BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-------***-------

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG

KINH TẾ VÀ LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Quốc tế

TRẦN DUY HƯNG

Hà Nội - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-------***-------

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

VÀ LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 TẠI VIỆT NAM

Ngành : Kinh tế học

Chuyên ngành : Kinh tế quốc tế

Mã số : 60310106

Họ và tên học viên: Trần Duy Hưng

Người hướng dẫn : TS. Đinh Thị Thanh Bình

Hà Nội - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế

và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi

và do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn, số liệu thống kê phục

vụ mục đích nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc

rõ ràng.

Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2017

Tác giả luận văn

Trần Duy Hưng

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ i

DANH MỤC BẢNG BIỂU ...................................................................................... iii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN ................................................. v

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 .................................................. 8

1.1 Khái quát về tăng trưởng kinh tế ................................................................... 8

1.1.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế ........................................................... 8

1.1.2 Nguồn gốc tăng trưởng ......................................................................... 10

1.1.3 Đo lường tăng trưởng kinh tế về mặt lượng ......................................... 14

1.1.4 Đo lường tăng trưởng kinh tế về mặt chất lượng .................................. 16

1.2 Tổng quan về khí Cacbonic (CO2) .............................................................. 17

1.2.1 Tính chất của khí CO2 ........................................................................... 17

1.2.2 Vai trò của khí CO2 ............................................................................... 17

1.2.3 Các nguồn phát thải khí CO2 chủ yếu ................................................... 19

1.3 Mô hình đường Kuznets môi trường trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 ................................................................................ 20

1.3.1 Tổng quan về đường Kuznets về môi trường ....................................... 20

1.3.2 Giải thích hình dạng của đường cong Kuznets ..................................... 22

1.3.3 Hạn chế của lý thuyết EKC trong việc hoạch định chính sách ............. 24

1.3.4 Một số lý thuyết thay thế lý thuyết EKC mô tả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng môi trường .......................................................... 25

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 TẠI VIỆT NAM ....................................................... 29

2.1 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1985-2015 ...... 29

2.1.1 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam về quy mô ............................................ 29

2.1.2 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam về chất lượng ....................................... 37

2.2 Tổng quan về khí thải CO2 ở Việt Nam ...................................................... 41

2.2.1 Sự gia tăng lượng phát thải CO2 ........................................................... 41

2.2.2 Tỷ lệ phát thải khí CO2 theo ngành....................................................... 43

2.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam… ................................................................................................................... 47

2.3.1 Phân tích định tính mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế về mặt lượng và lượng khí thải CO2 ........................................................................................ 47

2.3.2 Phân tích định tính mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế về chất lượng và lượng khí thải CO2 ........................................................................................ 50

2.4 Phân tích định lượng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 ở Việt Nam ............................................................................................. 52

2.4.1 Mô hình nghiên cứu .............................................................................. 52

2.4.2 Các biến số của mô hình ....................................................................... 53

2.4.3 Phân tích lượng mô hình ....................................................................... 55

2.4.4 Kết quả nghiên cứu ............................................................................... 57

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC KHUYẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIẢM LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM ............................................................................................................... 60

3.1 Quan điểm chiến lược về phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng tăng trưởng xanh và giảm thiểu phát thải khí nhà kính ................................................ 60

3.2 Kiến nghị giải pháp thực hiện mục tiêu giảm lượng khí thải CO2 trong điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam ........................................................................... 61

3.2.1 Biện pháp làm giảm lượng khí thải CO2 ............................................... 62

3.2.2 Biện pháp hướng đến tăng trưởng bền vững ........................................ 73

3.2.3 Biện pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng và phân phối thành quả của tăng trưởng ........................................................................................................ 75

3.2.4 Bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học ..................................................... 76

3.2.5 Biện pháp đối phó khắc phục hiện tượng biến đổi khí hậu .................. 77

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 81

PHỤ LỤC .................................................................................................................... I

i

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

(Association of Southeast Asian Nations)

ADB Ngân hàng phát triển Châu Á

(Asian Development Bank)

CO2 Khí cacbonic

EDGAR Cơ sở dữ liệu phát thải toàn cầu cho nghiên cứu khí quyển

(Emission Database for Global Atmospheric Research)

EKC Đường Kuznets môi trường

(Environmental Kuznets Curve)

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

(Foreign Direct Investment)

GDP Tổng sản phẩm trong nước

(Gross Domestic Product)

GNI Thu nhập quốc dân

(Gross National Income)

GNP Tổng sản phẩm quốc dân

(Gross National Product)

GO Tổng giá trị sản xuất

(Gross Output)

HDI Chỉ số phát triển con người

(Human Development Index)

IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế

ii

(International Monetary Fund)

LULUCF Sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp

(Land use, Land use change and Forestry)

ODA Hỗ trợ phát triển chính thức

(Official Development Assistance)

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

(Organization for Economic Cooperation and Development)

OLS Phương pháp bình phương nhỏ nhất

(Ordinary Least Square)

UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

(United Nations Development Programme)

UNESCAP Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc

(United Nation Economic and Social Commission for Asia and the

Pacific)

WB Ngân hàng Thế giới

(World Bank)

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới

(World Trade Organization)

iii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 1. 1: Các nguồn phát thải khí CO2 chủ yếu trên thế giới ...................... 19

Hình 1. 1: Đường cong Kuznets về môi trường .................................................... 21

Hình 1. 2: Học thuyết giới hạn ............................................................................... 27

Hình 1. 3: Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và ô nhiễm môi trường

theo Davidson (2000) ............................................................................................... 27

Hình 1. 4: Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và mức độ ô nhiễm

môi trường theo quan điểm của Stern (2004) ....................................................... 28

Bảng 2. 1: Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 1990-2015 ................ 32

Bảng 2. 2: Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế ....................................................... 34

Bảng 2. 3: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế giai đoạn 2005-2015 .............. 36

Bảng 2. 4: Trình độ giáo dục thực tế tại Việt Nam .............................................. 40

Bảng 2. 5: Phát thải/hấp thụ khí CO2 theo ngành các năm 1994, 2000, 2010

(nghìn tấn) ................................................................................................................ 44

Bảng 2. 6: Kiểm kê khí thải CO2 năm 2010 trong lĩnh vực năng lượng ............ 45

Bảng 2. 7: Phát thải và hấp thụ CO2 năm 2010 trong lĩnh vực LULUCF ........ 46

Bảng 2. 8: GDP và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam giai đoạn 1985-2015 ....... 47

Bảng 2. 9: HDI và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam giai đoạn 1990-2015 ........ 50

Bảng 2. 10: Diễn giải các biên trong mô hình hồi quy ......................................... 53

Bảng 2. 11: Thống kê mô tả biến ........................................................................... 54

Bảng 2. 12: Ma trận tương quan giữa các biến mô hình 1 .................................. 54

Bảng 2. 13: Ma trận tương quan giữa các biến mô hình 2 .................................. 55

Bảng 2. 14: Kết quả hồi quy mô hình 1 ................................................................. 55

Bảng 2. 15: Kết quả hồi quy mô hình 2 ................................................................. 56

Biểu đồ 2. 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985-2015 .......... 29

Biểu đồ 2. 2: GDP bình quân đầu người ở Việt Nam giai đoạn 1985-2015 ....... 30

iv

Biểu đồ 2. 3: Tăng trưởng GDP theo đóng góp của vốn, lao động và năng suất

các yếu tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 1996-2014 (theo %) ................................... 37

Biểu đồ 2. 4: Giảm nghèo ở Việt Nam ................................................................... 39

Biểu đồ 2. 5: Tỷ lệ người lớn biết chữ ở Việt Nam giai đoạn 1979-2015 ............ 40

Biểu đồ 2. 6: Tuổi thọ người dân Việt Nam giai đoạn 1979-2014 ....................... 41

Biểu đồ 2. 7: Lượng khí CO2 bình quân đâu người của Việt Nam giai đoạn

1980-2015.................................................................................................................. 42

Biểu đồ 2. 8:Tỷ trọng CO2 do quá trình tiêu thụ năng lượng của các nước trên

thế giới năm 2015 .................................................................................................... 43

Biểu đồ 2. 9: Tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng lượng khí thải

CO2 giai đoạn 1985-2015 ........................................................................................ 48

Biểu đồ 2. 10: Tốc độ tăng trưởng lượng khí thải CO2 và HDI giai đoạn 1990-

2015 ........................................................................................................................... 51

Bảng 3. 1: Phát thải/hấp thụ khí nhà kinh ước tính cho các năm 2020 và 2030

................................................................................................................................... 63

v

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Luận văn phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải

CO2 và đạt được những kết quả chính sau:

Thứ nhất, luận văn đã khái quát được hệ thống cơ sở lý luận về mối quan hệ

giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2, bao gồm lý thuyết tổng quát và

những nghiên cứu nước ngoài về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí

thải CO2 mà nổi bật là các nghiên cứu Grossman và Krueger (1993), Moomaw và

Unruh (1997), Yu (2013), Sileem (2015), và các nghiên cứu trong nước của Nguyễn

Đinh Tuấn và Phạm Nguyễn Bảo Hạnh (2008), Phạm Hồng Mạnh (2014)1.

Thứ hai, qua việc phân tích các chuỗi số liệu về tăng trưởng kinh tế và lượng

khí thải CO2 hàng năm ở Việt Nam, người viết đi đến kết luận có một mối quan hệ

rõ ràng giữa hai nhân tố kể trên, và cụ thể hơn, đó là mối quan hệ tác động cùng

chiều. Tăng trưởng kinh tế cả về lượng và chất đều làm tăng lượng khí thải CO2 tại

Việt Nam qua các giai đoạn.

Thứ ba, luận văn đã lượng hóa được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế về

lượng và chất với lượng phát thải CO2 tại Việt Nam.

Thứ tư, luận văn đã đưa ra các nhóm giải pháp lớn nhằm khắc phục những tồn

tại trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2, bao gồm:

giảm thải khí CO2; tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững; phân phối hiệu quả

các thành quả của tăng trưởng; bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học; đối phó và khắc

phục tình trạng biến đổi khí hậu.

1 Chi tiết các nghiên cứu được mô tả đầy đủ trong phần Tình hình nghiên cứu thuộc Lời mở đầu

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, vấn đề biến đổi khí hậu và phương thức ứng phó để thích nghi với

biến đổi khí hậu trở thành mối quan tâm hàng đầu của thế giới. Toàn nhân loại đang

phải gánh chịu những hậu quả của biến đổi khí hậu như: tình trạng mất mùa do thay

đổi thời tiết tại nhiều khu vực, băng tan ở hai cực làm nước biên dâng cao có thể

nhấn chìm nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, lỗ thủng tầng ozone, các bệnh gây ra

bởi ô nhiễm không khí và nguồn nước, các thảm họa tự nhiên thường xuyên xảy ra

với cường độ mạnh hơn.

Biến đổi khí hậu là hệ quả của việc tập trung phát triển kinh tế nhanh chóng

của các quốc gia mà bất chấp những tác động xấu đến môi trường như: khai thác tài

nguyên thiên nhiên quá mức dẫn đến cạn kệt, các hoạt động sản xuất xả thải trực

tiếp ra môi trường, quá trình phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế gây ra ô nhiễm khói

bụi, khí thải từ các phương tiện giao thông gia tăng và nhiều hơn thế nữa.

Một trong các nguyên nhân chính là lượng khí CO2 phát thải vào bầu khí

quyển tăng lên quá mức cho phép, không chỉ làm suy giảm chất lượng không khí

mà còn gây ra hiệu ứng nhà kính, làm cho bề mặt Trái Đất nóng lên không ngừng.

Việt Nam không những là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nền

nhất từ biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra mà còn là một trong những nền kinh

tế đang phát triển phải đối mặt với vấn nạn ô nhiễm không khí trầm trọng tại các

thành phố lớn và các vùng công nghiệp trọng điểm. Hướng đến phát triển kinh tế

bền vững và giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, chính phủ Việt Nam đã

đưa ra Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 với nội

dung tăng trưởng xanh đi cùng giảm thiểu phát thải khí nhà kính ra môi trường.

Hiện chưa có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

lượng khí thải CO2 tại Việt Nam, và các kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa

tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 còn có những kết quả khác nhau và gây

nhiều tranh luận.

2

Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài “Phân tích mối quan hệ

giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam” nhằm nghiên cứu

và rút ra một số giải pháp để Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh

tế đi cùng với giảm thiểu ô nhiễm không khí từ khí thải CO2, ứng phó với tình trạng

biến đổi khí hậu.

2. Tình hình nghiên cứu

Các nghiên cứu trong nước:

Lưu Đức Hải và Nguyễn Ngọc Sinh (2000) đã trình bày hệ thống các quan

điểm về quản lý môi trường hướng tới phát triển bền vững. Tác giả tập trung nghiên

cứu phát triển bền vững qua các yếu tố: Bền vững kinh tế, bền vững môi trường và

bền vững về văn hóa; cũng như các công cụ kinh tế và công cụ luật pháp trong bảo

vệ môi trường.

Nguyễn Văn Phú và cộng sự (2006) dựa trên dữ liệu về lượng khí thải CO2

bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người tại 100 quốc gia trong giai đoạn

từ 1960-1996 đã kết luận về mối quan hệ giữa lượng khí thải CO2 và GDP bình

quân đầu người thể hiện bằng một đường dốc lên.

Nguyễn Đinh Tuấn và Phạm Nguyễn Bảo Hạnh (2008) nghiên cứu chất lượng

môi trường không khí, đất và nước của khu vực thành phố Hồ Chí Minh trong giai

đoạn phát triển kinh tế. Nghiên cứu chỉ ra rằng thành phố đang phải đối mặt với

nhiều vấn đề ô nhiễm trầm trọng khi có sự gia tăng GDP bình quân đầu người hàng

năm. Mức thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam còn cách khá xa ngưỡng

chuyển đổi tối thiểu để đạt được thành quả trong việc kiểm soát ô nhiễm, tuy nhiên

tình hình ỗ nhiễm vẫn có thể được cải thiện nhờ việc học hỏi chính sách kinh tế -

môi trường từ các nước đi trước trong thời gian sớm nhất.

Nghiên cứu của Phạm Hồng Mạnh (2014) đánh giá tăng trưởng xanh của Việt

Nam từ khía cạnh sử dụng năng lượng và mức phát thải CO2 giai đoạn từ 1985 đến

2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng năng lượng hóa thạch trên tổng

mức sử dung năng lượng tăng nhanh từ mức 29,75% năm 1985 lên mức 71,05%

năm 2011. Qua kiểm định mô hình kinh tế lượng, tác giả kết luận có mối quan hệ rõ

3

ràng giữa thu nhập bình quân đầu người và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam trong

giai đoạn này với mức giải thích của mô hình lên tới 95,2%. Nghiên cứu cũng gợi ý

một số chính sách đóng góp vào quá trình tăng trưởng xanh tại Việt Nam.

Các nghiên cứu quốc tế:

Một trong những nghiên cứu đầu tiên về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế

và chất lượng môi trường là của Grossman và Krueger (1993). Bài nghiên cứu đã

phân tích mối quan hệ giữa chất lượng môi trường và GDP bình quân đầu người.

Nghiên cứu dựa trên bốn loại chỉ số: đô thị, ô nhiễm không khí, ô nhiễm ở lưu vực

sông và ô nhiễm lưu vực sông bằng kim loại nặng. Các tác giả đã chỉ ra rằng không

có bằng chứng nào cho thấy chất lượng môi trường ngày càng xấu đi khi có tăng

trưởng kinh tế. Thay vào đó, đối với hầu hết các chỉ số, ban đầu, tăng trưởng kinh tế

sẽ dẫn đến giai đoạn suy thoái, tiếp theo là giai đoạn cải tiến. Những thời điểm bước

ngoặt trong từng yếu tố gây ô nhiễm khác nhau là khác nhau, nhưng trong hầu hết

các trường hợp, thời điểm bước ngoặt đến trước khi một quốc gia đạt mức thu nhập

bình quân đầu người là 8000 USD. Nếu GDP vào khoảng 10.000 USD thì con

người sẽ tham gia vào một số hoạt động để cải thiện môi trường của họ, vì thế, chất

lượng môi trường sẽ tăng lên đáng kể, và ước tính rằng, điểm chuyển đổi sẽ là

4.000-5.000 USD (vào năm 1985). Tại mức thu nhập này, con người trở nên quan

tâm tới môi trường. Nếu GDP vào khoảng 10.000 USD thì con người sẽ tham gia

vào một số hoạt động để cải thiện môi trường của họ, vì thế, chất lượng môi trường

sẽ tăng lên đáng kể.

World Bank (1992) và Shafik (1992) trong nghiên cứu của mình có đều đi đến

kết luận rằng giữa lượng khí thải CO2 bình quân đầu người và tăng trưởng thu nhập

là mối quan hệ tuyến tính.

Trong nghiên cứu của mình, Holtz-Eakin và Selden (1995) cho thấy nền kinh

tế cần đạt được trạng thái tăng trưởng bền vững trước khi lượng khí thải CO2 ra môi

trường suy giảm.

Moomaw và Unruh (1997) đã kiểm tra mối quan hệ giữa CO2 và mức thu nhập

ở các nước phát triển. Họ đã chọn 16 nước OECD để điều tra và sử dụng số liệu

4

mảng. Trong mô hình nghiên cứu, biến phụ thuộc là lượng khí thải CO2 bình quân

đầu người, biến độc lập là GDP thực tế bình quân đầu người. Kết quả chạy mô hình

cho thấy đa số các nước này đều thể hiện mối quan hệ hình chữ U ngược giữa thu

nhập và chất lượng môi trường. Trái ngược với các nghiên cứu trước đây của EKC

về CO2, sự chuyển đổi (khi đạt tới ngưỡng chuyển đổi) của 16 nước này được chỉ ra

là sự chuyển đổi đột ngột, không liên tục chứ không phải là sự thay đổi dần dần.

Điểm bắt đầu của quá trình chuyển đổi không liên quan đến mức thu nhập mà liên

quan đến các sự kiện lịch sử, những cú sốc giá dầu trong những năm 1970 và những

chính sách theo sau đó. Tuy nhiên, các mô hình mẫu giảm, không cung cấp cái nhìn

sâu sắc về các quy trình cơ bản tạo ra những thay đổi này.

Choi, Heshmati và Cho (2010) đã dùng phương pháp hồi quy OLS để nghiên

cứu về sự tồn tại của đường EKC cho khí thải CO2 và sử dụng mô hình VAR và

VECM kiểm định về mối quan hệ nhân quả giữa khí thải CO2 với tăng trưởng kinh

tế và mức độ mở của nền kinh tế. Bài nghiên cứu dựa trên bộ dữ liệu chuỗi thời gian

(từ năm 1971 đến năm 2006) tại các nước Trung Quốc (một thị trường mới nổi),

Hàn Quốc (một nước công nghiệp mới) và Nhật Bản (một nước phát triển). Trong

bài nghiên cứu, biến độc lập là lượng khí thải CO2 bình quân đầu người, các biến

phụ thuộc bao gồm: GDP thực tế bình quân đầu người, tỷ lệ của năng lượng có thể

tái tạo, mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch bình quân đầu người, mức độ mở của nền

kinh tế. Thời gian nghiên cứu bao gồm các giai đoạn từ nền công nghiệp phát triển

đến nền kinh tế mới và công nghiệp hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ

giữa môi trường và mức độ mở của nền kinh tế cũng như tăng trưởng kinh tế là

không thống nhất giữa các quốc gia; tùy thuộc vào đặc điểm quốc gia, ước tính

EKC cho thấy các mô hình thời gian khác nhau:

 Đối với Hàn Quốc: Tác giả kết luận không tồn tại đường EKC hình chữ U

ngược. Các tác giả tìm được điểm chuyển đổi là tại mức $8.210, tuy nhiên

qua điểm chuyển đổi, tăng trưởng kinh tế không làm tăng chất lượng môi

trường. Hơn nữa, kết quả cũng chỉ ra rằng ô nhiễm có xu hướng tăng khi Hàn

Quốc càng mở rộng thương mại.

5

 Đối với Trung Quốc: Sau khi chạy mô hình OLS thu được kết quả đường

EKC có dạng chữ N. Cụ thể, ban đầu, khi kinh tế tăng trưởng, dẫn đến chất

lượng môi trường giảm, đến ngưỡng chuyển đổi, tăng trưởng kinh tế làm cải

thiện chất lượng môi trường, nhưng sau đó, chất lượng môi trường lại giảm.

Tuy nhiên, trên thực tế, đường EKC của Trung Quốc chỉ có xu hướng dốc

lên, nghĩa là tăng trưởng kinh tế tăng dẫn đến gia tăng thiệt hại môi trường.

Hơn nữa, ban đầu, khi tăng cường thương mại, làm lượng khí CO2 giảm,

nhưng qua điểm chuyển đổi, thương mại tăng làm lượng khí CO2 tăng.

 Đối với Nhật Bản: Không tồn tại đường EKC hình chữ U ngược. Kết quả

này cho thấy rằng tăng trưởng kinh tế không phải là cách duy nhất để cải

thiện chất lượng môi trường. Hơn nữa, thương mại càng tăng, thì lượng khí

CO2 càng giảm.

Yu (2013) sử dụng số liệu mảng để phân tích mối quan hệ giữa ô nhiễm môi

trường và GDP ở các tỉnh tại Trung Quốc trong giai đoạn 1991-2010. Trong mô

hình nghiên cứu, biến phụ thuộc là chất gây ô nhiễm (CO2, SO2, bụi…), biến độc

lập là GDP bình quân đầu người. Kết quả bài nghiên cứu cho thấy giữa khí thải

(SO2, CO2) với GDP bình quân đầu người, có mối quan hệ hình chữ N. Tuy nhiên,

lượng bụi trong không khí và GDP bình quân đầu người lại có mối quan hệ hình

chữ U ngược.

Bài nghiên cứu của Alam (2014) nghiên cứu sự thay đổi trong cấu trúc nền

kinh tế và xu hướng của khí thải CO2 cùng với GDP bình quân đầu người trong giai

đoạn 1972-2010 tại Bangladesh bằng cách phân tích số liệu thu thập được từ Ngân

Hàng Thế Giới (World Bank). Kết quả bài nghiên cứu cho thấy không có mối quan

hệ hình chữ U ngược giữa lượng khí thải CO2 và tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu

cho thấy chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp nhanh hơn và sự

xuất hiện của các dịch vụ dường như chiếm ưu thế trong nền kinh tế; từ đó thấy

rằng phát thải CO2 xu hướng gia tăng. Hơn nữa, Bangladesh không có khả năng

giảm lượng khí thải CO2 bởi tại đất nước này, ngành công nghiệp và dịch vụ là

những ngành có lượng phát thải khí CO2 lớn đóng góp ngày càng nhiều cho GDP.

6

Tagvaee và Shirazi (2014) đã chỉ ra rằng tại Iran, giữa ô nhiễm không khí, ô

nhiễm nước và GDP có mối quan hệ hình chữ N ngược (ở giai đoạn đầu, tăng

trưởng kinh tế làm tăng chất lượng môi trường nhưng từ giai đoạn sau xuất hiện mối

quan hệ hình chữ U ngược giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm không khí và nước),

giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm đất có mối quan hệ hình chữ U. Điều này đã

góp phần xác nhận lý thuyết chữ U ngược của Kuznets.

