intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền việc làm của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Chuheodethuong10 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

36
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền việc làm của NKT ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, chỉ ra những bất cập, hạn chế trên cơ sở đó đưa ra được những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng nâng cao hiệu quả thực hiện hiện pháp luật về quyền việc làm của NKT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền việc làm của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THU HẰNG QUYÒN VIÖC LµM CñA NG¦êI KHUYÕT TËT THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THU HẰNG QUYÒN VIÖC LµM CñA NG¦êI KHUYÕT TËT THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380101.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ THÚY LÂM HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn./. NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Thị Thu Hằng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ....................................................................................... 7 1.1. Khái niệm ngƣời khuyết tật ............................................................. 7 1.2. Khái niệm và ý nghĩa quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ....... 15 1.3. Điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật........ 18 1.3.1. Khái niệm và nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ................................................................... 18 1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ........................................................................................... 21 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 31 CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ...................................................................................... 32 2.1. Các quyền việc làm của ngƣời khuyết tật và thực tiễn thực hiện ..... 32 2.1.1. Quyền đƣợc bảo đảm quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nơi làm việc .................................................................................. 33 2.1.2. Quyền đƣợc bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về cơ hội tìm kiếm việc làm .................................................................................... 35 2.1.3. Quyền đƣợc làm việc trong điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động ............................................................................................. 41
  5. 2.2. Các biện pháp đảm bảo quyền việc làm của ngƣời khuyết tật và thực tiễn thực hiện ..................................................................... 47 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 55 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT .................................................................... 56 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ......................................................................................... 56 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ................................................................ 58 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ................................ 63 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLĐTB&XH Bộ Lao động Thƣơng binh & Xã hội BLLĐ Bộ luật Lao động ĐHĐ LHQ Đại hội đồng Liên Hợp Quốc HCM Hồ Chí Minh Công ƣớc quốc tế về quyền kinh tế, ICESCR xã hội và văn hóa ILO Tổ chức Lao động Quốc tế NHCSXH Ngân hàng chính sách xã hội NKT Ngƣời khuyết tật SXKD Sản xuất kinh doanh UDHR Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền UN Liên Hợp Quốc
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Có thể thấy, Việt Nam đang ngày càng bƣớc vào giai đoạn hội nhập mạnh mẽ với thế giới trên nhiều phƣơng diện và lĩnh vực. Trong đó, không thể không kể đến công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đấu tranh chống lại bất bình đẳng của xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho mọi tầng lớp dân cƣ nói chung và sự chung tay của Việt Nam trong lộ trình thúc đẩy quyền lợi và khả năng hỗ trợ cho NKT nói riêng. Tại lễ ra mắt Uỷ ban Quốc gia về NKT Việt Nam năm 2016, Phó Thủ tƣớng Vũ Đức Đam đã nhận định rằng: Ngƣời khuyết tật có thể có cơ thể không lành lặn nhƣng có tâm hồn cao đẹp mà không ít ngƣời dù cơ thể lành lặn lại không có đƣợc. Họ là những ngƣời đặc biệt, những ngƣời rất đáng khâm phục, đáng đƣợc trân trọng. Họ tuyệt nhiên không cần những ngƣời khác thƣơng hại. Họ cần sự tôn trọng, sẻ chia, tạo điều kiện để cùng nhau làm cuộc sống này có ý nghĩa hơn [32]. Theo con số thống kê của “Ủy ban quốc gia về Người khuyết tật Việt Nam ” về số lƣợng NKT của nƣớc ta là 8 triệu ngƣời, chiếm khoảng 7,8% dân số, trong đó 58% NKT là phụ nữ, 10% NKT thuộc hộ nghèo [33] và chỉ có 40% ngƣời khuyết tật còn khả năng lao động. Đa số ngƣời khuyết tật trong độ tuổi lao động, sống ở nông thôn, gặp khó khăn về nhiều mặt. Thế nhƣng, cả nƣớc mới có khoảng 30% trong tổng số gần 2 triệu NKT ở độ tuổi lao động, còn khả năng lao động có việc làm, tạo thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Họ chủ yếu làm nông, lâm, ngƣ nghiệp, công việc không ổn định, thu nhập thấp. Nhƣ vậy, nƣớc ta còn hơn 1 triệu ngƣời khuyết tật có khả năng lao 1
  8. động chƣa tham gia lao động. Họ chƣa tham gia lao động bởi một phần các chính sách tạo việc làm cho NKT còn hạn chế, chƣa thực sƣ hiệu quả, NKT thƣờng bị cho là vô dụng, không có khả năng lao động, các chủ lao động chƣa nhận thức đƣợc năng lực của NKT (nhƣ sự tận tụy, trung thành...) nên chƣa có chiến lƣợc sắp xếp và sử dụng ngƣời lao động; cộng với tâm lý tự ti trở thành rào cản rất lớn cho ngƣời khuyết tật tham gia vào xã hội. Bên cạnh đó, một số NKT bị lợi dụng trở thành công cụ kiếm tiền của những kẻ bất lƣơng là hiện trạng chúng ta có thể thấy hàng ngày. Tại các thành phố lớn nhƣ Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt tại các địa điểm du lịch, các khu chợ đông đúc, các ngã tƣ nhộn nhịp, những ngƣời khuyết tật với những bộ quần áo lem luốc, bẩn thỉu, rách rƣới cùng với bộ dạng đáng thƣơng “đƣợc tung ra” để xin tiền. Đây là một trong những chiêu trò lợi dụng lòng thƣơng ngƣời của mọi ngƣời và cơ thể khiếm khuyết của NKT để trục lợi của một số cá nhân hành nghề “chăn dắt”. Điều này không những làm mất mĩ quan đƣờng phố, ảnh hƣởng đến ngành du lịch mà còn hạ nhục nhân phẩm, danh dự của NKT. Đây rõ ràng là hai mặt của một vấn đề, từ chỗ không đƣợc đảm bảo quyền làm việc đến bị lợi dụng và trà đạp lên danh dự, nhân phẩm để kiếm tiền. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của quyền việc làm cho NKT và góp phần khắc phục những khó khăn, thách thức, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của xã hội đối với việc thực hiện các chính sách nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích cho NKT, tôi đã lựa chọn đề tài:“Quyền việc làm của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam”, qua đó đóng góp ý kiến, đƣa ra một số phƣơng hƣớng, giải pháp để tiếp tục hoàn thiện các chính sách và cơ chế điều chỉnh của pháp luật về vấn đề quyền việc làm cho NKT, góp một phần nhỏ bé vào việc phát triển, hòa nhập cộng đồng xã hội cho NKT để họ không cảm thấy tự ti, mặc cảm về khiếm khuyết của mình. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nƣớc ta, chính sách tạo việc làm cho ngƣời lao động luôn đƣợc quan tâm, chú trọng, đặc biệt là tạo việc làm cho NKT - vấn đề đƣợc Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu. Trong nhóm quyền của NKT nói chung và quyền việc làm của NKT nói riêng hết sức đƣợc quan tâm, nghiên cứu, có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau: - Luận án Tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Thị Báo, Học viện Hành chính Quốc gia, 2008; - Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam”, Trần Thị Tú Anh, Khoa Luật ĐHQGHN, 2014; - Luận văn Thạc sỹ luật học, “Pháp luật việc làm cho người khuyết tật”, Hồ Thị Trâm, Đại học Luật Hà Nội, 2014; - Luận văn Thạc sỹ Luật học “Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam hiện hành”, Nguyễn Bích Ngọc, Học viện Khoa học Xã hội, 2016; - Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, Đinh Thị Nga Phƣợng, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011; - Luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp việc làm dành cho người khuyết tật tại thành phố Hồ Chí Minh”, Đoàn Thị Cẩm Vân, trƣờng Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2015; …. Cùng với đó, ngày 20/3/2014, tại Hà Nội, Liên hiệp hội về ngƣời khuyết tật Việt Nam (VFD) tổ chức Lễ ra mắt Trung tâm Thông tin - Truyền 3
  10. thông và Tạp chí Ngƣời khuyết tật. Ngày 24/5/2019, Liên hiệp hội về ngƣời khuyết tật Việt Nam đã tổ chức lễ ra mắt Tạp chí điện tử Đồng hành Việt. Sự ra đời của Tạp chí điện tử Đồng hành Việt cùng với sự kết hợp của Tạp chí Đồng hành Việt in sẽ là sự phối hợp, liên kết chặt chẽ của các loại hình báo chí, từ đó phát huy đƣợc những lợi thế, điểm mạnh của từng loại hình báo chí, cung cấp đến bạn đọc những thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời với độ bao phủ rộng theo đúng tôn chỉ mục đích đã đƣợc Bộ Thông tin và Truyền thông cấp Giấy phép hoạt động, góp phần thực hiện hiệu quả hơn Kế hoạch truyền thông cũng nhƣ Chiến lƣợc phát triển của Liên hiệp hội... Ngoài ra, còn có các bài viết của các tạp chí nhƣ: Tạp chí Giáo dục với bài viết “Hỗ trợ tạo việc làm cho NKT ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018”, Tạp chí Điện tử Da cam với bài viết “Hỗ trợ NKT – nhìn từ Nhật Bản”, Tạp chí Cộng sản với bài viết “Tạo điều kiện để người khuyết tật phát huy tiềm năng, khẳng định trong cuộc sống” và hàng loạt các bài viết khác. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định trong việc nghiên cứu các vấn đề quyền con ngƣời, pháp luật về NKT tại Việt Nam… nhƣng vẫn chủ yếu tiếp cận dƣới góc độ pháp luật chứ chƣa tiếp cận một cách sâu sắc dƣới góc độ “quyền” cụ thể ở đây là quyền việc làm của NKT. Tuy nhiên những nghiên cứu trên vẫn là những tài liệu tham khảo hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện nghiên cứu này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục tiêu Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền việc làm của NKT ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật cũng nhƣ thực tiễn áp dụng, chỉ ra những bất cập, hạn chế trên cơ sở đó đƣa ra đƣợc những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng nâng cao hiệu quả thực hiện hiện pháp luật về quyền việc làm của NKT. 4
  11. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền việc làm của NKT. - Đánh giá đúng thực trạng pháp luật về quyền việc làm của NKT cũng nhƣ thực tiễn thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này, chỉ ra đƣợc những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những điểm còn hạn chế tồn tại và nguyên nhân của nó. - Đƣa ra đƣợc các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền của NKT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp luật về quyền việc làm của NKT mà cụ thể là Luật NKT và các văn bản hƣớng dẫn thi hành cũng nhƣ thực tiễn thực hiện. Luận văn cũng nghiên cứu pháp luật quốc tế về ngƣời khuyết tật ở mức độ nhất định. - Phạm vi nghiên cứu: Quyền việc làm của NKT là một lĩnh vực rộng có thể đƣợc nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này nghiên cứu quyền việc làm dƣới góc độ luật học và cụ thể ở các nội dung nhƣ: quyền việc làm của NKT trong quan hệ lao động, biện pháp bảo đảm quyền và các giải pháp để hoàn thiện pháp luật NKT. Luận văn không nghiên cứu về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về quyền việc làm của NKT. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, nhóm nghiên cứu vận dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Cụ thể là, phƣơng pháp duy vật biện chứng và phƣơng pháp duy vật lịch sử. Đây là phƣơng pháp luận xuyên suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện công trình nghiên cứu. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm pháp luật, đƣờng lối, chủ 5
  12. trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về NKT cũng là cơ sở lí luận soi sáng cho việc phân tích và nghiên cứu đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lí luận: Luận văn có ý nghĩa làm rõ hệ thống lý luận, những vấn đề pháp lý cơ bản về quyền việc làm của NKT. Từ đó có những nhận thức mới về vấn đề này. Bảo đảm quyền việc làm cho họ, tạo cơ hội việc làm, thúc đẩy mô hình tự tạo việc làm, khả năng lựa chọn cơ hội việc làm cũng nhƣ những yêu cầu về tạo dựng môi trƣờng dễ hòa nhập, không rào cản cho lao động là NKT phù hợp với Công ƣớc quốc tế về ngƣời khuyết tật năm 2006. Về mặt thực tiễn: Qua phân tích thực trạng vấn đề pháp lý và thực hiện trong thực hiện quyền việc làm cho NKT, nhằm đƣa ra các đề xuất giải pháp để hoàn thiện cơ sở, chính sách pháp luật, góp phần tăng cƣờng hiệu quả quản lý nhà nƣớc, đồng thời nâng cao hiệu quả trong tổ chức triển khai hoạt động việc làm cho NKT ở Việt Nam hiện nay. 7. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu thì luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lí luận về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật và sự điều chỉnh của pháp luật Chương 2: Quy định pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật tại Việt Nam và thực tiễn thi hành. Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quyền việc làm của ngƣời khuyết tật. 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm ngƣời khuyết tật Khi luật pháp đƣợc xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà NKT đang phải gánh chịu, xóa bỏ các cơ chế khiến NKT bị tách biệt ra ngoài xã hội, đồng thời tăng cƣờng các cơ hội việc làm bình đẳng cho họ, thì một vấn đề đƣợc đặt ra là làm thế nào để xác định ai là ngƣời đƣợc hƣởng những quyền mà luật pháp đem lại. Nói một cách khác: ai đƣợc xem là NKT? Hiện nay đa số các nƣớc định nghĩa về NKT là có sự kết hợp giữa ngƣời khiếm khuyết và các yếu tố môi trƣờng và tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau. * Dưới góc độ pháp luật quốc tế Cách nhìn nhận về NKT có những thay đổi nhất định qua từng thời kì khác nhau. Nếu nhƣ những năm 1950 NKT đƣợc nhìn nhận theo mô hình “chăm sóc y tế”, theo đó NKT bị coi là các “đối tượng” của “phúc lợi xã hội” mà không phải là các chủ thể có quyền nhƣ một công dân bình thƣờng [34]. Thì đến những năm 1970, cách nhìn nhận NKT đã có sự thay đổi, theo đó những NKT là những ngƣời có khả năng, có quyền sống và lao động nhƣ những ngƣời bình thƣờng chứ không phải là một đối tƣợng cần nhận sự “chiếu cố” của xã hội. Quá trình chuyển biến nhận thức về NKT là kết quả đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau của bản thân NKT và các hiệp hội của họ xuất phát từ Hoa Kỳ sau đó lan rộng và phổ biến ở nhiều nƣớc nhƣ Thụy Điển, Nhật Bản, Brazil… và gần đây là Hàn Quốc, Thái Lan. Tƣ tƣởng cốt lõi của nhận thức mới này là các vấn đề về NKT đƣợc xem xét dƣới góc độ quyền con ngƣời, dựa trên quan điểm “tất cả mọi người đều có 7
  14. quyền được sống một cuộc sống đầy đủ và có phẩm giá” đã đƣợc ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948 [12]. Trên thực tế, hiện nay vẫn chƣa có cách nhìn nhận thống nhất, toàn diện về NKT. Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về NKT, tuy nhiên có hai quan điểm phổ biến song song cùng tồn tại, đó là: Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế và quan điểm khuyết tật dưới góc độ xã hội. * Dưới góc độ y tế Quan điểm này cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính con ngƣời đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trƣờng xã hội và môi trƣờng vật thể xung quanh NKT. Quan niệm này cho rằng NKT có thể hƣởng lợi từ phƣơng pháp khoa học nhƣ thuốc điều trị và các công nghệ cải thiện chức năng. Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội và nhìn nhận NKT là một vấn đề và đƣa ra giải pháp để làm ngƣời đó “bình thường” thông qua việc cung cấp các dịch vụ giáo dục đặc biệt, giao thông đặc biệt, nghề trị liệu, vật lý trị liệu… Nhƣ đã trình bày, định nghĩa theo quan điểm y tế thƣờng tập trung vào sự khiếm khuyết về thể trạng, tinh thần, thính giác, thị giác và sức khỏe tâm thần… Trên cơ sở đó, nhiều quốc gia định nghĩa về NKT theo quan niệm này. Chẳng hạn: Luật của nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ NKT ban hành năm 1990, Điều 2 quy định: Ngƣời khuyết tật là một trong những ngƣời bị bất thƣờng, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những ngƣời đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thƣờng. 8
  15. Ngƣời khuyết tật là những ngƣời có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều và /hoặc khuyết tật khác [7]. Hay nhƣ Luật về Ngƣời khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ (về cơ hội bình đẳng, bảo vệ quyền và đảm bảo cho NKT tham gia mọi hoạt động xã hội) thì định nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm thần. Trong khi đó định nghĩa về NKT lại đƣợc nêu: “Một người bị bất kỳ một khuyết tật nào không dưới 40% theo xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền” [34]. Đạo luật số 7277 với tên gọi là “Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự phát triển và tự tin cho người khuyết tật và hòa nhập người khuyết tật vào xã hội và các mục đích khác”, đƣợc thông qua bởi Thƣợng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc hội Phillipines vào ngày 12 tháng 7 