Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình
lượt xem 14
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình trong pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam, xem xét đánh giá thực trạng bạo lực gia đình đối với trẻ em để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trước tình trạng bạo lực gia đình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HƢƠNG BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
- HÀ NỘI - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HƢƠNG BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Chuyên ngành : Luật Dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thanh Hƣơng
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRƢỚC HÀNH VI BẠO LỰC GIA ĐÌNH 6 1.1. Khái niệm chung về quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em 6 1.1.1. Khái niệm trẻ em, quyền trẻ em 6 1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền trẻ em 9 1.2. Khái niệm chung về bạo lực gia đình đối với trẻ em 10 1.2.1. Khái niệm hành vi bạo lực gia đình và bạo lực gia đình đối với trẻ em 10 1.2.2. Đặc điểm và các dạng hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em 12 1.2.3. Hậu quả hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em 15 1.2.4. Nguyên nhân hiện tượng trẻ em bị bạo lực trong gia đình 17 1.3. Sự cần thiết của luật Phòng chống bạo lực gia đình đối với việc bảo vệ quyền trẻ em trước hành vi bạo lực 20 Chƣơng 2. PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 23 2.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình 23 2.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc phòng chống bạo lực gia đình 27 2.2.1. Nghĩa vụ của người thực hiện hành vi bạo lực 27 2.2.2. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân là trẻ em 30 2.2.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, các cơ quan, tổ chức trong phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em 34
- 2.3. Các biện pháp cơ bản ngăn chặn, phòng ngừa, bảo vệ và hỗ trợ trẻ em trước hành vi bạo lực 41 2.3.1. Các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em 41 2.3.2. Các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ trẻ em là nạn nhân bạo lực gia đình 45 2.4. Các biện pháp xử lý người có hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em 54 2.4.1. Xử lý kỉ luật 54 2.4.2. Xử lý hành chính 55 2.4.3. Xử lý theo pháp luật dân sự 58 2.4.4. Xử lý theo pháp luật hình sự 59 Chƣơng 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ 61 3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình nhằm bảo vệ quyền trẻ em 61 3.2. Một số bất cập trong quá trình thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình 70 3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Phòng chống bạo lực gia đình nhằm bảo vệ quyền trẻ em 73 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
- Danh mục các chữ viết tắt 1. CRC Công ước về quyền trẻ em năm 1989 2. NĐ 167/2013/NĐ-CP Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình 3. NĐ 08/2009/NĐ-CP Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 4. NĐ 91/2011/NĐ-CP Nghị định số 91/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 5. TAND Toà án nhân dân 6. CSAGA Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên 7. UBND Uỷ ban nhân dân
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Vấn đề bạo lực gia đình, đặc biệt là hành vi bạo lực đối với trẻ em trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng và đã trở thành mối quan tâm lớn, không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Tại Việt Nam, tình hình trẻ em bị ngược đãi, xâm hại, bạo lực vẫn còn xảy ra, thậm chí ngay trong chính môi trường thân thiết nhất của các em là gia đình. Theo số liệu của Tổng Cục cảnh sát -Bộ Công an, từ năm 2002 đến nay số vụ xâm hại trẻ em, số đối tượng phạm tội và số trẻ em bị xâm hại có chiều hướng gia tăng. Thông tin từ đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em cũng cho biết, trong 3 năm (2006-2008) trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực trong gia đình tăng gấp 3 lần so với mười năm trước đó. Một kết quả thống kê khác cho thấy từ năm 2008 đến 2010, bình quân một năm cả nước có khoảng 3000-4000 vụ bạo lực trẻ em, một số vụ gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nhiều trẻ bị chính cha mẹ, người thân thực hiện hành vi xâm hại, bạo lực. Cụ thể trong năm 2008, số trẻ em bị xâm hại, bạo lực là 1.613 em; năm 2009 là 1.805 em. Trong năm 2010, theo báo cáo giám sát của Hội đồng nhân dân 46/63 tỉnh, thành phố, thì có 1.245 em bị bạo lực, xâm hại [44]. Trong thực tế, con số bạo hành trẻ em có lẽ còn cao hơn, nhưng vì nhiều lý do khách quan nên chưa được phơi bày trước công luận. Điều đó cho thấy sự gia tăng đến chóng mặt của hành vi bạo lực không chỉ là vấn đề của từng gia đình mà nó đã trở thành vấn nạn của toàn xã hội. Khi quyền trẻ em bị xâm phạm một cách nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển về tâm sinh lí, tình cảm và nhân cách của trẻ em, gây cho các em sự mặc cảm, thù hằn với xã hội. Nhiều nghiên cứu thực tế cho thấy bạo lực gia đình đã gây ra những hệ luỵ từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu như đứa trẻ chứng kiến bạo lực trong gia đình hay là nạn nhân của bạo lực gia đình, thì sau này khi trưởng 1
- thành có thể trở thành người gây ra bạo lực trong chính gia đình của mình. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình thông qua việc ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp liên quan như: Hiến pháp năm 2013; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Bộ luật Dân sự 2005; và đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007. Những văn bản này đã góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực về nhận thức trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta. Tuy nhiên, tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều thay đổi mà lại có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng của vụ việc. Bạo hành trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ thể chất của trẻ hoặc nguy hại hơn, khiến trẻ có thể bị nguy hiểm đến tính mạng, trẻ không thể phát triển về thể chất một cách bình thường. Ngoài ra, bạo lực gia đình đối với trẻ em không chỉ gây đau đớn thể xác mà còn để lại di chứng khá nặng nề và lâu dài về mặt tinh thần, tâm lý và sự phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình có thể có hành vi ứng xử lệch lạc như thiếu tự tin, rụt rè, lo sợ,… hoặc trở lên hung dữ, thường sử dụng bạo lực trong việc xử lý các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội, cả hiện tại và trong tương lai. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tìm ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng những quy định này trên thực tế; từ đó đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật với vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, nhằm bảo vệ quyền của trẻ trong gia đình trước các hành vi bạo lực là rất cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình” làm luận văn thạc sĩ của mình.
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 ra đời, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu tới vấn đề này thường chỉ dừng ở những nghiên cứu về mặt xã hội, những nghiên cứu về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thường chỉ được nhắc đến trong các nghiên cứu về hôn nhân gia đình. Từ khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời, những nghiên cứu pháp lý về vấn đề này đã xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí bởi tính thời sự cấp thiết của nó. Tuy nhiên, những nghiên cứu một cách hệ thống, có trọng tâm về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình chưa nhiều. Hiện tại có thể kể tới một số Luận văn thạc sĩ luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội:"Luật phòng chống bạo lực gia đình với việc hạn chế ly hôn do bạo lực gia đình" của tác giả Nguyễn Thị Lệ (Hà Nội, 2010); Khóa luận tốt nghiệp "Tìm hiểu hành vi bạo lực gia đình - nguyên nhân, giải pháp hạn chế" của tác giả Nguyễn Thị Bình (Hà Nội, 2010); Luận văn thạc sỹ luật học: “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của Đinh Thị Hồng Minh (Hà Nội, 2011). Những công trình này đã nghiên cứu một số khía cạnh cụ thể của việc phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu về vấn đề bảo vệ quyền trẻ em trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và đưa ra những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình trong pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam, xem xét đánh giá thực trạng bạo lực gia đình đối với trẻ em để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trước tình trạng bạo lực gia đình. Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
- - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em - Nghiên cứu những quy định của luật phòng chống bạo lực gia đình với vấn đề bảo vệ quyền trẻ em - Nghiên cứu tình hình thực tế áp dụng pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với việc bảo vệ quyền trẻ em như: bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em, vấn đề xử lý vi phạm quyền trẻ em, hiệu quả của việc áp dụng pháp luật phòng chống bạo lực gia đình nhằm bảo vệ quyền trẻ em trong thực tế. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bảo vệ quyền trẻ em trước hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em, chủ yếu quy định trong pháp luật phòng chống bạo lực gia đình. Luận văn làm rõ ảnh hưởng, tác động và hiệu quả của các quy định của pháp luật Phòng, chống bạo lực gia đình đối với việc bảo vệ quyền trẻ em trong thực tiễn đời sống. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người gây ra bạo lực là những người đã thành niên và có mối quan hệ thân thích trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Do đó, đề tài chỉ xem xét nạn nhân của bạo lực gia đình là trẻ em chứ không xem xét dưới góc độ trẻ em là người gây ra bạo lực cho các thành viên khác trong gia đình. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trên quan điểm tiếp cận hệ thống, toàn diện. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp; thống kê, so sánh; diễn dịch, quy nạp và các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn.
