intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội tham ô tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

18
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Tội tham ô tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội" được hoàn thành với mục tiêu nhằm nghiên cứu các vấn đề về luật thực định và thực tiễn áp dụng quy định của luật thực định về tội tham ô tài sản, luận văn mong muốn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện khoa học luật hình sự, pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm tham ô tài sản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội tham ô tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội

  1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN TỘI THAM Ô TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội -2023
  2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN TỘI THAM Ô TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380104 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ LAN CHI Hà Nội - 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây làcông trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả luận văn TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tới tất cả các thầy, cô trong Trường Đại học kiểm sát Hà Nội đã tạo điều kiện cho em được học tập và nghiên cứu trong chương trình đào tạo thạc sĩ tại trường. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS.Lê Lan Chi - người cô đã giúp đỡ học trò trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Cảm ơn cô rất nhiều vì kiến thức vô giá mà cô đã mang lại cho học trò, là động lực để học trò hoàn thành luận văn đúng theo thời gian. Cuối cùng học viên xin chân thành cảm ơn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội và các Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các quận đã hỗ trợ giúp học viên tìm kiếm được nguồn số liệu đáng tin cậy, làm phong phú thêm luận văn. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2022 Tác giả luận văn TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ............... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản ................................................................ 8 1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản ................................................................................. 8 1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản ......................................................................... 11 1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự .......................... 13 1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác........................................... 14 1.3.1. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm về chức vụ ......................... 15 1.3.2. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm về sở hữu........................... 15 1.4. Quy định tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới ............................................................................................................ 16 1.4.1. Công ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng đặt ra và các yêu cầu đối với pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên ..................................... 16 1.4.2 Tội tham ô tài sản trong pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới và liên hệ với Việt Nam ....................................................................................................... 18 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI.... 23 2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản ......................... 23 2.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) ....................................... 23 2.1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản theo Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017). ....................................................................... 25 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.................................................................................... 37 2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội 37 2.2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tội tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................................................................................................................... 51 2.2.3. Một số hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội tham ô tài sản và nguyên nhân .................................................................................................................... 52
  6. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ....... 61 3.1 Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về tội tham ô tài sản ..................... 61 3.2. Giải pháp khác. ....................................................................................................... 64 KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................
  7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  8. DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên bảng biểu Trang Bảng 2.1: Tình hình về số người phạm tội tham ô tài sản trên địa bàn 38 thành phố Hà Nội từ năm 2017 đến năm 2021
  9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp, tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp và tinh vi; số vụ án phạm các tội về tham nhũng được phát hiện, xử lý ngày càng nhiều, quy mô số tiền tham nhũng là rất lớn, người thực hiện hành vi phạm tội có chức vụ lớn trong bộ máy Nhà nước từ cơ sở cho đến Trung ương. Một trong những tội phạm nổi cộm trong nhóm tội phạm về tham nhũng trong thời gian qua được phát hiện, xử lý là tội tham ô tài sản. Do tội tham ô tài sản được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn nên việc phát hiện, xử lý đối với loại tội phạm này thường gặp rất nhiều khó khăn, hậu quả của tội phạm để lại cho xã hội là rất lớn, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với bộ máy công quyền. Thực tiễn hội nhập và phát triển kinh tế, xã hội tại Việt Nam thời gian qua đã đặt ra vấn đề là hành vi tham ô tài sản không chỉ diễn ra trong cơ quan nhà nước mà nó còn được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, gây thiệt hại lớn, làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, gây tác động xấu đến đời sống của người lao động. Trong những năm gần đây tình hình tội phạm tham nhũng nói chung và tình hình các tội phạm về tham ô tài sản nói riêng có những diễn biến phức tạp ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực và gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Trong cơ chế thị trường hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô lớn. Bởi ở đó lợi ích vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản. Thực tiễn cho thấy, tội phạm tham ô ngày càng gia tăng với quy mô và mức độ phức tạp cao hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến không ít cán bộ, công chức cố tạo cho mình một đặc quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách nhiệm quản lý bằng các thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Hiện nay, tình hình tội tham ô tài sản ở nước ta hiện nay đang diễn ra cả ở chiều rộng, lẫn chiều sâu và sức công phá của nó không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực chính trị, xã hội mà lan sang cả lĩnh vực kinh tế. Bởi vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, giải pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham nhũng cũng như tội
  10. 2 phạm về tham nhũng, tham ô trong đó gần đây nhất tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Phòng, chống tham nhũng là bao gồm các hoạt động của hệ thống cơ quan Đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân, căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham nhũng nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị - xã hội, bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh tế - xã hội đất nước phát triển bền vững”[2, tr.223]. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc thanh lọc, chống tiêu cực của bộ máy công quyền cũng như làm trong sạch trong hoạt động trong lĩnh vực tư. Hà Nội là thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội, là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước [19]. Với sự tập trung bộ máy quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương, thành phố Hà Nội luôn là tâm điểm nóng của vụ án tham nhũng nói chung và tham ô nói riêng. Tại hội nghị tổng kết chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng trên địa bàn đến năm 2020 ngày 16/4/2020, báo cáo UBND Thành phố Hà Nội từ ngày 01/6/2009 đến ngày 01/6/2020 TAND thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm 352 vụ/1059 bị cáo; giải quyết: 342 vụ/1023 bị cáo (trong đó: xét xử 265 vụ 777 bị cáo, trả hồ sơ điều tra bổ sung 77 vụ 246 bị cáo); đang giải quyết 10 vụ 36 bị cáo. Số tiền tài sản trong các vụ án tham nhũng xét xử đã được thu hồi là hơn 7.623 tỷ đồng [39]. Những năm gần đây, tuy công tác phòng chống tham nhũng nói chung và phòng chống tội tham ô nói riêng được đẩy mạnh, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án tham ô vẫn còn hạn chế nhất định, quy định mới tội tham ô tài sảncủa BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 còn rất mới, làm cho tình hình tội tham ô tài sản diễn ra phức tạp, nhất là liên qua đến nhà, đất công sản, tài sản công ty tư nhân,…Vì lý do đó, tác giả đã quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tội tham ô tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và
  11. 3 thực tiễn về tội danh này, từ đó tìm ra những phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng trong công tác đấu tranh phòng chống tội tham ô tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới. 2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài Tội tham ô tài sản đã được các chuyên gia Luật học nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây: - Về tài liệu sách chuyên khảo, giáo trình gồm có: Lê Văn Cảm (2019), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự phần chung (Giáo trình sau đại học), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Văn Cảm (2018), Nhận thức khoa học về phần chung pháp luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ ba, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội) do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II) (Nhà xuất bản Công an nhân dân), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần Tội Phạm) - Tập 2 (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2019) do TS Phạm Mạnh Hùng và TS. Lại Viết Quang đồng chủ biên… Đây là những giáo trình đặc thù về lý luận, có giá trị tham khảo cao về những vấn đề liên quan đến cấu thành tội phạm của tội tham ô tài sản. - Về luận văn, luận án phải nhắc đến các công trình sau đây: + Nguyễn Thị Hương (2021), Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận án đã đóng góp cho sự phát triển chung của lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 sẽ xác định, giải thích những yếu tố tiêu cực được cho là nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Các biện pháp phòng ngừa được đưa ra góp phần làm hạn chế việc phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới. + Lê Việt Hòa (2022), Tội tham ô tài sản theo quy định của Bộ Luật Hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận văn, tác giả đã trình bày những vấn đề chung về tội tham ô tài sản. Phân tích các quy định của BLHS
