức vụ để xưng hô, chủ ngôn của hành động muốn làm tăng lực ngôn
trung của lời thề.
Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống đời thường bởi vậy qua các
tác phẩm văn chương, các tác giả đã cho người đọc một hình ảnh chân thực về
xã hội, con người Việt Nam trong bối cảnh lịch sử giai đoạn 1930-1945. Trong
thời kì này, ở nước ta có sự phân hóa giai cấp xã hội sâu sắc. Kết quả khảo sát
cho thấy vị thế xã hội cũng là một trong những yếu tố tác động đến giao tiếp giữa
con người với con người. Đặc biệt là trong việc sử dụng hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết khi tham gia hội thoại.
69
Theo kết quả khảo sát, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết có chủ
ngôn là người có vị thế xã hội cao xuất hiện 78 lượt. Trong đó:
+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội cao nói với đối tượng tiếp nhận là
người có vị thế xã hội ngang bằng xuất hiện 32 lượt chiếm sấp sỉ 41,02%.
Ví dụ 62: “- Vậy ông có bằng lòng ra tranh cử nữa không?
- Đã thế, thì tôi phải ra nữa.”
[11; tr.155]
Ví dụ 63: “- Ha ha ha! Vâng! Đa tạ cụ lớn vạn bội! Mà tôi muốn việc
chóng xong.
- Được rồi. Muốn chóng xong thì sẽ chóng xong.”
[11; tr.35]
Chủ ngôn của hành động ngôn ngữ trung gian trong ví dụ (62) là Nghị
Hách nói với quan Tây cũng là người có vị thế cao trong xã hội. Tương tự ở
ví dụ (63), chủ ngôn hành động hứa là cụ Tổng đốc và đối tượng tiếp nhận
là nghị Hách.
+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội cao nói với đối tượng tiếp nhận là
người có vị thế thấp hơn chiếm sấp sỉ 36,97% (46 lượt).
Ví dụ 64: “- Mày ăn cướp hay ăn trộm, cứ nói cho thật, tao liệu cách
gỡ tội cho.
Pha tuy ngu dốt, nhưng đã biết nghi ngờ, vả anh nói có tội gì mà cần giấu,
nên nói:
- Chỉ tại con chưa kịp đưa tiền trình nên quan giam con, có thế thôi.”
[12; tr.50]
Chủ ngôn của hành động hứa trong ví dụ trên là nghị Lại - người có vị thế
xã hội cao hơn anh Pha - đối tượng tiếp nhận.
Trong 208 lượt sử dụng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, chủ ngôn
của hành động là ngươi có vị thế xã hội thấp chiếm số lượng lớn hơn 130 trường
hợp. Trong đó:
+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội thấp nói với đối tượng tiếp nhận là
ngươi có vị thế ngang bằng chiếm sấp sỉ 42,30% (55 lượt).
70
Ví dụ 65: “Nhu làm hết phần của mình rồi, phải bảo em:
- Thôi chị lạy em! Em chịu khó làm đi kẻo mẹ về mẹ chửi, chị làm xong
phần chị, chị làm giúp em một nửa.
Nhượng bật cười:
- Thật nhá! Vậy chị làm xong đấy thì làm thêm chỗ này hộ tôi...”
[10; tr.213]
Xét ngữ cảnh giao tiếp trong hội thoại trên có thể thấy Nhu và Nhượng là
hai chị em nên có mối quan hệ trên dưới. Vì vậy, trong vi dụ này, chủ ngôn có vị
thế cao hơn so với đối tượng tiếp nhận.
+ Chủ ngôn là người có vị thế xã hội thấp nói với đối tượng tiếp nhận là
ngươi có vị thế cao xuất hiện 75 lượt chiếm khoảng 57,69%.
Ví dụ 66: “- Dạ, lạy quan, từ nay đến cuối tháng, con xin nộp.
Ông nghị mắng:
- Chà, bao giờ nộp cũng được.” [12; tr.64]
Chủ ngôn của hành động hứa trong ví dụ trên là nhân vật Pha - có vị thế
xã hội thấp hơn đối tượng tiếp nhận hành động là nghị Lại.
3.1.2. Đối tượng tiếp nhận các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết
Từ những ngữ liệu mà chúng tôi thu thập được, đối tượng tiếp nhận hành
động thuộc lớp Cam kết chính là người nghe trực tiếp. Đối tượng tiếp nhận các hành
động thuộc lớp Cam kết luôn có mặt khi các hành động đó được thực hiện.
Ví dụ 67: “Lan không sợ, tôi xin viện lòng từ bi của đức Quán Âm, tôi thề
với Lan rằng tôi không phải là hạng gió trăng bậy bạ.” [5; tr.58]
Trong đối thoại trực tiếp, có nhiều trường hợp biểu thức ngữ vi thể hiện
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết ở dạng tỉnh lược đi thành phần đối tượng
tiếp nhận hành động, nhưng người nghe vẫn biết được người nói đang hướng đến
mình. Vì vậy, đối tượng tiếp nhận hành động thuộc lớp Cam kết luôn hiện diện.
Bởi vì người nói chỉ đưa ra những hành động thuộc lớp Cam kết khi cho rằng
hành động của mình sẽ tác động trực tiếp đến trạng thái tinh thần, niềm tin hoặc
cảm xúc của người nghe.
71
Xét ví dụ (55), trong biểu thức “Tôi thề rằng sẽ chống đến cùng” đều
không xuất hiện đối tượng tiếp nhận nhưng dựa vào ngữ cảnh chúng ta vẫn biết
đối tượng tiếp nhận hành động thề là nhân vật trương Thi và San.
Ví dụ 68: “Tôi xin thề.” [11; tr.155]
Trong ví dụ (68), đây là lời thề của nghị Hách với quan Tây. Có thể thấy
đối tượng tiếp nhận không xuất hiện trong biểu thức ngữ vi của hành động hứa
nhưng xét ngữ cảnh giao tiếp, ta vẫn xác định được đối tượng tiếp nhận hành
động thề là viên quan Tây.
3.2. Chức năng của các hành động thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Kết quả phân loại chức năng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong
một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945 theo tiêu chí trên được trình bày
ở bảng sau:
Bảng 3.1: Bảng phân loại chức năng của hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1930-1945
STT Chức năng của hành động cam kết Tỉ lệ (%)
Số lượt (lần) 12 5,76 1
67 32,21 2
129 62,01
3
Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng dẫn nhập Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng hồi đáp. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng hồi đáp
Tổng số 208 99,98
3.2.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng dẫn nhập
Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong giao tiếp nói chung và hành
động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945 nói riêng có thể đảm nhận chức năng dẫn nhập trong một cặp
thoại. Tuy nhiên, theo tư liệu của chúng tôi, kiểu hành động ngôn ngữ này xuất
hiện với tần số thấp, chỉ có 12 trường hợp, chiếm sấp sỉ 5,76%
72
Ví dụ 69: “Anh quả quyết đứng dậy, đi vào nói với ông nghị:
Sp1: - Lạy quan, mấy hôm nay nhà con ốm, con đi làm cả ngày, không ai
trông nom thuốc thang cho. Vả ruộng con, con phải thuê người nhổ cỏ mất mấy
buổi cũng tốn kém, con xin phép quan cho con ở nhà ít ngày, quan cho con nhờ
vài đồng, đến bữa mùa con xin nộp.
Bà nghị nhiếc:
Sp2: - Quân này đến bạc, vừa làm có mấy hôm, đã nóng đít. Mày không
làm nữa thì vay làm gì?
Ông nghị lườm vợ và gạt đi:
Sp3: - Tùy mày, tao không ép. Mày muốn vay bao nhiêu tao cũng cho.
