Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tính sẵn sàng đối với việc triển khai ICT của tổng Công ty cấp nước Sài Gòn
lượt xem 3
download
Kết quả nghiên cứu đã xác định được tổng cộng 42 tiêu chí, phân bổ trong 7 khía cạnh, để đánh giá tính sẵn sàng của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đối với việc triển khai công nghệ thông tin truyền thông. Kết quả đo lường mức độ sẵn sàng đối với việc triển khai công nghệ thông tin truyền thông cho thấy Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn hiện nay đáp ứng tương đối tốt các điều kiện để triển khai công nghệ thông tin truyền thông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tính sẵn sàng đối với việc triển khai ICT của tổng Công ty cấp nước Sài Gòn
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Nhất Duy TÍNH SẴN SÀNG ĐỐI VỚI VIỆC TRIỂN KHAI ICT CỦA TỔNG CÔNG TY CẤP NƯỚC SÀI GÒN Chuyên ngành: Quản Trị Kinh Doanh (hướng Nghề nghiệp) Mã số: 60340102 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Võ Thị Quý Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016
- MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ TÓM TẮT MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Bối cảnh nghiên cứu ..............................................................................................1 Vấn đề nghiên cứu .................................................................................................3 Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................................4 Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................4 Phạm vi nghiên cứu ...............................................................................................4 Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................5 Ý nghĩa của nghiên cứu .........................................................................................5 Chương 1: THỰC TRẠNG NGÀNH NƯỚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ TÌNH HÌNH HỆ THỐNG ICT CỦA SAWACO.............................................6 1.1. Môi trường chính trị và pháp lý của ngành nước ....................................6 1.2. Điều kiện tự nhiên và xã hội của ngành nước ...........................................9 1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngành nước ...........................................11 1.4. Tình hình triển khai ICT tại SAWACO ..................................................15 Chương 2: XÁC ĐỊNH TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ TÍNH SẴN SÀNG ĐỐI VỚI VIỆC TRIỂN KHAI ICT TẠI SAWACO ............................................................21 2.1. Các nghiên cứu về tính sẵn sàng đối với ICT .........................................21 2.2. Chuẩn bị khảo sát ......................................................................................24 2.3. Vòng khảo sát 1 ..........................................................................................27 2.4. Vòng khảo sát 2 ..........................................................................................33 2.5. Vòng khảo sát 3 ..........................................................................................41 Chương 3: ĐO LƯỜNG MỨC ĐỘ SẴN SÀNG CỦA SAWACO ĐỐI VỚI VIỆC TRIỂN KHAI ICT .......................................................................................48 3.1. Chọn mẫu khảo sát ....................................................................................48 3.2. Thu thập dữ liệu ........................................................................................49 3.3. Kết quả khảo sát ........................................................................................50 3.4. Phân tích dữ liệu ........................................................................................51 Chương 4: GIẢI PHÁP ĐỂ SAWACO CẢI THIỆN TÍNH SẴN SÀNG ĐỐI VỚI VIỆC TRIỂN KHAI ICT ...............................................................................61
- 4.1. Bồi dưỡng năng lực con người ..................................................................61 4.2. Củng cố quản trị công nghệ thông tin .....................................................62 4.3. Đầu tư cơ sở hạ tầng triển khai ICT ........................................................63 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................68 Kết luận về đề tài .................................................................................................68 Kiến nghị cho SAWACO.....................................................................................68 Đóng góp của đề tài ..............................................................................................70 Hạn chế của đề tài ................................................................................................71 Hướng nghiên cứu tiếp theo ................................................................................71 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Khác biệt trong hệ thống ICT tại một số công ty cấp nước Bảng 2.1. Một số chỉ số để đo lường công nghệ thông tin của quốc gia Bảng 2.2. Một số thang đo tính sẵn sàng đối với công nghệ thông tin Bảng 2.3. Dự thảo Bảng tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng đối với việc triển khai ICT Bảng 2.4. Thành phần chuyên gia chọn khảo sát ý kiến Bảng 2.5. Tỉ lệ và lí do không đồng ý đối với mỗi tiêu chí sau Vòng khảo sát 1 Bảng 2.6. Các tiêu chí được đề nghị bổ sung sau Vòng khảo sát 1 Bảng 2.7. Tỉ lệ và lí do không đồng ý đối với mỗi ý kiến từ Vòng khảo sát 1 Bảng 2.8. So sánh tỉ lệ không đồng ý của Vòng 1 và Vòng 2 đối với mỗi tiêu chí Bảng 2.9. So sánh tỉ lệ không đồng ý của Vòng 2 và Vòng 3 đối với mỗi ý kiến Bảng 2.10. Bảng tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng đối với việc triển khai ICT, áp dụng cho SAWACO Bảng 3.1. Chọn mẫu phân tầng theo tỉ lệ tại SAWACO Bảng 3.2. Mức độ sẵn sàng của SAWACO đối với từng khía cạnh để triển khai ICT Bảng 3.3. Xếp hạng mức độ sẵn sàng của SAWACO đối với từng tiêu chí để triển khai ICT
- DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Hình 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngành nước của Việt Nam Hình 1.2. Mô hình tham khảo Kiến trúc ICT dành cho SAWACO
- TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tính sẵn sàng của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đối với việc triển khai công nghệ thông tin và truyền thông. Nghiên cứu này được thực hiện qua các bước: - Xem xét các điều kiện hoạt động đặc thù của công ty, bao gồm môi trường chính trị và pháp lý, điều kiện tự nhiên xã hội, và cơ cấu bộ máy quản lý ngành nước; - Tổng hợp các nghiên cứu đã có về tính sẵn sàng liên quan đến công nghệ thông tin và truyền thông; - Thực hiện 3 vòng khảo sát bằng phương pháp Delphi để xác định các tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng đối với việc triển khai công nghệ thông tin và truyền thông; - Thực hiện đo lường mức độ sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT bằng cách khảo sát mức độ đáp ứng các tiêu chí đã xác định. Kết quả nghiên cứu đã xác định được tổng cộng 42 tiêu chí, phân bổ trong 7 khía cạnh, để đánh giá tính sẵn sàng của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đối với việc triển khai công nghệ thông tin truyền thông. Kết quả đo lường mức độ sẵn sàng đối với việc triển khai công nghệ thông tin truyền thông cho thấy Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn hiện nay đáp ứng tương đối tốt các điều kiện để triển khai công nghệ thông tin truyền thông. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng xếp hạng những tiêu chí đáp ứng tốt nhất và những tiêu chí đáp ứng kém nhất trong mỗi khía cạnh. Từ đó, các kiến nghị được đưa ra để cải thiện mức độ sẵn sàng của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đối với việc triển khai công nghệ thông tin truyền thông.