- 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền trẻ em trước hành vi bạo lực gia đình. Chương 2. Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình với việc bảo vệ quyền trẻ em. Chương 3. Thực trạng thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với việc bảo vệ quyền trẻ em và một số giải pháp, kiến nghị.
- Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRƢỚC HÀNH VI BẠO LỰC GIA ĐÌNH 1.1. Khái niệm chung về quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em 1.1.1. Khái niệm trẻ em, quyền trẻ em Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (Convention on the Rights of the Child) và 2 nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “Trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC. Việt Nam một trong những nước đầu tiên tham gia ký CRC (ngày 28-2- 1990). Quyền trẻ em được quy định trong Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác), và trong tất cả các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992, gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Quyền trẻ em được thể chế hoá trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Theo quy định tại Điều l, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những công dân dưới 16 tuổi. Khái niệm này phần nào có thể bao hàm được cả khái niệm trẻ em của Công ước và của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật quốc gia. Khái niệm “Quyền”, hiểu theo nghĩa tiếng Việt, là cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành…, khi
- thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Về khái niệm khoa học , “Quyề n” là nguyên tắ c đa ̣o đức xác đinh ̣ và thừa nhâ ̣n sự tự do hành đô ̣ng của con người trong mô ̣t xã hô ̣i nhấ t đinh ̣ . Khái niệm “Quyền” chỉ liên quan đến hành động – mà cụ thể là liên quan đến tự do hành động , nghĩa là thoát khỏi những cưỡng chế về mặt thể xác , thoát khỏi tình trạng bị ép buô ̣c hay bi ̣can thiê ̣p bởi những người khác . Đối với mỗi cá nhân , quyề n là sự thừa nhận về mặt đạo đức đối với một sự chọn lựa tích cực – đươ ̣c tự do hành động theo lý trí , vì các mục tiêu riêng , do sự lựa cho ̣n riêng tự nguyê ̣n, không bi ̣cưỡng ép . Đối với những người xung quanh , các quyền của cá nhân đó không áp đă ̣t nghiã vu ̣ nào lên những người xung quanh ngoa ̣i trừ mô ̣t quyề n phủ quyế t: họ không được vi phạm các quyền của cá nhân đó. Công ước về quyền trẻ em gồm 54 điều khoản trong đó nêu bật bốn nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em xuyên suốt toàn bộ Công ước, bao gồm: - Không phân biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện tất cả các quyền trẻ em. - Trẻ em có quyền xác lập, thể hiện ý kiến riêng của mình và quyền đó phải được tôn trọng. - Dành những lợi ích đẹp nhất cho trẻ em. - Những điều khoản trong Luật Quốc gia hoặc quốc tế có lợi hơn đối với trẻ em so với những điều khoản trong Công ước sẽ được áp dụng. Trên cơ sở những nguyên tắc trên, quyền trẻ em bao gồm 4 nhóm quyền: Nhóm quyền sống còn: Quyền sống còn là quyền cơ bản của mỗi cá nhân, tiền đề cho việc bảo vệ tất cả các quyền khác của con người. Bảo vệ quyền này của trẻ cần dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Các quyền này cần phải được thực hiện ngay không chậm trễ vì trẻ rất dễ bị tổn thương. Khi những nguy cơ đe doạ quyền sống còn của trẻ như: gây ra những tai nạn thương tích, những tổn thương do người lớn đem lại, thiếu sự chăm sóc yêu thương và hỗ trợ của gia đình, bị phân biệt đối xử. Những nguy cơ đe
- doạ tới sự sống còn của trẻ em là rất nhiều và có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào, cộng đồng và quốc gia nào, kể cả ngay tại gia đình. Tất cả chúng ta phải có trách nhiệm đảm bảo quyền được sống ở mức cao nhất có thể được. Nhóm quyền bảo vệ: Quyền được bảo vệ là bảo vệ trẻ em khỏi bị phân biệt đối xử, thoát khỏi sự bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng, xâm hại về thể xác và tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ, các em phải được bảo vệ trong tình trạng khẩn cấp, khủng hoảng. Nghiêm cấm lạm dụng trẻ em, bất kỳ một hành vi, hoặc yếu tố tình huống có chủ ý của cá nhân, tổ chức hay của cộng đồng như xâm phạm đến thể chất, tình cảm, nhân cách, lạm dụng tình dục, ngược đãi, xao nhãng, bỏ rơi, sử dụng quá mức sức lao động, hoặc khai thác thương mại, tước đoạt quyền và sự tự do của trẻ, gây nguy hại đến sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội của trẻ. Khi trẻ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng khẩn cấp như tình trạng rối loạn, thiếu hụt, mất thăng bằng nghiêm trọng do những yếu tố bên ngoài tác động có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội của trẻ em. Nhóm quyền phát triển: Bao gồm mọi hình thức giáo dục và quyền được có mức sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ. Quyền được chăm sóc sức khoẻ, được học tập và phát triển năng khiếu. Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch Nhóm quyền tham gia: Bao gồm quyền được bày tỏ ý kiến trong mọi vấn đề có liên quan tới bản thân, quyền được lắng nghe và được kết giao hội họp. Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã cụ thể hoá các nhóm quyền của trẻ em trong Công ước thành những quyền cụ thể sau: - Quyền được khai sinh và có quốc tịch - Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
- - Quyền sống chung với cha mẹ - Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự - Quyền được chăm sóc sức khoẻ - Quyền được học tập - Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch - Quyền được phát triển năng khiếu - Quyền có tài sản - Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội. Như vậy, quyền trẻ em chính là quyền của con người được cụ thể hoá cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống trẻ em. Đó là những đặc quyền tự nhiên của trẻ em được quy định trong pháp luật, đó là những quyền mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện. Quyền trẻ em chính là biện pháp nhằm bảo đảm cho trẻ em không những được hưởng các quyền mà còn trở thành chủ thể của chính các quyền đó. 1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền trẻ em Bảo vệ quyền trẻ em trước hết là tôn trọng, đảm bảo cho các quyền trẻ em được thực hiện trong thực tế một cách đầy đủ; tạo điều kiện, cơ chế và cách thức phù hợp để trẻ em thực hiện được các quyền của mình, đồng thời phòng ngừa không để trẻ em bị thiệt thòi, không bị xâm hại đến các quyền đã được pháp luật thừa nhận. Bảo vệ quyền trẻ em có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, nhưng biện pháp bảo vệ bằng pháp luật là biện pháp có hiệu quả nhất.
- Thứ hai, bảo vệ chăm sóc trẻ em còn là ngăn ngừa không để các em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt như: bị mồ côi cha mẹ, khuyết tật, bị xâm hại tình dục, trở thành tội phạm vị thành niên, nghiện ma tuý, tệ nạn xã hội… Thứ ba, cần phải có biện pháp xử lí các hành vi vi phạm quyền trẻ em. Có như vậy thì mới nâng cao được tính răn đe đối với những đối tượng có hành vi xâm phạm đến quyền của trẻ em. Tóm lại, bảo vệ quyền trẻ em bằng pháp luật là hệ thống các biện pháp, cách thức, cơ chế hoạt động được pháp luật quy định nhằm bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em được thực hiện, đồng thời bảo đảm có hiệu quả việc phòng ngừa, can thiệp, giải quyết tình trạng trẻ em bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. 1.2. Khái niệm chung về bạo lực gia đình đối với trẻ em 1.2.1. Khái niệm hành vi bạo lực gia đình và bạo lực gia đình đối với trẻ em Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ" [39]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau tuỳ theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em… Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Quý – Đặng Vũ Cảnh Linh, thì bạo lực gia đình là việc “các thành viên gia đình vận dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình” [34, tr. 27]. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình định nghĩa bạo lực gia đình là “hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1).
- Như vậy, theo quan điểm của Luật phòng, chống bạo lực gia đình thì chỉ những hành vi được thực hiện với lỗi cố ý mới là hành vi bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình - theo luật Phòng, chống bạo lực gia đình là một khái niệm khá rộng, bao gồm các loại hành vi khác nhau và nhằm vào những nạn nhân khác nhau trong một gia đình, gây ra những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế cho thành viên gia đình. Tuỳ theo quan điểm và phương pháp tiếp cận, hiện có nhiều cách phân loại các hình thức bạo lực gia đình, nhưng thường tập trung ở bốn dạng cơ bản: bạo lực thân thể (bạo lực thể chất); bạo lực về tinh thần, tình cảm; bạo lực về kinh tế và bạo lực tình dục. Bạo lực về thân thể (còn gọi là bạo lực về thể chất), gồm: xâm hại thân thể, đối xử tồi tệ về thể chất. Bạo lực về tinh thần và tình cảm: Là những hành vi nhằm hành hạ tâm lý bằng những lời đe doạ, sỉ nhục, chửi mắng, lăng mạ, hạ thấp nhân phẩm, bỏ rơi, lãng quên, không quan tâm… Hình thức bạo lực này gây hậu quả rất nghiêm trọng so với các dạng bạo lực khác nhưng khó phát hiện để can thiệp bằng luật pháp vì sự “vô hình” và thiếu chứng cứ. Bạo lực thể chất có thể dễ dàng nhận diện qua những thương tổn hiện trên thân thể, và cùng với thời gian vết thương ấy sẽ liền da, nhưng bạo lực tinh thần thì hậu quả của nó tiềm ẩn bên trong, kéo dài dai dẳng với nỗi đau giằng xé và hậu quả của nó thì không thể định lượng được, đó là vết thương lòng với những cảm xúc của sự vô vọng, không ai giúp đỡ. Bạo lực tình dục là hành vi quấy rối tình dục hoặc cưỡng ép quan hệ tình dục ngoài ý muốn của trẻ em. Bạo lực về kinh tế gồm: thâu tóm về tài sản, cô lập và kiểm soát tài chính của trẻ em. Tóm lại, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, bạo lực gia đình đối với trẻ em là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội một cách cố ý của một hoặc một số thành viên đã thành niên trong gia đình, gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với trẻ em, xâm phạm các quyền cơ bản của trẻ em.
- 1.2.2. Đặc điểm và các dạng hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em 1.2.2.1. Đặc điểm: Bạo lực gia đình để lại ký ức không dễ dàng xoá bỏ. Thực tế cho thấy, bạo lực gia đình có thể diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, có thể quyết liệt và tàn bạo tới mức gây án, giết người, nhưng cũng có thể không hề có máu chảy, đòn roi mà chỉ là nước mắt và sự chịu đựng âm thầm. Các dạng bạo lực trên có thể xảy ra đối với bất kỳ thành viên nào trong gia đình, trong đó có trẻ em. - Đặc điểm cơ bản nhất mà ta có thể nhận thấy ở những dạng hành vi này đó là chủ thể thực hiện hành vi bạo lực là những người trưởng thành trong gia đình, có mối quan hệ thân thiết và gần gũi đối với trẻ. Hơn nữa, trẻ em lại là đối tượng phụ thuộc vào người lớn trong gia đình nên nếu trở thành nạn nhân của bạo lực thì bên cạnh tổn thương về thể xác, trẻ em còn phải gánh chịu những tổn thương tinh thần không gì bù đắp nổi. Mặc dù vậy nhưng các em vẫn không thể tự bảo vệ mình trước những hành vi bạo lực vì các em không có nơi nào để đi và cũng không thể nào nuôi sống bản thân mình do vẫn bị phụ thuộc. - Hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em thường có tính chất lặp đi lặp lại, bao gồm các hình thức lạm dụng, bạo hành khác nhau. Nó thường là việc lặp đi lặp lại một phương thức bao gồm nhiều hành động như đe doạ, tước đoạt về kinh tế, cô lập, lạm dụng, bạo hành về tinh thần hay tình dục. Bởi lẽ trong gia đình, trẻ em luôn là đối tượng bị phụ thuộc vào người lớn, phải nghe lời người lớn, các em còn quá nhỏ để có thể tự vệ trong những trường hợp bị bạo hành mà chỉ có thể im lặng chịu đựng. Vô hình chung, sự nhẫn nhịn chịu đựng đó lại tạo điều kiện cho người thực hiện hành vi bạo lực tiếp tục lặp lại hành vi của mình. Những hành vi mà kẻ gây ra bạo lực sử dụng đã khiến trẻ em bị tổn thương cả về thể chất và tinh thần. Ngoài ra còn có các hành vi khác dẫn đến tổn thương về tâm lý của trẻ em. Mặc dù những hành vi này không để lại những thương tật trên cơ thể của trẻ nhưng nó vẫn để lại những tổn thương sâu sắc trong tâm hồn các em.
- - Đặc biệt, những hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em rất khó được phát hiện để can thiệp kịp thời. Bởi lẽ các em thường hoảng sợ, lo lắng và không dám chia sẻ các thông tin về tình trạng của mình do các em đều có quan hệ ràng buộc bằng các mối quan hệ gia đình như: quan hệ với cha, mẹ - con; ông bà – cháu; hay cô, dì, chú, bác – cháu… Thường thì chỉ những người thân trong gia đình mới có thể phát hiện kịp thời hành vi bạo lực gia đình. Chỉ khi sự việc đã xảy ra nghiêm trọng thì mới được phát hiện bởi hàng xóm láng giềng hay những cơ quan chức năng. Hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em thường bị chính người lớn trong gia đình dấu giếm, bao che, nên không ai có thể can thiệp, giúp đỡ. 1.2.2.2. Các dạng hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em Có thể phân biệt một số dạng hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em như sau: - Bạo lực thân thể: Là hành vi cố ý gây ra thương tích trên cơ thể trẻ em. Bao gồm các hành động như đánh đập, đối xử tàn tệ, tra tấn hoặc những hành vi có mục đích khác của một hoặc nhiều thành viên đã trưởng thành trong gia đình gây ra thương tật cho trẻ em. Dạng bạo lực này có thể bao gồm việc sử dụng hung khí như que, gậy, dao hoặc kéo… Các hành vi bạo lực về thân thể đã xâm phạm trực tiếp đến sức khoẻ của trẻ em, xâm phạm đến quyền được tôn trọng, được bảo vệ về thân thể, sức khoẻ, quyền sống còn của trẻ quy định tại Điều 6 CRC và Điều 14 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Bạo lực lao động hoặc kinh tế: là việc dùng sức mạnh để đe doạ, áp đặt hoặc lừa mị nhằm bóc lột lao động trẻ em, chiếm giữ và kiểm soát tài chính của một hoặc nhiều thành viên trưởng thành trong gia đình đối với trẻ em. Dạng bạo lực này đưa đến sự phân công lao động và hưởng thụ bất hợp lý giữa các thành viên trong gia đình. Bạo lực về lao động hoặc kinh tế đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền được bảo vệ, được chăm sóc sức khoẻ và
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn