BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG HIẾU

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC

UBND TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK – NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG HIẾU

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC

UBND TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN THẾ TÀI

ĐẮK LẮK – NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích

dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận văn

Trần Trung Hiếu

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được nhiều

sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn và động viên từ quý Thầy, Cô giáo của Học

viện Hành chính Quốc gia và Phân viện khu vực Tây Nguyên; của PGS.TS.

Lương Thanh Cường, PGS.TS. Lê Thị Hương đã định hướng tên đề tài khoa

học cho tôi; các giáo viên chủ nhiệm, quý Thầy Cô giảng dạy tại lớp, cũng

như các anh, chị, em là học viên của lớp, gia đình và các đồng chí đồng

nghiệp.

Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn TS.Nguyễn Thế Tài, người trực tiếp

hướng dẫn khoa học đã tận tình quan tâm, giúp đỡ và định hướng để tôi hoàn

thành tốt công trình khoa học của mình.

Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng Đánh giá Luận văn quan tâm xem xét,

nghiên cứu và cho ý kiến góp ý về những thiếu sót để tôi kịp thời sửa đổi, bổ

sung nhằm hoàn thiện đề tài khoa học.

Để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, xin kính chúc quý Thầy, Cô, các anh

chị em học viên của lớp, các đồng nghiệp dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và

thành đạt!

Tác giả luận văn

Trần Trung Hiếu

MỤC LỤC

Trang

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PH IẾN, GIÁO

C PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC

U N CẤP TỈNH 9

1.1. Khái quát chung về P G PL của cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cấp tỉnh 9

1.2. Chủ thể, đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cấp tỉnh 17

1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh 21

1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến PBGDPL của các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. 29

Chương 2: THỰC TRẠNG PBGDPL CỦA CÁC CƠ QUAN

CHUYÊN MÔN THUỘC U N TỈNH ĐẮK LẮK (TỪ 2015-2019) 35

2.1. Thực trạng hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk (từ 2015-2019) 35

2.2. Đánh giá chung về hoạt động P G PL của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk 63

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG

P G PL CỦA CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC U N

TỈNH ĐĂK LẮK 82

3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động PBGDPL của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk 82

3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động PBGDPL của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk 85

KẾT LUẬN 98

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật

HĐN Hội đồng nhân dân

UBND Uỷ ban nhân dân

QPPL Quy phạm pháp luật

Sở LĐ,T &XH Sở Lao động, Thương binh và Xã hội

Sở NN&PTNT Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Sở VH,TT& L Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch

Sở GT&VT Sở Giao thông và Vận tải

Sở G &ĐT Sở Giáo dục và Đào tạo

Sở TN&MT Sở Tài nguyên và Môi trường

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Phổ biến giáo dục pháp luật (P G PL) là khâu đầu tiên trong hoạt

động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân. Đặc

biệt, trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay, công tác này càng có vai trò

quan trọng về nhiều mặt. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng này, trong

rất nhiều văn kiện của Đảng đã xác định rõ công tác P G PL là một bộ phận

của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị

trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, phải được tiến hành thường xuyên,

liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế

phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội.

Điều 2 Luật P G PL (Luật) đã quy định công dân có quyền được

thông tin về pháp luật, Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực

hiện quyền được thông tin về pháp luật và tại Khoản 1 Điều 3 của Luật quy

định về chính sách của Nhà nước về P G PL như sau: “P GDPL là trách

nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng

cốt”. Tại Khoản 2 Điều 6 Luật quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước đối

với công tác P G PL như sau:“Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về

PBGDPL; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý

nhà nước về PBGDPL; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà

nước về PBGDPL”.

Ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, hoạt động này được Chính phủ giao cho

1

Ủy ban nhân dân (U N ) cấp tỉnh quản lý, triển khai thực hiện và tại Khoản

3, Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy

định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quy định cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có

nhiệm vụ “Phổ biến giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý

nhà nước được giao”, đồng thời, tại Khoản 2, Điều 8, Nghị định số

24/2014/NĐ-CP cũng có quy định “Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp

tỉnh quản lý nhà nước về công tác phổ biến giáo dục pháp luật” trên địa bàn

đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Trong những năm qua, công tác P G PL nhìn chung đã được cấp ủy

Đảng, chính quyền tỉnh Đắk Lắk quan tâm; đã có những hoạt động phong

phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới; thu

được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động P G PL đã góp

phần từng bước nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật, hình thành

dần thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ

và nhân dân trên địa bàn tỉnh, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà

nước và đời sống xã hội.

Mặc dù vậy, công tác P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn bộc

lộ không ít khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt: về nhận thức; về kinh phí, cơ sở

vật chất; về nhân lực; về nội dung, hình thức thực hiện; hiệu quả đạt được...

đặc biệt là trách nhiệm, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm

quyền trong việc triển khai thực hiện công tác này trên địa bàn tỉnh đang đặt

cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như đội ngũ làm công tác

P G PL của tỉnh trước những băn khoăn, trăn trở. Xuất phát từ mục đích đó,

tôi chọn nội dung “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:

2

P G PL trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của

mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề P G PL qua các giai đoạn đã

được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ

khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau với các hình thức như: Sách chuyên

khảo, đề tài khoa học, luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp... Đáng chú ý có

các công trình sau:

i) Những công trình nghiên cứu về PBGDPL cho một đối tượng cụ thể:

- Nguyễn Quốc Sửu (2011), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,

công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. Cuốn sách này đã phân tích,

làm rõ về phương diện lý luận, thực tiễn vấn đề giáo dục pháp luật cho đội

ngũ cán bộ, công chức, thực trạng và nguyên nhân của thực trạng, đề xuất

những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho

đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.

- Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công

chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công, Hà nội.

Luận án này được hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý

thức pháp luật, chứ không phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các

vấn đề về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục ý

thức pháp luật gắn với đối tượng cán bộ, công chức; song về thực chất chúng

đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật.

ii) Những công trình nghiên cứu về PBGDPL gắn với một đối tượng cụ

thể và ở một địa bàn nhất định

Vấn đề P G PL gắn với một đối tượng cụ thể ở một địa bàn nhất định

cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sỹ luật học. Có thể điểm

qua một số luận văn được bảo vệ trong thời gian gần đây:

3

- Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công

giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội. Tác giả đã

tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào

công giáo ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó; trên cơ sở đó,

đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp

luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.

- ương Thị Thu Hiền (2013), PBGDPL trên địa bàn huyện Bố Trạch,

tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn này tác giả đã tập trung làm

sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về PBGDPL và hoạt động PBGDPL;

phân tích, đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động PBGDPL cho cán bộ và

nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng ình; đề xuất những giải pháp khả thi

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động PBGDPL cho cán bộ và nhân dân huyện

Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

- Nguyễn Xuân Hòa (2016), Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật

thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ân dân tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc

sỹ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả đã tập trung phân tích vấn

đề lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử

của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra

những nét đặc thù của công tác này để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp

nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua

hoạt động xét xử của Tòa án từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.

Đặc điểm chung của các luận văn, luận án đã thực hiện là đề cập đến lý

luận chung về P G PL hoặc lý luận, thực tiễn hoạt động PBGDPL theo lĩnh

vực, ở một đơn vị hành chính hoặc của một chủ thể, một đối tượng nhất định.

Mỗi công trình nghiên cứu chọn cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau, tuy

nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu và phân tích lý luận, thực tiễn

4

về hoạt động PBGDPL của một chủ thể đặc thù là cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk.

Vì vậy, tác giả sẽ kế thừa về lý luận của hoạt động P G PL từ các đề

tài đã nghiên cứu và nghiên cứu những điểm mới về lý luận cũng như thực

tiễn về hoạt động “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

Đắk Lắk” – là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh

vực trên địa bàn cấp tỉnh, có trách nhiệm tham mưu U N cấp tỉnh thực hiện

công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk,

do đó, việc nghiên cứu đề tài “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk” là không trùng lặp với các đề tài được nghiên cứu trước

đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:

Trên cơ sở lý luận về P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N

cấp tỉnh; đánh giá thực trạng về hoạt động P G PL của cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng

P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong điều

kiện hiện nay.

- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết

các nhiệm vụ sau:

- Phân tích cơ sở lý luận về P G PL nói chung và P G PL của cơ

quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh.

- Phân tích thực trạng P G PL của một số cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế về

P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong thời

gian qua.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của cơ

5

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong điều kiện hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt

động P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: lý luận và thực tiễn hoạt động P G PL của cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

- Về không gian, luận văn nghiên cứu hoạt động PBGDPL của một số

cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể là 12 Sở có số lượng

công việc chuyên môn nhiều liên quan đến PBGDPL, gồm: Sở Tư pháp; an

ân tộc; Sở Nội vụ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Tài nguyên và Môi trường;

Sở Công thương; Sở Xây dựng; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Sở

Văn hóa, Thể thao và u kịch; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở

Giao thông vận tải; Sở Y tế.

- Về thời gian, trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng của học thuyết Mác – Lênin; quan điểm của Đảng và Nhà nước về

công tác PBGDPL. Luận văn cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu của các

nhà khoa học liên quan đến P G PL.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có sử dụng các phương pháp

sau:

- Phương pháp khảo cứu tài liệu, phân tích, suy luận: dùng cho Chương

I để nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý luận của hoạt động P G PL của cơ

6

quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh .

- Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, tổng hợp, đánh giá: dùng

cho Chương II để nghiên cứu các vấn đề về thực trạng hoạt động PBGDPL

của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

- Phương pháp phân tích, suy luận: dùng cho Chương III để nghiên cứu

về các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và

tương đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về PBGDPL cuả các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, luận văn cung cấp, bổ

sung thêm các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn

thiện thêm lý luận về PBGDPL nói chung và PBGDPL của cơ quan chuyên

môn thuộc UBND cấp tỉnh nói riêng.

Với những kết quả đạt được, luận văn góp phần bảo đảm hoạt động

PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và góp phần quan

trọng vào mục tiêu nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho cán

bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, là cơ sở khoa học và thực tiễn giúp

tỉnh Đắk Lắk nói riêng và các địa phương cấp tỉnh nói chung nâng cao chất

lượng công tác P G PL.

Các giải pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện

công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới; làm tài liệu

tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học

chuyên ngành Luật Hành chính, Luật Hiến pháp và cho những ai quan tâm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

7

Chương 1: Những vấn đề lý luận về P G PL của các cơ quan chuyên

môn thuộc U N cấp tỉnh.

Chương 2: Thực trạng P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của

8

các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND CẤP TỈNH

1.1. Khái quát chung về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh

1.1.1. Khái niệm PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND

cấp tỉnh

1.1.1.1 Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật

PBGDPL là một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước, các cấp, các

ngành và toàn xã hội quan tâm, trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều

quan điểm, quan niệm khác nhau về khái niệm PBGDPL. Sự khác nhau về

quan điểm, quan niệm đó sẽ dẫn đến những lựa chọn khác nhau về nội dung,

hình thức và phương pháp thực hiện. Vì vậy, việc tiếp cận khái niệm

PBGDPL một cách đúng đắn, khoa học sẽ giúp cho việc lựa chọn nội dung,

hình thức và phương pháp PBGDPL phù hợp.

Trên thực tế, P G PL ít được đề cập đến như một khái niệm mang

tính học thuật. Trong các tài liệu khoa học, thuật ngữ thường được sử dụng là

giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong hầu hết các văn kiện của Đảng, các văn

bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ

chuyên môn liên quan, PBGDPL được sử dụng một cách phổ biến. Vì vậy,

trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả sử dụng thuật ngữ

PBGDPL với ý nghĩa chung đó.

Theo từ điển Tiếng Việt (NX Đà Nẵng năm 1997) hay Từ và ngữ Hán

Việt (NX Từ điển ách Khoa - 2002) thì “Phổ biến là làm cho đông đảo

mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp

hay thông qua hình thức nào đó hoặc làm cho mọi người đều biết đến”. [1,

9

tr785]

Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội

và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành

nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà

nước dùng để trị dân. ên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính tác

nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức

độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu

thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Phổ

biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập

huấn...

Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt “Giáo dục là quá trình hoạt động

có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con

người những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có

khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội”. [1, tr785]

So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm

song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác

định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là

các phương thức giáo dục cụ thể.

Trong quá trình nghiên cứu, quản lý và trực tiếp thực hiện các hoạt

động P G PL tại địa phương, tác giả rất tâm đắc với quan niệm “PBGDPL

là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể PBGDPL

được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối

tượng được PBGDPL giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình

thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù

hợp với các yêu cầu của pháp luật”.

1.1.1.2 Khái niệm về cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh

Theo Điều 3, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính

10

phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương, thì “Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh gồm có sở và cơ quan ngang sở (sau đây gọi chung là sở). Sở là cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp

UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy

định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của UBND cấp tỉnh,

Chủ tịch UBND cấp tỉnh” [2].

Theo Điều 8 của Nghị định này, về cơ bản thì U N cấp tỉnh có tất cả

17 cơ quan chuyên môn, bao gồm: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và

Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn (NN&PTNT), Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và

Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động, Thương binh và Xã

hội (LĐ,T &XH), Sở Văn hóa, Thể Thao và u lịch (VH,TT& L), Sở Khoa

học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh, Văn

phòng U N tỉnh. Ngoài ra, tùy vào tình hình thực tế của địa phương,

U N tỉnh có thể thành lập thêm các cơ quan đặc thù là Sở Ngoại vụ, an

ân tộc, Sở Quy hoạch – Kiến trúc.[2]

Như vậy, ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, khác với cơ quan có thẩm quyền

chung là U N cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội ở địa bàn cấp tỉnh, thì cơ quan chuyên môn thuộc

U N cấp tỉnh được lập ra nhằm giúp U N cấp tỉnh - cơ quan có thẩm

quyền chung, quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ thuộc một ngành hoặc lĩnh

vực nhất định.

1.1.1.3 Khái niệm về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh

Từ khái niệm về P G PL và khái niệm của cơ quan chuyên môn thuộc

U N cấp tỉnh, tác giả cho rằng có thể hiểu khái niệm PBGDPL của cơ quan

11

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là “hoạt động có định hướng, có tổ chức,

có chủ định do cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện bằng

nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối tượng được PBGDPL

trên địa bàn cấp tỉnh, giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình

thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù

hợp với các yêu cầu của pháp luật”.

1.1.2 Đặc điểm về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND

cấp tỉnh

Hoạt động, P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có

những đặc điểm sau:

Một là, PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là

trách nhiệm, nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước của các cơ

quan này.

Tại Khoản 3, Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy

định cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ “Phổ biến, giáo

dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”.

Cụ thể hơn, tại các Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh đều có quy định về nhiệm vụ “Phổ biến,

giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước” của các

cơ quan này. o đó, đối chiếu quy định trên với quy định tại Điều 8, Nghị

định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về số lượng các cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh thì tác giả có thể khẳng định rằng: các cơ

quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có trách nhiệm tham mưu cho

U N cấp tỉnh tiến hành hoạt động P G PL về hầu hết các ngành, lĩnh vực

trong đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp tỉnh, từ các quy định của pháp

luật về lĩnh vực đất đai, xây dựng thuộc phạm vi quản lý của Sở Tài Nguyên

và Môi trường, Sở Xây dựng đến các quy định về lĩnh vực y tế, giáo dục, an

12

toàn giao thông thuộc phạm vi quản lý của Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo,

Sở Giao thông – Vận tải …và Sở Tư pháp có nhiệm vụ P G PL về các lĩnh

vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, đồng thời, Sở Tư pháp

được giao thêm chức năng làm “đầu mối”, giúp U N tỉnh quản lý nhà nước

về công tác P G PL tại địa bàn cấp tỉnh. [2]

Từ các quy định trên có thể hiểu, PBGDPL của cơ quan chuyên môn

thuộc U ND cấp tỉnh là một trong những nhiệm vụ để thực hiện chức năng

quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực, ngành được giao và trách nhiệm thực hiện

hoạt động này được quy định tại Nghị định, các Thông tư hướng dẫn về chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh và tại Luật

PBGDPL. Đây là hoạt động của các cơ quan hành chính để thực hiện chức

năng quản lý nhà nước nên được bố trí bộ máy, con người cũng như kinh phí

để tổ chức thực hiện và được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp

luật nên có nhiều điểm khác biệt so với hoạt động PBGDPL của các tổ chức

khác như: hoạt động P G PL của các tổ chức Đảng, đoàn thể thường mang

tính tuyên truyền, vận động hay hoạt động P G PL của cơ quan báo chí,

truyền thông là do các cơ quan này “tự nguyện” thực hiện.

Hai là, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đóng vai trò “nòng

cốt” trong việc thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh.

Điều 2, Luật P G PL quy định về quyền được thông tin về pháp luật

và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân đã nêu rõ: “Công dân

có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu,

học tập pháp luật. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện

quyền được thông tin về pháp luật”. Để đảm bảo thực hiện quyền này, Điều 3,

Luật P G PL quy định về chính sách của Nhà nước về phổ biến, giáo dục

pháp luật là “Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống

chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”. Nhà nước bảo đảm nguồn

13

lực cần thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện xã hội

hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; khuyến khích và có chính sách hỗ

trợ, tạo điều kiện đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia

thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; huy động các nguồn lực xã hội đóng

góp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.[3]

Quan điểm này có thể hiểu công dân có trách nhiệm tìm hiểu pháp luật

và Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được

thông tin về pháp luật bằng cách huy động hệ thống chính trị gồm cơ quan

Đảng, cơ quan Nhà nước, cơ quan Đoàn thể… và khuyến khích, huy động sự

tham gia của các tổ chức, cá nhân trong đó Nhà nước giữ vai trò “nòng cốt”

thực hiện công tác P G PL. Ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh

giữ vai trò “nòng cốt” trong các cơ quan nhà nước ở cấp tỉnh, trong khi đó,

các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là các cơ quan “nòng cốt”

giúp U N cấp tỉnh thực hiện công tác quản lý nhà nước tại địa phương,

trong đó, công tác PBGDPL là một trong các chức năng, nhiệm vụ của hoạt

động quản lý nhà nước, cho nên theo tác giả, có thể khẳng định rằng cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh đóng vai trò “nòng cốt” trong việc thực

hiện công tác P G PL trên địa bàn cấp tỉnh.

Ba là, PBGDPL của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh là tiền đề đẩy

mạnh hoạt động PBGDPL ở cấp huyện và cấp xã trên địa bàn cấp tỉnh.

Theo Điều 4, Nghị định 24/2014/NĐ-CP thì cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh là cơ quan giúp U N cấp tỉnh quản lý nhà nước về các

ngành, lĩnh vực trên toàn địa bàn cấp tỉnh. Các cơ quan này có thẩm quyền

hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra các hoạt động chuyên môn

thuộc ngành, lĩnh vực quản lý được thực hiện tại cấp huyện và cấp xã. Như

vậy, hoạt động cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có ảnh hưởng lớn,

trực tiếp đến việc triển khai các hoạt động của U N cấp huyện và cấp xã.

14

o đó, một khi cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh đẩy mạnh hoạt

động PBGDPL sẽ tạo động lực, nền tảng cho U N cấp huyện và U N cấp

xã trên địa bàn tỉnh nghiêm túc triển khai hoạt động PBGDPL ở địa phương.

1.1.3. Vai trò PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

tỉnh

1.1.3.1. Góp phần cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ

và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh

Cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có trách nhiệm “PBGDPL

về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”, lại là cơ quan

hiểu biết rất rõ các quy định pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý, là

chủ thể có rất nhiều thuận lợi về tổ chức bộ máy, kinh phí để tổ chức thực

hiện công tác này so với các chủ thể khác như các tổ chức Đảng, Đoàn thể...

nên có vai trò cung cấp, cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật thuộc phạm vi

quản lý nhà nước của cơ quan mình cho cán bộ và nhân dân, trong đó, chú

trọng trước hết là việc cập nhật những kiến thức pháp luật mới được ban hành

để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển

kinh tế -xã hội mới được các cơ quan Trung ương ban hành cho đội ngũ cán

bộ. công chức thuộc phạm vi quản lý để từ đó giúp họ nắm vững, hiểu rõ các

quy định này để tổ chức triển khai thực hiện, đưa pháp luật đi vào cuộc sống.

Đồng thời, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có vai trò, trách nhiệm

trong việc đảm bảo quyền được thông tin về pháp luật của nhân dân đối với

các lĩnh vực quản lý nên có vai trò P G PL cho các tầng lớp nhân dân các

kiến thức pháp luật liên quan đến đời sống hàng ngày nhằm giúp họ hiểu biết,

thực hiện theo đúng các quy định pháp luật.

Thông qua hoạt động P G PL sẽ làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ

thống kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Mục đích này đặc biệt

quan trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật

15

của công dân còn thấp, còn chịu tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ,

nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, hoạt

động PBGDPL chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông

lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật, dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối

với Đảng và Nhà nước.

1.1.3.2. Góp phần xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin của cán bộ

và nhân dân trên địa bàn tỉnh đối với pháp luật

Pháp luật chỉ có thể được cán bộ và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh

và thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc,

quy định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ

các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật

một cách tự giác mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà

nước. Từ vai trò cung cấp thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết

pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, PBGDPL góp phần xây dựng, củng cố

niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật.

Để hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp

luật thì cần giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và tình cảm

không khoan nhượng đối với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Việc xây

dựng, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật càng có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch vẫn

đang thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa các dân

tộc, tôn giáo ở địa phương.

1.1.3.3. Góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ,

nhân dân trên địa bàn tỉnh

Sự hiểu biết pháp luật, nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò xã hội của

16

pháp luật, nắm bắt được các quyền con người, quyền công dân... sẽ là cơ sở,

nền tảng để cán bộ, nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh thêm tin tưởng vào chính

sách, pháp luật của Nhà nước, sự quản lý, điều hành của các cấp chính quyền

địa phương. Hơn thế nữa, có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở một trình độ nhất

định, có niềm tin đối với pháp luật, cán bộ, nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh mới

có ý thức tự đánh giá, đối chiếu hành vi của mình với các nguyên tắc, quy

định của pháp luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội; tự mình có thể tiếp

cận hoặc bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hiệu quả, phù

hợp với các nguyên tắc luật định, nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.

Hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh hiệu quả giúp củng cố niềm tin sâu sắc của cán bộ, nhân dân trên địa bàn

tỉnh vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp

luật là những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực.

Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động

Hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là

góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp

luật hợp pháp cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh.

1.2. Chủ thể, đối tƣợng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh

1.2.1 Chủ thể PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

tỉnh.

Theo quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP, chủ thể PBGDPL của cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh, bao gồm 19 cơ quan chuyên môn: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp,

Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Sở Giao thông - Vận tải, Sở Xây dựng, Sở

Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động,

17

Thương binh và Xã hội (LĐ,T &XH), Sở Văn hóa, Thể Thao và u lịch

(VH,TT& L), Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế,

Thanh tra tỉnh, Văn phòng U N tỉnh; là cán bộ, công chức của 19 cơ quan

này làm nhiệm vụ P G PL [2].Trong đó, Sở Tư pháp có chức năng là cơ

quan “đầu mối” giúp U N cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác P G PL

trên địa bàn cấp tỉnh. Lợi thế của các cơ quan này là luôn có trong tay các loại

thông tin, tài liệu, văn bản QPPL, có đội ngũ cán bộ, công chức đã được đào

tạo bài bản, có kiến thức, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm trong thực

tiễn đời sống pháp lý của địa phương.

Như vậy, có thể hiểu, tại mỗi cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh thì các bộ phận chuyên môn đều có trách nhiệm thực hiện công tác

PBGDPL thuộc lĩnh vực mình phụ trách, tuy nhiên, để thiết lập bộ máy thực

hiện có hiệu quả công tác này, tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày

04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ

chức bộ máy của tổ chức pháp chế thì tổ chức/cán bộ pháp chế có chức năng,

nhiệm vụ là làm “đầu mối” tham mưu thực hiện các công tác P G PL và các

công tác khác như: xây dựng văn bản QPPL, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm

soát thủ tục hành chính....

ên cạnh đó, để chuẩn hóa điều kiện, nâng cao trình độ cho đội ngũ

này, Luật P G PL đã quy định về tiêu chuẩn của người làm công tác

P G PL đó là áo cáo viên pháp luật. Theo đó “ áo cáo viên pháp luật là

cán bộ, công chức, viên chức và sỹ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân

được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận để kiêm nhiệm thực

hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. áo cáo viên pháp luật phải có

đủ các tiêu chuẩn sau: a) Có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững

vàng, có uy tín trong công tác;b) Có khả năng truyền đạt;c) Có bằng tốt

nghiệp đại học luật và thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật ít nhất là 02

18

năm; trường hợp không có bằng tốt nghiệp đại học luật, nhưng có bằng tốt

nghiệp đại học khác thì phải có thời gian công tác liên quan đến pháp luật ít

nhất là 03 năm.” [3]

Mặt khác, để tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan

đoàn thể thuộc hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện công tác

P G PL, Điều 7 Luật P G PL đã quy định về việc ban hành cơ chế thành

lập Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp tỉnh để làm cơ quan

tư vấn, tham mưu cho U N cấp tỉnh triển khai công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật và huy động nguồn lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,

cụ thể hóa quy định này, Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về thành phần của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật

ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh, trong đó Cơ

quan thường trực Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh là Sở Tư pháp.

Tuy nhiên, chủ thể PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND

cấp tỉnh có nhược điểm là chủ thể không chuyên nghiệp là những người có

chức năng, nhiệm vụ chính không phải là PBGDPL, mà thông qua hoạt động

chuyên môn, nghiệp vụ của mình hoặc làm việc kiêm nhiệm để thực hiện

nhiệm vụ P G PL.

1.2.2 Đối tƣợng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND

cấp tỉnh

Đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh ở

đây chính là cán bộ và nhân dân đang sinh sống, lao động, làm việc trên địa

bàn cấp tỉnh. o đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND

cấp tỉnh là rất rộng nên nhu cầu tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật của

họ rất đa dạng tùy thuộc vào địa bàn cư trú, nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề

nghiệp, vị thế xã hội trong cộng đồng, mục tiêu tiếp thu kiến thức pháp luật...

19

Chính vì vậy, khi tiến hành P G PL, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

tỉnh cần phải chú ý phân loại đối tượng theo những tiêu chí cụ thể nhằm đảm

bảo chất lượng và hiệu quả của hoạt động này. Cụ thể:

Thứ nhất, theo địa bàn cư trú, cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh

bao gồm những người đang sinh sống, làm việc ở các đô thị (thành phố, thị

xã, các thị trấn thuộc huyện) và những người đang sinh sống, làm việc ở các

vùng nông thôn (buôn, làng). o những khác biệt xã hội giữa nông thôn và đô

thị nên nhu cầu về thông tin, kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân ở

mỗi nơi cũng khác nhau; bởi vậy, các chủ thể cần lưu ý phân loại đối tượng

theo địa bàn cư trú khi PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh.

Thứ hai, theo nhóm tuổi, cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh gồm

những người thuộc các nhóm lứa tuổi khác nhau, như nhóm trẻ em (học sinh

tiểu học), nhóm thiếu niên (học sinh trung học cơ sở), nhóm thanh niên (học

sinh trung học phổ thông và đoàn viên thanh niên đang lao động, sinh hoạt tại

các địa phương), nhóm trung niên và nhóm người cao tuổi. Mỗi nhóm lứa tuổi

trên đây đều có những nét đặc trưng riêng về tâm lý, nhận thức, hiểu biết,

kinh nghiệm thực tế xã hội, nhu cầu hiểu biết pháp luật... Vì vậy, khi triển

khai P G PL trên địa bàn cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh phải có sự chuẩn bị nghiêm túc, khoa học về mục tiêu, nội dung, phương

pháp và hình thức tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật sao cho phù hợp với

từng nhóm lứa tuổi.

Thứ ba, theo hoạt động nghề nghiệp, cán bộ và nhân dân trên địa bàn

cấp tỉnh bao gồm những người lao động đang làm các công việc, nghề nghiệp

khác nhau: làm việc trong các cơ quan nhà nước; thuần túy làm nông nghiệp

(trồng lúa, làm rẫy, nương, hoa màu, chăn nuôi...); kinh doanh, buôn bán

nhỏ... Chắc chắn là những người làm công việc khác nhau có nhận thức pháp

luật, vốn kiến thức pháp luật và nhu cầu hiểu biết pháp luật cũng rất khác

20

nhau. Điều đó đòi hỏi cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh phải tính

đến hoạt động nghề nghiệp của cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh trong

quá trình PBGDPL.

Thứ tư, theo mục tiêu, nhu cầu tiếp thu kiến thức pháp luật, có thể phân

chia cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh thành các nhóm để tổ chức, thực

hiện phổ biến pháp luật: học để hiểu biết pháp luật, học để vận dụng pháp luật

vào thực tiễn cuộc sống, học để phục vụ công tác chuyên môn, học để nâng

cao trình độ kiến thức pháp luật...

1.3 Nội dung, hình thức, phƣơng pháp PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh

1.3.1. Nội dung PBGDPL

Điều 10 Luật P G PL quy định nội dung P G PL như sau: Quy định

của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của

pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng

giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc

phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền

hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy

phạm pháp luật mới được ban hành. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế. Ý thức tôn

trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp

hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.[3]

Cụ thể hơn, trên địa bàn cấp tỉnh, nội dung PBGDPL cho cán bộ và

nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh là những văn bản QPPL do Nhà nước ban hành

và những văn bản pháp quy do các cấp chính quyền địa phương ban hành mà

các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh cần truyền đạt, trang bị cho

cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cho

từng đối tượng, giúp họ có được những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp

21

luật; trên cơ sở đó, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, củng cố niềm tin

đối với pháp luật và hình thành lối sống theo pháp luật, cụ thể:

Nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh gồm

hệ thống các văn bản QPPL của Nhà nước và các văn bản pháp quy của các

cấp chính quyền địa phương, bao gồm:

Thứ nhất, nhìn trên phương diện hệ thống các văn bản QPPL do Nhà

nước ban hành bao gồm các bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, các loại văn

bản QPPL khác, đang có giá trị và hiệu lực thực thi, như Hiến pháp, ộ luật

ân sự, ộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật ình đẳng giới, Luật Khiếu nại, Luật tố

cáo, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Thanh niên, Luật Giao thông đường bộ,

Luật ảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn; pháp luật về bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe; pháp luật về

phòng chống tệ nạn xã hội; các chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo...

Các văn bản QPPL kể trên đều là những lĩnh vực pháp luật quan trọng, gần

gũi trong đời sống xã hội nói chung, trong đời sống của cán bộ và nhân dân

trên địa bàn cấp tỉnh nói riêng; vì thế, chúng phải là những vấn đề cốt lõi

trong nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh.[3]

Thứ hai, nhìn trên phương diện các văn bản QPPL dưới luật do các cấp

chính quyền cấp tỉnh ban hành, nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân

trên địa bàn cấp tỉnh bao gồm các nghị quyết của HĐN các cấp, các quyết

định của U N các cấp; đặc biệt là những văn bản có liên quan trực tiếp đến

đời sống, lao động, sinh hoạt của cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh.

Thứ ba, một trong những nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân

trên địa bàn cấp tỉnh là thực tiễn đời sống pháp luật trên địa bàn từng tỉnh.

Thực tiễn đời sống pháp luật ở cấp tỉnh bao gồm các vấn đề: kết quả triển

khai PBGDPL; kết quả thực hiện pháp luật; những gương sáng điển hình, tấm

22

gương “người tốt, việc tốt” trong thực hiện pháp luật; tình hình tội phạm trên

địa bàn; các âm mưu, thủ đoạn, phương thức phạm tội mới xuất hiện; kết quả

hoạt động xét xử, bảo vệ pháp luật của các cơ quan chức năng ở cấp tỉnh...

Việc PBGDPL những nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật ở

cấp tỉnh có ý nghĩa rất quan trọng: một mặt, động viên, khuyến khích, cổ vũ

cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh học tập, làm theo những tấm gương

sáng trong thực hiện pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong

cộng đồng; mặt khác, nâng cao cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn phạm

tội, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm.

Ngoài ra, để thực hiện chính sách ưu tiên, quan tâm đến các đối tượng

yếu thế trong xã hội, đồng thời, đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung P G PL

với đối tượng P G PL, Luật P G PL đã quy định cụ thể về nội dung

P G PL cho một số đối tượng đặc thù tại Mục 2 Chương II của Luật có liên

quan đến PBG PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh như

sau :

Một là, nội dung PBGDPL cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền

núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế

- xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân: Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho

người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới,

ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư

dân căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng mà tập trung vào các quy định

pháp luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh,

quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, khoáng sản

và các lĩnh vực pháp luật khác gắn liền với đời sống, sản xuất của người dân.

Hai là, nội dung PBGDPL cho người lao động trong các doanh nghiệp:

Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp

tập trung vào quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động,

23

pháp luật về việc làm, an toàn vệ sinh lao động, chế độ tiền lương, bảo hiểm

xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, pháp luật công đoàn và các quy

định khác của pháp luật về lao động.

Ba là, nội dung PBGDPL cho nạn nhân bạo lực gia đình: Việc phổ biến,

giáo dục pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình tập trung vào các quy định

của pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực

gia đình, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc hỗ trợ, bảo vệ nạn

nhân bạo lực gia đình.

Bốn là, nội dung PBGDPL cho người khuyết tật: Việc phổ biến, giáo dục

pháp luật cho người khuyết tật tập trung vào các quy định pháp luật về quyền

của người khuyết tật; chế độ, chính sách của Nhà nước, trách nhiệm của Nhà

nước và xã hội trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ người khuyết tật và các quy

định khác của pháp luật liên quan đến người khuyết tật.

Năm là, nội dung PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa

vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa

vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc,

tùy theo từng đối tượng mà tập trung vào các quy định pháp luật về quyền và

nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi hành án hình sự, xử lý vi

phạm hành chính; pháp luật về phòng, chống ma túy và các tệ nạn xã hội.

Sáu là, nội dung PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo: Việc phổ

biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo tập trung vào các quy

định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi

hành án hình sự, xử lý vi phạm hành chính.

Bảy là, nội dung giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ

24

thống giáo dục quốc dân: Nội dung giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo

dục của hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng phù hợp với từng cấp học

và trình độ đào tạo, phù hợp với mục tiêu giáo dục, ngành nghề đào tạo, bảo

đảm tính thống nhất, đồng bộ, phổ thông, cơ bản, thiết thực và có hệ thống.

Nội dung giáo dục pháp luật đối với từng cấp học và trình độ đào tạo của hệ

thống giáo dục quốc dân được quy định như sau: Nội dung giáo dục pháp luật

trong chương trình giáo dục mầm non và tiểu học được lồng ghép thông qua

nội dung giáo dục đạo đức, hình thành thói quen phù hợp với chuẩn mực đạo

đức của xã hội, ý thức kỷ luật, tinh thần đoàn kết, tinh thần tự giác, tạo tiền đề

hình thành ý thức pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật trong chương trình

giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông trang bị kiến thức ban đầu về

quyền, nghĩa vụ của công dân, rèn luyện thói quen, ý thức tôn trọng và chấp

hành pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật trong chương trình giáo dục nghề

nghiệp trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, kiến thức pháp

luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo.[3]

Nội dung P G PL và đối tượng P G PL của các cơ quan chuyên

môn thuộc U N cấp tỉnh có mối liên hệ mật thiết với nhau, nghĩa là phải

căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu tiếp nhận kiến thức pháp luật của từng nhóm đối

tượng để lựa chọn các nội dung P G PL phù hợp.

1.3.2. Hình thức PBGDPL

Hình thức P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh về

thực chất là những cách thức mà thông qua đó, cơ quan chuyên môn thuộc

U N cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, hình thức PBGDPL

của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là các cách thức mà thông qua

đó cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh chuyển giao nội dung phổ biến

pháp luật và đạt mục tiêu phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn

25

cấp tỉnh.

Điều 11 Luật P G PL đã quy định cụ thể về các hình thức P G PL

mà các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có thể áp dụng cho cán bộ

và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh, căn cứ vào từng đối tượng cụ thể như: (1)

Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp

thông tin, tài liệu pháp luật. (2)Thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên

Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết

tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư. (3)Tổ chức thi tìm hiểu

pháp luật.(4)Thông qua công tác xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các

cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa

giải ở cơ sở. (5) Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của

tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế

văn hóa khác ở cơ sở. (6) Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong

các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. (7) Các hình thức phổ

biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.[3]

Đặc biệt, theo quy định của Luật P G PL, kể từ năm 2013, Luật

P G PL đã đưa ra một hình thức P G PL mới đó là quy định về việc tổ

chức Ngày Pháp luật Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 8 Luật

P G PL quy định: Ngày 09 tháng 11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày Pháp luật được tổ chức nhằm tôn

vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi

người trong xã hội [3] .

Tương tự như đối với vấn đề nội dung P G PL, để đảm bảo sự phù

26

hợp giữa hình thức P G PL với một số đối tượng P G PL đặc thù, Luật

P G PL đã quy định cụ thể về hình thức P G PL cho một số đối tượng đặc

thù tại Mục 2 Chương II của Luật có liên quan đến P G PL của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh như sau [3]:

Một là, hình thức PBGDPL cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số,

miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân: Hoạt động phổ biến, giáo dục

pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa,

biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó

khăn và ngư dân được chú trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ

giúp pháp lý lưu động; tư vấn pháp luật, cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu

pháp luật bằng tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc thiểu số; lồng ghép phổ

biến, giáo dục pháp luật trong các hoạt động văn hóa truyền thống.

Hai là, hình thức PBGDPL cho người lao động trong các doanh nghiệp:

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh

nghiệp được chú trọng thực hiện thông qua việc phổ biến trực tiếp, niêm yết

các quy định pháp luật tại nơi làm việc, tủ sách pháp luật, giỏ sách pháp luật,

tờ gấp, lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ.

Ba là, hình thức PBGDPL cho nạn nhân bạo lực gia đình: Hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình được chú trọng

thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý lưu động, tư vấn pháp

luật miễn phí, phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp tại nơi tạm lánh, cơ sở

bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.

Bốn là, hình thức PBGDPL cho người khuyết tật: Phổ biến, giáo dục

pháp luật cho người khuyết tật được chú trọng thực hiện bằng hình thức,

phương thức, phương tiện, tài liệu phù hợp với từng loại đối tượng người

27

khuyết tật.

Năm là, hình thức PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa

vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào

trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được

chú trọng thực hiện thông qua chương trình học pháp luật, giáo dục công dân

và lồng ghép trong chương trình học văn hoá, học nghề, giáo dục tái hòa nhập

cộng đồng; phổ biến thông tin thời sự, chính sách; sinh hoạt câu lạc bộ, nhóm

đồng đẳng và các hình thức phù hợp khác.

Sáu là, hình thức PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo: Phổ biến,

giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo được chú trọng thực

hiện thông qua hình thức phổ biến pháp luật trực tiếp; sinh hoạt câu lạc bộ và

các hình thức phù hợp khác.

Bảy là, hình thức giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ

thống giáo dục quốc dân: Giáo dục chính khóa thông qua việc lồng ghép

trong các hoạt động giáo dục ở cấp mầm non; môn học đạo đức ở cấp tiểu

học; môn học giáo dục công dân ở cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông;

môn học pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành tại cơ sở

giáo dục nghề nghiệp, các môn học trong cơ sở giáo dục khác của hệ thống

giáo dục quốc dân. Giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo dục ngoài giờ

lên lớp.

Hình thức, nội dung P G PL và đối tượng P G PL của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có mối liên hệ mật thiết với nhau, nghĩa là

phải căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu tiếp nhận kiến thức pháp luật của từng

28

nhóm đối tượng để lựa chọn nội dung, hình thức P G PL phù hợp.

1.3.3 Phƣơng pháp PBGDPL

Phương pháp P G PL là hững phương thức, cách thức truyền đạt nội

dung pháp luật tới các thành viên trong xã hội.

Tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân

trên địa bàn cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có thể sử

dụng phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng sau: Phương pháp tuyên

truyền, giải thích pháp luật; Phương pháp thông tin pháp luật; Phương pháp

nêu gương: “người tốt, việc tốt” điển hình về tôn trọng, thực hiện, bảo vệ

pháp luật trong phạm vi đơn vị cấp tỉnh. Phương pháp nói chuyện, trao đổi về

pháp luật. Phương pháp tạo dư luận xã hội để phổ biến pháp luật; Phương

pháp tạo tình huống PBGDPL; Phương pháp rèn luyện, thực hành pháp luật.

1.4 Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động PBGDPL của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.

1.4.1 Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk

Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động

P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk; là nền tảng,

định hướng, cơ sở bảo đảm cho việc triển khai thực hiện các hoạt động

P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

Nhìn chung, ở tỉnh Đắk Lắk, các nhà lãnh đạo chính trị có sự thống nhất,

quyết tâm cao trong công tác PBGDPL; đời sống kinh tế - xã hội ngày càng

được quan tâm và nâng cao. Đó là những thuận lợi trong việc tham mưu triển

khai các nội dung cần thiết của hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn.

Tuy nhiên, tỉnh Đắk Lắk với đặc thù là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống (theo

thống kê tới thời điểm 2009, tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc sinh sống). Dân số là

đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ sinh sống chiếm tỷ lệ cao (chiếm tỷ lệ 30%

dân số tỉnh Đắk Lắk); các thế lực phản động vẫn thường xuyên quấy phá, lôi

29

kéo những người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, hiểu biết còn hạn

chế để chống phá Đảng và Nhà nước ta. o đó, các nhà lãnh đạo của tỉnh

thường xuyên phải quan tâm giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh. Bên

cạnh đó, ý thức chính trị của các chủ thể tham gia PBGDPL vẫn chưa cao,

chưa tự giác, nên mức độ quan tâm, sâu sát các nội dung cụ thể về PBGDPL

của tỉnh nói chung vẫn còn hạn chế về số lượng, tần suất.

Ngoài ra, tỉnh Đắk Lắk là tỉnh miền núi, địa bàn đi lại còn khó khăn, các

hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh vẫn còn ít, các hoạt động kinh tế vẫn còn

nhỏ về quy mô, chưa đa dạng, phong phú. ên cạnh đó, đời sống của cán bộ,

công chức vẫn còn khó khăn, thu nhập eo hẹp cũng ảnh hưởng đến ý thức

pháp luật của họ, dẫn đến vẫn còn hiện tượng chưa thật sự chú tâm trong hoạt

động P G PL.

1.4.2 Yếu tố chủ thể của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

Đặc điểm cơ quan chuyên môn cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả

P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh Đắk Lắk có đặc điểm là tham mưu, giúp cơ quan có thẩm

quyền chung (U N tỉnh Đắk Lắk) quản lý về một ngành, lĩnh vực nhất định,

nên có sự thuận lợi nhất định trong thực hiện P G PL thuộc ngành, lĩnh vực

quản lý. Tuy nhiên, khối lượng công việc chuyên môn là tương đối nhiều, nên

người đứng đầu các cơ quan chuyên môn và cán bộ, công chức của các cơ

quan này thông thường ít quan tâm đến P G PL. ên cạnh đó, việc quyết

định các vấn đề quan trọng còn phụ thuộc nhiều vào cơ quan có thẩm quyền

chung, nên tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện P G PL của các cơ quan

này vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn còn phụ thuộc

nhiều vào cơ quan quản lý chuyên ngành cấp trên (các ộ, cơ quan ngang ộ)

trong việc triển khai nhiệm vụ chuyên môn và thành lập các phòng, ban

30

chuyên môn trực thuộc. Đây cũng là một trở ngại lớn trong việc tham mưu

thực hiện hiệu quả nhiệm vụ P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh Đắk Lắk trên thực tế.

