Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
lượt xem 13
download
Luận văn Thạc sĩ Luật học "Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh" trình bày các nội dung chính sau: Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng thân thiện và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Ninh; Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HOAN THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8. 38. 01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Lan Chi HÀ NỘI, NĂM 2021
- TRẦN THỊ HOAN VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HOAN LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHÓA X Hà Nội, năm 2021 HÀ NỘI - năm
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ, giúp đỡ từ người hướng dẫn là TS. Lê Lan Chi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Những nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác đã được trích dẫn và thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Hà Nội, ngày 08 tháng 3 năm 2021 Tác giả luận văn Trần Thị Hoan
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân CQĐT : Cơ quan điều tra TTHS : Tố tụng hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa BLHS : Bộ luật hình sự NCTN : Người chưa thành niên QCN : Quyền con người
- MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ................................. 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................. 6 1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 6 1.1.2 Đặc điểm thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội……………………………………………………………………………………...15 1.1.3. Mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................................................................... 19 1.2. Cơ sở quy định thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .......................................................................................................... 20 1.3. Một số mô hình tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên thế giới ..................................................................................................... 23 1.3.1. Mô hình tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc tế....................................................................................................... 23 1.3.2. Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Pháp ........ 31 1.3.3. Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Nga ............... 32 1.3.4. Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Hoa Kỳ…. ............................................................................................................. ...26 Tiểu kết chương 1…………………………………………………………………....34 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH BẮC NINH ............................................................................................................... 28 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................... 28 2.1.1. Quy định về phạm vi chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện .... 28 2.1.2. Quy định về nguyên tắc tiến hành tố tụng ............................................... 36 2.1.3. Quy định về đối tượng chứng minh ........................................................ 37 2.1.4.Quy định về người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ............... 40 2.1.5. Quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế .... 41 2.1.6. Quy định về thủ tục tố tụng ..................................................................... 45
- 2.2. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 40 2.2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh và các yếu tố tác động đến việc người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................... 408 2.2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................. 50 2.2.3. Những hạn chế, tồn tại trong thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và nguyên nhân .................................................... 58 Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………62 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ........................................................................................... 63 3.1. Giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ................................................................................................................. 58 3.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện pháp luật ................................... 70 3.2.1. Tăng cường năng lực chuyên môn của hệ thống cán bộ tư pháp ............. 70 3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và hướng dẫn thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................... 72 3.2.3. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát và Tòa án, các cơ quan, tổ chức khác ................................................................................ 74 3.2.4. Tăng cường các thiết chế nhà trường, gia đình và xã hội ....................... 74 Tiểu kết chương 3……………………………………………………………………75 KẾT LUẬN.................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..78
