intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội chứa mại dâm từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

40
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn làm rõ các dấu hiệu pháp lý về tội chứa mại dâm quy định trong Bộ luật hình sự 2015 và nêu lên đánh giá tình hình tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, phát hiện những tồn tại trong thực tiễn giải quyết, xét xử; từ đó đề xuất các kiến nghị các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội chưa mại dâm. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội chứa mại dâm từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG HỒNG SƠN TỘI CHỨA MẠI DÂM TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG HỒNG SƠN TỘI CHỨA MẠI DÂM TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết luận nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 09 năm 2020 Tác giả luận văn Đặng Hồng Sơn 3
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM 13 1.1.Những vấn đề lý luận chung về tội chứa mại dâm 13 1.2. Lich sử hình thành và phát triển các quy định về tội chứa mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 22 1.3.Pháp luật hình sự hình sự của một số nước về tội chứa mại dâm 29 Chương 2: PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIÊN HÀNH VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 35 2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội chứa mại dâm 35 2.2. Thực tiễn thụ áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh 55 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM 70 3.1. Hoàn thiện quy định của bộ luật hình sự về tội chứa mại dâm 70 3.2.Tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội chứa mại dâm 71 3.3.Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa mại dâm 79 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 4
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT KT-XH Kinh tế - xã hội HĐND Hội đồng nhân dân UBND Ủy ban nhân dân GDPL Giáo dục pháp luật ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam TTHS Tố tụng Hình sự TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân PCMD Phòng chống mại dâm UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội TANDTC Tòa án nhân dân tối cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao BLHS Bô luật Hình sự PLPCMD Pháp lệnh phòng chống mại dâm 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đối với bất kỳ quốc gia nào trên trên thế giới, thì tệ nạn xã hội cũng là một hiểm họa cần phải phòng, ngừa và đồng thời loại bỏ. Trong đó, có tệ nạn mại dâm là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội và cuộc sống của người dân. Tệ nạn mai dâm thường gắn liền với các tệ nạn về ma túy và các tội phạm nghiêm trọng khác (tội là cướp tài sản, tội buôn người, tội rửa tiền...), đồng thời làm mai một đi những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam. Trước tình hình đó, ngày 17 tháng 3 năm 2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, là văn bản pháp lý quan trọng, điều chỉnh một cách toàn diện công tác phòng, chống mại dâm; thể chế hóa đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phòng, chống mại dâm, đồng thời góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý Nhà nước về phòng, chống tệ nạn xã hội ở nước ta. Mặt khác, chưa bảo đảm tôn trọng quyền con người theo Hiến pháp năm 2013. Do đó việc nâng Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm lên thành Luật là rất cần thiết. Từ Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2019 của Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về phòng chống tệ nạn xã hội; tại Thông báo số 472/TB-VPCP ngày 25 tháng 12 năm 2018; chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 606/TTg- KGVX ngày 24 tháng 5 năm 2019 để thực hiện có hiệu quả Chương trình công tác năm 2019 của Ủy ban Quốc gia (ban hành kèm theo công văn số 50/PCAIDSMTMD ngày 21 tháng 3 năm 2019). Trong những tháng cuối năm 2019, tình hình tệ nạn ma túy, mại dâm, HIV/AIDS dự báo diễn biến phức tạp, đề nghị các bộ, cơ quan, địa phương quyết liệt triển khai các nhiệm vụ. Với trên 16 năm thực hiện Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 và gần 20 năm thực hiện các Chương trình hành động phòng, chống mại dâm các giai đoạn. Theo thống kê của Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội thuộc Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội cho biết, giai đoạn 2016-2020, tệ nạn mại dâm ở nước ta đã được kiềm chế cả về tốc độ và phạm vi. Cụ thể: Số tụ 6