Bài nghiên cứu của Sileem (2015) đã chứng minh sự tồn tại của đường MEKC

và mối quan hệ giữa HDI và lượng khí thải CO2 tại các nước vùng Trung Đông và

Bắc Phi. Trong mô hình MEKC mở rộng được sử dụng trong bài nghiên cứu, biến

phụ thuộc là khí thải CO2, biến độc lập là chỉ số phát triển con người HDI và mức

độ kiểm soát tham nhũng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

lượng khí thải CO2 tại Việt Nam.

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

 Hệ thống hóa và làm rõ lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

lượng khí thải CO2 tại Việt Nam.

 Đánh giá ảnh hưởng sự gia tăng khí thải CO2 có tác động như thế nào đến tăng

trưởng kinh tế và đời sống xã hội của người dân Việt Nam.

 Đề xuất các giải pháp, kiến nghị và tầm nhìn kinh tế để đạt được mục tiêu

giảm lượng khí thải CO2 và ứng phó với biến đổi khí hậu.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

lượng khí thải CO2 tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu tác động của việc

thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế lên lượng khí CO2 thải ra môi trường như thế

nào trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2015.

5. Phương pháp nghiên cứu

7

Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

 Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng nguồn số liệu thống kê từ World Bank,

UNDP, Tổng cục Thống kê và một số nguồn thông tin học thuật chính thống

đáng tin cậy khác. Ngoài ra, tác giả còn tham chiếu các tài liệu thứ cấp như

các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài phỏng vấn, các bài đăng nghiên cứu

của các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước nhằm thu thập các luận điểm

về mối quan hệ giữa tăng trưởng kình tế và lượng khí thải CO2.

 Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp: là những phương pháp nổi bật

được người viết sử dụng xuyên suốt đề tài. Phương pháp phân tích giúp tìm ra

những điểm nổi bật và chi tiết trong mối quan hệ giữa tăng trưởng và lượng

khí thải CO2. Phương pháp so sánh giúp thấy được sự khác biệt tương quan

giữa các số liệu về tăng trưởng và lượng khí CO2 qua từng thời kỳ. Tổng hợp

các thông tin thu được giúp tác giả có cái nhìn tổng quát và đưa ra được kết

luận chính xác để hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu.

 Phương pháp phân tích định lượng: người viết sử dụng các nguồn số liệu

thống kê từ các nguồn dữ liệu tin cậy, thông qua phần mềm phân tích stata và

phương pháp OLS để lượng hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

lượng khí thải CO2 hàng năm ở Việt Nam.

6. Kết cấu đề tài

Ngoài mục lục, danh mục bảng, biểu, hình vẽ, lời mở đầu, kết luận, tài liệu

tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm ba chương như sau:

Chương 1: Tổng quan cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh

tế và lượng khí thải CO2

Chương 2: Phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí

thải CO2 tại Việt Nam

Chương 3: Đề xuất các khuyến nghị nhằm thực hiện mục tiêu giảm lượng

khí thải CO2 trong điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam

8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LƯỢNG KHÍ THẢI CO2

1.1 Khái quát về tăng trưởng kinh tế

1.1.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế

Cùng với sự phát triển của kinh tế học và sự xuất hiện của các mô hình tăng

trưởng, khái niệm về tăng trưởng kinh tế cũng dần được hoàn thiện. Douglass C.

North và Robert Paul Thomas (1937) cho rằng “Tăng trưởng kinh tế xảy ra nếu sản

lượng tăng nhanh hơn dân số”.

Theo Perkins và Cộng sự (2006, tr. 37) “Tăng trưởng kinh tế liên quan đến sự

gia tăng thu nhập quốc dân trên đầu người - sự gia tăng giá trị của hàng hóa và dịch

vụ được sản xuất ra trên mỗi đầu người trong một nền kinh tế, sau khi đã điều chỉnh

yếu tố lạm phát. Đây là một thước đo mục tiêu tương đối về năng lực kinh tế.

Thước đo này đã được công nhận rộng rãi và có thể được tính với mức độ chính xác

khác nhau đối với hầu hết các nền kinh tế”.

Sự gia tăng mức sản xuất mà một nền kinh tế tạo ra theo thời gian cũng được

coi là một định nghĩa khác về tăng trưởng kinh tế. (Nguyễn Văn Công và cộng sự,

2011, tr. 67).

Qua những định nghĩa trên đây, có thể thấy tăng trưởng kinh tế được hiểu đơn

thuần là sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy nhiên, các lý thuyết về tăng

trưởng sau này lại đề cập nhiều hơn đến sự thay đổi cả về chất của nền kinh tế.

Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ 20, các Báo cáo về phát triển con người của

UNDP đã đưa ra các khải niệm về tăng trưởng mất gốc, tăng trưởng không có tương

lai… nhằm cảnh báo về thực trạng tăng trưởng mà không gắn với việc phân phối

các thành quả của tăng trưởng, đồng thời đưa ra khái niệm “tăng trưởng công

bằng”2. Điểm chung của các báo cáo này là nhấn mạnh đến tăng trưởng cần gắn với

chất lượng.

2 UNDP (1998), Báo cáo phát triển con người.

9

Theo Chu Văn Cấp (2011): “Trong nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế

về mặt lượng được đánh giá chủ yếu thông qua các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng

trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm: Tổng giá trị sản xuất (GO)3, tổng

sản phẩm quốc nội (GDP)4, tổng sản phẩm quốc dân (GNP)5, tổng thu nhập quốc

dân (GNI)6; trong đó, GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất và được sử dụng phổ

biến nhất. Tăng trưởng kinh tế về mặt chất lượng, đó là sự biến đổi về quy mô, cơ

cấu, chất lượng của nên kinh tế gắn với việc đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, sử

dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường… đây cũng là ba nhóm chỉ

tiêu trụ cột của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chất lượng tăng

trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền

kinh tế, thể hiện trên các mặt sau: (1) Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong

một thời gian dài, (2) Nền kinh tế phát triển có hiệu quả thể hiện ở năng suất lao

động cao, hiệu quả sử dụng vốn cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế cao, (4) Cơ cấu

kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hiện đại, (4) Tăng trưởng kinh tế gắn liện

với việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ

môi trường sinh thái”.

Theo cách hiểu rộng, chất lượng tăng trưởng tiến sát với quan điểm về phát

triển bền vững, trong đó chú trọng tới các thành tố kinh tế, xã hội và môi trường.

Theo đó, các quốc gia không nên chỉ chú trọng tới tốc độ tăng trưởng mà còn phải

tìm cách để giữ vững tốc độ tăng trưởng cao đó thông qua nâng cao chất lượng tăng

trưởng (giảm nghèo, đầu tư cho giáo dục, quản lý).

3 Tổng giá trị sản xuất (Gross Output - GO): Là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất (giá trị của những sản phẩm vật chất và dịch vụ của toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng cộng giá trị của từng ngành kinh tế, tahnhf phần kinh tế. Tổng giá trị sản xuất gồm các yêu tố: Chi phí trung gian và giá trị mới tăng thêm. 4 Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products - GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định ( thường là một năm tài chính). 5 Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng. 6 Thu nhập quốc dân (Gross National Income, GNI) là chỉ số xác định tổng thu nhập của một quốc gia trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Thu nhập quốc dân bao gồm: chi tiêu dùng cá nhân, tổng đầu tư của dân cư, chi tiêu dùng của chính phủ, thu nhập thuần từ tài sản ở nước ngoài (sau khi trừ các thuế), và tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu và trừ đi hai khoản: tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu và thuế gián thu.

10

Vinod và cộng sự (2000) đã đưa ra hai khía cạnh của chất lượng tăng trưởng

đó là duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn và tăng trưởng phải đóng góp và

cải thiện bền vững phúc lợi xã hội, cụ thể là phân phối thành quả của tăng trưởng và

cải thiện mức sống. Quan điểm này thể hiện sự tiến bộ trong cách nhìn nhận về tăng

trưởng kinh tế.

Theo đó, tác giả đưa ra khái niệm vê tăng trưởng kinh tế dưới góc độ của bài

nghiên cứu như sau: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hợp lý và bền vững về sản

lượng và quy mô của nền kinh tế đi cùng với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội,

chất lượng cuộc sống”. Trong khái niệm được đề xuất, tăng trưởng thể hiện ở sự gia

tăng quy mô nền kinh tế nhưng không cần ở mức quá cao mà chỉ cần ở mức hợp lý

nhưng bền vững trong dài hạn. Chính sách tăng trưởng không nên quá cực đoan về

việc gia tăng tốc độ tăng trưởng mà bất chấp các hậu quả về bất bình đẳng trong

phân phối thu nhập và các hậu quả về môi trường và xã hội. Tăng trưởng chú trọng

việc phân phối các thành quả của nó một cách bình đẳng, cải thiện đời sống vật chất

bắt đầu từ nhóm người nghèo ngay trong quá trình tăng trưởng.

1.1.2 Nguồn gốc tăng trưởng

Nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith (1723-1790), người đầu tiên đưa ra lý

luận về vai trò của tích lũy vốn với nền kinh tế, khẳng định vai trò của tích lũy vốn

đối với tăng trưởng kinh tế thông qua việc mở rộng sản xuất, đẩy mạnh phân công

lao động.

D.Ricardo (1772-1823), người được coi là tác giả kinh tế học cổ điển xuất sắc

nhất, đã đưa ra lý luận về ba yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao

động và vốn. Trong ba yếu tố kể trên, đất đai là yếu tố quan trọng nhất và cũng

chính là giới hạn của tăng trưởng. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng đầu tư có thể làm

giảm giới hạn này bằng cách đầu tư sang lĩnh vực công nghiệp để xuất khẩu và mua

lương thực rẻ hơn từ nước ngoài, đầu tư cho tăng trưởng ngành công nghiệp và

nông nghiệp dẫn đến làm giảm sự giới hạn tăng trưởng chung.

Năm 1936, J. Maynard Keynes xuất bản tác phẩm “Lý thuyết chung về việc

làm, lãi suất và tiền tệ” đã đánh dấu sự ra đời của một học thuyết kinh tế mới, trong

11

đó nhấn mạnh tới vai trò của chính sách kinh tế đối với tăng trưởng. Keynes cho

rằng muốn thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp, nhà nước phải thực hiện điều tiết

bằng các chính sách kinh tế nhằm tăng cầu tiêu dùng; đầu tư có ảnh hưởng đến tổng

cầu, và qua đó quyết định sản lượng của nền kinh tế.

Dựa vào tư tưởng của Keynes, hai nhà nhà kinh tế học Harrod và Domar đã

đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết

kiệm và đầu tư, coi tích lũy tư bản là động lực của tăng trưởng. Theo đó tiết kiệm là

nguồn gốc của đầu tư, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất, gia tăng vốn sản xuất sẽ

trực tiếp gia tăng sản lượng đầu ra. Đầu tư góp phần làm gia tăng nguồn lực sản

xuất (thiết bị, máy móc), qua đó nâng cao sản lượng. Tuy nhiên, nhược điểm của

mô hình này là coi tốc độ tăng trưởng chỉ được xác định qua tỉ lệ tiết kiệm.

Nếu gọi Y là sản lượng đầu ra năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế là g

Nếu gọi s là tỷ lệ tiết kiệm/GDP và tổng tiết kiệm trong năm là S:

Về lý thuyết, tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên đầu tư luôn bằng tiết

kiệm ( )

Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất nên

Gọi ICOR là tỷ lệ gia tăng giữa vốn và sản lượng đầu ra ta sẽ có:

hay

(k càng nhỏ thì hiệu quả đầu tư càng cao)

Do đó chúng ta có:

12

Năm 1956, Solow đã xây dựng lên mô hình tăng trưởng mang những ý tưởng

mới, còn được gọi là mô hình tăng trưởng Solow. Nếu như mô hình Harrod-Domar

chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất (thông qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng

trưởng, thì mô hình Solow đã đưa thêm yếu tố lao động và tiến bộ công nghệ vào

phương trình tăng trưởng đồng thời xét tới yếu tố năng suất cận biên giảm dần của

đầu tư.

Xét hàm sản xuất Cobbs-Douglas giản đơn:

trong đó Y, K, L lần lượt là sản lượng, vốn và lao động của nền kinh tế, giả định

hàm sản xuất không thay đổi theo qui mô.

Suy ra:

với y=Y/L (thu nhập bình quân lao động) và k=K/L (mức vốn bình quân lao động).

Vì năng suất cận biên của vốn giảm dần nên khi k tăng thì y tăng chậm dần.

Từ mô hình Harrod-Domar, ta đã có I=sY với I là đầu tư của nền kinh tế, s là

tỷ lệ tiết kiệm. Nếu chia cả 2 vế phương trình cho L, ta được mức đầu tư bình quân

lao động i bằng:

i = s.y

Tại mỗi thời điểm, lượng vốn là yếu tố quyết định đến sản lượng của nền kinh

tế. Tuy nhiên, lượng vốn có thể thay đổi theo thời gian thông qua ảnh hưởng của hai

lực lượng là đầu tư (làm tăng lượng vốn) và khấu hao (làm giảm lượng vốn). Tại

một thời điểm mà đầu tư bằng với khấu hao, lượng vốn sẽ không thay đổi, nền kinh

tế đạt trạng thái ổn định (điểm dừng của nền kinh tế). Đồng thời, tại đó cũng không

tồn tại khả năng tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người của nền kinh tế. Mô

hình Solow xác định tăng trưởng kinh tế dựa trên tăng yếu tố vốn chỉ xảy ra trong

ngắn hạn mà không xảy ra trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng trong

dài hạn. Yếu tố công nghệ trở nên quan trọng khi đặt mục tiêu tăng trưởng trong dài

hạn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dù nền kinh tế đã đạt điểm dừng. Lúc này, tăng

trưởng kinh tế tại điểm dừng theo mô hình Solow sẽ bằng với “tốc độ tăng trưởng”

của thay đổi công nghệ.

13

Mô hình AK (Rebelo 1992) giả định rằng tiến bộ công nghệ là suất sinh lợi

không đổi theo vốn vật chất và vốn con người ( (loại bỏ yếu tố lao động) và

không có tăng trưởng dân số, trong đó:

Trong mô hình này, tăng trưởng dài hạn là nội sinh vì nó không còn phụ thuộc

vào số dư không xác định. Đầu tư tác động trực tiếp lên tăng trưởng, không chỉ mức

thu nhập dài hạn như mô hình Solow. Mô hình này chỉ ra bất kì yếu tố nào làm

giảm tốc độ tích tụ vốn cũng sẽ tác động lớn trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng.

Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan trọng với bất kì một quốc gia nào trên

thế giới. Trước hết, tăng trưởng kinh tế làm gia tăng thu nhập của dân cư, cải thiện

chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội. Một nền kinh tế có chất lượng tăng trưởng

cao là nền kinh tế sử dụng hiệu quả các nguồn lực, trong đó có lao động. Do đó,

tăng trưởng nhanh giúp tạo công ăn việc làm, giảm thiểu thất nghiệp. Theo qui tắc

70, việc nắm giữ tốc độ tăng trưởng cao hơn sẽ giúp các nước đang phát triển giảm

thời gian gia tăng thu nhập của nền kinh tế so với các nước phát triển, qua đó rút

ngắn dần sự chênh lệch về thu nhập.

Theo UNESCAP (2001), “tăng trưởng kinh tế không phải là tất cả, song nếu

không có tăng trưởng thì chúng ta cũng không thể đi đến đâu.” Mức độ phát triển

của mỗi quốc gia đều được đánh giá thông qua: sự ổn định, tăng trưởng và công

bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng được ví như nền móng cho các yếu tố còn lại, và

là tiền đề vật chất để thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội. Theo đuổi tăng trưởng

kinh tế là mục tiêu thường xuyên của mỗi quốc gia, nhưng không thể theo đuổi tăng

trưởng bằng mọi giá. Thực tế cho thấy không phải sự tăng trưởng nào cũng mang

lại lợi ích về kinh tế- xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống. Ví dụ như tăng trưởng

kinh tế cao nhưng lại phá hủy môi trường, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề gây

ra nhiều bệnh tật hoặc tăng trưởng làm cho một bộ phận dân cư giàu lên, nới rộng

khoảng cách giàu nghèo và bất công xã hội. Do đó, mỗi quốc gia, trong từng thời kì,

phải có định hướng chiến lược cụ thể để đảm bảo tăng trưởng kinh tế đạt mức cao

và bền vững.

14

1.1.3 Đo lường tăng trưởng kinh tế về mặt lượng

Các chỉ số được dùng để đo lường tăng trưởng kinh tế về mặt lượng bao gồm:

Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product - GDP) và tổng sản phẩm quốc

dân (Gross National Product - GNP).

1.1.3.1 Tổng sản phẩm trong nước (GDP)

GDP được đo lường bằng nhiều phương pháp khác nhau, cụ thể như sau:

(1) Phương pháp tiếp cận từ sản xuất: Theo cách này, GDP được tính

bằng tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong

cả nước. Trong đó, giá trị gia tăng (Value added - VA) là sản lượng của doanh

nghiệp trừ đi giá trị của hàng hóa trung gian mua từ các doanh nghiệp khác

(Nguyễn Văn Công và cộng sự, 2001, tr.40-41).

(2) Phương pháp tiếp cận từ chi tiêu: Theo phương pháp chi tiêu, tổng

sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia là tổng số tiền mà các hộ gia đình

trong quốc gia đó chi mua các hàng hóa cuối cùng. Trong một nền kinh tế giản

đơn, ta có thể dễ dàng tính tổng sản phẩm quốc nội như là tổng chi tiêu hàng

hóa và dịch vụ cuối cùng trong năm.

GDP = C+G+I+NX

Trong đó:

 C là tiêu dùng các hộ gia đình, bao gồm những khoản chi tiêu cho tiêu dùng

cá nhân (Personal Consumption expenditures) của hộ gia đình về hàng hóa,

dịch vụ, không bao gồm chi xây dựng và mua nhà

 G là các khoản chi tiêu của chính phủ cho các cấp chính quyền từ trung ương

tới địa phương. Khoản chi tiêu này bao gồm chi tiêu cho quốc phòng, luật

pháp, chiếu sáng đường phố, nơi công cộng. Chi tiêu chính phủ không bao

gồm các khoản thanh toán chuyển khoản.

 I là tổng đầu tư trong nước của khu vực tư nhân (Gross private domestic

Investment). Nó bao gồm các khoản chi tiêu của doanh nghiệp về trang thiết bị

và nhà xưởng và chi tiêu cho nhà mới của dân cư.

15

 NX (NX=X-M) là xuất khẩu ròng về hàng hóa và dịch vụ, là giá trị xuất khẩu

(Exports-X) trừ đi giá trị nhập khẩu (Imports-M).

(3) Phương pháp tiếp cận từ thu nhập hay chi phí: Theo Nguyễn Văn

Công và cộng sự (2011, tr.36-39), tổng thu nhập quốc nội (GDP) được xác

định trên cơ sở các khoản thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu, bao gồm:

thu nhập của người có sức lao động dưới hình thức tiền công và tiền lương

(W); thu nhập của người có đất cho thuê (R ); thu nhập của người có tiền cho

vay ( ); thu nhập của người có vốn ( ); khấu hao vốn cố định ( ) và cuối

cùng là thuế kinh doanh (T)

GDP = W + R + + + + T

Từ các phương pháp trên, ta có thể nhận thấy việc sử dụng GDP như một

thước đo cho tăng trưởng kinh tế cũng có một số hạn chế nhất định: GDP là một

thước đo hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra bởi một nền kinh tế nhưng GDP không

tính đến những chi phí khác như ô nhiễm môi trường gây ra do hoạt động sản xuất,

không bao gồm những vấn đề về sản xuất của những hộ gia đình không thưc hiện

mua bán/ giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế đây vẫn là một phương

pháp được công nhận rộng rãi để đo lường thu nhập quốc dân, giúp ta có một thước

đo để so sánh tốc độ tăng trưởng bình quân của một quốc gia trong những giai đoạn

khác nhau hoặc so sánh tốc độ tăng trưởng bình quân giữa hai quốc gia cùng hoặc

khác giai đoạn - cả hai loại so sánh này đều hết sức cần thiết để tìm hiểu quá trình

phát triển kinh tế (Perkins và cộng sự, 2006, tr.41).

1.1.3.2 Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)

GNP khác GDP là nó bao gồm các khoản thu nhập do công dân một nước tạo

ra ở nước ngoài nhưng không bao gồm những khoản thu nhập do công dân nước

ngoài tạo ra ở trong nước.

GNP = GDP + NFA

Với NFA là yếu tố thu nhập ròng từ nước ngoài (Net Factor Income from

Abroad - NFA) hay chênh lệch giữa thu nhập được cư dân trong nước tạo ra ở nước

ngoài và thu nhập của người nước ngoài tạo ra ở trong nước.

16

1.1.4 Đo lường tăng trưởng kinh tế về mặt chất lượng

Tăng trưởng kinh tế về mặt chất lượng được hiểu là tăng trưởng đi kèm với

tăng chất lượng cuộc sống và phân phối thu nhập một cách bình đẳng và được đo

lường qua chỉ số phát triển con người (Human Development Index-HDI)

Theo Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP, 2011), chỉ số phát

triển con người (HDI) là thước đo tổng hợp sự phát triển kinh tế xã hội của một

quốc gia trên các phương diện thu nhập (thể hiện qua GDP bình quân đầu người

được điều chỉnh theo ngang giá sức mua), giáo dục (thể hiện qua tỷ lệ người lớn

biết chữ) và tuổi thọ (có được cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, thể hiện qua tuổi thọ

trung bình). HDI nhấn mạnh đến yếu tố con người cũng như khả năng của con

người được coi là tiêu chí để đánh giá sự phát triển của một quốc gia. HDI có giá trị

giới hạn bằng 1.

(i) Chỉ số tuổi thọ (HDI1): Phản ánh độ dài cuộc sống và sức khỏe, đo

bằng tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh. Như một biến đại diện cho việc sống

một cuộc sống mạnh khỏe và dài lâu, HDI xây dựng tuổi thọ lúc sinh của một

quốc gia và so sánh sự tiến bộ của số đo này so với các nước khác.

HDI1 =

Trong đó: T là tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh

(ii) Chỉ số giáo dục (HDI2) Phản ánh thành tựu của một quốc gia ở tỉ lệ

người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học, đại

học. Chỉ số giáo dục tính giá trị bình quân trọng số của tỉ lệ người lớn biết chữ

và tỉ lệ phổ cập giáo dục các cấp kết hợp. Tỉ lệ người trưởng thành biết chữ

được cho trọng số là hai phần ba, còn tỉ lệ phổ cập giáo dục kết hợp được gán

trọng số là một phần ba.

HDI2 =

Trong đó: L là tỷ lệ người lớn đi học hoặc tỷ lệ biết chữ của dân cư.

17

(iii) Chỉ số thu nhập (HDI3) phản ánh về mức sống của người dân,

được đo bằng GDP bình quân đầu người tính bằng sức mua tương đương theo

Đô la Mỹ (PPP_USD).

HDI3 =

Công thức tính HDI:

HDI= (HDI1+ HDI2+ HDI3)

HDI có giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Khi HDI = 1 thể hiện trình độ

phát triển con người cao nhất. HDI tối thiểu bằng 0 thể hiện xã hội không có

sự phát triển mang tính nhân văn.