Cán bộ, công chức là nguồn lực bảo đảm hoạt động PBGDPL được triển

khai, thực thi. Vai trò của cán bộ, công chức rất quan trọng và luôn được đặt ở

vị trí hàng đầu trong công tác Đảng và Nhà nước. Ở tỉnh Đắk Lắk, lực lượng

cán bộ, công chức liên quan đến PBGDPL bao gồm cán bộ pháp chế và cán

bộ, công chức của các bộ phận chuyên môn thuộc cấp sở trực tiếp tham mưu

thực hiện công tác P G PL. Nhìn một cách tổng quát, thì lực lượng này đã

thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Nhưng riêng trong hoạt động PBGDPL

những chủ thể này vẫn chưa thực sự chủ động, vẫn còn hiện tượng thờ ờ, né

tránh, đùn đẩy trách nhiệm, chưa thật sự thể hiện đúng trách nhiệm của người

cán bộ, công chức trong việc thực hiện hoạt động P G PL cho cán bộ và

nhân dân trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, năng lực của đội ngũ này cũng không

đồng đều; nhiều trường hợp được bố trí làm việc không đúng chuyên môn nên

không phát huy được sở trường của mình, từ đó ảnh hưởng chung đến hoạt

động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

1.4.3 Quy định của pháp luật về công tác PBGDPL

Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk là hệ thống các văn bản QPPL liên

quan đến hoạt động này. Hệ thống các văn bản QPPL chính là các QPPL cụ

thể được cơ quan có thẩm quyền ban hành. Mức độ hoàn thiện của hệ thống

các văn bản này chính là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả thực hiện

PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. ên cạnh

hệ thống các văn bản QPPL, ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia

PBGDPL có ảnh hưởng quan trọng để “biến” nội dung các văn bản QPPL

31

thành các hành động cụ thể. Ý thức pháp luật ở đây thể hiện năng lực nhận

thức các quy định của pháp luật, thái độ của họ đối với các QPPL, các hành vi

của thể của họ trong PBGDPL.

Chính vì vậy, cơ quan quản lý cần quan tâm đến yếu tố pháp luật thông

qua việc thường xuyên rà soát đánh giá các văn bản QPPL có liên quan để kịp

thời điều chỉnh cho phù hợp; thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, tập huấn về

chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thực hiện PBGDPL của các cơ

32

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh.

Tiểu kết Chƣơng 1

Tại Chương 1, tác giả đã khái quát được khái niệm, đặc điểm, vai trò về

PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh; chủ thể, đối tượng,

nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc

U N cấp tỉnh; đồng thời, có phân tích, làm rõ về hoạt động P G PL của

cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh. Theo đó, tác giả đã nhận định các

nội dung sau:

Một là, tác giả đã đưa ra khái niệm P G PL của cơ quan chuyên môn

thuộc U N cấp tỉnh là “hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định

do cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện bằng nhiều hình

thức, phương pháp nhằm tác động đến đối tượng được PBGDPL trên địa bàn

cấp tỉnh, giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình thành ở họ tri

thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù hợp với các

yêu cầu của pháp luật”.

Hai là, tác giả đã phân tích về đặc điểm, sự khác biệt của hoạt động

P G PL do các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh so với các chủ

thể khác. Theo đó, đã đưa ra các quy định pháp luật để khẳng định PBGDPL

là một hoạt động liên quan đến nội dung quản lý nhà nước của cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh, là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan

này đã được quy định rõ ràng tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ

quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh và các Thông tư hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này.

Tác giả đã đưa ra nhận định cơ quan chuyên môn cấp tỉnh có vai trò “nòng

cốt” trong việc triển khai thực hiện công tác P G PL trên địa bàn cấp tỉnh,

có vai trò quyết định ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác

P G PL trên địa bàn cấp tỉnh, là tiền đề đẩy mạnh hoạt động P G PL ở cấp

33

huyện và cấp xã trên địa bàn cấp tỉnh. Đồng thời, đã phân tích về vai trò mà

công tác P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh mang

lại cho các đối tượng tiếp nhận.

Ba là, tác giả đã đã đưa ra các cơ sở lý luận, quy định của pháp luật về

trách nhiệm làm chủ thể thực hiện P G PL của các cơ quan chuyên môn

thuộc U N cấp tỉnh, phân tích về cơ cấu, tổ chức của bộ máy làm nhiệm vụ

P G PL tại các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh; nội dung, hình

thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh,

đồng thời, phân tích về đối tượng tiếp nhận mà hoạt động P GDPL của các

cơ quan này phải hướng đến.

Bốn là, tác giả đã đưa ra các luận giải về các yếu tố ảnh hưởng đến

P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, bao gồm các

yếu tố: Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk; Yếu tố chủ thể của

các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk; Quy định của

pháp luật về công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

tỉnh Đắk Lắk.

Những luận giải tại Chương I là cơ sở quan trọng trong việc đi sâu

nghiên cứu về thực trạng PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc

34

U N tỉnh Đắk Lắk ở Chương 2.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA

CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND TỈNH ĐẮK LẮK

2.1 Thực trạng PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk

2.1.1 Bố trí bộ phận, cán bộ thực hiện công tác PBGDPL

U N tỉnh Đắk Lắk hiện có tất cả là 19 cơ quan chuyên môn được

thành lập theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy

nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu từ số liệu và thực tiễn hoạt động của 12 cơ quan

có số lượng công việc chuyên môn liên quan nhiều đến PBGDPL, gồm: Sở

Tư pháp; an ân tộc; Sở Nội vụ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở TN&MT; Sở

Công thương; Sở Xây dựng; Sở LĐ,T &XH; Sở VH,TT& L; Sở

NN,PT&NT; Sở GTVT; Sở Y tế.

Hiện nay, nhiệm vụ làm “đầu mối”, theo dõi, tham mưu thực hiện công

tác P G PL tại các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk được

giao cho tổ chức/cán bộ pháp chế kiêm nhiệm thực hiện (Theo quy định tại

Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế). Tình

hình tổ chức/cán bộ pháp chế của 12 cơ quan chuyên môn nêu trên được bố trí

như sau, cụ thể xem ảng 2.2.

Bảng 2.2. Tình hình bố trí bộ phận, cán bộ tham mưu thực hiện công tác

PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

Stt Cơ quan Phòng Pháp chế/Cán bộ pháp chế

Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật 1 Sở Tư pháp

2 an ân tộc tỉnh 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm

35

3 Sở Nội vụ 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở chuyên trách

4 Sở G &ĐT Phòng Pháp chế và công tác học sinh

5 Sở TN&MT 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm

6 Sở Công thương 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm

7 Sở Xây dựng 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm

8 Sở VH,TT& L Phòng Tổ chức - Pháp chế

9 Sở NN&PTNT 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm

10 Sở LĐ, T &XH 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm

11 Sở Giao thông vận tải Phòng Pháp chế - An toàn

12 Sở Y tế Phòng Thanh tra phụ trách công tác Pháp chế

Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk

Như vậy, đa số các cơ quan đều bố trí 01 cán bộ kiêm nhiệm để tham

mưu thực hiện công tác pháp chế, trong đó, có nhiệm vụ làm “đầu mối” tham

mưu thực hiện công tác P G PL; một số cơ quan giao cho các Phòng khác

phụ trách thêm công tác pháp chế (như Phòng Thanh tra, Phòng Tổ chức) và

đặc biệt không có cơ quan nào có Phòng Pháp chế chuyên trách riêng biệt.

Riêng Sở Tư pháp có Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật bố trí cán bộ chuyên

trách tham mưu thực hiện công tác PBGDPL. Đồng thời, nhiệm vụ P G PL

còn được giao cho các phòng, ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp trực thuộc

các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk và đội ngũ cán bộ, công

chức được Chủ tịch U N tỉnh Đắk Lắk công nhận làm áo cáo viên pháp

luật cấp tỉnh theo Bảng 2.3

Bảng 2.3. Số lượng Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh

Stt Cơ quan Số lƣợng Ghi chú

36

12 1 Sở Tư pháp

2 an ân tộc 01

3 Sở Nội vụ 02

4 Sở Giáo dục và Đào tạo 04

5 Sở Tài nguyên và Môi trường 02

6 Sở Công thương 04

7 Sở Xây dựng 03

8 Sở VH,TT& L 01

9 Sở LĐ, T &XH 02

10 Sở NN&PTNT 16

11 Sở Giao thông vận tải 02

12 Sở Y tế 02

Tổng cộng 51

Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk

Theo Báo cáo tổng kết công tác P G PL hàng năm của U N tỉnh

Đắk Lắk, nhìn chung, trong thời gian qua, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên

pháp luật của tỉnh được duy trì khá thường xuyên, tham gia đầy đủ các hội

nghị triển khai luật mới do U N tỉnh tổ chức, tham mưu triển khai có hiệu

quả công tác P G PL tại cơ quan, đơn vị mình, góp phần nâng cao nhận

thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang và các tầng

lớp nhân dân trong tỉnh.

Mặt khác, để tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan

đoàn thể thuộc hệ thống chính trị trong việc tham mưu cho U N cấp tỉnh

triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và huy động nguồn lực cho

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện quy định tại Điều 7 Luật

37

PBGDPL và Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

thành phần của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp tỉnh,

Quyết định 42/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết

định 27/2013/QĐ-TTg quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của

Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Tư pháp Đắk Lắk - Cơ

quan thường trực của Hội đồng đã tham mưu U N tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn

củng cố, kiện toàn Hội đồng của tỉnh bảo đảm đúng quy định của pháp luật

hiện hành. Theo đó, Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh Đắk Lắk được củng cố,

kiện toàn theo định kỳ hàng năm (gần đây nhất được kiện toàn tại Quyết định

số 53/QĐ-UBND ngày 8/1/2018 của UBND tỉnh), bảo đảm đúng, đầy đủ

thành phần theo Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg và Quyết định số

42/2017/QĐ-TTg. Hiện nay, Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh Đắk Lắk có

37 đồng chí do Phó Chủ tịch U N tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng, trong đó, có

19 đồng chí thành viên của Hội đồng là đại diện lãnh đạo của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, cụ thể theo Bảng 2.4 như sau:

Bảng 2.4. Số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

là thành viên Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh Đắk Lắk

Ghi Stt Cơ quan Số lƣợng Thành viên chú

Sở Công thương 1 01

Sở Giao thông vận tải 2 01

Sở Giáo dục và Đào tạo 3 01

Sở Ngoại vụ 4 01

Sở Nội vụ 5 01

Sở NN&PTNT 6 01

38

Sở Kế hoạch và Đầu tư 7 01

Sở Khoa học và Công nghệ 8 01

9 Sở LĐ, T &XH 01

10 Sở Tài chính 01

01 11 Sở Tài nguyên và Môi trường

12 Sở Thông tin và Truyền thông 01

13 Sở Tư pháp 02

14 Sở VH,TT& L 01

15 Sở Y tế 01

16 Sở Xây dựng 01

17 Thanh tra tỉnh 01

18 an ân tộc 01

Tổng cộng 19

Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk

Trong thời gian qua, Hội đồng của tỉnh đã thực hiện tốt chức năng tham

mưu U N tỉnh trong công tác P G PL, như: tham mưu ban hành đầy đủ

các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác P G PL nhằm hoàn

thiện thể chế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cấp, các ngành, địa phương

triển khai công tác này; kịp thời tư vấn, hướng dẫn các cấp, các ngành tổ chức

triển khai thực hiện nhiều hình thức, hoạt động P G PL đa dạng, phong phú,

phù hợp với đối tượng, địa bàn; tư vấn xác định các nội dung pháp luật trọng

tâm cần phổ biến, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc

phòng, an ninh của tỉnh; thường xuyên duy trì hoạt động phối hợp giữa các cơ

quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp; hỗ trợ các cơ quan, tổ chức đẩy mạnh công tác PBGDPL trong

39

cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và nhân dân. Với sự tham

gia tư vấn của Hội đồng các cấp, nhận thức của các cấp, các ngành và người

dân về vị trí, vai trò của công tác P G PL trong đời sống xã hội được nâng

lên; qua đó càng khẳng định rõ vị trí, vai trò của Hội đồng phối hợp

PBGDPL.

Như vậy, dưới góc độ tổ chức các bộ phận, bố trí cán bộ, thành lập cơ

quan làm nhiệm vụ thực hiện công tác P G PL của các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã được Sở Tư pháp Đắk Lắk - cơ quan tham mưu

cho U N tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác P G PL triển khai

thực hiện đầy đủ trên địa bàn tỉnh.

2.1.2 Tham mưu ban hành v n bản triển khai thực hiện công tác

PBGDPL

2.1.2.1 Tham mưu UBND tỉnh ban hành và chủ động ban hành văn bản

triển khai thực hiện công tác PBGDPL

Việc tham mưu ban hành văn bản triển khai thực hiện công tác

P G PL của U N tỉnh Đắk Lắk đã được Sở Tư pháp – cơ quan tham mưu

cho U N tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác P G PL phối hợp

với các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, các đơn vị có liên

quan tham mưu cho U N tỉnh ban hành đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các

cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, đơn vị, địa phương triển

khai thực hiện, gồm Kế hoạch P G PL cho cả giai đoạn và Kế hoạch

P G PL cho từng năm như: Kế hoạch thực hiện Quyết định số 409/QĐ-TTg

ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình P G PL

trên địa bàn tỉnh từ năm 2012 đến năm 2016 (ban hành kèm theo Quyết định

số 2464/QĐ-UBND ngày 26/10/2012 của UBND tỉnh Đắk Lắk), Kế hoạch

thực hiện Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính

phủ ban hành Chương trình P G PL trên địa bàn tỉnh từ năm 2017 đến năm

40

2021 (ban hành kèm theo Quyết định số 1622/QĐ-UBND ngày 30/6/2017 của

UBND tỉnh Đắk Lắk) và Kế hoạch P G PL theo từng năm từ 2015 đến

2019, gồm: Kế hoạch triển khai công tác P G PL năm 2015 (kèm theo

Quyết định số 3227/QĐ-U N ngày 31/12/2014 của U N tỉnh Đắk Lắk);

Kế hoạch triển khai công tác P G PL năm 2016 trên địa bàn tỉnh (ban hành

kèm theo Quyết định số 116/QĐ-U N ngày 12/01/2016); Kế hoạch triển

khai công tác P G PL năm 2017 trên địa bàn tỉnh (ban hành kèm theo Quyết

định số 3393/QĐ-UBND ngày 30/12/2016); Kế hoạch triển khai công tác

P G PL năm 2018 trên địa bàn tỉnh (ban hành tại Quyết định số 3664/QĐ-

U N ngày 29/12/2017 của U N tỉnh); Kế hoạch số 11462/KH-UBND

của U N tỉnh ngày 27/12/2018 về triển khai công tác P G PL năm 2019.

Ngoài ra, trong giai đoạn 2015-2019, các cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh Đắk Lắk đã tham mưu U N tỉnh ban hành các Kế hoạch triển khai các

Đề án P G PL về các lĩnh vực chuyên môn phụ trách cho các đối tượng đặc

thù, cụ thể xem ảng 2.5:

Bảng 2.5. Ban hành Kế hoạch triển khai các Đề án PBGDPL cho các

đối tượng đặc thù của tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015-2019

ST Cơ quan chủ trì Tên chƣơng trình/đề án T

Sở Nông nghiệp Kế hoạch triển khai Đề án “Tuyên truyền, phổ biến

1 và Phát triển pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân

nông thôn tộc thiểu số” trên địa bàn tỉnh”

2 Sở Giáo dục và Kế hoạch triển khai Đề án “Nâng cao chất lượng

Đào tạo công tác P G PL trong nhà trường” trên địa bàn

tỉnh”

Sở Lao động, Kế hoạch triển khai Đề án “Tuyên truyền, phổ biến

3 Thương binh và pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao

41

xã hội động trong các loại hình doanh nghiệp” trên địa bàn

tỉnh

Kế hoạch triển khai Đề án “P G PL cho đối tượng 4 Sở Tư pháp được trợ giúp pháp lý”

Nguồn: Báo cáo của UBND tỉnh Đắk Lắk

Tại các Kế hoạch do U N tỉnh ban hành Sở Tư pháp tham mưu U N

tỉnh đã giao trách nhiệm, nhiệm vụ thực hiện hoạt động P G PL cụ thể cho

các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, hướng dẫn xác định nội

dung pháp luật trọng tâm cần phổ biến và hướng dẫn, tổ chức triển khai phổ

biến các nội dung pháp luật như: tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ

biến nội dung Hiến pháp năm 2013, các luật, pháp lệnh, nghị định mới ban

hành thuộc phạm vi quản lý, các quy định pháp luật về cải cách hành chính,

thủ tục hành chính; hoạt động sản xuất, kinh doanh, quyền, lợi ích hợp pháp

của người dân, doanh nghiệp; cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh;

phòng, chống tham nhũng, lãng phí, khiếu nại, tố cáo; cải cách tư pháp, bảo

vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống cháy nổ, an toàn giao

thông đường bộ... và trên cơ sở các Kế hoạch của U N tỉnh, các cơ quan

chuyên môn ban hành Kế hoạch tại cơ quan mình để tổ chức thực hiện. Theo

áo cáo của U N tỉnh về công tác P G PL từ 2015-2019 hầu hết 100%

các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đều ban hành Kế hoạch

tại cơ quan mình. ên cạnh đó, Sở Tư pháp cũng đã tham mưu U N tỉnh

tích cực, kịp thời triển khai thực hiện tốt công tác xây dựng, hoàn thiện thể

chế pháp luật liên quan đến Luật P G PL bằng việc đã tham mưu trình

HĐN tỉnh ban hành Nghị quyết quy định mức chi thực hiện công tác

P G PL và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân trên địa bàn tỉnh (Nghị

quyết số 122/2014/NQ-HĐND ngày 18/7/2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk), tạo

42

cơ sở pháp lý để tổ chức triển khai thực hiện thuận lợi ở địa phương.

2.1.2.2 Tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện công tác

PBGDPL

Hàng năm, Sở Tư pháp đều tham mưu Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh

chỉ đạo, hướng dẫn, các Sở, ban, ngành, Hội đồng phối hợp P G PL các

huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, đồng bộ có hiệu

quả các nhiệm vụ công tác P G PL, như: đã tham mưu, giúp U N cùng

cấp ban hành Kế hoạch công tác P G PL hàng năm; xây dựng, ban hành các

văn bản hướng dẫn thực hiện công tác P G PL; kịp thời kiện toàn và nâng

cao chất lượng đội ngũ làm công tác P G PL; làm tốt công tác hướng dẫn

triển khai thực hiện các hoạt động P G PL ở địa phương, hướng dẫn tập

trung giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật được Quốc hội khóa XIII,

khóa XIV thông qua; tổ chức đẩy mạnh các đợt tuyên truyền về cơ sở đối với

các lĩnh vực đang gây bức xúc, được xã hội quan tâm như: an toàn thực phẩm;

giao thông đường bộ; thủ tục hành chính; đất đai, giải phóng mặt bằng, xây

dựng; bình đẳng giới, bạo lực gia đình; phòng, chống tham nhũng... với nhiều

hình thức, trong đó một trong các hình thức P G PL có tính hiệu quả thường

được các địa phương áp dụng là: tổ chức các Hội thi bằng hình thức sân khấu

hóa, các cuộc thi viết về tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền thông qua hệ thống

loa truyền thanh ở cơ sở, thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở....

Thực hiện sự chỉ đạo của U N tỉnh, hướng dẫn của Hội đồng tỉnh,

trong, các Sở, ban, ngành của tỉnh, Hội đồng cấp huyện đã tích cực giúp

U N cùng cấp ban hành Kế hoạch triển khai các hoạt động hưởng ứng

“Ngày Pháp luật Việt Nam hàng năm”, Cơ quan thường trực của Hội đồng đã

phát huy vai trò tham mưu, hướng dẫn trong tổ chức triển khai thực hiện bằng

việc ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện với nhiều hình

thức đa dạng, phong phú làm nổi bật được sự kiện này ở địa phương; tham

43

mưu, giúp U N cùng cấp tổ chức thành công các Hội thi, Cuộc thi ở cấp

huyện theo đúng yêu cầu Kế hoạch của U N tỉnh. Đặc biệt một số Cơ quan

thường trực của Hội đồng (như Phòng Tư pháp Krông Pắc, EaHleo, Krông

úk, uôn Hồ, Cư Kuin) đã quan tâm tư vấn U N cùng cấp tăng cường

công tác P G PL cho các nhóm đối tượng đặc thù, như: người thi hành án

phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cư trú trên địa bàn;

người dân ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,

vùng xa, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bằng

nhiều hình thức thiết thực...

Tóm lại, việc ban hành các văn bản triển khai công tác P G PL trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2015-2019 đã được Sở Tư pháp tham mưu cho

U N tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh Lắk tham mưu ban hành đầy đủ, trên

cơ sở đó, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk cũng đã chủ động

ban hành đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở pháp lý, điều kiện thuận lợi cho các cơ

quan, địa phương, cán bộ thuộc tỉnh triển khai thực hiện. Tuy nhiên, tác giả

cũng nhận thấy, các Kế hoạch P G PL, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác

P G PL mới chỉ đề cập đến nội dung, biện pháp, khối lượng hoạt động

P G PL, đề cập những định hướng chung cho tất cả các cơ quan, đơn vị, địa

phương mà chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, hình thức, phương pháp

cho từng nhóm đối tượng phù hợp với phạm vi quản lý của từng ngành, địa

phương dẫn đến việc tổ chức triển khai thực hiện ở các cơ quan, địa phương

còn thiếu đồng bộ, chưa định hướng các hoạt động P G PL phù hợp với

từng nhóm đối tượng.

2.1.3 Kết quả thực hiện các nội dung, hình thức, phương pháp

PBGDPL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Theo Báo cáo số 113/ C-UBND ngày 30/6/2016 của U N tỉnh Đắk

Lắk về sơ kết 03 năm thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và tổng kết

44

thực hiện Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính

phủ ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức

chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân giai đoạn 2012-2016 (sau đây gọi

tắt là Quyết định số 409/QĐ-TTg) và Báo cáo số 01/BC-HĐPH ngày

6/1/2016 của Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác

P G PL năm 2015; Báo cáo số 10 /BC-HĐPH ngày 23/1/2017 của Hội đồng

PHPBGDPL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác P G PL năm 2016, Báo cáo

số 02/BC-HĐPH ngày 22/2/2018 của Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về

kết quả công tác P G PL năm 2017; Báo cáo số 69/BC-HĐPH ngày

29/3/2019 của Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác

P G PL năm 2018, Báo cáo số 306/BC-HĐPH ngày 4/12/2019 của Hội

đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác P G PL năm 2019,

trong 5 năm qua, hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh Đắk Lắk đạt được một số kết quả như sau:

2.1.3.1 Thực hiện thông qua hình thức PBGDPL trực tiếp:

Qua số liệu báo cáo thống kê cho thấy, hình thức P G PL trực tiếp là

hình thức được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk thực hiện

thường xuyên, đều đặn là hình thức chiếm ưu thế và được chú trọng thực hiện

thông qua hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tại các hội

nghị, buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề, hội thảo, tọa đàm, lồng ghép tuyên

truyền nội dung pháp luật vào các hội nghị tập huấn chuyên môn, hội nghị

quán triệt Nghị quyết Trung ương, chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng Hồ

Chí Minh, sinh hoạt Chi bộ, họp giao ban… số lượng các cuộc P G PL và

số lượng đối tượng tham gia cụ thể theo ảng 2.6:(Xem phụ lục 1, Bảng 2.6)

Kết quả cho thấy, giai đoạn 2015-2019 là giai đoạn Quốc hội khóa XIII,

Quốc hội khóa XIV đã ban hành nhiều đạo luật mới nhằm hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam, do đó, Sở Tư pháp Đắk Lắk với chức năng là cơ

45

quan làm “đầu mối”, giúp U N tỉnh quản lý nhà nước về P G PL trên địa

bàn tỉnh đã bám sát các Kế hoạch P G PL của các cơ quan Trung ương

tham mưu U N tỉnh tổ chức 10 hội nghị (mỗi năm 2 hội nghị) phổ biến,

quán triệt luật mới được thông qua tại các kỳ họp của Quốc hội khóa XIII,

khóa XIV nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, tập trung

vào các văn bản QPPL liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước, các văn bản

liên quan đến quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân quyền con người, quyền

công dân như: ộ luật ân sự năm 2015, Luật ầu cử đại biểu Quốc hội và

đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Tố tụng hành chính

năm 2015, ộ luật Tố tụng ân sự năm 2015, ộ luật Tố tụng hình sự năm

2015, Luật Tạm giữ, tạm giam năm 2015, ộ luật Hình sự năm 2015...các luật

về tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ

chức Chính phủ năm 2014, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năn 2014,

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức tòa án dân dân

năm 2014.. cho 1.540 lượt đối tượng là đại biểu đại diện các sở, ban, ngành,

đoàn thể ở tỉnh, thành viên Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh, báo cáo viên

pháp luật cấp tỉnh... ên cạnh đó, với chức năng là cơ quan tham mưu cho

U N tỉnh quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp, Sở Tư pháp đã chủ động tổ

chức 15 hội nghị tập huấn chuyên đề về nghiệp vụ hệ thống hóa văn bản

QPPL, tập huấn công tác hộ tịch, nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, công tác đánh

giá tác động chính sách và công tác xử phạt vi phạm hành chính ...cho 1.560

đại biểu là cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện, cấp xã, các cơ quan, đơn

vị, địa phương. Đồng thời, tiến hành P G PL thông qua công tác tư vấn

pháp luật tại các đợt trợ giúp pháp lý lưu động, truyền thông về trợ giúp pháp

lý cho các tầng lớp nhân dân tại các thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số

thuộc các xã vùng sâu, vùng xa, có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và các

đối tượng thuộc hộ nghèo, người có công với cách mạng. Đã thực hiện 387

46

đợt trợ giúp pháp lý lưu động với hơn 2,560 vụ việc tư vấn pháp luật miễn

phí cho 2,560 lượt đối tượng được thụ hưởng; đồng thời, đã kết hợp tuyên

truyền pháp luật cho hơn 9.500 lượt người tham dự về các lĩnh vực pháp luật:

đất đai, phòng chống tội phạm, xử lý vi phạm hành chính, phòng chống ma

túy, hình sự và dân sự, quản lý hộ tịch và hộ khẩu, an toàn giao thông, các

chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo, người có công với

cách mạng và đồng bào dân tộc thiểu số...

Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức 337 hội nghị phổ biến

pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho 409.131 lượt đối tượng là

người lao động; giáo viên, học sinh các trường trung cấp, trung tâm giáo dục,

công chức, công tác viên làm công tác trẻ em, cán bộ cấp xã, người dân trên

địa bàn tỉnh về các nội dung như: các chính sách bảo hiểm thất nghiệp; các

văn bản pháp luật liên quan đến giáo dục nghề nghiệp; Luật Trẻ em năm

2016; Pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội; chính sách, quy định về giáo

dục nghề nghiệp; các quy định của Pháp lệnh ân số, Luật ình đẳng giới,

Luật Phòng chống bạo lực gia đình… Sở Nội vụ đã tổ chức tổ chức 43 hội

nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho 4.673 lượt đối

tượng là cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo ở cơ sở, chức sắc tôn giáo,

cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện, cấp xã về các nội dung như Luật Tín

ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn; pháp luật về cán bộ, công chức;

pháp luật về viên chức… Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức

932 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, hội nghị

tuyên tuyền pháp luật cho 32.827 lượt đối tượng là cán bộ, công chức, viên

chức của Sở; công chức, viên chức kiểm lâm; công chức, viên chức của chi

cục Thú y; cán bộ làm công tác thủy lợi; tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh về

các lĩnh vực như: Các luật mới được thông qua tại các kỳ họp Quốc hội khóa

XIV; Luật Lâm Nghiệp, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp

47

luật về quản lý, phát triển, bảo vệ rừng; Luật Thú y, Luật Xử lý vi phạm hành

chính và các văn bản về chăn nuôi và thú y; Luật Thủy sản; Các chính sách,

quy định pháp luật về bảo tồn voi, động vật hoang dã, về bảo vệ và phát triển

rừng; Các văn bản pháp luật mới trong lĩnh vực kinh doanh thuốc bảo vệ thực

vật; Luật Thủy lợi và các văn bản hướng dẫn liên quan… Sở Tài nguyên và

Môi trường đã tổ chức 45 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến

thức pháp luật cho 2,879 lượt đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức của

nghành; công chức địa chính cấp xã về các lĩnh vực như: pháp luật về đất đai,

các quy định của ộ luật ân sự về thừa kế, quyền sở hữu; kiến thức pháp

luật về quản lý tài nguyên và môi trường… Sở Giao thông và Vận tải đã tổ

chức 872 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho

83.878 lượt đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, nhân

dân về nội dung là các luật mới được thông qua tại kỳ họp thứ 3, 4, 5 Quốc

hội khóa XIV; các văn bản pháp luật mới về giao thông, vận tải… Ban Dân

tộc tỉnh đã tổ chức 54 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho 4.168 lượt đối tượng là cán bộ, nhân dân tại các xã khó khăn,

biên giới; hộ đồng bào dân tộc thiểu số; học sinh các trường dân tộc nội trú

với nội dung về những quy định chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho đồng bào dân

tộc, pháp luật hôn nhân và gia đình; tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Sở Y tế

đã tổ chức 11 lớp hội nghị với hơn 400 lượt người tham gia để tuyên truyền

phổ biến các văn bản QPPL liên quan đến lĩnh vực vệ sinh ATTP cho các cơ

sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, cơ sở SXK dịch vụ ăn uống trên địa bàn

tỉnh năm 2016. Sở Giao thông – Vận tải đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến

pháp luật liên quan đến lĩnh vực an toàn giao thông cho doanh nghiệp, HTX

vận tải, các cơ sở đào tạo, sát hạch lái xe cơ giới đường bộ, các Trung tâm

đăng kiểm xe cơ giới…

Từ các kết quả trên cho thấy, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh

48

Đắk Lắk đã thường xuyên sử dụng hình thức P G PL trực tiếp để tuyên

truyền, phổ biến, các nội dung pháp luật mới ban hành, tập huấn chuyên môn,

nghiệp vụ về các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý cho đội ngũ cán

bộ, công chức của cơ quan mình, ngành mình quản lý góp phần cập nhật các

kiến thức pháp luật, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, đồng

thời, thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các lĩnh vực pháp luật liên quan

mật thiết đến đời sống nhân dân ở cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội

của tỉnh Đắk Lắk cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thấy nội dung phổ biến còn dàn trải theo

chiều rộng, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực, bám sát

nhu cầu xã hội, có trọng tâm, trọng điểm, mới làm tốt việc phổ biến, tập huấn

cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức mà còn ít tổ chức đến các tầng lớp

nhân dân ở cơ sở do đặc thù là các cơ quan thuộc cấp tỉnh chỉ thực hiện chức

năng tuyên tuyền cho đội ngũ cán bộ của cơ quan mình, các bộ, công chức

cấp huyện và chỉ thực hiện phổ biến cho các tầng lớp nhân dân ở cơ sở trong

một số hội nghị có đề án và kinh phí riêng. Mặt khác, việc tổ chức P G PL

thông qua hình thức này có một số hạn chế là đòi hỏi kinh phí tổ chức lớn,

chuẩn bị công phu, khó tập hợp được nhân dân tham gia đầy đủ.

2.1.3.2 Thông qua việc tổ chức các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật

Là hình thức vẫn được duy trì thường xuyên do có ưu điểm là thu hút

được đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia. Theo kết quả tổng hợp từ các

báo cáo công tác PBGDPL của tỉnh Đắk Lắk cho thấy, trong 5 năm qua, Sở

Tư pháp đã tham mưu cho U N tỉnh tổ chức được 5 cuộc thi, hội thi tìm

hiểu pháp luật, cụ thể năm 2015, tổ chức Cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thu hút được 90.669 bài dự thi.

Kết quả đạt được của cuộc thi đã tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần phổ

biến sâu rộng tinh thần và nội dung Hiến pháp đến cán bộ, công chức, viên

49

chức, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh, nâng cao

hiểu biết, ý thức tôn trọng, chấp hành và bảo vệ Hiến pháp. Năm 2016, tham

mưu tổ chức Hội thi “Chủ tịch và Phó Chủ tịch U N cấp xã với pháp luật

năm 2016” thu hút được 450 thí sinh và hơn 1.600 lượt cán bộ và nhân dân

tham dự, qua đó, giúp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật trên các lĩnh

vực liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền

cấp xã; kỹ năng giải quyết, xử lý các tình huống phát sinh trong công tác quản

lý nhà nước ở cấp cơ sở cho đội ngũ Chủ tịch, Phó Chủ tịch U N cấp xã

trên địa bàn toàn tỉnh trong nhiệm kỳ mới, đồng thời, qua đó tuyên truyền,

phổ biết đến các tầng lớp nhân dân ở cấp xã các kiến thức pháp luật về các

lĩnh vực như: xử phạt vi phạm hành chính, đất đai, hôn nhân và gia đình, hộ

tịch…đến các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. Năm 2017, tham mưu tổ chức cuộc

thi viết “Tìm hiểu ộ luật ân sự năm 2015” nhận được một số lượng bài khá

lớn: 101.930 bài dự thi là cán cán bộ và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn

tỉnh, góp phần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung, tinh thần và ý nghĩa

của ộ luật này đến các tầng lớp nhân dân, đưa ộ luật từng bước đi vào thực

tiễn cuộc sống. Năm 2018, tham mưu tổ chức Hội thi “Hòa giải viên giỏi”

năm 2018, thu hút tổng số 3.242 lượt hòa giải viên tham gia cùng với hơn

6.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân trên địa bàn tỉnh quan

tâm, theo dõi, cổ vũ, qua đó, đã góp phần tuyên truyền, phổ biến những nội

dung cơ bản của pháp luật hòa giải ở cơ sở, pháp luật hôn nhân và gia đình,

pháp luật về dân sự, hộ tịch, đất đai...pháp luật liên quan mật thiết đến đời sống

nhân dân ở cơ sở, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, hòa giải những mâu

thuẫn phát sinh trong đời sống hàng ngày, hạn chế những tranh chấp phải giải

quyết tại các cơ quan tố tụng. Năm 2019, tham mưu tổ chức Cuộc thi viết

“Tìm hiểu ộ luật Hình sự năm 2015” nhằm tuyên truyền, phổ biến sâu rộng

trong học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang,

50

người lao động và Nhân dân trên địa bàn tỉnh về những nội dung cơ bản của

ộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn

bản hướng dẫn có liên quan nhận được sự quan tâm của đông đảo của cán bộ

và nhân dân trên địa bàn tỉnh với số lượng bài tham gia dự thi khá lớn là

105.766 bài dự thi.

Bên cạnh Sở Tư pháp, từ năm 2015 đến 2019, các cơ quan chuyên môn

của U N tỉnh như Sở Giao thông Vận tải, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài

nguyên và Môi trường đã phối hợp với các tổ chức Đoàn thể như: Tỉnh Đoàn

TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh… tổ chức được 18 cuộc

thi/hội thi tìm hiểu pháp luật về các lĩnh vực dân sự, hình sự, hôn nhân và gia

đình, phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, an toàn giao thông, pháp luật với

học đường…, thu hút hơn 30.292 lượt cán bộ, công chức, viên chức và nhân

dân trên địa bàn tỉnh tham gia, tiêu biểu như: hội thi sân khấu hóa tuyên

truyền về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội khối các trường THPT (do

Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh tổ chức);

Cuộc thi viết tìm hiểu pháp luật về đất đai và bảo vệ tài nguyên rừng (do Sở

Tài Nguyên và Môi trường tỉnh tổ chức). Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch tổ

chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ, các hội thi, hội diễn về chủ

đề gia đình; tổ chức thành công Hội thi “Câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh

phúc tỉnh Đắk Lắk” năm 2016. Sở Giao thông – Vận tải đã tổ chức phối hợp

với an An toàn giao thông, Công đoàn ngành và Công đoàn cơ sở tổ chức

Hội thi lái xe an toàn.

Có thể nói, các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật do các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh tổ chức hoặc tham mưu tổ chức trong các

năm qua là một hình thức P G PL rất sinh động, tính tương tác giữa các

thí sinh và cổ động viên cao, là kênh thông tin hữu hiệu để phổ biến, tuyên

truyền sâu rộng các quy định pháp luật, tạo được sức lan tỏa lớn trong đời

51

sống xã hội, qua đó, tuyên truyền sâu rộng nhiều nội dung pháp luật vốn

khô khan đến với người xem, giúp họ dễ nhớ, từ đó nâng cao hiệu quả

tuyên truyền.

Tuy nhiên, chỉ có một số ít các cơ quan tổ chức được hình thức này

như Sở Tư pháp, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Giao thông và Vận tải do việc

tổ chức đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, kinh phí tổ chức lớn, phải có đội ngũ

cán bộ có am hiểu chuyên môn pháp luật lẫn nắm bắt được các nội dung

pháp luật cần thiết, liên quan mật thiết đến đời sống của cán bộ và nhân dân

để lồng ghép, đưa các nội dung pháp luật vào các câu hỏi, tình huống tại

các cuộc thi, hội thi tạo nên không khí sôi nổi, hấp dẫn để phổ biến, tuyên

truyền cho các tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

2.1.3.3 Thông qua biên soạn, phát hành các loại tài liệu PBGDPL.

Việc P G PL thông qua việc biên soạn, phát hành các loại tài liệu

PBGDPL như đề cương, sổ tay, cẩm nang, chuyên đề tìm hiểu, hỏi – đáp

pháp luật, tài liệu tập huấn pháp luật, tờ gấp, tờ rơi... được các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk tiến hành thường xuyên trong những

năm qua, số liệu cụ thể theo ảng 2.7(Xem phụ lục 2, Bảng 2.7)

Từ số liệu thống kê cho thấy, các cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh Đắk Lắk đã bám sát vào chức năng, nhiệm vụ, văn bản chỉ đạo của cơ

quan cấp trên tiến hành P G PL thông qua việc biên soạn, phát hành các loại

tài liệu P G PL đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, như: Sở Tư pháp

thường xuyên biên soạn định kỳ hàng tháng 1 số ản tin Tư pháp Đắk Lắk

chứa đựng các nội dung, chuyên mục nhằm tuyên truyền pháp luật mới ban

hành, các lĩnh vực pháp luật liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân ở cơ

sở như: hộ tịch, đất đai, dân sự, hình sự... in ấn mỗi tháng hơn 4.000 cuốn cấp

phát cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh. ên cạnh đó, đã biên soạn các

loại tài liệu P G PL như: Sổ tay công tác hòa giải ở cơ sở; Tài liệu phổ

52

biến/tập huấn về các luật mới ban hành; pháp luật phòng, chống ma túy; công

tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; trách nhiệm hình sự của

pháp nhân thương mại theo ộ luật Hình sự 2015; Tờ gấp giới thiệu về Luật

trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Trợ giúp pháp lý… cấp phát cho

cán bộ, công chức, nhân dân trên địa bàn tỉnh. Sở Tài nguyên và Môi trường

biên soạn tài liệu tập huấn về pháp luật về quản lý tài nguyên và môi trường

cấp phát cho công chức địa chính xã. Sở Giáo dục và Đào tạo biên soạn và in

ấn sách/tờ rơi giới thiệu về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ cấp phát cho học sinh các trường THPT trên địa bàn

tỉnh. an ân tộc tỉnh biên soạn và in ấn Sổ tay hỏi - đáp về Luật Hôn nhân

gia đình năm 2014 (song ngữ Việt – Êđê), Sổ tay hỏi - đáp về tảo hôn và hôn

nhân cận huyết; Tờ rơi, áp phích tuyên truyền về hôn nhân cận huyết, tảo hôn

cấp phát cho hộ gia đình, học sinh đồng bào TTS tại chỗ trên địa bàn tỉnh.

Sở Y tế đã chỉ đạo 64/64 đơn vị của ngành xây dựng Tủ sách pháp luật phục

nhu cầu tìm hiểu của cán bộ, công chức, viên chức (CB, CCVC). Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch hướng thực hiện treo, mắc gần 2.000m2 pa nô, khẩu hiệu,

băng rôn, cờ phướn, áp phích, nhân dịp mừng Đảng, mừng Xuân, ngày lễ kỷ

niệm và các ngày lễ lớn trong năm…

PBGDPL thông qua việc biên soạn, in ấn và phát hành đã được các cơ

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk thực hiện thường xuyên, liên

tục, góp phần tuyên truyền có hiệu quả, kịp thời các quy định pháp luật mới

ban hành, các lĩnh vực pháp luật liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân ở

cơ sở cho các tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, hạn chế của hình thức này là số lượng tài liệu in ấn và cấp

phát còn ít so với nhu cầu tuyên truyền cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn

tỉnh do kinh phí chi cho hoạt động in ấn tài liệu đòi hỏi cao trong khi khả

năng ngân sách của tỉnh Đắk Lắk chưa đáp ứng được. Mặt khác, trừ một số cơ

53

quan lớn như Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Tư

pháp... đã quan tâm đến việc biên soạn tài liệu như tờ gấp, tờ rơi, bản tin để

cấp phát, P G PL cho nhân dân trên địa bàn tỉnh, các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh khác mới chỉ tập trung in ấn, biên soạn tài liệu tập huấn

kiến thức pháp luật cấp phát cho cán bộ, công chức của cơ quan mình mà

chưa quan tâm đến việc biên soạn tài liệu cấp phát cho các tầng lớp nhân dân

để tuyên truyền pháp luật. Đồng thời, việc biên soạn chỉ mới tập trung biên

soạn bằng tiếng Việt chưa quan tâm đến việc dịch sang tiếng các đồng bào

dân tộc thiểu số khác như: Ê đê, Mơ nông ... để phù hợp với các đối tượng

tuyên truyền của tỉnh Đắk Lắk, là một tỉnh có đến gần 35% dân số là đồng

bào dân tộc thiểu số.

2.1.3.4 Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:

Một hình thức P G PL mới được tỉnh tích cực tập trung triển khai

thực hiện trong thời gian qua là việc tuyên truyền thông qua mạng Internet,

trên website của các sở, ngành, thông qua báo, đài truyền hình, hệ thống loa

truyền thanh ở cơ sở.. Kết quả thực hiện của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015 đến 2019 như ảng 2.8 (Xem phụ lục 3,

Bảng 2.8).

Từ các báo cáo cho thấy, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh

Đắk Lắk đều đã có website và thường xuyên sử dụng Trang thông tin điện tử

của mình để đăng tải các tin, bài tuyên truyền về các nội dung pháp luật do cơ

quan, ngành mình quản lý, công khai các thủ tục hành chính, giải đáp các tình

huống pháp luật cho các tổ chức, cá nhân, hoặc kết hợp với các cơ quan báo

chí, Đài phát thanh và truyền hình tỉnh mở các chuyên trang, chuyên mục giải

đáp pháp luật trên các phương tiện này, như Sở Tư pháp đã phối hợp với áo

Đắk Lắk mở chuyên mục giải đáp pháp luật đăng tải hàng tuần, Sở Nội vụ

phối hợp với các Cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh và Đài phát thanh

54

và Truyền hình tỉnh mở chuyên mục “ ân hỏi cơ quan hành chính trả lời”

phát hàng tháng giải đáp các quy định pháp luật, các vướng mắc, kiến nghị

của các tổ chức, cá nhân trên sóng truyền hình tỉnh. ên cạnh đó, các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh đã in ấn các đĩa C -Room và sử dụng hệ

thống loa truyền thanh ở cơ sở để thực hiện công tác P G PL, như Sở Tư

pháp đã xây dựng và in ấn 2.000 đĩa C -Room tuyên truyền về nội dung Hiến

pháp 2013; 1.000 đĩa C -Room tuyên truyền về những hành vi bị nghiêm

cấm trong luật giao thông đường bộ. Sở Nội vụ phát hành chương trình tuyên

truyền về pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Sở LĐ,T &XH xây dựng

chương trình tuyên truyền về an toàn, vệ sinh lao động...Sở Văn hóa, Thể thao

và u lịch tổ chức 47 buổi tuyên truyền bằng xe loa, 36 buổi chiếu bóng lưu

động nhằm tuyên truyền, cổ động nhân dịp mừng Đảng, mừng Xuân, ngày lễ

kỷ niệm và các ngày lễ lớn trong năm; phối hợp với các cơ quan báo, đài tổ

chức nhiều đợt tuyên truyền về phong trào xây dựng thôn, buôn, tổ dân phố

văn hóa; tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện bình đẳng giới…

Kết quả trên cho thấy, trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng

phát triển, phần lớn người dân đều sử dụng Internet thì việc tuyên truyền pháp

luật thông qua hình thức này đã mang lại hiệu quả khá cao, chi phí thấp và

đảm bảo tính kịp thời.