  7. điểm mại dâm công cộng giảm mạnh, nhiều địa phương đã xóa bỏ hoàn toàn được tình trạng gái mại dâm đứng đường, chào mời khách nơi công cộng; giảm số cơ sở kinh doanh dịch vụ (khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ, vũ trường, cơ sở karaoke...), giảm hoạt động mại dâm trá hình dưới mọi hình thức; ngăn chặn, giảm số đối tượng tham gia hoạt động mại dâm, đặc biệt là mại dâm trẻ em, người chưa thành niên. Theo rà soát, báo cáo của các cơ quan chức năng, tính đến tháng 9/2019, toàn quốc chỉ còn 91.026 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện, trong đó 44.722 cơ sở lưu trú, 17.015 nhà hàng, karaoke và massge, 531 vũ trường và các loại hình khác (khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ, vũ trường, cơ sở karaoke...), số người bán dâm theo thống kê ước tính của các tỉnh, thành phố là 11.639 người. Tuy nhiên, số thực tế có thể lớn hơn gấp nhiều lần do đặc điểm xã hội, tính di biến động cao nên rất khó khăn trong việc thống kê và tính đến nay đã có 41 tỉnh, thành phố đã triển khai xây dựng thí điểm hoặc duy trì mô hình can thiệp giảm hại, phòng, chống bạo lực, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cho người bán dâm, bao gồm cả mô hình triển khai tại địa phương thông qua lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội tại địa bàn cơ sở, trong đó có khoảng 3.709 người bán dâm. Do vây, yêu cầu xây dựng Luật phòng, chống mại dâm, làm cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp, giải pháp về phòng, chống mại dâm cho phù hợp với thực tiễn, từng bước nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mại dâm. Quá trình xây dựng, đề xuất dự án Luật phòng, chống mại dâm được gấp rút được thực để sớm trình ra Quốc hội thông qua, để sớm đi vào cuộc sống. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn, đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế của nước ta quan trọng nhất và là đô thị đặc biệt của Việt Nam, cùng với thủ đô Hà Nội. Thành phố Hồ Chí Minh có 19 quận và 05 huyện với diện tích 2096.56 km2, theo thống kê đến năm 2019, dân số của thành phố là khoảng 09 triệu người, nhưng thực tế hơn 13 triệu người đang sinh sống, học tập, làm việc tại đây. Với việc tiếp nhận khoảng 200.000 người dân tăng thêm mỗi năm là thời cơ để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố thi đua nước rút, phấn đấu hoàn thành 7
  8. các nhiệm vụ, chỉ tiêu của Đại hội X Đảng bộ thành phố với chủ đề năm 2019 là “Năm đột phá cải cách hành chính và thực hiện Nghị quyết 54 của Quốc hội”. Về công tác phòng, chống mại dâm, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục triển khai Quyết định 361/QĐ-TTg - Chương trình phòng, chống mại dâm, giai đoạn 2016- 2020; Quá trình thực hiện luôn gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” nên nhiều địa phương trong cả nước đã có chuyển biến mạnh mẽ, giữ vững địa bàn không phát sinh tệ nạn mại dâm, giảm đáng kể số xã, phường trọng điểm về tệ nạn ma túy, mại dâm. Tuy nhiên, về kết quả công tác phòng, chống mại dâm chưa vững chắc, hiện còn rất nhiều khó khăn, thách thức đặt ra đối với công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm, đặc biệt trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và giao lưu, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam với khu vực và trên thế giới, nhất là công tác thanh, kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ nảy sinh tệ nan xã hội, lồng ghép công tác phòng, chống mại dâm với các chương trình an sinh xã hội ở địa phương như: Chương trình xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm; phòng, chống HIV/AIDS; phòng, chống mua bán người… nhằm nâng cao nhận thức, hạn chế nguy cơ bị mua bán, bị ép buộc làm mại dâm, nhất là đối với nhóm lao động di cư, tìm kiếm việc làm tại thành phố. Trong thời gian 5 năm (cụ thể là từ ngày 01/10/2014 đến ngày 30/11/2019), Tòa án nhân dân cấp quận, huyện và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý giải quyết, xét xử sơ thẩm 32.056 vụ án các loại với 54.840 bị cáo (cấp quận huyện thụ lý giải quyết, xét xử 27.971 vụ án các loại và cấp thành phố thụ lý giải quyết, xét xử 4.085 vụ án các loại), trong đó có thụ lý giải quyết, xét xử 77 vụ, với 113 bị cáo về tội chứa mại dâm. Vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài "Tội chứa mại dâm từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh" để nghiên cứu về tội chứa mại dâm, đồng thời có những biện pháp phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí minh cũng như đưa ra một số giải pháp để thực hiện những điểm mới quy định tại Điều 327 của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015. 2. Tình hình nghiên cứu Từ tình hình tội phạm về mại dâm nên đã có nhiều công trình nghiên cứu liên 8
