intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC và kinh nghiệm cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

28
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án hình sự quốc tế theo quy chế Rome. Từ đó đưa ra quan điểm nhận định, đánh giá về hiệu quả hoạt động của Tòa án hình sự quốc tế trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế. Trên cơ sở đó phát hiện những điểm hạn chế còn tồn tại của quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế để kiến nghị hoàn thiện, đặc biệt là về quy trình tố tụng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC và kinh nghiệm cho Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ XUÂN QUY TR×NH Tè TôNG THEO QUY CHÕ CñA ICC Vµ KINH NGHIÖM CHO VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ néi - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ XUÂN QUY TR×NH Tè TôNG THEO QUY CHÕ CñA ICC Vµ KINH NGHIÖM CHO VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN BÁ DIẾN Hµ néi - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Thị Xuân
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Bảng ký hiệu các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNGVỀ TOÀ ÁN HÌ NH SỰ QUỐC TẾ (ICC) .........6 1.1. Lịch sử hình thành ICC ..............................................................................6 1.1.1. Giai đoạn trước Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC ............................6 1.1.2. Giai đoạn từ Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC đến nay ....................8 1.2. Đặc điểm, vai trò , thẩ m quyề n , cơ cấ u tổ chức của Tòa án Hin ̀ h sư ̣ quố c tế theo quy chế Rome ..................................................................12 1.2.1. Đặc điểm của Tòa án hình sự quốc tế theo quy chế Rome .........................12 1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của Tòa án Hình sự quốc tế ...............................................14 1.2.3. Thẩ m quyề n của ICC ...................................................................................18 1.2.4. Cơ cấ u tổ chức của ICC...............................................................................25 1.3. Định nghĩa về quy trình tố tụng và vai trò của quy trình tố tụng của ICC .......................................................................................................31 1.3.1. Đinh ̣ nghiã về quy trình tố tụng ..................................................................31 1.3.2. Vai trò của các quy trình tố tu ̣ng của ICC ...................................................32 1.4. Cơ sở pháp lý về quy trình tố tụng của ICC ...........................................36 Chương 2: CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG CỦA ICC THEO QUY CHẾ ROME .......38 2.1. Giai đoa ̣n điề u tra, truy tố ........................................................................38 2.1.1. Thẩ m quyề n điề u tra, truy tố .......................................................................38 2.1.2. Thủ tục điều tra và truy tố ...........................................................................45 2.2. Giai đoa ̣n xét xử.........................................................................................51 2.2.1. Thẩ m quyề n xét xử sơ thẩ m theo quy đinh ̣ của Quy chế Rome .................51 2.2.2. Quyề n của bi ̣cáo , người bi ̣ha ̣i, nhân chứng ...............................................52
  5. 2.2.3. Thủ tục phiên tòa Sơ thẩm ..........................................................................54 2.3. Giai đoa ̣n Phúc thẩ m và xét la ̣i bản ản ...................................................61 2.3.1. Phúc thẩm ....................................................................................................61 2.3.2. Xét lại bản án ...............................................................................................69 2.4. Giai đoa ̣n thi hành án................................................................................72 2.4.1. Cơ quan thi hành án .....................................................................................72 2.4.2. Thủ tục thi hành án ......................................................................................75 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐINH ̣ PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌ NH TỐ TỤNG CỦ A ICC VÀ KIÊNGHỊ ́N HOÀN THIỆN......... 80 3.1. Thư ̣c tra ̣ng áp du ̣ng Quy chế Rome trong hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng của ICC .......80 3.1.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động tố tụng của ICC .........................80 3.1.2. Những khó khăn, thách thức đối với ICC trong hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng .............94 3.1.3. Kiến nghị khắc phục những tồn tại của Quy chế Rome về ICC .................95 3.2. Quy trình tố tụng của ICC, tương quan so sánh với Việt Nam ............96 3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp lu ật tố tu ̣ng hình s ự của Việt Nam trên cơ sở kế thừa thành tựu của ICC .....................................................98 3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quy trình tố tu ̣ng .............................98 3.3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của Việt Nam.......103 KẾT LUẬN ............................................................................................................106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107
  6. BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự ICC International Criminal Court LHQ Liên hợp quốc
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Tòa án hình sự quốc tế (ICC) là cơ quan tư pháp quốc tế thường trực được các quốc gia thành lập theo quy chế Rome để truy tố và xét xử những cá nhân phạm các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng quốc tế, như tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội xâm lược. Mục tiêu của ICC là hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm, ngăn ngừa tội phạm trong tương lai và góp phần tăng cường hòa bình, an ninh trên thế giới. ICC không thay thế mà chỉ là sự bổ sung cho hệ thống tư pháp quốc gia. ICC có tư cách pháp lý quốc tế và năng lực pháp lý để thực hiện các chức năng và mục tiêu nêu trên. Quy chế Rome có hiệu lực từ 01/7/2002 và đến nay đã có khoảng 123 quốc gia phê chuẩn. Là bộ quy chế hoàn chỉnh nhất, tiến bộ nhất, văn minh nhất trong lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự quốc tế từ trước đến nay. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác cũng đang nghiên cứu, xem xét gia nhập quy chế này. Trong điều kiện thế giới đang đứng trước các thời cơ và thách thức, nền chính trị quốc tế còn nhiều yếu tố không ổn định, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có những đóng góp vào việc chống lại các tội ác nghiêm trọng, ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động tiêu cực của chiến tranh và xung đột vũ trang. Hơn nữa, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đang bộc lộ một số quy định chưa thực sự đồng nhất với pháp luật tố tụng hình sự quốc tế, điều đó làm cho nhiều quốc gia, nhiều chuyên gia, nhiều luật gia có uy tín trên thế giới cũng như trong nước còn quan ngại và có nhiều quan điểm khác nhau trong việc nhìn nhận về vấn đề đảm bảo quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự tại Việt Nam, ví dụ như vấn đề quyền được im lặng của bị can, bị cáo; hay nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự,… là những vấn đề đang được thảo luận sôi nổi tại các phiên họp của Chính phủ và các diễn đàn pháp luật hiện nay. Do đó việc nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện và khoa học về quy trình tố tụng theo quy chế của ICC là cần thiết từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam 1
  8. trong việc xây dựng và thực thi trình tự, thủ tục tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền tài phán quốc gia, góp phần làm cho pháp luật Việt Nam phù hợp với pháp luật quốc tế và vẫn đảm bảo được yếu tố chủ quyền quốc gia trong hoạt động tố tụng hình sự, có ý nghĩa quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan, toàn diện, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì các lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC và kinh nghiệm cho Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong phạm vi quốc tế, đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu về Quy chế Rome và Tòa án hình sự quốc tế, mỗi công trình, mỗi đề tài đều có một cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Có thể kể tên một số công trình khoa học như: + Douglass Casel “Tại sao chúng ta lại cần Tòa án hình sự quốc tế - Tòa án Liên hợp quốc xét xử tội ác chống lại loài người”; + Anna Rosen và Veronica Jormeus Gruner, "Các hiệp định theo Điều 98 - Hợp pháp hay không hợp pháp”; + Ruth Wedgwood "Các vấn đề đặt ra từ Hội nghị Roma”; + Michael P. Scharf; “Quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế đối với công dân của quốc gia không phải là thành viên - Phê bình quan điểm của Hoa Kỳ” …. Ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền đang tích cực nghiên cứu Quy chế Rome một cách toàn diện nhằm xem xét khả năng gia nhập của Việt Nam vào quy chế này. Giới nghiên cứu luật học của Việt Nam cũng rất quan tâm đến Quy chế Rome. Đã có nhiều hội thảo khoa học liên quan đến Tòa án hình sự quốc tế được tổ chức thành công như: + Hội thảo “Giới và Tòa án hình sự quốc tế” của Trung tâm nghiên cứu giới và phát triển thuộc Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 3 năm 2002; + Hội thảo “Những văn kiện pháp lý về Tòa án Hình sự quốc tế” và “Những vấn đề cơ bản về Tòa án Hình sự quốc tế” của Hội luật gia Việt Nam tháng 3 năm 2006; 2
  9. + Hội thảo “Tòa án Hình sự quốc tế và việc gia nhập của Việt Nam” của Trung tâm Luật biển và hàng hải quốc tế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tháng 10 năm 2006. + Hội thảo “Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án hình sự quốc tế và kinh nghiệm của một số nước khu vực ASEAN trong việc gia nhập quy chế Rome” của Bộ tư pháp, tháng 07 năm 2012. Bên cạnh các hội thảo, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân, Tạp chí Luật học còn cho đăng nhiều bài nghiên cứu, giới thiệu về Quy chế Rome và ICC của TS. Lê Mai Anh, TS. Dương Tuyết Miên; Ths. Nguyễn Tuyết Mai… Gần đây, có công trình đáng chú ý của Phạm Bá Quyền “Một số vấn đề pháp lý về Tòa án hình sự quốc tế và việc gia nhập của Việt Nam” (năm 2010); Nguyễn Thị Xuân Sơn: “Thẩm quyền của Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề gia nhập của Việt Nam” (năm 2013), … Đây là những tài liệu vô cùng quý giá giúp các luật gia, các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm về ICC cũng như Quy chế Rome. Tuy nhiên với một Điều ước quốc tế chứa đựng nhiều nội dung pháp lý quan trọng và có chuyên môn cao như Quy chế Rome thì những hoạt động nghiên cứu nêu trên còn khá khiêm tốn. Điều này đòi hỏi phải có nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa những công trình nghiên cứu công phu về Quy chế Rome và ICC, để không chỉ giúp cho việc đánh giá một cách toàn diện những vấn đề pháp lý cơ bản về quy chế này mà còn tạo nền tảng lý luận cơ bản cho việc tiếp cận với Quy chế Rome và ICC ở Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án hình sự quốc tế theo quy chế Rome. Từ đó đưa ra quan điểm nhận định, đánh giá về hiệu quả hoạt động của Tòa án hình sự quốc tế trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế. Trên cơ sở đó phát hiện những điểm hạn chế còn tồn tại của quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế để kiến nghị hoàn thiện, đặc biệt là về quy trình tố tụng. 3
  10. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế; loại bỏ những quy định tố tụng không còn phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng Việt Nam tương thích với pháp luật quốc tế, tạo cơ sở thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc xem xét gia nhập quy chế Rome. 3.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu tổng quát đề cập trên, cần thực hiện các mục tiêu cụ thể sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, khát quát chung về quy trình tố tụng của ICC: nghiên cứu về sự ra đời của ICC, nguyên tắc tố tụng, cơ cấu tổ chức ICC, thẩm quyền tố tụng và các bước trong quy trình tố tụng theo quy chế của ICC. Phân tích và đánh giá các quy định liên quan của ICC về quy trình tố tụng. Từ đó rút ra một số ưu điểm, nhược điểm và kiến nghị hoàn thiện. Phân tích quy trình tố tụng hình sự của pháp luật Việt Nam, so sánh với quy trình tố tụng của ICC, qua đó tìm ra những điểm bất cập, chưa hợp lý, thiếu tính khoa học để làm cơ sở cho các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan đến Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC và kinh nghiệm cho Việt Nam, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây: Đưa ra định nghĩa về quy trình tố tụng theo quy chế của ICC; Khái quát về Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC; Phân tích và giải thích về mặt lý luận nội dung, quy phạm thực định và thực tiễn áp dụng quy trình tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự quốc tế. Phân tích và đánh giá đúng thực trạng và hiệu quả cách thức áp dụng quy định tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở vận dụng những ưu điểm của quy trình tố tụng của ICC. Luận văn có ý nghĩa góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về quy trình tố tụng của ICC, tăng cường hiệu quả của công tác tuyên truyền pháp luật, đưa ra các kiến 4
  11. nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn thi hành các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trình tự, thủ tục tố tụng theo quy chế của ICC; Trình tự, thủ tục tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam. Tương quan so sánh để phát hiện điểm bất cập, hạn chế và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy, do giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái quát chung về sự ra đời của ICC, tập chung nghiên cứu sâu về một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng; trình tự, thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ; các quy định liên quan đến điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học pháp lý như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học pháp lý và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) Chương 2: Các giai đoạn tố tụng theo quy chế Rome của ICC Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quy trình tố tụng của ICC và kiến nghị hoàn thiện 5
  12. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀ ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ (ICC) 1.1. Lịch sử hình thành ICC 1.1.1. Giai đoạn trước Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC Khi chiến tranh thế giới hai kết thúc, năm 1945 “Thỏa thuận London” thiết lập Tòa án quốc tế dưới tên gọi Tòa án Nuremberg nhằm xét xử các thành viên của Đức Quốc xã và đến năm 1946 quân đồng minh phê chuẩn Hiến chương thiết lập Tòa án Tokyo xét xử tội phạm chiến tranh quốc tế cho vùng Viễn Đông nhằm truy tố tội phạm chiến tranh người Nhật [79], sự phát triển của ý tưởng thành lập tòa án quốc tế để giải quyết vấn đề tội ác chống lại con người đã được thúc đẩy xuất phát từ những hành động mà Đức Quốc xã và Nhật Bản đã gây ra. Những tòa án đó chứng tỏ rằng cấu trúc pháp luật quốc tế đang tồn tại lúc đó không có cơ quan thường trực theo đúng nghĩa hay không có cơ quan tòa án có thẩm quyền để xét xử loại tội phạm này [7, tr.83]. Năm 1947, Hiệp định của Đại hội đồng LHQ về ngăn ngừa và trừng trị tội phạm diệt chủng đã được thông qua. Trong một Nghị quyết tương tự, Đại hội đồng LHQ yêu cầu Hội đồng Luật gia quốc tế “nghiên cứu nguyện vọng và khả năng thành lập một cơ quan tòa án để xét xử những cá nhân liên quan đến tội diệt chủng” [79]. Năm 1949 - 1954, ủy ban Pháp luật quốc tế (ILC - International Law Commission) đã chuẩn bị một số dự thảo quy chế cho ICC theo yêu cầu của Đại hội đồng LHQ, nhưng sự khác biệt về ý kiến đã ngăn không cho dự án này tiến xa hơn [9, tr.84]. Năm 1989, nhằm đáp lại yêu cầu của Trinidad and Tobago, Đại hội đồng LHQ đã yêu cầu ủy ban Pháp luật quốc tế tiếp tục việc thiết lập Tòa án quốc tế đồng thời có thẩm quyền xét xử tội phạm buôn bán ma túy [79]. Năm 1993, HĐBA LHQ đã thiết lập Tòa án quốc tế đặc biệt dành cho cựu nhân viên của Chính quyền Nam Tư cũ, nhằm luận tội các cá nhân có liên quan đến các hành động tàn bạo đã thực hiện được biết đến như là một phần của cuộc “thanh lọc sắc tộc” [79]. 6
  13. Năm 1994, Đại hội đồng LHQ quyết định theo đuổi việc thành lập một tòa án hình sự quốc tế và lấy dự thảo quy chế Tòa án hình sự quốc tế của Ủy ban Pháp luật quốc tế làm tài liệu cơ sở [39]. Đại hội đồng LHQ đã quyết định thành lập ủy ban ad hoc (ad hoc Committee) để xem xét các vấn đề liên quan đến ICC [27, tr. 12-13]. Các cuộc thảo luận tại ủy ban ad hoc về dự thảo Quy chế ICC cho thấy những khác biệt sâu sắc trong quan điểm của các quốc gia về mô hình tòa án tương lai. Dự thảo của ủy ban Pháp luật quốc tế đã dựng lên một tòa án gần giống với các Tòa án hình sự ad hoc ICTY và ICTR. Trong khuôn khổ thảo luận của ủy ban ad hoc, một khái niệm mới Nguyên tắ c b ổ sung được đưa ra, theo đó ICC chỉ có quyền tài phán khi các tòa án quốc gia không muốn, hoặc không thể truy tố kẻ phạm tội [52]. Ủy ban ad hoc cũng khẳng định các quyền tài phán của ICC cần phải được định nghĩa chi tiết, chứ không chỉ nêu tên như trong dự thảo của ủy ban Pháp luật quốc tế [52]. Ủy ban ad hoc không muốn để nội dung dự thảo Quy chế của ICC lệ thuộc vào kết quả của ủy ban Pháp luật quốc tế, do đó đã cố gắng đưa vào dự thảo Quy chế ICC những quy định chi tiết về các tội phạm, cũng như các nguyên tắc chung của pháp luật và các nội dung thực chất khác, ủy ban ad hoc đã kết luận rằng tòa án mới cần tuân theo những nguyên tắc và quy định có thể đảm bảo những chuẩn mực công lý cao nhất và những vấn đề này cần được thể hiện đầy đủ trong Quy chế [60, tr.7]. Năm 1995, Đại hội đồng LHQ thành lập một ủy ban trù bị (Preparatory Committee) với sự tham gia của các quốc gia thành viên LHQ, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ. Nhiệm vụ của ủy ban trù bị này là xây dựng một văn bản pháp lý hoàn chỉnh, được chấp nhận rộng rãi, chuẩn bị cho Hội nghị ngoại giao thông qua Quy chế ICC [27, tr.14]. Ủy ban trù bị đã họp hai phiên trong năm 1996 đưa ra một báo cáo dày với những đề xu ất sửa đổi dự thảo của Ủy ban Pháp lu ật quốc tế [54]. Ủy ban trù bị cũng họp ba phiên nữa trong năm 1997 và nhiều phiên họp không chính thức giữa các kỳ khác, quan trọng nhất là phiên họp Zutphen tại Hà Lan vào tháng 01 năm 1998. Dự thảo Quy chế ICC được thông qua tại Zutphen đã kết hợp được các ý kiến khác nhau vào một văn bản tương đối hoàn chỉnh [70]. Dự thảo này sau đó đã được chỉnh sửa tại phiên họp cuối cùng của ủy ban trù bị để 7
  14. trình lên Hội nghị ngoại giao các Đại diện toàn quyền của các quốc gia [54]. Hầu hết các điều khoản trong bản dự thảo cuối cùng đều có nhiều phương án lựa chọn khác nhau, thể hiện kết quả của một quá trình đàm phán căng thẳng với nhiều ý kiến bất đồng [50, tr.379]. Một số vấn đề quan trọng như nguyên tắc bổ sung đã được giải quyết gần xong trong các cuộc thảo luận của ủy ban trù bị. Thách thức đặt ra cho các đại biểu Hội nghị ngoại giao là phải làm sao ghi nhận được kết quả này. Những vấn đề khác, chẳng hạn như hình phạt tử hình đã được các quốc gia cố tình né tránh trong các phiên thảo luận của ủy ban trù bị và đã đi đến bế tắc trong các cuộc đàm phán cuối cùng. 1.1.2. Giai đoạn từ Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC đến nay Ngày 15 tháng 6 năm 1998, Hội nghị ngoại giao về thành lập Tòa án hình sự quốc tế (ICC - International Criminal Court) đã được khai mạc tại Roma (Italy). Hơn 160 quốc gia đã cử đại biểu tham gia Hội nghị, cùng với sự có mặt của đại diện nhiều tổ chức quốc tế và hơn 100 tổ chức phi chính phủ. Tất cả các đoàn đại biểu đều bày tỏ sự ủng hộ việc thành lập một tòa án hình sự quốc tế thường trực, chuyên xét xử và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân phạm các tội ác nghiêm trọng theo pháp luật quốc tế [67, tr.15]. Hội nghị ngoại giao năm 1998 nhằm hoàn chỉnh thông qua dự thảo Quy chế ICC. Các nhóm làm việc chịu trách nhiệm về từng cụm vấn đề nội dung trong dự thảo Quy chế được thành lập. Lần lượt các quy định của Quy chế được các nhóm làm việc thông qua với sự nhất trí chung. Tuy nhiên, các quốc gia hầu như không tìm được tiếng nói chung về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm của ủy ban toàn thể, như quyền tài phán của ICC đối với công dân của quốc gia không thành viên, cơ chế khởi kiện, danh mục tội phạm. Điều đó khiến cho dự thảo Quy chế dường như khó có thể đạt được sự ủng hộ của 2/3 các quốc gia tham dự Hội nghị trong trường hợp phải biểu quyết [67, tr.15]. Ngày 17 tháng 7 năm 1998 là ngày cuối cùng của Hội nghị, Ủy ban toàn thể đưa ra một bản dự thảo như là một “Thỏa hiệp cả gói” (Package deal). Nhiều nước đã bày tỏ sự ủng hộ đối với dự thảo cả gói này và phản đối bất kỳ cố gắng nào nhằm 8
  15. thay đổi hoặc điều chỉnh nó, vì quan ngại rằng điều đó có thể làm hỏng toàn bộ kết quả thỏa hiệp [67, tr.15]. Phái đoàn Hoa Kỳ đã cố gắng tập hợp các nước có cùng quan điểm phản đối việc thông qua bản dự thảo cả gói này, nhưng đã không thành công. Cuối cùng, dự thảo được thông qua với 120 phiếu thuận, 21 phiếu trắng và 07 phiếu chống [64]. Hoa Kỳ, Israen và Trung Quốc đã bày tỏ quan điểm phản đối [63]. Ngoài việc thông qua Quy chế Rome, Hội nghị ngoại giao cũng thông qua Văn kiện cuối cùng quyết định thành lập một ủy ban trù bị để soạn thảo các văn bản phụ trợ phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của Tòa án [56]. Cho đến nay, những văn bản này đều đã được thông qua, gồm Quy tắc và thủ tục chứng cứ (Rules of Procedure and Evidence), Các yếu tố cấu thành tội phạm (Elements of Crimes), Hiệp định ưu đãi miễn trừ của ICC (Agreement on the Priviledges and Immunities of the International Criminal Court) [48]. Quy chế Rome cần có 60 quốc gia phê chuẩn để có hiệu lực. Thời điểm có hiệu lực sẽ rất quan trọng vì ICC không thể truy tố những tội phạm xảy ra trước thời điểm đó. Đây là thời điểm để tiến hành các bước cụ thể cho việc thành lập Tòa án, như bầu các Thẩm phán và Trưởng Công tố [27, tr.16]. Sau khi Quy chế Rome được thông qua, EU và các tổ chức phi chính phủ đã ráo riết vận động các nước sớm ký và phê chuẩn Quy chế này. Đến cuối năm 2000, đã có 139 quốc gia ký Quy chế [47]. Ngay cả các quốc gia đã bỏ phiếu chống tại Hội nghị Rome, như Hoa Kỳ và Israen, cuối cùng cũng ký Quy chế Rome. Trong số các nước ASEAN, Thái Lan, Lào, Cambodia và Philippine đã ký Quy chế. Những quốc gia chưa ký Quy chế này trước thời hạn 31 tháng 12 năm 2000 cũng được vận động gia nhập Quy chế. Senegal là quốc gia đầu tiên phê chuẩn Quy chế Roma vào ngày 02 tháng 2 năm 1999, tiếp đó là Trinidat và Tobago. Trong vòng hai năm kể từ khi thông qua, Quy chế đã có 14 quốc gia phê chuẩn, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 là thời điểm hết thời hạn ký, Quy chế Rome đã có 27 quốc gia thành viên. Năm 2001, con số này lên đến 37 [82]. Thời hạn từ lúc ký Quy chế Rome đến lúc phê chuẩn ở mỗi quốc gia đều khá dài. Lý do chủ yếu liên quan đến thực tế sau khi ký, các quốc gia 9
  16. đều phải sửa đổi hoặc ban hành nội luật để có thể thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Quy chế Rome. Ngoài ra, do ICC chỉ thực hiện quyền tài phán theo nguyên tắc bổ sung, nên các quốc gia cần đưa vào pháp luật của mình những quy định để thực hiện trách nhiệm truy tố những người bị tình nghi phạm tội có mặt trên lãnh thổ nước mình, ban hành định nghĩa về các tội diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh như được quy đinh trong Quy chế Rome để hướng dẫn các tòa án quốc gia thực hiện quyền tài phán đối với những tội này [69, tr.157]. Tháng 8 năm 2002 cuộc họp đầu tiên của Hội đồng quốc gia thành viên thông qua ngân sách 30 triệu Euro cho giai đoạn đầu của ICC và thông qua một loạt các Văn kiện bao gồm “Luật về thủ tục chứng cứ” và “Yếu tố cấu thành tội phạm”. Ngoài ra, Giám đốc phụ trách đơn vị Common Servies được chỉ định trở thành quan chức đầu tiên củ a ICC chịu trách nhiệm về các vấn đề pháp lý cho ICC hoạt động, đồng thời chính thức tiếp quản nhiệm vụ của nhóm chuyên gia. Ngày 03 - 07 tháng 10 năm 2002 là giai đoạn bỏ phiếu bầu 18 Thẩm phán [79]. Ngày 11 tháng 4 năm 2003 chính thức thành lập ICC tại Hague và các Thẩm phán tuyên thệ trước sự hiện diện của Chủ tịch Hội đồng quốc gia thành viên. Tham dự buổi lễ có Nữ Hoàng Beatrix của Vương quốc Hà Lan với vai trò là người đứng đầu nước chủ nhà và Tổng thư ký LHQ Kofi Annan [79]. Ngày 21 - 23 tháng 4 năm 2003, giai đoạn của Hội đồng quốc gia thành viên. Ông Luis Moreno - Ocampo người Argentina được bầu làm ủy viên Công tố. Ngày 24 tháng 6 năm 2003, ông Bruno Cathala người Pháp được bầu làm Thư ký đầu tiên của ICC với đa số phiếu của các Thẩm phán trong phiên họp toàn thể. Ngày 01 tháng 7 năm 2003, ICC kỷ niệm một năm thi hành Đạo luật Rome. Ngày 03 tháng 7 năm 2003, ông Serge Brammertz người Belgium đã tuyên thệ nhậm chức Phó ủy viên Công tố [79]. Ngày 20 - 22 tháng 4 năm 2004, buổi họp đầu tiên của Hội đồng quản trị quỹ Trust fund for Victims tại ICC. Ngày 25 tháng 6 năm 2004, thành lập ủy ban tiền xét xử của ICC. Ngày 01 tháng 11 năm 2004, bà Fatou Bensouda người Gambia tuyên thệ nhậm chức Phó ủy viên Công tố của ICC [79]. 10
  17. Ngày 10 tháng 3 năm 2006, 6 Thẩm phán tuyên thệ nhậm chức trong một phiên họp mở rộng. Ngày 17 tháng 01 năm 2008, 3 Thẩm phán mới được bầu bởi Hội đồng quốc gia thành viên vào cuối năm 2007 đã tuyên thệ nhậm chức là Judge Daniel David Ntanda Nsereko người Uganda, Judge Fumiko Saiga người Nhật Bản và Judge Bruno Cotte người Pháp. Ngày 29 tháng 02 năm 2008, các Thẩm phán gặp nhau trong buổi họp toàn thể và bầu bà Silvana Arbia người Italy là Thư ký của ICC trong nhiệm kỳ 5 năm. Ngày 17 tháng 4 năm 2008, bà Silvana Arbia tuyên thệ nhậm chức Thư ký ICC. Ngày 09 tháng 9 năm 2008, các Thẩm phán của ICC họp phiên họp toàn thể đã bầu bà Didier Preira người Senegal làm Phó Reigistrar cho nhiệm kỳ 5 năm [79]. Ngày 19 tháng 01 năm 2009, diễn ra kỳ họp thứ VII của Hội đồng quốc gia thành viên, Hội đồng bầu 6 Thẩm phán mới thay thế nhiệm kỳ của người tiền nhiệm. Ngày 26 tháng 01 năm 2009, ICC mở phiên xét xử đầu tiên, vụ Thomas Lubanga Dyilo. Ngày 11 tháng 3 năm 2009, Hội đồng quốc gia thành viên bầu 5 trong 6 Thẩm phán của ICC trong tháng 01 năm 2009 cho nhiệm kỳ 9 năm và nhậm chức trong buổi lễ trọng thể tại ICC, bao gồm Judge Fumiko Saiga người Nhật Bản, Judge Joyce Aluoch người Kenya, Judge Sanji Mmasenono Monageng người Botswana, Judge Christine van den Wyngaert người Belgium và Judge Cuno Tarfusser người Italy. Ông Mohamed Shahabuddeen người Guyana được bầu tháng 01 năm 2009 đã từ chức vào ngày 16 tháng 02 năm 2009. Ngày 16 tháng 3 năm 2009, các Thẩm phán ICC bầu Chủ tịch mới là ông Sang Hyun Song người Hàn Quốc. Ông Judge Fatoumata Dembele Diarra người Mali và ông Hans Peter Kaul người Germany lần lượt là Phó Chủ tịch thứ nhất và Phó Chủ tịch thứ hai [79]. Tính đ ến ngày 27 tháng 5 năm 2015, Quy chế Roma đã có 123 quốc gia thành viên. Trong đó có 34 quố c gia đế n từ Châu Phi , 19 quố c gia đế n từ Châu Á Thái Bình Dương, 18 quố c gia đế n từ Đông Âu , 27 quố c gia từ Châu Mỹ La tinh và Caribe, 25 quố c gia đế n từ Tây Âu và các quố c gia khá c [91]. 11
  18. 1.2. Đặc điểm, vai trò , thẩ m quyề n, cơ cấ u tổ chức của Tòa án Hin ̀ h sư ̣ quố c tế theo quy chế Rome 1.2.1. Đặc điểm của Tòa án hình sự quốc tế theo quy chế Rome 1.2.1.1. Tính chất thường trực của Tòa án hình sự quốc tế Tòa án hình sự quốc tế (ICC) là thiết chế tư pháp hình sự có tính chất thường trực, Điều 1 Quy chế Rome khẳng định: Tòa án hình sự quốc tế là một cơ quan thường trực. Tính thường trực của ICC thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất: ICC chỉ có thẩm quyền xét xử đối với những tội phạm xảy ra vào thời điểm sau khi Quy chế Roma có hiệu lực. Thẩm quyền của ICC không có hiệu lực hồi tố đối với những tội phạm xảy ra trước khi nó được thành lập Thứ hai: tính chất hoạt động thường xuyên của ICC là đặc điểm nổi bật thể hiện tính chất thường trực của thiết chế tư pháp hình sự quốc tế này. Thứ ba: ICC có đội ngũ thẩm phán, công tố viên, nhân viên có năng lực chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt và trách nhiệm làm việc theo chế độ toàn thời gian, đủ khả năng giải quyết công việc thuộc trách nhiệm của ICC. Thứ tư: là một cơ quan thường trực nên ngay từ khi được thành lập ICC đã đặt quan hệ lâu dài với Liên hợp quốc, với các quốc gia thành viên và các tổ chức quốc tế khác để thực hiện chức năng của mình. Thứ năm: ICC có trụ sở thường trực đặt tại Lahay – Hà Lan (nước chủ nhà) theo quy định tại Điều 3 Quy chế Rome. Tòa án sẽ ký kết thỏa thuận về trụ sở chính thức với nước chủ nhà. Thỏa thuận có sự phê duyệt của Hội đồng các quốc gia thành viên của Quy chế và sau đó được Chánh án nhân danh Tòa án ký. Như vậy với những căn cứ này ICC đã có đầy đủ các biểu hiện của một thiết chế tư pháp hình sự quốc tế mang tính chất thường trực, một điểm khác biệt để phân biệt nó với các Tòa án hình sự quốc tế khác. 1.2.1.2. Tính chất độc lập của ICC Lời mở đầu của Quy chế Rome có đoạn viết: Vì mục đích này và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai, thành lập một Tòa án hình sự quốc tế thường trực, độc lập. Định hướng đó là cơ sở cho tất cả các quy phạm của Quy chế Rome 12
  19. và là phương châm hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tính chất độc lập của ICC được thể hiện trong các mối quan hệ sau: Độc lập trong mối quan hệ với Liên hợp quốc: ICC có tư cách pháp nhân quốc tế, có năng lực pháp lý cần thiết để thực hiện các chức năng và hoàn thành mục tiêu của mình. ICC không chịu sự chi phối và điều hành của Liên hợp quốc mà chỉ quan hệ với Liên hợp quốc thông qua thỏa thuận hợp tác. Độc lập với Tòa án hình sự quốc tế khác: ICC là thiết chế tư pháp hình sự do các quốc gia thành viên lập ra có vị trí độc lập không những với Liên hợp quốc mà còn đối với các Tòa án hình sự Ad hoc do Liên hợp quốc lập ra như Tòa án Nam Tư (cũ), Tòa Ruanđa, Tòa án Campuchia. Những tòa án này có thẩm quyền riêng biệt được quy định trong quy chế thành lập do Liên hợp quốc ban hành nên độc lập về tư pháp đối với ICC. Độc lập với các quốc gia thành viên: Mặc dù đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia thành viên trong quá trình thực hiện quyền tài phán của mình nhưng ICC độc lập với quốc gia thành viên, được thể hiện: + ICC tôn trọng chủ quyền của các quốc gia thành viên ; + ICC không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên ; + Những tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC thì các quốc gia thành viên phải tự thực hiện việc truy tố, xét xử. Những phán quyết của các quốc gia thành viên đối với 04 loại tội phạm được quy định trong Quy chế Rome thì ICC không có quyền can thiệp. ICC chỉ thực hiện quyền tài phán của mình khi quốc gia thành viên không muốn hoặc không có khả năng thực hiện quyền tài phán của mình. 1.2.1.3. Tính chất tự nguyên của ICC ICC được thành lập bởi 1 điều ước quốc tế (Quy chế Roma) dựa trên sự tự nguyện của các quốc gia sau quá trình bàn thảo tại Hội nghị thành lập. Trên tinh thần đó, các quy định của Quy chế Roma không trói buộc các quốc gia trừ khi các quốc gia chấp nhận tham gia quy chế, tự nguyện gánh vác trách nhiệm quốc tế. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng để phân biệt ICC với các Tòa án hình sự quốc tế khác. 13
  20. 1.2.1.4. Tính chất hợp tác chặt chẽ với các quốc gia, các tổ chức trong hoạt động của ICC Để thực sự hiệu quả, ICC cần đến sự hợp tác chặt chẽ với các bên có liên quan, bao gồm các quốc gia, các tổ chức quốc tế, khu vực liên chính phủ và phi chính phủ. Tòa án không có lực lượng cảnh sát riêng để thực thi các quyết định và phán quyết của mình như các quốc gia hoặc có lực lượng riêng để tiến hành như các Tòa án Adhoc do Liên hợp quốc thành lập. Do vậy, Tòa án yêu cầu sự hợp tác của các quốc gia trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thu thập chứng cứ, bắt giữ, giao nộp các tội phạm và thực thi các bản án của mình. Quy chế cũng định ra những nghĩa vụ cụ thể đối với các quốc gia thành viên trong việc hợp tác với Tòa án. 1.2.1.5. Thẩm quyền bổ sung của ICC ICC không phải là cấp trên của Tòa án quốc gia và cũng không phải là Tòa phúc thẩm. ICC không có thẩm quyền bác bỏ hay xem xét lại của bất kỳ Tòa án quốc gia nào và cũng không có thẩm quyền vượt trội hơn Tòa án quốc gia. Quy chế đã quy định rằng các quốc gia có trách nhiệm hàng đầu trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC mà họ tự nguyện tham gia trừ khi họ không muốn hoặc không có khả năng thực hiện quyền tài phán đối với các tội phạm đó. Nhiều quốc gia đã cho rằng, sự quy định về thẩm quyền bổ sung là sự bảo đảm đầy đủ nhất về việc Tòa án hình sự quốc tế không xâm phạm đến chủ quyền quốc gia. Đây là điểm khác biệt quan trọng so với các Tòa án hình sự khác. 1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của Tòa án Hình sự quốc tế Tòa án Hình sự quốc tế theo Quy chế Rome ra đời không những đáp ứng đươ ̣c yêu cầ u cấ p thi ết của việc ngăn chặn xung đột , bảo vệ hòa bình , an ninh quố c tế mà còn thực thi trách nhiê ̣m đó mô ̣t cách có hiê ̣u quả với mô ̣t nề n tư pháp công bằ ng, khách quan mang lại niềm tin cho nhân loại . Tính ưu việt này đã khẳng đị nh vai trò, ý nghĩa của Tòa án hình sự quốc tế trong đời sống chính trị quốc tế. 1.2.2.1. Tòa án Hình sự quốc tế góp phần trừng trị và ngăn ngừa tội phạm quố c tế Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quố c tế ra đời và hiǹ h thành trong bố i cảnh: 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2