  12. 4 năm 2015 về tội tham ô tài sản và thực tiễn áp dụng; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đối với tội phạm này. + Lê Hoàng Phước (2018), Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học và xã hội. Trong luận văn đã đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội tham ô tài sản, định hướng xu thế nội luật hóa các quy định pháp luật Việt Nam để phù hợp với các quy định quốc tế, cũng đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội tham ô trên địa bàn tỉnh Long An trong thời gian tới. +Tô Xuân Tùng (2015), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam. Trong luận văn đã phân tích các quy định của Luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản luận văn đã đánh giá thực tiễn áp dụng, những hạn chế, khó khăn,vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định này. Bước đầu đề xuất và phân tích một số giải pháp mang tính định hướng cho việc nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản và ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định này. Ngoài ra kể đến các bài viết trên tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể tội tham ô tài sản” của tác giả Trương Thị Hằng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006, “Việc xác định tội phạm tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Khắc Tiến đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006, “Bình luận về Tội tham ô tài sản" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 5/2018, “Phân biệt Tội tham ô tài sản với một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài sản khác” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 03/2021, “Đặc điểm hình sự của tội tham ô tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Hà Đức Dũng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2021. Qua thực tiễn nghiên cứu tại một số công trình nghiên cứu đã kể trên có thể khẳng định rằng tội tham ô tài sản được sự quan tâm nghiên cứu với hình thức nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khác nhau với nhiều góc độ. Các công trình đã đánh giá chuyên sâu và làm rõ những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn giải quyết tội tham ô tài sản. Trên tinh thần tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các công trình nghiên cứu đã công bố,
  13. 5 luận văn tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về tội tham ô tài sảntrên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó đưa ra những đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tội tham ô tài sảntrên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian sắp tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Từ nghiên cứu các vấn đề lý luận, các vấn đề về luật thực định và thực tiễn áp dụng quy định của luật thực định về tội tham ô tài sản, luận văn mong muốn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện khoa học luật hình sự, pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm tham ô tài sản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Luận văn đưa ra khái niệm, làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản, nghiên cứu so sánh, phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác, quá trình lập pháp hình sự đối với tội tham ô tài sản trong pháp luật của một số quốc gia thế giới và trong các giai đoạn phát triển pháp luật hình sự Việt Nam. - Luận văn phân tích tình hình áp dụng pháp luật, xác định những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội tham ô tài sản tại thành phố Hà Nội trong thực tiễn từ 2017- 2021, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình áp dụng quy định về tội tham ô tài sản. - Luận văn đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội tham ô tài sản và bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật về tội tham ô tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài - Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến tội danh này trên thực tiễn Thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Về không gian: đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản trên phạm vi thành phố Hà Nội.
  14. 6 - Về thời gian: đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2017 đến năm 2021. - Về nội dung: đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, chủ yếu nghiên cứu các quy định tại Điều 278 BLHS năm 1999 và Điều 353 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách pháp luật hình sự của nước ta về tội phạm, về hình phạt, về cải cách tư pháp và phòng chống tham nhũng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài - Các phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích, quy nạp, hệ thống hóa, so sánh được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu các vấn đề nhằm làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về tội tham ô tài sản, phân biệt các tội phạm về tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác, khái quát quá trình quy định và hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tội tham ô đến trước khi ban hành BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. - Các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, được áp dụng để nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng quy định của BLHS năm2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự trong định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án đối với tội tham ô tài sản tại thành phố Hà Nội. Đặc biệt, tác giả kết hợp sử dụng phương pháp phân tích án điển hình để phân tích làm rõ những vụ án tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội qua đó rút ra những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện của luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm các tri thức lý luận về tội tham ô tài sản: luận văn đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản, phân biệt với các tội danh khác, luận giải
