BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN TRUNG HIẾU
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
UBND TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK – NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN TRUNG HIẾU
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
UBND TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THẾ TÀI
ĐẮK LẮK – NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận văn
Trần Trung Hiếu
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được nhiều
sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn và động viên từ quý Thầy, Cô giáo của Học
viện Hành chính Quốc gia và Phân viện khu vực Tây Nguyên; của PGS.TS.
Lương Thanh Cường, PGS.TS. Lê Thị Hương đã định hướng tên đề tài khoa
học cho tôi; các giáo viên chủ nhiệm, quý Thầy Cô giảng dạy tại lớp, cũng
như các anh, chị, em là học viên của lớp, gia đình và các đồng chí đồng
nghiệp.
Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn TS.Nguyễn Thế Tài, người trực tiếp
hướng dẫn khoa học đã tận tình quan tâm, giúp đỡ và định hướng để tôi hoàn
thành tốt công trình khoa học của mình.
Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng Đánh giá Luận văn quan tâm xem xét,
nghiên cứu và cho ý kiến góp ý về những thiếu sót để tôi kịp thời sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện đề tài khoa học.
Để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, xin kính chúc quý Thầy, Cô, các anh
chị em học viên của lớp, các đồng nghiệp dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và
thành đạt!
Tác giả luận văn
Trần Trung Hiếu
MỤC LỤC
Trang
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PH IẾN, GIÁO
C PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
U N CẤP TỈNH 9
1.1. Khái quát chung về P G PL của cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh 9
1.2. Chủ thể, đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh 17
1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh 21
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến PBGDPL của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. 29
Chương 2: THỰC TRẠNG PBGDPL CỦA CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN THUỘC U N TỈNH ĐẮK LẮK (TỪ 2015-2019) 35
2.1. Thực trạng hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk (từ 2015-2019) 35
2.2. Đánh giá chung về hoạt động P G PL của các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk 63
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
P G PL CỦA CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC U N
TỈNH ĐĂK LẮK 82
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động PBGDPL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk 82
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động PBGDPL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk 85
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật
HĐN Hội đồng nhân dân
UBND Uỷ ban nhân dân
QPPL Quy phạm pháp luật
Sở LĐ,T &XH Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
Sở NN&PTNT Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Sở VH,TT& L Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch
Sở GT&VT Sở Giao thông và Vận tải
Sở G &ĐT Sở Giáo dục và Đào tạo
Sở TN&MT Sở Tài nguyên và Môi trường
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Phổ biến giáo dục pháp luật (P G PL) là khâu đầu tiên trong hoạt
động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân. Đặc
biệt, trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay, công tác này càng có vai trò
quan trọng về nhiều mặt. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng này, trong
rất nhiều văn kiện của Đảng đã xác định rõ công tác P G PL là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị
trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội.
Điều 2 Luật P G PL (Luật) đã quy định công dân có quyền được
thông tin về pháp luật, Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực
hiện quyền được thông tin về pháp luật và tại Khoản 1 Điều 3 của Luật quy
định về chính sách của Nhà nước về P G PL như sau: “P GDPL là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng
cốt”. Tại Khoản 2 Điều 6 Luật quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước đối
với công tác P G PL như sau:“Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
PBGDPL; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về PBGDPL; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà
nước về PBGDPL”.
Ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, hoạt động này được Chính phủ giao cho
1
Ủy ban nhân dân (U N ) cấp tỉnh quản lý, triển khai thực hiện và tại Khoản
3, Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy
định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quy định cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có
nhiệm vụ “Phổ biến giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý
nhà nước được giao”, đồng thời, tại Khoản 2, Điều 8, Nghị định số
24/2014/NĐ-CP cũng có quy định “Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp
tỉnh quản lý nhà nước về công tác phổ biến giáo dục pháp luật” trên địa bàn
đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Trong những năm qua, công tác P G PL nhìn chung đã được cấp ủy
Đảng, chính quyền tỉnh Đắk Lắk quan tâm; đã có những hoạt động phong
phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới; thu
được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động P G PL đã góp
phần từng bước nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật, hình thành
dần thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ
và nhân dân trên địa bàn tỉnh, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà
nước và đời sống xã hội.
Mặc dù vậy, công tác P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn bộc
lộ không ít khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt: về nhận thức; về kinh phí, cơ sở
vật chất; về nhân lực; về nội dung, hình thức thực hiện; hiệu quả đạt được...
đặc biệt là trách nhiệm, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền trong việc triển khai thực hiện công tác này trên địa bàn tỉnh đang đặt
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như đội ngũ làm công tác
P G PL của tỉnh trước những băn khoăn, trăn trở. Xuất phát từ mục đích đó,
tôi chọn nội dung “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:
2
P G PL trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của
mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề P G PL qua các giai đoạn đã
được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ
khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau với các hình thức như: Sách chuyên
khảo, đề tài khoa học, luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp... Đáng chú ý có
các công trình sau:
i) Những công trình nghiên cứu về PBGDPL cho một đối tượng cụ thể:
- Nguyễn Quốc Sửu (2011), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. Cuốn sách này đã phân tích,
làm rõ về phương diện lý luận, thực tiễn vấn đề giáo dục pháp luật cho đội
ngũ cán bộ, công chức, thực trạng và nguyên nhân của thực trạng, đề xuất
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho
đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công, Hà nội.
Luận án này được hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý
thức pháp luật, chứ không phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các
vấn đề về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục ý
thức pháp luật gắn với đối tượng cán bộ, công chức; song về thực chất chúng
đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật.
ii) Những công trình nghiên cứu về PBGDPL gắn với một đối tượng cụ
thể và ở một địa bàn nhất định
Vấn đề P G PL gắn với một đối tượng cụ thể ở một địa bàn nhất định
cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sỹ luật học. Có thể điểm
qua một số luận văn được bảo vệ trong thời gian gần đây:
3
- Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công
giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội. Tác giả đã
tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào
công giáo ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó; trên cơ sở đó,
đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp
luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
- ương Thị Thu Hiền (2013), PBGDPL trên địa bàn huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn này tác giả đã tập trung làm
sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về PBGDPL và hoạt động PBGDPL;
phân tích, đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động PBGDPL cho cán bộ và
nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng ình; đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động PBGDPL cho cán bộ và nhân dân huyện
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Nguyễn Xuân Hòa (2016), Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ân dân tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc
sỹ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả đã tập trung phân tích vấn
đề lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra
những nét đặc thù của công tác này để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm chung của các luận văn, luận án đã thực hiện là đề cập đến lý
luận chung về P G PL hoặc lý luận, thực tiễn hoạt động PBGDPL theo lĩnh
vực, ở một đơn vị hành chính hoặc của một chủ thể, một đối tượng nhất định.
Mỗi công trình nghiên cứu chọn cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau, tuy
nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu và phân tích lý luận, thực tiễn
4
về hoạt động PBGDPL của một chủ thể đặc thù là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk.
Vì vậy, tác giả sẽ kế thừa về lý luận của hoạt động P G PL từ các đề
tài đã nghiên cứu và nghiên cứu những điểm mới về lý luận cũng như thực
tiễn về hoạt động “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
Đắk Lắk” – là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh
vực trên địa bàn cấp tỉnh, có trách nhiệm tham mưu U N cấp tỉnh thực hiện
công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk,
do đó, việc nghiên cứu đề tài “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Đắk Lắk” là không trùng lặp với các đề tài được nghiên cứu trước
đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh; đánh giá thực trạng về hoạt động P G PL của cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng
P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong điều
kiện hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về P G PL nói chung và P G PL của cơ
quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh.
- Phân tích thực trạng P G PL của một số cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế về
P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của cơ
5
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong điều kiện hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt
động P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: lý luận và thực tiễn hoạt động P G PL của cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
- Về không gian, luận văn nghiên cứu hoạt động PBGDPL của một số
cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể là 12 Sở có số lượng
công việc chuyên môn nhiều liên quan đến PBGDPL, gồm: Sở Tư pháp; an
ân tộc; Sở Nội vụ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Tài nguyên và Môi trường;
Sở Công thương; Sở Xây dựng; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Sở
Văn hóa, Thể thao và u kịch; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở
Giao thông vận tải; Sở Y tế.
- Về thời gian, trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của học thuyết Mác – Lênin; quan điểm của Đảng và Nhà nước về
công tác PBGDPL. Luận văn cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học liên quan đến P G PL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu, phân tích, suy luận: dùng cho Chương
I để nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý luận của hoạt động P G PL của cơ
6
quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh .
- Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, tổng hợp, đánh giá: dùng
cho Chương II để nghiên cứu các vấn đề về thực trạng hoạt động PBGDPL
của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
- Phương pháp phân tích, suy luận: dùng cho Chương III để nghiên cứu
về các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và
tương đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về PBGDPL cuả các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, luận văn cung cấp, bổ
sung thêm các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn
thiện thêm lý luận về PBGDPL nói chung và PBGDPL của cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp tỉnh nói riêng.
Với những kết quả đạt được, luận văn góp phần bảo đảm hoạt động
PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và góp phần quan
trọng vào mục tiêu nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho cán
bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, là cơ sở khoa học và thực tiễn giúp
tỉnh Đắk Lắk nói riêng và các địa phương cấp tỉnh nói chung nâng cao chất
lượng công tác P G PL.
Các giải pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện
công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới; làm tài liệu
tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học
chuyên ngành Luật Hành chính, Luật Hiến pháp và cho những ai quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
7
Chương 1: Những vấn đề lý luận về P G PL của các cơ quan chuyên
môn thuộc U N cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của
8
các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND CẤP TỈNH
1.1. Khái quát chung về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh
1.1.1.1 Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật
PBGDPL là một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành và toàn xã hội quan tâm, trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều
quan điểm, quan niệm khác nhau về khái niệm PBGDPL. Sự khác nhau về
quan điểm, quan niệm đó sẽ dẫn đến những lựa chọn khác nhau về nội dung,
hình thức và phương pháp thực hiện. Vì vậy, việc tiếp cận khái niệm
PBGDPL một cách đúng đắn, khoa học sẽ giúp cho việc lựa chọn nội dung,
hình thức và phương pháp PBGDPL phù hợp.
Trên thực tế, P G PL ít được đề cập đến như một khái niệm mang
tính học thuật. Trong các tài liệu khoa học, thuật ngữ thường được sử dụng là
giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong hầu hết các văn kiện của Đảng, các văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ
chuyên môn liên quan, PBGDPL được sử dụng một cách phổ biến. Vì vậy,
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả sử dụng thuật ngữ
PBGDPL với ý nghĩa chung đó.
Theo từ điển Tiếng Việt (NX Đà Nẵng năm 1997) hay Từ và ngữ Hán
Việt (NX Từ điển ách Khoa - 2002) thì “Phổ biến là làm cho đông đảo
mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp
hay thông qua hình thức nào đó hoặc làm cho mọi người đều biết đến”. [1,
9
tr785]
Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội
và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành
nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà
nước dùng để trị dân. ên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính tác
nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức
độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu
thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Phổ
biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập
huấn...
Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt “Giáo dục là quá trình hoạt động
có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con
người những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có
khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội”. [1, tr785]
So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm
song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là
các phương thức giáo dục cụ thể.
Trong quá trình nghiên cứu, quản lý và trực tiếp thực hiện các hoạt
động P G PL tại địa phương, tác giả rất tâm đắc với quan niệm “PBGDPL
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể PBGDPL
được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối
tượng được PBGDPL giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù
hợp với các yêu cầu của pháp luật”.
1.1.1.2 Khái niệm về cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh
Theo Điều 3, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính
10
phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, thì “Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh gồm có sở và cơ quan ngang sở (sau đây gọi chung là sở). Sở là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp
UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy
định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của UBND cấp tỉnh,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh” [2].
Theo Điều 8 của Nghị định này, về cơ bản thì U N cấp tỉnh có tất cả
17 cơ quan chuyên môn, bao gồm: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và
Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (NN&PTNT), Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và
Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động, Thương binh và Xã
hội (LĐ,T &XH), Sở Văn hóa, Thể Thao và u lịch (VH,TT& L), Sở Khoa
học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh, Văn
phòng U N tỉnh. Ngoài ra, tùy vào tình hình thực tế của địa phương,
U N tỉnh có thể thành lập thêm các cơ quan đặc thù là Sở Ngoại vụ, an
ân tộc, Sở Quy hoạch – Kiến trúc.[2]
Như vậy, ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, khác với cơ quan có thẩm quyền
chung là U N cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội ở địa bàn cấp tỉnh, thì cơ quan chuyên môn thuộc
U N cấp tỉnh được lập ra nhằm giúp U N cấp tỉnh - cơ quan có thẩm
quyền chung, quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ thuộc một ngành hoặc lĩnh
vực nhất định.
1.1.1.3 Khái niệm về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh
Từ khái niệm về P G PL và khái niệm của cơ quan chuyên môn thuộc
U N cấp tỉnh, tác giả cho rằng có thể hiểu khái niệm PBGDPL của cơ quan
11
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là “hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có chủ định do cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện bằng
nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối tượng được PBGDPL
trên địa bàn cấp tỉnh, giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù
hợp với các yêu cầu của pháp luật”.
1.1.2 Đặc điểm về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh
Hoạt động, P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có
những đặc điểm sau:
Một là, PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là
trách nhiệm, nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước của các cơ
quan này.
Tại Khoản 3, Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy
định cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ “Phổ biến, giáo
dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”.
Cụ thể hơn, tại các Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh đều có quy định về nhiệm vụ “Phổ biến,
giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước” của các
cơ quan này. o đó, đối chiếu quy định trên với quy định tại Điều 8, Nghị
định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về số lượng các cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh thì tác giả có thể khẳng định rằng: các cơ
quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có trách nhiệm tham mưu cho
U N cấp tỉnh tiến hành hoạt động P G PL về hầu hết các ngành, lĩnh vực
trong đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp tỉnh, từ các quy định của pháp
luật về lĩnh vực đất đai, xây dựng thuộc phạm vi quản lý của Sở Tài Nguyên
và Môi trường, Sở Xây dựng đến các quy định về lĩnh vực y tế, giáo dục, an
12
toàn giao thông thuộc phạm vi quản lý của Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo,
Sở Giao thông – Vận tải …và Sở Tư pháp có nhiệm vụ P G PL về các lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, đồng thời, Sở Tư pháp
được giao thêm chức năng làm “đầu mối”, giúp U N tỉnh quản lý nhà nước
về công tác P G PL tại địa bàn cấp tỉnh. [2]
Từ các quy định trên có thể hiểu, PBGDPL của cơ quan chuyên môn
thuộc U ND cấp tỉnh là một trong những nhiệm vụ để thực hiện chức năng
quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực, ngành được giao và trách nhiệm thực hiện
hoạt động này được quy định tại Nghị định, các Thông tư hướng dẫn về chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh và tại Luật
PBGDPL. Đây là hoạt động của các cơ quan hành chính để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước nên được bố trí bộ máy, con người cũng như kinh phí
để tổ chức thực hiện và được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp
luật nên có nhiều điểm khác biệt so với hoạt động PBGDPL của các tổ chức
khác như: hoạt động P G PL của các tổ chức Đảng, đoàn thể thường mang
tính tuyên truyền, vận động hay hoạt động P G PL của cơ quan báo chí,
truyền thông là do các cơ quan này “tự nguyện” thực hiện.
Hai là, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đóng vai trò “nòng
cốt” trong việc thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh.
Điều 2, Luật P G PL quy định về quyền được thông tin về pháp luật
và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân đã nêu rõ: “Công dân
có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu,
học tập pháp luật. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện
quyền được thông tin về pháp luật”. Để đảm bảo thực hiện quyền này, Điều 3,
Luật P G PL quy định về chính sách của Nhà nước về phổ biến, giáo dục
pháp luật là “Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”. Nhà nước bảo đảm nguồn
13
lực cần thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện xã hội
hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; khuyến khích và có chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; huy động các nguồn lực xã hội đóng
góp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.[3]
Quan điểm này có thể hiểu công dân có trách nhiệm tìm hiểu pháp luật
và Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được
thông tin về pháp luật bằng cách huy động hệ thống chính trị gồm cơ quan
Đảng, cơ quan Nhà nước, cơ quan Đoàn thể… và khuyến khích, huy động sự
tham gia của các tổ chức, cá nhân trong đó Nhà nước giữ vai trò “nòng cốt”
thực hiện công tác P G PL. Ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh
giữ vai trò “nòng cốt” trong các cơ quan nhà nước ở cấp tỉnh, trong khi đó,
các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là các cơ quan “nòng cốt”
giúp U N cấp tỉnh thực hiện công tác quản lý nhà nước tại địa phương,
trong đó, công tác PBGDPL là một trong các chức năng, nhiệm vụ của hoạt
động quản lý nhà nước, cho nên theo tác giả, có thể khẳng định rằng cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh đóng vai trò “nòng cốt” trong việc thực
hiện công tác P G PL trên địa bàn cấp tỉnh.
Ba là, PBGDPL của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh là tiền đề đẩy
mạnh hoạt động PBGDPL ở cấp huyện và cấp xã trên địa bàn cấp tỉnh.
Theo Điều 4, Nghị định 24/2014/NĐ-CP thì cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh là cơ quan giúp U N cấp tỉnh quản lý nhà nước về các
ngành, lĩnh vực trên toàn địa bàn cấp tỉnh. Các cơ quan này có thẩm quyền
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra các hoạt động chuyên môn
thuộc ngành, lĩnh vực quản lý được thực hiện tại cấp huyện và cấp xã. Như
vậy, hoạt động cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có ảnh hưởng lớn,
trực tiếp đến việc triển khai các hoạt động của U N cấp huyện và cấp xã.
14
o đó, một khi cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh đẩy mạnh hoạt
động PBGDPL sẽ tạo động lực, nền tảng cho U N cấp huyện và U N cấp
xã trên địa bàn tỉnh nghiêm túc triển khai hoạt động PBGDPL ở địa phương.
1.1.3. Vai trò PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
tỉnh
1.1.3.1. Góp phần cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ
và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh
Cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có trách nhiệm “PBGDPL
về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”, lại là cơ quan
hiểu biết rất rõ các quy định pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý, là
chủ thể có rất nhiều thuận lợi về tổ chức bộ máy, kinh phí để tổ chức thực
hiện công tác này so với các chủ thể khác như các tổ chức Đảng, Đoàn thể...
nên có vai trò cung cấp, cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của cơ quan mình cho cán bộ và nhân dân, trong đó, chú
trọng trước hết là việc cập nhật những kiến thức pháp luật mới được ban hành
để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển
kinh tế -xã hội mới được các cơ quan Trung ương ban hành cho đội ngũ cán
bộ. công chức thuộc phạm vi quản lý để từ đó giúp họ nắm vững, hiểu rõ các
quy định này để tổ chức triển khai thực hiện, đưa pháp luật đi vào cuộc sống.
Đồng thời, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có vai trò, trách nhiệm
trong việc đảm bảo quyền được thông tin về pháp luật của nhân dân đối với
các lĩnh vực quản lý nên có vai trò P G PL cho các tầng lớp nhân dân các
kiến thức pháp luật liên quan đến đời sống hàng ngày nhằm giúp họ hiểu biết,
thực hiện theo đúng các quy định pháp luật.
Thông qua hoạt động P G PL sẽ làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ
thống kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Mục đích này đặc biệt
quan trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật
15
của công dân còn thấp, còn chịu tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ,
nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, hoạt
động PBGDPL chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông
lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật, dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
1.1.3.2. Góp phần xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin của cán bộ
và nhân dân trên địa bàn tỉnh đối với pháp luật
Pháp luật chỉ có thể được cán bộ và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh
và thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc,
quy định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ
các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật
một cách tự giác mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà
nước. Từ vai trò cung cấp thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết
pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, PBGDPL góp phần xây dựng, củng cố
niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật.
Để hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp
luật thì cần giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và tình cảm
không khoan nhượng đối với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Việc xây
dựng, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch vẫn
đang thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa các dân
tộc, tôn giáo ở địa phương.
1.1.3.3. Góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ,
nhân dân trên địa bàn tỉnh
Sự hiểu biết pháp luật, nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò xã hội của
16
pháp luật, nắm bắt được các quyền con người, quyền công dân... sẽ là cơ sở,
nền tảng để cán bộ, nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh thêm tin tưởng vào chính
sách, pháp luật của Nhà nước, sự quản lý, điều hành của các cấp chính quyền
địa phương. Hơn thế nữa, có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở một trình độ nhất
định, có niềm tin đối với pháp luật, cán bộ, nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh mới
có ý thức tự đánh giá, đối chiếu hành vi của mình với các nguyên tắc, quy
định của pháp luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội; tự mình có thể tiếp
cận hoặc bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hiệu quả, phù
hợp với các nguyên tắc luật định, nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.
Hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh hiệu quả giúp củng cố niềm tin sâu sắc của cán bộ, nhân dân trên địa bàn
tỉnh vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp
luật là những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực.
Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động
Hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là
góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp
luật hợp pháp cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh.
1.2. Chủ thể, đối tƣợng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh
1.2.1 Chủ thể PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
tỉnh.
