Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam
lượt xem 9
download
Với bài nghiên cứu này bằng những số liệu thực tế diễn biến giá cổ phiếu trên thị trường, tác giả mong muốn rằng sẽ có câu trả lời chính xác hơn về việc liệu có hay không sự tồn tại của tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó có thể giúp nhà đầu tư trên thị trường có thể thận trọng và bình tĩnh hơn khi đưa ra quyết định đầu tư của mình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM ----------- BÙI NGUYỄN THANH TRÚC NGHIÊN CỨU TÂM LÝ BẦY ĐÀN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
- MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CÁM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU CHƯƠNG I: TỔNG QUAN .................................................................................................... 1 1.1 Mục tiêu nghiên cứu: .................................................................................................... 1 1.2 Câu hỏi nghiên cứu: ...................................................................................................... 2 1.3 Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................................... 2 CHƯƠNG II: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .............................................................. 4 2.1 So sánh lý thuyết tài chính truyền thống và tài chính hành vi: ................................ 4 2.2 Ảnh hưởng của tâm lý bầy đàn trong quyết định đầu tư:......................................... 6 CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU ...................................... 17 3.1 Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................................... 17 3.2 Thu thập dữ liệu: ......................................................................................................... 22 CHƯƠNG IV: TRÌNH BÀY KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................... 24 4.1 Thống kê mô tả: ........................................................................................................... 24 4.2 Thực hiện các phép kiểm định sơ bộ: ........................................................................ 26 4.2.1 Kiểm định tính dừng .......................................................................................... 26 4.2.2 Kiểm định tự tương quan ................................................................................... 30 4.3 Phân tích hồi quy: ....................................................................................................... 33
- 4.3.1 Phương pháp hồi quy tuyến tính đối với tỷ suất sinh lợi của các ngành theo mô hình của Christie và Huang (1995) ....................................................................... 33 4.3.2 Phương pháp hồi quy phi tuyến đối với tỷ suất sinh lợi của các công ty theo mô hình của Chang et al. (2000) ................................................................................ 36 CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ĐỂ NGHIÊN CỨU.......................................... 43 5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu: ...................................................................................... 43 5.2 Hạn chế của bài luận văn: ......................................................................................... 43 5.3 Hướng nghiên cứu trong tương lai: ........................................................................... 45 5.4 Kết luận: ....................................................................................................................... 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2
- DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 1: Thống kê mô tả: Tỷ suất sinh lợi và độ lệch chuẩn hàng ngày Bảng 2: Liệt kê các chuỗi dữ liệu dừng theo từng ngành: Bảng 3: Liệt kê các chuỗi dữ liệu dừng theo từng ngành: Bảng 4: Tổng hợp các hệ số Durbin Watson từng ngành khi kiểm định tự tương quan Bảng 5: Tổng hợp các hệ số Durbin Watson từng ngành khi kiểm định tự tương quan Bảng 6: Phân tích hồi quy mức độ phân tán tỷ suất sinh lợi theo phương trình CSSDt D DtL U DtU t Bảng 7: Phân tích hồi quy mức độ phân tán tỷ suất sinh lợi theo phương trình CSADt 1 rm.t 2 rm2.t t
- 1 CHƯƠNG I TỔNG QUAN 1.1 Mục tiêu nghiên cứu: Trong nhiều thế kỷ qua hiện tượng tâm lý bầy đàn luôn là một bài toán bí ẩn và đã gây nhiều sóng gió trên thị trường ở hầu hết các quốc gia trên thế giới; ví dụ, cơn cuồng củ hoa tulip, bóng bóng South Sea, cơn bùng nổ điện tử, … Trong các hiện tượng này thì “cơn bùng nổ điện tử” thật sự là một bức tranh được mô tả toàn diện về hiện tượng này. “Cơn bùng nổ điện tử” diễn ra vào năm 1960. Vào khoảng thời gian 1959 đến năm 1962, số lượng cổ phiếu phát hành nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào trước đó trong lịch sử, nhằm đáp ứng cơn khát cổ phiếu vô độ của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư chẳng quan tâm đến lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động – miễn là nghe có vẻ rất “điện tử” thì giá cổ phiếu của doanh nghiệp đó bổng nhưng tăng vọt. Nhà đầu tư luôn tin rằng người mua sẵn sàng trả mức giá thậm chí còn cao hơn mà không có một nền tảng lý thuyết vững chắc để giải thích cho hiện tượng này. Hàng loạt cổ phiếu lên sàn; ví dụ, hãng American music Guild với hoạt động kinh doanh chủ yếu là giao bán máy nghe nhạc và đĩa hát tận nhà đã đổi tên thành “Space Tone” trước khi cổ phần hóa thì giá cổ phiếu của công ty này đã tăng từ mức 2 lên mức 14 chỉ sau vài tuần chào bán, … Jack Dreyfus của hãng “Dreyfus & Company đã bình luận về cơn điên loạn này như sau: “Trên thị trường hiện nay, cụm từ “electronic” và “silicon” có giá trị lợi nhuận gấp 15 lần. Công ty Shoelaces (sản xuất dây giày) đã đổi tên thành “Electronics & Silicon Furth-Burners đã giúp lợi nhuận của công ty tăng lên đáng kể từ 6 lần (đến từ lợi nhuận kinh doanh) lên 42 lần
- 2 (15 lần cho cụm từ “Electronics & Silicon”, và gấp 2 lần cho cụm từ lạ “Furth- Burners”). Qua câu chuyện về “cơn bùng nổ điện tử” chúng ta mới thật sự thấy được tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn của “tâm lý bầy đàn” đã chi phối hành vi của nhà đầu tư như thế nào. Vì vậy, nghiên cứu sự tồn tại tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán trước khi đưa ra quyết định đầu từ là một vấn đề vô cùng cần thiết. Với bài nghiên cứu này bằng những số liệu thực tế diễn biến giá cổ phiếu trên thị trường, tôi mong muốn rằng sẽ có câu trả lời chính xác hơn về việc liệu có hay không sự tồn tại của tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó có thể giúp nhà đầu tư trên thị trường có thể thận trọng và bình tĩnh hơn khi đưa ra quyết định đầu tư của mình. 1.2 Câu hỏi nghiên cứu: Để làm rõ hơn cho mục đích nghiên cứu, bài nghiên cứu sẽ tìm ra đáp án cho hai câu hỏi nghiên cứu: Câu hỏi thứ nhất: “Tâm lý bầy đàn có tồn tại trong thị trường chứng khoán Việt Nam không?” Câu hỏi thứ hai: “Tâm lý bầy đàn tồn tại rõ rệt trên thị trường tăng giá hay giảm giá?” 1.3 Phạm vi nghiên cứu: Với mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, để đảm bảo có một bức tranh tổng quan hơn về việc có hay không sự tồn tại tâm lý bầy đàn tại thị trường Việt Nam, ta tiến hành thu thập dữ liệu giá đóng cửa theo ngày của toàn bộ cổ phiếu được niêm
- 3 yết liên tục trên thị trường (bao gồm thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội) trong khoảng thời gian từ tháng 01/2006 đến tháng 12/2010.