  15. 7 các dấu hiệu về mặt cấu thành tội phạm về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm này theo quy định mới của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017, nhận định, đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp luật Việt Nam quy định về tội tham ô tài sản từ năm 1945 cho đến nay. - Trên cơ sở nghiên cứu phân tích sự vận dụng quy định pháp luật về tội tham ô giai đoạn 2017-2021 tìm ra một số hạn chế vướng mắc, khi áp dụng pháp luật từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản và các giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội tham ô tài sản Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản
  16. 8 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản 1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản Tham nhũnglà vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các Nhà nước và thời kỳ lịch sử, kể từ khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra đời. Trong đó, tham ô là một biểu hiện của tham nhũng, một hành vi phổ biến trong các tội tham nhũng. Tham ô là một hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá nhân, đặc biệt trong điều kiện quản lý kinh tế-xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, tham ô có điều kiện phát triển và một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Tham ô làm thâm hụt công quỹ, rút ruột công trình xây dựng, giảm mức phúc lợi. Vậy thế nào là tham ô tài sản? Về mặt ngữ nghĩa, theo Từ điển tiếng Việt, tham ô là “Lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công”[12, tr.1164]. Theo cách hiểu này, có thể hiểu tham ô là hành vi của con người có quyền hạn hoặc chức trách đã lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách của mình để chiếm đoạt của công. Tham ô gắn liền với quyền lực công, vấn đề “tham quan ô lại” triều đại nào cũng đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng phòng, chống tham ô, lãng phí trong Đảng, Nhà nước. Bởi Người cho rằng tham ô, lãng phí là “những căn bệnh nguy hiểm”, “là giặc nội xâm”, “là tội ác” không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, vật chất, mà còn về mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; làm suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân; từ đó, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc xây dựng và bảo vệ nước nhà. Chính vì vậy, ngay sau khi đất nước dành được độc lập, trong bài phát biểu về “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” tháng 3
  17. 9 năm 1952, Người nhấn mạnh: “Phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta”[7,tr.355]. Tại Sắc lệnh số 233 - SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về tội biển thủ công quỹ do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành. Theo đó, Người coi tham ô, lãng phí là tội lỗi lớn nhất trong xã hội, chỉ rõ bản chất của tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam [37]. Hiểu theo nghĩa rộng thì hành vi tham ô chính là trộm cướp. Hiểu theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước mà ngay cả những người dân bình thường, nếu “ăn cắp của công, khai gian,lậu thuế”[8, tr.140-141]cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ô. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, thì tham ô là “hành vi của người giữ chức vụ trong cơ quan, tổ chức, hoặc công ty, đã chiếm đoạt, sử dụng hoặc buôn bán một cách trái phép số tiền và tài sản mà họ được giao quản lý để phục vụ cho những mục đích làm giàu cá nhân hoặc các hoạt động khác”.[39] Theo quy định tại Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng thì tham ô được hiểu là “… hành vi của công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công chức này được giao quản lý do địa vị của mình”.[11] Quan điểm này nêu rất khái quát về tham ô nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài sản của công chức mà bỏ qua những hành vi chiếm đoạt tài sản của các đối tượng không phải là công chức. Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về tội tham ô tài sản nhưng nhìn chung thì có hai quan niệm khá phổ biến: Một là, xem tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm dụng tài sản. Chủ thể của hành vi tham ô có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài sản bị chiếm đoạt của hành vi tham ô là tài sản của nhà nước. Hai là, xem tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình có