- 1 MỞ ĐẦU Bối cảnh nghiên cứu Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên (SAWACO) là công ty sản xuất và phân phối nước sạch cho người dân sử dụng vì mục đích sinh hoạt và phi sinh hoạt tại Thành phố Hồ Chí Minh (TpHCM). Tầm nhìn của công ty là trở thành đơn vị chủ đạo trong việc thực hiện các kế hoạch nhằm phát triển ngành cấp nước tại TpHCM và các vùng lân cận. Sứ mạng của công ty là cung cấp nước cho TpHCM một cách ổn định, chất lượng cao, liên tục 24/7 và ở một mức giá hợp lý. Lịch sử của công ty khởi đầu vào năm 1874 từ những công trình cấp nước ban đầu trong dự án thiết kế đầu tiên cho thành phố Sài Gòn thời Pháp thuộc. Vào năm 1900, Công ty Điện Nước Đông Dương được giao thầu nhượng quyền quản lý, vận hành, bảo trì hệ thống cung cấp nước của thành phố Sài Gòn và chịu trách nhiệm trước Sở Cấp nước. Đến năm 1959, Sài Gòn Thủy Cục được thành lập để thay thế Công ty Điện Nước Đông Dương, và 16 năm sau, trở thành Công ty Cấp nước TpHCM. Đến năm 2005, theo Quyết định số 85/2005/QĐ-UB của Ủy ban Nhân dân TpHCM, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn được thành lập theo mô hình công ty mẹ – công ty con, và 5 năm sau, trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Theo Quy hoạch tổng thể cấp nước đến năm 2025 được phê duyệt bởi Quyết định số 729/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, SAWACO sẽ cung cấp nước sạch cho tất cả các khách hàng tại TpHCM với sản phẩm nước đạt chất lượng uống được tại vòi vào năm 2025, tăng cường quan hệ đối tác công-tư với sự tham gia của khu vực tư nhân, sản xuất và cung cấp nước sạch cho thành phố một cách bền vững. SAWACO hiện đang đối mặt với nhiều thách thức trong các lĩnh vực như làm ra lợi nhuận, quản lý tài chính, quản lý tài sản, quản lý chi phí và dịch vụ phân phối, và cơ cấu tổ chức. SAWACO hiện đang chịu sức ép ngày càng tăng để cải thiện và hiện đại hóa dịch vụ của mình nhằm cung cấp nước tin cậy với độ phủ lưới đạt 100%. Việt Nam đã nhận được khoản vay từ Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank – ADB) với số tiền là 138 triệu USD, là đợt giải ngân theo yêu
- 2 cầu tài trợ định kỳ thứ nhất (PFR1) của cơ chế tài trợ nhiều đợt (MFF0054-VIE), nhằm thực hiện dự án cấp nước tại TpHCM (L2754-VIE). Theo MFF0054-VIE, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan điều phối. Theo PFR1 (L2754-VIE), Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan chủ quản, SAWACO là cơ quan thực hiện và Ban Quản lý dự án khoản vay ADB L2754-VIE là chủ đầu tư. Chương trình đầu tư của SAWACO sẽ sử dụng 20 triệu USD từ số tiền đã được cấp để triển khai công nghệ truyền thông thông tin cho SAWACO. Do chưa có phương pháp giải quyết thống nhất cho công tác quản lý thông tin, SAWACO đã đề nghị Cơ quan Thương mại và Phát triển Hoa Kỳ (U.S. Trade & Development Agency – USTDA) tài trợ cho Hỗ trợ kỹ thuật để cải thiện kế hoạch chiến lược hiện tại cho công tác quản lý công nghệ truyền thông và thông tin và để xây dựng một kế hoạch thực hiện công nghệ truyền thông và thông tin cho mạng lưới cấp nước TpHCM. Công ty ASTRO Systems, nhà thầu thực hiện Hỗ trợ kỹ thuật này, đã vạch ra một kế hoạch triển khai công nghệ thông tin truyền thông cho SAWACO gồm 4 giai đoạn, với tổng đầu tư lên đến 131 triệu USD. Công nghệ thông tin truyền thông (Information & Communications Technology – ICT) là cụm từ thường dùng như từ đồng nghĩa rộng hơn cho công nghệ thông tin (Information Technology – IT), nhưng thường là một thuật ngữ chung để nhấn mạnh vai trò của truyền thông hợp nhất và sự kết hợp của viễn thông, hệ thống quản lý tòa nhà thông minh và hệ thống nghe-nhìn trong công nghệ thông tin hiện đại. ICT bao gồm tất cả các phương tiện kỹ thuật được sử dụng để xử lý thông tin và trợ giúp liên lạc, bao gồm phần cứng và mạng máy tính, liên lạc trung gian cũng như là các phần mềm cần thiết. Mặt khác, ICT bao gồm IT cũng như là điện thoại, phương tiện truyền thông, tất cả các loại xử lý âm thanh và video, điều khiển dựa trên truyền tải và mạng và các chức năng giám sát. ICT được đánh giá là ngày càng có ảnh hưởng hơn, dễ tiếp cận hơn, và phổ biến rộng hơn. Nó đã và đang đóng vai trò chủ chốt trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển, mà đang sự tiến bộ đến mọi tầng lớp xã hội. Có nhiều bằng chứng về những tiến bộ dựa trên ICT, và các quốc gia như Hàn Quốc, Israel, và