Theo quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP, chủ thể PBGDPL của cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh, bao gồm 19 cơ quan chuyên môn: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp,
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Sở Giao thông - Vận tải, Sở Xây dựng, Sở
Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động,
17
Thương binh và Xã hội (LĐ,T &XH), Sở Văn hóa, Thể Thao và u lịch
(VH,TT& L), Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế,
Thanh tra tỉnh, Văn phòng U N tỉnh; là cán bộ, công chức của 19 cơ quan
này làm nhiệm vụ P G PL [2].Trong đó, Sở Tư pháp có chức năng là cơ
quan “đầu mối” giúp U N cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác P G PL
trên địa bàn cấp tỉnh. Lợi thế của các cơ quan này là luôn có trong tay các loại
thông tin, tài liệu, văn bản QPPL, có đội ngũ cán bộ, công chức đã được đào
tạo bài bản, có kiến thức, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm trong thực
tiễn đời sống pháp lý của địa phương.
Như vậy, có thể hiểu, tại mỗi cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh thì các bộ phận chuyên môn đều có trách nhiệm thực hiện công tác
PBGDPL thuộc lĩnh vực mình phụ trách, tuy nhiên, để thiết lập bộ máy thực
hiện có hiệu quả công tác này, tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày
04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức bộ máy của tổ chức pháp chế thì tổ chức/cán bộ pháp chế có chức năng,
nhiệm vụ là làm “đầu mối” tham mưu thực hiện các công tác P G PL và các
công tác khác như: xây dựng văn bản QPPL, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm
soát thủ tục hành chính....
ên cạnh đó, để chuẩn hóa điều kiện, nâng cao trình độ cho đội ngũ
này, Luật P G PL đã quy định về tiêu chuẩn của người làm công tác
P G PL đó là áo cáo viên pháp luật. Theo đó “ áo cáo viên pháp luật là
cán bộ, công chức, viên chức và sỹ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân
được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận để kiêm nhiệm thực
hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. áo cáo viên pháp luật phải có
đủ các tiêu chuẩn sau: a) Có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững
vàng, có uy tín trong công tác;b) Có khả năng truyền đạt;c) Có bằng tốt
nghiệp đại học luật và thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật ít nhất là 02
18
năm; trường hợp không có bằng tốt nghiệp đại học luật, nhưng có bằng tốt
nghiệp đại học khác thì phải có thời gian công tác liên quan đến pháp luật ít
nhất là 03 năm.” [3]
Mặt khác, để tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan
đoàn thể thuộc hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện công tác
P G PL, Điều 7 Luật P G PL đã quy định về việc ban hành cơ chế thành
lập Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp tỉnh để làm cơ quan
tư vấn, tham mưu cho U N cấp tỉnh triển khai công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật và huy động nguồn lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
cụ thể hóa quy định này, Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về thành phần của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật
ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh, trong đó Cơ
quan thường trực Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh là Sở Tư pháp.
Tuy nhiên, chủ thể PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh có nhược điểm là chủ thể không chuyên nghiệp là những người có
chức năng, nhiệm vụ chính không phải là PBGDPL, mà thông qua hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ của mình hoặc làm việc kiêm nhiệm để thực hiện
nhiệm vụ P G PL.
1.2.2 Đối tƣợng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh
Đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh ở
đây chính là cán bộ và nhân dân đang sinh sống, lao động, làm việc trên địa
bàn cấp tỉnh. o đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh là rất rộng nên nhu cầu tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật của
họ rất đa dạng tùy thuộc vào địa bàn cư trú, nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, vị thế xã hội trong cộng đồng, mục tiêu tiếp thu kiến thức pháp luật...
19
Chính vì vậy, khi tiến hành P G PL, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
tỉnh cần phải chú ý phân loại đối tượng theo những tiêu chí cụ thể nhằm đảm
bảo chất lượng và hiệu quả của hoạt động này. Cụ thể:
Thứ nhất, theo địa bàn cư trú, cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh
bao gồm những người đang sinh sống, làm việc ở các đô thị (thành phố, thị
xã, các thị trấn thuộc huyện) và những người đang sinh sống, làm việc ở các
vùng nông thôn (buôn, làng). o những khác biệt xã hội giữa nông thôn và đô
thị nên nhu cầu về thông tin, kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân ở
mỗi nơi cũng khác nhau; bởi vậy, các chủ thể cần lưu ý phân loại đối tượng
theo địa bàn cư trú khi PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh.
Thứ hai, theo nhóm tuổi, cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh gồm
những người thuộc các nhóm lứa tuổi khác nhau, như nhóm trẻ em (học sinh
tiểu học), nhóm thiếu niên (học sinh trung học cơ sở), nhóm thanh niên (học
sinh trung học phổ thông và đoàn viên thanh niên đang lao động, sinh hoạt tại
các địa phương), nhóm trung niên và nhóm người cao tuổi. Mỗi nhóm lứa tuổi
trên đây đều có những nét đặc trưng riêng về tâm lý, nhận thức, hiểu biết,
kinh nghiệm thực tế xã hội, nhu cầu hiểu biết pháp luật... Vì vậy, khi triển
khai P G PL trên địa bàn cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh phải có sự chuẩn bị nghiêm túc, khoa học về mục tiêu, nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật sao cho phù hợp với
từng nhóm lứa tuổi.
Thứ ba, theo hoạt động nghề nghiệp, cán bộ và nhân dân trên địa bàn
cấp tỉnh bao gồm những người lao động đang làm các công việc, nghề nghiệp
khác nhau: làm việc trong các cơ quan nhà nước; thuần túy làm nông nghiệp
(trồng lúa, làm rẫy, nương, hoa màu, chăn nuôi...); kinh doanh, buôn bán
nhỏ... Chắc chắn là những người làm công việc khác nhau có nhận thức pháp
luật, vốn kiến thức pháp luật và nhu cầu hiểu biết pháp luật cũng rất khác
20
nhau. Điều đó đòi hỏi cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh phải tính
đến hoạt động nghề nghiệp của cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh trong
quá trình PBGDPL.
Thứ tư, theo mục tiêu, nhu cầu tiếp thu kiến thức pháp luật, có thể phân
chia cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh thành các nhóm để tổ chức, thực
hiện phổ biến pháp luật: học để hiểu biết pháp luật, học để vận dụng pháp luật
vào thực tiễn cuộc sống, học để phục vụ công tác chuyên môn, học để nâng
cao trình độ kiến thức pháp luật...
1.3 Nội dung, hình thức, phƣơng pháp PBGDPL của cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh
1.3.1. Nội dung PBGDPL
Điều 10 Luật P G PL quy định nội dung P G PL như sau: Quy định
của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của
pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng
giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc
phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy
phạm pháp luật mới được ban hành. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế. Ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp
hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.[3]
Cụ thể hơn, trên địa bàn cấp tỉnh, nội dung PBGDPL cho cán bộ và
nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh là những văn bản QPPL do Nhà nước ban hành
và những văn bản pháp quy do các cấp chính quyền địa phương ban hành mà
các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh cần truyền đạt, trang bị cho
cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cho
từng đối tượng, giúp họ có được những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp
21
luật; trên cơ sở đó, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, củng cố niềm tin
đối với pháp luật và hình thành lối sống theo pháp luật, cụ thể:
Nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh gồm
hệ thống các văn bản QPPL của Nhà nước và các văn bản pháp quy của các
cấp chính quyền địa phương, bao gồm:
Thứ nhất, nhìn trên phương diện hệ thống các văn bản QPPL do Nhà
nước ban hành bao gồm các bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, các loại văn
bản QPPL khác, đang có giá trị và hiệu lực thực thi, như Hiến pháp, ộ luật
ân sự, ộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật ình đẳng giới, Luật Khiếu nại, Luật tố
cáo, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Thanh niên, Luật Giao thông đường bộ,
Luật ảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn; pháp luật về bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe; pháp luật về
phòng chống tệ nạn xã hội; các chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo...
Các văn bản QPPL kể trên đều là những lĩnh vực pháp luật quan trọng, gần
gũi trong đời sống xã hội nói chung, trong đời sống của cán bộ và nhân dân
trên địa bàn cấp tỉnh nói riêng; vì thế, chúng phải là những vấn đề cốt lõi
trong nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh.[3]
Thứ hai, nhìn trên phương diện các văn bản QPPL dưới luật do các cấp
chính quyền cấp tỉnh ban hành, nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân
trên địa bàn cấp tỉnh bao gồm các nghị quyết của HĐN các cấp, các quyết
định của U N các cấp; đặc biệt là những văn bản có liên quan trực tiếp đến
đời sống, lao động, sinh hoạt của cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh.
Thứ ba, một trong những nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân
trên địa bàn cấp tỉnh là thực tiễn đời sống pháp luật trên địa bàn từng tỉnh.
Thực tiễn đời sống pháp luật ở cấp tỉnh bao gồm các vấn đề: kết quả triển
khai PBGDPL; kết quả thực hiện pháp luật; những gương sáng điển hình, tấm
22
gương “người tốt, việc tốt” trong thực hiện pháp luật; tình hình tội phạm trên
địa bàn; các âm mưu, thủ đoạn, phương thức phạm tội mới xuất hiện; kết quả
hoạt động xét xử, bảo vệ pháp luật của các cơ quan chức năng ở cấp tỉnh...
Việc PBGDPL những nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật ở
cấp tỉnh có ý nghĩa rất quan trọng: một mặt, động viên, khuyến khích, cổ vũ
cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh học tập, làm theo những tấm gương
sáng trong thực hiện pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong
cộng đồng; mặt khác, nâng cao cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn phạm
tội, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm.
Ngoài ra, để thực hiện chính sách ưu tiên, quan tâm đến các đối tượng
yếu thế trong xã hội, đồng thời, đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung P G PL
với đối tượng P G PL, Luật P G PL đã quy định cụ thể về nội dung
P G PL cho một số đối tượng đặc thù tại Mục 2 Chương II của Luật có liên
quan đến PBG PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh như
sau :
Một là, nội dung PBGDPL cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân: Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư
dân căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng mà tập trung vào các quy định
pháp luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh,
quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, khoáng sản
và các lĩnh vực pháp luật khác gắn liền với đời sống, sản xuất của người dân.
Hai là, nội dung PBGDPL cho người lao động trong các doanh nghiệp:
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp
tập trung vào quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động,
23
pháp luật về việc làm, an toàn vệ sinh lao động, chế độ tiền lương, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, pháp luật công đoàn và các quy
định khác của pháp luật về lao động.
Ba là, nội dung PBGDPL cho nạn nhân bạo lực gia đình: Việc phổ biến,
giáo dục pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình tập trung vào các quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực
gia đình, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc hỗ trợ, bảo vệ nạn
nhân bạo lực gia đình.
Bốn là, nội dung PBGDPL cho người khuyết tật: Việc phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người khuyết tật tập trung vào các quy định pháp luật về quyền
của người khuyết tật; chế độ, chính sách của Nhà nước, trách nhiệm của Nhà
nước và xã hội trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ người khuyết tật và các quy
định khác của pháp luật liên quan đến người khuyết tật.
Năm là, nội dung PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc,
tùy theo từng đối tượng mà tập trung vào các quy định pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi hành án hình sự, xử lý vi
phạm hành chính; pháp luật về phòng, chống ma túy và các tệ nạn xã hội.
Sáu là, nội dung PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo: Việc phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo tập trung vào các quy
định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi
hành án hình sự, xử lý vi phạm hành chính.
Bảy là, nội dung giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ
24
thống giáo dục quốc dân: Nội dung giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo
dục của hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng phù hợp với từng cấp học
và trình độ đào tạo, phù hợp với mục tiêu giáo dục, ngành nghề đào tạo, bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ, phổ thông, cơ bản, thiết thực và có hệ thống.
Nội dung giáo dục pháp luật đối với từng cấp học và trình độ đào tạo của hệ
thống giáo dục quốc dân được quy định như sau: Nội dung giáo dục pháp luật
trong chương trình giáo dục mầm non và tiểu học được lồng ghép thông qua
nội dung giáo dục đạo đức, hình thành thói quen phù hợp với chuẩn mực đạo
đức của xã hội, ý thức kỷ luật, tinh thần đoàn kết, tinh thần tự giác, tạo tiền đề
hình thành ý thức pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật trong chương trình
giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông trang bị kiến thức ban đầu về
quyền, nghĩa vụ của công dân, rèn luyện thói quen, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật trong chương trình giáo dục nghề
nghiệp trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, kiến thức pháp
luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo.[3]
Nội dung P G PL và đối tượng P G PL của các cơ quan chuyên
môn thuộc U N cấp tỉnh có mối liên hệ mật thiết với nhau, nghĩa là phải
căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu tiếp nhận kiến thức pháp luật của từng nhóm đối
tượng để lựa chọn các nội dung P G PL phù hợp.
1.3.2. Hình thức PBGDPL
Hình thức P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh về
thực chất là những cách thức mà thông qua đó, cơ quan chuyên môn thuộc
U N cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, hình thức PBGDPL
của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh là các cách thức mà thông qua
đó cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh chuyển giao nội dung phổ biến
pháp luật và đạt mục tiêu phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn
25
cấp tỉnh.
Điều 11 Luật P G PL đã quy định cụ thể về các hình thức P G PL
mà các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có thể áp dụng cho cán bộ
và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh, căn cứ vào từng đối tượng cụ thể như: (1)
Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp
thông tin, tài liệu pháp luật. (2)Thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên
Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết
tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư. (3)Tổ chức thi tìm hiểu
pháp luật.(4)Thông qua công tác xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa
giải ở cơ sở. (5) Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của
tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế
văn hóa khác ở cơ sở. (6) Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong
các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. (7) Các hình thức phổ
biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.[3]
Đặc biệt, theo quy định của Luật P G PL, kể từ năm 2013, Luật
P G PL đã đưa ra một hình thức P G PL mới đó là quy định về việc tổ
chức Ngày Pháp luật Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 8 Luật
P G PL quy định: Ngày 09 tháng 11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày Pháp luật được tổ chức nhằm tôn
vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi
người trong xã hội [3] .
Tương tự như đối với vấn đề nội dung P G PL, để đảm bảo sự phù
26
hợp giữa hình thức P G PL với một số đối tượng P G PL đặc thù, Luật
P G PL đã quy định cụ thể về hình thức P G PL cho một số đối tượng đặc
thù tại Mục 2 Chương II của Luật có liên quan đến P G PL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh như sau [3]:
Một là, hình thức PBGDPL cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân: Hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn và ngư dân được chú trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ
giúp pháp lý lưu động; tư vấn pháp luật, cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu
pháp luật bằng tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc thiểu số; lồng ghép phổ
biến, giáo dục pháp luật trong các hoạt động văn hóa truyền thống.
Hai là, hình thức PBGDPL cho người lao động trong các doanh nghiệp:
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh
nghiệp được chú trọng thực hiện thông qua việc phổ biến trực tiếp, niêm yết
các quy định pháp luật tại nơi làm việc, tủ sách pháp luật, giỏ sách pháp luật,
tờ gấp, lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Ba là, hình thức PBGDPL cho nạn nhân bạo lực gia đình: Hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình được chú trọng
thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý lưu động, tư vấn pháp
luật miễn phí, phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp tại nơi tạm lánh, cơ sở
bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
Bốn là, hình thức PBGDPL cho người khuyết tật: Phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người khuyết tật được chú trọng thực hiện bằng hình thức,
phương thức, phương tiện, tài liệu phù hợp với từng loại đối tượng người
27
khuyết tật.
Năm là, hình thức PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được
chú trọng thực hiện thông qua chương trình học pháp luật, giáo dục công dân
và lồng ghép trong chương trình học văn hoá, học nghề, giáo dục tái hòa nhập
cộng đồng; phổ biến thông tin thời sự, chính sách; sinh hoạt câu lạc bộ, nhóm
đồng đẳng và các hình thức phù hợp khác.
Sáu là, hình thức PBGDPL cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo: Phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo được chú trọng thực
hiện thông qua hình thức phổ biến pháp luật trực tiếp; sinh hoạt câu lạc bộ và
các hình thức phù hợp khác.
Bảy là, hình thức giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ
thống giáo dục quốc dân: Giáo dục chính khóa thông qua việc lồng ghép
trong các hoạt động giáo dục ở cấp mầm non; môn học đạo đức ở cấp tiểu
học; môn học giáo dục công dân ở cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông;
môn học pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành tại cơ sở
giáo dục nghề nghiệp, các môn học trong cơ sở giáo dục khác của hệ thống
giáo dục quốc dân. Giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp.
Hình thức, nội dung P G PL và đối tượng P G PL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có mối liên hệ mật thiết với nhau, nghĩa là
phải căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu tiếp nhận kiến thức pháp luật của từng
28
nhóm đối tượng để lựa chọn nội dung, hình thức P G PL phù hợp.
1.3.3 Phƣơng pháp PBGDPL
Phương pháp P G PL là hững phương thức, cách thức truyền đạt nội
dung pháp luật tới các thành viên trong xã hội.
Tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung P G PL cho cán bộ và nhân dân
trên địa bàn cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có thể sử
dụng phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng sau: Phương pháp tuyên
truyền, giải thích pháp luật; Phương pháp thông tin pháp luật; Phương pháp
nêu gương: “người tốt, việc tốt” điển hình về tôn trọng, thực hiện, bảo vệ
pháp luật trong phạm vi đơn vị cấp tỉnh. Phương pháp nói chuyện, trao đổi về
pháp luật. Phương pháp tạo dư luận xã hội để phổ biến pháp luật; Phương
pháp tạo tình huống PBGDPL; Phương pháp rèn luyện, thực hành pháp luật.
1.4 Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động PBGDPL của các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.
1.4.1 Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk
Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động
P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk; là nền tảng,
định hướng, cơ sở bảo đảm cho việc triển khai thực hiện các hoạt động
P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
Nhìn chung, ở tỉnh Đắk Lắk, các nhà lãnh đạo chính trị có sự thống nhất,
quyết tâm cao trong công tác PBGDPL; đời sống kinh tế - xã hội ngày càng
được quan tâm và nâng cao. Đó là những thuận lợi trong việc tham mưu triển
khai các nội dung cần thiết của hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn.
Tuy nhiên, tỉnh Đắk Lắk với đặc thù là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống (theo
thống kê tới thời điểm 2009, tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc sinh sống). Dân số là
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ sinh sống chiếm tỷ lệ cao (chiếm tỷ lệ 30%
dân số tỉnh Đắk Lắk); các thế lực phản động vẫn thường xuyên quấy phá, lôi
29
kéo những người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, hiểu biết còn hạn
chế để chống phá Đảng và Nhà nước ta. o đó, các nhà lãnh đạo của tỉnh
thường xuyên phải quan tâm giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh. Bên
cạnh đó, ý thức chính trị của các chủ thể tham gia PBGDPL vẫn chưa cao,
chưa tự giác, nên mức độ quan tâm, sâu sát các nội dung cụ thể về PBGDPL
của tỉnh nói chung vẫn còn hạn chế về số lượng, tần suất.
Ngoài ra, tỉnh Đắk Lắk là tỉnh miền núi, địa bàn đi lại còn khó khăn, các
hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh vẫn còn ít, các hoạt động kinh tế vẫn còn
nhỏ về quy mô, chưa đa dạng, phong phú. ên cạnh đó, đời sống của cán bộ,
công chức vẫn còn khó khăn, thu nhập eo hẹp cũng ảnh hưởng đến ý thức
pháp luật của họ, dẫn đến vẫn còn hiện tượng chưa thật sự chú tâm trong hoạt
động P G PL.
1.4.2 Yếu tố chủ thể của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
Đặc điểm cơ quan chuyên môn cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh Đắk Lắk có đặc điểm là tham mưu, giúp cơ quan có thẩm
quyền chung (U N tỉnh Đắk Lắk) quản lý về một ngành, lĩnh vực nhất định,
nên có sự thuận lợi nhất định trong thực hiện P G PL thuộc ngành, lĩnh vực
quản lý. Tuy nhiên, khối lượng công việc chuyên môn là tương đối nhiều, nên
người đứng đầu các cơ quan chuyên môn và cán bộ, công chức của các cơ
quan này thông thường ít quan tâm đến P G PL. ên cạnh đó, việc quyết
định các vấn đề quan trọng còn phụ thuộc nhiều vào cơ quan có thẩm quyền
chung, nên tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện P G PL của các cơ quan
này vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn còn phụ thuộc
nhiều vào cơ quan quản lý chuyên ngành cấp trên (các ộ, cơ quan ngang ộ)
trong việc triển khai nhiệm vụ chuyên môn và thành lập các phòng, ban
30
chuyên môn trực thuộc. Đây cũng là một trở ngại lớn trong việc tham mưu
thực hiện hiệu quả nhiệm vụ P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk trên thực tế.
Cán bộ, công chức là nguồn lực bảo đảm hoạt động PBGDPL được triển
khai, thực thi. Vai trò của cán bộ, công chức rất quan trọng và luôn được đặt ở
vị trí hàng đầu trong công tác Đảng và Nhà nước. Ở tỉnh Đắk Lắk, lực lượng
cán bộ, công chức liên quan đến PBGDPL bao gồm cán bộ pháp chế và cán
bộ, công chức của các bộ phận chuyên môn thuộc cấp sở trực tiếp tham mưu
thực hiện công tác P G PL. Nhìn một cách tổng quát, thì lực lượng này đã
thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Nhưng riêng trong hoạt động PBGDPL
những chủ thể này vẫn chưa thực sự chủ động, vẫn còn hiện tượng thờ ờ, né
tránh, đùn đẩy trách nhiệm, chưa thật sự thể hiện đúng trách nhiệm của người
cán bộ, công chức trong việc thực hiện hoạt động P G PL cho cán bộ và
nhân dân trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, năng lực của đội ngũ này cũng không
đồng đều; nhiều trường hợp được bố trí làm việc không đúng chuyên môn nên
không phát huy được sở trường của mình, từ đó ảnh hưởng chung đến hoạt
động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
1.4.3 Quy định của pháp luật về công tác PBGDPL
Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến PBGDPL của cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk là hệ thống các văn bản QPPL liên
quan đến hoạt động này. Hệ thống các văn bản QPPL chính là các QPPL cụ
thể được cơ quan có thẩm quyền ban hành. Mức độ hoàn thiện của hệ thống
các văn bản này chính là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả thực hiện
PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. ên cạnh
hệ thống các văn bản QPPL, ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia
PBGDPL có ảnh hưởng quan trọng để “biến” nội dung các văn bản QPPL
31
thành các hành động cụ thể. Ý thức pháp luật ở đây thể hiện năng lực nhận
thức các quy định của pháp luật, thái độ của họ đối với các QPPL, các hành vi
của thể của họ trong PBGDPL.
Chính vì vậy, cơ quan quản lý cần quan tâm đến yếu tố pháp luật thông
qua việc thường xuyên rà soát đánh giá các văn bản QPPL có liên quan để kịp
thời điều chỉnh cho phù hợp; thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, tập huấn về
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thực hiện PBGDPL của các cơ
32
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh.
Tiểu kết Chƣơng 1
Tại Chương 1, tác giả đã khái quát được khái niệm, đặc điểm, vai trò về
PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh; chủ thể, đối tượng,
nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
U N cấp tỉnh; đồng thời, có phân tích, làm rõ về hoạt động P G PL của
cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh. Theo đó, tác giả đã nhận định các
nội dung sau:
Một là, tác giả đã đưa ra khái niệm P G PL của cơ quan chuyên môn
thuộc U N cấp tỉnh là “hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định
do cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện bằng nhiều hình
thức, phương pháp nhằm tác động đến đối tượng được PBGDPL trên địa bàn
cấp tỉnh, giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù hợp với các
yêu cầu của pháp luật”.
Hai là, tác giả đã phân tích về đặc điểm, sự khác biệt của hoạt động
P G PL do các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh so với các chủ
thể khác. Theo đó, đã đưa ra các quy định pháp luật để khẳng định PBGDPL
là một hoạt động liên quan đến nội dung quản lý nhà nước của cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh, là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan
này đã được quy định rõ ràng tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ
quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh và các Thông tư hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này.
Tác giả đã đưa ra nhận định cơ quan chuyên môn cấp tỉnh có vai trò “nòng
cốt” trong việc triển khai thực hiện công tác P G PL trên địa bàn cấp tỉnh,
có vai trò quyết định ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác
P G PL trên địa bàn cấp tỉnh, là tiền đề đẩy mạnh hoạt động P G PL ở cấp
33
huyện và cấp xã trên địa bàn cấp tỉnh. Đồng thời, đã phân tích về vai trò mà
công tác P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh mang
lại cho các đối tượng tiếp nhận.
Ba là, tác giả đã đã đưa ra các cơ sở lý luận, quy định của pháp luật về
trách nhiệm làm chủ thể thực hiện P G PL của các cơ quan chuyên môn
thuộc U N cấp tỉnh, phân tích về cơ cấu, tổ chức của bộ máy làm nhiệm vụ
P G PL tại các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh; nội dung, hình
thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh,
đồng thời, phân tích về đối tượng tiếp nhận mà hoạt động P GDPL của các
cơ quan này phải hướng đến.
Bốn là, tác giả đã đưa ra các luận giải về các yếu tố ảnh hưởng đến
P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, bao gồm các
yếu tố: Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk; Yếu tố chủ thể của
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk; Quy định của
pháp luật về công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh Đắk Lắk.
Những luận giải tại Chương I là cơ sở quan trọng trong việc đi sâu
nghiên cứu về thực trạng PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc
34
U N tỉnh Đắk Lắk ở Chương 2.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA
CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND TỈNH ĐẮK LẮK
2.1 Thực trạng PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Đắk Lắk
2.1.1 Bố trí bộ phận, cán bộ thực hiện công tác PBGDPL
U N tỉnh Đắk Lắk hiện có tất cả là 19 cơ quan chuyên môn được
thành lập theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy
nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu từ số liệu và thực tiễn hoạt động của 12 cơ quan
có số lượng công việc chuyên môn liên quan nhiều đến PBGDPL, gồm: Sở
Tư pháp; an ân tộc; Sở Nội vụ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở TN&MT; Sở
Công thương; Sở Xây dựng; Sở LĐ,T &XH; Sở VH,TT& L; Sở
NN,PT&NT; Sở GTVT; Sở Y tế.
Hiện nay, nhiệm vụ làm “đầu mối”, theo dõi, tham mưu thực hiện công
tác P G PL tại các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk được
giao cho tổ chức/cán bộ pháp chế kiêm nhiệm thực hiện (Theo quy định tại
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế). Tình
hình tổ chức/cán bộ pháp chế của 12 cơ quan chuyên môn nêu trên được bố trí
như sau, cụ thể xem ảng 2.2.
Bảng 2.2. Tình hình bố trí bộ phận, cán bộ tham mưu thực hiện công tác
PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
Stt Cơ quan Phòng Pháp chế/Cán bộ pháp chế
Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật 1 Sở Tư pháp
2 an ân tộc tỉnh 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm
35
3 Sở Nội vụ 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở chuyên trách
4 Sở G &ĐT Phòng Pháp chế và công tác học sinh
5 Sở TN&MT 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm
6 Sở Công thương 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm
7 Sở Xây dựng 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm
8 Sở VH,TT& L Phòng Tổ chức - Pháp chế
9 Sở NN&PTNT 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm
10 Sở LĐ, T &XH 01 cán bộ thuộc Văn phòng Sở kiêm nhiệm
11 Sở Giao thông vận tải Phòng Pháp chế - An toàn
12 Sở Y tế Phòng Thanh tra phụ trách công tác Pháp chế
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk
Như vậy, đa số các cơ quan đều bố trí 01 cán bộ kiêm nhiệm để tham
mưu thực hiện công tác pháp chế, trong đó, có nhiệm vụ làm “đầu mối” tham
mưu thực hiện công tác P G PL; một số cơ quan giao cho các Phòng khác
phụ trách thêm công tác pháp chế (như Phòng Thanh tra, Phòng Tổ chức) và
đặc biệt không có cơ quan nào có Phòng Pháp chế chuyên trách riêng biệt.
Riêng Sở Tư pháp có Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật bố trí cán bộ chuyên
trách tham mưu thực hiện công tác PBGDPL. Đồng thời, nhiệm vụ P G PL
còn được giao cho các phòng, ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp trực thuộc
các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk và đội ngũ cán bộ, công
chức được Chủ tịch U N tỉnh Đắk Lắk công nhận làm áo cáo viên pháp
luật cấp tỉnh theo Bảng 2.3
Bảng 2.3. Số lượng Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh
Stt Cơ quan Số lƣợng Ghi chú
36
12 1 Sở Tư pháp
2 an ân tộc 01
3 Sở Nội vụ 02
4 Sở Giáo dục và Đào tạo 04
5 Sở Tài nguyên và Môi trường 02
6 Sở Công thương 04
7 Sở Xây dựng 03
8 Sở VH,TT& L 01
9 Sở LĐ, T &XH 02
10 Sở NN&PTNT 16
11 Sở Giao thông vận tải 02
12 Sở Y tế 02
Tổng cộng 51
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk
Theo Báo cáo tổng kết công tác P G PL hàng năm của U N tỉnh
Đắk Lắk, nhìn chung, trong thời gian qua, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
pháp luật của tỉnh được duy trì khá thường xuyên, tham gia đầy đủ các hội
nghị triển khai luật mới do U N tỉnh tổ chức, tham mưu triển khai có hiệu
quả công tác P G PL tại cơ quan, đơn vị mình, góp phần nâng cao nhận
thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang và các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh.
Mặt khác, để tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan
đoàn thể thuộc hệ thống chính trị trong việc tham mưu cho U N cấp tỉnh
triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và huy động nguồn lực cho
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện quy định tại Điều 7 Luật
37
PBGDPL và Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
thành phần của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp tỉnh,
Quyết định 42/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết
định 27/2013/QĐ-TTg quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Tư pháp Đắk Lắk - Cơ
quan thường trực của Hội đồng đã tham mưu U N tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn
củng cố, kiện toàn Hội đồng của tỉnh bảo đảm đúng quy định của pháp luật
hiện hành. Theo đó, Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh Đắk Lắk được củng cố,
kiện toàn theo định kỳ hàng năm (gần đây nhất được kiện toàn tại Quyết định
số 53/QĐ-UBND ngày 8/1/2018 của UBND tỉnh), bảo đảm đúng, đầy đủ
thành phần theo Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg và Quyết định số
42/2017/QĐ-TTg. Hiện nay, Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh Đắk Lắk có
37 đồng chí do Phó Chủ tịch U N tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng, trong đó, có
19 đồng chí thành viên của Hội đồng là đại diện lãnh đạo của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, cụ thể theo Bảng 2.4 như sau:
Bảng 2.4. Số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
là thành viên Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh Đắk Lắk
Ghi Stt Cơ quan Số lƣợng Thành viên chú
Sở Công thương 1 01
Sở Giao thông vận tải 2 01
Sở Giáo dục và Đào tạo 3 01
Sở Ngoại vụ 4 01
Sở Nội vụ 5 01
Sở NN&PTNT 6 01
38
Sở Kế hoạch và Đầu tư 7 01
Sở Khoa học và Công nghệ 8 01
9 Sở LĐ, T &XH 01
10 Sở Tài chính 01
01 11 Sở Tài nguyên và Môi trường
12 Sở Thông tin và Truyền thông 01
13 Sở Tư pháp 02
14 Sở VH,TT& L 01
15 Sở Y tế 01
16 Sở Xây dựng 01
17 Thanh tra tỉnh 01
18 an ân tộc 01
Tổng cộng 19
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk
Trong thời gian qua, Hội đồng của tỉnh đã thực hiện tốt chức năng tham
mưu U N tỉnh trong công tác P G PL, như: tham mưu ban hành đầy đủ
các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác P G PL nhằm hoàn
thiện thể chế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cấp, các ngành, địa phương
triển khai công tác này; kịp thời tư vấn, hướng dẫn các cấp, các ngành tổ chức
triển khai thực hiện nhiều hình thức, hoạt động P G PL đa dạng, phong phú,
phù hợp với đối tượng, địa bàn; tư vấn xác định các nội dung pháp luật trọng
tâm cần phổ biến, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh của tỉnh; thường xuyên duy trì hoạt động phối hợp giữa các cơ
quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp; hỗ trợ các cơ quan, tổ chức đẩy mạnh công tác PBGDPL trong
39
cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và nhân dân. Với sự tham
gia tư vấn của Hội đồng các cấp, nhận thức của các cấp, các ngành và người
dân về vị trí, vai trò của công tác P G PL trong đời sống xã hội được nâng
lên; qua đó càng khẳng định rõ vị trí, vai trò của Hội đồng phối hợp
PBGDPL.
Như vậy, dưới góc độ tổ chức các bộ phận, bố trí cán bộ, thành lập cơ
quan làm nhiệm vụ thực hiện công tác P G PL của các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã được Sở Tư pháp Đắk Lắk - cơ quan tham mưu
cho U N tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác P G PL triển khai
thực hiện đầy đủ trên địa bàn tỉnh.
2.1.2 Tham mưu ban hành v n bản triển khai thực hiện công tác
PBGDPL
2.1.2.1 Tham mưu UBND tỉnh ban hành và chủ động ban hành văn bản
triển khai thực hiện công tác PBGDPL
Việc tham mưu ban hành văn bản triển khai thực hiện công tác
P G PL của U N tỉnh Đắk Lắk đã được Sở Tư pháp – cơ quan tham mưu
cho U N tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác P G PL phối hợp
với các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, các đơn vị có liên
quan tham mưu cho U N tỉnh ban hành đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các
cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, đơn vị, địa phương triển
khai thực hiện, gồm Kế hoạch P G PL cho cả giai đoạn và Kế hoạch
P G PL cho từng năm như: Kế hoạch thực hiện Quyết định số 409/QĐ-TTg
ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình P G PL
trên địa bàn tỉnh từ năm 2012 đến năm 2016 (ban hành kèm theo Quyết định
số 2464/QĐ-UBND ngày 26/10/2012 của UBND tỉnh Đắk Lắk), Kế hoạch
thực hiện Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Chương trình P G PL trên địa bàn tỉnh từ năm 2017 đến năm
40
2021 (ban hành kèm theo Quyết định số 1622/QĐ-UBND ngày 30/6/2017 của
UBND tỉnh Đắk Lắk) và Kế hoạch P G PL theo từng năm từ 2015 đến
2019, gồm: Kế hoạch triển khai công tác P G PL năm 2015 (kèm theo
Quyết định số 3227/QĐ-U N ngày 31/12/2014 của U N tỉnh Đắk Lắk);
Kế hoạch triển khai công tác P G PL năm 2016 trên địa bàn tỉnh (ban hành
kèm theo Quyết định số 116/QĐ-U N ngày 12/01/2016); Kế hoạch triển
khai công tác P G PL năm 2017 trên địa bàn tỉnh (ban hành kèm theo Quyết
định số 3393/QĐ-UBND ngày 30/12/2016); Kế hoạch triển khai công tác
P G PL năm 2018 trên địa bàn tỉnh (ban hành tại Quyết định số 3664/QĐ-
U N ngày 29/12/2017 của U N tỉnh); Kế hoạch số 11462/KH-UBND
của U N tỉnh ngày 27/12/2018 về triển khai công tác P G PL năm 2019.
Ngoài ra, trong giai đoạn 2015-2019, các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk đã tham mưu U N tỉnh ban hành các Kế hoạch triển khai các
Đề án P G PL về các lĩnh vực chuyên môn phụ trách cho các đối tượng đặc
thù, cụ thể xem ảng 2.5:
Bảng 2.5. Ban hành Kế hoạch triển khai các Đề án PBGDPL cho các
đối tượng đặc thù của tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015-2019
ST Cơ quan chủ trì Tên chƣơng trình/đề án T
Sở Nông nghiệp Kế hoạch triển khai Đề án “Tuyên truyền, phổ biến
1 và Phát triển pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân
nông thôn tộc thiểu số” trên địa bàn tỉnh”
2 Sở Giáo dục và Kế hoạch triển khai Đề án “Nâng cao chất lượng
Đào tạo công tác P G PL trong nhà trường” trên địa bàn
tỉnh”
Sở Lao động, Kế hoạch triển khai Đề án “Tuyên truyền, phổ biến
3 Thương binh và pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao
41
xã hội động trong các loại hình doanh nghiệp” trên địa bàn
tỉnh
Kế hoạch triển khai Đề án “P G PL cho đối tượng 4 Sở Tư pháp được trợ giúp pháp lý”
Nguồn: Báo cáo của UBND tỉnh Đắk Lắk
Tại các Kế hoạch do U N tỉnh ban hành Sở Tư pháp tham mưu U N
tỉnh đã giao trách nhiệm, nhiệm vụ thực hiện hoạt động P G PL cụ thể cho
các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, hướng dẫn xác định nội
dung pháp luật trọng tâm cần phổ biến và hướng dẫn, tổ chức triển khai phổ
biến các nội dung pháp luật như: tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến nội dung Hiến pháp năm 2013, các luật, pháp lệnh, nghị định mới ban
hành thuộc phạm vi quản lý, các quy định pháp luật về cải cách hành chính,
thủ tục hành chính; hoạt động sản xuất, kinh doanh, quyền, lợi ích hợp pháp
của người dân, doanh nghiệp; cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh;
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, khiếu nại, tố cáo; cải cách tư pháp, bảo
vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống cháy nổ, an toàn giao
thông đường bộ... và trên cơ sở các Kế hoạch của U N tỉnh, các cơ quan
chuyên môn ban hành Kế hoạch tại cơ quan mình để tổ chức thực hiện. Theo
áo cáo của U N tỉnh về công tác P G PL từ 2015-2019 hầu hết 100%
các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đều ban hành Kế hoạch
tại cơ quan mình. ên cạnh đó, Sở Tư pháp cũng đã tham mưu U N tỉnh
tích cực, kịp thời triển khai thực hiện tốt công tác xây dựng, hoàn thiện thể
chế pháp luật liên quan đến Luật P G PL bằng việc đã tham mưu trình
HĐN tỉnh ban hành Nghị quyết quy định mức chi thực hiện công tác
P G PL và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân trên địa bàn tỉnh (Nghị
quyết số 122/2014/NQ-HĐND ngày 18/7/2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk), tạo
42
cơ sở pháp lý để tổ chức triển khai thực hiện thuận lợi ở địa phương.
2.1.2.2 Tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện công tác
PBGDPL
Hàng năm, Sở Tư pháp đều tham mưu Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh
chỉ đạo, hướng dẫn, các Sở, ban, ngành, Hội đồng phối hợp P G PL các
huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, đồng bộ có hiệu
quả các nhiệm vụ công tác P G PL, như: đã tham mưu, giúp U N cùng
cấp ban hành Kế hoạch công tác P G PL hàng năm; xây dựng, ban hành các
văn bản hướng dẫn thực hiện công tác P G PL; kịp thời kiện toàn và nâng
cao chất lượng đội ngũ làm công tác P G PL; làm tốt công tác hướng dẫn
triển khai thực hiện các hoạt động P G PL ở địa phương, hướng dẫn tập
trung giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật được Quốc hội khóa XIII,
khóa XIV thông qua; tổ chức đẩy mạnh các đợt tuyên truyền về cơ sở đối với
các lĩnh vực đang gây bức xúc, được xã hội quan tâm như: an toàn thực phẩm;
giao thông đường bộ; thủ tục hành chính; đất đai, giải phóng mặt bằng, xây
dựng; bình đẳng giới, bạo lực gia đình; phòng, chống tham nhũng... với nhiều
hình thức, trong đó một trong các hình thức P G PL có tính hiệu quả thường
được các địa phương áp dụng là: tổ chức các Hội thi bằng hình thức sân khấu
hóa, các cuộc thi viết về tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền thông qua hệ thống
loa truyền thanh ở cơ sở, thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở....
Thực hiện sự chỉ đạo của U N tỉnh, hướng dẫn của Hội đồng tỉnh,
trong, các Sở, ban, ngành của tỉnh, Hội đồng cấp huyện đã tích cực giúp
U N cùng cấp ban hành Kế hoạch triển khai các hoạt động hưởng ứng
“Ngày Pháp luật Việt Nam hàng năm”, Cơ quan thường trực của Hội đồng đã
phát huy vai trò tham mưu, hướng dẫn trong tổ chức triển khai thực hiện bằng
việc ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện với nhiều hình
thức đa dạng, phong phú làm nổi bật được sự kiện này ở địa phương; tham
43
mưu, giúp U N cùng cấp tổ chức thành công các Hội thi, Cuộc thi ở cấp
huyện theo đúng yêu cầu Kế hoạch của U N tỉnh. Đặc biệt một số Cơ quan
thường trực của Hội đồng (như Phòng Tư pháp Krông Pắc, EaHleo, Krông
úk, uôn Hồ, Cư Kuin) đã quan tâm tư vấn U N cùng cấp tăng cường
công tác P G PL cho các nhóm đối tượng đặc thù, như: người thi hành án
phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cư trú trên địa bàn;
người dân ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bằng
nhiều hình thức thiết thực...
Tóm lại, việc ban hành các văn bản triển khai công tác P G PL trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2015-2019 đã được Sở Tư pháp tham mưu cho
U N tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh Lắk tham mưu ban hành đầy đủ, trên
cơ sở đó, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk cũng đã chủ động
ban hành đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở pháp lý, điều kiện thuận lợi cho các cơ
quan, địa phương, cán bộ thuộc tỉnh triển khai thực hiện. Tuy nhiên, tác giả
cũng nhận thấy, các Kế hoạch P G PL, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác
P G PL mới chỉ đề cập đến nội dung, biện pháp, khối lượng hoạt động
P G PL, đề cập những định hướng chung cho tất cả các cơ quan, đơn vị, địa
phương mà chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, hình thức, phương pháp
cho từng nhóm đối tượng phù hợp với phạm vi quản lý của từng ngành, địa
phương dẫn đến việc tổ chức triển khai thực hiện ở các cơ quan, địa phương
còn thiếu đồng bộ, chưa định hướng các hoạt động P G PL phù hợp với
từng nhóm đối tượng.
2.1.3 Kết quả thực hiện các nội dung, hình thức, phương pháp
PBGDPL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Theo Báo cáo số 113/ C-UBND ngày 30/6/2016 của U N tỉnh Đắk
Lắk về sơ kết 03 năm thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và tổng kết
44
thực hiện Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân giai đoạn 2012-2016 (sau đây gọi
tắt là Quyết định số 409/QĐ-TTg) và Báo cáo số 01/BC-HĐPH ngày
6/1/2016 của Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác
P G PL năm 2015; Báo cáo số 10 /BC-HĐPH ngày 23/1/2017 của Hội đồng
PHPBGDPL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác P G PL năm 2016, Báo cáo
số 02/BC-HĐPH ngày 22/2/2018 của Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về
kết quả công tác P G PL năm 2017; Báo cáo số 69/BC-HĐPH ngày
29/3/2019 của Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác
P G PL năm 2018, Báo cáo số 306/BC-HĐPH ngày 4/12/2019 của Hội
đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk về kết quả công tác P G PL năm 2019,
trong 5 năm qua, hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk đạt được một số kết quả như sau:
2.1.3.1 Thực hiện thông qua hình thức PBGDPL trực tiếp:
Qua số liệu báo cáo thống kê cho thấy, hình thức P G PL trực tiếp là
hình thức được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk thực hiện
thường xuyên, đều đặn là hình thức chiếm ưu thế và được chú trọng thực hiện
thông qua hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tại các hội
nghị, buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề, hội thảo, tọa đàm, lồng ghép tuyên
truyền nội dung pháp luật vào các hội nghị tập huấn chuyên môn, hội nghị
quán triệt Nghị quyết Trung ương, chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, sinh hoạt Chi bộ, họp giao ban… số lượng các cuộc P G PL và
số lượng đối tượng tham gia cụ thể theo ảng 2.6:(Xem phụ lục 1, Bảng 2.6)
Kết quả cho thấy, giai đoạn 2015-2019 là giai đoạn Quốc hội khóa XIII,
Quốc hội khóa XIV đã ban hành nhiều đạo luật mới nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, do đó, Sở Tư pháp Đắk Lắk với chức năng là cơ
45
quan làm “đầu mối”, giúp U N tỉnh quản lý nhà nước về P G PL trên địa
bàn tỉnh đã bám sát các Kế hoạch P G PL của các cơ quan Trung ương
tham mưu U N tỉnh tổ chức 10 hội nghị (mỗi năm 2 hội nghị) phổ biến,
quán triệt luật mới được thông qua tại các kỳ họp của Quốc hội khóa XIII,
khóa XIV nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, tập trung
vào các văn bản QPPL liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước, các văn bản
liên quan đến quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân quyền con người, quyền
công dân như: ộ luật ân sự năm 2015, Luật ầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Tố tụng hành chính
năm 2015, ộ luật Tố tụng ân sự năm 2015, ộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, Luật Tạm giữ, tạm giam năm 2015, ộ luật Hình sự năm 2015...các luật
về tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ
chức Chính phủ năm 2014, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năn 2014,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức tòa án dân dân
năm 2014.. cho 1.540 lượt đối tượng là đại biểu đại diện các sở, ban, ngành,
đoàn thể ở tỉnh, thành viên Hội đồng phối hợp P G PL tỉnh, báo cáo viên
pháp luật cấp tỉnh... ên cạnh đó, với chức năng là cơ quan tham mưu cho
U N tỉnh quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp, Sở Tư pháp đã chủ động tổ
chức 15 hội nghị tập huấn chuyên đề về nghiệp vụ hệ thống hóa văn bản
QPPL, tập huấn công tác hộ tịch, nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, công tác đánh
giá tác động chính sách và công tác xử phạt vi phạm hành chính ...cho 1.560
đại biểu là cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện, cấp xã, các cơ quan, đơn
vị, địa phương. Đồng thời, tiến hành P G PL thông qua công tác tư vấn
pháp luật tại các đợt trợ giúp pháp lý lưu động, truyền thông về trợ giúp pháp
lý cho các tầng lớp nhân dân tại các thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số
thuộc các xã vùng sâu, vùng xa, có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và các
đối tượng thuộc hộ nghèo, người có công với cách mạng. Đã thực hiện 387
46
đợt trợ giúp pháp lý lưu động với hơn 2,560 vụ việc tư vấn pháp luật miễn
phí cho 2,560 lượt đối tượng được thụ hưởng; đồng thời, đã kết hợp tuyên
truyền pháp luật cho hơn 9.500 lượt người tham dự về các lĩnh vực pháp luật:
đất đai, phòng chống tội phạm, xử lý vi phạm hành chính, phòng chống ma
túy, hình sự và dân sự, quản lý hộ tịch và hộ khẩu, an toàn giao thông, các
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo, người có công với
cách mạng và đồng bào dân tộc thiểu số...
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức 337 hội nghị phổ biến
pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho 409.131 lượt đối tượng là
người lao động; giáo viên, học sinh các trường trung cấp, trung tâm giáo dục,
công chức, công tác viên làm công tác trẻ em, cán bộ cấp xã, người dân trên
địa bàn tỉnh về các nội dung như: các chính sách bảo hiểm thất nghiệp; các
văn bản pháp luật liên quan đến giáo dục nghề nghiệp; Luật Trẻ em năm
2016; Pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội; chính sách, quy định về giáo
dục nghề nghiệp; các quy định của Pháp lệnh ân số, Luật ình đẳng giới,
Luật Phòng chống bạo lực gia đình… Sở Nội vụ đã tổ chức tổ chức 43 hội
nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho 4.673 lượt đối
tượng là cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo ở cơ sở, chức sắc tôn giáo,
cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện, cấp xã về các nội dung như Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn; pháp luật về cán bộ, công chức;
pháp luật về viên chức… Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức
932 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, hội nghị
tuyên tuyền pháp luật cho 32.827 lượt đối tượng là cán bộ, công chức, viên
chức của Sở; công chức, viên chức kiểm lâm; công chức, viên chức của chi
cục Thú y; cán bộ làm công tác thủy lợi; tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh về
các lĩnh vực như: Các luật mới được thông qua tại các kỳ họp Quốc hội khóa
XIV; Luật Lâm Nghiệp, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp
47
luật về quản lý, phát triển, bảo vệ rừng; Luật Thú y, Luật Xử lý vi phạm hành
chính và các văn bản về chăn nuôi và thú y; Luật Thủy sản; Các chính sách,
quy định pháp luật về bảo tồn voi, động vật hoang dã, về bảo vệ và phát triển
rừng; Các văn bản pháp luật mới trong lĩnh vực kinh doanh thuốc bảo vệ thực
vật; Luật Thủy lợi và các văn bản hướng dẫn liên quan… Sở Tài nguyên và
Môi trường đã tổ chức 45 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến
thức pháp luật cho 2,879 lượt đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức của
nghành; công chức địa chính cấp xã về các lĩnh vực như: pháp luật về đất đai,
các quy định của ộ luật ân sự về thừa kế, quyền sở hữu; kiến thức pháp
luật về quản lý tài nguyên và môi trường… Sở Giao thông và Vận tải đã tổ
chức 872 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho
83.878 lượt đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, nhân
dân về nội dung là các luật mới được thông qua tại kỳ họp thứ 3, 4, 5 Quốc
hội khóa XIV; các văn bản pháp luật mới về giao thông, vận tải… Ban Dân
tộc tỉnh đã tổ chức 54 hội nghị phổ biến pháp luật, lớp bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho 4.168 lượt đối tượng là cán bộ, nhân dân tại các xã khó khăn,
biên giới; hộ đồng bào dân tộc thiểu số; học sinh các trường dân tộc nội trú
với nội dung về những quy định chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho đồng bào dân
tộc, pháp luật hôn nhân và gia đình; tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Sở Y tế
đã tổ chức 11 lớp hội nghị với hơn 400 lượt người tham gia để tuyên truyền
phổ biến các văn bản QPPL liên quan đến lĩnh vực vệ sinh ATTP cho các cơ
sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, cơ sở SXK dịch vụ ăn uống trên địa bàn
tỉnh năm 2016. Sở Giao thông – Vận tải đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến
pháp luật liên quan đến lĩnh vực an toàn giao thông cho doanh nghiệp, HTX
vận tải, các cơ sở đào tạo, sát hạch lái xe cơ giới đường bộ, các Trung tâm
đăng kiểm xe cơ giới…
Từ các kết quả trên cho thấy, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh
48
Đắk Lắk đã thường xuyên sử dụng hình thức P G PL trực tiếp để tuyên
truyền, phổ biến, các nội dung pháp luật mới ban hành, tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ về các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý cho đội ngũ cán
bộ, công chức của cơ quan mình, ngành mình quản lý góp phần cập nhật các
kiến thức pháp luật, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, đồng
thời, thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các lĩnh vực pháp luật liên quan
mật thiết đến đời sống nhân dân ở cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội
của tỉnh Đắk Lắk cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thấy nội dung phổ biến còn dàn trải theo
chiều rộng, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực, bám sát
nhu cầu xã hội, có trọng tâm, trọng điểm, mới làm tốt việc phổ biến, tập huấn
cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức mà còn ít tổ chức đến các tầng lớp
nhân dân ở cơ sở do đặc thù là các cơ quan thuộc cấp tỉnh chỉ thực hiện chức
năng tuyên tuyền cho đội ngũ cán bộ của cơ quan mình, các bộ, công chức
cấp huyện và chỉ thực hiện phổ biến cho các tầng lớp nhân dân ở cơ sở trong
một số hội nghị có đề án và kinh phí riêng. Mặt khác, việc tổ chức P G PL
thông qua hình thức này có một số hạn chế là đòi hỏi kinh phí tổ chức lớn,
chuẩn bị công phu, khó tập hợp được nhân dân tham gia đầy đủ.
2.1.3.2 Thông qua việc tổ chức các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật
Là hình thức vẫn được duy trì thường xuyên do có ưu điểm là thu hút
được đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia. Theo kết quả tổng hợp từ các
báo cáo công tác PBGDPL của tỉnh Đắk Lắk cho thấy, trong 5 năm qua, Sở
Tư pháp đã tham mưu cho U N tỉnh tổ chức được 5 cuộc thi, hội thi tìm
hiểu pháp luật, cụ thể năm 2015, tổ chức Cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thu hút được 90.669 bài dự thi.
Kết quả đạt được của cuộc thi đã tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần phổ
biến sâu rộng tinh thần và nội dung Hiến pháp đến cán bộ, công chức, viên
49
chức, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh, nâng cao
hiểu biết, ý thức tôn trọng, chấp hành và bảo vệ Hiến pháp. Năm 2016, tham
mưu tổ chức Hội thi “Chủ tịch và Phó Chủ tịch U N cấp xã với pháp luật
năm 2016” thu hút được 450 thí sinh và hơn 1.600 lượt cán bộ và nhân dân
tham dự, qua đó, giúp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật trên các lĩnh
vực liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
cấp xã; kỹ năng giải quyết, xử lý các tình huống phát sinh trong công tác quản
lý nhà nước ở cấp cơ sở cho đội ngũ Chủ tịch, Phó Chủ tịch U N cấp xã
trên địa bàn toàn tỉnh trong nhiệm kỳ mới, đồng thời, qua đó tuyên truyền,
phổ biết đến các tầng lớp nhân dân ở cấp xã các kiến thức pháp luật về các
lĩnh vực như: xử phạt vi phạm hành chính, đất đai, hôn nhân và gia đình, hộ
tịch…đến các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. Năm 2017, tham mưu tổ chức cuộc
thi viết “Tìm hiểu ộ luật ân sự năm 2015” nhận được một số lượng bài khá
lớn: 101.930 bài dự thi là cán cán bộ và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn
tỉnh, góp phần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung, tinh thần và ý nghĩa
của ộ luật này đến các tầng lớp nhân dân, đưa ộ luật từng bước đi vào thực
tiễn cuộc sống. Năm 2018, tham mưu tổ chức Hội thi “Hòa giải viên giỏi”
năm 2018, thu hút tổng số 3.242 lượt hòa giải viên tham gia cùng với hơn
6.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân trên địa bàn tỉnh quan
tâm, theo dõi, cổ vũ, qua đó, đã góp phần tuyên truyền, phổ biến những nội
dung cơ bản của pháp luật hòa giải ở cơ sở, pháp luật hôn nhân và gia đình,
pháp luật về dân sự, hộ tịch, đất đai...pháp luật liên quan mật thiết đến đời sống
nhân dân ở cơ sở, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, hòa giải những mâu
thuẫn phát sinh trong đời sống hàng ngày, hạn chế những tranh chấp phải giải
quyết tại các cơ quan tố tụng. Năm 2019, tham mưu tổ chức Cuộc thi viết
“Tìm hiểu ộ luật Hình sự năm 2015” nhằm tuyên truyền, phổ biến sâu rộng
trong học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang,
50
người lao động và Nhân dân trên địa bàn tỉnh về những nội dung cơ bản của
ộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn
bản hướng dẫn có liên quan nhận được sự quan tâm của đông đảo của cán bộ
và nhân dân trên địa bàn tỉnh với số lượng bài tham gia dự thi khá lớn là
105.766 bài dự thi.
Bên cạnh Sở Tư pháp, từ năm 2015 đến 2019, các cơ quan chuyên môn
của U N tỉnh như Sở Giao thông Vận tải, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài
nguyên và Môi trường đã phối hợp với các tổ chức Đoàn thể như: Tỉnh Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh… tổ chức được 18 cuộc
thi/hội thi tìm hiểu pháp luật về các lĩnh vực dân sự, hình sự, hôn nhân và gia
đình, phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, an toàn giao thông, pháp luật với
học đường…, thu hút hơn 30.292 lượt cán bộ, công chức, viên chức và nhân
dân trên địa bàn tỉnh tham gia, tiêu biểu như: hội thi sân khấu hóa tuyên
truyền về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội khối các trường THPT (do
Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh tổ chức);
Cuộc thi viết tìm hiểu pháp luật về đất đai và bảo vệ tài nguyên rừng (do Sở
Tài Nguyên và Môi trường tỉnh tổ chức). Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch tổ
chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ, các hội thi, hội diễn về chủ
đề gia đình; tổ chức thành công Hội thi “Câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh
phúc tỉnh Đắk Lắk” năm 2016. Sở Giao thông – Vận tải đã tổ chức phối hợp
với an An toàn giao thông, Công đoàn ngành và Công đoàn cơ sở tổ chức
Hội thi lái xe an toàn.
Có thể nói, các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật do các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh tổ chức hoặc tham mưu tổ chức trong các
năm qua là một hình thức P G PL rất sinh động, tính tương tác giữa các
thí sinh và cổ động viên cao, là kênh thông tin hữu hiệu để phổ biến, tuyên
truyền sâu rộng các quy định pháp luật, tạo được sức lan tỏa lớn trong đời
51
sống xã hội, qua đó, tuyên truyền sâu rộng nhiều nội dung pháp luật vốn
khô khan đến với người xem, giúp họ dễ nhớ, từ đó nâng cao hiệu quả
tuyên truyền.
Tuy nhiên, chỉ có một số ít các cơ quan tổ chức được hình thức này
như Sở Tư pháp, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Giao thông và Vận tải do việc
tổ chức đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, kinh phí tổ chức lớn, phải có đội ngũ
cán bộ có am hiểu chuyên môn pháp luật lẫn nắm bắt được các nội dung
pháp luật cần thiết, liên quan mật thiết đến đời sống của cán bộ và nhân dân
để lồng ghép, đưa các nội dung pháp luật vào các câu hỏi, tình huống tại
các cuộc thi, hội thi tạo nên không khí sôi nổi, hấp dẫn để phổ biến, tuyên
truyền cho các tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
2.1.3.3 Thông qua biên soạn, phát hành các loại tài liệu PBGDPL.
Việc P G PL thông qua việc biên soạn, phát hành các loại tài liệu
PBGDPL như đề cương, sổ tay, cẩm nang, chuyên đề tìm hiểu, hỏi – đáp
pháp luật, tài liệu tập huấn pháp luật, tờ gấp, tờ rơi... được các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk tiến hành thường xuyên trong những
năm qua, số liệu cụ thể theo ảng 2.7(Xem phụ lục 2, Bảng 2.7)
Từ số liệu thống kê cho thấy, các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk đã bám sát vào chức năng, nhiệm vụ, văn bản chỉ đạo của cơ
quan cấp trên tiến hành P G PL thông qua việc biên soạn, phát hành các loại
tài liệu P G PL đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, như: Sở Tư pháp
thường xuyên biên soạn định kỳ hàng tháng 1 số ản tin Tư pháp Đắk Lắk
chứa đựng các nội dung, chuyên mục nhằm tuyên truyền pháp luật mới ban
hành, các lĩnh vực pháp luật liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân ở cơ
sở như: hộ tịch, đất đai, dân sự, hình sự... in ấn mỗi tháng hơn 4.000 cuốn cấp
phát cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh. ên cạnh đó, đã biên soạn các
loại tài liệu P G PL như: Sổ tay công tác hòa giải ở cơ sở; Tài liệu phổ
52
biến/tập huấn về các luật mới ban hành; pháp luật phòng, chống ma túy; công
tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại theo ộ luật Hình sự 2015; Tờ gấp giới thiệu về Luật
trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Trợ giúp pháp lý… cấp phát cho
cán bộ, công chức, nhân dân trên địa bàn tỉnh. Sở Tài nguyên và Môi trường
biên soạn tài liệu tập huấn về pháp luật về quản lý tài nguyên và môi trường
cấp phát cho công chức địa chính xã. Sở Giáo dục và Đào tạo biên soạn và in
ấn sách/tờ rơi giới thiệu về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ cấp phát cho học sinh các trường THPT trên địa bàn
tỉnh. an ân tộc tỉnh biên soạn và in ấn Sổ tay hỏi - đáp về Luật Hôn nhân
gia đình năm 2014 (song ngữ Việt – Êđê), Sổ tay hỏi - đáp về tảo hôn và hôn
nhân cận huyết; Tờ rơi, áp phích tuyên truyền về hôn nhân cận huyết, tảo hôn
cấp phát cho hộ gia đình, học sinh đồng bào TTS tại chỗ trên địa bàn tỉnh.
Sở Y tế đã chỉ đạo 64/64 đơn vị của ngành xây dựng Tủ sách pháp luật phục
nhu cầu tìm hiểu của cán bộ, công chức, viên chức (CB, CCVC). Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch hướng thực hiện treo, mắc gần 2.000m2 pa nô, khẩu hiệu,
băng rôn, cờ phướn, áp phích, nhân dịp mừng Đảng, mừng Xuân, ngày lễ kỷ
niệm và các ngày lễ lớn trong năm…
PBGDPL thông qua việc biên soạn, in ấn và phát hành đã được các cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk thực hiện thường xuyên, liên
tục, góp phần tuyên truyền có hiệu quả, kịp thời các quy định pháp luật mới
ban hành, các lĩnh vực pháp luật liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân ở
cơ sở cho các tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, hạn chế của hình thức này là số lượng tài liệu in ấn và cấp
phát còn ít so với nhu cầu tuyên truyền cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn
tỉnh do kinh phí chi cho hoạt động in ấn tài liệu đòi hỏi cao trong khi khả
năng ngân sách của tỉnh Đắk Lắk chưa đáp ứng được. Mặt khác, trừ một số cơ
53
quan lớn như Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Tư
pháp... đã quan tâm đến việc biên soạn tài liệu như tờ gấp, tờ rơi, bản tin để
cấp phát, P G PL cho nhân dân trên địa bàn tỉnh, các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh khác mới chỉ tập trung in ấn, biên soạn tài liệu tập huấn
kiến thức pháp luật cấp phát cho cán bộ, công chức của cơ quan mình mà
chưa quan tâm đến việc biên soạn tài liệu cấp phát cho các tầng lớp nhân dân
để tuyên truyền pháp luật. Đồng thời, việc biên soạn chỉ mới tập trung biên
soạn bằng tiếng Việt chưa quan tâm đến việc dịch sang tiếng các đồng bào
dân tộc thiểu số khác như: Ê đê, Mơ nông ... để phù hợp với các đối tượng
tuyên truyền của tỉnh Đắk Lắk, là một tỉnh có đến gần 35% dân số là đồng
bào dân tộc thiểu số.
2.1.3.4 Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:
Một hình thức P G PL mới được tỉnh tích cực tập trung triển khai
thực hiện trong thời gian qua là việc tuyên truyền thông qua mạng Internet,
trên website của các sở, ngành, thông qua báo, đài truyền hình, hệ thống loa
truyền thanh ở cơ sở.. Kết quả thực hiện của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015 đến 2019 như ảng 2.8 (Xem phụ lục 3,
Bảng 2.8).
Từ các báo cáo cho thấy, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh
Đắk Lắk đều đã có website và thường xuyên sử dụng Trang thông tin điện tử
của mình để đăng tải các tin, bài tuyên truyền về các nội dung pháp luật do cơ
quan, ngành mình quản lý, công khai các thủ tục hành chính, giải đáp các tình
huống pháp luật cho các tổ chức, cá nhân, hoặc kết hợp với các cơ quan báo
chí, Đài phát thanh và truyền hình tỉnh mở các chuyên trang, chuyên mục giải
đáp pháp luật trên các phương tiện này, như Sở Tư pháp đã phối hợp với áo
Đắk Lắk mở chuyên mục giải đáp pháp luật đăng tải hàng tuần, Sở Nội vụ
phối hợp với các Cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh và Đài phát thanh
54
và Truyền hình tỉnh mở chuyên mục “ ân hỏi cơ quan hành chính trả lời”
phát hàng tháng giải đáp các quy định pháp luật, các vướng mắc, kiến nghị
của các tổ chức, cá nhân trên sóng truyền hình tỉnh. ên cạnh đó, các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh đã in ấn các đĩa C -Room và sử dụng hệ
thống loa truyền thanh ở cơ sở để thực hiện công tác P G PL, như Sở Tư
pháp đã xây dựng và in ấn 2.000 đĩa C -Room tuyên truyền về nội dung Hiến
pháp 2013; 1.000 đĩa C -Room tuyên truyền về những hành vi bị nghiêm
cấm trong luật giao thông đường bộ. Sở Nội vụ phát hành chương trình tuyên
truyền về pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Sở LĐ,T &XH xây dựng
chương trình tuyên truyền về an toàn, vệ sinh lao động...Sở Văn hóa, Thể thao
và u lịch tổ chức 47 buổi tuyên truyền bằng xe loa, 36 buổi chiếu bóng lưu
động nhằm tuyên truyền, cổ động nhân dịp mừng Đảng, mừng Xuân, ngày lễ
kỷ niệm và các ngày lễ lớn trong năm; phối hợp với các cơ quan báo, đài tổ
chức nhiều đợt tuyên truyền về phong trào xây dựng thôn, buôn, tổ dân phố
văn hóa; tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện bình đẳng giới…
Kết quả trên cho thấy, trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng
phát triển, phần lớn người dân đều sử dụng Internet thì việc tuyên truyền pháp
luật thông qua hình thức này đã mang lại hiệu quả khá cao, chi phí thấp và
đảm bảo tính kịp thời.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy, đa số các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk chưa có đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý các trang
website nên chưa thường xuyên cập nhật, đăng, tải tin, bài P G PL trên các
Trang thông tin điện tử, chất lượng các tin, bài, bố cục trình bày chưa chuyên
nghiệp nên hạn chế đến hiệu quả tuyên truyền. Đa số các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh Đắk Lắk mới chỉ sử dụng Trang thông tin điện tử của mình
để P G PL mà chưa chú trọng đến các phương tiện khác như báo chí, đài
truyền hình, hệ thống loa truyền thành ở cơ sở... đặc biệt, tác giả cho rằng, đối
55
với một tỉnh có địa bàn rộng, giao thông chưa thuận lợi, điều kiện dân trí,
kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như tỉnh Đắk Lắk thì việc P GPL qua hệ
thống loa truyền thanh ở cơ sở là hình thức P G PL có chi phí thấp, hiệu quả
tuyên truyền cao do có ưu điểm là tiến hành được thường xuyên, liên tục, dễ
tác động đến đối tượng tuyên truyền, song hình thức này mới chỉ được một số
cơ quan như: Sở Tư pháp, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động, T &
XH thực hiện mà chưa được các cơ quan chuyên môn khác quan tâm thực
hiện.
2.1.3.5 Thông qua việc tổ chức Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11 hàng
năm
Thực hiện quy định của Luật P G PL về Ngày Pháp luật nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 09/11 (sau đây gọi tắt là Ngày Pháp luật Việt
Nam), từ năm 2015 đến nay, hàng năm, U N tỉnh ban hành Kế hoạch tổ
chức Ngày Pháp luật Việt Nam, trong đó xác định các hoạt động cụ thể để chỉ
đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh thực hiện. Trong 5 năm qua, Sở
Tư pháp đều tham mưu U N tỉnh tổ chức hội nghị hưởng ứng Ngày Pháp
luật Việt Nam, cụ thể: năm 2015, tổ chức hội nghị gắn với phổ biến, quán
triệt 11 luật mới ban hành kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII, với chủ đề của
năm 2015 là “Thực hiện Hiến pháp và pháp luật góp phần xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân”. Năm 2016, gắn với phổ biến, quát triệt các Luật mới ban
hành được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 11 vào ngày
08/11/2015, với chủ đề của năm 2016 là “Nâng cao năng lực xây dựng, thực
thi pháp luật; giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật; tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh; phát huy dân
chủ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Năm 2017, tổ chức thành
công Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam gắn với hoạt động diễu hành,
56
trao tặng giỏ sách pháp luật cho một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, tuyên
truyền bằng xe lưu động, treo băng rôn, cờ phướn, biểu diễn văn nghệ…, với
chủ đề của năm 2017 là “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đổi mới sáng tạo; nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách
hành chính, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn để đồng hành cùng người dân và
doanh nghiệp”. Năm 2018, tổ chức thành công Lễ Mít tinh hưởng ứng Ngày
Pháp luật Việt Nam 09/11 gắn với hoạt động diễu hành, tuyên truyền bằng xe
lưu động, treo băng rôn, cờ phướn, biểu diễn văn nghệ. Năm 2019, đã tham
mưu UBND tỉnh tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn tỉnh phổ biến, quán triệt
các luật mới ban hành tại kỳ họp thứ 7 - Quốc hội khóa XIV; hỗ trợ lắp đặt 18
Panô hưởng ứng Ngày Pháp luật trên các tuyến đường chính của 15 huyện, thị
xã, thành phố; hướng dẫn đơn vị thành phố Buôn Ma Thuột và thị xã Buôn
Hồ tổ chức thành công Lễ mít tinh, diễu hành hưởng ứng Ngày Pháp luật năm
2019 tại địa phương; theo dõi, đôn đốc các sở, ngành, địa phương khác triển
khai tổ chức Ngày Pháp luật phù hợp với tình hình thực tế và nhiệm vụ chính
trị được giao.
Thực hiện Kế hoạch của U N tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh, địa phương của tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền
thiết thực, bằng nhiều hình thức đa dạng như: thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng của tỉnh, của các đơn vị cấp huyện; tuyên truyền cổ động
trực quan trên băng rôn, cờ phướn tại các địa điểm trung tâm của tỉnh, huyện,
thị xã, thành phố, trụ sở làm việc; tổ chức sinh hoạt Ngày Pháp luật, thi tìm
hiểu pháp luật, tập huấn, hội nghị, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề… để tuyên
truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa của Ngày Pháp luật; phổ biến, giáo dục
sâu rộng về vị trí, vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý nhà nước
và đời sống xã hội; phổ biến các văn bản pháp luật mới đến cán bộ, công
57
chức, viên chức, người lao động…
Trong 05 năm qua, việc triển khai thực hiện Ngày Pháp luật Việt Nam
theo quy định của Luật P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã tạo thêm bước
phát triển mới trong việc nâng cao hiệu quả công tác P G PL, đề cao giá trị
của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, đề cao quyền cũng như trách
nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân, công dân trong học tập, tìm hiểu pháp luật và tự
giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và niềm tin pháp
luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý trong cuộc
sống xã hội.
2.1.3.6 Công tác PBGDPL cho đối tượng đặc thù
Triển khai thực hiện quy định tại Mục 2 Chương II của Luật PBGDPL
năm 2012 (nội dung, hình thức P G PL cho các đối tượng đặc thù), Sở Tư
pháp đã tham mưu U N tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành, tổ
chức, đoàn thể ở tỉnh; U N các huyện, thị xã, thành phố thực hiện P G PL
tới các đối tượng đặc thù cho phù hợp với từng đối tượng, địa bàn cụ thể.
Trên cơ sở đó, các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể ở tỉnh đã tổ chức nhiều
hoạt động (Mở các lớp tuyên truyền miệng; lồng ghép trong các buổi sinh
hoạt, họp; tổ chức hội nghị, cuộc thi, hội thi; hái hoa dân chủ..) tuyên truyền,
phổ biến kịp thời các quy định của pháp luật hiện hành liên quan (Pháp luật
về bình đẳng giới; phòng, chống bạo lực gia đình; hôn nhân và gia đình; dân
tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng, biên
giới, chủ quyền quốc gia; đất đai, tài nguyên, khoáng sản; phòng, chống ma
túy; lao động; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; công đoàn; hình sự, thi hành án
hình sự, xử lý vi phạm hành chính; chế độ, chính sách của người khuyết tật...)
đến các đối tượng là người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người lao động
trong các doanh nghiệp; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù,
58
người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo và nạn nhân
bạo lực gia đình, nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời, thực hiện đúng các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Mặt khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động, cơ chế phối hợp trong công
tác P G PL, các cơ quan, đơn vị đã ban hành các chương trình, kế hoạch
liên ngành làm cơ sở triển khai thực hiện, như: Quy chế phối hợp giữa Công
an tỉnh và Sở Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội
phạm, vi phạm pháp luật khác tại các cơ sở giáo dục, Chương trình phối hợp
số giữa Sở Tư pháp, Sở Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường tuyên
truyền, phố biến giáo dục pháp luật trong nhà trường…, việc P G PL cho
các đối tượng đặc thù được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh triển
khai thực hiện thông qua các Đề án P G PL cho các đối tượng đặc thù theo
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn, cụ thể như:
i) Công tác PBGDPL cho học sinh trong nhà trường do Sở Giáo dục
và Đào tạo chủ trì thực hiện
Sở Giáo dục và Đào tạo với trách nhiệm là cơ quan được giao chủ trì
thực hiện Đề án đã tập trung kiện toàn đội ngũ làm công tác P G PL, hiện
nay trong toàn ngành có 05 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, tất cả các đơn vị
trực thuộc đều thành lập tổ pháp chế. Công tác P G PL trong ngành ngày
càng đi vào chiều sâu, từ năm 2015 đến năm 2019, Sở đã tổ chức 12 lớp tập
huấn công tác P G PL cho hơn 2.100 cán bộ, giáo viên phụ trách công tác
pháp chế ở các trường Trung cấp, THPT, Trung tâm G TX, PT DTNT và các
Phòng Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn tỉnh; phối hợp với Công an tỉnh, Tỉnh
đoàn, Sở Tư pháp tổ chức thành công Hội thi Thanh niên với pháp luật dành
59
cho khối học sinh THPT và Trung tâm G TX với 660 học sinh dự thi, cấp
phát hơn 35.000 tờ rơi tuyên truyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ, 140 cuốn tài liệu về phòng chống bạo lực học đường
và 310 cuốn tài liệu về phòng chống ma túy cho các trường học. Hàng năm,
100% cán bộ phụ trách công tác pháp chế và giáo viên dạy môn G C đều
được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật; học sinh, sinh viên các cấp học
được học tập môn đạo đức, giáo dục công dân... theo chương trình chính
khóa; trường học có Tủ sách pháp luật hoặc ngăn sách pháp luật, quản lý và
khai thác có hiệu quả; 100% các trường thực hiện đổi mới nội dung, hình thức
PBGDPL ngoại khóa phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo. Trường học
đã bố trí kinh phí triển khai công tác P G PL, đầu tư trang thiết bị, phương
tiện đáp ứng nhu cầu công tác dạy và học môn đạo đức, G C , G PL chính
khóa.
ii) Tuyên truyền PBGDPL cho người lao động, người sử dụng lao động
trong các loại hình doanh nghiệp do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
thực hiện
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội - đơn vị chủ trì đã phối hợp với
các đơn vị liên quan tiến hành điều tra, khảo sát nhằm xác định nhu cầu
P G PL cho các đối tượng liên quan, từ đó đề ra nội dung và phương hướng
thích hợp làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện; kết quả đã
triển khai tổ chức 150 lớp tuyên truyền pháp luật cho gần 10.000 người lao
động tại các doanh nghiệp trong tỉnh; 12 lớp cho hơn 800 người sử dụng lao
động, cán bộ làm công tác lao động tiền lương, cán bộ làm công tác công
đoàn và 03 lớp cho 100 lãnh đạo, cán bộ làm công tác lao động thuộc Phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện. ên cạnh đó, đã phối hợp với
Liên đoàn Lao động tỉnh cũng tổ chức 36 cuộc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật công đoàn cho 5.230 công nhân lao động tại 54 doanh nghiệp dân doanh;
60
tổ chức 02 hội thảo về “Nâng cao nghiệp vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật
cho cán bộ công đoàn và công nhân lao động trong các doanh nghiệp doanh
nhân” cho 230 áo cáo viên công đoàn cấp tỉnh và Chủ tịch công đoàn cơ sở;
in ấn và phát hành 19.000 tờ rơi, 2.020 sổ tay ộ luật Lao động và Luật Công
đoàn, 3.200 tài liệu cấp phát cho công nhân lao động ...
iii) PBGDPL cho nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số do Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì thực hiện
Từ 2015 đến năm 2019, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ
328 lớp tập huấn về chính sách pháp luật của Trung ương, của tỉnh về bảo vệ
nguồn lợi thủy sản cho nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 15.000
người tham dự. Phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể
tổ chức gần 200 lớp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn vệ sinh thực
phẩm, bảo vệ môi trường cho hơn 8.000 lượt người dân nông thôn, đồng bào
dân tộc thiểu số…
iv) PBGDPL cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý do Sở Tư pháp
chủ trì thực hiện:
Trong 05 năm qua, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh thuộc Sở
Tư pháp đã phối hợp với Chi hội luật gia Công an tỉnh, Hội Luật gia huyện
Krông ông và Hội Luật gia huyện Ea Hleo... tiến hành khảo sát và tổ chức
68 đợt trợ giúp pháp lý lưu động kết hợp với tuyên truyền, giáo dục pháp luật
theo từng lĩnh vực, chuyên đề về pháp luật phù hợp với các tầng lớp nhân dân
tại các thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các xã vùng sâu, vùng xa,
có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và các đối tượng thuộc hộ nghèo,
người có công với cách mạng. Tại các đợt trợ giúp pháp lý, các hội viên đã
thực hiện hơn 300 vụ việc miễn phí cho 540 đối tượng được thụ hưởng; đồng
thời đã kết hợp tuyên truyền pháp luật cho 1.200 lượt người tham dự về các
lĩnh vực pháp luật: đất đai, phòng chống tội phạm, xử lý vi phạm hành chính,
61
phòng chống ma túy, hình sự và dân sự, quản lý hộ tịch và hộ khẩu, an toàn
giao thông, các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo, người
có công với cách mạng và đồng bào dân tộc thiểu số; phối hợp với Trại giam
Đăk Tân tư vấn hỗ trợ pháp lý cho 60 phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt
tù; biên soạn, phát hành hơn 7.000 tờ gấp cấp phát miễn phí nhằm thông tin
kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản pháp luật mới, thiết thực...
2.1.4. oạt động kiểm tra, giám sát thực hiện công tác PBGDPL của
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk chịu trách nhiệm làm cơ quan thường trực của
Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk, là cơ quan tham mưu, giúp U N tỉnh,
Hội đồng PHP G PL tỉnh kiểm tra, giám sát các kế hoạch P G PL của
U N tỉnh Đắk Lắk. Theo các báo cáo kết quả công tác của Hội đồng
PHPG PL tỉnh từ năm 2015 đến năm 2019, hàng năm, Sở Tư pháp đều
tham mưu U N tỉnh kiểm tra việc thực hiện công tác P G PL thông qua
công tác báo cáo, các các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đều báo cáo
tương đối đầy đủ, tuy nhiên, nội dung báo cáo của một số đơn vị còn chung
chung, sơ sài (thiếu số liệu, hoạt động cụ thể). ên cạnh đó, còn một số địa
phương không gửi báo cáo về cơ quan thường trực Hội đồng dẫn đến việc
tổng hợp thông tin để tham mưu xây dựng báo cáo chung của Hội đồng gặp
nhiều khó khăn. Đối với các địa phương cấp huyện, hàng năm, Sở Tư pháp
tỉnh Đắk Lắk đã lồng ghép kiểm tra công tác P G PL trong hoạt động
kiểm tra công tác tư pháp tại các huyện. Kết quả kiểm tra cho thấy, về cơ
bản, các đơn vị được kiểm tra đều nghiêm túc triển khai thực hiện các
nhiệm vụ theo chỉ đạo của U N tỉnh, ộ Tư pháp, Hội đồng phối hợp
P G PL tỉnh và cơ quan Thường trực của Hội đồng, như: việc củng cố,
kiện toàn Hội đồng phối hợp P G PL và đội ngũ cán bộ làm công tác
P G PL được các đơn vị quan tâm chỉ đạo thực hiện theo đúng quy định;
62
các văn bản pháp luật mới được quán triệt, phổ biến kịp thời; việc bồi
dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ P G PL, cung
cấp tài liệu pháp luật cho đội ngũ làm công tác P G PL được thực hiện
thường xuyên.
Tuy nhiên, việc kiểm tra mới chỉ được Sở Tư pháp triển khai thực
hiện ở các đơn vị cấp huyện mà chưa triển khai tại các cơ quan cấp sở, mặt
khác, mới chỉ có Sở Tư pháp thực hiện mà chưa được các cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh khác thực hiện, do đó, chưa nắm bắt đánh giá được
đầy đủ, toàn diện việc thực hiện công tác P G PL ở các địa phương cấp
huyện. Đối với hoạt động giám sát của HĐN tỉnh, trong 5 qua, HĐN
tỉnh chưa tiến hành giám sát chuyên đề đối với công tác P G PL nhằm
thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện công tác P G PL trên địa bàn
tỉnh.
2.2 Đánh giá chung về hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Kết quả đạt đƣợc và nguyên nh n
2.2.1.1. Những thành tựu, kết quả đạt được
Trong 05 năm, hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Đắk Lắk đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả, thể hiện trên các
phương diện sau:
i) Những kết quả đạt được từ phía chủ thể thực hiện
Thứ nhất, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã bố trí
đầy đủ cán bộ, bộ máy để thực hiện công tác P G PL. Để đảm bảo sự phối
hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các chủ thể, Hội đồng phối hợp P G PL của
tỉnh Đắk Lắk đã được thành lập, đi vào hoạt động với vai trò thường trực
thuộc về Sở Tư pháp và sự tham gia của tất cả các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh làm thành viên, đồng thời, có sự tham gia của các ban, ngành,
63
đoàn thể có liên quan. Nhờ đó, công tác P G PL cho cán bộ và nhân dân
trên địa bàn tỉnh đã phát huy được tính chủ động, tích cực, huy động được sức
mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia hoạt động PBGDPL.
Thứ hai, các các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã tổ chức
triển khai đồng bộ, có kết quả các nhiệm vụ được giao, như: ban hành kịp thời
các chương trình, kế hoạch P G PL cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, địa
bàn và tình hình, điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương (hàng
năm, 100% các sở, ngành, địa phương của tỉnh đều ban hành kế hoạch công
tác P G PL và định kỳ 6 tháng, cuối năm, 100% các đơn vị, địa phương đều
có báo cáo). Sở Tư pháp đã làm tốt chức năng là cơ quan giúp U N tỉnh,
Hội đồng phối hợp P G PL của tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác
P G PL khi đã tham mưu ban hành văn bản hướng dẫn, đôn đốc, tổ chức
kiểm tra việc thực hiện công tác P G PL của các cơ quan thuộc tỉnh và các
đơn vị cấp huyện, tạo tiền đề quan trọng cho việc triển khai có hiệu quả công
tác P G PL tại các địa phương.
Thứ ba, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã thể hiện được
vai trò “nòng cốt” trong việc thực hiện công tác P G PL ở cấp tỉnh khi theo
các Báo cáo của Hội đồng, trong 5 năm qua, các hoạt động P G PL do các
cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh tổ chức chiếm 80% các hoạt động
P G L của cấp tỉnh; các ban, ngành đoàn thể cấp tỉnh chỉ tổ chức các hoạt
động P G PL chiếm 20% còn lại.
Đội ngũ báo cáo viên làm công tác PBGDPL đã có sự gia tăng về số
lượng và chất lượng. Theo áo cáo của Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh
Đắk, năm 2015, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk có 93
báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh thì đến năm 2019, đã có 160 báo cáo viên
pháp luật cấp tỉnh (tăng gần 60%), số lượng báo cáo viên của các cơ quan
chuyên môn chiếm tỷ lệ (80%); báo cáo viên của các ban, ngành, đoàn thể cấp
64
tỉnh còn lại chiếm tỷ lệ (20%), đa số báo cáo viên pháp luật của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã tích cực tham gia P G PL và họ
là những chủ thể chủ yếu và trực tiếp thực hiện phổ biến pháp cho cán bộ và
nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư, về nội dung PBGDPL, đã lựa chọn được những nội dung pháp
luật cơ bản phù hợp với đối tượng là cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Chẳng hạn, đối với người dân nông thôn, đã tập trung phổ biến Luật Đất đai,
các quy định của ộ luật ân sự về thừa kế, quyền sở hữu...; đối với phụ nữ,
tuyên truyền các quy định của Pháp lệnh ân số, Luật ình đẳng giới, Luật
Phòng chống bạo lực gia đình; đối với khu vực đồng bào dân tộc, tôn giáo tập
trung tuyên truyền Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, những quy định đối với
người dân tộc thiểu số, như chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho đồng bào dân tộc;
đối với thanh niên, tập trung tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Thanh
niên, Luật Phòng chống ma túy…
Thứ năm, về hình thức PBGDPL đã được tiến hành một cách linh hoạt,
đa dạng, phong phú. Hình thức sử dụng chủ yếu là tuyên truyền miệng, tổ
chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, các cuộc hội nghị triển khai các
văn bản QPPL mới được ban hành, các văn bản đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Ngoài ra, còn có các
hình thức tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật khác như: tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật, biên soạn tài liệu pháp luật phát hành cho các đối tượng,
trang bị tủ sách pháp luật, tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật trong trường
học. PBGDPL thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng
internet, Trang tin điện tử, hệ thống loa truyền thanh cơ sở ngày càng phát
huy hiệu quả và đang được cải tiến, nâng cao chất lượng. Các cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk cũng đã chủ động, tích cực triển khai một
hình thức P G L mới theo quy định của Luật P GDPL là tổ chức các hoạt
65
động hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam 9/11 hàng năm nhằm tôn vinh
Hiến pháp và pháp luật.
Thứ sáu, về đối tượng P G PL, bên cạnh việc quan tâm PBGDPL cho
đối tượng là cán bộ, công chức thuộc cơ quan, ngành mình quản lý đã tích cực
tổ chức P G L cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh và các đối tượng
đặc thù theo quy định của Luật P G PL, nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời,
thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
ii) Những kết quả đạt được từ phía đối tượng tiếp nhận PBGDPL
Việc P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã góp
phần cập nhật kiến thức pháp luật, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho
cán bộ của thuộc cơ quan mình, ngành mình quản lý; đồng thời, cung cấp các
kiến thức pháp luật cần thiết liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày cho
các tầng lớp nhân dân, qua đó, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh, góp phần đảm
bảo an ninh trật tự, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.