1.2 Tổng quan về khí Cacbonic (CO2)

1.2.1 Tính chất của khí CO2

Cacbonic (CO2) là một hợp chất, ở điều kiện bình thường có dạng khí trong

khí quyển bao gồm một nguyên tử Cacbon và hai nguyên tử Oxi. Khí cacbonic có

thể tồn tại ở trạng thái rắn, lỏng, khí. Khí cacbonic (CO2) là một loại khí phổ biến

trong tự nhiên, là sản phẩm của các quá trình cháy, hô hấp. Khí cacbonic trong điều

kiện bình thường là khí không màu, mùi và có vị chua nhẹ hòa tan tốt trong nước

nặng gấp 1,524 lần không khí. Khí CO2 không tham gia các phản ứng cháy. Ở nhiệt

độ dưới -78 độ C, khí CO2 ngưng tụ lại thành các tinh thể màu trắng gọi là băng

khô. Khí CO2 có thể bị phân hủy tại nhiệt độ cao 2000 độ C thành CO và O2. CO2

lỏng chỉ được tạo ra dưới áp suất 5,1 barơ; ở điều kiện áp suất khí quyển, CO2

chuyển trực tiếp từ thể khí sang thể rắn hay ngược lại theo một quá trình được gọi là

sự thăng hoa.

1.2.2 Vai trò của khí CO2

Tác động tích cực: CO2 là nguyên liệu cho quá trình quang hợp để sản xuất

năng suất sinh học sơ cấp ở cây xanh và sản sinh ra khí oxi cần thiết cho hô hấp của

18

động vật và con người. Trong điều kiện bình thường, có thể coi lượng CO2 sản sinh

tự nhiên cân bằng với lượng CO2 được dùng cho quá trình quang hợp. CO2 có vai

trò quan trọng trong việc duy trì nhiệt độ Trái đất nhờ vào hiệu ứng nhà kính mà nó

gây ra giúp giữ lại một phần bức xạ của mặt trời, giúp cho trái đất có nhiệt độ phù

hợp cho sự sống. Nhờ có khí CO2 mà Trái đất mới thoát khỏi kỷ băng hà và có được

nền nhiệt độ như ngày nay cho các loài sinh vật sinh sống. Bên cạnh đó, CO2 còn có

nhiều ứng dụng trong đời sống như: sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm

để tạo gas cho các loại đồ uống, sử dụng để sản xuất ra các bình chữa cháy đặc biệt

hay làm dung môi hữu cơ ít độc trong công nghiệp dược phẩm để thay thế các dung

môi clorua truyền thống.

Tác động tiêu cực: Tỷ lệ CO2 trong không khí được coi là ổn định ở mức 0,3 –

0,4%0. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng ở nồng độ thấp CO2 kích thích trung tâm hô

hấp, tuy nhiên mức nồng độ CO2 5%0 đã gây trở ngại cho hô hấp, còn với mức CO2

ở nồng độ 15%0 con người không thể hoạt động được. Ở nồng độ 30 – 60 %0 , CO2

có thể gây nguy hiểm tính mạng cho con người vì tan nhiều trong máu, tác dụng lên

trung ương thần kinh. (Cổng thông tin điện tử Bộ Giao thông Vận tải, 2015). Không

những vậy, khi lượng khí CO2 tăng lên, khiến Trái đất nóng lên và băng ở hai cực

của Trái Đất tan chảy làm nước biển dâng lên, nhấn chìm một số vùng đất ven biển

và các đảo. Hiện tượng nhà kính làm nhiệt độ Trái Đất tăng gây tác động lớn đến

sản xuất nông nghiệp bởi hiện tượng hạn hán, biến đổi khí hậu gây nên hiện tượng

thời tiết bất thường, ảnh hưởng đến thời vụ, tưới tiêu, năng suất cây trồng. Thời tiết

trở nên khắc nghiệt hơn và dễ thay đổi nhanh chóng làm phát sinh và lây lan dịch

bệnh. Các đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ không khí tăng, gây nên những tác động

tiêu cực đối với sức khỏe con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi

già, những người mắc bệnh tim mạch, dị ứng. Bên cạnh đó, hiện tượng nóng lên

toàn cầu làm thay đổi hệ sinh thái, nhiều loại động vật và thực vật có nguy cơ tuyệt

chủng.

19

1.2.3 Các nguồn phát thải khí CO2 chủ yếu

Biểu đồ 1. 1: Các nguồn phát thải khí CO2 chủ yếu trên thế giới

Nguồn: Climate Change 2014: Mitigation of Climate Change. Contribution of

Working Group III to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental Panel

on Climate Change (IPCC, 2014)

Sự phát thải CO2 đến từ chu trình các bon, hoạt động đốt phá rừng và việc sử

dụng nhiên liệu hóa thạch. Theo chu trình các bon, quá trình quang hợp sẽ sử dụng

CO2 như nguồn nguyên liệu chính và sản phẩm chính là khí O2. Con người và động

vật khi hít thở sẽ hấp thụ O2 và thải ra CO2. Bên cạnh đó, khi cây cối và động vật

chết đi, xác thực vật và động vật phân hủy cũng tạo ra CO2. Chu trình các-bon cho

thấy khi cây cối chết đi, chúng sẽ tạo ra CO2 nhưng khi bị đốn hạ và dùng làm chất

đốt, lượng CO2 tạo ra còn nhiều hơn. Vì thế lượng CO2 trong khí quyển sẽ tăng lên

khi con người gia tăng việc đốn hạ cây xanh làm chất đốt, cùng với việc thiếu hụt

thảm thực vật có khả năng quang hợp tái tạo O2 từ CO2. Một nguồn phát thải CO2

lớn nữa đến từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Bản chất của nguyên liệu hóa

thạch là các cơ thể sống không phân hủy hoàn toàn và lượng các bon chưa phân giải

được lưu trữ trong lòng đất hàng triệu năm. Việc đốt nhiên liệu hóa thạch làm giải

phóng lượng các bon bị tồn trữ và phát thải mạnh CO2 vào không khí.

Qua Biểu đồ, ta có thể thấy ngành sản xuất điện và sưởi ấm phát thải ra nhiều

khí CO2 nhất trong năm 2010 với tỷ trọng 25% của tổng lượng khí CO2 phát thải.

20

Nguyên nhân do quá trình sản xuất điện và sưởi ấm này cần phải đốt cháy nhiều

nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí thiên nhiên.

Xếp thứ hai là ngành nông nghiệp, lâm nghiệp với 24% lượng phát thải khí

CO2 toàn cầu năm 2010. Phát thải từ khu vực này đến từ các hoạt động canh tác

nông nghiệp và chăn nuôi (chất thải gia súc) và nạn cháy rừng diễn ra khắp nơi trên

thế giới.

Đứng thứ ba là ngành công nghiệp chiếm 21% lượng phát thải CO2 toàn cầu

năm 2010. Khí nhà kính sinh ra trong quá trình sử dụng nhiên liệu trong nhà máy,

các khu công nghiệp nhằm tạo ra năng lượng phục vụ sản xuất, ngoài ra còn do khí

thải từ các chất hóa học, quá trình luyện kim.

Ngành giao thông vận tải chiếm 14% lượng phát thải CO2 toàn cầu do việc sử

dụng nhiên liệu cho các phương tiện đường bộ, đường sắt, hàng không và vận tải

biển. Phần lớn năng lượng dùng cho giao thông vận tải của thế giới đến từ các nhiên

liệu từ dầu mỏ, chủ yếu là xăng và dầu diesel, một số ít còn sử dụng than đá.

Ngành xây dựng chiếm 6% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu vào năm

2010 do phát tán khí thải ô nhiễm trong quá trình vận chuyển nguyên liệu và xây lắp

công trình.

1.3 Mô hình đường Kuznets môi trường trong mối quan hệ giữa tăng trưởng

kinh tế và lượng khí thải CO2

1.3.1 Tổng quan về đường Kuznets về môi trường

Trong cuộc họp thường niên lần thứ 67 của Hiệp hội Kinh tế châu Mỹ vào

tháng 12/1954, Simon Kuznets đã lần đầu tiên giới thiệu về khái niệm đường cong

Kuznets, mô tả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề bất bình đẳng thu

nhập. Tuy nhiên, Grossman và Krueger (1993, 1995) đã đưa ra thuật ngữ “Đường

Kuznet môi trường” (The Environmental Kuznet Curve) – đường chữ U ngược

(The Inverted - U relationship) để mô tả mối quan hệ giữa chất lượng môi trường

và sự phát triển kinh tế của một quốc gia; đây được coi là phương tiện để mô tả mối

quan hệ giữa chất lượng môi trường và thu nhập đầu người theo thời gian. Mức độ

suy thoái môi trường và mức thu nhập đầu người cũng tuân theo quy luật đường

21

cong chữ U ngược –Kuznets; điều này có nghĩa là suy thoái môi trường sẽ gia tăng

trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, nhưng khi tăng trưởng đạt đến ngưỡng

chuyển đổi (turning point), con người có điều kiện về mặt kinh tế và bắt đầu có xu

hướng đầu tư khoa học kỹ thuật để giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường và giai

đoạn tiếp theo khi mức thu nhập vượt một ngưỡng nào đó thì chất lượng môi trường

có xu hướng đi lên. Đây được gọi là đường cong Kuznets môi trường (EKC).

Kuznets đã đưa ra hình dạng chung của đường cong chữ U ngược.

Hình 1. 1: Đường cong Kuznets về môi trường

Nguồn: Ecological Economic

Ban đầu, khi thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia còn ở mức thấp,

nền kinh tế càng phát triển thì lượng chất thải ra môi trường càng tăng (hay chất

lượng môi trường giảm). Sau đó, khi thu nhập bình quân đầu người đạt đến mức độ

nhất định (điểm chuyển đổi - turning point) lượng chất thải sẽ giảm dần (hay chất

lượng môi trường được cải thiện) khi nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Áp dụng vào

thực tiễn của bài nghiên cứu, lý thuyết đường Kuznets môi trường được mô tả như

sau: Ban đầu, khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp, nền

kinh tế càng phát triển thì lượng khí thải CO2 ra môi trường càng tăng (hay tình

trạng ô nhiễm không khí càng nghiêm trọng). Sau đó, khi thu nhập bình quân đầu

người của Việt Nam trong tương lại đạt đến mức độ nhất định (điểm chuyển đổi),

22

lượng khí thải CO2 sẽ giảm dần (chất lượng không khí được cải thiện) trong khi nền

kinh tế vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao.

Lý giải cho sự hiện diện của đường Kuznet môi trường trong mối quan hệ

giữa tăng trưởng và lượng khí thải CO2 dựa trên hai hiệu ứng: hiệu ứng quy mô và

hiệu ứng công nghệ. Một mặt, nền kinh tế tăng trưởng kéo theo việc mở rộng các

hoạt động sản xuất và tiêu dùng, điều này dẫn đến sự gia tăng lượng chất thải

nói chung hay lượng khí thải CO2 nói riêng, đây được gọi là hiệu ứng quy mô. Mặt

khác, nền kinh tế tăng trưởng đồng nghĩa với thu nhập bình quân tăng. Khi người

dân có thu nhập cao hơn, họ sẽ có xu hướng quan tâm đến các vấn đề về môi

trường hơn, ưa chuộng các sản phẩm thân thiện với môi trường, các nhà sản xuất sẽ

sử dụng các công nghệ sạch, chính phủ sẽ đưa ra các đạo luật về môi trường

nghiêm khắc hơn; điều này giúp giảm lượng khí thải CO2, đây được gọi là hiệu

ứng công nghệ. Khi mức thu nhập bình quân của một quốc gia còn ở mức thấp,

hiệu ứng quy mô sẽ lấn át hiệu ứng công nghệ, lượng chất thải nói chung và khí

thải CO2 sẽ tăng khi thu nhập bình quân tăng. Thu nhập bình quân càng tăng, hiệu

ứng công nghệ sẽ ngày càng mạnh hơn, đến một điểm nào đó hiệu ứng công nghệ

sẽ vượt qua hiệu ứng quy mô, điều này dẫn đến lượng chất thải, mà cụ thể là lượng

khí thải CO2 giảm khi thu nhập tăng.

1.3.2 Giải thích hình dạng của đường cong Kuznets

Có nhiều cách để giải thích hình dạng của đường cong Kuznets, có thể dựa

vào độ co giãn của thu nhập, thương mại quốc tế.

 Thay đổi hành vi tiêu dùng dựa trên thu nhập: Khi thu nhập tăng lên, con

người đạt có mức sống cao hơn và bắt đầu cân nhắc giữa tiêu dùng và giá trị

của môi trường sống tốt hơn, làm cho mức ô nhiễm có tăng nhưng bắt đầu

chậm lại. Khi đạt đến ngưỡng cụ thể của thu nhập, sự sẵn sàng chi trả cho

một môi trường sạch sẽ tăng thêm một tỷ lệ lớn hơn sự gia tăng của thu nhập.

Mọi người sẽ xem xét ủng hộ nhiều hơn cho các tổ chức môi trường hoặc

chọn tiêu dùng những sản phẩm thân thiện hơn với môi trường.

23

 Kinh tế theo qui mô, công nghệ: lúc ban đầu, các quốc gia tăng cường mở

rộng qui mô sản xuất hết mức có thể, quá trình này yêu cầu nhiều nguyên

liệu đầu vào và cũng có nghĩa nhiều chất thải và khí thải trong đầu ra của quá

trình sản xuất, do đó làm suy giảm chất lượng môi trường. Tuy nhiên, khi sản

xuất phát triển đến mức nhất định, công nghệ hiện đại hơn khiến cho hoạt

động sản xuất thân thiện với môi trường hơn và ít gây ô nhiễm hơn. Một

quốc gia giàu có có khả năng đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu và phát triển

công nghệ, cùng với sự phát triển kinh tế sẽ thay thế những công nghệ sản

xuất lỗi thời, gây ô nhiễm môi trường bằng các công nghệ mới tạo năng suất

cao hơn và thân thiện với môi trường hơn. Đường Kuznets về môi trường

cho thấy ban đầu, tăng trưởng kinh tế do mở rộng qui mô sản xuất sẽ tác

động tiêu cực tới môi trường, tuy nhiên điều này sẽ được khắc phục nhờ tác

động tích cực của hiệu ứng công nghệ, nghiên cứu ra những cách sản xuất ít

ảnh hưởng tới môi trường hơn.

 Mô hình tăng trưởng của Lewis: Mô hình phát triển của một nền kinh tế nào

được đặc trưng bởi mô hình thay đổi của các hoạt động kinh tế. Theo đó, mô

hình Kuznets được mô tả theo 3 giai đoạn chính:

- Giai đoạn 1: Xã hội tập trung nguồn tài nguyên cho các lĩnh vực sơ cấp như

khai thác và nông nghiệp để làm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng.

- Giai đoạn 2: Nguồn tài nguyên được chuyển sang cho các lĩnh vực thứ cấp là

sản xuất, bởi vì các nhu cầu cơ bản được đáp ứng và việc tiêu thụ nhiều hơn

hướng đến các sản phẩm tiêu dùng.

- Giai đoạn 3: Xã hội chuyển từ lĩnh vực thứ cấp sang lĩnh vực thứ 3, cao cấp

hơn - dịch vụ, có đặc trưng là mức độ ô nhiễm rất thấp.

Tuy nhiên, xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ, ở đó việc

chuyển từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 3 không còn là do sự suy giảm môi trường

nữa. Mà ở đây có thể diễn ra do kết quả của quá trình chuyển giao.

 Sự ra đời và hoàn thiện của các quy định về môi trường: Cùng với quá trình

phát triển kinh tế xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường được chú trọng hơn,

cùng các biện pháp quản lý và thực thi các quy định luật pháp về môi trường

24

trở nên khát khe, các biên pháp ưu đãi dành cho các công ty sản xuất sản

phẩm thân thiện với môi trường, các công ty gây ô nhiễm môi trường phải

chịu phạt (Dinda, 2004).

1.3.3 Hạn chế của lý thuyết EKC trong việc hoạch định chính sách

Thứ nhất, lý thuyết này không khẳng định rằng thu nhập quốc dân tăng thì ô

nhiễm môi trường sẽ tự động giảm, vấn đề môi trường chưa chắc có thể được giải

quyết dễ dàng bởi các hiệu ứng tích cực của tăng trưởng kinh tế. Xử lý ô nhiễm môi

trường yêu cầu những cố gắng lớn từ phía người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính

phủ.

Thứ hai, chất lượng môi trường thường được sử dụng trong phân tích về

đường EKC đều dựa trên giới hạn về chất gây ô nhiễm nhưng thực tế có rất nhiều

chất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của môi trường. Do vậy, các kết luận rút ra

từ những phân tích này không được áp dụng một cách tổng thế cho tất cả những loại

thiệt hại môi trường. Không có bằng chứng nào cho thấy quan hệ đường EKC trong

trường hợp sức ép của loài người tác động lên môi trường, trừ khi việc tiêu thụ năng

lượng không được tính trong phương pháp này (Caviglia-Harris et al, 2009). Mối

quan hệ Kuznets về môi trường chỉ thể hiện rõ nhất đối với các chất gây ô nhiễm

gây ra những ảnh hưởng đáng kể tại địa phương phát thải. Hơn nữa, đối với các

quốc gia phát triển, những ảnh hưởng từ carbon và các khí nhà kính mang tính toàn

cầu và có sự lan tỏa thì sự phát thải vẫn tiếp tục tăng lên khi tăng thu nhập bình

quân đầu người.

Thứ ba, các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, việc xác định ngưỡng chuyển

đổi khi chất lượng môi trường được cải thiện theo sự tăng lên của thu nhập đầu

người là đa dạng và thách thức. Vì vậy, phát triển kinh tế đúng hướng là có chính

sách thúc đẩy phát triển kinh tế đi kèm với chính sách đảm bảo chất lượng môi

trường.

Thứ tư, sự tồn tại của “hiện tượng trễ” (hysteresis) có thể làm giảm mức độ

tương quan của đường EKC tới các chính sách môi trường. Đặc biệt, chi phí để

khắc phục thiệt hại và cải thiện chất lượng môi trường khi mà nền kinh tế đã vượt

qua ngưỡng chuyển đổi có thể cao hơn đáng kể so với chi phí phòng ngừa thiệt hại

25

hoặc thực hiện việc giảm nhẹ ô nhiễm trước đó. Chi phí khắc phục thiệt hại và cải

thiện chất lượng môi trường khi nền kinh tế đã phát triển quá điểm chuyển đổi có

thể cao hơn nhiều so với chi phí của việc ngăn ngừa thiệt hại do ô nhiễm hoặc thực

hiện các biện pháp giảm nhẹ trước đó (Everett và cộng sự, 2010). Ví dụ, khi làm

sạch dòng sông bị ô nhiễm, ngay từ đầu, chi phí để phòng tránh tình trạng ô nhiễm

thấp hơn hẳn chi phí làm sạch phát sinh sau này.

Thứ năm, không phải tất cả các vấn đề môi trường đều tuân theo lý thuyết

đường cong Kuznets. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng các biến số đo chất lượng môi

trường như tiêu thụ năng lượng, việc sử dụng các hóa chất độc hại và sự xuống cấp

của hệ sinh thái có xu hướng tăng dần hoặc có xu hướng thay đổi không rõ ràng khi

mức thu nhập quốc dân tăng lên. Việc kiểm chứng các trường hợp có tuân theo lý

thuyết EKC hay không thông qua việc chạy mô hình kinh tế lượng trở nên kém tin

cậy hơn trước (Stern, 2004). Thực tế là một số quốc gia phát triển với mức GDP cao

vẫn đang phải đương đầu với các vấn đề về môi trường (Cole và cộng sự, 1997).

Thứ sáu, các phân tích và nhận định này đã bỏ qua các vấn đề liên quan đến

văn hóa, lịch sử và chính trị.

1.3.4 Một số lý thuyết thay thế lý thuyết EKC mô tả mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế và chất lượng môi trường

1.3.4.1 Lý thuyết MEKC (Modified Environmental Kuznets Curve)

Sileem (2015) sử dụng chỉ số HDI thay vì GDP để thể hiện mức độ phát triển

kinh tế và sử dụng khí CO2 là chỉ tiêu đo mức độ thiệt hại môi trường trong quá

trình kiểm chứng lý thuyết EKC.

Kallbekken (2000) trong nghiên cứu của mình đã kết luận rằng sử dụng HDI

sẽ hiệu quả hơn vì chỉ số về giáo dục sẽ ảnh hưởng tới nhận thức về môi trường và

mức độ hiệu quả của việc thực hiện các chính sách về môi trường được ban hành.

Tuổi thọ sẽ ảnh hưởng tới việc đưa ra các chính sách dài hạn và cũng là chỉ số tốt để

đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.

Như vậy lý thuyết MEKC cho thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa thiệt

hại môi trường và chỉ số HDI.

26

Theo Sileem (2015), mô hình MEKC đơn giản có dạng sau

CO2 = f(HDI, ε) hoặc CO2 =β0 + β1HDI+ β2HDI2+ ε

Trong đó: CO2 là lượng khí CO2 bình quân đầu người

HDI là chỉ số phát triển con người

ε là nhiễu

Để tuân theo lý thuyết MEKC thì dấu của các hệ số hổi qui được kỳ vọng như sau:

β1 > 0, β2 <0.

1.3.4.2 Lý thuyết giới hạn (Arrow và cộng sự, 1996)

Lý thuyết giới hạn xem xét khả năng môi trường có thể hồi phục trước khi nền

kinh tế đạt đến ngưỡng chuyển đổi theo lý thuyết EKC. Lý thuyết này xét đến giới

hạn mà môi trường có thể tiếp nhận chất thải do các hoạt động kinh tế thải ra và tính

chất giới hạn của nguồn tài nguyên không tái tạo. Nếu chỉ quan tâm tới tăng trưởng

kinh tế mà không quan tâm đến giới hạn của môi trường thì khi nền kinh tế đạt được

tới ngưỡng chuyển đổi cũng không thể cải thiện được chất lượng của môi trường.

Một ví dụ là nếu chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế, không quan tâm đến môi

trường, dẫn đến một số loài bị tuyệt chủng thì khi nền kinh tế đạt tới ngưỡng chuyển

đổi thì không thể khôi phục lại (Everett và cộng sự, 2010).

Như vậy, có thể hiểu, ban đầu, khi GDP bình quân đầu người tăng dẫn đến

chất lượng môi trường suy giảm. Đến ngưỡng chuyển đổi, GDP bình quân đầu

người tăng dẫn đến chất lượng môi trường được cải thiện, điều này chỉ xảy ra khi

tác động đến môi trường của tăng trưởng không được vượt quá giới hạn của môi

trường.

27

Hình 1. 2: Học thuyết giới hạn

Nguồn: Arrow và cộng sự (1996)

1.3.4.3 Quan điểm của Davidson (2000)

Davidson (2000) đặt vấn đề sự tồn tại của ngưỡng chuyển đổi, và xem xét khả

năng thiệt hại môi trường sẽ gia tăng khi nền kinh tế phát triển. Nguyên nhân do khi

tăng trưởng kinh tế tăng cao, sự phát thải chất gây ô nhiễm giảm xuống tuy nhiên

những chất ô nhiễm mới thay thế cho chúng tăng lên. Khi GDP bình quân đầu

người tăng lên thì thiệt hại môi trường cũng tăng, và mối quan hệ giữa GDP bình

quân đầu người và thiệt hại môi trường được thể hiện bởi một đường tuyến tính có

độ dốc dương.

