intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

28
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: Phân tích và làm rõ những vần đề lý luận và thực tiễn về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM; phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM và thực tiễn áp dụng các quy định này; nêu bật những vướng mắc còn tồn tại từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG MINH THÙY HµNH VI X¢M PH¹M QUYÒN Së H÷U C¤NG NGHIÖP §èI VíI T£N TH¦¥NG M¹I THEO LUËT Së H÷U TRÝ TUÖ N¡M 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG MINH THÙY HµNH VI X¢M PH¹M QUYÒN Së H÷U C¤NG NGHIÖP §èI VíI T£N TH¦¥NG M¹I THEO LUËT Së H÷U TRÝ TUÖ N¡M 2005 Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Minh Thùy
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI VÀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI ....................................................................... 7 1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thƣơng mại........................................................................................ 7 1.1.1. Khái niệm tên thương mại ................................................................. 7 1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ....... 11 1.1.3. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ......... 14 1.2. Khái quát chung về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thƣơng mại ...................................................... 20 1.2.1. Khái niệm hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ........................................................................... 20 1.2.2. Các yếu tố tạo thành hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM ................................................................................................. 23 1.2.3. Quy định về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM trong pháp luật Việt Nam từ trước khi ban hành Luật SHTT 2005 ............. 26 1.2.4. Ý nghĩa của việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ................................................ 28
  5. Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 32 Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005 ...................................34 2.1. Các dạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thƣơng mại...................................................................................... 34 2.1.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ....................................................................................... 36 2.1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên thương mại ....... 40 2.2. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thƣơng mại ...................................................... 43 2.2.1. Căn cứ xác định TTM được bảo hộ ................................................. 44 2.2.2. Yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTM ........... 47 2.2.3. Chủ thể thực hiện hành vi ................................................................ 49 2.2.4. Địa điểm thực hiện hành vi .............................................................. 56 Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 59 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI ..................................................... 61 3.1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTM tại Việt Nam ......................................................................... 61 3.2. Nguyên nhân tồn tại hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTM ....................................................................... 72 3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTM ........................... 80 Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 87 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 89
  6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự năm 2005 BLHS: Bộ luật Hình sự năm 1999 BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 CTCP: Công ty cổ phần ĐKKD: Đăng ký kinh doanh ĐƯQT: Điều ước quốc tế KDCN: Kiểu dáng công nghiệp KH&CN: Khoa học và Công nghệ SHCN: Sở hữu công nghiệp SHTT: Sở hữu trí tuệ TNHH: Trách nhiệm hữu hạn TTM: Tên thương mại UBND: Ủy ban nhân dân WIPO: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WTO: Tổ chức thương mại thế giới
  7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Số liệu về tình trạng xâm phạm quyền SHCN từ năm 2006 đến năm 2012 68
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là cạnh tranh, việc thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh không còn là nhiệm vụ của Nhà nước – với tư cách là chủ thể quản lý mà còn là nhiệm vụ của chính các doanh nghiệp – với tư cách là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế đó. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ấy, để trụ vững và quan trọng hơn là phát triển, các chủ thể kinh doanh buộc phải khẳng định được uy tín, vị thế của mình trên thị trường thông qua vô vàn cách thức, trong đó, tiên quyết nhất là cách thức cá thể hóa hoạt động kinh doanh của mình và một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu nhất phục vụ cho việc cá thể hóa hoạt động kinh doanh của các chủ thể được pháp luật quy định chính là tên thương mại. Có thể khẳng định: tên thương mại là dấu hiệu đầu tiên để phân biệt giữa chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập, hoạt động kinh doanh của các chủ thể không còn bó hẹp trong phạm vi một khu vực, giới hạn trong phạm vi một lĩnh vực nhất định mà mở rộng ra phạm vi liên khu vực và đa lĩnh vực kinh doanh. Điều đó đặt ra nhiều đòi hỏi, thách thức cho doanh nghiệp, không chỉ là nỗ lực trong sự vận động tự thân của chính doanh nghiệp mà còn trong việc đối phó, ngăn chặn những hành vi trục lợi thông qua việc sử dụng tên tuổi của doanh nghiệp từ các đối thủ cạnh tranh, thậm chí là từ chính bạn hàng của doanh nghiệp. Tình trạng doanh nghiệp bị “nhái”, bị “bắt chước” tên gọi, bị lợi dụng danh tiếng, uy tín, thương hiệu thông qua việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại, trong đó, điển hình là sử dụng tên thương mại gây nhầm lẫn nhằm mục 1
  9. đích trục lợi đã không còn xa lạ đối với các doanh nghiệp chân chính, thậm chí là đối với cả người tiêu dùng. Những vụ việc nổi cộm về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại như: vụ việc Công ty TNHH Sản xuất kinh doanh nước mắm Hưng Thịnh bị Cơ sở nước mắm Hưng Thịnh xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại Hưng Thịnh diễn ra vào khoảng cuối năm 2007; vụ việc CTCP Nhựa Bình Minh bị Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ và Sản xuất nhựa Ống Bình Minh (cùng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh) xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại và nhãn hiệu “Bình Minh” diễn ra vào đầu năm 2008; vụ tranh chấp TTM “Winco” và “Winlaw” giữa Công ty TNHH SHTT Winco và Công ty Luật TNHH Winlaw diễn ra vào cuối năm 2008; vụ việc CTCP Vincom và CTCP Đầu tư Tài Chính Bất động sản Vincon tranh chấp TTM “Vincom” và “Vincon” diễn ra vào cuối năm 2010..... Trên đây chỉ là những vụ việc nổi cộm được phơi bày trước công chúng mà trong thực tế, còn rất nhiều hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại được biến tướng dưới nhiều hình thức phức tạp khác mà doanh nghiệp không thể lường trước hết được. Điều này cho thấy vấn nạn đáng báo động và phải loại bỏ trong nền kinh tế thị trường mà các doanh nghiệp chân chính muốn tồn tại, đứng vững và phát triển; Nhà nước, muốn tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh thu hút sự đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước thì buộc phải đẩy mạnh việc thực thi pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với tên thương mại, như nhiệm vụ mà Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, đó là: “đẩy mạnh thực thi pháp luật bảo vệ sở hữu trí tuệ, tạo môi trương thuận lợi cho sáng tạo các giá trị tinh thần xã hội”. 2
  10. Không thể phủ nhận sự ra đời của đạo luật độc lập về sở hữu trí tuệ – Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010), trong đó quy định chế độ pháp lý đối với các đối tượng của quyền SHTT, trong đó có tên thương mại – là một trong những bước đột phá trong việc tạo ra công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong việc xưng danh trong hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hệ thống pháp luật thực thi quyền SHTT nói chung và thực thi quyền SHCN đối với tên thương mại nói riêng, dường như còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế. Cùng với sự bất cập trong nội tại pháp luật SHTT điều chỉnh tên thương mại là sự nhập nhằng, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật khác cùng điều chỉnh chế độ pháp lý đối với việc xưng danh trong quá trình hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh mà điển hình là: Luật Cạnh tranh (được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2005) và Luật Doanh nghiệp (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006). Sự chồng chéo không chỉ trong hệ thống văn bản pháp luật mà còn tồn tại trong cách thức quản lý, cách thức phân cấp, phân ngành quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với tên của chủ thể kinh doanh. Chính những bất cập đó đã phần nào tạo ra rào cản trong việc bảo vệ quyền SHCN đối với tên thương mại của các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại – một trong những nội dung quan trọng của việc thực thi quyền SHCN đối với tên thương mại; một trong những căn cứ quan trọng để áp dụng các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại một cách phù hợp, để áp dụng các biện pháp khắc phục thiệt hại về vật chất cũng như tổn hại về uy tín do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại gây ra cho chủ thể quyền một cách kịp thời. 3
  11. Nhận thức được tính cấp thiết từ thực tiễn xâm phạm cũng như tầm quan trọng của việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại trong việc thực thi quyền SHCN đối với tên thương mại cùng với đòi hỏi đặt ra là: phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với tên thương mại nói riêng, tác giả quyết định chọn đề tài: “Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005” để nghiên cứu. 2. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn  Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: - Phân tích và làm rõ những vần đề lý luận và thực tiễn về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM; - Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM và thực tiễn áp dụng các quy định này; - Nêu bật những vướng mắc còn tồn tại từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM  Nhiệm vụ: - Tìm hiểu một cách khái quát về tên thương mại và quyền SHCN đối với tên thương mại; - Tìm hiểu về các loại hành vi và cách thức xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại; - Liên hệ đối chiếu giữa Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và một số văn bản luật khác cùng điều chỉnh tên của chủ thể trong hoạt động kinh doanh; - Từ thực tiễn áp dụng luật, tìm ra những điểm còn hạn chế, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại, góp phần giải quyết tốt tình trạng xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại trên thực tế. 4
  12. 3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu Bằng các phương pháp nghiên cứu gồm phương pháp thu thập thông tin, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá, luận văn tập trung nghiên cứu về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại ở Việt Nam đặt trong tương quan các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, đồng thời, có sự liên hệ, đối chiếu với quy định của một số ngành luật khác cùng điều chỉnh về hành vi xâm phạm đối với tên của chủ thể kinh doanh, bên cạnh đó, có sự so sánh với quy định tương tự trong pháp luật của một số quốc gia và một số Điều ước Quốc tế trong lĩnh vực này. Ngoài ra, luận văn cũng đề cập đến thực trạng xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại ở nước ta hiện nay để thấy được mặt tích cực cũng như phát hiện mặt hạn chế còn tồn tại. Thông qua đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại trong thời gian tới. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Vấn đề thực thi quyền SHTT, nhìn chung, là một vấn đề tương đối mới mẻ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, do đó, SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng hiện nay dành được rất nhiều sự quân tâm của nhiều nhà nghiên cứu và các chuyên gia. Vấn đề thực thi quyền SHCN đối với tên thương mại được nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, và được thể hiện dưới các hình thức như các bài báo, tạp chí, sách, công trình nghiên cứu khoa học, luận văn… Tuy nhiên, số lượng các bài nghiên cứu về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại một cách chuyên sâu và toàn diện thì chưa có, các tác phẩm hiện nay chủ yếu tập trung vào vấn đề xác lập quyền, vấn đề về bảo hộ quyền; hành vi xâm phạm quyền được đề cập đến dưới hình thức các tình huống, các vụ án thực tế mà không được phân tích, bình luận chuyên sâu, dưới góc độ khoa học; hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với 5
  13. tên thương mại nếu được phân tích thì chỉ dừng lại ở mức đối chiếu với văn bản pháp luật. Chính vì thế, đề tài này hoàn toàn bảo đảm về tính mới và là đề tài nghiên cứu đầu tiên ở cấp luận văn thạc sỹ. Với đề tài “Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005”, tác giả hy vọng đây sẽ trở thành một tài liệu tham khảo có giá trị, một tài liệu nghiên cứu hữu ích và toàn diện về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại trong hệ thống thực thi quyền SHTT theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. 5. Bố cục của Luận văn Luận văn được chia làm 3 phần với nội dung gồm 3 chương, cụ thể như sau: Mở đầu Nội dung Chương 1: Khái quát chung về Quyền sở hữu công nghiệp đối với Tên thương mại và hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp đối với Tên thương mại. Chương 2: Những quy định về hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp đối với Tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Chương 3: Thực trạng xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp đối với Tên thương mại tại Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp đối với Tên thương mại. Kết luận 6
  14. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI VÀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI 1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm tên thương mại So với các đối tượng SHTT truyền thống khác như Nhãn hiệu, Sáng chế, KDCN, chỉ dẫn địa lý... thì TTM là đối tượng SHTT tương đối mới. Mặc dù ra đời sau, nhưng vai trò của việc bảo hộ quyền SHCN đối với TTM cũng quan trọng không kém so với các đối tượng SHTT khác, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thương trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên ngày càng khốc liệt. Để bảo vệ sự trong sáng trong hoạt động kinh doanh, đồng thời, tạo ra sự lành mạnh trong môi trường kinh doanh – nơi mà mình là chủ thể chính, chủ sở hữu TTM buộc phải nắm vững các vấn đề pháp lý liên quan đến TTM và biết được các đặc quyền mà pháp luật dành cho. Để có cái nhìn tổng quan hơn về khái niệm TTM theo quy định của pháp luật Việt Nam, trước tiên, cần điểm qua một số khải niệm TTM theo quy định pháp luật của một số nước trên thế giới, như sau: - Pháp luật của Philippines: “TTM là tên để xác định hoặc phân biệt một doanh nghiệp” [34, Đ 121.3]. Theo quy định này, TTM là tên của doanh nghiệp được sử dụng nhằm xác định và phân biệt doanh nghiệp mang TTM đó với các doanh nghiệp khác. Việc quy định chung chung này dường như cho phép chủ việc xác định khả năng phân biệt TTM của doanh nghiệp trong phạm vi quốc gia không giới hạn khu vực địa lý, ngành nghề 7
  15. kinh doanh miễn sao cái tên đó phải bảo đảm yếu tố đặc định chủ thể có hoạt động kinh doanh và phân biệt chủ thể kinh doanh đó trong môi trường kinh doanh, thị trường tiêu dùng. - Thỏa ước Trung Mỹ: TTM là tên để xác định một doanh nghiệp/ tổ chức thương mại cụ thể, một doanh nghiệp/ tổ chức công nghiệp ngay cả khi nó là tham gia vào các hoạt động liên quan đến nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, săn bắn, câu cá, xây dựng, giao thông vận tải hoặc trong bất kỳ hoạt động tương tự khác [35, Đ 47]. Tương tự quy định của pháp luật Philippines, theo Thỏa ước Trung Mỹ, TTM là một cái tên để xác định cụ thể doanh nghiệp, tổ chức. Tuy nhiên, khác với các quy định trên, Thỏa ước Trung Mỹ quy định về phạm vi/ lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức bao gồm thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi, khoáng sản.... và mọi hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức mang TTM đó chứ không chỉ giới hạn trong hoạt động kinh doanh. Qua một số quy định trên, có thể thấy, nhìn chung, theo các ĐƯQT và luật pháp của một số quốc gia, khái niệm TTM đều thể hiện một số nội dung cơ bản sau: - TTM là một tên gọi của một doanh nghiệp (việc xác định thế nào là doanh nghiệp phụ thuộc vào pháp luật của từng quốc gia – tuy nhiên, doanh nghiệp là một thực thể được hình thành và hoạt động trên cơ sở các quy định của pháp luật và không phải là con người – thực thể tự nhiên) - TTM là tên gọi của doanh nghiệp nhưng không phải là tên doanh nghiệp – yếu tố/ nội dung bắt buộc phải đăng ký trong các văn bản, tài liệu, hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. - TTM được doanh nghiệp sử dụng trong các hoạt động kinh doanh 8
  16. nhằm mục đích sinh lợi. Trong đó, hoạt động của doanh nghiệp đa dạng, phụ thuộc vào pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp do pháp luật quốc nội quy định, bao gồm nhưng không giới hạn bởi: hoạt động kinh doanh, thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, săn bắn, câu cá, xây dựng, giao thông vận tải. - TTM có tác dụng để xác định một chủ thể kinh doanh cụ thể và để phân biệt doanh nghiệp mang TTM đó với các chủ thể kinh doanh khác trong một phạm vi hoạt động nhất định. Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp để phát huy chức năng phân biệt của TTM rộng hay hẹp phụ thuộc hoàn toàn vào pháp luật của từng quốc gia (ở phạm vi rộng, đó có thể là trên toàn quốc, hẹp hơn có thể giới hạn trong một phạm vi lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, khu vực kinh doanh… cụ thể) Theo các đặc điểm nêu trên, có thể tạm khái quát định nghĩa TTM như sau: TTM là tên gọi của chủ thể có hoạt động kinh doanh nhằm cá biệt hóa hoạt động kinh doanh của chủ thể đó và phân biệt chủ thể mang TTM đó với các chủ thể kinh doanh khác trong một phạm vi kinh doanh nhất định. Trong pháp luật Việt Nam, TTM lần đầu tiên được nhắc đến/ đề cập đến tại Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ thông qua quy định về nhãn hiệu hàng hóa, tuy nhiên, phải đến khi Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ra đời vào ngày 10/3/2000 thì khái niệm về TTM mới được phác họa sơ lược trong pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Đến nay, khái niệm TTM được củng cố và hoàn thiện hơn trong Luật SHTT, như sau: “TTM là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh” [27, Đ 4.21]. Theo quy định này, TTM có các đặc điểm chính sau: - Là tên gọi của tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh. Trong 9
  17. đó, hoạt động kinh doanh được hiểu là hành vi của tổ chức, cá nhân thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động kinh doanh phải được thực hiện theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. - Mục đích của TTM được đặt ra là nhằm phân biệt chủ thể mang TTM đó với một chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Trong đó, lĩnh vực kinh doanh được hiểu là toàn thể nội dung ngành, nghề kinh doanh mà một doanh nghiệp tiến hành đầu tư, hoạt động theo quy định của pháp luật và thường được thể hiện trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, đăng ký mã số thuế, điều lệ công ty đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý khác. Còn khu vực kinh doanh được hiểu là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng, thường được thể hiện trong các giao dịch, hợp đồng với bạn hàng, khách hàng, đối tác, trong đó thể hiện rõ địa chỉ của bạn hàng, khách hàng, đối tác mà chủ thể kinh doanh xác lập, thực hiện giao dịch kinh doanh cùng; phạm vi biết đến danh tiếng của người tiêu dùng; địa điểm đặt các biển quảng cáo, địa điểm tổ chức các sự kiện quảng cáo, tiếp thị về sản phẩm, dịch vụ của chủ thể kinh doanh… - Cấu tạo của TTM: Mặc dù không có quy định cụ thể về cấu tạo của TTM, tuy nhiên, để trở thành TTM, thực hiện đúng chức năng của mình, TTM phải hội tụ đủ 2 thành phần: một là thành phần chung (có thể là yếu tố chỉ loại hình doanh nghiệp như CTCP, Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân, Ngân hàng TMCP...; hoặc có thể là lĩnh vực kinh doanh như bánh kẹo, 10
  18. thuốc lá, bóng đèn phích nước, luật sư....) và hai là thành phần tên riêng – đây chính là yếu tố quyết định đến tính hợp lệ, hợp pháp của một TTM, quyết định đến khả năng được bảo hộ với tư cách là một đối tượng sở hữu công nghiệp bởi thành phần tên riêng đó phải chứa đựng được yếu tố để phân biệt giữa tên đó và tên của các chủ thể kinh doanh khác trong khuôn khổ yêu cầu của pháp luật Ví dụ: CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ là một tên thương mại với đầy đủ các thành phần, trong đó CÔNG TY CỔ PHẦN là yếu tố chỉ loại hình doanh nghiệp, BÁNH KẸO là yếu tố chỉ lĩnh vực kinh doanh và HẢI HÀ là yếu tố tên riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, ví dụ CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU. Như vậy, về cơ bản, khái niệm TTM theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng tương thích với khái niệm về TTM của các quốc gia trên thế giới và các ĐƯQT. 1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại Quyền SHCN là một bộ phận của quyền SHTT. Đây là phạm trù pháp lý còn khá mới mẻ so với các phạm trù pháp lý truyền thống khác và nó chỉ chính thức xuất hiện khoảng vài thế kỷ trở lại đây. Quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng được thừa nhận nhằm bảo hộ các thành quả sáng tạo trí tuệ của con người. Với việc nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, quyền SHCN trở thành một loại quyền tài sản có giá trị lớn đối với chủ sở hữu – những người đã sáng tạo ra hoặc đầu tư. Để bảo hộ quyền SHCN, mỗi quốc gia có một hệ thống bảo hộ riêng, phù hợp với đặc thù về kinh tế, chính trị và xã hội của mình. Dưới giác độ pháp lý, thuật ngữ “quyền sở hữu công nghiệp” được hiểu theo hai nghĩa: - Theo nghĩa khách quan, quyền SHCN là một chế định pháp luật bao 11
  19. gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo dựng, sử dụng và định đoạt các đối tượng SHCN được Nhà nước bảo hộ. - Theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN là các quyền dân sự cụ thể của các chủ sở hữu trong việc tạo dựng, sử dụng và định đoạt các đối tượng SHCN. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì quyền SHCN là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, TTM, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh” [27, Đ 4.4] Quy định trên khẳng định lại một lần nữa, TTM là một đối tượng của quyền SHCN được hưởng sự bảo hộ của pháp luật SHCN. Qua đó, có thể hiểu theo nghĩa hẹp nhất, quyền SHCN đối với TTM là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với TTM do mình sở hữu. Quyền SHCN đối với TTM được xác lập thông qua cơ chế bảo hộ tự động, thể hiện bởi hành vi sử dụng TTM của chủ sở hữu trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình. Để nhận được sự bảo hộ đối với TTM của mình, cá nhân, tổ chức sở hữu TTM phải xác lập quyền đối với TTM theo quy định của pháp luật. Pháp luật SHTT Việt Nam quy định căn cứ xác lập quyền SHCN đối với TTM theo nguyên tắc bảo hộ tự động thông qua việc sử dụng hợp pháp TTM của chủ sở hữu trên thực tế mà không phải thông qua bất kỳ thủ tục hành chính nào và bởi bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Tuy vậy, điều đó không đồng nghĩa với việc quyền SHCN đối với TTM được xác lập một cách tùy tiện và không theo một khuôn khổ pháp lý nào. Ngược lại, để được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước, chủ sở hữu TTM phải sử dụng TTM một cách hợp pháp toàn diện. Tính toàn diện trong việc sử dụng TTM của chủ sở hữu không chỉ dừng lại trong phạm vi pháp luật SHTT – nghĩa là chủ thể kinh doanh phải lựa chọn một cái tên đáp ứng đầy đủ điều kiện để trở thành TTM – có yếu tố phân biệt giữa chủ thể 12
  20. mang TTM đó với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Tính toàn diện của việc sử dụng hợp pháp đó còn nằm trong hoạt động kinh doanh của chủ thể - bị chi phối bởi các quy định của pháp luật về dân sự (chẳng hạn: liên quan đến chế định về chủ thể kinh doanh, chế định đại diện của pháp nhân, liên quan đến việc thực hiện các giao dịch, hợp đồng mang tính nguyên tắc...), pháp luật về doanh nghiệp (ví dụ: liên quan đến loại hình hoạt động của doanh nghiệp, đến cơ cấu, tổ chức tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp, liên quan đến việc xác lập và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp...), pháp luật về kinh doanh – thương mại (liên quan đến các loại hình hoạt động thương mại của chủ thể...) và các pháp luật chuyên ngành khác liên quan đến lĩnh vực kinh doanh mà chủ thể kinh doanh đó lựa chọn/ đăng ký hoạt động (luật đất đai, luật kinh doanh bất động sản, luật các tổ chức tín dụng, luật đầu tư, luật chứng khoán...). Theo đó, một chủ thể sử dụng một cái tên trong hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động kinh doanh này là bất hợp pháp thì tính toàn diện của việc sử dụng tên của chủ thể đó không được bảo toàn và có khả năng cái tên đó sẽ không được hưởng sự bảo hộ với tư cách là đối tượng của quyền SHTT. Như vậy, việc sử dụng TTM của chủ sở hữu phải đảm bảo tuân thủ toàn diện các quy định pháp luật, không chỉ riêng pháp luật về SHTT mà còn cả pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của chủ thể. Chỉ khi hoạt động kinh doanh của chủ thể là hợp pháp, chủ thể mang TTM mới được Nhà nước công nhận là chủ sở hữu TTM và theo sau đó, chủ sở hữu sẽ có được sự bảo hộ của Nhà nước đối với TTM đó ngay từ hành vi sử dụng TTM hợp pháp đầu tiên trong phạm vi khu vực kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh nhất định. Với việc sử dụng TTM trên thực tế, cá nhân, tổ chức mang TTM được xác định là chủ sở hữu TTM và được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước như sau: - Được quyền sử dụng độc quyền TTM trong mọi hoạt động kinh doanh của mình; 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2