intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

28
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ VTHKCC ở đô thị, phân tích thực trạng dịch vụ VTHKCC ở TP Hà Nội. Từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc phát triển dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGUYỄN THÙY ANH Phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ Hµ néi - 2008
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGUYỄN THÙY ANH Phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội Mã số : 60 31 01 luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Đình Thiên Hµ néi - 2008
  3. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đô thị hoá, cơ giới hoá, công nghiệp hoá và toàn cầu hoá là bốn xu thế chung của các nước trên thế giới nhất là đối với các nước đang phát triển. Quá trình đô thị hoá vừa đưa lại những cơ hội, đồng thời đặt ra những thách thức đối với phát triển bền vững đô thị. Một mặt, đô thị hoá thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp – thương mại – dịch vụ và GDP ngày càng cao hơn, đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống đô thị được mở rộng một cách toàn diện và vững chắc, đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chế xuất, các khu đô thị mới; mặt khác, gây ra những tác động tiêu cực như: làm cho các dòng dịch từ nông thôn vào đô thị để tìm cơ hội có thu nhập cao hơn, sức ép dân số đô thị vốn đã quá tải càng làm cho sự quá tải ấy càng nghiêm trọng hơn. Dân số đô thị tăng nhanh, cơ sở hạ tầng đô thị không phát triển kịp một cách tương xứng, làm cho sức ép quá tải ngày càng lớn, chưa có khả năng cân bằng. Môi trường đô thị xuống cấp, tệ nạn xã hội khu vực đô thị càng phức tạp hơn. Đặc biệt tại các đô thị lớn của Việt Nam đang đứng trước tình trạng ách tắc, tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. Quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội. Trong những năm gần đây, thủ đô Hà Nội đã có sự quan tâm đến việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị. Tuy nhiên, do thiếu một quy hoạch tổng thể và đồng bộ về phát triển giao thông đô thị, thành phố đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về việc đi lại của người dân. Khi đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị không theo kịp với sự phát triển của thành phố và tốc độ gia tăng phương tiện giao thông thì tình trạng ách tắc, tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường sẽ là vấn đề thường nhật. Vì vậy phát triển dịch vụVTHKCC là biện pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu sự tác động tiêu cực do mặt trái của quá trình đô thị hóa tạo ra. 1
  4. Do đó trên quan điểm xã hội, phát triển dịch vụ VTHKCC gây ngoại ứng tích cực là giảm thiểu lượng phương tiện cá nhân, giảm mật độ phương tiện lưu thông trong đô thị, giải quyết nạn ách tắc và tai nạn giao thông, đảm bảo trật tự an toàn giao thông và mỹ quan đô thị, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững. Trên quan điểm kinh tế, phát triển VTHKCC sẽ tiết kiệm chi phí cho xã hội, thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia và đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị, tiết kiệm được vốn đầu tư cho đô thị. Còn đối với cá nhân người dân thì giảm được thời gian đi lại, đảm bảo sức khoẻ và an toàn đồng thời tiết kiệm chi phí đi lại. Phát triển hệ thống VTHKCC nhằm giải quyết vấn đề giao thông có tổ chức và thoả mãn tối ưu nhu cầu đi lại của người thủ đô. Đứng trước tình hình mất cân đối trong giao thông như hiện nay, thì TP Hà Nội xác định biện pháp duy nhất và hiệu quả nhất ở giai đoạn hiện nay là một hệ thống VTHKCC mạnh và liên thông. Sức hấp dẫn của hệ thống VTHKCC phải khiến người dân tự nguyện chuyển từ việc sử dụng phương tiện cá nhân sang sử dụng phương tiện vận tải công cộng. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “ Phát triển dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội” có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Thấy rằng đã đến lúc phát triển giao thông công cộng phải được xem là một trong những giải pháp mang tính chiến lược nhằm giải quyết giao thông đô thị ỏ TP Hà Nội. Một hệ thống giao thông liên thông, bền vững, thuận tiện, an toàn, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đi lại ngày càng cao và đa dạng của người dân chính là tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu Việc nghiên cứu giải pháp phát triển dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội, trong những năm gần đây đã được các cấp, các ngành và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như: 2
  5. - Hoàn thiện phương pháp lựa chọn phương tiện VTHKCC bằng xe buýt ở thành phố Hà Nội. - Hoàn thiện phương thức tổ chức quản lý VTHKCC bằng xe buýt ở đô thị. - Những biện pháp nâng cao chất lựợng dịch vụ VTHKCC bằng ô tô. - Tăng trưởng kinh tế và vấn đề phát triển giao thông đô thị. Và rất nhiều các đề tài khoa học khác liên quan đến vấn đề này được nêu ở danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình nghiên cứu khoa học về dịch vụ VTHKCC. Trên cơ sở đó tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn những vấn đề cơ bản về dịch vụ VTHKCC như: khái niệm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng. Cùng với việc phân tích đánh giá thực trạng dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội để từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp, nhằm đẩy mạnh phát triển hơn nữa dịch vụ VTHKCC. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ VTHKCC ở đô thị, phân tích thực trạng dịch vụ VTHKCC ở TP Hà Nội. Từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc phát triển dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển dịch vụ VTHKCC ờ Hà Nội. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Đánh giá thực trạng dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở những tài liệu về ngành giao thông vận tải nói chung, VTHKCC bằng xe buýt nói riêng, thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, kết hợp với việc khảo sát thực tế, quá trình nghiên cứu đề tài được sử dụng kết hợp 3
  6. các phương pháp sau đây: thống kê, dự báo, phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tế… để đưa ra những đánh giá, nhận định, kết luận, đề xuất… nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ VTHKCC ở đô thị như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, các nhân tố ảnh hưởng, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng. - Tìm hiểu một số kinh nghiệm phát triển dịch vụ VTHKCC của một số nước như: Ấn Độ, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đức… - Phân tích thực trạng dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội từ năm 2000 cho đến nay – những điểm mạnh cũng như những điểm yếu cần khắc phục. - Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc phát triển dịch vụ VTHKCC ở Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Với mục tiêu trên, ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 3 chương với kết cấu cơ bản sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiến về phát triển dịch vụ VTHKCC ở đô thị. Chương 2: Thực trạng dịch vụ VTHKCC ở TP Hà Nội. Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ VTHKCC ở TP Hà Nội. 4
  7. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ VTHKCC Ở ĐÔ THỊ 1.1 Tổng quan về dịch vụ VTHKCC 1.1.1 Khái niệm về dịch vụ Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch vụ làm cho việc nêu một định nghĩa rõ ràng về dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa các quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau. Có thể thấy rằng, dù có nhiều cách tiếp cận nhưng cách định nghĩa kinh điển dựa trên tính chất của dịch vụ là định nghĩa chuyển tải được những nội dung cơ bản và đầy đủ nhất về dịch vụ: “Dịch vụ là các hoạt động của con người, được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình và không thể cầm nắm được”. Định nghĩa này nêu lên được hai đặc điểm cơ bản của dịch vụ. Thứ nhất, dịch vụ là một “sản phẩm”, là kết quả của quá trình lao động và sản xuất nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Thứ hai, khác với hàng hóa là cái hữu hình, dịch vụ là vô hình, phi vật chất không thể lưu trữ được. Dịch vụ không phải là của cải vật chất dưới dạng những sản phẩm hữu hình nhưng chúng lại tạo ra giá trị thặng dư do có sự khai thác sức lao động, tri thức, chất xám của con người. Dịch vụ kết tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như: tài chính, vận tải, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn pháp lý… Quan niệm về dịch vụ của doanh nghiệp phản ánh mối tương tác qua lại giữa doanh nghiệp và khách hàng. Bằng cách đáp ứng những nhu cầu trừu tượng của khách hàng như lắng nghe khách hàng với sự thông cảm, chia sẻ khi họ gặp phải một vấn đề khó khăn hay đem đến cho khách hàng nhiều sự lựa chọn khác nhau khi không thể đáp ứng chính xác cái mà họ cần, doanh nghiệp có thể bỏ xa các đối tượng cạnh tranh trong cuộc đua về chất lượng phục vụ. 5
  8. Thông thường, khách hàng có sáu nhu cầu cơ bản sau đây khi sử dụng một dịch vụ: - Sự thân thiện: đây là yếu tố cơ bản nhất. Khách hàng nào cũng thích được đón tiếp, thân thiện, lịch sự và niềm nở. - Sự thấu hiểu và cảm thông: khách hàng luôn muốn được lắng nghe, được giãi bày những khó khăn, rắc rối của họ. - Sự công bằng: được đối xử công bằng cũng là một trong những yêu cầu hàng đầu của khách hàng khi sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp. - Sự kiểm soát: khách hàng muốn có cảm giác rằng mình giữ được thế chủ động trong quan hệ với doanh nghiệp, có khả năng chi phối quá trình cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp để đạt được kết quả mà họ mong đợi. - Sự lựa chọn: khách hàng luôn mong muốn doanh nghiệp đem đến cho họ nhiều sự lựa chọn khác nhau để có được cái mà họ cần. - Các thông tin: khách hàng muốn được hướng dẫn, tư vấn về sản phẩm cũng như các chính sách, thủ tục mà họ sẽ phải gặp và làm theo khi giao dịch với doanh nghiệp. Để đem đến cho khách hàng một dịch vụ có chất lượng tốt nhất, phải chủ động đáp ứng cho khách hàng những nhu cầu cơ bản - những thứ khá trừu tượng, chứ không chỉ cung cấp cho họ những thứ rõ ràng, hiển nhiên. Các nhu cầu của khách hàng không chỉ thay đổi theo cá tính của họ mà còn thay đổi theo đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi muốn thỏa mãn nhu cầu đi lại, khách hàng sẽ sử dụng phương tiện có được sự thoải mái, tiện lợi và an toàn. Nhưng khi tìm đến một dịch vụ tư vấn, kế toán và kiểm toán, điều khách hàng mong đợi là sự chính xác, tin cậy. Có thể thấy được ngành dịch vụ mang những nét đặc thù sau: - Giá trị sử dụng của sản phẩm dịch vụ không có hình thái vật chất cụ thể mà tồn tại dưới hình thức phi vật thể. 6
  9. - Quá trình sản xuất ra hàng hoá dịch vụ hướng phục vụ trực tiếp người tiêu dùng với tư cách là những khách hàng, quá trình sản xuất và quá trình tiêu dùng diễn ra đồng thời. - Chất lượng dịch vụ khó xác định nó phụ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như thời gian, địa điểm, người phục vụ ngoài ra nó còn phụ thuộc vào từng quan điểm của người tiêu dùng dịch vụ đó. - Do không mang hình thái vật thể và do quá trình sản xuất đồng thời cũng là quá trình tiêu dùng nên hàng hoá dịch vụ không thể tồn tại độc lập, không thể tích luỹ hay dự trữ. Trên thực tế còn tồn tại một cách phân biệt các loại dịch vụ xét theo vai trò của Nhà nước và thị trường trong việc cung ứng nó (sơ đồ 1.1): Sơ đồ 1.1 Dịch vụ do thị trường đảm nhận Dịch vụ do Nhà nước và thị trường cùng đảm nhận Dịch vụ cốt lõi do Nhà nước đảm nhận Theo đó, có thể chia ra 3 loại dịch vụ: - Dịch vụ cốt lõi có thể do Nhà nước cung ứng. Đây là loại dịch vụ quan trọng, phục vụ cho các nhu cầu tối thiểu cần thiết trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cung ứng các loại dịch vụ này cho xã hội. Chi phí để cung cấp các loại dịch vụ này được chi trả qua thuế. Như vậy, trong các loại dịch vụ cốt lõi có bao gồm dịch vụ hành chính công và một số DVCC cơ bản như: quốc phòng, an ninh, cứu hỏa, tiêm chủng… 7
  10. - Loại dịch vụ do Nhà nước và thị trường cùng đảm nhận. Đây là nhóm dịch vụ tuy thuộc về trách nhiệm của Nhà nước phải đảm bảo cho xã hội, song Nhà nước có thể trực tiếp cung ứng hoặc ủy nhiệm cho các thành phẩn ngoài Nhà nước cung ứng dưới nhiều hình thức. Ở đây, Nhà nước giữ vai trò là người điều tiết, hỗ trợ để các chủ thể cung ứng đầy đủ và đảm bảo yêu cầu của Nhà nước về các loại dịch vụ này. Việc sử dụng các loại dịch vụ này có thể phải trả tiền một phần hoặc toàn bộ tùy theo khả năng kinh phí của Nhà nước đến đâu. - Loại dịch vụ do thị trường đảm nhận: đây là loại dịch vụ mang tính cá nhân đáp ứng nhu cầu từng thành viên riêng lẻ trong xã hội. Loại dịch vụ này được thực hiện hoàn toàn theo cơ chế thị trường và quy luật giá trị, quy luật cung cầu của thị trường. Nhà nước không can thiệp vào việc cung ứng các loại dịch vụ này, mà chỉ thực hiện sự quản lý bằng pháp luật ở tầm vĩ mô. Trên thực tế, có những loại dịch vụ rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng động nhưng không một tư nhân nào muốn cung ứng vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc vì tư nhân đó không đủ quyền lực và vốn để tổ chức việc cung ứng. Đối với những loại dịch vụ này, không ai khác ngoài Nhà nước có khả năng và trách nhiệm cung ứng cho nhân dân. Cũng có những loại dịch vụ mà tư nhân có thể cung cấp nhưng cung cấp không đầy đủ, hoặc thị trường tư nhân tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, gây tình trạng độc quyền, đẩy giá cả lên cao, làm ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng… Khi đó Nhà nước phải có trách nhiệm trực tiếp cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát thị trường nhằm đảm bảo việc cung ứng dịch vụ đó được bình thường, phục vụ nhu cầu cơ bản của con người. Do tính chất phục vụ các nhu cầu chung của cả cộng động, loại dịch vụ này còn được gọi là “Dịch vụ công cộng ”. DVCC là các hoạt động phục vụ các lợi ích chung tối cần thiết của cả cộng đồng, do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công 8
  11. bằng xã hội. DVCC nhằm thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu và quyền cơ bản của người dân trong việc hưởng thụ các của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Xét trên góc độ kinh tế học, DVCC là các hoạt động cung ứng cho xã hội những hàng hóa công cộng bao gồm hàng hóa công cộng thuần túy và hàng hóa công cộng không thuần túy. Hàng hóa công cộng thuần túy là loại hàng hóa mà khi nó được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra việc sử dụng nó và việc tiêu dùng của mỗi người không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác. Hàng hóa công cộng không thuần túy là những hàng hóa thỏa mãn một trong hai đặc trưng trên. DVCC là những hoạt động cung ứng các hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy, bao gồm cả những hàng hóa công cộng có tính chất cá nhân thiết yếu được Nhà nước đảm bảo cung ứng. Có thể phân loại DVCC theo các tiêu chí khác nhau. Trên góc độ kinh tế học, gắn với phạm trù hàng hóa công cộng, xét theo tính chất công cộng hay cá nhân của DVCC vụ có thể phân thành: - DVCC thuần túy: là những dịch vụ không thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng và cũng không thiết định suất sử dụng, bởi vì tiêu dùng của mỗi cá nhân không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác đồng thời khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc tiêu dùng nó chẳng hạn như cứu hỏa, chiếu sáng công cộng… - DVCC không thuần túy: là những loại DVCC có một trong hai đặc tính trên nhưng ở mức độ khác nhau, chẳng hạn có thể loại trừ một ai đó ra khỏi việc sử dụng dịch vụ này nhưng việc loại trừ rất tốn kém hoặc không đáng để loại trừ. - DVCC có tính chất cá nhân: là loại dịch vụ có thể phân chia theo khẩu phần để sử dụng thông qua giá cả. Dịch vụ VTHKCC là DVCC có tính chất cá nhân. Về nguyên tắc, loại dịch vụ có tính chất cá nhân có thể do tư nhân cung cấp, song việc tư nhân cung cấp các dịch vụ này thường dãn đến những tổn thất về mặt xã hội. Phân loại theo mức độ thu tiền trực tiếp từ người sử dụng: 9
  12. Thực ra mọi DVCC đều phải thu tiền của người sử dụng. Nhưng chúng chỉ khác nhau ở hình thức trực tiếp hay gián tiếp thu tiền từ những người sử dụng dịch vụ. Có thể phân thành các loại sau: - DVCC không thu tiền trực tiếp của người sử dụng: đó là những DVCC được cung ứng nhưng không thu tiền trực tiếp của những người sử dụng mà thu gián tiếp thông qua tiền đóng thuế của mọi người dân. - DVCC phải trả tiền một phần: là những dịch vụ được cung cấp chung cho mọi người nhưng chỉ trực tiếp thu một phần tiền của người sử dụng còn một phần khác được bù đắp gián tiếp thông qua ngân sách Nhà nước như VTHKCC… - DVCC phải trả tiền toàn bộ: là những dịch vụ được cung ứng dựa trên nguyên tắc thu toàn bộ chi phí bỏ ra. Các dịch vụ có thể thu tiền toàn bộ là DVCC có tính cá nhân như điện, nước… Tại sao Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm cung ứng các loại DVCC? Đối với những DVCC thuần túy như cứu hỏa, tiêm chủng…nếu tư nhân đứng ra cung cấp loại dịch vụ này thì họ sẽ phải thu tiền của mọi người. Song sẽ có những người cho rằng họ không cần sử dụng dịch vụ này hoặc không thể trả tiền cho DVCC vụ đó. Dẫn tới hai hậu quả, thứ nhất người ta không thể loại trừ cá nhân đó ra khỏi việc hưởng thụ DVCC này. Thứ hai, không có tư nhân nào có đủ quyền lực và vốn để huy động các nguồn lực cần thiết cho việc cung ứng các DVCC thuần túy. Đối với những DVCC không thuần túy, việc tư nhân cung cấp các DVCC vụ này là không hiệu quả. Việc tư nhân cung ứng các DVCC này sẽ làm giảm phúc lợi. Nếu công ty tư nhân cung cấp một DVCC không thuần túy nào đó thì công ty sẽ bắt khách hàng nộp tiền sử dụng dịch vụ, điều đó không khuyến khích các cá nhân sử dụng, dẫn tới việc sử dụng dưới mức khả năng cung ứng của dịch vụ này. 10
  13. Đối với DVCC vụ công cộng mang tính cá nhân như điện, nước, giao thông vận tải… thì chi phí cận biên lớn đối với việc cung cấp cho thêm nhiều người là lý do mà tư nhân không muốn đứng ra đảm nhiệm. Một nguyên nhân khác dẫn tới việc Nhà nước phải đảm bảo cung ứng các loại DVCC vụ này là do thất bại của thị trường. Các công ty tư nhân theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vì phúc lợi của quốc gia, dẫn tới độc quyền tự nhiên, thủ tiêu cạnh tranh của thị trường. Do các các hãng khác không thể tham gia vào ngành, các hãng độc quyền có thể định giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Ngoài ra, Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cung cấp các DVCC vì để cho thị trường cung ứng thì sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng trong xã hội. Như vậy, các DVCC hết sức đa dạng, với những nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc cung ứng nó cho xã hội. Do tính đa dạng của các loại DVCC nên việc Nhà nước đảm bảo cung ứng mỗi loại DVCC cũng sẽ khác nhau về mức độ, cách thức, giải pháp… Các cách thức can thiệp của Nhà nước vào việc cung cấp DVCC Có thể dưới các hình thức sau: - Nhà nước trực tiếp cung ứng thông qua hoạt động của các doanh nghiệp công ích hoặc các đơn vị sự nghiệp. - Nhà nước không trực tiếp cung ứng mà cho phép tư nhân cung ứng các DVCC nhất định. Nhà nước thực hiện sự can thiệp gián tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ đó nhằm đảm bảo các mục tiêu xã hội mà Nhà nước đề ra. Các biện pháp can thiệp gián tiếp gồm:  Thứ nhất, Nhà nước sử dụng các quy chế để điều tiết và kiểm soát các doanh nghiệp và các tổ chức tư nhân trong việc cung ứng các DVCC theo yêu cầu của Nhà nước. 11
  14.  Thứ hai, Nhà nước sử dụng các biện pháp miến giảm thuế hoặc trợ cấp cho những doanh nghiệp tư nhân nào cung ứng các DVCC.  Thứ ba, Nhà nước trợ cấp cho những người tiêu dùng qua thuế hoặc trợ cấp trực tiếp.  Thứ tư, cho phép tư nhân cung ứng DVCC dưới sự điều tiết của Nhà nước để đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động theo đúng hướng mong muốn. Nhà nước có thể ký hợp đồng trực tiếp với doanh nghiệp để mua lại các dịch vụ đó và giữ quyền phân phối. Tóm lại, bất kỳ một hình thức can thiệp nào của Nhà nước, bên cạnh những ưu thế (như đảm bảo cung ứng cho xã hội những dịch vụ tối cần thiết mà không một tư nhân nào có thể cung ứng, hoặc thị trường đảm nhận hoàn toàn sẽ dẫn đến bất bình đẳng, tổn hại đến lợi ích xã hội …) đếu có những hạn chế nhất định. Những hạn chế này xuất hiện khi sự can thiệp của Nhà nước là không phù hợp, tạo ra những méo mó nhất định. Các DVCC nào mà tư nhân có thể cung ứng cho xã hội (bằng cách tự tài trợ hoặc Nhà nước tài trợ) thì Nhà nước có thể chuyển giao cho tư nhân. Nhà nước chỉ nên đảm nhận cung ứng những DVCC mà: - Chi phí cho việc cung ứng các dịch vụ này thường rất lớn, khả năng thu hồi vốn rất khó và lâu dài. - Không có một cá nhân nào có đủ quyền lực để huy động các nguồn lực cho việc cung ứng DVCC vụ này. - Tư nhân cung ứng sẽ không hiệu quả đối với sự phát triển và gây sự thiếu công bằng trong xã hội. Trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ, XHH là một giải pháp quan trọng để cải tiến việc cung ứng DVCC. Việc XHH DVCC thường đem lại hiệu quả cao hơn so với sự cung ứng bao cấp của Nhà nước. Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân sau: 12
  15. - Tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp cung ứng đồng thời tạo cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Các đơn vị tham gia cung ứng luôn luôn phải đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả để có thể tồn tại trong cơ chế cạnh tranh. - Việc XHH các DVCC tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào các hoạt động này, phát huy được khả năng và năng lực tiềm tàng trong xã hội. Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, khối lượng DVCC phải cung ứng cho xã hội lại quá lớn thì việc huy động một phần sự đóng góp của nhân dân sẽ làm giảm gánh nặng cho ngân sách. - XHH DVCC trong điều kiện phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng trong cơ chế thị trường ở nước ta là một giải pháp cần thiết góp phần tạo ra sự công bằng trong tiêu dùng DVCC vụ công. Tất cả những hoạt động cung ứng DVCC dù được tiến hành dưới hình thức nào thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc đảm bảo cung ứng chúng. 1.1.2 Khái niệm dịch vụ VTHKCC Hiện tại có nhiều khái niệm khác nhau về VTHKCC. Chẳng hạn, VTHKCC là tập hợp các phương thức vận tải của Nhà nước thực hiện chức năng vận chuyển hành khách phục vụ sự đi lại của người dân trong thành phố. Theo nghĩa rộng VTHKCC là hoạt động trong đó sự vận chuyển được cung cấp cho hành khách để thu tiền cước bằng những PTVT không phải của họ hay VTHKCC là tập hợp các PTVT phục vụ đám đông có nhu cầu đi lại trong thành phố. Tóm lại, VTHKCC là loại hình vận chuyển trong đô thị có thể đáp ứng khối lượng lớn nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư một cách thường xuyên, liên tục theo thời gian xác định, theo hướng và tuyến ổn định trong thời kỳ nhất định. 13
  16. Ở Việt Nam theo “Quy định tạm thời về vận chuyển hành khách công cộng trong thành phố” của Bộ GTVT thì: VTHKCC là tập hợp các phương thức, phương tiện vận tải vận chuyển hành khách đi lại trong thành phố ở cự ly 8 hành khách (không kể lái xe). Trong kinh tế học hiện đại, ngành vận tải được xếp vào ngành sản xuất dịch vụ, sản phẩm vận tải là sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ vận tải gồm 3 yếu tố cấu thành: dịch vụ đầu cuối, quá trình vận chuyển và dịch vụ cung cấp trong quá trình trong quá trình vận chuyển. - Quá trình vận chuyển là giai đoạn dịch chuyển hàng hoá hoặc hành khách từ điểm xuất phát đến đích. Giai đoạn này chỉ tiêu an toàn được chú trọng nhất. - Dịch vụ đầu cuối là toàn bộ công tác phục vụ hành khách (hàng hoá) trước và sau quá trình vận chuyển cũng như toàn bộ các dịch vụ liên quan đến nó như: bán vé, đóng gói bao kiện, ký kết hợp đồng… - Dịch vụ cung cấp trong quá trình vận chuyển là tất cả các dịch vụ thương mại cũng như dịch vụ kỹ thuật cung cấp cho khách hàng trong giai đoạn vận chuyển như ăn uống, báo chí…Trong vận chuyển bằng xe buýt thì yếu tố này không quan trọng. Có thể rút ra khái niệm tổng quát chất lượng dịch vụ vận tải hành khách công cộng: Chất lượng dịch vụ vận tải hành khách là một tập hợp những tính chất của dịch vụ vận tải có khả năng làm thỏa mãn nhu cầu đi lại bằng phương tiện vận tải của hành khách, phù hợp với công dụng hay mục đích của dịch vụ vận tải đó. Chất lượng dịch vụ VTHKCC là một tập hợp những tính chất lượng của dịch vụ VTHKCC có khả năng làm thoả mãn nhu cầu đi lại bằng phương tiện vận tải công cộng của hành khách, phù hợp với công dụng hay mục đích của dịch vụ vận tải đó. 1.2 Đặc điểm và vai trò dịch vụ VTKHCC đối với đô thị 14
  17. 1.2.1 Đặc điểm của dịch vụ VTHKCC 1.2.1.1 Đặc điểm của dịch vụ vận tải Sản phẩm vận tải là sự di chuyển hàng hoá và hành khách trong một không gian nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó vận tải có những đặc điểm sau: - Sản xuất trong quá trình vận tải là quá trình tác động về mặt không gian chứ không tác động về mặt kỹ thuật vào đối tượng lao động. Trong vận tải không có đối tượng lao động như các ngành sản xuất khác mà chỉ có đối tượng chuyên chở gồm hàng hoá và hành khách mà sản phẩm là sự di chuyển hàng hoá và hành khách. - Sản xuất vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất mới. Sản phẩm vận tải là sự di chuyển vị trí của đối tượng chuyên chở và bản chất của sản phẩm vận tải là sự bảo toàn đối tượng vận tải trong quá trình thay đổi vị trí chứ không phải làm thay đổi hình dáng, tính chất lý hoá của đối tượng chuyên chở. - Sản phẩm vận tải không có hình dáng kích thước cụ thể, không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó. Nó được hình thành trong quá trình vận tải đồng thời quá trình sản xuất là quá trình tiêu thụ sản phẩm và quá trình vận tải kết thúc thì quá trình tiêu thụ cũng kết thúc. - Sản phẩm vận tải không thể dự trữ được mà chỉ có năng lực vận tải mới có thể dự trữ được nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải tăng lên đột biến theo mùa, vụ. 1.2.1.2 Đặc điểm cơ bản của dịch vụ VTHKCC Vận tải hành khách nói chung và vận tải đô thị nói riêng là những phương thức đảm bảo phục vụ thoả mãn các nhu cầu đi lại của người dân. Trong đô thị VTHKCC là một bộ phận cấu thành của hệ thống giao thông vận tải đô thị và có quan hệ mật thiết với các bộ phận khác trong hệ thống đó (hình 1.1). Đối với VTHK chủ quản hoạt động phục vụ chủ yếu trong các công ty, nhà máy… chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nhu cầu đi lại. 15
  18. VTHKCC và VTHK cá nhân có ảnh hưởng tới mọi mặt hoạt động của đô thị. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và chủ trương chính sách của từng nước, từng đô thị mà tỷ lệ hai loại giao thông này khác nhau. Xu hướng chung là cần ưu tiên phát triển giao thông công cộng, hạn chế giao thông cá nhân để tránh tình trạng giao thông cá nhân phát triển quá mức gây hỗn loạn trên đường phố. Trong phát triển giao thông cộng cộng, người ta chủ trương phát triển các phương tiện có sức chứa lớn nhằm giảm mật độ giao thông trên đường. Từ đó tăng được tốc độ, tiết kiệm đất giành cho giao thông vận tải (cả động và tĩnh). Hệ thống giao thông vận tải đô thị là tập hợp các công trình, các phương tiện khác nhau và con đường đảm bảo sự đi lại của các phương tiện, hay giao thông đô thị bao gồm: - Hệ thống giao thông động: là hệ thống đường xá, các công trình trên đường, vỉa hè… - Hệ thống giao thông tĩnh: là hệ thống các điểm đỗ, gara, bến bãi phục vụ cho hoạt động của phương tiện và sự đi lại của hành khách trên tuyến. - Hệ thống vận tải: bao gồm các phương tiện đi lại trên đường, nếu theo đối tượng phục vụ được chia thành giao thông vận tải hành khách, hàng hoá, vận tải chuyên dụng. 16
  19. GTVT ĐÔ THỊ HỆ THỐNG GIAO HỆ THỐNG VẬN TẢI THÔNG Hệ thống Hệ thống Vận tải Vận tải Vận tải giao thông giao thông hành khách hàng hoá chuyên động tĩnh dụng thông thông động động Công cộng Chủ quản Cá nhân Hình 1.1: Mô phỏng GTVT đô thị Hệ thống giao thông vận tải đô thị đã tạo ra mạng lưới đường, hệ thống phương tiện và hệ thống công trình phục vụ nhu cầu đi lại của người dân đô thị. Trong đô thị, thời gian một chuyến đi thường không quá 30 phút, trường hợp đặc biệt không quá 45 phút. Điều đó không những đòi hỏi phương tiện có tính năng tốt, được sử dụng hợp lý mà mạng lưới đường, cách tổ chức giao thông phải được quy hoạch, thiêt kế và quản lý tốt. VTHKCC có những đặc điểm chủ yếu sau: - Các tuyến xe của VTHKCC có khoảng cách vận chuyển ngắn do VTHKCC diễn ra trong phạm vi của một thành phố nhằm thực hiện việc giao lưu hành khách giữa các vùng trong thành phố với nhau. Trên tuyến, khoảng cách giữa các điểm đỗ ngắn (trung bình từ 400-600 mét). - Yêu cầu chạy xe rất cao: xe phải chạy với tần xuất lớn, độ chính xác về thời gian và không gian cao để một mặt đảm bảo chất lượng phục vụ hành khách mặt khác nhằm giữ gìn trật tự, an toàn giao thông đô thị. 17
  20. - Thời gian hoạt động của VTHKCC chủ yếu vào ban ngày: do VTHKCC phục vụ nhu cầu thường xuyên ổn định của xã hội (chủ yếu là nhu cầu đi làm, đi học). - Năng xuất vận tải thấp (chỉ bằng khoảng 30%-35% so với năng xuất của xe chạy đường dài) do cự ly ngắn, dừng xe tại nhiều điểm, tốc độ thấp… - Để đảm bảo yêu cầu phục vụ hành khách an toàn, nhanh chóng, thuận tiện và văn minh lịch sự, do đó phương tiện phải thông thoáng, phải đủ ánh sáng và sạch đẹp, tiện nghi. - Có các công trình và trang thiết bị khác phục vụ VTHKCC đồng bộ (nhà chờ, các điểm đỗ, hệ thống thông tin…) Những đặc điểm trên đây là một trong những yếu tố chi phối hoạt động của VTHKCC và có tác động trực tiếp đến khả năng phát triển VTHKCC. Về phương diện đầu tư, dịch vụ VTHKCC có những nét đặc thù chính sau: - Mục tiêu của việc đầu tư phát triển VTHKCC không đơn thuần tìm kếm lợi nhuận mà còn nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội và tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế xã hội. - VTHKCC là một bộ phận của GTVT đô thị thuộc kết cấu hạ tầng của hệ thống giao thông đô thị, là tiền đề cho việc phát triển các chức năng đô thị khác. việc đầu tư phát triển VTHKCC luôn chiếm vị trí quan trọng trong việc phát triển đô thị và đi trước một bước cả về năng lực và trình độ công nghệ. - VTHKCC là ngành kinh tế kỹ thuật đòi hỏi tính hệ thống và đồng bộ cao, bởi vậy quy mô đầu tư ban đầu lớn làm hạn chế các nhà đầu tư có khả năng bỏ vốn vào lĩnh vực này. - VTHKCC là ngành có chu kỳ kinh doanh dài, đầu tư vào VTHKCC thường gặp nhiều yếu tố bất định, nằm ngoài khả năng tự điều tiết của các nhà đầu tư tư nhân, dễ gặp rủi ro, do vậy cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0