Hình 1. 3: Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và ô nhiễm môi trường theo Davidson (2000)

Nguồn: Davidson (2000)

28

1.3.4.4 Quan điểm của Stern (2004)

Stern (2004) đưa ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường, đặt

trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế giữa các nước. Ban đầu, sự cạnh tranh giữa các

quốc gia dẫn đến bùng nổ tăng trưởng và sự gia tăng ô nhiễm môi trường. Khi đạt

đến một ngưỡng chuyển đổi thì các nước phát triển hơn bắt đầu giảm lượng phát

thải ra môi trường và xuất khẩu hoạt động gây ô nhiễm sang các nước kém phát

triển hơn. Kết quả cuối cùng là ô nhiễm môi trường toàn cầu không thay đổi.

Hình 1. 4: Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và mức độ ô nhiễm môi trường theo quan điểm của Stern (2004)

Nguồn: Stern (2004)

29

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH

TẾ VÀ LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 TẠI VIỆT NAM

2.1 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1985-2015

2.1.1 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam về quy mô

2.1.1.1 Tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985-2015

Biểu đồ 2. 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985-2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ World Bank

Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn cao hơn tốc độ tăng

trưởng kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng bình quân của Việt Nam trong giai đoạn

1985-2015 là 6,42%, cao hơn 2 lần so với mức tăng trưởng trung bình của thế giới

trong cùng giai đoạn là 2,97%.

Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng bình quân hàng

năm chỉ đạt 4,7%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng

trưởng khá ấn tượng: giai đoạn 1991-1995, GDP tăng trưởng lên đến 8,2%/năm tức

là gần gấp đôi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù

chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á (1997-1999), tốc độ tăng

trưởng kinh tế trung bình vẫn đạt mức 7%.

30

Giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 6,9%/năm; giai đoạn 2006-2010,

do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân

6,32%/năm. Trong thời kỳ tiếp theo, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính

thế giới năm 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai

đoạn 2011-2015 của Việt Nam đã chậm lại những vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao so

với khu vực và thế giới.

Biểu đồ 2. 2: GDP bình quân đầu người ở Việt Nam giai đoạn 1985-2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ World Bank

Quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng nhanh. Sau 16 năm đổi mới, năm 2003,

GDP Việt Nam đạt 42 tỷ USD, GDP bình quân đầu người ở nước ta mới đạt 530

USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt được 194 tỷ USD7, thu nhập

bình quân đầu người đạt được gần 2.111 USD. Số liệu cho thấy quy mô nền kinh tế

năm 2015 gấp 4,5 lần năm 2003 và gấp 7,3 lần năm trước đổi mới 1986.

Qua Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế, có thể thấy được trong mỗi thập niên

1980, 1990 và 2000, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) thường tăng

nhanh trong nửa đầu rồi suy giảm khá mạnh trong thời điểm cuối giai đoạn. Trong

7 World Bank, World Development Indicators 2016

31

khoảng từ 2010 đến 2015, tốc độ tăng trưởng GDP thể hiện xu hướng khó nắm bắt

khi có dấu hiệu đi lên vào năm 2010, rồi lại giảm sâu trong giai đoạn 2010-2012 và

chỉ phục hồi lại từ năm 2013 đến nay. Như vậy, nếu như quá trình tăng trưởng kinh

tế nước ta trước năm 2010 có những pha đi lên – đi xuống rõ ràng, có tính quy luật

và dễ dự báo thì từ năm 2011 đến nay, chịu ảnh hưởng tình hình kinh tế - chính trị

thế giới có nhiều dấu hiệu bất ổn trở nên rất khó dự báo cho một vài năm tới.

Có thể kết luận rằng, Việt Nam đã đạt được những bước phát triển kinh tế

thành công trong suốt giai đoạn 1986-1997 với mức tăng trưởng GDP bình quân

luôn giữ ở mức cao so với các nước khác là 7,2%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng

của Việt Nam trong những năm gần đây đang có xu hướng chững lại, ổn định và

dao động xung quanh mức 6%, khá thấp so với mức 7-7,5% trong suốt 20 năm đầu

đổi mới (từ 1990 đến 2010) và mức 8% giai đoạn 1991-1995. Các số liệu chứng tỏ

nền kinh tế hoàn toàn có thể nâng cao hơn nữa tiềm năng tăng trưởng trong trung và

dài hạn để đạt được mức 8% trước đó nếu có những biện pháp chính sách kịp thời

và đúng đắn.

2.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Một trong những mốc quan trọng, đánh dấu bước ngoặt đi lên của nền kinh tế

Việt Nam là công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt Nam chuyển đổi thành công từ nền

kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. World Bank (2002) đề cập đến chuyển đổi ở khu vực Đông Âu là một quá

trình cam go, đầy phức tạp với các cuộc khủng hoảng tái diễn đi cùng lạm phát cao,

sản lượng sụt giảm, thu nhập trung bình giảm, tỷ lệ nghèo tăng. Trong khi đó, Việt

Nam lại đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đầu tư tăng nhanh, lạm phát thấp.

Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất phải kể đến là Việt Nam tiến hành tự

do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu như trước đổi mới, việc phân

phối hàng hóa đầu ra và các nguồn lực do nhà nước kiểm soát thì việc tiến hành tự

do hóa lưu thông trao đổi hàng hóa, tự do hóa giá cả góp phần giải phóng nguồn

vốn vật chất và con người, thúc đẩy năng suất lao động, nâng cao sản lượng nền

kinh tế. Việt Nam tự do giá cả và thương mại hầu hết các ngành vào cuối năm 1988,

thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát đưa tỷ giá sát với thị trường tự do,

32

cho phép lưu trữ ngoại tệ, cho phép các doanh nghiệp được tự do thương mại với

nước ngoài, hình thành các khu chế xuất và công nghiệp (ADB 2006; IMF 1996).

Tiếp đó, Việt Nam đã tiến hành ký kết một loạt các hiệp định song phương và đa

phương như: Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN năm 1995, Hiệp định

thương mại song phương với Mỹ năm 2000 và với Nhật Bản năm 2008, Việt Nam

trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007. Hội nhập

kinh tế quốc tế đem lại những lợi ích rõ rệt cho Việt Nam, bao gồm xuất khẩu được

đẩy mạnh, giá cả và chất lượng hàng hóa dịch vụ đa dạng, thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài tăng mạnh thúc đẩy trực tiếp các ngành sản xuất công nghiệp và dịch

vụ. Sau khi Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ và trở thành

thành viên của WTO, các điều kiện thương mại trở nên thuận lợi hơn nhiều so với

trước, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu tăng lên rất mạnh. Theo Bảng tình hình

xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 1990-2015, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu

có xu hướng tăng dần và tương đương trên 80%GDP nền kinh tế năm 2015, thể hiện

vai trò ngày càng quan trọng đối với tăng trưởng chung.

Bảng 2. 1: Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 1990-2015

Xuất khẩu Nhập khẩu

Cán cân xuất nhập khẩu (triệu USD) Xuất khẩu (triệu USD) Nhập khẩu (triệu USD)

Tốc độ tăng (%) Tốc độ tăng (%)

Tỷ trọng so với GDP (%) Tỷ trọng so với GDP (%)

2.404,0 - - 2.752,4 - - -348,4 1990

2.087,1 86,8 - 2.338,1 84,9 - -251,0 1991

2.580,7 123,7 - 2.540,8 108,7 - 39,9 1992

2.985,2 115,7 - 3.923,9 154,4 - -938,7 1993

4.054,3 135,8 - 5.825,8 148,5 - -1.771,5 1994

5.448,9 134,4 - 8.155,4 140,0 - -2.706,5 1995

7.255,8 133,2 - 11.143,6 136,6 - -3.887,8 1996

9.185,0 126,6 - 11.592,3 104,0 - -2.407,3 1997

9.360,3 101,9 - 11.499,6 99,2 - -2.139,3 1998

33

1999 -200,7 11.541,4 123,3 - 11.742,1 102,1 -

2000 -1.153,8 14.482,7 125,5 - 15.636,5 133,2 -

2001 -1.188,7 15.029,2 103,8 - 16.217,9 103,7 -

2002 -3.039,5 16.706,1 111,2 - 19.745,6 121,8 -

2003 -5.106,5 20.149,3 120,6 - 25.255,8 127,9 -

2004 -5.483,8 26.485,0 131,4 - 31.968,8 126,6 -

2005 -4.314,0 32.447,1 122,5 - 36.761,1 115,0 -

2006 -5.064,9 39.826,2 122,7 - 44.891,1 122,1 -

2007 -14.203,3 48.561,4 121,9 - 62.764,7 139,8 -

2008 -18.028,7 62.685,1 129,1 - 80.713,8 128,6 -

2009 57.096,3 91,1 57,2 69.948,8 86,7 70,1 -12.852,5

2010 72.236,7 126,5 65,3 84.838,6 121,3 76,6 -12.601,9

2011 96.905,7 134,2 72,7 106.749,8 125,8 80,1 -9.844,1

2012 748,8 114.529,2 118,2 73,8 113.780,4 106,6 73,3

2013 0,3 132.032,9 115,3 77,1 132.032,6 116,0 77,1

2014 2.368,0 150.217,1 113,8 80,1 147.849,1 112,0 79,3

2015 -3.553,7 162.016,7 107,9 83,7 165.570,4 112,0 85,5

2.520,0 2016f 176.630,0 109,0 - 174.110,0 105,2 -

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê

Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến xuất phát điểm thấp của nền kinh tế Việt

Nam trong những năm trước đổi mới 1986 cùng những chính sách phát triển ngành

nông nghiệp. Việt Nam vốn là một nước thuần nông vào thời điểm chuyển đổi, và

cơ cấu kinh tế cũng nhất quán với lợi thế so sánh tại thời điểm đó. Các chính sách

thay đổi tích cực trong ngành nông nghiệp giúp nó có những thay đổi tích cực, bù

đắp sự suy giảm của ngành công nghiệp khi nền kinh tế mở cửa. Nghị Quyết hội

nghị TW Đảng khóa 10 năm 1988 đã thông qua quyền sở hữu tài sản cho nông dân,

xóa bỏ tập thể hóa sản xuất, tự do hóa giá cả các sản phẩm nông nghiệp, phát triển

các mối quan hệ giao thương xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp. Các chính sách kể

trên đã duy trì tăng trưởng nông nghiệp, tạo ra sản lượng thặng dư cần thiết để tăng

cường sức mạnh cho nền kinh tế sau đổi mới. Trong những năm gần đây, Việt Nam

đã và đang thực hiện chính sách dịch chuyển nền kinh tế từ khu vực nông nghiệp

34

sang công nghiệp và dịch vụ, nhằm mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo

Bảng cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế, mặc dù cơ cấu kinh tế có những chuyển

dịch theo hướng tích cực nhưng khá chậm: tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây

dựng trong GDP có xu hướng giảm từ 2004-2010 và tăng lên không đáng kể từ năm

2010-2015, tỷ trọng khu vực nông nghiệp chỉ giảm được 1,6% trong 10 năm (2006-

2015). Hậu quả là tình trạng tăng trưởng ổn định nhưng dưới mức tiềm năng của

nền kinh tế trong những năm gần đây.

Bảng 2. 2: Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế

Cơ cấu GDP (%)

Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

1986 38,06 28,88 33,06 -

1987 40,56 28,36 31,08 -

1988 46,30 23,96 29,74 -

1989 42,07 22,94 34,99 -

1990 38,74 22,67 38,59 -

1991 40,49 23,79 35,72 -

1992 33,94 27,26 38,80 -

1993 29,87 28,90 41,23 -

1994 27,43 28,87 43,70 -

1995 27,18 28,76 44,06 -

1996 27,76 29,73 42,51 -

1997 25,77 32,08 42,15 -

1998 25,78 32,49 41,73 -

1999 25,43 34,50 40,07 -

2000 24,53 36,73 38,74 -

2001 23,24 38,13 38,63 -

2002 23,03 38,49 38,48 -

2003 22,54 39,47 37,99 -

2004 21,81 40,21 37,98 -

35

2005 38,13 42,57 19,30 -

2006 38,58 42,69 18,73 -

2007 38,51 42,83 18,66 -

2008 37,08 42,51 20,41 -

2009 37,39 43,44 19,17 -

2010 32,13 36,94 18,38 12,55

2011 32,24 36,73 19,57 11,46

2012 33,56 37,27 19,22 9,95

2013 33,19 38,74 17,96 10,11

2014 33,21 39,04 17,70 10,05

2015 33,25 39,73 17,00 10,02

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê

Thứ ba, Việt Nam tiến hành cải cách nhằm nâng cao hiệu quả của khu vực

doanh nghiệp. Cụ thể, trong khu vực kinh tế nhà nước, Chính phủ tiến hành sáp

nhập hoặc thanh lý các doanh nghiệp nhà nước yếu kém, trao quyền tự chủ cho các

doanh nghiệp nhà nước trong việc quyết định sản lượng, giá cả và quy mô hoạt

động sản xuất phù hợp với thị trường, đi cùng với thắt chặt quản lý nguồn vốn nhà

nước trong các doanh nghiệp này. Đối với khu vực tư nhân, chính phủ giảm bớt các

hạn chế với doanh nghiệp tư nhân thông qua việc tạo ra khuôn khổ pháp lý thuận lợi

hơn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này, cho phép các doanh

nghiệp được tiếp xúc thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp, cạnh tranh bình đẳng giữa

các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài.

Theo Bảng cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế giai đoạn 2005-2015, khu vực

kinh tế ngoài nhà nước là khu vực chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP, trong khi tỷ

trọng khu vực có vốn đầu tư nước trong GDP có xu hướng tăng nhanh nhất khi hai

khu vực còn lại suy giảm tỷ trọng. Điều này khẳng định đóng góp ngày càng quan

trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế, không chỉ bởi nguồn

ngoại tệ dồi dào mà còn mang theo công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại và kiến

thức quản lý.

36

Bảng 2. 3: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế giai đoạn 2005-2015

Cơ cấu GDP (%)

Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài Nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

37,62 47,22 15,16 - 2005

36,69 47,24 16,07 - 2006

35,35 47,69 16,96 - 2007

35,07 47,50 17,43 - 2008

34,72 47,97 17,31 - 2009

29,34 42,96 15,15 12,55 2010

29,01 43,87 15,66 11,46 2011

29,39 44,62 16,04 9,95 2012

29,01 43,52 17,36 10,11 2013

28,73 43,33 17,89 10,05 2014

28,69 43,22 18,07 10,02 2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê

Thứ tư, tăng trưởng Việt Nam đến từ sự đóng góp của vốn, lao động và tăng

năng suất. Qua biểu đồ tăng trưởng GDP theo đóng góp của các yếu tố, nếu như

trong những năm 1990-1995, sự tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam được giải

thích nhờ tăng năng suất (đóng góp 40-60% tăng trưởng), còn lại nhờ tích lũy các

yếu tố tư liệu sản xuất; thì từ năm 1996, khi Việt Nam bắt đầu nhận được dòng vốn

chảy vào cao tăng dần, tăng trưởng của Việt Nam bắt đầu dựa trên gia tăng vốn, tỷ

lệ đóng góp của năng suất lao động giảm dần, đặc biệt là trong giai đoạn 2008-

2010, tăng trưởng hầu như hoàn toàn nhờ vào tích lũy vốn. Trong vòng 05 năm trở

lại đây, khi môi trường kinh tế vĩ mô trong nước bất ổn, chính sách tiền tệ thắt chặt,

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI giảm dần trong bối cảnh kinh tế toàn cầu

ảm đạm tuy nhiên Chính phủ vẫn muốn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng năng

suất trở thành xu hướng bắt buộc. Cụ thể, đóng góp của TFP vào tăng GDP tăng từ

17% năm 2010 lên 60% năm 2014.

37

Biểu đồ 2. 3: Tăng trưởng GDP theo đóng góp của vốn, lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 1996-2014 (theo %)

Nguồn: Theo tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Thứ năm, vai trò quan trọng của hệ thống Đảng – nhà nước giúp cho việc thực

hiện và phổ biến chính sách đổi mới trở nên thông suốt và hiệu quả ở tất cả các cấp.

Hệ thống quản lý và điều hành thống nhất vầ thông suốt đã giúp Việt Nam thành

công khi bước vào cải cách hướng đến những mục tiêu dài hạn của quốc gia.

2.1.2 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam về chất lượng

2.1.2.1 Chỉ số đói nghèo

Quá trình đổi mới kinh tế bắt đầu từ năm 1986 đã đưa Việt Nam từ một trong

những quốc gia nghèo trên thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người dưới 100

USD trở thanh quốc gia có thu nhập trung bình. Các giai đoạn về xóa đói giảm

nghèo của Việt Nam được chia làm các giai đoạn như sau:

 Giai đoạn 1998-2000

Năm 1998 đánh dấu bước tiến lớn với công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt

Nam khi chính phủ ban hành “Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo

trong giai đoạn 1998-2000” tập trung vào khu vực vùng cao dân tộc thiểu số với

38

chính sách định canh định cư và hỗ trợ đồng bào dân tốc đặc biệt khó khăn nhằm hỗ

trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Đây có thể coi là chính sách trực

tiếp đầu tiên về giảm nghèo, tạo điều kiện để đưa nông thôn các khu vực miền núi

và rừng sâu thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển.

 Giai đoạn 2001-2005

Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn

2001-2005 bao gồm các chính sách và nhóm dự án. Các chính sách gồm có: Chính

sách hỗ trợ về y tế; chính sách hỗ trợ về giáo dục; chính sách an sinh xã hội và trợ

cấp các đối tượng yếu thế; chính sách hỗ trợ công cụ và đất đai sản xuất cho người

nghèo, chính sách hỗ trợ người nghèo về công cụ. Các dự án thuộc chương trình

gồm: Dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm,

khuyến ngư; Dự án tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh

doanh; Dự án xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt (vùng

đồng bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, hải đảo, biên giới); Dự án

xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo; Dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công

tác xóa đói giảm nghèo và cán bộ các xã nghèo; Dự án ổn định dân di cư và xây

dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo; Dự án định canh định cư ở các xã nghèo.

 Giai đoạn 2006-2010

Tiếp tục thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và

việc làm” giai đoạn 2001-2005 có chỉnh sửa và bổ sung cho phù hợp, cụ thể:

Chương trình 135 của chính phủ giai đoạn 2 tiếp tục được triển khai; triển khai

Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với 61 huyện nghèo thuộc 20

tỉnh có số hộ nghèo trên 50% theo nghị quyết 30a ngày 27/12/2008. Theo UNDP

(2009), đến năm 2009, nước ta có 41 chính sách và các dự án định hướng vào giảm

nghèo, kể cả một số chính sách, dự án không tập trung vào giảm nghèo nhưng lại có

tác động đến môi trường và giáo dục đào tạo.

39

Biểu đồ 2. 4: Giảm nghèo ở Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ World Bank

Theo các số liệu của WB, tính tại mức 1,9 USD/ngày, tỷ lệ nghèo chính thức

của Việt Nam giảm từ mức 49,2% năm 1992 xuống còn 38,8% năm 2002, và tiếp

tục giảm xuống 22,1% năm 2006 và 4,78% năm 2010. Tính đến thời điểm năm

2014, tỷ lệ nghèo chỉ còn ở mức 3%, con số chứng minh kết quả giảm nghèo ở Việt

Nam là hết sức ấn tượng.

2.1.2.2 Giáo dục và y tế

Bên cạnh giảm nghèo, giáo dục và y tế là những lĩnh vực xã hội khác đã đạt

được nhiều thành tựu ấn tượng trong thời gian qua.

40

Biểu đồ 2. 5: Tỷ lệ người lớn biết chữ ở Việt Nam giai đoạn 1979-2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ World Bank

Tỷ lệ người lớn biết chữ ở Việt Nam được cải thiện đáng kể từ năm 1979 đến 2015 do chính phủ đã đầu tư nhiều vào giáo dục. Các chính sách phổ cập giáo dục được áp dụng, thúc đẩy tỷ lệ trẻ em đến trường ở các cấp học thấp và số năm đi học trung bình của người dân.

Bảng 2. 4: Trình độ giáo dục thực tế tại Việt Nam

Năm Số năm đi học trung bình kỳ vọng Số năm đi học trung bình thực tế

1990 7,8 3,9

1995 9,3 4,6

2000 10,6 5,4

2005 11,3 6,4

41

2010 12,0 7,5

2011 12,2 7,6

2012 12,3 7,8

2013 12,5 7,9

2014 12,6 7,8

2015 12,6 8,0

Nguồn: Báo cáo phát triển con người 2016, UNDP

Từ năm 1979 đến 2014, tuổi thọ người dân Việt Nam đã tăng lên đáng kể, từ 66,8 lên 75,6. Nguyên nhân đến từ việc tăng thu nhập trung bình, điều kiện sống tốt hơn với hạ tầng y tế được cải thiện, khoa học công nghệ phát triển.

Biểu đồ 2. 6: Tuổi thọ người dân Việt Nam giai đoạn 1979-2014

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ World Bank

2.2 Tổng quan về khí thải CO2 ở Việt Nam

2.2.1 Sự gia tăng lượng phát thải CO2

42

Biểu đồ 2. 7: Lượng khí CO2 bình quân đâu người của Việt Nam giai đoạn 1980-2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Emission Database for Global Atmospheric Research (EDGAR)

Trong giai đoạn 1980-1992, cải cách khu vực nông nghiệp đang diễn ra. Việt

Nam vẫn là một nước thuần nông, người dân được tạo điều kiện để sở hữu ruộng

đất, năng suất tăng dần đóng góp ngày càng lớn cho GDP của Việt Nam. Nền công

nghiệp thời gian này vẫn còn khá lạc hậu, sản xuất công nghiệp trì trệ và chủ yếu

dựa vào nhập khẩu nên hầu như lượng khí thải CO2 trong giai đoạn này không thay

đổi, giữ ở mức 0,3 tấn/người/năm, cao nhất cả giai đoạn là 0,38 tấn/người vào năm

1988.

Từ năm 1994-2015, lượng khí thải CO2 tại Việt Nam tăng nhanh, từ mức 0,4

tấn CO2/người năm 1994 lên đến 2,2 tấn CO2/người năm 2015. Nền kinh tế Việt

Nam giai đoạn sau mở cửa bắt đầu thu hút được vốn đầu tư và tiến hành chuyển

dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ theo hướng hiện đại

hóa. Lượng khí CO2 từ các hoạt động công nghiệp-xây dựng và dịch vụ tăng dần

qua các năm tỷ lệ thuận với tốc độ tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng và

khu vực dịch vụ trong cơ cấu GDP.

43

Biểu đồ 2. 8:Tỷ trọng CO2 do quá trình tiêu thụ năng lượng của các nước trên thế giới năm 2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Emission Database for Global Atmospheric Research (EDGAR)

Theo tính toán từ nguồn số liệu của EDGAR, trong năm 2015, Trung Quốc là

nước phát thải khí CO2 từ quá trình tiêu dùng năng lượng lớn nhất thế giới, chiếm

43% lượng phát thải CO2 toàn cầu từ hoạt động này. Nguyên nhân đến từ việc bùng

nổ các hoạt động sản xuất công nghiệp ở đất nước này khi được ví như “công

xưởng của thế giới” đi cùng với sử dụng nhiều các nhiên liệu hóa thạch để sản xuất.

Tiếp đó là Mỹ với mức phát thải CO2 tương đương 14% sản lượng toàn cầu. Năm

2015, mức phát thải CO2 của Việt Nam hiện ở mức 0,6% toàn thế giới.

2.2.2 Tỷ lệ phát thải khí CO2 theo ngành

44

Bảng 2. 5: Phát thải/hấp thụ khí CO2 theo ngành các năm 1994, 2000, 2010 (nghìn tấn)

Lĩnh vực 1994 2000 2010

Năng lượng 21.580 45.900 124.799

Các quá trình công nghiệp 3.807 10.006 21.172

Nông nghiệp 0 0 0

LULUCF8 15.217 11.860 -20.346

Chất thải 0 0 65

Tổng phát thải (không bao gồm LULUCF) 25.387 55.906 146.037

Tổng phát thải (bao gồm LULUCF) 40.604 67.766 125.689

Nguồn: Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất của Việt Nam cho công ước

chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014)

Trong giai đoạn từ năm 1994-2010, tổng lượng phát thải CO2 ở Việt Nam tăng

từ 40,6 triệu tấn lên 125,7 triệu tấn, trong đó lĩnh vực năng lượng tăng nhanh nhất

từ 21,6 triệu tấn CO2 lên 124,8 triệu tấn CO2 và cũng là lĩnh vực phát thải nhiều

nhất năm 2010. Tiếp theo là khí CO2 từ các quá trình công nghiệp cũng tăng nhanh,

từ 3,8 triệu tấn năm 1994 lên 21,1 triệu tấn năm 2010. Theo bảng kiểm kê lượng khí

thải CO2 năm 2010, hoạt động công nghiệp năng lượng đóng góp một lượng đáng

kể tới gần 1/3 lượng khí thải CO2. Bên cạnh đó, sự gia tăng các phương tiện cá nhân

với nhiên liệu hóa thạch cũng là nguyên nhân tăng phát thải CO2, với mức đóng góp

31,6 triệu tấn.

2.2.2.1 Trong lĩnh vực năng lượng

Phát thải khí CO2 trong lĩnh vực năng lượng được thống kê trong quá trình đốt

nhiên liệu và phát thải do phát tán trong quá trình khai thác, xử lý, vận chuyển nhiên

liệu hóa thạch đến nơi sử dụng và được thống kê trong bảng dưới đây:

8 Sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp

45

Bảng 2. 6: Kiểm kê khí thải CO2 năm 2010 trong lĩnh vực năng lượng

CO2 (nghìn tấn)

124.799,3 Tổng phát thải CO2 trong lĩnh vực năng lượng

A. Các hoạt động đốt nhiên liệu 123.353,2

Công nghiệp năng lượng 40.940,1

Các ngành công nghiệp sản xuất và xây dựng 37.852,3

Giao thông vận tải 31.624,7

Thương mại/Dịch vụ 3.239,7

Dân dụng 6.773,2

Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 1.617,3

Các ngành khác không sử dụng năng lượng 1.251,8

B. Phát thải do phát tán 1.446,1

Dầu 775,4

Khí đốt tự nhiên 670,7

Nguồn: Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất của Việt Nam cho công ước

chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014)

Qua bảng số liệu, ta có thể thấy lượng khí thải do hoạt động đốt nhiên liệu

chiếm tới 98,8% tổng lượng phát thải CO2 trong lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam

năm 2010. Thông qua hoạt động đốt nhiên liệu, công nghiệp năng lượng thải ra

nhiều nhất, với 40,9 triệu tấn CO2, ngành công nghiệp sản xuất và xây dựng đứng

thứ hai với 37,8 triệu tấn CO2, và xếp thứ ba là ngành giao thông vận tải với 31,6

triệu tấn.

Nguyên nhân của việc phát thải nhiều khí CO2 trong ngành năng lượng đến từ

việc Việt Nam xây dựng ngày càng nhiều nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu

hóa thạch để đáp ứng nhu cầu năng lượng đang gia tăng trong nước khi các dự án

thủy điện không đem lại hiệu quả do thiếu nước và tình trạng khô hạn kéo dài trong

những năm vừa qua. Theo thống kê, hoạt động sản xuất điện và nhiệt công cộng

thải ra tới 39,2 triệu tấn CO2 (Bộ Tài nguyên và Môi trường 2014, tr. 34), chiếm tới

95,8% tổng phát thải của ngành năng lượng.

46

Cũng theo đó, lĩnh vực vận tải đường bộ tạo ra 28 triệu tấn khí thải CO2,

chiếm tới 88,6% lượng phát thải của toàn ngành giao thông vận tải. Có thể lý giải

thực tế này bởi sự gia tăng mật độ phương tiện cá nhân tại Việt Nam, đặc biệt là xe

máy, trong khi không có bất kỳ một quy định cụ thể nào với niên hạn sử dụng và

kiểm soát khí thải với xe máy đang lưu thông.

2.2.2.2 Trong các quá trình công nghiệp

Phát thải CO2 trong các quá trình công nghiệp không liên quan đến lĩnh vực

năng lượng, đến từ việc chuyển đổi trạng thái hóa học hay vật lý của các loại

nguyên liệu thô.

Tổng lượng phát thải CO2 từ các quá trình công nghiệp năm 2010 được Bộ Tài

nguyên và Môi trường thực hiện khảo sát trên hai ngành sản xuất xi măng và sản

xuất vôi với lần lượt là 20 triệu tấn CO2 (chiếm 94,8%) và 1,1 triệu tấn CO2 (chiếm

5,2%). Các ngành sản xuất còn lại như hóa chất và luyện kim thì lượng phát thải

được tính gộp trong ngành năng lượng.

2.2.2.3 Trong lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp

Bảng 2. 7: Phát thải và hấp thụ CO2 năm 2010 trong lĩnh vực LULUCF

Đơn vị: nghìn tấn

Nguồn phát thải/hấp thụ CO2

Đất rừng

Đất trồng trọt CO2 -22.593,179 -5.126,18

Đất đồng cỏ 320,82

Đất ngập nước 889,23

Đất ở 1.535,29

Đất khác 4.619,08

-20.347,59 Tổng

Nguồn: Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất của Việt Nam cho công ước

chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014)

9 Dấu âm (-) thể hiện lượng CO2 được hấp thụ và chuyển hóa

47

Nguồn phát thải và hấp thụ CO2 trong lĩnh vực này đến từ sự thay đổi lượng

các bon trong: các chất thải hữu cơ (cây chết, cành lá rơi rụng), thay đổi lượng các

bon trong đất, và trong sinh khối tươi (thực vật trên mặt đất và dưới mặt đất).

Từ bảng số số liệu trên, ta thấy được đất rừng bao gồm hệ sinh thái của nó là

nhân tố chủ yếu góp phần giảm thiểu lượng CO2 trong không khí, giúp lọc sạch bầu

không khí và khắc phục ô nhiễm không khí gây ra bởi các ngành còn lại. Mức giảm

thải CO2 năm 2010 lên tới 22,59 triệu tấn, xấp xỉ mức xả thải gây ra bởi các quá

trình công nghiệp.

2.2.2.4 Trong lĩnh vực chất thải

Phát thải khí nhà kính nói chung và khí CO2 nói riêng trong lĩnh vực chất thải

đến từ các bãi chôn lấp rác thải, xử lý nước thải, chất thải của con người và đốt chất

thải.

Trong đó, hoạt động chôn lấp rác thải và xử lý nước thải tạo nên khí CH4 với

640,4 triệu tấn, chất thải con người tạo ra 5,9 triệu tấn N2O và CO2 được tạo ra từ

hoạt động đốt chất thải với khối lượng 65,4 triệu tấn. (Bộ Tài nguyên và Môi trường

2014, tr. 46)

Có thể thấy được, việc xử lý chất thải bằng phương pháp đốt là nguyên nhân

chính dẫn đến phát thải CO2 ra môi trường trong lĩnh vực chất thải. Phương pháp xử

lý này được sử dụng rộng rãi ở nông thôn, thậm chí là ngay cả trong những khu vực

xử lý rác tập trung, vì chi phí thấp và hiệu quả. Tuy nhiên, ở góc độ xã hội, hoạt

động đốt chất thải sẽ làm phát sinh chi phí giảm thải, gây tổn thất cho xã hội.

2.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam

2.3.1 Phân tích định tính mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế về mặt lượng và

lượng khí thải CO2

Bảng 2. 8: GDP và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam giai đoạn 1985-2015

Năm GDP (triệu USD) Lượng khí thải CO2 (kton)

Giá trị Chênh lệch Giá trị Chênh lệch

1985 14.094,68 - 19.558,80 -

48

1990 -7.622,94 20.335,16 776,37 6.471,74

1995 14.264,42 33.790,59 13.455,43 20.736,16

2000 12.903,92 67.766,62 21.792,03 33.640,08

2005 23.993,17 99.147,41 43.564,80 57.633,25

2010 58.298,49 125.689,73 26.542,31 115.931,74

2011 19.607,74 161.728,98 36.039,25 135.539,48

2012 20.280,52 165.020,64 3.291,66 155.820,00

2013 15.402,02 169.176,09 4.155,45 171.222,02

2014 14.982,63 187.942,16 18.766,06 186.204,65

2015 7.394,72 206.028,43 18.086,28 193.599,37

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Biểu đồ 2. 9: Tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng lượng khí thải CO2 giai đoạn 1985-2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Emission Database for Global Atmospheric Research (EDGAR) và World Bank

Từ Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP và khí thải CO2 có thể thấy được tốc độ

tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng lượng khí thải CO2 có xu hướng lên xuống

rõ ràng theo những giai đoạn cụ thể.

49

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau đổi mới đạt mức cao nhất là 9,54%

vào năm 1995 và giảm dần vào các năm kế tiếp. Tỷ lệ gia tăng khí thải CO2 cũng

đạt mức cao nhất vào năm 2013-2014, với mức tăng trưởng tương đương 17% và

cũng giảm vào những năm sau đó. Tính trong giai đoạn 1990-1995, nếu tổng sản

phẩm trong nước (GDP) tăng 1% thì lượng khí thải CO2 tăng hơn 1,2%.

Giai đoạn 1996- 2012, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng suy giảm và đạt

mức thấp nhất vào năm 2012, với mức tăng trưởng tương đương 5,24%. Mặc dù có

những pha tăng lên bất thường trong những năm 1997 (tỷ lệ 15,5%), năm 2002 (tỷ

lệ 18%), năm 2004 (tỷ lệ 18,4%) nhưng tỷ lệ gia tăng lượng khí thải CO2 trong

cùng giai đoạn cũng là xu hướng giảm dần, và cũng đạt mức thấp nhất vào năm

2012 với tỷ lệ tăng chỉ đạt mức 2%. Trung bình cả giai đoạn, nếu tăng 1% GDP thì

lượng khí thải CO2 ra môi trường sẽ tăng 1,5%.

Từ năm 2013 đến 2015, cả tăng trưởng kinh tế Việt Nam và lượng khí thải

CO2 đều gia tăng. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế từ mức 5,42% năm 2013 lên mức

6.67% năm 2015; tăng trưởng khí thải CO2 ở mức 2,5% năm 2013 tăng lên 9,6%

năm 2015 (giảm từ mức 11% năm 2014). Tính cả giai đoạn 2013-2015, để nền kinh

tế tăng trưởng 1% thì lượng khí CO2 sẽ tăng 1,3%.

Nhìn chung, tỷ lệ tương đối giữa mức gia tăng lượng khí thải với tôc độ tăng

trưởng có xu hướng giảm nhưng sự gia tăng GDP vẫn làm tăng lượng phát thải CO2

nên có thể kết luận nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa chạm đến ngưỡng chuyển đổi.

Bên cạnh đó, sự gia tăng lượng khí thải CO2 cũng trực tiếp gây nên ô nhiễm

môi trường và biến đổi khí hậu, tác động nên sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Theo Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Trung ương phối hợp với

Viện Nghiên cứu phát triển Thế giới và Đại học Cô-pen-ha-ghen (2012) cho biết,

nếu GDP vào năm 2050 của Việt Nam đạt trên 500 tỷ USD thì thiệt hại khi đó do

biến đổi khí hậu có thể lên đến khoảng 40 tỷ USD (ngang giá USD năm 2007).

Nghiên cứu “Climate risk and adaptation country profile for Vietnam:

Vulnerability, Risk Reduction, and Adaptation to Climate Change Viet Nam” của

World Bank (2011) chỉ ra rằng biến đổi khí hậu sẽ làm giảm sản lượng gạo mỗi

50

năm trung bình 2,7 triệu tấn, và sản lượng chỉ còn 9,1 triệu tấn vào năm 2050. Khu

vực đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất 590 nghìn ha do ngập nước và ngập mặn,

tương đương 13% diện tích đất sản xuất nông nghiệp.

Nghiên cứu trên cũng chỉ ra rằng từ năm 2001-2005, biến đổi khí hậu gây thiệt

hại lên ngành giao thông vận tải ước tính tới 160 triệu USD. Ngành vận tải sẽ đối

mặt với bão và lũ lụt thường xuyên hơn do biến đổi khí hậu, khi mỗi 100 cm nước

biển dâng lên sẽ nhấn chìm 11.000 km đường bộ. Nền kinh tế sẽ phải dành nhiều

chi phí hơn để nâng cấp cở sở hạ tầng giao thông đường sắt và khắc phục tình trạng

sạt lở do bão lũ.

2.3.2 Phân tích định tính mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế về chất lượng và

lượng khí thải CO2

Bảng 2. 9: HDI và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam giai đoạn 1990-2015

Năm Lượng khí thải CO2 (nghìn tấn) HDI

Giá trị Chênh lệch Giá trị Chênh lệch

1985 19.558,80 - - -

1990 20.335,16 776,37 0,48 -

1995 33.790,59 13.455,43 0,53 0,05

2000 67.766,62 21.792,03 0,58 0,04

2005 99.147,41 43.564,80 0,62 0,04

2010 125.689,73 36.039,31 0,66 0,04

2011 161.728,98 7.140,25 0,66 0,01

2012 165.020,64 3.291,66 0,67 0,01

2013 169.176,09 4.155,45 0,68 0,01

2014 187.942,16 18.766,06 0,68 0,00

2015 206.028,43 18.086,28 0,68 0,01

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

51

Biểu đồ 2. 10: Tốc độ tăng trưởng lượng khí thải CO2 và HDI giai đoạn 1990- 2015

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Emission Database for Global Atmospheric Research (EDGAR) và UNDP

Theo các số liệu và biểu đồ kể trên, tốc độ tăng trưởng lượng khí thải CO2 tính

được luôn lớn hơn tốc độ tăng HDI, và có những pha dịch chuyển lên xuống tương

tự như mối quan hệ giữa mức gia tăng lượng phát thải CO2 với tăng trưởng kinh tế.

Tuy rằng tốc độ tăng trưởng lượng CO2 phát thải ra môi trường đã giảm, tuy nhiên

tăng trưởng HDI vẫn đi cùng với tăng mức phát thải CO2 nên có thể kết luận nền

kinh tế vẫn chưa đạt đến điểm chuyển đổi.

Bên cạnh đó, việc gia tăng khí thải CO2 dẫn tới biến đổi khí hậu toàn cầu cũng

ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống con người.

Biến đổi khí hậu dẫn đến nhiệt độ tăng giảm bất thường: số ngày nóng trong

mùa hè tăng lên và các đợt rét đột ngột trong mùa đông cũng có xu hướng gia tăng,

làm tăng nguy cơ bệnh tật và tử vong cho con người.

Theo “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam” của Bộ Tài

nguyên và môi trường (2016), vào cuối thế kỷ 21:

 Nhiệt độ trung bình hàng năm tăng từ 2-3 độ C. Số ngày có nhiệt độ

cao nhất trên 35 độ C tăng từ 15 ngày lên đến 30 ngày trên cả nước.

52

 Lượng mưa trung bình hàng năm tăng ở mức 2-7%. Xu hướng chung là

lượng mưa mùa khô giảm và lượng mưa mùa mưa tăng. Điều này có

thể gây ra hạn hán kéo dài vào mùa khô và lũ lụt vào mùa mưa, trực

tiếp gây ra hiện trạng thiếu nước sạch cho người dân.

 Mực nước biển dâng ở Việt Nam sẽ cao hơn mực nước biển trung bình

toàn cầu và mực nước biển dần khu vực phía nam sẽ cao hơn phía bắc.

Nước biển dâng trung bình vào khoảng 44 cm đến 73 cm, đặc biệt là

khu vực Cà Mau đến Kiên Giang ngập từ 53 cm đến 75 cm và thấp nhất

ở khu vực Móng Cái đến Hòn Dấu trong khoảng 55 cm đến 72 cm.

Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011-2015 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường (2015), ô nhiễm không khí nói chung ở Việt Nam gây ra tỷ

lệ mắc hen suyễn cao tới 5,5% ở khu vực Hà Nội và tập trung ở đối tượng trẻ em do

khá nhạy cảm với ô nhiễm không khí.

2.4 Phân tích định lượng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí

thải CO2 ở Việt Nam

Theo những phân tích định tính về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

gia tăng lượng khí thải CO2 ở trên, người viết đã chỉ rõ tăng trưởng kinh tế có tác

động dương tới lượng phát thải CO2. Để làm rõ hơn về mức độ tác động của tăng

trưởng kinh tế tới mức gia tăng khí thải CO2, phần tiếp theo của bài nghiên cứu sẽ

đi sâu vào phân tích định lượng.

2.4.1 Mô hình nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu có dạng như sau:

Trong đó:

CO2: lượng khí thải CO2 hàng năm

X: là các biến độc lập phản ánh mức độ tăng trưởng kinh tế về lượng và chất

Y: là các biến độc lập tác động đến lượng khí thải CO2

: hệ số chặn

53

: hệ số góc của các biến độc lập phản ánh mức độ tăng trưởng kinh tế về

lượng và chất

: hệ số góc của các biến độc lập tác động đến lượng khí thải CO2

: sai số

Dựa trên các phân tích ở phần trước, người viết đề xuất 2 mô hình sau:

(1)

(2)

2.4.2 Các biến số của mô hình

Bảng 2. 10: Diễn giải các biên trong mô hình hồi quy

Tên biến Mô tả Nguồn số liệu

Biến phụ thuộc

Emission Database for CO2

Lượng khí thải CO2 hàng năm (Đơn vị: nghìn tấn) Global Atmospheric

Research (EDGAR)

Biến độc lập

World Bank

GDPpercapita GDP bình quân đầu người tính theo ngang giá sức mua (PPP) năm 2011

(Đơn vị: USD)

Chỉ số phát triển con người UNDP HDI

World Bank Trade

Tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (Đơn vị: USD)

World Bank Population

Tổng dân số (Đơn vị: Người)

World Bank Energyuse

Mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người hàng năm (Đơn vị: qui đổi tương đương kg dầu)

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Bảng dưới đây mô tả tóm tắt về dữ liệu các biến được tác giả lựa chọn để đưa

vào mô hình OLS. Trong phạm vi luận văn, tác giả đã khái quát thành 4 nhóm chỉ

54

số chính gồm: giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất

của các biến trong mô hình như sau:

Bảng 2. 11: Thống kê mô tả biến

Biến độc lập tác động lượng khí thải CO2

Biến phụ thuộc

Biến độc lập phản ánh tăng trưởng

GDP

HDI Trade

Energyuse Population

Biến số CO2

percapita

26

26

26

26

26

26

Số quan sát

88.918,61

3243,52 0,59 359.000.000.000,00

458,73 79.500.000,00

Giá trị trung bình

58.235,61

1271,72 0,06 259.000.000.000,00

152,03

7.733.350,00

Độ lệch chuẩn

206.028,40

5667,41 0,68 929.191.833.157,44

677,67 91.703.800,00

Giá trị lớn nhất

20.335,16

1501,14 0,47

70.299.283.966,79

269,30 66.000.000,00

Giá trị nhỏ nhất

Nguồn: Tính toán của tác giả

Trước khi tiến hành hồi quy mô hình, tác giả kiểm định tính tương quan giữa

các biến độc lập trong hai mô hình. Có thể nhận thấy có sự tương quan lẫn nhau

giữa một số biến trong mô hình, tuy nhiên hiện tượng này có thể được khắc phục

bằng cách bỏ bớt biến.

Bảng 2. 12: Ma trận tương quan giữa các biến mô hình 1

GDPpercapita Trade Energyuse Population CO2

1,0000 CO2

0,9958 1,0000 GDPpercapita

0,9925 0,9899 1,0000 Trade

0,9855 0,9838 0,9658 1,0000 Energyuse

0,9660 0,9826 0,9492 0,9700 1,0000 Population

Nguồn: Tính toán của tác giả

55

Bảng 2. 13: Ma trận tương quan giữa các biến mô hình 2

HDI Trade Energyuse Population CO2

1,0000 CO2

0,9568 1,0000 HDI

0,9925 0,9372 1,0000 Trade

0,9658 1,0000 0,9855 0,9674 Energyuse

0,9492 0,9700 1,0000 0,9660 0,9987 Population

Nguồn: Tính toán của tác giả

2.4.3 Phân tích lượng mô hình

2.4.3.1 Mô hình 1: Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và lượng khí thải CO2

Sau khi tiến hành hồi qui và kiểm định các khuyết tật của mô hình, tác giả

nhận thấy mô hình mắc khuyết tật đa cộng tuyến (Phụ lục) và phương sai sai số thay

đổi (Phụ lục). Vì vậy tác giả khắc phục các khuyết tật trên bằng cách bỏ bớt biến

Trade, Energyuse và Population trong mô hình và thực hiện hồi quy với kết quả đạt

được như sau:

Bảng 2. 14: Kết quả hồi quy mô hình 1

Hệ số hồi P-value, P-value Biến số quy robust

Biến phụ thuộc

Lượng phát thải CO2 hàng năm (CO2)

Biến độc lập phản ánh tăng trưởng

45,59881 0,000*** 0,000*** GDP bình quân đầu người (GDPpercapita)

R2=0,9916

Prob>F=0,0000

Với **, *** có ý nghĩa thống kê tại mức 5%, 1%

Nguồn: Tính toán của tác giả

Dựa trên kết quả hồi quy, ta có:

56

Mô hình phù hợp vì P-value = 0,0000 <0,05 (mức ý nghĩa 5%), trong đó biến

độc lập giải thích được 99,16% ý nghĩa cho biến phụ thuộc.

Biến GDP bình quân đầu người có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả trên

cho thấy bất kỳ sự thay đổi nào trong GDP bình quân đầu người đều có ảnh hưởng

tới lượng phát thải khí CO2, và sự thay đổi này mang tới tác động dương, đúng như

kỳ vọng của tác giả.

Khi các điều kiện khác không đổi, GDP bình quân đầu người tăng thêm 1

USD sẽ làm tăng lượng phát thải thêm 45,59 nghìn tấn CO2. Tác động này có thể

giải thích bởi nền kinh tế phát triển sẽ kéo theo các hoạt động sản xuất phát triển

theo, dẫn tới lượng khí thải từ các nhà máy tăng theo.

2.4.3.2 Mô hình 2: Mối quan hệ giữa HDI và lượng khí thải CO2

Sau khi tiến hành chạy thử và kiểm định các khuyết tật của mô hình, tác giả

nhận thấy mô hình mắc phải khuyết tật đa cộng tuyến (Phụ lục). Do đó, tác giả tiến

hành khắc phục bằng cách bỏ bớt biến Energyuse và Population và thực hiện hồi

quy với kết quả đạt được như sau:

Bảng 2. 15: Kết quả hồi quy mô hình 2

Hệ số hồi P-value, Biến số P-value quy robust

Biến phụ thuộc

Lượng phát thải CO2 hàng năm (CO2)

Biến độc lập phản ánh tăng trưởng

Chỉ số phát triển con người (HDI) 198.994,90 0,001*** 0,000***

Biến độc lập tác động CO2

Tổng giá trị xuất nhập khẩu (Trade) 1,77E-07 0,000*** 0,000***

R2=0,9908

Prob>F=0,0000

Với **, *** có ý nghĩa thống kê tại mức 5%, 1%

Nguồn: Tính toán của tác giả

57

Dựa vào kết quả hồi quy trên, ta có:

Mô hình phù hợp vì P-value = 0,0000 < 0,05 (tại mức ý nghĩa 5%), và các

biến độc lập giải thích được 99,08% ý nghĩa cho biến phụ thuộc.

Các biến độc lập Chỉ số phát triển con người và Tổng giá trị xuất nhập khẩu

đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này hàm ý rằng bất kỳ sự thay đổi nào

trong giá trị của chỉ số phát triển con người và tổng giá trị xuất nhập khẩu đều có

ảnh hưởng tới lượng phát thải khí CO2, và tác động này là tác động dương (cùng

chiều), giống như kỳ vọng của tác giả

Có thể kết luận rằng, khi các điều kiện khác không thay đổi, cứ mỗi điểm tăng

lên của chỉ số phát triển con người, lượng khí thải CO2 hàng năm lại tăng thêm

198.994,90 nghìn tấn. Tác động này được giải thích bởi mức sống của người dân

Việt Nam được cải thiện, nhu cầu mua sắm các thiết bị điện và sử dụng năng lượng

lớn hơn, họ sở hữu nhiều phương tiện cá nhân hơn, do đó làm tăng lượng phát thải

khí CO2.

Biến độc lập tổng giá trị xuất nhập khẩu cũng có tác động cùng chiều tới

lượng phát thải khí CO2. Cứ mỗi 1 USD giá trị xuất nhập khẩu tăng thêm, lượng

phát thải CO2 hàng năm tại Việt Nam lại tăng thêm 0,000177 tấn. Điều này có thể lý

giải bởi khi tổng giá trị xuất nhập khẩu tăng, lượng nguyên liệu nhập về hay hàng

hóa xuất khẩu tăng lên đều dẫn đến gia tăng hoạt động sản xuất để đáp ứng nhu cầu

trong và ngoài nước, do đó sẽ sử dụng nhiều năng lượng hơn, làm tăng lượng phát

thải khí CO2.

2.4.4 Kết quả nghiên cứu

2.4.4.1 Các kết quả chính

Luận văn phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải

CO2 và đạt được những kết quả chính sau:

Thứ nhất, qua việc phân tích các chuỗi số liệu về tăng trưởng kinh tế và lượng

khí thải CO2 hàng năm ở Việt Nam, người viết đi đến kết luận có một mối quan hệ

rõ ràng giữa hai nhân tố kể trên, và cụ thể hơn, đó là mối quan hệ tác động cùng

58

chiều. Tăng trưởng kinh tế cả về lượng và chất đều làm tăng lượng khí thải CO2 tại

Việt Nam qua các giai đoạn.

Thứ hai, luận văn đã lượng hóa được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế về

lượng và chất với lượng phát thải CO2 tại Việt Nam thông qua hai mô hình chính:

- Mô hình 1:

CO2 = -58.982,09 + 45,598 GDPpercapita

- Mô hình 2:

CO2 = -92.286,33 + 198.994,9 HDI + 0,000000177 Trade

Như vậy, giống như nhiều bài nghiên cứu trước đó, luận văn đã tìm ra mối

quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam. Điều này là

rất cần thiết cho việc định hướng chính sách tăng trưởng xanh của Việt Nam, một

trong những nội dung quan trọng của Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai

đoạn 2011-2020, nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững và hiệu

quả, đồng thời góp phần giảm nhẹ và phòng chống tác động của biến đổi khí hậu.

2.4.4.2 Giải thích kết quả nghiên cứu

- Mô hình 1: CO2 = -58.982,09 + 45,598 GDPpercapita

Khi các điều kiện khác không đổi, GDP bình quân đầu người tăng thêm 1

USD sẽ làm tăng lượng phát thải thêm 45,598 nghìn tấn CO2. Tác động này có thể

giải thích bởi nền kinh tế tăng trưởng, là hệ quả của sự gia tăng sản xuất trong khu

vực công nghiệp và dịch vụ, dẫn tới lượng khí thải từ các khu công nghiệp, khu chế

xuất tăng theo.

Kết quả trên đúng với kỳ vọng của người viết, cụ thể, tăng trưởng kinh tế về

mặt lượng sẽ kéo theo sự gia tăng phát thải khí CO2, nền kinh tế Việt Nam chưa đạt

đến điểm chuyển đổi.

- Mô hình 2: CO2 = -92.286,33 + 198.994,9 HDI + 0,000000177 Trade

Khi các điều kiện khác không thay đổi, cứ mỗi điểm tăng lên của chỉ số phát

triển con người, lượng khí thải CO2 hàng năm lại tăng thêm 198.994,90 nghìn tấn.

59

Tương tự, cứ mỗi 1 USD giá trị xuất nhập khẩu tăng thêm, lượng phát thải CO2

hàng năm tại Việt Nam lại tăng thêm 0,000177 tấn.

Các tác động trên được giải thích bởi khi mức sống của người dân Việt Nam

được cải thiện, nhu cầu mua sắm các thiết bị điện và sử dụng năng lượng lớn hơn,

họ sở hữu nhiều phương tiện cá nhân hơn, do đó làm tăng lượng phát thải khí CO2.

Tổng giá trị xuất nhập khẩu tăng, lượng nguyên liệu nhập về hay hàng hóa xuất

khẩu tăng lên đều dẫn đến gia tăng hoạt động sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong và

ngoài nước, do đó sẽ sử dụng nhiều năng lượng hơn, làm tăng lượng phát thải khí

CO2.

Kết quả trên đúng với kỳ vọng của người viết, cụ thể, tăng trưởng kinh tế về

mặt chất, hay sự tăng lên về chất lượng cuộc sống sẽ kéo theo sự gia tăng lượng

phát thải khí CO2, nền kinh tế Việt Nam chưa đạt đến điểm chuyển đổi.

Tóm lại, các kết quả phân tích định tính và định lượng mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế về chất lượng với lượng khí thải CO2 của tác giả đều đi đến kết luận

thống nhất về mối quan hệ cùng chiều giữa tăng trưởng kinh tế và lượng khí thải

CO2 tại Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam còn chưa đạt đến điểm chuyển đổi theo

đường Kuznets môi trường. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các biến số đại diện

mức tiêu thụ năng lượng bình quân và giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam lại

không thể hiện sức ảnh hưởng rõ rệt đến gia tăng lượng khí thải CO2 trong mối

quan hệ với tăng trưởng kinh tế về lượng. Điều này có thể giải thích bởi tổng số

mẫu quan sát của mô hình còn khá nhỏ, do đó sẽ hạn chế kết quả phân tích định

lượng tại hai biến số chủ chốt là lượng khí thải CO2 và tăng trưởng kinh tế về chất

và lượng. Kết luận của bài nghiên cứu sẽ được tổng hợp dựa trên cả phương pháp

phân tích định tính và định lượng của Chương 2.

60

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC KHUYẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN MỤC

TIÊU GIẢM LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN

KINH TẾ VIỆT NAM

3.1 Quan điểm chiến lược về phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng

tăng trưởng xanh và giảm thiểu phát thải khí nhà kính

Việt Nam đang tích cực xây dựng và thực hiện các chiến lược và kế hoạch

hành động quốc gia về tăng trưởng xanh. Năm 2012, Chính phủ phê duyệt Chiến

lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050.

Năm 2014, chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh

giai đoạn 2014-2020 với 4 chủ đề chính, 12 nhóm hoạt động và 66 nhiệm vụ.

Các chiến lược và kế hoạch hướng đến tăng trưởng xanh của Việt Nam tập

trung vào phát triển bền vững trên cơ sở kết hợp hài hòa ba trụ cột: kinh tế, xã hội

và môi trường. Cụ thể, Việt Nam hướng đến tái cơ cấu nền kinh tế trên cơ sở sử

dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, phát

triển hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả nền kinh tế, xóa đói giảm nghèo

và ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu.

Quan điểm chiến lược của Việt Nam về tăng trưởng xanh được khái quát

như sau:

- Tăng trưởng xanh là nội dung trung tâm quan trọng của phát triển bền vững,

nhằm phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần thực hiện

Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu.

- Tăng trưởng xanh phải là tăng trưởng do con người và vì con người, phát triển

hài hòa đời sống xã hội với môi trường tự nhiên, góp phần giảm nghèo bền

vững, phân phối bình đẳng thành quả của tăng trưởng đến toàn xã hội.

- Tăng trưởng xanh phải dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, kích thích tăng

trưởng kinh tế trong điều kiện biến đổi khí hậu toàn cầu, cải thiện chất lượng

môi trường và sử dụng hiệu quả nguồn vốn tự nhiên.

61

- Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, kỹ

năng quản lý tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và mở rộng

hợp tác quốc tế.

- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ của các

cấp chính quyền, từ các Bộ, ngành đến địa phương, các doanh nghiệp và tổ

chức xã hội.

Những khó khăn mà Việt Nam phải đương đầu khi thực hiện chiến lược

tăng trưởng xanh:

- Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp và thiệt hại do chiến tranh

cần thời gian và nguồn lực lớn để khắc phục.

- Hệ thống pháp luật vẫn trong quá trình hoàn thiện, chưa đáp ứng yêu cầu của

hội nhập và toàn cầu hóa. Hệ thống quản lý còn chưa đồng bộ và chồng chéo.

- Công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu với năng suất lao động thấp và khả năng cạnh

tranh không cao; sản xuất nguồn năng lượng tái tạo chưa phát triển.

- Tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái nghiêm trọng do phát triển kinh tế theo

chiều rộng, thâm dụng tài nguyên đầu vào.

- Nhận thức của người dân còn thấp, những thói quen cũ sản xuất và đời sống

chậm thay đổi.

3.2 Kiến nghị giải pháp thực hiện mục tiêu giảm lượng khí thải CO2 trong

điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam

Trong hơn 20 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được nhiều thành

tựu đáng kể về kinh tế - xã hội, các ngành kinh tế và lĩnh vực đều phát triển khá,

thậm chí đạt được những bước chuyển mình quan trọng. Tuy nhiên, tốc độ tăng

trưởng kinh tế dần chững lại, chất lượng tăng trưởng thấp, dựa trên vốn và lao động,

trình độ công nghệ thấp, nền sản xuất thâm dụng năng lượng, suy thoái tài nguyên

thiên nhiên do khai thác quá mức. Công nghệ trong nền kinh tế lạc hậu và sử dụng

nhiều năng lượng hóa thạch (than đá) gây ra ô nhiễm môi trường, là một trong

những nước được dự báo chịu ảnh hưởng nặng nề từ biến đổi khí hậu, Việt Nam đã

62

nhận ra sự cần thiết của mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững về môi trường và xã

hội, giảm phát thải CO2 ra môi trường.

Thực tế, Việt Nam đã sớm có những hành động để xây dựng mô hình tăng

trưởng mới giảm phát thải CO2 và ứng phó với biến dổi khí hậu khi tham gia ký kết

Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển (1992), Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới

về Phát triển bền vững ở Johannesburg, Nam Phi (2002), và RIO+20 năm 2012.

Chính phủ cũng đưa ra những nghị quyết và chính sách nhằm mục tiêu phát triển

bền vững, gần nhất là: Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng

Chính phủ về “Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”;

Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 về “Chiến lược quốc gia về tăng

trưởng xanh cho thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050”; Quyết định số

1250/QĐ-TTG ngày 31/07/2013 phê duyệt “Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh

học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”; Quyết định số 1474/QĐ-TTg ngày

05/10/2012 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn

2012 – 2020 (NAP).

Để thực hiện được mục tiêu giảm phát thải CO2 và khắc phục những hậu quả

của tình trạng ô nhiễm môi trường bởi gia tăng khí thải CO2, người viết khuyến nghị

nhóm các mục tiêu Việt Nam cần đạt được, bao gồm: giảm thải CO2; tăng trưởng

kinh tế theo hướng bền vững; phân phối hiệu quả các thành quả của tăng trưởng;

bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học; đối phó và khắc phục tình trạng biến đổi khí

hậu. Tương ứng với các mục tiêu trên, nhóm giải pháp mà người viết đề xuất gồm:

3.2.1 Biện pháp làm giảm lượng khí thải CO2

3.2.1.1 Hoàn thiện khung chính sách

Theo Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất của Việt Nam cho công

ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, vào năm 2020, mức phát thải khí

nhà kính nói chung đạt 466 triệu tấn CO2 tương đương và sẽ đạt 760,5 triệu tấn CO2

tương đương vào năm 2030. Trong đó, lượng phát thải đến từ lĩnh vực năng lượng

là lớn nhất, vào khoảng 381,1 triệu tấn CO2 tương đương năm 2020 và 648,5 triệu

tấn CO2 tương đương vào năm 2030.

63

Bảng 3. 1: Phát thải/hấp thụ khí nhà kinh ước tính cho các năm 2020 và 2030

Đơn vị: triệu tấn CO2 tương đương

2020 2030 Lĩnh vực

381,1 648,5 Năng lượng

100,8 109,3 Nông nghiệp

-42,5 -45,3 LULUCF

26,6 48 Chất thải

466 760,5 Tổng

Nguồn: Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất của Việt Nam cho công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014)

Do đó, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bao gồm khí thải CO2, nên là một

trong những ưu tiên của Việt Nam trong thời gian sắp tới. Chính phủ cần tích cực

thực hiện quyết định số 1775/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí

gây hiệu ứng nhà kính, quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các – bon ra thị

trường thế giới, Kế hoạch quốc gia Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai

đoạn 2011 -2020, Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) và các nghị định của Chính phủ

hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường. Việt Nam cần thực hiện đúng đắn và

kịp thời các chính sách môi trường nhằm mục tiêu xây dựng một nền kinh tế các –

bon thấp, tăng trưởng xanh và dọn đường cho việc thực hiện các điều ước quốc tế

mà Việt Nam tham gia để giảm phát thải khí nhà kính.

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường trở thành ưu tiên hàng

đầu cho quá trình hoàn thiện các chính sách giảm khí thải. Luật bảo vệ môi trường

năm 1993 của Việt Nam được coi là một trong những mốc quan trọng, hoạt động

bảo vệ môi trường có được nhận thức chung của toàn xã hội. Trong luật bảo vệ môi

trường 1993, các quan điểm cơ bản về bảo vệ môi trường đã được luật hóa. Luật

bảo vệ môi trường 2014 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 thay thế Luật bảo vệ môi

trường 2005 với nhiều chỉnh sửa bổ sung, Luật quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật

năm 2006, Luật đa dạng sinh học năm 2008, Luật thuế tài nguyên năm 2009, Luật

sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010, và rất nhiều văn bản dưới luật

64

hướng dẫn thi hành và bổ sung điều chỉnh tạo nên hệ thống pháp luật bảo vệ môi

trường tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã

hội, các hoạt động sản xuất và dịch vụ mở rộng với những ảnh hưởng sâu sắc đến

môi trường, và rất nhiều tác động trong đó không nằm trong phạm vi điều chỉnh của

luật. Mặc dù không ngừng được hoàn thiện nhưng luật bảo vệ môi trường không

tránh khỏi còn tồn tại những thiếu sót và hạn chế. Ví dụ, giai đoạn Luật Tiêu chuẩn

và Quy chuẩn kỹ thuật đi vào hiệu lực, quá trình chuyển đổi từ tiêu chuẩn sang quy

chuẩn đôi khi còn chậm trễ gây nên những hiểu nhầm trong quá trình thi hành luật;

sự khác biệt về công nghệ giữa các doanh nghiệp và các ngành nghề sản xuất đặc

thù gây khó khăn trong quá trình xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn; một số ngành

nghề hình thành sau lại chưa được bao quát điều chỉnh trong luật nên không có chế

tài áp dụng. Thêm vào đó, Luật bảo vệ môi trường 2014 nghiêm cấm thải các chất

thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường vào đất, nguồn nước và

không khí; nhưng trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối

với bụi và các chất vô cơ (QCVN 19:2009/BTNMT), Chất lượng không khí – Tiêu

chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và chất vô cơ (TCVN 5940:2005) và gần

nhất là Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ

trên địa bàn thủ đô Hà Nội (QCTĐHN 01:2014/BTNMT) hiện chưa có bất cứ tiêu

chuẩn kỹ thuật đo lường nào được áp dụng cho khí thải CO2. Do đó, người viết đề

xuất chính phủ và các cơ quan ban hành luật cần tiến hành rà soát lại các quy chuẩn

kỹ thuật về môi trường, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung

liên tục để xây dựng các quy chuẩn và chế tài phù hợp hơn với tình hình thực tế (ví

dụ như bổ sung quy chuẩn kỹ thuật với lượng khí thải CO2 trên tổng lượng khí thải

nhất định), tránh hiện tượng thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn trong thực hiện.

Thứ hai, chính phủ cần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi

trường thông qua việc tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý môi trường và

giữa cơ quan quản lý môi trường với chính quyền địa phương trong công tác thanh

tra, kiểm tra, hậu kiểm; thống nhất trong việc chia sẻ, tổng hợp thông tin và số liệu

môi trường nhằm tăng cường năng lực cho hệ thống quốc gia kiểm kê khí nhà kính;

kết nối về hệ thống quan trắc môi trường. Bên cạnh đó, cơ quan chuyên trách cần

65

hoàn thiện cơ chế đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường

mang tính khoa học, tập trung và có tính khả thi; đẩy mạnh các hoạt động thanh tra,

kiểm soát việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ các biện

pháp phòng ngừa, ngăn chặn việc nhập khẩu các công nghệ, thiết bị lạc hậu gây ô

nhiễm môi trường vào sử dụng; tiến hành kiểm toán năng lượng và các biện pháp

cần thiết nhằm giảm thiêu hao năng lượng với các dự án có từ trước hoặc đầu tư

mới; tăng cường các biện pháp kiểm soát nguồn phát thải, quá trình lưu giữ, vận

chuyển, xử lý và xả thải chất thải, đặc biệt là chất thải nguy hại nghiêm trọng; xây

dựng và triển khai dự án đầu tư hoàn thiện hệ thống các trạm quan trắc môi trường

quốc gia; xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo, nhằm sẵn sàng ứng phó và thích ứng

với biến đổi khí hậu; đánh giá định kỳ các tác động đến môi trường tự nhiên và đa

dạng sinh học; xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng

hạn chế, hướng tới loại bỏ các mô hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường

nghiêm trọng. Hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường cần được tuân thủ chặt chẽ,

cần đặt mục tiêu bảo vệ môi trường cao hơn lợi ích kinh tế, không đề cao mục tiêu

tăng nguồn thu, tăng ngân sách.

Ví dụ, việc xem xét cấp phép cho các dự án khai khoáng, thủy điện, nhiệt điện

cần dựa trên những đánh giá tổn thất tới môi trường sinh thái, và đánh giá mức độ

thân thiện với môi trường của công nghệ mà chủ đầu tư áp dụng. Sự cố tràn bùn đỏ

trong các dự án bauxite Tây Nguyên năm 2014 hay sự cố Formosa Hà Tĩnh năm

2016 là những sự cố môi trường điển hình do chưa thể đánh giá hết những tác động

của các dự án sản xuất đến môi trường. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải thắt chặt

mức tiêu chuẩn khí thải đối với các phương tiện giao thông đang lưu thông, xây

dựng quy trình kiểm tra khí thải định kỳ bắt buộc với các phương tiện và loại khỏi

lưu thông những dòng phương tiện đã hết niên hạn sử dụng.

Thứ ba, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, cơ sở

công nghiệp tránh xa các vùng sinh thái nhạy cảm và khu đô thị. Chính quyền địa

phương cần lập phương án di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng tới

môi trường ra khỏi khu dân cư và tái tập trung thành những cụm công nghiệp nhỏ

theo quy hoạch. Các cụm công nghiệp quy hoạch mới này, cần có quy trình quản lý

66

môi trường cụ thể: bắt buộc xây dựng hệ thống thu gom, xử lý chất thải tập trung

hoàn chỉnh mới được phép hoạt động; kiểm soát các công nghệ sản xuất được áp

dụng, các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu phát thải nhiều khí CO2 và chất thải độc

hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép sẽ bị rút giấy phép hoạt động; đồng thời thường

xuyên có báo cáo định kỳ về môi trường tại cụm công nghiệp.

Thứ tư, sử dụng các công cụ kinh tế như thuế/phí môi trường, trợ cấp và tín

dụng để giảm hoạt động gây ô nhiễm, khuyến khích doanh nghiệp cải tiến, đổi mới

công nghệ, phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường, tiêu hao năng lượng

thấp. Các công cụ trên cũng tạo ra nguồn vốn để giải quyết vấn đề ô nhiễm.

Các công cụ kinh tế nên được áp dụng để khuyến khích bảo vệ môi trường:

 Miễn giảm thuế thu nhập đối với doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để đầu

tư cho hoạt động nghiên cứu, phát triển các sản phẩm thân thiện với môi

trường hoặc cải tiến quy trình sản xuất theo hướng giảm thiểu chất thải ra

môi trường; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực môi trường, các doanh nghiệp đầu tư mới có ứng dụng

công nghệ cao, công nghệ tái tạo, công nghệ sinh học.

 Áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt thấp với các sản phẩm tiết kiệm năng lượng

(thiết bị điện hiệu suất cao), các sản phẩm sinh học trong lĩnh vực năng

lượng.

 Miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các doanh nghiệp nhập khẩu trang thiết

bị máy móc để thực hiện các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ cao, kỹ

thuật mới tiêu hao ít nguyên nhiên liệu, tạo ra ít chất thải. Miễn giảm, tiến

tới miễn thuế nhập khẩu các trang thiết bị đo lường các thông số môi

trường có liên quan đến quy trình sản xuất và sản phẩm.

 Chính phủ cần xây dựng chính sách hỗ trợ về vốn, xúc tiến hoạt động

thương mại, cung cấp thông tin, đào tạo đội ngũ cán bộ cho doanh nghiệp,

đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ có thể tiếp cận các công nghệ

mới.

67

 Chính phủ cung cấp hỗ trợ tư vấn kỹ thuật về môi trường và nâng cao chất

lượng quản lý doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp

thuộc tất cả các thành phẩn kinh tế.

Các công cụ kinh tế được áp dụng để hạn chế ô nhiễm:

 Tăng thuế/phí đánh vào các nguồn gây ô nhiễm được thải vào môi trường

nước (như TSS, COD, BOD, kim loại nặng...), khí quyển (như COx,Sox,

NOx, CFCs...), đất (như rác thải, phân bón...), hoặc gây tiếng ồn (như máy

bay và các loại động cơ.

