intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thừa kế theo di chúc theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

74
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày khái niệm thừa kế theo di chúc, đặc điểm và điều kiện có hiệu lực của di chúc; thừa kế theo di chúc theo quy định của pháp luật hiện hành và những bất cập; thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc và những giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về thừa kế theo di chúc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thừa kế theo di chúc theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VĂN TỊNH THỪA KẾ THEO DI CHÖC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VĂN TỊNH THỪA KẾ THEO DI CHÖC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn V¨n TÞnh 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI NIỆM THỪA KẾ THEO DI CHÖC, ĐẶC ĐIỂM 6 VÀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÖC 1.1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế và thừa kế theo di chúc 6 1.1.1. Khái niệm thừa kế 6 1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế 8 1.1.3. Khái niệm thừa kế theo di chúc 9 1.2. Đặc điểm di chúc 11 Chương 2: THỪA KẾ THEO DI CHÖC THEO QUY ĐỊNH CỦA 16 PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ NHỮNG BẤT CẬP 2.1. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc 16 2.1.1. Người lập di chúc 16 2.1.2. Quyền tự định đoạt ý chí của người lập di chúc (ý chí của 18 người lập di chúc) 2.1.3. Nội dung của di chúc 25 2.1.4. Hình thức của di chúc 29 2.2. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc và hiệu lực của 34 di chúc 2.2.1. Sửa đổi, bổ sung, thay thế và hủy bỏ di chúc 34 2.2.2. Hiệu lực của di chúc 40 2.2.3. Di chúc vô hiệu 42 2.3. Di chúc chung của vợ, chồng và hiệu lực di chúc chung của 43 vợ, chồng 4
  5. 2.3.1. Di chúc chung của vợ, chồng 43 2.3.2. Hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng 48 2.3. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc 51 Chương 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA 58 KẾ THEO DI CHÖC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÖC 3.1. Thực trạng giải quyết những tranh chấp về thừa kế theo di 58 chúc tại Tòa án nhân dân 3.2. Thực trạng pháp luật quy định về các điều kiện có hiệu lực 73 của di chúc 3.2.1. Về chủ thể lập di chúc 73 3.2.2. Về việc hủy bỏ di chúc 75 3.2.3. Về di chúc miệng 76 3.2.4. Về di chúc chung của vợ chồng 77 3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện những quy định pháp luật về 79 các điều kiện có hiệu lực của di chúc 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện về chủ thể lập di chúc 79 3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện về việc hủy bỏ di chúc 79 3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện về di chúc miệng 80 3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện về di chúc chung của vợ chồng 80 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp về thừa kế. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thừa kế theo di chúc, nhưng việc hiểu, áp dụng những quy định đó trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc còn có bất cập. Nguyên nhân của tình trạng nêu trên là do pháp luật quy định chưa rõ ràng, còn thiếu những văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, còn có nhiều vấn đề có sự nhận thức khác nhau liên quan đến cách hiểu, áp dụng điều luật…. Có những vấn đề pháp luật quy định chưa rõ và có nhiều cách hiểu khác nhau như: Di chúc thế nào là hợp pháp? Di chúc phải đáp ứng những điều kiện gì? Trường hợp nào thì một người không được làm chứng cho việc lập di chúc? Trường hợp nào thì không được viết hộ di chúc…Đặc biệt, trong giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc tại Tòa án nhân dân thì việc nhận thức, áp dụng pháp luật của các Thẩm phán khi xét xử các vụ án có sự khác nhau. Có những vụ việc phải giải quyết đi, giải quyết lại nhiều lần, tốn kém tiền của, công sức… của Tòa án và gây hoài nghi trong nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thừa kế theo di chúc theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005" làm luận án Thạc sĩ là yêu cầu cấp thiết, có tính lý luận và có giá trị thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Thừa kế theo di chúc là một hình thức thừa kế được quy định qua các thời kỳ phát triển lập pháp ở Việt Nam. Nghiên cứu về thừa kế theo di chúc ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay không ít, các công trình này được thực hiện dưới dạng khóa luận, luận văn, luận án. Tuy nhiên, nghiên cứu về thừa 6