  18. 10 trách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ô không chỉ ở việc chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị -xã hội và doanh nghiệp bao hàm cả lĩnh vực tư. Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội tham ô tài sản ở nhiều nước trên thế giới. Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, hiện nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất về tham ô và vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh hai dấu hiệu cơ bản của hành vi này là: Thứ nhất, tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức (bao gồm cả lĩnh vực công và lĩnh vực tư). Thứ hai, chủ thể tham ô tài sản người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ-là cán bộ, công chức, viên chức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ chức. Cá nhân của tác giả cho rằng tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thành lập của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có trách nhiệm quản lý, xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm học, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn cho thấy cùng với sự thay đổi của các thành phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người có trách nhiệm quản lý tài sản lợi dụng điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh (công), doanh nghiệp cổ phần hóa (công - tư kết hợp) và doanh nghiệp dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ. Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước hay không thì các chủ sở hữu đều phải được bình đẳng trước pháp luật mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của tham ô vẫn là dùng chức vụ quyền hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng. Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc do những quy định trong luật hình sự về tội tham ô tài sản nói riêng và tội phạm về chức vụ nói chung chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy BLHS sửa đổi năm 2015 có sự
  19. 11 thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội tham ô tài sản vẫn nhằm trong nhóm tội phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm về chức vụ đã có sự mở rộng: “Là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ và người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Từ những đánh giá và nhận định nêu trên, tác giả xin đưa ra một khái niệm chung nhất về tội tham ô tài sản như sau: “Tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sựcó trách nhiệm quản lý tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trong cả lĩnh vực tư và công được quy định trong Bộ luật hình sự”. 1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản Từ việc nghiên cứu khái niệm tội tham ô tài sản như đã viết ở trên, có thể rút ra một số đặc điểm của loại tội này như sau: Thứ nhất, tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm hoạt động đúng đắn và sở hữu của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được hiểu theo nghĩa chung nhất là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo những chức năng, nhiệm vụ đó pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm bởi tội tham ô tài sản là những hoạt động theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ buộc phải làm mà không làm, cấm không được làm thì lại làm, khi bị xâm phạm thi chức năng, nhiệm vụ các mục tiêu của cơ quan, tổ chức này sẽ bị ảnh hưởng xấu và không đạt được mục đích tối ưu. Tội tham ô tài sản còn xâm phạm đến sở hữu của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước, nghĩa là xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước, người phạm tội thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản do mình quản lý, chuyển dịch bất hợp pháp tài sản thuộc sở hữu của cơ quan, tổ
  20. 12 chức thành tài sản của riêng mình hoặc cho người thân thích làm chủ sở hữu mất quyền sở hữu về tài sản. Thứ hai, tội tham ô tài sản được thực hiện do người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản. Chủ thể của tội phạm này là con người cụ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức bị coi là tội phạm, đủ năng lực trách nhiệm hình sự ở đây thể hiện là con người đó phải có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, đạt đủ độ tuổi theo luật định, họ phải có chức vụ, quyền hạn nhất định trong việc quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, nếu là người không có chức vụ, quyền hạn thì chỉ có thể họ là người đồng phạm tham ô với vai trò người tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức,…Người có chức vụ, quyền hạn của tội tham ô tài sản có đặc điểm họ có thể là người thực hiện một trong các chức năng đại diện quyền lực nhà nước, tổ chức để điều hành quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh theo vị trí, công việc được giao. Là người giữ chức vụ, quyền hạn thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan. tổ chức của nhà nước và ngoài nhà nước những chức vụ, quyền hạn này có thể do được bổ nhiệm hoặc do bầu cử, do hợp đồng hay các hình thức khác như được ủy quyền, được cử làm người đại diện… Có hưởng lương hoặc không hưởng lương hoặc những người có trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền chuyên môn mà họ đã được giao đảm nhiệm. Những người nêu trên phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì không thể là chủ thể của tội phạm này, đây là điều kiện cần và đủ để xác định là chủ thể của tội tham ô tài sản và cũng là điều kiện để phân biệt với với tội phạm khác trong BLHS có cùng tính chất chiếm đoạt, người có trách nhiệm quản lý tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức như kế toán, thủ quỹ, thủ kho, bảo vệ ngoài ra những người như người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc công ty, chủ tịch hội đồng quản trị các doanh nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã họ là người chủ tài khoản, chủ quản lý của cơ quan, tổ chức, họ có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cũng có thể là chủ thể của loại tội phạm này. Thứ ba, tội tham ô tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng giống như các tội có tính chất chiếm đoạt khác trong BLHS. Tội tham ô tài sản người thực hiện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0