 Tăng mức thuế/phí đánh vào hoạt động khai thác tài nguyên, cụ thể: tăng

thuế xuất khẩu khoáng sản, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với các sản phẩm gỗ

tự nhiên, tăng phí bảo vệ môi trường đối với các doanh nghiệp kinh doanh

trong lĩnh vực khai khoáng. Các chính sách này sẽ góp phần hạn chế việc

khai thác và xuất khẩu sản phẩm thô, hướng tới tạo ra các sản phẩm có giá

trị gia tăng lớn hơn, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.

 Tăng thuế/phí đánh vào sản phẩm gây tác hại tới môi trường trong quá

trình sản xuất, tiêu dùng hay quá trình huỷ bỏ. Loại phí này thường được

áp dụng đối với các sản phẩm chứa chất độc hại cho môi trường như kim

loại nặng, các nguyên liệu chứa carbon và sulphat, pin chứa thuỷ ngân, các

loại vỏ nhựa. Loại thuế/phí này có thể đánh vào sản phẩm là nguyên liệu

đầu vào, sản phẩm trung gian hay thành phẩm.

 Phí đánh vào người sử dụng các dịch vụ công cộng xử lý và cải thiện chất

lượng môi trường như phí thu gom và xử lý rác thải, nước thải.

3.2.1.2 Nâng cao nhận thức của người dân về sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi

trường

Thứ nhất, đưa giáo dục về môi trường và các biện pháp bảo vệ môi trường vào

các chương trình giáo dục từ bậc tiểu học. Trẻ em nếu được sớm giáo dục những

phương pháp bảo vệ môi trường bắt đầu tư những hành động nhỏ nhất sẽ sớm hình

thành thói quen tốt sau này. Ví dụ, hướng dẫn trẻ em vứt rác đúng nơi quy định,

tham gia các hoạt động ngoại khóa vệ sinh môi trường sống.

68

Thứ hai, tuyên truyền và phổ biến cho người dân thực trạng ô nhiễm môi

trường tại nơi họ sống và những tác hại sau đó, đặc biệt là các hộ sản xuất nhỏ lẻ

nhằm nâng cao ý thức tự giác bảo vệ môi trường.

Thứ ba, tuyên truyền về các biện pháp và cách thức phân loại rác tại gia đình

cho người dân, chia sẻ các mô hình hiệu quả trong khu dân cư nhằm bảo vệ môi

trường, khuyến khích người dân và các doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm năng lượng

điện. Tuyên truyền các biện pháp cụ thể để tiết kiệm, lợi ích của việc tiết kiệm điện.

Tổ chức các chương trình hưởng ứng tiết kiệm điện, có tác động mạnh mẽ như “Giờ

Trái Đất”, “Chương trình sáng tạo vì môi trường”. Cần phải tuyên truyền, vận động

người dân và các doanh nghiệp sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên, bảo vệ và giữ gìn

nguồn tài nguyên hiện có và khôi phục bằng nhiều cách khác nhau như trồng cây

gây rừng, tăng cường sử dụng năng lượng sạch không gây ô nhiễm (năng lượng mặt

trời), thu gom và xử lí hợp lí các chất thải rắn, trong đó chú ý tới việc tái sử dụng

chất thải rắn làm nguyên liệu sản xuất.

3.2.1.3 Phát triển hạ tầng giao thông công cộng

Phát triển hệ thống giao thông công cộng như xe buýt, tàu điện sẽ giúp giảm

lượng phương tiện cá nhân tham gia giao thông, góp phần giảm lượng khí thải CO2

ra môi trường. Hiện tại, với cơ sở hạ tầng của Việt Nam, phương tiện giao thông

công cộng phổ biến nhất tại các thành phố lớn là xe buýt. Nhưng trên thực tế, lượng

người sử dụng xe buýt vẫn còn rất hạn chế, người dân vẫn duy trì thói quen sử dụng

phương tiện cá nhân, do các phương tiện công cộng như xe buýt còn chưa phục vụ

được nhu cầu di chuyển của người dân, thậm chí còn trong tình trạng quá tải tại các

thành phố lớn, các bến xe buýt bố trí chưa hợp lý, tần suất các chuyến xe còn ít dẫn

tới việc di chuyển bằng xe buýt tốn nhiều thời gian hơn so với sử dụng các phương

tiện cá nhân. Do đó, để cải thiện hiệu quả của các phương tiện giao thông công

cộng, cần phải xây dựng các tuyến xe phù hợp, thuận tiện hơn, sử dụng các hình

thức trợ giá nhằm khuyến khích người dân sử dụng xe buýt, và sắp tới là tàu điện.

Chính phủ cũng nên khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia tích cực

hơn vào lĩnh vực giao thông công cộng, nhằm giải quyết sớm nạn ô nhiễm môi

69

trường trong lĩnh vực giao thông vận tải trong khi nguồn vốn đầu tư từ chính phủ

còn hạn hẹp và thời gian giải ngân chậm.

3.2.1.4 Cải tạo môi trường đô thị.

Một trong biện pháp là bổ sung cây xanh cho đô thị, cải thiện rõ rệt môi

trường sống của người dân cả về điều hòa không khí và nâng cao chất lượng không

khí. Với mật độ dân cư đông, cùng với lượng khí thải từ nhà máy, xe cộ,… tình

trạng chung của các khu đô thị chính là môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm

trọng. Cây xanh sẽ giúp cải thiện chất lượng không khí bằng cách hấp thu những

khí độc như NO2, CO2, CO…. Cây xanh sẽ giúp lọc bớt bụi bẩn, đồng thời thải ra

nhiều dưỡng khí trong lành hơn.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần đưa ra những phương án quy hoạch hợp lý với

những khu vực mặt nước nằm trong nội đô, không chấp nhận những dự án lấn

chiếm diện tích mặt nước của những khu hồ điều hòa trong không gian đô thị. Cần

xây dựng một quy hoạch tổng thể chung cho các đô thị lớn, theo hướng phân bố hợp

lý và hiệu quả hạ tầng đường sá, bệnh viện, chung cư cao tầng và trung tâm thương

mại nhằm tránh những tác động tiêu cực đến môi trường sống.

Cải thiện dịch vụ vệ sinh môi trường công cộng nơi đô thị cũng là một trong

những trọng điểm nhằm giảm thiểu tác động ô nhiễm khói bụi và ô nhiễm từ rác

thải sinh hoạt của người dân. Hiện tại, các đô thị lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh

đang tập trung dân cư với mật độ rất lớn, kéo theo nhiều vấn đề về xử lý rác thải tập

trung, ùn ứ rác thải sản sinh khí độc hại ô nhiễm.

3.2.1.5 Đầu tư vào khoa học công nghệ

Đầu tư vào khoa học công nghệ mới sẽ giúp làm giảm lượng khí thải từ các

hoạt động sản xuất, đồng thời làm tăng năng suất và hiệu quả, do đó, góp phần thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế. Các tiêu chí chủ chốt để đánh giá lựa chọn các công nghệ

giảm phát thải khí nhà kính nói chung là: (i) Lợi ích về kinh tế; (ii) Lợi ích xã hội;

(iii) Lợi ích môi trường; (iv) Tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính.

a. Trong lĩnh vực năng lượng

70

Phần lớn lượng khí thải CO2 thống kế được bắt nguồn từ lĩnh vực năng lượng,

do đó giảm thiểu lượng phát thải CO2 trong các ngành công nghiệp năng lượng nên

trở thành ưu tiên lớn nhất.

Thứ nhất, tập trung phát triển công nghệ năng lượng có khả năng thay thế các

nhà máy nhiệt điện chạy than và dầu đang hoạt động với chi phí cao và gây ô nhiễm

môi trường như năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, bao gồm: (i) Xây dựng các nhà

máy điện gió tại các khu ven biển để đáp ứng nhu cầu năng lượng tại chỗ cho các

khu vực này; (ii) Đánh giá khả năng thực tiễn của điện hạt nhân để sớm giải quyết

nhu cầu năng lượng điện ngày càng tăng trong nước; (iii) Phát triển nhiệt điện sinh

khối, (iv) Phát triển các dự án thủy điện nhỏ.

Thứ hai, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm tiết

năng lượng (ví dụ: đèn Compaq tiết kiệm điện, điều hòa hiệu suất cao), siết chặt

hoạt động dán nhãn năng lượng cho các sản phẩm lưu thông ngoài thị trường để

cung cấp thông tin chính xác cho người tiêu dùng.

Thứ ba, phát triển các phương tiện sử dụng xăng sinh học và phương tiện vận

hành bằng điện năng. Phương án sử dụng ethanol thay xăng trong giao thông vận tải

bắt đầu được áp dụng một số mô hình thí điểm nhưng chưa thực sự phổ biến.

Nguyên nhân đến từ việc các điểm bán xăng ethanol còn quá ít, chỉ 3/10 doanh

nghiệp xăng dầu phân phối xăng ethanol với 169/13.000 cây xăng cung cấp dịch vụ

xăng sinh học.

b. Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp

Cải tiến phương thức canh tác nông nghiệp giúp giảm lượng khí nhà kính nói

chung:

 Tăng cường tái sử dụng phế phụ phẩm trồng trọt và chăn nuôi thành phân

bón hữu cơ sinh học, than sinh học, khí sinh học…nhằm giảm thiểu ô nhiễm

môi trường, cải thiện độ phì nhiêu cho đất, tăng năng suất cây trồng, tiết

kiệm chi phí và giảm lượng phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường sinh

thái và sức khỏe cộng động.

71

 Ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất: Công nghệ sinh học là phương

pháp giảm lượng khí thải hiệu quả, thích ứng biến đổi khí hậu và tăng năng

suất cây trồng. Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới ứng dụng công nghệ

sinh học vào sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, phát triển

nông nghiệp bền vững. Ví dụ, các công trình khí sinh học nhằm giải quyết và

tận dụng nguồn chất thải trong chăn nuôi sản xuất ra khí gas phục vụ sinh

hoạt của người dân, giúp giảm lượng khí thải CO2 do khai thác nhiên liệu và

giảm chi phí mua chất đốt cho người dân.

Bên cạnh đó, lâm nghiệp được coi là ngành có khả năng hấp thụ lượng khí nhà

kính tương đối tốt. Chính phủ cần có biện pháp quản lý và sử dụng bền vững 1,75

triệu ha rừng sản xuất và phòng hộ. Đồng thời, thúc đẩy hoạt động trồng mới 1,5

triệu hecta trên các vùng quy hoạch cho lâm nghiệp và phục hồi các diện tích rừng

ngập mặn theo Chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006-2020.

Trọng điểm để thực hiện các dự án trồng rừng nên tập trung vào khu vực Nam

Trung Bộ và Tây Nguyên, vì khu vực này còn nhiều quỹ đất lâm nghiệp, cũng là

nơi chịu ảnh hưởng nặng nề từ nạn phá rừng.

c. Trong lĩnh vực công nghiệp

Sử dụng công nghệ mới trong lĩnh vực công nghiệp nhằm tiết kiệm năng

lượng, sử dụng các nguyên liệu đầu vào một cách hiệu quả nhất và làm giảm lượng

chất thải, đặc biệt là khí thải CO2 ra môi trường.

Trong ngành thép, khả năng tiết kiệm năng lượng lớn nhất là ở giai đoạn luyện

gang, theo đó công nghệ chủ yếu ở Việt Nam là quy mô công suất lò nhỏ, công

nghệ từ những năm 1960, tiêu tốn 28,13GJ năng lượng cho 1000 tấn sản phẩm trong

khi công suất tiêu hao năng lượng của công nghệ hiện đại nhất chỉ có 12,2 GJ/1000

tấn. Hoặc như trong ngành sản xuất giấy, công nghệ và quy mô hiện nay của các

nhà máy sản xuất giấy in viết của Việt Nam hiện nay tiêu hao 14,08 GJ cho một tấn

sản phẩm trong khi suất tiêu hao năng lượng của công nghệ hiện đại hiện nay chỉ ở

mức 6,6GJ/1 tấn sản phẩm. Điều này cho thấy việc thay đổi các công nghệ hiện đại

cho phép cải thiện việc sử dụng năng lượng một cách đáng kể, giúp hạn chế khí thải

ra môi trường. Tại các mỏ than của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt

72

Nam, từ khi áp dụng dây chuyền tuyển than hiện đại với các module công suất lớn

lên đến 250.000 tấn/năm, 650.000 tấn/năm, vừa tận thu triệt để sản lượng than so

với công nghệ cũ (tăng từ 20-30%), tăng năng suất lao động do được cơ giới hóa,

giảm thiểu đáng kể ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp cho người lao động do

giảm mật độ các nguồn gây bụi và phát thải khí độc hại trên mỏ (VNCPC, 2014).

d. Các làng nghề truyền thống

Các làng nghề truyền thống với công nghệ thủ công và hầu như không áp dụng

bất kỳ công nghệ xử lý chất thải nào đang tạo nên những vùng ô nhiễm “báo động

đỏ”. Chất thải đầu ra của quá trình sản xuất của các hộ sản xuất trong làng nghề sẽ

xả thải trực tiếp ra môi trường hoặc xử lý bằng phương pháp thủ công như đốt hoặc

chôn lấp tiềm tàng nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí, đất và nước. Yêu cầu

bức thiết hiện nay là chính phủ cần xây dựng phương án di dời và quy hoạch các

làng nghề thành những khu thủ công nghiệp với hệ thống hạ tầng hoàn chỉnh, có

ứng dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn nhằm giảm ô nhiễm và tăng hiệu quả kinh

tế. Chính quyền địa phương cần tổ chức các dự án nghiên cứu, xây dựng, chuyển

giao và nhân rộng mô hình quản lý, xử lý chất thải làng nghề, góp phần cải thiện

tình trạng ô nhiễm môi trường tại một số địa phương như: công nghệ hầm biogas

đối với chất thải đối với các làng nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc; mô hình quản lý

chất thải nguy hại làng nghề Bình Yên, tỉnh Nam Định; mô hình thu gom và xử lý

rác thải áp dụng quy mô thôn hoặc xã của tỉnh Thái Bình; dự án tiết kiệm năng

lượng giúp các hộ kinh doanh và doanh nghiệp trong làng gốm Bát Tràng chuyển

đổi công nghệ nung gốm từ các lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại

giảm thiểu sử dụng than làm chất đốt.

Xây dựng các mô hình làng nghề kết hợp với dịch vụ du lịch văn hóa nhằm

tôn vinh các giá trị truyền thống, tăng nguồn thu nhập ổn định cho nghệ nhân, đồng

thời nâng cao ý thức tự bảo vệ cảnh quan môi trường của người dân trong làng

nghề. Tổ chức các Hiệp hội làng nghề nhằm tạo môi trường để tro đổi thông tin,

chính sách và phương pháp sản xuất an toàn, thân thiện với môi trường.

73

3.2.2 Biện pháp hướng đến tăng trưởng bền vững

Căn cứ theo kết luận tại chương 2 của luận văn, nền kinh tế Việt Nam vẫn

chưa đạt đến điểm chuyển đổi với thu nhập bình quân đầu người còn thấp và lượng

khí thải CO2 vẫn có xu hướng gia tăng. Để đạt đến điểm chuyển đổi, chính phủ cần

hướng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, nâng cao mức thu nhập bình quân đầu

người để nền kinh tế tiếp cận gần hơn nữa tới điểm chuyển đổi trên cơ sở hạn chế

tác động đến môi trường, cụ thể là hạn chế gia tăng khí thải CO2. Dựa trên quan

điểm đó, người viết muốn tập trung vào các giải pháp thúc đẩy nền kinh tế Việt

Nam “vượt đáy” và đạt được tăng trưởng bền vững trong dài hạn.

Thứ nhất, để nền kinh tế có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, cần

mở rộng sản lượng tiềm năng thông qua tăng cung tư liệu sản xuất, tạo điều kiện

tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.

Thứ hai, cần nâng cao hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế để thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu, cụ thể:

- Khu vực kinh tế nhà nước nên tập trung vào chức năng xây dựng nền tảng

căn bản cho nền kinh tế thông qua đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp

dịch vụ công, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh để trở

thành những đơn vị tiên phong trong lĩnh vực kinh tế chủ chốt, vươn tầm sức

ảnh hưởng ra phạm vi quốc tế.

- Khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cần nâng cao

hiệu quả hoạt động kinh doanh theo hướng: (i) Đầu tư và mở rộng đầu tư

theo chiều sâu, có lợi thế cạnh tranh; (ii) Tập trung vốn cho hoạt động nghiên

cứu và phát triển để nâng cao năng lực công nghệ, chìa khóa của phát triển

bền vững; (iii) Sử dụng lợi thế cạnh tranh để mở rộng thị trường là yếu tố cốt

lõi cho thành công của doanh nghiệp; (iv) Nâng cao năng lực quản trị và tư

duy chiến lược của đội ngũ doanh nhân.

Thứ ba, tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển những

ngành có giá trị gia tăng cao, ít gây ô nhiễm môi trường và ít tiêu hao nhiên liệu. Ví

dụ như hạn chế các ngành khai thác khoáng sản và tập trung vào ngành chế biến

74

thực phẩm tạo ra giá trị cao hơn, tạo điều kiện cho xuất khẩu và phát triển kinh tế.

Chính phủ cần tăng sức ép và tạo điều kiện hợp lý cho các ngành tiêu hao năng

lượng cao (giao thông vận tải, xi măng, dệt, sắt, thép) tái cơ cấu lại quá trình sản

xuất và nâng cao công nghệ nhằm giảm tiêu hao nhiên liệu.

Thứ tư, hướng nền kinh tế phát triển dựa trên tăng năng suất và sự phát triển

khoa học công nghệ, cụ thể:

- Xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển quốc gia theo hướng: (i) Định

hướng lộ trình phát triển khoa học công nghệ quốc gia; (ii) Quan tâm đúng

mức đến phát triển nền khoa học công nghệ trong nước, mua bản quyền sáng

chế nước ngoài như một phương thức đi tắt đón đầu để hấp thụ những công

nghệ hiện đại; (iii) Tập trung vào phát triển công nghệ trong những lĩnh vực

cơ bản với sự tham gia mạnh mẽ của nhà nước.

- Hoàn thiện chính sách quản lý và phát triển khoa học công nghệ: (i) Đổi mới

phương thức quản lý và đầu tư kinh phí khoa học công nghệ theo hướng hiệu

quả; (ii) Xây dựng chính sách cầu hiền, nâng cao đãi ngộ với đội ngũ,

chuyên gia có trình độ.

- Xây dựng và phát triển thị trường khoa học công nghệ với sự tham gia của

nhà nước như một nhân tố gắn kết cung và cầu sản phẩm khoa học công

nghệ trong môi trường kinh doanh năng động.

- Mở rộng các hình thức hợp tác, thu hút sáng kiến khoa học công nghệ. Tạo

nên một cơ chế hỗ trợ những sáng kiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ có ứng

dụng thực tiễn lớn, phục vụ yêu cầu phát triển đất nước.

- Thay đổi tư duy phát triển hệ thống khoa học với mục tiêu rõ ràng là tăng

đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng trưởng kinh tế, nhất là trong

dai hạn. Nhà nước nên xác định rõ vai trò của mình là người quản lý bằng cơ

chế chính sách với mục tiêu tạo kích thích đổi mới công nghệ trong các

doanh nghiệp và tăng hợp tác hai chiều giữa tổ chức nghiên cứu khoa học

với doanh nghiệp. Trong dài hạn, muốn công nghệ có ảnh hưởng lớn nhất

đến chất và lượng của tăng trưởng, chính phủ cần hành động từ ngay bây giờ.

75

Thứ năm, tăng cường các dự án hợp tác công tư nhằm hỗ trợ tốt hơn cho tăng

trưởng xanh. Trên thực tế, yêu cầu hỗ trợ về tài chính nhằm hướng tới nền kinh tế

tăng trưởng xanh là rất lớn. Trong bối cảnh nguồn lực ngân sách hạn hẹp, nên tăng

cường huy động nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, khu vực tư nhân, đặc biệt là

nguồn đầu tư nước ngoài cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Tích cực thu

hút nguồn tài trợ từ các nước phát triển, các tổ chức quốc tế và các quỹ để tài trợ

cho các dự án liên quan đến tăng trưởng xanh của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như

năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng; các công trình thích ứng với biến đổi khí

hậu như đê biển, đường; sản xuất sạch hơn và các công nghệ ít phát thải các-bon.

Thứ sáu, phát triển đội ngũ doanh nhân có năng lực. Các doanh nghiệp là nhân

tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển của đất nước, mà doanh nhân có năng lực kinh

doanh mới là những cá nhân có thể tạo nên những doanh nghiệp mạnh. Đào tạo

cũng như nâng cao năng lực của đội ngũ doanh nhân là yêu cầu cấp thiết để các

doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung có thể hội nhập môi trường toàn cầu trên cơ

sở tận dụng các giá trị nguồn lực của đất nước, đặc biệt là các giá trị truyền thống và

văn hóa.

Thứ bảy, đổi mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội và hoàn thiện thể chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để khu vực kinh tế tư nhân có thể tham

gia hiệu quả hơn vào công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội.

3.2.3 Biện pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng và phân phối thành quả của

tăng trưởng

Nâng cao chất lượng của tăng trưởng, bên cạnh việc chú trọng đến phân phối

thành quả của tăng trưởng là một trong những nội dung quan trọng để giảm thiểu

khoảng cách của Việt Nam tới điểm chuyển đổi.

Thứ nhất, chính phủ cần tăng đầu tư cho giáo dục thông qua các biện pháp

trực tiếp hay gián tiếp vì từ những phân tích của tác giả trong chương 2 cho thấy có

sự đóng góp của vốn lao động đến tăng trưởng. Nguồn đầu tư nên huy động vốn

ngoài ngân sách, đến từ các doanh nghiệp và đến từ các tổ chức nước ngoài, thực

hiện xã hội hóa giáo dục đại học. Theo đó, giáo dục được đinh hướng trở thành một

76

trong những ngành thu hút ODA cũng như đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Trong

điều kiện sử dụng đầu tư từ ngân sách nhà nước, chính phủ cần chú ý đến có cấu

phân bổ, hiệu quả và chất lượng, góp phần tạo điều kiện cho người nghèo có nhiều

cơ hội hơn để tiếp cận dịch vụ giáo dục và hưởng lợi lớn nhất từ nguồn đầu tư đó.

Thứ hai, phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe công cho người dân nói

chung, điều chỉnh chế độ phúc lợi xã hội cho người nghèo, người tàn tật và người

già.

Thứ ba, phát triển hạ tầng giao thông, quy hoạch các khu công nghiệp và dự

án du lịch tại những vùng sâu vùng xa nhằm định hướng phát triển kinh tế vùng,

kéo gần khoảng cách chênh lệch thu nhập, nâng cao điều kiện sống cho người dân ở

các khu vực này.

3.2.4 Bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học

Đa dạng sinh học có vai trò quan trọng trong việc duy trì các chu trình tự

nhiên và đa dạng sinh thái. Hiện nay, do quá chú trong vào phát triển kinh tế và một

số nguyên nhân khác mà sự đa dạng sinh học của Việt Nam đã và đang bị suy giảm

nghiêm trọng. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên và môi trường sống của một số loài động

thực vật quý hiếm bị thu hẹp đáng kể, một số loài đứng trước nguy cơ bị tuyệt

chủng hoặc nguy cấp. Sự suy giảm hệ sinh thái kéo theo tình trạng ô nhiễm môi

trường do hệ thực vật giảm sút, không có khả năng hấp thu các khí thải độc hại làm

sạch môi trường. Tình trạng phá rừng phục vụ các lợi ích kinh tế và thương mại, đốt

rừng làm nương rẫy không chỉ làm suy giảm đa dạng sinh học, thu hẹp môi trường

sống của các loài động vật mà còn giảm nhanh diện tích thực vật có khả năng hấp

thụ khí thải như CO2.

