ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------------------------------
HOÀNG PHƢƠNG DUNG
NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN – CAO BẰNG Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hằng Phương
THÁI NGUYÊN, 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Tiến Sĩ Nguyễn
Hằng Phương - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em
hoàn thành luận văn này.
Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến nhà nghiên cứu
văn hoá dân gian Triệu Thị Mai, anh Nông Hải Hùng - Trưởng
Phòng Văn hoá huyện Thạch An - Cao Bằng và các cán bộ Thư
viện tỉnh Cao Bằng… đã giúp đỡ em thực hiện công trình này.
- Hoàng Phƣơng Dung -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
môc lôc
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 5 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................... 11 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 11 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................... 12 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 12 7. Bố cục luận văn ................................................................................... 12 NỘI DUNG ................................................................................................. 13 Chƣơng 1: NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG…. 9
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Cao Bằng ................................. 13 1.1.1. Cộng đồng người Tày Cao Bằng .............................................. 13 1.1.2. Cộng đồng người Tày ở Thạch An - Cao Bằng ........................ 14 1.2. Một số vấn đề chung về lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng .............................................................................................. 21
1.2.1. Lễ hội Nàng Hai trong đời sống tinh thần của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng .......................................................................... 21 1.2.2. Khái quát về những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng ............................................................................ 31 CHƢƠNG 2: ............................................................................................... 36 GIÁ TRỊ NỘI DUNG NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI Ở THẠCH AN - CAO BẰNG ........................................................................ 36 2.1. Bức tranh chân thực về cuộc sống lao động của đồng bào Tày xƣa ................................................................................................................. 36 2.2. Khúc hát Lƣợn Hai thể hiện trí tƣởng tƣợng phong phú, tƣ duy đậm sắc màu miền núi của nhân dân Tày Thạch An - Cao Bằng ........ 45 2.3. Ý nghĩa nhân văn trong những khúc hát lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng .................................................................. 49 2.3.1. Khát vọng về một cuộc sống no đủ, yên bình, hạnh phúc ......... 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
2.3.2. Tình yêu thiên nhiên là nét nhân văn cao đẹp trong đời sống tâm hồn của người Tày Thạch An - Cao Bằng ......................................... 54 2.3.3. Khúc hát Lượn Hai tôn vinh sức mạnh và vẻ đẹp của người dân Tày Thạch An - Cao Bằng ................................................................... 64 2.3.4. Hướng đến những khúc hát lễ hội Nàng Hai, con người như được thanh lọc tâm hồn ....................................................................... 78 CHƢƠNG 3: ............................................................................................... 82 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG .............. 82 3.1. Ngôn ngữ lời thơ Lƣợn Hai ............................................................. 83 3.1.1. Nghệ thuật sử dụng biện pháp tu từ .......................................... 84 3.1.2. Sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ dân gianTày .......... 99
3.2. Diễn xƣớng những khúc hát lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng ........................................................................... 105 3.2.1. Môi trường diễn xướng............................................................ 105 3.2.2. Hình thức diễn xướng ............................................................. 110 3.2.3. Nhân vật diễn xướng ............................................................... 120 3.2.4. Cử chỉ, động tác khi diễn xướng ............................................. 121 KẾT LUẬN ............................................................................................... 124 TƢ LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 128
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phương diện khoa học
Từ xưa, hội xuân đã trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tâm
linh của dân tộc Việt Nam. Trong cảnh đất trời được chúa xuân khoác lên
mình một chiếc áo mới: rực rỡ, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống ấy, lòng
người lại chợt thấy xốn xang hơn trong những ngày trẩy hội.
Hòa chung dòng chảy của con sông văn hóa Việt Nam, hội Nàng Hai
(hay còn được gọi là hội Hai, hội Nàng Trăng, hội Hằng Nga, hội Hát mời
trăng) của người Tày ở huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng như dòng nước ngọt
ngào tưới mát tâm hồn của những người dân miền núi nơi đây. Chính vì vậy,
hội Nàng Hai đã trở thành một phong tục đẹp, một điểm hẹn văn hóa để con
người bày tỏ những ước mong của mình, để tâm hồn giao thoa cùng trời đất
cỏ cây, để tấm lòng gặp gỡ những tấm lòng trong mỗi dịp đầu năm. Thế mới
hiểu được hết câu hát:
“Người về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
Và càng thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu lễ hội này là việc làm thực sự ý nghĩa
và cần thiết.
Trong lễ hội Nàng Hai, mọi lời nói, suy nghĩ, tình cảm và mong ước
của con người được thể hiện rất độc đáo qua làn điệu dân ca đặc sắc của
người Thạch An: Lượn Hai (hay Lượn Nàng Hai). Những khúc hát ấy được
cất lên từ tâm hồn mộc mạc, giản dị với tình yêu tha thiết quê hương và con
người xứ sở của người Tày nơi đây. Khúc hát Lượn Hai có vai trò vô cùng
quan trọng trong lễ hội. Nếu không có những khúc hát ấy được hát lên trong
suốt quá trình diễn ra lễ hội thì không còn được gọi là hội Nàng Hai nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Chính vì vậy mà nó đã trở thành linh hồn và ngọn lửa hồng nuôi dưỡng sức
sống trường tồn của hội.
Phải khẳng định rằng hội Nàng Hai ở Cao Bằng là một đề tài hấp dẫn đối
với nhiều nhà nghiên cứu. Đã có khá nhiều bài giới thiệu, bài báo, công trình
nghiên cứu với qui mô khác nhau về lễ hội Nàng Hai ở Cao Bằng trên nhiều
phương diện: nguồn gốc, quá trình diễn xướng, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa tín
ngưỡng… Song nghiên cứu về lời hát Lượn Hai trong lễ hội đó ở Thạch An -
Cao Bằng vẫn là một đề tài mở cho nhiều người yêu thích loại hình văn học
dân gian này.
1.2. Về phương diện thực tiễn
Khúc hát Nàng Hai thể hiện nét độc đáo trong sinh hoạt văn hóa của
người Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Vì thế để gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Tày ở Cao Bằng, chúng ta cần quan tâm khai thác khúc hát Lượn Hai một
cách khoa học, nhằm phát huy thế mạnh của nó trong đời sống hiện đại.
Nhắc đến khúc hát Nàng Hai người ta nhớ ngay đến câu Lượn Hai thiêng
liêng mà không kém phần trong trẻo, mượt mà và đằm thắm. Bao ước mong,
bao nỗi niềm sâu kín của nhân dân được gửi gắm qua tiếng hát làm say đắm
lòng người của những nghệ nhân dân gian. Do vậy mà việc nghiên cứu về
khúc hát này sẽ góp phần vào việc gìn giữ, bảo lưu, phát huy tinh hoa của loại
hình nghệ thuật này trong đời sống tinh thần của cư dân Tày Thạch An nói
riêng và của các dân tộc Việt Nam nói chung.
Là người con của Cao Bằng, cùng với niềm tự hào về mảnh đất giàu
truyền thống văn hoá dân gian và mong muốn được đi tìm “những hạt ngọc
sáng” còn ẩn giấu trong đời sống văn hoá mà cha ông mình để lại, nên chúng
tôi chọn “Những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao
Bằng” làm đề tài nghiên của luận văn. Hy vọng, những nghiên cứu của đề tài ít
nhiều góp phần hiệu quả vào việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị loại hình
văn hoá nghệ thuật dân gian độc đáo này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
2. Lịch sử vấn đề
Văn hóa dân tộc Tày nói chung và văn hóa lễ hội Tày nói riêng là một
mảng vô cùng đa dạng và phong phú. Trong đó, nổi bật lên là lễ hội gắn liền
với nghi lễ nông nghiệp như hội Lồng Tồng (hay Xuống đồng) mà biến thái
của nó là lễ hội Nàng Hai (hay còn gọi là Nàng Trăng, Cầu Trăng, Hát mời
Trăng...). Trong mỗi lễ hội, các nghi thức và trò chơi dân gian mang ý nghĩa
riêng, song có lẽ một trong những nghi thức mang đậm giá trị nhân văn nhất
phải kể đến hát Lượn trong nghi lễ cầu mùa.
Mục đích của những lễ hội trên là cầu mùa vụ mới tốt tươi, con người có
sức khoẻ, vật nuôi đầy đàn, béo tốt... Mong muốn rất thực tế và chính đáng đó
được cụ thể hoá trong lời hát Lượn.
Nghiên cứu về lễ hội liên quan đến việc sản xuất nông nghiệp của người
Tày cùng với những bài hát Lượn trong đó đã có khá nhiều công trình, bài
nghiên cứu:
Mùa xuân và phong tục Việt Nam (1976) của các nhà nghiên cứu: Trần
Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ [56] và Hội Lồng Tồng (Dân tộc
Tày ở Bắc Thái) [7, Tr. 112 - 114], của tác giả Dương Kim Bội in năm 1977
là những bài nghiên cứu đầu tiên về hội xuân của người Tày. Trong những bài
viết này, các tác giả đã khẳng định sự hấp dẫn của các trò chơi dân gian như:
tung còn, kéo co, hát Sli, hát Lượn: “Mùa hoa mận trắng xoá, tiếng róc rách
của suối nước, sự ồn ã của gió rừng... Người xem hội không muốn dứt khỏi
những Lượn nàng, nhưng cũng không bỏ cơ hội để hoà vào sự nhộn nhịp, cái
náo nức của những trò chơi dân gian như kéo co, tung còn, đánh yến...” [7,
Tr. 112 - 114].
Cũng cùng chung tên Hội Lồng Tồng [39, Tr. 11] và [26, Tr. 361 - 362],
đến năm 1983 và năm 1989 tác giả Lục Văn Pảo và tác giả Thu Linh đã đưa
đến độc giả cái nhìn khái quát về lễ hội trên. Từ việc nghiên cứu về ý nghĩa tín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
ngưỡng, giá trị văn hoá..., các tác giả gợi cho người đọc ý thức trân trọng, gìn
giữ và bảo tồn loại hình sinh hoạt văn hoá này. Bàn tới hát Lượn, người viết dù
chưa nhắc đến những bài hát Lượn cầu mùa song cũng đã cho ta thấy mùa xuân
hát Lượn là nét đẹp nhân văn của ngày hội.
Năm 1990, bài viết Đôi nét về hội Lồng Tồng và việc khôi phục nó [6,
Tr. 62 - 64], in trên Tạp chí Dân tộc học số 10 của tác giả Phương Bằng một
lần nữa khẳng định sự hấp dẫn cũng như giá trị văn hoá của lễ hội trên. Tác
phẩm tuy không đi vào tìm hiểu sâu về lời ca cầu mùa song phân tích khá sâu
sắc về tầm quan trọng cũng như nguy cơ bị mai một dần một số hình thức
sinh hoạt dân gian như hát Then, hát Lượn trong những ngày hội đầu năm.
Tác giả Hoàng Choóng cũng viết về Hội Lồng Tồng ở Văn Lãng [8, Tr.
66 - 67], năm 1991. Sau đó hai năm, nhóm tác giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc
Thắng, Lê Sĩ Giáo và Lâm Bá Nam cho ra mắt độc giả công trình mang tên Lễ
hội cầu mùa của các dân tộc Việt Nam [34], (1993). Cũng cùng thời gian này,
bài viết: Đôi điều về hội xuống đồng cổ truyền của người Tày [44, Tr. 59 -
63], của Trần Hữu Sơn in trên Tạp chí nghiên cứu về văn hóa dân gian. Các
bài viết đều cho thấy mục đích của lễ hội là cầu thần linh, cầu thần phật ban
cho mùa màng tươi tốt, ấn no, hạnh phúc, con người được thư thái và trong
những đó bà con còn tổ chức ném còn giao duyên và hát Lượn hát Sli tìm bạn.
Năm 1994, Lễ hội hát mời trăng [5], của tác giả Nguyễn Duy Bắc và Lễ
hội Nàng Trăng một sinh hoạt văn hoá dân gian của dân tộc Tày [50], của tác
giả Nguyễn Đức Thụ đã nêu bật được giá trị văn hoá đặc sắc của lễ hội qua
nghi thức cầu trăng và lời hát cầu trăng. Tuy bước đầu chưa đi sâu vào tìm
hiểu về giá trị văn học dân gian của những bài hát Lượn cầu mùa song người
viết đã nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của thể loại dân ca nghi lễ Lượn Hai:
“Đến ngày hội Trăng, con người hát Lượn say sưa để mời trăng xuống trần,
ban điều may mắn...” [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
Dù chưa bàn nhiều về các trò diễn dân gian, đặc biệt là hát Lượn nói
chung và Lượn cầu mùa nói riêng mà nhưng Trần Hoàng với Ngày xuân đi
hội Lồng Tồng [16], năm 1995 và Nguyễn Hải Hà với Trẩy hội Lồng Tồng
[13], năm 1996, đều cùng đề cao vai trò của hát Lượn: Không gian, thời gian
mùa xuân được làm sống dậy, tươi trẻ và ấm áp hơn bằng câu hát Lượn của
người chơi hội.
Triều Ân cũng là một trong nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến lễ hội
cầu mùa của người Tày mà cụ thể là người Tày ở Cao Bằng. Trong cuốn Lễ
hội Hằng Nga in năm 1997, đóng góp rất lớn của ông là đã giới thiệu, sưu tầm
và biên dịch những khúc Lượn Hai của người Tày Cao Bằng. Trong phần đầu
cuốn sách, ông đã viết: “những khúc hát trong lễ hội và hát hội đã gieo vào
tâm hồn người đi dự hội một tình cảm trong sáng, lành mạnh, một niềm lạc
quan tin tưởng để sau đó bắt tay vào vụ sản xuất”[1, Tr. 14].
Ngay trong năm tiếp theo, trên Tạp chí Văn hoá dân gian cũng giới thiệu
Hội Lồng Tồng ở xã Yên Khánh Hạ, Lào Cai [29, Tr. 27 - 33], của Lê Hồng Lý.
Đến năm 2001 và năm 2002 bạn đọc lại tiếp tục được đón nhận bài viết Lễ hội
Lồng Tồng của người Tày [55, Tr. 14 - 16], do Lê Trung Vũ viết cùng với đề
tài nghiên cứu mang tên Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu
vực phía Bắc [28], do Hoàng Lương viết. Các tác giả tập trung bàn tới yếu tố
tâm linh, tín ngưỡng của hội xuân cầu mùa. Bên cạnh đó hát Lượn không
quên được nhắc đến như một nét đẹp rất riêng trong ngày hội: “Người ta hát
Lượn để cầu mùa, cầu an, cầu phúc. Lượn còn để giúp cho người ta thấy yêu
đời và yêu người hơn”[55, Tr. 14 - 16].
Tác giả Nguyễn Thị Yên trong năm 2003 công bố công trình: Lễ hội
Nàng Hai của người Tày Cao Bằng. Có thể coi đây là công trình nghiên cứu
lớn đầu tiên về lễ hội này ở Cao Bằng. Cùng với việc sưu tầm, biên dịch những
bài Lượn Hai, công trình này đã đề cập đến nhiều vấn đề như nguồn gốc, đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
điểm, bản chất và ý nghĩa tín ngưỡng, cũng như giá trị xã hội và văn hóa, văn
học của lễ hội trên. Khi bàn tới ngôn ngữ thơ Lượn Hai, nhà nghiên cứu đã
khẳng định: ngôn ngữ thơ Lượn Hai trở thành “một kho từ vựng tiếng nói dân
tộc Tày từ cổ đến kim, từ nguyên thuỷ đến có sáng tạo...” [60, Tr. 130].
Tạp chí Dân tộc học số 4 năm 2005 cũng có in bài viết Đặc trưng lễ hội
truyền thống của các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Bắc [46, Tr. 3 - 8.], của
Nguyễn Ngọc Thanh. Bài viết chỉ ra đặc trưng trong lễ hội của nhân dân Tày,
Nùng đó là hội xuân và các trò diễn gắn với việc sản xuất nông nghiệp.
Gần đây nhất, nhà nghiên cứu Hoàng Văn Páo từ góc độ nghiên cứu văn
hoá - lịch sử đã giới thiệu công trình Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày ở
Lạng Sơn, (2009). Khi tìm hiểu về hát Lượn gắn với các nghi thức cầu mùa,
tác giả đã nhận xét: “đó là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng mang đậm dấu ấn
của cư dân nông nghiệp, thể hiện qua tín ngưỡng cầu thực, tín ngưỡng cầu
mưa... qua đó giá trị con người được nâng lên cao hơn, tính thân thiện, nhân
văn, nhân bản trong cộng đồng được phát huy mạnh mẽ...” [38, Tr. 161].
Qua việc tìm hiểu một số tài liệu trên, chúng ta có thể khẳng định có
rất nhiều công trình nghiên cứu với qui mô lớn, nhỏ, ở nhiều góc độ khác
nhau về hội cầu mùa của người Tày nói chung và hát Lượn trong lễ hội đó
nói riêng. Mỗi bài viết là một sự đóng góp quí giá trong việc khẳng định, đề
cao các giá trị (văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, văn học...) của hình thức dân
gian đặc sắc này. Qua đó, chúng tôi cũng nhận thấy việc tìm hiểu về giá trị
văn học dân gian từ những bài hát Lượn cầu mùa trong ngày hội xuân của
người Tày nói chung và của người Tày ở huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
nói riêng vẫn còn là một đề tài mở hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy
những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước thực sự chứa
đựng nhiều tiền đề, bài học quí báu cho người đi sau triển khai, thực hiện đề
tài này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những giá trị nội dung và thi pháp của khúc hát lễ hội Nàng
Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Qua việc tìm hiểu đó, chúng ta
thấy được tài năng nghệ thuật của các nghệ nhân dân gian, từ đó biết trân
trọng, gìn giữ và phát huy những khúc hát lễ hội nói riêng và dân ca Tày nói
chung. Cũng từ đó chúng ta hiểu thêm được đời sống vật chất và tâm tư tình
cảm của nhân dân Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
- Thông qua đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn đóng góp một phần
nhỏ của mình vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc của người Tày nói
chung và của nhân dân Tày ở Thạch An - Cao Bằng nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, lý giải những vấn đề liên quan
đến khúc hát Lượn Hai chủ yếu từ góc độ văn học dân gian
- Trong điều kiện có thể, chúng tôi đi điền dã và sưu tầm thêm được một
số khúc hát Lượn Hai ở Cao Bằng chưa được xuất bản, công bố...
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: đề tài chú trọng vào phần lời khúc hát Lượn Hai,
tuy nhiên có chú ý đặt yếu tố ngôn từ trong đặc trưng nguyên hợp của văn học dân
gian, nghĩa là yếu tố ngôn từ được đặt trong môi trường và nghệ thuật diễn xướng.
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
+ Triều Ân (1997), Khúc hát Hằng Nga, Nhà xuất bản Văn hoá
Dân tộc, H.
+ Nguyễn Thị Yên (2003), Lễ hội Nàng Hai của người Tày Cao
Bằng, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
+ Văn bản tiếng Tày sưu tầm từ thầy Pửt Nông Văn Lẩy ở bản
Chu Lăng, xã Kim Đồng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
+ Những bài Lượn Hai sưu tầm thêm được trong quá trình đi điền
dã của tác giả luận văn.
4.2. Đối tượng nghiên cứu chính là lời hát của những khúc hát trong lễ hội
Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, điền dã
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần tìm hiểu cụ thể và sâu sắc hơn giá trị nội dung tư tưởng và
nghệ thuật của khúc hát lễ hội Nàng Hai ở Thạch An - Cao Bằng. Từ đó làm
rõ hơn giá trị văn hóa tốt đẹp của người Tày ở Cao Bằng
- Bồi dưỡng thêm sự hiểu biết, tình yêu dân ca Tày nói chung và khúc hát
lễ hội Nàng Hai nói riêng trong mỗi con người Việt Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tư liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được thể hiện trong ba chương:
Chương I: Những khúc hát lễ hội Nàng Hai trong đời sống văn hoá của
người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Chương II: Giá trị nội dung những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người
Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Chương III: Một số đặc điểm thi pháp của những khúc hát lễ hội Nàng
Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
NỘI DUNG
Chƣơng 1:
NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Cao Bằng
1.1.1. Cộng đồng người Tày Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh nằm ở biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Nơi đây là
địa bàn cư trú của nhiều dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Mông. Lô Lô… nhưng số
lượng lớn nhất là người Tày, chiếm khoảng 43% dân số toàn tỉnh. Theo các
nhà nghiên cứu, người Tày ở Cao Bằng được hình thành từ ba nhánh:
Nhánh người Tày gốc còn gọi là thổ, có nghĩa là thổ dân, là chủ nhân
của địa phương từ lâu đời. Nhánh này là con cháu lâu đời của người Tày cổ.
Họ là những con người đã sáng tạo ra khúc hát trong lễ lội Nàng Hai độc đáo
và hấp dẫn.
Nhánh người Ngạn có nguồn gốc từ Quý Châu, Trung Quốc. Theo tài
liệu cũ còn ghi chép: trong các cuộc giao tranh giữa các tộc người, người
Ngạn đã dạt sang Cao Bằng sinh sống, sát nhập vào cư dân địa phương và trở
thành người Tày.
Nhánh người Kinh hóa Tày: là con cháu các viên quan và binh lính người
Kinh ở dưới xuôi lên cai quản bảo vệ biên giới, họ lấy vợ là người Tày, sinh
cơ lập nghiệp tại đây, lâu dần chuyển thành người Tày. Sách cũ còn ghi chép
lại, vào thế kỉ 16, 17, triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh đuổi,
chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc diệt
vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân dân
địa phương, đồng hóa với người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
1.1.2. Cộng đồng người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên, nơi cư trú của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Theo Địa chí Cao Bằng [41]: huyện Thạch An nằm ở phía Đông Nam
tỉnh Cao Bằng. Phía Nam giáp huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn. Phía Bắc
giáp huyện Hòa An, phía Tây giáp huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn. Phía Đông
giáp huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Huyện Thạch An hiện
nay được chia thành 16 đơn vị hành chính cấp xã: Kim Đồng, Thái Cường,
Vân Trình, Lê Lai, Thị Ngân, Thụy Hùng, Đức Long, Danh Sỹ, Thượng Pha,
Đức Xuân, Lê Lợi, Trọng Con, Đức Thông, Canh Tân, Minh Khai, Quang
Trọng và Thị trấn Đông Khê.
Với tổng diện tích tự nhiên hơn 68 ha, Thạch An là địa bàn cư trú của
nhiều dân tộc cùng sinh sống: Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa và một số
dân tộc ít người như Ngài, Chăm, Sán Chỉ, Ê Đê. Trong số những dân tộc này
người Tày chiếm đa số. Với sự qui tụ của nhiều dân tộc trên một địa bàn cư
trú đã tạo nên một bức tranh đa sắc màu về đời sống văn hóa tinh thần của
những con người ở mảnh đất phía Đông Nam tỉnh Cao Bằng..
Đặc điểm địa hình là đồi thoải hay lượn với những thung lũng nhỏ bên
cạnh dòng sông, dòng suối là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
đặc biệt là trồng lúa nước. Khí hậu ở đây chia làm bốn mùa rõ rệt nên cư dân
canh tác và trồng trọt theo mùa. Giới động thực vật khá phong phú và đa
dạng. Cư dân Tày sống chủ yếu vào trồng trọt và cày cấy mùa màng và chăn
nuôi gia súc. Ngay từ xa xưa, họ đã biết tận dụng những ưu thế mà thiên
nhiên ban tặng để lao động phục vụ cuộc sống.
Mùa xuân thường không dài nhưng tiết trời ấm áp, tươi sáng, núi non
ngập tràn trong sắc hương xuân. Đặc biệt đến tháng 3 âm lịch, rừng núi Thạch
An xanh mướt một màu, cỏ hoa đang thì kết trái. Khung cảnh thật thi vị biết
mấy. Thiên nhiên Thạch An hùng vĩ, thơ mộng, hiền hòa là vậy nhưng có lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
cũng thật dữ dội. Về mùa mưa, mưa nhiều đã gây nên tình trạng rửa trôi, xói
mòn và lũ lụt, gây mất mùa. Cùng với việc chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông
Bắc trong mùa đông, các hiện tượng thời tiết như băng giá, sương muối gây
ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống con người.
Địa hình huyện Thạch An như một cánh cung đang căng lên. Những đám
ruộng bậc thang uốn mình quanh sườn đồi. Những dòng suối, dòng sông như
dải lụa bạc dài vô tận ẩn rồi lại hiện dưới thung lũng như lúc làm duyên, lúc
giận hờn với đồi núi trập trùng. Khung cảnh sơn thủy hữu tình này dường như
đã khơi nguồn cảm hứng thơ ca cho con người nơi đây. Để khiến ai đã từng
đứng trên mảnh đất này trong lòng không thể không cất lên tiếng hát. Những
câu Lượn ấy cất cao, thấm đẫm hơi thở của ruộng, của nương, của núi của
rừng... Thạch An.
Phải chăng, lễ hội Nàng Hai với những khúc hát ra đời trong lễ hội đó
nhằm đáp ứng những nhu cầu thưởng thức văn nghệ và gửi gắm những khát
vọng tinh thần của nhân dân miền núi nơi đây.
Tự nhiên không chỉ là môi trường sống của con người mà còn là đối
tượng để qua đó con người tác động, sản xuất ra của cải vật chất, phát triển xã
hội và hình thành nên đời sống văn hoá của mình. Như vậy, điều kiện tự nhiên
có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và tồn tại của văn hóa, văn học nghệ thuật
dân tộc Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
1.1.2.2. Đặc điểm xã hội - văn hóa của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Với địa hình miền núi với nhiều ưu ái nhưng cũng không ít bất thuận,
thiên nhiên tươi đẹp hùng vĩ mà cũng dữ dằn… những điều đó đã ảnh hưởng
không nhỏ đến điều kiện sống, sinh hoạt, văn hóa, tính cách của người Tày
Thạch An. Tuy vậy, trong quá trình phát triển của lịch sử, người Tày nơi đây
cũng đã lao động cần cù và đấu tranh không ngừng để sáng tạo cho riêng
mình một nền văn hoá giàu sức sống và đậm sắc thái bản địa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
Xã hội người Tày ở Cao Bằng trước Cách mạng tháng Tám đã chuyển
sang chế độ phong kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở
miền xuôi nên quan hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn
là quan hệ đoàn kết, tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng,
làng xóm.
Người Tày ở Thạch An sống qui tụ và đoàn kết với nhau thành từng làng,
bản với khoảng 40 đến 60 gia đình trở lên. Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn
có lòng kính già yêu trẻ. Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập
quán kết nghĩa anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như người ruột
thịt. Họ sống gắn bó mật thiết với nhau, cùng chung sức sáng tạo nên một nền văn
hóa với những giá trị vật chất và tinh thần phong phú, bền vững.
Nhà ở của người Tày ở Thạch An thường là nhà sàn cao ráo, thoáng mát.
Trong những nếp nhà sàn đơn sơ đó có 3 - 4 thế hệ cùng chung sống đầm ấm
và chan hòa. Hầu hết các gia đình người Tày được xây dựng theo thể chế và
chế độ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính phụ hệ. Trước Cách mạng
tháng Tám, người phụ nữ Tày không được đối xử bình đẳng với nam giới,
không được hưởng gia tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng
con tôn trọng vì họ không chỉ có vai trò “giữ lửa” trong gia đình mà họ còn
chính là người gìn giữ, nuôi dưỡng và làm giàu có thêm những điệu hát dân
ca. Bà truyền dạy cho mẹ, mẹ truyền dạy cho con… Cứ như thế, ngọn lửa văn
hóa cứ hồng mãi trong mỗi nếp nhà sàn và rồi thấm đượm, tỏa rạng trong tâm
hồn của mỗi con người nơi đây. Không chỉ có vậy, phụ nữ Tày còn rất khéo
tay. Họ không chỉ biết trồng bông, dệt vải, tự may quần áo, chăm màn... mà
còn giỏi trong việc chế biến nhiều thứ bánh trái ngon phục vụ trong ngày
thường và các dịp lễ tết.
Cũng giống như người Tày ở nhiều địa phương khác, trang phục của
người Tày Thạch An được làm từ vải bông dệt, nhuộm chàm nhưng cắt may
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
đơn giản, không thêu thùa hoa văn cầu kì như trang phục của một số dân tộc
khác. Phụ nữ Tày mặc áo dài năm thân, cài cúc cổ. Áo dài tới bụng chân, có
yếm lót theo kiểu của người Kinh. Ngoài áo dài ra, họ còn tạo ra áo ngắn xẻ
tà, hở ngực, cài khuy, mặc lót bên trong áo dài. Để thuận tiện, các bà, các chị,
các cô gái Tày thường mặc áo ngắn khi lao động. Váy hoặc quần của họ
thường dài tới mắt cá chân. Váy có thắt lưng to bản làm bằng vải dệt thủ
công, dài hơn 3m và rộng 30cm để quấn quanh eo, khiến người đẹp thêm
duyên dáng. Việc cài nút thắt lưng cũng cho thấy người phụ nữ ấy thuộc tầng
lớp nào trong xã hội. Nếu là con nhà quyền quí thì các nút thắt lưng buộc về
phía trước trông điệu đà hơn. Nếu là con nhà bình thường thì các nút thắt
được buộc khiêm tốn ra đằng sau. Trang phục của người Tày tuy không sặc sỡ
nhưng các chị, các cô đã biết cách làm đẹp hơn bằng những vòng cổ, vòng
tay, khuyên tai hay chuỗi xà tích bằng bạc. Người con gái nào càng có nhiều
đồ trang sức bằng bạc, càng chứng tỏ họ là con nhà giàu có và biết chăm chút
cho bản thân. Theo quan niệm của người Tày ở Cao Bằng, bạc là thứ không
chỉ khiến họ trông đẹp hơn mà hơn nữa còn có thể giúp họ xua tà, trừ cảm
mạo. Trai gái Tày khi yêu nhau hay trao cho nhau chiếc vòng bạc để làm vât
tin, hẹn thề ước nguyện.
Nam giới cũng mặc áo năm thân như nữ giới nhưng chỉ dài tới đầu gối
hay mặc áo cánh, xẻ ngực cài cúc, quần lá ống rộng dài tới mắt cá chân. Nếu
phụ nữ đi hài ná nhung đen hình mũi thuyền trông rất thanh thoát và duyên
dáng thì nam giới Tày đi giày vải thô được khâu khéo léo bằng tay trông khỏe
khoắn, vững vàng.
Nhìn chung, trang phục của người Tày rất giản dị và mang một màu sắc
rất đặc trưng: màu chàm. Sắc phục đã thể hiện phẩm chất của họ là giản dị,
mộc mạc, chan hòa cùng núi rừng. Sắc chàm ấy là hội tụ của màu núi đá xanh
thẫm, màu lá cây xanh ngắt đại ngàn, màu xanh trong của con sông quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
hương hiền hòa và sắc tím thủy chung của tình nghĩa. Họ hòa trộn sắc áo của
mình với cỏ ây hoa lá, như thể trân trọng hơn những gì mà thiên nhiên trao
tặng cho cuộc sống hôm nay.
Ai có dịp ở nơi xa đến Thạch An sẽ cảm thấy gần gũi và ấm áp bởi tình
cảm hồn hậu, chân thành mến khách của người dân miền núi này. Với lối
sống thân thiện và hòa hảo, cùng quan niệm khách của một nhà là khách của
cả bản nên mỗi khi bản có người từ xa đến đều được mọi người trong bản
thăm hỏi trò chuyện thân mật. Họ vui mừng đón tiếp khách xa rất phóng
khoáng mà thành tâm:
Mời rượu cả chum
Mời quả cả cây
Hơn nữa, để cho không khí vui tươi, để cho câu chuyện tế nhị, duyên
dáng họ dùng những tiếng hát lời ca để ướm hỏi, chào mừng nhau:
- Khách vào bản như mùa xuân hoa nở
Em đây xin hát câu lượn chào mừng
- Nàng mới đến như đêm trăng tỏ
Như tối trời gặp lửa ấm nhà ai
Nét phong tục độc đáo này chính là môi trường lí tưởng ươm mầm,
nuôi dưỡng tiếng hát lời ca của nhân dân. Để rồi, những điệu hát dân ca cứ thế
được lớn lên, lại quay trở lại nuôi dưỡng tâm hồn những con người của xứ sở
áo chàm. Có một thời, tiếng hát Lượn đã ngập tràn làng bản, đồi núi, hòa vào
tâm hồn, huyết mạch của đồng bào:
Nửa đêm Nàng ới cháy lòng
Khiến em dừng đường kim may vá
Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc
Theo nhà nghiên cứu Vi Hồng, Lượn là lập luận, là lặp lại, là luyến, là
ru… Lượn chính là khúc hát dân ca của người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
nhưng người Tày ở Thạch An chủ yếu hát Lượn Hai và Lượn Slương. Trong
đó Lượn Hai là một loại dân ca nghi lễ khá đặc biệt, chỉ được hát trong lễ hội
Nàng Hai.Với tính chất đặc trưng của Lượn là vang xa, thiết tha, bày tỏ được
những điều muốn nói một cách độc đáo và dễ lay động lòng người, do vậy mà
nó đã trở thành một nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong đời sống của họ.
Hát Lượn có mặt khắp bản xa lũng vắng của người Tày. Trai gái đến tuổi
trưởng thành mà không biết hát Lượn bị coi là ngố, là đụt như con gà trống
không biết gáy, như con chim công chẳng biết làm dáng bên suối. Người Tày
coi hát Lượn như một tiêu chuẩn để đánh giá một con người:
Con gái nhà giàu không biết lượn
Cũng bằng ngói vỡ để đầu nhà
Con gái nhà nghèo hay tiếng lượn
Còn hơn vàng mười để trong rương.
Tiếng hát như phép màu xóa tan khoảng cách địa vị giữa người với người:
Khi lượn không kể con quan
Khi hát không kể người sang hay hèn
Kẻ sang mà hát không nên
Chẳng bằng tiếng hát kẻ hèn mà sang.
Chính vì vậy mà có một thời, người ta nói với nhau có vần, có điệu, nói
mà thành ca, thành hát.
Người Tày giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ thuộc hệ Tày - Thái. Qua
thời gian sàng lọc, tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và
ngữ pháp. Tuy nhiên, chỉ những từ ngữ về thiên nhiên, về sự vật hiện tượng
trong sinh hoạt giao tiếp mới là của người Tày, số còn lại thường vay mượn
của tiếng Việt hoặc từ Hán Việt.
Về chữ viết: Người Tày không có chữ viết riêng nên lịch sử thành văn của
tộc người Tày rất ít. Có thể chia chữ viết của tộc người tày thành ba giai đoạn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
- Giai đoạn cổ đại: Không có chữ viết, chủ yếu giao tiếp bằng phương
thức truyền miệng.
- Giai đoạn trung đại: Có chữ Nôm Tày. Đây là thứ chữ phỏng theo chữ
Hán của người Trung Quốc mà đặt ra. Nhìn từ góc độ văn tự, chữ Nôm Tày
có một số nét khác biệt so với chữ Nôm Việt. Theo học giả Nguyễn Xuân
Huyên: chữ Nôm Tày ảnh hưởng chữ Nôm Việt và có cấu tạo tương tự như
chữ Nôm Việt.
- Giai đoạn hiện đại: Người Tày vừa dùng chữ Nôm vừa dùng chữ
Latinh. Do vốn từ còn nghèo nàn nên việc sử dụng chữ viết cũng như ngôn
ngữ Tày trong các hoạt động hành chính, trong các ngành khoa học rất hạn
chế và gặp nhiều khó khăn. Năm 1954, một số lớp trí thức mới đã tự sáng lập
ra chữ Latinh Tày nhưng không được phổ biến. Đến năm 1960, nhà nước đã
giúp dân tộc Tày xây dựng hệ thống chữ viết mới theo lối chữ Quốc ngữ bằng
chữ cái Latinh.
Tiếng nói Tày sinh động về âm thanh, giàu có về từ ngữ và đặc biệt là rất
sinh động về màu sắc biểu cảm. Việc ra đời của chữ viết tiếng Tày trở thành
một phương tiện đắc dụng cho việc ghi chép lại tiếng nói Tày, thơ ca Tày
Tín ngưỡng và lễ hội có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần
cũng như đời sống tâm linh của nhân dân Tày Thạch An.
Người Tày hầu như ít khi có chùa thờ Phật mà chủ yếu là có đình thờ
thần. Trong xã hội của họ, có hẳn một lớp người chuyên làm nghề cúng bái
được gọi là “Vửt”, “Then”, “Tào”... Tục lệ thờ tổ tiên đã có từ rất lâu trong
đời sống tâm linh của nhân dân Tày. Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ một số
vị Thần, Phật như Phật bà Quan âm, Hoa Vương, Thánh Mẫu... Tín ngưỡng
của người Tày bắt nguồn từ thuyết vạn vật hữu linh, chủ nghĩa đa thần trong
nguyên thủy...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
Lễ hội trong năm cũng là một nét khá độc đáo trong văn hóa của nhân
dân Thạch An. Hằng năm, đồng bào các dân tộc Tày ở nơi đây tổ chức những
ngày hội lớn như lễ hội Tháng hai vào ngày 2/2 âm lịch, lễ hội Nàng Hai vào
khoảng trung tuần tháng 3 âm lịch. Những ngày hội là dịp để trai gái vui chơi,
ca hát cùng nhau; để bạn bè, bà con gặp gỡ, thăm hỏi nhau; để nhân dân lao
động nói lên những ước vọng của mình về lao động sản xuất và trong cuộc
sống. Chính vì vậy mà ngày hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống
cộng đồng, những ngày hội trở thành những ngày vui. Niềm háo hức mong
chờ và sự trân trọng ngày hội Nàng Hai không thể giấu đi được bởi họ mặc bộ
trang phục mới nhất còn thơm nức mùi chàm để đến dự hội. Họ đợi chờ ấp ủ
bao bao lâu, nay gặp nhau trong ngày hội, tấm lòng như được mở ra theo câu
hát Lượn. Và lời ca tiếng hát sâu lắng ấy của những người đến hội như càng
thắt chặt thêm tình cảm giữa người với người, để ai nghe một lần cứ muốn hội
kéo dài mãi không thôi.
1.2. Một số vấn đề chung về lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch An -
Cao Bằng
1.2.1. Lễ hội Nàng Hai trong đời sống tinh thần của người Tày ở Thạch An
- Cao Bằng
* Khái niệm lễ hội:
“Lễ hội (hay hội lễ) là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang
tính cộng đồng cao của nhân dân, diễn ra trong một chu kỳ không - thời gian
nhất định để làm những nghi thức về nhân vật được sùng bái, để tỏ ra những
ước vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm.” [37, Tr. 163].
Lễ hội Nàng Hai ở Thạch An - Cao Bằng là lễ hội cầu mùa, nhằm tôn
thờ vị thần cai quản mùa màng cho người trần gian (mà ở đây là Mẹ Trăng)
và gửi gắm những ước vọng trong dịp đầu xuân của con người. Trước sự biến
động của thời gian và không gian, lễ hội này biểu hiện phong phú qua nhiều
hình thức tổ chức khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
* Những hình thức lễ hội Nàng Hai chủ yếu ở Cao Bằng
Tùy thuộc vào thời gian, nội dung và cách thức của từng địa phương mà Lễ
hội Nàng Hai ở Cao Bằng được tổ chức theo nhiều hình thức. Theo nhà nghiên
cứu Nguyễn Thị Yên, ở Cao Bằng lễ hội này có ba hình thức cơ bản.
Lễ hội Nàng Hai hình thức 1: Thời gian tổ chức vào ba đêm 14, 15, 16
tháng 7, tháng 8 và tháng 9 âm lịch. Theo quan niệm dân gian thì đây là
những ngày đẹp nhất, trăng tròn nhất, sáng nhất và viên mãn nhất trong năm.
Hội tổ chức vào những ngày này thì việc trồng trọt, chăn nuôi, nhân duyên thế
sự của bà con sẽ luôn thuận lợi, trọn vẹn, đong đầy. Lễ hội này với phần lễ
diễn ra khá trang nghiêm nhưng không cầu kỳ song nó mang nhiều yếu tố
huyền bí, chủ yếu thiên về bói toán. Hình thức tổ chức lễ hội này xuất hiện ở
một số huyện miền Tây của tỉnh như: Bảo Lạc, Bảo Lâm, Nguyên Bình.
Lễ hội Nàng Hai hình thức 2: Thời gian tổ chức lễ hội thường vào tháng 2
âm lịch, gắn liền với hội xuống đồng và các nghi lễ tế thần nông. Sau lễ hội này,
bà con bắt tay vào vụ mùa mới. Hình thức này thấy xuất hiện ở các huyện Hạ
Lang và một số xã của huyện Thạch An như: Vân Trình, Trọng Con. Tuy vẫn
mang mục đích là cầu mùa nhưng hình thức lễ hội này mang nhiều yếu tố thuộc
về trình diễn, sân khấu hơn so với lễ hội Nàng Hai hình thức 1.
Lễ hội Nàng Hai hình thức 3: Thời gian tổ chức lễ hội này kéo dài từ tết
30 tháng giêng (tết Đắp nọi của người Tày ở Cao Bằng) đến trung tuần tháng
3 âm lịch. Trong khoảng thời gian này, nhiều nơi như Phục Hòa, Quảng
Uyên, và một số xã của huyện Thạch An (Kim Đồng, Đức Xuân, Lê Lai) tổ
chức hội Nàng Hai. So với hai hình thức trên, hình thức này phức tạp hơn, với
nhiều nghi thức trang nghiêm hơn, qui mô lớn hơn. Điều đáng chú ý hơn nữa
là lễ hội Nàng Hai hình thức này kết hợp hài hòa giữa phần lễ, phần hội với
nhiều trò diễn dân gian độc đáo. Có thể coi hình thức lễ hội này là sự tổng hòa
của hai hình thức lễ hội trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
Trước năm 1975, lễ hội Nàng Hai được tổ chức ở nhiều địa phương
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nhưng hiện nay chỉ có hai xã Tiên Thành và Kim
Đồng của hai huyện Phục Hòa và Thạch An là còn duy trì được việc tổ chức
hội theo hình thức này.
Việc phân chia lễ hội Nàng Hai ở Cao Bằng thành nhiều hình thức khác
nhau tuy chỉ mang tính chất tương đối song nhằm mục đích thấy rõ sự biểu
hiện phong phú, biến hóa đa dạng của lễ hội này ở mỗi địa phương. Đi đến
một vùng quê, lễ hội Nàng Hai lại mang một diện mạo riêng bởi hoàn cảnh,
điều kiện sống, tâm lí của con người nơi đó. Dấu ấn ấy còn được lưu lại trong
những khúc hát Lượn Hai. Thế mới thấy khả năng sáng tạo và nhu cầu thưởng
thức văn hoá dân gian của con người quả là độc đáo và vô tận.
* Nguồn gốc và mục đích lễ hội
Những ngày hội truyền thống của người Tày cũng như của người dân
Việt Nam nói chung đều liên quan đến nông nghiệp.
Người Tày xưa kia chủ yếu sản xuất bằng nông cụ thô sơ luôn phải
chống chọi với thiên tai, địch họa… cho nên ngoài việc nỗ lực hết mình, họ
còn có ước vọng là sẽ có một lực lượng siêu nhiên để phù trợ cho cuộc sống
của mình. Với mong ước chính đáng cùng niềm tin ngây thơ, họ đã coi mặt
trăng như biểu tượng của sự chở che, phù trợ cho cuộc sống con người nơi
trần gian. Do vậy mà mỗi dịp đầu năm, khi bà con chuẩn bị bắt tay vào một
mùa vụ sản xuất mới, họ lại thực hiện nghi lễ cầu khấn thần linh ban cho trần
gian “nhân khang vật thịnh”. Lễ hội Nàng Hai của người Tày được ra đời từ
khát vọng đó. Ngoài ý nghĩa là một lễ hội lớn, hội Nàng Hai còn thể hiện tín
ngưỡng của người Việt: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mưa.
Theo tín ngưỡng dân gian của dân tộc Tày, trên cung trăng có Mẹ
Trăng và mười hai nàng tiên là những vị thần bảo vệ mùa màng cho dân
chúng. Hội Nàng Hai tổ chức với ý nghĩa tượng trưng cho việc hành trình lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
mường trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xinh đẹp xuống vui hội, thăm thú
trần gian, phù hộ cho mưa thuận gió hòa. Trong những ngày này, bà con đến
dự hội để cầu mong có cuộc sống tươi đẹp, tình nghĩa gia đình, xóm làng đằm
thắm, để lao động hăng say hơn còn thanh niên nam nữ hát đối đáp giao
duyên, tìm người tri kỷ.
* Chuẩn bị lễ hội
Lễ hội Nàng Hai ở huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng không phải năm
nào cũng được tổ chức. Thường thường, cứ ba năm dân làng lại tổ chức hội
Hai một lần. Việc mở hội phải phụ thuộc vào tình hình sản xuất của năm
trước có được mùa hay không. Do vậy mà làng mở hội năm nào như một điều
lành, như một dịp mừng năm qua có nhiều điều thuận lợi, cuộc sống của bà
con sung túc, no đủ.
Vì lễ hội này có ý nghĩa rất lớn đối với nhân dân nên việc tổ chức lễ hội
được chuẩn bị rất chu đáo và công phu từ hai, ba năm trước.
Thường thường, buổi sáng mùng một Tết, trong lễ cúng Thổ công, một
thiếu nữ thanh tân trong bản được cử ra xin phép thần linh cho mở hội Nàng
Hai. Sau đó, một người già trong bản có kinh nghiệm sẽ chọn ngày tốt nhất để
mở hội và kết thúc lễ hội. Sau đó mọi người bắt đầu công việc chọn người
tham gia lễ hội.
Nơi nào đăng cai mở hội phải chọn một người có uy tín, có kinh
nghiệm tổ chức lễ hội. Tuỳ từng địa phương mà người ta chọn thầy Pửt (còn
được gọi là Bụt, Then - những người làm nghề cúng bái) hay Mẻ Cốc (còn gọi
là Mẹ Gốc, Mẹ Cả) để tiến hành nghi lễ trong những ngày hội chính.
Nhân vật chính của sân khấu trong ngày hội là hai Nàng Trăng do hai
cô gái trong trắng, xinh đẹp, có giọng hát hay, có tài ứng đối thông minh linh
hoạt đóng vai. Mẻ Cốc sẽ là người truyền dạy cho hai cô những bài Lượn gốc
- những bài Lượn chính, cơ bản để dựa vào đó mà có thể ứng tác. Không phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
ai cũng có thể đảm nhiệm được vai trò Mẻ Cốc bởi công việc này phải đòi hỏi
ở một người không chỉ có tài năng, tâm huyết với việc hát Lượn mà còn phải
có cuộc sống khá hoàn thiện, được dân bản kính trọng. Mẻ Cốc và hai Nàng
Trăng luôn được bảo vệ bởi hai Củ Tiến do hai thanh niên trẻ chưa vợ đóng.
Ngoài ra, những người chính tham gia lễ hội còn là các cô gái trong đội
múa, hát tập thể. Những người này được gọi là Mụ Nàng, Mụ Nọi. Họ sẽ
ngày đêm tập luyện múa hát để đến ngày hội chính họ hát thật hay, múa thật
dẻo. Điều đặc biệt chú ý là đội múa bao giờ cũng phải chọn số người chẵn:
10, 12, hay 14... và được chia làm hai tốp, một tốp đeo khăn vàng, tốp kia đeo
khăn đỏ.
Tất cả những người được chọn để đóng các vai trong lễ hội đều phải
đẹp người, đẹp nết, hát hay, múa giỏi.
Một thứ nữa không thể thiếu trong lễ hội đó là vật phẩm cúng tế. Bao
giờ cũng vậy, mâm cúng của người Tày được chuẩn bị rất chu đáo và cẩn
thận. Người Tày rất trân trọng tình nghĩa. Họ dâng tiến lên tổ tiên, thánh thần
những sản phẩm đậm chất dân tộc miền núi, được chế biến bởi bàn tay khéo
léo, tài hoa bằng cả tấm lòng rất đỗi chân thành của mình. Lễ vật cúng tế
trong lễ hội Nàng Hai bao giờ cũng phải có: một con gà trống thiến, một
miếng thịt lợn đều được luộc chín, một con lợn khoảng 80kg được mổ sạch sẽ
- những thức này tượng trưng cho vật hiến tế; một mâm xôi cẩm ngũ sắc được
nhuộm từ lá cây rừng thể hiện quan niệm ngũ hành tương thích giao hòa; hai
bát gạo và nhiều bỏng gạo để làm giống hạt quí gieo đầu năm; bánh bột dẻo
tượng trưng cho sản vật nông nghiệp; 3 mô hình thuyền lớn (trong đó có một
thuyền lớn được trang trí cầu kỳ hơn là thuyền chở Mẹ Trăng, hai thuyền nhỏ
hơn để chở lễ vật và con giống, hạt giống) và bè con là phương tiện và sức
mạnh vượt biển; hương nhang để giúp người trần gian giao linh được với
người nhà trời. Tùy từng nghi thức mà lễ vật được sử dụng cho phù hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Những vật phẩm cúng tế này cho ta thấy nét đẹp trong nghệ thuật ẩm thực của
người Tày ở cao Bằng nói chung và người tày ở Thạch An nói riêng: mộc
mạc, dân dã nhưng cũng không kém phần tinh tế. Mỗi vật phẩm con người
dâng lên đấng tối cao là những thứ do chính bàn tay của người lao động làm
ra. Tuy bình dị nhưng mỗi thứ đều có một ý nghĩa sâu xa và chứa đựng trong
đó là cả một quan niệm triết lí của người Tày về vũ trụ, nhân sinh.
Sáng sớm, các thiếu nữ xinh đẹp sẽ vào trong rừng hái và kết thành
những bó hoa của núi, của rừng mùa xuân còn đang ngậm hơi sương để trang
trí cho nhà Nàng Hai. Họ sẽ chọn những bông hoa đẹp nhất, thơm nhất và quí
nhất để kết thành thuyền hoa đón Mẹ Trăng xuống trần gian. Thường có các
loại hoa chính là bjoóc phón, phjẳc phiền, bjoóc rồm, hoa chuối rừng... Điều
đặc biệt kiêng kị là hoa lá ngón không được hái vì theo quan niệm dân gian
Tày, nó mang đến điều không may mắn. Hoa chuối rừng tượng trưng cho con
gà vàng cống các Mẹ Trăng.
Được tin vui làng mình mở hội, trong bản nhà nào nhà ấy một phần tự
nguyện tham gia đóng góp lễ cúng, một phần chuẩn bị đồ ăn thức uống thật
chu đáo để đón khách về nhà mình chơi. Đây là một nét văn hóa đầy ý nghĩa
nhân văn, thể hiện hiếu tình đoàn kết và trọng khách của bà con.
Ngoài những công việc trên, mọi người cẩn phải dựng lều trăng và
nhà Nàng Hai.
Dân bản dựng một cái lều nhỏ gọi là Lều Trăng mà tiếng địa phương
gọi là “Lán Hai”. Lều được dựng trên một khu đất trống, bằng phẳng sạch sẽ
ở đầu bản. Lều chỉ dựng tạm bằng tre, lợp rơm để hai nàng Gường và Sở cùng
đoàn người hát mời Mẹ Trăng từ cung Quảng Hàm xuống trần gian.
Nhà Nàng Hai được dựng chắc chắn trên bãi đất rộng giữa bản và
thường gần sông hay suối. Nhà được chia làm hai phần: phần trong hay còn
gọi là phần buồng là nơi cho Mẻ Cốc dạy Gường và Sở luyện tập hát múa;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
phần ngoài rộng hơn, được rào lửng đến thắt lưng người đứng, là sân khấu để
các nàng trình diễn múa hát trong ngày hội chính. Phía trước nhà là một giàn
hoa (trạm bjoóc) được trang trí bằng những bó hoa rừng để Mẹ Trăng xuống
hái hoa.
* Tiến trình lễ hội
Thông thường, lễ hội được mở trong ba ngày. Hội được tổ chức trên
một khu đất cao giữa thung lũng, bên cạnh các con suối. Lễ hội thường có hai
phần chính: phần lễ và phần hội. Phần lễ có ba nghi thức cơ bản: lễ đón trăng
và lễ cầu trăng và lễ đưa trăng.
Nghi thức đón trăng thường được tổ chức vào đêm 30 tháng giêng hoặc
đêm rằm tháng hai với nghi lễ rất trang nghiêm. Trước khi thực hiện nghi lễ
này, Mẻ Cốc làm lễ khấn vái Thần Thổ Công của làng. Sau khi xin phép
xong, nhân vật này sẽ hát khúc hát Cấm kỵ, ngóng đợi hồn Hằng Nga trên trời
nhập vào hai nàng là Gường Bóng Nguyệt và Sở Hằng Nga. Khúc hát cầu
nguyện “xuất hồn” người trần, “nhập hồn” Nàng Hai được cất lên:
Lả ơi, Khoăn dú chang gần
Khoăn đíp oóc thua kháu bưởng sloa
Hai Há khảu thua khen, thua kha bưởng rại
Nàng Sở roọng lẻ mà
Nàng Gường nhập lẻ khảu.
Dịch:
Lả ơi! Hồn chính chạy trong lòng
Hồn sống ra đầu gối bên phải
Hai Há vào đầu chân, đầu tay bên trái
Nàng Sở gọi thì về
Nàng Gường nhập thì tới...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
Hai nàng sau khi được nhập hồn Nàng Hai không còn là người trần
gian nữa mà được coi là người tiên giáng thế. Họ sẽ dẫn đầu đoàn người lên
mường trời, mời đón Mẹ Trăng xuống trần gian. Từ hôm nhập hồn đến hôm
kết thúc lễ các cô phải kiêng một số công việc như gánh phân hay vào chuồng
gia súc mục đích là để giữ mình thanh sạch.
Người làm lễ sau một hồi niệm, hát, nài, mời, gọi, Mẹ Trăng đồng ý
xuống trần gian dự hội. Cứ thế, Mẻ Cốc làm lễ cúng các Mẹ. Theo quan niệm,
cuộc hành trình của các nàng tiên lên mường trời phải qua nhiều cửa. Mỗi Mẹ
sẽ trấn giữ một cửa và có một nhiệm vụ riêng trong việc trông coi việc nhà
nông. Tuỳ từng địa phương mà có quan niệm khác nhau về số cửa như: ở
huyện Phục Hoà - Cao Bằng thì dân gian quan niệm có 12 cửa Mẹ Trăng, còn
theo các nghệ nhân dân gian ở huyện Thạch An thì con người muốn gặp được
Mẹ Trăng phải đi qua 6 cửa. Tuy nhiên, nội dung các lời hát qua các cửa cơ
bản là giống nhau và đều theo một trình tự: trình diện Mẹ, mời Mẹ thay quần
áo đẹp, rửa mặt, ăn trầu; trình tên, trình bản quán; xin Mẹ hạt giống tốt, xin Mẹ
con giống khỏe, kêu Mẹ nhốt sâu bọ, cầu Mẹ ban cho mùa màng bội thu...; xin
phép Mẹ cho lên đường đi tiếp.
Sau khi vượt qua chặng đường dài bao vất vả, gian nan với phương tiện
lúc đi ngựa, lúc đi thuyền, đoàn quân quay trở về cùng những thuyền buồm
đầy hạt giống tốt. Khúc ca khải hoàn được cất lên trong niềm phấn khởi của
tất cả mọi người:
Cờ goảt pây bưởng lăng tứn mạ
Cờ goảt pây bưởng nả tứn luông
Chính hiệu bên cốc cường tứn tượng
Binh cờ tứn soong bưởng lao xao
Cờ đeng vạ cờ khao ngoắt bóng
Cờ đăm đeng vạ binh mạ khửn tàng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
Dịch:
Cờ quạt phất đằng sau thúc ngựa
Phất quạt sang đằng trái thúc sluông
Chính hiệu bên cốc gường tiến tượng
Binh cờ bay sáng chói như sao
Cờ vàng cùng cờ xanh tiến bước
Cờ quạt cùng binh mã lên đường
Mẻ Cốc hát dẫn đường, hai nàng Gường và Sở quay tròn, Lượn, hát,
gọi mời đủ các Mẹ, cầu khấn họ ban cho trần gian mùa vụ tốt tươi, cuộc sống
no đủ, bình yên và hạnh phúc. Người dự hội cùng hòa vào buổi lễ bằng những
bài hát Lượn Hai gửi tới Mẹ Trăng những băn khoăn, trăn trở về chuyện mùa
màng, thế sự, tình duyên. Lúc này, Hai nàng Gường và Sở tượng trưng cho
Mẹ Trăng đáp lời bà con dự hội. Tình cảm ấm áp, đôn hậu của Mẹ Trăng đã
xóa tan khoảng cách giữa hai cõi tiên và cõi trần. Mẹ Trăng trở thành người
bạn thân thiết của người trần. Sau lời đáp lại của Mẹ Trăng, bà con thay người
trần gian bằng những câu hát thật đẹp:
Gằm tiên nữ van tlồng ỏi cáp thương
Gằm tiên nữ đây plòi tlồng nặm mà tlổng
Gằm đây au slửa xỏm mà to
Gằm điếp plải bjoóc mà slủ
Gằm quí au hóm kim mà dửc
Cám ơn mẻ bjoóc au phúc lành mà hẩư trần gian.
Dịch:
Lời tiên nữ ngọt ngào như mật mía
Lời tiên nữ tốt lành như cọn đưa nước về đồng
Lời đẹp lấy áo chàm về hứng
Lời hay lấy vải hoa về đựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
Lời quí lấy hòm vàng cất giữ
Cảm ơn Mẹ Hoa ban phúc trần gian!
Nghi lễ cuối cùng là lễ đưa tiễn trăng về trời. Đây là ngày hội chính của
bản được định sẵn từ trước, cũng là ngày cuối cùng kết thúc lễ hội cầu mùa.
Những khúc hát cất lên khiến lễ đưa tiễn Mẹ Trăng trở thành một cuộc
chia tay đầy lưu luyến và cảm động:
- Tiểng cáy khăn hai chỏi mừa khuya
Khúc hát hẹn thâng plửa mừa lăng
Hai lồng bưởng vạ tình nhằng mại
Gần vạ hai plần bạn tri ân.
Đối:
- Nắm rộp căn slim slẩy điếp slương
Mủng hăn căn gằm Lượn thuổn mường
Bióoc đây mì lúc nhằng dang dở
Slim slẩy xiên pi vận sắt son.
Dịch:
- Tiếng gà gáy ánh trăng thêm chút lạnh
Khúc hát còn xin hẹn đến dịp sau
Trăng sẽ không sầu, không thảm nữa đâu
Bởi trăng có bạn làm người tri kỷ.
Đối:
- Chẳng thấy nhau lòng nhớ dạ thương
Thoáng chút gặp câu Lượn đang dang dở
Hoa đẹp cũng có khi cánh rữa
Lòng vàng vạn kiếp vẫn sắt son.
Khung cảnh chiều xuân miền núi với sương lam mỏng mảnh, gợi buồn
man mác càng khiến cuộc chia tay càng thêm lưu luyến xiết bao. Những chiếc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
thuyền gỗ vông được thả trên dòng suối để đưa Mẹ Trăng về mường trời. Mẹ
Cả hát dẫn lời đưa tiễn và hẹn năm sau lại đón Mẹ xuống trần gian.
Kết thúc lễ là hai nàng Gường, Sở thực hiện việc phá dỡ lều trăng tại
đồng. Mẻ Cốc tụng niệm, gọi vía cho hai cô gái trở về.
Xong phần lễ, đêm đó và mấy đêm sau nữa, là đêm hát trữ tình giao
duyên dành cho đôi lứa. Họ hát say sưa, giãi bày tâm tình, để rồi hội tan mà
câu hát cứ tưởng hãy còn vương vấn mãi đâu đây.
1.2.2. Khái quát về những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An
- Cao Bằng
Lượn là một loại hình dân ca tiêu biểu của người Tày nói chung và
người Tày Thạch An nói riêng. Hát Lượn gắn bó với muôn mặt của đời sống
nhân dân Tày. Tiếng ca ấy chính là hương sắc của cuộc đời, làm đẹp và phong
phú thêm tâm hồn của họ.
1.2.2.1. Khái niệm về Lượn
Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm “Lượn”.
“Lượn là thể hát giao duyên phổ biến của dân tộc Tày - Nùng, bao giờ
cũng có hai phía hát đối nhau. Một bên nam - một bên nữ, hoặc một bên chủ -
một bên khách” [32, Tr.193].
Trong dân ca trữ tình Tày Nùng, nhà nghiên cứu Vi Hồng lại cho rằng:
“Đối với người Tày, từ lượn là từ để chỉ âm thanh hát lên với những làn điệu
này nọ. Ngay cả dân ca nghi lễ, mê tín cũng được gọi là lượn: lượn pựt, lượn
tảo - các bài hát của các ông các bà làm nghề cúng bái: Lượn “nàng hai” -
Những bài hát mời nàng trăng “xuống trần chơi”, lượn “hảy phi” - những
bài khóc đám tang ma, lượn “suông lồng” - hát nghi lễ các bà then, lượn
“toóc bổn” - những bài cầu chúc mùa màng... Những bài ca, khúc ca được
người ta lượn bao giờ cũng mang hơi thở trữ tình” [20, Tr. 33].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Như vậy, khái niệm về Lượn được hiểu theo nhiều cách khác nhau và mỗi
cách hiểu đều có lí. Cách hiểu của cố nhà văn Vi Hồng mang tính khái quát và
trong đó ông có phân chia một số tiểu loại Lượn cũng như chỉ ra được đặc trưng
cơ bản nhất của loại hình dân ca này chính là chất trữ tình.
Lượn có nhiều hình thức khác nhau, cho đến nay việc phân chia cũng chưa
đồng nhất.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, Lượn Tày gồm 3 loại chủ yếu: Lượn Cọi, lượn
Slương và Lượn Nàng ới. Ngoài ra ở một số địa phương như Cao Bằng, Lạng
Sơn còn có Lượn Nàng Hai (hay còn gọi là Lượn Hai, Lượn Trăng, Lượn Then)
1.2.2.2. Tìm hiểu chung về Lượn Hai
Đến dự hội Nàng Hai, ắt hẳn sẽ chẳng ai quên những khúc Lượn Hai đầm
ấm, mượt mà, sâu lắng. Hát Lượn Hai đã trở thành một nét độc đáo và là một
phần không thể thiếu của lễ hội này. Nếu không có Lượn Hai, hội chẳng thành.
* Khái niệm Lượn Hai
Lượn Hai hay còn goị là “Lượn nàng trăng gồm những bài lượn cầu
mong, chúc mừng, ca ngợi... về nhiều mặt của đời sống con người, của bản
mường...” được hát trong lễ hội Nàng Hai [1, Tr.30].
Theo nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Triệu Thị Mai, người ta gọi
Lượn Hai bởi loại dân ca này chỉ được hát riêng trong lễ hội Nàng Hai mà
thôi. Còn một lí do khác nữa là trong lễ hội đó, người ta hát cho Nàng Trăng
nghe, hát để bày tỏ lòng mình với Nàng Trăng (mà trăng theo tiếng Tày gọi là
Hai) nên những bài hát đó được gọi bằng cái tên như vậy.
Hình thức của bài Lượn Hai giống với bài Then. Thông thường một bài
Lượn Hai được làm theo thể thơ 5 chữ hay 7 chữ, có trường hợp 10 đến 12
chữ, không giới hạn về số lượng câu thơ. Vì không qui định chặt chẽ về thể
thơ nên cách gieo vần trong Lượn Hai khá tự do. Đặc điểm này thích hợp cho
việc ứng tác tại chỗ, sáng tác mang tính chất ngẫu hứng. Có những bài Lượn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
Hai gần giống với cách nói vần vè, “phuối pác”, “phuối rọi”, gần gũi với lời
ăn tiếng nói của nhân dân.
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của người dân
Tày trong cuộc sống hàng ngày. Đây là lối nói tự do, thường được diễn ra khi
gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội... Nó cũng được coi là một hình
thức biểu hiện tình cảm với nhiều sắc thái. Được thời gian gọt rũa, những lời
phuối pác, phuối rọi ngày càng cô đọng, bóng bẩy và mềm mại một chất thơ
lãng mạn.
Về mặt ngôn từ, nhiều bài Lượn Hai thể hiện trình độ lựa chọn ngôn
ngữ khá tinh tế của người dân Tày:
Nậu bjoóc rồm hom van
Dú đông na phia lẩc
Nậu bjoóc cút khiêu đây
Khoen dú co mạy cải
Bjoóc khảo khinh tlềnh đán
Lồm plạt plẻo si mê
Dịch:
Thơm ngát bông hoa rầm
Khắp sơn lâm mây phủ
Sáng hồng bông hoa mạ
Treo lơ lửng những vàng
Hoa khảo chuông núi đá
Gió thổi về si mê
Nội dung của những bài Lượn này khá phong phú. Bên cạnh nội dung
chính là những lời cầu mùa, cầu an, cầu phúc, Lượn Hai còn thể hiện tình nghĩa
giữa người với người, lòng biết ơn của con người với thiên nhiên... Tuy nhiên, có
điều đặc biệt là thể loại dân ca này không được phép nói đến tình yêu hoa nguyệt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
Lượn Hai bao gồm những khúc hát như: Giải uế, Cẩm thé, Vào cửa Giả
Gỉn, Vào cửa Slấn… Những khúc hát này có nội dung giống như những khúc
ca trong Then, vì vậy mà có nơi còn gọi là Lượn Then. Ca từ của của những
bài hát được cất lên trong chặng đầu của phần lễ này mang đậm màu sắc tín
ngưỡng tôn giáo:
Khoăn chính tẻ trang đi
Khoăn đíp khảu thua kháu bưởng soa
Hai Há oóc thua khen, thua kha bưởng rại
Khoăn mà nhập khẩu pây
Khoăn lẻ tỉnh Mẻ Nàng
Đảy nhìn tiểng Gường sa gỏi mà
Đảy nhìn tiểng Sở sa gỏi lại
Mỉnh nắc nắm đảy khửn tềnh nưa
Mỉnh nẩư chính pền Gường pền Sở
Khửn nưa bân mởi Mẻ, mởi Nàng
Mà dương gian dự hội.
Dịch:
Hồn chính chạy trong lòng
Hồn sống ra đấu gối bên phải
Hai Há vào đầu chân, đầu tay bên trái
Hồn vía hãy nhập vào
Hồn vía hãy nghe lời Mẹ Nàng
Nghe thấy lời chúa gọi hãy về
Nghe lời chúa gọi hãy lại
Vía nặng không lên được tiên cảnh
Vía nhẹ nên nàng Gường nàng Sở
Cùng lên đường mời Mẹ, mời Nàng
Về dự hội cầu mùa dương gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
Hình thức sinh hoạt diễn xướng của Lượn Hai có hai hình thức cơ bản:
hình thức đối đáp và hình thức tự lượn.
Dân ca Tày nói chung và Lượn Hai nói riêng đã được đồng bào Tày
sáng tác, lưu truyền và thưởng thức. Làn điệu dân ca ấy đã song hành cùng
với cuộc sống của họ. Ngày nay, những làn điệu này không còn được xuất hiện
và sử dụng nhiều như ngày xưa nữa. Chính vì vậy lễ hội xuân cũng là một dịp
để con người tìm về với nét đẹp xưa của dân tộc, để thưởng thức, để giữ gìn và
để biết trân trọng hơn những giá trị văn hóa truyền thống quí báu ấy.
Tiểu kết:
Qua phần tìm hiểu trên, chúng ta không chỉ biết rõ hơn những đặc điểm
về điều kiện tự nhiên, xã hội, đời sống văn hóa của người Tày ở Thạch An -
Cao Bằng mà còn nhận thấy mối quan hệ, ảnh hưởng qua lại giữa các yếu tố
này với nền văn hóa dân gian dân tộc Tày, trong đó có những bài dân ca được
hát lên trong lễ hội Nàng Hai. Môi trường văn hóa càng sinh động và phong
phú bao nhiêu thì nó càng được khúc xạ vào trong các sáng tác văn học dân
gian càng đa dạng và giàu màu sắc bấy nhiêu. Vì vậy mà Lượn Hai đã trở
thành một loại ngôn ngữ đặc biệt của dân tộc Tày - ngôn ngữ biểu hiện sự
rung động vô cùng tinh tế của tâm hồn con người. Nó đã trở thành một sản
phẩm tinh thần chung của cả cộng đồng, trở thành một nét đẹp văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
CHƢƠNG 2:
GIÁ TRỊ NỘI DUNG NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI Ở
THẠCH AN - CAO BẰNG
2.1. Bức tranh chân thực về cuộc sống lao động của đồng bào Tày xƣa
Ra đời và phát triển lâu dài trong đời sống của người Tày, khúc hát lễ
hội Nàng Hai chứa đựng sâu sắc những dấu ấn của lịch sử tộc người. Những
câu hát Lượn Hai đã tái hiện bức tranh sinh hoạt chân thực và sinh động về
cuộc sống lao động thuần nông lạc hậu, tự cung tự cấp của cư dân Tày.
Với địa bàn cư trú có nhiều bất thuận, công cụ lao động thô sơ, hơn cả
là việc sản xuất còn phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Họ coi thiên nhiên
là lực lượng siêu phàm, trời ban cho gì thì nhân gian được đấy, mùa màng
năm ấy có tốt hay không là do sự hào phóng và chăm sóc của các vị thần cai
quản nông nghiệp. Họ đã đặt tất cả niềm tin về cuộc sống của mình vào người
mẹ thiên nhiên. Do vậy mà mỗi năm bắt đầu một mùa vụ mới, họ phải tổ chức
lễ hội Nàng Hai, để mời gọi Mẹ Trăng ban cho trần gian một năm no đủ, yên
lành, hạnh phúc.
Qua các khúc hát cầu mùa trong lễ hội Nàng Hai, chúng ta thấy hiện
lên một bức tranh khá hoàn chỉnh về cuộc sống sinh hoạt của đồng bào Tày
xưa, đó là cuộc sống lao động sản xuất nông nghiệp thô sơ, còn phụ thuộc
vào thiên nhiên.
Con người vẫn coi thiên nhiên như một cái gì đó rất mạnh mẽ mà cũng
thật thần bí. Trước lực lượng siêu nhiên bí hiểm như mưa bão, lũ lụt, hạn hán,
dịch bệnh... con người chưa thể chế ngự được, vì vậy họ chỉ biết cầu mong,
chỉ biết trông vào sự may rủi. Nếu người Kinh cầu mưa bằng những lời ca :
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
Lấy bát cơm đầy...
thì đồng bào Tày cũng mong ước, khấn cầu:
Cầu soong Mẻ hẩư bươn shí hả nặm lắp lí phai
Cháu nhân gian khỏi đét bươn slam
Cháu nhân gian khỏi phân bươn pét
Dịch:
Cầu hai Mẹ cho tháng tư mưa thuận, tháng năm gió hoà
Đừng để cho nhân gian chết khô
Đừng để cho nhân gian chết héo
Mang đặc điểm của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, người nông
dân Tày cũng rất coi trọng vai trò của nước trong hoạt động sản xuất. Với địa
hình đồi núi cao, đồng bào Tày chủ yếu là trồng lúa trên những thuở ruộng
bậc thang, trên nương rẫy hay những lảnh ruộng nhỏ bên suối. Được mùa hay
mất mùa đều phải nhờ tất cả vào nước trời. Những đám ruộng trũng ven suối,
ven khe vào mùa nước về hay bị lũ quét, lũ ống. Còn những đám ruộng cạn
(mà đồng bào gọi là nà lẹng) chỉ cấy lúa được một vụ trong năm (khoảng
tháng tư đến tháng mười). Để cấy được, những đám ruộng này phải chờ nước
mưa. Nếu không có mưa, ruộng đành bỏ hoang. Vì vậy mà một cơn mưa vào
khoảng thời gian này với đồng bào là cả sự sống còn trong một năm cày cấy.
Hiểu được điều đó, ta mới thấu được ý nghĩa sâu sắc của lời ca ấy. Cầu
bươn shí hả nặm lắp lí phai với người nông dân Tày lại là điều ước thật là lớn
lao, là tất cả cuộc sống của họ. Đất trời thuận hòa, gió mưa theo mùa theo vụ
thì việc đồng áng cùa bà con mới thuận lợi, trần gian cây cối xanh tốt và cuộc
đời sẽ tươi vui, chứa chan sự sống.
Văn học dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhân dân lao động, ra đời
như một phương cách diễn đạt và trao gửi những hiểu biết, những cảm nhận
của họ về sự thật cuộc sống. Với nhận thức về cuộc sống của mình, người Tày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
xưa đã vẽ lên bức tranh lao động qua nhiều câu hát Lượn Hai. Qua làn điệu
dân ca ấy, công việc của đồng bào Tày ở Cao Bằng hiện lên thật sinh động
với việc trồng lúa, ngô, khoai, trồng dâu, nuôi tằm, thả cá, rèn sắt... Cùng với
lối tư duy nguyên thủy thơ ngây, họ cho rằng, mỗi công việc đều có một Mẹ
Trăng cai quản, bảo ban và phù trợ. Những khúc hát trong lễ hội Nàng Hai
được nàng Gường, nàng Sở hát lên, đưa người xem hội theo một cuộc hành
trình dài biết bao gian lao, vất vả để lên trời gặp các Mẹ Trăng. Mỗi một Mẹ
lại có một nhiệm vụ khác nhau, như Mẹ Bích Ba sẽ cai quản mùa màng,
không cho sâu bọ phá hại, các Mẹ Bích Vân, Lượng Tàm, Lượng Nhì, Hán
Hoa, Hán Vân... thì ban phát các giống lúa, ngô, khoai, dâu tằm hay nhiều con
giống khác... Qua chặng đường dài với biết bao nguy nan, đến nơi, Nàng Hai
phải trổ hết tài của mình, để hát xin gặp và cầu Mẹ ban cho giống cây, giống
con khỏe mạnh. Trước tiên là họ xin giống lúa, ngô, khoai:
Lạy Mẻ ban hẩư vẻ khẩu vẻ bắp
Lạy Mẻ ban thêm hẩư vẻ mằn
So Mẻ vẻ khẩu pay, khẩu pét
So Mẻ vẻ pí pất khẩu nua
Dịch:
Lạy Mẹ ban cho giống lúa giống ngô
Lạy Mẹ phát cho giống khoai, giống sắn.
Xin Mẹ giống khẩu pay, khẩu pét
Xin Mẹ giống nếp thơm pí pất.
Với người nông dân miền núi, cây trồng để lấy lương thực của họ ngoài
cây lúa ra còn có ngô, khoai, sắn. Những thức ấy đều là lương thực nuôi sống
họ, chính vì vậy mà được người nông dân quí trọng, đề cao. Tuy nhiên, đời
sống vật chất của họ không chỉ là cái ăn mà còn cả cái mặc. Bằng sự cần mẫn
vốn có trong mình, với khả năng sáng tạo, người Tày đã tự trồng bông, dệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
vải, nhuộm chàm để may quần áo. Đến một bản của người Tày xưa, ta hay
gặp những nương trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Những vụ bông được mùa,
đồi này nối tiếp đồi kia đến trắng cả một góc trời, vải chàm xanh thẫm giăng
khắp lối vào bản, gái trai đi chợ, đi chơi hội ai ai cũng mặc áo mới thơm nức
mùi chàm. Cho nên, trong ngày hội Hai, họ đâu quên xin Mẹ Trăng hạt giống
vải để gieo trồng:
Con muốn xin hạt vải giống gieo ương
Con muốn xin giống cây dâu trồng.
Hạt giống vải gieo trồng ấy là hạt giống quí, được gieo trồng trong
vườn thượng uyển của Ngọc Hoàng trên cung đình, vải ấy để dệt áo cho
các nàng tiên. Họ ước mong hạt giống ấy sẽ lớn lên trong bàn tay chăm
sóc của mình và sẽ dệt thành những tấm lụa đẹp dâng lên Mẹ Trăng như
để nói rằng họ không quên ơn Mẹ. Chỉ mới là lời cầu ước thôi nhưng tác
giả dân gian không giấu nổi niềm vui khi được ngắm nhìn thành quả lao
động của chính mình tạo ra:
Piếm ngòi đổng mọn phông
Mọn cải khửn rầm rầm
Tua cheng tua khảu quéng
Au bâư mọn mà khun
Ăn quéng gặn mác mặn
Soong mừng đé nắm phó
Au nặm tiên mà ươm
Tắm thúc lài pần khăn tiến Mẻ.
Dịch:
Ngắm xem nong ngài hiền hòa đậu
Béo mập, con tranh con đẻ trứng
Trứng này đem về nở lắm tằm đầy nong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Lá dâu chăm, theo tay người liền kéo kén
Cái kén bằng quả mận
Hai tay đè không vỡ
Kén tằm múc nước mỏ về ươm
Mới dệt nên khăn vàng tiến Mẹ.
Cách nói của người Tày thật trong sáng và giản dị biết bao. Những giá
trị của lao động đều phải đo bằng mồ hôi và nước mắt. Nhưng trong câu hát,
ta không hề thấy họ nhắc đến nỗi vất vả cực nhọc mà thay vào đó là niềm vui
được lao động, được từng ngày, từng tháng dõi theo thành quả lao động của
chính mình.
Và họ không quên xin giống cá đem thả:
Nả rườn mì thâm nặm quảng soác
Pia chép lòi bưởng tẩư
Pia khẩu lòi tềnh nưa
Phấu pia diếc lòi trang đi.
Dịch:
Trước nhà có hồ nước mênh mông
Cá chép bơi tầng dưới
Cá cơm bơi tầng trên
Tầng giữa cá diếc lượn từng đàn.
Với khả năng sáng tạo trong lao động còn nhiều hạn chế, người Tày
xưa luôn tin rằng tất cả các cây trồng và con giống mà họ đang nuôi trồng đều
do các Mẹ Trăng thượng giới ban cho, để có một mùa màng bội thu là nhờ
những giống cây tốt từ trên trời mang xuống. Niềm tin trong sáng ấy nâng
cánh cho những ước mơ bé nhỏ nhưng vô cùng đẹp đẽ của họ:
Lạy Mẻ puối hẩư vẻ mọn, vẻ khẩu
Lạy Mẻ puối hẩư vẻ mằn, vẻ phước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
Vằn ất khẩu khửn slung
Vằn nhỉ khẩu khửn muột
Cầu Mẻ puối hẩư vẻ mọn đây
Bươn ất mọn plông ón
Bươn nhỉ mọn cải mọn rèng
Bươn slam mọn khảu quéng
Bươn sí quéng mọn lương
Bươn hả quéng mọn lương ước ước
Bươn sốc tắm thúc lài
Nhặp slửa đáo, slửa đeng tiến Mẻ
Dịch:
Lạy Mẹ ban cho giống lúa giống ngô
Lạy Mẹ ban cho giống khoai giống sắn
Một ngày lúa lên cao
Hai ngày lúa lên vượt
Lạy Mẹ ban cho giống dâu tằm
Tháng giêng tằm nở
Tháng hai tằm lớn
Tháng tư kén tằm vàng ươm
Tháng năm kén tằm vàng rực rỡ
Tháng sáu kéo tơ tằm dệt lụa
May áo đẹp dâng lên các Mẹ Nàng.
Cách dùng từ ngữ chỉ thời gian của đồng bào Tày mới thực độc đáo
làm sao: Vằn ất (một ngày) rồi Vằn nhỉ (hai ngày), Bươn ất (tháng giêng) rồi
Bươn nhỉ, Bươn slam, Bươn sí (tháng hai, tháng tư, tháng năm), tiếp sang
Bươn sốc (tháng sáu)... Thời gian nối tiếp thời gian đó là điều hiển nhiên
nhưng trong sự tiếp nối vô tình ấy là những mầm sống đang vươn dậy mạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
mẽ đến không ngừng. Trong lời ca, hiện lên một bức tranh khỏe khoắn, tươi
đẹp với xanh tươi của ngô lúa, với rực rỡ của nong tằm vàng ươm đầy hứa
hẹn… Đằng sau bức tranh ấy là niềm vui, niềm hân hoan trước một cuộc sống
no ấm. Người nông dân Tày đã trực tiếp bày tỏ khát vọng của mình khi cuộc
sống vật chất còn nhiều thiếu thốn. Thoát khỏi cuộc sống còn bao vất vả, khó
nhọc với khả năng chưa thể chế ngự được thiên nhiên, đó chẳng luôn là mong
ước của cha ông ta xưa sao!
Trong sản xuất nông nghiệp, điều đáng lo nhất với người nông dân là
thiên tai, địch họa. Nên họ hi vọng bằng tài năng của Mẹ Trăng, lũ sâu bọ
đáng ghét kia sẽ bị mẹ nhốt kĩ, không thể xuống trần gian cắn hại mùa màng
được. Tiếng hát cầu mong ấy đã vang vọng tận trời xanh, để thần linh thấu
tấm lòng của dương gian:
Lạy Mẻ xăng cậy non pác đăm
Lạy Mẻ xăng cậy non pác đáo
Mẻ xăng khảu buốc mạy rượi
Xăng khảu buốc mạy tlàn
Pắt pây lẻ pắt mà
Tlà pây lẻ tlà thẻo
Tlà pây thâng tlằng mường
Tlà pây thâng tlằng tlổng
Nắm hẩư mèng ghèng phá đát tlổng luông
Nắm hẩư mèng hai đát tlổng quảng
Hẩư bâư khẩu khửn khiêu
Hẩư nhỏt mằn khửn mậu
Quét pây mèng đát bâư
Quét pây non khốp nhỏt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
Dịch:
Cầu mong Mẹ giam lại giống sâu miệng đỏ
Cầu mong Mẹ giam lại giống bọ miệng đen
Bọ rầy nhốt trong lồng rượi Mẹ đan
Bọ rầy nhốt trong ống tàn Mẹ trát
Trát đi rồi trát lại
Miết đi là miết về
Miết đi khắp mọi nẻo
Miết đi khắp mọi mường
Cho lá lúa xanh tươi
Cho mầm khoai khỏe mạnh
Không cho bọ cắn lá
Không cho sâu chích mầm
Với cách thể hiện theo lối điệp khúc kết hợp với giọng điệu thay đổi
linh hoạt lúc dài lúc ngắn làm cho bài Lượn chứa một sức gợi cảm khá mạnh.
Mỗi câu thơ trong bài ca cất lên như những khúc nhạc liên hoàn dội đi dội lại
mãi, làm cho ta thấy rõ nỗi lo âu và niềm khắc khoải của người nông dân
trước vụ mùa mới.
Theo nhà văn Goóc - ki, văn học dân gian là những sáng tác truyền
miệng của nhân dân lao động, nó biểu hiện thế giới quan của người lao động
và chủ yếu là của người nông dân. Về căn bản, tư tưởng của người nông dân
Tày lúc bấy giờ mang tính chất duy vật nhưng do bị hạn chế bởi kỹ thuật
nông nghiệp thô sơ nên đầu óc họ nảy nở những tư tưởng duy tâm. Trước
những thiên tai như hạn hán, bão lụt, dịch bệnh... người nông dân nhiều lúc tỏ
ra bất lực. Trong rất nhiều thế kỷ, họ đã phải phụ thuộc vào thiên nhiên rất
nhiều. Dần dần trong họ hình thành những tư tưởng lạc hậu, mê tín đối với
thiên nhiên, đặt một niềm tin tuyệt đối vào người mẹ thiên nhiên. Xét ở một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
khía cạnh nào đó, niềm tin ấy chính là một liều thuốc tinh thần, một món quà
vô giá dành cho người nông dân lam lũ vất vả. Niềm tin ấy dù khó trở thành
hiện thực nhưng nó như tiếp thêm sức mạnh cho người lao động, để trước một
mùa vụ mới, họ lao động hăng say hơn, để tay cuốc tay cày thêm dẻo và để
đợi chờ một mùa vụ bội thu.
Văn học dân gian luôn chứa đựng trong nó những yếu tố của lịch sử,
của thời đại mà nó được ra đời. Khúc Lượn Hai cầu mùa là sản phẩm tinh
thần một thời của người nông dân Tày ở Thạch An. Dấu ấn lịch sử còn đọng
lại đó là những nét vẽ thô mộc nhưng vô cùng sinh động về cuộc sống lao
động của bà con nông dân lúc bấy giờ với nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự
cấp. Các lễ vật dâng lên các Mẹ Trăng không phải ở đâu xa mà ngay chính từ
sản phẩm của nghề nông:
Tiến pây tlằng lắc là pẻng quánh
Tlằng pẻng quánh, pẻng hai
Tiến pây khẩu nua lài khẩu cắm
Tiến pây nậu hoa pù, chù thúc théc
Pác thứ, pác lệ, pác đồ chay
Mọi thứ, mọi mòn đây tiến Mẻ
Dịch:
Dâng lên chùm bánh quánh
Cả bánh quánh bánh, bánh quẩy
Dâng lên mâm xôi ngũ sắc bảy màu
Dâng lên nụ hoa pù, chù thúc théc
Trăm thứ trăm đồ chay
Mọi thứ để cúng các Mẹ Nàng
Pẻng quánh, pẻng hai, khẩu nua lài khẩu cắm (bánh quánh, bánh quẩy,
xôi cẩm bảy màu) đấy là những thứ quen thuộc trong văn hóa ẩm thực của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
người Tày Cao Bằng. Nhưng những thức ấy cũng lại là những lễ vật không
thể thiếu trên mâm cúng của họ trong những dịp lễ tết. Mộc mạc là đây. Giản
dị là đây. Mà cũng chân thành là đây. Bởi những sản phẩm ấy được làm nên
từ hạt gạo nếp nương chan chứa biết bao mồ hôi và công sức của người nông
dân, qua bàn tay khéo léo tài hoa của các mẹ, các chị, trở thành thứ bánh trái
đặc sắc của quê hương mình, để rồi họ kính cẩn dâng lên đấng thần linh.
Cho dù về mặt tư tưởng, những khúc hát trong lễ hội Nàng Hai của
người Tày ở Thạch An - Cao Bằng còn hạn chế nhưng bằng lời thơ giản dị
nhưng vô cùng độc đáo và sinh động, người nông dân Tày đã tái hiện hình
ảnh cuộc sống lao động của mình một thời. Thông qua đó, chúng ta còn thấy
được vẻ đẹp trong đời sống tâm hồn của cha ông xưa.
2.2. Khúc hát Lƣợn Hai thể hiện trí tƣởng tƣợng phong phú, tƣ duy đậm
sắc màu miền núi của nhân dân Tày Thạch An - Cao Bằng
Xưa kia, sống giữa đại ngàn, được bao bọc bởi núi non trùng điệp quanh
năm sương mờ hầu như chưa từng ai đặt chân tới, trước âm thanh gào thét của
những con thác dữ, những vực nước bí hiểm thâm u... người Tày cảm thấy thiên
nhiên, vũ trụ thật bí hiểm. Để giải thích cho sự thắc mắc của mình, cho cộng
đồng và con cháu của mình, đồng bào đã lí giải và cụ thể hóa các hiện tượng
thiên nhiên bằng trí tưởng tượng phong phú và lối tư duy mộc mạc giản dị.
Theo quan niệm của người Tày cổ, thế giới được chia làm ba tầng:
mường trời, trần gian và địa ngục. Mường trời ở trên cao là nơi sinh sống của
tiên phật. Mặt đất nơi loài người sinh sống. Dưới tận cùng là âm ti địa ngục
với những thác cao, giếng sâu, là nơi ở của quỷ dữ, thuồng luồng. Trong văn
học dân gian, thế giới mường trời được người Tày nhắc đến khá nhiều. Theo
quan niệm và trí tưởng tượng của dân gian thì cõi mường trời chẳng khác gì
trần gian. Nơi đó cũng có bản mường, cánh đồng được đặt tên rất cụ thể:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
Quá Mường Rấn, phja Kẹm
Quá Mường Nà, Phja Miềng
Pây thâng tổng Nghiêm La
Pây quá Nà Nghiêm, Nà Ngậu
Dịch:
Qua Mường Rấn, núi Kẹm
Qua Mường Nà, Phja Miềng
Đi qua cánh đồng Nghiêm La
Đi qua Nà Nghiêm, Nà Ngậu.
có chợ nhỏ, chợ lớn để trao đổi mua bán mọi thứ:
Pây quá háng Tam Quang
Pây quá hàng tẳng, hàng khoang thuổn tlỉ
Pây quá háng hội hoa
Pây quá háng pia háng rọm
Pây quá háng phjéc, háng phjải
Pây quá háng kim ngần
Pây thâng háng tiên tức cờ
Háng cải wạ háng eng
Háng mì slíp nhỉ tàng
Tam quan slíp nhỉ lỏ
Dịch:
Vượt qua chợ Tam Quang
Vượt qua lối hàng ngang hàng dọc
Vượt qua chợ hội chợ hoa
Vượt qua chợ hàng tôm hàng cá
Vượt qua chợ vải chợ rau
Đến chợ bán vàng bạc thỉnh cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
Vượt qua chợ nàng tiên chơi cờ
Vượt qua chợ lớn chợ nhỏ
Chợ phố mười hai nẻo đường
Tam Quang mười hai lối
Nhưng khác với trần gian, đó là chốn thanh bình đầy hương hoa, con
người ở trên đó là tiên và có khả năng và sức mạnh phi thường. Trên trời là
nơi ở của các Mẹ Trăng. Nhiệm vụ của các Mẹ là coi sóc và bảo về mùa
màng, cuộc sống cho con người dưới hạ giới.
Cha ông ta xưa luôn cho rằng trời và đất, thế giới tiên cảnh và chốn trần
gian rất gần nhau, có con đường lên trời. Sử thi Tây Nguyên kể lại có chi tiết:
Đăm San lấy cái thang để bắc lên trời, bắt trời cho hai người vợ của mình là
Hơ Nhí và Hơ B Hí sống lại. Đồng bào Tày cũng tưởng tượng có con đường
từ trần gian lên trời. Không phải ai cũng lên trời được mà chỉ có những người
có phép thuật như thầy Tào, bà Bụt. Họ chính là chiếc cầu nối để con người
trần gian và thần tiên giao lưu với nhau.
Đi theo những câu hát Lượn Hai, cảnh thần tiên cứ dần mở ra trước
mắt. Trí tưởng tượng của dân gian đã vẽ lên một khung cảnh vừa quen vừa lạ.
Đoàn người từ trần gian lên cống tiến Mẹ Trăng phải đi qua nhiều chặng
đường đầy gian lao, vất vả, bắt buộc mọi người phải bền tâm vững chí mới có
thể tới được nơi. Nàng Hai dẫn đầu đoàn người vượt núi, băng rừng, qua sông
để lên đến cung trăng.
Lênh đênh trên biển bằng thuyền bè, với sức khỏe phi thường của
những sluông chèo thuyền, họ qua nhiều nơi trên biển trời:
Pin khửn búng tua pất áp ne
Pin khửn búng tua le le thua tlả
Pin khửn búng tua quang Đồng Xuân
Pin khửn búng tua lình nưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
Pin khửn búng Ngưu Lang Chức Nữ
Pin khửn ngàu hai khảm pế
Pin khửn co bióoc ngựu phông đeng
Pin khửn nưa khau phia nổc én
Pin khửn sam shíp nhỉ tlả lây
Pin khửn phia Thiên Ô chắc phuối.
Dịch:
Chèo lên chốn con vịt sẵn rong
Chèo lên chốn con le le đậu bến
Chèo lên lối hươu rừng Đông Xuân
Chèo lên lối khỉ đàn mây móc
Chèo lên lối Ngưu Lang, Chức Nữ
Chèo đò bóng nguyệt phá sóng
Chèo lên lối đỏ rực hoa gạo
Chèo lên lối đá nặng thả én
Chèo lên ba mươi hai dòng nước chảy
Chèo lên lối núi đá Thiên Ô biết nói.
Đúng là một cảnh biển độc đáo hấp dẫn, mang đậm chất tư duy của
đồng bào Tày: hồn nhiên, trong sáng, ngây thơ. Cảnh vật ở đây vừa thực, cụ
thể, vừa hư cấu tưởng tượng. Trên biển, có hoa gạo tháng ba đỏ rực, có đàn
hươu nai, bầy khỉ trong rừng, có núi đá Thiên Ô cao ngất và nước chảy nối
tiếp nhau... lại có lối lên nơi của chàng Ngưu Lang, nàng Chức Nữ...
Quả thực trí tưởng tượng của dân gian phong phú và độc đáo vô cùng.
Nơi người Tày sống không có biển và chắc hẳn lúc bấy giờ họ cũng chưa từng
tới biển nhưng qua thế giới tâm hồn phong phú của họ, biển hiện lên thật sinh
động và đậm chất miền núi. Họ đã đem hơi thở của rừng, đem những gì là của
miền núi đến với biển để biển trở thành hình ảnh sáng tạo của người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
Nội dung của văn học dân gian là phản ánh đời sống của nhân dân. Đời
sống của nhân dân ở đây chính là những vấn đề thân thiết với cuộc sống hàng
ngày của họ. Điều đặc biệt là những khía cạnh ấy được lí giải theo quan điểm,
biểu đạt theo kinh nghiệm sống của người lao động. Tuy nhiên, có lúc sự cắt
nghĩa, lí giải của cha ông xưa còn chứa đựng yếu tố tư tưởng lạc hậu và tiêu
cực. Họ quan niệm về thế giới tự nhiên, vũ trụ mang tính chất tư duy ngây
thơ, nguyên thủy. Song dù vậy, chúng ta cũng không thể phủ nhận được giá
trị nhân văn sâu sắc chứa đựng trong lời cầu mùa Lượn Hai.
2.3. Ý nghĩa nhân văn trong những khúc hát lễ hội Nàng Hai của ngƣời
Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Tác phẩm văn học dân gian là sản phẩm tinh thần của cả cộng đồng,
được gìn giữ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lễ hội Nàng Hai
của dân tộc Tày cũng vậy, nó là sản phẩm tinh thần hội tụ nhiều yếu tố văn
hóa, tín ngưỡng, dân tộc học, văn học... của dân tộc Tày ở Cao Bằng. Qua
nhiều thời điểm lịch sử, xã hội có nhiều đổi thay song lễ hội Nàng Hai vẫn tồn
tại và được nhân dân Tày ở Thạch An tổ chức tương đối đều đặn. Vậy điều gì
tạo nên sự hấp dẫn và sức sống lâu bền của lễ hồi này? Theo chúng tôi, chính
giá trị nhân văn sâu sắc là một trong những yếu tố cơ bản nhất để lễ hội Nàng
Hai trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống cộng
đồng Tày ở Thạch An. Và càng không thể phủ nhận những khúc hát Lượn Hai
đã trở thành hồn cốt của lễ hội, để từ đó những giá trị ba chữ: Chân, Thiện,
Mĩ được khẳng định.
Lễ hội Nàng Hai là lễ hội của cái đẹp, đó chính là cái đẹp của khát
vọng, của tâm hồn, tình cảm trong con người Tày. Có đẹp thì mới hấp dẫn và
quyến rũ lòng người, mới khiến lòng họ trong sáng hơn, để tan buổi hội ra về
lòng càng thấy yêu mến thiên nhiên, quí trọng thiên nhiên, càng thấu hiểu giá
trị của tình người đôn hậu thắm thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
2.3.1. Khát vọng về một cuộc sống no đủ, yên bình, hạnh phúc
Lượn Hai là một loại hình dân ca nghi lễ sinh hoạt. Tính chất này tạo
cho khúc hát cầu mùa trong lễ hội Nàng Hai vừa mang tính hiện thực mà lại
vừa chứa đựng màu sắc lãng mạn. Trước hiện thực lao động còn nhiều khó
khăn, người nông dân Tày vẫn chan chứa ước mơ, hi vọng.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Cao Bằng thì lễ hội Nàng
Hai là lễ hội của cầu mùa, cầu an, cầu phúc. Những lời cầu mong ấy của nhân
dân được bộc lộ trong lời ca của khúc hát Lượn Hai. Cách nói trực tiếp này
thể hiện tính cách của người Tày đó là thẳng thắn, ưa bày tỏ nhưng cách bày
tỏ không phải mở toang mà là kín đáo, tế nhị qua lời Lượn. Trong ngày hội
Hai, dân bản nô nức kéo nhau đến dự hội không chỉ là để góp vui với hội
xuân mà quan trọng hơn là để bày tỏ tấm lòng mình. Đầu năm là thời điểm
khởi sự cho một năm mới, mùa vụ mới, công việc mới và con người sao
không khỏi nhen lên trong mình những ước mơ và hi vọng mới. Tấm lòng ấy
của họ sẽ gửi lên Mẹ Trăng qua tiếng hát và tài năng của Nàng Hai.
Trong hơi xuân đang tràn khắp bản làng, Nàng Hai cất cao tiếng hát
cầu mong trời ban cho trần gian một cuộc sống no đủ. Tiếng ca ấy cứ lặp đi
lặp lại như điệp khúc của bài ca cầu mùa:
Vằn xuân vằn đây moạc
Vằn xuân vằn đông vui
Hạ giới cầu mùa mảu
Khôi châu cầu mùa vụ
Mảu nẩy hơn mảu lăng
Mảu lăng hơn mảu nả.
Dịch:
Hôm nay ngày đẹp trời
Hôm nay ngày đẹp tươi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
Hạ giới họ cầu mùa
Khôi châu họ cầu vụ
Vụ trước hơn vụ sau
Vụ sau hơn vụ trước
Hay có dị bản:
Vằn xuân vằn đây moạc Vằn xuân vằn đông vui Hạ giới cầu mùa mảu Khôi châu cầu mùa vụ Càu mẩu hơn mảu cáu Càu mẩu hơn mẩu chai Mảu nẩy Há cầu lai hơn mảu quá.
Dịch:
Hạ giới họ cầu mùa Khôi châu họ cầu vụ Cầu mùa mới hơn mùa cũ Cầu mùa mới được mùa Mùa này được nhiều hơn mùa trước.
Lễ hội Nàng Hai có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người nông dân
Tày bởi nó có mục đích chính là cầu mùa. Cho nên, cầu mùa trở thành nội
dung chủ đạo và xuyên suốt toàn bộ các khúc ca. Trong lời hát về mùa màng,
các tác giả dân gian đặc biệt chú ý đến cây lúa nhiều hơn. Từ lâu, người Tày
đã sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Do có mặt sớm hơn các dân tộc
khác nên người Tày đã khai phá và làm chủ được những thung lũng bằng
phẳng. Hạt lúa không chỉ có giá trị vật chất mà còn mang ý nghĩa tinh thần
đặc biệt với nhân dân. Người miền xuôi thường chẳng hay nói “Một hạt thóc
vàng, chín giọt mồ hôi”. Đến miền ngược, câu nói ấy vẫn giữ nguyên ý nghĩa:
“Muối khẩu, cẩu muối thứa”. Hạt thóc được nhân dân nâng niu, trân trọng,
coi nó như hạt ngọc trời. Đồng bào Tày vẫn hay nói:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
“Muối khẩu tồng muối ngọc
Bố đảy kin, tèo dọc dọc”.
(Hạt gạo như hạt ngọc
Không được ăn, chạy ngang chạy dọc)
Hạt ngọc trời ấy chắt chiu bao giọt mồ hôi của người nông dân, thế nên
sao họ không quí trọng. Hơn nữa, trong thời đại mà con người chưa thể chế
ngự được thiên nhiên, để có được hạt ngọc trời ấy, sự vất vả cực nhọc ấy càng
nhân lên gấp bội, nên họ càng mong ước được đón nhận thành quả lao động
của mình:
Ruồng khẩu thuổm gằn tẩư gằn nưa
Ruồng khẩu gặn ruồng páng
Mẻ cáy lảc nắm pây
Muối khẩu gặn mác plàng
Khẩu sa tlàng khẩu bố.
Dịch:
Bông lúa trùm bờ dưới bờ trên
Bông lúa bằng bông báng
Mẹ gà tha không nổi
Hạt lúa to bằng quả bưởi
Lúa chín tự lăn về nhà.
Hạt thóc đã đi vào không biết bao nhiêu câu chuyện cổ của người Tày.
Có chuyện xưa kể lại: Xưa, trời đất còn gần nhau lắm. Người ta có thể đứng
trên nóc nhà, vươn vai mà tay chạm tới trời. Tiếng nói to ở trần gian, cũng
khiến Ngọc Hoàng nghe thấy, nên con người nói với nhau rất nhẹ nhàng. Thời
đấy người nông dân không phải vất vả như bây giờ. Đến mùa lúa chín, lúa
khác tự lăn về nhà, gọi người nông dân mở cửa, lúa tự nhảy vào bồ hoặc nhảy
lên gác. Cũng thật lạ làm sao, hạt lúa thần ấy to bằng quả bưởi, mỗi hạt nấu
được một nồi cơm to.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
Nhà nọ, có cô con gái lười nhác, suốt ngày chỉ làm đỏm. Năm đó lúa
chín, lăn về nhà, xếp hàng trước cửa gọi cô gái:
- Hãy mở cửa cho tôi vào nhà!
Lúa gọi một, hai rồi đến ba lần... nhưng cô gái không thèm trả lời vì cô còn
đang bận chải tóc. Thấy lúa cứ gọi mãi, tức mình cô gái cầm lấy cái đòn (đòn
xóc nhọn hai đầu) ra cửa phang tới tấp vào các hạt lúa. Các hạt lúa vỡ tung ra
thành từng mảnh nhỏ, chỉ bằng hạt thóc bây giờ. Từ đó, dù chăm bón rất vất vả
nhưng bông lúa chỉ to bằng đuôi con chuột, đến mùa vụ, người nông dân phải
lấy liềm đi hái từng bông, phải lấy dậu đi đựng, lấy bao đi rước lúa về nhà.
Hình ảnh “Bông lúa to bằng bông báng” hay có dị bản khác: “Bông lúa to
bằng bông khuông”, “Bông lúa to bằng bông móc”, “Bông lúa to bằng bông
lau” chỉ còn là trong cổ tích. Giấc mơ cổ tích đã qua đi, nay lại trở về trong
câu hát Lượn. Bông lúa vàng óng trĩu nặng lẫn mùi thơm của thảo quả nơi núi
rừng, đi vào trong lời hát dân ca, trở thành biểu tượng cho một mùa vàng bội
thu. Và ta càng thấy ẩn sau lời ca cầu mùa ấy là bao nhiêu chờ đợi, hi vọng
của nhân dân về mùa vụ sắp tới. Thế mới thấy, cách diễn đạt của đồng bào
Tày mới thật tinh tế và càng hiểu sức nặng của nghệ thuật chứa trong mỗi lớp
ngôn từ quả là không nhỏ.
Ngày xuân đi trẩy hội, đồng bào Tày còn mong ước có sức khỏe, sự an
lành. Mẹ Trăng là người để đồng bào bày tỏ ước nguyện đó:
Cầu Mẻ gụm gàng hẩư thế gian
Hẩư bản nưa, bản tẩư
Hẩư bản tẩư, bản nưa
Ban phúc mà mường bản
Dịch:
Lạy Mẹ hãy che chở thế gian
Cho làng trên xóm dưới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
Cho xóm dưới làng trên
Đem an lành cho bản mường.
Với lời thỉnh cầu giản dị, chân thành, người nông dân hi vọng sức
mạnh của Mẹ Trăng sẽ bảo vệ cho muôn loài trần gian.
Những khúc hát trong lễ hội Nàng Hai có nội dung khá phong phú. Mỗi
một nội dung như một mảnh ghép của cuộc sống, như một lát cắt nhỏ của lịch
sử cha ông xưa. Trong thời đại ngày nay, khi nhìn lại ta vẫn thấy thời đại
Lượn Hai như đang còn phảng phất đâu đây. Giấc mơ của người nông dân
Tày trong mỗi khúc ca cầu mùa vẫn là giấc mơ muôn thủa của con người.
Điều đó làm nên giá trị vĩnh hằng của Lượn Hai.
2.3.2. Tình yêu thiên nhiên là nét nhân văn cao đẹp trong đời sống tâm hồn
của người Tày Thạch An - Cao Bằng
Người Tày họ sống và gắn bó lâu đời với thiên nhiên miền núi. “Thiên
nhiên đã nuôi sống họ tự ngàn xưa, thiên nhiên cũng ưu đãi về vật chất cũng
như tinh thần. Họ sống giữa đại ngàn bốn mùa màu xanh đậm của lá và bốn
mùa với nhiều màu sắc của hoa. Thiên nhiêm ấy gõ mãi vào cánh cửa tâm
hồn vốn rất mảnh của họ và ngân nga thành tiếng thơ, tiếng ca” [20, Tr.104].
Trong nhiều ngày, Mẻ Cốc, Nàng Hai và các thiếu nữ Tày hát khúc
Lượn Hai cầu mùa. Họ say sưa hát múa giữa đất trời, dưới ánh trăng nơi núi
rừng để vũ điệu mời trăng được thăng hoa, để con người và thiên nhiên hòa
làm một.
Thiên nhiên được nhắc đến trong các khúc Lượn Hai rất nhiều, khi thì
sông, núi, rừng, biển, lúc thì chim muông, cỏ lá.... nhưng phải khẳng định,
nhiều nhất và đẹp nhất chính là hoa và trăng.
2.3.2.1. Yêu hoa là một nét đẹp tâm trong hồn người Tày vùng Thạch An -
Cao Bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
Trong những làn điệu dân ca của người Tày, ta thấy họ say sưa nói với
thiên nhiên đại ngàn đến mức đắm say, đến mức những cảm xúc cứ trải dài
theo triền núi trùng điệp, cứ bay cao đến muôn mây, cứ mênh mang bay theo
làn gió mát và rồi vấn vương bên đóa hoa rừng. Có thể nói, giữa chốn thăm
thẳm hùng vĩ ấy, hoa thật xứng đáng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên.
Từ xưa, hoa đã đi vào ngạn ngữ, tục ngữ và trong lời ăn tiếng nói của
nhân dân Tày. Người Tày vẫn hay nói: “Đây tồng bjoóc”, “Hom tồng bjoóc”
hay “Phuối oóc bjoóc oóc kim” (Đẹp như hoa, Thơm như hoa, Nói ra hoa ra
vàng) để khen một người xinh đẹp, giỏi giang. Hoa luôn gắn với cái đẹp.
Người Tày rất yêu quí và trân trọng cái đẹp. Con người biết yêu cái đẹp thì ắt
hẳn sẽ yêu hoa. Thế nên, chẳng ai lấy làm lạ khi họ dành hẳn cho hoa một vị
trí rất đặc biệt trong các điệu dân ca. Không thể kể hết bao nhiêu bài hát về
hoa và cũng không thể biết được còn bao nhiêu lời ca rất hay như thế này
dành cho hoa được nhân dân Tày sáng tác nữa:
Bióoc rầm wạ bjoóc loỏng hom rửng
Hom rửng bjoóc ngâu phông
Pin khửn khái bjoóc bưa pích cắn
Pin khửn khái bjoóc nặm kíp khang
Pin khửn tàng bjoóc ngịu rủng đeng
Pin khửn tàng bjoóc vông rủng chỏi
Bjoóc khảo quang, bjoóc phông bươn nhỉ...
Dịch:
Hoa rầm thêm hoa loỏng thơm ngát
Thơm lừng đóa hoa ngâu
Chèo lên lối hoa bưa cánh ngắn
Chèo lên lối hoa mận cánh vừa
Chèo lên lối đỏ rực hoa gạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
Chèo lên lối đỏ thắm hoa vông
Hoa khảo quang, hoa phón tháng hai...
Những bông hoa rừng bé nhỏ bình dị, đã bao tháng năm lặng lẽ nở bên
cuộc đời người dân Tày, nay đi vào trang thơ của họ. Đó là bông hoa loỏng
ngát dịu, hoa ngâu thoang thoảng, hoa bưa, hoa mận trắng ngần với cánh
mỏng manh hoà trộn trong sắc rực lửa của hoa gạo, hoa vông... Tất cả hoa của
bốn mùa, hoa ở mọi chốn đã về trong câu hát Lượn Hai, khiến lời thơ trở nên
ngạt ngào hương thơm, rực rỡ sắc màu:
Nậu nẩy hom mủi linh đan
Bjoóc nẩy hom mủi van bióc phón
Bjoóc nẩy lẻ nậu bióc vặc viền
Phông bươn nhỉ khiêu đeng rủng chỏi
Bjoóc nẩy màu đeng tha wằn
Bjoóc nẩy khiêu đeng màu nộc công
Bjoóc nẩy khiêu lít gò pất plỏ
Bjoóc nẩy lương đáo tỏa khau phja
Bjoóc nẩy rủng roang mọi tlỉ.
Dịch:
Hoa naỳ thơm ngát mùi linh đan
Hoa đây thơm dịu mùi bjoóc phón
Hoa này là hoa phẳc phiền
Nở tháng giêng sắc màu rực rỡ
Hoa này màu mặt trời đỏ
Hoa này sặc sỡ màu lông công
Hoa này màu xanh cổ vịt
Hoa này vàng rực nơi núi đồi
Hoa này đỏ tươi sắc núi...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
Hoa trong lời hát của người Tày là những đoá hoa đang độ khoe hương,
khoe sắc, do vậy mà hương phải là ngào ngạt nhất, sắc phải đẹp nhất. Có phải
chăng trước muôn hương sắc hoa như thế tâm hồn của con người càng thêm
tha thiết yêu hoa, yêu đời?
Vào xuân, mỗi lúc lên nương, lên rẫy, bỗng gặp chùm hoa bjoóc phón
nhỏ xinh, bình dị tỏa hương ven rừng, lòng người chợt thấy yên bình đến lạ.
Sau tết, ven theo con suối nhỏ dẫn lối vào bản của người Tày, hoa gạo, hoa
vông nở đỏ rực như xua bớt cái lạnh vùng sơn cước. Hoa đẹp và thân thiết là
vậy nên sao người Tày không khỏi dành nhiều tình cảm cho hoa. Với người
Tày, hoa không chỉ để ngắm, để làm đẹp núi rừng mà hoa còn để trao gửi
tình cảm, để tẩy rửa tâm hồn càng thanh tao hơn. Hoa phẳc phiền là bông
hoa của lý tưởng, tượng trưng cho vẻ đẹp cao quí, hoa ước mơ về tình yêu
và hạnh phúc, chính vì vậy mà nó đẹp rực rỡ đến kỳ ảo. Với nhân dân Tày,
chùm hoa khảo quang trên đỉnh núi cao tượng trưng cho sức sống bền vững,
lòng tin và bản lĩnh.
Hoa có ý nghĩa trong đời sống người dân Tày là vậy. Quả thực, nếu
không về hội Hai, không nghe câu hát Lượn, sẽ không được thưởng thức
nhiều đóa hoa đẹp như thế và càng không hiểu hết được mỗi bông hoa kia là
bạn bè thân thương của con người miền núi nơi này. Bao đóa hoa kia in mãi
vào trong lòng người, để bằng trăm thứ hoa đẹp của núi rừng ấy kết nên tâm
hồn đồng bào.
Trong ngày hội Hai, tất cả hoa mọc ven suối, hoa nở trên mặt đất, hoa
khoe sắc trên đỉnh núi cao... mà người Tày yêu mến, được họ hái về kết đèn,
kết hoa để dâng lên Mẹ Trăng tôn kính. Yêu quí và trân trọng các loài hoa của
quê mình, đó chính là biểu hiện của tình yêu thiên nhiên quê hương, xứ sở,
biểu hiện của cái đẹp trong tâm hồn người dân Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
2.3.2.2. Tình yêu trăng giúp cho tâm hồn của người dân Tày ở Thạch An -
Cao Bằng thêm đẹp
Cùng với hoa là trăng. Trăng xưa nay vốn đẹp và lãng mạn, trăng ở núi
rừng, giữa chốn sơn thủy hữu tình lại càng đẹp hơn. Ở miền núi, quay đi là
núi đá cao, trở lại là thung, ngược lên là đèo, đi xuống là dốc... trăng lên hay
trăng xuống đều sau núi. Vầng trăng lưỡi liềm đầu tháng nhô trên đỉnh núi thu
đẹp như một bức tranh thủy mặc. Trăng rằm tròn vành vạnh như cái đĩa bạc
treo lơ lửng ngọn cây nghiến cổ thụ nơi đầu bản. Trăng sáng cho tiếng vượn
ru con thêm say, cho tiếng chim queng quí gọi bạn càng thêm khắc khoải, gọi
tiếng gà rừng eo óc dần cất lên... để lòng chàng trai Tày xao xuyến mãi không
ngủ được. Có nghệ nhân Tày tài hoa đã ví von:
Hai lồng bưởng tây tồng dấu hỏi
Vận vạo suốt gẳm chứ noọng sao
Dịch:
Trăng tà phía Tây như dấu hỏi
Khắc khoải trời đêm nhớ về em.
Sống giữa núi rừng quanh năm thâm u, trầm lặng, trăng đã trở thành
người bạn tâm tình, tri ân của người dân Tày. Trăng gắn bó sâu nặng với đồng
bào và đồng bào cũng vậy. Họ ngắm trăng, soi mình vào trăng để thấy chính
mình trong đó, để thanh lọc tâm hồn cho sáng, cho trong hơn.
Trăng đi vào thơ ca Tày, văn hóa Tày từ khi nào chẳng ai nhớ nữa. Lâu
lắm rồi, đồng bào Tày đã tổ chức lễ hội riêng cho trăng, đặt tên là lễ hội Nàng
Trăng. Lễ hội đó càng khẳng định việc tôn vinh, đề cao vai trò của trăng trong
đời sống của cộng đồng. Trong tâm thức hàng ngày của nhân dân Tày cũng
như trong ngày hội, trăng trở thành một vị thần để họ gửi tới trăng lời cầu
mùa và để trăng thắp lên trong họ niềm tin yêu cuộc sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
Trong Lượn Hai, Trăng luôn gắn với cái đẹp. Trăng được sinh ra từ gốc
hoa, gốc nụ, chốn đẹp nhất của vũ trụ. Trăng hóa thân vào hoa, vào cái đẹp:
Hằng Nga dú cốc nụ lẻ mà
Hằng Nga dú cốc hoa lẻ tẻo
Dịch:
Hằng Nga ở gốc nụ thì về
Hằng Nga ở gốc hoa thì lại.
Hay có dị bản:
Hai Há dú cốc nụ lẻ mừa
Hai Há dú cốc hoa lẻ tẻo.
Dịch:
Hai Há ở gốc nụ thì về
Hai Há ở gốc hoa thì lại.
Đồng bào yêu trăng, quí trọng trăng, điều đó được thể hiện qua cách
gọi trăng là Mẹ Trăng, Hai Há, Hằng Nga, Bóng Nguyệt hay Mẹ Nàng, Út
Nọi... Trăng được gọi như vậy thể hiện tình yêu, lòng tôn kính, biết ơn của
con người với thiên nhiên, coi trăng như người mẹ bao dung, chở che cho
nhân gian.
Từ tình yêu sâu sắc dành cho trăng, vầng trăng trên cao khi tròn khi
khuyết của thiên nhiên đã được nhân dân thần thánh hóa, trở thành một đấng
thần linh trong đời sống tinh thần của bà con.
Yên thiên nhiên, yêu trăng, nên trong lễ hội Nàng Hai, con người dâng
lên trăng những thứ đẹp nhất của trần gian đó là hoa. Ta hãy theo bước chân
của đồng bào đi tìm hoa để dâng lên các Mẹ Trăng:
Bjoóc nẩy au dú tẳm khau nưa
Mởi sluông sléng plè mừa mường quảng
Khao lệ mởi Mẻ Nàng piếm hoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
Riểc Mẻ, Nàng ngòi xiên hoa, xiên bióc
Bjoóc nẩy au dú tẳm tlổng luông
Bjoóc nẩy au dú Nà Chương, Nà Giảo
Bjoóc nẩy au dú rảo mảu mùa
Bjoóc nẩy au sle mừa plựt ké
Bjoóc nẩy au dú rỏng ngược ngù
Bjoóc nẩy au dú phia slung ngườm quỷ
Bjoóc nẩy au sle từ bươn nhỉ
Nậu nẩy au dú từ Lủng Phẩy
Nậu nẩy hom mủi linh đan
Bjoóc nẩy hom mủi van bjoóc phón
Bjoóc nẩy lẻ nậu bjoóc vặc viền
Phông bươn nhỉ khiêu đeng rủng chỏi
Dịch:
Hoa này hái từ trên núi cao
Mời sluông trở lên mường trời
Lễ cầu mùa mời các Nàng các Mẹ
Mời Nàng xem trăm hoa trăm nụ.
Hoa này hái từ Mường Luông
Hoa này hái từ Nà Chương, Nà Giảo
Hoa này hái từ dạo ngày mùa
Hoa này hái từ xưa gìn giữ
Hoa này hái từ vực thuồng luồng
Hoa này hái từ núi cao vực thẳm
Nụ này hái từ lúc tháng hai
Hoa này hái ở Lũng Vài, Lũng Phjẻc
Hoa này thơm ngát mùi linh đan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
Hoa đây thơm dịu mùi bjoóc phón
Hoa này là hoa phẳc phiền
Nở tháng giêng sắc màu rực rỡ
Các địa danh được nhắc đến trong đoạn thơ dày đặc: Mường Lú,
Mường Luông, Nà Chương, Nà Giải... làm cho người đọc liên tưởng đến bước
chân không mệt mỏi mà con người đi qua khắp chốn trần gian để tìm hoa quí,
hoa đẹp, đem đến hội hoa và dâng lên Mẹ Hằng Nga. Không chỉ có vậy, họ
hái hoa, dâng hoa bằng tất cả tấm lòng thành kính và tâm hồn thanh khiết:
Íp bjoóc nắm đảy lủm tua pla
Íp nậu nắm đảy phuối chẳm chẻ
Nậu bjoóc đeng chỏi thâng nả
Nậu bjoóc khao chỏi khảu slim.
Dịch:
Hái hoa không được sờ con ba ba
Nhặt nụ không được nói leo mẹ rùa
Bông đỏ chiếu tới mặt
Bông trắng rọi vào tim.
Chính vì vậy mà buổi sáng sớm trong ngày hội chính, chỉ có thiếu nữ
xinh đẹp, thanh tân mới được vào rừng để hái hoa dâng lên các Mẹ Nàng.
Hoa đẹp đã mất bao công vất vả mới đem về được lễ hội, thế nhưng
người dân còn phải tắm hoa bằng thứ nước thiêng để hoa thêm thơm, thêm
đẹp, không vướng chút bụi trần. Có như vậy, Mẹ Trăng mới ưng thuận, lời
cầu mùa mới linh và con người mới thể hiện được hết tình cảm yêu mến dành
cho trăng. Thứ nước thần ấy ở trần gian không có mà chỉ có thể xin được trên
cõi tiên:
Pây thâng rỏng mì bó nặm sâư
Mạ ơi! pây thâng bó nặm chủa áp hoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
Mạ à! pây thâng bó nặm tiên áp nậu
Au nặm thiêng mà áp hoa, áp nậu pền hom
Sa nặm thần áp nậu, áp hoa
Sa bó thần áp hoa, áp nậu.
Dịch:
Đi đến nơi có mỏ nước trong
Ngựa hỡi hãy lên tới ao vua tắm nụ
Ngựa hỡi hãy lên tới giếng tiên tắm hoa
Lấy nước thiêng tắm cho hoa, cho nụ thơm tho
Tìm dòng nước thần tắm nụ tắm hoa
Tìm ao thần tắm hoa tắm nụ.
Trong đời sống văn hóa Tày, hình tượng mỏ nước mang có một ý nghĩa
đặc biệt. Mỏ nước là nguồn nước uống chung cho cả bản mường, là biểu hiện
của tinh thần đoàn kết, quan hệ trong sáng, thanh cao giữa người với người.
Người Tày từ việc trân trọng mỏ mước đến việc lí tưởng hóa mỏ nước trong.
Mỏ nước trong veo chảy ra từ chân khe núi đá ngàn năm lặng lẽ ấy được tác
giả dân gian trân trọng gọi là “giếng tiên”, “ao vua”, là “ao thần”, nên nước
lấy từ nơi đó cũng là “nước thiêng”, “nước thần”. Chỉ có thứ nước quí như thế
mới xứng để đem về tắm cho hoa, cho nụ được trắng trong, rồi mới có thể
dâng lên Mẹ.
Trong lễ hội Nàng Hai, bà con dân bản dâng hoa lên Mẹ Trăng. Trong
muôn hoa mà con người dâng tặng lên người mẹ thiên nhiên ấy, có những
bông hoa có thực nở giữa núi non đất trời như hoa rầm, hoa phón..., có những
bông hoa chỉ trong tưởng tượng của dân gian mà thôi. Nhưng có một thứ nữa
cũng được bà con dâng lên thượng giới, không ngào ngạt tỏa hương thơm,
không phảng phất hương vị tâm linh mà lại chứa chan tấm lòng thơm thảo của
con người, nó không phải là hoa mà lại được trân trọng gọi là hoa (Bjoóc) đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
chính là vật phẩm cúng tế mà bà con cúng tiến các mẹ chốn thần tiên. Vật
phẩm cúng tế là sản phẩm sáng tạo của bàn tay, sức lực và trí tuệ con người.
Đầu năm bà con xin Mẹ Trăng những hạt giống, cây giống. Để không phụ
tấm lòng của người mẹ thiên nhiên, họ một nắng hai sương, cần mẫn để cây
lúa, cây ngô ... lớn lên, trổ bông, kết hạt. Sau vụ mùa, họ dành lại những hạt
lúa nếp tròn nẩy, vàng thơm, những con vật đẹp nhất, tốt nhất dâng tặng lên
Mẹ Trăng:
Tlọn óc tlằng lắc là pẻng quánh
Tlọn óc khẩu nua lài khẩu cắm
Tlọn óc plỏ cáy kim rìm rỏng
Tlọn óc plỏ cáy cỏng rìm đông
...
Tlọn óc dậu pẻng phồng, thúc théc
Dịch:
Dâng lên chùm bánh quánh
Dâng lên mâm xôi ngũ sắc, bảy màu
Dâng lên con gà vàng bên khe
Dâng lên con gà re ven suối
...
Dâng lên dậu bánh phồng, thúc théc.
Người Tày xưa và nay vào những dịp lễ tết quan trọng hay có bánh,
xôi, gà.. để đặt lên mâm cúng cho thêm đầy, thêm đẹp và thêm ý nghĩa.Vật
phẩm cúng tế là tinh hoa của đất, tinh hoa của trời, của tấm lòng người thảo
thơm nên nó xứng đáng được gọi là hoa. Có được vật phẩm, họ dâng lên Mẹ,
tha thiết mời các Mẹ “ăn hoa, ăn nụ”. Ý nghĩa đặc biệt của nghi lễ này không
phải ở phương diện vật chất mà ở phương diện tâm hồn. Món ăn ở đây đã được
thiêng liêng hoá. Các Mẹ “ăn hoa, ăn nụ” như để đón nhận và thấu hiểu tấm
lòng của người trần gian - tấm lòng đẹp ngời như hoa vậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
Có thể nói rằng không phải chỉ có người Tày mới biết yêu trăng nhưng
quả thực tình cảm cao đẹp và trong sáng đó được họ thể hiện rất riêng. Từ tình
yêu dành cho trăng, người dân Tày đã nhân cách hoá trăng, tôn vinh trăng
thành một vị nữ thần bảo ban, che chở, phù trợ và đem may mắn đến cho nhân
dân. Dù cách nhìn, cách cảm và cách biểu hiện tình yêu ấy thật mộc mạc, ngây
thơ nhưng rất đáng để chúng ta học tập và suy nghĩ. Vẻ đẹp tâm hồn của họ
được bộc lộ hồn nhiên như thế qua tình yêu trăng để hôm nay và mai sau nữa,
mối tình duyên ấy của con người với thiên nhiên vẫn chưa thể dứt.
Từ lâu, người dân Tày vẫn khao khát và nuôi dưỡng một vẻ đẹp tâm
hồn thuần khiết với những hương của hoa, mùi lá trong rừng; với những ban
mai trên búp non, ngọn sao trời, vầng trăng sáng... Ai đó đã từng nói, muốn
biết tâm hồn người Tày, hãy đọc và hãy nghe khúc dân ca của họ. Những
khúc hát ấy cứ âm thầm chảy, cứ lặng lẽ như dòng thời gian. Để cho đến tận
bây giờ, Lượn Hai vẫn chan chứa và lắng sâu cảm xúc. Để cho đến tận bây
giờ, tình yêu thiên nhiên, sống chan hòa gần gũi với thiên nhiên của người
dân Tày vẫn là một nét đẹp rất đáng được trân trọng và gìn giữ.
2.3.3. Khúc hát Lượn Hai tôn vinh sức mạnh và vẻ đẹp của người dân Tày
Thạch An - Cao Bằng
Mảnh đất miền núi sơn thủy hữu tình đã sinh ra những con người khỏe
mạnh, cần cù, tài hoa. Họ chính là chủ nhân của núi rừng, là hoa của đất. Họ
đã hiên ngang đứng trên mảnh đất này, cần mẫn lao động, sáng tạo ra những
giá trị vật chất và cả bao giá trị tinh thần bền vững. Lượn Hai là một sản phẩm
tinh thần được ra đời từ những con người như thế.
Lượn Hai có tính chất của khúc ca cầu mùa, được hát lên trong lễ
hội Nàng Hai nhằm đề cao vai trò của thiên nhiên trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, khúc hát dân ca ấy còn thể hiện sâu sắc
thái độ tôn vinh sức mạnh và vẻ đẹp con người của người dân Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
Sống giữa rừng núi đại ngàn hoang sơ, con người cần có sức mạnh để
tạo dựng và bảo vệ cuộc sống của mình, của cộng đồng mình. Sức mạnh đó
đưc xây đắp nên bởi tình đoàn kết, bởi khát vọng hòa nhập vào vũ trụ để
chiếm lĩnh vũ trụ của con người.
Có thể nói rằng lễ hội cầu mùa là cuộc hành trình vĩ đại trong tưởng
tượng của đoàn người trần gian đến với chốn thần tiên để bày tỏ ước vọng của
mình. Cho dù chặng đường gian lao ấy không có trong cuộc sống thực nhưng
nó chính là tấm gương phản chiếu cuộc hành trình vượt gian khổ của loài
người giữa đời thường. Mỗi lời hát trong phần tụng ca ghi lại rất cụ thể cảnh
đoàn người trần lên mường trời với qui mô lớn, lực lượng đông đảo. Đứng
đầu đoàn người ấy là Pửt (hay Bụt), có nơi là Mẻ Cốc người đứng đầu, thực
hiện các nghi lễ này.
Theo các nhà nghiên cứu dân gian, Pửt là những người làm nghề cúng,
nắm vững phong tục tập quán của dân tộc. Những người làm nghề này thuộc
rất nhiều bài dân ca nghi lễ, có khả năng ứng tác, được nhân dân tôn trọng
nhờ cậy thực hiện các nghi lễ quan trọng. Họ tuy không phải là người trời
nhưng có khả năng giao tiếp với thần linh, tiên tổ ở trên cao. Trong quá trình
hành lễ, Pửt có nhiệm vụ dẫn âm binh lên trời, xin được gặp Ngọc Hoàng,
đánh trống báo hiệu cho các thần linh xin được mở cổng, cất tiếng hát dương
gian để làm tin, như vậy các thần linh mới mở cổng cho vào.
Đoàn người lên gặp Mẹ Trăng là những nam thanh, nữ tú - những
người có sức khỏe, trẻ đẹp, tài năng, lòng nhiệt tình và quan trọng nhất là
được nhân dân tin tưởng chọn và giao cho trọng trách thiêng liêng: mời, đón
Mẹ Trăng xuống dự hội. Họ lên trời với đầy đủ phương tiện: lúc đi đường bộ
với đoàn binh mã vượt qua bản làng, nương đồi, qua cánh đồng lúa... khi lại
đi bằng đường thủy vượt qua sông Ngân Hán, vượt qua biển rộng bao la...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
Cờ goảt pây bưởng lăng tứn mạ
Cờ goảt pây bưởng nả tứn luông
Chính hiệu bên cốc cường tứn tượng
Binh cờ tứn soong bưởng lao xao
Cờ đeng vạ cờ khao ngoắt bóng
Cờ đăm đeng vạ binh mạ khửn tàng
...
Hai Há vạ binh mạ pây khoái khoái
Hai Há pây toồng lầm toồng moóc
Mạ pây bấu nắc kha
Cờ bân bấu phai màu
Dịch:
Cờ quạt phất đằng sau thúc ngựa
Phất quạt sang đằng trái thúc sluông
Chính hiệu bên cốc gường tiến tượng
Binh cờ bay sáng chói như sao
Cờ vàng cùng cờ xanh tiến bước
Cờ quạt cùng binh mã lên đường
...
Hai Há cùng đoàn đi thẳng tiến
Hai nàng đi như gió như mây
Ngựa đi không mệt mỏi
Cờ bay không phai màu
Nếu ở những đoạn ca cầu mùa, lời thơ nhẹ nhàng, lắng sâu thì đến khúc
ca theo bước chân đoàn quân hùng mạnh kia, giọng thơ bỗng sôi nổi, khẩn
trương với hình ảnh cờ quạt rợp trời rực rỡ, binh mã hừng hực khí thế như lốc
tố càng khẳng định lòng quyết tâm lên tới nơi của con người. Đến đây, tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
đàn tính tẩu càng trở nên trong trẻo với cung nhạc cao vút, vang xa dội vào
lòng người như càng hối thúc đoàn quân đi nhanh nhanh hơn nữa.
Bao đồi núi, bản làng đã ở lại đằng sau, ngựa đi đường đã mỏi nhưng
đoàn người chưa đi hết những gian lao của chặng đường dài. Phía trước họ là
con sông Ngân Hán rộng lớn và đầy hung dữ với trăm thác ghềnh, nhiều ải
nước, mỗi ải nước do một Mẹ Trăng trấn giữ. Không chùn bước trước gian
nguy, họ lại xuống thuyền để đi tiếp. Trước thử thách của thiên nhiên dữ dội
như vậy, sức mạnh của tình đoàn kết, trí tuệ cùng với sức khỏe dẻo dai của
con người càng phải được khẳng định và đề cao:
Chèo lừa khỉn sloong hát them slam hát
Lảc táng khảm sloong vằng them slam vằng
...
Bảt vài pây chất hát
Bảt quát pây chất vằng
Chèo lừa quá Ngân Hán sống Hai
Chèo táng khảm Ngân Hà sống Há.
Dịch:
Chèo thuyền lên hai thác thêm ba thác
Kéo đò vượt hai vực thêm ba vực
...
Một cái chèo đi bảy ghềnh
Một cái bơi đi bảy vực
Chèo thuyền qua Ngân Hán đưa Hằng Nga
Chèo đò vượt Ngân Hán đưa Bóng Nguyệt.
Hình thức khúc ca với nhiều câu dài ngắn đan xen. Hoà vào lời thơ là
tiếng nhạc xóc lúc thưa lúc nhặt càng tạo nên không khí khẩn trương mà cũng
đầy hồi hộp, lo lắng trước cảnh đoàn người vượt qua dòng sông thiêng Ngân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
Hán - gianh giới giữa trời và đất. Về hình thức diễn xướng, khúc hát lên
đường này mang điệu và màu sắc của Then. (Theo Ths Nguyễn Thanh Hiền:
Then là tên gọi một hình thức nghi lễ có sử dụng nhạc cụ (đàn tính, chùm
nhạc xóc bằng đồng) và những khúc hát thờ cúng.)
Lễ hội Nàng Hai là lễ hội tôn vinh vẻ đẹp của con người. Vẻ đẹp của
con người được kết tụ ở hình ảnh những con người vượt không gian, thời
gian, vượt vũ trụ để đến với các Mẹ Trăng.
Như trên đã trình bày, đoàn quân lên thượng giới là những con người
trẻ, khỏe và đẹp. Cái đẹp của họ không chỉ là ở diện mạo mà còn ở cả tài năng
và tâm hồn. Củ Tiễn là hai chàng trai khỏe mạnh, dung mạo tuấn tú. Hai nhân
vật này cầm cành trúc tượng trưng cho vũ khí sẽ đi đầu, có nhiệm cụ dẫn
đường và bảo vệ cho cả đoàn người và đặc biệt là hai nàng Gường và Sở. Trai
sluông chèo thuyền là những chàng trai trẻ, sức khỏe dẻo đai, có lòng dũng
cảm và tài năng trong việc chèo thuyền vượt biển lớn:
Sluông lái lừa khói chẳng
Sluông lái lừa quá thác cải
Sluông lái lừa qúa woằng lẩc
Bấu tlừ, bấu giải
Khảm slóc líu líu.
Dịch:
Sluông giữ thuyền không cho chìm nghỉm
Sluông chèo thuyền vượt qua thác lớn
Sluông chèo thuyền vượt qua vực sâu
Không ngơi tay, không ngừng nghỉ
Vượt qua thác nước băng băng.
Các câu thơ dài ngắn tạo nên giọng thơ cao thấp như khắc hoạ đậm nét
tính chất nguy nan của chặng đường vượt sông nước của các sluông. Trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
muôn trùng con sóng giữ, trước thác lớn vực sâu, trai sluông chèo thuyền phải
đem tất cả tài năng và sự khéo léo của mình mới chiến thắng được con thuỷ
quái đang há miệng chực nuốt chửng cả đoàn thuyền. Ta bỗng thấy họ không
chỉ là những tay chèo lái tài ba mà còn là những người nghệ sĩ tài hoa với
nghệ thuật vượt qua thác ghềnh. Họ phải dốc hết sức, hết tài để đưa đoàn
người trần cùng lễ vật lên tiến các Mẹ:
Lừa mì lai bjóoc ngần lừa plỏ quan
Lừa mì lai bjóoc kim lừa plỏ plùa
Lừa mì bjóoc quí lừa Nàng Hai
Lừa mì lai bjóoc hom lừa Mẻ Nàng
Lừa lai kim ngần au hẩư plỏ
Lừa mì lai bjóoc hom au hẩư Mẻ
Lừa bjóoc lạ hẩư Nàng Hai
Xiên hoa xiên bjóoc tiến Mẻ Nàng
Dịch:
Thuyền có nhiều hoa bạc thuyền quan
Thuyền có nhiều hoa vàng thuyền chúa
Thuyền có nhiều hoa quí thuyền Nàng Hai
Thuyền có nhiều hoa thơm thuyền các Mẹ
Thuyền này nhiều vàng bạc tiến cha
Thuyền này nhiều hoa thơm tiến Mẹ
Thuyền này nhiều hoa lạ tiến Nàng Hai.
Trên vai họ không chỉ là đoàn người trần gian, không chỉ là những lễ
vật quí dâng lên cõi tiên mà còn là tất cả hi vọng, ước mơ của cả bà con dân
bản nơi họ sống về mùa màng, thế sự, nhân duyên… chính vì vậy mà họ là
những con người mưu dũng, xứng đáng tiêu biểu cho vẻ đẹp con người về sức
khỏe và trí tuệ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
Trong đoàn người trần gian đi lên cõi tiên, có một viên ngọc sáng nhất,
đẹp nhất, tượng trưng cho vẻ đẹp của thiếu nữ Tày, đó là Nàng Hai. Trong lễ
hội Nàng Hai, nàng được nhân dân giao cho sứ mạng thiêng liêng đó là gửi
tới Mẹ Trăng lời cầu mong của cả toàn dân bản.
Nàng Hai là một thiếu nữ đẹp, xuất xứ của nàng gắn với nhiều câu
chuyện huyền thoại. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thị Yên và theo
lời kể của một số nghệ nhân dân gian hai huyện Thạch An và Phục Hòa của
tỉnh Cao Bằng, Nàng Hai là cô công chúa nhà Mạc, vì cảnh loạn li mà lưu lạc
trong nhân gian. Vốn xinh đẹp và cùng với tài năng bẩm sinh ca hát, nàng là
người chủ xướng, đứng ra tổ chức nhiều cuộc hát dưới trăng cho bà con dân
bản vào những đêm trăng sáng. Trước hiên nhà sàn, dưới ánh trăng soi tỏa,
nàng cùng các thanh niên nam nữ ca hát, múa quạt. Dần dần, bà con yêu thích
hình thức sinh hoạt này.
Để tưởng nhớ nàng, cứ hàng năm hoặc hai hay ba năm một lần dân
làng đều tổ chức lễ hội Nàng Hai, mời nàng về dự hội. Trong lễ hội, xứ
mệnh của nàng cao cả lắm. Dưới vầng trăng sáng, tiếng trống, tiếng nhạc
vang lên, nàng lại xuất hiện để trò chuyện cùng bà con, để nghe dân bản xẻ
chia những nỗi niềm trong lao động, cuộc sống. Trong niềm tin yêu của
đồng bào Tày, sự xuất hiện của Nàng Hai đồng nghĩa với việc những điều
may mắn sẽ đến và tai ương sẽ qua. Chính vì vậy người thiếu nữ đẹp này
được nhân tin tưởng, quí trọng và dần dần tôn thờ như một vị thần.
Trong lễ hội Nàng Hai nào cũng có hai thiếu nữ hóa thân thành Nàng
Hai, được đặt tên là Gường và Sở. Người được chọn làm Nàng Hai phải là
người nhẹ vía. Nên ở phần khúc ca “Nhập hồn Gường, Sở” có câu hát:
Mỉnh nẩư pền noọng Gường
Mỉnh nẩư pền noọng Sở
Pền Gường chính đảy nủng sửa lương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
Pền Sở ngám đảy nủng sửa đeng
Dịch:
Vía nhẹ nên nàng Gường
Vía nhẹ nên nàng Sở
Nên Gường mới được mặc áo vàng
Nên Sở mới được mặc áo đỏ.
Trong quan niệm dân gian Tày, con người có ba hồn, bảy vía, vía lại có
vìa nặng và vía nhẹ. Không bàn tới yếu tố duy tâm, theo khoa học hiện đại,
“vía” là phần tâm hồn, là linh cảm (giác quan thứ sáu) của con người. Vía nhẹ
(tiếng Tày gọi là mỉnh nẩư) nghĩa là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế hơn người
khác nên dễ xúc động, dễ hòa nhập trong thế giới tâm linh. Những người như
thế có không nhiều và thường là phụ nữ. Những cô gái thanh tân, có tâm hồn
trong sáng, tinh tế, có khả năng đặc biệt hơn người thường như vậy mới được
hóa thân vào Nàng Hai. Như vậy, chỉ qua việc chọn diễn viên hóa thân Nàng
Hai, ta đã thấy được nhân dân Tày rất đề cao vẻ đẹp tâm hồn trong sáng của
con người nói chung và người phụ nữ Tày nói riêng.
Nàng Hai đẹp không chỉ ở lai lịch, tâm hồn, cảm xúc tinh tế đặc biệt mà
còn đẹp, hấp dẫn ở trang phục, vẻ đẹp ngoại hình:
Nên Gường mới được mặc áo vàng
Nên Sở mới được mặc áo đỏ.
Theo truyền thuyết, Gường là con gái út của vua nhà Mạc nên nàng
mặc áo vàng như màu hoàng bào của vua cha. Nàng là người đã hóa thân
thành tiên nữ, đẹp người đẹp nết thay mặt người trần mời Mẹ Trăng về dự hội
cầu mùa. Nàng Sở, mặc áo đỏ là người hầu của nàng Gường, màu trang phục
khác với chủ để phân biệt ngôi thứ. Cũng theo dân gian, Gường là chị mặc áo
vàng, Sở là em, mặc áo đỏ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
Gường nủng sửa lương pền pỉ
Sở nủng sửa đeng pền nọng
Dịch:
Gường mặc áo vàng nên chị
Sở mặc áo đỏ nên em.
Cho dù theo câu chuyện nào đi chăng nữa thì trong lễ hội Nàng Hai, họ
vẫn là những con người đẹp nhất. Hai sắc màu trang phục của hai nàng tiên
như một điểm nhấn trong lễ hội. Giữa xung quanh hoa cỏ đồng nội, giữa núi
rừng đại ngàn xanh biêng biếc, trước sắc chàm áo quần của những người đi
chơi hội, thi thoảng điểm xuyết hoa văn sặc sỡ trên chiếc địu thổ cẩm của các
mẹ địu con... hai nàng tiên một áo vàng, một áo đỏ tay cầm quạt lụa, say sưa
hát múa trên sân khấu như cánh bướm bay lượn giữa muôn rừng hoa lá. Thế
nên, vẻ đẹp Nàng Hai cuốn hút người xem hội từ hình ảnh đẹp đầu tiên ấy.
Đóng vai Gường và Sở là hai thiếu nữ thanh tân, đang độ tuổi trăng
tròn. Họ sinh ra và lớn lên giữa bản mường, tâm hồn trong trắng như đóa hoa
kim anh nở bên suối. Chiếc khăn vấn trần càng làm nổi bật lên nước da trắng
hồng của hai cô gái tuổi hoa. Chùm xà ích bằng bạc đeo bên hông khiến
người đẹp càng thêm duyên dáng... Các nàng không chỉ xinh đẹp mà giọng
hát khiến bao người say mê:
Gằm út nọi ríu rít nộc oanh
Gằm ất gặn giọng oanh lảnh lót
Gằm nhỉ gặn nặm loảt nưa phja
Du dương gặn mẻ rà vlén lủc
Dịch:
Tiếng Út Nọi ríu rít chim oanh
Tiếng trong như tiếng oanh vàng lảnh lót
Như nước chảy róc rách xuống non
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
Như tiếng vượn ru con nơi đầu núi
Tiếng hát hay của các nàng không chỉ khiến hội thêm đông hơn mà
quan trọng nhất là tiếng hát ấy sẽ là như một phương tiện chính để các nàng
thay bà con khắp bản giãi bày tâm tư với Mẹ Trăng, và chính họ lại thay Mẹ
Trăng truyện trò với nhân dân bằng chính tiếng ca của mình. Trách nhiệm của
Nàng Trăng không phải là một mà giờ đây nhân lên bội phần. Để thực hiện
được nhiệm vụ lớn lao như vậy, các nàng tiên không chỉ giỏi hát múa mà còn
cần rất nhiều ở sự khéo léo, linh hoạt trong ứng xử để mời cho được Mẹ
Trăng xuống vui hội, giúp trần gian. Còn khi hóa thân vào Mẹ Trăng, lúc ấy
lại đòi hỏi ở nàng một trái tim biết lắng nghe để đồng cảm, xẻ chia với nỗi
niềm của nhân dân.
Sau khi Gường và Sở đã nhập hồn Nàng Trăng, hai cô gái bắt đầu hát
mời, nài Mẹ Trăng trên chốn Quảng Hàm về trần gian dự hội. Họ đã gửi trọn
tấm chân tình của mình vào giọng ca ngọt ngào bao tha thiết. Trước Mẹ Trăng -
thần linh, Nàng Hai đã thể hiện sự khéo léo của mình ẩn sau hành động tôn
kính:
Tay nâng lên đến trán con van
Kéo tay lên ngang thân con lạy.
Vì niềm tin mà người trần gian đã gửi gắm mà nàng đã trổ hết mọi tài
ăn nói để thuyết phục các Mẹ. Hành động tay nâng lên trán kính cẩn, trình
thưa rõ ràng, lời mời gọi chân thành của Nàng Hai đối với các Mẹ khiến các
Mẹ dù có khó tính đến đâu cũng phải hài lòng trước tài ứng đối của nàng,
đồng ý xuống trần gian dự hội. Nàng Hai quả thực đã khiến nhân dân cảm
phục bởi trước các Mẹ Trăng thì kính cẩn, bên các Mẹ thì chăm sóc tận tình:
Mởi thâng Nàng kén xiêm
Mởi thâng Nàng kén mở
Mởi Mẻ cỏi khay hóm au sửa phít
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Cỏi khay mỉt au sửa re
Mản phít Mẻ oóc chê
Mản re Mẻ oóc lậu
Sửa phít oóc pảt pha
Sửa re oóc pảt sảo
Sửa phít oóc pảt sảo hứ đo
Sửa re oóc pảt kho hứ piọm
Dịch:
Mời Mẹ xem quần áo đẹp
Mời Mẹ xem quần áo xinh
Mời mẹ hãy mở hòm áo đẹp
Mời Mẹ hãy mở hòm áo xinh.
Màn đẹp Mẹ chớ chê
Áo đẹp Nàng chớ quở
Quần áo đẹp vắt đầy vách
Quần áo đẹp vắt đầy sào
Quần áo đẹp vắt đầy vách không hết
Quần áo xinh vắt đầt vách không xuể.
Lễ hội Nàng Hai là lễ hội của toàn dân bản, bao nhiêu người đi dự hội
là bấy nhiêu tâm tình. Bà con đi dự hội không chỉ đơn thuần là để giải trí, gặp
bạn bè giao lưu mà quan trọng hơn là để gặp Nàng Hai - người gieo vào trong
lòng họ niền tin và yêu cuộc sống.
Lắng nghe câu hát Lượn cất lên từ làn môi xinh của Nàng Hai, ai cũng
nhận ra tài ứng đáp thông minh, linh hoạt với ý đẹp lời hay của nàng:
Khỏi dú cung Quảng Hàm
Pỉ noọng Mẻ Hằng Nga
Mẻ bjóoc gụm gằng mảu mùa đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
Plân đét tlồng kim ngần tắm thúc
Mươi moóc tlồng kin ngần khân đeng
Khẩu mạc tlồng đao đí nưa bân
Mò vài pất cáy tlồng mì têm lảng.
Dịch:
Tôi của người cung Hàm cung Quảng
Tôi hậu duệ của Mẹ Hằng Nga
Mẹ Hoa dặn mùa màng tươi tốt lắm
Nắng vàng, mưa bạc như thoi rơi trên khung cửi
Gió sương như kim tuyến gắn khăn hồng
Thóc vàng như sao trời tháng chín
Gia súc đầt đàn như dòng chảy sông Ngân.
Cuộc sống con người nơi trần gian biết bao khó khăn về vật chất và bao
lo lắng về tinh thần. Như thấu hiểu được nỗi lòng đó, Nàng Hai đã khỏa lấp
lòng họ bằng những câu hát rất đẹp mà đầy ý nghĩa. Trước tài năng và tấm
lòng cao đẹp của nàng, ai không khỏi không yêu mến và kính phục. Hội càng
về đêm càng thêm đông, xung quanh sân khấu Nàng Hai càng thêm rộn ràng.
Trăng đêm tháng ba tỏa ánh bạc xuống sân hội khiến khuôn mặt Nàng Hai
càng thêm rạng ngời.
Người ta bảo trăng đêm lạnh, trăng đêm xuân rừng núi càng lạnh hơn.
Thế nhưng, trong đêm hội xuân này, không khí náo nức và tình cảm thân thiết
giữa người với người như xua tan hết giá lạnh, chỉ còn lại ánh trăng huyền
diệu ngoài kia đang sưởi ấm lòng người. Trong đêm trăng lung linh, những
rào cản về địa vị, hoàn cảnh... đều được cởi bỏ. Dù là ai dưới đám hội kia
cũng có thể giãi bày cùng Nàng Hai những điều thầm kín nhất trong cuộc
sống của mình. Bao nhiêu người với hạnh phúc dở dang, nay cũng tìm đến
nàng để xẻ chia cho vơi bớt nỗi buồn trong lòng. Trong muôn ngàn thanh âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
của lòng người, có câu hát khiến những ai biết yêu, biết thương, biết san xẻ
với đồng loại cũng không khỏi chạnh lòng:
Cầu hạnh phúc tlẻo mẻn tắc chang pế
Khươi noọng ngám nhỉ hả mẻn thai
Tả noọng dú trần gian khôm khỏ
Pi bươn gảng vằn gảng ké pây
Dịch:
Cầu hạnh phúc gẫy gục giữa sông
Chồng em bỗng chết non về trời
Bỏ em giữa thác đời gầm rú
Nhan sắc em ngày càng mỏi mòn.
Xưa kia, nhất là ở miền núi, quan niệm tam tòng của lễ giáo phong kiến
thật có sức mạnh vô hình không sao kiểm soát được. Con gái khi còn ở cùng
gia đình, mọi việc đều phải nghe theo cha mẹ nên khi nói chuyện lấy chồng,
trên cửa miệng của người Tày có câu “Pỏ mẻ tẳt búng tầư, lủc đảy nẳng búng
tlỷ” (cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy). Và khi đã về nhà chồng, họ trở thanh con
ma cùa nhà đấy, dòng họ đấy. Chẳng may, chồng họ qua đời, những người
phụ nữ kia vẫn phải hết lòng duy nhất thờ phụng chồng.
Người thiếu phụ kia đang độ tuổi xuân, lòng càng thấm thía nỗi cô
quạnh của cảnh góa bụa. Cảm nhận được sâu sắc bi kịch tinh thần của góa
phụ, Nàng Hai lúc này không còn là hiện thân của thánh thần nữa mà bỗng
gần gũi như một người mẹ, người chị vỗ về an ủi, xẻ chia và thắp lên trong
lòng người đàn bà bất hạnh ấy một ngọn lửa niềm tin và tình yêu cuộc đời:
Noọng lưởc au muối đây muối mảc
Se mảu mấư đảy ún slim ki
Dịch:
Em hãy chọn hạt mẩy hạt đầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
Gieo vụ mới cho khuây lòng dạ...
Tấm lòng nhân ái, vị tha, cao thượng là một phẩm chất cao đẹp vốn có
trong mỗi con người Tày. Môi trường sống hiền hoà, quan hệ giữa người với
người trong cộng đồng luôn trọng nghĩa tình, ưa điều thịên, lòng nhân ái, bao
dung... luôn luôn có điều kiện để phát huy. Trong khúc hát Lượn Hai, nét đẹp
tâm hồn của nhân dân Tày được thể hiện một cách chân thực và cảm động.
Câu Lượn bình dị nhưng chan chứa biết tình thương, sự đồng cảm đó là lời
của nhân dân lao động Tày dành cho người góa phụ. Không chỉ có vậy họ còn
khích lệ người phụ nữ bất hạnh kia hãy dũng cảm đứng vững giữa cuộc đời,
hãy tự tin đi tìm và lựa chọn hạnh phúc để xây đắp cuộc đời mới. Biết trân
trọng người phụ nữ, gieo vào lòng người niềm tin, đó là biểu hiện của tâm
hồn nhân ái, đáng trân trọng trong mỗi con người Tày nói chung và trong
người thiếu nữ Tày nói riêng.
Trong xã hội cũ, tư tưởng trọng nam khinh nữ đè nặng lên mỗi nếp nhà,
chòm xóm. Thời bấy giờ, người phụ nữ bị coi rẻ. Biết bao câu ca dao xưa cất
lên như lời oán thán đáng thương của người phụ nữ:
Chàng ơi giận thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng
Vậy mà ở vùng núi Cao Bằng mờ sương ẩn dưới những cánh rừng đại
ngàn kia, người Tày lại vẫn rất trân trọng và ngưỡng mộ vẻ đẹp của người
phụ nữ mà nhất là người thiếu nữ. Vẻ đẹp đó được nhân dân cụ thể hoá, thần
thánh hóa qua nhân vật Nàng Hai trong lễ hội mang tên nàng. Vẻ đẹp đó sẽ
sống mãi trong kí ức của đồng bào.Quả đây là một tư tưởng tiến bộ vượt lên
trước thời đại và rất đáng trân trọng.
Tôi bỗng nhớ đến câu nói của nhà thơ Xuân Diệu trong lời dẫn vào bài
thơ “Vội vàng”: Cuộc sống xung quanh ta là một thiên đường - rất đẹp - đẹp
nhất là tuổi trẻ và tình yêu. Thước đo của cái đẹp chính là con người - con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
người trong tuổi trẻ, tình yêu và mĩ nhân... Nhân dân miền núi có thể làm sao
nói những lời thơ hoa mĩ như thi sĩ Xuân Diệu kia, mà họ lại sống cách xa
nhau bao thế kỷ. Cho dù họ là những nhà thơ dân gian và nhà Thơ mới, tuy họ
sống ở hai thời đại khác nhau nhưng họ đã giống nhau ở một điểm nhìn nghệ
thuật: tôn vinh cái đẹp mà con người mới là thước đo của cái đẹp và đẹp nhất
là mĩ nữ đang độ xuân sắc, xuân thì.
Bằng niềm tin và tình cảm yêu mến của nhân dân dành cho người thiếu
nữ Tày, hình tượng nhân vật Nàng Hai trở thành mẫu hình cho những phẩm
chất cao đẹp nhất của người dân Tày: lòng nhân ái, tâm hồn tinh tế, thông
minh, tài hoa. Nàng hiện lên với vẻ đẹp hoàn mĩ nhưng không ồn ào mà vô
cùng giản dị. Người Tày Cao Bằng chọn thiếu nữ đóng vai Nàng Hai trong lễ
hội cầu mùa, ngoài ý nghĩa thể hiện tục thờ mẹ còn thể hiện giá trị nhân văn
vô cùng sâu sắc, đó là tôn vinh vẻ đẹp của tuổi trẻ, nhất là vẻ đẹp của người
thiếu nữ Tày. Tuy Nàng Hai là người không có thực song thông qua hình
tượng nhân vật này, nhân dân Tày như muốn gửi gắm khát vọng hướng tới vẻ
đẹp hoàn mĩ trong mỗi con người. Khát vọng được vươn lên để hoàn thiện
mình trong tâm hồn và cuộc sống chính là giá trị nhân văn trong khúc hát
Lượn Hai.
2.3.4. Hướng đến những khúc hát lễ hội Nàng Hai, con người như được
thanh lọc tâm hồn
Trong tiết tháng ba âm lịch, khí trời ấm áp hơn nhưng cái lạnh chưa hẳn
đã dứt, lộc biếc đã trổ biếc khắp các sườn non, hoa gạo thắp đèn lồng nhung đỏ
thắm trên những cành bạc… lòng người lại náo nức đón hội Hai. Nhà nghiên
cứu văn hóa Triều Ân cũng nhận xét: “những khúc hát trong lễ hội và hát hội
đã gieo vào tâm hồn người đi dự hội một tình cảm trong sáng, lành mạnh, một
niềm lạc quan tin tưởng để sau đó bắt tay vào vụ sản xuất”[1, Tr. 14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
Chẳng phải năm nào hội cũng được tổ chức. Phải hai hay ba năm mới
diễn ra một lần. Thế nên sao mọi người chẳng mong cho xuân đến mau, cho bản
làng mở hội Nàng Hai. Đến lúc ấy, ắt hẳn ai cũng tạm gác công việc thường
ngày lại để đến dự hội, bởi nếu không đến hội chẳng phải đã lỡ một cái hẹn với
chính lòng mình sao? Tiếng Lượn Hai dập dìu qua những nương lúa nương ngô
từ xa vọng lại, lòng người không khỏi bâng khuâng, xao xuyến:
Câu hát Lượn vấn vương
Khách xa không nỡ bước.
Có thể đó chỉ là phút thăng hoa ngắn ngủi chợt đến nhưng tiếng hát cất
lên trong mùa xuân ấy như khiến mỗi con người tạm quên đi những lo toan
thường nhật, lòng chợt thấy thanh thản đến lạ kỳ.
Hoà mình vào ngày hội ta chợt nhận ra lễ hội NàngTrăng với khúc hát
Lượn Hai như một bài ca say mê của tâm hồn con người. Cái không khí uy
linh của lễ cầu trăng, đón trăng như cung trầm của bản nhạc. Trầm đấy mà sâu
lắng đấy. Phút trầm linh sâu lắng đáng trân trọng ấy cho con người suy ngẫm
về những điều mình đã làm, để hướng về điều thiện. Còn cái sôi nổi nhộn
nhịp của hội như cung thanh của bài ca, nó hối thúc người nghe, giục giã lòng
họ sống nhiệt thành hơn và có ý nghĩa hơn.
Người Tày ở Thạch An rất trân trọng tình cảm, sống ân nghĩa, thủy
chung. Cuộc sống vật chất đời thường với nhiều bộn bề lo toan nhưng không
làm họ quên đi những giá trị tinh thần. Có thể nói rằng, càng trong những lúc
còn nhiều khó khăn ấy, tình cảm cộng đồng càng được thêm thắt và bện chặt
hơn. Tình cảm nặng sâu là vậy nhưng với đồng bào Tày, cách thể hiện nó
không phải bộc lộ một cách thẳng tuột, vồ vập mà ngược lại, rất kín đáo, tế
nhị và nhân văn. Lễ hội Nàng Hai mà trong đó mạch máu hồng của nó là
những khúc Lượn Hai đã có vai trò cố kết cộng đồng người, thắt chặt hơn tình
cảm giữa con người với con người. Họ tìm đến hội để trao gửi tâm tình để sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
đó giá trị con người được nâng lên cao hơn, tính thân thiện, nhân văn trong
con người càng được mọi người đề cao, trân trọng và phát huy.
“Đến với lễ hội đầu xuân, con người với con người không chỉ gắn bó
thân thiết với nhau bằng tình làng nghĩa xóm hay huyết thống mà còn bởi một
sợi dây vô hình là tâm linh” [38, Tr. 148]. Dù là ai, ở đâu hay ở địa vị nào,
bước chân đến hội Nàng Hai, trong bất kì ai cũng một lòng thành tâm tôn kính
Nàng Hai - người mà họ tôn vinh là vị thần bảo vệ sản xuất và cuộc sống cho
nhân gian. Lời hát cầu Mẹ Trăng đâu phải của riêng một ai trong số những
người dự hội, mà là tiếng lòng chung của tất cả mọi người:
Út Nọi mà bản noọng đây ròi
Út Nọi mà bản noọng bình an tứ quí
Gằm xui xẻo pây quây
Gằm rại pây khoái khoái
Dịch:
Út Nọi đến bản làng tốt đẹp
Út Nọi về bản làng bình yên
Điềm lành luôn mau đến
Điểm dở luôn mau đi.
Lời ca ấy như một liều thuốc tinh thần, động viên an ủi nhân dân, khiến
lòng họ thấy bình yên hơn.
Con người đến hội Nàng Hai với biết bao mong chờ. Hội tan rồi mà
lòng người còn bao điều cứ vấn vương. Có ai trong nhóm bạn trẻ còn mãi
bâng khuâng trong lòng một câu hát Lượn, còn nhớ mãi ánh mắt tròn xinh của
cô thôn nữ, để rồi lòng hẹn lòng sang năm dự hội cầu mùa gặp em. Trong nhịp
bước lên đèo về bản, có lẽ cô gái Tày nào đó vẫn không quên hình ảnh Nàng
Hai với sắc áo sặc sỡ, lung linh, thân hình tươi trẻ, lời Lượn Hai vừa hay vừa
khéo khiến ai cũng thỏa mong ước. Lòng thiếu nữ cứ ước ao sống đẹp hơn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
xinh hơn, có giọng hát Lượn hay hơn... để năm sau cả bản chọn em đóng vai
Nàng Hai, để được đắm mình trong không khí thần tiên hư ảo, để ông bà pá mé
tự hào về em. Chẳng những thế mà người ta vẫn nói những khúc hát trong lễ
hội Nàng Hai khiến cho con người hướng về cái đẹp.
Lượn Hai là sản phẩm sáng tạo tinh thần chung, tình cảm chung, ước
vọng chung của cha ông xưa. Họ đã sáng tạo ra sản phẩm tinh thần, nhào nặn
nó theo qui luật của cái đẹp, rồi thưởng thức vẻ đẹp của vật phẩm do mình
sáng tạo ra, để rồi tự nhân mình lên, hoàn thiện mình và hoàn thiện cuộc sống.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, thiên nhiên đang dần bị hủy hoại,
con người gần như đối địch với thiên nhiên khiến thiên nhiên nổi giận. Hơn
nữa, khi nhu cầu giải trí của con người đã dần được thỏa mãn, nhiều khi họ vô
tình lãng quên đi người mẹ từ trước đến nay đã âm thầm hào phóng trao tặng
cho con người cuộc sống. Có lẽ sau lễ hội Nàng Hai, khúc dân ca Lượn Hai
mộc mạc mà sâu sắc đó giúp con người phần nào thanh lọc được tâm hồn, để
ai đó ra về, tự thấy mến yêu con suối, ngọn đồi, yêu thêm một đóa hoa rừng
quê ta, thấy biết yêu trăng hơn... Hội tan, lòng bỗng chợt nhận ra rằng: yêu
mến trân trọng thiên nhiên, coi thiên nhiên là bạn, sống thân thiện với thiên
nhiên chính là bức thông điệp mà lễ hội Nàng Hai gửi tới con người hôm nay.
Tiểu kết
Những khúc hát Lượn Hai là một loại hình dân ca đặc sắc của đồng
bào Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Lời ca ấy chỉ được hát lên trong ngày hội
Nàng Hai nhưng nó đã trở thành tiếng hát tâm hồn của nhân dân Tày trong
cuộc sống với mong ước được mùa, với giấc mơ xóm làng bình yên, với khát
khao cuộc đời hạnh phúc, với khát vọng hoà nhập cùng thiên nhiên..., điều đó
làm nên giá trị vĩnh hằng của những bài Lượn Hai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
CHƢƠNG 3:
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI
NÀNG HAI CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG
Có thể nói thi pháp là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
đến sự thành công của tác phẩm. Chính vì vậy, khi nghiên cứu tác phẩm văn
học nói chung và tác phẩm văn học dân gian nói riêng, các nhà khoa rất quan
tâm đến vấn đề này.
Arixtôt khi nghiên cứu về Thi pháp học đã đề cập đến nguyên tắc cấu
trúc bên trong của các loại hình nghệ thuật và phân loại văn học. Công trình
đó đã nghiên cứu các biện pháp nghệ thuật và lần đầu tiên đưa ra khái niệm
nội dung, cốt truyện.
Thi pháp học được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và hiện nay tồn
tại khá nhiều cách hiểu khác nhau. Giáo sư Trần Đình Sử đã khẳng định: “Thi
pháp là hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật chi phối sự tạo thành của một hệ
thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp không phải là nguyên tắc
có trước nằm bên ngoài, mà là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tác
nghệ thuật gắn liền với sự sáng tạo và một trình độ văn hóa nghệ thuật nhất
định mang một quan niệm nhất định đối với cuộc đời, con người và bản thân
nghệ thuật” [10, Tr.18].
Khrapchenkô lại cho rằng: “Có thể xác định thi pháp học như một bộ
môn khoa học nghiên cứu các phương thức và phương tiện thể hiện cuộc sống
bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng hình tượng” [23, Tr. 11].
Thi pháp học dù được hiểu theo cách nào thì nó cũng luôn gắn chặt với
ngôn ngữ và mỹ học.
Văn học dân gian là một loại hình văn học đặc biệt. Do vậy, nghiên cứu
thi pháp văn học dân gian không chỉ nghiên cứu những yếu tố nghệ thuật
trong văn bản tác phẩm mà còn phải đặc biệt quan tâm đến những yếu tố thi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
pháp nằm ngoài văn bản như môi trường diễn xướng, hình thức diễn xướng,
đối tượng diễn xướng...
Trong bài viết: “Về việc nghiên cứu tác phẩm văn học dân gian”, tác
giả Chu Xuân Diên đã khẳng định: “Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ
các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ pháp miêu tả,
thể hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện và phương pháp xây dựng hình
tượng con người... Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ
việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các
biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cấu tạo cốt truyện, cách miêu tả diện
mạo bên ngoài và tâm lí bên trong của nhân vật... đến việc khảo sát những
đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại và cuối cùng là việc nêu lên những
đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của thi pháp văn học dân
gian nói chung. Nghiên cứu văn học dân gian còn bao gồm cả việc khảo sát
những đặc điểm, phong cách của người sáng tạo và diễn xướng trong mối
quan hệ với những đặc điểm thi pháp truyền thống” [10, Tr. 14].
Dựa trên những kiến thức lí luận trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên
cứu, phân tích một số yếu tố thi pháp của làn điệu dân ca Lượn Hai trong lễ
hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
3.1. Ngôn ngữ lời thơ Lƣợn Hai
Ngôn ngữ là yếu tố giữ vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học.
“Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy mà văn học
được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ” [15, Tr. 185]. Xét về mặt cấu trúc,
ngôn ngữ là toàn bộ hệ thống âm, hệ thống từ và những quy tắc kết hợp chúng
mà những người trong một cộng đồng tạo ra làm phương tiện để giao tiếp.
Với vai trò quan trong trên, ngôn từ trở thành một trong những đối
tượng quan trọng khi nghiên cứu văn học dân gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
3.1.1. Nghệ thuật sử dụng biện pháp tu từ
Trong lễ hội Nàng Hai, Lượn Hai là phương tiện giao tiếp đặc biệt của
người dân Tày với một đối tượng mang ý nghĩa tâm linh rất lớn đó là Nàng
Hai. Cũng giống như làn điệu dân ca khác của dân tộc Tày như Lượn Cọi,
lượn Slương hay như điệu Sli của dân tộc Nùng, Lượn Hai hấp dẫn người
nghe không chỉ bởi âm thanh trầm bổng, nhiều luyến láy của nó mà còn bởi
nét nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ lời thơ Lượn. Sự kết hợp nhuần nhị
giữa ngôn ngữ, nhịp điệu của lời thơ và âm thanh của giọng hát đã thể hiện
được sức mạnh tổng hợp của lời nói.
Để sáng tạo được những vần thơ Lượn Hai giàu giá trị như vậy, trong
quá trình sáng tác, tác giả dân gian đã biết cách vận dụng rất khéo léo những
biện pháp tu từ. “Biện pháp tu từ là những các phối hợp sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ trong hoạt động lời nói để tạo ra hiệu quả tu từ (tức là tác
dụng gợi hình gợi cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật...) do sự tác động qua lại của
các yếu tố tố trong một ngữ cảnh rộng” [24, Tr. 61]. Qua việc khảo sát ngôn
ngữ lời thơ Lượn Hai đã sưu tầm được ở Thạch An - Cao Bằng, người nghiên
cứu nhận thấy rõ việc sử dụng biện pháp tu từ có tần số khá lớn và đem lại
hiệu quả thẩm mĩ nghệ thuật cao cho ngôn ngữ Lượn Hai.
Một số biện pháp nghệ thuật tu từ được sử dụng nhiều như: so sánh tu
từ, nhân hóa, điệp ngữ.
3.1.1.1. Biện pháp nghệ thuật so sánh
“So sánh (tỷ dụ) là phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình
tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng
nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm,
thuộc tính của hiện tượng kia’’ [21, Tr. 154].
Trong các sáng tác văn học dân gian, ta thường thấy xuất hiện những so
sánh rất cụ thể làm cho những cái trừu tượng được cụ thể hóa. Trong ngôn ngữ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
so sánh có vai trò như một phương tiện tạo hình, một phương tiện biểu hiện góp
phần hình ảnh hóa, cụ thể hóa và linh hoạt hóa đối tượng được đề cập tới. Lối
diễn đạt này khiến cho ngôn ngữ giao tiếp cũng như ngôn ngữ thơ trở nên cô
đọng, hình ảnh và sinh động hơn. Vi Hồng đã nhận xét: “Sli, lượn có một đặc
trưng cơ bản về mặt diễn đạt: so sánh ví von và nhân cách hóa... Thủ pháp nghệ
thuật phổ biến này làm cho sli, lượn rất dồi dào hình tượng và sinh động, rực rỡ
về sắc màu. Sức sống của hình tượng tràn lan và trẻ trung” [20, Tr. 250].
Trong lời thơ Lượn Hai, so sánh là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng
tạo nên những ấn tượng thẩm mĩ rất riêng. Cách thức so sánh được biểu hiện
trong loại hình dân ca đó cũng rất phong phú. Có lúc tác giả dân gian lấy cái
hữu hình này để so sánh với cái hữu hình kia, có lúc lại lấy cái hữu hình để cụ
thể hóa cái vô hình, song có khi họ lại so sánh một cái hữu hình bằng một cái
vô hình.
Các hình ảnh so sánh trong Lượn Hai là những gì gần gũi thân quen
trong cuộc sống thường ngày của nhân dân. Để nói về hạt mưa tháng tư,
người dân Tày đã hồn nhiên và ngây thơ biến những hạt mưa ấy thành tất cả
các thứ quả trong vườn mình:
Muối nặm cải tlồng mác khưa
Muối nặm cải tlồng mác pàng
Dịch:
Hạt mưa to bằng quả cà
Hạt mưa to bằng quả bưởi
Hồn nhiên thật đấy nhưng ai cũng hiểu rằng đằng sau lối nói ấy ẩn chứa
biết bao điều. Với việc cấy lúa bắt đầu từ tháng tư nên trong ngày hội cầu
mùa, người Tày ước ao vào thời điểm ấy sẽ có cơm mưa thật to để những đám
ruộng trên cao có thể đủ nước cấy. Nói lên một cơm mưa lớn như vậy, không
gì cụ thể hóa bằng hình ảnh “quả cà”, “quả bưởi”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
Người Tày hay có lối nói ví von, dường như cách nói này đã trở thành
một đặc điểm khá nổi bật trong lời ăn tiếng nói của họ. Để nói lên sức mạnh
của những trai tráng chèo thuyền trên sông Ngân Hán, tác giả dân gian đã thể
hiện thông qua hình ảnh rất ấn tượng:
Sluông pây tlồng ngưởc nòi búng nặm
Sluông pây tlồng luồng rẩp moóc đáo.
Dịch:
Anh đi như thuồng luồng gặp nước
Anh đi như rồng gặp mây hồng.
Thuồng luồng và rồng là hai con vật không có thực mà chỉ tồn tại trong
trí tưởng tượng của con người. Trong quan niệm của người Tày cổ, thuồng
luồng và rồng sống ở hai cõi khác nhau: thuồng luồng ngự trị ở cõi âm - nơi
sông suối và các vực nước xoáy, rồng bay lượn trên chín tầng mây. Hai con
vật trong tưởng tượng ấy đều linh thiêng và có sức mạnh phi thường. Cách
nói ví von này có tác dụng khẳng định và ngợi ca sức khỏe, lòng dũng cảm và
sự oai hùng của những sluông vượt biển.
Nội dung của các bài Lượn Hai không chỉ là lời cầu mùa mà còn là
tiếng hát chúc tụng, ngợi ca. Đến hội, mọi người trao nhau lời chúc tụng, ngợi
ca để hi vọng nhiều may mắn sẽ đến. Trong ngày xuân vui tươi ấm áp ấy, Mẹ
Trăng là một vị khách mời đặc biệt, là nhân vật trung tâm của lễ hội. Chính vì
lẽ đó mà mọi người đều dành tất cả niềm tin yêu, quí mến cho nhân vật quan
trọng đó. Để Mẹ hiểu tấm lòng của mình, người đến hội đã gửi tới Mẹ Trăng
bao lời ngợi ca. Còn người Mẹ thiên nhiên đáng kính ấy, càng khiến người
trần gian nể phục hơn bằng lời đáp lại vô cùng sắc sảo và tinh tế:
Thế gian gần khôn tlồng nổc iểng
Gằm thế đây plặng nổc công
Mốc slẩy rủng tlồng hai shíp hả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
Dich:
Người thế gian bụng khôn như chim iểng
Người thế gian lời đẹp tựa chim công
Tiếng nói sáng như đêm trăng rằm
Trong ngôn ngữ Tày, nổc iểng, nổc công, hai shíp hả có nghĩa là chim
iểng, chim công, trăng rằm, các từ này đều hàm ý nói đến điều tốt đẹp và cao
quí; tlồng, plặng dịch sang tiếng Kinh có nghĩa là giống, là như. Mẹ Trăng -
đấng tối cao ngự trị ở chốn tiên đã nói lên cảm nhận của mình về phẩm chất,
tài năng của người trần gian bằng lối nói ví von không quá cầu kỳ mà vẫn thật
độc đáo. Quả thực, nghệ thuật so sánh đã đem đến một trường thẩm mĩ mang
đậm dấu ấn riêng trong Lượn Hai, khiến ai đã một lần từng nghe hát khó lòng
mà quên được.
Với trí tưởng tượng phong phú cùng với sự sáng tạo không ngừng,
nhân dân Tày đã để lại nhiều vần thơ hay mà trong đó không thể phủ nhận
được vai trò quan trọng của nghệ thuật so sánh. Ta hãy nghe lời của Mẹ Trăng
nhắn nhủ với người trần gian về chuyện thời tiết, mùa màng trong năm tới:
Plân đét tlồng kim ngần tắm thúc
Khẩu mạc tlồng đao đí nưa bân
Mò vài pất cáy tlồng nặm Ngân Hán
Mươi moóc tlồng kin ngần tlốc...?
Dịch:
Gió sương như kim tuyến gắn khăn hồng
Thóc vàng như sao trời tháng tám
Gia súc đầy đàn như dòng chảy sông Ngân
Nắng vàng, mưa bạc như thoi rơi trên khung cửi
Ở câu thơ 1 và 4 nói về chuyện thời tiết. Câu thơ sử nhiều hình ảnh so
sánh rất hoa mỹ: “kim tuyến gắn khăn hồng”, “vàng, bạc - thoi rơi trên khung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
cửi” để nói đến gió, mưa, nắng, sương. Hẳn ai cũng hiểu được dụng ý của tác
giả dân gian muốn nói đó là bàn tay tạo hóa đang khéo léo đưa những nét vẽ
hài hòa cho những đường mưa, đường gió thêm mềm, thêm yên ả. Lời của
Nàng Hai muốn nói với nhân gian là năm nay, sẽ mưa thuận, gió hòa, bà con
yên vui sản xuất, vụ mùa sẽ bội thu. Thế cho nên, hai câu thơ 2 và 3 là bức
họa đồng quê với lúa vàng bất tận tựa ngàn sao trong đêm trời tháng tám, với
đàn gia súc đông đúc như con sông đang chảy trên bầu trời kia. Lối so sánh
với nhiều hình ảnh vừa hư vừa thực như rót chất họa vào trong thơ, để những
câu thơ thi vị cứ ám ảnh người đọc mãi.
Có thể nói, biện pháp nghệ thuật so sánh đã đem lại hiệu quả nghệ thuật
cao cho lời thơ Lượn Hai. Những hình ảnh so sánh trong thơ đã tạo nên sức
hấp dẫn riêng cho loại hình dân gian độc đáo này, đồng thời khiến cho nội
dung biểu đạt được sâu sắc hơn.
3.1.1.2. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa
“Nhân hóa (còn gọi là nhân cách hóa) trong đó người ta lấy nhưng từ
ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu
hiệu không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên
gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo
tâm tư, thái độ của mình” [21, Tr. 63].
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa tạo cho hình tượng được nói đến có tính
sinh động, giàu sức sống. Nghệ thuật đặc sắc này được thể hiện rõ nét nhất và
điển hình nhất qua việc nhân dân Tày xây dựng hình tượng nhân vật Mẹ Trăng.
Trăng là một hiện tượng của thiên nhiên vũ trụ nhưng trong những
khúc hát Lượn Hai, vầng trăng đó hiện lên như một con người có diện mạo,
tính cách, ngôn ngữ, hành động và trở thành người bạn gần gũi của con người.
Người nông dân yêu mến và quí trọng trăng. Họ gọi trăng bằng những cái tên
thân thương mà nặng bao nghĩa tình: Mẹ, Mẹ Nàng, Mẹ Trăng, Nàng...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
Chính vì yêu quí trăng như vậy nên trong mỗi câu hát Lượn, Mẹ Trăng
hiện thật đẹp. Các tác giả dân gian đã khắc họa hình ảnh Mẹ Trăng với dáng
vẻ của một vị nữ thần với chân đi chiếc hài hoa, đầu đội khăn đỏ thắm, mình
khoác chiếc áo thêu đẹp đẽ:
Kha rại pây hái bjoóc
Kha sloa pây miẹt lương
Tha Mẻ Nàng rủng tlồng đao đí
Nả Mẻ Nàng rủng tlồng bjoóc phông
Mẻ Nàng thổm khân đeng chỏi
Slửa Mẻ Nàng thêu bjoóc thêu hoa
Mừng Mẻ Nàng kim ngần rủng rường
Mừng Nàng căm nậu bjoóc đây hom.
Dịch:
Chân trái xỏ hài hoa
Chân phải đi tất vàng
Mắt Mẹ Nàng sáng như sao
Mặt Mẹ Nàng sáng như hoa
Mẹ Nàng đội khăn đỏ thắm
Mẹ Nàng mặc áo đẹp thêu hoa
Tay Mẹ Nàng đeo vàng bạc sáng chói
Tay Mẹ cầm cành hoa phón thơm lừng.
Chưa hết:
Ngoảy bưởng rại nả Mẻ Nàng rủng roàng
Ngoảy bưởng sloa nả Mẻ Nàng tlồng ngọc.
Dịch:
Mẹ Nàng quay bên trái da trời sáng loáng
Mẹ Nàng nghoảnh bên phải mặt ngọc sáng ngời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
Với cảm hứng ngợi ca, cùng với trí tưởng tượng vô cùng dồi dào, tác
giả dân gian đã miêu tả thật sinh động và độc đáo vẻ đẹp Mẹ Trăng. Ánh mắt
của Mẹ hội tụ ánh sáng của ngàn vì tinh tú trên cao. Hai hình ảnh tiêu biểu
cho vẻ đẹp cao quí và thanh khiết là hoa và ngọc được người lao động Tày
đem so sánh với gương mặt của Mẹ Trăng, để trước mắt người đọc, hiện lên
một gương trăng đẹp dịu hiền và thánh thiện đến vô ngần.
Nghệ thuật thể hiện hình tượng thiên nhiên trong lời thơ Lượn Hai của
cha ông xưa quả thực rất tinh tế và tài hoa. Câu Lượn Hai như khiến người ta
bỗng quên đi thực tại, đưa họ trở về với mảnh đất thần thoại Hi Lạp xa xưa -
nơi có nữ thần sắc đẹp đang ngự trị:
Mẻ Nàng Hai nòn suốt bươn dằng vận đang
Mẻ Nàng Hai nòn sốc vằn dằng tứn
Mẻ nòn shí shíp cẩu phít lài
Mẻ nòn shí shíp cẩu và lài
Mẻ vận đang vạ khiêu slâư
Mẻ vận đang nả rủng roàng.
Dịch:
Mẹ Hằng Nga ngủ suốt tháng chưa trở mình
Mẹ Hằng Nga ngủ sáu ngày chưa trở thân
Mẹ nằm bốn mươi chín màn gấm thêu
Mẹ nằm bốn mươi chín chăn gấm đẹp
Mẹ trở mình trời sáng loáng
Mẹ trở thân mặt đẹp sáng trong.
Với người Tày, tâm hồn họ chan hòa cùng thiên nhiên, để rồi họ nhìn
ngắm thiên nhiên với màu mắt thân thiết, hồn nhiên. Qua cách nhìn, cách cảm
hồn nhiên đó, trăng không còn là một vật vô tri nữa mà giờ đây nó có hơi thở,
có sức sống như một con người. Mỗi khi Mẹ trở mình, xung quanh tỏa ra ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
sáng lấp lánh. Chi tiết Mẻ vận đang (Mẹ trở mình) như kéo cái kì vĩ của vũ
trụ kia về gần trần gian hơn, để với con người Mẹ Trăng vừa là niềm ngưỡng
vọng nhưng cũng vừa gần gũi và thân quen.
Nghệ thuật nhân cách hoá đã khiến cho vầng trăng mà người dân Tày
tôn kính coi như vị thần trở thành người mẹ với hành động, lời nói rất đời
thường:
Mừng rại vựt phít lài
Mừng sloa vựt phít lụa
Vửt phít lài mẻ nàng ngòi
Vựt phít hoa mẻ nàng piếm.
......
Mẻ Nàng khay phác khửn hanh
Mẻ Nàng khỏi dằng gỏi son gạ.
Dịch:
Tay trái vén màn hoa
Tay phải nâng màn lụa
Vén màn hoa Mẹ Nàng liếc
Nâng màn the Mẹ Nàng coi
...
Mẹ Nàng bèn mở miệng cất lời
Mẹ Nàng gởi lời ngọt dặn dò.
Ta không thấy trước mắt mình là một vầng trăng ở cõi xa xôi mữa là là
một người phụ nữ dịu hiền với hành động, lời nói khoan thai, từ tốn. Ắt hẳn ai
cũng cảm thấy lòng mình thấy bình yên hơn khi được nghe những lời dặn dò
ngọt ngào tâm tình như thế!
Mẹ Nàng ở trên cao nhưng cũng giống con người trần. Trước đi đến dự
hội xuân, các Mẹ Nàng cũng làm duyên, chải chuốt cho thêm xinh đẹp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
Bưởng soa pây pặm lầm
Bưởng rại pây pặm moóc
Dám kha nẩ ư pặm bông
Dám kha pây tôồng nặm
Khoái khoái khẩu oóc nủng slửa tiên
Khoái khoái khẩu pây nủng slửa chủa
Sửa tiên Mẻ dẳng nủng
Slửa chủa Mẻ dẳng au.
Dịch:
Chân trái đi như gió
Chân phải đi tựa mây
Bước đi nhẹ như nước chảy
Bước đi nhẹ như mây
Thoăn thoắt ra ngoài thay áo tiên
Thoăn thoắt ra ngoài thay áo chúa
Áo đẹp Mẹ mới mặc
Áo xinh Mẹ mới lấy.
Nhân vật Mẹ Trăng được miêu tả trong Lượn Hai cũng giống như nhân
vật nữ thần mặt trời trong sử thi Đăm San: khi nữ thần mặt trời biết Đăm San
đến, nàng thay ngay một bộ áo váy, thấy chưa đẹp, nàng lại thay một bộ khác.
Hai dân tộc Tày ở vùng phía bắc và Ê Đê ở Tây Nguyên xa xôi đã gặp nhau
trong nghệ thuật xây dựng hình tượng. Tuy với người Tày là hình ảnh mặt
trăng, còn người Ê Đê là hình tượng mặt trời nhưng cùng với tâm hồn nghệ sĩ
luôn dạt dào trong mỗi con người đất Việt, thiên nhiên đã được nhân cách hoá
trở thành một con người.
Câu thơ kết hợp nghệ thuật nhân hoá với lối so sánh đã làm nổi bật lên
dáng vẻ thướt tha, nhẹ nhàng như gió mây, mềm mại như nước chảy của Mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
Trăng. Mẹ hiện lên trong dáng vẻ một vị nữ thần của sắc đẹp.Vẻ đẹp của hình
tượng này cũng chính là sự phản chiếu vẻ đẹp nữ tính của con người nơi trần gian.
Các tác giả dân gian đã thổi hơi thở của mình vào thiên nhiên, nhân
cách hoá những vật vô tri để cho nó trở nên có tâm hồn, có tình yêu, có cuộc
sống... như chính con người vậy. Cha ông ta làm vậy không phải chỉ để ngợi
ca vẻ đẹp của thiên nhiên, không phải chỉ để khẳng định tình yêu đối của
mình với thiên nhiên mà hơn thế nữa còn là để muốn nói lên khát vọng hoà
nhập cùng thiên nhiên, coi thiên nhiên vũ trụ như là một người bạn luôn thân
thiết với con người.
3.1.1.3. Nghệ thuật điệp
“Điệp (còn gọi là lặp) là sự lặp lại có ý thức... nhằm tác dụng nhấn
mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong
lòng người đọc, người nghe” [25, Tr. 93].
Nghệ thuật điệp được thể hiện trong văn học khá đa dạng nhưng phổ
biến nhất là điệp từ, điệp câu, điệp đoạn, điệp kết cấu.
Trong lời thơ Lượn Hai, nghệ thuật này được thể hiện rất rõ nét và có
vai trò quan trọng trong việc thể hiện các giá trị của lời dân ca. Cách các tác
giả dân gian vận dụng biện pháp nghệ thuật điệp trong các khúc hát cũng rất
linh hoạt. Có lúc, từ ngữ vận dụng trong thơ được các nghệ nhân lặp lại theo
kiểu vòng tròn, gây được ấn tượng cho người nghe hát:
Síp giờ kẻn đảy giờ miẻc
Pác giờ chọn đảy giờ đây
Giờ đây Hai khay pác
Giờ miẻc Há khay hênh
Khay pác đuổi tiểng mành
Khay hanh đuổi tiểng ngoảng
Tiểng Sở vần tiểng ngoảng đông luông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
Tiểng Gường vần tiểng chuông Hai Há
Dịch:
Mười giờ chọn được giờ tốt lành
Trăm giờ chọn được giờ quí giá
Giờ tốt Nàng Hai lên tiếng
Giờ lành Nàng Hai mở miệng
Mở miệng chào lời tốt lành
Nhấp giọng gửi lời thưa
Tiếng Sở thành tiếng ngoảng đông luông
Tiếng Gường thành tiếng Nàng Hai Há
Các từ giờ miẻc, giờ đây, khay pác, khay hênh... được tác giả dân gian
khéo léo đưa vào trong mỗi câu thơ. Từ ngữ ở cuối câu thơ trên lại được đưa
lên đầu câu thơ dưới theo từng cặp khiến người nghe không hề thấy nhàm
chán mà còn tạo nên sự nhịp nhàng lên xuống trong lời hát. Ở đây, điệp từ đã
góp phần quan trọng vào việc tạo nên tính nhạc cho lời Lượn.
Mỗi từ ngữ được sử dụng để tạo nên những vần thơ Lượn Hai đều có dụng
ý nghệ thuật riêng mà nhiều khi giá trị nghệ thuật đó lại được ẩn sau cái hình
hài ngôn ngữ rất bình thường. Những câu thơ miêu tả con đường lên trời của
người trần gian cũng được thể hiện bằng cách thức sử dụng ngôn ngữ như thế:
Khảm óoc bó nặm khiêu
Khảm oóc bó nặm lìn sle áp
Pây quá tổng bưởng soa
Pây quá tổng bưởng rại
Pây quá rẩư nà quảng đại
Pây quá Nà Nuồm bưởng lăng khau
Pây thâng kha tàng cải gỏi piếm.
Dịch:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
Đi qua mỏ nước xanh
Đi qua khe nước mát
Đến cánh đồng bên phải
Đến cánh đồng bên trái
Đi qua đám ruộng lớn
Đi qua Nà Nuồm đằng sau núi
Đi đến đường cái quan hãy xem
Mới nghe, tưởng câu hát chẳng ẩn chứa điều gì đặc biệt. Nhưng hãy để
tiếng nhạc xóc trên tay người hát ngừng hẳn, hãy đợi cảm xúc lắng lại, hãy
đọc lại lần nữa mỗi dòng thơ để nhận ra nó đã nói lên thật nhiều điều. Sự xuất
hiện liên tiếp các động từ Khảm óoc (đi qua), Pây quá (đi qua, đi đến) trong
các câu thơ cho ta thấy cuộc hành trình của người trần lên tới cung trăng hẳn
thật dài và nhiều gian lao. Họ phải đi ra mỏ nước đầu bản thường ngày bà con
vẫn hay lấy nước ăn, đi tiếp đến cánh đồng thân quen mà ngày xuân nơi ấy
vẫn mở hội, vượt qua Nà Nuồm ở phía sau rặng núi đá cao, rồi ra đến con
đường lớn... Những ngả đường, lối đi, bao cánh đồng ở lại đằng sau và phía
trước mặt họ lại mở ra biết bao triền đồi, rặng núi, rừng cây, xóm làng...
Nghệ thuật điệp từ ở đây khiến những câu thơ mang một sức gợi rất lớn.
Dường như, con đường trần đi đến cõi thần tiên ấy dài vô cùng vô tận. Phải
chăng cuộc hành trình để loài người đến với bình yên, ấm no, hạnh phúc vẫn
chưa bao giờ đi đến đích? Đi qua, đi đến rồi lại đi qua... nó vẫn là khát khao
cháy bỏng chinh phục thiên nhiên, khát vọng chiến thắng những gian lao thử
thách trong cuộc sống của loài người.
Có nhiều khi, một từ ngữ được tác giả dân gian dùng đi dùng lại trong cả
khúc ca dài:
Biên au bjoóc táng tẻm bán
Biên au vạ táng cáng sảng rườn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
Biên au bjoóc cáng quýt bươn slam
Biên au bjoóc khảo quang bươn nhỉ
Biên au bjoóc tứ quý vặc viền
Biên au bjoóc cánh tiên ná chúa
Biên au bjoóc quý hố rơn lâm
Biên au co bjoóc rồm phắng bến
Biên au bjoóc kỷ quyển tlàng quây
Biên au nậu bjoóc cút, rút bjoóc ngần
Biên au plỏ cáy kim rìm rỏng
Biên au plỏ cáy cỏng rìm đông
Biên au tua nộc công nhỏt pế
Biên au slíp nhỉ plừn slứt bjoóc
Biên au slíp nhỉ mản thúc lài
Dịch:
Chép lấy hoa trên bàn thờ Mẹ
Chép lấy hoa lấy nụ mời Nàng
Chép lấy hoa phặc phiền tháng ba
Chép lấy hoa khảo quang tháng hai
Chép lấy hoa tứ quí trần gian
Chép lấy hoa tứ quí vàng ròng
Chép lấy hoa thơm tiên cảnh
Chép lấy nụ hoa cút màu vàng
Chép lấy con gà vàng bên khe
Chép lấy con gà re ven suối
Chép lấy con công đẹp nơi biển xa
Con gà vàng lên mường trời
Chép lấy mười hai màn gấm vóc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
Chép lấy mười hai bọc gấm thêu.
Trong lễ hội cầu mùa, đoàn người trần đi lên cung trăng mời đón Mẹ
Trăng xuống trần gian dự hội. Khi đi, họ phải mang theo nhiều lễ vật để dâng
tặng lên cho các Mẹ. Lễ vật đó là tất cả những gì tốt nhất, đẹp nhất và quí
nhất trần gian. Đoạn thơ với nghệ thuật sử dụng từ “Biên au” (chép lấy) được
láy đi láy lại, kết hợp phép liệt kê như bày ra trước mắt người đọc biết bao
nhiêu lễ vật quí mà người trần dâng lên thượng giới. “Biên au” rồi lại “Biên
au”... cứ như thể các lễ vật ở mọi nơi: trên núi cao, trong rừng sâu, ngoài biển
xa... khắp mọi chốn mọi nẻo được con người cất công đi tìm về và thành
nguyện kính dâng lên Mẹ Trăng. Qua đó, ta cảm nhận được sự chẩn bị chu
đáo cũng như tấm lòng hào phóng của nhân dân Tày trong việc mừng hội
xuân cầu mùa.
Một điều nữa ta cũng nhận ra là các câu hát trên không chỉ có điệp từ
mà còn có điệp cấu trúc câu. Cấu trúc câu thơ trước như cái khuôn để câu thơ
sau nhập vào. Tuy nhiên cùng với cách gieo vần lưng nên các câu thơ cân đối
mà vẫn uyển chuyển, nối đuôi nhau như đợt sóng. Nghệ thuật điệp được sử
dụng không máy móc mà sáng tạo đã làm nên nét thẩm mĩ riêng cho hình
thức thơ.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hình thức thơ Lượn Hai gần giống với
Then. Có lẽ điểm tương đồng không chỉ ở góc độ hai loại hình dân ca này đều
gắn liền với việc thực hiện các nghi lễ mà còn ở chỗ chúng có nhiều nét
chung trong nghệ thuật xây dựng hình thức thơ mà trong đó nổi bật nhất là
nghệ thuật lặp lại trùng điệp các đoạn thơ trong các khúc ca khác nhau.
Lượn Hai là những bài hát dân ca cầu mùa. Mục đích chính và quan
trọng nhất trong lễ hội này là cầu một mùa mới sản xuất thuận lợi, cuối năm
đầy thóc lúa, gia súc... Dường như ý nghĩa đó nó trở thành sợi chỉ hồng xuyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
suốt toàn bộ khúc ca. Chính vì vậy đến một chương khúc mới, các nghệ nhân
lại đem sợi tơ hồng ấy đan vào đường dệt thơ của mình. Đoạn thơ:
Vằn xuân vằn đây moạc
Vằn xuân vằn đông vui
Hạ giới cầu mùa mảu
Khôi châu cầu mùa vụ
Mảu nẩy hơn mảu lăng
Mảu lăng hơn mảu nả
Cốc khẩu gặn cốc khuông
Ruồng khẩu gặn ruồng páng
Mẻ cáy lảc nắm pây
Muối khẩu gặn mác plàng
Khẩu sa tlàng khẩu bố.
Dịch:
Hôm nay ngày đẹp trời
Hôm nay ngày đẹp tươi
Hạ giới họ cầu mùa
Khôi châu họ cầu vụ
Vụ trước hơn vụ sau
Vụ sau hơn vụ trước
Bông lúa trùm bờ dưới bờ trên
Mẹ gà tha không nổi
Bông lúa bằng bông lau
Hạt lúa to bằng quả bưởi
Lúa tự lăn về nhà.
là lời cầu mùa của người nông dân Tày trong ngày hội Nàng Hai. Lời cầu mùa
ấy được tiếng hát của Gường và Sở gửi tới các Mẹ Trăng. Các nàng sẽ hát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
thật nhiều như để nhắc nhở thần linh, cho các đấng trên cao thấu hiểu nguyện
vọng rất chính đáng của người trần.
Như vậy, lời thơ Lượn Hai sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ, đặc biệt là
nghệ thuật so sánh, nhân hoá và điệp. Những biện pháp này càng tăng thêm
giá trị biểu cảm cũng như tính thẩm mỹ cho lời hát dân ca này.
Ngoài các biện pháp tiêu biểu trên, những khúc hát Lượn Hai trong lễ
hội Nàng Hai còn sử dụng biện pháp nghệ thuật khác như liệt kê, cường điệu,
ẩn dụ…
3.1.2. Sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ dân gianTày
Trong kho tàng văn học Việt Nam, dân ca luôn được coi là một trong
những viên ngọc quí. Nó quí ở chỗ trong quá trính phát triển của văn học Việt
Nam từ xưa đến nay, luôn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển tiếng nói của dân tộc, phản ánh sinh hoạt của nhân dân, biểu hiện những
nhận xét, những ý kiến của nhân dân trong cuộc đấu tranh thiên nhiên, đấu
tranh xã hội... Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin phép nói đến vai trò
của loại hình văn học dân gian Lượn Hai ở Thạch An - Cao Bằng trong việc
phát triển ngôn ngữ Tày qua việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ dân
tộc mình.
Người Tày dùng tiếng Tày trong giao tiếp và sử dụng sáng tạo ngôn
ngữ của cha ông họ vào việc sáng tác dân ca Lượn Hai. Từ chất liệu ngôn từ
sẵn có ấy, qua tâm hồn và trí tuệ, sáng tạo của người Tày, ngôn ngữ thơ Lượn
Hai trở thành “ một kho từ vựng tiếng nói dân tộc Tày từ cổ đến kim, từ nguyên
thuỷ đến có sáng tạo...” [60, Tr.130]. Ngôn ngữ của làn điệu dân ca này vừa
mang dáng vẻ và sức sống mới lạ mà cũng vừa thân quen. Cái thân quen đó
được thể hiện đầu tiên ở các địa danh xuất hiện trong lời hát.
Với hệ thống từ chỉ địa danh xuất hiện khá nhiều trong Lượn Hai,
người nghe như thấy mình được đưa đến những vùng miền vừa thực, vừa hư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
Những địa danh Thạch An, Cao Bằng, Tổng Luông, núi Kẹm, Mường Nà,
Phja Miềng, Nà Nuồm, Nà Chương... là những nơi có thực. Lại có nhiều nơi
như Tổng Mểt, Mường Rấn, chợ Tam Quang, sông Ngân Hán... là vùng đất
của cõi tiên và cõi ma, chỉ có trong thế giới tưởng tượng của con người. Cho
dù những cái tên chỉ địa danh đó ở cõi trần hay một thế giới khác thì mỗi địa
danh lại mang một ý nghĩa riêng mà không phải là người Tày khó có thể hiểu
được. Tổng Luông chỉ một cánh đồng bằng phẳng rộng lớn, đất đai trù phú.
Người ta cũng hay dùng từ này để diễn tả nơi mua bán sầm uất, đông vui
nhộn nhịp, nơi tổ chức hội xuân. Hay những cô hồn, chết bên ngoài, không
được thờ tự ở trong nhà, bơ vơ bên ngoài sẽ sống ở một nơi trên trời gọi là
Tổng Mểt. Tên gọi các địa danh cũng chính là một dấu ấn văn hoá của người
Tày trong việc đặt tên làng bản.
Ngôn từ trong Lượn Hai được nhân dân Tày sử dụng thật giản dị, đôi
khi là lời ăn tiếng nói hàng ngày và được bồi đắp giàu thêm bằng những nhân
vật trong câu chuyện cổ của họ:
Pây quá tu Giả Gỉn nòn soai
Pây quá tu Giả Vài nòn goẹn
Pây quá búng dú của Pựt Luông.
Dịch:
Đi qua cửa Giả Gỉn ngủ trưa
Đi qua cửa Giả Vài ngủ kĩ
Đi qua nơi ở của Pựt Luông
Giả Gỉn, Giả Vài là hai nhân vật trong thần thoại. Giả Gỉn là người
trời, có chiếc gậy thần hai đầu, một đầu sinh và một đầu tử. Còn Giả Vài cũng
là người trời. Bà có chiếc địu thần cõng trẻ con, trẻ mà được địu ngủ trên
chiếc địu ấy sẽ ngủ rất ngoan. Cả hai mụ này có đặc điểm là ngủ rất muộn,
mặt trời lên cao đến ngọn cây nghiến cổ thụ trên đỉnh núi cao mà vẫn chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
thức. Pựt Luông được coi như mẹ lớn, mẹ cả sống trên mường trời, luôn có
tấm lòng bao dung, nhân từ với những đứa con trần gian. Các nhân vật trong
kho chuyện cổ của dân tộc Tày vào lời thơ Lượn Hai, đó là một sáng tạo của
những tác giả dân gian, tạo nên một thế giới nhân vật phong phú, sinh động
và khiến bài hát dân ca mang hơi thở của thần thoại.
Ngôn ngữ là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của đặc tính văn
hóa dân tộc, mà bài hát (dân ca) là “cái túi đựng tiếng nói”. Các tác giải dân
Tày đã đem ngôn ngữ - cái vốn quí nhất của văn hóa dân tộc để cái túi thơ ấy
ngày một đầy lên.
So với Lượn Cọi, Lượn Slương hay Lượn Nàng ới thì bài Lượn Hai có cấu
trúc khá linh hoạt và không chịu qui định chặt chẽ của yếu tố vần luật trong
các câu thơ. Đây chính là yếu tố thuận lợi để các tác giả dân gian sử dụng chất
liệu ngôn từ vào trong sáng tác của mình một cách linh hoạt và sáng tạo. Bằng
sự sáng tạo tài hoa của mình, người nghệ sĩ ngôn từ dân gian đã để lại cho đời
những lời Lượn Hai trong sáng dễ hiểu mà vẫn lấp lánh chất thơ. Ta hãy đọc
lại đoạn thơ sau:
Nặm pế khiêu lít lít
Nặm pế quảng líu líu
Nặm lây quanh róc rách
Nặm quảng thâng sí sướng tin vạ.
Dịch:
Nước trong xanh biêng biếc
Nước trải rộng mênh mông
Nước chảy quanh róc rách
Nước mênh mông bốn bể chân trời
Đoạn thơ với thể thơ tự do, câu thơ không gò bó. Khung cảnh giếng
tiên được miêu tả bằng hàng loạt từ ngữ chứa sức gợi rất lớn. Các từ khiêu lít
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
lít (xanh biêng biếc), quảng líu líu (rộng mênh mông), róc rách, sí sướng tin
vạ (bốn bể chân trời) với các thanh trắc được dùng liên tiếp nhau khiến câu
thơ mang tính gợi hình cao, khơi trí tưởng tượng của người đọc đến một vùng
nước xanh trong với chiều rộng và chiều sâu được mở ra không giới hạn.
Không dừng ở đấy, câu Lượn còn đem đến cho người nghe hát cảm giác như
đang được đưa tay hứng lấy dòng nước mát lành tuôn ra từ khe đá. Giá trị
thẩm mĩ của ngôn ngữ Tày trong Lượn Hai quả thực khó mà cảm nhận hết
được!
Tiếng Tày cũng mang những đặc điểm của Tiếng Việt về phương thức
cấu tạo từ cũng như các giá trị : giá trị thông báo, giá trị biểu cảm, giá trị thẩm
mỹ... Với khả năng kết hợp linh hoạt các âm vị, hình vị hay các từ với nhau
một cách có nghĩa, tiếng Tày ngày càng phong phú và sinh động hơn. Sự
phong phú và sinh động của ngôn từ trong Lượn Hai chính là sản phẩm của
tâm hồn phong phú trong con người Tày.
Người Tày xây dựng hình tượng thơ của mình bằng ngôn ngữ mang
đậm chất niềm núi, gần gũi với cuộc sống của họ. Họ đem những cái, những
thứ, những vật... không phải đâu xa lạ mà ngay chính bên cạnh họ, luôn gắn
bó bên họ vào trang thơ của mình. Chính vì vậy mà ngôn ngữ Lượn Hai nồng
nàn hương thơm, chan chứa hơi thở của núi rừng, thể hiện nếp cảm, nếp nghĩ
riêng của người Tày.
Bjoóc nẩy lẻ nậu bjoóc vặc viền
Phông bươn nhỉ khiêu đeng rủng chỏi
Bjoóc nẩy màu đeng tha wằn
Bjoóc nẩy khiêu đeng màu nộc công
Bjoóc nẩy khiêu lít gò pất plỏ
Bjoóc nẩy lương đáo tỏa khau phja
Bjoóc nẩy rủng roang mọi tlỉ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
Dịch:
Hoa này là hoa phẳc phiền
Nở tháng giêng sắc màu rực rỡ
Hoa này màu mặt trời đỏ
Hoa này sặc sỡ màu lông công
Hoa này màu xanh cổ vịt
Hoa này vàng rực nơi núi đồi
Hoa này đỏ tươi sắc núi...
Lời dân ca thật đẹp. Cái đẹp được gợi lên bởi những từ ngữ, hình ảnh,
sắc màu được các tác giả dân gian hồn nhiên cho vào câu hát của mình: khiêu
đeng rủng chỏi (xanh, đỏ chói chang, rực rỡ), đeng tha wằn (màu mặt trời
đỏ), khiêu đeng màu nộc công (sặc sỡ màu lông công), khiêu lít gò pất plỏ
(biếc xanh màu cổ vịt), lương đáo (vàng rực), rủng roang (sáng tươi). Đúng
như lời nhà nghiên cứu Vi Hồng nhận xét, với người Tày, màu sắc của hình
tượng bao giờ cũng rực rỡ, tươi rói non trẻ, sức sống trào dâng, luôn giữ
nguyên phẩm chất cốt cách của nó. Điều này cũng bộc lộ được phần nào
phẩm của họ đó là chân chất, mộc mạc, không ưa tô vẽ.
Ngôn ngữ Lượn mộc mạc, giản dị nhưng không ít bài được nhân dân
gọt giũa cầu kỳ. Ta sao không khỏi ngỡ ngàng khi nghe Lượn Hai mà như
đang được ngắm nhìn một chiếc khăn lụa đẹp được dệt bằng những sợi tơ
ngôn từ óng ánh này:
Gằm tiên nữ van tlồng ỏi cáp thương
Gằm tiên nữ đây plòi tlồng nặm mà tlổng
Gằm đây au slửa xỏm mà to
Gằm điếp plải bjóoc mà slủ
Gằm quí au hóm kim mà dửc
Cám ơn mẻ bjóoc au phúc lành mà hẩư trần gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
Dịch:
Lời tiên nữ ngọt ngào như mật mía
Lời tiên nữ tốt lành như cọn đưa nước về đồng
Lời đẹp lấy áo chàm về hứng
Lời hay lấy vải hoa về đựng
Lời quí lấy hòm vàng cất giữ
Cảm ơn Mẹ Hoa ban phúc trần gian!
Ai bảo những người nông dân quanh năm một nắng hai sương kia chỉ
biết đến hạt lúa, củ khoai? Ai bảo họ chỉ biết cái cày, cái cuốc? Tâm hồn và trí
tuệ của họ đã sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật có giá trị rất lớn từ
tiếng nói của chính cha ông họ truyền dạy:
Gằm ất gặn giọng oanh lảnh lót
Gằm nhỉ gặn nặm loảt nưa phja
Du dương gặn mẻ rà vjén lủc.
Dịch:
Tiếng trong như tiếng oanh vàng lảnh lót
Như nước chảy róc rách xuống non
Như tiếng vượn ru con nơi đầu núi.
Lòng người nghe hát như được đưa theo tiếng gọi của thiên nhiên
hoang sơ mà thi vị. Tiếng nhạc rừng cất lên theo giọng oanh lảnh lót, trong
trẻo rồi thả mình chơi vơi theo dòng nước trên non tuôn chảy (nặm loảt nưa
phja) như để tìm đến nơi vượn mẹ ru con (mẻ rà vjén lủc). Ngôn ngữ Tày
được kết lại tạo thành khúc điệu lưu loát mà sâu sắc, dễ hát mà hát nhiều lần
không chán. Điều tạo nên sự hấp dẫn riêng cho thể loại Lượn Hai cũng chính
là ở đây.
Lời của dân ca chính là lời thơ dân gian. Mỗi bài thơ đó đều được rất
nhiều người của nhiều thời đại căn cứ vào sự yêu thích của mình mà mãi giũa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
gia công thêm. Nó có một sức sống rất bền bỉ. Những bài dân ca được lưu
truyền từ đời nọ sang đời kia, mãi mãi sống trong lòng nhân dân vì nó ghi lại
những tình cảm nằm sâu trong đáy lòng của nhân dân, biểu lộ những tình cảm
trong sáng và chân thực nhất của họ. Nhân dân có thể tìm thấy trong dân ca
một niềm an ủi, khuyến khích và vì thế nhân dân yêu tha thiết dân ca, luôn
luôn mài giũa dân ca đến mức độ óng chuốt. Do vậy, dân ca cứ sống mãi
trong lòng người là vậy.
Lượn Hai là bài ca tâm hồn của người lao động Tày. Chất thơ trong
tiếng nói của dân tộc cứ thấm mãi vào câu hát, cho tâm hồn của họ càng thêm
dạt dào. Họ yêu quí tiếng nói dân tộc mình, lựa chọn, sáng tạo ngôn ngữ ấy để
cho tiếng nói càng thêm sáng, thêm trong. Người Tày họ đã cố gắng hoàn
thiện mình mà bắt đầu từ ngôn ngữ.
3.2. Diễn xƣớng những khúc hát lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch
An - Cao Bằng
Diễn xướng là một yếu tố quan trọng của các loại hình nghệ thuật văn
hóa dân gian. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Diễn xướng là trình bày sáng
tác dân gian bằng động tác, lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu” [43, Tr.67]. Như vậy
theo định nghĩa, ta có thể hiểu diễn xướng Lượn Hai là trình bày làn điệu dân
ca ấy bằng những động tác, lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu trong lễ hội Nàng Hai
của người Tày ở Thạch An – Cao Bằng.
3.2.1. Môi trường diễn xướng
Môi trường diễn xướng có thể coi là mảnh đất màu mỡ, cái nôi nuôi
dưỡng và sáng tạo văn học dân gian. Môi trường diễn xướng gồm hai yếu tố,
đó là thời gian diễn xướng và không gian diễn xướng.
3.2.1.1. Thời gian diễn xướng
Hát Lượn là loại hình dân ca đặc trưng của dân tộc Tày. Nó gắn bó trực
tiếp và đi vào muôn mặt của đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Hát Lượn đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
vào giấc ngủ của con trẻ, đi theo chị ra chợ, đi theo mẹ lên nương, đi theo anh
những đêm xuân hát giao duyên tìm bạn. Rồi đến ngày trọng đại của đời
người, nhà trai phải trổ hết tài để đón được nàng dâu về nhà. Khi không may
một người nằm xuống, tiếng Lượn lại một lần nữa cất lên để tiễn đưa hồn
người đã khuất... Và vượt ra khỏi vành nôi, bay theo làn khói lam trên nóc
nhà sàn, men theo vách đá, tỏa xuống nương ngô... tiếng hát Lượn tìm về
thung lũng - nơi tổ chức hội Nàng Hai.
Thường thường, khoảng thời gian có thể coi là thích hợp nhất để tổ
chức hát Lượn là những ngày xuân. “Mùa xuân - mùa núi rừng ngập lá ngập
hoa, con người mở hội hát ca mừng rẫy, mừng đồng, mừng núi non, mừng
người, mừng tình nghĩa... Mùa xuân, mùa của sli, lượn ca hát của người Tày,
Nùng” [20, Tr. 259]. Trong tiết trời mưa xuân rắc phấn lên vạn vật, cây cỏ
cựa mình vươn dậy, lồng ngực đang căng đầy hơi thở của mùa xuân, bà con ở
huyện Thạch An lại mở hội Nàng Hai để hát những bài Lượn Hai chan chứa
ân tình. Trải dài theo nắng xuân vàng ấm áp, bay theo cánh hoa mận hoa mơ
trắng muốt, chao lượn cùng đôi én ương đang tình tứ, câu hát Lượn cứ lan tỏa
khắp núi rừng:
Hoa nở mùa xuân khắp núi đồi
Như gấm trải dài phủ khắp nơi
Bạn hỡi nào đi cùng vãn cảnh
Bướm ong còn hội lọ là người.
Hình như, đất trời đã ưu ái dân tộc Tày một không khí rất xuân để đón
Nàng Hai cầu mùa.
Trước năm 1945, lễ hội Nàng Hai ở Thạch An, tỉnh Cao Bằng được tổ
chức bắt đầu từ ngày tết Đắp Nọi (30/1 âm lịch) đến hết ngày 18/3 âm lịch
(kéo dài 48 ngày). Sau năm 1945, lễ hội được rút gọn lại còn khoảng 12 ngày,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
106
bắt đầu từ trung tuần đến hết tháng 3 Âm lịch, trong đó có hai ngày chính là
17/3 và 18/3 thực hiện nghi lễ đón trăng, cầu trăng và tiễn trăng.
Khoảng thời gian này không chỉ là lúc đất trời đương đẹp nhất, không
khí tết vẫn còn vương vấn trong lòng người, mà hơn nữa đồng bào chưa bận
mùa màng. Ngày xưa, đồng bào chỉ cấy lúa một vụ (từ tháng 4 âm lịch đến
hết tháng 10 âm lịch) nên những tháng đầu năm với họ là “tháng ăn chơi” -
tháng hội hè. Những bận rộn của vụ trước đã qua, vụ mới lại chưa tới vì vậy
mà lòng người thư thái, bản trên làng dưới nô nức đi trẩy hội, hát những bài
Lượn Hai để giãi bày tâm tình.
Đi trẩy hội là một nhu cầu giao lưu tình cảm của đồng bào Tày. Tiếng
ca cứ cất lên thật tự nhiên, giản dị mà lại sâu sắc đến vô cùng:
Thua rườn nộc Họa mi lảnh lót
Tiểng nộc rỏn vọng khóp thua khau
Bjoóc mận bjoóc lì khao lướp lướp
Slửa xỏm noọng slao chài chứ mại
Hẹn pi lăng thâng hội tlẻo mà
Hát sli lượn tẩư hai shíp hả.
Dịch:
Chim họa mi hót đầu nhà
Tiếng ca trong trẻo sao mà say mê
Trắng tinh hoa mận hoa lê
Áo chàm nhuộm tím người về chẳng quên
Hẹn em đến hội lại lên
Để mà hát Lượn những đêm trăng tròn.
và giữa tiết xuân đang trở lại ấy, tiếng hát của lòng người càng thêm nồng ấm
và thiết tha hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
107
3.2.1.2. Không gian diễn xướng
Không gian diễn xướng của khúc hát lễ hội Nàng Hai chính là môi
trường sinh hoạt, nơi tiến hành tổ chức hát Lượn.
Hát Lượn Hai được diễn ra trong không khí linh thiêng của nghi lễ tôn
giáo và trong không khí vui rộn ràng của ngày hội. “Ở đây, không khí hội như
trộn lẫn giữa thực tại và huyền ảo trong mối giao hoà tình cảm giữa người
trần tục và người trên cõi tiên trong tiết trời xuân sáng láng đầy phấn chấn”
[40, Tr. 340].
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, bà con quây quần xung quanh nhà
Nàng Hai để nghe và hát Lượn Hai. Không khí đầy tôn nghiêm nhưng cũng
rất ấm áp ấy khiến tiếng nhạc xóc càng thêm rộn ràng, tiếng đàn tính lại thêm
trong trẻo thánh thót để khúc tụng ca khi trầm khi bổng vang lên trong màn
khói hương tỏa lên bàn tế:
Hạ giới gần pây tlẻo ầm ầm
Nưa bân kẻo khửn háng Tam Quang
Pây mừa mởi Mẻ, mởi Nàng
Mà hội sle khai khao hoa, khao nậu.
Dịch:
Hạ giới người đi lại ầm ầm
Rầm rầm kéo lên chợ Tam Quang
Mời Mẹ lại thêm mời Nàng
Về hội cầu mùa khao hoa khao nụ.
Tiếng Lượn Hai trầm linh cất lên như khiến không khí buổi lễ đón trăng
càng thêm linh thiêng, mang đậm màu sắc tôn giáo. Vì linh thiêng như vậy nên
xung quanh sân khấu Nàng Hai bất kì ai cũng có thể giãi bày tất cả lòng mình,
chỉ cấm kị một điều là không được phép nói đến tình yêu hoa nguyệt, tỏ tình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
108
Có lẽ sôi nổi và ý nghĩa nhất là phần hỏi đáp giữa người trần gian và
Mẹ Trăng thông qua nhân vật trung gian là Nàng Hai. Người trần gian có thể
hỏi Mẹ tất cả mọi việc, bày tỏ tình cảm yêu quí dành cho Mẹ...
Cứ như thế, hội vui kéo dài ngày lại ngày. Cũng trong thời gian đó,
người ta tổ chức xen kẽ các trò chơi như đánh cầu, chọi gà, đánh quay.
Hát Lượn Hai diễn ra mang đặc trưng của “sân khấu nhà sàn” (chữ
dùng của nhà văn Vi Hồng). Chính vì vậy nội dung của nó cũng mang tính
chất xã hội và mọi tình cảm được thể hiện tế nhị với ngôn ngữ khá chau
chuốt. Trong không gian diễn xướng pha trộn giữa hư và thực, người hát hội
như càng cởi mở, tự tin cất lên làn điệu dân ca của quê hương mình. Có
những bài Lượn Hai không phải để hỏi Mẹ Trăng, nói chuyện cùng người cõi
tiên mà có khi là tiếng nói với chính lòng mình. Âm vang của điệu dân ca ấy
được cất lên từ tâm hồn say mê, đọng lại mãi trong lòng người:
Bióoc tlào rủng rương thua bản
Bióoc mận khao lướp thua khau
Tiểng lượn vọng mà tlồng tiểng noọng
Tiểng shi tiểng lượn bấu ái mừa
Dịch:
Hoa đào nở thắm đồi trước
Hoa mận nở trắng đồi sau
Say sưa nghe ai đưa câu lượn
Say sưa nghe hát chẳng muốn về.
Những khúc hát lễ hội Nàng Hai được cất lên trong không khí vừa
trang nghiêm nhưng cũng thật lãng mạn và bay bổng. Tôn nghiêm đấy mà
cũng thật mộng, thật thơ biết mấy. Thiếu nữ Tày không chỉ hát hay mà còn
múa rất dẻo, rất đẹp. Những động tác múa của các Mụ Nàng, Mụ Nọi như
cánh bướm bay lượn giữa ngàn hoa, như nâng cánh cho lời ca tiếng hát bay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
109
thật xa, ngấm thật sâu trong hồn người chơi hội. Để cạn ngày xuân, lòng
người vẫn tiếc:
Ve kêu ong bướm cùng hoa cỏ
Ong bướm náo nức gọi gần xa
Hội vui nam nữ bao tấp nập
Tan rồi ong bướm vẫn tiếc hoa
Lượn Hai cũng như các làn điệu dân ca khác nó chỉ có thể được sống
dậy và sinh sôi khi đặt nó trong môi trường diễn xướng. Môi trường diễn
xướng giống như thứ nước trong gột rửa cho ý câu ca thêm sâu, lời dân ca
thêm sáng. Làn điệu dân ca cầu mùa Lượn Hai có môi trường diễn xướng khá
đặc biệt đó là lễ hội Nàng Hai đầu xuân, do đó nó chỉ có thể toả sáng hết giá
trị của nó khi nó được đặt trong môi trường ấy.
3.2.2. Hình thức diễn xướng
Như trên đã trình bày, hình thức sinh hoạt diễn xướng của Lượn Hai có hai
hình thức cơ bản: hình thức tự lượn và hình thức đối đáp.
Tự lượn là một hình thức diễn xướng tiêu biểu trong Lượn nói chung và
Lượn Hai nói riêng. Tự lượn có thể hiểu là hiểu là người hát tự hát mà không
có đối đáp. Hình thức diễn xướng này ở Lượn Hai biểu hiện khá sinh động: có
tự lượn cá nhân và tự lượn tập thể. Ở trong lễ hội Nàng Hai, những người hát
hội chính là Mẻ Cốc, hai nàng Gường và Sở, cùng với các Mụ Nàng, Mụ Nọi.
Có lúc họ hát riêng, có lúc lại cùng hòa chung tiếng ca để hát khúc ca cầu mùa.
Lượn Nàng Hai có nhiều khúc đoạn, mỗi khúc tương ứng với một nội
dung riêng và do từng người đảm nhiệm. Ở khúc ca Ngóng đợi hồn Hằng
Nga, Mẻ Cốc là người có vị trí cao nhất, đứng đầu đoàn hát cất tiếng gọi hồn
Nàng Hai từ trên trời xuống nhập hồn cho Gường và Sở:
Mọi vè au dú xiên phja
Mọi bióoc hom au dú pác vưởn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
110
Khẩu nẩy khẩu hom van
...
Tao kim cắt lần lìm
Tao ngần cắt lần loỏc
Hai Há dú cốc nụ lẻ mà
Hai há dú cốc hoa lẻ tlẻo
Mà wạ mẻ wạ nàng
Mà wạ nàng Hai Há.
Dịch:
Hương thơm vựơt ngàn đồi
Rau thơm vườn em hái
Mùi thơm gạo mới nấu
...
Dao vàng cắt dây mây
Dao bạc cắt dây rớ
Hai Há ở gốc nụ thì về
Hai Há ở gốc hoa thì lại.
Dù là tiếng hát gọi hồn nhưng thực chất nó có ý nghĩa như một lời thông
báo, lời mời của người trần gửi đến các nàng tiên trên trời. Lời mời đó không
phải ai cũng được phép nói mà phải là người giỏi hát, luôn được nhân dân
kính trọng nói ra nên nó càng trang trọng hơn.
Nếu ai được chứng kiến từ đầu đến cuối những buổi hát Lượn Hai
trong những ngày làng mở hội cầu mùa, sẽ thấy rõ một điều là thường Mẻ
Cốc sẽ đảm nhiệm vai trò là người chủ xướng cho cuộc hát đó. Hơn nữa, nhân
vật này cũng đảm nhiệm việc hát khá nhiều khúc hát gắn với các lễ nghi quan
trọng như: xin phép thổ công, trình lễ vật, xuất hồn - nhập hồn Nàng Hai,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
111
Cẩm thé ... với hình thức là tự lượn. Với giọng ca được tôi luyện, mài giũa
theo năm tháng, giữa khói hương thiêng liêng, trước muôn người dự hội, tiếng
đàn tiếng hát càng lúc càng say, càng khỏe và càng trong trẻo. Khúc hát đi
đường bộ cùng tiếng vó ngựa dồn vang vách núi, lúc đi đường thủy với tiếng
sóng vỗ vang mạn thuyền, khi lại bay lên cao nhìn ngắm cánh đồng, non ngàn
theo đàn chim én... Tiếng đàn, tiếng hát, tiếng nhạc xóc bỗng đánh thức núi
rừng ngàn năm ngủ im lìm, con người thấy mình bỗng lớn dậy giữa đất trời,
giữa mùa xuân, lòng tràn đầy hi vọng ở cuộc sống ngày mai.
Trong sân hát hội, không có ai có thể phủ nhận được vai trò của các
thiếu nữ Tày, đặc biệt là hai cô gái xinh đẹp hóa thân Nàng Hai là Gường
Bóng Nguyệt và Sở Hằng Nga. Hai cô gái là người hát chính và quan trọng
nhất trong lễ hội Nàng Hai. Qua những đêm luyện hát múa miệt mài trong căn
nhà Nàng Hai, đến ngày hội chính, hai cô có thể đủ tự tin, đủ tài năng để thay
mặt tất cả dân bản đứng ra hát những khúc ca cầu mùa cho thần linh trên cao
nghe thấu. Các cô thiếu nữ trẻ lòng, xinh đẹp, hát mời Mẹ Trăng xuống bản
bằng giọng hát trong ngần như tâm hồn của các cô vậy:
Bưởng rại soong Giả mà thâng
Bưởng soa noọng sao chào đón
Hai Há lạy mởi bại Mẻ Nàng
Khóa khoái mà dương gian dự hội
Dịch:
Bên trái hai mụ trở về
Bên phải các con đón lấy
Hai Há lạy tạ các Mẹ Nàng
Mau mau về nhân gian dự hội.
Hầu hết Lượn Hai được hát tập thể theo lối tự lượn. Thường thường trong
cuộc hát Lượn Hai, Mẻ Cốc hát xướng, đoàn người hát hòa theo. Tuy nhiên,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
112
trong đám hội biết hát cũng có thể hòa cùng lời ca ấy. Do vậy mà hát Lượn
Hai mang hình thức của diễn ca tập thể của những người hát chính và những
người đến dự hội. Tiếng hát vang lên như một bản hòa ca. Tinh thần cộng
đồng được biểu hiện rõ nét. Đây chính là một biểu hiện sâu sắc của tính cộng
đồng, tính tập thể của lễ hội cầu mùa.
Đối đáp là một trong những hình thức sinh hoạt đặc trưng nhất của Lượn.
Hiểu một cách đơn giản nhất, đối đáp là một bên đối và một bên đáp trả lại.
Một bên - thường là “khách” - bao giờ cũng ca ngợi hết lời những thứ, những
vật của bên “chủ”. Bên chủ sẽ đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn, lịch sự,
không giám nhận những lời khen của khách. Khi đối - đáp, cả hai bên đều
cùng nhau bồi đắp cho các hình tượng, nội dung... để chúng thêm đa dạng,
phong phú và hoàn chỉnh hơn. Ta hãy lắng tai nghe chàng trai Tày và cô gái
bản bên hát:
Khéc khảu bản tlồng bióoc mùa xuân
Noọng hát gằm shi lượn chào mừng
Chài hỡi!
Ngần dèn dom se lai hất giàu
Shi lượn dom dú đâư shim slẩy
Điếp căn phác quá gằm then
Sle tình chài noọng điếp slương thắm thiết
Dịch:
Khách vào bản như xuân hoa nở
Em xin hát câu lượn chào mừng.
Chàng ơi!
Tiền bạc tích để thì giàu
Lượn then tích để phai màu đi thôi
Tiếng lượn then thì để đầu môi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
113
Cất tiếng cho biết lời người thiết tha!
Cách nói của chàng trai ấy vừa mạnh dạn nhưng cũng khéo léo gửi vào
trong đó những ẩn ý tế nhị. Như hiểu được nhiều hơn điều chàng trai đã nói,
người thiếu nữ cất giọng đáp lời:
Tiếng noọng khửn hanh gằm slương điếp
Tlồng nộc queng quí điếp khau phia
Noọng ơi!
Tiểng đang tính gỏi dải kha
Slim slẩy phông hây trọng tình rà
Cảnh đây gần đây nhằng chứ mại
Gằm shi gằm lượn mại điếp slương
Dịch:
Cất tiếng vọng trong nhà giao cách
Trúc gặp mai hồng hạnh tốt tươi.
Nàng ơi!
Dừng chân bởi tiếng đàn hay
Lòng vui bởi tiếng người hay trọng tình
Khách xa tìm đến người xinh
Câu sli câu lượn cho mình bâng khuâng.
Xét về hình thức, lối hát này không có những nét khác biệt lắm so với
những cuộc hát ví, hát phường vải, phường cấy... của người Kinh.
Hình thức đối đáp của Lượn Hai mang một nét khá riêng biệt so với các
loại Lượn khác. Đối tượng để đối đáp không phải là chủ và khách mà là Nàng
Hai - Mẹ Trăng - người cõi tiên và người trần gian - nhân dân đến dự hội.
Nàng Hai đáng kính như vậy nên với nhân dân Tày, lời nói đưa lên cũng phải
chọn lựa, suy nghĩ thật kỹ để không làm mất đi sự thiêng liêng của Mẹ:
Cảm ơn tiên nự lồng trần gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
114
Cảm tạ Nàng Hai mà dự hội
Tiên nự lồng trần au phúc hẩư
Hằng Nga lồng hội au lộc mà
Dịch:
Cảm ơn tiên nữ xuống trần gian
Cảm tạ Hằng Nga xuống dự hội
Tiên nữ giáng trần như phúc đến
Hằng Nga dự hội tựa lộc theo
Còn Nàng Hai, cũng lựa những lời thật hay và ý nghĩa như muốn nói
lên sự trân trọng những gì mà bà con đã dành cho mình:
Người thế gian bụng khôn như chim khách
Người thế gian lời đẹp tựa chim công
Tiếng nói sáng như đêm trăng rằm
...
Miệng người khôn nói ra hoa ra ngọc.
Hình thức đối đáp này còn thể hiện nét văn hóa trong ứng xử của con
người Tày, xã hội Tày, đó là bao giờ cũng tinh tế, nhẹ nhàng và hòa hợp. Họ
trò chuyện với nhau trong sự chan hòa, yêu quí và trân trọng lẫn nhau. Chính
vì vậy, họ trao gửi cho nhau những nghĩ suy trong lòng bằng lời thơ thật đẹp
để họ đẹp hơn, văn hóa hơn trong mắt nhau. Đây cũng là một bài học vô giá
trong cuộc hành trình hoàn thiện mình của con người.
Người Tày không chỉ biết yêu lao động mà họ còn rất yêu ca hát. Tiếng
lòng họ được cất lên thành tiếng thơ tiếng nhạc. Nên họ đến hội để được nghe
người hát và hơn nữa để chính con tim mình cất lên tiếng hát. Trong hội, họ
nói với nhau bằng tiếng Lượn. Câu hát này được đáp lại bằng câu hát kia,
đường Lượn trước được nối tiếp bằng đường đường Lượn sau để rồi chợt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
115
nhận ra đêm hội trôi nhanh quá mà chưa nói hết được tấm lòng mình, đành
hẹn sẽ hát nữa trong đêm trăng khác.
So với nhiều lễ hội dân gian khác trên đất nước Việt Nam, lễ hội Nàng
Hai của người Tày ở Cao Bằng là lễ hội cầu mùa có thời gian khá dài (Trước
đây, hội này ở Thạch An kéo dài đến gần 60 ngày). Hội kéo dài mấy, vui mấy
nhưng rồi có lúc phải chia tay. Chia tay, sao không khỏi lưu luyến, nhớ
thương. Tan hội Hai, người với người giã bạn ra về, tiếng hát lúc chia li đâu
giấu nổi bịn rịn, vấn vương:
Vui mửng hội Hai khóp tlổng nà
Gằm shi lượn tẩư vạ hát ca
Hội tan gần mừa nhằng chứ mại
Tình chài vạ noọng pặng mùa xuân.
Dịch:
Hội Hai náo nức tưng bừng
Tiếng ca tiếng lượn lưng chừng đầu non
Người đi tiếng hát vẫn còn
Ngân nga để lại cho tròn đêm trăng.
Cái náo nức của ngày hội Nàng Hai hay cái náo nức của lòng người?
Âm thanh rộn ràng ấy chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình thổ lộ cõi lòng mình
mà thôi. Chẳng thế mà càng về những câu sau, nhịp thơ càng lắng sâu và cái
mênh mang của cõi lòng người như trải dài bay xa theo tiếng h ngát ngân nga.
Hội xuân đã cạn ngày rồi nhưng sao lúc này bao cảm xúc lại trào dâng
như dòng suối. Lời trao lời, lòng gửi lòng và tiếng hát lại đưa theo chân
người:
Hội tan tiểng lượn piạc kha
Phác khảu gằm shi cúa tình rà
Ước hẩư hội lăng đảy rộp tlẻo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
116
Phác gằm slương điếp nắc na.
Dịch:
Hội tan hát khúc chia tay
Gửi vào câu hát sau này gặp nhau
Mong sao ngày tháng qua mau
Để cho đến hội trao câu ân tình
Cuộc chia tay giữa người với người cảm động như vậy rồi, còn người
trần gian và thần tiên chia tay thì sao?
Trong bao nhiêu ngày hội xuân, cả người trần gian và người chốn tiên
cảnh đã sống bên nhau chan hoà, cùng nhau hát cho trọn những ngày xuân vui
ấy. Tiếng hát của họ không chỉ làm nên ngày hội mà còn cho họ thấu hiểu sâu
sắc, cảm thông trước hoàn cảnh của nhau, trở thanh bạn tri kỷ. Nay đến lúc
chia tay, sao không khỏi bùi ngùi. Bài hát Lượn lúc này nặng tình, nặng nghĩa
làm sao. Người ở lại hát mà không giấu nổi nỗi xúc động đang dâng lên trong
lòng mình:
Slương điếp căn tlồng phia slung pế lẩc
Dá đảy tlồng có mạy tó lồm
Dá đảy tlồng co nhả tó mươi
Hai shíp hả chài chứ điếp slương
Dịch:
Tình thương đôi ta như non cao núi cả
Chớ như chiếc lá gai nghiêng ngả lung lay
Chớ như bông cỏ tranh bay theo chiều gió
Trăng về trời lòng ta xiết nỗi thương.
Nàng Hai - Mẹ Trăng cũng nhắn nhủ lại người trần:
Vằn bứa noọng ẻo co mạy khôm
Vằn vui noọng ẻo co mạy rồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
117
Sle chài đảy sẻ chia đuổi noọng
Dú trần gian lúc bứa nhẳp slửa
Nưa bân Hai bứa nắm gần sẻ chia.
Dịch:
Nhắn bạn ngày buồn hãy bẻ cành cây để trên phiến đá,
Ngày vui hãy bẻ những lá để bên sườn non
Để trăng trên thượng giới được nhìn, được thấy.
Người trần gian buồn còn biết thêu thùa may vá
Trăng buồn, phải suốt ngày ở goá trên tiên...
Hơn ai hết Mẹ hiểu được cuộc chia tay lần này đến cuộc gặp gỡ lần sau
là một khoảng thời gian không ngắn, hiểu được nỗi lòng thương nhớ của nhân
gian khi phải xa mình và càng hiểu mối tình của mình với trần gian cũng sâu
nặng quá nhưng đã đến lúc mẹ phải trở về trời. Người ân cần dặn dò Gường,
Sở, hẹn năm sau sẽ quay trở lại:
Bjoóc vảt phông gặn ăn chẻn
Thuổn pi lăng bươn hẹn vằn xuân
Bjoóc phón phông hom van bươn nhỉ
Rọng pi lăng lắt lí tlẻo mà
Mởi mẻ nàng mà dương gian dự hội
Rặp Hàng Nga bóng Nguyệt cầu mùa
Dịch:
Hoa vủc nở bằng cái chén
Tròn năm sau tới kì hẹn tháng xuân
Hoa vén nở bằng cái gương
Tròn năm sau tới tháng giêng tết mới
Các Mẹ Nàng, cả gái sắc trai tài mở hội
Sẽ đón Hằng Nga, Bóng Nguyệt ở trần thế lên chơi xuân…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
118
Trong cảnh biệt li, tiếng nói giã từ của người trần vỡ òa trong nước mắt:
Rừ chắc đảy tiểng khua tiểng hảy
Lủc piảc Mẻ, Hằng Nga nắm tlẻo mà.
Dịch:
Ai biết được tiếng cười như tiếng khóc mà thôi
Con biệt Mẹ, Hằng Nga không trở lại.
Tiếng hát đáp lại với lời thơ dài như muốn kéo dài hơn chút nữa
khoảnh khắc chia tay ngắn ngủi. Giọng ca trầm lắng và da diết như thấm sâu
vào tận ngàn thớ đá trên non cao, lan xa đến trong rừng cây thăm thẳm, và
nghẹn ngào, nức nở trong lòng người.
Trong dân ca quan họ, các liền anh liền chị hát khúc ca giã bạn trong
cảnh trên bến dưới thuyền, giọng ca rền, ấm, luyến láy như níu giữ bước chân
người đi đã để lại ấn tượng mạnh trong lòng người. Đến lễ hội Nàng Hai,
tiếng hát cất lên trong buổi chiều mùa xuân nơi núi rừng, bên dòng suối nhỏ,
giọng điệu không vút cao mà thâm trầm như thấm thía vào tận sâu thẳm lòng
người, kiểu đối đáp lượt lời giữa người ở, người về càng tăng thêm lưu luyến,
khiến người về (Nàng Trăng) bao lần hát lên câu giã biệt mà chưa thể rời xa.
Câu hát cất lên, câu nọ nối tiếp câu kia, tiếng ngân chưa dứt lời ca sau lại tiếp.
Đến đây, hình thức lượn đối - đáp dường như đã khẳng định được vị thế của
nó trong trong vai trò là một nghệ thuật diễn xướng với sức gợi rất lớn.
Trong phút chia tay, ai nấy càng nhận ra rằng giữa họ đã thân thiết, đã
thành bạn tri kỉ từ lúc nào rồi. Quả là không sai khi một nhà nghiên cứu đã
nhận xét: cuộc chia tay trong hội Nàng Hai là một cuộc chia tay vĩ đại giữa
con người và vũ trụ. Con người và thiên nhiên dường như đã hóa thân là một.
Điều làm nên cái chung giữa họ chính là cùng trân trọng nghĩa tình. Dù có
cách xa nhưng với họ, tình cảm dành cho nhau không bao giờ cạn, vẫn nồng
nàn và cháy bỏng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
119
Slương điếp tlồng đét bươn shí
Chứ lai tlồng bươn hả đét pâm
Dịch:
Thương nhớ như nắng hạ tháng tư
Chói chang như tháng năm nóng bỏng.
Hội tan, người ở người về. Chỉ còn đọng lại trong chiều mùa xuân tiếng
ca đưa theo những chiếc thuyền gỗ vông tiễn đưa Nàng Hai về trời, đưa theo
dòng suối mát, đưa theo gió theo mây để hẹn năm sau gặp lại nhau.
3.2.3. Nhân vật diễn xướng
Qua nghiên cứu, khảo sát những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người
Tày ở Thạch An, Cao Bằng, dễ dàng nhận thấy nhân vật diễn xướng và người
diễn xướng đồng nhất làm một.
Người diễn xướng các bài hát Lượn Nàng Hai không chỉ có Mẻ Cốc,
hai nàng tiên Gường và Sở, các Mụ Nàng, Mụ Nọi mà còn là những người
đến dự hội.
Như đã trình bày ở phần trên, những người được chọn vào đội hát
chính của lễ hội, trừ Mẻ Cốc là người đứng tuổi ra, còn lại đều là những thiếu
nữ thanh tân, múa hay, hát giỏi. Trong số những người đó, Gường và Sở đảm
nhiệm vai trò là người hát chính.Vì giữ vai trò là người đại diện tiếng nói cho
cả người trần và người cõi tiên, nên các nàng không chỉ xinh đẹp mà quan
trọng hơn là phải nắm vững những bài Lượn gốc thông thạo vần luật Lượn Hai,
đặc biệt có khả năng ứng tác linh hoạt. Chính vì vậy, trước ngày bản làng mở
hội chính, các cô gái được Mẻ Cốc tận tình dạy hát, múa cho thật thuần thục.
Trong những ngày hội chính, thường thường sân hát là nơi dành cho
các cô gái trẻ còn Mẻ Cốc sẽ lui về hậu trường để quan sát và nếu các cô
chẳng may quên lời hay chưa ứng đối ngay được thì nhân vật này sẽ hát trợ
giúp cho họ. Lúc này, Mẻ Cốc sẽ là người hát xướng lên câu đầu tiên của
khúc ca đó, mọi người sẽ bắt nhịp hoà theo. Như vậy, không thể phủ nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
120
được vai trò của Mẻ Cốc trong hát Lượn Hai. Họ là người dẫn dắt, tổ chức các
bước của quá trình diễn xướng, đồng thời là những nghệ nhân diễn xướng
quan trọng trong việc hát Lượn Hai. Trong không gian diễn xướng của lễ hội,
tiếng hát của riêng Mẻ Cốc cất lên không hề lạc lõng, không hề bị chìm đi
trước cái mênh mông của núi rừng. Giọng hát chan chứa trong đó sự từng trải
của cuộc đời, tha thiết trong đó cái mê say của ngọn lửa tình yêu văn nghệ
chưa bao giờ tắt ấy vang lên như kéo chân người dự hội mải mê tìm về.
Với hình thức diễn xướng tập thể, nên nhiều bài ca cầu mùa được nhiều
người hát lên. Người diễn xướng không chỉ là các diễn viên trên sân khấu mà
còn là bà con đến dự hội cũng tham gia hát.
Như vậy, nhân vật diễn xướng Lượn Hai trong lễ hội Nàng Hai của
người Tày ở Thạch An - Cao Bằng không giới hạn ở số lượng người. Ngoài
những nhân vật chính được tuyển chọn, luyện tập ngay từ đầu, người đến chơi
hội cũng có thể góp lời ca tiếng hát của mình vào hội xuân. Chắc chắn, tiếng
ca của họ góp phần không nhỏ vào kho dân ca Lượn Hai, giúp nó ngày càng
đầy lên. Hơn nữa, đây cũng chính là một nét đẹp thể hiện sự đoàn kết, yêu
chuộng văn nghệ của người Tày ở vùng đất này.
3.2.4. Cử chỉ, động tác khi diễn xướng
Khi diễn xướng Lượn Hai trong lễ hội Nàng Hai ở Thạch An - Cao
Bằng, người diễn xướng cũng có sử dụng nhiều cử chỉ, động tác để thể cụ thể
hoá nội dung lời hát cũng như để thể hiện tình cảm, thái độ của mình. Có
động tác cũng đơn giản, không mang tính nghệ thuật nhưng có những động
tác lại thể hiện sự độc đáo trong nghệ thuật múa.
Lượn Hai có nhiều khúc ca và mỗi khúc ca lại có nội dung riêng, do
vậy mà đòi hỏi người diễn xướng phải lựa chọn động tác sao cho phù hợp.
Thường là trong những khúc hát tụng ca để thực hiện nghi lễ như: vái lạy Thổ
Công, nghi thức xuất nhập hồn, cầu xin các Mẹ Trăng... người hát thường
chắp tay cung kính, giơ tay lên cao thấp theo âm điệu của lời hát... Ở phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
121
này, động tác của người hát không chỉ thể hiện thái độ lịch sự, trân trọng với
thần linh mà đồng thời còn phải thể hiện được tư tưởng của lời hát.
Lúc nào trên sân khấu Gường và Sở cũng là tâm điểm thu hút người
xem hội. Hai cô vừa hát, vừa múa trên sân khấu. Khi hát, họ thường dùng
quạt hay tấm khăn che mặt. Gương mặt đẹp như hoa như ngọc của hai nàng
tiên lấp ló sau tấm khăn lụa, lời nói trôi chảy, thánh thót nên khiến người xem
hội vừa tò mò, vừa thán phục.
Phải khẳng định một trong những điều làm nên giá trị thẩm mĩ của lễ
hội Nàng Hai là những điệu múa mà các Mụ Nàng, Mụ Nọi trình diễn trước
sân khấu. Hai tốp múa: bên này thắt khăn vàng, bên kia thắt khăn đỏ với
nhiều điệu múa khiến lễ hội càng thêm hấp dẫn. Các động tác múa ở đây
không phức tạp lắm và gần giống với điệu khoả quan trong lễ cấp sắc của
Then. Với cách thức thay đổi tư thế cầm quạt của người múa như lúc để bên
phải, bên trái, khi mở nửa quạt hay mở hết quạt... người diễn đã làm sinh
động và phong phú hơn cho nghệ thuật múa trong hát Lượn cầu mùa.
Trong đoàn người chính tham gia trình diễn trong lễ hội Nàng Hai, có
hai thanh niên đóng vai Củ Tiễn. Hai chàng trai trẻ này có nhiệm vụ chính là
hộ giá đoàn người trần lên cõi tiên đón Mẹ Trăng. Tuy vậy, với cành trúc
tượng trưng cho binh khí của đội hộ vệ, Củ Tiễn cũng có thể diễn những trò
hề như kéo áo các chị, các cô trong đám hội để gây cười cho người xem.
Nói chung, việc sử dụng các cử chỉ, động tác trong khi diễn xướng
Lượn Hai góp phần không nhỏ vào việc truyền tải nội dung của bài dân ca
cũng như thể hiện thái độ, tình cảm, tài năng của người diễn xướng.
Cùng với tiếng ca, ngoài điệu múa còn là âm nhạc. Tiếng đàn tính tẩu
vang vang, tiếng nhạc xóc rộn ràng nâng tiếng hát lên cao, khiến lời hát càng
thêm có hồn. Vũ đạo và âm nhạc được các nghệ nhân dân gian đưa vào diễn
xướng Lượn Hai có tính nghệ thuật cao. Mỗi loại hình đều có một sức mạnh
riêng do vậy mà có lúc cả dân ca, dân vũ, dân nhạc được những người nghệ sĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
122
dân gian đó kết hợp với nhau, có khi lại để chúng đứng độc lập để hát, nhạc,
múa tự thể hiện sự hấp dẫn riêng của mình. Chẳng thế mà có lúc tiếng đàn
tính ngân vang dồn theo bước chân ngựa của đoàn người trần lên cung trăng
bỗng thưa dần và dứt hẳn, những cánh tay cầm quạt đưa lên đưa xuống theo
nhịp chèo thuyền của các sluông đang vượt sông Ngân Hán thưa đi để cho
tiếng Lượn Hai vút cất lên. Có thể coi Lượn Hai là loại hình dân ca mang tính
tổng hợp bởi trong nó chứa đựng các yếu tố của dân ca, dân vũ, dân nhac.
Trong đó, lời dân ca là yếu tố chính, cơ bản nhất, còn âm nhạc và các cử chỉ,
động tác là yếu tố bổ trợ như chất gia vị cho món ăn thêm hấp dẫn.
Cuộc sống ngày nay có nhiều đổi thay nhưng khúc hát Lượn Hai vẫn
tồn tại trong đời sống tinh thần của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Tuy là
loại hình dân ca gắn liền với tín ngưỡng song nó vẫn có sức hút lạ kì với
nhiều người bởi ngôn ngữ thơ phong phú, hình ảnh sinh động và đặc biệt
được thể hiện thông qua nghệ thuật diễn xướng hấp dẫn. Qua diễn xướng, các
giá trị nội dung tư tưởng cũng như thi pháp loại hình được thể hiện một cách
rõ nét nhất. Đồng thời, qua đó chúng ta cũng thấy được nét đẹp riêng trong
nghệ thuật hát Lượn Hai và trong các lĩnh vực nghệ thuật khác của người Tày
ở Thạch An – Cao Bằng.
Do vậy, diễn xướng chính là một yếu tố vô cùng quan trọng không thể
bỏ qua được khi tìm hiểu Lượn Hai nói riêng và văn học dân gian nói chung.
Tiểu kết:
Từ việc tìm hiểu về đặc điểm thi pháp của những khúc hát lễ hội Nàng
Hai qua các khía cạnh như ngôn ngữ, diễn xướng, chúng ta nhận thấy các
nghệ nhân dân gian đã vận dụng linh hoạt và sáng tạo một số nghệ thuật tiêu
biểu để khắc hoạ nội dung, ý nghĩa của lời hát Lượn Hai, qua đó góp phần tạo
nên sự đặc sắc và phong phú cho nghệ thuật biểu hiện của dân ca nói riêng và
văn học dân gian nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
123
KẾT LUẬN
Đến với bản làng người Tày ở Thạch An vào những ngày mùa xuân
đang trở lại, bằng tiếng hát Lượn Hai thâm trầm, nồng nàn, ta lại được nghe
kể về chuyện làm nương làm rẫy xa xưa, chuyện đoàn người băng qua núi
rừng, lênh đênh trên biển để về trời gặp mẹ Hằng Nga, chuyện tắm hoa tắm
nụ cho lễ vật thêm thơm tho và cả chuyện hai nàng Gường, Sở như đóa hoa
phong lan rừng mang tên vũ nữ đang thăng hoa trong vũ khúc cầu mùa... Tất
cả những câu chuyện vừa hư vừa thực ấy được dệt lên bởi tâm hồn rất nghệ sĩ
của các nghệ nhân dân gian. Có thể nói, những khúc hát dân ca trong ngày hội
Nàng Hai đã cho đời thêm sắc hồng, khiến cho lòng người thêm mến yêu hơn
mảnh đất quê hương.
Về với lễ hội Nàng Hai, những khúc hát “luôn đưa người ta sống
trong không khí lãng mạn, bay bổng, ước mơ, hi vọng” [1, Tr. 12], vì thế mà
hội Hai được nhiều người coi trọng và yêu thích. Hội cứ trôi đi như một
dòng sông đang chảy. Chất lắng đọng phù sa chính là những khúc hát dân ca
còn ở lại với con người.
1. Lượn Hai là một nét văn hóa truyền thống, tiêu biểu và rất đặc trưng
của dân tộc Tày ở Cao Bằng. Ra đời, tồn tại và phát triển gắn với quá trình lao
động sản xuất, loại hình dân ca này đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Tày.
Dân ca là một loại hình để hát. Nó không phải là thứ sáng tác để đọc và
nghiền ngẫm. Nó sống một cách sinh động và chỉ bộc lộ hết cái hay, cái đẹp
trên sân khấu nhà sàn, trong môi trường diễn xướng, trong ngày hội xuân, ở
những cuộc trò chuyện của con người... Chính môi trường ấy càng hun đúc
nên tâm hồn nghệ sĩ say mê của các nghệ nhân dân gian và khi hồn thơ được
cất lên thành lời, môi trường đó lại khiến những lời dân ca ấy như viên ngọc
càng được mài sáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
124
Từ ngày ra đời cho đến hôm nay, khúc hát Lượn Hai trong lễ hội Nàng
Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng vẫn mải miết chảy theo dòng thời
gian đầy biến động, vẫn âm thầm đi vào đời sống của nhân dân như một mạch
nước ngầm lặng lẽ mà bền bỉ. Phải khẳng định rằng, những khúc hát dân ca
vừa mang âm hưởng của nghi lễ tôn giáo vừa mang hơi thở rất đời thường ấy
là sản phẩm sáng tạo lâu dài của nhân dân Tày ở Thạch An nói riêng và ở Cao
Bằng nói chung.
2. Được giãi bày tâm tình, được nói lên những ước mơ và đạt được nó
luôn là khát vọng đẹp trong bất kì con người ở thời đại nào. Khát vọng ấy
được gửi gắm một cách phong phú, sinh động trong thơ ca.
Với người dân Tày, Lượn Hai là một loại hình dân ca gắn liền với nghi
lễ cầu mùa, hát cùng Mẹ Trăng nên nó càng được nhân dân không những yêu
thích, trân trọng mà còn rất ngưỡng mộ sùng tín. Có thể thấy, trong những
bài ca này, ở chiều sâu của nó vẫn là sự ngân lên những giai điệu của một
tinh thần cần cù, chịu khó, của một tâm hồn bay bổng lãng mạn với ước mơ
về cuộc sống sung túc, đủ đầy và hạnh phúc.
Là một bộ phận của văn học dân gian, thể loại dân ca này đã phản ánh
một cách đầy đủ cuộc sống của những người sáng tạo ra nó theo một cách
riêng của mình. Cuộc sống sinh hoạt đã tràn vào dân ca, để qua đó, hiện lên
thật sinh động đời sống nội tâm của nhân dân Tày. Lời ca không chỉ là tiếng
hát say mê của những tâm hồn bay bổng với trí tưởng tượng phong phú mà
nó còn là tiếng ca của tình nhân ái. Lượn Hai như một khúc thánh ca trong
trẻo khiến những tâm hồn được gột rửa, để nhắc nhở con người cho dù cuộc
sống còn bao bộn bề nhưng hãy có lúc để cho lòng mình lắng lại, để cảm
nhận cuộc sống, chia xẻ với đồng loại, để lòng người sẽ biết mến yêu và trân
trọng thiên nhiên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
125
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Cao Bằng - Triệu Thị Mai đã nói:
“Dù cuộc sống có nhiều biến thiên, khúc hát Lượn Hai trong lễ hội Nàng
Hai như lớp nhũ thạch ẩn sâu dưới lớp trầm tích của lịch sử văn hóa dân
gian. Sau bao nhiêu năm tháng, nó vẫn tỏa sáng với sức hấp dẫn của một
bức họa tuyệt bích mà tạo hóa trao tặng”. Chính giá trị nhân văn đã như thứ
ánh sáng diệu kì phản chiếu lên lớp nhũ thạch long lanh trên bức họa mang
tên Lượn Hai ấy.
3. Dưới hình thức truyền miệng, Lượn Hai đã được nhiều người, nhiều
thế hệ gọt rũa, nhưng nó vẫn giữ được chủ đề tư tưởng và tính chất mộc mạc,
không bao giờ cầu kỳ. Hình thức của nó thanh thoát, không gò ép, giản dị mà
tươi tắn. Nhiều khi, nó có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng,
chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Lượn Hai đã sử dụng rất
hiệu quả nghệ thuật so sánh, nhân cách hoá, điệp ngữ... để làm nổi bật lên
hình tượng thơ, đem đến cho loại dân ca này sự sinh động, phong phú trong
cách xây dựng hình tượng. Trên bước phát triển của nó, chúng ta có những bài
dân ca mà nhạc điệu rất phong phú, chữ dùng rất tế nhị, biểu hiện rất sâu sắc
những tư tưởng, những tình cảm của con người. Loại dân ca này đã lợi dụng rất
đúng chỗ những âm thanh, nhạc điệu của tiếng Tày để những dòng cảm xúc,
tâm trạng của con người trong ngày hội xuân ngân lên với những âm thanh trữ
tình trong trẻo và êm dịu. Cùng với nghệ thuật diễn xướng độc đáo, Lượn Hai
trở thành một loại hình nghệ thuật dân gian hấp dẫn.
4. Cũng như lượn Slương và Lượn Cọi, Lượn Hai là làn điệu dân ca,
phản ánh tinh tế, sinh động và trung thực tâm tư tình cảm của người dân lao
động Tày. Tuy nhiên, theo dòng chảy của thời gian, những loại hình dân ca
nói chung và Lượn Hai nói riêng đã bị mai một đi nhiều. Ngày nay, khi cuộc
sống của người Tày đã thay đổi, đời sống tinh thần càng đa dạng và được
nâng cao hơn thì làn điệu dân ca trên không còn được người ta nhắc đến nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
126
nữa. Qua quá trình khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy, hiện nay ở Thạch An
hay một số nơi khác tập trung đa số đồng bào Tày sinh sống thì nhân dân hầu
như không quan tâm và không mấy hiểu biết về Lượn Hai. Còn lại chăng chỉ
là số ít những người cao tuổi hay những người công tác trong lĩnh vực văn
hoá, văn học dân gian thì còn nhớ, còn biết và còn yêu thích làn điệu dân ca
này. Những khúc hát trong lễ hội Nàng Hai với đa số người dân hay với thế
hệ thanh niên trẻ hiện nay thì chỉ còn là một nét đẹp văn hóa đã thuộc về quá
khứ mà thôi.
Trước thực tế đó, chúng tôi càng nhận thấy việc nghiên cứu, sưu tầm,
bảo tồn loại hình văn hóa dân gian này là rất quan trọng và cần thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
127
TƢ LIỆU THAM KHẢO
1. Triều Ân (1997), Lễ hội Hằng Nga, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
3. Triều Ân (2008),Văn học Hán Nôm dân tộc Tày, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
4. Triều Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển thành ngữ - tục ngữ dân tộc Tày,
Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội .
5. Nguyễn Duy Bắc (1993), Lễ hội hát mời trăng, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, Hà Nội
6. Phương Bằng (1990), Đôi nét về Hội Lùng Tùng và việc khôi phục nó, Tạp
chí Dân tộc học, Số 1, Hà Nội, Tr 62 – 64.
7. Dương Kim Bội (1977), Hội Lồng Tồng (Dân tộc Tày ở Bắc Thái), Tạp chí
Dân tộc học, Số 1, Hà Nội, Tr 112 – 114.
8. Hoàng Choóng (1991), Hội Lồng tồng ở Văn Lãng, Tạp chí Dân tộc học,
Số 2, Hà Nội, Tr 66 – 67.
9. Lợi Chung (1984), Tiếng hát đêm xuân của người Tày, Tạp chí Văn hoá dân gian.
10. Chu Xuân Diên (1981), Về việc nghiên cứu tác phẩm văn học dân gian,
Tạp chí văn học, Số 5, Hà Nội.
11. Hoàng Phương Dung (2010), Tài liệu sưu tầm chưa xuất bản.
12. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Hải Hà (1996), Trẩy hội Lồng Tồng, Tạp chí Việt Nam và Đông
Nam Á ngày nay, Số 23, Hà Nội, Tr 40 .
14. Thuận Hải (2006), Bản sắc văn hóa lễ hội, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Trần Hoàng (1995), Ngày xuân đi hội Lồng Tồng, Cửa Việt, Số 8, Quảng Trị, Tr 84.
17. Nguyễn Huy Hồng (2001), Truyền thống sân khấu các dân tộc ít người
Việt Nam, Nxb Sân khấu.
18. Vi Hồng (2001), Thì thầm dân ca nghi lễ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
128
19. Vi Hồng (1976), Vài suy nghĩ về hát quan lang, lượn, phong slư, Tạp chí
văn học, Số 3.
20. Vi Hồng (1979), Sli, Lượn dân ca trữ tình Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
21. Vi Hồng (1985), Một vài quan niệm vũ trụ quan, nhân sinh quan người
Tày cổ qua một số truyện cổ của họ, Tạp chí văn học dân gian các dân tộc
miền núi.
22. Nguyễn Chí Huyên (2002), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới
phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
23. Nguyễn Xuân Kính (1995), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Đinh Trọng Lạc (1995), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
25. Đinh Trọng Lạc (2000), 99 Phương tiện và Biện pháp tu từ tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Thu Linh (1989), Hội Lồng Tồng, Văn hoá Việt Nam tổng hợp 1989 -
1995, Tr 361 - 362.
27. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian tập 1, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
28. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu
vực phía Bắc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
29. Lê Hồng Lý (1998), Hội Lồng Tồng ở xã Yên Khánh Hạ, Lào Cai, Tạp
chí Văn hoá dân gian, Số 2, Hà Nội, Tr 27 - 33.
30. Hoàng Nam (2005), Một số giải đáp, quản lí lễ hội dân gian, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
31. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
32. Hoàng Thị Quỳnh Nha (2003), Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng Cao
Bằng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
129
33. Nhiều tác giả (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam , Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam - Viện Dân tộc học, Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (1993), Lễ hội cầu mùa của các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
35. Nhiều tác giả (1993),Văn hoá dân gian Cao Bằng, Kỷ yếu hội thảo, hội
Văn nghệ Cao Bằng.
36. Nhiều tác giả (1996), Đạo thờ mẫu ở Việt Nam , Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (2006), Hỏi đáp về cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
38. Hoàng Văn Páo (2009), Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc tày ở Lạng
Sơn,Viện Dân tộc học, Hà Nội.
39. Lục Văn Pảo (1983), Hội Lồng Tồng, Báo cáo tại Hội nghị truyền thống
và hiện đại năm 1983, Tr 11.
40. Thạch Phương - Lê Trung Vũ (1995), 60 Lễ hội truyền thống Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Nông Hải Pín (2000), Địa chí Cao Bằng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Lê Chí Quế (1976), Tạp chí Văn học.
43. Hoàng Quyết, Triều Ân (1996), Từ điển văn hoá cổ truyền dân tộc Tày,
Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
44. Trần Hữu Sơn (1993), Đôi điều về hội xuống đồng cổ truyền của người
Tày, Văn nghệ Lào Cai, Số 1, Lào Cai, Tr 59 - 63.
45. Trần Đình Sử (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Nguyễn Ngọc Thanh (2005), Đặc trưng lễ hội truyền thống của các dân
tộc Tày, Nùng ở Việt Bắc, Tạp chí Dân tộc học, Số 4, Hà Nội, Tr 3 – 8.
47. Hà Đình Thành (2002), Then của người Tày, Nùng với tín ngưỡng tôn giáo
dân gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
130
48. Trương Thìn (chủ biên), (1990), Hội hè Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.
49. Nguyễn Nam Tiến (1976), Về lượn của người Tày, Tạp chí Dân tộc học, Số 1.
50. Nguyễn Đức Thụ (1994), Lễ hội " Nàng Trăng " một sinh hoạt Văn hoá
dân gian đặc sắc của dân tộc Tày, Tạp chí văn hoá dân gian, Số 2.
51. Hà Văn Thư (1984), Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người
Tày, Nùng, Tạp chí Văn hoá dân gian.
52. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
53. Hoàng Tuấn (2000), Âm nhạc Tày, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
54. Nông Phúc Tước (1999), Một vài nhận xét về thi pháp ca từ trong dân ca
Tày, Tạp chí văn hóa dân gian, Số 3.
55. Lê Trung Vũ (2001), Lễ hội Lồng Tồng của người Tày, Tạp chí Dân tộc
và Thời đại, Số 34, Hà Nội, Tr 14 – 16.
56. Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ (1976), Mùa xuân và
phong tục Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
57. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Yên (1998), Tìm hiểu yêu tố tín ngưỡng trong lễ hội của
người Tày, Nùng, Tạp chí Văn hoá dân gian.
59. Nguyễn Thị Yên (2001), Thờ mẫu trong tín ngưỡng của người Tày, Nùng,
Tạp chí Văn hoá dân gian, Số 5.
60. Nguyễn Thị Yên (2003), Lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Cao Bằng,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
131
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI Ở
THẠCH AN – CAO BẰNG
Bà Nông Thị Loan (54 tuổi) quê gốc ở Thị Ngân, nay lập nghiệp ở xã
Đức Xuân, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Thời trẻ, bà là cây văn nghệ của
làng, của xã. Hiện nay đã làm bà nội, bà ngoại nhưng chất văn nghệ trong bà
vẫn còn sôi nổi và nhiệt thành lắm. Bà bảo chỗ bà ở trước đây và bây giờ
không có hội Nàng Hai, muốn nghe Lượn Hai phải sang bản khác như Vân
Trình, Trọng Con, Kim Đồng. Hồi nhỏ bà hay theo mẹ đi hội. Túm vạt áo mẹ
chen vào những nhóm hát lượn, dù chưa hiểu mấy nhưng cảm thấy rất thích.
Lớn lên cứ mỗi dịp bản khác mở hội Nàng Hai bà lại theo cùng các chị, các
bạn đến vui hội. Bây giờ lớp trẻ không biết và không thích hát Lượn nữa
nhưng lớp người như bà vẫn rất thích. Bà thuộc khá nhiều bài hát dân ca,
thậm chí còn biết làm Lượn Hai nữa. Mỗi dịp hội diễn văn nghệ của bản, của
huyện hay của tỉnh, bà đều đem theo tiếng hát dân ca của quê mình tới tham
gia. Bà bảo chừng nào còn hát được thì bà vẫn hát bởi hát Lượn đã lớn theo
bà từ thuở còn nằm nôi.
Nghệ nhân Nông Văn Lẩy (77 tuổi) ở bản Chu Lăng, xã Kim Đồng,
huyện Thạch An làm then từ năm 61 tuổi. Ông là Then nối dõi. Cha của ông
cũng là một thầy Tào giỏi và có tiếng trong làng. Từ thời còn thanh niên, ông
đã theo cha mình đến làm lễ trong các đám ma, nhà mới, lễ đầy tháng và cả
những lễ hội. Chính vì vậy mà ông nắm bắt và hiểu biết rất sâu sắc và yêu
nghề Then. Khi được chúng tôi hỏi về nghề Then, ông không giấu nổi niềm
vui và say sưa kể cho chúng tôi về Then, về những khúc hát Lượn, về lễ hội
Nàng Hai. Với cây đàn tính tẩu trên tay cùng giọng hát trầm ấm của mình,
ông đã tham gia không biết bao nhiêu hội Nàng Hai. Năm 2009, ông được
mời làm người chủ trì trong lễ hội Nàng Hai. Những nghệ nhân giỏi như ông
ngày càng ít nên việc truyền dạy lại cho thế hệ sau về các nghi thức tổ chức,
các bài hát Lượn cầu mùa... quả là việc làm bức thiết.
Ông Nguyễn Thiện Tứ (89 tuổi), dân tộc Tày ở xã Bế Triều, huyện
Hòa An, Tỉnh Cao Bằng, là bộ đội đã nghỉ hưu và là hội viên của Hội văn học
nghệ thuật tỉnh Cao Bằng. Ông đã có một thời trai trẻ sống và gắn bó với
người Tày ở Thạch An nên ông am hiểu khá nhiều về lễ hội này cũng như
thuộc nhiều khúc Lượn Hai. Chúng tôi hẹn gặp ông trong một ngày đầu xuân
tại căn nhà của gia đình bên chân đồi Khau Rủa. Biết chúng tôi đến, ông ra
tận đầu ngõ đón. Tuy tuổi cao, lại thêm bệnh nặng cùng với mảnh đạn trong
đầu đã theo ông hơn bốn chục năm nay nhưng trí nhớ của ông vẫn còn rất tốt.
Ông kể lại cho tôi nghe những buổi hội Hai của ngày xưa. Ông bảo hội ngày
xưa khác bây giờ nhiều lắm. Người đi hội có thể không đông như bây giờ
nhưng người hát hội thì đông hơn. Nhất là thanh niên, giỏi hát Lượn và hát
hay lắm. Ngày nay, chẳng mấy ai biết và còn Lượn nữa... Ông dừng lại hồi
lâu như tiếc nuối thực sự cho một nét đẹp văn hóa đã và đang bị mai một dần
theo cuộc sống hiện đại. Chị Nông Thị Nga (34 tuổi), cán bộ tài chính huyện
Thạch An. Chị là thế hệ trẻ như chúng tôi nhưng quả thực tôi vô cùng ngạc
nhiên khi biết chị thuộc nhiều bài Lượn Hai. Chị bảo chị yêu làn điệu dân ca
quê mình. Quê chị ở xã Kim Đồng - nơi có hội Nàng Hai mà tôi đang tìm
hiểu. Chúng tôi hỏi chị tại sao lại thuộc nhiều bài Lượn Hai như vậy, thì ra bà
ngoại chị là một nghệ nhân hát dân ca giỏi, bà thường được mời làm Mẻ Cốc
trong những dịp bản mở hội Nàng Hai.Trước ngày bản mở hội chính, mọi
người tập luyện hăng say lắm.Theo bà trong những đêm hát ấy, những câu
dân ca cứ hồn nhiên đi vào tâm hồn của chị. Gặp chị trong ngày giáp tết, câu
hát Lượn của chị cất lên bỗng xua tan cái lạnh sương giá nơi núi rừng Thạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
An, như kéo ngày hội Hai về gần hơn. Qua đây, chúng tôi càng nhận thấy việc
nuôi dưỡng, bồi đắp tình yêu dân ca nói chung và lượn Hai nói riêng trong thế
hệ trẻ là một việc làm thực sự ý nghĩa và cần thiết.
Nghệ nhân Hoàng Thu Lành (48 tuổi) dân tộc Tày quê gốc Thạch
An, là cán bộ Ban văn nghệ Đài truyền hình Cao Bằng, cho biết: Lúc còn trẻ
bà thấy người dân Thạch An hay hát Lượn lắm, nhất là trong những ngày hội.
Đi làm dâu xa, nhớ quê, thỉnh thoảng bà lại một mình thầm hát cho vơi đi nỗi
nhớ. Công tác ở Đài phát thanh truyền hình, là một cán bộ phụ trách ban văn
nghệ, đồng thời cũng là một nghệ sỹ hát Lượn nổi tiếng, bà cảm thấy buồn vì
ngày nay ít người biết và thích nghe Lượn nữa.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Triệu Thị Mai (53 tuổi), Giám
đốc Đài truyền hình Việt Nam. Tuy bộn bề công việc của một lãnh đạo nhưng
cô vẫn dành thời gian cho việc tìm hiểu và nghiên cứu về văn hoá dân gian.
Cô tâm sự với chúng tôi những điều trăn trở trong lòng: hát Lượn Hai trong
hội Nàng Hai đang bị mai một dần, nếu bây giờ không gìn giữ thì các thế hệ
sau sẽ không còn biết đến loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo này. Hiểu
được giá trị thự sự cũng như thực tế tồn tại của Lượn Hai trong đời sống hiện
đại, nên cô luôn cố gắng giới thiệu làn điệu dân ca này trên đài phát thanh địa
phương. Với việc làm đầy ý nghĩa ấy, cô hi vọng Lượn Hai sẽ được bảo tồn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đi vào đời sống của nhân dân và được nhân dân yêu thích hơn.
Phụ lục 2:
NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI TIÊU BIỂU ĐƢỢC SƢU
TẦM Ở THẠCH AN - CAO BẰNG
PẲN TIỂNG TÀY
Chép lễ
Biên au pây plộc hương án
Biên au vạn hương hom
Biên au rầm hương mióc
Biên au án hương bióc hắt tin
Biên au án hương sinh hấu hạ
Biên au pát khẩu mạ hai tlàng
Biên au pát khẩu loan Hai Há
Biên au bền rễ tác
Biên au goạt rễ đăm
Biên au phằn rễ ráy
Biên au tlằng lẳc là pẻng quánh
Tlằng pẻng quánh, pẻng hai
Biên au khẩu nua lài khẩu cắm
Biên au nậu hoa pù, chù thúc théc
Pác thứ, pác lệ, pác đồ chay
Mọi thứ, mọi mòn đây tiến mẻ
Biên au bióc táng tẻm bán
Biên au vạ táng cáng sảng rườn
Biên au bióc cáng quýt bươn slam
Biên au bióc khảo quang bươn nhỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Biên au bióc tứ quý vặc viền
Biên au bióc cánh tiên ná chúa
Biên au bióc quý hố rơn lâm
Biên au co bióc rồm phắng bến
Biên au bióc kỷ quyển tlàng quây
Biên au nậu bióc cút, rút bióc ngần
Biên au plỏ cáy kim rìm rỏng
Biên au plỏ cáy cỏng rìm đông
Biên au tua nộc công nhỏt pế
Biên au slíp nhỉ plừn slứt bióc
Biên au slíp nhỉ mản thúc lài.
Mởi nàng kén xiêm
Mởi thâng nàng kén xiêm
Mởi thâng nàng kén mở
Mởi mẻ cỏi khay hóm au sửa phít
Cỏi khay mỉt au sửa re
Mản phít mẻ oóc chê
Mản re mẻ oóc lậu
Sửa phít oóc pảt pha
Sửa re oóc pảt sảo
Sửa phít oóc pảt sảo hứ đo
Sửa re oóc pảt kho hứ piọm
Hai Há truyền bại mẻ khoá khảu phú kén xiêm
Truyền bại khoá Nàng khoắn phú định tiên kén mở.
Mởi bại mẻ mà lưởc sửa khoá đây
Mởi bại mẻ lược khân khiêu khân đáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bưởng soa pây pặm lầm
Bưởng rại pây pặm moóc
Dám kha nẩư pặm bông
Dám kha pây tôồng nặm
Khoái khoái khẩu oóc nủng slửa tiên
Khoái khoái khẩu pây nủng slửa chủa
Sửa tiên mẻ dẳng nủng
Slửa chủa mẻ dẳng au.
Slửa đeng mẻ hai đảy nủng
Slửa lương khiêu gần thường bấu nủng
Mình nẩư hất Gường nủng slửa đeng
Mỉnh bang hất Sở nủng sửa đáo
Lúc báo nủng slửa đăm
Lục slao nủng slửa xỏm
Au slửa khóa đây pây tiến mẻ.
Pây kha tàng pỏ quan
Pây quá thâng Nà Nuồm
Pây quá tàng cáp sam cáp hả
Pây quá toổng nà quảng
Pây thâng kha tả luông
Pây quá tềnh phja mì co diển siên pi
Pây quá tin phja mì co rầm mạy cải.
...
Hai Há pây toồng lầm toồng moóc
Mạ pây bấu nắc kha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cờ bân bấu phai màu
Pây thuổn mọi bản mường
Pây mọi phương mọi tỉ
Pây thâng búng cảnh tiên
Út Nọi pây thâng lẻ giải
Út Nọi pây thâng lẻ thả.
Nhẳt bióc, nhẳt hoa
Hạ giới gần pây tlẻo ầm ầm
Nưa bân kẻo khửn háng Tam Quang
Pây mừa mởi mẻ, mởi nàng
Mà hội sle khai khao hoa, khao nậu.
.....
Bióc nẩy au dú tẳm khau nưa
Mởi sluông sléng plè mừa mường quảng
Khao lệ mởi mẻ nàng piếm hoa
Riểc mẻ, nàng ngòi xiên hoa, xiên bióc
Bióc nẩy au dú tẳm tlổng luông
Bióc nẩy au dú Nà Chương, Nà Giảo
Bióc nẩy au dú rảo mảu mùa
Bióc nẩy au sle mừa plựt ké
Bióc nẩy au dú rỏng ngược ngù
Bióc nẩy au dú phia slung ngườm quỷ
Bióc nẩy au sle từ bươn nhỉ
Nậu nẩy au dú từ Lủng Phẩy, Lủng Phjẻc
Nậu nẩy hom mủi linh đan
Bióc nẩy hom mủi van bióc phón
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bióc nẩy lẻ nậu bióc vặc viền
Phông bươn nhỉ khiêu đeng rủng chỏi
Xiên hoa, xiên bióc mởi Nàng Hai.
Vằn xuân vằn đây moạc
Vằn xuân vằn đông vui
Hạ giới cầu mùa mảu
Khôi châu cầu mùa vụ
Mảu nẩy hơn mảu lăng
Mảu lăng hơn mảu nả
Cốc khẩu gặn cốc khuông
Ruồng khẩu gặn ruồng páng
Mẻ cáy lảc nắm pây
Muối khẩu gặn mác plàng
Khẩu sa tlàng khẩu bố.
Sa bó nặm kim áp bióc, áp hoa
Mạ ơi! pây thâng bó nặm áp hoa
Mạ à!pây thâng bó nặm áp nậu
Mời soong nàng mà bó tiên áp hoa
Mởi soong nàng mà bó tiên áp nậu.
Bióc hom đây tlồng tiên
Au mà mởi mẻ nàng
Bióc nẩy au dú mường plựt luông
Bióc nẩy au dú mường tlổng quảng
Bióc nẩy au dú đán phia slung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Au bióc, au nậu áp nặm kim ngần
Tiến khửn mởi mẻ và mởi nàng.
Mẻ thổm khân đeng chỏi
Mẻ nủng slửa thúc lài
Kim ngần rủng chỏi mọi tlỷ
Bióc kim ngần dâng hẩư mẻ ngàn hai
Mởi mẻ hai lồng thôm kim gỏi piếm
Mởi mẻ hai lồng bó ngần gỏi ngòi.
Au nặm linh đan áp hẩư nậu, hẩư bióoc
Vạ đét nắm bốc hơi
Ne khiêu bân khửn các
Nhúc nhác bân khửn phia
Nặm pế khiêu lít lít
Nặm pế quảng líu líu
Nặm lây quanh róc rách
Pế quảng thâng slí slướng tin vạ
Slam vằn nặm lây pây
Chất vằn nặm lây thất
Lồng rèng sa bó tiên áp bióc, áp hoa
Lồng rèng sa bó kim áp nậu
Út Nọi mà rặp au
Út Nọi mà rặp bióc
Mà khoái khoái rặp au Út hởi!
Cầu soong mẻ hẩư bươn shí hả nặm lắp lí phai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cháu nhân gian khỏi đét bươn slam
Cháu nhân gian khỏi phân bươn pét
Lạy mẻ puối hẩư vẻ mằn, vẻ phước
Lạy mẻ puối hẩư vẻ mọn, vẻ khẩu
Vằn ất khẩu khửn slung
Vằn nhỉ khẩu khửn muột
Cầu mẻ puối hẩư vẻ mọn đây
Bươn ất mọn plông ón
Bươn nhỉ mọn cải mọn rèng
Bươn slam mọn khảu quéng
Quéng mọn lương ước ước
Bươn sốc tắm thúc lài
Nhặp slửa đáo, slửa đeng tiến mẻ.
Lạy mẻ xăng cậy non pác đăm
Lạy mẻ xăng cậy non pác đáo
Mẻ xăng khảu buốc mạy rượi
Xăng khảu buốc mạy tlàn
Pắt pây lẻ pắt mà
Tlà pây lẻ tlà thẻo
Tlà pây thâng tlằng mường
Tlà pây thâng tlằng tlổng
Năm hẩư mèng ghèng phá đát tlổng luông
Nắm hẩư mèng hai đát tlổng quảng
Hẩư bâư khẩu khửn khiêu
Hẩư nhỏt mằn khửn mậu
Quét pây mèng đát bâư
Quét pây non khốp nhỏt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ruồng khẩu gặn ruồng páng
Cốc khẩu gặn cốc khuông
Thâng mảu pây au tháp au tham.
DỊCH SANG TIẾNG KINH
Chép lễ
Chép lấy bó hương án
Chép lấy vạn hương trầm
Chép lấy rầm hương móc
Chép lấy hương án bjoóc tin
Chép lấy án hương sinh hấu hạ
Chép lấy bát gạo cho binh mã của then
Chép lấy bát cơm loan Hai Há
Biên lấy bến rế tác
Chép lấy quạt rế đen
Biên lấy giấy rế ráy
Chép lấy mâm bánh quánh
Chép lấy cả mâm xôi cẩm bảy màu
Chép lấy dậu bánh phống thúc théc
Chép lấy cả đồ chay mọi thứ
Chép lấy hoa trên bàn thờ mẹ
Chép lấy hoa lấy nụ mời nàng
Chép lấy hoa phặc phiền tháng ba
Chép lấy hoa khảo quang tháng hai
Hoa tứ quí trần gian
Hoa tứ quí vàng ròng
Cây hoa thơm tiên cảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chép lấy nụ hoa cút màu vàng
Chép lấy con gà vàng bên khe
Chép lấy con gà re ven suối
Chép lấy con công đẹp nơi biển xa
Chép lấy mười hai màn gấm vóc
Chép lấy mười hai bọc gấm thêu.
Cửa sau Mẹ đón lấy
Cửa trước Mẹ nhận về
Đón lấy mọi thứ quí ở trần gian
Đem về mời Mẹ với mời Nàng.
Mời nàng thay quần áo đẹp
Mời Nàng xem quần áo đẹp
Mời mẹ xem quần áo xinh
Mời mẹ hãy mở hòm áo đẹp
Mời mẹ hãy mở hòm áo xinh
Màn đẹp mẹ chớ chê
Áo đẹp nàng chớ quở
Quần áo đẹp vắt đầy vách
Quần áo đẹp vắt đầy sào
Quần áo đẹp vắt đầy vách không hết
Quần áo xinh vắt đầt vách không xuể
Hai Há mời các mẹ nàng thay áo đẹp
Truyền các mẹ nàng chọn áo đẹp
Truyền các mẹ nàng thay áo xinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chân trái đi như gió
Chân phải đi tựa mây
Bước đi nhẹ như bông
Bước đi như nước chảy
Thoăn thoắt ra vào thay áo đẹp
Rộn rã vào cửa tiên soạn sửa
Áo nào đẹp mới mặc
Áo nào xinh mới lấy.
Không phải mẹ nàng cấm mặc cái áo đỏ
Người thường cấm mặc áo xanh áo vàng
Nên Gường mới được mặc áo đỏ
Nên Sở mới được mặc áo vàng
Cấm con trai mặc áo đen
Cấm con gái mặc áo màu chàm
Mau thay quần áo soạn sửa lên tiến mẹ.
Đi ra đường cái quan
Đi qua đến Nà Nuồm
Đi qua nơi ngã ba ngã bảy
Đi qua cánh đồng lớn
Đi qua con sông to
Đi qua dãy núi có cây nghiến cổ thụ
Đi qua vách núi có cây rầm xum xuê.
...
Hai nàng đi như gió như mây
Ngựa đi không mệt mỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cờ bay không phai màu
Đi khắp mọi bản mường
Đi mọi phương mọi nẻo
Đi đến mường trời hãy trọ
Út Nọi đến nơi hãy nghỉ ngơi
Út Nọi đến nơi hãy chờ đợi.
Hái nụ hái hoa cho các mẹ
Hạ giới người đi lại ầm ầm
Rầm rầm kéo lên chợ Tam Quang
Mời mẹ lại thêm mời các nàng
Về hội cầu mùa khao hoa khao nụ.
...
Hoa này hái từ trên núi cao
Mời sluông trở lên mường trời
Lễ cầu mùa mời các nàng các mẹ
Mời nàng xem trăm hoa trăm nụ.
Hoa này hái từ Mường Luông
Hoa này hái từ Nà Chương, Nà Giảo
Hoa này hái từ dạo ngày mùa
Hoa này hái từ xưa gìn giữ
Hoa này hái từ vực thuồng luồng
Hoa này hái từ núi cao vực thẳm
Nụ này hái từ lúc tháng hai
Hoa này hái ở Lũng Vài, Lũng Phjẻc
Hoa nayg thơm ngát mùi linh đan
Hoa đây thơm dịu mùi bjoóc phón
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hoa này là hoa phẳc phiền
Nở tháng giêng sắc màu rực rỡ
Trăm hoa trăm nụ mời Nàng Hai.
Hôm nay ngày đẹp trời
Hôm nay ngày đẹp tươi
Hạ giới họ cầu mùa
Khôi châu họ cầu vụ
Vụ trước hơn vụ sau
Vụ sau hơn vụ trước
Bông lúa trùm bờ dưới bờ trên
Mẹ gà tha không nổi
Bông lúa bằng bông lau
Hạt lúa to bằng quả bưởi
Lúa tự lăn về nhà.
Tìm nước thiêng tắm hoa tắm nụ
Ngựa hỡi hãy lên tới giếng tiên tắm hoa
Ngựa hỡi hãy về tới ao vua tắm nụ
Gọi hai nàng về giếng tiên tắm hoa
Gọi hai nàng về giếng tiên tắm nụ.
Hoa đẹp như tranh vẽ
Mời mẹ mời nàng tắm nụ tắm hoa.
Hoa mới hái ở chốn Pựt Luông
Hoa mới hái ở mường Tổng quảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bông hoa này hái từ nơi đỉnh núi
Tắm hoa tắm nụ cho thơm tho
Để dâng lên các mẹ nàng.
Mẹ nàng đội khăn đỏ thắm
Mẹ nàng mặc áo đẹp thêu hoa
Tay mẹ nàng đeo vàng bạc sáng chói
Tay mẹ nàng cầm hoa đẹp nụ thơm.
Mời mẹ nàng xuống giếng tiên hãy trông
Mời mẹ nàng xuống ao thần hãy ngắm.
Lấy nước linh đan tắm cho hoa, cho nụ thơm tho.
Nước ruộng không bốc hơi
Rêu xanh vượt lên gác
Nhúc nhác vượt lên bờ
Nước trong xanh biêng biếc
Nước trải rộng mênh mông
Nước chảy quanh róc rách
Nước mênh mông góc bể chân trời
Ba ngày nước chảy xuôi
Bảy ngày nước chảy ngược.
Tìm dòng nước thần tắm nụ tắm hoa
Tìm ao thần tắm hoa tắm nụ.
Út Nọi mau về đón lấy
Út Nọi mau về rước đi
Hãy mau về đón lấy nụ lấy hoa Út hỡi!
Cầu hai Mẹ cho mưa lớn
Cầu hai mẹ cho tháng tư mưa thuận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cầu hai mẹ cho tháng năm gió hòa
Đừng để nhân gian chết khô
Đừng cho nhân gian chết héo
Lạy mẹ ban cho gióng lúa giống ngô
Lạy mẹ phát cho giống khoai giống sắn
Một ngày lúa lên cao
Hai ngày lúa lên vượt
Lạy mẹ ban cho giống dâu tằm
Tháng giêng tằm nở
Tháng hai tằm lớn
Tháng ba tư kén tằm vàng ươm
Tháng năm kén tằm vàng rực rỡ
Tháng sáu kéo tơ tằm dệt lụa
May áo đẹp ban cho các mẹ nàng
Cầu mong mẹ giam lại giống sâu miệng đỏ
Cầu mong mẹ giam lại giống sâu miệng đen
Mẹ giam lại sâu bọ hại mùa màng
Bọ rầy nhốt trong lồng rượi mẹ đan
Bọ rầy nhốt trong ống tàn mẹ trát
Trát đi rồi trát lại
Miết đi là miết về
Miết đi khắp mọi nẻo
Miết đi khắp mọi mường
Trát bùn kỹ để mùa màng tươi tốt
Không cho sâu bọ phá đồng lớn
Không cho sâu bọ phá đồng sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cho lá lúa xanh tươi
Cho mầm khoai khỏe mạnh
Không cho bọ cắn lá
Không cho sâu chích mầm
Gốc lúa bằng gốc cây móc
Bông lúa bằng bông khuông
Đến mùa lấy lưỡi hái đem về.
MỘT SỐ BÀI HÁT ỨNG TÁC TRONG LỄ HỘI NÀNG HAI Ở THẠCH
AN – CAO BẰNG
Hỏi Nàng Hai :
Mẹ Hoa hỡi cho trần gian được hỏi
Lúa tốt không hay lại đói kém mùa?
Sâu bọ hại hay lại sợ đi mất?
Thác lũ về hay chạy mãi trên cao?
Trâu bò đông đúc gõ vang gầm sàn
Gà lợn kêu như bầy con trẻ
Hay dịch bệnh bản im tiếng kêu vang?
Nắng cháy đồng hay đỏ cam ngoài rẫy?
Gió đón đòng hay lốc tố phong ba?
Nàng hai bảo cho nhân gian biết! Nàng Hai đáp:
Tôi của người cung Hàm cung Quảng
Tôi hậu duệ của mẹ Hằng Nga
Mẹ Hoa dặn mùa màng tươi tốt lắm
Nắng vàng, mưa bạc như thoi rơi trên khung cửi
Gió sương như kim tuyến gắn khăn hồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thóc vàng như sao trời tháng tám
Gia súc đầt đàn như dòng chảy sông Ngân
Khắp hạ giới trẻ già thêm sức khỏe
Gái mười ba, trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu.
Trần gian cảm ơn:
Lời tiên nữ ngọt ngào như mật mía
Lời tiên nữ tốt lành như cọn đưa nước về đồng
Lời đẹp lấy áo chàm về hứng
Lời hay lấy vải hoa về đựng
Lời quí lấy hòm vàng cất giữ
Cảm ơn Mẹ Hoa ban phúc trần gian!
Nàng Hai đáp:
Người thế gian bụng khôn như chim khách
Người thế gian lời đẹp tựa chim công
Tiếng nói sáng như đêm trăng rằm
Người sang đeo túi thơm bên mình
Người khôn đeo túi hoa bên sườn.
Túi hoa đựng lời hay ý đẹp
Túi hoa đựng điều mong đẹp đẽ.
Lòng người khôn đổi mười trâu không xứng
Lòng người khôn đổi mười ruộng không xuôi
Miệng người khôn nói ra hoa ra ngọc
Câu hát lượn khiến ong say không thấy mật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tiếng hát then khiến chim chẳng biết bay.
PHỤ LỤC 3:
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ THIÊN NHIÊN, LÀNG BẢN VÀ SINH HOẠT, LỄ HỘI CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN – CAO BẰNG
Hình ảnh 2: Cọn nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hình ảnh 1: Suối hoa
Hình ảnh 3: Ngày mùa
( Hình ảnh 1, 2, 3 được tác giả luận văn sưu tầm từ báo điện tử Cao Bằng)
Hình ảnh 4: Nghệ nhân Nông Văn Lẩy ở bản Chu Lăng, xã Kim Đồng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng đang thực hiện nghi lễ tại nhà
Hình ảnh 5: Mẻ Cốc đang thực hiện nghi lễ tại nhà thầy Pửt
Hình ảnh 6: Vật phẩm cúng tế trong lễ hội Nàng Hai ở Thạch An -
Cao Bằng
Hình ảnh 7: Bàn thờ cúng Thổ công trong lễ hội Nàng Hai ở Thạch An –
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cao Bằng
Hình ảnh 8: Hai nàng Gường và Sở hát mời Mẹ Trăng xuống trần gian
dự hội cầu mùa
Hình ảnh 9: Các Mụ Nàng, Mụ Nọi trong lễ hội Nàng Hai ở Thạch An -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cao Bằng
Hình ảnh 10: Các Mụ Nàng, Mụ Nọi trong lễ hội Nàng Hai ở
Thạch An - Cao Bằng
(Hình ảnh 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 do anh Nông Hải Hùng - Trưởng Phòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn hoá huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng cung cấp.)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn