intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

55
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ TRẦN BÁ ĐỨC TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ TRẦN BÁ ĐỨC TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm Công Nguyên. Các đoạn trích dẫn và số liệu đã được sử dụng trong luận văn này đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Tác giả luận văn LÊ TRẦN BÁ ĐỨC
  4. MỤC LỤC MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN. ............................................................................... 7 1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản .............................. 8 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản............................................. 9 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản ......... 20 1.3. Áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản ........... 30 CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................................................................... 34 2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................ 34 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................. 44 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG............................. 57 3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 ......................................................................................... 57 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ...................... 60 KẾT LUẬN ................................................................................................. 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BLDS Bộ luật dân sự PLHS Pháp luật hình sự TAND Toà án nhân dân HĐXX Hội đồng xét xử HTND Hội thẩm nhân dân CTTP Cấu thành tội phạm QPPL Quy phạm pháp luật TNHS Trách nhiệm hình sự QĐHP Quyết định hình phạt VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa TCGTS Tội cướp giật tài sản
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2020 ..................................................................................................................... 38 Bảng 2.2. Mức độ tổng quan của tình hình tội CGTS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020 ................................................. 39 Bảng 2.3. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 ............................ 40 Bảng 2.4. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 ...................... 41 Bảng 2.5. Cơ cấu về hình phạt được áp dụng đối với những người phạm tội CGTS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020 .. 42
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 34 năm đổi mới, đất nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường, diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, cũng như các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng có chiều hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản và hết sức phức tạp gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị. Do đó việc bảo vệ quyền sở hữu về tài sản luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều đó thể hiện ở việc quyền sở hữu được pháp luật ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá trong nhiều hệ thống văn bản pháp luật trong các lĩnh vực như: Hình sự, Dân sự, Kinh doanh thương mại… Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các quy định trong chương các tội phạm xâm phạm quyền sở hữucủa BLHS năm 2015. Trong những năm qua, việc đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm sở hữu đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật nước ta thực hiện tích cực, tuy nhiên việc điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm. Do đó, loại tội phạm xâm hại sở hữu ngày càng diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, gây dư luận không tốt cho xã hội, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với pháp luật. Với vị thế là trung tâm kinh tế - văn hóa, giáo dục của khu vực miền Trung, Tây Nguyên, Đà Nẵng có vị trí giao thông thuận lợi, tập trung nhiều khu công nghiệp, nhiều trường học, bệnh viện, bến xe, nhà ga lớn của khu vực và cả nước, có môi trường đầu tư hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt là phát triển du lịch với hàng triệu lượt khách tham quan đến mỗi năm. Dẫn đến số lượng dân ngoại tỉnh di cư tập trung về TP. Đà Nẵng ngày càng đông đúc cùng với lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước tới 1
  8. tham quan, nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, đi kèm với những thuận lợi đó cũng làm phát sinh thêm nhiều vấn đề tiêu cực, nổi bật nhất là vấn đề tội phạm xâm phạm sở hữu, trong đó điển hình là tội cướp giật tài sản, đang là loại tội phạm trở thành vấn nạn vô cùng bức xúc, được dư luận xã hội quan tâm. Tội cướp giật tài sản gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, sức khoẻ của người khác, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, tác động xấu tới tình hình an ninh trật tự, đặc biệt là để lại hình ảnh xấu đối với khách du lịch khi đến với thành phố Đà Nẵng. Trung bình một năm trong thời gian từ năm 2015 hết tháng 6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử 20,36 vụ án và 49,27 bị cáo về tội cướp giật tài sản. Tòa án nhân dân các cấp thành phố Đà Nẵng đã xét xử đúng người, đúng tội danh và đúng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc áp dụng pháp luật với tội cướp giật tài sản còn cho thấy còn có nhiều bất cập, vướng mắc. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xác định được những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là việc rất cần thiết, khách quan. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài Luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tội cướp giật tài sản đã được nghiên cứu, đề cập ở nhiều hình thức, mức độ, khía cạnh khác nhau như: Một số luận văn, luận án liên quan như: Luận án Tiến sỹ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu" của Nguyễn Ngọc Chí, năm 2000; Luận văn thạc sỹ “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” của Phan Thị Thu Lê, năm 2
  9. 2015; Luận văn thạc sỹ của Lê Tấn Hùng về “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” năm 2012; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên” của Nguyễn Thị Toàn, năm 2015… Các bài viết như: Đặng Thúy Quỳnh (2012), “Bàn về tội "Cướp giật tài sản" và tội "Công nhiên chiếm đoạt tài sản" trong Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Kiểm sát số 19/2012, tr. 24-25, 31; Trần Thị Lịch (2016), “Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2015 và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm”; Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2012, tr. 24-26; Trần Đình Hải (2015), Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về "Tội cướp giật tài sản", Nguyễn Văn Khoa Điềm (2018), “Một số vấn đề đặt ra trong công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 4/2018, tr. 34-42; Tạp chí Nghề Luật số 1/2016, tr. 56-58; Đặng Thúy Quỳnh (2012), “Phạm tội cướp giật tài sản dẫn đến chết người hay phạm hai tội cướp giật tài sản và tội giết người”, Tạp chí Kiểm sát số 3/2015, tr. 38- 43; Như vậy, có thể thấy có nhiều tác giả đã nghiên cứu về tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về loại tội phạm này được một số tác giả khác khai thác mang tính tổng quát, hoặc một số tác giả khai thác mang tính riêng biệt ở từng địa phương, nhưng hiện nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Trong luận văn này tác giả đề cập đến những vấn đề về lý luận và thực tiễn trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu và đánh giá tội cướp giật tài sản trên địa thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
  10. 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, phân tích làm rõ và bổ sung hoàn thiện lý luận tội cướp giật tài sản; - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay, làm rõ kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế thiếu sót; - Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm này đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo pháp luật hình sự Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi về nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. + Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn chỉ nghiên cứu tội cướp giật tài 4
  11. sản quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và nghiên cứu so sánh với Điều 136 BLHS năm 1999. + Phạm vi về chủ thể: Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong đó chủ thể chính là Thẩm phán. Trong quá trình thực hiện có sự phối hợp với cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng. + Pham vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên phạm vi địa bàn thành phố Đà Nẵng. + Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn giai đoạn từ năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận dựa trên nền tảng phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề tài luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác để thu thập tài liệu làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước Pháp quyền. + Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh… được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề nhận thức chung về tội cướp giật tài 5
  12. sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. + Phương pháp thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng. + Phương pháp quy nạp, tổng hợp được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận tội cướp giật tài sản mà còn góp phần nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý luận về tội cướp giật tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Với kết quả đạt được tác giả mong muốn luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo luật tại Học viện cũng như là tài liệu để các học viên nghiên cứu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 Chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản. Chương 2. Tình hình đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa 6
  13. bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP 7
  14. GIẬT TÀI SẢN. 1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản 1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản Theo quy định của Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [7, Điều 8]. Tội cướp giật tài sản trước đó đã từng được quy định tại điều 136 Bộ luật hình sự 1999 và tại Điều 131 và Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội cướp giật tài sản Điều 171 không mô tả cụ thể những dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản mà chỉ nêu tội danh. Các nhà lập pháp không miêu tả cụ thể những dấu hiệu của Tội cướp giật tài sản mà chỉ nêu tội danh cướp giật tài sản như sau: “Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt…”. Tuy còn nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau và chưa có một định nghĩa chuẩn xác từ phía nhà lập pháp nhưng xuất phát từ lý luận và thực tiễn xét xử, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm: “Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý bằng cách công khai bất ngờ chiếm đoạt tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát”. Đặc điểm của Tội cướp giật tài sản là được thực hiện hành vi phạm tội 8
  15. một cách cố ý, người phạm tội đã lợi dụng sơ hở của người đang quản lý tài sản để giật lấy tài sản một cách nhanh chóng mà người quản lý tài sản khó có thể giữ được hoặc giằng lại được. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, đối tượng có thể phải sử dụng một lực nhất định tác động nhằm nhanh chóng chiếm đoạt tài sản làm cho chủ sở hữu không kịp phản ứng. Do đó, tài sản mà người phạm tội cướp giật chỉ có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: dây chuyền vàng, đồng hồ, hoa tai, điện thoại, túi xách… Một số trường hợp người phạm tội cướp giật cả những tài sản cồng kềnh, to lớn khác như xe đạp, xe máy vì sau khi tội phạm giật được tài sản lại dùng ngay những tài sản đó làm phương tiện để tẩu thoát. Yếu tố bất ngờ cũng là một dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm này. Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách nhanh chóng và công khai, tội phạm không có ý định che dấu hành vi của mình đối với chủ sở hữu tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc đối với những người khác. Đây là một trong những đặc trưng để phân biệt tội cướp giật tài sản với những trường hợp phạm tội khác như: tội trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không có tính công khai, nhanh chóng. Tính công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật tài sản, hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản làm cho những người này không có khả năng giữ được tài sản đang quản lý. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không đề phòng thì hành vi phạm tội vẫn là hành vi cướp giật. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản a. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp 9
  16. luật hình sự bảo và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường là các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội. Khách thể bị xâm hại trực tiếp của Tội cướp giật tài sản là quyền sở hữu đối với tài sản của người sở hữu tài sản. Những tài sản bị nhà nước cấm lưu hành như vũ khí quân dụng, băng đĩa hình đồi trụy, ma túy, pháo nổ,... không là đối tượng của tội cướp giật tài sản. Tội cướp giật tài sản ngoài khách thể chủ yếu bị xâm phạm là tài sản còn xâm phạm các quan hệ nhân thân. Nhiều vụ cướp giật tài sản hiện nay đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại có trường hợp dẫn đến chết người. Tuy những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ không phải là đối tượng chính mà người phạm tội xâm hại, nhưng trước khi thực hiện hành vi cướp giật, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn thực hiện để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó BLHS năm 2015 khi quy định tội cướp giật tài sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ và coi đây là những tình tiết định khung hình phạt. Như vậy, xác định khách thể của tội cướp giật tài sản là các quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân là hoàn toàn phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong điều kiện hiện nay. b. Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của tội phạm, có những dấu hiệu như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả tác hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và công cụ thực hiện 10
  17. tội phạm. Điều luật không mô tả cụ thể hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản, tuy nhiên căn cứ vào khái niệm, vào các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản thì tội cướp giật tài sản có những hành vi sau: Dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai, nhanh chóng. Trong đó, chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu (nắm giữ, quản lý) trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong điều luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt không ảnh hưởng tới việc định tội đối với hành vi cướp giật tài sản. Thông thường, hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người người đang quản lý tài sản làm cho những người này không có khả năng bảo vệ được tài sản mà mình đang quản lý. Một số trường hợp người phạm tội muốn tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc đang quản lý tài sản nhưng thủ đoạn phạm tội không làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản bị bất ngờ nên người phạm tội không thực hiện được hành vi giật tài sản. Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách công khai, người phạm tội không có ý thức che giấu hành vi của mình. Đây cũng là một đặc trưng để phân biệt với những trường hợp phạm tội khác. Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật chứ không phải công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản về thân phận của người phạm tội. 11
  18. Về hậu quả: Hậu quả của tội cướp giật tài sản là tài sản bị của người sở hữu bị chiếm đoạt. Ngoài ra còn có thể xảy ra thiệt hại về sức khỏe, thân thể, tính mạng của nạn nhân. Người phạm tội cướp giật tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự dù có hậu quả xảy ra hay không. Tức là chỉ cần có hành vi nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra giá trị tài sản ít hay nhiều cũng không làm ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự mà đây sẽ là một trong những yếu tố để định khung hình phạt. c. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm ở đây là yếu tố lỗi của tội phạm, đối với tội cướp giật tài sản, lỗi ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội biết rõ hành vi cướp giật tài sảnlà vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện nhằm mục đích vụ lợi, chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp. Tội cướp giật tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi giật tài sản là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với mong muốn là chiếm đoạt được tài sản. Tội cướp giật tài sản không quy định dấu hiệu động cơ là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Căn cứ vào mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội cướp giật tài sản thì người phạm tội phải có động cơ tư lợi, mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu và lợi ích bản thân. Động cơ đã thúc đẩy, tạo động lực để người phạm tội thực hiện hành vi đến cùng. Mục đích của tội cướp giật tài sảnlà để chiếm đoạt tài sản của người bị hại. d. Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội cướp giật tài sản là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có năng lực trách nhiệm hình sự đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. 12
  19. Như vậy người phạm tội cướp giật tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên, khi thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận thức, và có thể điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cướp giật tài sản quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì nếu người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 171 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.. e. Hình phạt Theo quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 Tội cướp giật tài sản bao gồm bốn khung hình phạt: Khoản 1: hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Đây là mức phạt khi không có các dấu hiệu định khung đối với tội cướp giật tài sản. Khi đưa ra mức phạt trong khung hình phạt này tòa án sẽ căn cứ vào những yếu tố như là mức độ dùng vũ lực, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, có chiếm đoạt được tài sản hay không. Chẳng hạn đối với những người thuộc trong cùng một khung hình phạt này, người sử dụng vũ lực nặng hơn thì sẽ có mức phạt cao hơn, người có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn sẽ phải chịu mức phạt thấp hơn người không có tình thiết giảm nhẹ, người chiếm đoạt được tài sản sẽ có mức phạt cao hơn người chưa chiếm đoạt được tài sản… Khoản 2: Hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm áp: Khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2005 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến 10 năm”. Các tình tiết tăng nặng bao gồm: a) Phạm tội có tổ chức: 13
  20. Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS thì, người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm. b) Có tính chất chuyên nghiệp: Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS. Hướng dẫn của Nghị quyết về “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được hiểu là người phạm tội cố ý 05 lần thực hiện tội phạm trở lên và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; Người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Việc định giá tài sản về nguyên tắc là xác định giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Xác định thiệt hại thực tế của tài sản bị xâm hại là như thế nào. Đồng thời cần quy định bắt buộc đối với các cơ quan chuyên môn phải có cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực định giá tài sản trên cơ sở đó mới có thể đảm bảo sự khách quan, trung thực trong việc định giá tài sản. Đồng thời cũng cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này để khắc phục hạn chế đã và đang diễn ra trên thực tiễn. d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm: 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1