- 3 Estonia đã dựa vào các sản phẩm và dịch vụ ICT để phát triển năng lực cạnh tranh quốc gia (Battista & cộng sự, 2015). Việt Nam nói chung, và SAWACO nói riêng, hiện vẫn còn sơ khai trong quá trình phát triển và ứng dụng ICT, nhưng kết quả thu được rất khả quan. Chẳng hạn, một đơn vị của SAWACO là Xí nghiệp truyền dẫn nước sạch, được trang bị Hệ thống điều khiển giám sát và thu thập dữ liệu SCADA để giám sát từ xa các thông số lưu lượng, áp lực, chất lượng nước trong mạng lưới truyền tải theo thời gian thực. Điều này giúp rút ngắn thời gian phản ứng khi xảy ra sự cố, tính từ lúc phát hiện đến lúc hoàn thành sửa chữa, từ đó giảm bớt thất thoát nước trong mạng lưới truyền tải (Currie & cộng sự, 2013). Vấn đề nghiên cứu Cần lưu ý là “truyền thông” trong cụm từ ICT được dùng ở dạng số nhiều để đề cập các phương tiện liên lạc, với ý nghĩa tập trung vào các phương tiện để gửi và nhận thông tin, hơn là việc gửi và nhận thông tin. Do đó, mặc dù ngành nước là một ngành gần như độc quyền nên không cần “truyền thông” theo nghĩa các hoạt động quảng bá, nhưng SAWACO rất cần “truyền thông” theo nghĩa trong cụm từ ICT, tức là các phương tiện để gửi và nhận thông tin phục vụ cho hoạt động vận hành và quản lý hệ thống cấp nước. Không thể phủ nhận tiềm năng đóng góp của ICT cho mục tiêu phát triển của SAWACO. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý, đặc biệt là Ủy ban nhân dân TpHCM trực tiếp quản lý SAWACO, chỉ theo dõi thông tin tổng quan dựa trên các báo cáo được gửi lên. Thêm vào đó, cơ quan quản lý không có và không thể có người chuyên trách để trực tiếp theo dõi từng dự án của SAWACO, nên báo cáo gửi lên cần phải đáp ứng yêu cầu chi tiết các nội dung nhưng không đi sâu vào kỹ thuật. Thời gian và nhân lực để SAWACO viết báo cáo cho cơ quan quản lý và để cơ quan quản lý đọc báo cáo đó là một sự lãng phí rất lớn. Lý do là vì việc lựa chọn các tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng đối với việc triển khai ICT, cũng như việc đánh giá các tiêu chí đó, phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm chủ quan của người viết báo cáo. Việc không thống nhất về tiêu chí đánh giá cũng như cách đánh giá các tiêu chí đó đã từng ảnh hưởng đến hoạt động của SAWACO. Có một thời gian dư luận xôn
- 4 xao về dự án Phát triển công nghệ thông tin và truyền thông tại Đà Nẵng, có tổng vốn đầu tư hơn 27,2 triệu USD vay từ Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB), được triển khai từ năm 2011 nhưng tại thời điểm nghiệm thu năm 2014 thì nhiều thiết bị đã không được sử dụng hoặc bị hư hỏng nhiều năm (Hữu Khá & Đăng Nam, 2014). Để tránh tình trạng chưa sẵn sàng nhưng vẫn cứ triển khai ICT như Đà Nẵng, Ủy ban nhân dân TpHCM đã yêu cầu SAWACO tạm hoãn gói đầu tư ICT thuộc dự án cấp nước sử dụng vốn vay ADB nêu trên, và SAWACO phải giải trình lại từ đầu. Trong tương lai, SAWACO sẽ cần triển khai các gói đầu tư ICT tiếp theo, như kế hoạch do Công ty ASTRO Systems đã lập, và có thể có thêm các dự án đầu tư ICT mới. Vì vậy, SAWACO cần xây dựng các tiêu chí để đánh giá tính sẵn sàng đối với việc triển khai ICT là cần thiết, và đánh giá hiện tại mức độ sẵn sàng đối với việc triển khai ICT là bao nhiêu. Vậy, vấn đề nghiên cứu là tính sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu là xác định các tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT, và đo lường mức độ sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là mức độ sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. Phạm vi nghiên cứu Do số lượng các đơn vị thành viên quá nhiều, trong đó có một số đơn vị đã cổ phần hóa, nên việc đáp ứng các thủ tục để được tất cả các đơn vị thành viên chấp thuận tham gia vào nghiên cứu sẽ dẫn đến vượt giới hạn thời gian và tài chính của nghiên cứu này. Trong số các đơn vị thành viên, Khối phòng ban là đơn vị tập trung tại Công ty mẹ, chịu trách nhiệm cố vấn cho Ban Tổng Giám đốc về các lĩnh vực chuyên môn để Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc có cơ sở ra quyết định phù hợp. Đây cũng là đơn vị sẽ trực tiếp triển khai ICT chung cho tất cả các đơn vị
- 5 thành viên. Vậy, phạm vi nghiên cứu là Khối phòng ban Tổng Công ty, hay còn được gọi là Công ty mẹ. Phương pháp nghiên cứu Việc phát triển và ứng dụng ICT tại Việt Nam nói chung, và SAWACO nói riêng, hiện vẫn còn sơ khai (Currie & cộng sự, 2013). Điều đó có nghĩa là không có sẵn dữ liệu thứ cấp về tính sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. Các lý thuyết liên quan đến tính sẵn sàng trong lĩnh vực ICT và các báo cáo về hệ thống ICT của SAWACO sẽ là dữ liệu thứ cấp cho đề tài. Các ý kiến của các chuyên gia thu thập trong quá trình phỏng vấn sẽ là dữ liệu sơ cấp cho đề tài. Phương pháp Delphi sẽ được sử dụng nhằm thu thập ý kiến các chuyên gia tìm ra sự đồng thuận trong việc xây dựng các tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. Phương pháp định lượng sẽ được sử dụng để đo lường mức độ sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. Từ đó, ta sẽ xác định những tiêu chí nào được SAWACO đáp ứng tốt nhất, và những tiêu chí nào được SAWACO đáp ứng kém nhất. Ý nghĩa của nghiên cứu Nghiên cứu khi hoàn thành sẽ xây dựng được các tiêu chí đánh giá tính sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển khai ICT. SAWACO có thể dựa vào các tiêu chí này để đánh giá đầy đủ các điều kiện liên quan đến việc triển khai ICT trong báo cáo cho cơ quan quản lý về tình hình ICT tại công ty, hoặc để làm căn cứ cho quyết định triển khai tiếp tục các hạng mục đầu tư về ICT.
- 6 Chương 1: THỰC TRẠNG NGÀNH NƯỚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ TÌNH HÌNH HỆ THỐNG ICT CỦA SAWACO Trong chương 1, tác giả sẽ trình bày về những khác biệt trong điều kiện hoạt động của SAWACO so với các doanh nghiệp khác, bao gồm cả khác biệt so với các công ty cấp nước khác. Sự khác biệt này bao gồm khác biệt về môi trường chính trị và pháp lý, khác biệt về điều kiện tự nhiên xã hội, và khác biệt về cơ cấu bộ máy quản lý ngành nước. Mục đích là nhằm khẳng định các lý thuyết đã có không thể áp dụng vào tình hình triển khai ICT hiện nay tại SAWACO để đo lường tính sẵn sàng của SAWACO đối với việc triển ICT. 1.1. Môi trường chính trị và pháp lý của ngành nước Có một suy nghĩ mạnh mẽ rằng các doanh nghiệp nhà nước, như SAWACO, trong khi là một phần quan trọng của mô hình kinh tế, đã trở thành một nguồn phát triển không hiệu quả, và là một hạn chế đối với việc phát triển doanh nghiệp tư nhân và phúc lợi xã hội nhằm duy trì các mức cao của việc tăng trưởng kinh tế và đáp ứng kỳ vọng của người dân. Tất cả các đơn vị này được phép hoạt động ngoài hoạt động chính của mình, trực tiếp hoặc thông qua các công ty con, trong đó có xây dựng, tư vấn, bán thiết bị, v.v. Sự đa dạng các hoạt động có thể vượt ngoài hoạt động chính của các công ty, chẳng hạn đối với một công ty phân phối nước thì có thể thi công các công trình công cộng và đất đai hay phát triển bất động sản. Dường như cách làm này là khá phổ biến và nó có thể được biện minh với lý do nó tạo thêm nguồn thu nhập để cân bằng các tài khoản tài chính của công ty mẹ. Hơn nữa, các đặc quyền được ban cho các doanh nghiệp nhà nước và các công ty con của doanh nghiệp nhà nước đang kìm hãm sự cạnh tranh, năng suất và hiệu quả. Các công ty mẹ có thể vay vốn từ các ngân hàng quốc gia về lĩnh vực công, như Ngân hàng Phát triển Việt Nam, và từ các ngân hàng thương mại nhà nước. Chính quyền trung ương cũng lập các dòng tín dụng sẵn có để cấp vốn cho các khoản đầu tư về các dịch vụ đô thị, và có thể thực hiện chuyển khoản trực tiếp để trợ vốn cho một số hoạt động cụ thể. Ngoài ra, có nhiều vấn đề chưa được giải quyết liên quan đến quản trị doanh nghiệp yếu,
- 7 tính minh bạch hạn chế, công bố tiêu chuẩn nghèo, và việc giám sát và kiểm tra không hiệu quả. Những vấn đề này cần được giải quyết cấp bách nhằm hiện đại hóa đất nước và đưa đất nước tiến nhanh với tốc độ của các thập niên trước đây. Từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 (60/2005/QH11) được phê duyệt, Việt Nam hiện đang dần chuyển các công ty công thành các công ty độc lập, với ý định chuyển đổi các công ty ngành công cộng thành các công ty có tư cách pháp nhân riêng, trước khi chuyển vốn cho các cổ đông là nhà nước hoặc tư nhân. Cũng đã có ý định tách rời, ít nhất là một cách chính thức, sự quản lý các công ty ra khỏi các cấp quản lý bên trên nhằm tránh xảy ra các mâu thuẫn về lợi ích. Với trường hợp các công ty nước, thì sẽ tách rời chức năng thể chế và chức năng quản lý. Dường như nguyên tắc quản lý lành mạnh này hiện không thực hiện được như mong muốn trong các dịch vụ như cấp nước, điện, quản lý chất thải rắn, và giao thông công cộng. Điểm mấu chốt của vấn đề liên quan đến việc phê duyệt giá cước dịch vụ là được thiết lập ở mức rất thấp, không đủ để trang trải chi phí hoạt động và đầu tư. Chiến lược thực hiện luật doanh nghiệp là chuyển thành từng giai đoạn. Đầu tiên, các công ty công cộng chuyển đổi sang thành các công ty mẹ có các công ty con hoạt động. Tiếp đó, vốn của các công ty con có lợi nhuận cao nhất sẽ được mở rộng ra cho các cổ đông bên ngoài, có thể là các công ty nhà nước hoặc tư nhân của Việt Nam, với một phần là dành cho các nhân viên. Đây là phương pháp ưa thích đối với các công ty dịch vụ công ở địa phương như SAWACO. Mục đích của các công ty là được ở một vị trí để mở rộng vốn, trong khi thu hút được các cơ hội kinh tế hấp dẫn. Tuy nhiên, bước sau chỉ có thể thành công bằng cách tăng đáng kể mức phí phải trả của người sử dụng, và bằng cách tái tập trung phạm vi hoạt động đối với doanh nghiệp cốt lõi về cấp nước, kinh doanh các hoạt động có lời nhưng không phải cốt lõi, và chấm dứt các hoạt động là gánh nặng tài chính. Nhìn chung, chính phủ hỗ trợ khá nhiều sự tham gia của khu vực tư nhân trong lĩnh vực cấp nước như trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng khác. Tuy nhiên, khung pháp lý và quy định còn rối ren và chưa đầy đủ, và các công ty nước ngoài nhận thấy hết sức khó khăn thực hiện tiến triển trong lĩnh vực cấp nước và thoát nước đô thị. Hầu
- 8 hết nhà đầu tư nước ngoài lại tập trung vào các dự án cho khách hàng tư nhân trong ngành công nghiệp, phát triển bất động sản và du lịch. Trong lĩnh vực cấp nước, có vẻ như các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục chiếm lĩnh và được ưu tiên tiếp cận tài chính và có một cấp độ tương đối cao về quyền tự chủ hoạt động. Vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước có lợi thế hơn khi cạnh tranh kinh doanh với các công ty tư nhân. Các vấn đề chính cần quan tâm bao gồm những lợi thế tiềm ẩn của các doanh nghiệp nhà nước đối với công tác đấu thầu cơ sở hạ tầng nước, vì họ tiếp cận những nhân vật ra quyết định tốt hơn, do đó cho phép họ có được các thông tin về các cơ hội kinh doanh trong tương lai sớm hơn, nhằm vượt qua được các rào cản quan liêu dễ dàng hơn , và gây ảnh hưởng đến quá trình quản lý một cách hiệu quả hơn. Một quan tâm khác liên quan đến thực tế là, tiền đồng Việt Nam vẫn chưa được chuyển đổi và quá trình nguồn vốn bên ngoài còn lâu và không chắc chắn. Ngoài ra, điều khoản trọng tài quốc tế thường không được chấp nhận trong hợp đồng với các cơ quan nhà nước. Và cuối cùng, khung pháp lý hiện tại không cho phép các công ty nước ngoài sử dụng tài sản dự án làm bảo đảm các khoản vay. Một báo cáo gần đây về ngành cấp nước và thoát nước tại Việt Nam cung cấp một tóm tắt về cách thức các quyết định về đầu tư được thực hiện ra sao (GWI, 2013). Nói chung, các bên tư nhân phải chủ động trong việc xác định các cơ hội và thực hiện các nghiên cứu sơ bộ để xác định phạm vi dự án. Thường thì, các công ty tư nhân biết các cơ hội tiềm năng thông qua các mối quan hệ được duy trì tốt với các nhân vật ra quyết định của chính phủ. Đối với các dự án ở hầu hết các thành phố trên khắp Việt Nam, những người ra quyết định quan trọng được bố trí tại chính quyền trung ương ở Hà Nội chứ không phải ở các cấp chính quyền địa phương. Thành phố Hồ Chí Minh là một ngoại lệ, vì tình trạng tự chủ đặc biệt cho phép thành phố trao trực tiếp các hợp đồng. Khi cơ hội đầu tư đã được xác định, công ty tư nhân phải trải qua một quá trình lâu dài xây dựng lòng tin với người đưa ra quyết định để có cơ hội ký kết hợp đồng. Đồng thời, các công ty tư nhân cần phải chấp nhận rủi ro để thực hiện các nghiên cứu khả thi. Nếu một bên tư nhân đề xuất một dự án với chính phủ, thì ngoài việc chứng minh sẽ đem lại lợi ích cho kinh tế địa phương và quốc gia như đóng góp thuế thu