Kết quả điều tra XHH cho thấy, trong số 870 người là cán bộ và nhân
dân trên địa bàn tỉnh tham gia trả lời bảng hỏi (tác giả chọn 12 cơ quan
chuyên môn mỗi đơn vị 10 người là cán bộ, công chức và 15 đơn vị cấp
huyện mỗi đơn vị 50 người gồm 10 người là cán bộ công chức và 40 người là
nhân dân) có tới 270 người là cán bộ, công chức khẳng định có tham dự các
hoạt động PBGDPL do các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh tổ chức
chiếm 100%, [xem Phụ lục 2, bảng số 9]. Con số 100% cán bộ, công chức
được hỏi đã tham gia các buổi tổ chức phổ biến pháp luật là một kết quả rất
đáng trân trọng. ên cạnh đó, trả lời câu hỏi về vai trò của kiến thức, hiểu biết
pháp luật đối với cuộc sống, lao động, sinh hoạt của cán bộ và nhân dân trên
địa bàn tỉnh, có tới 86,8 % người cho rằng kiến thức, hiểu biết pháp luật có
vai trò “rất cần thiết” đối với cuộc sống, lao động, sinh hoạt; 12,6% khẳng
66
định là “cần thiết”; tổng cộng có tới 99,4% cán bộ và nhân dân trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk đánh giá kiến thức pháp luật có vai trò “rất cần thiết và cần
thiết” đối với họ [xem Phụ lục 2, bảng số 11]. Việc thực hiện các nội dung
P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã cơ bản đáp ứng
được nhu cầu của đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan, ngành mình quản lý
khi có tới 92,7 % cán bộ được hỏi trả lời đáp ứng được, chỉ 6,3 % trả lời đáp
ứng trung bình và chưa đáp ứng. [xem Phụ lục 2, bảng số 12].
Như vậy, nhận thức về vai trò của kiến thức pháp luật của cán bộ và
nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Từ nhận thức đó, việc phần lớn cán bộ và
nhân dân chủ động, tích cực tham gia hoạt phổ biến pháp luật đã góp phần
nâng cao hiểu biết pháp luật. Qua tiếp xúc, trò chuyện trao đổi, đa số cán bộ,
công chức thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, đơn vị cấp
huyện khẳng định rằng họ thường xuyên được tập huấn, cập nhật kiến thức
thuộc lĩnh vực quản lý, qua đó, góp phần nâng cao nghiệp vụ, thực hiện tốt
nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao. Đối với các tầng lớp nhân dân khẳng
định rằng, họ được nắm bắt các quy định của pháp luật có liên quan trực tiếp
đến cuộc sống, công việc hàng ngày, như các quyền, nghĩa vụ của công dân...
cho thấy các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã đạt được
mục tiêu tối thiểu ban đầu là trang bị cho các tầng lớp nhân dân những thông
tin, kiến thức pháp luật có liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao động, sinh
hoạt hàng ngày của họ.
Như vậy, một trong những kết quả quan trọng mà các cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã đạt được là góp phần cải thiện, nâng cao
trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân trên địa bàn
tỉnh. Việc nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân
dân trên địa bàn tỉnh đã góp phần thay đổi cách xử sự của họ theo hướng tích
cực, dựa trên các quy định pháp luật chứ không còn xử sự theo chủ quan, cảm
67
tính, giúp một bộ phận cán bộ vâ nhân dân trên địa bàn tỉnh giải quyết được
các vấn đề có liên quan đến pháp luật trong thực tiễn cuộc sống - đây cũng
chính là thước đo đánh giá vai trò hoạt động P G PL của cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
2.2.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu, kết quả đạt được
Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau giúp hoạt P G PL của cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đạt được những kết quả quan trọng;
song, theo tác giả luận văn, có 4 nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, Tỉnh ủy Đắk Lắk luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát
hoạt động P G PL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tỉnh ủy đã chỉ
đạo an Cán sự Đảng U N tỉnh và Đảng ủy các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của an í thư Trung ương Đảng về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác P G PL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân nên công tác này đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng. UBND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thành lập Hội đồng
phối hợp P G PL ở tỉnh và chỉ đạo thành lập ở cấp huyện, thường xuyên chỉ
đạo các cơ quan chuyên môn và các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện
tốt công tác phổ biến pháp luật cho các đối tượng mà cấp, ngành mình phụ
trách và cho cán bộ, nhân dân ở các địa phương, nhất là những vấn đề phát
sinh trong quá trình thực hiện.
Thứ hai, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đã thực hiện
nghiêm túc chỉ đạo của Tỉnh ủy, U N tỉnh, chủ động, tích cực bố trí đầy đủ
cán bộ, bộ máy thực hiện công tác P G PL, vừa làm tốt công tác tham mưu
cho U N tỉnh khi kịp thời đề ra các chương trình, đề án, đồng thời chủ động
trực tiếp triển khai thực hiện, thể hiện được vai trò “nòng cốt” trong hoạt động
P G PL trên địa bàn tỉnh. Sở Tư pháp đã làm tốt vai trò “đầu mối” khi hàng
68
năm, bên cạnh việc tham mưu cho Hội đồng phối hợp P G PL của tỉnh ban
hành kế hoạch hoạt động, ban hành văn bản hướng dẫn, đôn đốc thì đều thành
lập các đoàn kiểm tra; tiến hành kiểm tra một số cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã để đánh giá, rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các chương trình,
đề án PBGDPL.
Thứ ba, đội ngũ báo cáo viên pháp luật của các cơ quan chuyên môn
thuộc U N cấp tỉnh đã tích cực, nhiệt tình trong thực hiện công tác. Về cơ
bản, đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh là những cán bộ có kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn, am hiểu pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực quản lý, tuy hoạt
động kiêm nhiệm song họ đồng thời là những cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước, có tinh thần trách nhiệm thực hiện hoạt động phổ biến pháp luật
cho cán bộ, công chức, viên chức ngành mình quản lý và nhân dân trên địa
bàn.
Thứ tư, cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh cơ bản nhận thức được vai
trò của kiến thức pháp luật nên chủ động, tích cực tham dự các hoạt động phổ
biến pháp luật. Thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh đặt ra yêu
cầu cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật
mới giải quyết được từ đó chủ động, tích cực tham dự các hoạt động
PBGDPL.
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nh n
2.2.2.1. Những hạn chế, bất cập
Mặc dù hoạt động P GPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk đạt được những kết quả quan trọng; song, so với yêu cầu thì
hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U ND tỉnh Đắk Lắk
còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, về việc tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ thực hiện công tác
PBGDPL: Việc tổ chức bộ phận làm “đầu mối” theo dõi công tác PBGDPL,
69
phân công nhiệm vụ cho các phòng, ban chuyên môn, bố trí cán bộ làm báo
cáo viên pháp luật đã được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh triển
khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Tuy nhiên, cách thức bố trí ở các cơ quan
chuyên môn là không thống nhất, đồng bộ khi có cơ quan thì bố trí Phòng
pháp chế riêng để theo dõi công tác này còn cơ quan khác lại bố trí một cán
bộ thuộc Văn phòng Sở hoặc Thanh tra Sở thực hiện, gây khó khăn cho việc
theo dõi, giảm hiệu quả công tác quản lý.
Đội ngũ cán bộ làm công tác P G PL chủ yếu là kiêm nhiệm, chỉ có
Sở Tư pháp có bố trí Phòng P G PL là bộ phận chuyên trách, còn các cơ
quan khác bố trí cán bộ kiêm nhiệm nên không thể toàn tâm, toàn ý thực hiện
công tác PBGDPL. Mặt khác, một số cán bộ làm công tác này còn hạn chế về
trình độ pháp lý, phong tục tập quán và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu
số nên ảnh hưởng nhiều đến chất, lượng, hiệu quả của công tác này.
Thứ hai, việc tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển
khai thực hiện công tác PBGDPL: Đã được Sở Tư pháp tham mưu cho
U N tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh triển khai đầy đủ. Tuy nhiên, các Kế
hoạch P G PL, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác P G PL mới chỉ đề
cập đến nội dung, biện pháp, khối lượng hoạt động P G PL, đề cập những
định hướng chung cho tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương mà chưa có
hướng dẫn cụ thể về nội dung, hình thức, phương pháp cho từng nhóm đối
tượng phù hợp với phạm vi quản lý của từng ngành, địa phương dẫn đến việc
tổ chức triển khai thực hiện ở các cơ quan, địa phương còn thiếu đồng bộ,
chưa tạo các hoạt động P G PL phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Thứ ba, về việc PBGDPL cho các đối tượng tiếp nhận: việc PBGDPL
cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của các sở, ngành đã
thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên, việc P G PL cho các tầng lớp nhân dân
nhân dân trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế, bất cập, số lượng hoạt động
70
thực hiện còn ít, chưa được tiến hành liên tục, thường xuyên, chủ yếu được tổ
chức mỗi khi có văn bản pháp luật mới cần được tuyên truyền, phổ biến, chủ
yếu “phổ biến cái mình có”, chưa quan tâm “phổ biến cái cán bộ và nhân dân
đang cần”. Theo kết quả điều tra xã hội học, chỉ có 64,2% tỷ lệ nhân dân được
hỏi có tham gia các hoạt động P G PL do các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh thực hiện, số lượng chưa từng tham gia chiếm tỷ lệ còn khá lớn,
chiếm 35,8% [xem Phụ lục 2, bảng số 10].
Đối với nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - là tỉnh đặc thù là có hơn
30% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số với gần 50 dân tộc anh em cùng sinh
sống, tuy nhiên, các chủ thể phổ biến pháp luật hầu như chưa chú ý tới việc
phân loại đối tượng nhằm đảm bảo hiệu quả phổ biến pháp luật dành cho họ
khi có rất ít tài liệu P G PL được dịch sang tiếng đồng bào dân tộc thiểu số,
hoặc lựa chọn báo cáo viên là người đồng bào dân tộc thiểu số, lựa chọn
phương pháp và hình thức phổ biến pháp luật phù hợp với các nhóm đối
tượng này, điều này đã làm giảm hiệu quả công tác phổ biến pháp luật cho các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư, về nội dung PBGDPL còn bộc lộ những hạn chế, bất cập sau
đây:
Một là, nội dung phổ biến pháp luật cho cán bộ mới chỉ quan tâm đến
việc cập nhận các kiến thức pháp luật mới ban hành mà chưa quan tâm đến
các kiến thức pháp luật chuyên sâu, các vấn đề pháp luật còn nhiều mâu
thuẫn, chồng chéo cần phải được tập huấn, giải đáp hướng dẫn để thống nhất
nhận thức, tạo thuận lợi trong quá trình giải quyết công việc trong thực tế.
Hai là, nội dung PBGDPL cho nhân dân còn mang tính bề nổi, chưa đạt
được bề rộng và độ sâu kiến thức pháp luật cần thiết, phù hợp với từng nhóm
đối tượng. Các văn bản pháp luật mới liên quan đến đời sống, sinh hoạt, các
quyền dân chủ của nhân dân chậm được bổ sung, cập nhật, gây khó khăn cho
71
họ trong quá trình giải quyết các sự việc, sự kiện pháp luật xảy ra trong thực
tế. Theo kết quả điều tra xã hội học, chỉ có 44,5% tỷ lệ nhân dân được hỏi trả
lời nội dung P G PL do các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh thực
hiện đã đáp ứng được yêu cầu, số lượng trả lời chưa đáp ứng được yêu cầu tỷ
lệ còn khá lớn, chiếm 55,5% [xem Phụ lục 2, bảng số 13].
Ba là, kiến thức pháp luật còn nghèo nàn, nội dung phổ biến pháp luật
chưa chú trọng tới nhu cầu tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật của đối
tượng, mới chỉ dừng lại ở việc truyền đạt những nội dung pháp luật mà mình
có, chưa hướng tới trang bị những nội dung pháp luật mà đối tượng cần, như
kiến thức pháp luật về về quyền con người, về an sinh xã hội, an toàn thực
phẩm, đất đai, xử phạt vi phạm hành chính...
Bốn là, nội dung phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở tỉnh Đắk
Lắk còn thiên về lý thuyết, chủ yếu giới thiệu các quy định pháp luật, chưa
gắn với các sự kiện, tình huống pháp luật thực tiễn, chưa chú trọng trang bị kỹ
năng vận dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn đời sống dẫn đến cán bộ và
nhân dân có kiến thức, hiểu biết pháp luật nhưng vẫn bị động, lúng túng trong
vận dụng vào thực tiễn.
Thứ năm, về hình thức PBGDPL còn bộc lộ những hạn chế, bất cập sau
đây:
Một là, các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh chưa xác định được hình
thức phổ biến pháp luật chủ yếu, phù hợp với những nội dung, đối tượng cụ
thể để có biện pháp triển khai thực hiện; còn chậm đổi mới việc sử dụng các
hình thức P G PL để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Qua các báo cáo cho thấy, các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh Đắk
Lắk chủ yếu sử dụng hình thức truyền thống là P G PL trực tiếp thông qua
các buổi hội nghị, tập huấn, tuyên truyền… mà chậm đổi mới, đa dạng các
hình thức P G PL phù hợp với từng nội dung, đối tượng P G PL, phù hợp
72
với xu thế phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh, theo tác
giả, với đặc thù của tỉnh Đắk Lắk hiện nay, điều kiện kinh tế còn khó khăn,
giao thông đi lại chưa thuận lợi thì việc tuyên truyền qua hệ thống loa truyền
thanh cơ sở đối với các nội dung pháp luật liên quan đến đối tượng là nhân
dân, đồng bào ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa là hình thức mang lại nhiều
hiệu quả thiết thực do chi phí thấp, dễ thực hiện, tác động thường xuyên, liên
tục đến đối tượng tuyên truyền, mang lại hiệu quả cao, song thực tế hiện nay,
mới chỉ được một số cơ quan như Sở Tư pháp, Sở LĐ,T &XH, Sở Thông tin
và Truyền thông … thực hiện; hay việc sử dụng các phương tiện truyền thông
có sức lan tỏa lớn như mạng xã hội, trang web… chưa được các Cơ quan
quan tâm khi có rất ít các cơ quan lập trang facebook, zalo của cơ quan mình
để tuyên truyền những kiết thức pháp luật quan trọng, mới được ban hành đến
các tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Đa số các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh Đắk Lắk đã thiết lập
Trang thông tin điện tử của cơ quan mình để giới thiệu hoạt động và phổ biến
kiến thức pháp luật song các trang web này còn ít được nhân dân biết đến, nội
dung còn nghèo nàn do không thường xuyên cập nhật, đăng tải các tin bài có
chất lượng. Thực trạng này dẫn đến hiệu quả phổ biến pháp luật còn hạn chế,
chưa phù hợp với năng lực tiếp thu và nhu cầu về thông tin pháp luật của các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Hai là, các các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh Đắk Lắk chưa quan
tâm tới việc phân loại, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về việc thực hiện
các hình thức phổ biến pháp luật cho các đối tượng. Việc tổng kết, đánh giá
này là hết sức quan trọng và cần thiết nhằm tìm ra được những hình thức phổ
biến pháp luật phù hợp; từ đó mới có thể tìm ra giải pháp để nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác này.
Thứ sáu, về phương pháp PBGDPL: Trong hoạt động PBGDPL cho
73
cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, phương pháp tương tác hai
chiều theo kiểu thảo luận, tranh luận, nêu các sự kiện pháp luật thực tế... còn
ít được vận dụng. Các phương pháp mà báo cáo viên pháp luật sử dụng chủ
yếu là thuyết trình theo lối độc thoại dễ khiến cho người nghe rơi vào trạng
thái thụ động khi tiếp thu kiến thức, đánh mất sự hưng phấn trong quá trình
tham dự phổ biến pháp luật làm cho hiệu quả PBGDPL bị giảm sút.
Thứ bảy, việc xác định mục tiêu, đánh giá hiệu quả mang lại của công
tác PBGDPL: Chưa được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh quan
tâm, trong hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh, việc xác định mục tiêu, hiệu quả đạt được chưa được các chủ thể phổ
biến pháp luật đặt ra một cách nghiêm túc, hoặc nếu có đặt ra thì còn chung
chung, chưa cụ thể, rõ ràng, mang tính định lượng. Nhiều đề án P G PL còn
mang nặng tính hình thức, phong trào, mục tiêu đề ra thiếu tính khả thi và
thiếu giải pháp, nguồn lực thực hiện nên hiệu quả đạt được không cao. Việc
đánh giá xem mục tiêu đặt ra, hiệu quả đạt được chưa được các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh quan tâm, chủ yếu là thực hiện theo nhiệm vụ,
kế hoạch cấp trên giao; ít quan tâm tới thông tin phản hồi về kết quả, hiệu quả
tác động đến cán bộ và nhân dân - đối tượng thụ hưởng kết quả của hoạt động
này.
Thứ tám, kinh phí bố trí cho công tác PBGDPL chưa đáp ứng được nhu
cầu:
U N tỉnh đã quan tâm, tạo điều kiện về mặt kinh phí để bảo đảm cho
hoạt động P G PL tại các cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh, tuy nhiên,
việc bố trí kinh phí cho công tác này chưa đáp ứng được nhu cầu (cụ thể như:
cơ quan thường trực Hội đồng của tỉnh được cấp khoảng gần 1 tỷ đồng/năm,
mỗi cơ quan, đơn vị ở tỉnh được cấp bình quân khoảng 50 triệu đồng (cấp
chung vào hoạt động chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị đó); cơ quan
74
thường trực Hội đồng cấp huyện khoảng 50 triệu đồng/năm, ở cấp xã hầu như
không được cấp kinh phí P G PL riêng). Chúng ta biết rằng, do đặc thù của
hoạt động P G PL là hoạt động mang tính bề nổi, muốn tổ chức nhiều hoạt
động để mang đến sự lan tỏa cần có kinh phí để thực hiện, tuy nhiên, việc
không được bảo đảm kinh phí ảnh hưởng rất lớn, đóng vai trò quyết định đến
chất lượng, hiệu quản của công tác này.
Thứ chín, công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện
thường xuyên, nghiêm túc:
Việc theo dõi, kiểm tra đối với các các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh được thực hiện thông qua công tác báo cáo, việc kiểm tra trực tiếp
mới chỉ có Sở Tư pháp lồng ghép kiểm tra công tác P G PL trong hoạt
động kiểm tra công tác tư pháp tại các huyện mà chưa triển khai tại các cơ
quan cấp sở, mặt khác, mới chỉ có Sở Tư pháp thực hiện mà chưa được các
cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh khác thực hiện, do đó, chưa nắm
bắt đánh giá được đầy đủ, toàn diện việc thực hiện công tác P G PL ở các
đơn vị, địa phương. Đối với hoạt động giám sát của HĐN tỉnh, trong thời
gian qua, HĐN tỉnh chưa tiến hành giám sát chuyên đề đối với công tác
P G PL nhằm thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện công tác
P G PL trên địa bàn tỉnh.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Những hạn chế, bất cập trong công tác P G PL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh có thể do nhiều nguyên nhân; trong đó, theo
tác giả có 5 nguyên nhân chính:
i) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng về công tác
P G PL của một số cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh chưa thực sự
đầy đủ và đúng đắn, cơ chế hoạt động của Hội đồng P G PL chưa thực sự
75
hiệu quả dẫn đến sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan thiếu chặt chẽ.
Thực tế cho thấy, về mặt nhận thức, người đứng đầu một số cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk còn xem nhẹ vai trò, tầm quan trọng
của công tác PBGDPL nên chưa coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của mình, thường phó mặc cho các bộ phận chuyên môn và quan niệm
rằng công tác P G PL là của riêng ngành Tư pháp nên chưa dành sự quan
tâm thỏa đáng đối việc thực hiện hoạt động này.
Thứ hai, Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đôi
lúc chưa làm tốt vai trò hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra giúp UBND
tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh, HĐN tỉnh theo dõi các cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh, các địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc các kế
hoạch, chương trình, đề án P G PL đã đề ra dẫn đến thiếu sự sâu sát, quyết
liệt trong chỉ đạo, điều hành. Công tác phối hợp giữa một số ngành, địa
phương chưa thường xuyên, chặt chẽ, chưa thực sự chủ động dẫn đến làm
giảm hiệu quả của hoạt động của tổ chức này.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác P G PL chủ yếu là kiêm nhiệm,
một bộ phận thiếu nhiệt tình, thiếu tính chủ động, chưa làm tốt vai trò tham
mưu về công tác P G PL, hạn chế về trình độ pháp lý, phong tục tập quán
và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc dẫn đến việc thực hiện còn mang tính hình
thức, đối phó, chất lượng thấp. Đây là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến hạn chế, bất cập trong công tác P G PL của các cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh.
Thứ tư, một bộ phận cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
chưa chủ động, quan tâm đến việc tìm hiểu kiến thức pháp luật: chất lượng,
hiệu quả phổ biến pháp luật thuộc rất nhiều vào ý thức, thái độ của chính bản
thân mỗi cán bộ và nhân dân trong quá trình tham gia vào hoạt động này.
Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi các quy định đó liên quan
76
trực tiếp đến quyền và lợi ích trực tiếp của mình đang bị xâm hại, hoặc cần
bảo vệ.. nên dù chủ thể đã có nhiều cố gắng để làm tốt công tác phổ biến pháp
luật nhưng đối tượng tham gia thiếu chủ động, tích cực thì khó có thể đạt chất
lượng, hiệu quả, hút sự quan tâm của mọi tầng lớp nhân dân.
Mặc khác, trình độ dân trí của nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk với
80% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, hơn 30 % là đồng bào TTS nên về
cơ bản thu nhập vẫn còn thấp, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu
quan tâm đến phát triển kinh tế, lo chuyện ăn mặc, học hành, chữa bệnh …
vẫn là nhu cầu cấp thiết và nhu cầu tìm hiểu, cập nhật kiến thức pháp luật vẫn
là nhu cầu thứ yếu nên đây cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những
hạn chế, bất cập của hoạt động này.
Thứ năm, kinh phí chi cho công tác P G PL chưa thực sự được
U N tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh quan tâm, tạo điều
kiện để bảo đảm cho hoạt động P G PL tại các cơ quan, đơn vị, địa phương
của tỉnh. Tuy nhiên, do còn thiếu sự quan tâm, sự nhận thức chưa đầy đủ về
tầm quan trọng của công tác này cộng với đặc thù là một tỉnh chưa tự cân đối
được ngân sách như tỉnh Đắk Lắk nên việc bố trí kinh phí cho hoạt động
P G PL chưa đáp ứng được so với nhu cầu nên đã ảnh hưởng rất lớn đến
việc triển khai các hoạt động PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác này.
ii) Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, công tác P GPL là một hoạt động khó định lượng về hiệu
quả mang lại đối với đời sống kinh tế-xã hội, mặt khác, hệ thống kiến thức
pháp luật rất rộng lớn, liên quan đến mọi quan hệ đời sống kinh tế xã hội và
với điều kinh kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và đặc thù của tỉnh Đắk
Lắk nói riêng hiện nay, do trình độ dân trí còn thấp, đới sống kinh tế còn gặp
nhiêu khó khăn nên việc nhận thức, quan tâm về công tác P G PL còn chưa
77
đồng đều, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của công tác này.
- Thứ hai, các quy định của Luật P G PL và các văn bản hướng dẫn
thi hành chưa thật cụ thể, rõ ràng để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh trong việc P G PL đối với lĩnh vực
chuyên môn quản lý cho đối tượng là các tầng lớp nhân dân, dẫn đến thực
trạng các cơ quan chuyên môn mới chủ yếu quan tâm thực hiện PG PL đối
với lĩnh vực quản lý cho đối tượng cán bộ, công chức của ngành, chưa quan
tâm đến việc triển khai các hoạt động P G PL cho đối tượng là nhân dân
(Luật P G PL chỉ quy định cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh bảo
đảm quyển được thông tin pháp luật của nhân dân thông qua việc biên soạn,
phát hành các tài liệu PBGDPL).
Mặt khác, do đặc thù là cơ quan cấp tỉnh, chủ yếu làm nhiệm vụ tham
mưu, hướng dẫn, quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, có chức năng, nhiệm vụ quản
lý nhà nước nói chung và P G PL nói riêng cho cán bộ, công chức ở cấp
tỉnh và cấp huyện nên ít có điều kiện để triển khai các hoạt động P G PL
trực tiếp cho các tầng lớp nhân dân ở địa phương.
- Thứ ba, nhiều quy định của Luật P G PL và văn bản hướng dẫn thi
hành mang tính hướng dẫn, khuyến khích mà chưa có nhiều quy định mang
tính chế tài để ràng buộc trách nhiệm trong triển khai thực hiện, do đó, gây
khó khăn khi quy trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị đối với việc thực hiện
trong thực tế (như các quy định cửa Luật P G PL về các điều kiện đảm bảo
cho công tác P G PL, xã hội hóa công tác PBG PL, trách nhiệm của các tổ
chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về pháp luật trong
thực hiện công tác P G PL, …).
- Thứ tư, chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá về hiệu quả công tác
PBGDPL: Việc đánh giá hiệu quả của công tác P G PL là việc làm tương
đối khó, vì khó định lượng, khó đánh giá tác dụng mang lại trong ngắn hạn,
78
tuy nhiên, việc chưa có bộ “thước đo” để làm công cụ đánh giá hiệu quả của
công tác PBGDPL mang lại đã ảnh hưởng đến việc đánh giá, định lượng hoạt
động này để từ đó nhìn nhận đúng thực trạng và có các giải pháp để nâng cao
79
chất lượng hoạt động.
Tiểu kết Chƣơng 2
Tại Chương 2, tác giả đã nêu khái quát về tổng quan tình hình kinh tế-xã
hội tỉnh Đắk Lắk ảnh hưởng đến hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk; đồng thời, nêu khái quát thực trạng hoạt
động P G PL của tỉnh Đắk Lắk nói chung và đi sâu phân tích thực trạng
P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
Theo đó, cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk có trách nhiệm
thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động PBGDPL theo quy định của
pháp luật và bố trí nguồn lực để thực hiện các hoạt động P G PL gồm hoạt
động để thực hiện chức năng quản lý nhà nước như: tham mưu banh hành,
ban hành kế hoạch, chương trình, đề án, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đôn đốc
các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh triển khai, thực hiện công
tác P G PL và tổ chức thực hiện các hoạt động P GPL cụ thể với nhiều
nội dung thiết thực bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú cho đối tượng là
cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Trên cơ sở đó, tác giả phân tích thực trạng triển khai các nhiệm vụ này
của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, chẳng hạn như:
Về thực trạng bố trí chủ thể thực hiện công tác PBGDPL: Đã được bố trí
đầy đủ các bộ phận và phân công cán bộ thực hiện, Tuy nhiên, việc bố trí bộ
phận làm đầu mối giữa các cơ quan là chưa đồng bộ, thống nhất. Chất lượng
cán bộ còn hạn chế do thực hiện kiêm nhiệm, không chuyên nghiệp, thiết chủ
động; sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương còn thiết chặt chẽ ảnh
hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện công tác này.
Về thực trạng công tác hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện công
tác PBGDPL: Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh đôi
lúc chưa làm tốt vai trò hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra giúp U N
80
tỉnh, Hội đồng PHP G PL tỉnh theo dõi việc triển khai thực hiện công tác
P G PL trên địa bàn tỉnh.
Về thực trạng thực hiện triển khai các nội dung, hình thức PBGDPL: Đã
được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh triển khai với nhiều nội
dung và bằng nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nội dung
PBGDPL còn chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng, hình thức chậm đổi
mới, chưa có định hướng sử dụng hình thức phù hợp với từng đối tượng, phù
hợp với đặc thù điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh.
Việc xác định mục tiêu, đánh giá hiệu quả của công tác PBGDPL : Chưa
được các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh quan tâm, còn thực hiện
mang tính phong trào, hình thức, chưa có công cụ để làm thước đo, định
lượng hiệu quả công tác này …
Kinh phí chi cho công tác PBGDPL: Chưa được quan tâm, đáp ứng đủ
nhu cầu, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đảm bảo đủ nguồn lực tổ chức
thực hiện công tác này.
Cuối cùng, tác giả đã đánh giá chung về những kết quả đạt được, cũng
như những tồn tại, hạn chế trong quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành hoạt
động PBGDPL, trong tham mưu, triển khai thực hiện hoạt động PBGDPL,
những bất cập, hạn chế về mặt cơ chế quản lý, thể chế liên quan đến thực hiện
hoạt động này của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, tạo
tiền đề để nghiên cứu đưa ra các quan điểm, giải pháp, kiến nghị nhằm bảo
81
đảm thực hiện nhiệm vụ của cơ quan này tại Chương 3
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN CHUYÊN
MÔN THUỘC UBND TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật
của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. Phổ biến giáo dục pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh phải đặt dƣới sự lãnh đạo của các cơ quan đảng các cấp của
tỉnh
PBGDPL phải bám sát đường lối, chính sách, định hướng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. o đó, hoạt động PBGDPL không thể nằm ngoài sự lãnh
đạo của Đảng. Đối với hoạt động PBGDPL của tỉnh nói chung và của cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh nói riêng, cần có sự quan tâm, quyết liệt chỉ
đạo của Tỉnh ủy Đắk Lắk, an Cán sự Đảng U N tỉnh Đắk Lắk. Với tư
cách là chủ thể lãnh đạo, các tổ chức Đảng này cần có những nội dung,
phương pháp, cách thức nắm bắt, quán triệt, bảo đảm thực hiện nghiêm túc
nhiệm vụ PBGDPL trên địa bàn tỉnh nói chung và của các cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh nói riêng.
3.1.2. Phổ biến giáo dục pháp luật phải gắn với trách nhiệm của
ngƣời đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh là người “đứng
mũi chịu sào”, chịu trách nhiệm chính trong việc tham mưu, đề xuất, triển
khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động PBGDPL của cơ quan
mình theo quy định của pháp luật. Vì vậy, hơn ai hết người đứng đầu cơ quan
chuyên môn phải nắm rõ các nhiệm vụ này để bảo đảm chúng được triển khai
82
thực hiện trên thực tế; đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện.
Muốn được như vậy thì cơ chế chịu trách nhiệm của người đứng đầu
phải được quy định rõ ràng, đầy đủ và việc xử lý trách nhiệm phải được thực
hiện nghiêm túc trên thực tế, từ đó gắn trách nhiệm của người đứng đầu trong
việc triển khai nhiệm vụ thuộc chức năng, phạm vi quản lý của mình.
3.1.3. Ph n công, phối hợp và chế độ trách nhiệm rõ ràng trong
việc thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
Thực hiện Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày 17/5/2013 của Thủ
tướng Chính phủ quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng phối hợp P G PL, U N tỉnh đã củng cố Hội đồng phối hợp
P G PL tỉnh với 29 thành viên là lãnh đạo chủ chốt các sở, ngành, tổ chức,
đơn vị của tỉnh (Chủ tịch Hội đồng là đồng chí Phó Chủ tịch thường trực
U N tỉnh, cơ quan thường trực của Hội đồng là Sở Tư pháp); đồng thời ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng, quy định rõ cơ cấu tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc, phương thức làm việc và kinh phí hoạt
động của Hội đồng, Hội đồng cũng đã ra Thông báo phân công cụ thể nhiệm
vụ cho từng đồng chí... Ngoài ra, ở tỉnh còn có 03 cơ quan ( ộ Chỉ huy quân
sự tỉnh, ộ Chỉ huy biên phòng tỉnh và Công an tỉnh) thành lập Hội đồng phối
hợp P G PL riêng với 43 thành viên đã tiến hành tổ chức, thực hiện phổ
biến pháp luật cho các đối tượng. Trong những năm qua, Hội đồng phối hợp
PBGDPL các cấp tỉnh Đắk Lắk đã nỗ lực triển khai, thực hiện tương đối tốt
nhiệm vụ của mình và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần củng cố,
nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Tuy nhiên, hoạt động của nhiều Hội đồng phối hợp P G PL các cấp
còn bộc lộ những hạn chế, bất cập: sự phối hợp giữa các cơ quan làm công tác
tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật chưa thường xuyên, liên tục, thiếu đồng
83
bộ, không gắn kết; chế độ thông tin, báo cáo về phổ biến pháp luật ở các cấp,
các ngành thực hiện chưa đầy đủ, kịp thời; thiếu chủ động, tích cực trong việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ; còn có hiện tượng dựa dẫm, ỷ lại cho các cơ
quan khác... Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động chỉ
đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức, thực hiện phổ biến pháp luật, làm chậm
tiến độ triển khai thực hiện nội dung các Đề án PBGDPL.
o đó, nên việc tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh với nhau và với các tổ chức đoàn thể, với các
địa phương trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng là yêu cầu đặt ra để đảm
bảo nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo cơ chế để phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng
giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị làm nhiệm vụ phổ biến pháp luật, nhanh
chóng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; kịp thời rút kinh nghiệm và chỉ
ra được những bài học hay trong quá trình thực hiện.
3.1.4. Đ y mạnh xã hội h a hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Xã hội hóa hoạt động PBGDPL là một nhu cầu khách quan, là chủ
trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động sức mạnh
vật chất và tinh thần của toàn xã hội phục vụ cho công tác này, giảm bớt việc
cơ quan hành chính Nhà nước phải trực tiếp đảm nhận nhiều công việc cùng
một lúc dẫn đến tình trạng làm việc hời hợt, thiếu hiệu quả trong khi công
việc này đáng lẽ để xã hội tự giải quyết, vừa giảm được biên chế, tinh gọn bộ
máy, giảm chi ngân sách vừa phục vụ nhân dân được nhanh chóng và hiệu
quả hơn. Xã hội hóa hoạt động P G PL các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Đắk Lắk cần phải triển khai nhằm huy động tối đa nguồn nhân
lực, vật lực của xã hội và sự tham gia của toàn xã hội vào hoạt động PBGDPL
tren địa bàn tỉnh, tạo nền tảng bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
84
hoạt động này.
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến phổ
biến, giáo dục pháp luật
Văn bản pháp luật liên quan đến PBGDPL là cơ sở pháp lý làm nền tảng
cho việc tham mưu triển khai thực hiện nhiệm vụ PBGDPL của tỉnh nói
chung cũng như của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk nói
riêng. Vì vậy, các văn bản này phải có nội dung đầy đủ, khả thi bảo đảm điều
chỉnh toàn bộ các vấn đề liên quan đến việc triển khai hoạt động PBGDPL, từ
nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện cho đến trách nhiệm, chế tài xử lý trong
hoạt động này.
Để thực hiện giải pháp này, tác giả đề xuất thực hiện các nội dung cụ thể
sau:
i) Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành
của cơ quan trung ương
Cơ quan làm nhiệm vụ giúp U N tỉnh quản lý nhà nước về P G PL
của tỉnh cần tham mưu cho U N tỉnh rà soát, đánh giá lại toàn bộ những
vướng mắc, bất cập trong các văn bản QPPL của các cơ quan trung ương,
gồm Luật P G PL, Nghị định 28/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật P G PL, Quyết định số
27/2013/QĐ-TTg ngày của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt
động của Hội đồng phối hợp P G PL, Thông tư 23/2012/TT-BTP của ộ Tư
pháp quy định về báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật.v.v… Trên cơ sở
đó, tham mưu U N tỉnh có văn bản kiến nghị Chính phủ sửa đổi các nội
dung bất cập, không phù hợp, trong đó chú trọng quy định rõ trách nhiệm của
85
cơ quan có thẩm quyền, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác P G PL.
Hai là, tham mưu cho U N tỉnh có văn bản đề nghị Chính phủ xem xét
sửa đổi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp
chế, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo
hướng quy định rõ bộ phận, phòng chuyên môn làm “đầu mối” để theo dõi
công tác pháp chế nói chung và công tác P G PL nói riêng vì hiện nay bộ
phận làm “đầu mối” theo dõi công tác P G PL tại các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh Đắk Lắk bố trí không thống nhất, có Sở thì vẫn bố trí
phòng pháp chế riêng để theo dõi công tác P G PL, có sở bố trí cán bộ pháp
chế thuộc phòng thanh tra, có sở lại bố trí thuộc Văn phòng gây ra sự không
đồng bộ, thống nhất trong việc tham mưu, theo dõi, tổ chức hoạt động
P G PL tại các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh.
ii) Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành
của tỉnh
Một là, ban hành bộ tiêu chí làm chuẩn đánh giá của tỉnh đối với kết quả
hoạt động P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.
Chuẩn đánh giá kết quả thực hoạt động P G PL là các tiêu chí làm cơ
sở đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động PBGDPL
của các cơ quan hành chính liên quan trên địa bàn tỉnh, trong đó có các cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Đây sẽ là cơ sở để kết luận, quy kết
trách nhiệm đối với cán bộ, công chức có liên quan. Hiện nay, tác giả nhận
thấy chưa có chuẩn đánh giá đối với nhiệm vụ PBGDPL.
Vì vậy, để bảo đảm và nâng cao hiệu quả hoạt động P G PL trên địa
bàn tỉnh, tác giả tin rằng việc U N tỉnh Đắk Lắk chủ động ban hành bộ tiêu
chuẩn đánh giá nhiệm vụ PBGDPL của tỉnh là cần thiết và sẽ được các cơ
86
quan trung ương cũng như địa phương ủng hộ. Đây cũng sẽ là nguồn bổ trợ
cho việc đánh giá nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn
như đang được một số ngành thực hiện (như bộ tiêu chí đánh giá về hiệu quả
công tác cải cách hành chính, các bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới…) .
Để thực hiện nội dung này, tác giả đề xuất cách thức thực hiện như sau:
kiến nghị Sở Tư pháp chủ trì phối hợp Sở Nội vụ và các cơ quan chuyên môn
tham mưu cho U N tỉnh Đắk Lắk ban hành ộ tiêu chí đánh giá về kết quả
thực hiện nhiệm vụ PBGDPL của tỉnh Đắk Lắk để áp dụng chung cho các cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh và U N cấp huyện, cấp xã trên địa bàn
tỉnh, trong đó, cần xây dựng phương pháp đánh giá kết quả PBGDPL. Trong
điều kiện hiện nay, phương pháp giá có tính khả thi, phù hợp là nhất là xây
dựng phiếu thu thập ý kiến của đối tượng tiếp nhận để ghi nhận những ý kiến
phản hồi về hiệu quả hoạt động P G PL.
Hai là, ban hành văn bản xác định rõ trách nhiệm cá nhân đối với hoạt
động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
Trách nhiệm cá nhân đối với PBGDPL là trách nhiệm công vụ gắn liền
với mỗi cán bộ, công chức, được quy định rõ tại khoản 1, Điều 9 và Điều 10,
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, theo đó cán bộ, công chức phải “chịu
trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao”, đồng thời,
cán bộ, công chức là người đứng đầu phải “chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị” [13].
Trách nhiệm ở đây được hiểu trước tiên đó là nghĩa vụ thực hiện đến
cùng nhiệm vụ được giao, không được thoái thác và trao lại cho người khác,
có nghĩa là phải gắn mình với việc thực hiện công vụ cho đến khi có kết quả;
thứ hai, đó là hậu quả bất lợi mà người cán bộ, công chức phải gánh chịu khi
không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quy định chung
được ghi nhận trong Luật. Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể để xác định
87
trách nhiệm trong việc thực hiện hoạt động PBGDPL, do đó trên thực tế chưa
có trường hợp nào chịu trách nhiệm đến cùng khi không hoàn thành các
nhiệm vụ liên quan đến PBGDPL. Vì vậy, tác giả thấy rằng cần thiết tham
mưu cho U N tỉnh ban hành một văn bản QPPL để điều chỉnh về trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk,
cũng như trách nhiệm của cán bộ, công chức có liên quan, như: trưởng các
phòng chuyên môn, đơn vị trực thuộc các cơ quan này, cách thức xác định
trách nhiệm bảo đảm tính khả thi trên thực tế và quy định biện pháp công khai
trách nhiệm của người đứng đầu đối với nhiệm vụ này.
Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, tác giả kiến nghị U N tỉnh Đắk
Lắk giao cho Sở Tư pháp phối hợp với Sở Nội vụ để tham mưu ban hành Quy
định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị Nhà nước về thực hiện
P G PL trên địa bàn tỉnh, quy định cách thức xác định trách nhiệm
P G PL cụ thể, rõ ràng và khả thi, để bảo đảm những trường hợp sai phạm
phải được xử lý trên thực tế.
3.2.2. Tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của HĐND, UBND tỉnh Đắk
U N tỉnh Đắk Lắk là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh. o đó, U N tỉnh có vai trò quan
trọng trong chỉ đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện của
các cơ quan, địa phương trên địa bàn tỉnh, trong đó có các cơ quan chuyên
môn thực thuộc.
Để thực hiện chức năng quản lý của mình, U N tỉnh Đắk Lắk có thể
quyết định các vấn đề cần thiết trong phạm vi thẩm quyền được giao để bảo
đảm thực thi nhiệm vụ PBGDPL, chẳng hạn như: tự ban hành hoặc đề xuất cơ
quan có thẩm quyền ban hành các văn bản QPPL liên quan để điều chỉnh các
vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này; thực hiện kiểm tra và xử lý những sai
88
phạm theo quy định. o đó, để tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý trong
hoạt động PBGDPL, tác giả kiến nghị U N tỉnh thực hiện các biện pháp
sau đây:
Thứ nhất, chỉ đạo cơ quan “đầu mối” giúp U N tỉnh tham mưu, quản
lý về công tác P G PL và các cơ quan chuyên môn tham mưu, đề xuất ban
hành những văn bản liên quan làm cơ sở để thực hiện hiệu quả và kiểm tra đối
với hoạt động này, như: ban hành ộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động
P G PL trên địa bàn tỉnh; ban hành Quy định về trách nhiệm của người
đứng đầu, cán bộ, công chức trong hoạt động PBGDPL…
Thứ hai, chỉ đạo Sở Tư pháp tham mưu U N tỉnh tăng cường công tác
kiểm tra việc thực công tác P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh, trong các đợt kiểm tra hàng năm về PBGDPL, UBND tỉnh cần
giao một cán bộ lãnh đạo Hội đồng P G PL tỉnh (Chủ tịch hoặc Phó Chủ
tịch Hội đồng) làm trưởng đoàn kiêm tra trực tiếp, định kỳ sáu tháng và hàng
năm để đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra việc thực hiện để khắc phục tình trạng lâu
nay chủ yếu kiểm tra các đơn vị cấp huyện còn các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh chỉ kiểm tra quan báo cáo.
Về phía HĐN tỉnh Đắk Lắk, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước
cấp trên; đồng thời có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương. o đó, HĐN tỉnh cần thiết giám
sát hoạt động PBGDPL của chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh trong
đó có các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Để bảo đảm thực hiện giải
pháp này, tác giả kiến nghị biện pháp thực hiện như sau:
Sở Tư pháp cần đề xuất U N tỉnh tham mưu HĐN tỉnh đánh giá và
đưa kết quả thực hiện hoạt động P G PL vào trong nội dung báo cáo về tình
89
hình kinh tế xã hội hàng năm tại kỳ họp HĐN tỉnh, trên cơ sở đó đưa vào
Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của HĐN tỉnh
để thực hiện.
3.2.3 Kiện toàn tổ chức, nguồn lực thực hiện phổ biến, giáo dục pháp
luật tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
3.2.3.1 Kiện toàn về tổ chức
- Về đầu mối quản lý hoạt động PBGDPL: Hiện nay, trên thực tế hoạt
động P G PL ở các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh chỉ có Sở Tư
pháp có phòng P G PL là đầu mối chuyên trách thực hiện hoạt động
P G PL, các Sở khác giao cho phòng pháp chế hoặc một các bộ pháp chế
thuộc Văn phòng Sở hoặc Thanh tra Sở làm đầu mối theo dõi công tác này
dẫn đến việc thiếu đồng bộ, thống nhất trong việc tổ chức đầu mối theo dõi,
cụ thể tác giả kiến nghị chuyển cho bộ phận Văn phòng của các cơ quan
chuyên môn đảm nhiệm, vì trên thực tế bộ phận này đang phụ trách chức
năng, theo dõi, tổng hợp các họat động của các chuyên môn của các Sở và có
chức năng tham mưu, tổng hợp, giúp việc trực tiếp cho an Giám đốc các cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh, có nhiều thuận lợi trong việc theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra các phòng, đơn vị thuộc Sở triển khai các hoạt động
PBGDPL.
Đề nghị ban hành Quy chế hoạt động cán bộ đầu mối thực hiện hoạt
động P G PL của tỉnh theo hướng yêu cầu “bố trí Chánh Văn phòng của các
cơ quan chuyên môn làm cán bộ đầu mối thực hiện hoạt động P G PL” cho
thống nhất và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong việc tổng hợp, tham mưu cho
người đứng đầu cơ quan nắm bắt sâu sát tình hình và chỉ đạo kịp thời hơn đối
với nhiệm vụ PBGDPL.
- Về phía bộ phận thực hiện hoạt động PBGDPL: cần chủ động phối hợp
với Sở Nội vụ có văn bản đề nghị U N tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên
90
môn sửa đổi, bổ sung các Quyết định quy định về chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan chuyên môn trong đó quy định rõ trách nhiệm P G PL đối với
các phòng chuyên môn, đơn vị trực của các cơ quan chuyên môn để Trưởng
các phòng, đơn vị này tham gia với tư cách là một chủ thể có trách nhiệm
thực hiện P G PL chứ không là chủ thể phối hợp đơn thuần như hiện nay.
- Về phía Hội đồng PHPBGDPL của tỉnh: Hội đồng phối hợp P G PL
tỉnh lực lượng đóng vai trò chủ chốt trong việc tư vấn, chỉ đạo, hướng dẫn
công tác chức, thực hiện phổ biến pháp luật. Trong chỉ đạo hoạt động, Hội
đồng đã có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên theo dõi, chỉ
đạo, đôn đốc, kiểm tra công tác chức, thực hiện phổ biến pháp luật đối với
từng đối tượng, từng địa bàn; hàng năm tổ chức sơ kết để đánh giá, rút kinh
nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, hiện Quy chế mới chỉ phân công trách nhiệm chung là cơ
quan chuyên môn quản lý nhà nước lĩnh vực nào thì chịu trách nhiệm
P G PL lĩnh vực đó mà chưa quy định cụ thể, rõ ràng cách thức, cơ chế phối
hợp trong từng lĩnh vực, do đó, tác giả kiến nghị cần sửa đổi Quy chế hoạt
động của Hội đồng theo hướng quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm
phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh cũng như giữa các
cơ quan chuyên môn với các tổ chức đoàn thể trong việc triển khai phối hợp
P G PL các lĩnh vực có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhau hoặc
yêu cầu các cơ quan ban hành Quy chế phối hợp riêng với nhau như: Quy chế
phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi trường và Sở Xây dựng tuyên truyền,
P G PL về lĩnh vực đất đai, xây dựng; Quy chế phối hợp giữa an ân tộc,
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội phụ nữ phối hợp P G PL cho
đồng bào dân tộc thiểu số …nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng.
3.2.3.2 Kiện toàn đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Nhìn một cách tổng thể, những năm gần đây, lực lượng làm công tác
91
phổ biến pháp luật đã và đang dần được củng cố, kiện toàn, tỉnh Đắk Lắk đã
có sự quan tâm, chỉ đạo tăng cường năng lực của đội ngũ làm công tác phổ
biến pháp luật bằng nhiều hình thức coi đây là yếu tố quan trọng hàng đầu
quyết định chất lượng, hiệu quả của tác phổ biến pháp luật. Tuy nhiên, để
khắc phục những hạn chế, bất của đội ngũ này, tác giả kiến nghị Sở Tư pháp
tham mưu cho U N tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh
tiếp tục tăng cường tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng
phổ biến pháp luật cho cán bộ pháp chế các Sở, các báo cáo viên pháp luật,
đặc biệt, tham mưu, chỉ đạo các địa phương tăng cường bố trí, bổ sung đội
ngũ báo cáo viên pháp luật là người đồng bào dân tộc thiểu số để nâng cao
hiệu quả P G PL cho nhân dân trên địa bàn tỉnh.
3.2.4 Đổi mới nội dung, hình thức và phƣơng pháp phổ biến pháp
luật của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
3.2.4.1 Đổi mới nội dung phổ biến pháp luật
Về nội dung PBGDPL, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk
Lắk đã lựa chọn được những nội dung pháp luật cơ bản phù hợp với đối tượng
là cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, kiến thức pháp luật còn
nghèo nàn, nội dung phổ biến pháp luật chưa chú trọng tới nhu cầu tiếp nhận
thông tin, kiến thức pháp luật của đối tượng, mới chỉ dừng lại ở việc truyền
đạt những nội dung pháp luật mà mình có, chưa hướng tới trang bị những nội
dung pháp luật mà đối tượng cần, như kiến thức pháp luật về về quyền con
người, về an sinh xã hội, an toàn thực phẩm, đất đai, xử phạt vi phạm hành
chính... chủ yếu giới thiệu các quy định pháp luật, chưa gắn với các sự kiện,
tình huống pháp luật thực tiễn, chưa chú trọng trang bị kỹ năng vận dụng kiến
thức pháp luật vào thực tiễn đời sống dẫn đến cán bộ và nhân dân có kiến
thức, hiểu biết pháp luật nhưng vẫn bị động, lúng túng trong vận dụng vào
thực tiễn. Để đổi mới nội dung P G PL, các cơ quan chuyên môn thuộc
92
U N tỉnh Đắk Lắk cần tập trung vào các biện pháp sau:
Thứ nhất, lựa chọn những nội dung kiến thức về các lĩnh vực pháp luật
cụ thể, liên quan mật thiết tới cuộc sống, lao động, sinh hoạt của nhân dân
trên địa bàn tỉnh để tập trung phổ biến pháp luật cho đối tượng này. Mặt khác,
cần bổ sung, cập nhật những văn bản pháp luật mới được ban hành.
Thứ hai, chú trọng trang bị những nội dung kiến thức về các văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật do HĐN , U N các cấp ban hành, nhất là
văn bản có liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao động, việc làm, lợi ích của
các tầng lớp nhân dân, bao gồm các nghị quyết của HĐN các cấp, những
quyết định của U N các cấp, các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền..., là cơ sở rất quan trọng của việc
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Thứ ba, cần chú trọng trang bị cho cán bộ và nhân dân kiến thức về
kinh nghiệm thực tế, những nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, kỹ năng vận dụng các QPPL để xử lý, giải quyết
các sự việc, sự kiện, tình huống pháp luật xảy ra trong cuộc sống, những mâu
thuẫn, chồng chéo trong thực tiễn thi hành pháp luật.
3.2.4.2 Đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Về hình thức PBGDPL đã được các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk tiến hành một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú. Tuy nhiên,
các cơ quan chuyên thuộc U N tỉnh chưa xác định được hình thức phổ biến
pháp luật chủ yếu, phù hợp với những nội dung, đối tượng cụ thể để có biện
pháp triển khai thực hiện; còn chậm đổi mới việc sử dụng các hình thức
P G PL phù hợp với xu thế phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội trên địa
bàn tỉnh để nâng cao hiệu quả hoạt động, do đó, các cơ quan chuyên môn
thuộc U N tỉnh Đắk Lắk cần tập trung vào các biện pháp sau để đổi mới
93
các hình thức P G PL:
Thứ nhất, tiếp tục đa dạng hóa, đổi mới các hình thức PBGDPL cho
cán bộ và nhân dân phù hợp với đặc điểm về trình độ nhận thức, lối sống sinh
hoạt và địa bàn cư trú của từng nhóm đối tượng trên địa bàn tinh Đắk Lắk.
Theo tinh thần đó, các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh cần sử
dụng linh hoạt, đồng bộ nhiều hình thức phổ biến pháp luật. Đối với đa số
nhân đang sinh sống trên địa bàn tỉnh cần tăng cường sử dụng các hình thức:
PBGDPL thông qua các cuộc họp dân, các buổi sinh hoạt tôn giáo; biên soạn
sách pháp luật phổ thông bằng dân tộc thiểu số; sử dụng tờ gấp pháp luật;
thông qua hệ thống loa truyền thanh cơ sở; tổ chức các hoạt động tư vấn pháp
luật. Đặc biệt, cần quan tâm sử dụng Trang thông tin điện tử để tổ chức thi
tìm hiểu pháp luật trực tuyến, sử dụng mạng xã hội như zalô, facebook để
thực hiện hoạt động P G PL vì đây là hình thức có rất nhiều ưu việt như chi
phí thấp, sức lan tỏa lớn, dễ thực hiện.
Đối với đối tượng là cán bộ, công chức cần tăng cường tổ chức tập
huấn chuyên sâu, mời các chuyên gia, nhà P G PL chuyên nghiệp tập huấn
cho đội ngũ này nhằm cập nhật, nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật, giải
quyết những vướng mắc pháp luật phát sinh trong thực tiễn, tạo thuận lợi
trong quá trình thực thi công vụ.
3.2.4.3 Đổi mới phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
Có thể khẳng định rằng, phương pháp truyền đạt kiến thức pháp luật
cho các đối tượng hiện đang là khâu yếu nhất của các báo cáo viên pháp luật
của tỉnh Đắk Lắk. Trong những năm qua, đội ngũ báo cáo viên pháp luật các
cấp chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình theo kiểu độc thoại, một chiều
và hiện không còn phù hợp với nhiều đối tượng. Để tạo bước đột phá trong
việc đổi mới phương pháp truyền đạt, các báo cáo viên pháp luật cần tập trung
94
thực hiện các biện pháp nhằm hướng trọng tâm phổ biến pháp luật vào người
học, người nghe; phát huy tính chủ động, sáng tạo của họ. Chuyển mạnh từ
phương thức lấy báo cáo viên pháp luật làm trung tâm sang phương thức lấy
cán bộ và nhân dân làm trung tâm.
3.2.5 Đảm bảo kinh phí cần thiết, c cơ chế huy động xã hội h a
công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
Có thể khẳng định rằng, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả PBGDPL
của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk không thể tách rời sự
đảm bảo các điều kiện về kinh tế. Vì vậy, Tỉnh ủy, HĐN tỉnh, U N tỉnh,
Đắk Lắk cần quan tâm, đầu tư kinh phí nhiều hơn nữa cho hoạt động
P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh. Hoạt động này chỉ
đi vào chiều sâu, thực chất và đạt hiệu quả cao khi có sự quan tâm, đầu tư
nguồn kinh phí thỏa đáng từ phía Nhà nước nói chung, các cấp, các ngành ở
địa phương nói riêng. Nguồn kinh phí được cung cấp đầy đủ sẽ là điều kiện
quan trọng để các chủ thể củng cố, nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ
hoạt động phổ biến pháp luật, nếu nguồn kinh phí không được đáp ứng thì
khó có thể nói đến việc nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, thực hiện phổ
biến pháp luật.
Để đảm bảo đáp ứng đủ kinh phí cho công tác này, bên cạnh việc huy
động từ nguồn ngân sách, tác giả kiến nghị, Sở Tư pháp cần tham mưu cho
U N tỉnh, HĐN tỉnh ban hành cơ chế, chính sách để huy động xã hội hóa
công tác P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để thu hút đầu tư, vận động
được sự tham gia của mọi người, đặc biệt là những người có tâm huyết và
năng lực. Cần thí điểm việc xã hội hóa một số lĩnh vực của công tác phổ biến
pháp luật, qua đó đánh giá mức độ thành công, sau đó mới tiến hành nhân
rộng. Từ hoạt động thực tiễn rút ra được những kinh nghiệm cụ thể, có kế
hoạch phát triển lâu dài; hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó quy định cụ
95
thể về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khi tham gia
công tác PBGDPL. Khen thưởng những tập thể cá nhân có nhiều thành tích
đóng góp trong công tác xã hội hóa PBGDPL. Vận động nguồn kinh phí đóng
góp từ các tổ chức phi chính phủ, việt kiều vì các tổ chức, cá nhân này thường
rất quan tâm đầu tư phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số, các nhóm xã hội
yếu thế. Huy động nguồn kinh phí đóng góp từ các doanh nghiệp, nhà hảo
tâm đang hoạt động sản xuất, kinh doanh ở tỉnh Đắk Lắk và các địa phương
khác. Điều tiết nguồn kinh phí từ các đề án, chương trình mục tiêu quốc gia
và các nguồn kinh phí khác. Đồng thời, nghiên cứu ban hành cơ chế cho phép
các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có cơ chế “thuê ngoài” các tổ
chức P G PL chuyên nghiệp để thực hiện các hoạt động P G PL, nhằm
tạo tính chuyên nghiệp trong hoạt động P G PL, nâng cao chất lượng, hiệu
96
quả hoạt động này cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Tiểu kết Chƣơng 3
Trên cơ sở thực trạng P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk được phân tích, đánh giá tại Chương 2, tác giả đã bám sát để
đưa ra các quan điểm, giải pháp xác thực nhằm giải quyết những tồn tại, hạn
chế, qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng P G PL của cơ quan chuyên môn
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, tác giả đưa ra 4 quan điểm và 4 giải pháp
bảo đảm thực hiện nhiệm vụ P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk, cụ thể:
Về mặt quan điểm, tác giả cho rằng hoạt động P G PL cần đặt dưới
sự lãnh đạo của các cơ quan đảng các cấp của tỉnh; gắn với trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk; phân công,
phối hợp và chế độ trách nhiệm rõ ràng trong việc thực hiện hoạt động
PBGDPL; đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Về giải pháp gồm có: một là, tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật
liên quan đến PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk;
hai là, tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý của U N tỉnh Đắk Lắk, vai
trò giám sát của HĐN tỉnh Đắk Lắk; ba là, kiện toàn tổ chức, nguồn lực
thực hiện PBGDPL tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk;
bốn là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến pháp luật; năm
là, bảo đảm nguồn lực triển khai hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
Theo niềm tin chủ quan của tác giả, các quan điểm và giải pháp này
mang tính cơ bản nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng PBGDPL của cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk và có thể áp dụng chung đối với
chính quyền cấp huyện và cấp xã trên địa bàn tỉnh, tạo nền tảng cho việc tiếp
97
tục nghiên cứu và nhân rộng thực hiện trên phạm vi cả nước.
KẾT LUẬN
Phổ biến giáo dục pháp luật (P G PL) là khâu đầu tiên trong hoạt
động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân.
Trong rất nhiều văn kiện của Đảng đã xác định rõ công tác P G PL là một
bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc
đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng này, trong khuôn khổ Luận văn
này, tác giả đã tập trung phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hoạt động
P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh với đặc điểm
đây là một trong các nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ quan này, đóng
vai trò “nòng cốt” trong hệ thống chính quyền cấp tỉnh và tạo tiền đề để đảm
bảo việc triển khai thực hiện có hiệu quả ở cấp huyện và cấp xã; phân tích
thực trạng triển khai hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra nhiều hạn chế, tồn tại về mặt thể chế, về thực
trạng tham mưu thực hiện trên khía cạnh là một hoạt động quản lý nhà nước
của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh và trên khía cạnh là một chủ
thể tổ chức thực hiện cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Kết quả mới mà luận văn đạt được, đó là đi sâu vào nghiên cứu, phân
tích cơ sở khoa học của P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh; đánh giá các nhiệm vụ, trách nhiệm liên quan đến hoạt động P G PL,
chứ không phải đơn thuần chỉ nghiên cứu về cách thức thực hiện hoạt động
98
P G PL như nhiều luận văn khác đã nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, tác giả đã nghiên cứu và đề xuất được các giải pháp và
biện pháp cụ thể để bảo đảm nâng cao chất lượng P G PL của cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk, làm cơ sở để triển khai nghiên cứu
nhân rộng đối với toàn tỉnh, cũng như làm nền tảng để tiếp tục nghiên cứu
trong phạm vi cả nước. Đây cũng chính là mục đích, nhiệm vụ mà luận văn đề
ra.
Trong giới hạn kinh nghiệm và khả năng còn hạn hẹp, cộng với thời gian
nghiên cứu có hạn, chắc chắc sẽ có những nhận định còn mang tính chủ quan
và những thiếu sót nhất định, tác giả rất mong Quý Thầy, Cô và bạn bè, đồng
nghiệp quan tâm có ý kiến góp ý chân thành để tác giả tiếp tục hoàn thiện
99
trong những lần nghiên cứu sau này.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Trần Trung Hiếu (2016), “PBGDPL với chủ trương hướng về cơ sở” đăng
trên Tạp chí ân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề tháng 4 năm 2017), tr.
100
9-12.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tô Tử Hạ (2003), Từ điển Hành chính, NXb. Lao động – Xã hội, Hà
Nội.
2. Chính phủ (2014), Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Nghị định số
24/2014/NĐ-CP, Hà Nội.
3. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số
14/2012/QH13, Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Nghị định số 28/2013/NĐ-CP, Hà
Nội.
5. Chính phủ (2011), Quy định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP,
Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Lộc (1987), Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp
luật ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ Luật học (bảo vệ ở Liên Xô cũ)
7. Trần Ngọc Đường và ương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục
pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Quốc Sửu (2011), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật.
9. Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công, Hà nội
10. Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào
101
công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội.
11. ương Thị Thu Hiền (2013), PBGDPL trên địa bàn huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Xuân Hòa (2016), Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ân dân tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc
sỹ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia
13. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII
(2008), Cán bộ, công chức, Luật số 22/2008/QH13, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII
(2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
15. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII
(2015), Ban hành văn bản QPPL, Luật số 80/2015/QH13, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
16. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII
(2015), Tổ chức chính quyền địa phương, Luật số 77/2015/QH13, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII
(2016), Tiếp cận thông tin 2016, Luật số 104/2016/QH13, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. U N tỉnh Đắk Lắk (2016), Sơ kết 3 năm thực hiện Luật
PBGDPL, áo cáo số 113/BC-UBND, Đắk Lắk.
19. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2015), Về kết quả công tác
PBGDPL năm 2015, áo cáo số 01/BC-HĐPH, Đắk Lắk.
20. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2017), Về kết quả công tác
102
PBGDPL năm 2016, Báo cáo số 10/BC-HĐPH, Đắk Lắk.
21. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2018), Về kết quả công tác
PBGDPL năm 2017, Báo cáo số 02/BC-HĐPH, Đắk Lắk.
22. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2019), Về kết quả công tác
PBGDPL năm 2018, Báo cáo số 69/BC-HĐPH, Đắk Lắk.
23. Hội đồng PHP G PL tỉnh Đắk Lắk (2019), Về kết quả công tác
PBGDPL năm 2019, Báo cáo số 306/BC-HĐPH, Đắk Lắk.
24. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chương trình PBGDPL từ năm 2012
đến năm 2016, Quyết định số 409/QĐ-TTg, Hà Nội.
25. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chương trình PBGDPL từ năm 2017
đến năm 2021, Quyết định số 705/QĐ-TTg, Hà Nội.
26. U N tỉnh Đắk Lắk (2012), Chương trình PBGDPL trên địa bàn
tỉnh từ năm 2012 đến năm 2016, Quyết định số 2464/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
27. U N tỉnh Đắk Lắk (2017), Chương trình PBGDPL trên địa bàn
tỉnh từ năm 2017 đến năm 2021, Quyết định số 2464/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
28. U N tỉnh Đắk Lắk (2015), Chương trình PBGDPL trên địa bàn
tỉnh từ năm 2017 đến năm 2021, Quyết định số 2464/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
29. Thủ tướng Chính phủ (2013), Về thành phần của Hội đồng phối
hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg, Hà Nội.
30. U N tỉnh Đắk Lắk (2014), Kế hoạch triển khai công tác
PBGDPL năm 2015, Quyết định số 3277/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
31. U N tỉnh Đắk Lắk (2016), Kế hoạch triển khai công tác
PBGDPL năm 2016, Quyết định số 116/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
32. U N tỉnh Đắk Lắk (2017), Kế hoạch triển khai công tác
PBGDPL năm 2017, Quyết định số 3393/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
33. U N tỉnh Đắk Lắk (2018), Kế hoạch triển khai công tác
103
PBGDPL năm 2018, Quyết định số 3393/QĐ-UBND, Đắk Lắk.
34. U N tỉnh Đắk Lắk (2018), Kế hoạch triển khai công tác
PBGDPL năm 2019, Kế hoạch số 11462/KH-UBND, Đắk Lắk.
35. Nguyễn Tất Viễn (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Đề tài cấp ộ, ộ Tư pháp, Hà Nội
36. Nguyễn Như ý chủ biên (1998), Đai từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội. (tr. 1662)
38. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Hà
Nội.
39. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số vấn đề giáo dục
pháp luật ở miền núi. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật - ộ Tư pháp (2013), Hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số nước trên thế giới, Tài liệu tham khảo
104
nội bộ, Hà Nội./.