  9. quan đến vấn đề này, các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau của các nhà khoa học, nhà báo cho đến những người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phân, Luật sư… như: Năm 2001 nhóm tập thể tác giả của Tòa án nhân dân tối cao là Ths. Nguyễn Quang Lộc, PGS.TS. Trần Văn Độ, TS. Từ Văn Nhũ và Nguyễn Văn Liên đã có công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân dân tối cao về "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc đấu tranh phòng và chống các tội phạm về tình dục"; năm 2004 tác giả Trần Hải Âu bảo vệ đã bảo vệ Luận án tiến sĩ “Tệ nạn mại dâm thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa”; năm 2010 tác giả Nguyễn Hoàng Minh bảo vệ luận án “Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức”; năm 2013 tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hoa đã bảo vệ luận án “Quản lý nhà nước về phòng và chống tệ nạn mại dâm ở Việt Nam hiện nay”; Giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: GS.TS.Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001; sau đó là Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003 của GS. TSKH. Lê Cảm làm chủ biên; Ths. Đinh Văn Quế cũng đã Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm), và Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 2015 (Phần các tội phạm); năm 2003 tập thể tác giả là GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS. Phan Đình Khánh, TS. Nguyễn Thị Kim Liên đã có công trình nghiên cứu; "Ma túy, mại dâm, cờ bạc - tội phạm thời hiện đại"; Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2014), “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ được thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam về các đề tài liên quan đến các tội chứa mãi dâm, môi giới mãi dâm như: Đề tài“Tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Thành Nam, năm 2018… Các đề tài và bài viết trên các báo và tạp chí chuyên ngành gồm: “Tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm: lý luận và thực tiễn” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22 /2010; “Nghiên cứu mại dâm và di biến động nhìn từ góc 9
  10. độ thế giới” năm 2012 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có công trình; “Hiểu thế nào là Chứa mãi dâm 4 người trở nên" của tác giả Pham Thị Yên, trên Tạp chí Tòa án nhân dân và diễn đàn nghiệp vụ trên trên Tạp chí Kiểm sát; Bài viết của tác giả Võ Văn Tuấn Khanh trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 15, năm 2020 "Xác định tư cách tham gia tố tụng của người mua dâm, người bán dâm trong giải quyết vụ án hình sự";... Ở nước ngoài thì Tạp chí Journal of Political Economy năm 2002 đã đăng công trình của hai giao sư là Giáo sư Evelyn Korn, thuộc trường Đại học Eberhard Karls và Lena Edulund, thuộc trường Đại học Columbis với công trình "Một lý thuyết về mại dâm"; năm 2011 tiến sĩ Kimberly Hoàng, tại Đại học UC Berkeley với công trình "Tính kinh tế của tình dục và chăn gối tại Việt Nam". Qua những công trình nghiên cứu tổng thể, cũng như việc nghiên cứu các công trình khoa học liên quan đến tệ nạn mại dâm đã đưa ra trên thông tin đại chúng thì cơ bản đều chưa đưa ra được giải pháp phòng ngừa có hiệu quả đối với tệ nạn này và loại trừ tệ vĩnh viễn nạn này. Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 đã được thi hành trên 16 năm nhưng mới ở mức độ khiêm tốn, việc phát hiện xử lý liên quan đến loại tội phạm này mới chỉ là phần nhỏ só với các tội phạm khác, nên một lần nữa khẳng định việc chọn nghiên cứu đề tài: "Tội chứa mại dâm từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh" là cấp thiết vừa mang tính lý luận thực tiễn và có ý nghĩa khoa học đối với việc xét xử loại tội phạm này. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ các dấu hiệu pháp lý về tội chứa mại dâm quy định trong Bộ luật hình sự 2015 và nêu lên đánh giá tình hình tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, phát hiện những tồn tại trong thực tiễn giải quyết, xét xử; từ đó đề xuất các kiến nghị các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội chưa mại dâm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
  11. - Nêu và phân tích khái niệm tội chứa mại dâm và các quy định về tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay, từ đó rút ra nhận xét, đánh giá. - Nghiên cứu tội chứa mại dâm trong luật hình sự Việt Nam 2015 và thực tiễn áp dụng điều luật quy định về tội này, và công tác xét xử ở Thành phố Hồ Chí Minh nhằm áp dụng chính xác các quy định của Bộ luạt Hình sự, đồng thời nêu những tồn tại. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa mại dâm, nhằm đạt kết quả tốt trông công tác xét xử về tôi này tại Thành phố Hồ Chí Minh và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội chứa mại dâm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Để nghiên cứu tội chứa mại dâm từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh luận văn sử dụng các quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội này tại Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội chứa mại dâm dưới góc độ pháp lý hình sự. Thực tiễn áp dụng pháp luật chỉ giới hạn ở định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm (2015 - 2019). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật biện chứng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tội phạm và phòng ngừa tội phạm; lý luận luật hình sự; lý luận tội phạm học. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu, cũng như phương pháp thống kê, biện chứng lịch sử, 11
  12. phân tích, so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học… dựa trên số liệu thống kê trong báo cáo giải quyết, xét xử sơ thẩm tội chứa mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm (2014 - 2019) của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, những thông tin được khai thác trên các tạp chí, trên mạng Internet nhằm phân tích tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu mà đề tài đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu tội chứa mại dâm góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận xét xử đối với tội danh này được toàn diện, đồng thời được sử dụng trong thực tiễn khi xét xử sơ thẩm về tội “Chứa mại dâm” của Tòa án nhân dân hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên cơ sở số liệu xét xử, giải quyết thực tế của Tòa án nhân dân hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm (2014 - 2019), thì luận văn đã đánh giá được tình hình xét xử, đồng thời đưa ra kiến nghị hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội chứa mại dâm. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung và pháp luật cụ thể về tội chứa mại dâm Chương 2: Pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa mại dâm và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định về tội chứa mại dâm 12
  13. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT CỤ THỂ VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM 1.1 . Những vấn đề lý luận chung về tội chứa mại dâm 1.1.1. Khái niệm tội chứa mại dâm Như chúng ta đã biết tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội đi ngược lại lợi ích chính đáng của con người, của xã hội và mang tính chống đối nhà nước. Tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, nền kinh tế - văn hoá của mỗi nước, các quốc gia sẽ quy định cụ thể những hành vi nào là tội phạm những hành vi nào không phải là tội phạm. Khái niệm tội phạm xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định hành vi nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự hoặc (và) hình phạt đối với người nào thực hiện hành vi đó. Do đó, tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý [57]. Trước khi tìm hiểu khái niệm về tội chứa mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, chúng ta đi tìm hiểu khái niệm tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 đưa ra khái niệm về tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [39, tr.11-12]. Việc xác định các loại tội phạm trong luật hình sự Việt Nam là cơ sở để quy định về hình phạt, song việc quy định hình phạt xét cho cùng cũng là một phần của 13