  7. kế theo di chúc được thực hiện tại các thời điểm khác nhau và cách xa nhau kể từ trước khi có Pháp lệnh thừa kế ngày 30 tháng 8 năm 1990, là dựa theo các Thông tư của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, như Thông tư số 81-TANDTC ngày 24 tháng 7 năm 1981, hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế. Kế sau đó là Pháp lệnh thừa kế, Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự hiện hành năm 2005. Vì vậy, các công trình nghiên cứu về thừa kế theo di chúc có các nội dung tương ứng với quy định của pháp luật tại các thời kỳ khác nhau là rất khác nhau. Trước khi Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành, có một số khóa luận của sinh viên và luận văn thạc sĩ viết về thừa kế theo di chúc như: Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: "Thừa kế theo di chúc ở Việt Nam hiện nay; Vũ Hải Yến với đề tài: "Một số vấn đề cơ bản về di chúc" và một số công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung như: Nguyễn Minh Tuấn với luận văn thạc sĩ với đề tài: "Những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; Phùng Trung Tập với luận án tiến sĩ với đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay"; Phạm Văn Tuyết với đề tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam". Những công trình này nghiên cứu về thừa kế rộng hơn, mà không tập trung nghiên cứu sâu về thừa kế theo di chúc nói riêng. Nguyễn Hồng Nam với đề tài luận văn thạc sĩ: "Các điều kiện có hiệu lực của di chúc". Phân tích các điều kiện có hiệu lực của di chúc, mà không nghiên cứ thừa kế theo di chúc nói chung. Như vậy, kể từ khi Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực pháp luật (2006), chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về thừa kế theo di chúc. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: Thừa kế theo di chúc để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học là hoàn toàn độc lập. 3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Nội dung của luận án không nghiên cứu toàn diện những quy định của pháp luật về thừa kế nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu về thừa kế theo di 7
  8. chúc được quy định trong Bộ luật Dân sự của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2006). Qua đó, tác giả so sánh, đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Đồng thời, đề tài cũng có sự so sánh (ở diện hẹp) về thừa kế theo di chúc ở các nước như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp với Việt Nam để làm nổi bật những nét đặc thù và tính hiện đại của pháp luật Việt Nam quy định về thừa kế theo di chúc. Đồng thời luận văn cũng nêu rõ những bất cập, những vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự liên quan đến thừa kế theo di chúc. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về thừa kế theo di chúc theo quy định của pháp luật ở Việt Nam. - Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, hiệu quả điều chỉnh của những quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc. Luận văn tìm ra những điểm phù hợp với đời sống xã hội và những điểm cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định về thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự. - Qua nghiên cứu, tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn thiện một bước những quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc, giúp các nhà lập pháp bổ sung những quy định còn thiếu về thừa kế theo di chúc để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội trong quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận 8
  9. của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra. Một số vụ án giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc cũng được sử dụng có chọn lọc để bình luận và các số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân cũng được tham khảo để việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn. 6. Kết quả đạt đƣợc và những điểm mới của luận văn - Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy định phù hợp với quan hệ thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập về thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự năm 2005. - Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây: + Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, là cơ sở để nghiên cứu toàn diện và hệ thống những quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005. + Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự năm 2005, phân tích những quy định về thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, qua đó có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự năm 2005. + Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết. 9
  10. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái niệm thừa kế theo di chúc, đặc điểm và điều kiện có hiệu lực của di chúc. Chương 2: Thừa kế theo di chúc theo quy định của pháp luật hiện hành và những bất cập. Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc và những giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về thừa kế theo di chúc. 10
  11. Chương 1 KHÁI NIỆM THỪA KẾ THEO DI CHÖC, ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÖC 1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ, QUYỀN THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ THEO DI CHÖC 1.1.1. Khái niệm thừa kế Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ khai của xã hội loài người. Trong thời kì đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy những điều kiện về kinh tế - xã hội - hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc. Chế độ mẫu hệ với địa vị chủ đạo của người phụ nữ đã tạo tiền đề cho việc thừa kế tài sản của các con và những người thân thuộc của người mẹ. Ph. Ăngghen khi nghiên cứu về thừa kế đã viết: Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản không có giá trị lớn, nếu lâu nay trong thực tiễn người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ [1, tr. 79]. Như vậy, sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài sản theo huyết tộc. Đây chính là hình thức thừa kế đầu tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc sống chung cho thị tộc. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội và sự phân công lao động trong gia đình, người đàn ông đã tạo ra nhiều của cải nuôi sống các thành viên 11
  12. trong thị tộc, bộ lạc đã làm thay đổi quan hệ xã hội, thiết lập địa vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc. Đến lúc này thì chế độ mẫu hệ đã bị thay thế bằng chế độ phụ hệ; và bắt đầu từ đây các con trong gia đình có quan hệ huyết thống với người cha sẽ mang họ cha và được thừa kế tài sản của cha: "Thế là huyết thống theo họ mẹ và quyền thừa kế theo họ mẹ đã bị xóa bỏ, huyết tộc theo họ cha và thừa kế cha được xác lập" [1, tr. 79]. Có thể thấy thời kì nhà nước chưa xuất hiện và pháp luật chưa ra đời - thời kì đầu của xã hội loài người - thì quan hệ sở hữu và thừa kế xuất hiện như một yếu tố khách quan và thuộc về phạm trù kinh tế. Bấy giờ, sở hữu và thừa kế có mối quan hệ mật thiết với nhau, được thể hiện ở chỗ: Sở hữu là yếu tố tiền đề để thừa kế phát sinh thì thừa kế lại là phương tiện để duy trì, củng cố và phát triển sở hữu tài sản. Vậy thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào chế độ sở hữu. Khi chế độ nguyên thủy tan rã, xã hội phân chia giai cấp và chế độ tư hữu được hình thành. Việc kế thừa tài sản là sự chuyển dịch công cụ, phương tiện bóc lột của giai cấp thống trị cho con cháu nhằm tiếp tục xác lập quyền lực chính trị, kinh tế với những người lao động thông qua pháp luật và bộ máy cưỡng chế của nhà nước. Như vậy, Nhà nước và pháp luật của chế độ tư hữu xuất hiện thì quan hệ sở hữu và thừa kế trở thành những phạm trù pháp luật, được pháp luật điều chỉnh. Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, quy định trình tự và điều kiện dịch chuyển tài sản, cũng như phương thức dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người còn sống. Vậy thừa kế là một quan hệ xã hội, là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Thừa kế xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và sự phát triển của xã hội loài người. Qua mỗi thời kì quan hệ thừa kế có tính kế thừa các giá trị vật chất và tình thân của gia đình và dòng tộc. Ở Việt Nam, thừa kế di sản được hình thành theo tập quán của từng dân tộc, vùng miền. Con cháu trong gia đình được hưởng di sản từ ông bà, 12
  13. cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên. Song thừa kế vẫn là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh cụ thể trong luật dân sự Việt Nam 2005, cùng các văn bản pháp luật liên quan và những quy phạm pháp luật thừa kế luôn được quy định phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc ta. 1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế Nếu chế định thừa kế điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thừa kế, thì quyền thừa kế là chế định pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của họ trong việc dịch chuyển tài sản để lại sau khi họ chết cho những người còn sống có quyền hưởng thừa kế theo các hình thức: theo di chúc hoặc theo pháp luật. Chế định quyền thừa kế không chỉ điều chỉnh phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế, mà còn là phương thức bảo vệ quyền của những người thừa kế hợp pháp khi bị xâm phạm. Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Đó là sự ghi nhận và xác định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ thừa kế là người thừa kế và người để lại di sản. Quyền thừa kế của công dân do pháp luật quy định và chỉ được thực hiện khi có sự kiện chết của cá nhân có di sản thừa kế. Những người thừa kế có quyền hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật thể hiện ý chí nhận di sản. - Quyền thừa kế của cá nhân được quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [23]. Theo quy định này pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của cá nhân với tư cách là chủ sở hữu tài sản. Vậy trước khi chết cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình cho ai theo ý chí của họ thể hiện trong di chúc đã lập. Nếu vì lí do nào đó, cá nhân không lập được di 13
  14. chúc thì di sản của cá nhân đó được dịch chuyển cho những người có quan hệ huyết thống, thân thích, nuôi dưỡng của họ theo quy định của pháp luật. - Cùng với quyền để lại di sản là quyền hưởng di sản thừa kế của một cá nhân thông qua di chúc. Việc hưởng di sản cũng là một quyền năng được pháp luật quy định cho bất kì một cá nhân nào, không phân biệt giới tính, già trẻ, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự... Trừ trường hợp họ từ bỏ quyền năng đó, hoặc là người không có quyền hưởng di sản, hoặc đối với một số tài sản có hạn chế người hưởng di sản như di sản là quyền sử dụng đất, hoặc nhà ở, nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất. Quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật là quan hệ về tài sản. Quan hệ thừa kế là quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản và những người khác không có quyền hưởng di sản. Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự, là quan hệ vật quyền. Như vậy, quyền thừa kế bao gồm hai yếu tố: quyền để lại di sản và quyền hưởng di sản thừa kế. Từ đó phản ánh quá trình dịch chuyền tài sản từ người đã chết sang người còn sống. Việc dịch chuyển đó có thể thông qua ý chí của người đề lại di sản (người chết) đã thể hiện trong di chúc (thừa kế theo di chúc); hoặc việc dịch chuyển đó căn cứ theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế do pháp luật quy định thì sẽ được gọi là thừa kế theo pháp luật. 1.1.3. Khái niệm thừa kế theo di chúc Theo quy định của pháp luật, thì chủ sở hữu tài sản khi còn sống có quyền định đoạt tài sản của mình theo ý chí. Một trong những hình thức định đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản là lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế được chỉ định trong di chúc [23, Điều 648]. Vì vậy, khi còn sống cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình nhằm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản cho người thừa kế theo di chúc, sau khi người lập di chúc chết. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của cá nhân lập di chúc không phải bao giờ cũng được bảo đảm thực hiện tuyệt đối. Di chúc là 14
  15. một giao dịch dân sự, cho nên di chúc phải tuân theo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sư. Hơn nữa, pháp luật còn có quy định nhằm hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc teo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự, nhằm bảo vệ quyền của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc gồm: Bố, mẹ, vợ, chồng, các con vị thành niên của người để lại di sản theo di chúc và các con của người này tuy đã trưởng thành nhưng không có khả năng lao động, thì mỗi người vẫn được hưởng phần tối thiểu bằng 2/3 suất thừa kế chia theo pháp luật, nếu người lập di chúc truất quyền của họ hoặc cho họ hưởng phần di sản nhỏ hơn 2/3 của một suất thừa kế chia theo pháp luật [23, Điều 669]. Điều 646 Bộ luật Dân sự quy định: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết" [23]. Di chúc còn được gọi là chúc thư do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác, sau khi người lập di chúc chết. Người lập di chúc dựa vào ý chí và tình cảm của mình (mang tính chủ quan), định đoạt cho người khác được hưởng di sản sau khi qua đời. Do tính chất chủ quan của ý chí và mục đích chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác hưởng sau khi chết đã phản ánh tính độc lập và tự định đoạt của người lập di chúc. Ý chí của cá nhân khi lập di chúc thể hiện hành vi pháp lí đơn phương của người lập di chúc. Theo quy định của pháp luật dân sự phải nhằm chuyển tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Xét về tính chất của giao dịch dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương, hoàn toàn độc lập, tự định đoạt ý chí của cá nhân người lập di chúc mà không có bất kì sự lệ thuộc nào vào bất kì ý kiến của ai, do vậy di chúc là giao dịch dân sự một bên. Giao dịch dân sự này là loại giao dịch đặc biệt, tuy rằng các điều kiện của chủ thể lập di chúc, ý chí của chủ thể, nội dung và hình thức của di chúc đều phù hợp với quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của 15
  16. di chúc nhưng di chúc chỉ phát sinh hiệu lực thi hành sau khi người để lại di chúc chết. Do hành vi đơn phương của người lập di chúc và nội dung của di chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho ai, truất quyền thừa kế của ai, để lại tài sản dùng vào việc thờ cúng, để lại di tặng nhằm tặng cho một hoặc nhiều người vẫn không chắc chắn vì khi còn sống, người lập di chúc có quyền thay đổi ý chí của mình trong việc lập di chúc, theo đó nội dung của di chúc bị thay đổi theo. Vì di chúc chỉ phát sinh hiệu lực từ thời điểm người lập di chúc chết hoặc được xác định là đã chết theo một bản án có hiệu lực của tòa án đã tuyên người đó chết có hiệu lực pháp luật. Người được thừa kế theo di chúc chỉ có quyền nhận tài sản của người lập di chúc kể từ khi người lập di chúc chết. Người thừa kế theo di chúc nhận di sản và là chủ sở hữu của di sản được hưởng và thừa kế theo di chúc là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của người thừa kế. Tuy nhiên, di chúc thể hiện ý chí chủ quan của người lập, do vậy ý định của người lập di chúc nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết có thể không thực hiện được do tài sản được định đoạt trong di chúc cho người thừa kế hưởng đã không còn vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di chúc đó hoặc những người thừa kế được chỉ định thừa kế theo di chúc đã chết trước, chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều không có quyền hưởng, từ chối quyền hưởng di sản… thì mục đích nhằm chuyển tài sản của người lập di chúc cho người thừa kế không đạt được. Phần của di chúc không thể thực hiện được là phần di chúc vô hiệu. Vậy, thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển di sản của một người đã chết cho cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác được hưởng theo sự định đoạt ý chí tự do, tự nguyện của người để lại di sản theo di chúc khi minh mẫn và sáng suốt. 1.2. ĐẶC ĐIỂM DI CHÖC + Di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc. Ý chí đơn phương là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại giao 16