- 9 nhập hoặc tạo ra công ăn việc làm, thông thường còn phải chứng minh rằng không có chi phí hoặc chỉ có chi phí tối thiểu đối với chính quyền địa phương. Trong các dự án có bên đề xuất là tư nhân, thì chính phủ có thể khuyến khích công ty này hợp tác với một công ty địa phương hoặc một doanh nghiệp thuộc nhà nước sở hữu, hoặc có thể cung cấp một danh sách các đối tác tiềm năng. Công ty tư nhân sẽ cần phải hợp tác với một trong các đối tác này để có được phê duyệt dự án. Báo cáo này, ở một khía cạnh nào đó, cho thấy hầu hết các cơ quan chính phủ ở Việt Nam không có khả năng và nguồn lực để tham gia vào việc hoạch định kinh doanh và đầu tư để xác định các dự án. 1.2. Điều kiện tự nhiên và xã hội của ngành nước Đôi khi mối quan hệ giữa tài nguyên nước và các dịch vụ cấp nước chưa được hiểu rõ. Vì lý do này, Tổ chức Hợp tác Nước Toàn cầu đã tập trung nhiều sự chú ý chiến lược của mình đối với sự phát triển các công cụ quản lý (Global Water Partnership, 2005) xung quanh khái niệm quản lý nước dựa trên lý luận về chu trình thủy văn. Việt Nam được xem là một quốc gia dồi dào nước theo tiêu chuẩn quốc tế vì nó có trên 10.000 m3 nước mỗi năm tính trên đầu người của các nguồn tài nguyên tái tạo. Tuy nhiên, việc phân phối tài nguyên nước thay đổi khá lớn trong năm vì phân bố lượng mưa không đều. Khoảng 70% lượng mưa hàng năm được tạo ra trong vòng chưa đầy bốn tháng, trong khi vào mùa khô thì dòng lưu lượng mưa chỉ ở mức từ 15- 30% của tổng lượng mưa hàng năm. Những thay đổi cực độ này kết hợp với lượng nước dự trữ và cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ còn bị hạn chế dẫn đến việc lũ lụt tàn phá trong mùa mưa và lượng mưa cực thấp trong mùa khô. (FAO, 2011). Sự dư thừa nước ở Thành phố Hồ Chí Minh thậm chí còn lớn hơn, do thành phố nằm ở những đoạn sông thấp hơn của các sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, với lượng nước hàng năm gần 20.000 m3 trên mỗi cư dân. Tuy nhiên, tính khả dụng về nước chưa tính đến sự biến thiên hàng năm khi có những sự kiện lớn, hoặc năng lực của cơ sở hạ tầng trong việc cấp nước đến người dân một cách bền vững và ở mức giá chấp nhận được. Trên thực tế, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một tình hình
- 10 nghiêm trọng về tài nguyên nước và các vấn đề về dịch vụ cấp nước, và nó cần được giải quyết bằng chính sách, thể chế và các khoản đầu tư trong những năm tới để giúp Thành phố Hồ Chí Minh trở thành động lực chính của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước. Các vấn đề về tài nguyên nước của Thành phố Hồ Chí Minh: - Nguy cơ từ các biến cố tự nhiên: Thành phố Hồ Chí Minh được xem là một trong mười thành phố hàng đầu dễ bị tổn thương trên thế giới vì các đợt lũ lụt. Lũ lụt xảy ra từ hỗn hợp các biến cố: mưa lớn trong thành phố, sông suối gây ra lũ từ thượng nguồn dòng chảy đến thành phố, và thủy triều từ biển và mực nước biển dâng cao. Điều này càng trầm trọng hơn do sự tác động của sự biến động và biến đổi khí hậu. - Sự ô nhiễm nước ngày càng cao: Việc xả thải không kiểm soát được nước ô nhiễm từ sinh hoạt và sản xuất đã dẫn đến hệ quả là sự suy giảm mạnh chất lượng nước của các sông, suối, hồ, kênh, hồ chứa, và các nguồn nước ngầm. Thêm vào đó còn có sự nhiễm mặn của các sông ngòi và nguồn dự trữ nước ngầm. - Sự cạn kiệt nhanh chóng nước ngầm: Việc sử dụng vượt quá giới hạn cho mục đích sinh hoạt và sản xuất công nghiệp đang làm cạn kiệt nhanh chóng các nguồn nước ngầm, giảm 2-3 mét mỗi năm. Điều này dẫn đến hệ quả là sụt lún đất và làm tăng độ mặn của nước ngầm. Các vấn đề về dịch vụ cấp nước của Thành phố Hồ Chí Minh: - An ninh nước không được đảm bảo: Trong khi ô nhiễm tại các nguồn nước truyền thống ngày càng gia tăng thì Thành phố Hồ Chí Minh lại thiếu dự trữ lượng nước thô đủ cho xử lý nước. Về lí thuyết, thành phố cần dành ra tối thiểu một lượng nước thô đạt chuẩn an toàn vệ sinh để dự phòng trường hợp chất lượng thấp ở mức thấp trong vài tuần liên tục. Các nhà hoạch định và các nhà kỹ thuật đã đưa ra kiến nghị đưa các cơ sở lấy nước lên thượng nguồn các hồ chứa trước năm 2025. - Hệ thống đường ống xuống cấp: Phần lớn mạng lưới cấp nước hiện có tuổi