  14. việc xác định tội phạm... Khái niệm về tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa là mô hình pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy định hình phạt tương tương ứng. Tội phạm về mại dâm nói chung là hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng nhiều mặt đời sống xã hội, xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây nên các loại bệnh xã hội nguy hiểm đặc biệt là bệnh HIV/AIDS ảnh hưởng đến giống nòi, gây thiệt hại cho nền kinh tế và cũng là nguyên nhân gây nên một số tội phạm khác. Các nhà khoa học, các tác giả ở Việt Nam có cái nhìn tương đối giống nhau về tội phạm mại dâm, cụ thể như sau: Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội về mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, của tác giả Trần Hải Âu: [1, tr.130]. Tội phạm mại dâm bao gồm các hành vi về hoạt động mua bán tình dục được quy định và điều chỉnh bằng pháp luật hình sự, tội phạm mại dâm bao gồm các hành vi sau: Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để mua bán dâm; môi giới mại dâm là hoạt động dụ dỗ, dẫn dắt làm trung gian để các đối tượng gặp nhau thực hiện việc mua bán dâm; Mua dâm người chưa thành niên: là hành vi thỏa thuận trả tiền hoặc vật chất khác để được giao cấu với người chưa thành niên; mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm: là hành vi chuyển giao phụ nữ, trẻ em để thực hiện hành vi mại dâm nhằm thu lợi nhuận. Của tác giả Nguyễn Xuân Yêm [51, tr.609-610]. Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội liên quan đến mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm hại đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh xã hội, của PGS.TS Nguyễn Huy Thuật [41, tr.409]. Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong 14
  15. Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới trật tự công cộng, an toàn công cộng, đến nếp sống văn minh, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự, của tác giả Nguyễn Hoàng Minh: [34, tr. 33]. Cùng quan điểm với các tác giả khi nói về tội phạm mại dâm, chúng tôi xác định tội chứa mại dâm nằm trong các tội phạm về mại dâm, chúng ta nghiên cứu sâu hơn về tội này ở các phần sau. Bộ luật Hình sự năm 1985, thì tội phạm về mại dâm được quy định tại Điều 202 gồm ghép hai tội “Chứa mãi dâm” và “Môi giới mãi dâm”. Đến năm 1997 sửa đổi Bộ luật hình sự lần thứ tư đã bổ sung thêm tội “Mua dâm người chưa thành niên” là Điều 202a. Quá trình áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985, thì việc quy định hai tội chứa mãi dâm và môi giới mãi dâm trong cùng một điều luật đã gây không ít khó khăn trong việc phân hoá trách nhiệm hình sự của người phạm tội, nhất là trong công tác điều tra, truy tố và xét xử. Do yêu cầu của việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự nên Bộ luật Hình sự năm 1999 đã tách điều luật này thành hai điều luật riêng biệt, thành Điều 254 quy định tội “Chứa mại dâm” và Điều 255 quy định tội “Môi giới mại dâm”, đồng thời chuyển đổi Điều 202a về tôi “Mua dâm người chưa thành niên” thành Điều 256. Về Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định về “Tội chứa mại dâm” tại Điều 327. Đồng thời Bộ luật Hình sự năm 1999 đã sửa đổi thuật ngữ “mãi dâm” lại thành “mại dâm” Nội dung của Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện hành cũng không đưa ra khái niệm cụ thể như thế nào là hành vi chứa mại dâm, như vậy khái niệm về hành vi chứa mại dâm vẫn được hiểu tại khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định “Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm” [53]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam có những quan điểm đưa ra các khái niệm về hành vi chứa mại dâm ở phạm vi khác nhau như: Chứa mại dâm là hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm để làm nơi tụ tập những người mua, bán dâm [31, 15