Tuy nhiên, tác giả nhận thấy, đa số các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh Đắk Lắk chưa có đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý các trang

website nên chưa thường xuyên cập nhật, đăng, tải tin, bài P G PL trên các

Trang thông tin điện tử, chất lượng các tin, bài, bố cục trình bày chưa chuyên

nghiệp nên hạn chế đến hiệu quả tuyên truyền. Đa số các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh Đắk Lắk mới chỉ sử dụng Trang thông tin điện tử của mình

để P G PL mà chưa chú trọng đến các phương tiện khác như báo chí, đài

truyền hình, hệ thống loa truyền thành ở cơ sở... đặc biệt, tác giả cho rằng, đối

55

với một tỉnh có địa bàn rộng, giao thông chưa thuận lợi, điều kiện dân trí,

kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như tỉnh Đắk Lắk thì việc P GPL qua hệ

thống loa truyền thanh ở cơ sở là hình thức P G PL có chi phí thấp, hiệu quả

tuyên truyền cao do có ưu điểm là tiến hành được thường xuyên, liên tục, dễ

tác động đến đối tượng tuyên truyền, song hình thức này mới chỉ được một số

cơ quan như: Sở Tư pháp, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động, T &

XH thực hiện mà chưa được các cơ quan chuyên môn khác quan tâm thực

hiện.

2.1.3.5 Thông qua việc tổ chức Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11 hàng

năm

Thực hiện quy định của Luật P G PL về Ngày Pháp luật nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 09/11 (sau đây gọi tắt là Ngày Pháp luật Việt

Nam), từ năm 2015 đến nay, hàng năm, U N tỉnh ban hành Kế hoạch tổ

chức Ngày Pháp luật Việt Nam, trong đó xác định các hoạt động cụ thể để chỉ

đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh thực hiện. Trong 5 năm qua, Sở

Tư pháp đều tham mưu U N tỉnh tổ chức hội nghị hưởng ứng Ngày Pháp

luật Việt Nam, cụ thể: năm 2015, tổ chức hội nghị gắn với phổ biến, quán

triệt 11 luật mới ban hành kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII, với chủ đề của

năm 2015 là “Thực hiện Hiến pháp và pháp luật góp phần xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ

bản của công dân”. Năm 2016, gắn với phổ biến, quát triệt các Luật mới ban

hành được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 11 vào ngày

08/11/2015, với chủ đề của năm 2016 là “Nâng cao năng lực xây dựng, thực

thi pháp luật; giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành

pháp luật; tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh; phát huy dân

chủ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Năm 2017, tổ chức thành

công Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam gắn với hoạt động diễu hành,

56

trao tặng giỏ sách pháp luật cho một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, tuyên

truyền bằng xe lưu động, treo băng rôn, cờ phướn, biểu diễn văn nghệ…, với

chủ đề của năm 2017 là “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường

kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đổi mới sáng tạo; nâng

cao hiệu quả thi hành pháp luật, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách

hành chính, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn để đồng hành cùng người dân và

doanh nghiệp”. Năm 2018, tổ chức thành công Lễ Mít tinh hưởng ứng Ngày

Pháp luật Việt Nam 09/11 gắn với hoạt động diễu hành, tuyên truyền bằng xe

lưu động, treo băng rôn, cờ phướn, biểu diễn văn nghệ. Năm 2019, đã tham

mưu UBND tỉnh tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn tỉnh phổ biến, quán triệt

các luật mới ban hành tại kỳ họp thứ 7 - Quốc hội khóa XIV; hỗ trợ lắp đặt 18

Panô hưởng ứng Ngày Pháp luật trên các tuyến đường chính của 15 huyện, thị

xã, thành phố; hướng dẫn đơn vị thành phố Buôn Ma Thuột và thị xã Buôn

Hồ tổ chức thành công Lễ mít tinh, diễu hành hưởng ứng Ngày Pháp luật năm

2019 tại địa phương; theo dõi, đôn đốc các sở, ngành, địa phương khác triển

khai tổ chức Ngày Pháp luật phù hợp với tình hình thực tế và nhiệm vụ chính

trị được giao.

Thực hiện Kế hoạch của U N tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh, địa phương của tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền

thiết thực, bằng nhiều hình thức đa dạng như: thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng của tỉnh, của các đơn vị cấp huyện; tuyên truyền cổ động

trực quan trên băng rôn, cờ phướn tại các địa điểm trung tâm của tỉnh, huyện,

thị xã, thành phố, trụ sở làm việc; tổ chức sinh hoạt Ngày Pháp luật, thi tìm

hiểu pháp luật, tập huấn, hội nghị, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề… để tuyên

truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa của Ngày Pháp luật; phổ biến, giáo dục

sâu rộng về vị trí, vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý nhà nước

và đời sống xã hội; phổ biến các văn bản pháp luật mới đến cán bộ, công

57

chức, viên chức, người lao động…

Trong 05 năm qua, việc triển khai thực hiện Ngày Pháp luật Việt Nam

theo quy định của Luật P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã tạo thêm bước

phát triển mới trong việc nâng cao hiệu quả công tác P G PL, đề cao giá trị

của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, đề cao quyền cũng như trách

nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân, công dân trong học tập, tìm hiểu pháp luật và tự

giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và niềm tin pháp

luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý trong cuộc

sống xã hội.

2.1.3.6 Công tác PBGDPL cho đối tượng đặc thù

Triển khai thực hiện quy định tại Mục 2 Chương II của Luật PBGDPL

năm 2012 (nội dung, hình thức P G PL cho các đối tượng đặc thù), Sở Tư

pháp đã tham mưu U N tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành, tổ

chức, đoàn thể ở tỉnh; U N các huyện, thị xã, thành phố thực hiện P G PL

tới các đối tượng đặc thù cho phù hợp với từng đối tượng, địa bàn cụ thể.

Trên cơ sở đó, các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể ở tỉnh đã tổ chức nhiều

hoạt động (Mở các lớp tuyên truyền miệng; lồng ghép trong các buổi sinh

hoạt, họp; tổ chức hội nghị, cuộc thi, hội thi; hái hoa dân chủ..) tuyên truyền,

phổ biến kịp thời các quy định của pháp luật hiện hành liên quan (Pháp luật

về bình đẳng giới; phòng, chống bạo lực gia đình; hôn nhân và gia đình; dân

tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng, biên

giới, chủ quyền quốc gia; đất đai, tài nguyên, khoáng sản; phòng, chống ma

túy; lao động; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; công đoàn; hình sự, thi hành án

hình sự, xử lý vi phạm hành chính; chế độ, chính sách của người khuyết tật...)

đến các đối tượng là người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,

vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người lao động

trong các doanh nghiệp; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù,

58

người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục

bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo và nạn nhân

bạo lực gia đình, nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời, thực hiện đúng các chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Mặt khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động, cơ chế phối hợp trong công

tác P G PL, các cơ quan, đơn vị đã ban hành các chương trình, kế hoạch

liên ngành làm cơ sở triển khai thực hiện, như: Quy chế phối hợp giữa Công

an tỉnh và Sở Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an

ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội

phạm, vi phạm pháp luật khác tại các cơ sở giáo dục, Chương trình phối hợp

số giữa Sở Tư pháp, Sở Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường tuyên

truyền, phố biến giáo dục pháp luật trong nhà trường…, việc P G PL cho

các đối tượng đặc thù được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh triển

khai thực hiện thông qua các Đề án P G PL cho các đối tượng đặc thù theo

chức năng nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn, cụ thể như:

i) Công tác PBGDPL cho học sinh trong nhà trường do Sở Giáo dục

và Đào tạo chủ trì thực hiện

Sở Giáo dục và Đào tạo với trách nhiệm là cơ quan được giao chủ trì

thực hiện Đề án đã tập trung kiện toàn đội ngũ làm công tác P G PL, hiện

nay trong toàn ngành có 05 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, tất cả các đơn vị

trực thuộc đều thành lập tổ pháp chế. Công tác P G PL trong ngành ngày

càng đi vào chiều sâu, từ năm 2015 đến năm 2019, Sở đã tổ chức 12 lớp tập

huấn công tác P G PL cho hơn 2.100 cán bộ, giáo viên phụ trách công tác

pháp chế ở các trường Trung cấp, THPT, Trung tâm G TX, PT DTNT và các

Phòng Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn tỉnh; phối hợp với Công an tỉnh, Tỉnh

đoàn, Sở Tư pháp tổ chức thành công Hội thi Thanh niên với pháp luật dành

59

cho khối học sinh THPT và Trung tâm G TX với 660 học sinh dự thi, cấp

phát hơn 35.000 tờ rơi tuyên truyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ, 140 cuốn tài liệu về phòng chống bạo lực học đường

và 310 cuốn tài liệu về phòng chống ma túy cho các trường học. Hàng năm,

100% cán bộ phụ trách công tác pháp chế và giáo viên dạy môn G C đều

được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật; học sinh, sinh viên các cấp học

được học tập môn đạo đức, giáo dục công dân... theo chương trình chính

khóa; trường học có Tủ sách pháp luật hoặc ngăn sách pháp luật, quản lý và

khai thác có hiệu quả; 100% các trường thực hiện đổi mới nội dung, hình thức

PBGDPL ngoại khóa phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo. Trường học

đã bố trí kinh phí triển khai công tác P G PL, đầu tư trang thiết bị, phương

tiện đáp ứng nhu cầu công tác dạy và học môn đạo đức, G C , G PL chính

khóa.

ii) Tuyên truyền PBGDPL cho người lao động, người sử dụng lao động

trong các loại hình doanh nghiệp do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

thực hiện

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội - đơn vị chủ trì đã phối hợp với

các đơn vị liên quan tiến hành điều tra, khảo sát nhằm xác định nhu cầu

P G PL cho các đối tượng liên quan, từ đó đề ra nội dung và phương hướng

thích hợp làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện; kết quả đã

triển khai tổ chức 150 lớp tuyên truyền pháp luật cho gần 10.000 người lao

động tại các doanh nghiệp trong tỉnh; 12 lớp cho hơn 800 người sử dụng lao

động, cán bộ làm công tác lao động tiền lương, cán bộ làm công tác công

đoàn và 03 lớp cho 100 lãnh đạo, cán bộ làm công tác lao động thuộc Phòng

Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện. ên cạnh đó, đã phối hợp với

Liên đoàn Lao động tỉnh cũng tổ chức 36 cuộc tuyên truyền, phổ biến pháp

luật công đoàn cho 5.230 công nhân lao động tại 54 doanh nghiệp dân doanh;

60

tổ chức 02 hội thảo về “Nâng cao nghiệp vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật

cho cán bộ công đoàn và công nhân lao động trong các doanh nghiệp doanh

nhân” cho 230 áo cáo viên công đoàn cấp tỉnh và Chủ tịch công đoàn cơ sở;

in ấn và phát hành 19.000 tờ rơi, 2.020 sổ tay ộ luật Lao động và Luật Công

đoàn, 3.200 tài liệu cấp phát cho công nhân lao động ...

iii) PBGDPL cho nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số do Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì thực hiện

Từ 2015 đến năm 2019, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ

328 lớp tập huấn về chính sách pháp luật của Trung ương, của tỉnh về bảo vệ

nguồn lợi thủy sản cho nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 15.000

người tham dự. Phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể

tổ chức gần 200 lớp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn vệ sinh thực

phẩm, bảo vệ môi trường cho hơn 8.000 lượt người dân nông thôn, đồng bào

dân tộc thiểu số…

iv) PBGDPL cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý do Sở Tư pháp

chủ trì thực hiện:

Trong 05 năm qua, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh thuộc Sở

Tư pháp đã phối hợp với Chi hội luật gia Công an tỉnh, Hội Luật gia huyện

Krông ông và Hội Luật gia huyện Ea Hleo... tiến hành khảo sát và tổ chức

68 đợt trợ giúp pháp lý lưu động kết hợp với tuyên truyền, giáo dục pháp luật

theo từng lĩnh vực, chuyên đề về pháp luật phù hợp với các tầng lớp nhân dân

tại các thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các xã vùng sâu, vùng xa,

có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và các đối tượng thuộc hộ nghèo,

người có công với cách mạng. Tại các đợt trợ giúp pháp lý, các hội viên đã

thực hiện hơn 300 vụ việc miễn phí cho 540 đối tượng được thụ hưởng; đồng

thời đã kết hợp tuyên truyền pháp luật cho 1.200 lượt người tham dự về các

lĩnh vực pháp luật: đất đai, phòng chống tội phạm, xử lý vi phạm hành chính,

61

phòng chống ma túy, hình sự và dân sự, quản lý hộ tịch và hộ khẩu, an toàn

giao thông, các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo, người

có công với cách mạng và đồng bào dân tộc thiểu số; phối hợp với Trại giam

Đăk Tân tư vấn hỗ trợ pháp lý cho 60 phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt

tù; biên soạn, phát hành hơn 7.000 tờ gấp cấp phát miễn phí nhằm thông tin

kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản pháp luật mới, thiết thực...

2.1.4. oạt động kiểm tra, giám sát thực hiện công tác PBGDPL của

cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk chịu trách nhiệm làm cơ quan thường trực của

Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk, là cơ quan tham mưu, giúp U N tỉnh,

Hội đồng PHP G PL tỉnh kiểm tra, giám sát các kế hoạch P G PL của

U N tỉnh Đắk Lắk. Theo các báo cáo kết quả công tác của Hội đồng

PHPG PL tỉnh từ năm 2015 đến năm 2019, hàng năm, Sở Tư pháp đều

tham mưu U N tỉnh kiểm tra việc thực hiện công tác P G PL thông qua

công tác báo cáo, các các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đều báo cáo

tương đối đầy đủ, tuy nhiên, nội dung báo cáo của một số đơn vị còn chung

chung, sơ sài (thiếu số liệu, hoạt động cụ thể). ên cạnh đó, còn một số địa

phương không gửi báo cáo về cơ quan thường trực Hội đồng dẫn đến việc

tổng hợp thông tin để tham mưu xây dựng báo cáo chung của Hội đồng gặp

nhiều khó khăn. Đối với các địa phương cấp huyện, hàng năm, Sở Tư pháp

tỉnh Đắk Lắk đã lồng ghép kiểm tra công tác P G PL trong hoạt động

kiểm tra công tác tư pháp tại các huyện. Kết quả kiểm tra cho thấy, về cơ

bản, các đơn vị được kiểm tra đều nghiêm túc triển khai thực hiện các

nhiệm vụ theo chỉ đạo của U N tỉnh, ộ Tư pháp, Hội đồng phối hợp

P G PL tỉnh và cơ quan Thường trực của Hội đồng, như: việc củng cố,

kiện toàn Hội đồng phối hợp P G PL và đội ngũ cán bộ làm công tác

P G PL được các đơn vị quan tâm chỉ đạo thực hiện theo đúng quy định;

62

các văn bản pháp luật mới được quán triệt, phổ biến kịp thời; việc bồi

dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ P G PL, cung

cấp tài liệu pháp luật cho đội ngũ làm công tác P G PL được thực hiện

thường xuyên.

Tuy nhiên, việc kiểm tra mới chỉ được Sở Tư pháp triển khai thực

hiện ở các đơn vị cấp huyện mà chưa triển khai tại các cơ quan cấp sở, mặt

khác, mới chỉ có Sở Tư pháp thực hiện mà chưa được các cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh khác thực hiện, do đó, chưa nắm bắt đánh giá được

đầy đủ, toàn diện việc thực hiện công tác P G PL ở các địa phương cấp

huyện. Đối với hoạt động giám sát của HĐN tỉnh, trong 5 qua, HĐN

tỉnh chưa tiến hành giám sát chuyên đề đối với công tác P G PL nhằm

thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện công tác P G PL trên địa bàn

tỉnh.

2.2 Đánh giá chung về hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

2.2.1. Kết quả đạt đƣợc và nguyên nh n

2.2.1.1. Những thành tựu, kết quả đạt được

Trong 05 năm, hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả, thể hiện trên các

phương diện sau:

i) Những kết quả đạt được từ phía chủ thể thực hiện

Thứ nhất, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã bố trí

đầy đủ cán bộ, bộ máy để thực hiện công tác P G PL. Để đảm bảo sự phối

hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các chủ thể, Hội đồng phối hợp P G PL của

tỉnh Đắk Lắk đã được thành lập, đi vào hoạt động với vai trò thường trực

thuộc về Sở Tư pháp và sự tham gia của tất cả các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh làm thành viên, đồng thời, có sự tham gia của các ban, ngành,

63

đoàn thể có liên quan. Nhờ đó, công tác P G PL cho cán bộ và nhân dân

trên địa bàn tỉnh đã phát huy được tính chủ động, tích cực, huy động được sức

mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia hoạt động PBGDPL.

Thứ hai, các các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã tổ chức

triển khai đồng bộ, có kết quả các nhiệm vụ được giao, như: ban hành kịp thời

các chương trình, kế hoạch P G PL cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, địa

bàn và tình hình, điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương (hàng

năm, 100% các sở, ngành, địa phương của tỉnh đều ban hành kế hoạch công

tác P G PL và định kỳ 6 tháng, cuối năm, 100% các đơn vị, địa phương đều

có báo cáo). Sở Tư pháp đã làm tốt chức năng là cơ quan giúp U N tỉnh,

Hội đồng phối hợp P G PL của tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác

P G PL khi đã tham mưu ban hành văn bản hướng dẫn, đôn đốc, tổ chức

kiểm tra việc thực hiện công tác P G PL của các cơ quan thuộc tỉnh và các

đơn vị cấp huyện, tạo tiền đề quan trọng cho việc triển khai có hiệu quả công

tác P G PL tại các địa phương.

Thứ ba, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã thể hiện được

vai trò “nòng cốt” trong việc thực hiện công tác P G PL ở cấp tỉnh khi theo

các Báo cáo của Hội đồng, trong 5 năm qua, các hoạt động P G PL do các

cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh tổ chức chiếm 80% các hoạt động

P G L của cấp tỉnh; các ban, ngành đoàn thể cấp tỉnh chỉ tổ chức các hoạt

động P G PL chiếm 20% còn lại.

Đội ngũ báo cáo viên làm công tác PBGDPL đã có sự gia tăng về số

lượng và chất lượng. Theo áo cáo của Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh

Đắk, năm 2015, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk có 93

báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh thì đến năm 2019, đã có 160 báo cáo viên

pháp luật cấp tỉnh (tăng gần 60%), số lượng báo cáo viên của các cơ quan

chuyên môn chiếm tỷ lệ (80%); báo cáo viên của các ban, ngành, đoàn thể cấp

64

tỉnh còn lại chiếm tỷ lệ (20%), đa số báo cáo viên pháp luật của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã tích cực tham gia P G PL và họ

là những chủ thể chủ yếu và trực tiếp thực hiện phổ biến pháp cho cán bộ và

nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Thứ tư, về nội dung PBGDPL, đã lựa chọn được những nội dung pháp

luật cơ bản phù hợp với đối tượng là cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Chẳng hạn, đối với người dân nông thôn, đã tập trung phổ biến Luật Đất đai,

các quy định của ộ luật ân sự về thừa kế, quyền sở hữu...; đối với phụ nữ,

tuyên truyền các quy định của Pháp lệnh ân số, Luật ình đẳng giới, Luật

Phòng chống bạo lực gia đình; đối với khu vực đồng bào dân tộc, tôn giáo tập

trung tuyên truyền Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, những quy định đối với

người dân tộc thiểu số, như chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho đồng bào dân tộc;

đối với thanh niên, tập trung tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Thanh

niên, Luật Phòng chống ma túy…

Thứ năm, về hình thức PBGDPL đã được tiến hành một cách linh hoạt,

đa dạng, phong phú. Hình thức sử dụng chủ yếu là tuyên truyền miệng, tổ

chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, các cuộc hội nghị triển khai các

văn bản QPPL mới được ban hành, các văn bản đáp ứng nhu cầu tìm hiểu

pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Ngoài ra, còn có các

hình thức tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật khác như: tổ chức các cuộc thi

tìm hiểu pháp luật, biên soạn tài liệu pháp luật phát hành cho các đối tượng,

trang bị tủ sách pháp luật, tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật trong trường

học. PBGDPL thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng

internet, Trang tin điện tử, hệ thống loa truyền thanh cơ sở ngày càng phát

huy hiệu quả và đang được cải tiến, nâng cao chất lượng. Các cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk cũng đã chủ động, tích cực triển khai một

hình thức P G L mới theo quy định của Luật P GDPL là tổ chức các hoạt

65

động hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam 9/11 hàng năm nhằm tôn vinh

Hiến pháp và pháp luật.

Thứ sáu, về đối tượng P G PL, bên cạnh việc quan tâm PBGDPL cho

đối tượng là cán bộ, công chức thuộc cơ quan, ngành mình quản lý đã tích cực

tổ chức P G L cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh và các đối tượng

đặc thù theo quy định của Luật P G PL, nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời,

thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

ii) Những kết quả đạt được từ phía đối tượng tiếp nhận PBGDPL

Việc P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã góp

phần cập nhật kiến thức pháp luật, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho

cán bộ của thuộc cơ quan mình, ngành mình quản lý; đồng thời, cung cấp các

kiến thức pháp luật cần thiết liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày cho

các tầng lớp nhân dân, qua đó, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, ý thức

chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh, góp phần đảm

bảo an ninh trật tự, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.

Kết quả điều tra XHH cho thấy, trong số 870 người là cán bộ và nhân

dân trên địa bàn tỉnh tham gia trả lời bảng hỏi (tác giả chọn 12 cơ quan

chuyên môn mỗi đơn vị 10 người là cán bộ, công chức và 15 đơn vị cấp

huyện mỗi đơn vị 50 người gồm 10 người là cán bộ công chức và 40 người là

nhân dân) có tới 270 người là cán bộ, công chức khẳng định có tham dự các

hoạt động PBGDPL do các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh tổ chức

chiếm 100%, [xem Phụ lục 2, bảng số 9]. Con số 100% cán bộ, công chức

được hỏi đã tham gia các buổi tổ chức phổ biến pháp luật là một kết quả rất

đáng trân trọng. ên cạnh đó, trả lời câu hỏi về vai trò của kiến thức, hiểu biết

pháp luật đối với cuộc sống, lao động, sinh hoạt của cán bộ và nhân dân trên

địa bàn tỉnh, có tới 86,8 % người cho rằng kiến thức, hiểu biết pháp luật có

vai trò “rất cần thiết” đối với cuộc sống, lao động, sinh hoạt; 12,6% khẳng

66

định là “cần thiết”; tổng cộng có tới 99,4% cán bộ và nhân dân trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk đánh giá kiến thức pháp luật có vai trò “rất cần thiết và cần

thiết” đối với họ [xem Phụ lục 2, bảng số 11]. Việc thực hiện các nội dung

P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã cơ bản đáp ứng

được nhu cầu của đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan, ngành mình quản lý

khi có tới 92,7 % cán bộ được hỏi trả lời đáp ứng được, chỉ 6,3 % trả lời đáp

ứng trung bình và chưa đáp ứng. [xem Phụ lục 2, bảng số 12].

Như vậy, nhận thức về vai trò của kiến thức pháp luật của cán bộ và

nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Từ nhận thức đó, việc phần lớn cán bộ và

nhân dân chủ động, tích cực tham gia hoạt phổ biến pháp luật đã góp phần

nâng cao hiểu biết pháp luật. Qua tiếp xúc, trò chuyện trao đổi, đa số cán bộ,

công chức thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, đơn vị cấp

huyện khẳng định rằng họ thường xuyên được tập huấn, cập nhật kiến thức

thuộc lĩnh vực quản lý, qua đó, góp phần nâng cao nghiệp vụ, thực hiện tốt

nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao. Đối với các tầng lớp nhân dân khẳng

định rằng, họ được nắm bắt các quy định của pháp luật có liên quan trực tiếp

đến cuộc sống, công việc hàng ngày, như các quyền, nghĩa vụ của công dân...

cho thấy các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã đạt được

mục tiêu tối thiểu ban đầu là trang bị cho các tầng lớp nhân dân những thông

tin, kiến thức pháp luật có liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao động, sinh

hoạt hàng ngày của họ.

Như vậy, một trong những kết quả quan trọng mà các cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã đạt được là góp phần cải thiện, nâng cao

trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân trên địa bàn

tỉnh. Việc nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân

dân trên địa bàn tỉnh đã góp phần thay đổi cách xử sự của họ theo hướng tích

cực, dựa trên các quy định pháp luật chứ không còn xử sự theo chủ quan, cảm

67

tính, giúp một bộ phận cán bộ vâ nhân dân trên địa bàn tỉnh giải quyết được

các vấn đề có liên quan đến pháp luật trong thực tiễn cuộc sống - đây cũng

chính là thước đo đánh giá vai trò hoạt động P G PL của cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

2.2.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu, kết quả đạt được

Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau giúp hoạt P G PL của cơ

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đạt được những kết quả quan trọng;

song, theo tác giả luận văn, có 4 nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, Tỉnh ủy Đắk Lắk luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát

hoạt động P G PL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tỉnh ủy đã chỉ

đạo an Cán sự Đảng U N tỉnh và Đảng ủy các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị

số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của an í thư Trung ương Đảng về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác P G PL, nâng cao ý thức chấp

hành pháp luật của cán bộ, nhân dân nên công tác này đã đạt được nhiều kết

quả quan trọng. UBND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thành lập Hội đồng

phối hợp P G PL ở tỉnh và chỉ đạo thành lập ở cấp huyện, thường xuyên chỉ

đạo các cơ quan chuyên môn và các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện

tốt công tác phổ biến pháp luật cho các đối tượng mà cấp, ngành mình phụ

trách và cho cán bộ, nhân dân ở các địa phương, nhất là những vấn đề phát

sinh trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã thực hiện

nghiêm túc chỉ đạo của Tỉnh ủy, U N tỉnh, chủ động, tích cực bố trí đầy đủ

cán bộ, bộ máy thực hiện công tác P G PL, vừa làm tốt công tác tham mưu

cho U N tỉnh khi kịp thời đề ra các chương trình, đề án, đồng thời chủ động

trực tiếp triển khai thực hiện, thể hiện được vai trò “nòng cốt” trong hoạt động

P G PL trên địa bàn tỉnh. Sở Tư pháp đã làm tốt vai trò “đầu mối” khi hàng

68

năm, bên cạnh việc tham mưu cho Hội đồng phối hợp P G PL của tỉnh ban

hành kế hoạch hoạt động, ban hành văn bản hướng dẫn, đôn đốc thì đều thành

lập các đoàn kiểm tra; tiến hành kiểm tra một số cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện,

cấp xã để đánh giá, rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các chương trình,

đề án PBGDPL.

Thứ ba, đội ngũ báo cáo viên pháp luật của các cơ quan chuyên môn

thuộc U N cấp tỉnh đã tích cực, nhiệt tình trong thực hiện công tác. Về cơ

bản, đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh là những cán bộ có kinh nghiệm

hoạt động thực tiễn, am hiểu pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực quản lý, tuy hoạt

động kiêm nhiệm song họ đồng thời là những cán bộ, công chức, viên chức

nhà nước, có tinh thần trách nhiệm thực hiện hoạt động phổ biến pháp luật

cho cán bộ, công chức, viên chức ngành mình quản lý và nhân dân trên địa

bàn.

Thứ tư, cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh cơ bản nhận thức được vai

trò của kiến thức pháp luật nên chủ động, tích cực tham dự các hoạt động phổ

biến pháp luật. Thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh đặt ra yêu

cầu cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật

mới giải quyết được từ đó chủ động, tích cực tham dự các hoạt động

PBGDPL.

2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nh n

2.2.2.1. Những hạn chế, bất cập

Mặc dù hoạt động P GPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh Đắk Lắk đạt được những kết quả quan trọng; song, so với yêu cầu thì

hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U ND tỉnh Đắk Lắk

còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như sau:

Thứ nhất, về việc tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ thực hiện công tác

PBGDPL: Việc tổ chức bộ phận làm “đầu mối” theo dõi công tác PBGDPL,

69

phân công nhiệm vụ cho các phòng, ban chuyên môn, bố trí cán bộ làm báo

cáo viên pháp luật đã được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh triển

khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Tuy nhiên, cách thức bố trí ở các cơ quan

chuyên môn là không thống nhất, đồng bộ khi có cơ quan thì bố trí Phòng

pháp chế riêng để theo dõi công tác này còn cơ quan khác lại bố trí một cán

bộ thuộc Văn phòng Sở hoặc Thanh tra Sở thực hiện, gây khó khăn cho việc

theo dõi, giảm hiệu quả công tác quản lý.

Đội ngũ cán bộ làm công tác P G PL chủ yếu là kiêm nhiệm, chỉ có

Sở Tư pháp có bố trí Phòng P G PL là bộ phận chuyên trách, còn các cơ

quan khác bố trí cán bộ kiêm nhiệm nên không thể toàn tâm, toàn ý thực hiện

công tác PBGDPL. Mặt khác, một số cán bộ làm công tác này còn hạn chế về

trình độ pháp lý, phong tục tập quán và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu

số nên ảnh hưởng nhiều đến chất, lượng, hiệu quả của công tác này.

Thứ hai, việc tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển

khai thực hiện công tác PBGDPL: Đã được Sở Tư pháp tham mưu cho

U N tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh triển khai đầy đủ. Tuy nhiên, các Kế

hoạch P G PL, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác P G PL mới chỉ đề

cập đến nội dung, biện pháp, khối lượng hoạt động P G PL, đề cập những

định hướng chung cho tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương mà chưa có

hướng dẫn cụ thể về nội dung, hình thức, phương pháp cho từng nhóm đối

tượng phù hợp với phạm vi quản lý của từng ngành, địa phương dẫn đến việc

tổ chức triển khai thực hiện ở các cơ quan, địa phương còn thiếu đồng bộ,

chưa tạo các hoạt động P G PL phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Thứ ba, về việc PBGDPL cho các đối tượng tiếp nhận: việc PBGDPL

cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của các sở, ngành đã

thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên, việc P G PL cho các tầng lớp nhân dân

nhân dân trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế, bất cập, số lượng hoạt động

70

thực hiện còn ít, chưa được tiến hành liên tục, thường xuyên, chủ yếu được tổ

chức mỗi khi có văn bản pháp luật mới cần được tuyên truyền, phổ biến, chủ

yếu “phổ biến cái mình có”, chưa quan tâm “phổ biến cái cán bộ và nhân dân

đang cần”. Theo kết quả điều tra xã hội học, chỉ có 64,2% tỷ lệ nhân dân được

hỏi có tham gia các hoạt động P G PL do các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh thực hiện, số lượng chưa từng tham gia chiếm tỷ lệ còn khá lớn,

chiếm 35,8% [xem Phụ lục 2, bảng số 10].

Đối với nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - là tỉnh đặc thù là có hơn

30% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số với gần 50 dân tộc anh em cùng sinh

sống, tuy nhiên, các chủ thể phổ biến pháp luật hầu như chưa chú ý tới việc

phân loại đối tượng nhằm đảm bảo hiệu quả phổ biến pháp luật dành cho họ

khi có rất ít tài liệu P G PL được dịch sang tiếng đồng bào dân tộc thiểu số,

hoặc lựa chọn báo cáo viên là người đồng bào dân tộc thiểu số, lựa chọn

phương pháp và hình thức phổ biến pháp luật phù hợp với các nhóm đối

tượng này, điều này đã làm giảm hiệu quả công tác phổ biến pháp luật cho các

tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Thứ tư, về nội dung PBGDPL còn bộc lộ những hạn chế, bất cập sau

đây:

Một là, nội dung phổ biến pháp luật cho cán bộ mới chỉ quan tâm đến

việc cập nhận các kiến thức pháp luật mới ban hành mà chưa quan tâm đến

các kiến thức pháp luật chuyên sâu, các vấn đề pháp luật còn nhiều mâu

thuẫn, chồng chéo cần phải được tập huấn, giải đáp hướng dẫn để thống nhất

nhận thức, tạo thuận lợi trong quá trình giải quyết công việc trong thực tế.

Hai là, nội dung PBGDPL cho nhân dân còn mang tính bề nổi, chưa đạt

được bề rộng và độ sâu kiến thức pháp luật cần thiết, phù hợp với từng nhóm

đối tượng. Các văn bản pháp luật mới liên quan đến đời sống, sinh hoạt, các

quyền dân chủ của nhân dân chậm được bổ sung, cập nhật, gây khó khăn cho

71

họ trong quá trình giải quyết các sự việc, sự kiện pháp luật xảy ra trong thực

tế. Theo kết quả điều tra xã hội học, chỉ có 44,5% tỷ lệ nhân dân được hỏi trả

lời nội dung P G PL do các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh thực

hiện đã đáp ứng được yêu cầu, số lượng trả lời chưa đáp ứng được yêu cầu tỷ

lệ còn khá lớn, chiếm 55,5% [xem Phụ lục 2, bảng số 13].

Ba là, kiến thức pháp luật còn nghèo nàn, nội dung phổ biến pháp luật

chưa chú trọng tới nhu cầu tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật của đối

tượng, mới chỉ dừng lại ở việc truyền đạt những nội dung pháp luật mà mình

có, chưa hướng tới trang bị những nội dung pháp luật mà đối tượng cần, như

kiến thức pháp luật về về quyền con người, về an sinh xã hội, an toàn thực

phẩm, đất đai, xử phạt vi phạm hành chính...

Bốn là, nội dung phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở tỉnh Đắk

Lắk còn thiên về lý thuyết, chủ yếu giới thiệu các quy định pháp luật, chưa

gắn với các sự kiện, tình huống pháp luật thực tiễn, chưa chú trọng trang bị kỹ

năng vận dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn đời sống dẫn đến cán bộ và

nhân dân có kiến thức, hiểu biết pháp luật nhưng vẫn bị động, lúng túng trong

vận dụng vào thực tiễn.

Thứ năm, về hình thức PBGDPL còn bộc lộ những hạn chế, bất cập sau

đây:

Một là, các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh chưa xác định được hình

thức phổ biến pháp luật chủ yếu, phù hợp với những nội dung, đối tượng cụ

thể để có biện pháp triển khai thực hiện; còn chậm đổi mới việc sử dụng các

hình thức P G PL để nâng cao hiệu quả hoạt động.

Qua các báo cáo cho thấy, các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh Đắk

Lắk chủ yếu sử dụng hình thức truyền thống là P G PL trực tiếp thông qua

các buổi hội nghị, tập huấn, tuyên truyền… mà chậm đổi mới, đa dạng các

hình thức P G PL phù hợp với từng nội dung, đối tượng P G PL, phù hợp

72

với xu thế phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh, theo tác

giả, với đặc thù của tỉnh Đắk Lắk hiện nay, điều kiện kinh tế còn khó khăn,

giao thông đi lại chưa thuận lợi thì việc tuyên truyền qua hệ thống loa truyền

thanh cơ sở đối với các nội dung pháp luật liên quan đến đối tượng là nhân

dân, đồng bào ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa là hình thức mang lại nhiều

hiệu quả thiết thực do chi phí thấp, dễ thực hiện, tác động thường xuyên, liên

tục đến đối tượng tuyên truyền, mang lại hiệu quả cao, song thực tế hiện nay,

mới chỉ được một số cơ quan như Sở Tư pháp, Sở LĐ,T &XH, Sở Thông tin

và Truyền thông … thực hiện; hay việc sử dụng các phương tiện truyền thông

có sức lan tỏa lớn như mạng xã hội, trang web… chưa được các Cơ quan

quan tâm khi có rất ít các cơ quan lập trang facebook, zalo của cơ quan mình

để tuyên truyền những kiết thức pháp luật quan trọng, mới được ban hành đến

các tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Đa số các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã thiết lập

Trang thông tin điện tử của cơ quan mình để giới thiệu hoạt động và phổ biến

kiến thức pháp luật song các trang web này còn ít được nhân dân biết đến, nội

dung còn nghèo nàn do không thường xuyên cập nhật, đăng tải các tin bài có

chất lượng. Thực trạng này dẫn đến hiệu quả phổ biến pháp luật còn hạn chế,

chưa phù hợp với năng lực tiếp thu và nhu cầu về thông tin pháp luật của các

tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Hai là, các các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh Đắk Lắk chưa quan

tâm tới việc phân loại, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về việc thực hiện

các hình thức phổ biến pháp luật cho các đối tượng. Việc tổng kết, đánh giá

này là hết sức quan trọng và cần thiết nhằm tìm ra được những hình thức phổ

biến pháp luật phù hợp; từ đó mới có thể tìm ra giải pháp để nâng cao chất

lượng, hiệu quả của công tác này.

Thứ sáu, về phương pháp PBGDPL: Trong hoạt động PBGDPL cho

73

cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, phương pháp tương tác hai

chiều theo kiểu thảo luận, tranh luận, nêu các sự kiện pháp luật thực tế... còn

ít được vận dụng. Các phương pháp mà báo cáo viên pháp luật sử dụng chủ

yếu là thuyết trình theo lối độc thoại dễ khiến cho người nghe rơi vào trạng

thái thụ động khi tiếp thu kiến thức, đánh mất sự hưng phấn trong quá trình

tham dự phổ biến pháp luật làm cho hiệu quả PBGDPL bị giảm sút.

Thứ bảy, việc xác định mục tiêu, đánh giá hiệu quả mang lại của công

tác PBGDPL: Chưa được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh quan

tâm, trong hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh, việc xác định mục tiêu, hiệu quả đạt được chưa được các chủ thể phổ

biến pháp luật đặt ra một cách nghiêm túc, hoặc nếu có đặt ra thì còn chung

chung, chưa cụ thể, rõ ràng, mang tính định lượng. Nhiều đề án P G PL còn

mang nặng tính hình thức, phong trào, mục tiêu đề ra thiếu tính khả thi và

thiếu giải pháp, nguồn lực thực hiện nên hiệu quả đạt được không cao. Việc

đánh giá xem mục tiêu đặt ra, hiệu quả đạt được chưa được các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh quan tâm, chủ yếu là thực hiện theo nhiệm vụ,

kế hoạch cấp trên giao; ít quan tâm tới thông tin phản hồi về kết quả, hiệu quả

tác động đến cán bộ và nhân dân - đối tượng thụ hưởng kết quả của hoạt động

này.

Thứ tám, kinh phí bố trí cho công tác PBGDPL chưa đáp ứng được nhu

cầu:

U N tỉnh đã quan tâm, tạo điều kiện về mặt kinh phí để bảo đảm cho

hoạt động P G PL tại các cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh, tuy nhiên,

việc bố trí kinh phí cho công tác này chưa đáp ứng được nhu cầu (cụ thể như:

cơ quan thường trực Hội đồng của tỉnh được cấp khoảng gần 1 tỷ đồng/năm,

mỗi cơ quan, đơn vị ở tỉnh được cấp bình quân khoảng 50 triệu đồng (cấp

chung vào hoạt động chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị đó); cơ quan

74

thường trực Hội đồng cấp huyện khoảng 50 triệu đồng/năm, ở cấp xã hầu như

không được cấp kinh phí P G PL riêng). Chúng ta biết rằng, do đặc thù của

hoạt động P G PL là hoạt động mang tính bề nổi, muốn tổ chức nhiều hoạt

động để mang đến sự lan tỏa cần có kinh phí để thực hiện, tuy nhiên, việc

không được bảo đảm kinh phí ảnh hưởng rất lớn, đóng vai trò quyết định đến

chất lượng, hiệu quản của công tác này.

Thứ chín, công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện

thường xuyên, nghiêm túc:

Việc theo dõi, kiểm tra đối với các các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh được thực hiện thông qua công tác báo cáo, việc kiểm tra trực tiếp

mới chỉ có Sở Tư pháp lồng ghép kiểm tra công tác P G PL trong hoạt

động kiểm tra công tác tư pháp tại các huyện mà chưa triển khai tại các cơ

quan cấp sở, mặt khác, mới chỉ có Sở Tư pháp thực hiện mà chưa được các

cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh khác thực hiện, do đó, chưa nắm

bắt đánh giá được đầy đủ, toàn diện việc thực hiện công tác P G PL ở các

đơn vị, địa phương. Đối với hoạt động giám sát của HĐN tỉnh, trong thời

gian qua, HĐN tỉnh chưa tiến hành giám sát chuyên đề đối với công tác

P G PL nhằm thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện công tác

P G PL trên địa bàn tỉnh.

2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

Những hạn chế, bất cập trong công tác P G PL của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh có thể do nhiều nguyên nhân; trong đó, theo

tác giả có 5 nguyên nhân chính:

i) Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nhận thức về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng về công tác

P G PL của một số cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh chưa thực sự

đầy đủ và đúng đắn, cơ chế hoạt động của Hội đồng P G PL chưa thực sự

75

hiệu quả dẫn đến sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan thiếu chặt chẽ.

Thực tế cho thấy, về mặt nhận thức, người đứng đầu một số cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk còn xem nhẹ vai trò, tầm quan trọng

của công tác PBGDPL nên chưa coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm của mình, thường phó mặc cho các bộ phận chuyên môn và quan niệm

rằng công tác P G PL là của riêng ngành Tư pháp nên chưa dành sự quan

tâm thỏa đáng đối việc thực hiện hoạt động này.

Thứ hai, Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đôi

lúc chưa làm tốt vai trò hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra giúp UBND

tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh, HĐN tỉnh theo dõi các cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh, các địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc các kế

hoạch, chương trình, đề án P G PL đã đề ra dẫn đến thiếu sự sâu sát, quyết

liệt trong chỉ đạo, điều hành. Công tác phối hợp giữa một số ngành, địa

phương chưa thường xuyên, chặt chẽ, chưa thực sự chủ động dẫn đến làm

giảm hiệu quả của hoạt động của tổ chức này.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác P G PL chủ yếu là kiêm nhiệm,

một bộ phận thiếu nhiệt tình, thiếu tính chủ động, chưa làm tốt vai trò tham

mưu về công tác P G PL, hạn chế về trình độ pháp lý, phong tục tập quán

và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc dẫn đến việc thực hiện còn mang tính hình

thức, đối phó, chất lượng thấp. Đây là một trong những nguyên nhân chính

dẫn đến hạn chế, bất cập trong công tác P G PL của các cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh.

Thứ tư, một bộ phận cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

chưa chủ động, quan tâm đến việc tìm hiểu kiến thức pháp luật: chất lượng,

hiệu quả phổ biến pháp luật thuộc rất nhiều vào ý thức, thái độ của chính bản

thân mỗi cán bộ và nhân dân trong quá trình tham gia vào hoạt động này.

Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi các quy định đó liên quan

76

trực tiếp đến quyền và lợi ích trực tiếp của mình đang bị xâm hại, hoặc cần

bảo vệ.. nên dù chủ thể đã có nhiều cố gắng để làm tốt công tác phổ biến pháp

luật nhưng đối tượng tham gia thiếu chủ động, tích cực thì khó có thể đạt chất

lượng, hiệu quả, hút sự quan tâm của mọi tầng lớp nhân dân.

Mặc khác, trình độ dân trí của nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk với

80% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, hơn 30 % là đồng bào TTS nên về

cơ bản thu nhập vẫn còn thấp, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu

quan tâm đến phát triển kinh tế, lo chuyện ăn mặc, học hành, chữa bệnh …

vẫn là nhu cầu cấp thiết và nhu cầu tìm hiểu, cập nhật kiến thức pháp luật vẫn

là nhu cầu thứ yếu nên đây cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những

hạn chế, bất cập của hoạt động này.

Thứ năm, kinh phí chi cho công tác P G PL chưa thực sự được

U N tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh quan tâm, tạo điều

kiện để bảo đảm cho hoạt động P G PL tại các cơ quan, đơn vị, địa phương

của tỉnh. Tuy nhiên, do còn thiếu sự quan tâm, sự nhận thức chưa đầy đủ về

tầm quan trọng của công tác này cộng với đặc thù là một tỉnh chưa tự cân đối

được ngân sách như tỉnh Đắk Lắk nên việc bố trí kinh phí cho hoạt động

P G PL chưa đáp ứng được so với nhu cầu nên đã ảnh hưởng rất lớn đến

việc triển khai các hoạt động PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả của

công tác này.

ii) Nguyên nhân khách quan

- Thứ nhất, công tác P GPL là một hoạt động khó định lượng về hiệu

quả mang lại đối với đời sống kinh tế-xã hội, mặt khác, hệ thống kiến thức

pháp luật rất rộng lớn, liên quan đến mọi quan hệ đời sống kinh tế xã hội và

với điều kinh kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và đặc thù của tỉnh Đắk

Lắk nói riêng hiện nay, do trình độ dân trí còn thấp, đới sống kinh tế còn gặp

nhiêu khó khăn nên việc nhận thức, quan tâm về công tác P G PL còn chưa

77

đồng đều, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của công tác này.

- Thứ hai, các quy định của Luật P G PL và các văn bản hướng dẫn

thi hành chưa thật cụ thể, rõ ràng để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh trong việc P G PL đối với lĩnh vực

chuyên môn quản lý cho đối tượng là các tầng lớp nhân dân, dẫn đến thực

trạng các cơ quan chuyên môn mới chủ yếu quan tâm thực hiện PG PL đối

với lĩnh vực quản lý cho đối tượng cán bộ, công chức của ngành, chưa quan

tâm đến việc triển khai các hoạt động P G PL cho đối tượng là nhân dân

(Luật P G PL chỉ quy định cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh bảo

đảm quyển được thông tin pháp luật của nhân dân thông qua việc biên soạn,

phát hành các tài liệu PBGDPL).

Mặt khác, do đặc thù là cơ quan cấp tỉnh, chủ yếu làm nhiệm vụ tham

mưu, hướng dẫn, quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, có chức năng, nhiệm vụ quản

lý nhà nước nói chung và P G PL nói riêng cho cán bộ, công chức ở cấp

tỉnh và cấp huyện nên ít có điều kiện để triển khai các hoạt động P G PL

trực tiếp cho các tầng lớp nhân dân ở địa phương.

- Thứ ba, nhiều quy định của Luật P G PL và văn bản hướng dẫn thi

hành mang tính hướng dẫn, khuyến khích mà chưa có nhiều quy định mang

tính chế tài để ràng buộc trách nhiệm trong triển khai thực hiện, do đó, gây

khó khăn khi quy trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị đối với việc thực hiện

trong thực tế (như các quy định cửa Luật P G PL về các điều kiện đảm bảo

cho công tác P G PL, xã hội hóa công tác PBG PL, trách nhiệm của các tổ

chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về pháp luật trong

thực hiện công tác P G PL, …).

- Thứ tư, chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá về hiệu quả công tác

PBGDPL: Việc đánh giá hiệu quả của công tác P G PL là việc làm tương

đối khó, vì khó định lượng, khó đánh giá tác dụng mang lại trong ngắn hạn,

78

tuy nhiên, việc chưa có bộ “thước đo” để làm công cụ đánh giá hiệu quả của

công tác PBGDPL mang lại đã ảnh hưởng đến việc đánh giá, định lượng hoạt

động này để từ đó nhìn nhận đúng thực trạng và có các giải pháp để nâng cao

79

chất lượng hoạt động.

Tiểu kết Chƣơng 2

Tại Chương 2, tác giả đã nêu khái quát về tổng quan tình hình kinh tế-xã

hội tỉnh Đắk Lắk ảnh hưởng đến hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk; đồng thời, nêu khái quát thực trạng hoạt

động P G PL của tỉnh Đắk Lắk nói chung và đi sâu phân tích thực trạng

P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

Theo đó, cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk có trách nhiệm

thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động PBGDPL theo quy định của

pháp luật và bố trí nguồn lực để thực hiện các hoạt động P G PL gồm hoạt

động để thực hiện chức năng quản lý nhà nước như: tham mưu banh hành,

ban hành kế hoạch, chương trình, đề án, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đôn đốc

các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh triển khai, thực hiện công

tác P G PL và tổ chức thực hiện các hoạt động P GPL cụ thể với nhiều

nội dung thiết thực bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú cho đối tượng là

cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Trên cơ sở đó, tác giả phân tích thực trạng triển khai các nhiệm vụ này

của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, chẳng hạn như:

Về thực trạng bố trí chủ thể thực hiện công tác PBGDPL: Đã được bố trí

đầy đủ các bộ phận và phân công cán bộ thực hiện, Tuy nhiên, việc bố trí bộ

phận làm đầu mối giữa các cơ quan là chưa đồng bộ, thống nhất. Chất lượng

cán bộ còn hạn chế do thực hiện kiêm nhiệm, không chuyên nghiệp, thiết chủ

động; sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương còn thiết chặt chẽ ảnh

hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện công tác này.

Về thực trạng công tác hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện công

tác PBGDPL: Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đôi

lúc chưa làm tốt vai trò hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra giúp U N

80

tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh theo dõi việc triển khai thực hiện công tác

P G PL trên địa bàn tỉnh.

Về thực trạng thực hiện triển khai các nội dung, hình thức PBGDPL: Đã

được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh triển khai với nhiều nội

dung và bằng nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nội dung

PBGDPL còn chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng, hình thức chậm đổi

mới, chưa có định hướng sử dụng hình thức phù hợp với từng đối tượng, phù

hợp với đặc thù điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh.

Việc xác định mục tiêu, đánh giá hiệu quả của công tác PBGDPL : Chưa

được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh quan tâm, còn thực hiện

mang tính phong trào, hình thức, chưa có công cụ để làm thước đo, định

lượng hiệu quả công tác này …

Kinh phí chi cho công tác PBGDPL: Chưa được quan tâm, đáp ứng đủ

nhu cầu, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đảm bảo đủ nguồn lực tổ chức

thực hiện công tác này.

Cuối cùng, tác giả đã đánh giá chung về những kết quả đạt được, cũng

như những tồn tại, hạn chế trong quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành hoạt

động PBGDPL, trong tham mưu, triển khai thực hiện hoạt động PBGDPL,

những bất cập, hạn chế về mặt cơ chế quản lý, thể chế liên quan đến thực hiện

hoạt động này của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, tạo

tiền đề để nghiên cứu đưa ra các quan điểm, giải pháp, kiến nghị nhằm bảo

81

đảm thực hiện nhiệm vụ của cơ quan này tại Chương 3

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN CHUYÊN

MÔN THUỘC UBND TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật

của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

3.1.1. Phổ biến giáo dục pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh phải đặt dƣới sự lãnh đạo của các cơ quan đảng các cấp của

tỉnh

PBGDPL phải bám sát đường lối, chính sách, định hướng của Đảng

Cộng sản Việt Nam. o đó, hoạt động PBGDPL không thể nằm ngoài sự lãnh

đạo của Đảng. Đối với hoạt động PBGDPL của tỉnh nói chung và của cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh nói riêng, cần có sự quan tâm, quyết liệt chỉ

đạo của Tỉnh ủy Đắk Lắk, an Cán sự Đảng U N tỉnh Đắk Lắk. Với tư

cách là chủ thể lãnh đạo, các tổ chức Đảng này cần có những nội dung,

phương pháp, cách thức nắm bắt, quán triệt, bảo đảm thực hiện nghiêm túc

nhiệm vụ PBGDPL trên địa bàn tỉnh nói chung và của các cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh nói riêng.

3.1.2. Phổ biến giáo dục pháp luật phải gắn với trách nhiệm của

ngƣời đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh là người “đứng

mũi chịu sào”, chịu trách nhiệm chính trong việc tham mưu, đề xuất, triển

khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động PBGDPL của cơ quan

mình theo quy định của pháp luật. Vì vậy, hơn ai hết người đứng đầu cơ quan

chuyên môn phải nắm rõ các nhiệm vụ này để bảo đảm chúng được triển khai

82

thực hiện trên thực tế; đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện.

Muốn được như vậy thì cơ chế chịu trách nhiệm của người đứng đầu

phải được quy định rõ ràng, đầy đủ và việc xử lý trách nhiệm phải được thực

hiện nghiêm túc trên thực tế, từ đó gắn trách nhiệm của người đứng đầu trong

việc triển khai nhiệm vụ thuộc chức năng, phạm vi quản lý của mình.

3.1.3. Ph n công, phối hợp và chế độ trách nhiệm rõ ràng trong

việc thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

Thực hiện Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày 17/5/2013 của Thủ

tướng Chính phủ quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội

đồng phối hợp P G PL, U N tỉnh đã củng cố Hội đồng phối hợp

P G PL tỉnh với 29 thành viên là lãnh đạo chủ chốt các sở, ngành, tổ chức,

đơn vị của tỉnh (Chủ tịch Hội đồng là đồng chí Phó Chủ tịch thường trực

U N tỉnh, cơ quan thường trực của Hội đồng là Sở Tư pháp); đồng thời ban

hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng, quy định rõ cơ cấu tổ chức,

nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc, phương thức làm việc và kinh phí hoạt

động của Hội đồng, Hội đồng cũng đã ra Thông báo phân công cụ thể nhiệm

vụ cho từng đồng chí... Ngoài ra, ở tỉnh còn có 03 cơ quan ( ộ Chỉ huy quân

sự tỉnh, ộ Chỉ huy biên phòng tỉnh và Công an tỉnh) thành lập Hội đồng phối

hợp P G PL riêng với 43 thành viên đã tiến hành tổ chức, thực hiện phổ

biến pháp luật cho các đối tượng. Trong những năm qua, Hội đồng phối hợp

PBGDPL các cấp tỉnh Đắk Lắk đã nỗ lực triển khai, thực hiện tương đối tốt

nhiệm vụ của mình và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần củng cố,

nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho cán bộ và nhân dân.

Tuy nhiên, hoạt động của nhiều Hội đồng phối hợp P G PL các cấp

còn bộc lộ những hạn chế, bất cập: sự phối hợp giữa các cơ quan làm công tác

tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật chưa thường xuyên, liên tục, thiếu đồng

83

bộ, không gắn kết; chế độ thông tin, báo cáo về phổ biến pháp luật ở các cấp,

các ngành thực hiện chưa đầy đủ, kịp thời; thiếu chủ động, tích cực trong việc

triển khai thực hiện nhiệm vụ; còn có hiện tượng dựa dẫm, ỷ lại cho các cơ

quan khác... Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động chỉ

đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật, làm chậm

tiến độ triển khai thực hiện nội dung các Đề án PBGDPL.

o đó, nên việc tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh với nhau và với các tổ chức đoàn thể, với các

địa phương trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng là yêu cầu đặt ra để đảm

bảo nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo cơ chế để phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng

giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị làm nhiệm vụ phổ biến pháp luật, nhanh

chóng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; kịp thời rút kinh nghiệm và chỉ

ra được những bài học hay trong quá trình thực hiện.

3.1.4. Đ y mạnh xã hội h a hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Xã hội hóa hoạt động PBGDPL là một nhu cầu khách quan, là chủ

trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động sức mạnh

vật chất và tinh thần của toàn xã hội phục vụ cho công tác này, giảm bớt việc

cơ quan hành chính Nhà nước phải trực tiếp đảm nhận nhiều công việc cùng

một lúc dẫn đến tình trạng làm việc hời hợt, thiếu hiệu quả trong khi công

việc này đáng lẽ để xã hội tự giải quyết, vừa giảm được biên chế, tinh gọn bộ

máy, giảm chi ngân sách vừa phục vụ nhân dân được nhanh chóng và hiệu

quả hơn. Xã hội hóa hoạt động P G PL các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk cần phải triển khai nhằm huy động tối đa nguồn nhân

lực, vật lực của xã hội và sự tham gia của toàn xã hội vào hoạt động PBGDPL

tren địa bàn tỉnh, tạo nền tảng bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả của

84

hoạt động này.

3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của

cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến phổ

biến, giáo dục pháp luật

Văn bản pháp luật liên quan đến PBGDPL là cơ sở pháp lý làm nền tảng

cho việc tham mưu triển khai thực hiện nhiệm vụ PBGDPL của tỉnh nói

chung cũng như của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk nói

riêng. Vì vậy, các văn bản này phải có nội dung đầy đủ, khả thi bảo đảm điều

chỉnh toàn bộ các vấn đề liên quan đến việc triển khai hoạt động PBGDPL, từ

nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện cho đến trách nhiệm, chế tài xử lý trong

hoạt động này.

Để thực hiện giải pháp này, tác giả đề xuất thực hiện các nội dung cụ thể

sau:

i) Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành

của cơ quan trung ương

Cơ quan làm nhiệm vụ giúp U N tỉnh quản lý nhà nước về P G PL

của tỉnh cần tham mưu cho U N tỉnh rà soát, đánh giá lại toàn bộ những

vướng mắc, bất cập trong các văn bản QPPL của các cơ quan trung ương,

gồm Luật P G PL, Nghị định 28/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật P G PL, Quyết định số

27/2013/QĐ-TTg ngày của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt

động của Hội đồng phối hợp P G PL, Thông tư 23/2012/TT-BTP của ộ Tư

pháp quy định về báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật.v.v… Trên cơ sở

đó, tham mưu U N tỉnh có văn bản kiến nghị Chính phủ sửa đổi các nội

dung bất cập, không phù hợp, trong đó chú trọng quy định rõ trách nhiệm của

85

cơ quan có thẩm quyền, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác P G PL.

Hai là, tham mưu cho U N tỉnh có văn bản đề nghị Chính phủ xem xét

sửa đổi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp

chế, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo

hướng quy định rõ bộ phận, phòng chuyên môn làm “đầu mối” để theo dõi

công tác pháp chế nói chung và công tác P G PL nói riêng vì hiện nay bộ

phận làm “đầu mối” theo dõi công tác P G PL tại các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh Đắk Lắk bố trí không thống nhất, có Sở thì vẫn bố trí

phòng pháp chế riêng để theo dõi công tác P G PL, có sở bố trí cán bộ pháp

chế thuộc phòng thanh tra, có sở lại bố trí thuộc Văn phòng gây ra sự không

đồng bộ, thống nhất trong việc tham mưu, theo dõi, tổ chức hoạt động

P G PL tại các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh.

ii) Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành

của tỉnh

Một là, ban hành bộ tiêu chí làm chuẩn đánh giá của tỉnh đối với kết quả

hoạt động P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.

Chuẩn đánh giá kết quả thực hoạt động P G PL là các tiêu chí làm cơ

sở đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động PBGDPL

của các cơ quan hành chính liên quan trên địa bàn tỉnh, trong đó có các cơ

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Đây sẽ là cơ sở để kết luận, quy kết

trách nhiệm đối với cán bộ, công chức có liên quan. Hiện nay, tác giả nhận

thấy chưa có chuẩn đánh giá đối với nhiệm vụ PBGDPL.

Vì vậy, để bảo đảm và nâng cao hiệu quả hoạt động P G PL trên địa

bàn tỉnh, tác giả tin rằng việc U N tỉnh Đắk Lắk chủ động ban hành bộ tiêu

chuẩn đánh giá nhiệm vụ PBGDPL của tỉnh là cần thiết và sẽ được các cơ

86

quan trung ương cũng như địa phương ủng hộ. Đây cũng sẽ là nguồn bổ trợ

cho việc đánh giá nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn

như đang được một số ngành thực hiện (như bộ tiêu chí đánh giá về hiệu quả

công tác cải cách hành chính, các bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới…) .

Để thực hiện nội dung này, tác giả đề xuất cách thức thực hiện như sau:

kiến nghị Sở Tư pháp chủ trì phối hợp Sở Nội vụ và các cơ quan chuyên môn

tham mưu cho U N tỉnh Đắk Lắk ban hành ộ tiêu chí đánh giá về kết quả

thực hiện nhiệm vụ PBGDPL của tỉnh Đắk Lắk để áp dụng chung cho các cơ

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh và U N cấp huyện, cấp xã trên địa bàn

tỉnh, trong đó, cần xây dựng phương pháp đánh giá kết quả PBGDPL. Trong

điều kiện hiện nay, phương pháp giá có tính khả thi, phù hợp là nhất là xây

dựng phiếu thu thập ý kiến của đối tượng tiếp nhận để ghi nhận những ý kiến

phản hồi về hiệu quả hoạt động P G PL.

Hai là, ban hành văn bản xác định rõ trách nhiệm cá nhân đối với hoạt

động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

Trách nhiệm cá nhân đối với PBGDPL là trách nhiệm công vụ gắn liền

với mỗi cán bộ, công chức, được quy định rõ tại khoản 1, Điều 9 và Điều 10,

Luật Cán bộ, công chức năm 2008, theo đó cán bộ, công chức phải “chịu

trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao”, đồng thời,

cán bộ, công chức là người đứng đầu phải “chịu trách nhiệm về kết quả hoạt

động của cơ quan, tổ chức, đơn vị” [13].

Trách nhiệm ở đây được hiểu trước tiên đó là nghĩa vụ thực hiện đến

cùng nhiệm vụ được giao, không được thoái thác và trao lại cho người khác,

có nghĩa là phải gắn mình với việc thực hiện công vụ cho đến khi có kết quả;

thứ hai, đó là hậu quả bất lợi mà người cán bộ, công chức phải gánh chịu khi

không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quy định chung

được ghi nhận trong Luật. Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể để xác định

87

trách nhiệm trong việc thực hiện hoạt động PBGDPL, do đó trên thực tế chưa

có trường hợp nào chịu trách nhiệm đến cùng khi không hoàn thành các

nhiệm vụ liên quan đến PBGDPL. Vì vậy, tác giả thấy rằng cần thiết tham

mưu cho U N tỉnh ban hành một văn bản QPPL để điều chỉnh về trách

nhiệm của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk,

cũng như trách nhiệm của cán bộ, công chức có liên quan, như: trưởng các

phòng chuyên môn, đơn vị trực thuộc các cơ quan này, cách thức xác định

trách nhiệm bảo đảm tính khả thi trên thực tế và quy định biện pháp công khai

trách nhiệm của người đứng đầu đối với nhiệm vụ này.

Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, tác giả kiến nghị U N tỉnh Đắk

Lắk giao cho Sở Tư pháp phối hợp với Sở Nội vụ để tham mưu ban hành Quy

định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị Nhà nước về thực hiện

P G PL trên địa bàn tỉnh, quy định cách thức xác định trách nhiệm

P G PL cụ thể, rõ ràng và khả thi, để bảo đảm những trường hợp sai phạm

phải được xử lý trên thực tế.

3.2.2. Tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của HĐND, UBND tỉnh Đắk

U N tỉnh Đắk Lắk là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước

về hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh. o đó, U N tỉnh có vai trò quan

trọng trong chỉ đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện của

các cơ quan, địa phương trên địa bàn tỉnh, trong đó có các cơ quan chuyên

môn thực thuộc.

Để thực hiện chức năng quản lý của mình, U N tỉnh Đắk Lắk có thể

quyết định các vấn đề cần thiết trong phạm vi thẩm quyền được giao để bảo

đảm thực thi nhiệm vụ PBGDPL, chẳng hạn như: tự ban hành hoặc đề xuất cơ

quan có thẩm quyền ban hành các văn bản QPPL liên quan để điều chỉnh các

vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này; thực hiện kiểm tra và xử lý những sai

88

phạm theo quy định. o đó, để tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý trong

hoạt động PBGDPL, tác giả kiến nghị U N tỉnh thực hiện các biện pháp

sau đây:

Thứ nhất, chỉ đạo cơ quan “đầu mối” giúp U N tỉnh tham mưu, quản

lý về công tác P G PL và các cơ quan chuyên môn tham mưu, đề xuất ban

hành những văn bản liên quan làm cơ sở để thực hiện hiệu quả và kiểm tra đối

với hoạt động này, như: ban hành ộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động

P G PL trên địa bàn tỉnh; ban hành Quy định về trách nhiệm của người

đứng đầu, cán bộ, công chức trong hoạt động PBGDPL…

Thứ hai, chỉ đạo Sở Tư pháp tham mưu U N tỉnh tăng cường công tác

kiểm tra việc thực công tác P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh, trong các đợt kiểm tra hàng năm về PBGDPL, UBND tỉnh cần

giao một cán bộ lãnh đạo Hội đồng P G PL tỉnh (Chủ tịch hoặc Phó Chủ

tịch Hội đồng) làm trưởng đoàn kiêm tra trực tiếp, định kỳ sáu tháng và hàng

năm để đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra việc thực hiện để khắc phục tình trạng lâu

nay chủ yếu kiểm tra các đơn vị cấp huyện còn các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh chỉ kiểm tra quan báo cáo.

Về phía HĐN tỉnh Đắk Lắk, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước

cấp trên; đồng thời có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc giám sát việc tuân

theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương. o đó, HĐN tỉnh cần thiết giám

sát hoạt động PBGDPL của chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh trong

đó có các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Để bảo đảm thực hiện giải

pháp này, tác giả kiến nghị biện pháp thực hiện như sau:

Sở Tư pháp cần đề xuất U N tỉnh tham mưu HĐN tỉnh đánh giá và

đưa kết quả thực hiện hoạt động P G PL vào trong nội dung báo cáo về tình

89

hình kinh tế xã hội hàng năm tại kỳ họp HĐN tỉnh, trên cơ sở đó đưa vào

Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của HĐN tỉnh

để thực hiện.