Nhưng tao không có tiền đâu, có lấy thóc thì lấy.” [12; tr.114]
Ví dụ trên là đoạn hội thoại giữa nhân vật Pha và ông bà Nghị trong tác
phẩm “Bước đường cùng”. Lượt lời của nhân vật Pha có hai tham thoại. “Lạy
quan, mấy hôm nay nhà con ốm, con đi làm cả ngày, không ai trông nom thuốc
thang cho.” có chức năng cung cấp thông tin - nhân vật trình bày hoàn cảnh của
mình. Phát ngôn “Vả ruộng con, con phải thuê người nhổ cỏ mất mấy buổi cũng
tốn kém, con xin phép quan cho con ở nhà ít ngày, quan cho con nhờ vài đồng,
đến bữa mùa con xin nộp.” là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết có
chức năng ở lời dẫn nhập thể hiện trách nhiệm phải thực hiện hành động trong
tương lai mà Sp1 bị ràng buộc. Cụ thể ở ví dụ này, Sp1 (nhân vật Pha) hỏi vay
tiền ông Nghị và cam kết có trách nhiệm hoàn trả vào bữa mùa. Đồng thời, phát
ngôn này cũng đặt ra trách nhiệm buộc ông bà Nghị phải đưa ra câu trả lời có
đồng ý cho Pha vay tiền hay không.
Ví dụ 70: “Ngẫm nghĩ một lúc, bà nói:
Sp1: - Trước khi cô đi, cô lại đằng nhà, tôi sẽ giúp cô một số tiền, xứng
đáng với sự hy sinh của cô, với tấm lòng hào hiệp của cô, và khi nào cô có cần
điều gì đến tôi giúp, cô cứ lại nhà tôi, bao giờ tôi cũng sẵn lòng giúp cô.
Mai lạnh lùng:
Sp2: - Cảm ơn bà lớn, nhưng tôi không phải hạng ăn xin.” [6; tr.108]
73
Phát ngôn của Sp1 (nhân vật bà Án) là một hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết có chức năng dẫn nhập cho cặp thoại. Lời dẫn nhập trong ví dụ này cũng
mang chức năng cam kết thể hiện trách nhiệm phải thực hiện lời hứa của Sp1 (bà
Án) đối với Sp2 (nhân vật Mai). Và nó cũng đặt ra trách nhiệm trả lời đối với
Sp2.
Một số ví dụ khác:
Ví dụ 71: “Thất vọng, chị Dậu rũ rượi ngồi im. Ðến lượt anh Dậu năn nỉ
thay vợ:
- Thưa ông, con có muốn chi thế này! Trời làm vận hạn đau yếu nên con phải
chịu. Xin ông thương lại vợ chồng nhà con, một đồng bạc con cũng xin vâng, nhưng
con hãy khất ngày mai đóng thuế con bắt nhà con cấy trừ hầu ông.
Chánh tổng phì cười;
- Bây giờ lại có lối đóng triện cấy trừ nữa. Thôi cũng được! Ông Lý nhận
lời cho nó đi, đừng để chúng nó nói mãi điếc tai.” [1; tr.255]
Ví dụ 72: “Các cụ uống rượu cũng xong rồi, hai bàn đã giải mâm. Lại hát
nhà tơ. Ông Cửu ngồi thưởng trống. Ông bảo đào, bảo kép:
- Hát cho thật hay vào mới được. Tôi nghe hát, nếu vừa ý, bao giờ cũng có
thưởng.
Cô đầu tủm tỉm cười:
- Bẩm vâng!” [10; tr.241]
3.2.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đảm nhiệm chức năng hồi đáp
Một cuộc thoại được duy trì khi có sự tương tác giữa người nói và người
nghe với sự luân phiên lượt lời. Tức là Sp2 hồi đáp Sp1 và ngược lại cứ như vây
để cuộc thoại được diễn ra. Kết quả khảo sát hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 cho thấy hành
động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết giữ chức năng hồi đáp xuất hiện với tần số
khá cao với 67 trường hợp, sấp sỉ 32,21%.
74
Ví dụ 73: “Bà Ba đăm đăm nhìn con, ngẫm nghĩ. Rồi như chợt nhớ ra, bà
bảo nhà sư:
- Hôm đúc tượng đức thánh Mẫu cụ nhắc tôi để tôi cúng chiếc nhẫn này
vào lò đồng.
Cúc vội kêu:
- Con chịu thôi!
Bà Ba gắt:
- Con bé mới dại chứ! Chả phúc nào bằng đâu con ạ. Con cứ cúng vào rồi
me đánh cho chiếc khác.” [4; tr.54]
Ví dụ trên gồm hai cặp thoại:
Cặp thoại 1:
Sp1: - Hôm đúc tượng đức thánh Mẫu cụ nhắc tôi để tôi cúng chiếc nhẫn
này vào lò đồng.
Sp2: - Con chịu thôi!
Cặp thoại 2:
Sp1: - Con chịu thôi!
Sp2: - Con bé mới dại chứ! Chả phúc nào bằng đâu con ạ. Con cứ cúng
vào rồi me đánh cho chiếc khác.
Trong đó, phát ngôn “... rồi me đánh cho chiếc khác.” là tham thoại hồi
đáp cho tham thoại dẫn nhập “Con chịu thôi” ở cặp thoại thứ hai. Tham thoại hồi
đáp đã dẫn là hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết biểu thị hành động hứa sẽ
đánh cho Cúc một chiếc nhẫn mới của bà Ba khi cô từ chối cúng chiếc nhẫn cũ
vào lò đồng.
Hay trong ví dụ 74: “Bà Hai bảo con:
- Tao lo buồn nên cửa hàng để mặc cho người nhà trông nom.
Loan nói:
- Để từ nay, con sẽ ráng hết sức trông nom việc buôn bán cho mẹ.”
[8; tr.133]
75
Ở ví dụ trên, “Để từ nay, con sẽ ráng hết sức trông nom việc buôn bán cho
mẹ.” là tham thoại có chức năng hồi đáp. Đây là tham thoại có chức năng hồi
đáp tích cực. Khi nhân vật bà Hai than thở về việc cửa hàng không ai trông nom
thì Loan đã đưa ra lời hứa sẽ cố gắng hết sức trông nom việc buôn bán cho mẹ.
Tức là tham thoại này khẳng định bổn phận thực hiện việc mà Loan đã nói.
Ngoài ra còn rất nhiều ví dụ khác:
Ví dụ 75: “Mụ vừa kéo vạt áo lên quệt nước mũi, vừa bảo:
- Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả là ít vốn.
- Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?”
[8; tr.26]
Phát ngôn “Ít vốn thì tối nay ông trả.” là tham thoại có chức năng hồi đáp.
Đây là tham thoại có chức năng hồi đáp tiêu cực. Khi nhân vật mụ bán hàng rượu
tỏ ý không muốn cho Chí Phèo nợ tiền với lý do “ít vốn” thì Chí đã đưa ra lời
hứa tối sẽ trả tiền để ngầm từ chối việc trả tiền rượu ngay lúc đó.
Ví dụ 76: “Lan nghe tới đó cười khanh khách nói tiếp theo:
-Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đí chấy? Nhưng cô Thi
tôi quen biết chắc không phải là cô Thi của ông đâu, xin ông đừng vội mừng.
Ðáng lẽ ở trước cửa từ bi chẳng nên nói tới câu chuyện nhăng nhít, nhưng xin
Ngài cũng thấu nỗi khổ tâm của kẻ tu hành này mà tha thứ cho. Ông nghe câu
chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé!
- Được, tôi xin giữ bí mật.” [5; tr.35]
Trong ví dụ trên, phát ngôn “Được, tôi xin giữ bí mật” là một lời hồi đáp
tích cực. Khi nhân vật chú tiểu Lan ngỏ ý kể cho Ngọc nghe câu chuyện cuộc
đời mình và cầu xin Ngọc không nói với ai thì nhân vật Ngọc đã có lời hồi đáp
khẳng định đồng ý sẽ giúp Lan giữ bí mật. Tức là Ngọc có bổn phận thực hiện
hành động đã cam kết với chú tiểu Lan.
76
3.2.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng hồi
đáp vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập
Kiểu hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết đa chức năng này chiếm tỉ
lệ cao nhất trong tư liệu khảo sát của chúng tôi: 129 trường hợp, chiếm sấp sỉ
62,01%. Đây là hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết nằm trung gian giữa hai
cặp thoại. Nó vừa đảm nhiệm chức năng hồi đáp của cặp thoại đứng trước vừa
đảm nhiệm chức năng dẫn nhập cho cặp thoại tiếp theo. Cuộc thoại giữa bà phủ
và ông đốc trong tiểu thuyết “Đời mưa gió” có chứa tham thoại đảm nhiệm cả
hai chức năng như vừa nói ở trên:
Ví dụ 77: “Bà phủ hơi có giọng gắt:
- Tôi mời cậu lại để cậu khuyên bảo cháu giúp tôi mà cậu cứ nói ngang, rõ
bực cả mình.
- Nếu thế thì được, để em bảo cháu.
- Nó mến cậu lắm đấy, chắc thế nào cậu bảo nó cũng nghe.”
[3; tr.40]
Cuộc thoại trên gồm các cặp trao đáp được móc nối với nhau thành một
chuỗi liên tục. Ta có thể nhận thấy, tham thoại hồi đáp của cặp thoại trước chính
là tham thoại dẫn nhập (trao lời) của cặp thoại tiếp theo. Có thể phân tích liên kết
của các tham thoại trong cuộc thoại này như sau:
A1- Tôi mời cậu lại để cậu khuyên bảo cháu giúp tôi mà cậu cứ nói
1 ngang, rõ bực cả mình.
B1- Nếu thế thì được, để em bảo cháu.
2
A2- Nó mến cậu lắm đấy, chắc thế nào cậu bảo nó cũng nghe.
Cuộc hội thoại trên gồm 2 cặp thoại và 3 tham thoại. Tham thoại B1 “Nếu
thế thì được, để em bảo cháu.” là lời hồi đáp của cặp thoại (cặp trao đáp) thứ
77
nhất, đồng thời là lời dẫn nhập của cặp thoại thứ hai. Tham thoại B1 là hành động
ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết (lời hứa của ông đốc sẽ giúp bà tham khuyên nhủ
Cúc - con gái bà tham). Đây là một biểu thức cam kết nguyên cấp không có động
từ ngữ vi.
Tương tự như cuộc thoại vừa dẫn, đoạn thoại giữa nhân vật chú tiểu Lan
và Ngọc trong tiểu thuyết “Hồn bướm mơ tiên” cũng chứa một tham thoại đảm
nhiệm hai chức năng hồi đáp và dẫn nhập.
Ví dụ 78: “Lan nghe tới đó cười khanh khách nói tiếp theo:
- Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đích ấy?... Ông nghe
câu chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé!
- Được, tôi xin giữ bí mật.
- Có gì đâu! … mà buông tha cho kẻ tu hành này ra.” [5; tr.34,35]
Phát ngôn “Được, tôi xin giữ bí mật.” có chứa hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết của nhân vật Ngọc (hứa giữ bí mật câu chuyện của chú tiểu Lan).
Có thể mô tả chức năng của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết giữ vai trò
liên chức năng này như sau:
A1- Tôi yêu cô Thi, sắp sửa hỏi làm vợ thì bỗng cô ấy đi đâu mất.
Dáng chừng chú cũng quen biết cô ta nên cho là một sự lạ chứ gì? Có 1 người bảo tôi rằng cô ấy đi tu, nên tôi cứ lần mò các chùa chiền để đi
tìm...
B1- Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đích ấy? … Ông
nghe câu chuyện của tôi sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé! 2
A2- Được, tôi xin giữ bí mật.
B2- Có gì đâu! Gần đây, một người thiếu nữ hơi có chút nhan sắc, hễ gặp 3
tôi là thả lời chòng ghẹo, tôi van thế nào cũng không được. …
buông tha cho kẻ tu hành này ra.
Quan sát mô hình liên kết các cặp thoại trong hội thoại trên ta thấy tham
thoại A2 “Được, tôi xin giữ bí mật.” vừa là tham thoại hồi đáp của cặp thoại 2
vừa là tham thoại dẫn nhập của cặp thoại 3. Cụ thể, trong cặp thoại 2, tham thoại
78
A2 là câu trả lời cho tham thoại B1 và đã thỏa mãn trách nhiệm (giữ bí mật) mà
tham thoại B1 đặt ra. Tham thoại A2 có chức năng ở lời hồi đáp tích cực khẳng
định cam kết giữ bí mật cho câu chuyện của chú tiểu Lan. Còn xét trong cặp thoại
3, tham thoại A2 là tham thoại dẫn nhập đặt ra trách nhiệm cung cấp thông tin
đối với người đối thoại.
3.3. Vai trò của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
3.3.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ, tính cách nhân
vật
3.3.1.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ nhân vật
Văn học giai đoạn 1930-1945 phát triển đa dạng và phong phú với sự phân
hoá thành các trào lưu, khuynh hướng và các nhóm văn học. Giữa các trào lưu,
khuynh hướng, nhóm văn học thường xuyên có sự tương tác, ảnh hưởng và bản
thân trong từng tác giả hoặc khuynh hướng văn học cũng thường không thuần
nhất. Đọc các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này, người ta thường thấy hiện lên
một thế giới nhân vật vô cùng sinh động với các mối quan hệ khác nhau. Đối với
từng mối quan hệ, từng đối tượng được nói đến và trong từng hoàn cảnh khác
nhau, các nhân vật lại có thái độ ứng xử nhất định. Trong phát ngôn của nhân
vật, bên cạnh các hành động ngôn ngữ khác, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết cũng là một phương tiện ngôn ngữ rất hiệu quả bộc lộ thái độ của người nói.
Xin dẫn một vài ví dụ làm minh chứng:
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độcăm ghét và bài
trừ chế độ đa thê:
Ví dụ 79: “Trình bảo nàng:
- Chị thề trước đi.
- Tôi xin thề không lấy vợ lẽ cho chồng tôi.
Khoa uống hết cốc rượu, tiếp luôn:
- Nếu em lấy vợ lẽ thì đời em sẽ cạn như chén rượu này.”
[4 tr.19]
79
Trên đây là cuộc thoại giữa Trâm cùng hai người em chồng là Trình và
Khoa trong tiểu thuyết “Thừa tự”. Đoạn thoại này diễn ra khi Trình và Khoa đang
bày tỏ quan điểm về việc lấy vợ lẽ. Bởi vì bản thân sống trong cảnh “mẹ ghẻ con
chồng” với biết bao ấm ức cho nên các phát ngôn cam kết “Tôi xin thề không lấy
vợ lẽ cho chồng tôi.”, “Nếu em lấy vợ lẽ thì đời em sẽ cạn như chén rượu này.”
của Trâm và Khoa đều mang thái độ căm ghét, cương quyết bài trừ chế độ đa thê
của nhân vật
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ kính cản, van
lơn, quỵ lụy của nhân vật:
Ví dụ 80: “ - Thì tôi tưởng quan lớn làm như không khám thấy gi.
- Không được, có hẳn hoi và có hương lý làm chứng.
- Ồ, là gì! Hương lý ở đây là đầy tớ tôi cả, tôi bảo gì chúng nó không phải
nghe. Quan lớn làm ơn xé biên bản đi, thế nào tôi cũng không giám quên ơn
quan lớn.” [12; tr.30]
Ở ví dụ trên, phát ngôn của Nghị Lại “Quan lớn làm ơn xé biên bản đi, thế nào
tôi cũng không giám quên ơn quan lớn.” biểu thị hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết. Đây là lời Nghị Lại nói với Tây Đoan khi hắn bị án phạt do chôn rượu lậu. Hắn
cầu xin quan trên xé biên bản để hòng thoát tội và hứa sẽ trả ơn quan hậu hĩnh. Chúng
ta có thể thấy, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong ví dụ (80) thể hiện thái
độ kính cẩn, van lơn, quỵ lụy của Nghị Lại đối với Tây Đoan.
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện thái độ ăn năn hối lỗi
của nhân vật:
Tương tự ví dụ 81: “Nhung nói với mẹ chồng:
- Thưa mẹ, con thật là vô tâm để mẹ phải nhắc. Từ nay con xin có ý tứ hơn.
Bà Án lộ vẻ vui mừng:
- Mợ nghĩ thế là phải. Họ khác, họ tự do được. Còn mợ, không phải
mợ chỉ giữ gìn cho nhà chồng, cho nhà mợ lại còn làng nước người ta trông
vào nữa.” [9; tr.90]
80
Cặp hội thoại trên diễn ra khi nhân vật Nhung (Lạnh lùng) được mẹ chồng
nhắc nhở vì nàng ham vui đi chơi cả ngày. Nhung là con dâu bà Án, cô sớm trở
thành góa bụa khi tuổi còn rất trẻ. Sau này cô đem lòng yêu thầy giáo Nghĩa
nhưng vì lễ giáo phong kiến, vì “tiết hạnh khả phong” cô chỉ dám yêu đương lén
lút. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết của Nhung trong ví dụ trên biểu lộ
thái độ ăn năn, hối lỗi.
Như vậy, qua phân tích các ví dụ vừa dẫn có thể thấy rằng hành động ngôn
ngữ thuộc lớp Cam kết bộc lộ rất rõ thái độ của nhân vật (chủ ngôn). Trong mỗi
hoàn cảnh khác nhau, đối tượng giao tiếp khác nhau thì các hành động ngôn ngữ
lại thể hiện thái độ khác nhau của nhân vật.
3.3.1.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách nhân vật
Văn xuôi Việt Nam giai đoan 1930-1945 có thế giới nhân vật vô cùng
phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc. Mỗi một kiểu nhân vật lại được các nhà văn
xây dựng với những nét tính cách riêng. Làm nên thành công trong việc khắc họa
tính cách nhân vật có sự đóng góp không nhỏ của các hành động ngôn ngữ nói
chung và hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết nói riêng.
Với ngồi bút hiện thực sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa thành công
một đại tư bản cỡ “phú gia địch quốc” - Nghị Hách, và Long - một nhân vật tha
hóa mạnh mẽ trước xã hội tàn bạo, thối nát.
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách dối trá của
nhân vật:
Ví dụ 82: “- Thưa quan, quan dùng hết cả gánh, hay độ bao nhiêu con tháo...
- À, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho tiền.”
[11; tr.13]
Ví dụ 83: “- Bẩm cụ lớn, vậy mà con thì con thấy rằng phong trào ấy đã
bắt đầu lan đến tỉnh ta.
Quan công sứ giật nẩy mình lên, trợn mắt hỏi:
- Đã lan đến tỉnh ta, ông bảo!
81
- Bẩm cụ lớn, hình như thế.
- Có cái gì là chứng cớ không?
- Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con … Bẩm cụ
lớn, con thấy rằng cái phong trào ấy sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư
cách một người dân biểu mà trình báo để cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên
ổn.” [11; tr.34]
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách dâm ô, trụy
lạc, trâng tráo, vô liêm sỉ của nhân vật:
Ví dụ 84: “Nghị Hách thở dài, cười nhạt rất to, lại nói:
- Nhưng tôi bỏ mặc ngoài tai dư luận. Tôi đã có lương tâm tôi xét xử tôi.
Đẻ ra là bình dân, tôi xin gửi lòng trung thành với bình dân cho đến chết!”
[11; tr.219]
Ở ví dụ 84, chúng ta có thể thấy Nghị Hách là một tên bạo chúa dâm ô,
ranh ma, xảo quyệt khi âm mưu hãm hại cướp đi sự trong trắng của cô thôn nữ
Mịch. Phát ngôn “Tháo đi rồi quan cho tiền.” là một hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết hứa hẹn sẽ cho tiền cô Mịch. Nhưng sâu xa hơn đó là bộ mặt giả
dối ngụy trang sau lớp mặt nạ của sự tử tế. Sau khi bị đâm đơn kiện, Nghị Hách
tìm đủ mọi cách hòng thoát tội. Lão đến dinh Công Sứ rồi ton hót với “quan cai
trị” đầu tỉnh về “cái phong trào cộng sản” nhằm che đậy, đánh lạc hướng đi sự
vụ hắn gây ra. Hắn tự nhận mình như một người dân biểu bình thường và đem
tư cách của bản thân ra để cam đoan những gì đã trình báo chỉ nhằm mục đích
giúp quan Công Sứ cai trị dân chúng. Rồi với tham vọng ngồi lên ghế nghị
trưởng, sở hữu cái mề đay Bắc đẩu và tư lợi nhiều việc khác, Nghị Hách hăng
hái nhảy ra tranh cử theo kế hoạch đã được vạch sẵn. Hắn lấy cái chết ra để thề,
khẳng định lòng trung thành của mình với bình dân “Đẻ ra là bình dân, tôi xin
gửi lòng trung thành với bình dân cho đến chết!”. Trâng tráo, vô liêm sỉ đó là
nét tính cách nổi bật của hạng người tham tàn, bỉ ổi như Nghị Hách.
82
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách cao thựng,
thẳng thắn của nhân vật
Ở đầu tác phẩm “Giông tố”, Long được giới thiệu như một người ngay
thẳng có một, có chí khí, có hoài bão. Khi Mịch - vợ sắp cưới của Long bị hãm
hiếp, anh chàng đã nói những lời lẽ cao thượng và cảm động với cô, cam đoan
yêu cô suốt đời, coi nỗi nhục của cô như vết nhọ của cuộc đời mình và hứa
quyết chí trả thù:
Ví dụ 85: “- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long
ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ. Tôi
khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.
- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu quý
suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của
Mịch tức là một vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế nào rửa
cho sạch vết nhọ ấy thì mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng
khóc nữa.
- Chúng tôi nghèo hèn lắm, làm gì được?
- Nó dùng tiền bạc và thế lực, thì ta sẽ dùng mưu sâu, Anh đã nói Mịch sẽ
được trả thù thì rồi thế nào Mịch cũng rửa được thù.” [11; tr.44]
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách thiếu kiên
định của nhân vật
Trước sự xô đẩy của số mệnh và sự cám dỗ của bả vật chất, cuộc đời và
lương tâm chàng thư kí nghèo cứ lay lắt, vật vờ. Mới ngày nào còn bao dung
cuộc đời cô Mịch, tình cảm của Long đã lung lay trước tiểu thư Tuyết xinh đẹp
- con gái Nghị Hách. Long đã mang cả danh dự và mạng sống thề cả đời trung
thành với Tuyết:
83
Ví dụ 86: “Chàng gục đầu vào mặt người vợ chưa cưới:
- Tuyết ơi! Tuyết yêu quí nhất đời của anh ơi, anh xin lỗi Tuyết. Đừng việc
gì mà lo buồn, đó là chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu? Từ đây mà đi, anh xin
thề với Tuyết là sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó,
mà nếu không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử, mặc lòng là tại Tuyết
hay tại ai cũng vậy.
- Nói nhời xin giữ lấy nhời!
- Chúng ta chẳng lấy nhau đến nơi rồi hay sao? Việc gì mà khóc?”
[11; tr.194]
Từ một anh hàn sĩ đầy lòng thương đời, ghét cay ghét đắng những cái xa
hoa vật chất và căm hận sự vô tình của bọn giả trưởng. Long đã trở nên một kẻ
hư hỏng. Cái tâm hồn trong sạch, cái chí khí cao cả bị tha hóa, biến chất.
Nếu như trong các tác phẩm văn học hiện thực, các tác giả làm bật lên
những nét tính cách của bọn quan lại, cường hào và những người nông dân chân
lấm tay bùn, chịu nhiều áp bức, bóc lộ, thì đến với những sáng tác của Tự lực
văn đoàn, chúng ta sẽ thấy bật lên con người cá nhân hiện đại khẳng định quyền
được tồn tại độc lập, tự quyết định số phận của mình. Họ đòi tự do trong cuộc
sống, trước hết là tự do yêu đương, tự do kết hôn. Họ tìm thấy cái đẹp, thấy giá
trị trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do, hạnh phúc.
* Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện tính cách mạnh mẽ,
cứng rắn, khảng khái của nhân vật:
Lan (Hồn bướm mơ tiên) giả trai đi tu, chấp nhận cuộc đời tu hành khổ
cực, xa lánh những vui thú trần tục. Lan cha mẹ mất sớm, ở với chú bị chú ép gả
chồng. Nàng có tâm hướng về đạo Phật từ nhỏ do ảnh hưởng của mẹ và không
chấp nhận cuộc hôn nhân sắp đặt nên đã bỏ trốn khỏi nhà và để lại đôi dép bên
bờ sông khiến mọi người tưởng cô đã chết. Từ đây cuộc đời Lan sang một trang
mới, không còn dính dáng đến cuộc đời cũ, không còn ai biết đến thân phận trước
84
đây của cô nữa. Lan chứng minh cho sự tự quyết định cuộc đời của người phụ
nữ, đã lựa chọn là nhất quyết không thay đổi. Kể cả đến khi Ngọc phát hiện ra
chú tiểu Lan thực chất là con gái thì Lan vẫn cương quyết:
Ví dụ 87: “Lan nức nở:
- Tôi chỉ còn … có một cái chết. Nếu tôi có thể thổ lộ can trường cho ông
biết vì sao tôi phải cải trang, vì sao tôi phải quy y đầu Phật… Nhưng sự bí mật
ấy, tôi nhất định sống để dạ, chết mang theo.” [5; tr.58]
Không chỉ có ý thức cá nhân mạnh mẽ mà một số nhân vật trong các sáng
tác của Tự lực văn đoàn còn mang ý thức về danh dự, nhân phẩm sâu sắc. Nhân
vật Mai (Nửa chừng xuân) dù vô cùng yêu Lộc, nàng vẫn âm thầm lặng lẽ ra đi
để “không bị người ta khinh mạn”, để làm tròn chữ tín.
Ví dụ 88: “Bà Án mỉm cười, khinh bỉ:
- Chữ nghĩa cũng khá đấy! Hữu tài vô hạnh!
- Thôi bà không cần nhiều lời. Tôi sẽ đi. Tôi rời cái nhà này ngày hôm
nay. Trách nhiệm nặng nề sau này bà chịu lây.” [6; tr.107]
Ví dụ 89: “Bà án chỉ lưu ý đến một việc là Mai đi, nên lại hỏi như để nhắc:
- Vậy bao giờ cô đi?
Mai cười:
- Thưa bà lớn, một lời đã hứa thì bao giờ cũng phải giữ.Tôi nói nội nhật
ngày hôm nay thì chắc không phải ngày mai. Bà lớn cứ yên lòng. Trong năm
điều nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, bà lớn viện ra ban nãy, có hai điều tôi trọng nhất là:
nhân và tín. Bà lớn không lo tôi thất tín.” [6; tr.108]
Mặc dù rất yêu Lộc và đang mang trong mình giọt máu của anh, nhưng
khi bà Án - mẹ của Lộc cương quyết muốn lấy vợ cho Lộc và ngỏ ý sẽ cưới Mai
làm lẽ, cô đã từ chối và cam kết sẽ rời khỏi đây ngay lập tức. Tình yêu và danh
dự của Mai không cho phép cô chịu cảnh chung chồng. Mặc dù đau khổ trước
tình yêu tan vỡ và cuộc sống dường như đã đi vào đường cùng, nhưng với tính
cách mạnh mẽ, Mai đã đứng dậy, tiếp tục cuộc sống vì con vì em. Mai là phụ nữ
hiếm có trong buổi giao thời, vừa mang vẻ đẹp hiện đại dám yêu dám chịu trách
85
nhiệm cho tình yêu của mình, vừa mang vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống
đủ cả công, dung, ngôn, hạnh. Mai còn là người phụ nữ giàu nghị lực dám chấp
nhân khó khăn, vượt lên đau thương của số phận.
Như vậy, để khắc họa tính cách nhân vật các tác giả không chỉ diễn tả trực
tiếp mà có thể gián tiếp thông qua việc sử dụng các hành động ngôn ngữ như
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết.
3.3.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế và quan hệ giữa
các nhân vật giao tiếp
3.3.2.1. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện vị thế giữa các nhân
vật giao tiếp
Vị thế xã hội và mức độ thân cận cũng là những yếu tố thuộc hình ảnh tinh
thần mà những người tham gia giao tiếp xây dựng về nhau. Vị thế giao tiếp xã
hội được xác định qua các yếu tố như tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị, điệu bộ, cử
chỉ, cách nói năng... Trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-
1945, vị thế xã hội cũng được thể hiện qua cách sử dụng các hành động ngôn
ngữ thuộc lớp Cam kết.
Ví dụ 90: “- Bẩm bà lớn nhà con không có mà đi lấy lẽ.
Bà Án thở dài:
- Cái đó tùy cô! Nhưng đến tháng tám này, thế nào tôi cũng cưới vợ cho
con tôi. Tôi cam đoan với cô rằng thế nào tôi cũng cưới được vợ cho con tôi.
- Vâng, cái đó là quyền ở bà lớn.” [6; tr.105]
Xuất hiện trong đoạn thoại là hai nhân vật có vị thế hoàn toàn đối lập nhau,
một bên là vợ quan Án và một bên là cô thôn nữ mồ côi từ quê nhà lên Hà Nội
sinh nhai. Xét về cả vị thế xã hội và vị thế giao tiếp, bà Án đều cao hơn Mai, đó là
do yếu tố về tuổi tác và đặc biệt là yếu tố về địa vị xã hội (vợ quan Án - cô thôn
nữ). Vì không chấp nhận Lộc yêu một người không môn đăng hộ đối mà bà Án
tìm đến tận nhà Mai hòng tách cô ra khỏi cuộc sống của Lộc. Trước phản ứng gay
gắt của Mai về lời đề nghị lấy cô làm lẽ cho Lộc, bà Án đã sử dụng hành vi cam
đoan chắc nịch về việc sẽ lấy vợ khác cho con trai nhằm áp đặt cho Mai “Tôi cam
đoan với cô rằng thế nào tôi cũng cưới được vợ cho con tôi.”
86
Vi dụ 91: “Rồi Lộc nói:
- Cái ý tưởng cao thượng ấy sẽ làm cho anh phấn khởi. Phải, thở than,
buồn bực có ích chi! Cái đời tẻ ngắt của anh mà anh cho là hết hy vọng, anh sẽ
cam đoan với em rằng vì em nó sẽ thành một đời đầy đủ.
Thấy Lộc mặt đỏ bừng và mắt long lanh, Mai lo lắng:
- Anh không nên nghĩ xa xôi quá. Anh sung sướng là em sung sướng
rồi.” [6; tr.224]
Xét về đặc điểm của nhân vật giao tiếp trong ví dụ trên, Lộc là người có
vị thế cao hơn trên phương diện tuổi tác và địa vị xã hội (quan Án - cô thôn nữ).
Ở đây, nhân vật Lộc đã chủ động hạ thấp khoảng cách vị thế giữa hai người, điều
này được thể hiện qua phương tiện ngôn ngữ được nhân vật sử dụng cách xưng
hô thân mật, gần gũi anh - em. Bởi vì Mai là người mà Lộc yêu thương, lại mà
mẹ của con anh, đã vì anh mà hi sinh, chịu ấm ức cho nên Lộc đã hạ thấp vị thế
của mình để thực hiện hành vi cam đoan với cô.
Ví dụ 92: “Chàng gục đầu vào mặt người vợ chưa cưới:
- Tuyết ơi! Tuyết yêu quí nhất đời của anh ơi, anh xin lỗi Tuyết. Đừng việc
gì mà lo buồn, đó là chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu? Từ đây mà đi, anh xin
thề với Tuyết là sẽ yêu em trọn đời, sẽ trung thành với Tuyết như một con chó,
mà nếu không được ăn ở với Tuyết suốt đời thì anh sẽ tự tử, mặc lòng là tại Tuyết
hay tại ai cũng vậy.
- Nói nhời xin giữ lấy nhời!” [11; tr194]
Cặp thoại trên là của nhân vật Long và Tuyết (Giông tố), diễn ra trong
hoàn cảnh hai người đang hẹn hò và Tuyết muốn kiểm chứng tình yêu của Long.
Long từ nhỏ mồ côi lại chỉ là viên thư kí của anh trai Tuyết. Còn Tuyết là cô tiểu
thư cành vàng lá ngọc, con gái nghị Hách. Giữa hai người có khoảng cách nhất
định về địa vị xã hội. Long là người có vị thế xã hội thấp hơn Tuyết. Vì vậy, mặc
dù yêu nhau, nhưng khi thực hiện lời thề với người yêu Long vẫn thể hiện sự tôn
kính dành cho Tuyết. Dù là người yêu nhưng nàng vẫn là tiểu thư không cùng
tầng lớp với Long. Vì vậy, trong phát ngôn của mình, Long xưng anh nhưng lại
gọi tên Tuyết.
87
3.3.2.2. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện mối quan hệ giữa các
nhân vật giao tiếp
Ở các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa, khi giao tiếp người ta chỉ sử
dụng các đại từ nhân xưng để xưng hô. Trong tiếng Việt ngoài các đại từ nhân
xưng còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô,
và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Giao
tiếp của người Việt có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi mọi người
trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
Ví dụ 93: “- Anh bứa lắm. Nhưng này anh Chí ạ, anh muốn đâm người
cũng không khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến
đòi cho tôi, đòi được tự nhiên có vườn.” [10; tr.27]
Trên đây là phát ngôn của bá Kiến nói với Chí Phèo khi Chí sang nhà lão
làm loạn. Sau khi ở tù ra, Chí Phèo sẵn sàng làm mọi cách để ăn vạ kể cả tự rạch
chính mặt mình. Không muốn dây vào chuyện lôi thôi, bá Kiến tìm cách xoa dịu
Chí bằng việc nhận họ hàng với hắn. Điều đó được thể hiện qua cách xưng hô
của bá Kiến với Chí Phèo: gọi anh xưng tôi.
Hệ thống từ xưng hô của người Việt có tính chất cộng đồng hóa cao - trong
hệ thống này không có những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào các yếu tố
như tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi
khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hô có khi thể hiện được hai quan hệ khác
nhau: chú - cháu, ông - con, mẹ - con, anh - tôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên
cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
Ví dụ 94: “Bà Án tức giận mắng:
- Thằng con bất hiếu bất mục đến thế?
- Bẩm bà lớn, vì anh con, nào con có vượt ra ngoài vòng lễ nghi đâu? Mà
nếu, bẩm bà lớn, vì anh con, có phải hy sinh đến lễ nghi nữa, con cũng cam chịu.”
[6; tr.103]
88
Ví dụ 95: “- Không, tôi nói thực đấy. Mợ không nên để tôi hối hận suốt
đời, vì một điều lẫm lỗi trong giây phút...
Mai làm bộ như không hiểu:
- Nhưng, thưa cụ, có điều gì cụ cứ cho biết, nếu có thể giúp được thì thực
con không dám từ chối.” [6; tr.188]
Cả hai phát ngôn “Mà nếu, bẩm bà lớn, vì anh con, có phải hy sinh đến lễ
nghi nữa, con cũng cam chịu.”, Nhưng, thưa cụ, có điều gì cụ cứ cho biết, nếu có
thể giúp được thì thực con không dám từ chối.” trong ví dụ (94) và (95) đều là của
nhân vật Mai nói với bà Án trong tiểu thuyết “Nửa chừng xuân”. Tuy nhiên trong
mỗi ví dụ, cách xưng hô của nhân vật lại không giống nhau. Bởi mỗi ví dụ lại trong
một ngữ cảnh khác nhau. Nếu như ở ví dụ (94), Mai thực hiện hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết trong hoàn cảnh bị bà Án chia rẽ tình yêu cho nên cách xưng hô
có phần khách sáo, thể hiện địa vị khác nhau trong xã hội: gọi bà lớn xưng con. Còn
ở ví dụ (95), Mai thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết khi đã có một
cuộc sống mới, phần nào quên đi những tổn thương về mặt tinh thần mà bà Án đã
gây ra cho mình và lúc này Mai đã sinh cho bà Án một đứa cháu nội cho nên cách
xưng hô cũng có sự thay đổi: gọi cụ xưng cháu.
3.3.3. Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thể hiện văn hóa giao tiếp của
người Việt
Như đã trình bày trong chương 1, mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ
là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, có sự tương tác hết sức mật thiết. Là một thành
tố quan trọng của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ là phương tiện, điều kiện
cho sự nảy sinh, phát triển và tương tác của các thành tố khác trong hệ sinh thái
văn hoá. Đồng thời văn hoá với tư cách là một hiện tượng xã hội cũng lại tác
động một cách sâu sắc tới sự hình thành và phát triển ngôn ngữ, làm nên đặc
trưng ngôn ngữ dân tộc. Trong chương 3, chúng tôi khảo sát và lí giải một số
biểu hiện văn hóa trong lời cam kết của tiếng Việt được các tác giả vận dụng
89
vào văn chương, từ đó hướng đến khái quát nên đặc trưng văn hoá dân tộc qua
các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và mối quan hệ giữa văn hóa, văn
học và ngôn ngữ.
Người Việt Nam với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước sống nương tựa
lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi người trong
cộng đồng, chính đó là nguyên nhân dẫn đến việc coi trọng giao tiếp. Tính cộng
đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc điểm
là trọng danh dự. Vì vậy trong giao tiếp, khi thực hiện các hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết, để củng cố niềm tin với người tham gia đối thoại, người nói
thường đưa ra những thiệt hại tổn thất gắn với danh dự cá nhân và tính mạng của
mình.
3.3.3.1. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thường đưa
ra những tổn thất về danh dự cá nhân
Trong tổng số 208 lượt sử dụng hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, có
14 trường hợp người cam kết tự nhận những thiệt hại tổn thất, trong đó hành động
thuộc lớp Cam kết gắn với những thiệt hại tổn thất về danh dự cá nhân là 12 lượt
chiếm 85,71%. Người Việt trọng danh dự “Được tiếng còn hơn được miếng”, “Tốt
danh hơn lành áo”, “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”... Trong suốt cuộc đời,
người Việt luôn quan tâm giữ gìn danh dự vì “Người chết nết còn”, và rất sợ “Mua
danh ba vạn, bán danh ba đồng”… Như đã nói, người Việt rất coi trọng danh dự
của bản thân và gia đình, bất kì phát ngôn nào cũng có thể gây tổn thất về mặt
danh dự: lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều
người, tạo nên tai tiếng. Chính vì vậy, danh dự là thiêng liêng, được viện để thực
hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết. Nếu như người phương Tây thường
nói: “Tôi xin thề danh dự…” thì người Việt thường thề rất độc về mình: không
bằng con chó, tôi làm con cho anh, không xứng làm người, không còn mặt mũi
nhìn ai… Bởi vậy, trong các tác phẩm văn học, các nhà văn cũng vận dụng linh
hoạt đặc điểm này để xây dựng những hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết cho
nhân vật của mình.
90
Ví dụ 96: “- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long
ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ. Tôi
khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.
- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu quý suốt
đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của Mịch tức
là một vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh phải làm thế nào rửa cho sạch vết nhọ
ấy thì mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng khóc nữa.”
[11; tr.44]
Trong văn hoá Việt, rồng là loài vật thiêng bởi tổ tiên Bách Việt đã từng
có tô tem rồng, rồng ngự trị trong tâm thức người Việt như một linh vật đặc biệt,
là “vạn vật chi đế”, là biểu tượng cho những gì cao quý nhất: những vật dụng
gắn liền với nhà vua đều có họa tiết rồng. Ngược lại, chó, lợn lại là những con
vật tầm thường, bởi chúng thường được thấy trong cuộc sống trần tục thường
nhật với những quan niệm định kiến: tham như lợn, hỗn như chó… Vì vậy khi
muốn nhấn mạnh vào sự tổn thất về mặt danh dự khi không thực hiện đúng cam
kết người ta thường thề: “không bằng con chó”… Đó là cách tự nhận những tổn
hại về danh dự khá phổ biến trong cách thề của người Việt.
Ví dụ 97: - Thế mà không giữ lời hứa thì sao?
- Thế bác coi tôi là người hay chó? [11; tr.171]
Ở ví dụ (97), “Thế bác coi tôi là người hay chó?” là phát ngôn của nghị
Hách, ý muốn khẳng định nếu mình không giữ lời thì không bằng con chó. Tức
là muốn khẳng định trách nhiệm hành động giữ lời, thuyết phục quan Tây về điều
mình muốn hứa bằng cách tự nhận lấy điều tồi tệ: coi như con chó. Nghĩa là
không được là người mà hơn thế không bằng cả con chó loài vật bị khinh miệt,
coi thường.
Hai ví dụ trên cho thấy chủ thể của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam
kết tự nhận về mình những thiệt hại, tổn thất về mặt danh dự cá nhân cũng là một
nét trong văn hóa Việt Nam. Đối với văn hóa phương Tây danh dự cá nhân được
đánh giá chủ yếu qua hành động và kết quả của công việc. Còn đối với văn hóa
91
phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng danh dự cá nhân được đặt trong
cả quá trình hình thành nhân cách, được nhìn nhận trong tiêu chí đánh giá của
toàn cộng đồng trên đạo lí sống hơn là hành động.
3.3.3.2. Chủ ngôn của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết thường đưa
ra những tổn thất về tính mạng
Không chỉ tự nhận những tổn thất về mặt danh dự cá nhân, người Việt
cũng viện dẫn sự thiệt hại về tính mạng khi thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết. Theo khảo sát của chúng tôi, trong một số tác phẩm văn học Việt
Nam giai đoạn 1930-1945, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết chứa đựng
những thiệt hại tổn thất gắn với tính mạng của người nói chiếm tỉ lệ rất nhỏ, chỉ
sấp sỉ 14,28%.
Đối với các nền văn hóa trên thế giới, quan niệm về sinh - tử có thể không
hoàn toàn đồng nhất nhưng đều có điểm chung “sự sống là đáng quý, cái chết là
đáng sợ”. Vì vậy, khi thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, người
nói mang cái chết ra để làm tin đối với người nghe về những gì sẽ thực hiện trong
tương lai.
Nếu như trong văn hóa phương Tây quan niệm “Thân cát bụi lại trở về
với cát bụi”, họ chỉ quan tâm đến cuộc sống thực tại, chết là hết. Thì người
Việt lại quan niệm “sống khôn, chết thiêng”, “sống gửi thác về”… Cái chết là
sự chuyển hóa từ thế giới hữu hình sang thế giới tâm linh, để những con người
bình dị trong cuộc sống đời thường trở nên thiêng liêng trong cõi tâm thức.
Người Việt có tục thờ cúng người chết “trần sao âm vậy”. Niềm tin của người
Việt về thuyết luân hồi - cuộc sống ở thế giới bên kia sau khi chết - khiến
người Việt sợ “Chết không toàn thây”, “Chết không nhắm mắt”, “Chết không
có ai than khóc”, “chết không có đất chôn”… Đối với người Việt, chết là tiếp
tục sống ở một thế giới khác. Vì thế chết phải toàn thây, phải được con cháu
nhớ đến. Phúc đức sau khi chết là được mồ yên mả đẹp. Đó là văn hóa nông
nghiệp định cư với tính cộng đồng tự trị rất đặc trưng. Vì vậy, khi thực hiện
92
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết để tăng tính thuyết phục đối với người
nghe một cách tuyệt đối, người nói thường lấy cái chết ra để hứa hẹn, thề thốt,
cam đoan…
Ví dụ 98: “- Nếu mình nói dối em thì sao?
Minh thề rằng:
- Nếu anh mà nói dối em thì anh chết ngay tại chỗ.
Liên không chịu, lắc đầu dù Minh không nhìn thấy gi:
- Không nếu anh nói dối thì em sẽ chết kìa!”
[2; tr.84]
Có thể thấy, trong ví dụ trên, nhân vật Minh và Liên đều viện cái chết để
tăng tính thuyết phục cho lời cam kết của mình.
3.4. Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu các hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 từ
góc nhìn của lý thuyết hội thoại và có kết luận khái quát sauu đây:
Thứ nhất, về chủ ngôn và tiếp ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết: Chủ ngôn của các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết luôn tồn tại ở
ngôi thứ nhất số ít và số nhiều. Có thể là các đại từ nhân xưng như tôi, chúng tôi,
tớ, anh..., có thể là các danh từ chỉ quan hệ thân tộc như cha, con, bà... hay danh
từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ như ông Án, Chánh Tổng... Đối tượng tiếp nhận các
hành động thuộc lớp Cam kết được xác định là người nghe.
Thứ hai, về phương diện chức năng: Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 mang
chức năng dẫn nhập với tần số xuất hiện ít nhất 12 lượt (chiếm khoảng 5,76%),
tiếp đến là các hành động mang chức năng hồi đáp với 67 lượt xuất hiện (chiếm
khoảng 32,21%) và với tần số xuất hiện nhiều nhất là các hành động vừa đảm
nhiệm chức năng hồi đáp vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập với 129 lượt
(khoảng 62,01%).
93
Thứ ba, về vai trò của các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết: Dễ
dàng nhận thấy, hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số tác phẩm
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 thể hiện được ba vai trò cơ bản là:
- Thể hiện thái độ tính cách nhân vật: Bên cạnh việc miêu tả các nhân vật,
việc vận dụng các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết một cách linh hoạt,
các tác giả đã khắc họa thành công thái độ, tính cách nhân vật văn học.
- Thể hiện vị thế và quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp: Xã hội Việt Nam
những năm 1930-1945 với sự phân hóa giai cấp sâu sắc thể hiện trên nhiều
phương diện khác nhau. Giao tiếp là một trong những phương tiện thể hiện rõ
ràng vị thế xã hội của con người ở các tầng lớp khác nhau. Với việc lựa chọn từ
ngữ xưng hô, ngữ điệu nói khi thực hiện hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết
của mỗi nhân vật khác nhau sẽ thể hiện vị thế và quan hệ giữa các nhân vật khác
nhau.
- Thứ ba, thể hiện văn hóa giao tiếp của người Việt: Khi nghiên cứu đặc
trưng văn hóa dân tộc qua các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, chúng tôi
nhận thấy nó thể hiện rõ nét nhất qua những thiệt hại, tổn thất mà chủ ngôn tự
nhận nhằm thuyết phục người nghe tin vào lời mình nói và những việc mình sẽ
làm. Đó là những thiệt hại, tổn thất thường gắn với sự thiệt hại về tính mạng và
danh dự của chủ ngôn.
94
KẾT LUẬN
Nghiên cứu “Các hành vi ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết trong một số
tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 chúng tôi rút ra những kết
luận sau đây:
1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “các hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945”.
Để thực hiện đề tài này, luận văn đã sử dụng các phương pháp và thủ pháp
nghiên cứu chủ yếu là:
- Phương pháp miêu tả.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu.
2. Về tổng quan tình hình nghiên cứu: Luận văn đã tổng quan được tình
hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ qua các công trình nghiên cứu của
các tác giả nước ngoài và trong nước. J.Austin đã có công đầu trong việc xây
dựng lí thuyết hành động ngôn ngữ, sau đó đã được J.Searle, A.Wierzbicka kế
thừa và phát triển. Có rất nhiều nhà Việt ngữ hoc quan tâm đến lí thuyết hành
động ngôn ngữ, trong đó phải kể đến GS.TS Đỗ Hữu Châu và GS.TS Nguyễn
Đức Dân với nhiều công trình nghiên cứu đóng góp cho nền khoa học ngôn
ngữ nước ta. Bên cạnh đó, luận văn còn tổng quan tình hình nghiên cứu về các
hành động ngôn ngữ cụ thể như hành động thề, hành động hứa hẹn, hành động
cam kết của các tác giả Nguyễn Thị Thu Nga, Nguyễn Thị Minh Thu và Vũ
Tố Nga.
3. Về cơ sở lí luận: Luận văn đã sử dụng một số vấn đề lí thuyết cơ bản
làm căn cứ lí luận cho đề tài là: lí thuyết về ngữ cảnh, lí thuyết về hành động
ngôn ngữ, lí thuyết về hội thoại và một số nét về văn hóa.
4. Về tần số sử dụng: Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết được
sử dụng trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 xuất
95
hiện không nhiều, chúng tôi đã khảo sát được 4 hành động: hứa, cam đoan, thề,
hành động ngôn ngữ trung gian. Số lượt sử dụng các hành động này cũng không
giống nhau. Theo khảo sát của chúng tôi, có 208 trường hợp hành động ngôn ngữ
thuộc lớp Cam kết. Căn cứ vào hành động ở lời, chúng tôi đã chia 208 trường
hợp này thành: hành đông hứa được sử dụng nhiều nhất với tỉ lệ sấp sỉ 42,78%
(89 lượt), tiếp đến là hành động ngôn ngữ trung gian với tỉ lệ sấp sỉ 39,42% (82
lượt), hành động cam đoan được sử dụng với tỉ lệ sấp sỉ 9,61% (20 lượt), hành
động thề với tỉ lệ sử dụng ít nhất 17 lượt chiếm sấp sỉ 8,17%.
5. Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết được luận văn nghiên cứu
về các phương diện:
- Về hành động ở lời: Căn cứ vào cách phân loại hành động ngôn ngữ của
Searle, luận văn đã xác định được bốn hành động: hành động hứa, hành động
cam đoan, hành động thề và hành động ngôn ngữ trung gian.
- Về phương thức thể hiện: Các hành động hứa, thề, cam đoan về mặt hình
thức đều tồn tại dưới hai dạng biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi
nguyên cấp. Tuy nhiên, chỉ có hành động ngôn ngữ trung gian chỉ tồn tại dưới
dạng biểu thức ngữ vi nguyên cấp vì trong phát ngôn hay trong biểu thức ngữ vi
không có sự xuất hiện của động từ ngữ vi. Các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết được chia thành hai loại là hành động trực tiếp và gián tiếp. Các hành
động ngôn ngữ trực tiếp thuộc lớp Cam kết được nhân biết dựa vào dấu hiệu hình
thức là động từ ngữ vi và dấu hiệu thỏa mãn điều kiện đích ở lời. Tuy nhiên, qua
khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy khi thực hiện các hành động thề, hứa, cam
đoan các tác giả không sử dụng nhiều các động từ ngữ vi. Các phát ngôn có chứa
động từ ngữ vi chỉ xuất hiện 21 lượt trên tổng số 208 lượt, chiếm sấp sỉ 10,05%.
Vì vậy, để xác định các hành động hứa, thề, cam đoan, trung gian trực tiếp hay
gián tiếp chúng tôi dựa vào điều kiện đích ở lời là chủ yếu. Các hành động hứa,
thề, cam đoan, trung gian gián tiếp được thể hiện bởi các hành động khẳng định,
hỏi, cảm thán trực tiếp.
96
- Về chủ ngôn và tiếp ngôn: Chủ ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết luôn ở ngôi thứ nhất số ít hoặc số nhiều. Trong một số trường hợp, chủ
ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết còn sử dụng danh từ chỉ quan
hệ thân tộc hoặc nghề nghiệp, chức vụ để xưng hô chỉ ngôi thứ nhất. Tiếp ngôn
của hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết chính là người nghe trực tiếp bởi
người nói chỉ đưa ra lời cam kết khi cho rằng nó sẽ tác động trực tiếp đến người
nghe. Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với sự phân chia giai cấp, địa vị xã
hội sâu sắc đã được các tác giả đưa vào văn chương một cách khéo léo. Chúng
tôi đã thống kê được có 78 trường hợp chủ ngôn của hành động ngôn ngữ thuộc
lớp Cam kết là người có vị thế xã hội cao, 130 trường hợp chủ ngôn là người có
vị thế xã hội thấp.
- Về chức năng trong cặp thoại, luận văn đã chỉ ra được ba chức năng của
hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết. Ba chức năng đó là: chức năng dẫn nhập,
chức năng hồi đáp, vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng
hồi đáp. Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của các hành động thuộc lớp Cam kết được
sử dụng ít nhất: 12 lượt sử dụng (sấp sỉ 5,76%). Chức năng hồi đáp của các hành
động thuộc lớp Cam kết được sử dụng 67 lượt (sấp sỉ 32,21%). Còn các hành động
thuộc lớp Cam kết vừa đảm nhiệm chức năng dẫn nhập vừa đảm nhiệm chức năng
hồi đáp xuất hiện với tần suất lớn nhất 129 lượt (sấp sỉ 62,01%).
- Về vai trò, các hành động thuộc lớp Cam kết còn đóng vai trò quan trọng
trong việc thể hiện thái độ, tính cách của nhân vật; thể hiện vị thế và quan hệ
giữa các nhân vật giao tiếp. Văn hóa và ngôn ngữ là hai đối tượng đặc biệt, chúng
là chất keo gắn kết các thành viên của một dân tộc với nhau, chúng làm nên tính
đặc thù của dân tộc đó, do vậy mà chúng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết.
Vì vậy, các hành động ngôn ngữ nói chung và các hành động ngôn ngữ thuộc lớp
Cam kết nói riêng góp phần thể hiện một phần văn hóa giao tiếp của người Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Tp Hồ Chí Minh.
2. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 2, Nxb Giáo dục.
3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb
Giáo dục.
4. Diệp Quang Ban (2009), Ngữ pháp Việt Nam, Nxb Giáo dục.
5. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập1,
Nxb Giáo dục.
6. Đỗ Hữu Châu (1992), Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của ngữ dụng
học, Tạp chí Ngôn ngữ số 1 và 2.
7. Đỗ Hữu Châu (1995), Giáo trình giản yếu về ngữ dụng học, Nxb Giáo dục,
Huế.
8. Đỗ Hữu Châu (1996), Giản yếu về ngữ dụng học, NxbGD.
9. Đỗ Hữu Châu (2000), Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ,
số 10.
10. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương Ngôn ngữ học, tập hai - Ngữ dụng học,
Nxb Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2007), Đại cương Ngôn ngữ học, tập một,
Nxb Giáo dục.
12. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Dân (1987), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.
14. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NXB Văn
hóa thông tin.
15. Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục.
16. Lê Đông (1996), Ngữ nghĩa - Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS
khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
17. Nguyễn Thiện Giáp (2007), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
18. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB
98
Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
ngôn ngữ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2007), Dẫn
luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
21. Cao Xuân Hạo (1997), Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo
dục.
22. Cao Xuân Hạo (1999), Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Công Hoan (2010), Tác giả và tác phẩm trong nhà trường, Nxb
Văn học.
24. Nguyễn Công Hoan (2011), Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học.
25. Vũ Thị Thanh Hương (2006) (đồng dịch giả), Ngôn ngữ, văn hoá và xã hội:
Một cách tiếpcận liên ngành, NXB Thế Giới, Hà Nội.
26. Phạm Khiêm Ích (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỉ XX, Viện thông tin
Khoa học Xã hội.
27. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.
28. Vũ Tố Nga (2006), Hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết và các động từ
biểu thị hành động ngôn ngữ thuộc lớp Cam kết, Tạp chí ngôn ngữ số 5.
29. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lí giải nghĩa hàm ẩn của các hành
độngngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại, Luận án TS Ngữ văn, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
30. Lê Quang Thiêm, Ngữ nghĩa học (tập bài giảng), Nxb Giáo dục.
31. Tạ Thị Thúy (2014), Lịch sử Việt Nam (tập 9), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Trần Ngọc Thiêm (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
33. Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng văn hóa (2002)
34. Phạm Thái Việt (chủ biên), Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa
Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
35. Trần Quốc Vượng (1980), Suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam, Tạp chí
99
dân tộc học số 1 -1980.
36. Trần Quốc Vượng (chủ biên, 1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn
hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. G. Yule (2001), Dụng học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
38. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb
Giáo dục.Nguyễn Như Ý, Từ điển tiếng Việt (1996), Nxb GD.
39. Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên)(2006), Từ điển tiếng Việt, NXB
Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, Hà Nội-Đà Nẵng
40. Viện Văn hóa (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hóa, NXB Văn hóa.
NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
1. Dương Dương (2012), Ngô Tất Tố tuyển tập, Nxb Văn học.
2. Khái Hưng - Nhất Linh (2015), Gánh hàng hoa, Nxb Văn học.
3. Khái Hưng - Nhất Linh (2018), Đời mưa gió, Nxb Hội nhà văn.
4. Khái Hưng (1953), Thừa tự, Nxb Phượng Giang.
5. Khái Hưng (2015), Hồn bướm mơ tiên, Nxb Nhã Nam.
6. Khái Hưng (2015), Nửa chừng xuân, Nxb Nhã Nam.
7. Nhất Linh (2006), Đôi bạn, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
8. Nhất Linh (2016), Đoạn tuyệt, Nxb Nhã Nam.
9. Nhất Linh (2016), Lạnh lùng, Nxb Văn học.
10. Nhiều tác giả, Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn (2005), Nxb Văn học.
11. Phạm Thị Ngọc - Vũ Nguyễn (2008), Giông tố - Tác phẩm và dư luận, Nxb
Văn học.
12. Tuấn Thành - Vũ Nguyễn (2007), Bước đường cùng - Tác phẩm và lời bình,
Nxb Văn học.
100