- 11 đời trên 50 năm, ít được bảo dưỡng, và dường như có khiếm khuyết trong chất lượng thi công và sửa chữa. Ngoài ra, mạng lưới được vận hành thiếu sự khống chế đầy đủ với áp lực và lưu lượng, với mức áp lực cao tại các vị trí gần các cơ sở cấp nước và áp lực yếu tại các vị trí cuối mạng lưới. Điều kiện vật chất nghèo nàn và hầu như thiếu kiểm soát hoạt động mạng lưới có thể là lời giải thích chính cho tỷ lệ rò rỉ nước cao dẫn đến tỉ lệ nước không doanh thu trên 30%. Đó cũng có thể là nguyên nhân của ô nhiễm xâm nhập vào đường ống dẫn nước sạch. Ngoài ra, cấu trúc mạng ống truyền dẫn về cơ bản là dựa trên quy hoạch của Sài Gòn xưa, không tính đến sự phát triển sử dụng đất trong tương lai hiện đang diễn ra một cách gay gắt. - Nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất: Dù công suất xử lý nước đã được mở rộng đáng kể, nhưng một bộ phận không nhỏ dân cư và hoạt động sản xuất vẫn phụ thuộc vào việc tự cung cấp từ nguồn nước ngầm và đấu nối chung. Lượng nước ngầm bị khai thác ước tính lên đến hơn 500.000 m3/ngày ảnh hưởng đến tính bền vững của môi trường. Số hộ gia đình dùng chung đấu nối, ngay cả khi đã bao gồm các hộ chung cư, xét ra vẫn chưa đủ để giải thích cho số lượng đấu nối thấp so với số dân cư được cấp nước. Tình hình này có thể liên quan đến việc tiêu thụ nước của các cư dân không có hộ khẩu của thành phố. 1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngành nước Việt Nam có một khuôn khổ tương đối toàn diện các thể chế và các chính sách về quản lý nước, tưới tiêu và thoát nước, chẳng hạn như: Luật Nước năm 1998; Pháp lệnh số 32/2001/PL- UBTVQH10 về khai thác và bảo vệ các công trình thủy lợi; Nghị định số 31/2005/NĐ-CP về sản xuất và cung cấp các dịch vụ công cộng; Thông tư số 90/2004/ TTLT/BTC-BNN về hướng dẫn hoặc quản lý tài chính của các Doanh nghiệp Nhà nước trong việc khai thác các công trình thuỷ lực; và Nghị định số 43/2003/NĐ-CP về quy định cụ thể thi hành một số điều của Pháp lệnh số 32/2001/PL-UBTVQH10. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 đã đề xuất một số chiến lược và mục tiêu liên quan đến nước. Với sự phê duyệt vào năm 2005
- 12 cho Kế hoạch về Phát triển Tài nguyên Nước Quốc gia đến 2020, ngành nước có một kế hoạch hành động cơ bản ở cấp quốc gia và lưu vực sông trong khu vực. Luật Nước là một bước tiến quan trọng hướng tới quản lý thống nhất tài nguyên nước, nhưng thực tế chỉ đạt được tiến bộ một phần trong việc thực hiện các cải cách mà nó thể hiện. Các văn bản dưới luật cần thiết để thực hiện nhiều mục tiêu của luật vẫn chưa được triển khai. Luật được cơ bản xây dựng như là một khuôn khổ pháp lý linh hoạt và một số nghị định được bổ sung sau đó. Các nghị định này xác định vai trò, chức năng và trách nhiệm của các cơ quan tổ chức về thực hiện luật nước. Khung pháp lý được mô tả trong các thông tư về hướng dẫn, thủ tục cấp giấy phép khai thác và sử dụng nước mặt, và cấp giấy phép xả nước thải ra nguồn nước. Tuy nhiên, ngành nước vẫn còn thiếu một chiến lược thống nhất chung và kế hoạch hành động ở cấp quốc gia hoặc ở cấp lưu vực sông trong khu vực (FAO, 2011), nhưng các chiến lược và kế hoạch hành động hiện hữu đối với một số tiểu ngành sử dụng nước. Năm 2000, Hội đồng Tài nguyên Nước Quốc gia được thành lập để tham mưu và giúp chính phủ trong việc điều phối và lập kế hoạch. Năm 2002, trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước đã được giao cho Cơ quan Quản lý Tài nguyên Nước thuộc Bộ Môi trường. Đây là một sự thay đổi đáng kể nhằm tách biệt chức năng lập chính sách của chính phủ ra khỏi hoạt động trên thực tế của các dịch vụ nước, cũng như đối với quản lý tài nguyên nước và môi trường. Tính đến thời điểm này, cả công tác quản lý tài nguyên nước và các chức năng dịch vụ là trách nhiệm của Cơ quan Tài nguyên Nước và Quản lý Công trình Thủy lợi thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Từ năm 2002 đến nay, Bộ Tài nguyên Môi trường chịu trách nhiệm chung quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam, và cũng chịu trách nhiệm triển khai thực hiện Chiến lược Tài nguyên nước Quốc gia đến năm 2020. Sở Tài nguyên Môi trường là cơ quan cấp tỉnh trực thuộc Bộ chịu trách nhiệm về thực hiện chính sách nước ở cấp tỉnh. Hình 2.1 cho thấy các mối quan hệ chức năng của các cơ quan chính chịu trách nhiệm về tài nguyên nước ở cấp quốc gia và địa phương.
- 13 Hình 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngành nước của Việt Nam Có hai cơ quan thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đóng vai trò quan trọng đối với ngành nước. Một là Cơ quan Quản lý Tài nguyên Nước, quản lý tài nguyên nước ở cấp quốc gia, cũng như thực hiện Luật Tài nguyên Nước. Còn cơ quan còn lại là Tổng cục Môi trường Việt Nam, có trách nhiệm điều tra nghiên cứu và các nghiên cứu về kỹ thuật, đánh giá tác động môi trường. Cơ quan này cũng có trách nhiệm thực thi và tham mưu về luật môi trường và các công cụ điều tiết của nó. Các cơ quan thực hiện thể chế quan trọng khác về quản lý nước ở Việt Nam là Bộ Xây dựng, có trách nhiệm về cấp nước đô thị và dịch vụ nước thải và cơ sở hạ tầng thoát nước. Bộ Xây dựng triển khai các quy định và các ý kiến chỉ đạo về nhu cầu cơ sở hạ tầng, các mục tiêu về nước và nước thải và các công nghệ áp dụng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, phụ trách về tưới tiêu và thoát nước, lũ lụt, quản lý thiên tai và ngư nghiệp, cũng như về việc phối hợp cấp nước sạch nông thôn và vệ sinh môi trường. Bộ Kế hoạch Đầu tư có trách nhiệm lập kế hoạch đầu tư phát triển ngành nước, bao gồm các quy định liên quan đến điều kiện đầu tư, thủ tục , biện pháp khuyến khích và các phương thức đầu thầu. Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng kiểm soát
- 14 các dòng vốn từ các nguồn vốn quốc tế hướng đến ngành nước. Ủy ban Nhân dân ở các tỉnh là cơ quan thực hiện của chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm thực hiện chính sách. Ủy ban Nhân dân lập kế hoạch và đề xuất các dự án cấp nước sinh hoạt và sản xuất công nghiệp với chính quyền trung ương và ra các quyết định sau cùng về giá nước. Ủy ban Nhân dân có trách nhiệm thực hiện việc triển khai các dự án cấp nước đô thị và xử lý nước thải và về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Có những cơ quan và các hiệp hội khác cũng đóng một vai trò trong việc cung cấp các quy định và ý kiến chỉ đạo hỗ trợ về quản lý nước. Bộ Y tế chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn chất lượng nước cho nước uống. Bộ Tài chính phát triển các chính sách liên quan đến giá nước, phí nước thải và các loại thuế liên quan đến hoạt động của ngành. Hội đồng Tài nguyên Nước Quốc gia tham mưu cho chính phủ về các chiến lược và chính sách về nước. Hiệp hội Cấp Thoát Nước Việt Nam tập hợp các doanh nghiệp, các công ty tư nhân và các chuyên gia quan tâm đến hoạt động của các công ty nước. Chính quyền địa phương đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước, và trong cuộc sống hạnh phúc của người dân. Do vậy, các cấp quản lý địa phương là cánh tay nối dài của chính phủ quốc gia; ngân sách của các cấp này là một phần của ngân sách quốc gia để thực hiện các kế hoạch phát triển ở cấp địa phương được xác định là ở tầm cỡ quốc gia. Có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc dưới sự giám sát của quốc gia, trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh. Có sáu cấp thành phố xếp theo mức độ tăng dần về trách nhiệm, theo đó Thành phố Hồ Chí Minh được xếp đầu bảng phân loại đặc biệt cùng với Thủ đô Hà Nội, còn các cấp thành phố sau đó được chia từ cấp độ loại I cho đến loại V. Việc phân loại phụ thuộc vào các yếu tố định lượng, chẳng hạn như số lượng dân cư, cư dân đô thị, và mật độ dân, và các yếu tố định tính, chẳng hạn như tầm ảnh hưởng của thành phố xét từ quan điểm về kinh tế, giáo dục và văn hóa. Cách tổ chức các chính quyền địa phương chủ yếu dựa trên các hình mẫu quốc gia. Các sở ngành ở mỗi tỉnh tương đương với các bộ chính của Việt Nam về các lĩnh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn