BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

............…/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHAN HOÀI VŨ

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính

Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐỖ THỊ KIM TIÊN

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn: “Phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa

bàn huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi.

Các số liệu, thống kê và kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận

văn là trung thực và có nguồn gốc cụ thể, rõ ràng và chưa từng được công bố

trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.

Thừa Thiên Huế, ngày … tháng … năm 2017

Học viên

Phan Hoài Vũ

Lời Câm Ơn

Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.

Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên TS. Đỗ Thị Kim Tiên đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, cô luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.

Trån trọng!

Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017

Học viên

Phan Hoài Vũ

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TẠI ĐỊA PHƢƠNG......................................................................................... 9

1.1. Khái quát chung về phố biến, giáo dục pháp luật tại địa phương .......... 9

1.1.1. Quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương........... 9

1.1.2. Đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương......... 14

1.1.3 Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương .............. 18

1.2. Nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật tại địa phương ........ 22

1.2.1. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật ......................................... 22

1.2.2. Hình thức của phổ biến, giáo dục pháp luật ................................. 23

1.3. Yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương ..... 26

1.3.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước ở Trung

ương và chính quyền địa phương đối với việc phổ biến, giáo dục pháp

luật ........................................................................................................... 26

1.3.2. Xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp

luật ........................................................................................................... 27

1.3.3. Nội dung phổ biến, giáo dục phải chính xác, đầy đủ, dễ hiểu, thiết

thực .......................................................................................................... 27

1.3.4. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải kịp thời, thường

xuyên, có trọng tâm, trọng điểm ............................................................. 28

1.3.5. Phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phải đa

dạng, phù hợp với từng đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật .. 28

1.3.6. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với các hình thức hướng dẫn

áp dụng pháp luật khác ........................................................................... 30

1.4. Các yếu tố chi phối phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương ........ 30

1.4.1. Các yếu tố chủ quan ...................................................................... 32

1.4.2. Các yếu tố khách quan .................................................................. 37

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 39

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY HOÀ, TỈNH PHÚ YÊN ......................... 41

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội của huyện Tây

Hoà, tỉnh Phú Yên ....................................................................................... 41

2.1.1. Điều kiện tự nhiên ......................................................................... 41

2.1.2. Điều kiện kinh tế ........................................................................... 43

2.1.3. Đặc điểm chính trị – xã hội ........................................................... 44

2.2. Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật của huyện Tây Hoà, tỉnh Phú

Yên giai đoạn 2011-2016 ............................................................................ 46

2.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tuyên truyền miệng ....... 46

2.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua thi tìm hiểu pháp luật .. 48

2.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin

đại chúng ................................................................................................. 49

2.2.4. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ

sở ............................................................................................................. 51

2.2.5. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua biên soạn, phát hành tài liệu

pháp luật .................................................................................................. 53

2.2.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua thông qua tủ sách pháp

luật ........................................................................................................... 54

2.2.7. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp ........ 55

2.2.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường ........................... 58

2.2.9. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hưởng ứng Ngày Pháp

luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ..................................... 58

2.2.10. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hình thức khác ...... 56

2.3. Đánh giá phổ biến, giáo dục pháp luật của huyện Tây Hoà ................ 56

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ..................................... 60

2.3.1.1. Những kết quả đạt được ............................................................. 60

2.3.1.2.Nguyên nhân ................................................................................ 62

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 65

2.3.2.1. Hạn chế ...................................................................................... 65

2.3.2.2.. Nguyên nhân của hạn chế ......................................................... 66

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 73

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

TÂY HOÀ, TỈNH PHÚ YÊN ....................................................................... 74

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa

bàn huyện Tây Hoà ..................................................................................... 74

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên ........................................................ 79

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chỉ đạo của chính

quyền địa phương đối với phổ biến, giáo dục pháp luật ........................ 79

3.2.2. Tăng cường sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan,

đơn vị, ban, ngành, đoàn thể, địa phương đối với phổ biến, giáo dục

pháp luật .................................................................................................. 81

3.2.3. Chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật ........................................................................................................... 81

3.2.4. Nâng cao ý thức trách nhiệm, sự hăng hái, nhiệt tình của đối

tượng trong quá trình tham gia hoạt động .............................................. 82

3.2.5. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức phổ biến,

giáo dục pháp luật theo hướng đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có trọng tâm,

trọng điểm phù hợp với nhu cầu của đối tượng ...................................... 83

3.2.6. Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm

triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ................................... 87

3.2.7. Đẩy mạnh xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật có sự quản lý

của chính quyền địa phương ................................................................... 89

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 91

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung,

do Nhà nước ban hành làm công cụ để quản lý kinh tế, xã hội. Trong cơ chế

điều chỉnh pháp luật, thực hiện pháp luật là giai đoạn quan trọng, không thể

thiếu ngay sau giai đoạn xây dựng pháp luật. Pháp luật chỉ có thể phát huy

được vai trò và những giá trị trong điều chỉnh quan hệ xã hội, duy trì trật tự,

tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng thực hiện. Trong một

nhà nước, hiệu quả quản lý xã hội chịu ảnh hưởng bởi hệ thống luật pháp. Tuy

nhiên, vấn đề không phải là ban hành hệ thống pháp luật nhiều hay ít mà là

chúng được thực hiện nghiêm minh như thế nào trong thực tế. Tại Việt Nam,

Nhà nước đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu

sắc trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, Việt Nam đang nỗ lực

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân. Do đó, pháp luật cần phải giữ vị trí thượng tôn, mọi công dân

phải sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Quá trình xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bên cạnh việc ban hành hệ thống pháp luật

đầy đủ, đồng bộ, pháp luật cần phải được triển khai, đi vào đời sống. Pháp

luật phải được các chủ thể xã hội hiểu và vận dụng đúng với tinh thần và mục

tiêu của Nhà nước. Để mọi thành viên trong xã hội hiểu được những nguyên

tắc, quy định pháp luật, từ đó sử dụng pháp luật như một công cụ để bảo vệ

lợi ích của Nhà nước, tập thể, cộng đồng và của mỗi người dân, cần phải có

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.

Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật, đây là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp

luật, là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống. Thực hiện pháp luật dù

bằng hình thức nào, tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật

1

hay áp dụng áp luật thì trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Đối tượng

thực hiện pháp luật rất đa dạng, từ cán bộ, công chức, đến các doanh nghiệp,

hộ kinh doanh và người dân. Vì vậy, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật cho các tầng lớp nhân dân nhằm trang bị cho họ những kiến thức,

hiểu biết nhất định về pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới

hiện nay là đòi hỏi tất yếu.

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tại các địa phương thường bao

gồm nhiều nội dung và do nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện. Tỉnh Phú Yên nói

chung và huyện Tây Hòa nói riêng được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy

Đảng, chính quyền cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị -

xã hội và nhân dân, việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

được triển khai mạnh mẽ, nội dung phù hợp với từng đối tượng với hình thức

đa dạng, phong phú. Công tác tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho các

tầng lớp nhân dân thời gian qua được các cơ quan quản lý nhà nước và tổ

chức đoàn thể triển khai khá tích cực và đạt được những kết quả nhất định,

từng bước làm chuyển biến nhận thức về pháp luật trong nhân dân.

Mặc dù vậy, thực tế cũng cho thấy, trên địa bàn huyện Tây Hòa, tỉnh

Phú Yên thời gian qua cũng phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật, gây

mất trật tự an toàn xã hội. Tình trạng người dân thiếu hiểu biết pháp luật và

kiến thức xã hội, cùng với khả năng tiếp nhận thông tin nhanh nhưng ít chọn

lọc đã dẫn đến không ít người bị lôi kéo, lợi dụng. Bên cạnh đó, tình trạng

khó khăn trong cuộc sống như thất nghiệp, chưa có việc làm của bộ phận dân

cư cũng tạo sự bất mãn, không sẵn sàng học tập, nắm bắt pháp luật, dẫn đến

thiếu thông tin pháp luật, tác động xấu đến lối sống và việc chấp hành pháp

luật. Những vấn đề đó đang đặt ra yêu cầu cần phải quan tâm nhiều hơn đến

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Về phía cơ quan, tổ chức có trách

nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật cũng chưa coi công tác phổ biến, giáo dục

2

pháp luật thành nhiệm vụ thường xuyên, xuyên suốt của cả hệ thống, mà chủ

yếu chỉ là trách nhiệm của các cấp chính quyền, cơ quan tư pháp. Bên cạnh

đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng còn thiếu tính toàn diện, như

phổ biến, giáo dục pháp luật tập trung chủ yếu vào nhóm đối tượng là cán bộ,

công chức, viên chức; phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được thực hiện

thường xuyên tại miền núi, vùng đặc biệt khó khăn,.. Chất lượng, hiệu quả

phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao, Huyện chưa xây dựng được ý thức tự

giác chấp hành pháp luật trong nhân dân và một bộ phận đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức. Những yếu kém, hạn chế trong hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật dẫn đến chưa làm cho người dân hiểu và chấp hành pháp luật là

nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật trên địa bàn Huyện

thời gian qua.

Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Phổ biến, giáo dục pháp

luật trên địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên” làm luận văn Thạc sỹ Luật

Hiến pháp và Luật Hành chính, nhằm nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân và đưa

ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Phổ biến, giáo dục pháp luật là vấn đề quan trọng của Việt Nam trong

điều kiện nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Vì vậy, thời gian

qua, đã có một số công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến vấn đề

phổ biến, giáo dục pháp luật như sau:

2.1. Sách, báo

- Cuốn sách "Bàn về giáo dục pháp luật" của tác giả Trần Ngọc Đường

và Dương Thanh Mai, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đây là

cuốn sách nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận giáo dục pháp luật, bao

3

gồm khái niệm, mục đích, đối tượng, chủ thể, nội dung, hình thức, phương

pháp và phương tiện giáo dục pháp luật.

- Giáo trình "Lý luận chung về nhà nước và pháo luật" của trường Đại

Học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2012. Trong giáo

trình, bên cạnh nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nước, pháp luật nói

chung, chương IX có đề cập đến ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý và giáo

dục pháp luật.

- Bài viết về "Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong

tình hình mới" của Hồ Việt Hiệp, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số

9/2000. Trong bài viết này, tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, đề cập yêu cầu cần xã hội hóa

công tác này, đồng thời đề xuất các hình thức xã hội hóa phù hợp đối với

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới. Bên cạnh còn có

nhiều bài báo viết về các vấn đề có liên quan đến phổ biến, giáo dục pháp luật

như: "Cải cách hành chính phục vụ doanh nghiệp thực hiện pháp luật" của

PGS.TS Dương Đăng Huệ, đăng tại Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng

12/2006); "Thực trạng cung cấp thông tin qua mạng cho doanh nghiệp" Tài

liệu của Câu Lạc bộ pháp chế doanh nghiệp (Dân chủ và pháp luật số 4/2006).

2.2. Luận văn

- Luận văn thạc sỹ luật học của Đinh Thị Hoa, "Giáo dục pháp luật cho

đồng bào người Chăm ở thành phố Ninh Thuận hiện nay", bảo vệ năm 2005.

Trong luận văn này, tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu đặc điểm, ý thức pháp luật

của đồng bào người Chăm, từ đó phân tích các hình thức giáo dục pháp luật

cho đồng bào người Chăm.

- Luận văn Thạc sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của Trần Thị

Bích Hạnh "Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị - Từ thực

tiễn thành phố Hà Nội", bảo vệ năm 2016. Tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu công

4

tác giáo dục pháp luật. Đặc biệt tác giả đã đi sâu tìm hiểu hoạt động phổ biến,

giáo dục pháp luật cho đội ngũ thanh niên ở đô thị. Từ đó, phân tích đề xuất

một số giải pháp giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị.

- Luận văn thạc sỹ luật học của Đinh Thị Hương về "Giáo dục pháp

luật cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn thành phố Hưng Yên", được bảo vệ

năm 2008. Trong luận văn, tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu công tác giáo dục

pháp luật cho phụ nữ ở nông thôn. Từ đó, phân tích nội dung, hình thức giáo

dục có hiệu quả, đồng thời đề xuất các giải pháp giáo dục pháp luật cho phụ

nữ ở nông thôn.

- Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Phượng, "Giáo dục pháp

luật hôn nhân gia đình cho nông dân trên địa bàn thành phố Bến Tre", được

bảo vệ năm 2008. Tác giả đã tiếp cận, đi sâu làm rõ việc áp dụng pháp luật

về hôn nhân gia đình của nông dân. Từ đó, đưa ra những nội dung, hình

thức và giải pháp phù hợp đề giáo dục pháp luật về hôn nhân, gia đình cho

nông dân.

- Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Thu Ba "Nâng cao chất

lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công nhân tại các doanh nghiệp

ở Thành phố Đồng Tháp giai đoạn hiện nay", được bảo vệ năm 2008. Trong

luận văn, tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

cho công nhân tại các doanh nghiệp, từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao

hiệu quả, chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công

dân.

- Luận văn Thạc sỹ quản lý công của Lê Thị Mai Duyên “Tổ chức

phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, được bảo vệ

năm 2015. Trong luận văn này, tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu công tác giáo

dục pháp luật, đánh giá những khó khăn, thách thức trong việc tuyên

truyền, phổ biến pháp luật, từ đó nghiên cứu, phân tích đề xuất một số giải

5

pháp giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân trong tỉnh

về việc thi hành pháp luật.

- Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Thu Huyền “Phổ biến,

giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Đông

Anh, thành phố Hà Nội”. Trong luận văn này, tác giả đã tiếp cận tình hình

đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đánh giá trình độ am hiểu pháp luật, từ đó

đưa ra các giải pháp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ này.

Nhìn chung, các công trình khoa học, các bài viết đã góp phần làm

sáng tỏ một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến phổ biến,

giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận về phổ biến giáo dục

pháp luật tại địa phương và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên thì chưa có công trình nào nghiên

cứu. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa là

cần thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Luận văn làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp

luật trên địa bàn huyện Tây Hoà, xác định nguyên nhân, đưa ra các giải pháp

phù hợp nhằm nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn

huyện Tây Hòa và hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn huyện.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đặt ra, đề tài thực hiện các nhiệm vụ:

- Thứ nhất, làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục

pháp luật tại địa phương;

- Thứ hai, đánh khách quan, toàn diện về tình hình kinh tế, chính trị, văn

hoá - xã hội, an ninh, trật tự an toàn xã hội của huyện Tây Hoà và thực trạng công

6

tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm qua cả về kết quả đạt được

cũng như các tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng đó.

- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hoà hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về phổ biến giáo dục pháp luật tại

địa phương và thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây

Hoà, tỉnh Phú Yên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp

luật trên địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên.

- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến năm 2016.

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật

trên địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phƣơng pháp luận

Nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng ;

phương pháp luận Triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;

chính sách, pháp luật của Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tài liệu

- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin

- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đánh giá

7

- Phương pháp quan sát

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần sáng tỏ, sâu sắc thêm lý luận về phổ biến, giáo dục

pháp luật tại chính quyền địa phương thông qua làm rõ đặc điểm của phổ

biến, giáo dục pháp luật tại địa phương và các yếu tố chi phối chất lượng phổ

biến, giáo dục pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm

phong phú thêm hệ thống cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn đề xuất các giải pháp có giá trị tham khảo trong thực tế hoàn

thiện phổ biến, giáo dục pháp luật; góp phần nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu

quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao nhận thức pháp luật của

cán bộ, công chức và các tầng lớp từ đó góp phần hình thành ý thức tôn trọng

pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý của huyện

Tây Hoà trong thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì

nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa

phương

Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật phổ biến, giáo

dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên

Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp về nâng cao hiệu quả phổ

biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên

8

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TẠI ĐỊA PHƢƠNG

1.1. Khái quát chung về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phƣơng

1.1.1. Quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương

Trong các hoạt động của đời sống xã hội, ngoài pháp luật, có thể có

những quy phạm xã hội thuộc các lĩnh vực khác cũng đòi hỏi phải được phổ

biến cho những đối tượng dân cư khác nhau được biết. Tuy nhiên, khác với

các quy phạm xã hội nói chung, pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa

nhận không chỉ dành riêng cho cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng chung cho

tất cả các chủ thể. Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý kinh tế - xã hội,

nó chỉ được thực hiện tốt khi các đối tượng được biết đến và hiểu rõ về nội

dung của pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những hoạt

động quan trọng của quá trình tổ chức thực hiện pháp luật trong một nhà

nước. Vậy phổ biến, giáo dục pháp luật là gì và bản chất, đặc trưng của nó

như thế nào là vấn đề cần làm rõ. Về nội hàm, phổ biến và giáo dục là những

từ mang ý nghĩa khác nhau.

Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Giáo sư Nguyễn Lân thì "phổ

biến được hiểu là làm cho mọi người đều biết" [26,tr.492]; còn theo Đại từ

điển Tiếng Việt thì "phổ biến có nghĩa là làm cho đông đảo mọi người biết

đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua

hình thức nào đó" [7, tr3]. Cũng theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Giáo sư

Nguyễn Lân thì "giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có

kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo

đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của

đời sống xã hội" [26,tr.249]. Trong khi, Đại từ điển Tiếng Việt lại đưa ra cách

diễn đạt khác, theo đó: “giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ

9

thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho

đối tượng ấy dần có được phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [7]. Như

vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật là từ ghép của hai từ là phổ biến pháp luật

và giáo dục pháp luật.

Trong cuốn Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật

cũng có viết: "phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép hai từ phổ biến

pháp luật và giáo dục pháp luật". Về khái niệm phổ biến pháp luật có hai

nghĩa: (i) nghĩa hẹp: là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho đối tượng

của nó; (ii) nghĩa rộng: Là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân

trên cả nước. Khái niệm giáo dục pháp luật được hiểu là một khái niệm rộng

bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi

cách (thuyết phục, nêu gương, ám thị…) hình thành tình cảm, niềm tin pháp

luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh

chấp hành pháp luật của đối tượng” [31,tr7].

Ngoài ra, cũng có những cách tiếp cận và hiểu về phổ biến, giáo dục

pháp luật theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng:

Theo nghĩa hẹp: Phổ biến, giáo dục pháp luật là giới thiệu tinh thần

văn bản pháp luật cho người có nhu cầu. Theo đó, phổ biến, giáo dục pháp

luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình

cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp

luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.

Theo nghĩa rộng: Phổ biến, giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt

động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ

định thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục

đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù

hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức,

phương tiện, phương pháp đặc thù.

10

Có thể nhận thấy, phổ biến, giáo dục pháp luật không phải là một khái

niệm mới ở Việt Nam, nhưng đến nay vẫn tồn tại những quan niệm khác

nhau. Ngay trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật ngày 20/6/2012 cũng

không đưa ra khái niệm chính thống. Với những cách tiếp cận khác nhau, có

thể dẫn đến những định nghĩa khác nhau về phổ biến, giáo dục pháp luật.

Mặc dù vậy, hầu hết các quan điểm đều thống nhất cho rằng:

- Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có chủ đích của chủ thể tới

nhận thức của con người;

- Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm cung cấp cho đối

tượng thông tin và tri thức pháp lý;

- Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật là hướng các đối tượng

đến thái độ xử sự phù hợp với quy định pháp luật.

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật có thể được tiến hành tại các

bộ, ngành, các cơ quan trung ương và tại các địa phương.

Địa phương có thể là các vùng, khu vực trong quan hệ với trung ương,

được xác định bởi địa giới hành chính. Tùy thuộc vào mỗi quốc gia mà chính

quyền địa phương có thể được tổ chức theo những cơ cấu khác nhau. Tại

Việt Nam, theo quy định Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015,

hệ thống chính quyền địa phương bao gồm cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

Ngoài ra, tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Quốc hội có thể quyết định thành

lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Chính quyền địa phương mỗi cấp

(kể cả đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt) đều gồm có Hội đồng nhân dân

và Ủy ban nhân dân, quản lý tập trung, thống nhất mọi lĩnh vực đời sống xã

hội. Nội dung quản lý của địa phương là quản lý tổng hợp về kinh tế, chính

trị, an ninh quốc phòng, văn hóa, xã hội,...Chính quyền địa phương là cơ

quan thực thi quyền hành pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc

tập trung dân chủ, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định

11

của Hiến pháp và pháp luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, có

sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của nhân dân với lợi ích của Nhà nước.

Để phổ biến, giáo dục pháp luật thì trách nhiệm của chính quyền địa

phương là rất quan trọng. Ở đâu, chính quyền địa phương coi trọng, nhận thức

được vai trò của công tác này thì ở đó trình độ nhận thức pháp luật cũng như

ý thức pháp luật của người dân được nâng cao.

Trách nhiệm của chính quyền địa phương được thể hiện qua việc quyết

định các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế, trình độ của từng đối tượng để đạt

hiệu quả. Nếu chính quyền địa phương không quyết định được các biện pháp

để nâng cao hiệu quả thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ xảy ra tình

trạng tùy tiện, thiếu trọng tâm, trọng điểm làm giảm hiệu quả, mục đích mà

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật hướng tới. Bên cạnh việc quyết định

các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật thì

chính quyền địa phương phải tổ chức thực hiện giám sát việc thực hiện pháp

luật về phổ biến, giáo dục pháp luật. Hoạt động giám sát các cơ quan, tổ chức,

cá nhân được giao thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật của chính

quyền địa phương là cần thiết để kịp thời phát hiện những thiếu sót, hạn chế

về nội dung, hình thức, phương pháp, đảm bảo hiệu quả phổ biến giáo dục

pháp luật. Pháp luật với chức năng điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục, nhằm duy

trì trật tự và đem lại lợi ích xã hội, nó cần được mọi thành viên xã hội hiểu và

thực hiện. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vì thế là đòi hỏi thường

xuyên, mang tính dài hạn, có mục tiêu, yêu cầu rõ ràng đối với từng chủ thể,

đối tượng. Chính qyền địa phương có trách nhiệm ban hành chương trình, kế

hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật, nhằm xác định rõ mục đích mà

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật hướng tới và đánh giá kết quả việc

thực hiện.

12

Vai trò của Chính quyền địa phương đối với hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật tại địa phương là hết sức quan trọng. Chính quyền địa phương

thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai việc thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật đồng thời tổ chức giám sát, kiểm tra tính hiệu quả của hoạt

động tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Chính quyền địa phương còn có vai trò

hết sức quan trọng trong việc xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ

báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật bởi để nâng cao hiệu quả

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trước hết cần có một đội ngũ chuyên

nghiệp, có trình độ, chuyên môn pháp luật nhất định, được tập huấn, bồi

dưỡng thường xuyên để kịp thời nắm bắt được những điểm mới, nội dung

thay đổi về các lĩnh vực pháp luật để đội ngũ này đáp ứng được yêu cầu ngày

càng cao nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân.

Mặt khác, phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động toàn diện, bao quát

các mặt của đời sống xã hội, mang tính lâu dài do đó đòi hỏi rất lớn về vật lực

và nhân lực, vì vậy chính quyền địa phương cần xã hội hóa, tạo điều kiện

thuận lợi để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, hỗ trợ cho hoạt động phổ

biến, giáo dục pháp luật nhằm đưa hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

được nâng cao, đạt hiệu quả cao nhất.

Từ những phân tích trên đây, phổ biến giáo dục pháp luật ở địa

phương có thể được hiểu là một khâu của của hoạt động tổ chức thực hiện

pháp luật, do các cơ quan, tổ chức, nhà nước, đoàn thể, cá nhân tại địa

phương thực hiện, bằng các hình thức, phương pháp thích hợp, nhằm mục

đích hình thành ở đối tượng tác động tri thức pháp luật, tình cảm, niềm tin

pháp luật, tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương

Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động quan trọng và thường xuyên

của các cơ quan, tổ chức, các ngành và địa phương. Hoạt động phổ biến,

13

giáo dục pháp luật tại địa phương vừa mang những đặc điểm chung, vừa có

những khác biệt nhất định với các bộ ngành, cơ quan trung ương. Điều này

do tính chất, đặc điểm của địa phương quy định. Tại địa phương, phổ biến,

giáo dục pháp luật có một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương là hoạt động

được thực hiện bởi các chủ thể nhất định.

Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động đòi hỏi có sự tham gia của

nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục

pháp luật cần đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định. Điều này xuất phát từ mục

đích của nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật và yêu cầu mang tính

chuyên môn của lĩnh vực mà luật pháp quy định.

Pháp luật do nhà nước ban hành phản ánh những quan điểm, đường lối

chính trị và ý chí của nhà nước. Do đó, nội dung của luật pháp không chỉ cần

được người dân nắm bắt kịp thời mà phải hiểu đúng tinh thần của quy định

pháp luật. Với tư cách là người truyền dẫn các quan điểm, ý chí của của nhà

nước tới người dân, doanh nghiệp,..mục đích của chủ thể phổ biến, giáo dục

pháp luật phải phù hợp với mục đích của nhà nước. Vì vậy, các chủ thể tham

gia phổ biến, giáo dục pháp luật phải được nhà nước thừa nhận bằng pháp

luật. Pháp luật quy định rõ các chủ thể có quyền phổ biến, giáo dục pháp luật

với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm khác nhau. Trong

trường hợp chủ thể yếu về năng lực chuyên môn, phổ biến, giáo dục pháp luật

không đúng, hoặc cố tình lợi dụng các diễn đàn chính thống để tuyên truyền,

phổ biến sai chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thì phải

chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật là cá nhân, tổ chức theo chức

năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào

thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật có thể là chủ thể chuyên nghiệp hoặc

14

chủ thể không chuyên nghiệp. Trong đó, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật

chuyên nghiệp là những người mà chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp và

thường xuyên của họ là thực hiện các mục đích, nội dung phổ biến, giáo dục

pháp luật. Đây là chủ thể quan trọng và chủ yếu gồm báo cáo viên, tuyên

truyền viên, giảng viên luật,..Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật không

chuyên nghiệp là những người mà chức năng chính không phải là phổ biến,

giáo dục pháp luật, nhưng thông qua các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ

của mình như hoạt động giám sát, xét xử, bào chữa, tư vấn pháp luật, điều tra,

truy tố,.. góp phần vào việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật như đại

biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, luật sự, luật gia, công tác

viên pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức,.. So với các chủ thể chuyên

nghiệp, chủ thể không chuyên nghiệp mặc dù chức năng, nhiệm vụ chính, trực

tiếp và thường xuyên của họ không phải là phổ biến, giáo dục pháp luật,

nhưng rất quan trọng, lực lượng này cùng với chủ thể chuyên nghiệp góp

phần tích cực vào việc thực hiện các mục đích, nội dung phổ biến, giáo dục

pháp luật.

Ngoài các chủ thể trên đây, còn một lực lượng đông đảo quần chúng

nhân dân là những người am hiểu pháp luật, có ý thức pháp luật cao và trên

hết là thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước và các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương. Do đó, thông qua

việc gương mẫu thực hiện pháp luật, họ cũng góp phần tác động tích cực đến

việc hình thành ý thức pháp luật và thói quen xử sự phù hợp với pháp luật của

các công dân khác, đồng thời vận động người thân, những người xung quanh

thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật và họ cũng được coi là một chủ

thể phổ biển, giáo dục pháp luật.

15

Như vậy, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật là tất cả những người mà

theo chức năng, nhiệm vụ hay theo trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần

vào việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ hai, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương mang

tính đa dạng và chênh lệch về trình độ, nhận thức.

Quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa

một bên là người phổ biến, giáo dục pháp luật và một bên là người được phổ

biến, giáo dục pháp luật. Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau

giữa các bên tham gia trong mối quan hệ. Song, chiều tác động chủ yếu là sự

tác động, chi phối của người phổ biến, giáo dục pháp luật đối với người được

phổ biến, giáo dục pháp luật. Sự tác động này là những hoạt động có ý thức,

có định hướng, có kế hoạch nhằm đạt đến mục tiêu nhất định. Nói cách khác,

chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật tác động lên đối tượng phổ biến, giáo

dục pháp luật với những mong muốn cụ thể như xây dựng được ý thức và

những hành vi hợp pháp cho đối tượng. Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp

luật tại địa phương là toàn bộ các thành phần công dân có hộ khẩu, hoặc các

doanh nghiệp, hộ kinh doanh, các tổ chức đóng trên địa bàn do chính quyền

địa phương quản lý. Các đối tượng này chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp

của các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật do các chủ thể phổ biến, giáo

dục pháp luật thực hiện, nhằm đạt mục đích nhất định. Việc xác định đối

tượng phổ biến, giáo dục pháp luật có thể giúp chủ thể xác định các nội dung,

hình thức, phương tiện, biện pháp phù hợp, tiếp cận đối tượng một cách hiệu

quả nhất.

Tại các địa phương, mỗi địa phương luôn gắn với những điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội khác nhau. Có những địa phương là nông thôn, có

những địa phương là thành thị, có địa phương bao gồm cả nông thôn và thành

thị. Một số địa phương chỉ có một hoặc hai dân tộc, có địa phương gồm nhiều

16

dân tộc. Có địa phương chỉ có một tôn giáo, nhưng có những địa phương lại

có nhiều tôn giáo. Có địa phương dân trí cao, có địa phương dân trí thấp, điều

kiện tiếp cận thông tin không đầy đủ,...Điều đó có nghĩa, khác với các bộ,

ngành hay các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, với các đối tượng có trình độ

văn hóa và nhận thức xã hội tương đối đồng đều thì đối tượng phổ biến, giáo

dục pháp luật tại địa phương có thể rất chênh lệch về nhận thức, thậm chí, trên

cùng một địa bàn, trình độ nhận thức của người dân, doanh nghiệp,..cũng có

thể rất khác nhau. Điều đó làm cho việc tiếp cận tri thức pháp luật cũng trở

nên khó khăn, nếu không có phương pháp phân loại, để tổ chức các lớp phổ

biến, giáo dục pháp luật phù hợp. Việc phải mở nhiều loại hình lớp học cho số

lượng nhỏ các đối tượng, phân tán sẽ gây khó khăn về cả báo cáo viên và kinh

phí tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là tại các địa phương là vùng

đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ ba, lĩnh vực cần phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương là rất

rộng.

Chính quyền địa phương là cơ quan quản lý tổng hợp theo địa giới hành

chính, vì vậy quản lý nhiều lĩnh vực, do đó cũng đồng nghĩa nội dung cần phổ

biến đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực.

Pháp luật là công cụ chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng quản lý

xã hội, do đó mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ an ninh, quốc phòng đến

kinh tế, hành chính, hàng hải, môi trường,...đều cần được luật pháp hóa và

phổ biến đến mọi đối tượng áp dụng. Pháp luật quy định về từng lĩnh vực đều

mang tính chuyên môn với những tiêu chuẩn, kỹ thuật của ngành, lĩnh vực

nhất định, trong khi đối tượng áp dụng không luôn đủ kiến thức chuyên môn

của ngành, lĩnh vực cũng như kiến thức luật pháp để hiểu và áp dụng chính

xác. Do đó, các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật phải là những nhà

17

chuyên môn, hiểu rõ, nắm chắc vấn đề cần phổ biến và giải đáp các thắc mắc

mà đối tượng đặt ra.

Thứ tư, mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương

nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng được phổ

biến, giáo dục pháp luật.

Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hình thành, làm sâu sắc và mở rộng

hệ thống tri thức pháp luật, trang bị những kiến thức pháp lý cần thiết cho

đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật. Từ đó, hướng tới việc hình

thành thói quen xử sự phù hợp với các quy đinh của pháp luật, hình thành ý

thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật và không thực

hiện các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng được phổ biến, giáo

dục pháp luật.

1.1.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương

Phổ biến, giáo dục pháp luật luôn có vị trí, vai trò quan trọng trong

mọi nhà nước. Ở Việt Nam, phổ bến, giáo dục pháp luật được coi là một bộ

phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của

toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều phối, tổ

chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể. Phổ biến,

giáo dục pháp luật là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào đời sống xã hội, đi vào ý

thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội. Tại địa phương, công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật có vai trò cụ thể như sau:

Thứ nhất, nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối tượng tại địa

phương.

Phổ biến, giáo dục pháp luật tác động vào ý thức của các đối tượng

trong xã hội. Với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, phổ biến, giáo dục

pháp luật nâng cao nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của đối tượng.

18

Trước hết, các hoạt động này tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật. Từ chỗ

không để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối tượng được phổ biến, giáo dục

bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời sự hiểu biết

về pháp luật cũng ngày càng được nâng cao. Pháp luật chính là phương tiện

hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội và cũng là phương tiện cho mỗi người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Phổ biến, giáo dục pháp luật

giúp cho đối tượng nhận thức được những giá trị cao đẹp của pháp luật và

biết vận dụng trong cuộc sống. Bên cạnh đó, một vai trò cũng hết sức quan

trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật là tạo được niềm tin vào pháp luật.

Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình theo

đúng các quy định của pháp luật. Không những thế, họ còn có ý thức phê

phán, lên án những hành vi vi phạm, đi ngược lại với các quy định của pháp

luật.

Tuy bản chất pháp luật của Nhà nước là tốt đẹp, phản ánh ý chí, nguyện

vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội nhưng

không phải khi nào pháp luật của Nhà nước cũng được mọi người trong xã

hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm.

Pháp luật của Nhà nước có thể được một bộ phận nhân dân tìm hiểu,

quan tâm xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất

kinh doanh của họ. Những người này thường xuyên cập nhật những quy định

pháp luật mới để phục vụ trực tiếp cho công việc, đời sống của mình nhưng số

lượng đối tượng này không phải nhiều. Trong điều kiện hiện nay, trình độ dân

trí còn chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn,

do đó chưa có điều kiện tiếp cận với các văn bản pháp luật hiện hành.

Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải

những thông tin, những yêu cầu, nội dung các quy định pháp luật hiện hành

đến với đại bộ phận nhân dân, giúp người dân hiểu và nắm bắt kịp thời mà

19

không mất nhiều thời gian, công sức tự tìm hiểu. Từ đây, làm hình thành và

mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của nhân dân. Đây là mục đích quan

trọng, bởi chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội

và vai trò điều chỉnh xã hội của pháp luật là điều kiện cần thiết để hình thành

tình cảm và lòng tin vào pháp luật của mỗi người dân. Mục đích này, đặc biệt

quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của

người dân còn chưa cao, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân còn

chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có lúc, có

nơi còn chưa thật sự được coi trọng làm giảm hiệu lực, hiệu quả của pháp

luật, dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với Nhà nước.

Thứ hai, hình thành tình cảm, lòng tin của đối tượng được phổ biến,

giáo dục pháp luật.

Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm khi họ tin tưởng

vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của nhân dân, khi người dân nhận thức được nội dung này

thì pháp luật không cần biện pháp cưỡng chế mà mọi người tự giác thực hiện.

Pháp luật cũng có hai mặt của nó, không phải lúc nào cũng thỏa mãn

hết mọi người, phản ánh đầy đủ nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, mong muốn

của tất cả mà pháp luật lấy lợi ích của số đông nhân dân trong xã hội làm tiêu

chí, thước đó. Vì vậy, sẽ có một bộ phận nhỏ nhân dân không thỏa mãn do đó

càng tạo nên sự cần thiết phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu đúng

và ủng hộ pháp luật.

Để hình thành tình cảm, lòng tin của đối tượng vào pháp luật, phổ biến,

giáo dục pháp luật cần làm cho người dân thấy được sự công bằng của pháp

luật, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, giáo

dục tình cảm, trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi, biết

20

phê phán, lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, bảo vệ sự nghiêm

minh của pháp luật.

Như vậy, hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật là hết sức

quan trọng, bởi nếu không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật thì

con người rất dễ thực hiện hành vi trái với chuẩn mực pháp luật vì lợi ích cá

nhân, lợi ích riêng của bản thân.

Thứ ba, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng

được phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thông qua phổ biến, giáo dục pháp luật làm hình thành ở đối tượng

động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật. Động cơ và hành vi hợp

pháp là kết quả của quá trình nhận thức pháp luật. Thói quen xử sự hợp pháp

là thói quen tuân thủ các quy định của pháp luật, sử dụng thói quen để bảo vệ

các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của người khác, của Nhà nước và

xã hội.

Thứ tư, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước,

quản lý xã hội tại địa phương.

Vai trò quan trọng này của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bắt

nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp luật là phương tiện

hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật

giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành

vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường

pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi người.

Phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các

quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành

các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã

hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những biểu hiện, hành vi tiêu cực,

chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.

21

1.2. Nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phƣơng

1.2.1. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của quá trình

phổ biến, giáo dục pháp luật. Xác định đúng nội dung phổ biến, giáo dục pháp

luật là cần thiết để phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả. Nội dung phổ

biến, giáo dục pháp luật thường bao gồm các quy định của Hiến pháp và văn

bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của pháp luật về dân sự,

hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng,

bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ

quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được

ban hành. Bên cạnh đó, các nội dung về Các điều ước quốc tế mà nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế và ý

thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của

việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật

cũng là nội dung quan trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật.

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật còn là hệ thống các thông tin pháp

luật thực định, những thông tin pháp luật chuyên ngành, những thông tin về

thực tiễn thực thi, áp dụng pháp luật. Cụ thể là:

- Những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, tổ chức bộ máy nhà

nước, thực thi pháp luật, cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân;

- Các quy định, trình tự, thủ tục liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền

hạn, trách nhiệm của chính quyền cơ sở;

- Các trình tự, thủ tục pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và

thực hiện các nghĩa vụ của công dân, đặc biệt là các trình tự, thủ tục liên quan

22

đến giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế tiếp công dân; quy chế dân chủ cơ

sở;

- Những thông tin pháp luật mới ban hành, đặc biệt là những thông tin

pháp luật liên quan trực tiếp và mật thiết đến hoạt động của chính quyền cấp

cơ sở, các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương;

- Những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước về pháp luật ở địa phương.

Phổ biến, giáo dục pháp luật không có nghĩa là yêu cầu hay bắt buộc họ

học thuộc các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, mà là giúp họ hiểu

được nội dung, tinh thần của các quy phạm pháp luật, nhận thức đầy đủ về vai

trò, sự cần thiết của pháp luật trong đời sống xã hội, hiểu được ý nghĩa của

pháp luật. Trên cơ sở đó, đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật biết

cách vận dụng linh hoạt, chủ động và sáng tạo các quy phạm pháp luật vào

cuộc sống.

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật chính là hệ thống các tri thức cần

thiết cho đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật sử dụng để phân tích, lý

giải một cách khoa học các vấn đề thực tế mà họ thường gặp để từ đó định

hướng cho hành vi của mình phù hợp với các quy định của pháp luật.

1.2.2. Hình thức của phổ biến, giáo dục pháp luật

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật không thể tự thân đi vào nhận

thức, tình cảm của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật mà phải qua

những kênh thông tin, các dạng hoạt động cụ thể. Do đó, hiệu quả phổ biến,

giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào nội dung phổ biến, giáo dục pháp

luật mà còn phụ thuộc vào việc xác định hình thức phổ biến, giáo dục pháp

luật phù hợp.

Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật là các dạng cụ thể, có tổ chức

phối hợp giữa các chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật

23

để thực hiện nội dung giáo dục pháp luật và đạt mục đích giáo dục pháp luật.

Dựa vào tính đa dạng, phong phú, tính đặc thù của các chủ thể và các đối

tượng phổ biến, giáo dục pháp luật có thể phân chia hình thức phổ biến, giáo

dục pháp luật thành hai nhóm cơ bản sau:

Một là, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mang tính phổ biến,

truyền thống như: phổ biến, nói chuyện pháp luật, các hội nghị, hội thảo, sinh

hoạt pháp luật chuyên đề, các câu lạc bộ pháp luật, các đội thông tin lưu động,

các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tuyên truyền qua báo chí và các phương tiện

thông tin đại chúng, các hình thức văn học, nghệ thuật, dạy học pháp luật ở

các trường,..

Hai là, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mang tính đặc thù

như: các hoạt động định hướng phổ biến, giáo dục pháp luật trong các hoạt

động lập pháp, hành pháp và tư pháp của các cơ quan như Quốc hội, Chính

phủ, Tòa án và các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các tổ

chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức quần chúng, tổ hòa giải, công tác

trợ giúp pháp lý, tư pháp pháp luật,..

Ngoài ra, các nhà nước có thể quy định rất cụ thể về các hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật như tại Việt Nam quy định

Họp báo, thông cáo báo chí; phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng

dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; thông qua các

phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích,

tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang

thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân

cư; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm

hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt

động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; lồng ghép trong hoạt động văn hóa,

24

văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách

pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở; thông qua chương trình giáo

dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; các

hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối tượng cụ

thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo

đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả. [29]

Như vậy, qua các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được quy định

trong văn bản pháp luật hiện hành, chúng ta có thể thấy rằng:

Phổ biến pháp luật trực tiếp được sử dụng như một hình thức phổ biến

pháp luật quan trọng, gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức phổ biến khác và là

một bộ phận không thể thiếu, không thể tách rời trong tổng thể các hình thức

phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động tập thể, các giờ sinh

hoạt; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp

luật,..

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh,

internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải

thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin

của cơ quan, tổ chức, khu dân cư.

Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật thông qua các hình thức đa dạng như: đố

vui để học, rung chuông vàng, thi viết, thi tiểu phẩm, sân khấu hóa....

Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các

cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải

ở cơ sở.

Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật, một hình thức phản

ánh sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền, cơ quan tư pháp, các ban ngành

liên quan trong việc đưa pháp luật đến gần dân hơn.

25

Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức

chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.

Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của

hệ thống giáo dục quốc dân gồm: Giáo dục chính khóa thông qua việc lồng

ghép trong các môn học giáo dục công dân ở cấp trung học phổ thông; môn

học pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành tại cơ sở giáo dục

nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học; các môn học trong cơ sở giáo dục khác

của hệ thống giáo dục quốc dân và Giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo

dục ngoài giờ lên lớp.

Ngoài ra, Luật còn khuyến khích đổi mới, đa dạng hóa các hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng, địa bàn.

1.3. Yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phƣơng

Hiệu quả quản lý nhà nước và mục đích của phổ biến, giáo dục pháp

luật trong mỗi nhà nước chỉ đạt được khi nó được đặt trong những yêu cầu

nhất định. Các yêu cầu được đưa ra dựa trên các quy luật quản trị và mục tiêu

mà mỗi chế độ chính trị của nhà nước theo đuổi. Các yêu cầu đòi hỏi tổ chức,

cá nhân phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương phải chấp hành khi thực

hiện nhiệm vụ luôn gắn với mục tiêu của quản lý nhà nước. Tại Việt Nam,

yêu cầu đặt ra đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện ở các nội

dung sau đây:

1.3.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước ở trung ương

và chính quyền địa phương đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật

Pháp luật và đường lối, chính sách của Đảng có mới quan hệ chặt chẽ

với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự thể chế hóa đường lới, chính sách của

Đảng, đường lối chính sách của Đảng là “linh hồn” của pháp luật. Vì vậy, phổ

biến, giáo dục pháp luật cũng chính là việc phổ biến, giáo dục đường lối,

chính sách của Đảng. Do đó, các cấp ủy Đảng cần đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ

26

đạo của mình trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bằng việc xây dựng

chương trình, kế hoạch trên địa bàn mình, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, chủ

trương để chính quyền cùng cấp tổ chức thực hiện các hoạt động phổ biến,

giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, cần quán triệt đến từng đảng viên tinh thần

nêu gương và mỗi đảng viên phải là một “tuyên truyền viên” để thực hiện

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời, cần thường xuyên tổ chức

theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và kịp thời thời phát hiện, chấn

chỉnh, hướng dẫn những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực

hiện trong thực tiễn.

Nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương với lực lượng đông

đảo của mình là chủ thể chính của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Do

đó, cần chú trọng hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật vì đây là yếu tố vừa đảm bảo tính định hướng chung,

vừa tạo điều kiện để đơn vị cấp dưới phát huy tính chủ động, sáng tạo trong

xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện.

1.3.2. Xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật

Xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật là

yêu cầu cần thiết để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật xác định rõ chủ thể

tiến hành, các chi phí và dự báo trước những khó khăn để vượt qua, đảm bảo

chất lượng và hiệu quả. Chính quyền địa phương cần phải xây dựng kế hoạch,

chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật sao cho vừa phù hợp với đường lối,

chủ trương của đảng vừa phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của

từng địa phương. Đồng thời, các kế hoạch, chương trình, đề án cần xác định

cụ thể đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện, xác định cơ quan,

tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện, tiến độ thời gian, có tính khả thi, có hiệu

quả và điều kiện kinh phí để thực hiện.

27

1.3.3. Nội dung phổ biến, giáo dục phải chính xác, đầy đủ, dễ hiểu, thiết

thực

Phổ biến, giáo dục pháp luật khác với các loại hình phổ biến, giáo dục

khác ở chỗ nội dung được phổ biến, giáo dục là pháp luật, là những quy tắc

xử sự được Nhà nước ban hành, có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ tới nội dung

và yêu cầu của các quy định đó. Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật phải

chính xác, đầy đủ.

Phổ biến, giáo dục pháp luật không những phải xuất phát từ nhu cầu

của đối tượng được phổ biến, họ đang thiếu và cần cái gì mà còn phải phù hợp

với trình độ văn hoá, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, dân tộc... và sử dụng

ngôn ngữ đại chúng, hành văn giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, thiết thực. Có như

vậy, mục đích của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật mới đạt được hiệu

quả đã đề ra.

1.3.4. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải kịp thời, thường

xuyên, có trọng tâm, trọng điểm

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động tác động lên ý thức

con người, vì lợi ích lâu dài nên phải được thực hiện kịp thời, thường xuyên

với phương châm “mưa dầm, thấm lâu”, tránh tình trạng hình thức, làm theo

phong trào. Đồng thời, hoạt động này cũng không nên làm tràn lan mà phải có

trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn nhằm đạt kết quả cụ thể.

1.3.5. Phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phải đa dạng,

phù hợp với từng đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật

Có nhiều phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác

nhau, mỗi phương pháp, hình thức có sự phù hợp với một hoặc một số đối

tượng cụ thể. Do đó, khi phổ biến, giáo dục pháp luật phải xuất phát từ đối

tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật để lựa chọn phương pháp, hình thức

28

tối ưu và có sự kết hợp đan xen giữa các phương pháp, hình thức khác nhau

để đạt hiệu quả cao nhất.

Phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật là hệ thống những cách thức,

biện pháp tác động của chủ thể phổ biến, giáo dục nhằm hình thành ở đối

tượng ý thức tuân thủ pháp luật, có năng lực xử lý hiệu quả các tình huống

pháp luật nảy sinh trong cuộc sống. Phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật

cần phải đa dạng và phong phú, trong những tình huống, điều kiện khác nhau,

có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Nhưng nhìn chung, chủ thể phổ

biến, giáo dục thường sử dụng hai phương pháp cơ bản đó là: phương pháp giáo

dục truyền thống và phương pháp giáo dục hiện đại.

Phương pháp truyền thống là phương pháp sử dụng các công cụ, phương

tiện đã dùng từ lâu đời trong lịch sử ngành giáo dục như: thuyết trình, giải

thích pháp luật, nói chuyện, trao đổi về pháp luật, giảng dạy pháp luật; tọa

đàm pháp luật, phương pháp tạo tình huống; nêu gương,…

Phương pháp hiện đại là phương pháp có sử dụng kết hợp các thiết bị kỹ

thuật hiện đại như máy tính, máy chiếu, máy quay phim… để chủ thể phổ

biến, giáo dục pháp luật có thể dễ dàng thực hiện các phương pháp mô hình

hóa, trực quan hóa gắn với các tình huống quan sát thực tế.

Phương pháp giáo dục pháp luật khá đa dạng và mỗi phương pháp đều có

chức năng, thế mạnh riêng, phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể, tuy

nhiên giữa chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho

nhau. Do đó, khi tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật, các chủ thể phổ biến,

giáo dục pháp luật cần lựa chọn và phối hợp các phương pháp nhằm mang lại

hiệu quả cao nhất.

Mục tiêu của phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ làm cho các đối

tượng biết đến pháp luật mà phải hiểu để thực hiện đúng, đạt được mục đích

quản lý của nhà nước. Vì vậy, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật phải căn

29

cứ vào mục đích, nội dung và đặc biệt là đặc điểm đối tượng, cần phù hợp với

trình độ dân trí, sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, đặc điểm về

nhận thức, lối sống, văn hóa của đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật để lựa

chọn và sử dụng phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật.

1.3.6. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với các hình thức hướng dẫn áp

dụng pháp luật khác

Trong hoạt động của Nhà nước, các quyết định thuộc thẩm quyền,

phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước mà trực tiếp là

lực lượng cán bộ, công chức nhà nước là người thi hành công vụ, là người tổ

chức thực hiện các quy định pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật, đồng thời

thông qua thực thi công vụ phải kết hợp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp

luật nhằm giúp cho đối tượng được áp dụng pháp luật hiểu rõ nội dung, ý

nghĩa các quy định pháp luật được áp dụng hoặc các quy định có liên quan,

hiểu và ý thức được về quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, từ đó tự nguyện

chấp hành nghiêm túc các quyết định áp dụng pháp luật nói riêng và chấp

hành pháp luật nói chung, hình thành niềm tin pháp luật, nâng cao ý thức chấp

hành pháp luật.

Bên cạnh đó, phổ biến, giáo dục pháp luật còn được kết hợp khi tiến

hành trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật với đội ngũ luật sư, trợ giúp viên pháp

lý, đây cũng là lực lượng thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho khách

hàng, đối tượng khi trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật bằng việc giải thích,

hướng dẫn pháp luật liên quan đến từng vụ, việc cụ thể, giúp cho đối tượng

nâng cao hiểu biết pháp luật, tự điều chỉnh hành vi xử sự phù hợp với quy

định của pháp luật, tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1.4. Các yếu tố chi phối phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phƣơng

30

Hiệu quả là khái niệm gắn với những đo lường về lợi ích và chi phí của

hoạt động cụ thể. Phương pháp chủ yếu để đo lường tính hiệu quả của lĩnh

vực hoạt động là phương pháp định tính và định lượng.

Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, hiệu quả của nó được đo

lường bằng những kết quả đạt được theo đúng yêu cầu, mục đích của các quy

định pháp luật tương ứng và các lợi ích xã hội được đem lại với chi phí về vật

chất, tinh thần thấp nhất. Như vậy, tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương được thể hiện thông qua:

- Mức độ hiểu biết, tin tưởng, tôn trọng của người dân đối với chính

sách, pháp luật do nhà nước ban hành trước và sau hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật;

- Mức độ tuân thủ, mức độ vi phạm pháp luật có liên quan đến sự hiểu

biết pháp luật của các đối tượng;

- Lợi ích xã hội đạt được do thực hiện các quy định pháp luật của các

đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Chi phí đầu tư về vật chất, thời gian, công sức, ..sự tương quan giữa

chi phí và kết quả đạt được.

Hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương thể hiện ở chỗ

với điều kiện cơ sở vật chất nhất định, kinh phí để phổ biến, giáo dục pháp

luật tiết kiệm nhất, đội ngũ nguồn nhân lực không quá nhiều, thời gian dành

cho phổ biến, giáo dục pháp luật không quá nhiều, nhưng có thể tác động đến

các đối tượng (người dân và doanh nghiệp,.. địa phương) đạt được mục đích

phổ biến, giáo dục pháp luật.

Hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương chịu sự

chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, có những yếu tố thuộc về nội tại các tổ

chức, cá nhân, chính quyền địa phương, có những yếu tố nằm ngoài địa

31

phương, thuộc về điều kiện khách quan tự nhiên, chủ trương chính sách từ

chính quyền cấp trên.

1.4.1. Các yếu tố chủ quan

Thứ nhất, về công tác chỉ đạo, điều hành

Tại địa phương, có nhiều cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động phổ

biến, giáo dục pháp luật, với những nội dung, hình thức và mức độ khác

nhau. Tuy nhiên, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, vai trò chỉ đạo, điều

hành, tổ chức triển khai và kiểm tra hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

của cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương là cần thiết. Sự quan tâm

nhắc nhở, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo địa phương có tác động quan trọng

đến hành vi của các tổ chức trong việc triển khai hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật. Trong trường hợp lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối thiếu sự

quan tâm đúng mức, chỉ dừng lại ở việc ra chỉ thị, nghị quyết, việc chỉ đạo,

điều hành phổ biến, giáo dục pháp luật thì các cơ quan thực thi cũng không

thể hưởng ứng tích cực và hành động một cách có trách nhiệm. Mức độ sâu

sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu các cấp

ủy Đảng và các cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương là yếu tố tác

động mạnh mẽ tới sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong địa phương

trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ hai, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật

Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật có thể là báo cáo viên, giảng viên

trong các trường giảng dạy về luật, những người hành nghề luật,...là chủ thể

trực tiếp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hình thức khác

nhau. Mỗi chủ thể đòi hỏi những kỹ năng và vận dụng hình thức, phương

pháp nhất định nhưng đều cần phải hiểu đúng, thấu đáo về lĩnh vực mà họ

chịu trách nhiệm phổ biến cho người khác. Đối với các địa phương, các chủ

thể phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương có tác động quan trọng đến

32

chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn.

Các tiêu chí về số lượng, chất lượng báo cáo viên,... phản ánh mức độ có đủ

về số lượng và đáp ứng yêu cầu năng lực chuyên môn trong công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật hay không. Điều đó sẽ đem lại hiệu quả về mức độ

tiếp nhận thông tin, mức độ hiểu nội dung pháp luật của người dân, giúp họ có

đủ hay còn thiếu trong việc nhận thức và chấp hành pháp luật.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong bộ máy phổ biến,

giáo dục pháp luật

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương, để đạt mục tiêu

đem lại sự hiểu biết và tuân thủ, chấp hành pháp luật của các đối tượng, đòi

hỏi phải có những cá nhân, tổ chức có năng lực, trình độ pháp luật và kỹ năng

cần thiết. Các cá nhân, tổ chức này phải hoạt động theo những nguyên tắc,

trong những thiết chế tổ chức bộ máy có sự bảo đảm của nhà nước và chịu

trách nhiệm trước nhà nước. Nhà nước thiết lập bộ máy phổ biến, giáo dục

pháp luật phù hợp mới mục tiêu mà họ đề ra. Trong bộ máy đó, mỗi cơ quan,

tổ chức, cá nhân đảm nhiệm những những chức năng, nhiệm vụ nhất định và

cần có cơ chế phối hợp để đem lại hiệu quả. Tại địa phương, sự đa dạng về

nội dung các lĩnh vực cần phổ biến, giáo dục pháp luật đòi hỏi nhiều cơ quan,

tổ chức, cá nhân tham gia.

Tại địa phương, Hội đồng nhân dân có trách nhiệm:

- Quyết định các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật; phân bổ dự toán ngân sách địa phương cho công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật;

- Giám sát việc thực hiện pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật.

Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ:

- Ban hành theo thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến,

giáo dục pháp luật;

33

- Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểm tra công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật;

- Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp

luật, tuyên truyền viên pháp luật; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đội

ngũ giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật

theo quy định của pháp luật;

- Tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ cho hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức

có trách nhiệm:

- Phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức và

người lao động thuộc phạm vi quản lý, chú trọng thực hiện thông qua phổ

biến pháp luật trực tiếp, đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện

tử, báo, bản tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị (nếu có); kết hợp thực hiện phổ

biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động chuyên môn.

- Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức phổ biến, giáo dục

pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động; xây dựng,

tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn

vị mình hoặc định kỳ mời báo cáo viên tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật

tại cơ quan, tổ chức, đơn vị.

- Phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan phổ biến, giáo dục

pháp luật cho nhân dân

Trách nhiệm của các tổ chức khác như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các

tổ chức thành viên của mặt trận:

- Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên, đoàn viên của tổ

chức mình; vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

34

- Phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan phổ biến, giáo dục

pháp luật cho nhân dân.

- Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên

truyền viên pháp luật của tổ chức mình.

- Vận động tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ hoạt động

phổ biến giáo dục pháp luật.

- Tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phổ biến,

giáo dục pháp luật.

Các tổ chức hành nghề pháp luật có trách nhiệm:

- Tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về pháp

luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp có trách

nhiệm tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân; tổ chức phổ biến

giáo dục, pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý;

kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động chuyên môn; tạo

điều kiện cho thành viên của tổ chức, công chức, viên chức, giảng viên, học

viên, sinh viên tham gia hoạt động tình nguyện phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp có trách

nhiệm tham gia bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho người làm công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật.

Các cơ sở giáo dục và hệ thống giáo dục quốc dân:

- Căn cứ vào nội dung, hình thức giáo dục pháp luật ở từng cấp học và

trình độ đào tạo, các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân có trách

nhiệm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật, bố trí giáo viên dạy môn giáo dục

công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật.

- Phối hợp với gia đình và xã hội thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật

trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.

35

Bộ máy phổ biến, giáo dục pháp luật phải được thiết lập trên cơ sở đảm

bảo trao công việc vào đúng nơi có khả năng làm tốt nhất, đồng thời đảm bảo

một cơ chế phối hợp, giám sát hiệu quả. Chỉ có như vậy, là công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật mới được thực hiện một cách thường xuyên, nội dung

tuyên truyền có kiểm soát, đảm bảo tính đúng đắn, ăn khớp giữa các cơ quan,

tổ chức, kịp thời đưa pháp luật vào cuộc sống. Ngược lại, nếu việc xác định

những trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức thiếu rõ ràng, phối hợp lỏng lẻo,

hay giao trách nhiệm không phù hợp cho những cơ quan thiếu chuyên môn sẽ

là rào cản cho các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong các nhà nước

thiết kế bộ máy thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật không chặt

chẽ, xa dời thực tế sẽ ảnh hưởng thiếu tích cực cho xã hội về hiểu biết và chấp

hành pháp luật của người dân và doanh nghiệp.

Thứ tư, về năng lực tài chính của địa phương

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật luôn đòi hỏi nguồn tài chính

nhất định cho các hoạt động thực tế. Bên cạnh các khoản thu tư ngân sách cấp

trên cho hoạt động này (thường chậm trễ), năng lực tự chủ tài chính địa

phương sẽ là yếu tố hỗ trợ kịp thời cho các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật. Năng lực tài chính địa phương phản ánh mức độ bảo đảm những điều

kiện để chi trả các chi phí tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật,...Tùy thuộc

vào đối tượng và địa bàn cần tiến hành mà việc tổ chức phổ biến, giáo dục

pháp luật đòi hỏi chi phí nhiều hay ít. Các chi phí có thể bao gồm việc in ấn

tài liệu, chi trả báo cáo viên, hội trường, băng rôn,...Đối với các địa phương

có mức độ tự chủ về ngân sách cao khi có các nguồn thu tốt, sẽ bảo đảm các

khoản chi, trong đó có chi cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Một

chính quyền địa phương luôn quan tâm cập nhật thông tin chính sách, pháp

luật và mong muốn sớm đưa pháp luật vào cuộc sống sẽ không thể triển khai

được nếu phải chờ ngân sách cấp trên đưa xuống. Đối với những địa phương

36

chủ động về nguồn thu, có khả năng tự chủ ngân sách sẽ sẵn sàng đón nhận sự

chỉ đạo từ cấp trên và có điều kiện chủ động triển khai kịp thời công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật đến người dân địa phương, nâng cao hiệu quả quản lý

kinh tế, xã hội.

1.4.2. Các yếu tố khách quan

Thứ nhất, chính sách của nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật

Chính sách của nhà nước là sự thể hiện quan điểm, mức độ quan tâm

của Nhà nước về vấn đề, lĩnh vực nhất định của đời sống kinh tế - xã hội.

Trong chính sách của mình, nhà nước thể hiện rõ mục tiêu cần đạt tới và đưa

ra giải pháp để đạt mục tiêu. Chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật, ở

mỗi giai đoạn, mỗi địa phương, bộ, ngành, tùy tình hình thực tế, nhà nước

thường có mức độ quan tâm khác nhau. Các giải pháp cho mục tiêu nâng cao

nhận thức và thực hiện pháp luật của người dân thường biểu hiện ở mức độ

quan tâm của nhà nước trong ban hành chính sách, tăng cường hội thảo, hội

nghị, tập huận, báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm, đảm bảo nguồn kinh phí chp

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Những chính sách như vậy từ Trung

ương vì thế có tác động mạnh mẽ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói

chung, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại các địa phương nói riêng.

Thứ hai, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương cũng là một trong

những yếu tố tác động đến kết quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.

Điều kiện tự nhiên, xã hội địa phương cho biết địa phương có địa hình đồng

bằng hay miền núi, hải đảo hay đất liền, mức độ phức tạp nhiều hay ít của các

tôn giáo, các dân tộc trên địa bàn,...Điều đó tác động đến khả năng triển khai

các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đến các đối tượng người dân,

doanh nghiệp,..Điều kiện kinh tế của địa phương chi phối đến nguồn thu và

37

mức độ tự chủ về tài chính để triển khai hay không thể triển khai các hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật thường xuyên, kịp thời.

Thứ ba, trình độ nhận thức của đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật

tại địa phương

Mức độ nhận thức của đối tượng phụ thuộc vào trình độ dân trí hay mặt

bằng văn hóa chung của người dân địa phương. Trình độ dân trí thể hiện cả về

hình thức và nội dung, cả về mặt lượng và chất. Theo đó dân trí vừa được

hiểu là trình độ văn hóa chung, biểu hiện ở tỷ lệ biết đọc, biết viết, bằng cấp,

vừa phản ánh ở sự hiểu biết và ý thức được quyền và trách nhiệm của người

dân. Vì vậy trình độ dân trí có quan hệ mật thiết với khả năng hiểu biết, nhận

thức pháp luật của người dân. Việc lựa chọn hình thức, phương pháp nào, tốn

kém hay đỡ tốn kém, mức độ đạt được về nhận thức pháp luật của người dân

cũng phụ thuộc vào mặt bằng dân trí. Khi trình độ nhận thức của người dân ở

mức cao, kết quả của phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ tích cực hơn. Hạn chế

tình trạng coi thường pháp luật, hành động theo bản năng, không lý trí, người

dân sẽ có ý thức tự cập nhật, tìm hiểu các kiến thức pháp luật cơ bản, liên

quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của họ phục vụ việc bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của bản thân. Khi đó, việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp

luật sẽ rất thuận lợi, tạo điều kiện để các chủ thể truyền tải những thông tin

pháp luật có tính chuyên sâu mà đối tượng muốn hướng tới.

38

Tiểu kết chương 1

Phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương là một khâu của của hoạt

động tổ chức thực hiện pháp luật, do các cơ quan, tổ chức, nhà nước, đoàn

thể, cá nhân tại địa phương thực hiện, bằng các hình thức, phương pháp thích

hợp, nhằm mục đích hình thành ở đối tượng tác động tri thức pháp luật, tình

cảm, niềm tin pháp luật, tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Chương 1 của luận văn nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về phổ biến,

giáo dục pháp luật tại phương. Trong toàn chương, luận văn đã đó tập trung

vào giải quyết, làm rõ các vấn đề cơ bản như: Khái niệm, đặc điểm và vai trò

của phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương; Nội dung và hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật tại địa phương; Các yêu cầu đặt ra đối với công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật và các yếu tố chi phối hiệu quả phổ biến, giáo

dục pháp luật tại địa phương.

Nội dung chủ yếu của phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm các quy định

của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, về Các điều ước quốc tế mà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc

tế và ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích

của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp

luật và hệ thống các thông tin pháp luật thực định, những thông tin pháp luật

chuyên ngành, những thông tin về thực tiễn thực thi, áp dụng pháp luật. Về

hình thức, phổ biến, giáo dục pháp luật có thể được thực hiện thông qua các

hình thức mang tính phổ biến, truyền thống như: phổ biến, nói chuyện pháp

luật, các hội nghị, hội thảo, sinh hoạt pháp luật chuyên đề, các câu lạc bộ pháp

luật, các đội thông tin lưu động, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tuyên truyền

qua báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức văn học,

nghệ thuật, dạy học pháp luật ở các trường,..và các hình thức mang tính đặc

thù như: các hoạt động định hướng phổ biến, giáo dục pháp luật trong các

39

hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của các cơ quan như Quốc hội,

Chính phủ, Tòa án và các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua

các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức quần chúng, tổ hòa giải,

công tác trợ giúp pháp lý, tư pháp pháp luật,..

Để đạt được mục tiêu, các yêu cầu đặt ra đối với công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật là phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà

nước ở trung ương và chính quyền địa phương đối với việc phổ biến, giáo dục

pháp luật; xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp

luật; Nội dung phổ biến, giáo dục phải chính xác, đầy đủ, dễ hiểu, thiết thực;

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải kịp thời, thường xuyên, có

trọng tâm, trọng điểm; phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

phải đa dạng, phù hợp với từng đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật,

đồng thời phải kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với các hình thức hướng

dẫn áp dụng pháp luật khác. Bên cạnh các yêu cầu, để đạt được hiệu quả phổ

biến, giáo dục pháp luật, cần phải nhận diện và đánh giá đúng về các yếu tố

chi phối đến hoạt động này để và hạn chế, xóa bỏ các yếu tố tiêu cực, phát

huy những tác động tích cực. Các yếu tố chi phối hiệu quả phổ biến, giáo dục

pháp luật có thể là các yếu tố chủ quan như công tác chỉ đạo, điều hành; chủ

thể phổ biến, giáo dục pháp luật; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong

bộ máy phổ biến, giáo dục pháp luật; năng lực tài chính của địa phương hay

các yếu tố chủ quan như chính sách của nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp

luật; điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương; trình độ nhận thức

của đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương

Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp

luật là cơ sở cần thiết cho nghiên cứu thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật

trên địa bàn huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ở chương 2.

40

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY HOÀ, TỈNH PHÚ YÊN

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý

Tây Hòa là một huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Phú Yên, có tọa độ địa lý từ 120 45’7” đến 120 45’15” độ vĩ Bắc và 1090 15’ 13” đến 1090 15’39” độ kinh Đông.

- Phía Bắc giáp huyện Sơn Hòa và huyện Phú Hòa;

- Phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa;

- Phía Đông giáp huyện Đông Hòa;

- Phía Tây giáp huyện Sông Hinh.

Diện tích tự nhiên là 60.945,06 ha, dân số 117.429 người (năm 2014) với

mật độ dân số: 193 người/km2.

Bên cạnh diện tích đồng bằng rộng lớn, Tây Hòa là huyện có nhiều đồi

núi cao và không có phần đất tiếp giáp với biển.

* Về đơn vị hành chính

Huyện Tây Hòa tỉnh Phú Yên được thành lập theo Nghị định số

62/205/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính Phủ về việc thành lập xã thuộc các

huyện Tuy Hòa, Sông Cầu và chia huyện Tuy Hòa thành huyện Đông Hòa và

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/7/2005.

Huyện Tây Hòa gồm 11 đơn vị hành chính, trong đó có 01 thị trấn (thị

trấn Phú Thứ), 06 xã đồng bằng (Hòa Bình 1, Hòa Phong, Hòa Phú, Hòa Mỹ

Đông, Hòa Đồng, Hòa Tân Tây) và 04 xã miền núi (Sơn Thành Đông, Sơn

Thành Tây, Hòa Mỹ Tây, Hòa Thịnh).

41

Hình 3.1. Địa giới hành chính huyện Tây Hòa

* Về khí hậu

Đặc điểm khí hậu của huyện Tây Hòa: Nằm trong vùng nhiệt đới gió

mùa, nóng ẩm, trong năm có 2 mùa rõ rệt.

Nắng trung bình các tháng trong năm dao động từ 122 đến 264 giờ và

tổng số giờ nắng trong cả năm 2.384 giờ, thậm chí ngay những tháng mùa

mưa, không phải bầu trời lúc nào cũng bị mây phủ mà xen kẽ có những ngày

nắng gián đoạn hoặc nắng cả ngày. Điều này thuận lợi cho hoạt động sản xuất

nông nghiệp.

Chế độ mưa: tại điểm đo mưa Hòa Đồng và Sơn Thành cho thấy, tổng

lượng mưa trung bình nhiều năm từ 2.237 – 2.374 mm.

Chế độ gió, bão, áp thấp nhiệt đới: Có hai hướng gió chủ đạo trong năm

là gió Tây - Nam và gió mùa Đông Bắc. Ngoài ra, còn có gió Nồm thổi

thường xuyên trong ngày.

42

* Địa hình

Huyện Tây Hòa có 2 dạng địa hình chính như sau:

- Dạng địa hình đồi núi: nằm về hướng Nam giáp tỉnh Khánh Hòa và

huyện Sông Hinh trải dài từ tây sang đông chiếm trên 60% tổng diện tích tự

nhiên. Địa hình bị chia cắt mạnh, độ cao trung bình từ 300 - 700m so với mặt

nước biển, có nhiều núi có độ cao lớn tập trung ở xã Hòa Mỹ Tây như: Hòn

Dù (1.446m), Hòn Chúa (1.005m), Hòn Kỳ Đà (710m), Hòn Ông (1.104m);

địa hình phức tạp, độ dốc lớn, chia cắt mạnh.

- Dạng địa hình đồng bằng: Do bồi tụ của sông Ba và sông Bánh Lái

trải dài từ Tây sang Đông chiếm gần 40% diện tích tự nhiên toàn Huyện. Phía

Tây là vùng đất đỏ bazan như một bình nguyên thấp có độ cao trung bình từ

30 - 40m. Phía Đông - Bắc là vùng đất phù sa cũng là vùng đồng bằng trồng

lúa 2 vụ lớn nhất Tỉnh, nhờ sự bồi lắng phù sa hàng năm của 2 con sông

chính: sông Bánh Lái và sông Ba.

Nằm ở sườn đông của dãy Trường Sơn, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng và

núi với nhiều dãy núi cao thấp đan xen nhau.

2.1.2. Điều kiện kinh tế

Huyện Tây Hòa là một huyện thuần nông, hoạt động chủ yếu là sản

xuất nông nghiệp, trong đó chủ yếu là trồng lúa. So với toàn tỉnh, Huyện Tây

Hòa được coi như là vựa lúa của tỉnh. Được tỉnh đặc biệt quan tâm đầu tư hệ

thống thuỷ lợi nên Tây Hoà có hệ thống thuỷ lợi khá đồng bộ, đảm bảo cung

ứng nguồn nước cho phần lớn diện tích đất nông nghiệp.

Hướng phát triển kinh tế trong thời gian tới, Tây Hoà vẫn xác định:

phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững là nhiệm vụ trọng

tâm. Trong đó, điểm mấu chốt là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây

dựng các vùng lúa trọng điểm năng suất cao, trồng cây công nghiệp nguyên

liệu và xuất khẩu. Cùng với đó, huyện sẽ đẩy mạnh phát triển công nghiệp -

tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ.

43

* Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, bình quân GDP giai đoạn 2005 –

2015 là 13,00% (vượt chỉ tiêu 1,37% so với Nghị quyết Đảng bộ đề ra), cao

hơn so với chỉ tiêu tăng trưởng của Tỉnh 12,5%. Trong đó, cơ cấu GDP

(2015) theo khu vực kinh tế như sau: nông – lâm - thủy sản chiếm 40,97%;

công nghiệp - xây dựng 24,53%; dịch vụ 34,5%. Tổng sản phẩm trên địa bàn

giá thực tế năm 2015 đạt 24 tỷ đồng tăng 1,4 lần so với năm 2005. Tổng vốn

đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2015 đạt 537,3 tỷ đồng, GDP bình quân đầu

người 13,34 triệu đồng năm 2015. [31]

* Chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế được thể hiện trong cơ cấu

kinh tế là: từng năm giảm tỷ trọng các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tăng

các ngành công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ.

- Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng bình quân GDP tăng từ

19,8% năm 2005 và tăng lên 21,51% năm 2015.

- Tỷ trọng ngành thương mại - dịch vụ bình quân GDP từ 22,3% năm

2005 và tăng lên 32,72% năm 2015.

- Tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp bình quân GDP có xu thế giảm

từ 57,8% năm 2005 và giảm còn 42,77% năm 2015. [31]

* Đánh giá chung:

Trong những năm gần đây huyện Tây Hòa có mức tăng trưởng kinh tế

khá, cơ cấu các ngành kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, hứa hẹn sẽ có

sự chuyển dịch mạnh trong thời gian tới.

Kinh tế khu vực nông nghiệp nông thôn đã phát triển thành hàng hóa,

nhưng vẫn còn nhiều tiềm năng, nhất là khu vực các xã phía tây huyện như

Hòa Phú, Sơn Thành Đông, Sơn thành Tây có thuận lợi phát triển cây công

nghiệp: cao su, tiêu với qui mô lớn sẽ thay đổi mạnh trong cơ cấu nội bộ

ngành nông nghiệp.

44

2.1.3. Đặc điểm chính trị - xã hội

* Về dân số

Dân số trung bình của huyện Tây Hòa đến năm 2014 là 117.429 người, mật độ dân số trung bình 193 người/km2; Trong đó: mật độ đông nhất là xã Hòa Đồng với 1.061 người/km2, thấp nhất là xã Sơn Thành Tây với 33 người/km2.

* Về lao động và việc làm

Trong 10 năm qua huyện đã giải quyết việc làm mới cho 16.915 lao

động, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 25,27 % (năm 2005 là 14,7%). Cơ cấu

lao động tiếp tục chuyển dịch tích cực giảm số lao động lĩnh vực nông nghiệp,

tăng lao động trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.

* Thu nhập và đời sống

Thu nhập và đời sống của nhân dân trong các năm gần đây ngày càng

được tăng cao và cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ

5,58 triệu đồng năm 2005 và lên 13,48 triệu đồng năm 2014. Tỷ lệ hộ nghèo

giảm xuống còn 11% so với tiêu chí mới (tiêu chí 2011-2015).

* Tội phạm về trật tự xã hội

Trong năm 2016, trên địa bàn huyện xảy ra 37 vụ (giảm 01 vụ so với

năm 2015). Cụ thể: giết người 01 vụ; cố ý gây thương tích 19 vụ; trộm cắp tài

sản 08 vụ; hủy hoại tài sản 01 vụ; lừa đảo chiếm đoạt tài sản 01 vụ; dâm ô trẻ

em 01 vụ; giao cấu với trẻ em 01 vụ; cướp giật tài sản 02 vụ; cưỡng đoạt tài

sản 01 vụ; cố ý làm hư hỏng tài sản 01 vụ; trốn khỏi nơi giam, giữ 01 vụ.

Thiệt hại do tội phạm gây ra: làm chết 01 người, bị thương 25 người, mất 11

xe mô tô, 23,5 chỉ vàng Y, 01 điện thoại di động, 160 triệu đồng và một số tài

sản có giá trị khác trị giá khoảng 75 triệu đồng. Tội phạm trộm cắp tài sản

giảm, nhưng tội phạm cố ý gây thương tích lại tăng và chiếm tỷ lệ cao trong

cơ cấu tội phạm (48,7%), nguyên nhân chủ yếu là do các nhóm thanh niên tụ

45

tập uống rượu, bia, phát sinh mâu thuẫn sử dụng hung khí đánh nhau gây

thương tích; một số trường hợp gây thương tích là do mẫu thuẫn trong cuộc

sống hàng ngày.

Về tội phạm xâm phạm về trật tự quản lý kinh tế, chức vụ:Trong năm

2016, xảy ra 02 vụ (tăng 02 vụ so với năm 2015), gồm: 01 vụ vi phạm các

quy định về khai thác và bảo vệ rừng và 01 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả là

thực phẩm (rượu ngoại giả).

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường: Phát hiện 03 trường hợp

mua bán, vận chuyển động vật hoang dã trái phép, 05 trường hợp vận chuyển cát trái phép, 19 trường hợp mua bán, vận chuyển, tập kết 4,956m3 gỗ không

giấy tờ hợp pháp.

Tội phạm về ma túy: Trong năm 2016, không xảy ra (giảm 01 vụ so với

năm 2015). Phát hiện 01 vụ - 05 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy.

Tình hình trật tự an toàn giao thông: Trong năm 2016, xảy ra 21 vụ,

làm chết 12 người, bị thương 21 người, thiệt hại tài sản khoảng 43,2 triệu

đồng (giảm 02 vụ, tăng 01 người chết, giảm 04 người bị thương so với năm

2015); không xảy ra tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, ùn tắc giao

thông và đua xe trái phép.

2.2. Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật của huyện Tây Hòa, tỉnh Phú

Yên giai đoạn 2011-2016

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng trên địa bàn

huyện Tây Hòa đã được tiến hành một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú về

nội dung lẫn hình thức. Các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật đã lựa chọn và

áp dụng các hình thức phù hợp với đặc điểm, tình hình và điều kiện của địa

phương cũng như các đối tượng trên địa bàn huyện Tây Hòa. Trong đó, có

nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có tính hiệu quả cao và thu hút

được nhiều đối tượng tham gia.

46

2.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tuyên truyền miệng

Tuyên truyền miệng là hình thức phổ biến mà chủ thể nói trực tiếp với đối

tượng, còn đối tượng trực tiếp nghe chủ thể nói về các lĩnh vực pháp luật mà chủ

thể hướng tới. Trong đó, chủ thể hướng trọng tâm là phổ biến, giới thiệu các quy

định pháp luật với mục đích nâng cao nhận thức của người nghe, hướng người

nghe hành động theo quy định pháp luật. Đây được sử dụng như một hình thức

phổ biến pháp luật quan trọng, gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức phổ biến

khác và là một bộ phận không thể thiếu, không thể tách rời trong tổng thể các

hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật.

Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại

chúng như hiện nay, tuyên truyền miệng vẫn luôn giữ vị trí quan trọng trong

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật bởi nó có thể được thực hiện được ở

mọi nơi, mọi lúc, đưa thông tin, kiến thức pháp luật đến với từng đối tượng

trong mọi hoàn cảnh, điều kiện mà không bị phụ thuộc vào không gian, thời

gian, công cụ hỗ trợ. Chính vì vậy, đây được xem là hình thức chiếm ưu thế,

được huyện Tây Hòa chú trọng và sử dụng thường xuyên trong hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật.

Trong những năm qua, huyện Tây Hòa đã xây dựng được đội ngũ

người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với nòng cốt là báo cáo viên

pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật với nhiệm vụ chính là tổ chức thực

hiện các kế hoạch, chương trình do Huyện ủy, Ủy ban nhân dân ban hành

bằng việc tổ chức các buổi tuyên truyền miệng tại cộng đồng dân cư ở địa

phương. Với số lượng 12 báo cáo viên pháp luật cấp huyện và 132 tuyên

truyền viên pháp luật được công nhận có trình độ và sự am hiểu các lĩnh vực

pháp luật khác nhau đã thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, góp phần đáng kể

đưa pháp luật vào đời sống xã hội.

Trong 05 năm (2011-2016), huyện Tây Hòa đã tổ chức 476 cuộc tuyên

47

truyền miệng với khoảng 21 637 lượt người tham dự, chủ yếu được tổ chức

tại trụ sở thôn, khu phố, nơi sinh hoạt cộng đồng, nơi đông dân cư tại cơ sở.

2.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật

Thi tìm hiểu pháp luật cũng là một hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

được áp dụng tại huyện Tây Hòa. Trong 05 năm (2011-2016), Huyện đã tổ chức,

phát động được 39 cuộc thi tìm hiểu pháp luật, bao gồm nhiều loại hình như: thi

viết, thi hỏi - đáp, thi sân khấu hóa. Đặc biệt, loại hình thi sân khấu hóa luôn

thu hút được sự quan tâm, hưởng ứng từ phía người dân.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, thi tìm hiểu pháp luật tại huyện

Tây Hòa có cuộc thi được tổ chức từ cơ sở đến huyện nhưng cũng có những

cuộc thi chỉ được tổ chức riêng ở cấp xã hoặc cấp huyện. Nổi bậc có các

cuộc thi tìm hiểu pháp luật như: Hòa giải viên giỏi, tìm hiểu Luật Giao thông

đường bộ và các văn bản hướng dẫn thi hành; tìm hiểu pháp luật về bình

đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình; tìm hiểu pháp luật về phòng,

chống ma túy; tìm hiểu Luật Nghĩa vụ quân sự; tìm hiểu Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;.. Các cuộc thi đã tập trung vào các chủ

đề thiết thực mà người dân quan tâm. Trong đó, có những nội dung lĩnh vực

pháp luật hầu như năm nào cũng được tổ chức với các loại hình khác nhau

như thi viết, thi sân khấu hóa như thi tìm hiểu Luật Giao thông đường bộ và

các văn bản hướng dẫn thi hành; cũng có những nội dung lĩnh vực pháp luật

cứ định kỳ 02 đến 03 năm được tổ chức từ cấp xã đến cấp huyện như thi Hòa

giải viên giỏi, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật về hôn nhân và gia

đình,..

Qua thực tiễn áp dụng tại Huyện Tây Hòa cho thấy, tìm hiểu pháp luật

là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật không cần sự đầu tư kinh phí lớn,

nhưng có nhiều loại hình khác nhau, dễ dàng mở rộng phạm vi đối tượng

tham gia do đó mang lại hiệu quả phổ biến, giáo dục cao. Qua các cuộc thi

48

tìm hiểu pháp luật đã thu hút đông đảo cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân

dân hào hứng, phấn khởi tham gia, biến các quy định pháp luật tưởng khô khăn

có thể lan tỏa, dễ dàng đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả cao nhất.

Qua việc tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, Huyện Tây Hòa đã tạo hiệu

ứng lan tỏa rộng rãi đến cán bộ, công chức, viên chức các tầng lớp nhân dân;

là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý rộng khắp. Có thể nói, hình thức này đã

tạo nên hiệu quả tích cực, từ việc theo dõi, luận bàn và tham gia dự thi của

đông đảo những người tham gia dự thi.

2.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin

đại chúng

Nhận thức được lợi thế của hình thức này là phổ cập, nhanh chóng, kịp

thời, rộng khắp, hấp dẫn và có đông đảo bạn đọc, khán thính giả, do đó

Huyện Tây Hòa đã tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật

thông qua hình thức này. Hiện nay, Huyện Tây Hòa phổ biến, giáo dục pháp

luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng gồm: Đài Truyền thanh

huyện, hệ thống loa truyền thanh cơ sở và Trang Thông tin điện tử của Ủy

ban nhân dân huyện.

Hệ thống loa truyền thanh đã xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ

trước và đã có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng

đất nước, tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, có vai trò

quan trọng trong chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền từ cấp huyện,

cấp xã đến với người dân. Từ thực tế này, cho thấy Đài Truyền thanh huyện

và hệ thống loa truyền thanh cơ sở là hình thức tuyên truyền không phải là

mới nhưng đến nay hình thức này vẫn còn mang tính hiệu quả về phổ biến,

giáo dục của nó. Trước sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng hiện nay của các

hình thức thông tin địa chúng hiện đại như internet, mạng xã hội, truyền

hình,.. người dân có nhiều sự lựa chọn, nhiều cơ hội để tiếp cận các thông tin

49

kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,.. và đặc biệt là đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hơn so với trước đây.

Song, Đài Truyền thanh và hệ thống loa truyền thanh cơ sở vẫn có vai trò

quan trọng bởi đây là phương tiện truyền thông ở cơ sở, sát với đời sống của

người dân, phù hợp với trình độ, ngôn ngữ, phong tục tập quán của người

dân ở cơ sở nhất. Đặc biệt, hình thức này tỏ ra cực kỳ hiệu quả đối với huyện

Tây Hòa, bởi Tây Hòa là huyện thuần nông với khu vực nông thôn là chủ

yếu.

Huyện Tây Hòa đã chỉ đạo Đài Truyền thanh huyện chủ trì xây dựng

quy chế phối hợp với các cơ quan, đơn vị, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các xã,

thị trấn trong việc cung cấp tin, bài để tuyên truyền, phổ biến trên hệ thống

Đài Truyền thanh và hệ thống loa truyền thanh cơ sở. Đặc biệt, xây dựng

chuyên mục tuyên truyền pháp luật kịp thời cập nhật, đăng tải những thông

tin pháp luật phục vụ nhu cầu tìm hiểu của người dân. Trong đó, nổi bậc có

thể kể đến chương trình “Pháp luật và đời sống”, là sản phẩm sự phối hợp

với Phòng Tư pháp huyện, đều đặn 02 tháng 01 chuyên đề với thời lượng từ

10 phút đến 20 phút, phát mỗi tháng 01 lần,..

Ngoài ra, các báo cáo viên pháp luật huyện cũng thường xuyên viết

tin, bài liên quan đến pháp luật gửi Đài Truyền thanh huyện để phát thanh

cũng đã góp phần tuyên truyền pháp luật đến với người dân thông qua hình

thức này.

Bên cạnh đó, ở 11/11 xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã được trang bị

hệ thống loa truyền thanh cơ sở là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu của địa

phương, đây là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ trực

tiếp của Đảng, chính quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều

hành để phát triển kinh tế, xã hội. Đây là kênh thông tin, tuyên truyền để

giúp người dân nắm bắt các chủ trương, chính sách của cấp trên và chính

50

quyền địa phương đến với người dân từng thôn, khu phố, trở thành phương

tiện thông tin có sức lan tỏa mạnh mẽ và hiệu quả. Đặc biệt, vai trò to lớn

của hệ thống này đã chứng minh ở các xã miền núi, thôn đặc biệt khó khăn

trên địa bàn huyện.

Cùng với việc phổ biến, giáo dục pháp luật qua Đài Truyền thanh và

hệ thống loa truyền thanh cơ sở, Huyện Tây Hòa còn tổ chức tuyên truyền

pháp luật thông qua Trang Thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân huyện. Bắt

đầu chính thức đưa vào hoạt động vào cuối năm 2013, Trang Thông tin điện

tử của Ủy ban nhân dân huyện trở thành hình thức phổ biến, giáo dục pháp

luật mới mẻ, áp dụng công nghệ thông tin phù hợp với nhu cầu tìm hiểu

nhanh chóng, dễ dàng của người dân. Thấy rõ lợi thế của hình thức này,

Huyện Tây Hòa đã chỉ đạo Ban biên tập Trang Thông tin điện tử của Ủy ban

nhân dân huyện lập chuyên mục “Tuyên truyền pháp luật” thường xuyên,

liên tục, kịp thời cập nhật, đăng tải những thông tin pháp luật, kịp thời phản

ánh những hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện.

Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng gồm: Đài Truyền thanh huyện, hệ thống loa truyền thanh cơ sở và

Trang Thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân huyện là hình thức ít tốn kém

nhưng đem lại hiệu quả đáng kể bởi hình thức này đảm bảo tính kịp thời, tính

thời sự, tính đại chúng, đặc biệt có ý nghĩa đối với người dân ở vùng nông

thôn, vùng núi.

2.2.4. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở

Sau khi Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi

hành có hiệu lực, Huyện Tây Hòa đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn

tổ chức rà soát, củng cố và kiện toàn các tổ hòa giải trên địa bàn huyện. Kết

quả, đến nay 73/73 thôn, khu phố trên địa bàn huyện Tây Hòa đã thành lập tổ

hòa giải ở cơ sở với 622 hòa giải viên. Trong đó: nam 524 người, nữ 98

51

người, dân tộc kinh 621 người, dân tộc khác 01 người, được bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ 224 người; thành phần là Trưởng thôn, Trưởng khu

phố, Bí thư chi bộ thôn, khu khố, thành viên ban nhân dân thôn, khu phố,

những người có uy tín, am hiểu pháp luật tại cở sở,.. Nhìn chung, các hòa giải

viên đều có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình với công việc, am hiểu chủ

trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Xác định phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hòa giải ở cơ sở là

hoạt động có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, đem lại kết quả thiết thực vì vậy hoạt

động hòa giải ở cơ sở đã được cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo

việc thực hiện từ tổ chức tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ đến đầu tư hỗ trợ

về kinh phí cho hoạt động này. Hàng năm, ngoài các lớp tập huấn do Sở Tư

pháp tỉnh Phú Yên tổ chức thì Huyện Tây Hòa cũng đã chủ động tổ chức bồi

dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở với nhiều

hình thức như: tập huấn, hội nghị, các cuộc thi hòa giải viên giỏi,.. nhằm bồi

dưỡng, cập nhật những kiến thức pháp luật mới cũng như nâng cao chuyên

môn, nghiệp vụ cho đội ngũ này. Tuy nhiên, do đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở

đông và điều kiện kinh phí còn hạn chế nên chưa được tổ chức thường xuyên,

xuyên suốt.

Kết quả những năm gần đây cho thấy, mỗi năm trung bình trên địa bàn

huyện các tổ hòa giải đã tổ chức hòa giải hơn 250 vụ việc, chủ yếu là các vụ

việc phát sinh từ quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình và các mâu thuẫn, xích

mích, tranh chấp khác. Trong đó, tỷ lệ hòa giải thành năm 2016 đạt 72,6%

tăng 3,3% so với năm 2011 là 69,3%. Thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở

đã góp phần giữ gìn tình làng nghĩa xóm, tình đoàn kết, tương thân tương ái

trong cộng đồng dân cư, ngăn chặn và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn,

xích mích và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư, góp phần vào việc ổn

định trật tự, an toàn xã hội, giảm số lượng vụ việc tranh chấp phải chuyển đến

52

Tòa án nhân dân huyện và các cơ quan hành chính địa phương, hạn chế các

đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Lực lượng hòa giải viên đóng vai trò quan trọng trong quá trình hòa

giải ở cơ sở, là sự kết hợp hài hòa giữa việc tiến hành hòa giải các vụ việc

thực tế phát sinh với phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật có liên

quan đến vụ việc; đồng thời là sự vận dụng hướng dẫn, cung cấp, giải thích

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thông

qua hoạt động hòa giải cho các bên được hòa giải và cả những người xung

quanh từ đó hình thành ở họ sự hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật

và ý thức hành động theo pháp luật. Chính vì những lý do trên, có thể khẳng

định hoạt động hòa giải ở cơ sở là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đặc

biệt, chỉ được thực hiện khi có tranh chấp, mâu thuẫn nhỏ xảy ra và được hòa

giải viên tiến hành hòa giải, vì vậy hoạt động này có ý nghĩa phổ biến, giáo

dục rất thực tế, thực tiễn sâu sắc, mang lại hiệu quả thiết thực.

2.2.5. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua biên soạn, phát hành tài liệu

pháp luật

Trong những năm gần đây, việc biên soạn, phát hành tài liệu pháp luật

được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện thường xuyên.

Ngoài lượng tài liệu chủ yếu là tờ rơi, tờ gấp,.. được Sở Tư pháp tỉnh Phú

Yên cấp thì Huyện Tây Hòa cũng đã chỉ đạo Hội đồng phối hợp phổ biến,

giáo dục pháp luật huyện chủ trì, phối hợp với các cơ quan tổ chức biên soạn

và phát hành. Kết quả từ năm 2011-2016 đã biên soạn và cấp phát hơn 5.320

tài liệu pháp luật dưới nhiều dạng như tờ rơi, tờ gấp, hỏi đáp, đố vui pháp

luật,..với nội dung đa dạng, phong phú bao gồm: các quy định pháp luật mới,

nghiệp vụ tuyên truyền, các lĩnh vực pháp luật về hôn nhân gia đình, dân sự,

hộ tịch, an toàn giao thông, đất đai,... phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của

nhiều đối tượng như cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị, địa

53

phương và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn huyện, đặc biệt phù hợp với

các đối tượng đặc thù như người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số,..

2.2.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua thông qua tủ sách pháp luật

Sau khi Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ

tướng Chính phủ về xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật có hiệu

lực, Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa chỉ đạo Phòng Tư pháp huyện tổ chức

quán triệt, triển khai nội dung Quyết định đến các cơ quan, đơn vị huyện, Ủy

ban nhân dân các xã, thị trấn biết, thực hiện. Đến nay, trên địa bàn huyện có

62 Tủ sách pháp luật, trong đó: 11 Tủ/11 xã, thị trấn (đạt 100%) và 51 Tủ/73

thôn, khu phố (đạt 69%) [24]. Tủ sách pháp luật được đặt tại trụ sở làm việc,

nơi có vị trí thuận tiện để cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân có thể

đọc hoặc mượn đọc sách, báo, tài liệu pháp luật.

Công chức Tư pháp – Hộ tịch được phân công phụ trách các Tủ sách

pháp luật tại Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và Trưởng thôn, Trưởng khu

phố được phân công phụ trách Tủ sách pháp luật tại các thôn, khu phố, có quy

chế quản lý và sổ theo dõi rõ ràng, khoa học, thuận tiện để cán bộ, công chức

và nhân dân có thể dễ dàng tiếp cận không những các tài liệu pháp luật liên

quan trực tiếp đến công việc, đời sống xã hội mà còn là những quy định mới

được ban hành.

Được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương. Tủ

sách pháp luật đã được đầu tư mua thêm sách, tăng về số lượng và chất lượng.

Đến nay, tại mỗi Tủ sách pháp luật đã có hơn 200 đầu sách pháp luật và các

loại sách hướng dẫn nghiệp vụ, các văn bản quy phạm pháp luật như Luật,

Nghị định có liên quan trực tiếp đến Nhân dân, tài liệu phổ thông như sách

hỏi đáp, giải thích pháp luật, tờ gấp, tờ rơi tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật,..

54

Số lượt người đọc/mượn đọc tại Tủ sách pháp luật trung bình hàng năm

với hơn 210 lượt, do đó đã góp phần phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của

cán bộ, công chức nói riêng và nhân dân nói chung về các lĩnh vực pháp luật

thiết yếu với đời sống, công việc hàng ngày.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, phổ biến, giáo dục pháp luật

thông qua Tủ sách pháp luật vẫn còn một số khó khăn, hạn chế nhất định. Bởi,

thực tế thực hiện thời gian qua trên địa bàn huyện cho thấy, số lượng đầu

sách, tài liệu pháp luật còn ít, chưa phong phú; việc nhiều văn bản quy phạm

pháp luật thường xuyên được ban hành mới do đó việc cập nhật những nội

dung, đầu sách, tài liệu mới còn nhiều hạn chế, phần lớn trong Tủ sách pháp

luật là các văn bản Luật, tờ rơi, tờ gấp chứ chưa có các văn bản hướng dẫn thi

hành. Đồng thời, tại các địa điểm đặt Tủ sách pháp luật chưa có phòng đọc

riêng. Hơn nữa, Tủ sách pháp luật chỉ hoạt động vào giờ hành chính – đây

cũng là thời gian lao động của người dân. Chính những lý do trên đã ảnh

hưởng không nhỏ đến sức hút của Tủ sách pháp luật. Mặt khác, người phụ

trách Tủ sách pháp luật là kiêm nhiệm, phải thực hiện nhiều công việc khác,

không có thời gian đầu tư, cũng như chưa được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng,

nghiệp vụ quản lý Tủ sách pháp luật nên chưa chủ động, quan tâm nhiều đến

hoạt động của Tủ sách pháp luật dẫn đến việc chưa phát huy được tác dụng

của Tủ sách pháp luật. Bên cạnh đó, kinh phí đầu tư cho Tủ sách pháp luật tại

địa phương còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu bổ sung số lượng đầu

sách mới hàng năm.

2.2.7. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người

được trợ giúp pháp lý (người nghèo, người có công với cách mạng, người già

cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số

thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn), giúp họ

55

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức

tôn trọng và chấp hành pháp luật.

Có thể nói rằng, trợ giúp pháp lý là một trong những biện pháp của Nhà

nước nhằm đưa chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp

nghĩa và bảo vệ công bằng xã hội của Đảng đi vào cuộc sống. Hoạt động trợ

giúp pháp lý với đối tượng phục vụ là người nghèo, đối tượng chính sách,

đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và

người nghèo đề điều kiện tiếp cận pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng của họ

trước pháp luật, góp phần tích cực vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo

vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa và hạn chế tranh chấp và

vi phạm pháp luật.

Trong những năm qua, trợ giúp pháp lý trên địa bàn Huyện Tây Hòa

được thực thông qua nhiều hình thức như:

Trợ giúp pháp lý lưu động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước

tỉnh Phú Yên;

Hoạt động của câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý xã Hòa Đồng;

Hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức hành nghề luật sư, hội luật gia.

Hàng năm, Huyện Tây Hòa đã phối hợp với Trung tâm Trợ giúp pháp

lý Nhà nước tỉnh Phú Yên tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động chủ yếu tại các

thôn thuộc các xã miền núi như: Sơn Thành Tây, Sơn Thành Đông, Hòa

Thịnh, Hòa Mỹ Tây với đối tượng chủ yếu là người nghèo, người có công

với cách mạng, người già cô đơn,.. đặc biệt còn có đối tượng là người dân tộc

thiểu số cư trú tại thôn Lạc Đạo, xã Sơn Thành Tây là thôn đặc biệt khó khăn

duy nhất của Huyện. Trong những năm qua, hoạt động trợ giúp pháp lý lưu

động được tổ chức bình quân 02 đợt một năm, mỗi đợt khoảng từ 60 đến 70

đối tượng với hàng trăm ý kiến. Nội dung trợ giúp pháp lý chủ yếu tập trung

vào các vấn đề như chế độ chính sách cho người có công, bảo trợ xã hội, các

56

vấn đề về đất đai,.. Qua việc trợ giúp viên pháp lý về tận cơ sở để hướng dẫn

người dân xử sự theo quy định pháp luật và đạo đức xã hội, kết hợp tư vấn,

giải thích những vấn đề pháp luật mà nhân dân quan tâm, góp phần tạo niềm

tin, sự phấn khởi của nhân dân đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bên cạnh đó, hoạt động của câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý xã Hòa Đồng

cũng tỏ ra khá hiệu quả. Câu lạc bộ hoạt động theo quy chế, tổ chức giao ban

giữa các thành viên 02 tháng một lần nhằm trao đổi thông tin pháp luật cũng

như kinh nghiệm giữa các thành viên của câu lạc bộ và phân công thành viên

trực để trợ giúp pháp lý khi người dân có nhu cầu 01 lần/tuần.

Hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức hành nghề luật sư, hội luật gia

cũng là một hình thức trợ giúp pháp lý cũng mang lại hiệu quả cao. Thông

qua hoạt động tư vấn pháp luật, các luật sư, luật gia thực hiện phổ biến, giáo

dục pháp luật, giúp định hướng hành vi ứng xử, nâng cao sự hiểu biết pháp

luật cho người được tư vấn, đồng thời giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ

pháp lý của mình.

Từ những kết quả đã đạt được, có thể thấy rằng: phổ biến, giáo dục

pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý khác với các hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật khác. Trong khi các hình thức khác mang tính đại

chúng, đại trà, hướng vào số đông thì trợ giúp pháp lý chủ yếu được thực hiện

bởi trợ giúp viên pháp lý, luật sư, luật gia, thành viên câu lạc bộ Trợ giúp

pháp lý hướng về một con người cụ thể, đa số là người nghèo, đối tượng

chính sách, người tàn tật, đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn,

trình độ văn hóa hạn chế, khả năng giao tiếp kém. Vì vậy, hoạt động trợ giúp

pháp lý trên địa bàn huyện đã giúp người được trợ giúp pháp lý nâng cao trình

độ hiểu biết pháp luật để xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật và biết

vận dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân và gia

đình khi bị xâm phạm.

57

2.2.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường

Thực tiễn cho thấy phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường có vai

trò hết sức quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật, nâng cao hiểu

biết pháp luật, giúp đào tạo và hình thành thói quen ”Sống và làm việc theo

Hiến pháp và pháp luật” cho đối tượng là học sinh. Do đó, trong những năm

qua, các trường học trên địa bàn huyện Tây Hòa đã căn cứ vào tình hình thực

tế, trình độ nhận thức của từng đối tượng học sinh đã lựa chọn các hình thức

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như: Nói chuyện chuyên đề về

pháp luật; lồng ghép tuyên truyền pháp luật vào các hoạt động văn hóa, văn

nghệ, hoạt động ngoại khóa; tuyên truyền giới thiệu sách; tờ rơi, bản tin pháp

luật, hỏi đáp pháp luật; sử dụng băng đĩa, phim ảnh, tiểu phẩm, trình chiếu

bằng máy chiếu. Thường xuyên đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất

lượng giảng dạy các kiến thức pháp luật trong chương trình chính khóa; tăng

cường nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trong các chương trình ngoại

khóa và các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

2.2.9. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hưởng ứng Ngày Pháp luật

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Điều 8 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định: ”Ngày 09

tháng 11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. Ngày Pháp luật được tổ chức nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo

dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội” [29], đây là một

quy định mới thể hiện chủ trương tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

thông qua ”Ngày Pháp luật”. Sau khi Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm

2012 có hiệu lực để hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam (ngày 09/11 hàng năm). Hằng năm, Ủy ban nhân dân huyện

Tây Hòa đều ban hành văn bản triển khai thực hiện, cụ thể như: Kế hoạch số

125/KH-UBND ngày 31/10/2014 về tổ chức thực hiện “Ngày Pháp luật nước

58

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” năm 2014 trên địa bàn huyện Tây Hòa;

Công văn số 671/UBND-TP ngày 14/10/2015 về việc tổ chức thực hiện

“Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” năm 2015 trên

địa bàn huyện Tây Hòa; Kế hoạch số 127/KH-UBND ngày 20/9/2016 về việc

hưởng ứng Ngày Pháp luật năm 2016; Công văn số 993/UBND-TP ngày

04/11/2016 về việc tổ chức đợt cao điểm hưởng ứng Ngày pháp luật năm

2016. Qua đó, đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến tập trung các điểm mới sửa

đổi, bổ sung của Bộ Luật Dân sự, chú trọng các quy định có liên quan trực

tiếp, thiết thực đến người dân, doanh nghiệp và phù hợp với phạm vi, chức

năng quản lý của cơ quan, đơn vị, địa phương. Giáo dục ý thức và lợi ích của

việc tôn trọng, tuân thủ, chấp hành pháp luật; xây dựng, bồi dưỡng, nhân rộng

gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật; phê phán, đấu tranh với

những hành vi vi phạm pháp luật hoặc lệch chuẩn xã hội; nâng cao chất

lượng, hiệu quả xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật gắn với xây dựng ý

thức chấp hành pháp luật, văn hóa pháp lý trong cán bộ, công chức, viên

chức, người lao động, người sử dụng lao động, cán bộ, chiến sỹ các lực lượng

vũ trang nhân dân, đoàn viên, hội viên các tổ chức, đoàn thể và tất cả các tầng

lớp nhân dân trên địa bàn từ ngày 04 tháng 11 đến ngày 10 tháng 11. Trong

đó, tập trung cao điểm là ngày 09 tháng 11 dưới nhiều hình thức như:

Thông qua mít tinh, diễu hành, thông qua hệ thống áp phích, băng rôn, thông

qua tổ chức các cuộc thi, diễn đàn về Ngày Pháp luật, hội nghị,..

Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa còn chỉ đạo các cơ

quan, đơn vị huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn hàng tháng đều triển

khai thực hiện “Ngày pháp luật” tại các cơ quan, đơn vị, địa phương mình đã

thu hút sự quan tâm, nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của “Ngày

Pháp luật”, làm cho “Ngày Pháp luật” trở thành đợt sinh hoạt chính trị - pháp

lý sâu rộng, thường xuyên, nhằm cổ vũ, khuyến khích cán bộ, công chức, viên

59

chức và Nhân dân tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật;

góp phần tạo chuyển biến mới về chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Đến nay, gần như tuyệt đại đa số

các đơn vị, đơn vị huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn đã tổ chức thường

xuyên “Ngày Pháp luật” tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình, thông qua lồng

ghép trong các cuộc họp giao ban hàng tháng.

2.2.10. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hình thức khác

Trong những năm qua, ngoài những kết quả trên, hoạt đông phổ biến,

giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa còn được thông qua một số

hình thức khác như: thông qua công tác tiếp công dân; thông qua việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo và thông qua xét xử lưu động.

2.3. Đánh giá hoạt động phổ biển, giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa,

tỉnh Phú Yên

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Kết quả đạt được

Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa những năm

gần đây có những chuyển biến theo hướng tích cực. Công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật được Huyện ủy, Hội đồng nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân

huyện, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể huyện, đảng

viên, cán bộ, công chức và các tầng lớp Nhân dân chú trọng, quan tâm. Tại

Huyện, việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 02/2014/CT-UBND ngày

09/01/2014 của UBND tỉnh Phú Yên về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ

biển, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Phú Yên đã được thực hiện nghiêm

túc, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực

đất đai, an toàn giao thông, tệ nạn xã hội. Điều đó từng bước đã giảm số vụ

việc và số người vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, phát

triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

60

Thứ nhất, sự phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật giữa các cơ quan,

đơn vị, địa phương trên địa bàn huyện ngày càng được nâng cao

Hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai

theo phương thức vừa bao quát, toàn diện, cụ thể vừa phân công phụ trách

từng mảng công việc đối với từng đối tượng, từng lĩnh vực của từng cơ quan,

đơn vị. Vì vậy, những năm gần đây các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật dần dần đi vào nề nếp, theo kế hoạch, chương trình cụ thể, được thực hiện

thường xuyên, liên tục có trọng tâm, trọng điểm hơn trước. Nội dung phổ

biến, giáo dục pháp luật đã chú trọng hơn việc gắn với từng đối tượng và phù

hợp với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương. Nhiều nội dung

pháp luật đã đi vào đời sống, đến được với các tầng lớp nhân dân. Các hình

thức phổ biến, giáo dục pháp luật được sử dụng khá đa dạng, đã có sự kết hợp

giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và

các hoạt động tuyên tuyền, vận động khác, góp phần tạo sự chuyển biến trong

nhận thức cũng như hoạt động chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức và

người dân trên địa bàn huyện; làm cho đối tượng được phổ biến, giáo dục

pháp luật ý thức được trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình, đồng

thời nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của các đối tượng, hình

thành thói quen xử sự theo pháp luật.

Thứ hai, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa đã

xác định đúng về nội dung, phù hợp về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

với từng nhóm đối tượng

Một yêu cầu đặt ra đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong

giai đoạn hiện nay đó là nội dung, hình thức phải vừa đa dạng, phong phú vừa

phải có trọng tâm, trọng điểm. Chính vì vậy, hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa trong thời gian qua đã được các chủ thể

xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể với nội dung, hình thức khá phong

61

phú, đa dạng và toàn diện. Hầu hết, các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp

đến đời sống, sản xuất, kinh doanh đều được các chủ thể xem xét và thực hiện

dưới nhiều hình thức khác nhau phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Chẳng

hạn:

Đối với nhóm đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước được

tập trung phổ biến, giáo dục về pháp luật hành chính, lao động, bảo hiểm,..

dưới hình thức tuyên truyền miệng qua các buổi tập huấn, hội nghị,..

Đối với nhóm đối tượng là doanh nhân, doanh nghiệp thì chủ yếu chú

trọng pháp luật thuộc các lĩnh vực kinh doanh, thương mại, thuế,.. dưới các

hình thức như tọa đàm, diễn đàn, sinh hoạt chuyên đề,…

Còn đối với nhóm đối tượng là người dân, người lao động thì được các

chủ thể quan tâm truyền tải pháp luật về các lĩnh vực dân sự, việc làm, lao

động, khiếu nại, tố cáo,.. dưới những hình thức như biên soạn, phát hành tài

liệu, hòa giải cơ sở, lồng ghép vào sinh hoạt văn hóa, văn nghệ,..

Có thể nói rằng, nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

được các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật thực hiện trên địa bàn huyện

Tây Hòa có chất lượng, đa dạng, phong phú và hiệu quả.

2.3.1.2. Nguyên nhân đạt được kết quả

Đạt được những kết quả trên đây do có sự quan tâm của lãnh đạo địa

phương và tinh thần trách nhiệm của các chủ thể thực hiện phổ biến, giáo dục

pháp luật trên địa bàn huyện.

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã có sự quan tâm

đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Các cấp ủy Đảng, chính quyền trong thời gian qua đã tập trung lãnh đạo,

chỉ đạo đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của địa phương; đã ban

hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra để đảm bảo việc tổ

chức phổ biến, giáo dục pháp luật, đồng thời chủ động xây dựng kế hoạch,

62

chương trình phổ biến, giáo dục hàng năm trong đó xác định rõ yêu cầu, mục

đích, nội dung, đối tượng, tiến độ thực hiện. Vì vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật

trên địa bàn huyện Tây Hòa luôn được thực hiện đồng bộ, thống nhất, sát với

thực tế đời sống của người dân.

Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền cũng luôn quan tâm, chú

trọng đến việc lựa chọn nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khi

thực hiện nhằm đảm bảo sao cho nội dung, hình thức cần phổ biến, giáo dục phù

hợp với điều kiện của địa phương, tình hình kinh tế - xã hội, gắn bó với đời sống

người dân, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các đối tượng được phổ biến,

giáo dục. Có thể nói, nội dung, hình thức được sử dụng để phổ biến, giáo dục

trên địa bàn huyện Tây Hòa thời gian qua vừa mang tính mới, tính thời sự vừa

mang những nội dung thiết thực, cần thiết liên quan trực tiếp đến đời sống của

người dân.

Thứ hai, một số tổ chức, cá nhân có tinh thần trách nhiệm và thái độ tích

cực tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật

Qua những kết quả đã đạt được, có thể nhận thấy phổ biến, giáo dục

pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa có sự tham gia của rất nhiều chủ thể

khác nhau có thể kể đến như: báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp

luật, hòa giải viên, luật sư, luật gia, trợ giúp viên pháp lý, lực lượng cán bộ,

công chức, viên chức nhà nước và cả những người có trình độ, am hiểu pháp

luật, có kinh nghiệm thực tiễn, có uy tín trong đời sống xã hội, lao động, sản

xuất,.. Các chủ thể này vừa giữ vai trò tham mưu, đề xuất kế hoạch, chương

trình cho cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp, vừa trực tiếp tổ chức, quản lý

phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng trên địa bàn huyện.

Lực lượng này luôn được Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân

dân huyện Tây Hòa quan tâm, tạo điều kiện được thường xuyên bồi dưỡng

trình độ chuyên môn nghiệp cũng như kiến thức pháp luật.

63

Đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật được củng

cố, kiện toàn kịp thời đáp ứng yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật; được

phân bố rộng rãi ở tất cả các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và địa phương nên

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thường xuyên, liên tục;

nội dung phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn; phát huy

được tính chủ động, tích cực và thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật. Số lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ngày

càng mang tính chuyên nghiệp, phần nào đáp ứng được yêu cầu trong tình hình

mới.

Song song với đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật,

đội ngũ hòa giải viên cũng ngày càng thể hiện vai trò tích cực trong phổ biến,

giáo dục pháp luật thông qua việc hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp ở cơ sở, làm

tốt công tác vận động người dân chấp hành nghiêm pháp luật, góp phần đáng kể

bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.

Ngoài ra, lực lượng luật sư, luật gia, trợ giúp viên pháp lý, lực lượng cán

bộ, công chức, viên chức nhà nước thông qua các hoạt động của mình cũng

góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật đến người dân, đáp ứng được phần nào

nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân.

Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan, đơn vị;

thành viên các đoàn thể; giảng viên, giáo viên dạy giáo dục công dân tại các

Trường Trung học cơ sở, Trường Trung học Phổ thông; biên tập viên của Đài

Truyền thanh huyện, xã, thị trấn, những người am hiểu pháp luật, có kinh

nghiệm thực tiễn cũng tích cực tham gia các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật, góp phần đưa pháp luật đến với các đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp

luật.

Thông qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật các chủ thể trên địa

bàn huyện Tây Hòa đã góp phần từng bước nâng cao hiểu biết pháp luật và

64

chấp hành pháp luật, hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật của cán bộ, công

chức và nhân dân.

Thứ ba, tình hình kinh tế - xã hội và dân trí địa phương ổn định, ít có sự

chênh lệch

Huyện Tây Hòa có những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,

quốc phòng, an ninh, chính trị tương đối thuận lợi đối với hoạt động phổ biến,

giáo dục pháp luật. Trong những năm qua, đời sống của người dân trên địa bàn

huyện ngày càng được nâng cao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được

ổn định. Đặc biệt, trình độ dân trí chưa thật sự cao so với các địa phương khác

nhưng có tính ổn định, ít có sự chênh lệch và ngày càng được nâng lên rõ rệt.

Hơn nữa, việc phát triển của công nghệ thông tin trong giai đoạn hiện nay, người

dân đã được tiếp cận với những phương tiện truyền thông để phục vụ việc tìm

hiểu pháp luật.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, nhưng so với yêu cầu nâng cao trình

độ dân trí về pháp luật cho người dân, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của đời

sống pháp luật, duy trì bền vững thói quen “sống và làm việc theo pháp luật”

trong cộng đồng dân cư thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn

huyện Tây Hòa vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Đó là:

- Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại Huyện Tây Hòa có lúc, có nơi

nội dung còn thiếu chính xác, chưa đầy đủ, ngôn ngữ tuyên truyền còn mang tính

văn bản, khô khăn gây khó hiểu cho người nghe, một số ít chủ thể xác định nội

dung còn chung chung, chưa sát với tình hình thực tế tại cơ sở do đó chưa thiết

thực với nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các đối tượng.

- Một số cấp ủy Đảng, cơ quan, đơn vị, ban ngành, đoàn thể, địa phương

thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật còn chưa kịp thời, thường

65

xuyên liên tục, có tâm lý chờ đợi, ỷ lại cấp trên, cơ quan ngành tư pháp trong

việc triển thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Chưa chú trọng gắn phổ biến, giáo dục pháp luật với việc thi hành pháp

luật, với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, trật tự an ninh của địa

phương và đời sống hàng ngày của người dân.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

* Nguyên nhân khách quan

Hệ thống pháp luật nước ta mang tính chế định khung, chưa đồng bộ,

chậm đi vào cuộc sống, chất lượng các văn bản luật chưa cao, số lượng các

văn bản pháp luật của nhà nước ban hành ngày càng nhiều, lại thường xuyên

sửa đổi, bổ sung. Do vậy, ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.

Bên cạnh đó, Huyện Tây Hòa là huyện thuần nông do đó người dân lao

động, sản xuất mang tính mùa vụ, vì vậy sau khi xong mùa, vụ người dân có

xu hướng lao động thêm tại các tỉnh phía Nam. Đây cũng là một khó khăn

đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật khi các đối tượng thường

xuyên thay đổi nơi cư trú, thiếu tính ổn định, gây khó khăn trong việc xác

định đối tượng để phổ biến, giáo dục pháp luật.

Mặt khác, hiện nay, tại Huyện Tây Hòa kinh phí thực hiện công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật đã được đưa vào mục lục ngân sách nhà nước và do

ngân sách của Huyện chủ động bố trí. Tuy nhiên, Tây Hòa là một huyện

nghèo nhất nhì Tỉnh nên ngân sách địa phương còn hạn hẹp do đó việc đầu

tư kinh cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Đặc biệt, chế

độ, chính sách cho báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thấp, chưa thực sự

khuyến khích và phát huy được tiềm năng của đội ngũ làm công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật. Do đó, so với nhu cầu nâng cao hiệu quả phổ biến,

66

giáo dục pháp luật cho người dân thì sự đầu tư kinh phí còn dàn trải, thiếu trọng

tâm và chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động này.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, về tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật

Vẫn còn một bộ phận cấp ủy Đảng, cơ quan, đơn vị, ban ngành, đoàn

thể, địa phương chưa dành sự quan tâm thỏa đáng đối với việc lãnh đạo công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thực tế cho thấy, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật, nhiều lúc, nhiều nơi hầu như chỉ dừng lại ở việc

ra chỉ thị, nghị quyết; còn việc nhắc nhở, kiểm tra quá trình triển khai thực

hiện còn bỏ ngõ hoặc xem đây là nhiệm vụ của cơ quan tư pháp. Do công tác

chỉ đạo, điều hành hoạt động này còn buông lỏng, chưa sâu sát, chưa thường

xuyên, liên tục, bỏ quên công tác giám sát việc thực hiện nên chưa phát huy

được tính chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện.

Một số địa phương còn nặng về hình thức, chưa chú trọng tới hiệu

quả, còn thiếu linh hoạt trong lựa chọn hình thức, biện pháp phổ biến, giáo

dục pháp luật phù hợp với trình độ của người được tuyên truyền và đặc thù

của địa phương.

Sự phối hợp của một số cơ quan, đơn vị, ban ngành, đoàn thể, địa

phương để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng

có lúc còn chưa được thực hiện tốt; chưa thường xuyên, liên tục, thiếu đồng

bộ, không gắn kết; chế độ thông tin, báo cáo về các hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật thực hiện chưa đầy đủ, kịp thời; thiếu chủ động, tích cực trong

việc triển khai thực hiện nhiệm vụ; còn có hiện tượng dựa dẫm, ỷ lại cho các

cơ quan khác... Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động chỉ

đạo, hướng dẫn về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, làm chậm tiến độ

67

triển khai thực hiện nội dung các đề án, kế hoạch; là nguyên nhân làm suy giảm

hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện.

Thứ hai, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật phân tán và thiếu tính

chuyên nghiệp

Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật tuy đông về số lượng nhưng lại

phân tán, số người chuyên trách không nhiều, mà chủ yếu là kiêm nhiệm;

tính chuyên nghiệp của lực lượng này chưa cao đặc biệt là ở cơ sở. Chủ thể

thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật đa số là người có kiến thức pháp luật

hoặc có kinh nghiệm thực tiễn về pháp luật nhưng lại thiếu kỹ năng sư phạm.

Đặc biệt, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tuy khá đông,

song hầu hết đều làm kiêm nhiệm nên cách làm việc thiếu tính chuyên nghiệp

cũng như thời gian cần thiết dành cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.

Ngoài ra, trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ báo cáo viên,

tuyên truyền viên pháp luật còn ở những mức độ khác nhau do đó còn nhiều

hạn chế, bất cập vì muốn làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì

chủ thể trực tiếp phổ biến, giáo dục pháp luật phải có một trình độ kiến thức,

hiểu biết pháp luật nhất định. Nếu bản thân báo cáo viên, tuyên truyền viên

pháp luật được đào tạo bài bản, chuyên ngành về luật thì mới đủ kiến thức,

hiểu biết sâu sắc để có thể phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng mình

hướng đến.

Mặt khác, một bộ phận những người làm công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật thiếu nhiệt tình, chưa tận tâm còn mang tính hình thức, mang tính

đối phó, kém hiệu quả. Thực tế chỉ ra rằng, hầu hết báo cáo viên, tuyên truyền

viên pháp luật làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, chủ yếu chú trọng công tác

chuyên môn ở cơ quan, đơn vị nên chưa tận lực, tận tâm với công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật. Ngoài ra, chế độ đãi ngộ, thù lao bồi dưỡng cho báo

cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa được thực

68

hiện theo quy định tại Nghị quyết số 107/NQ-HĐND ngày 25/7/2014 của

Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên [30] còn thấp, chưa tương xứng với thời

gian, công sức mà họ bỏ ra nên chưa thúc đẩy sự tích cực, nhiệt tình của đội

ngũ này.

Bên cạnh đó, tiêu chuẩn công nhận báo cáo viên pháp luật chưa thật sự

phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể: theo điểm c, khoản 2, Điều 35 Luật Phổ

biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định tiêu chuẩn báo cáo viên pháp luật

phải: “Có bằng tốt nghiệp đại học luật và thời gian công tác trong lĩnh vực

pháp luật ít nhất là 02 năm; trường hợp không có bằng tốt nghiệp đại học luật,

nhưng có bằng tốt nghiệp đại học khác thì phải có thời gian công tác liên quan

đến pháp luật ít nhất là 03 năm” [29]. Theo quy định này thì nội dung “ công

tác liên quan đến pháp luật” còn chung chung gây lúng túng trong việc xác

định lĩnh vực nào là lĩnh vực liên quan đến pháp luật, do đó không kịp thời

công nhận những người am hiểu, có kiến thức pháp luật trong các lĩnh vực

khác như đất đai, lao động, bảo hiểm xã hội,… làm ảnh hưởng không nhỏ đến

hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ ba, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật hạn chế về nhận thức

Chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cũng phụ thuộc rất

nhiều vào ý thức, thái độ của chính bản thân đối tượng được phổ biến, giáo

dục pháp luật trong quá trình tham gia vào hoạt động này. Trong khi đó,

Huyện Tây Hòa là một huyện thuần nông, trình độ dân trí còn hạn chế, do đó

khả năng tiếp cận cũng như tiếp thu pháp luật còn thấp. Phần lớp người dân

sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, chưa thật sự quan tâm đến việc tìm hiểu

pháp luật. Bên cạnh phần lớn người dân đã có ý thức nhiệt tình tham gia hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật thì vẫn còn một bộ phận đáng kể người

dân chưa tích cực tham gia các buổi tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật do các cơ quan chức năng tổ chức.

69

Qua thực tế, các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật, có thể nhận thấy: một

số người dân chưa chủ động, tích cực tham dự các buổi phổ biến, giáo dục

pháp luật dành cho họ, một số người dân dù đã có mặt nhưng còn kém nhiệt

tình, thiếu nghiêm túc trong lúc tham dự hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật. Các hiện tượng như đi muộn, về sớm, nói chuyện riêng, ngủ gật trong

giờ phổ biến, giáo dục pháp luật diễn ra thường xuyên. Điều đó nói lên rằng,

một bộ phận người dân chưa thực sự tích cực, nghiêm túc học hỏi trong quá

trình tham gia hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, dẫn đến suy giảm chất

lượng, hiệu quả của hoạt động này.

Một phần là do kinh tế khó khăn phải lao động, sản xuất, kinh doanh

phục vụ đời sống nên không sắp xếp được thời gian, phần khác là do một bộ

phận người dân nhận thức chưa đúng về giá trị, ý nghĩa của phổ biến, giáo dục

pháp luật. Trong khi đó, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật luôn có những

vấn đề mới, liên quan trực tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp và phục vụ

thiết thực cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt của người dân.

Bên cạnh đó, một số đối tượng thiếu tính ổn định về nơi cư trú, khó

kiểm soát và cũng như trình độ hạn chế của họ dẫn đến khó khăn trong việc

phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng này.

Thứ tư, nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

Qua thực tiễn có thể thấy rằng, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Tây Hòa chưa thật sự sinh động, chưa thú hút được người nghe,

chưa thực hiện kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn tại địa phương do đó chưa đáp

ứng được như cầu tìm hiểu pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống lao động,

sản xuất, kinh doanh của người dân.

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu các văn bản mới được

quán triệt, tuyên truyền khi mới được ban hành mà không được thường xuyên

tổ chức liên tục sau đó. Việc chuẩn bị nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật

70

của đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật còn tùy tiện,

nghèo nàn, chưa chú trọng tới nhu cầu tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật

của đối tượng. Các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật mới chỉ dừng lại ở

việc truyền đạt những nội dung pháp luật mà mình có, chưa hướng tới trang bị

những nội dung pháp luật mà đối tượng cần. Có những nội dung người dân

phải nghe nhiều lần; trong khi đó, có những nội dung phổ biến, giáo dục pháp

luật thực sự cần thiết thì chưa được nhắc đến như kiến thức pháp luật về

quyền con người, quyền công dân. Do đó, nội dung phổ biến, giáo dục pháp

luật do chủ thể đưa ra chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của đối tượng phổ

biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa.

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật còn thiên về lý thuyết, chủ yếu

giới thiệu các quy định pháp luật, chưa gắn với các sự kiện, tình huống pháp

luật thực tiễn, chưa chú trọng trang bị kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật

vào thực tiễn đời sống. Đôi lúc, người dân có kiến thức, hiểu biết pháp luật

nhưng vẫn bị động, lúng túng trong vận dụng vào thực tiễn.

Về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa,

tuy đã có nhiều đổi mới, sử dụng khá nhiều hình thức phổ biến, giáo dục

pháp luật nhưng còn đơn điệu, không hấp dẫn, đặc biệt là ở cấp cơ sở (chủ

yếu là hội nghị, thông qua cuộc họp), chưa thu hút được nhiều người tham

gia. Bên cạnh đó, việc xác định những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

nào phù hợp với những nội dung pháp luật và đối tượng nào còn ở mức tương

đối. Mặt khác, do hạn chế về kinh phí, cơ sở vật chất còn thiếu nên các chủ

thể chưa thể thực hiện áp dụng các hình thức mới, theo ý của mình.

Thứ năm, về nguồn lực đầu tư cho công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật

Cơ sở vật chất, phương tiện dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Phổ biến, giáo dục pháp luật được

71

đầu tư chủ yếu từ nguồn ngân sách của địa phương. Trong khi đó, Huyện

Tây Hòa là một huyện đồng bằng việc phát triển các nguồn thu còn gặp

nhiều khó khăn, tuy Huyện đã quan tâm bổ sung, cấp kinh phí hằng năm đối

với các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nhưng vẫn còn nhiều hạn chế,

dàn trải, chưa đồng bộ, chưa tương xứng với vai trò của công tác này.

Bên cạnh đó, xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một

xu thế khách quan, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội giai đoạn hiện

nay nhằm huy động sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn xã hội phục vụ

công tác này, giảm bớt gánh nặng cho cơ quan Nhà nước. Xã hội hóa phổ

biến, giáo dục pháp luật còn góp phần quan trọng trong việc tạo điều kiện cơ

sở vật chất, nhân lực cho công tác này. Tuy nhiên, hiện nay việc xã hội hóa

phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa chưa thực hiện

được.

Xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật là việc Nhà nước khuyến

khích, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức

tham gia vào công tác này. Tuy nhiên, cho đến nay Nhà nước ta vẫn chưa có

những quy định cụ thể nào về chính sách ưu đãi hỗ trợ về vấn đề này. Trong

khi đó, phổ biến, giáo dục pháp luật về bản chất là hoạt động không thu phí

nên rất khó có thể huy động được sự tham gia của các cá nhân, tổ chức đầu

tư vào công tác này.

Bên cạnh đó, việc quản lý đối với các cá nhân, tổ chức tham gia phổ

biến, giáo dục pháp luật cũng gặp khó khăn bởi liệu sự tham của các cá nhân,

tổ chức này có thật sự trong sáng hay nhằm ý đồ lợi dụng để tuyên truyền

xuyên tạc chủ trương, chính sách, bản chất của Nhà nước ta. Chính những lý

do này mà công tác xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn

huyện Tây Hòa vẫn còn bỏ ngõ, chưa thực hiện được.

72

Tiểu kết chương 2

Qua đánh giá đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội của Huyện Tây Hòa, có thể thấy rằng Huyện Tây Hòa là một huyện

đồng bằng, có những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội để triển khai, tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả.

Trong những năm qua, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn Huyện

Tây Hòa đã đạt được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm; chủ thể

phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được tăng cường cả về số lượng và

chất lượng; nội dung, hình thức ngày càng đa dạng, phong phú, có chiều sâu.

Từ những kết quả đã đạt được, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn

huyện Tây Hòa cũng thể hiện những ưu điểm cũng như bộc lộ nhưng tồn tại,

hạn chế mà trong đó đều có nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Qua nghiên cứu thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

73

Chương 3:

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN TÂY HOÀ, TỈNH PHÚ YÊN

3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do

Nhân dân, vì Nhân dân” [30]. Vì vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

được xem là công cụ, là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật, có vai

trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xuất

phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật, Đảng và

Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác này, xem đây là trách nhiệm của

cả hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế - xã hội và của mọi người dân.

Trong rất nhiều văn kiện của Đảng đã đề cập đến công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật. Bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh:

“Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cần sử dụng

nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật” [8,

tr.121].

Tiếp đó, trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ

khóa VII, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng

cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp

và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh,

thống nhất và công bằng” [9, tr.57-58]. Điểm mốc quan trọng nhất đánh dấu

sự quan tâm mạnh mẽ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003

của Ban Bí thư Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,

74

giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân

[1].

Để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta xây dựng,

ban hành nhiều văn bản pháp luật về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

như: Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012; Quyết định số

27/2013/QĐ-TTg ngày 19/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định

thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục

pháp luật; Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ về

quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến, giáo dục

pháp luật; Thông tư số 21/2013/TT-BTP ngày 18/12/2013 của Bộ Tư pháp

quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật và

một số biện pháp bảo đảm hoạt động của báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền

viên pháp luật; Thông tư số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 của Bộ Tư pháp

về quy định về báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; Thông tư

liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của Bộ Tài chính – Bộ

Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí

ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và

chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.

Xuất phát từ những chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà

nước kể trên, căn cứ các điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế, văn hóa, xã hội

của Huyện Tây Hòa hiện nay, có thể xác định những phương hướng để phổ

biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn Huyện Tây Hòa như sau:

Thứ nhất, tiếp tục củng cố, nâng cao nhận thức và thực hiện nghiêm

các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của việc thực hiện phổ

biến, giáo dục pháp luật. Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, đảm bảo mọi

75

chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều được phổ biến

kịp thời, đầy đủ đến cán bộ, công chức, đảng viên và các tầng lớp nhân dân,

coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp ủy Đảng, tổ chức cơ sở

đảng, chính quyền. Tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, ý thức tôn trọng

và chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân góp

phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa

bàn Huyện Tây Hòa.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với giáo

dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống.

Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính

trị, tư tưởng. Đây luôn là một nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo được nêu trong

các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta về công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật. Trong tiến trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội không chỉ cần có trình độ kiến thức, hiểu

biết pháp luật; mà còn phải có nền tảng tư tưởng ổn định, lập trường chính trị

vững vàng, có đạo đức và lối sống lành mạnh, tiến bộ, phù hợp với truyền thống

văn hóa dân tộc.

Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là việc cung cấp thông tin, kiến

thức pháp luật đơn thuần, mà còn phải kết hợp cả với việc giáo dục đạo đức,

lối sống tiến bộ, phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của cư

dân địa phương, giúp họ tránh xa những thói hư, tật xấu, có ý thức đề cao

cảnh giác, không để kẻ xấu và các thế lực phản động lợi dụng tuyên truyền,

xuyên tạc và làm hình thành ở mỗi cá nhân hành vi hợp pháp và hợp đạo đức

xã hội.

Vì vậy, chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật chỉ có thể

được nâng cao khi được thực hiện trong sự kết hợp chặt chẽ với giáo dục

chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Hiện nay, Huyện Tây Hòa cần kết hợp

76

triển khai thực hiện có hiệu quả hơn nữa các cuộc vận động như: ”Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; ”Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn

mới, đô thị văn minh”; ”Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân

cư”,.. trên địa bàn toàn Huyện.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới, da dạng cả về nội dung lẫn hình thức phổ biến,

giáo dục pháp luật

Một trong những thành công của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

trên địa bàn Huyện Tây Hòa trong thời gian qua là đã có sự đổi mới về nội

dung, đa dạng hình thức. Tuy nhiên, để phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu

quả cao hơn nữa, Huyện Tây Hòa cần tiếp tục đổi mới, đa dạng hơn nữa cả về

nội dung và hình thức.

Nội dung phải đảm bảo tính khoa học, cập nhật các văn bản quy phạm

pháp luật mới và phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, lao động của

người dân; cần chú trọng trang bị cho họ không chỉ những kiến thức pháp luật

chung, mà còn phải cung cấp cả những kiến thức pháp luật gần gũi, liên quan

thiết thực, trực tiếp tới cuộc sống, lao động, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh

như pháp luật về các quyền tự do dân chủ, về tôn giáo, tín ngưỡng, về an sinh

xã hội... Trong nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cũng phải tăng cường

phổ biến, giáo dục về quyền con người, quyền công dân để người dân ý thức

được và chủ động thực hiện các quyền của mình. Ngoài ra, còn phải trang bị

cho người dân các kỹ năng giao tiếp, ứng xử khi gặp các sự kiện pháp luật,

biết vận dụng kiến thức pháp luật để giải quyết các tình huống pháp luật mà

thực tiễn cuộc sống đang đặt ra. Điểm quan trọng hơn nữa là phải nghiên cứu

kế thừa tinh hoa của luật tục được thể hiện qua các bản Hương ước để vận

dụng vào phổ biến, giáo dục pháp luật.

Hình thức phải kết hợp nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

một cách linh hoạt, năng động, sáng tạo, phù hợp với từng nhóm đối tượng.

77

Chẳng hạn, như: phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc họp dân, các

hội nghị nhân dân, các buổi sinh hoạt tôn giáo; biên soạn sách pháp luật phổ

thông, vận động người dân đọc và mượn đọc sách pháp luật tại Tủ sách pháp

luật xã, thị trấn,.. Do đặc thù về văn hóa, tôn giáo, tập quán sản xuất, sinh hoạt

của người dân trên địa bàn huyện nên hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

cũng phải phù hợp với những nét đặc thù riêng đó.

Thứ tư, chú trọng việc phát triển lực lượng làm công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật

Trong tất cả các hoạt động, yếu tố con người bao giờ cũng đóng vai trò

quan trọng. Vấn đề này càng quan trọng hơn đối với hoạt động phổ biến, giáo

dục pháp luật vì lực lượng làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cầu

nối đưa pháp luật vào cuộc sống. Huyện Tây Hòa thời gian qua lực lượng làm

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được quan tâm, từng bước được nâng

cao chất lượng cũng như số lượng. Tuy nhiên, lực lượng này vẫn chưa thực sự

đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, nhất là lực lượng làm công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật đối với những nhóm đối tượng đặc thù. Do đó,

Huyện Tây Hòa cần xây dựng lực lượng làm công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật vững về chính trị tư tưởng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có trách

nhiệm, nhiệt tình trong công tác.

Như vậy, chú trọng phát triển lực lượng làm công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật cũng là phương hướng quan trọng mà Huyện Tây Hòa cần quan

tâm.

Thứ năm, phải thu hút sự tham gia chủ động, tích cực của cả hệ thống

chính trị trong phổ biến, giáo dục pháp luật.

Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là nhiệm vụ của riêng cơ quan

chức năng, cấp chính quyền, đoàn thể hay cá nhân nào, mà nó phải được coi là

trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị cũng như của mọi người dân. Hệ

78

thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Tây Hòa phải thu

hút sự tham gia của toàn bộ các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các

đoàn thể, có như vậy phổ biến, giáo dục pháp luật mới thật sự có tính hệ

thống, thường xuyên và liên tục đạt hiệu quả.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chỉ đạo của chính quyền

địa phương đối với phổ biến, giáo dục pháp luật

Qua thực tiễn thực hiện, có thể thấy rằng sự lãnh đạo của các cấp ủy

Đảng, chỉ đạo của chính quyền luôn có vai trò hết sức quan trọng, là điều kiện

mang tính quyết định đến sự hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật. Vì vậy, cần tiếp tục quán triệt tốt hơn nữa Chỉ thị số 32-CT/TW ngày

09/12/2003 của Ban Bí thư Trương ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành

pháp luật của cán bộ, nhân dân để tạo sự chuyển biến về nhận thức của các

cấp ủy Đảng đối với phổ biến, giáo dục pháp luật. Từ chuyển biến về nhận

thức sẽ dẫn đến chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong công tác lãnh đạo, chỉ

đạo.

Các cấp ủy Đảng huyện Tây Hòa cần nâng cao hơn nữa ý thức trách

nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền cùng cấp tổ chức thực hiện

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với nội dung, hình thức, phương pháp

phù hợp với từng đối tác khác nhau. Đồng thời, phải tổ chức kiểm tra, giám

sát việc thực hiện để hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đạt được hiệu

quả cao nhất.

Bên cạnh tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thì sự chỉ đạo,

hướng dẫn và tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương đối với hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật cũng vô cùng quan trọng.

79

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại

diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân

địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan

nhà nước cấp trên [27]. Do đó, Hội đồng nhân dân có vị trí, vai trò rất quan

trọng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật đến với mỗi

người dân. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là Hội đồng nhân dân cần phải nâng

cao chất lượng các Nghị quyết được ban hành, trong đó có Nghị quyết về

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong quá trình hoạt động của mình,

Hội đồng nhân dân cần chỉ đạo thường xuyên, liên tục việc thực hiện công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, xem đây là một

phần không thể thiếu được trong nghị quyết về các phương hướng bảo đảm thi

hành Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời, cần làm tốt việc giám sát đối với công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Ngoài ra, Hội đồng nhân dân cần tạo điều kiện để đại biểu Hội đồng nhân

dân nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật. Bởi bản thân các đại điểu là người

trực tiếp biểu quyết thông qua các văn bản về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội

của địa phương, trong đó có lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật. Chính vì

vậy, trình độ pháp luật của các đối tượng sẽ góp phần để văn bản do Hội đồng

nhân dân ban hành có tính khả thi, là cơ sở để hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật đạt hiệu quả.

Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương [27].

Do đó, Uỷ ban nhân dân huyện Tây Hòa cần tăng cường đôn đốc, hướng dẫn,

kiểm tra hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các cơ quan, đơn vị,

ban ngành, đoàn thể, địa phương trên địa bàn huyện. Xây dựng văn bản chỉ

đạo, điều hành, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị huyện, Ủy ban nhân dân các

xã, thị trấn tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp. Hàng

năm, Uỷ ban nhân dân huyện cần xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp

80

luật trên địa bàn huyện phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế, xác định rõ

nhiệm vụ triển khai của từng ngành, lĩnh vực.

3.2.2. Tăng cường sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, đơn

vị, ban, ngành, đoàn thể, địa phương đối với phổ biến, giáo dục pháp luật

Huyện Tây Hòa cần ban hành Quy chế phối hợp đối với hoạt động phổ

biến, giáo dục pháp luật giữa các cơ quan, đơn vị, ban, ngành, đoàn thể, địa

phương. Trong đó cần quy định rõ trách nhiệm, các hình thức khen thưởng

cũng như các hình thức phê bình, kiểm điểm đối với các cá nhân, tập thể thực

hiện chưa tốt trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý

thức, tạo sự đồng bộ, nhịp nhàng trong việc phối hợp tổ chức thực hiện đối

với hoạt động này.

3.2.3. Chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật

Đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò quyết định

đến chất lượng của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Do đó, việc tuyển

chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này là hết sức cần thiết. Vì vậy, trong thời

gian tới Huyện Tây Hòa cần tập trung những vấn đề sau:

Thứ nhất, tuyển chọn đội ngũ người làm công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật

Cần tuyển chọn người có phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, có khả năng tuyên truyền, giáo dục và vận động, hòa giải tốt, có

lòng nhiệt tình, say mê với công việc phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức tránh nhiệm

cho đội ngũ người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ, có kỹ năng tuyên truyền, phổ biến được coi là yếu tố trực tiếp

đảm bảo chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao năng

81

lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ này đang là yêu cầu bức thiết.

Do vậy, Huyện Tây Hòa cần bồi dưỡng và định hướng nội dung phổ biến,

giáo dục pháp luật thường xuyên cho đội ngũ này đi đôi với việc đào tạo,

nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đội ngũ này thông qua các

lớp tập huấn, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, các kỹ năng giao tiếp, xử lý

tình huống cho đội ngũ này đồng thời làm hình thành ở đội ngũ này các kỹ

năng mềm, như cách viết, soạn đề cương, cách thuyết phục người khác,

phương pháp thuyết trình trước đông người sao cho hấp dẫn, sinh động,..

Thông qua các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn cần làm hình thành ở đội

ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vừa có tính chủ động, linh hoạt,

sáng tạo vừa có ý thức tự nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi kỹ năng,

nghiệp vụ, nhiệt tình, tâm huyết với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

Bên cạnh đó, thực tế địa phương cho thấy người dân luôn nhìn vào thái

độ ứng xử của đội ngũ người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để

làm căn cứ cho thái độ ứng xử của mình trong những hoàn cảnh tương tự.

Trong việc tôn trọng và tuân thủ luật pháp cũng vậy. Do đó, ngoài xây dựng

một đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có chuyên môn sâu,

có khả năng tuyên truyền, thuyết phục thì cũng cần phải xây dựng ý thức

chấp hành nghiêm minh pháp luật trong đội ngũ này, làm tấm gương cho các

tầng lớp nhân dân noi theo và thực hiện.

3.2.4. Đẩy mạnh việc nâng cao ý thức trách nhiệm, sự hăng hái, nhiệt tình

của đối tượng trong quá trình tham gia hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật

Mỗi người dân cần có tinh thần hăng hái, nhiệt tình, ý thức trách nhiệm

cao khi tham gia các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật xuất phát từ nhu cầu của

mình: mong muốn được tiếp thu, tích lũy, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu

biết pháp luật; không phải tham dự theo kiểu đối phó, mà tham dự để tiếp thu

82

thông tin pháp luật cho mình, vì lợi ích của bản thân và gia đình, của cộng

đồng, để nâng cao ý thức pháp luật cá nhân và để giải quyết được các sự kiện,

tình huống pháp luật nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống. Tri thức, hiểu biết

pháp luật của mỗi người dân nói lên khả năng nhận thức của họ trong lĩnh vực

pháp luật và làm hình thành những tư tưởng, quan điểm đúng đắn về pháp luật;

nó là cơ sở để người dân học cách “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp

luật”

Các cơ quan, đơn vị, ban, ngành, đoàn thể, địa phương trên địa bàn

huyện Tây Hòa cũng cần có sự quan tâm, tạo các điều kiện thuận lợi để người

dân hăng hái, nhiệt tình tham dự các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật. Chẳng

hạn, cần chú trọng việc cấp kinh phí phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật

không chỉ cho báo cáo viên, tuyên truyên viên pháp luật, mà còn chi bồi dưỡng

cho người dân tham dự các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật. Thực tế trên địa

bàn huyện, chưa thực hiện được điều này. Bên cạnh đó, cần có cơ chế khen

thưởng kịp thời đối với những hộ gia đình, người dân tích cực tham dự phổ biến,

giáo dục pháp luật, có thể áp dụng các hình thức như: khen thưởng bằng hiện vật;

coi đây là tiêu chuẩn công nhận gia đình văn hóa,.. và quy định biện pháp xử lý

đối với những người né tránh, không tham dự phổ biến, giáo dục pháp luật có

thể áp dụng các hình thức như: phải lao động công ích, không công nhận gia

đình văn hóa,.. Điều đó có tác dụng khơi gợi sự thi đua giữa các thôn, khu phố;

sự hào hứng, hăng hái, nhiệt tình của mỗi người dân đối với hoạt động phổ biến,

giáo dục pháp luật.

3.2.5. Tiếp tục đổi mới nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

theo hướng đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với nhu

cầu của đối tượng và truyền thống, phong tục, tập quán của địa phương

Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật: Nội dung có vai trò hết sức

quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật. Bởi lẽ, nội

83

dung ngoài đóng vai trò trọng tâm của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

còn chi phối phương pháp và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật. Do đó,

căn cứ vào điều kiện thực tế, các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật của

Huyện Tây Hòa cần:

- Lựa chọn những nội dung kiến thức về các lĩnh vực pháp luật cụ thể,

liên quan mật thiết tới cuộc sống, lao động, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của

người dân để tuyên truyền, phổ biến cho họ. Trong thời gian qua, hầu hết nội

dung phổ biến, giáo dục pháp luật được các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật

trên địa bàn huyện sử dụng còn sơ lược, nghèo nàn và chưa đáp ứng nhu cầu tiếp

nhận thông tin, kiến thức pháp luật của từng nhóm đối tượng cụ thể. Trong khi

đó, nhu cầu về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn

huyện Tây Hòa là tương đối đa dạng như pháp luật về các lĩnh vực: dân sự, lao

động, đất đai, hôn nhân và gia đình, khiếu nại, tố cáo,.. Vì vậy, chủ thể phổ biến,

giáo dục pháp luật, tùy theo từng thời điểm, cần lựa chọn những nội dung kiến

thức về các lĩnh vực pháp luật cụ thể, liên quan mật thiết tới cuộc sống, lao

động, sinh hoạt của người dân để phổ biến, giáo dục pháp luật cho họ. Mặt

khác, cần bổ sung, cập nhật những văn bản pháp luật mới được ban hành. Nội

dung phổ biến, giáo dục pháp luật phải được đổi mới theo hướng giảm sự áp đặt

theo ý chí chủ quan của chủ thể và tăng cường những nội dung phổ biến, giáo

dục pháp luật mới theo nhu cầu của người dân.

- Chú trọng trang bị những nội dung kiến thức về các văn bản quy phạm

pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, Hội đồng nhân

dân, Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Tây Hòa, nhất là văn bản có liên quan trực

tiếp đến cuộc sống, lao động, việc làm, lợi ích của người dân. Về cơ bản, việc

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để người dân nắm bắt được nội dung

của các loại văn bản pháp quy do huyện, cấp xã ban hành, là cơ sở rất quan

84

trọng của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở phát huy quyền làm chủ

của nhân dân.

- Cung cấp những nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật

trên địa bàn huyện. Nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật trên

địa bàn huyện có thể bao gồm: kết quả thực hiện pháp luật; những tấm gương

“người tốt, việc tốt” trong việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật; tình trạng

vi phạm pháp luật, tình hình tội phạm trên địa bàn; các âm mưu, thủ đoạn,

phương thức phạm tội mới xuất hiện gần đây; kết quả hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử của các cơ quan chức năng nhà nước... Việc được nắm bắt những nội

dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật có tác dụng động viên, khuyến

khích người dân làm theo các tấm gương sáng, nâng cao ý thức chấp hành pháp

luật; giúp họ cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn phạm tội, tích cực tham gia

đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự, kỷ cương trên địa bàn huyện.

- Cần chú trọng trang bị cho người dân kiến thức về kinh nghiệm thực

tế, kỹ năng vận dụng các quy phạm pháp luật để xử lý, giải quyết các sự việc,

sự kiện, tình huống pháp luật xảy ra trong cuộc sống. Thực tế cho thấy, các

chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật mới chủ yếu tập trung cung cấp kiến

thức pháp luật thực định, rất ít chú ý đến việc trang bị kiến thức về kinh

nghiệm thực tiễn pháp luật, các kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật vào

việc giải quyết các sự việc, tình huống pháp luật xảy ra trong cuộc sống

cho các đối tượng. Có thể khẳng định khâu này vừa thiếu lại vừa yếu. Đôi

khi, chỉ vì thiếu kinh nghiệm, kỹ năng vận dụng pháp luật nên từ những việc

lúc đầu là nhỏ, như mâu thuẫn gia đình, khúc mắc giữa hàng xóm, tranh chấp

dân sự... đã dẫn đến những hành vi phạm pháp xảy ra trong cộng đồng dân cư.

Vì vậy, cần tăng cường mạnh mẽ, dành phần thỏa đáng trong nội dung phổ

biến, giáo dục pháp luật cho người dân những kiến thức về kinh nghiệm thực

85

tế, kỹ năng vận dụng các quy phạm pháp luật để xử lý, giải quyết các sự việc,

sự kiện, tình huống pháp luật xảy ra trong thực tế.

- Cần nhanh chóng xây dựng chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật

dành riêng cho với từng nhóm đối tượng trên địa bàn huyện. Xây dựng

chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật phải hàm chứa đầy đủ những nội

dung kiến thức, hiểu biết pháp luật, phải xây dựng được bộ tài liệu tham khảo

riêng cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình phổ biến,

giáo dục pháp luật dành riêng cho từng đối tượng cần căn cứ vào nhu cầu

thông tin, kiến thức pháp luật của họ; dành vị trí thích đáng cho việc bổ sung,

cập nhật kịp thời các văn bản, chính sách pháp luật mới. Quá trình triển khai

nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phải gắn với thực tiễn sinh động của đời

sống pháp luật, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều.

Về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật: Phổ biến, giáo dục pháp luật

muốn đạt hiệu quả cao thì ngoài việc đổi mới, hoàn thiện nội dung, cần sử

dụng hình thức phù hợp. Vì vậy, Huyện Tây Hòa cần:

- Cần tập trung phát huy tốt hơn các hình thức có hiệu quả nhất, phù

hợp nhất đối với từng đối tượng qua thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật

trong thời gian qua, như trên tuyên truyền miệng, trên các phương tiện truyền

thông như trên Trang Thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa,

Đài Truyền thanh huyện, xã, thị trấn; thông qua dưới hình thức trực quan như

pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của khu dân cư.

Tiếp tục phát huy hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công tác xét

xử lưu động, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ

máy nhà nước.

- Lựa chọn, áp dụng hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phải dựa

trên cơ sở phù hợp với nội dung và điều kiện sinh hoạt của địa bàn dân cư,

86

tâm lý, lứa tuổi, nghề nghiệp,.. đồng thời hướng trọng tâm phổ biến, giáo dục

pháp luật vào đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật; phát huy tính chủ động,

sáng tạo của họ, buộc họ phải dành nhiều thời gian để tư duy, nghiền ngẫm

thông tin pháp luật thu nhận được.

- Các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật cần sử dụng linh hoạt, đồng

bộ nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, giúp đối tượng được phổ biến,

giáo dục pháp luật dễ tiếp thu, dễ hiểu và nhớ lâu, vận dụng được kiến thức

pháp luật vào thực tế.

3.2.6. Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm

triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một loại hình hoạt động vì lợi

ích lâu dài, kết quả cuối cùng của nó không thể đo đếm trực tiếp, tức thời. Do

đó, hoạt động này cần được đảm bảo kinh phí để đạt hiệu quả. Trong những

năm qua, nguồn kinh phí dành hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của

Huyện Tây Hòa do ngân sách nhà nước cấp. Mặc dù, đã được Huyện quan

tâm bố trí kinh phí, song kinh phí của địa phương còn hạn hẹp do đó so với

yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay thì kinh phí và các

trang thiết bị cần có sự đầu tư nhiều hơn.

Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao hơn trong

thời gian tới thì việc đầu tư ngân sách và huy động kinh phí từ nhiều nguồn

khác nhau là rất quan trọng. Do đó, Huyện Tây Hòa cần quan tâm, đầu tư kinh

phí nhiều hơn nữa cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Hoạt động phổ

biến, giáo dục pháp luật chỉ đi vào chiều sâu, thực chất và đạt hiệu quả cao khi

có sự quan tâm, đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng. Nguồn kinh phí được cung cấp

đầy đủ sẽ là điều kiện quan trọng để các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật

củng cố, nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật, bao gồm việc nâng cấp, xây dựng mới hội trường, nhà văn hóa... rộng

87

rãi, thoáng mát, trang bị bàn ghế đầy đủ, các thiết bị truyền thông phục vụ việc

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; đầu tư xây dựng Tủ sách pháp luật đa

dạng, phong phú về số đầu sách pháp luật phổ thông, sách hướng dẫn pháp luật,

các loại báo, tạp chí pháp luật; xây dựng phòng đọc đủ rộng, đáp ứng được nhu

cầu tìm hiểu, học tập, tra cứu thông tin của người dân; in ấn các loại tài liệu pháp

luật, tờ gấp pháp luật để cấp, phát miễn phí cho người dân. Tất cả các hình thức

phổ biến, giáo dục pháp luật đó đều cần đến kinh phí; nếu nguồn kinh phí không

được đáp ứng thì khó có thể nói đến việc nâng cao hiệu quả công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật.

Nguồn kinh phí mà Nhà nước và các cơ quan chức năng đầu tư kịp thời

cũng giúp các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật thực hiện tốt hơn chính sách

đãi ngộ đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và đội ngũ

người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật khác, như chế độ phụ cấp trách

nhiệm, chi trả thù lao tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hòa giải,..Chế độ đãi

ngộ thỏa đáng về vật chất có tác dụng khơi dậy lòng nhiệt tình, sự tận lực, tận

tâm của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật đối với hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật, từ đó, họ có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng bài

giảng, tập trung hoàn thành tốt việc truyền đạt thông tin, kiến thức pháp luật

với chất lượng, hiệu quả cao nhất.

Mặt khác, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không tách

rời với việc nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống của người dân.

Song song với các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật còn cần các biện

pháp hỗ trợ hiệu quả như hướng nghiệp, dạy nghề, giải quyết việc làm cho

thanh niên không để tình trạng “nhàn cư vi bất thiện”. Chỉ khi thu nhập được

nâng lên, mức sống được cải thiện thì người dân mới có thể an tâm, tập trung

cho việc tham gia các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật dành cho họ.

88

Trong những năm qua, đời sống vật chất của người dân trên địa bàn

huyện Tây Hòa đã được cải thiện và nâng lên đáng kể; khoản cách phát triển

của huyện đã từng bước được rút ngắn so với sự phát triển chung của Tỉnh.

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận đáng kể người dân có đời sống vật chất khó

khăn, thiếu thốn. Một trong những nguyên nhân khiến nhiều người không biết

hoặc biết nhưng không tham gia các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là

vì họ còn lo việc mưu sinh. Cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cho người

dân là một trong những giải pháp bền vững, hiệu quả, là cơ sở bảo đảm sự

thành công của phổ biến, giáo dục pháp luật.

Như vậy, để phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Tây Hòa

đạt hiệu quả cao trong thời gian tới, Huyện Tây Hòa cần đầu tư ngân sách và

huy động các nguồn kinh phí khác, đặc biệt cần chú trọng đầu tư vào cơ sở

vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động phổ biến, giáo dục pháp, nâng cao

chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật

để có thể chủ động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn

huyện đạt hiệu quả cao nhất.

3.2.7. Đẩy mạnh xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật có sự quản lý của

chính quyền địa phương

Xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm huy động tối đa nguồn

nhân lực, vật lực của xã hội và sự tham gia của toàn xã hội vào hoạt động phổ

biến, giáo dục pháp luật, tạo nền tảng bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả

của hoạt động này, tập trung vào các biện pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, xã hội hóa chủ thể tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.

Quan tâm đào tạo, xây dựng một đội ngũ người làm công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật ở cơ sở là một biện pháp xã hội hóa chủ thể phổ biến, giáo

dục pháp luật hết sức quan trọng trước mắt cũng như lâu dài. Với lợi thế am

hiểu truyền thống văn hóa, lối sống, thói quen sinh hoạt của người dân ở địa

89

phương, lực lượng này sẽ khắc phục được những trở ngại mà đội ngũ báo cáo

viên, tuyên truyền viên pháp luật đang gặp phải xa rời thực tế.

Thứ hai, xã hội hóa nguồn kinh phí phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật.

Trong những năm qua, Huyện Tây Hòa đã dành sự quan tâm, bố trí ngân

sách phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao

hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân thì sự đầu tư kinh phí đó

còn dàn trải, thiếu trọng tâm và chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt

động này. Vì lẽ đó, ngoài nguồn ngân sách được Huyện đầu tư, nhất thiết phải

xã hội hóa nguồn kinh phí phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, với những hình

thức như: Vận động nguồn kinh phí đóng góp từ các tổ chức phi Chính phủ;

Việt kiều về nước trên địa bàn huyện; Huy động nguồn kinh phí đóng góp từ

các doanh nghiệp, nhà hảo tâm đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa

bàn huyện và các địa phương khác.

90

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện

Tây Hòa, Chương 3 luận văn đã xác định một số phương hướng tổ chức phổ

biến, giáo dục pháp luật gồm: tiếp tục củng cố, nâng cao nhận thức và thực

hiện nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kết

hợp chặt chẽ giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, tư

tưởng, đạo đức, lối sống; tiếp tục đổi mới, da dạng cả về nội dung và hình

thức phổ biến, giáo dục pháp luật; chú trọng việc phát triển lực lượng làm công

tác phổ biến giáo dục pháp luật; phải thu hút sự tham gia chủ động, tích cực của

cả hệ thống chính trị trong phổ biến, giáo dục pháp luật.

Để nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật ở Huyện Tây Hòa

trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau: tăng cường sự chỉ đạo,

hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của cấp

ủy Đảng, chính quyền địa phương; tăng cường hơn nữa sự phối hợp đồng bộ,

nhịp nhàng giữa các cơ quan, đơn vị, ban, ngành, đoàn thể, địa phương làm

nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật; chú trọng xây dựng đội ngũ làm công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao ý thức trách nhiệm, sự hăng hái,

nhiệt tình của đối tượng trong quá trình tham gia hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật; đổi mới nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật theo

hướng đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với nhu cầu của

đối tượng và truyền thống, phong tục, tập quán của địa phương; tăng cường đầu

tư kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm triển khai công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật; đẩy mạnh xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật có sự

quản lý của chính quyền địa phương./.

91

KẾT LUẬN

Phổ biến, giáo dục pháp luật là một khâu quan trọng trong quy trình tổ

chức thực hiện pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống. Mục tiêu

của công tác này là làm cho mỗi người dân không chỉ nắm vững pháp luật mà

phải hiểu và làm theo pháp luật.

Luận văn đã tập trung phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về phổ biến,

giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn huyện Tây Hòa, bao gồm: khái

niệm, những đặc điểm, vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật. Quá trình phổ

biến, giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn huyện Tây Hòa được tạo

thành bởi các yếu tố: chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật luôn chịu sự

tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm các yếu tố chủ quan

và khách quan. Từ cơ sở phân tích, đánh giá những đặc điểm về địa lý - tự

nhiên - xã hội, về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của huyện Tây

Hòa luận văn đã đề xuất những giải pháp phù hợp với điều kiện và đặc trưng

văn hóa của người dân để phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm tới.

Với những kết quả nghiên cứu trên sẽ đóng góp một phần vào khoa học

lý luận cũng như hoạt động thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật đối huyện

Tây Hòa nói riêng và cả nước nói chung./.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trương ương Đảng (2003), Chỉ thị số 32-CT/TW ngày

09/12/2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân, Hà Nội.

2. Ban chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 21/2013/TT-BTP ngày 18/12/2013 quy

định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật và

một số biện pháp bảo đảm hoạt động của báo cáo viên pháp luật, tuyên

truyền viên pháp luật.

4. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 về quy

định về báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật.

5. Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp (2014), Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-

BTC-BTP ngày 27/01/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và

quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.

6. Chính phủ (2013), Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của

Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật

Phổ biến, giáo dục pháp luật.

7. Đại từ điển Tiếng Việt (998), Nxb Văn hoá thể thao.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc

nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp

hành Trung ương IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp

hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Hoàng phê (chủ biên) Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

16. Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên, Nghị quyết số 107/2014/NQ-HĐND

ngày 25/7/2014 về quy định nội dung chi, mức chi thực hiện công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ

sở trên địa bàn tỉnh.

17. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ,

Đặc sản tuyên truyền pháp luật số 8/2012.

18. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Báo cáo về kết quả công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật năm 2011.

19. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Báo cáo về kết quả công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật năm 2012.

20. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Tây Hòa,

Báo cáo về kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2013.

21. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Tây Hòa,

Báo cáo về kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2014.

94

22. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Tây Hòa,

Báo cáo về kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2015.

23. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Tây Hòa,

Báo cáo về kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2016.

24. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Tây Hòa,

Báo cáo về kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 6 tháng đầu

năm 2017.

25. Nguyễn Duy Lãm – Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư

pháp, Sự cần thiết và những quan điểm chỉ đạo xây dựng luật phổ biến,

giáo dục pháp luật (28/6/2015).

26. Nguyễn Lân (1997), Từ điển Từ và ngữ Hán – Việt, Nbx. Văn hóa, Hà Nội.

27. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa -

thông tin, Hà Nội.

28. PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn - Vụ trưởng Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật

Theo Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp:

“Một số biện pháp tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong

tình hình mới”.

29. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012.

30. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

31. Sổ tay Hướng dẫn nghiệp vụ Phổ biến pháp luật (2002), Kỷ yếu Dự án

VIE/98/001 về tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam – giai đoạn II,

Hà Nội.

32. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày

19/5/2013 về việc quy định thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội

đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật.

33. Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp

luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

95

34. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Báo cáo tình hình thực hiện phát triển

kinh tế - xã hội giai đoạn 2005 – 2015.

35. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Kế hoạch số 38/KH-UBND ngày

15/4/2014 về phổ biến giáo dục pháp luật năm 2014.

36. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Kế hoạch số 41/KH-UBND ngày

24/3/2015 về việc triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa

giải cơ sở và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở năm 2015

trên địa bàn huyện Tây Hòa.

37. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày

03/02/2016 về việc triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hoà

giải ở cơ sở và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở năm

2016 trên địa bàn huyện Tây Hoà.

38. Ủy ban nhân dân huyện Tây Hòa, Kế hoạch số 23/KH-UBND ngày

22/02/2017 về việc triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa

giải ở cơ sở; chuẩn tiếp cận pháp luật; xây dựng và thực hiện hương ước

năm 2017 trên địa bàn huyện Tây Hòa.

39. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, Chỉ thị số 02/2014/CT-UBND ngày

09/01/2014 về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

40. Văn Tâm, Nguyễn Đạm (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội

Hà Nội.

41. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), Một số vấn dề lý luận và thực

tiễn về giáo dục pháp luật trong công tác đổi mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

42. Vụ phổ biến pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về phổ biến,

giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

96

97