- 4 CHƯƠNG II CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 2.1 So sánh lý thuyết tài chính truyền thống và tài chính hành vi: Các lý thuyết tài chính thống trị trong hơn 30 năm qua là lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH). Có hai giả thiết cơ bản hình thành nên lý thuyết thị trường hiệu quả. Giả thiết 1: các nhà đầu tư là hợp lý. Giả thiết 2: các nhà đầu tư suy nghĩ và hành xử “hợp lý” khi mua và bán cổ phiếu. Cụ thể các nhà đầu tư được cho là đã sử dụng tất cả các thông tin có sẵn để tạo thành "kỳ vọng hợp lý" về tương lai trong việc xác định giá trị của công ty và sức khỏe nói chung của nền kinh tế. Do đó, giá cổ phiếu chính xác nên phản ánh những giá trị cơ bản và sẽ chỉ di chuyển lên và xuống khi có thông tin tích cực hoặc tiêu cực bất ngờ, tương ứng. Vì vậy, các nhà kinh tế đã kết luận rằng các thị trường tài chính ổn định và hiệu quả, giá cổ phiếu theo một "bước đi ngẫu nhiên" và toàn bộ nền kinh tế có xu hướng hướng tới "cân bằng tổng thể". Tuy nhiên, trong thực tế, theo Shiller (1999) các nhà đầu tư không suy nghĩ và hành động có lý. Ngược lại, thúc đẩy bởi lòng tham và nỗi sợ hãi, các nhà đầu tư suy đoán giá cổ phiếu giữa mức cao và thấp không thực tế. Nói cách khác, các nhà đầu tư bị lệch hướng bởi cảm xúc, suy nghĩ chủ quan và tác động của đám đông tạo thành kỳ vọng bất hợp lý cho việc thực hiện trong tương lai của các công ty và nền kinh tế tổng thể. Hành vi của nhà đầu tư là một phần trong tài chính hành vi, lý thuyết này giúp giải thích làm thế nào những cảm xúc, các lỗi nhận thức, tâm lý bầy đàn ảnh
- 5 hưởng đến các nhà đầu tư và quá trình ra quyết định. Do thực tế là mọi người không phải lúc nào cũng hợp lý, quyết định tài chính của họ có thể được điều khiển bởi các định kiến hành vi. Vì vậy, điều quan trọng nghiên cứu tài chính hành vi để xác định ảnh hưởng của những thành kiến hành vi. Nó sẽ là quan trọng hơn nếu lỗi nhận thức của họ ảnh hưởng đến giá và không thể thực hiện được arbitraged dễ dàng (Kim và Nofsinger, 2008). Giữa những năm 1980 được coi là sự khởi đầu của nghiên cứu. Thị trường chứng khoán đã được chứng minh là phản ứng thái quá với thông tin theo DeBondt và Thaler (1985). Hơn nữa, Shefrin và Statman (1985) khẳng định các cổ đông có xu hướng bán cổ phiếu chiến thắng của họ nhiều. Barberis và Thaler (2003) được coi là một trong những nhà văn nổi tiếng đã cung cấp một nghiên cứu tuyệt vời về các loại khác nhau của những lý thuyết hành vi có ảnh hưởng đến việc ra quyết định cũng như các thị trường tài chính. Những bài nghiên cứu tài chính hành vi chủ yếu dựa trên dữ liệu của các cổ phiếu không phù hợp với lý thuyết thị trường hiệu quả và mô hình định giá tài sản. Vì vậy, một số đối thủ chỉ trích rằng họ có một khởi đầu chậm chạp và dường như ít thuyết phục được các đối tượng có xu hướng hoài nghi ban đầu. Sự hạn chế này được loại bỏ bằng cách sử dụng dữ liệu các nhà đầu tư cá nhân. Trong nhiều nghiên cứu, cho thấy các nhà đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng bởi những lý thuyết hành vi khác nhau (Kim và Nofsinger, 2008). Sau đó, những lý thuyết hành vi đang được thử nghiệm bởi nhiều nhà nghiên cứu, một trong số họ là Hirshleifer (2001), những người cung cấp bằng chứng thực nghiệm về định giá tài sản. Tuy nhiên, chỉ có vài thí nghiệm đã được áp dụng để kiểm tra
- 6 lý thuyết tài chính hành vi, mặc dù môi trường có thể dễ dàng kiểm soát bởi các thí nghiệm được thiết kế tốt (Kim và Nofsinger, 2008). Mặc dù tài chính hành vi vẫn còn là một chủ đề gây tranh cãi, nhưng các nhà phân tích tài chính đã có sự hiểu biết tốt hơn về hành vi con người, và nó cũng được chấp nhận rằng những hành vi này có thể ảnh hưởng đến quyết định tài chính. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đồng ý rằng kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) là hạn chế (Shleifer và Vishny, 1997), do đó, những hành vi này có thể ảnh hưởng đến giá cả. Trong khi đó, nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính hành vi đã tăng cường kiến thức về thị trường tài chính, dẫn đến nhiều hứa hẹn trong tương lai. Gần đây, các chủ đề về tài chính hành vi được đề cập nhiều trong các hội nghị tài chính có tham dự của những nghiên cứu sinh và các giáo sư ở các trường Đại học (Kim và Nofsinger, 2008). Thaler (1999) mong muốn các nghiên cứu tài chính hành vi mang lại mô hình nữa để nghiên cứu thêm về tài chính doanh nghiệp, và ngày càng có nhiều dữ liệu hơn đối với các nhà đầu tư cá nhân trong tương lai nói chung và các nhà đầu tư trên thị trường Châu Á nói riêng. 2.2 Ảnh hưởng của tâm lý bầy đàn trong quyết định đầu tư: Tâm lý bầy đàn là một hiện tượng được công nhận rộng rãi trong nghiên cứu tài chính hành vi. Nhiều người tin rằng, suy nghĩ theo nhóm thường có những quyết định chính xác hơn từng cá nhân riêng lẻ. Trong lịch sử, học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith cũng đã đề cập về sự sáng suốt của hành vi đám đông trong nền kinh tế thông qua cơ chế bàn tay vô hình. Tuy nhiên, như đã đề cập, thị trường nói chung không phải lúc nào cũng đưa ra các quyết định có
- 7 tính duy lý và định giá chính xác với giá trị thực của hàng hóa. Trong một tác phẩm nổi tiếng về tâm lý học đám đông – The Crowd: A study of popular mind của Gustavc Le Bon đã kết luận rằng “Trong đám đông người ta chỉ càng ngu đốt chứ không hề khôn ngoan hơn”. Có vẻ nhiều nhà đầu tư chưa biết qua đạo lý này. Khi giá cả thị trường tăng với tốc độ chóng mặt mà chỉ dựa vào hành vi đám đông thường không thể chống đỡ nổi trước sự hấp dẫn về tỷ suất sinh lợi. Giá cả có thể tăng liên tục trong thời gian dài nhưng khi có xu hướng chuyển chiều thì cơn chấn động này sẽ dẫn đến một làn sóng bán đổ bán tháo và để lại những hậu quả rất khóc liệt cho nhà đầu tư; đặc biệt là những ai chậm chân hơn. Vậy liệu tâm lý bầy đàn có tồn tại không? Sau đây là một vài các nghiên cứu cũng như các tranh luận của các tác giả khác nhau nhìn nhận vấn đề này. Shiller và Pound (1986) đã sử dụng phương pháp khảo sát để kiểm tra sự hiện diện của tâm lý bầy đàn đối với nhà đầu tư tổ chức. Họ nhận thấy rằng hầu hết các nhà đầu tư đã dựa vào lời khuyên của các chuyên gia khi đưa ra quyết định đầu tư. Trong khi Shiller và Pound sử dụng phương pháp khảo sát dành cho các nhà đầu tư là tổ chức, thì Cote và Sanders (1997) đã tiến hành một thử nghiệm nhằm khám phá các yếu tố tâm lý bầy đàn dự báo thu nhập của những người trong công ty National Association of Investor (NAIC), những người được xem là có kỷ năng đầu tư cao. Họ phát hiện ra rằng hành vi này tồn tại khi họ tiến hành dự báo các thu nhập phức tạp. Ngoài ra, báo cáo kết quả của họ cũng chỉ ra rằng một số yếu tố như khả năng dự báo, niềm tin vào các dự báo của hầu hết mọi người và uy tín của người đưa ra dự báo là một phần của yếu tố tâm lý
- 8 bầy đàn. Cụ thể hơn, tâm lý bầy đàn đã gia tăng khi có sự gia tăng độ tin cậy vào nguồn gốc của một số dự báo, và mối quan tâm quá nhiều vào danh tiếng của người đưa ra dự báo hoặc thiếu tự tin vào khả năng dự báo của một người. Olsen (1996) sử dụng một mẫu gồm 520 cổ phiếu để điều tra và nêu lên một số kết luận liên quan đến tâm lý bầy đàn trong việc dự báo của các chuyên gia. Ông đã đo mức độ tâm lý bầy đàn bằng cách sử dụng các giá trị của index được tạo ra từ năm danh mục đầu tư cổ phiếu như nhau. Olsen đề xuất tâm lý bầy đàn sẽ gia tăng khi việc dự đoán tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu trở nên khó khăn hơn và hành vi này trong dự báo thu nhập là có thể dẫn đến giảm mức độ phân tán và gia tăng giá trị trung bình các dự báo của các chuyên gia. Điều này có thể tạo ra các thiên vị tích cực và thiếu chính xác trong việc ước tính thu nhập công bố. Kết quả của Olsen cho thấy tâm lý bầy đàn đang tồn tại và có sự gia tăng trong việc dự đoán các mức thu nhập không thể tiên đoán. Hơn nữa, Olsen kết luận rằng các đặc tính của tâm lý bầy đàn giúp nhà phân tích trở nên lạc quan hơn khi dự báo thu nhập và giảm nhận thức rủi ro khi dự đoán các phần thu nhập không thể đoán trước xảy ra. Grinblatt et al. (1995) sử dụng danh mục đầu tư theo Quý gồm 274 cổ phiếu quỹ ở Mỹ để phân tích các chiến lược đầu tư và xu hướng tâm lý bầy đàn trong các quỹ tương hỗ. Họ thực hiện so sánh mức độ tâm lý bầy đàn ở phía bên mua và bên bán đối với tổ chức. Grinblatt et al. (1995) phát hiện ra rằng 77% các quỹ tương hỗ là các nhà đầu tư khôn ngoan. Tuy nhiên, họ nhận ra có một bằng chứng tương đối yếu để giải thích cho xu hướng của một quỹ khi quyết định mua và bán cùng một cổ phiếu cùng một lúc theo thuyết tài chính hành vi. Có
- 9 hai lý do có thể cho điều này. Thứ nhất, việc nghiên cứu được đo lường trên cùng một mẫu các nhà đầu tư. Thứ hai, các cổ phiếu tuần rất ít được kinh doanh bởi các quỹ tương hỗ có thể đó là lý do tại sao đã không tìm thấy bằng chứng tâm lý bầy đàn mạnh mẽ. Giải quyết cùng một câu hỏi liệu tài chính hành vi có tồn tại trong các quỹ tương hỗ không, Wermers (1999) sử dụng giá cổ phiếu theo quý của tất cả các quỹ tương hỗ có trụ sở tại Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1994 để điều tra hành vi này liên quan đến việc quản lý quỹ. Để đo tâm lý bầy đàn bởi các quỹ, ông đã kiểm tra tỷ lệ vốn đầu tư vào thị trường làm tăng hoặc giảm cổ phần của họ trong quý. Nếu cổ phiếu cho thấy một xu hướng đối với sự mất cân đối lớn giữa số lượng của người mua và người bán, sau đó quỹ này được nói đến để nghiên cứu yếu tố tâm lý bầy đàn. Các bằng chứng cho thấy rằng trong khi quỹ tương hỗ kinh doanh chứng khoán ở mức trung bình thì dấu hiệu tâm lý bầy đàn trở nên yếu, những cổ phiếu có giá trị nhỏ và được định hướng tăng trưởng thể hiện một xu hướng cao hơn nhiều. Như Wermers giải thích, sự khác biệt trong các cấp độ quan sát của tâm lý bầy đàn có thể là phù hợp với mối quan tâm về danh tiếng công ty quản lý quỹ hoặc với độ nhạy bén trong việc phân biệt các thông tin cơ bản. Ngoài ra, nghiên cứu này cho thấy rằng cổ phiếu được mua mạnh mẽ bởi tâm lý bầy đàn tốt hơn các cổ phiếu bán mạnh do tâm lý bầy đàn 4% trong sáu tháng sau. Sự khác biệt này là rõ rệt hơn khi xem xét mức tỷ suất sinh lợi trên các cổ phiếu nhỏ. De Bondt và Forbes (1999) đã sử dụng một phương pháp khác để nghiên cứu tâm lý bầy đàn. Nghiên cứu này điều tra hiện tượng trong dự báo phân tích thu
- 10 nhập mỗi cổ phiếu (EPS) ở Vương quốc Anh. De Bondt và Forbes (1999) quy định tâm lý bầy đàn là “một thỏa thuận quá mức” giữa các nhà phân tích dự báo. Phân tích của họ được dựa trên giả thiết rằng nếu dự báo của các nhà phân tích là những nhà phân tích hợp lý dựa trên chất lượng thông tin tốt và tính chính xác của các dự báo này là mối quan tâm chính. Mặc dù thực tế rằng thu nhập ước lượng là một nhiệm vụ khó khăn và có thể dễ dàng chịu lỗi lớn, những dự báo EPS của các nhà phân tích cá nhân có thể được khá gần với nhau. Đặc biệt, nếu trong một trường hợp cực đoan tâm lý bầy đàn là rất mạnh mẽ có thể dẫn đến một sự suy giảm trong sự bất đồng thể hiện bởi các nhà phân tích liên quan đến đường chân trời dự báo. Tức, tâm lý bầy đàn như một lực lượng đối lập liên quan đến đường chân trời dự báo trong đó có một xu hướng sản xuất "thoả thuận quá mức". De Bondt và Forbes (1999) không đồng ý phân tích này bằng cách sử dụng hai biến (1) Range (phạm vi dự đoán của nhà phân tích cá nhân, trừ các dự báo thấp) và (2) độ lệch tiêu chuẩn dữ liệu chéo của các dự đoán cá nhân cho 6 tháng bất kỳ. Họ kiểm tra liệu có những phương pháp đo lường độ lệch chuẩn dự báo có hệ thống của nhà đầu tư cá nhân ở bất kỳ tháng nào và đường chân trời không. De Bondt và Forbes kết luận rằng có một số bằng chứng của tâm lý bầy đàn ảnh hưởng đến các nhà phân tích. Christie và Huang (1995) đã kiểm tra sự hiện diện của hành vi bầy đàn trong tỷ suất sinh lợi từ vốn chủ sở hữu bằng cách sử dụng dữ liệu hàng ngày của các công ty NYSE và Amex từ tháng 7 năm 1962 đến tháng 12 năm 1988 và dữ liệu hàng tháng cho các công ty NYSE từ tháng 12 năm 1925 đến tháng 12 năm 1988. Mô hình của họ được dựa trên giả thiết rằng độ lệch chuẩn của tỷ suất
- 11 sinh lợi, như một biện pháp đo lường mức phân tán trong tỷ suất sinh lợi, sẽ là tương đối thấp khi các nhà đầu tư cá nhân có xu hướng để ngăn chặn đánh giá riêng của họ ủng hộ sự đồng thuận của thị trường. Lập luận này trái ngược với mô hình định giá tài sản, dự báo có một sự gia tăng mức độ phân tán khi một nhà đầu tư cá nhân sử dụng thông tin của riêng mình để giao dịch trong suốt thời gian của biến động thị trường. Họ không tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện của tâm lý bầy đàn. Tiếp theo nghiên cứu của Christie và Hang (1995) nghiên cứu của Demirer và Kutan (2006) đã sử dụng các bằng chứng thực nghiệm để kiểm tra tâm lý bầy đàn tại thị trường Trung Quốc của các công ty tư nhân. Tương tự như Christie và Huang (1995), những phát hiện Demirer và Kutan (2006) cũng đưa ra kết luận rằng không cho thấy sự hiện diện của tâm lý bầy đàn trong thời kỳ biến động giá lớn. Các nghiên cứu của Chang et al. (2000) sử dụng một cách tiếp cận khác hơn để kiểm tra yếu tố tâm lý bầy đàn. Mô hình của họ có tính đến các mối quan hệ phi tuyến tính giữa các mức độ phân tán tài sản của cá nhân và tỷ suất sinh lợi của một danh mục đầu tư thị trường. Không giống như Christie và Huang (1995), họ đã sử dụng độ lệch tuyệt đối của tỷ suất sinh lợi (CSAD) như một biện pháp kiểm tra độ phân tán. Biện pháp này đòi hỏi việc sử dụng mô hình CAPM để ước tính các beta, rủi ro hệ thống để tính toán giá trị độ lệch tuyệt đối. Họ sử dụng giá cổ phiếu hàng ngày và chuỗi thời gian tỷ suất sinh lợi, cùng với vốn hóa thị trường cuối năm cho mỗi công ty và chỉ số tỷ suất sinh lợi có trọng số, để điều tra hành vi của những người tham gia thị trường ở nhiều thị trường quốc tế có liên quan đặc biệt liên quan đến xu hướng tâm lý bầy đàn của
- 12 họ. Không có bằng chứng của tâm lý bầy đàn đã được tìm thấy trên một phần của Hoa Kỳ và các thị trường Hồng Kông, tuy nhiên có ảnh hưởng một phần ở Nhật Bản. Đặc biệt, họ phát hiện thấy hành vi tâm lý bầy đàn rất rõ ràng ở hai thị trường mới nổi Hàn Quốc và Đài Loan. Theo Chang et al. (2000), có ba lý do chính giải thích tại sao mức độ ảnh hưởng của tâm lý bầy đàn ở Hàn Quốc và Đài Loan khác ở Mỹ và Hồng Kông. Thứ nhất, có một mức độ tương đối cao đối với sự can thiệp của chính phủ có thể dẫn đến sự khác biệt trong tâm lý bầy đàn giữa các nước. Những hành động này có thể bao gồm việc thay đổi tương đối thường xuyên trong chính sách tiền tệ trong các thị trường tài chính mới nổi. Thứ hai, sự khác biệt tâm lý bầy đàn có lẽ là kết quả của một tình trạng khan hiếm vi thông tin nhanh chóng và chính xác trong các thị trường này. Lượng ít ỏi các thông tin cần thiết về các công ty này có thể gây ra các nhà đầu tư tập trung hơn vào các tín hiệu kinh tế vĩ mô. Cuối cùng, sự hiện diện yếu tố tâm lý bầy đàn tại Hàn Quốc và Đài Loan là do hiện tượng đầu cơ nhằm thu được tỷ suất sinh lợi trong khoảng thời gian tương đối ngắn của các nhà đầu cơ nhiều hơn, có khả năng đây là một nguồn gốc của tâm lý bầy đàn Phù hợp với phương pháp tiếp cận của Chang et al. (2000), Tân et al. (2008) điều tra đặc điểm tâm lý bầy đàn trong việc niêm yết kép cổ phiếu A và B tại thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, biện pháp phân tán tỷ suất sinh lời trong trường hợp này là khác nhau. Ngoài ra, trong nghiên cứu của Tân et al. (2008) đã sử dụng tính toán độ lệch chuẩn được thông qua bởi Christie và Huang (1995) và dự đoán beta thông qua mô hình phát triển bởi Chang et al. (2000). Họ kiểm tra sự tồn tại của tâm lý bầy đàn ở cả cổ phiếu A và cổ phiếu B, trong
- 13 thị trường Thượng Hải và Thâm Quyến. Ngoài ra, họ cũng xem xét hiệu quả không đối xứng của tâm lý bầy đàn bằng cách thay đổi các tỷ suất sinh lợi thị trường, khối lượng giao dịch và mức độ biến động. Kết quả là, yếu tố tâm lý bầy đàn của cổ phiếu A thị trường Thượng Hải tăng trong điều kiện thị trường đang tăng trưởng, khối lượng giao dịch cao và có những biến động cao trong khi không có kết quả rõ rệt khi nghiên cứu cổ phiếu B. Trong thực tế, họ tiết lộ rằng có sự khác biệt trong cường độ của tâm lý bầy đàn ở mỗi thị trường có thể là kết quả của sự khác biệt trong đặc điểm của nhà đầu tư trong thị trường A và B. Có một tỷ trọng đáng kể các nhà đầu tư cá nhân trong nước trong thị trường cổ phiếu A, những người được cho là thiếu kiến thức và kinh nghiệm đầu tư đáng kể. Trong khi, những người tham gia chính trong thị trường B là những nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, những người có nhiều khả năng phân tích và trang bị đầy đủ kiến thức hơn so với các đối tác của họ trong thị trường cổ phiếu. Phát hiện của họ là không phù hợp với những người Demirer và Kutan (2006), người cũng được sử dụng phương pháp tiếp cận Christie và Huang (1995) trong phân tích của họ về những dữ liệu hàng ngày từ 375 mã chứng khoán Trung Quốc, nhưng không tìm thấy hành vi tâm lý bầy đàn. Tân et al. (2008) giải thích sự khác biệt này có thể là kết quả của sự khác biệt trong các mẫu của các công ty. Gleason et al. (2004) đã xác định được khả năng của sự hiện diện của hành vi tâm lý bầy đàn trong 9 khu vực của Exchange Traded Funds (ETFs) đã được giao dịch trên thị trường chứng khoán Mỹ. Kết quả của họ cho thấy không có bằng chứng về tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư trên biến động thị trường khắc
- 14 nghiệt. Họ lập luận rằng mỗi ETF thường là khu vực đại diện cho doanh nghiệp nhiều và vì vậy, mặc dù có một số lượng ít ỏi thông tin ở cấp công ty đến mức độ nào đó, các nhà đầu tư cũng có thể kết hợp thông tin về tất cả các doanh nghiệp trong ngành để có được một đánh giá tổng thể của ngành đó. Kết quả là, các nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định của riêng mình dựa trên các thông tin đầy đủ từ kết quả tổng hợp, từ đó không có sự hiện diện của tâm lý bầy đàn trong giao dịch ETF. Ngoài ra, Gleason et al. (2004) cũng chỉ ra rằng có một sự hiện diện yếu của một hiệu ứng bất đối xứng. Cụ thể, nghiên cứu này cung cấp hỗ trợ yếu cho các khái niệm mà các nhà đầu tư có xu hướng nghiêng về yếu tố tâm lý bầy đàn trong thị trường đi xuống. Sử dụng một phương pháp khác nhau, Kallinterakis (2007) kiểm tra tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu chéo để đo lường độ phân tán beta của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường để tìm hiểu yếu tố tâm lý bầy đàn có tồn tại không. Ông giả định rằng những định kiến hành vi có thể dẫn đến một biến dạng trong nhận thức của nhà đầu tư về mối quan hệ rủi ro về tỷ suất sinh lợi (risk return) đối với tài sản của họ. Nếu các nhà đầu tư theo tâm lý bầy đàn, tỷ suất sinh lời tài sản có thể thay đổi với sự chỉ đạo của thị trường. Kết quả là, beta của một cổ phiếu sẽ di chuyển từ vị trí cân bằng của nó và biến động theo những biến đổi trong tâm lý của các nhà đầu tư. Trên cơ sở của lập luận này, một thị trường cụ thể sẽ được xem xét để kiểm định lý thuyết tài chính hành vi nếu mức độ phân tán của beta cổ phiếu có giá trị nhỏ hơn (các beta tài sản có xu hướng hội tụ về một điểm thống nhất hoặc beta của thị trường).
- 15 Kallinterakis chọn sử dụng mẫu quan sát hàng tháng để giảm sai số ước lượng của các beta cũng như để đảm bảo quan sát đầy đủ để phát hiện tâm lý bầy đàn. Ông đã tìm thấy bằng chứng hỗ trợ sự hiện diện của tâm lý bầy đàn rộng thị trường đáng kể trên thị trường Việt Nam. Kallinteratis kết luận rằng giao dịch mỏng (thin trading) có tác dụng tích cực đến tâm lý bầy đàn. Tác giả cho rằng kết quả này có thể bị ảnh hưởng bởi một sự chậm trễ trong việc thực hiện các giao dịch mua bán có thể dễ dàng quan sát thấy trong các thị trường có tính thanh khoản kém như ở Việt Nam. Như một vấn đề của thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam chịu một số giới hạn về sự tham gia, chẳng hạn như hạn chế nhập cảnh cho các nhà đầu tư nước ngoài, hạn mức giao dịch và va chạm thị trường. Ông lập luận rằng tính thanh khoản kém đáng kể tại các thị trường mới nổi có thể gây ra tần số thấp hơn trong việc thực hiện các ngành nghề so với các thị trường vốn phát triển. Như vậy, tích lũy thặng dư cung/ cầu trong những ngày giao dịch 'sôi động' có thể xảy ra, dẫn đến một khả năng phát triển lớn hơn của sự tiến hóa của mua / bán tâm lý bầy đàn vào những ngày như vậy. Waweru et al. (2008) đề xuất rằng tâm lý bầy đàn có thể tạo đà cho kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, tác động tâm lý bầy đàn có thể phá vỡ khi đạt đến một mức nhất định bởi vì chi phí để thực hiện hành vi này có thể tăng lên để có được sự gia tăng tỷ suất sinh lợi bất thường. Waweru et al. (2008) xác định các quyết định đầu tư chứng khoán mà nhà đầu tư có thể bị ảnh hưởng bởi những người khác: mua, bán, lựa chọn cổ phiếu, chiều dài thời gian nắm giữ cổ phiếu, và khối lượng cổ phiếu giao dịch. Waweru et al. kết luận rằng quyết
- 16 định mua bán của nhà đầu tư ảnh hưởng đáng kể bởi quyết định của người khác, và tâm lý bầy đàn sẽ giúp nhà đầu tư có một cảm giác ác cảm với sự hối tiếc về quyết định của mình. Đối với các quyết định khác: sự lựa chọn cổ phiếu, chiều dài của thời gian để nắm giữ cổ phiếu, và khối lượng của cổ phiếu đối với thương mại, các nhà đầu tư dường như ít bị ảnh hưởng bởi tâm lý bầy đàn. Tuy nhiên, những kết luận được đưa ra trường hợp các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân có xu hướng bầy đàn trong việc đầu tư nhiều hơn so với các nhà đầu tư tổ chức. Như được chỉ ra bởi các tài liệu thảo luận ở trên, hành vi tâm lý bầy đàn thường được tìm thấy cả trong thị trường phát triển cũng như trong các thị trường mới nổi. Hơn nữa, lý do đằng sau sự tồn tại hoặc không tồn tại của tâm lý bầy đàn giữa các thị trường cũng khác nhau. Tâm lý bầy đàn có thể là kết quả của sự thiếu thông tin vi mô cần thiết hoặc do mức độ khác nhau của sự can thiệp của chính phủ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn công việc của nhân viên khối văn phòng ở TP.HCM
138 p | 1468 | 548
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 853 | 193
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
148 p | 600 | 171
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Marketing dịch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
135 p | 562 | 156
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp phát triển khu chế xuất và khu công nghiệp Tp.HCM đến năm 2020
53 p | 405 | 141
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng của ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)
98 p | 450 | 128
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của hoạt động tín dụng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
116 p | 511 | 128
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển du lịch biển Đà Nẵng
13 p | 404 | 70
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định
26 p | 399 | 64
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong hộ gia đình tới thu nhập và an toàn lương thực của hộ nông dân huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên
110 p | 345 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 351 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
143 p | 228 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý và khai thác hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện biến đổi khí hậu
83 p | 238 | 21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh
26 p | 233 | 19
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
26 p | 228 | 16
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển tổng công ty xây dựng số 1 thành tập đoàn kinh tế mạnh trong tiến trình hội nhập quốc tế
12 p | 187 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
26 p | 255 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn