intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

41
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu chính của nghiên cứu là xem xét chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor cải tiến hay không. Bài nghiên cứu kiểm chứng mối quan hệ giữa thay đổi lãi suất cơ bản và tỷ lệ lạm phát, chênh lệch sản lượng, lãi suất cho vay, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng cung tiền, giá chứng khoái, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM -------------------------- VŨ THỊ HOA QUY TẮC TAYLOR VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2015
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM -------------------------- VŨ THỊ HOA QUY TẮC TAYLOR VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC ĐỊNH Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt Nam” là kết quả nghiên cứu riêng của tôi có sự hỗ trợ từ Thầy hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Định. Các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc, trung thực và được phép công bố. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu của luận văn. Trân trọng. TP. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2015 Tác giả luận văn Vũ Thị Hoa
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt Danh mục các bảng TÓM TẮT ............................................................................................................................ 1 CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU................................................................................................. 2 1.1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................2 1.2. Mục tiêu của nghiên cứu ...................................................................................9 1.3. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................10 1.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................10 1.5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................11 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VÀ KHUNG LÝ THUYẾT ............................................................................................................................ 12 2.1. Khung lý thuyết ...............................................................................................12 2.1.1. Quy tắc Taylor tuyến tính ........................................................................12 2.1.2. Quy tắc Taylor phi tuyến..........................................................................16 2.2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây ..............................................................17 2.2.1. Các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới .......................................17 2.2.2. Các nghiên cứu về quy tắc Taylor tại Việt Nam ......................................23 CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................... 26 3.1. Giả thuyết nghiên cứu .....................................................................................26 3.2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ...............................................................27 3.2.1. Sơ lược về dữ liệu ....................................................................................28
  5. 3.2.2. Phương pháp hồi quy GMM (Generalized Method of Moments) ...........35 CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 40 CHƯƠNG V: KẾT LUẬN............................................................................................... 52 5.1. Kết luận ..............................................................................................................52 5.2. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................54 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh NHTW Ngân hàng Trung ương. BOE Ngân hàng Trung ương Anh. Bank of England ECB Ngân hàng Trung ương Châu Âu. European Central Bank FED Cục dự trữ liên bang Mỹ. Federal Reserve System BOJ Ngân hàng Trung ương Nhật Bản. Bank of Japan SBV Ngân hàng nhà nước Việt Nam. The State Bank of Vietnam Phương pháp hồi quy tuyến tính tổng Generalized method of moments GMM quát. Phương pháp bình phương bé nhất hai Two-Stage Least Squares TSLS giai đoạn. Phương pháp hợp lí cực đại trong điều Limited-information maximum LIML kiện giới hạn thông tin. likelihood Phương pháp ước lượng bình phương Ordinary least squares OLS nhỏ nhất. FCI Chỉ số điều kiện tài chính. Financial Conditions Index EFCI Chỉ số điều kiện tài chính mở rộng. European Central Bank IMF Quỹ tiền tệ quốc tế. Extended financial conditions General statistics office of Viet GSO Tổng cục thống kê Việt Nam. Nam ADB Ngân hàng phát triển Châu Á. Asian Development Bank Sở giao dịch chứng khoán thành phố Ho Chi Minh Stock Exchange HSX HCM
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ. Bảng 1 Tổng hợp câu hỏi và các giả thuyết nghiên cứu Bảng 2 Các biến sử dụng trong mô hình Hình 1 Lãi suất và lạm phát của Việt Nam theo tháng giai đoạn 2001 - 2013 Hình 2 Các biến nghiên cứu chính tại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2013 Bảng 3 Thống kê mô tả dữ liệu mẫu Bảng 4 Kết quả kiểm định NP của các biến Bảng 5 Kết quả kiểm định KPSS của các biến Bảng 6 Kiểm định tính dừng của các biến Bảng 7 Biến công cụ Bảng 8Kế Kết quả hồi quy thô ước lượng chính sách tiền tệ Việt Nam (1/2008- 12/2013 Bảng 9 Kết quả hồi quy ước lượng chính sách tiền tệ Việt Nam (1/2008 – 12/2013) Bảng 10 Tóm tắt các kết quả
  8. 1 TÓM TẮT Bài nghiên cứu phân tích liệu rằng chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor cơ bản hay quy tắc Taylor cải tiến. Và xem xét liệu ngân hàng Trung ương Việt Nam có phản ứng với các chỉ số tài chính chứa đựng thông tin từ giá tài sản. Kết quả hồi quy OLS chỉ ra rằng việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam không tuân theo quy tắc Taylor cơ bản mà tuân theo quy tắc Taylor cải tiến. Phương pháp GMM được sử dụng để xem xét chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam có phản ứng với biến vĩ mô như: Inflation, OutpGap, Yield10yr, M2, REER, Rstock, USOuptgap và các biến tài chính: FCI và EFCI. Kết quả cho thấy ngân hàng Trung ương Việt Nam khi điều hành chính sách tiền tệ bên cạnh các yếu tố vĩ mô và chu kỳ kinh tế còn xem xét sự biến động của các yếu tố trên thị trường tài chính và tiền tệ. Từ khóa: Quy tắc Taylor, chính sách tiền tệ, chỉ số điều kiện tài chính, lãi suất cơ bản, nguyên tắc điều hành, ngân hàng Trung ương.
  9. 2 CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU 1.1. Lý do chọn đề tài Lãi suất là một yếu tố rất quan trọng là một công cụ để đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào sự biến động của lãi suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: khả năng sinh lời của các cơ hội đầu tư, lạm phát kì vọng, mức thâm hụt ngân sách. Hơn nữa về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, việc thay đổi lãi suất thực có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, ngân hàng Trung ương rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế. Việc áp dụng một cơ chế lãi suất phù hợp giúp cho chính sách tiền tệ phát huy tác dụng là một vấn đề khá khó khăn đối với các ngân hàng Trung ương. Trên thực tế, các nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều mô hình cũng như công cụ để các nhà điều hành chính sách dự báo lãi suất nhằm đưa ra những quyết định phù hợp với mỗi quốc gia. Tuy nhiên, liệu thật sự có khả năng tính toán được lãi suất bằng những mô hình như thế để ngân hàng Trung ương có thể dựa vào đó mà áp dụng được chính sách tiền tệ tốt được hay không? Và nếu như có thì tồn tại một mô hình như vậy thì sẽ áp dụng như thế nào đối với việc điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam trong bối cảnh hiện tại? Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn ngân hàng Trung ương của các nước trên thế giới cũng như ngân hàng Trung ương Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó. Đối với các nền kinh tế thị trường chưa phát triển như Việt Nam, nhiều quan hệ kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường thì việc vận dụng các nền tảng lý thuyết để hoạch định chính sách lãi suất cần có sự linh hoạt, bám sát mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội cũng như các diễn biến thực tế của thị trường. Trong điều kiện như hiện nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, hoạch đinhj chính sách lãi suất của ngân hàng Trung ương cần phải xem xét đến các yếu tố thực tế.
  10. 3 Lãi suất ở Việt Nam dần dần được tự do hóa vào giữa những năm 1990. Trước đó thì ngân hàng Trung ương Việt Nam áp dụng quy định mức trần đối với lãi suất cho vay và mức tối thiểu đối với lãi suất tín dụng. Sau đó ngân hàng Trung ương quyết định thay thế bằng lãi suất cơ bản được công bố hằng tháng và các ngân hàng thương mại dựa vào đó mà quy định mức lãi suất cho vay trong một giới hạn cụ thể. Dưới đây là đồ thị thể hiện tình hình biến động lãi suất và lạm phát theo tháng giai đoạn 2001 – 2013 của Việt Nam: Hình 1: Lãi suất và lạm phát của Việt Nam theo tháng giai đoạn 2001 - 2013 Từ năm 2002, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể xác định mức lãi suất cho vay cũng như mức lãi suất tín dụng theo điều kiện thị trường. Suốt thời kì 2000 – 2003 Việt Nam chính thức thóat khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á đạt mức tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát được duy trì ở mức thấp. Tuy nhiên từ năm 2004, SBV lại phải đối mặt với áp lực lạm phát cao do sự gia tăng giá cả tiêu dùng thế giới và làn sóng đầu tư vào bất động sản từ các nhà đầu tư nước ngoài nên buộc SBV phải nâng lãi suất. Tương tự với đó là hình ảnh các loại lãi suất tăng mạnh trong năm 2008 và năm 2011 do chính sách thắt chặt tiền tệ, thắt chặt nhằm
  11. 4 kiềm chế đối với sự gia tăng lạm phát quá mức trong 2 năm này của nền kinh tế mà nguyên nhân sâu xa là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tại Mỹ từ 2008. Cho đến thời điểm hiện nay có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều. Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008 và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các ngân hàng Thương mại đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quý 1 chỉ đạt 3,34%). Trong quý 1/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng, điều đó cho thấy vốn của các NHTM không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Dư nợ tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển chiếm khoảng 12,1% tổng dư nợ trong nền kinh tế... Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó
  12. 5 lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn”- là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của VN hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào, tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của VN hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mãi khác. Tuy nhiên lãi suất thực đang có xu hướng giảm bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần. Như vậy có nghĩa là các NHTM vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý 1/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. Là một nền kinh tế USD hóa, lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi
  13. 6 suất ngoại tệ cộng (+) với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa nội tệ và ngoại tệ của các thành viên trong thị trường. Điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt chính sách khác (như yêu cầu các Công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các DN...) đã phải hướng tới sự ổn định này. Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ. Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010 hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn. Đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Do vậy, tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất. Trước mắt, phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái
  14. 7 cân bằng.Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản – làm cơ sở định hướng chuẩn cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này. Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu. Tuy nhiên thực tế là Ngân hàng Trung ương cùng với Bộ Tài chính tiếp tục điều chỉnh lãi suất trực tiếp hơn là thông qua cơ chế chính sách tiền tệ gián tiếp. Ví dụ, ngân hàng Trung ương tiến hành công bố mức lãi suất cơ bản, bộ tài chính cũng tiếp tục đưa ra các mức lãi suất tham khảo nhưng mức độ hiệu lực rất giới hạn. Năm 2000, thị trường mở đi vào hoạt động và cho thấy tín hiệu đầu tiên của những công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Trong giai đoạn này cơ bản đã hình thành thị trường tiền tệ và thị trường tài chính từ đó tạo ra những yếu tố cơ bản để hình thành một hệ thống tài chính ngân hàng dựa trên cơ chế thị trường. Tuy nhiên lúc này việc điều hành chính sách tiền tệ vẫn gặp nhiều khó khăn nguyên nhân là do: Sự thay đổi liên tục về cấu trúc của hệ thống tài chính Việt Nam dẫn tới việc rất khó để xác định mối quan hệ ổn định giữa các biến số kinh tế vĩ mô với việc thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả trong một môi trường với sự tồn tại quá nhiều yếu tố biến đổi. Sự nghèo nàn của hệ thống thị trường tiền tệ và thiếu hụt các công cụ tài chính cần thiết và sự giới hạn trong phạm vi hoạt động của thị trường mở. Kênh cho vay của ngân hàng là một trong những kênh chính sách hiệu quả mặc dù vấn đề về bảng cân đối của báo cáo tài chính của ngân hàng và các doanh nghiệp đã giới hạn sự hiệu quả của kênh này. Thị trường tài chính chưa hoàn thiện cũng là nguyên nhân dẫn đến giới hạn tính hiệu quả của chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất. Với thực tiễn chính sách tiền tệ Việt Nam hiện tại đang phải đối mặt với vô số các vấn đề như lạm phát, đô la hóa nền kinh tế, tỉ giá, hoạt động thị trường mở không hiệu quả và những yếu tố vĩ mô không ổn định. Chính vì thế phải có quy tắc
  15. 8 chính sách tiền tệ hợp lý để đưa ra quyết định sử dụng những thông tin theo cách nhất quán và có thể dự đoán được. Để xây dựng được quy tắc và thực hiện nó một cách hiệu quả, trước tiên ngân hàng Trung ương phải xác định mục tiêu hợp lý và cam kết theo đuổi mục tiêu đó. Các quy tắc chính sách được sử dụng phổ biến bởi ngân hàng Trung ương các nước bao gồm: (1) Mục tiêu cung tiền: Quy tắc này được ủng hộ bởi các nhà kinh tế tiền tệ, điển hình là Milton Friedman. Các nhà kinh tế tiền tệ tin rằng nguyên nhân chính gây ra các biến động của nền kinh tế là biến động của cung tiền. Với quy tắc này, ngân hàng Trung ương sẽ ấn định mức tăng trưởng cung tiền hàng năm ở mức thấp và ổn định nhằm duy trì sự ổn định của sản lượng, việc làm, và giá cả. Thông thường tốc độ tăng trưởng cung tiền được ấn định ở mức lớn hơn đôi chút so với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Ví dụ như Milton Friedman đề xuất mức tăng trưởng cung tiền hàng năm là 3% cho nền kinh tế Mĩ. Mặc dù quy tắc chính sách tiền tệ này đáng lẽ có thể giúp cho nền kinh tế tránh khỏi nhiều biến động trong quá khứ tuy nhiên hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng nó không phải là tối ưu. Sự ổn định của cung tiền chỉ giúp ổn định tổng cầu nếu như tốc độ lưu chuyển của tiền là không đổi. Trong thực tế, nhiều cú sốc kinh tế gây ra sự biến động của cầu tiền và do vậy là tốc độ lưu chuyển. Các nhà kinh tế tin rằng tăng trưởng cung tiền cần phải được điều chỉnh linh hoạt, chứ không nên cố định, để trung hòa các cú sốc này. (2) Mục tiêu GDP danh nghĩa: Đây là quy tắc được các nhà kinh tế ủng hộ rộng rãi, đặc biệt là ở Mĩ. Theo quy tắc này, ngân hàng Trung ương sẽ công bố mức mục tiêu của GDP danh nghĩa – tức là GDP tính theo giá hiện hành. Nếu GDP danh nghĩa thấp hơn mức mục tiêu này, ngân hàng Trung ương sẽ tăng cung tiền nhằm kích thích tổng cầu và ngược lại. Do mục tiêu GDP danh nghĩa cho phép chính sách tiền tệ phản ứng với những thay đổi của tốc độ lưu chuyển tiền tệ nên hầu hết các nhà kinh tế tin rằng nó có thể mang lại sự ổn định về sản lượng và giá cả tốt hơn so với quy tắc của các nhà kinh tế tiền tệ. (3) Mục tiêu lạm phát: Đây cũng là quy tắc được nhiều nhà kinh tế ủng hộ và được sử dụng phổ biến nhất bởi ngân hàng Trung ương nhiều nước trên thế giới như Anh, Úc, Canada, Thụy Điển,… Theo quy tắc này, ngân hàng Trung ương sẽ công bố một mức mục tiêu đối với tỉ lệ lạm phát và điều chỉnh cung tiền, do vậy là lãi suất, khi tỉ lệ lạm phát thực tế lệch khỏi tỉ lệ lạm phát mục tiêu. Giống như quy tắc
  16. 9 mục tiêu GDP danh nghĩa, quy tắc này cũng giúp nền kinh tế trung hòa được các cú sốc về cầu tiền. Ngoài ra, quy tắc mục tiêu lạm phát có lợi thế thêm nữa về tính minh bạch đối với công chúng. (4) Quy tắc Taylor: Ngoài việc theo đuổi mục tiêu lạm phát ngân hàng Trung ương các nước còn có thể đồng thời theo đuổi mục tiêu đối với GDP thực – GDP tính theo giá so sánh. Đây chính là quy tắc đề xuất bởi nhà kinh tế John Taylor và được ngân hàng Trung ương Mĩ thực hiện trong nhiều năm qua. Theo quy tắc này, ngân hàng Trung ương sẽ điều chỉnh cung tiền và lãi suất bất cứ khi nào lạm phát lệch khỏi mức mục tiêu và/hoặc GDP lệch khỏi mức GDP tiềm năng trong dài hạn. Do mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và GDP, nên điều quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách là phải kết hợp hài hòa được giữa hai mục tiêu này một cách đồng thời. Tác giả sẽ xem xét nghiên cứu chính sách tiền tệ của Việt Nam và quy tắc Taylor để từ đó đưa ra được những khuyến nghị và những giải pháp phù hợp để cải thiện hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Việc điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam dường như thiếu hiệu quả, ngay cả lãi suất cơ bản là công cụ chính của ngân hàng Trung ương cũng được xây dựng một cách định tính không sát với thực tế thị trường và mang tính “ấn định” nhiều hơn. Vậy làm thế nào để các nhà hoạch định chính sách sử dụng công cụ lãi suất hữu hiệu hơn, chính sách tiền tệ linh hoạt hơn thì đây chính là nguyên nhân thôi thúc tác giả thực hiện đề tài “Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt Nam”. 1.2. Mục tiêu của nghiên cứu Mục tiêu chính của nghiên cứu là xem xét chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor cải tiến hay không. Bài nghiên cứu kiểm chứng mối quan hệ giữa thay đổi lãi suất cơ bản và tỷ lệ lạm phát, chênh lệch sản lượng, lãi suất cho vay, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng cung tiền, giá chứng khoái, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm. Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn tìm hiểu ngân hàng Trung ương Việt Nam có phản ứng với các biến tài chính: FCI và EFCI.
  17. 10 Như vậy từ mục tiêu nghiên cứu thì tác giả đưa ra các câu hỏi nghiên cứu như sau: - Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam được mô tả theo quy tắc Taylor cơ bản hay cải tiến?  Nhằm kiểm tra khi xây dựng chính sách tiền tệ thì ngân hàng Trung ương Việt Nam dựa trên giá trị quá khứ, hiện tại hay là giá trị kỳ vọng trong tương lai. - Bên cạnh lạm phát mục tiêu và chênh lệch sản lượng, ngân hàng Trung ương có phản ứng với các thông tin tài chính hay không?  Xem xét phản ứng với các điều kiện tài chính là một cách để NHTW gián tiếp nhắm đến lạm phát mục tiêu và tránh sự mất cân bằng tài chính có thể gây bất ổn định kinh tế. 1.3. Phạm vi nghiên cứu Chuỗi dữ liệu từ năm 2008-2013 lấy theo tháng được sử dụng để thực hiện nghiên cứu lấy từ: IMF, GSO, ADB, HSX, SBV. Bài nghiên cứu gồm 72 quan sát , với các biến vĩ mô và các biến tài chính được nghiên cứu qua các thời kỳ để thấy được chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn bắt đầu bằng những lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ tuân theo quy tắc Taylor ở các nước phát triển và đang phát triển. Phần tiếp theo trình bày nguồn dữ liệu cũng như phương pháp nghiên cứu làm cơ sở cho việc xác định chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam tuân theo quy tắc Taylor cơ bản hay cải tiến. Sau đó là kết quả nghiên cứu định tính và các chính sách hàm ý từ nghiên cứu. Cụ thể trong bài nghiên cứu này tác giả sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp hồi quy OLS và GMM. - Phương pháp mô tả: Đưa ra nhận định về mối quan hệ trên cơ sở thông tin, dữ liệu đã được xử lý. - Phương pháp thống kê: Tập hợp tất cả các số liệu nghiên cứu có liên quan, phân tích và xử lý các mối quan hệ giữa chúng.
  18. 11 1.5. Cấu trúc luận văn Cấu trúc luận văn như sau. Chương I bắt đầu với việc giới thiệu về chủ đề này, bao gồm mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu. Trong chương II, tác giả giới thiệu khuôn khổ lý thuyết Taylor và những nghiên cứu thực nghiệm có liên quan đến nghiên cứu của tác giả. Chương III trình bày các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết, sẽ được kiểm định trong nghiên cứu. Giới thiệu các phương pháp và dữ liệu, mà sẽ được sử dụng trong các kiểm định. Trong chương IV tác giả sẽ phân tích và thảo luận các kết quả thực nghiệm. Cuối cùng chương V tác giả sẽ tóm tắt các kết luận của nghiên cứu.
  19. 12 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VÀ KHUNG LÝ THUYẾT 2.1. Khung lý thuyết 2.1.1. Quy tắc Taylor tuyến tính 2.1.1.1. Quy tắc Taylor cơ bản Taylor (1993) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đối với chính sách lãi suất của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED) trong giai đoạn 1980 – 1990, phát hiện ra rằng biến động lãi suất điều hành của FED tuân theo một quy tắc nhất định trong mối tương quan với lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Từ đó, Taylor đã mở rộng nghiên cứu và khái quát hóa thành một quy tắc điều hành lãi suất của NHTW được gọi là quy tắc Taylor. Quy tắc Taylor cho rằng, lãi suất điều hành cần điều chỉnh phù hợp với thay đổi của chênh lệch sản lượng và chênh lệch lạm phát. Và được biểu thị bằng hàm phản ứng chính sách như sau: (1) Trong đó là lãi suất danh nghĩa ngắn hạn là một công cụ của chính sách tiền tệ và giả định rằng nó sẽ tăng nếu lạm phát ( lớn hơn mức mục tiêu ( ) hay sản lượng (y) tăng cao hơn đường xu hướng của nó hay là giá trị sản lượng tiềm năng (y*). là độ nhạy cảm của lãi suất cơ bản đối với độ chệch trong lạm phát đối với mức mục tiêu. là độ nhạy cảm của lãi suất đối với chênh lệch sản lượng. Khi cân bằng, mức chênh lệch của lạm phát và sản lượng so với mức mục tiêu bằng 0 và do đó dẫn tới lãi suất (i*) mong đợi là bằng tổng của lãi suất thực cân bằng ) và mức lạm phát mục tiêu. Theo Taylor, kể từ đầu những năm 1980, lãi suất điều hành (federal funds rate) của FED biến động cùng xu hướng và bám sát với lãi suất khuyến nghị của lãi suất Taylor. Quy tắc Taylor được cả thế giới nghiên cứu và NHTW quan tâm và dần trở thành một chỉ báo được quan tâm đối với việc phân tích và điều hành chính sách tiền tệ. Tại FED, các thành viên Ủy ban nghiệp vụ thị trường mở liên bang (FOMCs), trong đó có cựu chủ tịch Greenspan và một số chủ tịch FED địa phương
  20. 13 cũng thường đề cập đến quy tắc Taylor trong các đề xuất lãi suất. Theo Mishkin (2004) lãi suất Taylor phản ánh tương đối đối với chính sách tiền tệ của FED trong khoảng 4 thập kỷ qua. Dưới thời chủ tịch Arthur Bums (1970 – 1979) lãi suất của FED liên tục thấp hơn lãi suất Taylor khiến lạm phát trong thời kỳ này tăng cao. Dưới thời chủ tịch Paul Volcker (1979 - 1987), FED đặt trọng tâm là kiềm chế lạm phát, vì vậy lãi suất của FED nhìn chung luôn cao hơn lãi suất Taylor. Đến thời chủ tịch Greenspan (1987 – 2003), lãi suất điều hành bám sát lãi suất Taylor hơn, độ biến động của lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Mỹ cũng thấp hơn các thời kỳ trước. Ưu điểm chính của quy tắc Taylor là tính toán đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán, do đó, giúp tăng cường tính minh bạch và khả năng giải trình cho NHTW, quy tắc Taylor cho phép điểu chỉnh linh hoạt trọng số của sản lượng và lạm phát phù hợp với mục tiêu trọng tâm của NHTW trong việc quyết định lãi suất điều hành. Điều này có ý nghĩa với các NHTW sử dụng cơ chế điều hành CSTT theo mục tiêu lạm phát so với mục tiêu tăng trưởng trong từng thời kỳ. 2.1.1.2. Quy tắc Taylor cải tiến Quy tắc Taylor cơ bản xem xét độ chệch của lạm phát đối với mức lạm phát mục tiêu trong 4 quý liền kề trong quá khứ. Tuy nhiên trong thực tế ngân hàng Trung ương có xu hướng không sử dụng lạm phát trong quá khứ hay lạm phát hiện tại mà thường nhắm tới mức lạm phát kì vọng. Vì lí do này mà Clarida & cộng sự (1998) đã đề nghị sử dụng phiên bản cải tiến của quy tắc Taylor. Phiên bản này cho phép ngân hàng Trung ương có thể lấy nhiều biến liên quan để xem xét khi tạo lập mức lạm phát dự báo. Do đó, theo bài nghiên cứu này thì mức lãi suất mà ngân hàng Trung ương mong đợi phụ thuộc vào độ lệch của lạm phát kì vọng trong k thời kì (lãi suất theo năm) so với mức mục tiêu và mức chênh lệch sản lượng kì vọng trong p thời kì, sau đây là phương trình của quy tắc Taylor cải tiến: , (2) Trong đó E là kì vọng của nhà điều hành và là một vecto tổng hợp tất cả các thông tin sẵn có để ngân hàng Trung ương xác định mức lãi suất cơ bản.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0