Thực trạng trên đã và đang đe dọa sự sống còn của con người và sự bền vững

của môi trường. Yêu cầu cấp thiết hiện nay là chính phủ Việt Nam cần có những

biện pháp hành động cụ thể và khẩn cấp để đối phó với suy giảm đa dạng sinh học,

gắn bảo tồn đa dạng sinh học với phát triển bền vững, khắc phục tác động của biến

đổi khí hậu tới đa dạng sinh học.

77

Biện pháp tốt nhất là chính phủ mở rộng các khu bảo tồn thiên nhiên sẵn có và

thành lập thêm các khu bảo tồn mới nhằm mở rộng diện tích sinh thái được bảo vệ,

tạo không gian và điều kiện khôi phục lại đa dạng sinh học. Các khu bảo tồn cần

được phân định rõ ràng trên thực địa, ngăn ngừa tình trạng xâm lấn và vi phạm

trong diện tích bảo tồn. Cơ quan chuyên trách cần hoàn thiện các chính sách quản lý

trên cơ sở gắn kết giữa bảo tồn và phát triển, bảo tồn và du lịch sinh thái nhằm

tuyên truyền về hoạt động bảo vệ môi trường.

Xây dựng các ngân hàng sinh học về nguồn gen và giống động thực vật cho

các hoạt động nghiên cứu và bảo tồn. Các phương án bảo tồn ngoại vi nên được

chính quyền và các cơ quan hữu quan xem xét và lập phương án thực hiện nhằm

mục đích bảo tồn hệ sinh thái, duy trì sự vận hành ổn định của chu trình các-bon,

hạn chế những ảnh hưởng của phát thải khí CO2.

3.2.5 Biện pháp đối phó khắc phục hiện tượng biến đổi khí hậu

Là một trong những nội dung quan trọng nhằm đối phó với ảnh hưởng của sự

gia tăng phát thải khí nhà kinh nói chung và khí thải CO2 nói riêng, biến đổi khí hậu

và hậu quả của biến đổi khí hậu là một trong những khó khăn mà Việt Nam phải

giải quyết trong ngắn hạn và dài hạn.

Thứ nhất, chính phủ cần xây dựng và hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu cho

Việt Nam, từ đó đánh giá cụ thể và chính xác tác động của biến đổi khí hậu để triển

khai kế hoạch ứng phó phạm vi quốc gia và địa phương. Ví dụ như Kịch bản biến

đổi khí hậu và nước biển dâng của Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016) chỉ xét đến

mức độ thay đổi mực nước biển trung bình gây ra bởi biến đổi khí hậu mà chưa xét

đến việc tổng hợp các yếu tố khác gây nên sự dâng cao của nước biển như: nước

biển dâng cao do bão, do các quá trình vận động địa chất lên xuống, do gió mùa và

thủy triều. Nếu có đề cập đến, kịch bản biến đổi khí hậu cũng chỉ tập trung vào từng

yếu tố mà không thể ước lượng tính toán kết quả dựa trên việc tổng hợp các yếu tố

tác động.

Thứ hai, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và phòng chống thiên tai đi cùng

với nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại về dự báo, quan trắc khí tượng thủy

78

văn. Việt Nam nên xây dựng cơ chế hợp tác trao đổi thường xuyên với những nước

có kinh nghiệm đối phó thiên tai và cũng chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu như

Nhật Bản và Hà Lan.

Thứ ba, phát triển công nghệ di truyền ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp

và lâm nghiệp nhằm phát triển các giống thích nghi với điều kiện khí hậu mới và

duy trì sự đa dạng môi trường sinh học trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu. Ví dụ,

phát triển các giống lúa thích nghi môi trường cạn/ít nước.

Thứ tư, xây dựng phương án quản lý tài nguyên nước, cụ thể: (i) Quản lý

lượng nước các lưu vực sông; (ii) Xây dựng hồ chứa, các phương thức thu gom và

dự trữ nước mưa cho cộng đồng.

79

KẾT LUẬN

Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam tạo nên sự tăng tốc của công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đã đạt được những thành quả to lớn về nhiều mặt kinh tế cũng như

xã hội. Tuy nhiên để đạt được những thành tưu về kinh tế, Việt Nam đã và đang

phải đánh đổi với mức độ ô nhiễm ngày càng tăng cao. Vì vậy, những nghiên cứu

và phân tích về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường là thật

sự cần thiết cho Việt Nam, để từ đó có thể đưa ra những kiến nghị, định hướng giải

pháp phù hợp.

Luận văn dựa trên việc phân tích các số liệu mà tác giả tổng hợp được đã đi

đến kết luận rằng nền kinh tế của Việt Nam còn chưa đạt tới ngưỡng chuyển đổi

theo mô hình của Kuznets, tăng trưởng kinh tế về lượng và chất vẫn có tác động

dương tới lượng phát thải CO2. Từ kết luận trên, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp

tập trung vào giảm lượng khí thải CO2 và các biện pháp nhằm thích ứng với biến

đổi khí hậu tại Việt Nam. Luận văn đã lượng hóa được mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế về lượng và chất với lượng phát thải CO2 tại Việt Nam qua các mô

hình kinh tế lượng cụ thể.

Do thời gian thực hiện luận văn và khả năng tiếp cận nguồn kiến thức của

người viết có hạn nên luận văn không tránh khỏi còn tồn tại một số thiếu sót và hạn

chế nhất định, cụ thể: Đầu tiên, trên thực tế có nhiều yếu tố tác động mức xả thải

khí CO2 nhưng luận văn chỉ giới hạn ở biến tăng trưởng thể hiện ở sản lượng GDP

và tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số phát triển con người (HDI) và một số biến độc

lập khác. Việc giới hạn các biến như trên đã ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả nghiên

cứu, vì có khả năng bỏ qua một vài biến giải thích quan trọng khác. Thứ hai, số

lượng mẫu của nghiên cứu của luận văn khá khiêm tốn, chỉ có 26 quan sát. Cỡ mẫu

chưa đủ lớn, điều này ảnh hưởng ít nhiều đến tính đại diện của cỡ mẫu cũng như độ

chính xác của kết quả phân tích. Hạn chế này đến từ việc hạn chế của nguồn số liệu

thống kê về Việt Nam trên các trang dữ liệu chính thống. Thứ ba, mô hình mà tác

giả sử dụng trong luận văn chỉ có thể giải thích được mối tương quan giữa các các

biến trong ngắn hạn, còn chưa thể giải thích được mối quan hệ trong dài hạn.

80

Mặc dù luận văn còn tồn tại một số hạn chế về phạm vi nghiên cứu, tuy nhiên,

người viết đã cung cấp một cái nhìn tổng quan nhất về mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế và lượng khí thải CO2 tại Việt Nam. Việc mở rộng phạm vi nghiên

cứu cũng như khắc phục những hạn chế của luận văn sẽ là định hướng tiếp theo cho

người viết thực hiện những đề tài nghiên cứu về sau. Người viết mong muốn thông

qua những nghiên cứu của bản thân có thể đóng góp phần nào những quan điểm và

khuyến nghị phù hợp, giúp cho Việt Nam có thể thực hiện thành công mục tiêu

giảm lượng phát thải CO2 trong định hướng nền kinh tế tăng trưởng xanh và ứng

phó với biến đổi khí hậu.

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. ADB, Cải cách chính sách tại Việt Nam và Chương trình hỗ trợ các khoản

vay cho Cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước và Quản trị doanh nghiệp

của Ngân hàng phát triển Châu Á, Bài viết nghiên cứu ERD số 70/2006.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ

nhất của Việt Nam cho công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí

hậu, NXB Tài nguyên-Môi trường và bản đồ Việt Nam, Hà Nội 2014.

3. Bộ Tài nguyên và môi trường, Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng

cho Việt Nam năm 2016, NXB Tài nguyên môi trường và Bản đồ Việt Nam,

Hà Nội 2016.

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công

nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ, Hà Nội 2009.

5. Bộ Khoa học và Công nghệ, Chất lượng không khí – Tiêu chuẩn khí thải

công nghiệp đối với bụi và chất vô cơ, Hà Nội 2005

6. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp

đối với bụi và các chất vô cơ trên địa bàn thủ đô Hà Nội, Hà Nội 2014

7. IMF, Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,

Washington 1996.

8. Lê Việt Đức, Kinh tế vĩ mô 2014: ổn định về lượng, trì trệ về chất, chưa rõ

tương lai, Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa xuân 2015, Ủy ban Kinh tế quốc hội,

Nghệ An 2015, tr. 64- tr. 89.

9. Lưu Đức Hải và Phạm Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự phát triển bền

vững, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2001.

10. Luật bảo vệ môi trường 2014, Hà Nội 2014.

11. Nguyễn Thanh Đức, Đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam - Tiếp cận

từ góc độ lý thuyết, Nghiên cứu châu Âu, số 6 (141)/2012, tr. 54- tr. 61.

12. Nguyễn Văn Công, Ngô Mến, Nguyễn Khắc Minh, Trần Đình Toàn, Phạm

Kim San và Hoàng Yến, Giáo trình nguyên lý kinh tế vĩ mô, NXB Lao Động,

Hà Nội 2011.

82

13. Nguyễn Văn Phú và cộng sự, Economic development and CO2 emissions: A

nonparametric panel approach, Journal of Public Economy, volume

90/2006, tr. 1347- tr.1363.

14. Perkins, D.H., Radetet, S. and Lindauer, D.L., 2006, Economics of

Development, Dịch từ tiếng Anh, Người dịch Phạm Thị Tuệ, Nguyễn Duy

Đạt, Nguyễn Thị Lan Phương, Nguyễn Bích Thùy, Nguyễn Phú Hà và

Nguyễn Thùy Linh, NXB Thống kê, Hà Nội 2010.

15. Phạm Hồng Mạnh, Tăng trưởng xanh tại Việt Nam: nhìn từ quá trình sử

dụng năng lượng và mức phát thải khí CO2, Science & Technology

Development, Số 17/2014, tr. 14- tr. 25.

16. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 432/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chiến

lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”, Hà Nội 2012.

17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1393/QĐ-TTg về “Chiến lược quốc gia

về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050”, Hà Nội

2012.

18. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1250/QĐ-TTG về việc phê duyệt

“Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm

2030”, Hà Nội 2013.

19. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1474/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Kế

hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 – 2020

(NAP)”, Hà Nội 2012.

20. World Bank, Mười năm đầu của chuyển đổi, Hà Nội 2002.

Tiếng Anh

1. Alam, J., On the Relationship between Economic Growth and CO2

Emissions: The Bangladesh Experience, Journal of Economics and Finance,

số 6/2014, tr. 36 – tr. 41.

2. Arrow, K., Bolin, B., Costanza, R., Dasgupta, P., Folke, C., Holling, C.S.,

Jansson, B., Levin, S., Maler, K., Perrings, C. và Pimentel, D., Economic

growth, carrying capacity, and the environment, Environment and

Development Economics, Số 1/1996, tr. 104- tr.110.

83

3. Caviglia-Harris và cộng sự, Taking the ‘U’ out of Kuznets: Acomprehensive

analysis of the EKC and environmental degradation, Ecological Economics,

số 68/2009, tr. 1149- tr. 1159.

4. Choi, E., Heshmati, A. và Cho, Y., An empirical study of the relationships

between CO2 emissions, economic growth and openness, Discussion Paper

No. 5304, The Institute for the Study of Labor in Born, Germany 2010.

5. Cole, M. A., Rayner, A.J. và Bates, J.M., The environmental Kuznets curve:

an empirical analysis, Environment and Development Economics, số 2/1997,

tr. 401– tr. 416.

6. Davidson, C., Economic growth and the environment: alternatives to the

limits paradigm, BioScience, số 50/2000, tr. 433–tr. 440.

7. Dinda, S., Environmental Kuznets Curve Hypothesis: A Survey, Ecological

Economics, số 49/2004, tr. 431- tr. 455.

8. Douglass H. và Thomas M., Stocking the fire? CO2 emissions and economic

growth, Journal of Public Economics, No. 57/1995, tr. 88 – tr. 101.

9. Grossman, G.M. và Krueger, A.B., Environmental impacts of the North

American Free Trade Agreement, in Peter Garber (ed.), The U.S.-Mexico

Free Trade Agreement, MIT Press, Cambridge 1993.

10. Holtz-Eakin và Selden, Stocking the fires? CO2 emmissions and economic

growth, Journal of Public Economic, số 57/1995, tr. 85 – tr. 101.

11. IPCC, Climate Change 2007: Impacts, Adaptation and Vulnerability.

Contribution of Working Group II to the Fourth Assessment Report of the

Intergovernmental Panel on Climate Change, Cambridge University Press,

Cambridge 2007.

12. IPCC, Climate Change 2014: Mitigation of Climate Change. Contribution of

Working Group III to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental

Panel on Climate Change, Cambridge University Press, Cambridge 2014.

13. Kuznets, S., Economic growth and income inequality, American Economic

Review, Số 45/1955, tr. 1- tr. 28.

84

14. Matus, K., Nam, K.M., Selin, N.E., Lamsal, L.N., Reilly, J.M. and Paltsev,

S., Health damages from air pollution in China, global environmental

change, số 22/2012, tr. 55- tr. 56.

15. Shafik, N. và S. Bandyopadhyay, Economic growth and environmental

quality: Time series and cross country, Washington D.C 1992.

16. Sileem, H.H.M., Examining the existence of a modified environmental

Kuznets curve for the Middle East and North Africa economies, European

Journal of Sustainable Development, số 4/2015, tr. 259- tr. 268.

17. Stern, D.I., The rise and fall of the environmental Kuznets curve, World

development, số 8/2004, tr. 1419- tr. 1439.

18. Taghvaee, V.M., Shirazi, J.K., Analysis of the relationship between

economic growth and environmental pollution in Iran (evidence from three

sections of land, water and atmosphere), Indian Journal of Scientific

Research, số 7/2014, tr. 31- tr. 42.

19. UNDP, Human Develop Report 2011, 2011.

20. UNDP, Human Develop Report 2016, 2016.

21. Vinod, M., Rusell S., and Suan S., The energy – GDP nexus, Evidence from

a panel of Pacific Island countries, Resource and energy Economics,

Volume 31/2009, tr. 210 – tr. 220.

22. World Bank, The world bank development report 1992: Developmemt and

the environment, Washington DC 1992.

23. Yu, X., An empirical research on relationship between economic growth and

atmospheric pollution in China-Based on the panel data analysis approach,

Master thesis, Lund University, Sweden 2013.

Ấn phẩm điện tử

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2012, Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam,

báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền

vững (RIO+20), tại địa chỉ:

http://va21.gov.vn/Portals/0/va21/30342_Rio_NationalReportVNM_VN.pdf,

truy cập ngày 28/04/2017.

85

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2010, Thông báo quốc gia lần thứ hai của

Việt Nam cho công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, tại

địa chỉ: http://www.noccop.org.vn/images/article/TBQG-II_a52.pdf, truy cập

ngày 28/04/2017.

2011-2015, đoạn tại

3. Bộ tài nguyên và môi trường, 2015, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia địa chỉ: truy cập ngày

giai http://cem.gov.vn/Portals/0/2016/TinBai/Phan%20dau.pdf, 28/03/2017.

4. Chu Văn Cấp, 2011, Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo tinh

thần Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản – Viện Khoa học và Xã hội

Việt Nam, tại địa chỉ: http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-

dang/sach-chinh-tri/books-0105201511342446/index-

210520151130204632.html, truy cập ngày 28/04/2017.

5. Cổng thông tin điện tử Bộ Giao thông Vận tải, 2015, Các nguyên nhân chính

gây ô nhiễm môi trường từ các phương tiện giao thông, tại địa chỉ:

http://www.mt.gov.vn/mmoitruong/tin-tuc/1129/38866/cac-nguyen-nhan-

chinh-gay-o-nhiem-moi-truong-tu-cac-phuong-tien-giao-thong.aspx, truy cập

ngày 28/03/2017.

6. Nguyễn Đinh Tuấn và Phạm Nguyễn Bảo Hạnh, 2008, Diễn biến chất lượng

môi trường thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện

đại hóa, tại địa chỉ:

http://repositories.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/6377/1/21.pdf, truy

cập ngày 28/04/2017.

7. Trần Văn Thọ, 2006, Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp

hóa Việt Nam, tại địa chỉ: http://www.erct.com/2-ThoVan/TranVTho/BDKT-

03.htm, truy cập ngày 28/04/2017.

8. UNDP, 2011, Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người Báo cáo Quốc gia

về Phát triển Con người năm 2011, tại địa chỉ:

http://www.undp.org/content/dam/vietnam/docs/Publications/27109_902_U

NDP_Final_low_res_file_VN_310112.pdf , truy cập ngày 28/03/2017.

86

9. VNCPC, 2014, Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ giúp bảo vệ môi

trường, tại địa chỉ: http://vncpc.org/day-manh-ung-dung-khoa-hoc-cong-

nghe-giup-bao-ve-moi-truong/, truy cập ngày 28/03/2017.

10. Azomahou, T., Laisney, F. và Nguyễn Văn Phú, 2005, Economic

development and CO2 emissions: a nonparametric panel approach,

Discussion Paper No.05-56, tại địa chỉ: ftp://ftp.zew.de/pub/zew-

docs/dp/dp0556.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

11. Chen, S., Chen, X. và Xu, J., 2014, Impacts of climate change on agriculture

evidence from China, tại địa chỉ:

http://www.rff.org/files/sharepoint/WorkImages/Download/EfD-DP-14-

07.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

12. Everett, T., Ishwaran, M., Ansaloni, G.P., và Rubin, A., 2010, Economic

Growth and the Environment, tại địa chỉ:

https://www.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/fil

e/69195/pb13390-economic-growth-100305.pdf , truy cập ngày 28/03/2017.

13. Feng, K., Hubacek, K. và Guan, D., 2009, Lifestyles, technology and CO2

emissions in China: A regional comparative analysis, tại địa chỉ:

https://geog.umd.edu/sites/geog.umd.edu/files/pubs/Lifestyles%20technolog

y%20CO2%20emission%20in%20China.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

14. GFDRR, 2011, Climate risk and adaptation country profile for Vietnam:

Vulnerability, Risk Reduction, and Adaptation to Climate Change Viet Nam,

tại địa chỉ:

http://sdwebx.worldbank.org/climateportalb/doc/GFDRRCountryProfiles/wb

_gfdrr_climate_change_country_profile_for_VNM.pdf, truy cập ngày

28/03/2017, truy cập ngày 28/03/2017.

15. Kallbekken, S., 2004, An alternative Environmental Kuznets Curve

approach to deforestation, tại địa chỉ:

http://ibrarian.net/navon/paper/An_alternative_Environmental_Kuznets_Cur

ve_approa.pdf?paperid=4702936, truy cập ngày 28/03/2017.

87

16. Kim, C., 2009, The impact of climate change on agriculture sector:

Implications of the Agro-Industry for low carbon, green growth strategy and

roadmap for the East Asia region, tại địa chỉ:

http://www.unescap.org/sites/default/files/5.%20The-Impact-of-Climate-

Change-on-the-Agricultural-Sector.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

17. Leggett, J.A., Logan, J. and Mackey, A., 2008, China’s greenhouse gas

emissions and mitigation policies, tại địa chỉ:

https://www.fas.org/sgp/crs/row/RL34659.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

18. Liu, Z., 2015, China’s carbon emission report 2015, Belfer Center for

Science and International Affairs, tại địa chỉ:

http://www.belfercenter.org/sites/default/files/legacy/files/China%20Carbon

%20Emissions%202016%20final%20web.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

19. Moomaw, W.R. and Unruh, G.C., 1997, Are environmental Kuznets curves

misleading us?, tại địa chỉ:

http://ase.tufts.edu/gdae/publications/archives/moomawpaper.pdf, truy cập

ngày 28/03/2017.

20. Morrison, W.M., 2015, China’s economic rise: history, trends, challenges,

and implications for the United States, tại địa chỉ:

https://www.fas.org/sgp/crs/row/RL33534.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

21. Olivier, J.G.J., Maenhout, G.J., Muntean, M. and Peters, J.A.H.W., 2015,

Trends emissions: 2015 Report, tại địa chỉ: in global CO2

http://edgar.jrc.ec.europa.eu/news_docs/jrc-2015-trends-in-global-co2-

emissions-2015-report-98184.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

22. The Center for Climate and Energy Solution, 2015, China’s climate and

energy policies, tại địa chỉ: http://www.c2es.org/docUploads/china-factsheet-

formatted-10-2015.pdf , truy cập ngày 28/03/2017.

23. UNDP, 2015, Human Development Report 2015, tại địa chỉ:

http://hdr.undp.org/sites/default/files/2015_human_development_report.pdf,

truy cập ngày 28/03/2017.

88

24. UNESCAP, 2001, Synthesis of National Reports on the implementation of

the habitat agenda in asia and the pacific region, taị địa chỉ:

http://www.un.org/ga/Istanbul+5/escap.PDF, truy cập ngày 28/03/2017.

25. United Nations, 1992, United Nations Framework Convention on Climate

Change, tại địa chỉ: https://unfccc.int/resource/docs/convkp/conveng.pdf,

truy cập ngày 28/03/2017.

26. World Bank, 2012, Inclusive green growth the pathway to sustainable

development, tại địa chỉ:

http://siteresources.worldbank.org/EXTSDNET/Resources/Inclusive_Green_

Growth_May_2012.pdf, truy cập ngày 28/03/2017.

27. World Bank, World Development Indicators, tại địa chỉ:

http://databank.worldbank.org/data/reports.aspx?source=world-development-

indicators, truy cập ngày 28/03/2017

28. Zhang, Z.Z., 2015, Climate Mitigation Policy in China - A Special

Supplement of Climate Policy Journal, tại địa chỉ:

http://climatestrategies.org/wp-content/uploads/2015/11/CS-COP20-Zhang-

Briefing-Note2-Climate-Mitigation-Policy-in-China-2015-formatted-2.pdf,

truy cập ngày 28/03/2017.

Trang Web

1. Tổng cục thống kê : http://gso.gov.vn/

2. Tổng cục Hải quan : https://customs.gov.vn/

3. World Bank : http://www.worldbank.org/

4. UNDP : http://www.undp.org/

5. EDGAR : http://edgar.jrc.ec.europa.eu/

I

PHỤ LỤC

1. Hồi quy mô hình 1

2. Kiểm định đa cộng tuyến mô hình 1

3. Kiểm định phương sai sai số thay đổi mô hình 1

4. Hồi quy mô hình 1 sau khi bỏ bớt biến

II

5. Kiểm định đa cộng tuyến của mô hình 1 sau khi sửa đa cộng tuyến

6. Hồi quy robust mô hình 1 sau khi bỏ bớt biến

7. Hồi quy mô hình 2

III

8. Kiểm định đa cộng tuyến mô hình 2

9. Kiểm định phương sai sai số thay đổi mô hình 2

10. Hồi quy mô hình 2 sau khi sửa đa cộng tuyến

11. Kiểm định đa cộng tuyến của mô hình 2 sau khi sửa đa cộng tuyến

12. Hồi quy robust mô hình 2 sau khi sửa đa cộng tuyến

IV