năm 1991 thì quy định: “Người khuyết tật – là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế do khiếm khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một hoạt động được coi là bình thường”. Nhƣ vậy, quan điểm khuyết tật dƣới góc độ y tế nhìn nhận NKT nhƣ những ngƣời có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Điều này đã đẩy những NKT vào thế bị động của ngƣời bệnh. Mục tiêu của hƣớng tiếp cận y tế là làm cho những NKT cảm thấy trở lại trạng thái bình thƣờng nhƣng vô hình trung lại khiến cho những NKT cảm thấy họ không bình thƣờng. Theo đó vấn đề khuyết tật đƣợc cho là hạn chế ở từng cá nhân. Khi bị khuyết tật những ngƣời này “cần phải thay đổi” chứ không phải xã hội hay môi trƣờng xung quanh phải thay đổi. 9
  16. * Dưới góc độ xã hội Vào cuối những năm 1990, mô hình xã hội trở nên khá nổi trội trong những nghiên cứu khuyết tật trên thế giới. Mô hình xã hội là mô hình có cơ sở lý thuyết và có quy tắc riêng đƣợc coi là nền tảng của những biến chuyển về vấn đề NKT. Trong mô hình xã hội, khuyết tật đƣợc nhìn nhận là hệ quả bị xã hội loại trừ và phân biệt. Bởi vì xã hội đƣợc tổ chức không tốt nên những NKT phải đối mặt với một số phân biệt đối xử nhƣ: (1) Thái độ: thể hiện sự sợ hãi, sự thiếu hiểu biết và ít kỳ vọng (ảnh hƣởng bởi văn hóa và tín ngƣỡng); (2) Môi trường: dẫn đến việc không tiếp cận về vật chất, ảnh hƣởng đến tất cả các mặt của đời sống (trƣờng học, cửa hàng, tòa nhà công cộng, giao thông…); (3) Thể chế: là những phân biệt mang tính pháp lý (ví dụ nhƣ không đƣợc lập gia đình hay có con, không đƣợc nhận vào trƣờng học…). Mô hình xã hội về khuyết tật cho rằng nhiều ngƣời bị khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhƣng chỉ xã hội biến họ thành khuyết tật, “con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật”. Nói cách khác, mô hình xã hội khuyết tật coi xã hội là vấn đề, giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã hội và chính sách cần phải cải tổ chứ không phải NKT. Mô hình xã hội giúp NKT hiểu điều gì cần thực hiện để tiếp cận với quyền công dân và quyền con ngƣời. Điều ý nghĩa ở đây chính là NKT cũng phải nhận thức đƣợc đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tƣ cách là một công dân trong mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội mà mình tham gia. Định nghĩa NKT theo quan điểm xã hội là sự kết hợp giữa sự khiếm khuyết và các yếu tố môi trƣờng và tiếp cận dƣới góc độ quyền của NKT. Do 10
  17. đó trên thế giới cũng có nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế phi chính phủ tiếp cận định nghĩa về NKT dƣới góc độ của quan điểm này, điển hình phải kể đến đầu tiên là hai công ƣớc: Công ƣớc số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm của NKT (năm 1983), khoản 1, Điều 1 quy định: Ngƣời khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và tâm thần đƣợc thừa nhận và Công ước về Quyền của Người khuyết tật của Liên hợp quốc (năm 2006), Điều 1 quy định: Ngƣời khuyết tật bao gồm những ngƣời bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hƣởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của ngƣời khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những ngƣời khác [34]. Sau đó là hàng loạt các quốc gia trên thế giới như: Sách Số chín của Bộ luật xã hội của Đức định nghĩa: Ngƣời khuyết tật là ngƣời có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lý tiến triển không bình thƣờng so với ngƣời có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thƣờng này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội [22, tr.17]. Luật bình đẳng về việc làm của Nam phi định nghĩa NKT là: Ngƣời bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn nhiều lần, khiến ngƣời đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát triển nghề nghiệp [24, tr.18]; 11
  18. Đạo luật về NKT của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA – Americans with Dis- abilities Act of 1990) định nghĩa: Ngƣời khuyết tật là ngƣời có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hƣởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống [35]. Có thể thấy, cách tiếp cận NKT ở các góc độ khác nhau giữa quan điểm khuyết tật cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực đem lại cho ta những cái nhìn khách quan nhất về thế nào là NKT và để đƣa ra khái niệm thuyết phục và thống nhất về NKT là không dễ dàng. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng định nghĩa về NKT dù tiếp cận dƣới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là NKT có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trƣờng hoặc con ngƣời khi tham gia vào mọi hoạt động của kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải đƣợc đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm khi tham gia vào mọi hoạt động của đời sống nhƣ bất cứ công dân nào với tƣ cách là quyền của con ngƣời. Ở Việt Nam trƣớc đây trong Pháp lệnh về ngƣời tàn tật năm 1998 gọi NKT là ngƣời tàn tật. Theo đó: Ngƣời tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là ngƣời bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dƣới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [26]. Định nghĩa này đƣợc coi là khá phù hợp vào thời điểm đó vì các quan điểm trên thế giới cũng nhƣ quy định của Liên hợp quốc ghi nhận đều dựa trên tinh thần của Khuyến nghị số 99 ngày 01/05/1995: 12
  19. Ngƣời tàn tật là ngƣời mà triển vọng tìm giữ đƣợc một việc làm phù hợp, cũng nhƣ triển vọng tiến bộ trong nghề nghiệp đều bị giám sút một cách rõ rệt sau khi bị một trở ngại về thể chất hoặc tinh thần và trở ngại này đƣợc công nhận đúng mức. Bên cạnh đó, Điều 1 Nghị định số 81/NĐ-CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động đối với ngƣời tàn tật (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23/4/2004) chỉ ra rằng: Ngƣời tàn tật là ngƣời lao động không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dƣới những dạng tật khác nhau, bị suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, đƣợc Hội đồng giám định y khoa hoặc cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận theo quy định của Bộ Y tế [4]. Tuy nhiên, với cách gọi này cũng đã dẫn đến rất nhiều quan điểm trái chiều. Để phù hợp với sự phát triển và hội nhập xu hƣớng quốc tế cũng nhƣ văn hóa xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, ngày 17/06/2010, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông qua Luật Ngƣời khuyết tật và sẽ có hiệu lực từ 01/01/2011, Luật này chính thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay cho khái niệm “người tàn tật”. Việc thay đổi tên gọi từ “người tàn tật” sang “người khuyết tật” thể hiện sự thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối với những ngƣời kém may mắn khi mang trên mình những dạng tật [25]. Luật Ngƣời khuyết tật 2010 tại khoản 1 điều 2 có ghi nhận rằng: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [19]. Có thể khẳng định rằng, đây là văn 13
  20. bản luật toàn diện đầu tiên của quốc gia về NKT, điều này đặt một dấu mốc rất quan trọng trong việc nhìn nhận, cách thức sử dụng thuật ngữ NKT trong tất cả mọi vấn đề pháp lý cũng nhƣ xã hội nhằm đảm bảo tính nhân văn, không gây mặc cảm, tự ti cho NKT và sự tránh né kì thị của cả cộng đồng với NKT, theo đó NKT đƣợc quan tâm nhìn nhận một cách toàn diện dƣới góc độ y tế và góc độ pháp lý. Khái niệm này thể hiện sự tiến bộ và bao quát hơn so với khái niệm đƣợc ghi nhận trong Pháp lệnh về ngƣời tàn tật năm 1998 ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, thuật ngữ “người tàn tật” đã đƣợc thay thế bằng thuật ngữ “người khuyết tật”. Đánh giá về mặt ngôn ngữ thì thuật ngữ “người tàn tật” nghe có vẻ mang lại cảm giác nặng nề hơn thuật ngữ “người khuyết tật”, tuy nhiên thì xét về mặt bản chất thì hai thuật ngữ này dƣờng nhƣ đồng nhất. Sự thay đổi thuật ngữ này, nhƣ đã nói ở trên, mặc dù không thay đổi bản chất nhƣng nó cũng đã góp phần tác động nhất định tới nhận thức của những ngƣời xung quanh. Thứ hai, những NKT là ngƣời bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng đƣợc biểu hiện dƣới dạng tật. Theo cách hiểu này thì NKT bao gồm cả những ngƣời bị khuyết tật bẩm sinh, ngƣời bị khiếm khuyết di bệnh tật, tai nạn, thƣơng binh, bệnh binh… Thứ ba, nhận thấy trong cả định nghĩa về “người tàn tật” và “người khuyết tật” đều ghi nhận NKT “gặp khó khăn” và dƣờng nhƣ bị giới hạn trong các hoạt động “lao động, sinh hoạt, học tập”. Nhƣ vậy, các hoạt động “lao động, sinh hoạt, học tập” nhìn chung đã bao quát đầy đủ các hoạt động của NKT. Nhƣng trên thực tế, NKT gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực đời sống của xã hội chứ không chỉ riêng các hoạt động này. Việc nghiên cứu để đƣa ra định nghĩa quốc tế về NKT là thách thức do 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2