  17. dịch dân sự khác, được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết mà không phải bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt đó; trừ trường hợp lập di chúc chung vợ chồng thì hai vợ chồng cùng định đoạt. Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo di chúc. Ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể để lại tài sản cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự ý chí của các bên tham gia đều phải được thể hiện (các bên tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi) - thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của một bên duy nhất, đó là người lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Phần lớn người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật. + Di chúc thể hiện quyền tự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể 17
  18. nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác, thì di chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Vì vậy, người thừa kế nói chung và người thừa kế theo di chúc nói riêng phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản theo di chúc. Pháp luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có việc để lại di sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có không ít những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công nhận một phần. + Di chúc lập ra phải theo một hình thức nhất định. Sự định đoạt trong di chúc muốn được đảm bảo thực hiện, người lập di chúc muốn nâng cao tính xác thực của di chúc thì việc lập di chúc cần phải tuân theo một hình thức mà pháp luật quy định. Có hai hình thức đó là bằng văn bản hoặc dưới hình thức miệng. Pháp luật quy định di chúc miệng trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Tuy nhiên, di chúc miệng chỉ có hiệu lực trong thời hạn ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng. Nếu sau ba tháng mà người di chúc miệng vẫn còn sống và minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng đương nhiên bi hủy bỏ. Đây là qui định bị hạn chế đối với di chúc miệng. Vì nếu người di chúc miệng vẫn còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì điều kiện để lập di chúc bằng văn bản vẫn thực hiện được. + Do di chúc chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế của người lập di chúc, cho nên khi còn sống, người lập di chúc có quyền sửa đổi, thậm chí là hủy bỏ di chúc; thay thế di chúc. Pháp luật tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc theo đó quy định người lập di chúc có quyền sửa đổi, hủy bỏ di chúc đã lập. Vì vậy di chúc đã lập không mang tính cố định, nó sẽ bị thay đổi, hủy bỏ nếu có sự thay đổi ý chí của người lập di chúc. 18
  19. + Di chúc là một loại giao dịch dân sự và chỉ có hiệu lực từ thời điểm người lập di chúc chết. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế (khoản 1 Điều 667 Bộ luật Dân sự năm 2005). Về thời điểm mở thừa kế, luật quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định của pháp luật. Đây là một đặc điểm thể hiện rõ sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà quyết định của Tòa án tuyên bố người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc xác định đúng thời điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu lực trong trường hợp một người có nhiều di chúc. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ có bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật. Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa phát sinh hiệu lực, quyền đối với tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho đến khi người đó chết. + Có một điểm rất mới là pháp luật quy định di chúc chung của vợ, chồng [23, Điều 663]. Vợ và chồng đều là chủ thể lập di chúc chung. Nhưng di chúc chung của vợ chồng chỉ phát sinh hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết [23, Điều 668]. Xét về yếu tố chủ thể lập di chúc chung của vợ, chồng là vợ và chồng. Di chúc chung của vợ, chồng chỉ phát sinh hiệu lực vào thời điểm người sau cùng chết. Người vợ và người chồng còn sống cũng có quyền sửa đổi, bổ 19
  20. sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Trong trường hợp vợ hoặc chồng đã chết thì người còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình [23, Điều 664]. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Như đã phân tích thì thừa kế là một hiện tượng xã hội lịch sử; tồn tại, phát triển khách quan trong xã hội. Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc (người để lại tài sản) nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác. Do vậy, mặc dù cũng là giao dịch dân sự, nhưng di chúc là loại giao dịch dân sự đặc biệt, có những đặc điểm riêng biệt, khác với giao dịch dân sự khác (hợp đồng). Ở Việt Nam trước những 1990 (trước khi Pháp lệnh Thừa kế ra đời) thì di chúc còn chưa có quy định cụ thể, rõ ràng, chưa được Luật hóa mà chỉ được quy định chừng mực nhất định, nên việc hiểu và áp dụng rất khó khăn. Từ khi Pháp lệnh thừa kế có hiệu lực (10/9/1990) và sau này là Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 ra đời thì thừa kế theo di chúc dần dần được hoàn thiện, phát huy trong đời sống xã hội. Tuy nhiên trong thực tiễn nghiên cứu và trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc thì có nhiều vấn đề cần phải trao đổi và cần phải hoàn thiện. Học viên sẽ xin trình bày tại Chương 2 và Chương 3 của luận án. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0