ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––
NÔNG THỊ THU HUYỀN
HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––
NÔNG THỊ THU HUYỀN
HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ QUANG NĂNG
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực và
chưa từng được công bố, sử dụng trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn
Nông Thị Thu Huyền
i
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn
PGS.TS Hà Quang Năng - Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài của luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô Khoa Ngữ Văn
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin cảm ơn tập thể lớp cao học K25B - ngành Ngôn ngữ Việt Nam
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học
tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp và cơ quan đã quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để giúp
tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn
Nông Thị Thu Huyền
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan .............................................................................................. i
Lời cảm ơn ................................................................................................ ii
Mục lục..................................................................................................... iii
Danh mục các bảng .................................................................................. iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu ................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 3
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 3
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN .......................................................................................................... 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ và hành vi cảm thán
ở Việt Nam và trên thế giới ............................................................................... 5
1.1.1. Về hành vi cảm thán và câu cảm thán ..................................................... 5
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh ................................... 7
1.2. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 7
1.2.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ ................................................................ 7
1.2.2. Hành vi cảm thán ................................................................................... 12
1.2.3. Mối quan hệ giữa hành vi cảm thán và câu cảm thán ........................... 15
1.2.4. Lí thuyết hội thoại .................................................................................. 17
1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh .............. 24
1.4. Vị trí của “Tôi thấy hoa vàng trên có xanh” trong hành trình sáng tác của
Nguyễn Nhật Ánh ............................................................................................ 26
iii
Tiểu kết chương 1............................................................................................. 27
Chương 2: MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU
HIỆN HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA
VÀNG TRÊN CỎ XANH .............................................................................. 29
2.1. Phương tiện thể hiện hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh ............................................................................................ 29
2.1.1. Dùng từ cảm thán .................................................................................. 29
2.1.2. Dùng quán ngữ ...................................................................................... 40
2.2. Các loại hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh .. 44
2.2.1. Hành vi cảm thán trực tiếp .................................................................... 44
2.2.2. Hành vi cảm thán gián tiếp ................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 60
Chương 3: CHỨC NĂNG HỘI THOẠI CỦA HÀNH VI CẢM THÁN
TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH .......... 62
3.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 63
3.2. Chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán ................................ 63
3.2.1. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi hỏi ..................... 64
3.2.2. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cầu khiến .......... 67
3.2.3. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán ........... 69
3.2.4. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thông báo .......... 71
3.2.5. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thuyết phục ....... 72
3.2.6. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi kể ...................... 73
3.2.7. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đánh giá ............ 74
3.2.8. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi nhắc nhở ........... 75
3.2.9. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đe dọa ............... 75
3.2.10. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi xin lỗi ............. 76
3.3. Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của hành vi cảm thán ............................ 77
3.3.1. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi cầu khiến ... 78
iv
3.3.2. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi chào,
hô gọi .............................................................................................................. 79
3.3.3. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để tuyên bố, thông báo ........... 79
3.3.4. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để nhận xét, đánh giá .............. 80
3.3.5. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để đe dọa ................................. 81
3.4. Chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán .............................. 81
3.4.1. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi cầu khiến ...................................................................... 82
3.4.2. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi nhận xét, đánh giá ........................................................ 83
3.4.3. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi tuyên bố, thông báo ..................................................... 84
3.4.4. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi khen .............................................................................. 85
3.4.5. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi chửi .............................................................................. 86
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê, phân loại từ ngữ cảm thán ............................................. 30
Bảng 2.2. Thống kê phân loại quán ngữ đưa đẩy ........................................... 40
Bảng 3.1. Thống kê chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại ............ 63
Bảng 3.2. Thống kê chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán ....... 64
Bảng 3.3. Thống kê chức năng dẫn nhập cuộc thoại của hành vi cảm thán ... 78
Bảng 3.4. Thống kê chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán ..... 82
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ học hiện đại (trong đó có Việt ngữ học) từ những năm 60 của thế
kỷ XX đã và đang đi sâu nghiên cứu những vấn đề theo Lý thuyết hành động
ngôn từ (Speech act Theory, còn được gọi là Thuyết hành vi ngôn ngữ) do hai
nhà ngữ học nổi tiếng J. L. Austin và J. Searle đề xướng. Ngày nay, vấn đề này
ngày càng được nhiều nhà ngôn ngữ quan tâm và nghiên cứu. Theo quan điểm
của thuyết này thì “nói chính là hành động”. Nghĩa là, khi người ta nói tức là
người ta đang thực hiện một hành động như mọi hành động khác trong cuộc sống.
Trong nhiều hành vi ngôn ngữ được xét, có hành vi chào hỏi, cám ơn, xin lỗi,
khen, chê, thỉnh cầu, cam kết, mắng chửi, phàn nàn… và cảm thán. Trong đó
hành vi cảm thán là hành vi thể hiện rõ nhất tình cảm, cảm xúc của con người.
Hành vi này thường được biểu thị bằng câu cảm thán gắn liền với giao tiếp, với
môi trường sử dụng tức là môi trường hội thoại.
1.2. Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại tỉnh Quảng Nam. Ông
được coi là một trong những nhà văn viết sách cho tuổi mới lớn thành công nhất
hiện nay, với hơn 100 tác phẩm các thể loại. Tên tuổi của nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh gắn liền với các tác phẩm làm say lòng độc giả bao thế hệ như Mắt biếc,
Còn chút gì để nhớ, Hạ đỏ, Cô gái đến từ hôm qua, Chú bé rắc rối, … Truyện
của ông được tái bản liên tục và chưa bao giờ giảm sức hút với những người yêu
mến chất văn Nguyễn Nhật Ánh.
1.3. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu
niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, tác phẩm từng nhận được giải thưởng văn
học ASEAN tại Thái Lan. Tiểu thuyết kể về những giai đoạn mà đời người ai
cũng từng trải qua nhưng đôi khi bộn bề với cuộc sống, cơm áo gạo tiền và những
nỗi lo không đặt hết tên chúng ta quên mất đi sự tồn tại của nó. Đó là “tuổi thơ”.
Có thể xem cuốn sách Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là một chuyến tàu chở đầy
tuổi thơ, mỗi mẩu chuyện nhỏ là một toa tàu, mỗi toa tàu là những màu sắc thú
vị khác nhau, có người sẽ bật cười, có người sẽ rưng lệ. Với người trẻ có thể đó
1
là hình bóng của mình, nhưng với người lớn, câu chuyện cũng có thể là nỗi ăn
năn về tuổi thơ, những hoài bão cao đẹp. Tất cả những điều tưởng như giản dị ấy
lại làm nên thành công của thiên tiểu thuyết.
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh tuy nhiên bình diện ngôn ngữ chưa được chú ý nhiều, trong
đó, hành vi cảm thán trong tiểu thuyết của Nguyễn Nhật Ánh là đề tài chưa từng
được nghiên cứu.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu “Hành vi cảm thán trong
tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh” cho đề tài luận
văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh của Nguyễn Nhật Ánh để thấy được đặc điểm và chức năng ngữ dụng của
hành vi cảm thán trong giao tiếp giữa các nhân vật, đặc biệt khám phá thêm một
nét mới trong phong cách xây dựng tính cách nhân vật trẻ thơ của Nguyễn Nhật
Ánh dưới góc độ ngữ dụng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nắm vững và biết vận dụng những cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài
để xác lập một khung lí thuyết cho đề tài luận văn.
- Khảo sát, thống kê, phân loại các phương tiện thể hiện hành vi cảm thán,
các loại hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
- Tìm hiểu chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại: chức năng dẫn
nhập cuộc thoại, chức năng duy trì cuộc thoại và chức năng kết thúc cuộc thoại.
3. Đối tượng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “Hành vi cảm thán trong tác phẩm
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh”.
2
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện hành vi cảm thán. Đó là các từ ngữ
cảm thán, các quán ngữ và các loại hành vi cảm thán: trực tiếp và gián tiếp.
3.3. Ngữ liệu nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát ngữ liệu trong truyện dài Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh Nhà xuất bản trẻ, 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp miêu tả
Chúng tôi tiến hành phân tích ngữ liệu, miêu tả các hiện tượng, để thấy
được một cách cụ thể đặc điểm hành vi cảm thán trong tác phẩm Nguyễn Nhật
Ánh. Từ đó rút ra nhận định tổng quát về đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Bằng phương pháp này chúng tôi tiến hành phân tích tác phẩm của Nguyễn
nhật Ánh với vai trò là ngữ liệu để rút ra các phương tiện thể hiện hành vi cảm
thán, các chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại.
4.3. Thủ pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi tiến hành khảo sát các phương tiện thể hiện hành vi cảm thán,
các loại hành vi cảm thán, chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đưa ra cách tiếp cận mới đối với tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
trên cơ sở kiến thức liên ngành ngôn ngữ và văn học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần làm rõ những biểu hiện và chức năng của hành vi cảm thán
trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp cho việc phân tích, giảng
dạy tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh trên bình
diện ngữ dụng học thông qua việc miêu tả, phân tích các hành động ngôn ngữ
trong hội thoại giữa các nhân vật.
3
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận.
- Chương 2: Một số phương tiện và phương thức biểu hiện hành vi cảm
thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
- Chương 3: Chức năng hội thoại của hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ và hành vi cảm thán
ở việt Nam và trên thế giới
1.1.1. Về hành vi cảm thán và câu cảm thán
Từ cuối những năm 80 trở lại đây, ở Việt Nam vấn đề hành vi ngôn ngữ
đã thu hút được sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học. Các công trình nghiên
cứu về hành vi ngôn ngữ nói chung và hành vi cảm thán nói riêng đã được đưa
vào giảng dạy trong các trường học. Cảm thán trở thành vấn đề ngữ dụng quen
thuộc. Câu cảm thán là một trong bốn kiểu câu phân theo mục đích nói năng:
Câu tường thuật, Câu nghi vấn, Câu cảm thán và Câu cầu khiến. Việc phân chia
như trên được đề cập nhiều trong các tác phẩm nghiên cứu về ngữ pháp học và
cả trong ngữ dụng học. Đó là các công trình: Ngữ dụng học của Nguyễn Đức
Dân; Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, phần viết về ngữ dụng học của Đỗ Hữu
Châu; Dụng học Việt Ngữ của Nguyễn Thiện Giáp… Ngoài ra có nhiều bài
nghiên cứu về từ cảm thán, câu cảm thán như: Sắc thái cảm thán qua một số từ
cảm thán trong tiếng Việt và ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt thực hành
(Tạp chí Khoa học - KHXH - ĐHQGHN, số 6/1999); Một số hình thức hỏi biểu
thị cảm thán trong tiếng Việt (Tạp chí Ngôn ngữ, số 10/2003, Hà Nội). Đặc biệt
là luận án Tiến sĩ Câu cảm thán trong tiếng Việt của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Ngọc, 2004 nghiên cứu khái niệm, cấu trúc, đặc điểm về hình thức của câu cảm
thán trong tiếng Việt, nghiên cứu câu cảm thán từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ dụng
để nêu lên được các giá trị cơ bản của câu cảm thán trong tiếng Việt, giúp hiểu
thấu đáo các nét sắc thái cảm thán được thể hiện trong câu cảm thán và tầm tác
động của câu cảm thán trong hành chức.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về hành vi cảm thán chưa nhiều. Theo
tìm hiểu của chúng tôi có những công trình nghiên cứu của các tác giả sau: Hà
Thị Hải Yến, Phạm Kim Thoa, Phạm Thanh Vân, Nguyễn Thị Việt Lê và Bạch
Quỳnh Hoa.
5
Luận án tiến sĩ của tác giả Hà Thị Hải Yến (2004): Hành vi cảm thán và
sự kiện lời nói cảm thán trong tiếng Việt. Luận án đã nghiên cứu hành vi cảm
thán, sự kiện, lời nói cảm thán trong hội thoại, cụ thể là trong cặp thoại, đoạn
thoại và trong một số hình thức hội thoại đặc biệt như lời than khóc trong lễ tang,
nhật kí, điếu văn, văn tế. Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu về hành vi cảm thán
và sự kiện lời nói cảm thán trong hội thoại tiếng Việt. Luận án đã xây dựng định
nghĩa về hành vi cảm thán, sự kiện lời nói cảm thán; chỉ ra được biểu thức ngữ
vi, phát ngôn ngữ vi của hành vi cảm thán trong sự kiện lời nói cảm thán, phân
loại hành vi cảm thán, đồng thời đưa ra cấu trúc hình thức của sự kiện lời nói
cảm thán trong tiếng Việt. Qua đó, luận án khẳng định vị trí, vai trò của hành vi
cảm thán, sự kiện lời nói cảm thán trong hội thoại tiếng Việt.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Kim Thoa: Hành vi cảm thán trong
Truyện Kiều (2009) đã chỉ ra các đặc trưng của hành vi cảm thán và tác dụng của
hành vi cảm thán trong truyện Kiều. Từ đó tác giả tìm hiểu sâu thêm về vai trò
của hành vi cảm thán trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và thể hiện thái
độ của tác gia Nguyễn Du. Luận văn đã mở ra một hướng nghiên cứu tác phẩm
Truyện Kiều dưới góc độ ngữ dụng học.
Luận văn thạc sĩ Hành động cảm thán trong tiếng Việt (2010) của tác giả
Phạm Thanh Vân đã tiếp nhận và vận dụng những kết quả nghiên cứu của ngôn
ngữ học về vấn đề cảm thán, từ đó đặc trưng hóa các phương thức thể hiện hành
động cảm thán trong tiếng Việt. Đó là: phương thức thể hiện trực tiếp và phương
thức thể hiện gián tiếp hành động cảm thán trong tiếng Việt.
Luận văn thạc sĩ Hành vi cảm thán trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
(2013) của tác giả Nguyễn Thị Việt Lê đã vận dụng lý thuyết về hành vi ngôn
ngữ và lí thuyết hội thoại để nghiên cứu các phương tiện biểu thị hành vi cảm
thán, các loại hành vi cảm thán và chức năng của hành vi cảm thán trong tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng.
Luận văn Hành vi cảm thán trong truyện ngắn Nguyễn thị Thu Huệ (2015)
của tác giả Bạch Quỳnh Hoa đã vận dụng lý thuyết về hành vi ngôn ngữ và lí
thuyết hội thoại để nghiên cứu các phương tiện biểu thị hành vi cảm thán, các
6
loại hành vi cảm thán và chức năng của hành vi cảm thán trong tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu về hành vi cảm thán và câu cảm
thán mà chúng tôi đã biết đến.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh
Cho đến nay đã có một số công trình tìm hiểu, đánh giá nội dung - hình
thức biểu hiện trong truyện thiếu nhi Nguyễn Nhật Ánh nhưng chủ yếu là đặc
điểm chung, hoặc các bài nghiên cứu, đánh giá về truyện thiếu nhi này chỉ nằm
xen kẽ trong nhận định cụ thể.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu mới từ góc độ văn học,
chưa có công trình nào nghiên cứu về ngôn ngữ mà cụ thể là hành vi cảm thán
trong tác phẩm của Nguyễn Nhật ánh.
Như vậy căn cứ vào tình hình thực tiễn nghiên cứu về hành vi cảm thán và
về tác giả Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi chọn đề tài: “Hành vi cảm thán trong
tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh”.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ
1.2.1.1 Khái niệm “hành vi ngôn ngữ”
Nghiên cứu ngữ dụng học không thể không nhắc đến các hành động ngôn
ngữ. Có thể hiểu hành động ngôn ngữ hay hành vi ngôn ngữ là loại hành động đặc
biệt mà phương tiện biểu hiện chính là ngôn ngữ, chúng được thực hiện khi ta nói
năng. Theo các nhà nghiên cứu, người đầu tiên đặt nền móng cho lí thuyết về hành
vi ngôn ngữ là J.L Austin một - nhà triết học người Anh. Công trình nghiên cứu
của ông về hành vi ngôn ngữ đã được tổng hợp trong cuốn How to do things with
word (Hành động như thế nào bằng lời nói) và sau này đã được phát triển bởi nhà
triết học J. Searle với công trình Speech Acts.
Ở Việt Nam, từ cuối những năm 1980 trở lại đây, nghiên cứu về ngữ
dụng học mà đặc biệt là vấn đề hành vi ngôn ngữ đã thu hút được sự quan
tâm của các nhà ngôn ngữ học. Theo đó khi định nghĩa về “hành vi ngôn ngữ”
7
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam đã trình bày một số khái niệm như
sau:
Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động,
chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ.
Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói (hoặc viết) Sp1 nói
ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C”
[8; 88].
Nguyễn Đức Dân lại cho rằng: “Khi thực hiện một phát ngôn trong một
tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc của nó người
nói đã thực hiện những hành vi ngôn ngữ nhất định và người nghe cảm nhận
được điều này. Xảy ra hiện tượng đó vì các hành vi ngôn ngữ mang tính chất xã
hội, được ước chế bởi xã hội” [13; 220].
Còn theo Nguyễn Thiện Giáp, ông gọi hành vi ngôn ngữ là hành động
ngôn từ và cho rằng: “Các hành động được thực hiện bằng lời là hành động
ngôn từ... Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một phát
ngôn” [15; 337-338].
“Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, đã định nghĩa hành vi ngôn
ngữ là: "Một đoạn lời nói có tính mục đích nhất định được thực hiện trong những
điều kiện nhất định, được tách biệt bằng các phương tiện tiết tấu - ngữ điệu và
hoàn chỉnh, thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói và người nghe đều
có liên hệ với một ý nghĩa như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó” [46;
107].
Như vậy, có thể khẳng định “hành vi ngôn ngữ” chính là một hành động
sử dụng ngôn từ nhằm tác động đến người tiếp nhận lời trong giao tiếp; nó
gắn liền với hoạt động nói năng của con người và mang tính chất xã hội.
1.2.1.2. Các loại hành vi ngôn ngữ
J.L Austin c h i a hành động ngôn ngữ thành ba loại hành vi lớn là
acte locutoire, acte perlocutoire, acte illocutoire, Đỗ Hữu Châu đã dịch là:
hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời.
8
a. Hành vi tạo lời.
Là hành động nói tạo ra một chuỗi các âm thanh có nghĩa làm thành nội
dung mệnh đề (nội dung phán đoán) trong lời. Từ đó ý nghĩa của lời được xác
lập. Đây là phần ý nghĩa biểu thị nội dung mệnh đề.
b. Hành vi mượn lời
Là những hành động “mượn” phương tiện ngôn ngữ, đúng hơn là mượn
các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe,
người nhận hoặc chính người nói. Hành động mượn lời khi thực hiện một phát
ngôn là hành vi nhằm gây ra những biến đổi trong nhận thức, trong tâm lý (xúc
động, yên tâm, bực mình, phấn khởi...), trong hành động vật lý có thể quan sát
được gây ra một tác động nào đấy đối với ngữ cảnh.
c. Hành vi ở lời
Hành vi ở lời (còn được gọi là hành động ngôn trung) là những hành động
người nói thực hiện ngay khi nói năng nhằm gây ra những hiệu quả ngôn ngữ, tức
là chúng ta gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng ở người nhận. Đó là hành
động nói được thực hiện bằng một lực thông báo của một phát ngôn (lực ngôn
trung) thể hiện mục đích giao tiếp nhất định của lời (đích ngôn trung) như trần
thuật, hỏi, cầu khiến làm nên ý nghĩa ngôn trung. Đích ngôn trung và lực ngôn
trung đều được dùng làm tiêu chí nhận diện hành động ngôn trung bởi vì cùng
một mục đích ngôn trung lại có thể được thực hiện bằng những lời mang lực ngôn
trung khác nhau.
Như vậy, khi thực hiện một phát ngôn, người nói thực hiện ba loại hành vi
này, trong đó hành vi ở lời được các nhà ngữ dụng học quan tâm nhất, đồng thời
đây là loại hành động tạo nên sắc thái giao tiếp phong phú, chính vì vậy ở luận
văn này chúng tôi chỉ đi sâu vào phân tích, khảo sát đối tượng nghiên cứu hành vi
ở lời.
1.2.1.3. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
Theo Đỗ Hữu Châu: “Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là những điều
kiện mà một hành vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ
cảnh của sự phát ngôn ra nó.” [8; 111]. Theo Austin, điều kiện sử dụng các hành
9
vi ở lời là các điều kiện “may mắn”, nếu chúng được đảm bảo thì hành vi mới
“thành công”, đạt hiệu quả.
Sau khi điều chỉnh và bổ sung vào những điều kiện may mắn của Austin,
Searle đã gọi chúng là những điều kiện sử dụng hay điều kiện thoả mãn. Ông cho
rằng có bốn điều kiện sử dụng các hành vi ở lời sau:
a. Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Nội
dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành vi khảo nghiệm,
xác tín hay miêu tả), hay một hàm mệnh đề (đối với câu hỏi khép kín, tức những
câu hỏi chỉ có hai khả năng có hoặc không; phải, không phải…). Nội dung của
mệnh đề có thể là hành động của người nói (hứa hẹn), hay một hành động của
người nghe (lệnh, yêu cầu).
b. Điều kiện nội dung chuẩn bị bao gồm những hiểu biết của người phát
ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về mối quan hệ giữa
người nói, người nghe. Ví dụ khi ra lệnh, người nói phải tin rằng người nhận
lệnh có khả năng thực hiện hành động quy định trong lệnh…sự hứa hẹn có ý
muốn thực hiện lời hứa và người nghe cũng thực sự mong muốn lời hứa được
thực hiện. Khảo nghiệm, xác tín, không những đòi hỏi người nói nói một cái
gì đó đúng mà còn đòi hỏi anh ta phải có những bằng chứng.
c. Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng của người
phát ngôn. Xác tín, khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín; lệnh
đòi hỏi lòng mong muốn; hứa hẹn đòi hỏi ý định của người nói….
d. Điều kiện căn bản đưa ra kiểu trách nhiệm mà người nói hoặc người
nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời đó được phát ra. Trách nhiệm có thể rơi vào
hành động sẽ được thực hiện (lệnh, hứa hẹn) hoặc đối với tính chân thực của
nội dung (một lời xác tín buộc người nói phải chịu trách nhiệm về tính đúng
đắn của điều được nói ra)
1.2.1.4. Phân loại hành vi ở lời
Các nhà nghiên cứu chia các hành vi ngôn ngữ ra hai loại: hành vi ở lời
trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.
10
a. Hành vi ở lời trực tiếp
Theo Đỗ Hữu Châu, hành vi ở lời trực tiếp được hiểu là: “...các hành vi
ngôn ngữ chân thực, nghĩa là các hành vi được thực hiện đúng với các điều kiện
sử dụng, đúng với các đích ở lời của chúng đúng với các điều kiện sử dụng.”
[8; 145].
George Yule thì quan niệm: “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa một
cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói trực tiếp” [17; 110].
Cùng quan điểm với Yule, Nguyễn Thiện Giáp nhận định: “Hành động
ngôn từ trực tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có
quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng” [15; 390].
Ví dụ:
[1] “Ối, đau em quá!” [1; 46]
Đây là phát ngôn của nhân vật Tường với hành vi cảm thán thể hiện trực
tiếp thái độ đau đớn sau khi bị người anh trai ném đá trúng đầu khi hai anh em rủ
nhau chơi trò ném đá.
b. Hành vi ở lời gián tiếp
Thuật ngữ hành vi ở lời gián tiếp là do Searle đặt ra. Theo ông, “... một
hành vi ở lời được thực hiện gián tiếp thông qua một hành vi ở lời khác sẽ được
gọi là một hành vi gián tiếp” [10; 60].
Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn thường không phải chỉ có một đích
ở lời. Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành vi ở lời này nhưng lại
nhằm hiệu quả hành vi ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng hành vi ngôn
ngữ gián tiếp. Theo Đỗ Hữu Châu, hành vi ngôn ngữ gián tiếp là: “… một hành vi
trong đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người
nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai
người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác” [10; 146]
Sử dụng hành vi ở lời trực tiếp sẽ hạn chế được hiện tượng mơ hồ về nghĩa,
song trong cuộc sống không phải lúc nào người ta cũng có thể nói thẳng ra ý định
của mình. Chính vì vậy người ta hay mượn hành vi ngôn ngữ này để biểu đạt hiệu
quả ở lời của một hành vi ngôn ngữ khác tạo thành hành vi ở lời gián tiếp. Vấn đề
11
này đã được Austin, Searle và nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm nghiên
cứu và làm sáng tỏ hơn.
Theo George Yule: “Chừng nào có một mối liên hệ gián tiếp giữa một cấu
trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói gián tiếp" [17; 110].
Nguyễn Thiện Giáp khẳng định: “Hành động ngôn từ gián tiếp là hành
động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ gián tiếp giữa một
chức năng và một cấu trúc” [15; 390].
Còn Nguyễn Đức Dân thì cho rằng: “Một hành vi ngôn ngữ được gọi là
gián tiếp khi dạng thức ngôn ngữ của hành vi tại lời không phản ánh trực tiếp
mục đích của điều muốn nói” [13; 229].
Ví dụ:
[2] “- Mày không sợ té gãy cổ hả Tường!” [1; 52]
Đây là câu hỏi của nhân vật Thiều dành cho nhân vật Tường nhưng không
nhằm mục đích hỏi mà nhẳm thể hiện thái độ trách móc, không đồng tình với hành
động ngồi vắt vẻo trên cành cây của Tường.
Hành vi ở lời gián tiếp nhiều khi mang lại hiệu quả cho mục đích giao tiếp
hơn là cách nói trực tiếp, góp phần tạo nên sự phong phú của ngôn ngữ hội thoại,
vừa là môi trường để hành vi ngôn ngữ bộc lộ các khả năng vốn có. Tuy vậy,
không thể tuỳ tiện dùng mọi hành vi ở lời trực tiếp để tạo ra mọi hành vi ở lời gián
tiếp. Người sử dụng ngôn ngữ cần dựa vào những điều kiện nhất định để lựa chọn
cách sử dụng hành vi ở lời trực tiếp hay gián tiếp để đạt được mục đích giao tiếp.
1.2.2. Hành vi cảm thán
1.2.2.1. Khái niệm "hành vi cảm thán"
Theo Từ điển tiếng Việt, thì cảm thán là từ “biểu thị tình cảm, cảm xúc”.
Từ cảm thán đồng thời là phương tiện biểu thị hành vi cảm thán.
Trong nghiên cứu ngôn ngữ học đã có nhiều quan niệm khác nhau được
đưa ra về hành vi này. Nguyễn Thiện Giáp gọi hành vi cảm thán là hành động
biểu cảm và định nghĩa “...người nói thể hiện trạng thái tâm lí của mình đối với
sự tình trong nội dung mệnh đề, như xin lỗi, phàn nàn, chúc mừng, cảm ơn, hoan
nghênh. Đặc trưng của hành động biểu cảm là: làm từ ngữ khớp với thực tại,
12
người nói cảm thấy tình huống” [15; 384]
Còn Yule thì gọi hành vi cảm thán là hành động bộc lộ “...là những thứ
hành động trình bày cái mà người nói cảm nhận. Chúng bộc lộ những trạng thái
tâm lí và có thể trình bày sự hài lòng, nỗi đau khổ, sự ưa thích, sự không ưa thích,
niềm hoan hỉ, hoặc nỗi buồn... Những hành động này có thể do cái mà người nói
hoặc người nghe gây ra, nhưng chúng đều là nói lên kinh nghiệm của người nói”
[17; 107]
Trong luận án tiến sĩ ngữ văn “Hành vi cảm thán và sự kiện lời nói cảm
thán” tác giả Hà Thị Hải Yến cũng đưa ra một cách hiểu về hành vi cảm thán:
“Cảm thán là một hành vi ngôn ngữ mà người nói thực hiện, nhằm bộc lộ trạng
thái tình cảm, cảm xúc không thể kìm nén của mình trước sự tác động của một sự
vật, sự việc hay sự kiện nào đó đã, đang hoặc sắp xảy ra” [48; 20].
Như vậy khi nghiên cứu về hành vi cảm thán, các nhà nghiên cứu đều thống
nhất quan niệm: hành vi cảm thán là một hành vi ngôn ngữ bộc lộ tình cảm, cảm
xúc mang tính tức thời, tự phát ở mọi lúc, mọi nơi. Cảm thán chỉ được thực hiện
khi trạng thái tâm lí đang tồn tại ở một mức độ nào đó không thể không nói ra.
a. Đặc trưng của hành vi cảm thán: Hành vi cảm thán được biểu thị trong những
câu có dấu hiệu hình thức:
- Có từ ngữ cảm thán chuyên biệt
- Có từ hoặc tổ hợp từ biểu thị cảm xúc đau đớn, buồn bực, vui sướng hạnh
phúc, ... hoặc bộc lộ thái độ lo lắng, sợ hãi, giận dữ, ngạc nhiên, ...
b. Một số kiểu kết cấu đặc trưng biểu thị hành vi cảm thán:
- Kiểu kết cấu: x ơi là x ( x là danh từ): con ơi là con, cháu ơi là cháu,...
động từ + cả + danh từ : bực cả mình, lộn cả ruột,... - Kiểu kết cấu:
danh từ + với : con với cái - Kiểu kết cấu:
: cơm với chả với chả + danh từ
: ăn với nói nước động từ + với
: học với chả hành với chả + động từ
1.2.2.2. Các thành tố của hành vi cảm thán
a. Đối tượng cảm thán
13
Dựa vào cách hiểu trên về hành vi cảm thán, tác giả Hà Thị Hải Yến trong
luận án tiến sĩ ngữ văn đã phân loại bốn đối tượng cảm thán: sự vật, sự việc thuộc
về người cảm thán; sự vật, sự kiện thuộc về người tiếp nhận cảm thán; sự vật, sự
kiện thuộc về người thứ ba, sự kiện thuộc về ngoại cảnh.
- Sự vật, sự kiện thuộc về người cảm thán
Ví dụ:
[3] “Ối, đau em quá!” [1; 46]
Đây là phát ngôn của nhân vật Tường với hành vi cảm thán thể hiện trực
tiếp thái độ đau đớn sau khi bị người anh trai ném đá trúng đầu khi hai anh em rủ
nhau chơi trò ném đá
- Sự vật, sự kiện thuộc về người tiếp nhận cảm thán
Ví dụ:
[4] - Tội con quá!” [1; 110]
Phát ngôn trên là của nhân vật chú Đàn với nhân vật Tường. Ở ví dụ này
hành vi cảm thán thể hiện thái độ thương cảm, xót xa hướng tới đối tượng người
nghe là nhân vật Tường.
- Sự vật, sự kiện thuộc về người thứ ba
Ví dụ:
[5] “Thằng khỉ! Lũ đã cuốn làm sao sống được mà tìm!” [1; 247]
Sự việc chú Đàn bỏ làng đi tìm chị Vinh là sự kiện thuộc về người thứ ba.
Sự kiện này không thuộc về người cảm thán (bà của Thiều), cũng không thuộc về
người tiếp nhận cảm thán (hai anh em Thiều), mà thuộc về nhân vật chú Đàn.
- Sự vật, sự kiện thuộc về ngoại cảnh
Ví dụ:
[6] “Đến con Vện cũng bỏ con Mận mà đi” [1; 199]
Cái chết của con Vện là sự kiện đã tác động đến người nói khiến họ thốt
lên một phát ngôn cảm thán.
Qua các ví dụ nêu trên, có thể thấy chính sự vật, sự kiện là những nhân tố
14
quan yếu làm nảy sinh các trạng thái cảm xúc của người nói, khiến họ không thể
kìm giữ nổi tâm trạng của mình và buộc phải thực hiện hành vi cảm thán. Tuy
nhiên, để được cộng đồng chấp nhận và tuân theo thì hành vi cảm thán phải đạt
đến một ngưỡng nhất định. Vì vậy, trong thực tế, người ta chỉ cảm thán khi cảm
xúc ở ngưỡng cho phép và được mọi người chấp nhận. Nếu chưa đến ngưỡng mà
người nói đã cảm thán thì hành vi cảm thán đó bị coi là không hợp tự nhiên và
nhiều khi còn bị người nghe phê phán.
b. Nội dung cảm thán
Trong giao tiếp hàng ngày, có một số vấn đề thường được cảm thán đó là:
- Cảm thán về lĩnh vực riêng tư: là những hành vi cảm thán bắt nguồn từ
nguyên nhân thuộc về lĩnh vực riêng tư của đời sống con người, gồm tinh thần và
thể chất.Thông thường, ngoại cảnh là nguyên nhân làm nảy sinh các trạng thái tâm
lí như vui sướng, hạnh phúc hay lo sợ, đau buồn,...
Ví dụ
[7] “Chết rồi! Chảy máu, mày ơi” [1;46]
Phát ngôn trên là của nhân vật Thiều thể hiện hành vi cảm thán bất ngờ xen
lẫn sợ hãi, lo lắng khi trông thấy Tường bị chảy máu sau khi hứng chịu cú ném đá
đầy giận giữ của Thiều.
- Cảm thán về lĩnh vực đời sống xã hội
Nguyên nhân dẫn đến loại cảm thán này xuất phát từ những vấn đề xã hội
như: văn hoá, chính trị, chế độ, tôn giáo, tâm linh,...
Ví dụ
[8] “Lụt lội như thế, mất mẹ nó cả cơ nghiệp rồi, còn đếch gì mà cướp”
Đây là phát ngôn của nhân vật Chánh Mận trong tác phẩm Vỡ đê của Vũ
Trọng Phụng thể hiện thái độ bực bội, đau xót trước tình cảnh lụt lội và nạn cướp
giật sau lụt lội của đám người đói.
1.2.3. Mối quan hệ giữa hành vi cảm thán và câu cảm thán
15
Về câu cảm thán: Câu cảm thán giữ vai trò hết sức quan trọng trong giao
tiếp tiếng Việt. Đây là loại câu đặc biệt cả về mặt nội dung ý nghĩa lẫn hình thức
biểu hiện và có giá trị biểu cảm rất lớn. Về loại câu này hiện nay có nhiều cách hiểu
như sau:
Trong cuốn Câu trong tiếng Việt do Cao Xuân Hạo chủ biên, câu cảm
thán được xác định “là câu của một hành động ngôn trung bộc lộ cảm xúc,
tình cảm”. Các tác giả cho rằng có loại câu cảm thán điển hình (là câu cảm thán
đặc biệt) và câu cảm thán không điển hình (là các câu có nguyên hình thức trần
thuật hoặc có hình thức trần thuật kết hợp với những đại từ không xác định làm
chúng có dáng dấp câu hỏi).
“Câu cảm thán dùng để bộc lộ những cảm xúc, tình cảm, thái độ của người
nói đối với sự vật hay hiện tượng được nói đến” [32; tr.98]. Hoàng Trọng Phiến
gọi câu cảm thán bằng thuật ngữ “câu than gọi” và cho rằng loại câu này “...thể
hiện hành vi bộc lộ những cảm nghĩ, suy tư nội tâm, thái độ của chủ thể phát ngôn
trước một sự kiện, sự tình, hiện tượng mong tìm một sự chia sẻ của người tiếp
ngôn” [39; 367].
Trong Ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Diệp Quang Ban cho rằng: “Câu cảm
thán được dùng khi cần thể hiện đến một mức độ nhất định những tình cảm khác
nhau, thái độ, đánh giá, những trạng thái tinh thần khác thường của người nói
đối với sự vật hay sự kiện mà câu nói đề cập hoặc ám chỉ” [4; 237]
Như vậy những quan niệm đều thống nhất ở một điểm: Câu cảm thán là
câu sử dụng các từ ngữ chuyên biệt để biểu thị những cảm xúc mạnh, đột ngột,
có tính bộc phát của người nói, thường được dùng trong phong cách ngôn
ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn ngữ văn chương.
Mối quan hệ giữa hành vi cảm thán và câu cảm thán: Về mặt nội dung
biểu hiện, hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng: câu cảm thán là loại câu
biểu thị cảm xúc, tình cảm, trạng thái tâm lí đặc biệt. Sự thể hiện đó thường
được thông qua các phương tiện đặc biệt là từ, cụm từ và ngữ điệu.
Về mặt hình thức biểu hiện, các nhà nghiên cứu quan niệm rằng: Từ
cảm thán chính là hình thức biểu hiện tiêu biểu của câu cảm thán. Tuy vậy, câu
16
cảm thán còn có thể dùng các phương tiện tình thái khác như thực từ, trợ từ,
phó từ, kết từ, ngữ điệu,... và một số cấu trúc không bao hàm từ cảm thán.
Trong mối tương quan giữa hành vi cảm thán với câu cảm thán, có thể
nhận thấy rằng: "hành vi cảm thán" là một khái niệm thuộc ngữ dụng học còn
“câu cảm thán” là khái niệm thuộc cú pháp học. Khái niệm “hành vi cảm
thán" có thể trùng với khái niệm “câu cảm thán”, đặc biệt khi nó chỉ là biểu
thức ngữ vi nguyên cấp, không có thành phần mở rộng, ví dụ: "Ối!", “Chao
ôi!”, “Ối dào!"... Ở góc độ ngữ pháp, các ví dụ được coi như những câu cảm
thán đặc biệt, ở góc độ ngữ dụng, đó là các hành vi cảm thán.
Cấu trúc của câu cảm thán thường gồm hai phần: phần cảm thán + phần
nêu lí do cảm thán. Trong đó, phần cảm thán biểu thị hành vi cảm thán được coi
là trung tâm, phần nêu lí do cảm thán được coi là thành phần mở rộng để giải
thích lí do cảm thán.
Hành vi cảm thán khi có thành phần mở rộng là các hành vi ngôn ngữ
khác đi kèm sẽ tạo nên phát ngôn ngữ vi cảm thán (ví dụ: Ối dào! Ba thứ thuốc
vớ vẩn đó thì ăn thua gì.). Khái niệm “hành vi cảm thán” tương tự khái niệm
“câu cảm thán” có yếu tố cảm thán đi cùng nòng cốt câu. Vì vậy, có thể kết
luận rằng: cấu trúc của hành vi cảm thán tương đương mô hình của câu cảm
thán.
1.2.5. Lí thuyết hội thoại
1.2.4.1. Khái niệm hội thoại
Từ năm 1970, hội thoại đã trở thành đối tượng chính thức của phân ngành
ngôn ngữ học ở Mĩ, sau đó là Anh, Pháp và đến nay là hầu hết các nước trên thế
giới. Hiện nay ở Việt Nam , các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra nhiều quan niệm khác
nhau về vấn đề này.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) hội thoại “là sử dụng một
ngôn ngữ để nói chuyện với nhau” [37, 444].
Đỗ Hữu Châu không đưa ra định nghĩa hội thoại nhưng khẳng định tầm quan
17
trọng của nó: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn
ngữ, có cũng là hình thức cơ sở cho mọi hoạt động ngôn ngữ khác” [8, 201]
Tác giả Nguyễn Đức Dân chỉ rõ hơn đặc điểm của hội thoại: “Trong giao
tiếp hai chiều, bên này nói, bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai
bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó
là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất là hội thoại” [11;
76].
Đỗ Thị Kim Liên thì cho rằng: “Hội thoại là một trong những hoạt động
ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp trong một ngữ cảnh nhất
định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận
thức nhằm đi đến một đích nhất định” [37; 18].
Như vậy có thể hiểu hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thường
xuyên diễn ra trong đời sống con người. Ngôn ngữ hội thoại tồn tại ở hai dạng:
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
1.2.4.2. Vận động hội thoại
Bất kì cuộc thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: sự trao lời, sự trao đáp
và sự tương tác. Đây được coi là những điều kiện cần và đủ để hình thành nên một
cuộc giao tiếp hoàn chỉnh và đúng thể thức.
a. Sự trao lời
Đây là vận động đầu tiên xuất hiện trong một cuộc hội thoại. “Trao lời là
vận động mà Sp1(vai nói) nói lượt lời của mình và hướng lượt lời của mình về phía
Sp2 (vai nghe) nhằm làm cho Sp2 nhận biết được rằng lượt lời được nói ra đó là
giành cho Sp2.” [ 8; 205]
Ví dụ:
[9] “Thấy chưa! Tao đã bảo đây là trò ngu ngốc mà!” [1; 107]
Phát ngôn trên là của Sp1 (nhân vật Thiều) hướng đến Sp2 (nhân vật Tường)
nhằm mở đầu cho hành vi chế giễu việc Tường nghe lời chú Đàn bắt chuồn chuồn
ớt cắn rốn để nhanh biết bơi.
Trong lời trao, sự có mặt của Sp1 là tất yếu, không thể thiếu. Sự có mặt đó
18
thể hiện ở nhiều dấu hiệu như: từ xưng hô ngôi thứ nhất, tình cảm, thái độ, quan
điểm của Sp1 trong nội dung lời trao. Ngoài ra còn phải kể đến những yếu tố phi
lời khác như: điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, ánh mắt…; qua những yếu tố hàm ẩn tiền
giả định trong giao tiếp, qua những yếu tố ngôn ngữ tường minh như lời hô gọi, chỉ
định, lời thưa gửi…
b. Sự trao đáp
Trao đáp hay còn gọi là sự đáp lời là lời mà Sp2 (vai nghe) dùng để đáp lại
lời của Sp1( người nói). Phải có lời trao đáp thì một cuộc thoại mới chính thức được
hình thành.
Ví dụ
[10] “Sp1: Thấy chưa! Tao đã bảo đây là trò ngu ngốc mà!
Sp2: Hay tại chuồn chuồn ớt không linh. Hôm nào em sẽ bắt một con
chuồn chuồn ngô” [1; 107].
Đây là lời trao đáp của Sp2 (nhân vật Tường) đáp lại hành vi chế giễu, trách
móc của Sp1 (nhân vật Thiều) về lí do vì sao Tường đã để chuồn chuồn cắn rốn mà
vẫn chưa biết bơi và thông báo sẽ bắt con chuồn chuồn ngô thay thế.
Ví dụ:
[11] “Sp1: Mình xin lỗi bạn nhé. Mình không ngờ thầy Nhãn lại phạt bạn.
Sp2: Xin lỗi cái đầu mày!...” [1; 88].
Trong ví dụ trên, lời trao đáp của Sp2 (nhân vật Thiều) thể hiện thái độ tức
giận với lời xin lỗi của Sp1 (nhân vật Xin) vì đã đem bức thư Thiều gửi lên phô
thầy khiến Thiều bị phạt.
c. Sự tương tác
Trong quá trình hội thoại, các đối ngôn sẽ có ảnh hưởng lẫn nhau, tác động
đến cách ứng xử của nhau. Đây được xem là vận động tương tác xảy ra trong hội
thoại. Trước khi hội thoại giữa các đối ngôn tồn tại một khoảng cách nhất định về
sự hiểu biết lẫn nhau, về tâm lí, tình cảm… Sau khi hội thoại, nếu những khoảng
cách ấy được thu hẹp lại, rút ngắn lại, khi ấy có thể nói đã có một cuộc hội thoại
tích cực. Ngược lại, khoảng cách ấy vẫn giữ nguyên hoặc mở rộng ra, khi ấy cuộc
thoại có thể bị xem là tiêu cực. Tương tác là một kiểu quan hệ xã hội giữa người
19
với người. Có một hoạt động xã hội thì có sự tương tác. Tương tác bằng lời là một
kiểu tương tác, là hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Ví dụ:
[12] “Sp1: Tường nè.
Sp2: Gì hở anh?
Sp1: Sắp đến mùa hè rồi đó.
Sp2: Dạ
Sp1: Khi nào mùa hè tới, lũ ve sầu trở lại, tao sẽ dẫn mày đi rình
bắt ve ve
Sp2: Ôi thích quá! Bắt bằng mủ mít hở anh
Sp1: Ờ, bằng mủ mít...” [1; 28].
Trên đây là đoạn thoại giữa: Thiều và Tường. Cuộc thoại diễn ra với thái độ
tích cực duy trì giữa hai nhân vật về việc Thiều rủ Tường khi nào hè tới hai anh em
sẽ cùng nhau đi bắt ve ve. Theo đó, Sp1 (nhân vật Thiều) là người mở đầu cuộc
thoại bằng hành vi hô gọi và đã nhận được sự hồi đáp của Sp2 (nhân vật Thiều).
Thiều đã rủ Tường khi nào mùa hè tới hai anh sẽ cùng nhau đi bắt ve ve và đã nhận
được sự hồi đáp tích cực: Tường đồng ý ngay và rất thích thú. Từ đó cuộc thoại tiếp
tục được duy trì vì cả hai đối ngôn là Thiều và Tường đều có cùng quan điểm, thái
độ và mong muốn tiếp tục đoạn đối thoại. Như vậy các nhân vật trong cuộc thoại
đã cộng tác với nhau khiến cho cuộc thoại trở nên hào hứng, giúp củng cố mối quan
hệ giữa các nhân vật.
Như vậy trong các cuộc hội thoại ba vận động: trao lời, đáp lời, tương tác là
ba vận động đặc trưng, có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Bằng vận động
trao lời, đáp lời, các nhân vật hội thoại sẽ tự hòa phối, liên hòa phối để thực hiện
vận động tương tác.
1.2.4.3. Cấu trúc hội thoại
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, trên thế giới hiện nay có ba trường phái với
những quan niệm khác nhau về cấu trúc hội thoại. Tương ứng với mỗi cấu trúc hội
thoại là đơn vị hội thoại tương ứng.
a. Cấu trúc hội thoại theo trường phái phân tích hội thoại
20
Theo trường phái này, đơn vị hội thoại là các lượt lời. Harvey Sack là người
đặt nền móng đầu tiên cho trường phái phân tích hội thoại. Theo ông, dưới các lượt
lời không có đơn vị nào khác nữa ngoài các phát ngôn. Dù khác nhau về kiểu loại,
phong cách nhưng trong các cuộc hội thoại, các lượt lời thường đi với nhau lập
thành từng cặp gần như tự động, gọi đó là các cặp kế cận.Những cặp kế cận thường
thấy là: cặp chào - chào, cặp hỏi - trả lời, cặp trao - nhận, cặp đề nghị - đáp ứng
v.v… Cốt lõi của lý thuyết phân tích hội thoại là cặp kế cận.
b. Cấu trúc hội thoại theo trường phái phân tích diễn ngôn
Theo trường phái này, đơn vị hội thoại là phát ngôn và cặp thoại. Nền tảng
của phân tích diễn ngôn là công trình “Hướng tới việc phân tích diễn ngôn” của
Sinclair và Coulthard được công bố năm 1975. Theo hai ông, hội thoại là một đơn
vị lớn được cấu trúc theo các bậc: tương tác, đoạn thoại, cặp thoại, bước thoại và
hành vi. Trong đó, hành vi là đơn vị nhỏ nhất của cuộc thoại. Hành vi này không
trùng với khái niệm hành vi ngôn ngữ hay hành vi ở lời mà hành vi được xác định
theo chức năng của chúng đối với bước thoại. 22 hành vi được đề cập đến là: đánh
dấu, khởi phát, phát vấn, điều khiển, thông tin, giục, gợi nhắc, gợi ý, xin phép, chỉ
định, tri nhận, trả lời, phản ứng, chú thích, chấp nhận, đánh giá, dấu lặng nhấn
mạnh, siêu trần thuật, móc lại và ngoài lề. Một bước thoại do một số hành vi tạo
nên. Đến lượt mình, bước thoại lại chiếm vị trí trong cấu trúc cặp thoại. So với lý
thuyết phân tích hội thoại, lý thuyết phân tích diễn ngôn đi vào các đơn vị hội thoại
trên v à dưới đơn vị lượt lời sâu hơn, toàn diện hơn.
c. Cấu trúc hội thoại theo lý thuyết hội thoại Thuỵ Sĩ - Pháp
Theo lý thuyết hội thoại Thuỵ Sĩ - Pháp, đơn vị hội thoại gồm cuộc thoại,
đoạn thoại, cặp trao đáp, tham thoại và hành vi ngôn ngữ. Tiếp nhận quan điểm của
hai trường phái trước, lý thuyết hội thoại Thụy Sĩ - Pháp cho rằng hội thoại là một
tổ chức tôn ty như một đơn vị cú pháp. Các đơn vị hội thoại đã nêu trên theo trường
phái này đã thể hiện rõ điều đó.
- Cuộc thoại được coi là đơn vị hội thoại bao trùm, lớn nhất, được xác định
bởi các tiêu chí: nhân vật hội thoại, tính thống nhất về thời gian và địa điểm, tính
thống nhất về đề tài diễn ngôn. Đối với tiêu chí về các dấu hiệu định ranh giới cuộc
21
thoại, thông thường có dấu hiệu mở đầu cuộc thoại và kết thúc cuộc thoại nhưng
không bắt buộc, đặc biệt trong cuộc thoại giữa những người quá thân quen.
- Đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ
với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng. Dù sự phân định đoạn thoại không có sự
phân định rành mạch vì đường phân giới khá mơ hồ, nhiều khi phải dựa vào trực
cảm và võ đoán nhưng đây vẫn là đơn vị có thực.
- Cặp trao đáp là đơn vị tối thiểu. Cuộc hội thoại chính thức được bắt đầu khi
có sự xuất hiện của đơn vị này. Cặp thoại có thể là một tham thoại, có thể là hai
hoặc ba tham thoại. Tính chất của các cặp thoại thường mang tính chất nghi thức
tương ứng với hai kiểu cặp thoại: cặp thoại sửa chữa và cặp thoại củng cố. Cặp thoại
củng cố tương ứng với cặp thoại dẫn nhập và kết thúc cuộc thoại. Cặp thoại sửa
chữa có đơn vị cơ bản là tham thoại sửa chữa - tham thoại dựa trên khái niệm sửa
chữa lại một sự vi phạm lãnh địa của người đối thoại. Khi một cặp thoại thoả mãn
được đích của tham thoại dẫn nhập thì đó là một cặp thoại tích cực và người ta có
thể kết thúc cặp thoại ở đó. Ngược lại, ta có cặp thoại tiêu cực và có tính chất không
bình thường.
- Tham thoại do một hoặc một số hành vi ngôn ngữ tạo nên xét về tổ chức
nội tại. Một tham thoại có một hành vi chủ hướng và có thể có một hoặc một số
hành vi phụ thuộc. Hành vi chủ hướng có chức năng trụ cột, quyết định hướng của
tham thoại và quyết định hành vi đáp thích hợp của người đối thoại. Hành vi phụ
thuộc là hành vi thêm vào cho hành vi chủ hướng. Nó có thể là các hành vi dùng để
láy lại, củng cố, bổ sung, giải thích...
- Trong một cặp thoại, thường có các tham thoại sau:
+ Tham thoại có chức năng dẫn nhập (tham thoại chủ hướng).
+ Tham thoại hồi đáp - dẫn nhập trong lòng cặp thoại.
+ Tham thoại hồi đáp (thường là tham thoại kết thúc cặp thoại).
Chức năng ở tham thoại dẫn nhập là chức năng ở lời quy định quyền lực và
trách nhiệm đối với nhân vật hội thoại. Các chức năng ở tham thoại dẫn nhập là:
yêu cầu thông tin, yêu cầu được tán đồng, ủng hộ, thỉnh cầu, ban tặng, mời, khẳng
định, ra lệnh. Trách nhiệm tương ứng mà chức năng này đặt ra là: trách nhiệm trả
22
lời, tán đồng, ủng hộ, hành động, nhận, đánh giá, vâng lệnh. Chức năng của tham
thoại hồi đáp là chức năng ở lời của các tham thoại hồi đáp lại chức năng ở tham
thoại dẫn nhập. Các chức năng ở tham thoại hồi đáp có thể chia thành 2 nhóm: chức
năng hồi đáp tích cực và chức năng hồi đáp tiêu cực. Các tham thoại hồi đáp không
chỉ đáp lại nội dung của tham thoại ở lời dẫn nhập, không phải nó chỉ thực hiện
trách nhiệm đối với tham thoại dẫn nhập mà nó còn đưa ra một quyền lực buộc
người đối thoại phải tin vào, đáp lại điều mà tham thoại hồi đáp đưa ra. Vì vậy, khi
một tham thoại hồi đáp cho tham thoại dẫn nhập thứ nhất thì nó tự khắc trở thành
một tham thoại đòi hỏi sự hồi đáp của người đối thoại.
- Hành vi ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. Để hiểu các
cặp thoại, các ứng xử bằng lời cũng như các yếu tố kèm ngôn ngữ đều phải căn cứ
vào hành vi ngôn ngữ đi trước hoặc sau. Vì thế, hành vi ngôn ngữ cần xem xét trong
hội thoại.
Vai trò của hành vi ngôn ngữ nằm trong mạng lưới hội thoại. Tức là vai trò
của hành vi ngôn ngữ nằm trong mối quan hệ giữa các lời thoại tổ chức nên tham
thoại, cặp thoại… và tác động liên tục lên các nhân vật hội thoại trong từng thời
điểm tạo nên cuộc thoại.
1.2.4.4. Quy tắc hội thoại
Hội thoại diễn tiến theo một quy tắc nhất định. Tính bị chi phối bởi quy tắc
của hội thoại được biểu hiện ra thành tính nghi thức của hội thoại. C.K.Orecchioni
đã nêu lên tính chất của quy tắc hội thoại, đồng thời chia các quy tắc hội thoại thành
ba nhóm như sau:
a. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
Quy tắc này gồm một hệ thống các điều khoản như sau:
- Thứ nhất, vai nói thường xuyên thay đổi nhau trong một cuộc thoại.
- Thứ hai, mỗi lần chỉ có một người nói.
- Thứ ba, lượt lời của mỗi người thường thay đổi về độ dài do đó cần có
những biện pháp để nhận biết khi nào một lượt lời chấm dứt.
- Thứ tư, vị trí ở đó nhiều người cùng nói một lúc tuy thường gặp nhưng
23
không bao giờ kéo dài.
- Thứ năm, thông thường lượt lời của đối tác này chuyển tiếp cho đối tác kia
diễn ra không bị ngắt quãng quá dài, không bị dẫm đạp lên nhau.
- Thứ sáu, trật tự của những người nói không cố định, trái lại luôn thay đổi.
Đằng sau sự liên hoà phối là quy tắc điều hành luân phiên lượt lời và chúng hỗ trợ,
bổ sung cho nhau. Liên hoà phối để các quy tắc vận hành tốt, quy tắc vận hành tốt
thì hội thoại mới hiệu quả.
b. Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại
Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại có dạng tổng quát như sau:
“Hãy làm cho phần đóng góp của anh, chị đúng như nó được đòi hỏi ở giai
đoạn mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương hướng của cuộc hội thoại mà
anh chị đã chấp nhận tham gia vào” [15; 130].
Nội dung của một cuộc thoại được phân phối thành nội dung của các lượt
lời. Nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc quan yếu là hai nguyên tắc thuộc quy tắc
điều hành nội dung của hội thoại.
c. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân - phép lịch sự
Lịch sự được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng có thể hiểu một
cách khái quát nhất theo định nghĩa của C.K. Precchioni là “chúng tôi chấp nhận
rằng phép lịch sự liên quan tới tất cả các phương diện của diễn ngôn:
1. Bị chi phối bởi các quy tắc (ở đây không có nghĩa là những công thức
hoàn toàn đã trở thành thói quen).
2. Xuất hiện trong địa hạt quan hệ cá nhân.
3. Và chúng có chức năng giữ gìn tính chất hài hoà quan hệ đó
Nói lịch sự là một chiến lược có nghĩa là nó chỉ hình thành, có mặt và phát
huy tác dụng khi có tương tác, nói đúng hơn chỉ nói đến mặt tương tác của lịch sự.
Phép lịch sự giúp chúng ta phát hiện và lý giải hiện tượng được gọi là cấu trúc hai
chiều trong tương tác”.
1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông
sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại làng Đo Đo, xã Bình Quế, huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, ông là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải
24
Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có
những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc
Phương Đông,
Ông cũng đã đoạt nhiều giải thưởng như: năm 1990, truyện dài Chú bé rắc
rối được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao giải thưởng
Văn học Trẻ hạng A. Năm 1995, ông được bầu chọn là nhà văn được yêu thích nhất
trong 20 năm (1975-1995) qua cuộc trưng cầu ý kiến bạn đọc về các gương mặt trẻ
tiêu biểu trên mọi lĩnh vực của Thành đoàn TP HCM và Báo Tuổi trẻ, đồng thời
được Hội Nhà văn TP HCM chọn là một trong 20 nhà văn trẻ tiêu biểu trong 20
năm (1975-1995). Năm 1998 ông được NXB Kim Đồng trao giải cho nhà văn có
sách bán chạy nhất. Năm 2003, bộ truyện nhiều tập “Kính vạn hoa” được Trung
ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao huy chương Vì thế hệ trẻ và
được Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng thưởng. Tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ được nhận giải thưởng văn học ASEAN năm 2010 và Giải sách hay của hội
xuất bản Việt Nam năm 2009. Tác phẩm Tôi là Bêtô được nhận Giải thưởng Văn
học của Hội nhà văn TP. HCM năm 2008.
Tính đến nay, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn sở hữu số lượng tác phẩm xuất
bản kỉ lục, có số lượng sách bán chạy nhất trong số các nhà văn viết cho thiếu nhi
ở Việt Nam. Trong gần 30 năm, từ năm 1984 đến năm 2012 Nguyễn Nhật Ánh đã
cho ra đời 112 tác phẩm văn học gồm thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, tạp
bút. Tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim, gợi cảm hứng sáng tác cho
các nhạc sĩ và được dịch sang tiếng nước ngoài đến với độc giả trên thế giới. Nhắc
tới Nguyễn Nhật Ánh không thể không kể đến những tác phẩm truyện gắn liền với
tên tuổi của ông như: Kính vạn hoa (bộ truyện 54 tập, 1995-2002: 45 tập, 9 tập viết
thêm sau), Chuyện xứ Langbiang (bộ truyện 4 phần, 2004-2006), Trước vòng chung
kết (truyện dài, 1985), Chuyện cổ tích dành cho người lớn (tập truyện, 1987), Cô
gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989), Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993),
Trại hoa Vàng (truyện dài, 1994), Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995), Buổi chiều
Windows (truyện dài, 1995), Tôi là Bêtô (truyện, 4/4/2007), Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ (truyện, 1/2008), Đảo mộng mơ (truyện, 21/10/2009), Tôi thấy hoa vàng
25
trên cỏ xanh (truyện dài, 24/10/2010), Lá nằm trong lá (truyện dài, 24/9/2011), Có
hai con mèo ngồi bên cửa sổ (truyện dài, 6/2012)... Và một số tác phẩm thơ: Đầu
xuân ra sông giặt áo (thơ, 1986), Thành phố tháng tư (thơ, in chung với Lê Thị
Kim, 1984), Lễ hội của đêm đen (thơ, 1994), Tứ tuyệt cho nàng (thơ, 1994).
Lý giải cho sứ mệnh dành cả cuộc đời cầm bút viết truyện dành cho thiếu
nhi, Nguyễn Nhật Ánh trải lòng: “nhà văn là trụ đỡ tinh thần cho các em, tôi tin
điều đó, cũng như tôi tin bồi đắp tâm hồn và nhân cách một cách ấm thầm và bền
bỉ, đó là chức năng gốc rễ của văn chương, đặc biệt văn chương viết cho thanh
thiếu niên”. Văn chương của ông tô điểm cho bức tranh tuổi thơ của thiếu nhi những
gam màu rực rỡ, giúp những ai đã đi qua tuổi thơ “được sống lại lần thứ hai tuổi
thơ của mình”. Chính vì vậy có thể khẳng định: Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn của
thiếu nhi.
1.4. Vị trí của “Tôi thấy hoa vàng trên có xanh” trong hành trình sáng tác của
Nguyễn Nhật Ánh
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một tác phẩm dành cho thanh thiếu niên
của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, xuất bản lần đầu tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 12
năm 2010 bởi Nhà xuất bản Trẻ, với phần tranh minh họa do Đỗ Hoàng Tường
thực hiện. Đây là một trong các truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh, ra đời sau Đảo
mộng mơ và đã vinh dự được nhận Giải thưởng văn học ASEAN tại Thái Lan. Tác
phẩm như một tập nhật ký xoay quanh cuộc sống của những đứa trẻ ở một vùng
quê Việt Nam nghèo khó, nổi bật lên là thông điệp về tình anh em, tình làng nghĩa
xóm và những tâm tư của tuổi mới lớn.
Cuốn sách được giới thiệu như một tập nhật kí của nhân vật Thiều, 81
chương của tác phẩm là mỗi câu chuyện nhỏ khác nhau được thuật lại qua giọng kể
chân thật, hồn nhiên của cậu bé Thiều. Đó là chuyện đi học, chuyện hai anh em
Thiều và Tường thường xuyên bị ba đánh vì những trò nghịch dại, chuyện nhà con
Mận bị cháy, những câu chuyện tình cảm trong sáng của tuổi mới lớn và của cả
những người lớn.
Vẫn giọng văn hóm hỉnh, nghịch ngợm nhưng luôn ẩn chứa những bài học
triết lí dành cho tuổi thiếu nhi nhưng với “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” Nguyễn
26
Nhật Ánh đã cố gắng “viết khác” những cuốn sách trước đó:“Các hoàn cảnh trong
cuốn sách sẽ khắc nghiệt hơn, cuộc sống của nhân vật sẽ không êm đềm như những
nhân vật trong các cuốn sách trước của tôi. Đặc biệt, lần đầu tiên trong tác phẩm
thiếu nhi của tôi xuất hiện những cảnh huống, những nhân vật phản diện. Tôi muốn
phê phán cái ác của sự vô tâm nơi con người. Ngay cả nơi những con người lương
thiện nhưng có những biểu hiện vô tâm thì đó là sự thật đáng cảnh báo trong bối
cảnh sống hôm nay”.
Trong diễn từ đọc tại lễ trao giải thưởng văn học ASEAN tại Thái Lan,
Nguyễn Nhật Ánh đã nói: “Mỗi dân tộc đều có treo một quả chuông trước cửa sổ
tâm hồn của mình. Nhà văn có sứ mạng phải rung những quả chuông đó lên bằng
văn chương”. Với “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, quả chuông của Nguyễn Nhật
Ánh lại rung lên khiến bao tâm hồn độc giả háo hức được cùng ông một lần nữa
sống lại với ký ức tuổi thơ.
Tiểu kết chương 1
Như vậy để tìm hiểu hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên
cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh, trong chương I chúng tôi trình bày các vấn đề lí
thuyết sau:
Hành vi ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại, gồm ba loại
lớn: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời. Trong đó, hành vi ở lời là
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của ngữ dụng học. Vì vậy luận văn đã trình bày các
điều kiện sử dụng hành vi ở lời, hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.
Hành vi cảm thán là một hành vi ngôn ngữ bộc lộ tình cảm, cảm xúc mang
tính tức thời, tự phát ở mọi lúc, mọi nơi. Cảm thán chỉ được thực hiện khi trạng
thái tâm lí đang tồn tại ở một mức độ nào đó không thể không nói ra. Đối tượng
cảm thán: sự vật, sự việc thuộc về người cảm thán, sự vật, sự kiện thuộc về người
tiếp nhận cảm thán, sự vật, sự kiện thuộc về người thứ ba, sự kiện thuộc về ngoại
cảnh. Nội dung cảm thán là về các lĩnh vực riêng tư và các lĩnh vực đời sống xã
hội.
Trong mối tương quan giữa hành vi cảm thán với câu cảm thán thì
“hành vi cảm thán” là một khái niệm thuộc ngữ dụng học còn “câu cảm thán”
27
là khái niệm thuộc cú pháp học. Khái niệm “hành vi cảm thán” có thể trùng
với khái niệm “câu cảm thán”, đặc biệt khi nó chỉ là biểu thức ngữ vi nguyên
cấp, không có thành phần mở rộng.
Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thường xuyên diễn ra trong
đời sống con người. Bất kì cuộc thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: sự trao lời,
sự trao đáp và sự tương tác. Đây được coi là những điều kiện cần và đủ để hình
thành nên một cuộc giao tiếp hoàn chỉnh và đúng thể thức. Theo lý thuyết hội thoại
Thuỵ Sĩ - Pháp, hội thoại là một tổ chức tôn ty như một đơn vị cú pháp gồm cuộc
thoại, đoạn thoại, cặp trao đáp, tham thoại và hành vi ngôn ngữ. Hội thoại diễn tiến
theo các quy tắc nhất định: quy tắc điều hành luân phiên lượt lời, quy tắc điều hành
nội dung hội thoại, quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân - phép lịch sự.
Những nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật
Ánh - nhà văn của thiếu nhi với quan niệm sáng tác mang đậm tính nhân văn: “nhà
văn là trụ đỡ tinh thần cho các em, tôi tin điều đó, cũng như tôi tin bồi đắp tâm hồn
và nhân cách một cách ấm thầm và bền bỉ, đó là chức năng gốc rễ của văn chương,
đặc biệt văn chương viết cho thanh thiếu niên”.
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” - một trong những tác phẩm đặc sắc và
thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Qua mỗi trang hồi
kí của nhân vật Thiều lại dẫn dắt người đọc đến những cung bậc cảm xúc khác nhau
để cùng sống lại kí ức tuổi thơ đầy mộng mơ, trong sáng.
Chương 2
MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN HÀNH VI
CẢM THÁN TRONG TÁC PHẨM TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ
28
XANH CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
2.1. Phương tiện biểu hiện hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh
Hành vi cảm thán được thể hiện qua nhiều phương tiện: phương tiện từ
vựng, ngữ pháp, ngữ âm. Trong phạm vi đề tài luận văn này chúng tôi chỉ khảo
sát, nghiên cứu về phương diện từ vựng biểu hiện hành vi cảm thán.
2.1.1. Dùng từ ngữ cảm thán
Về mặt ngữ nghĩa, từ ngữ cảm thán là những đơn vị từ vựng đặc biệt được
sử dụng để biểu đạt những cảm xúc, những tình cảm, trạng thái khác nhau của
người nói trước hiện thực khách quan.
Về mặt ngữ pháp, theo nhiều nhà nghiên cứu, từ ngữ cảm thán có khả năng
độc lập tạo câu, trong khẩu ngữ chúng thường đứng ở đầu câu, là
thành phần độc lập với nòng cốt câu, nhưng cũng có khi đứng cuối câu hoặc xen
vào giữa nòng cốt câu.
Trong tiếng Việt, các từ ngữ cảm thán có thể được tách riêng thành một
nhóm độc lập. Do số lượng từ cảm thán thể hiện hành vi cảm thán được sử dụng
trong truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh tương đối nhiều nên trong luận
văn này, chúng tôi chỉ khảo sát và thống kê những đơn vị từ thể hiện rõ tính chất
cảm thán và có tần số lặp đi lặp lại nhiều lần.
29
Bảng 2.1. Thống kê, phân loại từ ngữ cảm thán
STT Từ ngữ cảm thán Tần số xuất hiện Tỉ lệ (%)
1. Lắm 49 9,90%
2. Quá 40 8,08%
3. Ờ 37 7,47%
4. À 24 4,85%
5. Ơi 23 4,65%
6. Mà 22 4,44%
7. Chắc 22 4,44%
8. Thế 21 4,24%
9. Rồi 20 4,04%
10. Nữa 14 2,83%
11. Cũng 13 2,63%
12. Đã 13 2,63%
13. Vậy 13 2,63%
14. Là 12 2,42%
15. Mới 11 2,22%
16. Được 10 2,02%
17. Đó 10 2,02%
18. Ghê 10 2,02%
19. Nghe 9 1,82%
20. Thật đấy 9 1,82%
21. Đấy 8 1,62%
22. Này 8 1,62%
23. Thì 8 1,62%
24. Á 8 1,62%
25. Há 8 1,62%
26. Ôi 7 1,41%
27. Thật 7 1,41%
30
STT Từ ngữ cảm thán Tần số xuất hiện Tỉ lệ (%)
28. Vẫn 7 1,41%
29. Hẳn 5 1,01%
30. A 5 1,01%
31. Ạ 4 0,81%
32. Eo ôi (eo ơi) 4 0,81%
33. Ghê gớm 4 0,81%
34. Định 4 0,81%
35. Hết 4 0,81%
36. Tới 4 0,81%
37. Ối 3 0,61%
38. Chết rồi 3 0,61%
39. Tất 3 0,61%
40. Chậc 2 0,40%
41. Từng 2 0,40%
42. Trời ơi 1 0,20%
43. Ơ 1 0,20%
44. Ồ 1 0,20%
45. Ủa 1 0,20%
46. Ối dào 1 0,20%
100% Tổng số lần xuất hiện 495
Qua bảng thống kê, phân loại các từ, ngữ cảm thán trong tác phẩm Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh, có thể nhận thấy:
Số lượng từ và cụm từ (có tần số lặp lại từ hai lần trở lên) nhằm mục đích
biểu đạt hành vi cảm thán trong tác phẩm chiếm số lượng khá lớn: 495 lượt từ.
Trong đó, một số từ cảm thán biểu đạt hành vi cảm thán được sử dụng với
tần số nhiều trong truyện dài đó là: lắm (49 lần) chiếm 9,90 %, quá (40 lần)
chiếm 8,08 %, ờ (37 lần) 7,47 chiếm %. Tuy đây không phải là các từ chuyên
dụng để biểu hiện hành vi cảm thán nhưng trong những văn cảnh cụ thể của tác
31
phẩm chúng có khả năng thể hiện tình cảm, cảm xúc, thái độ và tạo nên sắc thái
cảm thán cho câu văn.
Ngoài ra các tình thái từ: à, ơi, ôi, ối… và các phụ từ như mà, rồi, chỉ…
cũng chiếm số lượng khá lớn trong tác phẩm góp phần bộc lộ trực tiếp hành vi
cảm thán của các nhân vật với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau: buồn rầu, vui
tươi, đau đớn, ngạc nhiên, mỉa mai, trách móc, tiếc nuối…
Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, các từ và cụm từ dùng
với mục đích biểu thị hành vi cảm thán cho thấy đây là phương tiện đắc lực giúp
tác giả truyền đạt hiệu quả nhất những cung bậc cảm xúc đa dạng, phong phú của
các nhân vật trong tác phẩm. Đó là các trạng thái cảm xúc sau:
2.1.1.1. Biểu thị thái độ khẳng định rõ ràng, dứt khoát
Hành vi cảm thán thể hiện thái độ khẳng định rõ ràng, dứt khoát của người
nói được thể hiện thông qua các từ cảm thán như: chứ, chẳng, chắc, nghe chưa,
hẳn… Tuy đây không phải là các từ cảm thán được sử dụng với tần số cao trong
tác phẩm nhưng qua việc vận dụng rất hợp lý và đa dạng các từ cảm thán để bộc
lộ thái độ khẳng định rõ ràng dứt khoát của nhân vật trước hoàn cảnh khác nhau,
cho thấy tài sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Nhật Ánh.
Ví dụ:
[13] “Nhưng dù bàn tay phải của chú không còn nữa thì chú vẫn là người
có năm cái hoa tay chứ?” [1; 24]
Phát ngôn trên của Thiều là câu hỏi nhưng nhằm khẳng định dù chú Đàn
đã mất đi bàn tay có năm cái hoa tay nhưng việc chú Đàn vẫn là người có năm
cái hoa tay vẫn không thay đổi. Sắc thái khẳng định được thể hiện thông qua thán
từ chứ.
Ví dụ:
[14] “Thằng em mày thì kinh thật, chứ mày chỉ là con muỗi trong mắt tao
thôi! [1; 169]
Thán từ thì giúp cho lời khẳng định của thằng Sơn chắc chắn hơn bao giờ
hết khi nó đánh giá về nhân vật Tường. Sau khi bị Tường dằn mặt trả thù cho
anh trai vì đánh anh nó bầm dập.
Ví dụ:
32
[15] “- Em không chơi trò này đâu. Rủi trúng vào đầu thì chết!
- Chết sao được mà chết… Tao và mày đứng thật xa ném nhau thấy hòn
đá bay tới là mình nhảy tránh. Đứng xa thì rủi đá trúng vào người cũng
chẳng hề hấn gì.” [1; 43]
Phụ từ thì được thêm vào trong phát ngôn nhằm thể hiện sắc thái khẳng
định, chắc chắn về điều mà nhân vật đang nói tới. Ở lượt lời thứ nhất là lời của
nhân vật Tường khẳng định để đá bay trúng vào đầu thì hậu qủa khôn lường có
tác dụng thuyết phục Thiều rằng trò ném đá rất nguy hiểm.
Còn lượt lời thứ hai của nhân vật Thiều lại khẳng định đứng xa thì chẳng
may đá trúng người cũng chẳng làm sao nhằm hướng đến đích ở lời là thuyết
phục Tường cùng tham gia trò chơi với mình.
Ví dụ:
[16] “Chú Đàn bảo hết hơi rồi nhưng lại nói “Để chú kể chuyện ma cho
tụi con nghe” và lúc đó tôi thấy chú chẳng hết hơi chút nào hết.” [1; 26]
Phát ngôn trên của nhân vật Thiều xuất hiện từ chẳng thể hiện sắc thái
khẳng định đánh giá của Thiều về chú Đàn lúc kể chuyện ma cho nó nghe.
Tuy không phải là từ cảm thán được sử dụng nhiều nhất nhưng từ chắc
cũng xuất hiện với tần xuất khá lớn trong tác phẩm: 22 lần, 3,96 %
Ví dụ:
[17] “Bóng em dài thêm một khúc nữa rồi. Chắc mẹ sắp về.” [1; 265]
Trong phát ngôn này thằng Tường khẳng định rõ ràng việc mẹ nó sắp về
thông qua từ chắc bởi cứ giờ này là mẹ nó về đến nhà rồi.
Ví dụ:
[18] “Lúc đó nỗi sợ hãi đã lấn át sự xấu hổ nhưng sáng hôm sau nhớ lại,
chắc nó ngượng lắm.” [1; 299]
Tương tự, với việc sử dụng từ chắc nhân vật Thiều biểu hiện sự khẳng
định chắc chắn tâm trạng của con Mận khi cả hai ngủ chung giường vì con Mận
đã lớn, đã biết ngượng ngùng.
Ví dụ:
33
[19] “Suốt đời sống trên gác, không đặt chân xuống đất chắc ba con Mận
khổ lắm anh há?” [1; 137]
Nguyễn Nhật Ánh sử dụng lời văn đậm chất địa phương nên việc có sự
xuất hiện của các thán từ mang màu sắc địa phương là điều dễ hiểu. Đó là thán
ngữ nghe chưa.
Ví dụ:
[20] “Đây là chuyện bí mật, tụi con không được nói cho ai biết nghe
chưa!” [1; 264]
Lời nói của chú Đàn càng trở nên dứt khoát hơn với thán từ nghe chưa đặt
ở cuối câu, nhằm nhấn mạnh việc chú Đàn yêu cầu lũ trẻ không được tiết lộ bí
mật và việc này rất quan trọng.
Ví dụ:
[21] “…, hẳn vì đã lâu cô không thấy bóng người lai vãng ở khu vực này.”
[1; 331]
Phụ từ hẳn cũng góp phần thể hiện sắc thái khẳng định một cách dứt khoát
nhận xét của Thiều về cô công chúa nhỏ khi âm thầm theo dõi cô để thỏa mãn trí
tò mò.
2.1.1.2. Biểu thị thái độ tức giận, lo lắng, sợ hãi
Hành vi cảm thán thể hiện sự tức giận, lo lắng, sợ hãi trong tác phẩm được
thể hiện trực tiếp qua hàng loạt các từ cảm thán:
Ví dụ:
[22] “Hừ, con với cái!” [1; 287]
Phát ngôn trên thể hiện sự tức giận của bố của Thiều và Tường sau khi từ
thành phố trở về vì biết tin thằng Tường bị thương nằm liệt giường.
Ví dụ:
[23] “- Mày ngu quá! Tôi quắc mắt, nổi giận một cách vô cớ
- Lại thêm một đứa ngu nữa!” [1; 264]
Ví dụ:
[24] “Tôi phun ra bãi nước bọt về phía thằng Sơn nhưng không trúng nó,
gầm gừ:
- Mày mới là đứa chết trước!” [1; 294]
34
Hành vi cảm thán tức giận của Thiều thể hiện qua từ mới khi cãi nhau với
thằng Sơn khi nó qua thăm thằng Tường với mục đích chế giễu xem thằng Tường
chết chưa.
Ví dụ:
[25] “Chết rồi, ba con Mận bị nhốt trong căn gác không biết có kịp chạy
thoát không.” [1; 177]
Thái độ lo lắng của Thiều được bộc lộ trực tiếp qua cụm từ chết rồi khi
nghĩ đến ba con Mận bị nhốt trong căn gác cháy không biết có chạy thoát được
không.
Ví dụ:
[26] “Eo ôi, mình sợ lắm! Mình không cần tới mười hai cái hoa tay đâu!”
[1; 15]
Thán từ eo ôi và lắm đã thể hiện trực tiếp sự sợ hãi của con Mận khi nghe
Thiều nói nếu mõi bàn tay nó có sáu ngón như ông Năm Ve thì nó sẽ có tới mười
hai cái hoa tay. Sự dị thường này đã khiến con Mận sợ hãi.
2.1.1.3. Biểu thị thái độ xót thương, tiếc nuối, buồn rầu, thất vọng
Là tác phẩm viết về những rung động đầu đời và cả quá trình trường thành
của những đứa trẻ làng quê, bên cạnh tiếng cười hồn nhiên vui tươi thì cảm xúc
buồn thương, tiếc nuối, thất vọng cũng là sắc trầm tô điểm cho bức tranh muôn
màu ấy mà Nguyễn Nhật Ánh đã rất khéo léo gieo vào trang viết thông qua các
từ ngữ cảm thán chuyên dụng: ôi, à và các phụ từ: quá, ghê, càng, mà
Ví dụ:
[27] “Họ bảo những người bệnh phong thường chọn cách bỏ đi thật xa, vào
tận rừng sâu núi thẳm. Họ sống quần tụ với nhau ở một thế giới hiu quạnh, cách biệt
hẳn với loài người trong khi chờ tử thần tới rước đi. Ôi, buồn quá!” [1; 174]
Từ cảm thán quá được nhân vật Thiều thốt lên trong phát ngôn để thể hiện
cảm xúc buồn và thương cảm sâu sắc khi nghĩ đến số phận cô độc, khổ đau mà
những người bệnh phong phải chịu đựng và ba con Mận cũng là một nạn nhân
của căn bệnh quái ác này.
Ví dụ:
35
[28] “- Không, mẹ mình vừa đánh đòn mình.
Tôi không hỏi nữa. Vì tôi hiểu rồi. Con Mận đang hong khô những giọt
nước mắt. Tội nó ghê”! [1; 20]
[29] “- Tội nghiệp chị Mận quá há” [1; 136]
Hai phát ngôn trên là lời của anh em Thiều và Tường dành cho con Mận
để biểu thị thái độ xót thương khi biết Mận bị mẹ đánh đòn và khi con Mận lâm
vào tình cảnh éo le - đó là cháy nhà.
Ví dụ:
[30] “Vậy mà tôi nỡ nghĩ oan cho nó, và cho cả em tôi! Ngu ơi!” [1; 299]
Từ ơi được thêm vào trong phát ngôn không phải để gọi đáp mà để thể
hiện cảm xúc tiếc nuối, buồn rầu và tự trách mình của nhân vật Thiều khi đã lỡ
nghĩ oan cho Tường và Mận.
2.1.1.4. Biểu thị thái độ khen ngợi
Là một tác phẩm với đa phần các nhân vật trong đó nhân vật chính đều là
những đứa trẻ thơ nên truyện xuất hiện khá nhiều những phát ngôn thể hiện hành
vi khen ngợi chân thành và ngây ngô của những đứa trẻ dành cho nhau. Đôi khi
cũng là lời khen ngợi khích lệ tinh thần của người lớn dành cho những đứa trẻ.
Thái độ khen ngợi trong các phát ngôn của nhân vật được thể hiện rất rõ thông
qua các phụ từ lắm, quá, thật, tới, ghê… và các thán từ ồ, ôi…
Ví dụ:
[31]“- Ôi, sao mày nhiều hoa tay thế này. Mai mốt lớn lên mày viết và vẽ
đẹp lắm đấy!” [1; 13]
Phát ngôn trên là lời khen ngợi của Thiều dành cho người em trai – Tường
khi phát hiện em mình có đến sau cái hoa tay. Sở dĩ Thiều lại khen Tường vì chú
Đàn đã nói với Thiều rằng người có nhiều hoa tay sẽ vẽ và viết đẹp nhất lớp.
Ví dụ:
[32] “Ồ, hai thằng bé thông minh ghê!” [1;18]
36
Phụ từ ghê trong phát ngôn trên thể hiện rõ thái độ khen ngợi của người
hàng xóm dành cho hai anh em Thiều - Tường khi thấy hai đứa bé đang chơi
ngoài hiên nhà.
Ví dụ:
[33] “- Mưu mẹo của anh hay thật. Em chả nghi ngờ gì cả. Lớn lên nếu đi
đánh giặc thế nào anh cũng làm tới đại tướng.”
Hành vi cảm thán của Tường được bộc lộ thông qua từ thật nhằm biểu thị
thái độ khen ngợi dành cho anh trai khi hai anh em cùng chơi ném đá. Mặc dù bị
Thiều lừa chơi xấu dẫn đến bị ném đá chảy máu nhưng khi nghe Thiều giải thích
thì Tường lại phục lăn và khen anh trai hết lời.
Ví dụ:
[34] “Thiều chu đáo ghê!” [1;194]
Hành vi khen trong phát ngôn trên là lời của con Mận dành cho Thiều khi
nhà con Mận bị cháy và Thiều sang ngủ cùng nó để trông nhà. Thiều lo thằng
Sơn rình lúc đêm hôm sẽ dở trò với con Mận nên đã đưa cho nó cây gậy để đầu
giường đề phòng. Điều này khiến Mận rất cảm kích và dành lời khen cho Thiều.
2.1.1.5. Biểu thị thái độ mỉa mai, chế giễu
Việc sử dụng các từ cảm thán chuyên dụng: eo ơi, ôi dào, chà… và các
phụ từ chỉ, mà, quá… trong phát ngôn cũng góp phần giúp tác giả làm nổi bật
sắc thái cảm xúc mỉa mai, chế giễu của nhân vật trước các sự việc được nói đến
trong câu.
Ví dụ:
[35] “Chà, mày ra lệnh cho tao đấy hả Thiều?” [1;169]
“Thằng em mày thì kinh thật, chứ mày chỉ là con muỗi trong mắt
tao thôi!” [1; 169]
Cả hai phát ngôn trên là lời của nhân vật Sơn nói với nhân vật Thiều để
thể hiện thái độ mỉa mai, chế giễu và khinh thường của Sơn với Thiều vì trong
mắt Sơn Thiều chỉ là con muỗi nhỏ bé, yếu ớt.
Ví dụ:
37
[36] “Anh nhát gan quá!” [1; 70]
Phát ngôn trên là lời nhận xét của nhân vật Tường với nhân vật Thiều
nhằm chế giễu việc Thiều sợ như mất mật mỗi lần trông thấy thầy Nhãn - thầy
chủ nhiệm của Thiều.
Ví dụ:
[37] “Con điên, tụi mày ơi!” [1; 362]
Phát ngôn trên là cách lũ trẻ trong làng gọi nhân vật Nhi một cách chế giễu
vì cách ăn mặc khác thường của Nhi.
2.1.1.6. Biểu thị thái độ ngạc nhiên, mừng vui
Các tình thái từ ơ, ồ, ôi, ủa… được Nguyễn Nhật Ánh vận dụng linh hoạt
và phong phú trong các lời thoại để bộc lộ trực tiếp thái độ ngạc nhiên, vui mừng
của nhân vật. Bên cạnh các tình thái từ thì phụ từ cũng góp phần bộc lộ rõ nét
những trạng thái cảm xúc trên của các nhân vật.
Ví dụ:
[38] “- A, có đây rồi. Một cái hoa tay nữa nè!” [1;12]
Tình thái từ a được chú Đàn thốt lên thể hiện sự ngạc nhiên xen lẫn mừng
rỡ khi tìm thấy cái hoa tay thứ hai trên tay Thiều.
Ví dụ:
[39] “Trời ơi, con làm sao mà mặt mày bầm tím thế con?” [1; 152]
Từ ơ trong phát ngôn của chú Đàn biểu thị thái độ ngỡ ngàng và ngạc
nhiên vì trong khi chú Đàn đang xem hoa tay và phát hiện một cái trên tay Thiều
mà thằng bé vẫn còn hỏi lại chú Đàn.
Ví dụ:
[40] “Ủa, con Vện của nhà mày đâu, Mận. Sao mày không dắt nó qua
đây?” [1;198]
Từ ủa được Thiều thốt lên thể hiện thái độ ngạc nhiên khi chợt nhận ra
chú chó thân thiết của Mận không được dắt theo sang nhà nó, vì nhà con Mận đã
cháy nên nó tạm thời chuyển sang nhà Thiều ở.
Ví dụ:
[41] “Ôi, quế! Ở đâu Thiều có vậy”? [1;272]
38
Hành vi cảm thán của cô bé Xin được biểu thị trực tiếp qua từ ôi thể hiện
thái độ ngạc nhiên, vui mừng khi được Thiều tặng một mẩu quế mà với tất cả trẻ
em trong làng lúc bấy giờ “là điều tuyệt với, không dễ gì có được”.
Ví dụ:
[42] “Tôi cầm lấy miếng kim loại săm soi, rú lên:
- Đây là vàng! Vàng mày ơi!” [1;261]
Trong phát ngôn trên Thiều đã trực tiếp bày tỏ thái độ ngạc nhiên và phấn
khích tột độ khi khẳng định miếng kim loại trên tay mình là vàng. Bởi trong hoàn
cảnh cái đói đang bủa vây cả ngôi làng sau bão thì việc nhặt được một vật có giá
trị mà đặc biệt là vàng có thể thay đổi cuộc sống của gia đình Thiều.
Ví dụ:
[43] “Tường mân mê hộp bút chì và những cuốn tập gói trong giấy kiếng
màu tôi đặt trên chiếc bàn chính giữa nhà, rồi ngước nhìn tôi, mắt lấp
lánh niềm vui và sự ngưỡng mộ, miệng không ngớt xuýt xoa:
- Thích quá! Không biết bao giờ em mới học giỏi được như anh.”
[1;51]
Phụ từ quá biểu thị thái độ vui mừng, phấn khích của Tường khi trông thấy
những cuốn tập phẳng phiu được đặt gọn gàng trên bàn Thiều với niềm ao ước
của một đứa trẻ.
Như vậy, qua phân tích bảng số liệu thống kê có thể thấy từ cảm thán xuất
hiện trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh được vận dụng khá phong phú và có
khả năng thể hiện các cung bậc cảm xúc đa dạng của nhân vật trong nhiều hoàn
cảnh, tình huống giao tiếp khác nhau. Theo đó, một cung bậc tình cảm có thể
được biểu hiện bằng những từ cảm thán khác nhau và ngược lại một từ cảm thán
lại có thể được thêm vào trong phát ngôn với mục đích diễn đạt các trạng thái
tình cảm khác nhau. Đặc điểm này không chỉ tạo nên tính phong phú và sinh
động của các hành vi cảm thán trong tác phẩm mà còn thể hiện sự đa dạng, đa
nghĩa, đa sắc thái của tiếng Việt.
39
2.1.2. Dùng quán ngữ
Quán ngữ là một vấn đề ngôn ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,
tìm hiểu và nghiên cứu nhiều năm qua. Có nhiều cách hiểu khác nhau về quán
ngữ. Trong luận văn này, chúng tôi chấp nhận quan niệm về quán ngữ trong “Từ
điển tiếng Việt” của tác giả Hoàng Phê làm cơ sở nghiên cứu quán ngữ như một
phương tiện thể hiện hành vi cảm thán. Quán ngữ là: “Tổ hợp từ cố định dùng lâu
thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa các yếu tố hợp thành. “Lên lớp” “lên
mặt” “ lên tiếng” đều là những quán ngữ trong tiếng Việt” [37, 801].
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp
đi lặp lại trong các loại văn bản để liên kết đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh
nội dung cần diễn đạt nào đó” [16, 101].
Như vậy quán ngữ là những tổ hợp từ không cố định được dùng lặp đi lặp
lại trong các loại văn bản nhằm mục đích đưa đẩy, rào đón, liên kết hay nhấn
mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh, Nguyễn Nhật Ánh nhiều lần sử dụng quán ngữ, đặc biệt là các quán ngữ
đưa đẩy để biểu đạt hành vi cảm thán, thể hiện thái độ, tình cảm, cảm xúc của
các nhân vật.
Bảng 2.2. Thống kê phân loại quán ngữ đưa dẩy
STT Quán ngữ đưa đẩy Tần sô xuất hiện Tỉ lệ (%)
1. Dĩ nhiên (là) 43 11,91%
2. Tức là 38 10,53%
3. Có thể 35 9,70%
4. Có lẽ 21 5,82%
5. Mà xem 20 5,54%
6. Thật là 18 4,99%
7. Thế mà 18 4,99%
8. Đến thế 17 4,71%
9. Đó thôi 15 4,16%
10. Như vậy 14 3,88%
11. Vẫn còn 14 3,88%
40
STT Quán ngữ đưa đẩy Tần sô xuất hiện Tỉ lệ (%)
12. Thế là 12 3,32%
13. Cũng vậy 11 3,05%
14. Thế nhưng 9 2,49%
15. Đã thế 9 2,49%
16. Hèn gì 8 2,22%
17. Cũng chẳng 6 1,66%
18. Cơ mà 5 1,39%
19. Nhưng rồi 5 1,39%
20. Còn gì 4 1,11%
21. Chỉ có điều 4 1,11%
22. Cứ như thể 4 0,83%
23. Ngay tức khắc 3 0,83%
24. Thì chắc 3 0,83%
25. Thế thì 3 0,83%
26. Chẳng qua 3 0,55%
27. Cả thảy 2 0,55%
28. Biết đâu 2 0,55%
29. Chẳng khác nào 2 0,55%
30. Đáng lẽ 2 0,55%
31. Hẳn thế 2 0,55%
32. Y như rằng 1 0,27%
33. Thực sự 1 0,27%
34. Quá chừng 1 0,27%
35. Ngay cả khi 1 0,27%
36. Tưởng như 1 0,27%
37. Lẽ ra 1 0,27%
38. Thú thực là 1 0,27%
100% Tổng số lần sử dụng 360
41
Nhìn vào bảng thống kê, phân loại quán ngữ được sử dụng để biểu hiện
hành vi cảm thán trong tập truyện tôi nhận thấy:
Nguyễn Nhật Ánh sử dụng các quán ngữ với tác dụng biểu hiện tình cảm
thái độ của nhân vật là quán ngữ đưa đẩy với tổng số lần sử dụng là 360 lượt, có
tác dụng biểu hiện rõ hơn sắc thái tâm lý tình cảm, thái độ, cảm xúc của các nhân
vật hay chính người kể chuyện.
Theo đó, các quán ngữ được sử dụng với tần số nhiều nhất đó là: quán ngữ
dĩ nhiên với 43 lượt sử dụng (chiếm 11,91%), quán ngữ tức là với 38 lượt sử
dụng (chiếm 10,53%), quán ngữ có thể với 35 lượt sử dụng (chiếm 9,70%)
2.1.2.1. Quán ngữ dĩ nhiên
Quán ngữ “dĩ nhiên” được sử dụng thể hiện thái độ khẳng định, chắc chắn
về sự việc, thái độ, tâm trạng nào đó trong phát ngôn mà theo lẽ thường nó luôn
xảy ra như thế.
Ví dụ:
[44] “Dĩ nhiên tôi thằng Tường và con Mận không hề than vãn nhưng
nhìn vẻ mặt kém tươi của tụi tôi, có lẽ mẹ tôi nghe được những thở dài chạy
quang mâm cơm và cảm giác đó khiến bà vô cùng xót ruột.” [1; 260]
Trong phát ngôn trên của Thiều quán ngữ dĩ nhiên thể hiện thái độ khẳng
định việc Thiều, Tường và Mận than vãn với mẹ về mâm cơm chỉ toàn rau trong
ngày đói sẽ không bao giờ xảy ra vì nó thương mẹ và không muốn mẹ phải bận
lòng.
Ví dụ:
[45] “Dĩ nhiên, tôi rất sung sướng khi mẹ tôi sai tôi qua ngủ nhà con
Mận.” [1;186]
Quán ngữ dĩ nhiên đứng đầu câu để khẳng định niềm vui sướng của Thiều
là lẽ thường tình vì nó mong muốn được làm một điều gì đấy để sẻ chia, giúp đỡ
con Mận trong thời khắc khó khăn này.
42
2.1.2.2. Quán ngữ tức là
Quán ngữ “tức là” thường được dùng để giải thích, làm rõ hơn một vấn
đề, sự việc, thái độ được nêu ra trong phát ngôn để người đọc (nghe) dễ hiểu, dễ
nắm bắt hơn.
Ví dụ:
[46] “- Cọp thành tinh với ma cọp là một. Tinh là yêu tinh, tức là thuộc
dạng ma quỷ rồi.” [1; 119]
Phát ngôn trên là lời của nhân vật Sơn nói với nhân vật Thiều, trong đó
quán ngữ tức là được sử dụng khi Sơn giải thích cho Thiều cọp thành tinh là con
cọp như thế nào.
Ví dụ:
[47] “…sau đó là ca hát, tức là thi nhau cố rống cho thật to và vỗ tay cho
thật lớn.” [1; 175]
Quán ngữ tức là có tác dụng giúp nhân vật Thiều làm rõ việc ca hát ở lớp
nó là như thế nào, đó là cứ rống thật to và vỗ tay thật lớn.
2.1.2.3. Quán ngữ có thể
Quán ngữ “có thể” được sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng phân vân, do dự
trước một sự việc, hành động, trạng thái nào đó xảy đến với người phát ngôn.
Ví dụ:
[48] “Khi chọn cách kì dị đó để che chở cho con gái, chắc ông Tám Tàng
đau lòng lắm, tôi bùi ngùi nghĩ, và có thể đó là lý do câu chuyện cọp thành tinh
ở xóm Miễu ra đời.” [1; 344]
Trong phát ngôn trên của Thiều, quán ngữ có thể đã góp phần thể hiện sự
phỏng đoán của Thiều về lý do xuất hiện tin đồn con ma cọp ở xóm Miễu sau khi
biết con ông Tám Tàng con sống và có đầu óc không bình thường.
Ví dụ:
[49] “Trong khi tôi đang nghĩ vẩn vơ đến sức mạnh kì diệu của tình yêu,
nếu có thể gọi tên thứ tình cảm lạ lùng vừa chớm nở giữa thằng Tường và con
43
Nhi là tình yêu (có bao giờ công chúa tuyển phò mã không nhỉ?), thì tiếng con
Nhi bất thần vọng tới” [1; 376]
Quán ngữ có thể được sử dụng trong phát ngôn của nhân vật Thiều thể
hiện sự phân vân, do dự trước việc có thể gọi tên thứ tình cảm lạ lùng giữa thằng
Tường và con Nhi là tình yêu.
2.2. Các loại hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
Trong luận văn này chúng tôi khảo sát hai loại hành vi: hành vi cảm thán
trực tiếp và hành vi cảm thán gián tiếp.
2.2.1. Hành vi cảm thán trực tiếp
Để phân biệt hành vi cảm thán trực tiếp và hành vi cảm thán gián tiếp thể
hiện ở đơn vị câu trong tác phẩm chúng tôi dựa vào lí thuyết về hành vi ngôn
ngữ. Những câu được luận văn xác định là câu thể hiện hành vi cảm thán trực
tiếp phải thoả mãn 4 điều kiện sử dụng hành vi ở lời mà Searle nêu lên:
- Điều kiện nội dung mệnh đề: chỉ ra bản chất của hành vi cảm thán
- Điều kiện chuẩn bị: bản thân người nói là người trong cuộc hoặc là người
chứng kiến sự tác động của sự vật, sự việc gây cảm thán.
- Điều kiện chân thành: người nói thực sự mong muốn được bày tỏ, bộc lộ
thái độ, cảm xúc của mình trước sự vật, sự việc gây cảm thán.
- Điều kiện căn bản: người nói tin tưởng vào mức độ của sự vật, sự việc
khiến mình cảm thán và mong nhận được thái độ hưởng ứng hoặc đồng cảm của
người tiếp nhận thông tin.
Để có cơ sở nhận diện được những hành vi cảm thán trực tiếp, bên cạnh
việc dựa vào 4 điều kiện nêu trên, chúng tôi còn dựa vào dấu hiệu hình thức của
câu cảm thán, đó là từ cảm thán và dấu chấm than "!".
2.2.1.1. Hành vi cảm thán có các từ cảm thán đi kèm
Trong tiếng Việt, từ cảm thán được xác định là một từ loại thuộc lớp tình
thái từ, không có quan hệ ngữ pháp với những từ khác, có khả năng tạo nên một
44
phát ngôn độc lập không tỉnh lược, được sử dụng để biểu thị trực tiếp những cảm
xúc, trạng thái và sự phản ứng tình cảm của người nói hoặc để làm tiếng gọi đáp.
a. Hành vi cảm thán sử dụng từ cảm thán đích thực
Từ cảm thán đích thực là loại từ dùng để biểu thị trực tiếp những cảm xúc,
trạng thái tình cảm khác nhau của người nói trước hiện thực khách quan, từ cảm
thán đích thực trong tác phẩm biểu thị những lời oán thán, tiếng kêu than, lòng
thương cảm, sự ngờ vực ... của các nhân vật và của người kể chuyện. Đó là các
từ: ôi, a, trời ơi …
Ví dụ:
[50] “Để nhấn chìm bọn tôi hơn nữa vào cơn sợ, lần nào kể xong chú Đàn
cũng láo liên mắt nhìn ra cửa, rú khẽ:
- Ối! Ma! Ma! Nó kìa!” [1; 31]
Phát ngôn trên có những cơ sở nhận diện hành vi cảm thán trực tiếp sau:
- Dấu hiệu hình thức: Phát ngôn trên của nhân vật chứa tình thái từ ối - là
từ cảm thán chuyên dụng thể hiện thái độ thảng thốt, bất ngờ.
- Điều kiện sử dụng hành động ở lời:
+ Điều kiện mệnh đề: Đây là hành vi cảm thán của nhân vật chú Đàn
+ Điều kiện chuẩn bị: Cứ lần nào kết thúc câu chuyện ma dành cho hai
anh em Thiều và Tường chú Đàn lại rú lên dọa như vậy khiến hai đứa sợ ma
hoảng sợ chạy tán loạn.
+ Điều kiện chân thành: Chú Đàn muốn dọa ma Thiều và Tường làm cho
câu chuyện ma thêm phần rùng rợn và sợ hãi.
+ Điều kiện căn bản: Chú Đàn tin rằng khi rú lên hoảng hốt như vậy khiến
Thiều và Tường hoảng sợ tin là đằng sau có ma thật.
- Hiệu quả ở lời của hành vi cảm thán: Từ cảm thán trong phát ngôn của
nhân vật khiến anh em Thiều và Tường tin tưởng tuyệt đối vào lời nói và thái độ
của chú Đàn. Với phát ngôn này chú Đàn đã đạt được mục đích đó là dọa được
Thiều và Tường.
45
Ví dụ:
[51] “Chú Đàn không gạt tôi. Hôm sau đến lớp, tôi vờ hỏi con Mận:
- Mận này! Ngày mai mày đi xuống xóm Miễu chơi với tao không?
- Eo ôi, mình không dám đâu. Xuống đó cho cọp ăn thịt à? - Con Mận vừa
nói vừa rụt cổ.” [1; 123]
- Dấu hiệu hình thức: Phát ngôn trên của nhân vật sử dụng tiểu từ eo ôi là
từ cảm thán chuyên dụng biểu thị hành vi cảm thán sợ hãi.
- Điều kiện sử dụng hành động ở lời:
+ Điều kiện mệnh đề: Đây là hành vi cảm thán của nhân vật Mận.
+ Điều kiện chuẩn bị: Con Mận cảm thấy sợ hãi sau khi nghe Thiều rủ
ngày mai xuống xóm Miễu chơi. Sở dĩ Mận lo sợ là vì người ta đồn ở đó có con
cọp thành tinh nên không ai dám bén mảng.
+ Điều kiện chân thành: Mận thực sự không giấu nổi sợ hãi trước lời rủ rê
của Thiều vì sợ cọp ăn thịt và sợ ba nó đánh cho bét đít.
+ Điều kiện căn bản: Mận tin rằng ở xóm Miễu có cọp thành tinh thật và
sự sợ hãi tột độ của nó cũng khiến cho Thiều tin rằng ở đó có cọp thật.
- Hiệu quả ở lời của hành vi cảm thán: Trước thái độ hoảng sợ của Mận,
Thiều đã từ bỏ ý định rủ nó sang xóm Miễu chơi vì tin vào câu chuyện cọp thành
tinh biết trả thù người.
Các ví dụ nêu trên mang dấu hiệu hình thức là: có sự góp mặt của từ cảm
thán chuyên dụng, có các điều kiện phù hợp với đích ở lời của phát ngôn cảm
thán, do đó chúng là những hành vi cảm thán trực tiếp.
b. Hành vi cảm thán sử dụng từ cảm thán lâm thời
Các từ cảm thán lâm thời trong tác phẩm là những phụ từ, kết từ, trợ từ,
tính từ, đại từ, động từ,... được sử dụng như một phương tiện tạo lập câu cảm
thán, bởi vì trong những văn cảnh cụ thể, chúng có khả năng thể hiện tình cảm,
cảm xúc, tạo nên sắc thái cảm thán cho câu.
46
(1) Từ cảm thán lâm thời là phụ từ
Trong những ngữ cảnh đặc biệt, một số phụ từ được tác giả sử dụng
mang ý nghĩa cảm thán như đã, lắm, quá, cũng,... vì chúng có khả năng chuyển
tải tình cảm, thái độ của người nói.
Trong các phụ từ lâm thời giữ chức năng cảm thán, từ lắm có tần số cao
nhất vì được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh: 48 lượt (chiếm 8,21 %). Phụ từ lắm được sử dụng như một từ
cảm thán có tác dụng nhấn mạnh tình cảm, cảm xúc, thái độ của nhân vật trước
sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
[52] “Chuyện gì quan trọng vậy, anh Hai? - Tường giương mắt nhìn tôi
khi hai anh em đã ngồi xuống chiếc đòn kê cạnh chuồng gà.
- Ờ, chuyện này quan trọng lắm.” [1; 135]
Phụ từ lắm trong phát ngôn trên giúp nhân vật Thiều nhấn mạnh được tầm
quan trọng của câu chuyện mà Thiều sắp kể với Tường.
Ví dụ:
[53] “Không hiểu sao lúc đó tôi lại nhớ đến những cái hoa tay của con
Mận:
- Chú ơi, con Mận có tới mười cái hoa tay đó, chú.
- Thế à! - Chú Đàn ồ lên - Thế thì bạn đó phải viết và vẽ đẹp lắm!” [1; 190]
Cũng giống như ví dụ trên, phụ từ lắm được sử dụng trong phát ngôn cũng
có tác dụng nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên và khen ngợi của chú Đàn khi biết con
Mận có tới mười cái hoa tay.
Trong cả hai ví dụ có sử dụng phụ từ lắm đi kèm với các tính từ: quan
trọng, đẹp có tác dụng nhấn mạnh thêm mức độ của tính từ, gián tiếp bộc lộ
những tâm trạng, tình cảm khác nhau của các nhân vật: ngạc nhiên, ngưỡng mộ,
hệ trọng.
47
Ngoài từ lắm, phụ từ quá cũng được Nguyễn Nhật Ánh sử dụng với tần
xuất nhiều thứ hai trong tác phẩm chiếm 40 lượt và 6,84% đem lại hiệu quả cảm
thán và biểu hiện đa dạng sắc thái tâm lý nhân vật.
Ví dụ:
[54] “Chú lại xoa đầu thằng Tường:
- Tội con quá!” [1; 110]
Phát ngôn trên là của nhân vật chú Đàn với thằng Tường. Phụ từ quá được
sử dụng để nhấn mạnh thái độ thương cảm, xót xa của chú khi biết thằng Tường
bị thầy Nhãn quật cho một roi đau thấu xương chỉ vì tội “làm chim xanh” đưa
thư giúp chú Đàn.
Ví dụ:
[55] “Đột nhiên tiếng kèn acmonica cất lên.
- Hay quá! - Tường reo khẽ - Chú thổi kèn cho tụi con nghe đi.
Tôi hớn hở:
- Lâu quá không thấy chú thổi acmonica.” [1; 111]
Từ quá trong phát ngôn trên nhấn mạnh thêm lời khen của Tường dành cho
chú Đàn và nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên xen lẫn mừng vui, háo hức của Thiều khi
đã lâu lại được chú Đàn thổi acmonica cho nghe, vì chú Đàn thổi rất hay.
(2) Từ cảm thán lâm thời là trợ từ
Theo Diệp Quang Ban, “trợ từ dùng trong câu biểu thị ý nghĩa tình thái,
bằng cách nhấn mạnh vào từ, kết hợp từ... có nội dung phản ánh liên quan với
thực tại mà người nói, người viết muốn lưu ý người nghe” [3;166]
Trong tập truyện của Nguyễn Nhật Ánh, một số trợ từ được lặp đi lặp lại
nhiều lần gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán như: đâu, mà, càng...
Trong đó trợ từ đâu với vai trò từ cảm thán lâm thời được sử dụng với tần
xuất nhiều nhất: 25 lượt, chiếm 4,27%
Ví dụ:
[56] “Sơn đã sợ lắm nhưng vẫn còn gân cổ đe:
- Tao không bỏ qua cho hai anh em mày đâu.” [1; 159]
48
Phát ngôn trên là lời của nhân vật Sơn nói với hai anh em Thiều mang sắc
thái đe dọa sau khi bị anh em Thiều lập mưu trả thù. Trợ từ đâu đứng ở cuối câu
mang ý nghĩa phủ định để nhấn mạnh sắc thái đe dọa trong câu nói của Sơn.
Ví dụ:
[57] “ Đến con Vện cũng bỏ con Mận mà đi!” [1;199]
[58] “Con Vện chết vào lúc con Mận nhà tan cửa nát càng khiến tôi thêm
xót xa” [1; 199]
Cả hai phát ngôn trên đều là lời của Thiều bộc lộ cảm xúc xót thương,
buồn rầu cho hoàn cảnh của con Mận khi nhà thì cháy, mẹ nó bị bắt vì nghi giam
giữ người trái phép, cha thì chết trong đám cháy và thậm chí đến cả con Vện -
chú chó già, người bạn còn xót lại duy nhất cũng bỏ nó mà đi. Trợ từ mà và càng
được thêm vào có tác dụng nhấn mạnh tình cảm thương xót của Thiều dành cho
nỗi mất mát của Mận.
(3) Từ cảm thán lâm thời là kết từ
Kết từ là từ loại “biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và đối
tượng được phản ánh…kết từ được dùng nối kết các từ, các kết hợp từ, các câu
và đoạn văn có quan hệ cú pháp” [3; 132]. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp
kết từ được sử dụng với chức năng từ cảm thán thể hiện thái độ, tâm trạng, tình
cảm của con người. Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh chúng tôi khảo
sát thấy kết từ mà được sử dụng nhiều lần (22 lần, chiếm 7,23%) với chức năng của
một từ cảm thán, thể hiện những hành động khác nhau của nhân vật.
Ví dụ:
[59] “Một chuyện li kì như vậy mà không thể thổ lộ với ai càng khiến tôi
khổ tâm ghê gớm” [1; 134]
Trong ví dụ trên sự xuất hiện của từ mà không chỉ có tác dụng nhấn mạnh
việc Thiều không thể chia sẻ câu chuyện được cho là li kì với ai mà còn có tác
dụng liên kết các vế trong câu. Vì thường ngày bất cứ chuyện gì Thiều cũng kể
hết với Tường nên việc phải giấu kín câu chuyện mà Thiều rất muốn chia sẻ
khiến nó cảm thấy bứt rứt, khó chịu. Kế từ mà góp phần nhấn mạnh cảm xúc đó
của nhân vật Thiều.
49
Ví dụ:
[60] “Chú Đàn lườm tôi:
- Đi trông nhà giúp bạn mà ngủ say như thế, có ngày trộm vào khiêng con
đi mất.” [1; 191]
Kết từ mà trong phát ngôn trên có tác dụng liên kết hai vế của câu thể hiện
thái độ trách móc của chú Đàn với Thiều khi sang ngủ với con Mận để giúp nó trông
nhà mà lại ngủ say như thế nhỡ đâu có trộm vào cũng không hay biết.
(4) Từ cảm thán lâm thời là tính từ
Tính từ là “lớp từ chỉ ý nghĩa đặc trưng (đặc trưng của thực thể hay đặc
trưng của quá trình). Ý nghĩa đặc trưng được biểu hiện trong tính từ thường có
tính chất đối lập phân cực (thành cặp trái nghĩa) hoặc có tính chất mức độ (so
sánh và miêu tả theo thang độ)” [3; 101]. Tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh đã nhiều lần sử dụng các tính từ để biểu hiện tâm trạng, tình cảm, suy nghĩ
của các nhân vật.
Ví dụ:
[61] “Tôi kể lại cho thằng Tường và con Mận nghe chuyện thằng Sơn,
Tường rụt cổ:
- Ghê quá anh há!” [1; 204]
Phát ngôn trên của Tường sử dụng tính từ ghê đặt ở đầu câu có tác dụng
thể hiện thái độ ghê sợ của Tường trước sự việc thằng Sơn bị ông Tư Cang cưỡi
trâu rượt chạy quanh đồng, tưởng chết đến nơi.
Ví dụ:
[62] “- Ờ, chuyện này quan trọng lắm.
Tôi liếc Tường, nhấn mạnh:
- Quan trọng nhất trong những chuyện quan trọng tao từng nói với mày.”
[1; 135]
Tính từ quan trọng được sử dụng trong phát ngôn của nhân vật Thiều thể
hiện thái độ đánh giá sự việc mà Thiều sắp kể với Tường có ý nghĩa rất hệ trọng
với cả hai anh em.
Ví dụ:
[63] “Mày thông minh thật đấy. Có thế mà tao không nghĩ ra.” [1; 137]
50
Tính từ thông minh sử dụng ở câu trên thể hiện thái độ khen ngợi của
Thiều dành cho Tường khi được Tường giải thích rất hợp lý lý do vì sao ba con
Mận bị nhốt trong phòng mà không phá cửa xông ra.
(5) Từ cảm thán lâm thời là đại từ
Đại từ là lớp từ dùng để thay thế và chỉ trỏ. Chúng không trực tiếp biểu
thị thực thể, quá trình hoặc đặc trưng như danh từ, động từ, tính từ, mà chỉ biểu
thị các ý nghĩa đó một cách gián tiếp.
Nhóm đại từ được sủ dụng nhiều lần với chức năng này trong tác phẩm
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh gồm các từ: thế, đâu…
Theo Diệp Quang Ban: “Đại từ thế, vậy biểu thị ý nghĩa sự vật, sự việc
tương ứng với ý nghĩa của động từ, tính từ tương đương với chức vụ vị ngữ. Do
đó ý nghĩa của thế, vậy có nội dung khá phong phú, súc tích gồm nhiều sự kiên
được dồn nén và biểu hiện trong một từ. Đại từ thế, vậy còn biểu hiện sắc thái
biểu cảm của người nói, bao hàm thái độ chủ quan trong nhận thức và đánh giá
hiện thực.” [2; 119]. Trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, đại từ thế được sử
dụng với số lượng nhiều để thể hiện hành vi cảm thán của các nhân vật và người
kể chuyện.
Ví dụ:
[64] “- Tối qua con ngủ nhà con Mận. Mẹ con bảo con qua ngủ trông nhà
giùm nó.
- Ờ, con giúp bạn thế là tốt! - Chú Đàn xoa đầu tôi bằng bàn tay duy
nhất.” [1; 190]
Phát ngôn trên của nhân vật chú Đàn có sử dụng đại từ thế vừa có tác dụng
thay thế, tránh nói lại điều nhân vật Thiều vừa nói lại vừa có tác dụng khẳng định
và khen ngợi việc Thiều qua nhà con Mận ngủ trông nhà giúp bạn là một việc
làm tốt.
Như vậy, qua việc phân tích các hành vi cảm thán trực tiếp được sử dụng
trong tác phẩm tôi thấy bên cạnh lớp từ cảm thán đích thực, Nguyễn Nhật Ánh
đã sử dụng một số lượng lớn những từ cảm thán lâm thời thuộc các lớp từ: phụ
từ, kết từ, trợ từ, tính từ, đại từ... Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc thể
hiện nhiều cung bậc tình cảm, trạng thái, thái độ của nhân vật trẻ thơ trước những
51
sự việc, những biến cố xảy đến với tuổi thơ đầy dữ dội của các cô bé cậu bé mới
lớn để rồi sau đó giúp họ trưởng thành hơn. Việc lựa chọn từ ngữ vô cùng tinh
tế trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đã chứng tỏ ông xứng đáng là một trong
những nhà văn tiêu biểu cho văn xuôi hiện đại Việt Nam.
2.2.1.2. Hành vi cảm thán nhận diện qua dấu chấm than ("!" )
Trong văn bản viết, dấu chấm than là dấu hiệu đặc trưng về mặt hình thức
của câu cảm thán và thường được đặt ở cuối câu để biểu thị ý cảm thán.
Qua khảo sát các câu văn trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
của Nguyễn Nhật Ánh chúng tôi thống kê được 179 dấu chấm than trong đó có
102 dấu chấm than được dùng với mục đích cảm thán. Đây là một trong những
dấu hiệu giúp chúng tôi xác định được hành vi cảm thán (nhất là hành vi cảm
thán không có từ cảm thán đi kèm) trong tác phẩm này.
a. Dấu "!" được đặt ở cuối câu cầu khiến có mục đích yêu cầu, ra lệnh.
Ví dụ:
[65] “ Kể chuyện nhà ông Ba Huấn đi chú!”[1; 30].
[66] “Nghe hai chữ phóng dao, thằng Tường run:
- Thôi anh và em chơi trò ném đá đi!
Nói xong, thằng Tường co giò chạy ra thật xa. Nó chạy tuốt ra sát đường
lộ rồi quay đầu lại:
- Em đứng chỗ này được chưa?
- Ờ, mày đứng đó đi. Bắt đầu ném nha.” [1; 44]
b. Dấu "!" được đặt ở cuối câu cảm thán để nhấn mạnh ý cảm thán.
Ví dụ:
[67] “Đến con Vện cũng bỏ con Mận mà đi!” [1;199]
Dấu “!” được đặt ở cuối câu trong ví dụ trên có tác dụng nhấn mạnh cảm xúc
xót thương của Thiều cho tình cảnh éo le của Mận khi nó đã mất đi người thân trong
vụ hỏa hoạn mà đến chú chó - người bạn thân thiết cũng bỏ nó mà đi.
[68] “Tường ngã bệt xuống đất hai tay ôm đầu:
- Ối, đau em quá!
... Tường bỏ tay ra, tôi xám mặt thấy những ngón tay nó dính đầy máu.
52
- Chết rồi! Chảy máu, mày ơi! [1; 46]
[69] “- Ối! Ma! Ma! Nó kìa!” [1,31]
Dấu “!” đặt ở cuối câu trong các phát ngôn trên của các nhân vật góp phần
nhấn mạnh hành vi cảm thán đau đớn hay sợ hãi tột độ được thể hiện trong hai
ví dụ trên.
Qua tìm hiểu các hành vi cảm thán trực tiếp trong truyện dài “Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi nhận thấy: Sự kết
hợp của các từ cảm thán và các dấu chấm than chính là dấu hiệu hình thức
để nhận diện các câu cảm thán trực tiếp vì chúng có vai trò nhấn mạnh ý cảm
thán, thể hiện trực tiếp những cảm xúc, trạng thái tình cảm của các nhân vật
trong truyện.
2.2.2. Hành vi cảm thán gián tiếp
Để xác định được các hành vi cảm thán gián tiếp trong tác phẩm Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh, luận văn dựa vào điều kiện sử
dụng và nhận biết các hành vi ở lời gián tiếp (đã trình bày ở chương 1) do Searle
đưa ra.
Trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh mà luận văn khảo sát xuất hiện ba
loại hành vi cảm thán gián tiếp sau:
2.2.2.1. Câu hỏi nhằm mục đích thể hiện hành vi cảm thán
Câu hỏi hay còn gọi là câu nghi vấn là loại câu “thường được dùng để nêu
lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự trả lời, giải thích của người
tiếp nhận câu đó” [4; 226].
Câu hỏi được thực hiện đúng với đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng
của chúng là hành vi hỏi trực tiếp; câu hỏi được dùng với các mục đích khác
không phải là hỏi, như: kể lể, trách móc, ra lệnh, cảm thán,... là hành vi hỏi gián
tiếp. Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nguyễn Nhật Ánh đã sử
dụng 101 câu hỏi nhưng với mục đích gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán của
nhân vật.
Ví dụ:
[70] “Sao mày ngu thế? Giờ ngọ là giờ ma trêu, thấy bất cứ ai quen hoặc
53
nghe bất cứ ai gọi cũng không được lên tiếng. Mày gặp ma, mở miệng hỏi, chưa
bị hớp mất hồn là phúc ba đời nhà mày đó.” [1; 27]
Những câu chuyện ma của chú Đàn luôn có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với
Thiều. Tuy không phải là chuyện ma Thiều thích nhất nhưng chuyện thằng Ghế
bị ma trêu buổi trưa trên đường đi làm rẫy về cũng khiến Thiều nổi da gà. Phát
ngôn trên của ông Năm Ve - ba thằng Ghế vừa là câu hỏi vừa để diễn tả thái độ
trách móc, mắng mỏ của ông với thằng Ghế.
Phát ngôn của nhân vật ông Năm Ve là hành vi hỏi gián tiếp vì nó đã vi
phạm cả bốn điều kiện sử dụng:
- Điều kiện mệnh đề: Câu hỏi của nhân vật Năm Ve không nhằm mục đích
để hỏi và tìm kiếm câu trả lời từ đối tượng mà nhằm biểu lộ tâm trạng.
- Điều kiện chuẩn bị: Thằng Ghế sau khi bị ma trêu đã nằm liệt giường
ốm cả tháng trời tưởng chết và bị ba nó mắng.
- Điều kiện chân thành: Câu hỏi này thể hiện thái độ giận dữ, trách móc
thằng con của ông Năm Ve khi liều mạng suýt thì bị ma hớp hồn.
- Điều kiện căn bản: Câu hỏi nhưng không với mục đích để hỏi mà mục
đích để biểu hiện tâm trạng.
- Hiệu quả ở lời của hành vi này là nhấn mạnh thái độ tức giận, trách móc
của ông Năm Ve với thằng Ghế, vì cái điều mà ai cũng phải biết đó là giờ ngọ
là giờ ma trêu nên gặp ai cũng không được hỏi mà nó còn không biết. Chính vì
vậy mới bị ba nó mắng là ngu.
Ví dụ:
[71] “Nó bảo:
- Anh không nhớ hồi đó ngày nào chú Đàn cũng đứng dưới cây phượng
trước nhà chị Vinh thổi acmonica suốt đêm sao?
- Tao nhớ
Tôi nói và tôi nhớ không ít lần ba tôi hầm hầm xô cửa xách gậy đi ra,
mắng:“Mày khùng hả Đàn? Sao mày không cho ai ngủ hết vậy?”, lúc đó chú
Đàn mới co giò bỏ chạy” [1; 65].
Phát ngôn trên của nhân vật ba Thiều là hành vi hỏi gián tiếp vì nó đã vi
phạm cả bốn điều kiện sử dụng:
54
- Điều kiện mệnh đề: Câu hỏi của ba Thiều không nhằm mục đích để hỏi
yêu cầu đối tượng phải trả lời mà nhằm bộc lộ cảm xúc.
- Điều kiện chuẩn bị: Do chú Đàn ngày nào cũng thổi kèn trước nhà chị
Vinh vào đúng giờ mọi người nghỉ ngơi nên ba của Thiều rất tức giận vì bị tiếng
kèn quấy rầy.
- Điều kiện chân thành: Câu hỏi này thể hiện thái độ giận dữ, khó chịu và
bức xúc của ba thằng Thiều khi chú nó ngày nào cũng phá giấc ngủ của mọi
người với tiếng kèn ồn ào.
- Điều kiện căn bản: Câu hỏi nhưng không với mục đích để hỏi mà mục
đích để biểu hiện tâm trạng.
Trong tác phẩm, tác giả đã dùng những câu hỏi gián tiếp để đạt được một
số mục đích giao tiếp thể hiện những hành vi cảm thán tiêu biểu sau:
a. Hành vi hỏi thể hiện thái độ giận dữ
Ví dụ:
[72] “ - Mình xin lỗi bạn nhé. Mình không ngờ thầy Nhãn lại phạt bạn
- Xin lỗi cái đầu mày! - Tôi điên tiết - Mày nghĩ sao mà đem lá
thư của tao nộp cho thầy vậy hả?
- Mình có nghĩ gì đâu. Mình tưởng bạn chọc phá mình nên mình
méc với thầy thôi.
- Mày đui hả? - Tôi càng cáu - Tao chọc phá mày hồi nào?” [1;
80]
Ba câu hỏi trong phát ngôn trên của nhân vật Thiều vừa để hỏi vừa nhằm
thể hiện thái độ giận giữ, cáu gắt với nhân vật Xin khi con Xin mang lá thư Thiều
gửi cho lên mách với thầy khiến Thiều bị thầy phạt.
b. Hành vi hỏi để khẳng định
Ví dụ:
[73] “- Mày lại ngu nữa! - Sơn hừ mũi - Chỉ có ba chuyện vừa kể là
phịa thôi. Còn sau lưng nhà mày là ma thật.
- Sau lưng nhà tao? - Tôi hỏi giọng run run, Cảm thấy một cơn
ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Mày muốn nói ma trong nghĩa
55
trang...” [1; 117]
Trong phát ngôn trên của nhân vật Thiều có sử dụng một câu hỏi để khẳng
định chắc chắn lại thông tin vừa nghe được từ nhân vật Sơn. Mặc dù đã nghe rõ
câu nói của Sơn nhưng Thiều vẫn hỏi lại nhưng câu hỏi này không nhằm mục
đích yêu cầu nhân vật Sơn nói lại mà nhằm mục đích khẳng định một lần nữa
thông tin mà Thiều vừa nghe được, đó là chuyện sau lưng nhà nó có ma.
c. Hành vi hỏi thể hiện thái độ bác bỏ, phản đối
Ví dụ:
[74] “ - Tao giúp chị Vinh không phải vì tiền - Thằng Dưa ngoảnh mặt
đi - Chị vinh thương tao nhất. Tao cũng thương chị Vinh nhất.
- Ai bảo mày vậy? - Tôi đập tay lên ngực - Chị Vinh thương tao
nhất. Mày chỉ được thương nhì thôi!” [1; 258]
Câu hỏi mà nhân vật Thiều sử dụng trong phát ngôn của mình không nhằm
mục đích hỏi yêu cầu thằng Dưa trả lời mà nhằm mục đích thể hiện thái độ phản
đối, bác bỏ ý kiến của thằng Dưa là nó được chị Vinh thương nhất để khẳng định
người chị Vinh thương nhất là Thiều.
Ngoài những câu hỏi với mục đích gián tiếp vừa nêu, trong tác phẩm còn
có các hành vi hỏi để khen ngợi, khuyên nhủ, mỉa mai,... Có thể thấy rất nhiều
trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình từ tích cực đến tiêu cực đã được tác giả
đề cập tới thông qua hành vi hỏi gián tiếp. Đây là hành vi ngôn ngữ tiêu biểu
nhất trong ba loại hành vi ngôn ngữ gián tiếp (hỏi, cầu khiến, kể) thể hiện hành
vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nguyễn Nhật
Ánh.
2.2.2.2. Câu cầu khiến nhằm mục đích thể hiện hành vi cảm thán
Câu cầu khiến được quan niệm là kiểu câu dùng để đề nghị, yêu cầu hay
khuyên nhủ đối tượng thực hiện một việc nào đó. Trong tác phẩm của Nguyễn
Nhật Ánh có nhiều trường hợp câu cầu khiến được sử dụng nhưng không chỉ
nhằm mục đích biểu thị hành vi cầu khiến mà còn biểu hiện hành vi cảm thán
của các nhân vật. Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 146 câu cầu khiến được
dùng để gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán của các nhân vật.
56
Ví dụ:
[75] “Tường vỗ lưng tôi:
- Chắc chắn rồi. Anh yên tâm đi! [1; 164]
Bằng việc sử dụng từ cầu khiến đi nhân vật Tường đã yêu cầu Thiều hãy
yên tâm vì từ nay thằng Sơn sẽ không bao giờ dám bắt nạt Thiều nữa.
Phát ngôn trên mang đặc điểm hình thức của câu cầu khiến vì nó thoả mãn
hai điều kiện sau:
- Điều kiện mệnh đề: Đây là lời yêu cầu, đề nghị của Tường đối với Thiều
- Điều kiện chuẩn bị: Thiều lo lắng không biết sau lần trả thù này của
Tường, thằng Sơn còn đến bắt nạt mình nữa không.
Tuy vậy, phát ngôn này không hoàn toàn là hành vi cầu khiến chân thành
vì nó vi phạm hai điều kiện:
- Điều kiện chân thành: Nhân vật Tường qua hành dộng cầu khiến đã thể
hiện thái độ trấn an, đề nghị Thiều hãy yên tâm vì từ nay Sơn sẽ không dám đụng
đến Thiều nữa.
- Điều kiện căn bản: Qua phát ngôn cầu khiến trên Tường muốn thể hiện
sắc thái khẳng định chắc chắn điều mình nói ra và mong muốn Thiều tin vào
điều đó.
Ví dụ:
[76] “Tường lo lắng hỏi:
- Chắc cột sống em bị làm sao rồi hở anh?
- Mày đừng có đoán mò! – Tôi trấn an nó và nghe cay xè nơi đầu mũi.
Tôi quay đầu nhìn quanh, mím môi nói:
- Mày nằm yên đi, để tao nghĩ cách khiêng mày lên giường” [1; 280].
Tương như ví dụ trên, ở ví dụ này trong phát ngôn của nhân vật cũng sử
dụng các từ cầu khiến đừng, đi để biểu hiện một sắc thái cảm thán lo lắng, hối
hận khi vừa làm điều sai trái của Thiều. Như vậy, phát ngôn này là hành vi cầu
khiến nhưng nhằm mục đích cảm thán rất rõ ràng.
- Điều kiện mệnh đề: Đây là lời đề nghị, yêu cầu của nhân vật Thiều dành
57
cho nhân vật Tường.
- Điều kiện chuẩn bị: Thiều cảm thấy lo lắng cho Tường sau khi Tường bị
Thiều đánh cho một trận đầy đau đớn chỉ vì hiểu lầm nghĩ Tường và Mận giấu
mình gắp cho nhau ăn thịt gà, kèm theo đó là sự tức giận và ghen tuông với
tường vì Thiều thích con Mận.
- Điều kiện chân thành: Nhân vật Thiều đã thể hiện rất rõ thái độ hối hận
và lo lắng cho em trai trong phát ngôn trên.
- Điều kiện căn bản: Thiều đưa ra hành vi cầu khiến nhằm bộc lộ thái độ
quan tâm, long lắn cho sức khỏe của Tường và thể hiện sự ăn năn, hối hận của
bản thân sau khi đã lỡ đánh em.
Ví dụ:
[77] “Hai anh em ngồi bất động bên nhau thật lâu. Cuối cùng tôi mấp
máy môi:
- Đừng buồn nữa, em! Ít hôm nữa thôi, con Cu Cậu sẽ quay về!”
[1; 234]
Phát ngôn trên mang những đặc điểm của câu cầu khiến như:
- Điều kiện mệnh đề: Phát ngôn trên là lời đề nghị, yêu cầu của Thiều dành
cho Tường
- Điều kiện chuẩn bị: Nhân vật Tường rất buồn sau khi đi chơi về nhà
không tìm thấy con Cu Cậu ở dưới gầm giường đâu - đây là con cóc Tường rất
yêu quý và nâng niu.
Đồng thời phát ngôn trên cũng không hoàn toàn là hành vi cầu khiến vì nó
đã vi phạm những điều kiện sau:
- Điều kiện chân thành: Qua hành vi cầu khiến nhân vật Thiều thể hiện
thái độ an ủi em trai đừng buồn vì ít hôm nữa con Cu Cậu sẽ quay về.
- Điều kiện căn bản: Nhân vật Thiều muốn an ủi và cũng thể hiện sự hối
lỗi trước nỗi buồn của Tường vì thiều chính là nguyên nhân gây nên nỗi buồn
này của Tường.
58
2.2.2.3. Câu kể với mục đích thể hiện hành vi cảm thán
Câu kể (trần thuật) là kiểu câu được dùng với mục đích kể, tả, trình bày,
nêu ý kiến. Tuy không có những phương tiện đánh dấu chuyên dụng như câu
cảm thán, câu hỏi và câu cầu khiến, nhưng đôi khi, câu kể vẫn ẩn chứa bên trong
những hành vi cảm thán của người nói. Trong luận văn này, chúng tôi đã thống
kê được 189 câu kể gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán.
Ví dụ:
[78] “Vừa buột ra câu hỏi, tôi đưa tay véo môi một cái và tự trả lời, gần
như ngay lập tức
- Tao hiểu rồi. Chẳng ai thích bị nhốt cả. Ba con Mận cũng thế. Nhưng vì
vợ con nên ông sẵn sàng sống trên gác đó thôi” [1; 137].
Phát ngôn trên của nhân vật Thiều thuộc loại câu kể nhưng không chỉ nhằm
mục đích kể mà còn nhằm mục đích thể hiện cảm xúc, thái độ, tâm trạng của
người kể. Vì vậy nó gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán.
- Điều kiện nội dung mệnh đề: Đây là câu kể của nhân vật Thiều tự giải
đáp câu hỏi mà chính Thiều vừa đặt ra.
- Điều kiện chuẩn bị: Thiều tự mình đặt ra câu hỏi: “chẳng lẽ ba nó lại
thích bị nhốt?”. Trong đó người mà Thiều đang nói đến ở đây là ba con Mận. Và
sau đó tự mình tìm ra câu trả lời.
- Điều kiện chân thành: phát ngôn thể hiện tâm trạng buồn rầu, xót thương
và cảm thông với hoàn cảnh bị nhốt một mình trên gác của ba con Mận và lí do
chấp nhận bị nhốt.
- Điều kiện căn bản: Trong phát ngôn trên Thiều không chỉ kể mà còn bộc
lộ thái độ thương cảm với tình cảnh của ba con Mận.
Ví dụ:
[79] “Tôi cảm thấy xấu hổ, cứ như thể tôi vừa bị bắt quả tang thò tay vào
ngăn kéo, mặc dù tôi biết ba con Xin không trách cứ gì tôi. Thậm chí ông cố tình
59
đổi ngăn kéo đựng táo xuống phía dưới và ghi rõ chữ “TÁO” bên ngoài để tôi
có thể dễ dàng lấy trộm” [1; 128]
Ví dụ trên là một câu trần thuật của nhân vật Thiều nhưng không chỉ hướng
đến mục đích kể mà còn nhằm mục đích thể hiện hành vi cảm thán, bộ lộ tâm
trạng nhân vật.
- Điều kiện nội dung mệnh đề: Đây là lời độc thoại của nhân vật Thiều sau
khi nhận ra việc mình lấy trộm táo trên ngăn tủ cao bị ông Xung phát hiện.
- Điều kiện nội dung chuẩn bị: Thiều vì quá thèm món táo tàu mà đã bắc
ghế lên ngăn tủ đựng các vị thuốc ở tít trên cao của ông Xung lấy trộm. Tuy
nhiên, lại trượt chân ngã. Thiều cứ đinh ninh là không ai biết mình ăn trộm nhưng
hôm sau khi sang nhà ông Xung chơi nó nhận ra đã bị phát hiện vì thấy ngăn
đựng táo được cho xuống thấp để Thiều tiện lấy. Thiều cảm thấy rất xấu hổ và
chạy một mạch về nhà.
- Điều kiện chân thành: phát ngôn trên thể hiện nỗi xấu hổ tận cùng của
nhân vật Thiều khi bị ông Xung phát hiện là kẻ trộm. Và nó càng xấu hổ hơn khi
ông Xung không hề nói ra mà còn lẳng lặng đặt ngăn táo xuống dưới cho Thiều
dễ lấy.
- Điều kiện căn bản: là câu trần thuật về sự việc trộm táo bị phát hiện và
kết quả nhưng phát ngôn trên chứa cả hành vi cảm thán thể hiện tâm trạng xấu
hổ của Thiều.
Như vậy hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
của Nguyễn Nhật Ánh còn được biểu hiện gián tiếp thông qua các kiểu câu kể,
câu hỏi, câu cầu khiến. Điều này giúp cho các hành vi cảm thán của nhân vật
được biểu hiện phong phú, đa dạng. Cùng một biểu hiện tâm trạng, cùng một
cung bậc cảm xúc của nhân vật nhưng trong các cảnh huống khác nhau, với
những cách biểu hiện khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp đã góp phần xây dựng
nên những chân dung nhân vật sinh động, điển hình, tạo nên một thế giới tuổi
thơ đầy màu sắc khiến bất cứ ai cũng đều mong muốn được trở về.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và phân tích các phương
60
tiện được Nguyễn Nhật Ánh sử dụng để thể hiện hành vi cảm thán trong tác phẩm
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Đó là các từ ngữ cảm thán, quán ngữ và các
phương tiện ngôn ngữ thể hiện hành vi cảm thán trục tiếp và gián tiếp.
Từ ngữ cảm thán là phương tiện giữ vai trò quan trọng trong biểu đạt hành
vi cảm thán và được sử dụng với số lượng lớn: 495 lượt từ. Trong đó các từ lắm,
quá, ờ được sử dụng nhiều nhất, chiếm 25,45% số lượt sử dụng từ cảm thán trong
tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh mà chúng tôi khảo sát và thống kê. Các từ tình
thái từ như a, à, ôi, ối, ủa…xuất hiện với số lượng ít hơn nhưng đã bộc lộ trực
tiếp hành vi cảm thán của nhân vật với nhiều cung bậc khác nhau: thương cảm,
xót xa; buồn rầu, tiếc nuối, lo lắng, sợ hãi; chê cười, mỉa mai; ngạc nhiên, bất
ngờ, mừng vui...
So với từ ngữ cảm thán, quán ngữ có tần số xuất hiện ít hơn trong đó chủ
yếu là quán ngữ đưa dẩy. Tuy nhiên đây cũng là một phương tiện góp phần biểu
đạt rõ nét hành vi cảm thán của nhân vật trong tác phẩm. Với tổng số 360 luợt sử
dụng các quán ngữ đưa đẩy có vai trò quan trọng trong biểu đạt các sắc thái cảm
xúc, tâm trạng của nhân vật và người kể chuyện.
Hành vi cảm thán trực tiếp được nhận biết dựa vào các dấu hiệu hình thức
là từ cảm thán và dấu chấm than. Từ cảm thán bao gồm các từ cảm thán đích
thực (từ biểu thị trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng, tình cảm khác nhau của
người nói trước hiện thực khách quan) và các từ cảm thán lâm thời (là những phụ
từ, kết từ, trợ từ, tính từ, đại từ,…trong những văn cảnh cụ thể thể hiện hành vi
cảm thán). Dấu chấm than đã được sử dụng 102 lần trong tác phẩm với tác dụng
nhấn mạnh ý nghĩa cảm thán trong phát ngôn.
Hành vi cảm thán gián tiếp được biểu hiện thông qua các hành vi kể, hỏi,
cầu khiến nhằm mục đích cảm thán. Trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh mà
chúng tôi khảo sát, nhà văn đã sử dụng 101 câu hỏi với mục đích gián tiếp thể
hiện hành vi cảm thán, 146 câu cầu khiến gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán,
189 câu kể gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán. Điều này giúp cho các hành vi
cảm thán của nhân vật được biểu hiện phong phú, đa dạng trong các hoàn cảnh
khác nhau.
61
Như vậy với kết quả khảo sát ở chương 2, luận văn đã thực hiện được một
phần nghiên cứu là tìm hiểu các phương tiện thể hiện hành vi cảm thán và các
loại hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn
Nhật Ánh. Trên cơ sở đó, luận văn tiếp tục nghiên cứu chức năng của hành vi
cảm thán trong hội thoại của tác phẩm này trong chương 3.
Chương 3
CHỨC NĂNG HỘI THOẠI CỦA HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TÁC
PHẨM TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH
62
3.1. Dẫn nhập
Hội thoại là hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người và cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hiểu một cách thông thường nhất, hội thoại là “nói chuyện với nhau”. Mỗi hội thoại bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc, diễn ra trong sự tương tác hai chiều giữa người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời. Hành vi ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. Để hiểu được các cặp thoại, các ứng xử bằng lời cũng như các yếu tố ngôn ngữ kèm lời đều phải căn cứ vào hành vi ngôn ngữ đi trước hoặc đi sau. Vì thế hành vi ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong ngữ pháp hội thoại. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ xin khảo sát, thống kê và nghiên cứu chức năng của một loại hành vi ngôn ngữ trong hội thoại: hành vi cảm thán trên ngữ liệu là tập truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Bảng 3.1. Thống kê chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại
STT Số lượt Chức năng của hành vi cảm thán trong hội thoại Tỉ lệ phần trăm (%)
1. Chức năng duy trì cuộc thoại của 530 77,15 % hành vi cảm thán
2. Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của 102 14,85 % hành vi cảm thán
3 Chức năng kết thúc cuộc thoại của 55 8,01 % hành vi cảm thán
Tổng số 687 100%
Qua bảng thống kê trên chúng tôi nhận thấy:
Hành vi cảm thán được dùng với chức năng duy trì cuộc thoại chiếm số
lượng nhiều nhất: 530 lượt (chiếm 77,15%), so với hành vi cảm thán được dùng
với chức năng dẫn nhập cuộc thoại: 102 lượt (chiếm 14,85%) và chức năng kết
thúc cuộc thoại: 55 lượt (chiếm 8,01%)
3.2. Chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán
Một cuộc hội thoại được duy trì khi diễn ra sự tương tác hai chiều giữa
người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời, tức là gồm các tham thoại
63
hồi đáp với các hành vi ngôn ngữ khác nhau, với các chủ đề, nhân vật giao tiếp
và ngữ cảnh khác nhau. Khảo sát các hành vi ngôn ngữ trong tác phẩm Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi nhận thấy các hành vi
cảm thán duy trì cuộc thoại được sử dụng với số lượng lớn: 530 lượt chiếm 77,15
%
Bảng 3.2. Thống kê chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán
Chức năng duy trì cuộc thoại Tỉ lệ phần trăm STT Số lượt của hành vi cảm thán (%)
1 Hồi đáp cho hành vi hỏi 33,58 % 178
2 Hồi đáp cho hành vi cầu khiến 19,25 % 102
3 Hồi đáp cho hành vi cảm thán 15,09 % 80
4 Hồi đáp cho hành vi thông báo 10,57 % 56
5 Hồi đáp cho hành vi thuyết phục 6,23 % 33
6 Hồi đáp cho hành vi kể 5,47 % 29
7 Hồi đáp cho hành vi đánh giá 4,53 % 24
8 Hồi đáp cho hành vi nhắc nhở 3,40 % 18
9 Hồi đáp cho hành vi đe dọa 1,13% 6
10 Hồi đáp cho hành vi xin lỗi 0,75 % 4
Tổng số 100% 530
3.2.1. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi hỏi
Hành vi hỏi là một hành vi được sử dụng nhiều trong các cuộc thoại, có
vai trò quan trọng liên kết và duy trì sự tương tác giữa người nói Sp1 và người
nghe Sp2. Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh mà luận văn khảo
sát, hành vi cảm thán được sử dụng nhiều nhất để hồi đáp cho hành vi hỏi: 178
lượt (chiếm 33,58 %).
3.2.1.1. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi hỏi nhằm mục đích
để trả lời
Ví dụ:
64
[80] “Tôi nín thở, hỏi:
Sp1: - Con có mấy cái hoa tay hở chú?
Chú Đàn lắc đầu thất vọng
Sp2: - Chẳng có cái nào hết” [1;10]
Trong lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) với lượt lời của Sp2 (nhân vật nhân
vật chú Đàn) là hai tham thoại với mục đích tìm câu trả lời cho số lượng hoa tay của
Thiều. Câu trả lời của chú Đàn chứa hành vi cảm thán thể hiện sự thất vọng sau khi
xem các ngón tay của Thiều nhưng không tìm thấy cái nào hết.
Ví dụ:
[81] “Sp1: - Con nói không đúng hả chú? - Tôi lo lắng
Sp 2: - Không! Con nói rất hay! Điều đớn giản thế mà lâu nay
chú không nghĩ ra! Ha Ha, hay quá! Thế là tôi vẫn có năm cái hoa tay, bà con
ơi!” [1; 24]
Hành vi cảm thán của Sp2 (nhân vật chú Đàn) với thái độ ngạc nhiên xen
lẫn vui mừng, hạnh phúc khi nhận ra điều mà bấy lâu nay chú Đàn không hề hay
biết rằng: dù bàn tay phải không còn nhưng chú vẫn là người có năm cái hoa tay.
Một sự thật mà nếu Thiều không nói ra thì có lẽ chú Đàn sẽ chẳng bao giờ nghĩ
tới.
3.2.1.2. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi hỏi nhằm mục đích
khẳng định
Ví dụ:
[82] “Tường chưa chịu thôi. Lần nào nó cũng hỏi câu cũ rích:
Sp1: - Sao con ma không lẻn ra ngoài bằng cửa trước hả chú? Để được
nghe chú Đàn trả lời cũng bằng câu cũ rích khác:
Sp2: - Ma không bao giờ ra vào bằng cửa trước. Ma chỉ đi cửa sau
hoặc cửa hông.” [1; 29]
Lượt thoại của Sp1 (nhân vật Tường) đã sử dụng hành vi hỏi nhưng với
mục đích để nghe Sp2 (nhân vật chú Đàn) trả lời lại thắc mắc của mình một lần
nữa để khẳng định việc con ma không bao giờ lẻn ra ngoài bằng cửa trước mà
chỉ ra bằng cửa sau và cửa hông dù Tường đã biết câu trả lời.
65
Ví dụ:
[83] “Tôi sực nhớ ra:
Sp1: - Hồi trưa chắc mày te tua với ba hả?
Sp2: - Anh cũng biết rồi mà” [1; 49]
Trong đối thoại ở ví dụ trên, ở lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) đã biết
chắc chắn kết cục của Tường về nhà thế nào cũng bị ba đánh cho te tua và hành vi
hỏi của Thiều là để khẳng định rõ hơn việc Tường bị đánh cũng như thể hiện sự áy
náy, hối lỗi và thương xót cho em trai vì đã ném đá khiến Tường bị cháy máu.
Ví dụ:
[84] “Sp1: Thế chuyện cô Thoan đi hái củi bị ma giấu cũng phịa à?
Sp2: - Cũng phịa. - Sơn gật đầu, nó nói bằng cái giọng như thể trừ
đứa ngu là tôi ra cả làng này ai cũng biết sự thực cả rồi - Cả chuyện thằng Ghế
đi làm rẫy gặp ma trêu cũng thế.” [1; 118]
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) là câu hỏi nhưng với mục đích khẳng
định chắc chắn việc cô Thoan đi hái củi bị ma giấu là câu chuyện thêu dệt không
có thực, vì Thiều cũng đã có được câu trả lời trước khi hỏi Sp2 là nhân vật Sơn.
3.2.1.2. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi hỏi nhằm mục đích
trách móc, giận giữ, mỉa mai
Ví dụ:
[85] “Lúc tôi vác bộ mặt đẫm nước mắt quay về chỗ ngồi sau khi bị thầy
Nhãn trừng phạt, con Xin đã lo lắng quay sang tôi, giọng ngập tràn hối hận:
Sp1: - Mình xin lỗi bạn nhé. Mình không ngờ thầy Nhãn lại phạt bạn.
Sp2: - Xin lỗi cái đầu mày! - Tôi điên tiết - Mày nghĩ sao mà đem lá thư
của tao nộp cho thầy vậy hả?
Sp1: - Mình có nghĩ gì đâu. Mình tưởng bạn chọc phá mình nên mình
méc với thầy thôi.
Sp2: - Mày đui hả? - Tôi càng cáu - Tao chọc phá mày hồi nào?” [1 ;88]
Trong ví dụ này, Sp2 (nhân vật Thiều) đã sử dụng hành vi hỏi nhằm mục
đích trách móc, thể hiện thái độ giận giữ với Sp1 (nhân vật Xin) vì con Xin đã
66
đem bức thư Thiều nhờ Sơn gửi cho lên mách với thầy khiến Thiều bị phạt. Vốn
chỉ định bắt chước chú Đàn viết thư cho chị Vinh vậy mà lại bị con Xin mách
thầy nên Thiều cảm thấy rất tức giận.
Ví dụ:
[86] “Đấm chán, thằng Sơn dừng tay, hằm hè:
Sp1: - Thế nào? Thứ như tao có rớ được con Mận không?
Nhớ tới vẻ mặt buồn thảm và những giọt nước mắt của con Mận hôm nào,
tôi quên cả đau.
Sp2: - Rớ cái củ cải tao đây nè! Đồ chó!” [1;149]
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Sơn) gồm hai tham thoại và cả hai tham thoại
đều là tham thoại hỏi nhưng nhằm mục đích mỉa mai đến Sp2 (nhân vật Thiều).
Vì bị Thiều nói không xứng với con Mận nên Sơn đã ra tay đập cho Thiều một
trận rất đau rồi nhơn nhơn bộ mặt mỉa mai khi nhìn Thiều bầm dập dưới đất.
Nhưng vẫn bị Thiều đáp lại với thái độ giận dữ, coi thường.
3.2.2. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cầu khiến
Hành động cầu khiến là một kiểu hành động ngôn trung được thực hiện
bằng lời nói (sp1) nhằm cầu khiến người nghe (sp2) thực hiện hành động mà
người nói (chủ ngôn) mong muốn, yêu cầu. Hành động này được giới chuyên
môn gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cầu khiến, khuyến lệnh, điều khiển...
mỗi thuật ngữ đều phản ánh được một hoặc vài trong số các đặc trưng của nhóm:
cầu khiến (mong muốn, áp đặt); khuyến lệnh (gợi ý, bắt buộc); điều khiển (làm
cho) người nghe thực hiện một việc nào đó trong tương lai. Sau hành vi cầu
khiến SP1 thường nhận được hành vi cảm thán tương ứng của SP2 bộc lộ tình
cảm, cảm xúc của mình. Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, chúng
tôi thống kê được nhiều lần hành vi cảm thán được sử dụng để hồi đáp cho hành
vi cầu khiến: 102 lượt (chiếm 19,25)
3.2.3.1. Hành vi cảm thán hồi đáp hành vi cầu khiến để yêu cầu, ra lệnh
Ví dụ:
[87] “Chú Đàn bảo tôi:
67
Sp1: - Con xòe tay ra cho chú xem nào!
Tôi co những ngón tay lại, nắm thật chặt và giấu ra sau lưng:
Sp2: - Tay con sạch cơ mà. Hồi sáng con đã rửa tay rồi.” [1; 9]
Trong ví dụ trên, Sp1 (nhân vật chú Đàn) đã yêu cầu Sp2 (nhân vật Thiều)
xòe tay ra cho chú xem, Sp2 ngay lập tức đã đáp lại Sp1 bằng việc giải thích
rằng tay mình sạch vì tưởng Sp1 khám tay xem có sạch không.
Ví dụ:
[88] “Tôi bỗng buột miệng:
Sp1: - Chú đừng thổi kèn nữa.
… Chú Đàn nhét cây kèn vào túi áo:
Sp2: - Ờ, chú không thổi nữa. Để chú kể chuyện ma cho tụi con
nghe.” [1; 113]
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) chứa hành vi cầu khiến: yêu cầu Sp2
(nhân vật chú Đàn) dừng thổi kèn acmonica vì giai điệu nghe rất buồn. Yêu cầu
của Sp1 đã được Sp2 chấp thuận ngay mà không hề do dự.
3.2.3.2. Hành vi cảm thán hồi đáp hành vi cầu khiến khuyên
Ví dụ:
[89] “Nhưng phản ứng của chú Đàn ra ngoài suy nghĩ của tôi. Chú đột
ngột hạ giọng, vẻ trầm tư:
Sp1: - Bạn của con không sợ ma đâu. Bạn con đang sợ nỗi trống trải. Con
nên luôn ở bên cạnh bạn nha con!
Sp2: Dạ!” [1; 191]
Lượt lời của Sp1 (nhân vật chú Đàn) chứa ba tham thoại, trong đó tham
thoại thứ ba chứa hành vi cầu khiến: khuyên Sp2 (nhân vật Thiều) nên ở bên
cạnh giúp đỡ, quan tâm và sẻ chia với Mận vì trong hoàn cảnh éo le này Mận rất
cần một chỗ dựa.
Ví dụ:
[90] “Đã thế, cứ mỗi lần ném trúng tôi, thằng Tường lại thõng tay, giọng
áy náy:
68
Sp1: - Thôi, mình ngừng chơi nghe anh.
Tôi tự ái ghê gớm mỗi lần nghe nó nói thế.
Sp2: - Không ngừng gì hết!” [1; 45]
Đoạn thoại trên chứa lượt lời của Sp1 (nhân vật Tường) và Sp2 (nhân vật
Thiều). Trong lượt lời của Sp1 bộc lộ hành vi cầu khiến: khuyên Sp2 ngừng chơi
trò ném đá nhưng không được Sp2 chấp nhận vì để thua Sp1 nên sp2 cảm thấy
rất tự ái, tức giận và không muốn dừng cuộc chơi.
3.2.3.3. Hành vi cảm thán hồi đáp hành vi cầu khiến thúc giục
Ví dụ:
[91] “Sp1: - Anh vén áo lên đi - Tường nhìn lom lom vô bụng tôi hào hứng
giục.
Sp2: - Thôi. - Tôi bước lui một bước - Mày phanh rốn cho nó cắn
trước đi!” [1; 105]
Trong lượt lời của Sp1 (nhân vật Tường) có một tham thoại bộc lộ hành
vi cầu khiến mang ý thúc giục Sp2 (nhân vật Thiều) vén áo lên để Sp1 cho chuồn
chuồn cắn rốn Sp2. Vì nghe lời chú Đàn bảo rằng cho chuồn chuồn cắn rốn sẽ
biết bơi ngay.
Ví dụ:
[92] “Lần này tôi không sút vào bờ đất. Tôi đá vào chân thằng Dưa:
Sp1: - “Ờ há” cái gì! Mày khai thật đi! Tại sao mày bịa ra chuyện chị
Vinh chết đuối?
Dưa bị tôi bắt nọn, mặt nhợt đi:
Sp2: - Tao nói, tụi mày không được kể lại với ai đấy nhé!” [1; 256]
Trong đoạn thoại trên, lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) có ba tham
thoại, trong đó tham thoại thứ hai chứa hành vi cầu khiến: thúc giục Sp2
(nhân vật Dưa) mau nói ra sự thật vì sao nó lại bịa ra chuyện chị Vinh bị lũ
cuốn chết đuối.
3.2.3. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán
Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán có tần xuất
sử dụng tương đối nhiều trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh mà luận văn khảo
69
sát, thống kê được: 80 lượt (chiếm 15,09 %). Theo đó, hành vi cảm thán là hành
vi bày tỏ tình cảm, cảm xúc, thái độ một cách tự phát của nhân vật. Hành vi cảm
thán thông thường được sử dụng trong lượt lời của SP1(người nói) nhưng trong
nhiều trường hợp còn được sử dụng trong lượt lời của SP2 (người nghe). Trong
trường hợp này hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho chính hành vi cảm
thán. Theo tác giả Hà Thị Hải Yến, trong luận án tiến sĩ ngôn ngữ học “Hành vi
cảm thán và sự kiện lời nói cảm thán trong tiếng Việt” hành vi cảm thán được
phân thành hai loại: hành vi cảm thán tích cực và hành vi cảm thán tiêu cực.
Trong luận văn này, chúng tôi cũng tiến hành phân tích hành vi cảm thán được
dùng để hổi đáp cho hành vi cảm thán trên hai phương diện: hành vi cảm thán
tích cực và hành vi cảm thán tiêu cực.
3.2.2.1. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán tích cực
“Hành vi cảm thán tích cực biểu hiện những trạng thái tình cảm tích cực
như: trân trọng, ca ngợi, thông cảm, yêu thương, nỗi vui mừng, ngạc nhiên, phấn
khởi, ước mơ, hi vọng…Đó là những hành vi cảm thán đem lại cho người nói
những sắc thái tình cảm tích cực, bộc lộ niềm phấn chấn, thái độ vui vẻ, lạc
quan, tâm lí ham sống, ham hoạt động, biểu thị lòng tự hào, ngợi ca, hi vọng.”
[48; 85]. Trong truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, hành vi cảm thán
được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán tích cực chủ yếu biểu hiện tâm trạng
vui mừng phấn khởi, hạnh phúc.
Ví dụ:
[93] “Sp1: - Mưu mẹo của anh hay thật. Em chả nghi ngờ gì cả. Lớn lên
nếu đi đánh giặc thế nào anh cũng làm tới đại tướng.
Sp2: - Chắc chắn rồi!” [1; 47]
Trong đoạn thoại trên, bằng hành vi cảm thán Sp2 (nhân vật Thiều) đã bày
tỏ thái độ đồng tình xen lẫn vui sướng, tự hào khi nhận được lời khen ngợi, thán
phục từ Sp1 (nhân vật Tường - em trai Thiều).
Ví dụ:
[94] “Sp1: - Sắp đến mùa hè rồi đó.
Sp2: - Dạ.
70
Sp1: - Khi nào mùa hè tới, lũ ve sầu trở lại, tao sẽ dẫn mày đi rình
bắt ve ve.
Sp2: - Ôi, thích quá! Bắt bằng mủ mít hở anh?” [1; 99]
Hành vi cảm thán trong tham thoại của Sp2 (nhân vật Tường): “Ôi, thích
quá?” thể hiện thái độ mừng vui, háo hức và phấn khích của Tường khi được
Sp1 (nhân vật Thiều - anh trai Tường) hứa khi mùa hè tới sẽ dẫn Tường đi bắt
ve ve vì Tường rất thích sâu bọ và côn trùng.
3.2.2.2. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi cảm thán tiêu cực
“Hành vi cảm thán tiêu cực là những hành vi cảm thán đem lại cho người
nói những sắc thái tình cảm, tâm trạng buồn chán, bi quan, tâm lí buông xuôi,
cam chịu, thất vọng, tức giận, phẫn uất, hoảng hốt, lo sợ…’’ [48; 87]. Trong tác
phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh sử dụng những hành
vi cảm thán hồi đáp cho những hành vi cảm thán tiêu cực thể hiện tâm trạng tức
giận, lo lắng, sợ hãi…
Ví dụ:
[95] “Tôi lại gần, cúi xuống nhìn, thấy con sâu cuốn chiếu đang nằm co
ro trong lòng bàn tay Tường.
Sp1: - Ghê quá! - Tôi nhăn mặt - Mày chơi sâu à?
Sp2: Sâu cuốn chiếu mà, anh Hai. Nó hiền khô à.” [1;102]
Trong tham thoại của Sp1 (nhân vật Thiều) thể hiện hành vi cảm thán sợ
hãi khi nhìn thấy con sâu trên tay nhân vật Tường - Sp2, đáp lại hành vi ghê sợ
của Thiều là hành vi cảm thán khen của Tường thể hiện ở tham thoại thứ 2: “nó
hiền khô à.”
3.2.4. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thông báo
Hành vi thông báo là hành vi nhằm đưa đến một lượng thông tin mà người
đối thoại chưa biết, chưa được sáng tỏ, đang cần phải biết. Hành vi cảm thán
được sử dụng để hồi đáp hành vi này có thể thể hiện nhiều nét tâm trạng khác
nhau như: bất ngờ, vui mừng, phấn khởi, bực tức… Hành vi cảm thán được dùng
để hồi đáp cho hành vi thông báo có số lượt sử dụng nhiều lần trong tác phẩm
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh mà luận văn khảo sát,
71
thống kê được: 56 lượt (chiếm 10,57 %).
Ví dụ:
[96] “Riêng con Mận, ngón tay nào của nó cũng có hoa tay. Các đường
vân tròn xoay, đều tăm tắp. Tôi nhìn những ngón tay nở hoa của nó, nói giọng
ghen tị:
Sp1: - Mày nhiều hoa tay thật đấy. Nếu mỗi bàn tay của mày có sáu ngón
như ông Năm Ve, chắc mày có tới mười hai cái hoa tay.
Con Mận rụt cổ:
Sp2: - Eo ôi, mình sợ lắm! Mình không cần tới mười hai cái hoa tay
đâu!” [1; 15].
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) nhằm thông báo cho Sp2 (nhân vật
Mận) biết được thông tin: Mận có nhiều hoa tay. Ngoài ra Sp1 còn thông báo
cho Sp2 rằng nếu mỗi bàn tay Sp2 có sáu ngón như ông Năm Ve thì nó sẽ có tới
mười hai cái hoa tay. Thông tin mà Sp1 thông báo khiến cho Sp2 cảm thấy sợ
hãi.
Ví dụ:
[97] “Sp1: - Tường nè. - Giọng tôi chùng xuống.
Sp2: - Gì hở anh?
Sp1: - Sắp đến mùa hè rồi đó.
Sp2: - Dạ.
Sp1: - Khi nào mùa hè tới, lũ ve sầu trở lại, tao sẽ dẫn mày đi rình
bắt ve ve.
Sp2: - Ôi, thích quá! Bắt bằng mủ mít hở anh?” [1; 99].
Trong lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) có nêu lên thông báo về việc khi
mùa hè đến, lũ ve sầu trở lại Sp1 sẽ dẫn Sp2 (nhân vật Tường) đi bắt ve ve.
Thông báo này của Sp1 khiến cho Sp2 rất thích thú, vui mừng và vô cùng háo
hức mong đến mùa hè.
3.2.5. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thuyết phục
Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi thuyết phục có số
lượt sử dụng lặp đi lặp lại trong ba tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng mà luận văn
72
khảo sát, thống kê được là: 33 lượt (chiếm 6,23%).
Ví dụ:
[98] “Sợ nó từ chối, tôi hắng giọng tâng bốc:
Sp1: - Chim xanh oai lắm! Không phải ai cũng làm chim xanh được
đâu. Phải là người giỏi giang lắm mới làm được.
Sp2: - Nhảm nhí!” [1; 80].
Nhằm đạt được mục đích là thuyết phục Sp2 (nhân vật Sơn) nhận lời đồng
ý đưa thư cho con Xin giúp mình, Sp1 (nhân vật Thiều) đã sử dụng đến ba tham
thoại trong một lượt lời đều cùng một mục đích ấy. Tuy nhiên qua hành vi cảm
thán của Sp2, ta thấy Sp2 chưa bị thuyết phục bởi những lời tâng bốc của Sp1.
Ví dụ:
[99] “Tôi bĩu môi:
Sp1: - Đó là trò con gái. Tao và mày là con trai. Con trai phải chơi
trò ném đá hoặc phóng dao.
Tôi nhìn thằng Tường qua khóe mắt láu lỉnh:
Sp1: - Hay mày muốn chơi trò phóng dao?
Nghe hai chữ phóng dao, thằng Tường sợ run:
Sp2: - Thôi, anh và em chơi trò ném đá đi!” [1; 44].
Trong ví dụ trên, Sp1 (nhân vật Thiều) có đến hai lượt lời bao gồm 4 tham
thoại đều nhằm đến đích ở lời là thuyết phục Sp2 (nhân vật Tường) chơi trò ném
đá. Sp2 đã bị thuyết phục và đồng ý chơi dù rất sợ bị ném vào đầu.
3.2.6. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi kể
Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi kể có số lượt sử dụng
lặp lại tương đối nhiều lần trong tập truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh với
tần xuất sử dụng là 29 lượt chiếm 5,47%
Ví dụ:
[100] Sp1: - Mày đừng giận tao nghe. Hồi trưa đáng lẽ tao không nên bỏ
chạy. Nếu ba đánh đòn cùng lúc hai đứa, tao đã san sẻ được với mày. Và mày
sẽ ăn đòn ít hơn.
73
Sp2: Anh bỏ chạy là đúng rồi. - Thằng Tường thò tay nắm tay tôi - Anh là
anh Hai, nếu anh đứng đó, em ăn đón ít hơn nhưng anh sẽ chết với ba. [1; 49]
Trong lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) chứa hành vi kể về sự việc buổi
trưa khi Sp2 (nhân vật Tường) bị đánh đáng lẽ Sp1 nên ở đấy chịu tội và san sẻ
cùng Tường thì nó đã không bị đánh đau đến thế. Sp2 đã hồi đáp bằng hành vi
cảm thán khẳng định thái độ đồng tình với hành động của Sp1.
Ví dụ:
[101] “Tôi cắn môi:
Sp1: Thế thầy không hỏi gì sao?
Sp2: Có. Thỉnh thoảng thầy hỏi “Con đi đâu đó Tường?”. Có hôm
hỏi Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?”.
Tôi rụt cổ:
Sp1: Nếu tao là mày chắc tao tè ra quần rồi” [1; 70].
Sau lời kể của Sp2 (nhân vật Tường) để giải đáp thắc mắc của Sp1 (nhân
vật Thiều) về việc mỗi lần Sp2 sang đưa thư cho chị Vinh thầy Nhãn hỏi những
gì, Sp1 thể hiện thái độ run sợ và quả quyết nếu là Sp2 thì Sp1 đã sợ thầy Nhãn
đến nỗi tè ra quần rồi.
3.2.7. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đánh giá
Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đánh giá có số lượt
sử dụng trong tập truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh với tần xuất sử
dụng là 24 lượt chiếm 4,53%.
Ví dụ:
[102] “Tường cười khì khì:
Sp1: - Anh nhát gan quá.
Bị chê, tôi nổi khùng:
Sp2: - Mày ngu quá! Tại giáo viên chủ nhiệm của mày là cô Trang. Nếu
mày học thầy Nhãn như tao thử coi mày có nhát gan không!” [1; 70].
74
Trong lượt lời của mình Sp1 (nhân vật Tường) đã nêu lên nhận xét, đánh giá về
Sp2 (nhân vật Thiều), bị chê Sp2 đã thể hiện sự khó chịu, không đồng tình bằng
cách nổi khùng phản đối lại Sp1.
Ví dụ:
[103] “Thằng Tường nghe tôi ba hoa phục lăn. Nó quên mất cơn đau âm
ỉ chỗ màng tang:
Sp1: - Mưu mẹo của anh hay thật. Em chả nghi ngờ gì cả. Lớn lên nếu đi
đánh giặc thế nào anh cũng làm tới đại tướng.
Sp2: - Chắc chắn rồi!” [1; 47]
Trong ví dụ trên, lời đánh giá của Sp1 (nhân vật Tường) bộc lộ thái độ nể phục
mưu mẹo của Sp2 (nhân vật Thiều) đã nhận được thái độ đồng tình của Sp2.
3.2.8. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi nhắc nhở
Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi nhắc nhở có số lượt
sử dụng trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh
mà luận văn khảo sát, thống kê được: 18 lượt (chiếm 3,40 %)
Ví dụ:
[104] “Sp1: - Ê, ê… Đừng chơi dại nha, Tường!
Tường ấn mạnh cái cắt móng tay:
Sp2: - Không dại khôn gì hết á. Thích là em chơi à.” [1; 181]
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Sơn) thể hiện hành vi nhắc nhở Sp2 (nhân vật
Tường) đừng chơi dại vì Sp1 lo sợ Sp2 làm hành động nguy hiểm có thể tổn hại
đến Sp1.
Ví dụ:
[105] “Sp1: - Thầy hỏi gì con phải đáp cho đàng hoàng nghe chưa!
Sp2: - Dạ.” [1; 241]
Khi biết thầy Nhãn đến tận nhà tra hỏi thằng Dưa về việc nó tận mắt nhìn
thấy chị Vinh - con gái thầy Nhãn bị lũ cuốn trôi, ông Năm Ve - Sp1 đã cẩn thận
dặn dò, nhắc nhở con trai - Sp2 phải trả lời cho đàng hoàng.
3.2.9. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đe dọa
75
Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh chúng tôi khảo sát và
thống kê được hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi đe dọa có số
lượt sử dụng là 6 lượt chiếm 1,13 %.
Ví dụ:
[106] “Tôi thu nắm đấm, môi giần giật:
Sp1: - Mày không được đụng tới con Mận!
Sp2: - Chà, mày ra lệnh cho tao đấy hả Thiều? - Sơn phun một bãi nước
bọt - Mày nghĩ mày là ai vậy?” [1; 169]
Sp1 (nhân vật Thiều) đã thể hiện thái độ đe dọa, yêu cầu Sp2 (nhân vật
Sơn) không được đụng tới con Mận vì Sơn có ý đồ xấu xa với Mận.
Ví dụ:
[107] “Sp1: - Anh nghe cho kỹ đây. - Tường gằn giọng, nó nói chậm rãi
như để sự hăm dọa có đủ thì giờ ngấm vô đầu thằng Sơn - Từ hôm nay trở đi, hễ
anh đụng vô anh Hai em, dù chỉ một sợi lông chân thôi, em sẽ giết chết anh, anh
hiểu chưa?
Sp2: - Ờ… ờ… hiểu… hiểu… - Thằng Sơn tiếp tục cà lăm, có lẽ
nó không ngờ khắc tinh của nó là một thằng oắt xưa nay nổi tiếng hiền
lành như Tường” [1; 162]
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Tường) có hai tham thoại và cả hai tham thoại
đều nhằm mục đích thể hiện hành vi cảm thán đe dọa Sp2 (nhân vật Sơn), yêu
cầu Sp2 từ nay không được đụng tới Thiều - anh trai Sp1 nếu không sẽ nhận kết
cục cay đắng.
3.2.10. Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi xin lỗi
“Xin lỗi là hành vi được sử dụng nhằm thực hiện chức năng ứng xử. Nó
thể hiện thái độ biết ơn và hối lỗi của người nói với người đối diện hoặc được
dùng với chức năng đưa đẩy nhằm làm tăng tính lịch sự trong lời” (Hành động
xin lỗi trong giao tiếp tiếng Việt)
Hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho hành vi xin lỗi có số lượt sử
76
dụng ít nhất trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh mà luận văn khảo
sát, thống kê được là 4 lượt (chiếm 0,75 %)
Ví dụ:
[108] “Tôi nhìn nó bằng ánh mắt rầu rầu:
Sp1: - Tường à. Anh thật là có lỗi với em.
Nó nắm tay tôi, nói như người lớn:
Sp2: Anh không có lỗi gì hết á. Số em nó vậy, ông thầy bói nói rồi mà,
anh. Nếu anh không lỡ tay thì sớm muộn gì em cũng té từ trên cây xuống hoặc
bị con trâu điên nhà ông Tư Cang húc phải. Rồi em cũng sẽ nằm bẹp như thế
này” [1; 301].
Lượt lời của Sp1 (nhân vật Thiều) chứa hành vi xin lỗi thể hiện thái độ hối
lỗi của Sp1 vì đã đánh Sp2 ra nông nỗi này.
Ví dụ:
[109] “Sp1: Mình xin lỗi bạn nhé. Mình không ngờ thầy Nhãn lại phạt bạn.
Sp2: - Xin lỗi cái đầu mày! - Tôi điên tiết - Mày nghĩ sao mà đem
lá thư của tao nộp cho thầy vậy hả?” [1; 88].
Trong lượt lời của Sp1 (nhân vật Xin) tham thoại thứ nhất trực tiếp bộc lộ hành
vi xin lỗi đến Sp2 (nhân vật Thiều) tuy nhiên không được Sp2 chấp nhận.
3.3. Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của hành vi cảm thán
Đặc điểm của hành vi cảm thán trong giao tiếp là bộc lộ tình cảm một cách
tự phát, không có tính chất đối thoại nhưng người sử dụng hành vi cảm thán trong
nhiều trường hợp vẫn mong nhận được sự hồi đáp từ phía người nghe, còn người
nghe trong những hoàn cảnh nhất định cũng cần phải hồi đáp. Trong những
trường hợp này, hành vi cảm thán được sử dụng với chức năng dẫn nhập cuộc
thoại. Theo khảo sát của luận văn, hành vi cảm thán được dùng để dẫn nhập cuộc
thoại được sử dụng với tần xuất: 102 lượt chiếm 14,85 %. Điều này được cụ thể
qua bảng thống kê sau:
Bảng 3.3. Thống kê chức năng dẫn nhập cuộc thoại
77
của hành vi cảm thán
STT Hành vi cảm thán dẫn nhập Số lần Tỉ lệ phần trăm
cuộc thoại xuất hiện %
1 Cầu khiến 41 40,20%
2 Chào, hô gọi 25 24,51%
3 Tuyên bố, thông báo 21 20,58%
4 Nhận xét, đánh giá 13 12,74%
5 Đe dọa 3 2,94%
Tổng số lần sử dụng 102 100%
3.3.1. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi cầu khiến
Theo khảo sát của luận văn, hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện
bằng hành vi cầu khiến được sử dụng nhiều nhất: 41 lượt, chiếm 40,20%.
Hành vi này có thể hướng tới cầu khiến (khuyên, đề nghị, ra lệnh…) với đối
tượng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia cuộc thoại.
Ví dụ:
[110] “- Mày đừng có chơi dại - Tôi nạt Tường
-Chú Đàn bảo thế mà.” [1; 108]
Đoạn thoại trên mở đầu bằng hành vi cảm thán của nhân vật Thiều với
mục đích nhắc nhở nhân vật Tường đừng chơi dại nếu không muốn bị đau.
Ví dụ:
[111] “Đang nói thằng Tường bỗng la “oái” một tiếng.
- Khe khẽ thôi mày! - Tôi giật mình - Gì vậy? Tao có đụng vô đầu
mày đâu.
- Nhưng anh đụng vô người em.” [1; 48]
Trong lượt lời của nhân vật Thiều, ở tham thoại thứ nhất thể hiện hành vi
cảm thán nhằm mục đích yêu cầu nhân vật Tường nói khẽ vì nói to quá ba nghe
thấy sẽ đánh cả hai anh em. Ngay sau đó Tường đã giải thích lí do cho việc nó la
lên là vì Thiều đụng vào cơ thể đang bầm dập đau đớn của nó sau khi một mình
chịu trận đòn của ba.
78
3.3.2. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi chào,
hô gọi
So với hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để cầu khiến thì hành vi cảm
thán dẫn nhập cuộc thoại thể hiện bằng hành vi chào, hô gọi được sử dụng trong
tập truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh ít hơn, cụ thể: 25 lượt, chiếm
24,51%. Hành vi này có vai trò quan trọng trong việc thể hiện mối quan hệ xã
hội của các nhân vật.
Ví dụ:
[112] “- Tường nè. - Giọng tôi chùng xuống
- Gì hở anh?
- Sắp đến mùa hè rồi đó
- Dạ” [1; 206]
Cách gọi “Tường nè” rất tự nhiên, việc sử dụng tên nhân vật để hô gọi thể
hiện mối quan hệ thân mật, gần gũi và đầy tình cảm giữa hai anh em Thiều và
Tường.
Ví dụ:
[113] “- Chú ơi, con Mận có tới mười cái hoa tay đó, chú.
- Thế à! - Chú Đàn ồ lên - Thế thì bạn đó viết và vẽ phải đẹp
lắm!” [1; 190]
Trong ví dụ trên, hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại là của nhân vật
Thiều. Cách hô gọi “chú ơi” mở đầu cuộc thoại thể hiện tình cảm thân mật, gần
gũi giữa các nhân vật trong cuộc thoại.
3.3.3. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để tuyên bố, thông báo
Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để tuyên bố, thông báo được sử
dụng với tần xuất: 21 lượt, chiếm 20,58%
Ví dụ:
[114] “ - Tường này. Tao vừa gặp công chúa…
79
Tôi nói sau khi trở ề từ xóm Miễu, cố chọn cách mở đầu sao cho
câu chuyện ít đột ngột nhất nhưng sau một hồi loay hoay trong vô vọng tôi đành
tặc lưỡi nói thẳng.
Tường không lộ vẻ gì ngạc nhiên. Nó cười bẽn lẽn:
- Em cũng vừa gặp công chúa sáng nay.” [1; 346]
Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại của nhân vật Thiều nhằm mục đích thông
báo cho nhân vật Tường biết một thông tin mà Thiều nghĩ sẽ khiến Tường bất
ngờ, đó là việc Thiều đã gặp công chúa. Nhưng trái với suy nghĩ của Thiều,
Tường không ngạc nhiên với thông tin vừa được Thiều thông báo mà tỏ ra rất
bình thản.
Ví dụ:
[115] “ - Mẹ con sắp được thả rồi.
Giống như mẹ tôi vừa liệng qua một quả bom. Tôi, con Mận và thằng
tường đều nhả dựng lên
- Ôi, thiệt không cô? - Con Mận gần như rên lên, nó phải vịn tay vào
cạnh bàn cho khỏi ngã” [1; 206].
Mẹ của Thiều thông báo đến Mận một tin bất ngờ, đầy vui mừng và hạnh
phúc rằng mẹ của Mận sắp được thả về sau bao ngày bị bắt vì bị tình nghi tội
giam giữ ba của Mận trái phép. Hành vi cảm thán thông báo đã mở đầu cuộc
thoại giữa hai nhân vật.
3.3.4. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để nhận xét, đánh giá
Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để nhận xét, đánh giá có số lần sử
dụng là 13 lượt chiếm 12,74%
Ví dụ:
[116] “Tôi cười khì khì trên đường từ suối về nhà:
- Thấy chưa! Tao đã bảo đây là trò ngu ngốc mà.
Tường chống chế:
- Hay tại chuồn chuồn ớt không linh. Hôm nào em sẽ bắt một con chuồn
chuồn ngô” [1; 107].
Đoạn thoại trên là của hai nhân vật Thiều và Tường, trong đó lượt lời của
nhân vật Thiều có chức năng dẫn nhập cuộc thoại bộc lộ hành vi cảm thán đánh
80
giá, nhận xét hành động của Tường cho chuồn chuồn cắn rốn để biết bơi là trò
ngu ngốc.
Ví dụ:
[117] “- Chắc con Nhi bị bệnh nặng rồi, anh Hai.
- Không có đâu ! - Tôi phác một cử chỉ như muốn nói là mày yên tâm đi,
chẳng có chuyện gì xảy ra với con Nhi hết á” [1; 353].
Lượt lời của nhân vật Tường đã mở đầu cuộc thoại giữa hai nhân vật
Tường và Thiều bằng việc đưa ra nhận xét về bệnh tình của con Nhi chắc nặng
rồi nhưng ngay sau đó Tường đã được Thiều chấn an rằng con Nhi không bị làm
sao hết, hãy yên tâm đi.
3.3.5. Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để đe dọa
Hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại để đe dọa có tần xuất sử dụng ít
nhất trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh mà chúng tôi khảo sát được
là 3 lượt, chiếm 2,94%
Ví dụ:
[118] “Sơn đã sợ lắm nhưng vẫn còn gân cổ đe:
- Tao không bỏ qua cho hai anh em mày đâu.
Thằng tường rút từ trong túi quần ra một cái cắt móng tay. Nó nắm chặt thứ đồ
vô hại đó trong lòng bàn tay, để thò một tí kim loại ra ngoài, rồi vén áo thằng
Sơn lên và gí vào bụng thằng này.
- Anh biết cái gì đây không, anh Sơn?
Nghe lành lạnh, thằng sơn vãi mồ hôi, vẻ mặt cứng cỏi lập tức tuột khỏi
gương mặt nó. Có vẻ nó cố đừng để hai hàm răng va vào nhau nhưng tôi vẫn
nghe những tiếng "lộp cộp" lẫn trong câu nói lắp bắp của nó:
- Ê, ê… Đừng chơi dại nha, Tường!” [1; 161].
Lời thoại dẫn nhập của nhân vật người Sơn nhằm mục đích đe dọa sẽ
không bỏ qua cho hai anh em Thiều và Tường, sau khi bị hai anh em lập mưu trả
thù đánh cho Sơn một trận đau đớn.
3.4. Chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán
Xuất phát từ đặc điểm của hành vi cảm thán là không nhất thiết trong mọi
81
trường hợp đều cần sự hồi đáp nên hành vi cảm thán có khả năng thực hiện chức
năng kết thúc cuộc thoại. Trong ba chức năng (dẫn nhập, duy trì, kết thúc cuộc
thoại), chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán được sử dụng với số
lượt xuất hiện ít nhất: 55 lượt (chiếm 8,01 %).
Bảng 3.4. Thống kê chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán
Hành vi cảm thán kết thúc Tỉ lệ phần STT Số lượt cuộc thoại trăm %
1 Hành vi cầu khiến 41,82 % 23
2 Hành vi nhận xét, đánh giá 32,73% 18
3 Hành vi tuyên bố, thông báo 12,73 % 7
4 Hành vi khen 7,27 % 4
5 Hành vi chửi 5,45 % 3
Tổng số lượt 100% 55
3.4.1. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi cầu khiến
Theo kết quả khảo sát, thống kê hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được
thực hiện gián tiếp bằng biểu thức của hành vi cầu khiến được sử dụng lặp đi lặp
lại nhiều lần nhất trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh với 23 (chiếm 41,82 %).
Ví dụ:
[119] “Chú Đàn lườm tôi:
- Đi trông nhà giúp bạn mà ngủ say như thế, có ngày trộm vào khiêng
con đi mất.
- Chú đừng lo. - Tôi cười - Sáng ra con thấy con Mận ôm con chặt lắm,
trộm không khiêng đi được đâu” [1; 191].
Đoạn thoại mở đầu bằng lời than trách của chú Đàn với nhân vật Thiều về
việc nó sang trông nhà giúp bạn mà ngủ say như thế có ngày trộm vào khiêng đi
mất. Vì vậy, Thiều đã kết thúc cuộc thoại bằng cách trấn an chú Đàn thông qua
82
việc sử dụng hành vi cầu khiến “chú đừng lo” để gián tiếp thể hiện hành vi cảm
thán trong lượt lời của mình.
Ví dụ:
[120] “Sơn trợn mắt nghiêng ngó, lấy tay khều khều từng viên bi rồi liếm
mép:
- Viên nào tao cũng thích hết.
- Là sao?
- Tao lấy hết chỗ này. - Sơn nhăn nhở.
- Tao đập mày nghe, sơn! - Tôi phồng mang mặt đỏ bừng - Cả tuần nay
tao mới đánh thắng được từng này. Mày lấy hết tao lấy gì tao chơi.
- Mày không đồng ý thì thôi. - Sơn vừa nói vừa quay mình bỏ đi - Tự
mày đưa thư cho con Xin đi.” [1; 82]
Cuộc thoại trên giữa hai nhân vật Thiểu và Sơn đã kết thúc bằng hành vi
cảm thán với ý khẳng định được thể hiện gián tiếp thông qua hành vi cầu khiến
yêu cầu Thiều tự đưa thư cho Xin.
Ví dụ:
[121] “Chú lặn một mạch qua bờ bên kia, trồi đầu lên giữa bụi chuối
nước nở hoa đỏ ối ven bờ, cười toe toét:
- Hay không?
Tường vỗ tay bôm bốp:
- Hay quá! Chú dạy tụi con bơi đi.” [1; 108]
Nhân vật Tường đã kết thúc đoạn thoại với nhân vật chú Đàn bằng hành
vi cảm thán thể hiện thái độ khen ngợi, hào hứng và phấn khích khi thấy chú Đàn
thể hiện tài năng bơi lội. Hành vi cảm thán của Tường được thể hiện gián tiếp
qua hành vi cảm thán đề nghị chú Đàn dạy bơi.
3.4.2. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi nhận xét, đánh giá
Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng biểu
83
thức của hành vi nhận xét, đánh giá được sử dụng 18 lần trong tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh mà luận văn thống kê (chiếm 32,73%).
Ví dụ:
[122] “Sợ nó từ chối tôi hắng giọng tâng bốc:
- Chim xanh oai lắm! Không phải ai cũng làm chim xanh được đâu.
Phải là người giỏi giang lắm mới làm được.
- Nhảm nhí!” [1; 80]
Trong ví dụ trên, nhân vật Sơn đã kết thúc cuộc thoại với nhân vật Thiều
và thể hiện thái độ từ chối bằng cách đưa ra đánh giá về việc làm “chim xanh”
cho Thiều là nhảm nhí.
Ví dụ:
[123] “Tôi thu nắm đấm, môi giần giật:
- Mày không được đụng tới con Mận!
- Chà, mày ra lệnh cho tao đấy hả thiều? - Sơn phun một bãi nước bọt
– Mày nghĩ mày là ai vậy?
Nó lại đập tay lên vai tôi, hừ giọng:
- Thằng em mày thì kinh thật, chứ mày chỉ là con muỗi trong mắt tao
thôi. Tao chỉ bóp một cái là bẹp!” [1; 169]
Đoạn thoại giữa nhân vật Thiều và nhân vật Sơn kết thúc bằng hành vi
cảm thán được thực hiện gián tiếp bằng hành vi nhận xét của Sơn dành cho Thiều
với thái độ mỉa mai, chế giễu: Trong mắt Sơn, Thiều chỉ là con muỗi yếu ớt, nhỏ
bé dễ dàng bị bắt nạt.
3.4.3. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi tuyên bố, thông báo
Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng biểu
thức của hành vi tuyên bố, thông báo được sử dụng 7 lần và chiếm 12,73% trong
tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên có xanh của Nguyễn Nhật Ánh.
Ví dụ:
[124] “- Tao giúp chị Vinh không phải vì tiền. - Thằng Dưa ngoảnh mặt
đi - Chị Vinh thương tao nhất. Tao cũng thương chị Vinh nhất.
84
- Ai bảo mày vậy? - Tôi đập tay lên ngực - Chị Vinh thương tao
nhất. Mày chỉ được thương nhì thôi!” [1; 258]
Ví dụ trên là cuộc đối thoại giữa nhân vật Dưa và nhân vật Thiều. Kết thúc
cuộc thoại là lời tuyên bố của nhân vật Thiều khẳng định chị Vinh thương nó
nhất chứ không phải thằng Dưa.
Ví dụ:
[125] “- Tụi con ra đây làm gì vậy? - Mẹ tôi hỏi, giọng trách móc nhưng
ánh mắt lại lộ vẻ trìu mến.
- Mẹ ơi! Nhà mình sắp giàu rồi! - Tôi chưa kịp đáp thì thằng
Tường đã hớn hở la lớn, vừa nói nó vừa giơ miếng kim loại lên khỏi
đầu khua rối rít.” [1; 267]
Đoạn thoại trên giữa nhân vật Tường và mẹ của Tường kết thúc bằng hành
vi cảm thán được thực hiện gián tiếp bằng hành vi thông báo, tuyên bố đến người
mẹ biết thông tin nhà mình sắp giàu to.
3.4.4. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi khen
Mặc dù được sử dụng với tần xuất khá ít: 4 lượt, chiếm 7,27% nhưng hành
vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng biểu thức của hành
vi khen cũng góp phần thể hiện rất rõ cảm xúc, thái độ của nhân vật.
Ví dụ:
[126] “Tôi hổn hển nói tiếp:
- Tối nay mày kiếm mấy khúc cây đặt ở đầu giường nhé?
- Chi vậy? - Con Mận ngơ ngác.
- Để phòng thân. - Tôi mím môi - Rủi tối nào tao không qua được, kẻ
trộm lẻn vào nhà thì mày có sẵn vũ khí để chống cự.
Con Mận không biết khi nói như vậy, đầu tôi đang nghĩ đến thằng Sơn.
Nó gật đầu ngay:
- Thiều chu đáo ghê! Mình chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện này.” [1; 194]
Đoạn đối thoại của Thiều và Mận kết thúc bằng hành vi khen của nhân vật
Mận dành cho nhân vật Thiều là người chu đáo, biết quan tâm đến người khác.
85
Ví dụ:
[127] “- Con nói không đúng hả chú? - Tôi lo lắng
- Không! Con nói rất hay! Điều đơn giản thế mà lâu nay chú
không nghĩ ra! Ha ha, hay quá! Thế là tôi vẫn có năm cái hoa
tay, bà con ơi!” [1; 24]
Hành vi cảm thán thể hiện thái độ khen ngợi của chú Đàn dành cho Thiều
đã kết thúc cuộc thoại giữa hai nhân vật.
3.4.5. Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng
biểu thức của hành vi chửi
Hành vi cảm thán kết thúc cuộc thoại được thực hiện gián tiếp bằng biểu
thức của hành vi chửi được sử dụng 3 lần và chiếm 5,45 % trong tác phẩm Tôi
thấy hoa vàng trên có xanh của Nguyễn Nhật Ánh.
Ví dụ:
[128] “Tôi ngẩn người ra:
- Trò người lớn là trò gì?
- Là trò này này!
Sơn cười hề hề, hai bàn tay làm một cử chỉ hết sức tục tĩu.
- Đồ mất dạy! - Tôi đỏ mặt - Thế nào cũng có ngày ông Tư Cang chém
chết mày!” [1; 145]
Đoạn đối thoại giữa hai nhân vật Thiều và Sơn kết thúc bằng hành vi
chửi thể hiện thái độ bất bình của Thiều với hành động thiếu đàng hoàng của
Sơn.
Ví dụ:
[129] “Đấm chán, thằng Sơn dừng tay, hầm hè:
- Thế nào? Thứ như tao có rớ được con Mận không?
Nhớ tới vẻ mặt buồn thảm và những giọt nước mắt của con Mận hôm nào,
tôi quên cả đau.
- Rớ cái củ cải tao nè! Đồ chó!” [1; 148]
86
Hành vi chửi của nhân vật Thiều đã kết thúc cuộc thoại giữa Sơn và Thiều,
gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán nhằm bộc lộ thái độ căm ghét, khinh thường
của Thiều dành cho Sơn.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, luận văn đã thống kê, nghiên cứu, phân tích ba chức năng
của hành vi cảm thán trong hội thoại: chức năng duy trì cuộc thoại, chức năng
dẫn nhập cuộc thoại, chức năng kết thúc cuộc thoại trên ngữ liệu tác phẩm Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh. Từ đó, chúng tôi có được kết
quả nghiên cứu như sau:
Hành vi cảm thán được dùng với chức năng duy trì cuộc thoại chiếm số
lượng nhiều nhất: 530 lượt sử dụng. Luận văn đã phân loại, khảo sát và phân tích
chức năng này ở 10 trường hợp cụ thể: hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp
cho các hành vi hỏi, cầu khiến, cảm thán, thông báo, thuyết phục, kể, đánh giá,
nhắc nhở, đe dọa, xin lỗi. Mỗi trường hợp đều thể hiện những thái độ, tình cảm,
cảm xúc khác nhau của nhân vật trước các hành vi ngôn ngữ khác nhau. Từ đây
các cuộc thoại được duy trì theo các chủ đề, các sự kiện diễn biến cốt truyện;
tính cách nhân vật được thể hiện rõ nét. Đó là những chân dung nhân vật trẻ thơ
hiện lên vô cùng chân thực và sinh động dưới ngòi bút nhạy cảm, tính tế của
Nguyễn Nhật Ánh như đưa người đọc quay trở về với một thời tuổi thơ hồn
nhiên, vô tư.
Hành vi cảm thán với chức năng dẫn nhập cuộc thoại được sử dụng 102
lần trong tác phẩm mà luận văn khảo sát. Các hành vi cảm thán được sử dụng
với các mục đích khác nhau: chào, hô gọi; cầu khiến; nhận xét, đánh giá; tuyên
bố, thông báo; đe dọa phụ thuộc vào chủ đề câu chuyện, thái độ tình cảm của
nhân vật người tham gia câu chuyện, đặc biệt là của người phát ngôn mở đầu
thường là nhân vật chính trong câu chuyện.
Hành vi cảm thán có chức năng kết thúc cuộc thoại được sử dụng với tần
số ít nhất: 55 lượt sử dụng trong tác phẩm mà luận văn khảo sát. Thông thường
đó là lời của nhân vật chính trong cuộc thoại, thể hiện thái độ, tình cảm, quan
điểm của nhân vật ấy với vấn đề được đề cập trong đoạn đối thoại.
KẾT LUẬN
87
Nghiên cứu “Hành vi cảm thán trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh của Nguyễn Nhật Ánh” chúng tôi rút ra những kết luận sau đây:
1. Hành vi cảm thán được sử dụng trong “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
của Nguyễn Nhật Ánh rất đa dạng, phong phú được biểu hiện ở nhiều phương
diện. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi đã khảo sát hai phương tiện thể hiện
hành vi cảm thán được sử dụng với số lượng nhiều là từ cảm thán (495 lượt từ)
và quán ngữ (360 lượt từ). Từ ngữ cảm thán được sử dụng với số lượng lớn
và là phương tiện giữ vai trò quan trọng trong biểu đạt hành vi cảm thán gồm
có các từ ngữ cảm thán đích thực và những từ ngữ lâm thời thực hiện chức
năng cảm thán như: phụ từ, trợ từ, đại từ, động từ, tính từ, kết từ,… So với từ
ngữ cảm thán, quán ngữ có tần số xuất hiện ít hơn chủ yếu là nhóm quán ngữ
đưa đẩy nhưng đây cũng là một phương tiện góp phần biểu đạt hành vi cảm
thán, các sắc thái cảm xúc, tâm trạng của nhân vật cũng chính là người kể
chuyện.
2. Hành vi cảm thán bao gồm: hành vi cảm thán trực tiếp và hành vi cảm
thán gián tiếp. Hành vi cảm thán trực tiếp được nhận biết dựa vào các dấu hiệu
hình thức là từ cảm thán và dấu chấm than. Dấu chấm than là một dấu hiệu đặc
trưng về mặt hình thức để nhận diện hành vi cảm thán. Trong tác phẩm Tôi thầy
hoa vàng trên cỏ xanh nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng 102 dấu chấm than
với mục đích nhấn mạnh hành vi cảm thán. Hành vi cảm thán gián tiếp được
biểu hiện thông qua dấu hiệu hình thức là các loại câu: câu kể, câu hỏi, câu cầu
khiến nhằm mục đích cảm thán. Qua khảo sát tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên
cỏ xanh chúng tôi thấy nhà văn đã sử dụng 101 câu hỏi với mục đích gián tiếp
thể hiện hành vi cảm thán, 146 câu cầu khiến gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán,
189 câu kể gián tiếp thể hiện hành vi cảm thán. Các hành vi cảm thán này có vai
trò quan trọng trong việc biểu hiện tình cảm, cảm xúc của nhân vật, góp phần
xây dựng thành công hình tượng các nhân vật trẻ thơ với tính cách đặc trưng:
hồn nhiên, vui tươi, trong sáng; những cung bậc cảm xúc đa dạng của tuổi mới
lớn.
3. Hội thoại là hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con
88
người và cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Trong hội
thoại, hành vi cảm thán có vai trò quan trọng với ba chức năng: hành vi cảm thán
duy trì cuộc thoại, hành vi cảm thán dẫn nhập cuộc thoại, hành vi cảm thán kết
thúc cuộc thoại.
Chức năng duy trì cuộc thoại của hành vi cảm thán chiếm số lượng nhiều
nhất: 530 lượt sử dụng. Đó là các hành vi cảm thán được dùng để hồi đáp cho các
hành vi hỏi, cảm thán, cầu khiến, thông báo, tuyên bố, thuyết phục, kể, đánh giá,
nhắc nhở, đe dọa, xin lỗi. Mỗi trường hợp đều thể hiện những thái độ, tình cảm,
cảm xúc khác nhau của nhân vật trước các hành vi ngôn ngữ khác nhau.
Chức năng dẫn nhập cuộc thoại của hành vi cảm thán với được sử dụng
102 lượt trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh mà chúng tôi khảo sát. Các hành
vi cảm thán được sử dụng với các mục đích khác nhau: cầu khiến; chào, hô gọi;
tuyên bố, thông báo; nhận xét, đánh giá; đe dọa phụ thuộc vào chủ đề câu chuyện,
thái độ tình cảm của những người tham gia câu chuyện, đặc biệt là của người
phát ngôn mở đầu thường là nhân vật chính trong câu chuyện.
Chức năng kết thúc cuộc thoại của hành vi cảm thán được sử dụng ít nhất:
55 lượt sử dụng. Thông thường đó là lời của nhân vật chính trong cuộc thoại, thể
hiện thái độ, tình cảm, quan điểm của nhân vật ấy với vấn đề được đề cập trong
đoạn đối thoại. Với những chức năng trên, hành vi cảm thán giữ vai trò quan
trọng trong hội thoại: đôi khi đó là những đoạn thoại tươi vui ngộ nghĩnh, có lúc
cuộc thoại ấy thể hiện những suy tư non nớt mà không kém phần sâu sắc của
những đứa trẻ ở độ tuổi mới lớn. Với vai trò quan trọng như vậy hành vi cảm
thán góp phần thể hiện sinh động diễn biến sự kiện, tâm lí, tính cách nhân vật trẻ
thơ, góp phần xây dựng thế giới đầy màu sắc và sinh động qua lăng kính của
tuổi mới lớn. Từ đó thể hiện những thông điệp nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi
gắm.
4. Với những kết quả khảo sát và phân tích về hành vi cảm thán trong Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh, luận văn đã góp phần vào
việc tìm hiểu một khía cạnh trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đặc biệt là trong
đối thoại, nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật trẻ thơ với muôn vàn cảm xúc
89
hồn nhiên, ngây thơ mà trong thế giới của người lớn ta sẽ không bao giờ thấy
được. Hành vi cảm thán được sử dụng tác phẩm truyện dài Tôi thấy hoa vàng
trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh rất phong phú được biểu hiện ở nhiều
phương diện khác nhau. Việc sử dụng một số lượng lớn các từ cảm thán và quán
ngữ; sử dụng linh hoạt các hành vi cảm thán trực tiếp và hành vi cảm thán gián
tiếp đã giúp Nguyễn Nhật Ánh miêu tả chân thực những cung bậc cảm xúc đa
dạng của các nhân vật chính diện và phản diện trước những sự việc, hoàn cảnh,
tình huống khác nhau. Dưới ngòi bút tinh tế, Nguyễn Nhật Ánh đã khiến không
ít độc giả phải mỉm cười thốt lên “sao giống mình đến thế!”. Quả thực, những
trang viết của ông có sức hút, sự hấp dẫn mạnh mẽ đến lạ kỳ. Có lẽ bởi nhà văn
đã đi sâu vào tiềm thức của tuổi thơ trong sáng, đầy yêu thương của những giận
dỗi, hờn ghen rất học trò khiến người đọc không rời mắt khỏi trang sách được
mà cứ như ngập chìm trong thế giới cổ tích của cuộc đời thực để rồi khi gấp sách
lại thấy tuổi thơ của mình đâu đó thật gần.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A - Đỗ Việt Hùng- Bùi Minh Toán (1998), Tiếng Việt thực hành, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Thụy Anh (2011), Nguyễn Nhật Ánh vẫn thế, với Lá nằm trong lá,
Báo Tuổi trẻ.
3. Diệp Quang Ban (2007), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Diệp Quang Ban (2007), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (1979), “Cách xử lí hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ”.
Tạp chí ngôn ngữ số 1.
8. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học tập1, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (2010), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Đỗ Hữu Châu (2010), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Đức Dân (1989), Logic- ngữ nghĩa- cú pháp, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
12. Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
15. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nhà xuất bản Đại học quốc gia,
Hà Nội.
16. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
17. George Yule (1997), Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ, Đại
học Tổng hợp Oxford, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Cao Xuân Hạo (1998), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong
tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
91
20. Nguyễn Thị Ngọc Hân (2001), “Tiểu từ tình thái cuối câu nhé: hàm ý của
người nói”, Tạp chí ngôn ngữ số 11.
21. Nguyễn Văn Hiệp (2001), “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại các
tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt”, Tạp chí ngôn ngữ số 4.
22. Đỗ Đức Hiểu (2004), Từ điển Văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Hòa (1999), Sự nghiên cứu động từ nói năng trong tiếng Việt,
Những vấn đề ngữ dụng học (Kỉ yếu hội thảo khoa học), Hà Nội.
24. Hải Hoàng (2011), Đôi khi cần vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Báo Pháp luật
và xã hội.
25. Lê Minh Khuê, (2014), Câu chuyện trong vườn, Tiền phong.
26. Phạm Thị Hương Lan (2003), Cảm từ trong tiếng Việt hiện đại và một số
dạng thức tương đương trong tiếng Anh, Luận văn thạc sĩ.
27. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Đinh Trọng Lạc (1999), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
29. Đinh Trọng Lạc-Bùi Minh Toán (2001), Tiếng Việt tập 2, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
30. Phong Lê (2007), Tôi là Bêtô - cuốn sách cho cả trẻ con và người lớn, báo
Thanh Niên.
31. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb giáo dục, Hà Nội.
32. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Lương (1996), Một số tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc
biểu thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án phó tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Hồng Ngọc (1999) “Sắc thái cảm thán qua một số từ cảm thán
trong tiếng Việt và ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt thực hành”, Tạp
chí Khoa học - KHXH - ĐHQGHN, số 6).
35. Nguyễn Thị Hồng Ngọc (2003) “Một số hình thức hỏi biểu thị cảm thán trong
tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ số 10, Hà Nội.
92
36. Nguyễn Thị Hồng Ngọc (2004), Câu cảm thán trong tiếng Việt, Luận án Tiến
sĩ, ĐH Quốc gia Hà Nội.
37. Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội.
38. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt: câu, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
39. Hoàng Trọng Phiến (1991), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (viết chung),
Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
39. Phạm Kim Thoa (2009), “Cách sử dụng từ ngữ cảm thán trong Truyện
Kiều”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số tháng 8.
40. Phạm Kim Thoa (2009), Hành vi cảm thán trong Truyện Kiều, Luận văn thạc
sĩ ngôn ngữ học.
41. Trần Ngọc Thêm (1994), Ngữ dụng học và văn hóa – ngôn ngữ học, những
vấn đề Ngữ dụng học (kỉ yếu hội thảo khoa học), Hà Nội.
42. Bùi Thu Thủy (2011), Luận văn Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh, chuyên
ngành Lý luận văn học
43. Bùi Minh Toán (1996), Từ loại tiếng Việt: Khả năng thực hiện hành vi hỏi,
Tạp chí ngôn ngữ số 2.
44. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
45. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Hà Thị Hải Yến (2000), Hành vi cảm thán, các biểu thức cảm thán và tiếp
nhận cảm thán, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
48. Hà Thị Hải Yến (2006), Hành vi cảm thán và sự kiện lời nói cảm thán trong
tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, Viện ngôn ngữ học.
93
NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
1. Nguyễn Nhật Ánh, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2010) Nxb Trẻ, TP Hồ
Chí Minh.
94