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người dưới 18 tuổi là một đối tượng đặc biệt của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ở lứa tuổi này, người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lí, mức độ nhận thức cũng như kinh nghiệm sống còn hạn chế, khả năng tự kiềm chế chưa cao. Do đó, người dưới 18 tuổi thường dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các quyết định, hành vi tố tụng cũng như các xử sự mà các cơ quan tư pháp hình sự áp dụng đối với họ, nếu không bảo đảm tính thân thiện, có khả năng gây ra những tổn thương nghiêm trọng cho người dưới 18 tuổi và tác động tiêu cực tới quá trình phục hồi nhân cách và giáo dục, cải tạo họ. Với những đặc thù đó, thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi cần có những quy định riêng, khác biệt so với thủ tục áp dụng cho người trên 18 tuổi, thể hiện tính thân thiện, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi. Việc đặt ra thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi có ý nghĩa quan trọng: vừa bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, vừa thể hiện trách nhiệm xã hội của nhà nước trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ em và thế hệ trẻ, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và các văn bản pháp luật khác đã có nhiều quy định về thủ tục tố tụng có liên quan đến người dưới 18 tuổi, trong đó có những quy định thể hiện yếu tố tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn nhiều điểm chưa đáp ứng được yêu cầu thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, một số quy định vẫn còn mang tính hình thức, chưa sát với thực tế. Thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở tỉnh Bắc Ninh cũng như các địa phương khác cho thấy tình hình tội phạm, số vụ, số người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn diễn biến theo chiều hướng phức tạp, với những đặc thù riêng trong quá trình giải quyết vụ án. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố gắng vận dụng linh hoạt những quy định của pháp luật trong các điều kiện, khả năng hiện có để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng đối với người 1
- dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đảm bảo tố tụng thân thiện do đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ, hiểu biết khoa học giáo dục người dưới 18 tuổi còn yếu, cơ sở vật chất chưa bảo đảm. Điều này đặt ra nhiều rào cản, nhiều vấn đề cần giải quyết trong đó có việc đánh giá hiệu quả của các quy định tố tụng hình sự để hoạt động tố tụng thực sự trở nên thân thiện. Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người đặc biệt là quyền của người dưới 18 tuổi, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải đổi mới theo hướng bảo đảm tính thân thiện một cách thực chất, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Từ cải cách đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa vấn đề thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tác giả quyết định chọn đề tài "Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trước khi tác giả thực hiện đề tài này, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi dưới góc độ luật tố tụng hình sự được công bố, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: - Công trình dưới dạng luận án, luận văn: Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam, Vũ Thị Thu Uyên (2015), Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay, Hoàng Minh Đức (2016), Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội. Huỳnh Thị Kim Ánh (2020), Chính sách pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội. - Công trình dưới dạng bài viết khoa học tạp chí chuyên ngành: “Một số điểm mới của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”, Trần Thị Thu Hiên, Nguyễn Phương Anh (2016), Tạp chí Tòa án nhân dân (tháng 10/2016). “Thủ tục xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi tại Tòa án gia đình và người chưa thành niên của một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Nguyễn Phương Thảo (2017), Tạp chí Nhà nước và pháp luật (05). 2