3.2.3 Kiện toàn tổ chức, nguồn lực thực hiện phổ biến, giáo dục pháp

luật tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

3.2.3.1 Kiện toàn về tổ chức

- Về đầu mối quản lý hoạt động PBGDPL: Hiện nay, trên thực tế hoạt

động P G PL ở các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh chỉ có Sở Tư

pháp có phòng P G PL là đầu mối chuyên trách thực hiện hoạt động

P G PL, các Sở khác giao cho phòng pháp chế hoặc một các bộ pháp chế

thuộc Văn phòng Sở hoặc Thanh tra Sở làm đầu mối theo dõi công tác này

dẫn đến việc thiếu đồng bộ, thống nhất trong việc tổ chức đầu mối theo dõi,

cụ thể tác giả kiến nghị chuyển cho bộ phận Văn phòng của các cơ quan

chuyên môn đảm nhiệm, vì trên thực tế bộ phận này đang phụ trách chức

năng, theo dõi, tổng hợp các họat động của các chuyên môn của các Sở và có

chức năng tham mưu, tổng hợp, giúp việc trực tiếp cho an Giám đốc các cơ

quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, có nhiều thuận lợi trong việc theo dõi,

đôn đốc, kiểm tra các phòng, đơn vị thuộc Sở triển khai các hoạt động

PBGDPL.

Đề nghị ban hành Quy chế hoạt động cán bộ đầu mối thực hiện hoạt

động P G PL của tỉnh theo hướng yêu cầu “bố trí Chánh Văn phòng của các

cơ quan chuyên môn làm cán bộ đầu mối thực hiện hoạt động P G PL” cho

thống nhất và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong việc tổng hợp, tham mưu cho

người đứng đầu cơ quan nắm bắt sâu sát tình hình và chỉ đạo kịp thời hơn đối

với nhiệm vụ PBGDPL.

- Về phía bộ phận thực hiện hoạt động PBGDPL: cần chủ động phối hợp

với Sở Nội vụ có văn bản đề nghị U N tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên

90

môn sửa đổi, bổ sung các Quyết định quy định về chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan chuyên môn trong đó quy định rõ trách nhiệm P G PL đối với

các phòng chuyên môn, đơn vị trực của các cơ quan chuyên môn để Trưởng

các phòng, đơn vị này tham gia với tư cách là một chủ thể có trách nhiệm

thực hiện P G PL chứ không là chủ thể phối hợp đơn thuần như hiện nay.

- Về phía Hội đồng PHPBGDPL của tỉnh: Hội đồng phối hợp P G PL

tỉnh lực lượng đóng vai trò chủ chốt trong việc tư vấn, chỉ đạo, hướng dẫn

công tác chức, thực hiện phổ biến pháp luật. Trong chỉ đạo hoạt động, Hội

đồng đã có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên theo dõi, chỉ

đạo, đôn đốc, kiểm tra công tác chức, thực hiện phổ biến pháp luật đối với

từng đối tượng, từng địa bàn; hàng năm tổ chức sơ kết để đánh giá, rút kinh

nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện.

Tuy nhiên, hiện Quy chế mới chỉ phân công trách nhiệm chung là cơ

quan chuyên môn quản lý nhà nước lĩnh vực nào thì chịu trách nhiệm

P G PL lĩnh vực đó mà chưa quy định cụ thể, rõ ràng cách thức, cơ chế phối

hợp trong từng lĩnh vực, do đó, tác giả kiến nghị cần sửa đổi Quy chế hoạt

động của Hội đồng theo hướng quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm

phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh cũng như giữa các

cơ quan chuyên môn với các tổ chức đoàn thể trong việc triển khai phối hợp

P G PL các lĩnh vực có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhau hoặc

yêu cầu các cơ quan ban hành Quy chế phối hợp riêng với nhau như: Quy chế

phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi trường và Sở Xây dựng tuyên truyền,

P G PL về lĩnh vực đất đai, xây dựng; Quy chế phối hợp giữa an ân tộc,

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội phụ nữ phối hợp P G PL cho

đồng bào dân tộc thiểu số …nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng.

3.2.3.2 Kiện toàn đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Nhìn một cách tổng thể, những năm gần đây, lực lượng làm công tác

91

phổ biến pháp luật đã và đang dần được củng cố, kiện toàn, tỉnh Đắk Lắk đã

có sự quan tâm, chỉ đạo tăng cường năng lực của đội ngũ làm công tác phổ

biến pháp luật bằng nhiều hình thức coi đây là yếu tố quan trọng hàng đầu

quyết định chất lượng, hiệu quả của tác phổ biến pháp luật. Tuy nhiên, để

khắc phục những hạn chế, bất của đội ngũ này, tác giả kiến nghị Sở Tư pháp

tham mưu cho U N tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh

tiếp tục tăng cường tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng

phổ biến pháp luật cho cán bộ pháp chế các Sở, các báo cáo viên pháp luật,

đặc biệt, tham mưu, chỉ đạo các địa phương tăng cường bố trí, bổ sung đội

ngũ báo cáo viên pháp luật là người đồng bào dân tộc thiểu số để nâng cao

hiệu quả P G PL cho nhân dân trên địa bàn tỉnh.

3.2.4 Đổi mới nội dung, hình thức và phƣơng pháp phổ biến pháp

luật của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

3.2.4.1 Đổi mới nội dung phổ biến pháp luật

Về nội dung PBGDPL, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk

Lắk đã lựa chọn được những nội dung pháp luật cơ bản phù hợp với đối tượng

là cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, kiến thức pháp luật còn

nghèo nàn, nội dung phổ biến pháp luật chưa chú trọng tới nhu cầu tiếp nhận

thông tin, kiến thức pháp luật của đối tượng, mới chỉ dừng lại ở việc truyền

đạt những nội dung pháp luật mà mình có, chưa hướng tới trang bị những nội

dung pháp luật mà đối tượng cần, như kiến thức pháp luật về về quyền con

người, về an sinh xã hội, an toàn thực phẩm, đất đai, xử phạt vi phạm hành

chính... chủ yếu giới thiệu các quy định pháp luật, chưa gắn với các sự kiện,

tình huống pháp luật thực tiễn, chưa chú trọng trang bị kỹ năng vận dụng kiến

thức pháp luật vào thực tiễn đời sống dẫn đến cán bộ và nhân dân có kiến

thức, hiểu biết pháp luật nhưng vẫn bị động, lúng túng trong vận dụng vào

thực tiễn. Để đổi mới nội dung P G PL, các cơ quan chuyên môn thuộc

92

U N tỉnh Đắk Lắk cần tập trung vào các biện pháp sau:

Thứ nhất, lựa chọn những nội dung kiến thức về các lĩnh vực pháp luật

cụ thể, liên quan mật thiết tới cuộc sống, lao động, sinh hoạt của nhân dân

trên địa bàn tỉnh để tập trung phổ biến pháp luật cho đối tượng này. Mặt khác,

cần bổ sung, cập nhật những văn bản pháp luật mới được ban hành.

Thứ hai, chú trọng trang bị những nội dung kiến thức về các văn bản

quy phạm pháp luật dưới luật do HĐN , U N các cấp ban hành, nhất là

văn bản có liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao động, việc làm, lợi ích của

các tầng lớp nhân dân, bao gồm các nghị quyết của HĐN các cấp, những

quyết định của U N các cấp, các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện

của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền..., là cơ sở rất quan trọng của việc

thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.

Thứ ba, cần chú trọng trang bị cho cán bộ và nhân dân kiến thức về

kinh nghiệm thực tế, những nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, kỹ năng vận dụng các QPPL để xử lý, giải quyết

các sự việc, sự kiện, tình huống pháp luật xảy ra trong cuộc sống, những mâu

thuẫn, chồng chéo trong thực tiễn thi hành pháp luật.

3.2.4.2 Đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

Về hình thức PBGDPL đã được các cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh Đắk Lắk tiến hành một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú. Tuy nhiên,

các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh chưa xác định được hình thức phổ biến

pháp luật chủ yếu, phù hợp với những nội dung, đối tượng cụ thể để có biện

pháp triển khai thực hiện; còn chậm đổi mới việc sử dụng các hình thức

P G PL phù hợp với xu thế phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội trên địa

bàn tỉnh để nâng cao hiệu quả hoạt động, do đó, các cơ quan chuyên môn

thuộc U N tỉnh Đắk Lắk cần tập trung vào các biện pháp sau để đổi mới

93

các hình thức P G PL:

Thứ nhất, tiếp tục đa dạng hóa, đổi mới các hình thức PBGDPL cho

cán bộ và nhân dân phù hợp với đặc điểm về trình độ nhận thức, lối sống sinh

hoạt và địa bàn cư trú của từng nhóm đối tượng trên địa bàn tinh Đắk Lắk.

Theo tinh thần đó, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh cần sử

dụng linh hoạt, đồng bộ nhiều hình thức phổ biến pháp luật. Đối với đa số

nhân đang sinh sống trên địa bàn tỉnh cần tăng cường sử dụng các hình thức:

PBGDPL thông qua các cuộc họp dân, các buổi sinh hoạt tôn giáo; biên soạn

sách pháp luật phổ thông bằng dân tộc thiểu số; sử dụng tờ gấp pháp luật;

thông qua hệ thống loa truyền thanh cơ sở; tổ chức các hoạt động tư vấn pháp

luật. Đặc biệt, cần quan tâm sử dụng Trang thông tin điện tử để tổ chức thi

tìm hiểu pháp luật trực tuyến, sử dụng mạng xã hội như zalô, facebook để

thực hiện hoạt động P G PL vì đây là hình thức có rất nhiều ưu việt như chi

phí thấp, sức lan tỏa lớn, dễ thực hiện.

Đối với đối tượng là cán bộ, công chức cần tăng cường tổ chức tập

huấn chuyên sâu, mời các chuyên gia, nhà P G PL chuyên nghiệp tập huấn

cho đội ngũ này nhằm cập nhật, nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật, giải

quyết những vướng mắc pháp luật phát sinh trong thực tiễn, tạo thuận lợi

trong quá trình thực thi công vụ.

3.2.4.3 Đổi mới phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật

Có thể khẳng định rằng, phương pháp truyền đạt kiến thức pháp luật

cho các đối tượng hiện đang là khâu yếu nhất của các báo cáo viên pháp luật

của tỉnh Đắk Lắk. Trong những năm qua, đội ngũ báo cáo viên pháp luật các

cấp chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình theo kiểu độc thoại, một chiều

và hiện không còn phù hợp với nhiều đối tượng. Để tạo bước đột phá trong

việc đổi mới phương pháp truyền đạt, các báo cáo viên pháp luật cần tập trung

94

thực hiện các biện pháp nhằm hướng trọng tâm phổ biến pháp luật vào người

học, người nghe; phát huy tính chủ động, sáng tạo của họ. Chuyển mạnh từ

phương thức lấy báo cáo viên pháp luật làm trung tâm sang phương thức lấy

cán bộ và nhân dân làm trung tâm.

3.2.5 Đảm bảo kinh phí cần thiết, c cơ chế huy động xã hội h a

công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

Có thể khẳng định rằng, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả PBGDPL

của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk không thể tách rời sự

đảm bảo các điều kiện về kinh tế. Vì vậy, Tỉnh ủy, HĐN tỉnh, U N tỉnh,

Đắk Lắk cần quan tâm, đầu tư kinh phí nhiều hơn nữa cho hoạt động

P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Hoạt động này chỉ

đi vào chiều sâu, thực chất và đạt hiệu quả cao khi có sự quan tâm, đầu tư

nguồn kinh phí thỏa đáng từ phía Nhà nước nói chung, các cấp, các ngành ở

địa phương nói riêng. Nguồn kinh phí được cung cấp đầy đủ sẽ là điều kiện

quan trọng để các chủ thể củng cố, nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ

hoạt động phổ biến pháp luật, nếu nguồn kinh phí không được đáp ứng thì

khó có thể nói đến việc nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, thực hiện phổ

biến pháp luật.

Để đảm bảo đáp ứng đủ kinh phí cho công tác này, bên cạnh việc huy

động từ nguồn ngân sách, tác giả kiến nghị, Sở Tư pháp cần tham mưu cho

U N tỉnh, HĐN tỉnh ban hành cơ chế, chính sách để huy động xã hội hóa

công tác P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để thu hút đầu tư, vận động

được sự tham gia của mọi người, đặc biệt là những người có tâm huyết và

năng lực. Cần thí điểm việc xã hội hóa một số lĩnh vực của công tác phổ biến

pháp luật, qua đó đánh giá mức độ thành công, sau đó mới tiến hành nhân

rộng. Từ hoạt động thực tiễn rút ra được những kinh nghiệm cụ thể, có kế

hoạch phát triển lâu dài; hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó quy định cụ

95

thể về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khi tham gia

công tác PBGDPL. Khen thưởng những tập thể cá nhân có nhiều thành tích

đóng góp trong công tác xã hội hóa PBGDPL. Vận động nguồn kinh phí đóng

góp từ các tổ chức phi chính phủ, việt kiều vì các tổ chức, cá nhân này thường

rất quan tâm đầu tư phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số, các nhóm xã hội

yếu thế. Huy động nguồn kinh phí đóng góp từ các doanh nghiệp, nhà hảo

tâm đang hoạt động sản xuất, kinh doanh ở tỉnh Đắk Lắk và các địa phương

khác. Điều tiết nguồn kinh phí từ các đề án, chương trình mục tiêu quốc gia

và các nguồn kinh phí khác. Đồng thời, nghiên cứu ban hành cơ chế cho phép

các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có cơ chế “thuê ngoài” các tổ

chức P G PL chuyên nghiệp để thực hiện các hoạt động P G PL, nhằm

tạo tính chuyên nghiệp trong hoạt động P G PL, nâng cao chất lượng, hiệu

96

quả hoạt động này cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Tiểu kết Chƣơng 3

Trên cơ sở thực trạng P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh Đắk Lắk được phân tích, đánh giá tại Chương 2, tác giả đã bám sát để

đưa ra các quan điểm, giải pháp xác thực nhằm giải quyết những tồn tại, hạn

chế, qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng P G PL của cơ quan chuyên môn

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, tác giả đưa ra 4 quan điểm và 4 giải pháp

bảo đảm thực hiện nhiệm vụ P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N

tỉnh Đắk Lắk, cụ thể:

Về mặt quan điểm, tác giả cho rằng hoạt động P G PL cần đặt dưới

sự lãnh đạo của các cơ quan đảng các cấp của tỉnh; gắn với trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk; phân công,

phối hợp và chế độ trách nhiệm rõ ràng trong việc thực hiện hoạt động

PBGDPL; đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Về giải pháp gồm có: một là, tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật

liên quan đến PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk;

hai là, tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý của U N tỉnh Đắk Lắk, vai

trò giám sát của HĐN tỉnh Đắk Lắk; ba là, kiện toàn tổ chức, nguồn lực

thực hiện PBGDPL tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk;

bốn là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến pháp luật; năm

là, bảo đảm nguồn lực triển khai hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên

môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

Theo niềm tin chủ quan của tác giả, các quan điểm và giải pháp này

mang tính cơ bản nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk và có thể áp dụng chung đối với

chính quyền cấp huyện và cấp xã trên địa bàn tỉnh, tạo nền tảng cho việc tiếp

97

tục nghiên cứu và nhân rộng thực hiện trên phạm vi cả nước.

KẾT LUẬN

Phổ biến giáo dục pháp luật (P G PL) là khâu đầu tiên trong hoạt

động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân.

Trong rất nhiều văn kiện của Đảng đã xác định rõ công tác P G PL là một

bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống

chính trị trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc

đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội.

Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng này, trong khuôn khổ Luận văn

này, tác giả đã tập trung phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hoạt động

P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh với đặc điểm

đây là một trong các nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ quan này, đóng

vai trò “nòng cốt” trong hệ thống chính quyền cấp tỉnh và tạo tiền đề để đảm

bảo việc triển khai thực hiện có hiệu quả ở cấp huyện và cấp xã; phân tích

thực trạng triển khai hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc

U N tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra nhiều hạn chế, tồn tại về mặt thể chế, về thực

trạng tham mưu thực hiện trên khía cạnh là một hoạt động quản lý nhà nước

của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh và trên khía cạnh là một chủ

thể tổ chức thực hiện cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Kết quả mới mà luận văn đạt được, đó là đi sâu vào nghiên cứu, phân

tích cơ sở khoa học của P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh; đánh giá các nhiệm vụ, trách nhiệm liên quan đến hoạt động P G PL,

chứ không phải đơn thuần chỉ nghiên cứu về cách thức thực hiện hoạt động

98

P G PL như nhiều luận văn khác đã nghiên cứu.

Trên cơ sở đó, tác giả đã nghiên cứu và đề xuất được các giải pháp và

biện pháp cụ thể để bảo đảm nâng cao chất lượng P G PL của cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, làm cơ sở để triển khai nghiên cứu

nhân rộng đối với toàn tỉnh, cũng như làm nền tảng để tiếp tục nghiên cứu

trong phạm vi cả nước. Đây cũng chính là mục đích, nhiệm vụ mà luận văn đề

ra.

Trong giới hạn kinh nghiệm và khả năng còn hạn hẹp, cộng với thời gian

nghiên cứu có hạn, chắc chắc sẽ có những nhận định còn mang tính chủ quan

và những thiếu sót nhất định, tác giả rất mong Quý Thầy, Cô và bạn bè, đồng

nghiệp quan tâm có ý kiến góp ý chân thành để tác giả tiếp tục hoàn thiện

99

trong những lần nghiên cứu sau này.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Trần Trung Hiếu (2016), “PBGDPL với chủ trương hướng về cơ sở” đăng

trên Tạp chí ân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề tháng 4 năm 2017), tr.

100

9-12.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tô Tử Hạ (2003), Từ điển Hành chính, NXb. Lao động – Xã hội, Hà

Nội.

2. Chính phủ (2014), Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Nghị định số

24/2014/NĐ-CP, Hà Nội.

3. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số

14/2012/QH13, Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi

hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Nghị định số 28/2013/NĐ-CP, Hà

Nội.

5. Chính phủ (2011), Quy định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP,

Hà Nội.

6. Nguyễn Đình Lộc (1987), Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp

luật ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ Luật học (bảo vệ ở Liên Xô cũ)

7. Trần Ngọc Đường và ương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục

pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Nguyễn Quốc Sửu (2011), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,

công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật.

9. Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công

chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công, Hà nội

10. Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào

101

công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội.

11. ương Thị Thu Hiền (2013), PBGDPL trên địa bàn huyện Bố

Trạch, tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật

học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Nguyễn Xuân Hòa (2016), Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật

thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ân dân tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc

sỹ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia

13. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII

(2008), Cán bộ, công chức, Luật số 22/2008/QH13, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

14. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII

(2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

15. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII

(2015), Ban hành văn bản QPPL, Luật số 80/2015/QH13, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

16. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII

(2015), Tổ chức chính quyền địa phương, Luật số 77/2015/QH13, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII

(2016), Tiếp cận thông tin 2016, Luật số 104/2016/QH13, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

18. U N tỉnh Đắk Lắk (2016), Sơ kết 3 năm thực hiện Luật

PBGDPL, áo cáo số 113/BC-UBND, Đắk Lắk.

19. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2015), Về kết quả công tác

PBGDPL năm 2015, áo cáo số 01/BC-HĐPH, Đắk Lắk.

20. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2017), Về kết quả công tác

102

PBGDPL năm 2016, Báo cáo số 10/BC-HĐPH, Đắk Lắk.

21. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2018), Về kết quả công tác

PBGDPL năm 2017, Báo cáo số 02/BC-HĐPH, Đắk Lắk.

22. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2019), Về kết quả công tác

PBGDPL năm 2018, Báo cáo số 69/BC-HĐPH, Đắk Lắk.

23. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2019), Về kết quả công tác

PBGDPL năm 2019, Báo cáo số 306/BC-HĐPH, Đắk Lắk.

24. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chương trình PBGDPL từ năm 2012

đến năm 2016, Quyết định số 409/QĐ-TTg, Hà Nội.

25. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chương trình PBGDPL từ năm 2017

đến năm 2021, Quyết định số 705/QĐ-TTg, Hà Nội.

26. U N tỉnh Đắk Lắk (2012), Chương trình PBGDPL trên địa bàn

tỉnh từ năm 2012 đến năm 2016, Quyết định số 2464/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

27. U N tỉnh Đắk Lắk (2017), Chương trình PBGDPL trên địa bàn

tỉnh từ năm 2017 đến năm 2021, Quyết định số 2464/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

28. U N tỉnh Đắk Lắk (2015), Chương trình PBGDPL trên địa bàn

tỉnh từ năm 2017 đến năm 2021, Quyết định số 2464/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

29. Thủ tướng Chính phủ (2013), Về thành phần của Hội đồng phối

hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg, Hà Nội.

30. U N tỉnh Đắk Lắk (2014), Kế hoạch triển khai công tác

PBGDPL năm 2015, Quyết định số 3277/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

31. U N tỉnh Đắk Lắk (2016), Kế hoạch triển khai công tác

PBGDPL năm 2016, Quyết định số 116/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

32. U N tỉnh Đắk Lắk (2017), Kế hoạch triển khai công tác

PBGDPL năm 2017, Quyết định số 3393/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

33. U N tỉnh Đắk Lắk (2018), Kế hoạch triển khai công tác

103

PBGDPL năm 2018, Quyết định số 3393/QĐ-UBND, Đắk Lắk.

34. U N tỉnh Đắk Lắk (2018), Kế hoạch triển khai công tác

PBGDPL năm 2019, Kế hoạch số 11462/KH-UBND, Đắk Lắk.

35. Nguyễn Tất Viễn (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây

dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Đề tài cấp ộ, ộ Tư pháp, Hà Nội

36. Nguyễn Như ý chủ biên (1998), Đai từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội. (tr. 1662)

38. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Hà

Nội.

39. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số vấn đề giáo dục

pháp luật ở miền núi. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật - ộ Tư pháp (2013), Hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số nước trên thế giới, Tài liệu tham khảo

104

nội bộ, Hà Nội./.