  16. tr.562]; chứa mại dâm là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm được thực hiện [57, tr.515-519]; chứa mại dâm là hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm, bố trí địa điểm, bố trí gái mại dâm, tạo điều kiện cho người mua, bán dâm, hoặc quan hệ tình dục khác hoạt động [5, tr.605-611]. Trên cở sở các văn bản pháp luật và văn bản dưới luật thì hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc tạo các điều kiện vật chất khác cho hoạt động mại dâm, cũng là chứa mại dâm; Do vậy, tội chứa mại dâm là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm phạm đến trật tư công cộng [20, tr.12]. Tuy nhiên Bộ luật Hình sự năm 2015 tại Điều 12 không quy định người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “chứa mại dâm” theo Điều 327 như vậy là có lợi cho người phạm tội. Trên cơ sở các điểm trên, thì hành vi chứa mại dâm là hành vi tạo điều kiện cho hoạt động mại dâm thực hiện có tính vụ lợi, còn những hành vi không có tính chất thương mại thì không coi đó là hành vi chứa mại dâm. Do đó, từ khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, các quy định của Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003, các quan điểm về khái niệm tội chứa mại dâm, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Tội chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm hoặc quan hệ tình dục khác. Như vậy, về hành vi khách quan người phạm tội thực hiện duy nhất một hành vi, đó là hành vi chứa chấp mại dâm với nhiều thủ đoạn khác nhau, nên hành vi phạm tội chứa mại dâm trọng một số trường hợp cần chú ý như: - Chứa mại dâm là chứa việc mua dâm, bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn người bán và hai người phải thực hiện việc giao cấu, hoặc quan hệ tình dục khác bởi lẽ bán dâm là hành vi giao cấu, hoặc quan hệ tình dục khác của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác, còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác 16
  17. trả cho người bán dâm để được giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác. Trường hợp người có hành vi chứa người bán dâm ( gái mại dâm) một một địa điểm, còn việc mua, bán dâm được thực hiện ở địa điểm khác không phải là địa điểm mà người phạm tội tìm kiếm hoặc thuê, mượn để chứa mại dâm, người bán dâm ở thì người có hành vi chứa người bán dâm không phạm tội chứa mại dâm; nếu người có hành vi như tạo nơi ở cho gái mại dâm nhằm mục đích để bán dâm, thì hành vi này vẫn bị coi là phạm tội chứa mại dâm; nếu người có nhà cho gái mại dâm thuê rồi giới thiệu cho người mua dâm đến mua dâm thì hành vi “ giới thiệu đó là hành vi môi giới mại dâm. Ví dụ: D là chủ nhà nghỉ cho B, C và K là gái mại dâm thuê một phòng để ở thường xuyên, mỗi lần có người đến mua dâm thì D báo cho một trong những gái mại dâm thuê phòng để ở trên biết để bán dâm tại nhà nghỉ của D, thì D đã phạm hai tội “Chứa mại dậm” và “Môi giới mại dâm”. - Ngoài ra thì địa điểm mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm tương đối đa dạng; có thể chỉ là một chiếc thuyền (ghe), một lều, một phòng nhỏ trong quán cà phê, nhà tắm, nhà vệ sinh, cabin xe,… - Phương tiện mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê, hoặc mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm tuy không phải là địa điểm nhưng có phục vụ cho việc thực hiện mại dâm như: Giường, chiều, chăn màn, khăn lau, thuốc kích dục… Trường hợp cung cấp các phương tiện tránh thai như: bao cao su, thuốc tránh thai cho người bán dâm thì cần phải phân biệt: nếu biết có việc mại dâm mà cung cấp thì mới bị coi là chứa mại dâm, nếu biết là gái mại dâm mà cung cấp thuốc tránh thai hoặc bao cao su còn việc thực hiện hành vi mại dâm ở đâu, vào lúc nào, người cung cấp bao cao su không biết thì không bị coi là chứa mại dâm. - Trường hợp dùng tiền thuê địa điểm, trả tiền cho người bán dâm, nhưng để người khác giao cấu với người bán dâm thì cũng coi là hành vi chứa mại dâm - Trường hợp chứa hai người đồng giới để họ làm tình với nhau thì không coi là hành vi chứa mại dâm vì không có việc giao cấu. - Trong trường hợp người chủ hoặc người được thuê làm quản lý khách sạn, nhà 17
  18. trọ,… gọi gái bán dâm đến cho khách mua dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ,… thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về “ Tội chứa mại dâm” và “ Tội môi giới mại dâm”. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội chứa mại dâm Khách thể của tội phạm: Là khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự là hệ thống các quan hệ xã hội được Nhà nước xác lập và bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự [58, tr.142]. Xuất phát từ khái niệm khách thể của tội phạm nói chung, có thể xác định khách thể của tội chứa mại dâm là xâm phạm trật tự công cộng được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Tội chứa mại dâm là tội xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đến đời sống văn hoá, trật tự trị an xã hội, nó là hành vi tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, cá nhân, là nguyên nhân phá vỡ hạnh phúc trong mỗi gia đình, cũng như làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm. Mặt khách quan của tội phạm: Được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm các biểu hiện của tội phạm diển ra trong thế giới khách quan [58, tr.158]. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm là những biểu hiện của tội chứa mại dâm ra thế giới khách quan. Cụ thể người phạm tội chỉ thực hiện duy nhất một hành vi, đó là hành vi chứa chấp việc mại dâm với các thủ đoạn khác nhau như: sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Đối với tội chứa mại dâm tuy không quy định các dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, song không vì thế mà cho rằng các quy định của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm ngày 17-3-2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không cụ thể, theo quy định tại Điều 3 thì: Hành vi chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. 18
  19. Cụ thể hóa thì Điều 3 Nghị định 178/2004 ngày 15/10/2004, quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng chống mại dâm hướng dẫn cụ thể: Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm, quy định tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm; Như vậy một số hành vi chứa mại dâm trong thực tế có thể là thiết kế phòng, địa điểm mại dâm và các điều kiện vật chất khác phục vụ hoạt động mại dâm; việc cho thuê, cho mượn địa điểm để thực hiện hành vi mại dâm, gái bán dâm có thể được che mắt các nhà chức trách dưới hình thức là nhân viên, người làm thuê..., và hành vi chứa mại dâm được hoàn thành khi chứa việc mua dâm, bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn người bán và hai người phải thực hiện việc giao cấu, bởi lẽ bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vận chuyển khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội chứa mại dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm” Địa điểm mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm là tương đối đa dạng; có thể chỉ là một chiếc thuyền (ghe); một lều vó, một phòng nhỏ trong quán Cà phê, nhà tắm, nhà vệ sinh, cacbin xe, nơi ở, nơi làm việc, nhà hàng, quán trọ... phương tiện mà người phạm tội có thể 19
  20. sử dụng như thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm tuy không phải là địa điểm cụ thể, nhưng nó có phục vụ cho việc thực hiện mua, bán dâm như: Giường, chiếu, chăn màn, khăn lau, thuốc kích dục... cũng như việc cấp bao cao su, thuốc tránh thai cho người bán dâm thì trường hợp này cần phải phân biệt như: Nếu người phạm tội biết nhằm phục vụ cho việc mua, bán dâm mà vẫn cung cấp thì mới bị coi là chứa mại dâm, nếu biết là gái bán dâm mà cung cấp thuốc tránh thai hoặc bao cao su còn việc thực hiện hành vi mại dâm ở đâu vào lúc nào người cung cấp bao cao su không biết thì không bị coi là chứa mại dâm. Thực tiễn đấu tranh chống loại tội phạm này cho thấy, người phạm tội dùng rất nhiều thủ đoạn để hoạt động che giấu sự phát hiện của các cơ quan chức năng như núp dưới danh nghĩa kinh doanh nhà trọ, nhà hàng, khách sạn, quán cà phê, phòng hát Karaoke... để chứa mại dâm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện các hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm để làm nơi thực hiện mua, bán dâm. Nếu người có hành vi chứa chấp mại dâm (Điều 327) đồng thời lại có hành vi dụ dỗ, môi giới mại dâm (Điều 328) thì truy cứu trách nhiệm hình sự cả tội chứa chấp mại dâm và tội môi giới mại dâm. Về hậu quả của tội chứa mại dâm không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu người có hành vi phạm tội gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật mà Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định. Chủ thể của tội phạm: Tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định khi thực hiện tội phạm chứa mại dâm từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo chủ thể của Bộ luật Hình sự 1999, quy định tại Điều 12 thì người người từ đủ 14 tuổi trở lên, như chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (không phân biệt do cố ý hay vô ý); nhưng Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 đã liệt kê các tội phạm thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà người từ đủ 14 tuổi trở lên, như chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình là quy 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0