- Nguyễn Hải Ninh (2019), “Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (08); Nguyễn Thị Khánh Ngọc (2020), “Sự cần thiết phải nhân rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân (01). Phan Thị Thanh Mai (2020), “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng với người dưới 18 tuổi”, Tạp chí Khoa học kiểm sát (02). Ngoài ra, các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trên cả nước đều đề cập đến các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội; Viện Đại học Mở Hà Nội (2015), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Tái bản lần thứ hai), Nxb. Tư pháp, Hà Nội,.… Một số sách bình luận khoa học về BLTTHS cũng đề cập đến thủ tục này… Các công trình trên ở các mức độ khác nhau đã làm rõ vấn đề lí luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định về các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo BLTTHS năm 2015 và tiếp cận đối tượng nghiên cứu về mặt thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn đề thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh, luận văn tìm ra những bất cập và vướng mắc trong quá trình thực hiện để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các nhiệm vụ cần giải quyết của luận văn: - Xây dựng khái niệm về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; chỉ ra những đặc điểm cơ bản, mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và cơ sở quy định thủ tục này. Để thực hiện nhiệm vụ này, luận văn cũng cần tham khảo một số mô hình tố tụng trên thế giới để đối chiếu, so sánh và tham khảo cho Việt Nam. - Nghiên cứu, đánh giá tính thân thiện trong các quy định chung về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; 3
- đánh giá thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh để làm sáng tỏ những ưu điểm và hạn chế của luật thực định cũng như của thực tiễn và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó. - Trên cơ sở các nghiên cứu trên, luận văn cần đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự, theo quy định của luật tố tụng hình sự, họ có các tư cách tố tụng của người bị tố giác, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Luận văn cũng nghiên cứu thủ tục tố tụng thân thiện trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong sự so sánh với thủ tục tố tung chung, với thông lệ tư pháp người chưa thành niên và với thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng thân thiện áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thực hiện trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; các hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm trở lại đây (từ năm 2016 đến năm 2020) khi giải quyết những vụ án có người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Luận văn không nghiên cứu thực tiễn thực hiện trong quân đội nhân dân, không nghiên cứu giai đoạn thi hành án hình sự. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tinh thần cải cách tư pháp, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự.. với các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ bản chất của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4
- Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đặc biệt theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật có liên quan. Những điểm mới của luận văn là: - Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm, đặc điểm, mục đích, cơ sở thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tìm hiểu thực trạng của quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật tại tỉnh Bắc Ninh làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật tố tụng hình sự. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, luận văn đã chỉ ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Trên cơ sở đánh giá thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Bắc Ninh, luận văn đã phân tích những nguyên nhân và đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng thân thiện và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 5
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1.1. Người dưới 18 tuổi phạm tội Trước đây trong hệ thống pháp luật Việt Nam và khoa học pháp lý, khái niệm người chưa thành niên (NCTN) được sử dụng nhiều hơn. Đến thời điểm Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 được ban hành, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội được đưa ra để thay thế khái niệm người chưa thành niên. Thuật ngữ này được nhận thức khác nhau, tùy theo góc độ, lĩnh vực. Theo nhà tâm lý học G.Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ quá độ tuổi trẻ em chuyển lên người lớn và là thời kỳ gắn liền với những xung đột, xáo trộn tâm trạng, nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc đang trưởng thành [13]. Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc (LHQ) về áp dụng pháp luật với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) không đưa ra khái niệm về NCTN mà chỉ đưa ra thuật ngữ “người ít tuổi”. Theo Quy tắc số 2.1 mục a của Quy tắc Bắc Kinh thì “Người chưa thành niên là người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo phương thức khác với xét xử người lớn” [21]. Quy tắc của LHQ về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 14/12/1990, có ghi nhận tại Quy tắc số 11 mục a rằng, NCTN là người dưới 18 tuổi, giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của NCTN. Ở Việt Nam, theo Từ điển tiếng Việt, NCTN được hiểu như sau: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ về quyền và nghĩa vụ công dân” [53, tr.114]. Định nghĩa này đã chỉ rõ, NCTN là người chưa hoàn thiện cả về thể lực, trí lực lẫn tinh thần. Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét khái niệm NCTN theo Từ điển tiếng Việt thì rất khó xác định phạm vi đối tượng cụ thể trong cơ cấu dân số là NCTN. Theo đó, yếu tố để xác định đối tượng là NCTN hoàn toàn phụ thuộc vào dấu hiệu sự phát triển về 6
- tâm sinh lý, nhận thức. Dấu hiệu này được xác định bởi yếu tố định tính, còn yếu tố định lượng (có thể coi độ tuổi là yếu tố định lượng) chưa được xác định. Nếu tiếp cận khái niệm NCTN trên phương diện pháp lý, pháp luật Việt Nam hiện hành, độ tuổi của NCTN đã được thống nhất trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy về độ tuổi, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi. Có thể nhận thấy một số điểm khác biệt của người dưới 18 tuổi so với người thành niên: (i) NCTN là người chưa phát triển đẩy đủ về thể chất. Điểm khác biệt này là do nhân tố sinh học; (ii) người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về trí tuệ và tâm lý, sinh lý. Quá trình sinh học, trí tuệ của nhóm đối tượng này phát triển song song với sự phát triển về thể chất. Người dưới 18 tuổi chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi của người dưới 18 tuổi là ranh giới để phân biệt họ với người thành niên. Theo đó người chưa đủ 18 tuổi là người chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Suy ra, người chưa thành niên hay người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đủ 18 tuổi trở lên (đã thành niên). Điều 40 (1) Công ước quyền trẻ em đề cập đến người chưa thành niên phạm tội là trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Điều 37 còn đề cập đến khái niệm trẻ em bị tước tự do. Khái niệm này có thể được hiểu (tương đương với) là NCTN phạm tội bị tước tự do. Ngoài các khái niệm trên, một thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng bởi một số cơ quan nhân quyền LHQ và tổ chức quốc tế khác, đó là trẻ em làm trái pháp luật, NCTN vi phạm pháp luật. Theo UNICEF, NCTN làm trái với pháp luật là những người dưới 18 tuổi phải làm việc với hệ thống tư pháp do bị nghi ngờ hay bị cáo buộc là phạm tội. Cũng có quan điểm cho rằng, NCTN vi phạm pháp luật hay làm trái pháp luật được hiểu là “những người dưới 18 tuổi đã thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật (hành chính hoặc hình sự)” [63]. Như vậy, khái niệm NCTN vi phạm pháp luật có nội hàm rộng hơn khái niệm NCTN phạm tội, do vi phạm pháp luật không có nghĩa chỉ bao gồm pháp luật hình sự, và không có nghĩa trong mọi trường hợp sẽ 7
- dẫn đến hậu quả là NCTN bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xác định là phạm tội như với trường hợp NCTN phạm tội. Trong luật hình sự và tố tụng hình sự ở Việt Nam, NCTN phạm tội là thuật ngữ được sử dụng nhiều. Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 có một chương riêng (chương X): Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 cũng đề cập đến khái niệm người chưa thành niên phạm tội trong nhiều quy định của Chương XXXII (Thủ tục tố tụng với người chưa thành niên). BLTTHS năm 2015 tiếp nối những quy định về NCTN trước đây, nhưng thay đổi bằng việc quy định về khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội. Thực chất khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội không thay đổi về nội hàm so với quy định về NCTN phạm tội so với trước kia. Tuy nhiên, việc xác định luôn giới hạn độ tuổi trong khái niệm này góp phần dễ dàng hơn cho việc áp dụng cũng như không cần các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, người phạm tội là “người có đủ dấu hiệu của chủ thể của tội phạm đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm” [52, tr.311]. Người phạm tội có thể đã hoặc chưa thành niên - trong đó NCTN phạm tội là một bộ phận đặc biệt của người phạm tội nói chung, ranh giới ngăn cách NCTN phạm tội và người thành niên phạm tội là 18 tuổi tròn [67, tr.341]. Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm, họ được xem là những người đã thành niên phạm tội, còn người chưa đủ 18 tuổi mà thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì sẽ được xem là NCTN phạm tội. Theo Điều 12 BLHS 2015, người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Luật hình sự quy định cụ thể, một người nếu chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc một người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của BLHS. Tuy nhiên, có một số vấn đề lý luận cần làm rõ khi đề cập tới khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội thường được dùng cả trong tố tụng hình sự (TTHS). Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội không đồng nhất với khái niệm người dưới 18 tuổi bị buộc tội do: thứ nhất, có trường hợp phạm tội khi dưới 18 tuổi nhưng khi khởi tố vụ án, 8
- khởi động tiến trình tố tụng, họ đã trên 18 tuổi; thứ hai, phạm tội là từ chỉ trạng thái bị coi là có tội sau khi bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, còn trước khi bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, họ vẫn chưa bị coi là có tội mà chỉ coi là người bị buộc tội. Nhưng trong thực tiễn tư pháp hình sự, cũng như trong các văn bản pháp luật TTHS, khái niệm người phạm tội cũng thường được sử dụng để chỉ đối tượng người bị buộc tội và trở thành một tập quán ngôn ngữ pháp lý. Vì thế, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội cũng được sử dụng trong TTHS với hàm ý chỉ người dưới 18 tuổi bị buộc tội. 1.1.1.2. Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Thủ tục tố tụng là cách thức, trình tự, là nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo các qui định của pháp luật [65, tr.729]. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thủ tục tố tụng không chỉ là cách thức, trình tự, là nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án mà là một hệ thống các yếu tố liên quan để triển khai, vận hành các cách thức, trình tự, nghi thức đó. Các yếu tố này liên quan như các thiết chế (cơ quan tiến hành tố tụng với con người, cơ sở vật chất…), người tham gia tố tụng, các nguyên tắc, chính sách và quy định (thể chế) để xác định tổng thể căn cứ, thẩm quyền, đối tượng, cách thức, trình tự thực hiện theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết các vụ án hình sự được quy định áp dụng cho thủ tục TTHS. Tuỳ theo quan niệm và tiêu chí phân đoạn mà thủ tục TTHS được chia thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thi hành án, giám đốc thẩm và tái thẩm hay khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hay khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử… Bên cạnh những thủ tục TTHS được thiết kế nhằm giải quyết chung đối với các vụ án hình sự thông thường, còn có những thủ tục TTHS đặc biệt chỉ áp dụng cho một số đối tượng đặc biệt. Ví dụ: thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, thủ tục rút gọn, thủ tục khiếu nại, tố cáo trong TTHS... Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng là một trong những loại thủ tục đặc biệt của TTHS, hoặc tại một số quốc gia trên thế giới, được quy định theo một luật riêng về tư pháp người dưới 18 tuổi. Mặc dù qui định rất nhiều các thủ tục để giải quyết vụ án hình sự mà người bị bắt, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nhưng BLTTHS hiện hành lại không qui định về khái niệm thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, cho nên trên thực tế đã có nhiều cách hiểu khác nhau về thủ tục này. 9
- Việc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thực hiện theo một thủ tục đặc biệt. Các quy định này nhằm mục đích đưa ra những hình thức giải quyết vụ án sao cho phù hợp với các đặc điểm tâm, sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội, nhằm xác định đúng đắn, toàn diện sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra, các quy định này còn nhằm kết hợp hài hoà giữa các biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục, tạo ra những điều kiện cần thiết để người dưới 18 tuổi sửa chữa sai lầm, sớm trở thành người có ích cho xã hội. Từ sự phân tích các đặc điểm trên về người dưới 18 tuổi phạm tội và thủ tục tố tụng áp dụng đối với họ, có thể đưa ra khái niệm thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những thủ tục bao gồm thủ tục riêng, thủ tục chung không trái thủ tục riêng cần thực hiện khi tiến hành giải quyết vụ án mà người phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong các hoạt động tố tụng hình sự. 1.1.1.3. Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội Hiện nay các quốc gia trên thế giới đã xây dựng nhiều văn bản pháp luật bảo vệ các quyền của con người, đặc biệt là đối với người dưới 18 tuổi, trong đó phải kể đến các văn kiện quốc tế dành riêng cho người dưới 18 tuổi như Công ước về quyền trẻ em; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người dưới 18 tuổi (gọi tắt là Hướng dẫn Riyadh); Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người dưới 18 tuổi (gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh); Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người dưới 18 tuổi bị tước quyền tự do. Các văn kiện pháp lý này đã tạo ra những chuẩn mực tối thiểu nhằm bảo đảm các quyền của người dưới 18 tuổi khi vi phạm pháp luật. Các văn bản này đã đưa ra các nguyên tắc về tư pháp thân thiện với người dưới 18 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và người dưới 18 tuổi luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến người dưới 18 tuổi thì lợi ích của trẻ em được quan tâm hàng đầu, đây là nguyên tắc xuyên suốt trong chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà 10
- nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (trong đó có trẻ em) được thể hiện rất đầy đủ trong BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với hệ thống tư pháp thân thiện với người dưới 18 tuổi một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là “Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”. Quy tắc Bắc Kinh cũng nêu rõ nguyên tắc này “Các thủ tục tố tụng phải nhằm bảo đảm những lợi ích cao nhất của người dưới 18 tuổi và được tiến hành trong một bầu không khí hiểu biết, cho phép người dưới 18 tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến”. Đối với Việt Nam: Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được xác định như sau: - Phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội; Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong hệ thống tư pháp người dưới 18 tuổi có ý nghĩa trong việc áp dụng các thủ tục đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng thủ tục tư pháp đối với trẻ em phải bình đẳng, không có sự phân biệt dựa trên bất cứ yếu tố nào: chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ, địa vị xuất thân… Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 2 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Quy tắc Bắc Kinh “Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu dưới đây phải được áp dụng một cách không thiên vị đối với người phạm tội chưa thành niên, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc xã hội hoặc dân tộc, tài sản, dòng dõi hoặc các mối tương quan khác”. Thực tiễn cho thấy trong TTHS nói chung và TTHS với trẻ em nói riêng chưa phát hiện sự phân biệt đối xử, do đó, nguyên tắc này đã được ghi nhận và thực hiện tại Việt Nam. Xét về góc độ luật thực định, hiện nay Việt Nam đang tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật về tư pháp hình sự thân thiện với người dưới 18 tuổi. Trong đó có yếu tố xây dựng được thủ tục TTHS thân thiện với người dưới 18 tuổi. Điều này 11
- nhằm đáp ứng quy định Điều 40 Công ước quốc tế về quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia phải thúc đẩy việc hình thành các đạo luật quy định trình tự thủ tục, các cơ quan và tổ chức riêng cho trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay thừa nhận là đã vi phạm pháp luật hình sự. Một số nguyên tắc bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật cũng được đề cập như nguyên tắc giả định vô tội cho tới khi chứng minh đã phạm tội theo pháp luật, được giúp đỡ về pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày sự bảo vệ của mình… Bình luận chung số 10 của Công ước cũng khuyến nghị việc thiết lập tòa án người dưới 18 tuổi với tư cách là một thiết chế độc lập hoặc như là một phần của hệ thống tòa án hiện có. Đến nay, Việt Nam đã thành lập Tòa Gia đình và Người dưới 18 tuổi tại tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc quy định cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân và việc thành lập Tòa chuyên trách này là đỉnh cao của hệ thống tư pháp Việt Nam nhằm bảo vệ trẻ em. Việc thành lập Tòa chuyên trách về gia đình và người dưới 18 tuổi đã chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em trong hoạt động tư pháp, thông qua việc xây dựng một hệ thống tư pháp trẻ em toàn diện mà Tòa Gia đình và Người dưới 18 tuổi là trung tâm, với sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Như vậy, có thể rút ra khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội là thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự áp dụng đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tham gia tố tụng với các tư cách của người bị tố giác, bị buộc tội, được tiến hành trên cơ sở nguyên tắc chú trọng việc giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội phát triển lành mạnh, các đối xử, quyết định và hành vi tố tụng phải xuất phát từ nhu cầu, lợi ích và phù hợp với các đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi. 1.1.2. Đặc điểm của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thứ nhất, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án dưới 18 tuổi xuất phát từ việc lấy lợi ích của người dưới 18 tuổi phạm tội làm trung tâm, tôn trọng, thấu hiểu, giảm thiểu các tổn thương do TTHS 12
- có thể gây ra và giúp họ phát triển lành mạnh, hoà nhập và trở thành công dân có ích cho xã hội. Đây là hạt nhân cơ bản tạo nên đặc trưng của thủ tục tố tụng này. Điều này xuất phát từ chính sách hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội, mục đích lấy người dưới 18 tuổi phạm tội làm trung tâm, trong đó đòi hỏi các thủ tục tố tụng phải đảm bảo lợi ích cao nhất của người dưới 18 tuổi. Cách tiếp cận này dẫn đến việc BLTTHS cũng như các văn bản thể hiện CSHS và tố tụng với người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo các yếu tố như: Việc thực hiện các thủ tục tố tụng phải đảm bảo sự tôn trọng, thấu hiểu, cho phép người dưới 18 tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến của mình trong tiến trình giải quyết vụ án. Hoạt động TTHS cần phải tôn trọng QCN cơ bản của người dưới 18 tuổi, đặc biệt là tôn trọng quyền tự do bày tỏ ý kiến của người dưới 18 tuổi, tôn trọng suy nghĩ của người dưới 18 tuổi, tôn trọng các quyền riêng tư của họ. Bên cạnh đó các thủ tục tố tụng tiến hành đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải đảm bảo yêu cầu thấu hiểu khi đặt ra mục đích quan trọng là xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội của người dưới 18 tuổi, xác định hoàn cảnh sinh sống, hoàn cảnh giáo dục, đặc điểm tâm sinh lý của họ. Từ đó trong quá trình tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được đào tạo, có kinh nghiệm trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, đồng thời phải đảm bảo sự nhẹ nhàng, đặt mục tiêu hàng đầu là giáo dục, cải tạo đối với người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, thủ tục này còn cần phải đảm bảo yếu tố cho phép người dưới 18 tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến: khích lệ khai báo, hợp tác để thu thập lời khai, chứng cứ: tránh nguy cơ người dưới 18 tuổi do căng thẳng, thậm chí hoảng loạn từ đó né tránh, sợ hãi hay chống đối lại cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí chống đối xã hội. Điều này cũng mang lại kết quả là hoạt động tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi cần giảm thiểu các tổn thương do TTHS có thể gây ra: cân nhắc việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế chỉ trong trường hợp cần thiết; Rút ngắn thời gian của các giai đoạn tố tụng cũng như tính công khai của các hoạt động tố tụng; Loại trừ các ngôn ngữ, cử chỉ thái độ có thể gây tổn thương tâm lý cho người dưới 18 tuổi. Giúp họ phát triển lành mạnh, hoà nhập và trở thành công dân có ích cho xã hội: quan tâm đến các nhu cầu cá nhân trong quá trình tố tụng, khích lệ, động viên kịp thời, can thiệp 13
- sớm nếu người dưới 18 tuổi có các dấu hiệu sang chấn tâm lí; Phân tích, giảng giải, giáo dục theo cách thức phù hợp để họ có nhận thức đúng đắn và có quyết tâm thay đổi, hướng thiện. Cuối cùng, thân thiện là đặc tính nổi bật của thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, tính thân thiện liên quan đến các thuộc tính khác, đặt ra các thuộc tính khác của thủ tục tố tụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi như: (i)giản lược thủ tục và thời gian tố tụng; (ii) giảm thiểu tính cưỡng chế của các biện pháp tố tụng;(iii) bảo mật thông tin; (iv) bảo đảm sự có mặt của người bào chữa và người đại diện…; (v) thái độ gần gũi, lắng nghe, thấu hiểu của người tiến hành tố tụng và những người khác làm việc với người phạm tội dưới 18 tuổi trong quá trình tố tụng. Thứ hai, đối tượng áp dụng của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mà theo các tư cách người tham gia tố tụng của luật TTHS, là người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo BLTTHS năm 2015 thì người bị tố giác là người bị người tố giác thực hiện hoạt động tố giác trước cơ quan được giao giải quyết đơn tố giác tội phạm. Cũng theo BLTTHS thì người bị tố giác chưa phải là người bị buộc tội. Mà người bị buộc tội được hiểu gồm các nhóm gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Như vậy, trong trường hợp người bị tố giác là người dưới 18 tuổi thì họ cũng đã bắt đầu cần được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với họ. Bởi lẽ, nhóm chủ thể này cũng có những đặc điểm nhất định về tâm lý, sinh lý và quyền mà khi bị áp dụng các biện pháp tố tụng nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc, họ hoàn toàn có thể bị tác động tiêu cực từ các biện pháp tố tụng đó. Nhóm thứ 2 cần phải được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi đó là người bị bắt, bị tạm giữ là người dưới 18 tuổi. Như vậy, mặc dù chưa bị khởi tố về hình sự, nhưng người bị tạm giữ là người dưới 18 tuổi cũng đã bị áp dụng các thủ tục TTHS đặc biệt, nổi bật đó là biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Do đó, đối tượng này cũng cần phải được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi. Nhóm thứ 3, là bị can và bị cáo là người dưới 18 tuổi. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, còn bị cáo là người đã có quyết định của Toà án đưa ra xét xử đối với họ. Điều này có thể thấy, đây là hai nhóm đối tượng chủ yếu của thủ tục tố 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 174 | 46
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn