ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------

NGUYỄN CÔNG THANH DUNG

XÁC LẬP MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, NĂM 2013

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------

NGUYỄN CÔNG THANH DUNG

XÁC LẬP MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

HÀ NỘI, NĂM 2013

2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

20

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

20

5. Đóng góp mới của đề tài

21

6. Giới thiệu cấu trúc luận văn

22

Chƣơng 1. THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN VÀ XÁC LẬP MÃ

NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT

23

1.1. Quách Tấn: nhà thơ xuất sắc của dòng thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa

đầu thế kỷ XX và trong phong trào Thơ Mới

23

1.1.1. Cuộc đời

23

1.1.2. Sự nghiệp văn chƣơng

25

1.1.3. Quách Tấn với nhóm Bàn Thành tứ hữu

30

1.1.4. Quách Tấn: nhà thơ thuỷ chung với thơ cách luật

31

1.1.5. Ảnh hƣởng của thơ Đƣờng đối với thơ Quách Tấn

33

1.2. Xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật

36

1.2.1. Khái niệm: Thơ Đƣờng, Thơ Đƣờng luật, Thơ Đƣờng luật Việt Nam

1.2.2. Những tiêu chí xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật

38

1.3. Thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX và nhu cầu kế thừa tinh hoa thơ

truyền thống 50

1.3.1. Nhu cầu hiện đại hoá thơ Việt trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX

50

1.3.2. Thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục tồn tại trên báo chí và

trong phong trào Thơ Mới

57

1.3.3. Dấu ấn tƣợng trƣng của thơ Đƣờng luật trong Thơ Mới

62

1.3.4. Ảnh hƣởng của thơ Đƣờng đối với một vài thơ lãng mạn Việt Nam

1932-1945

63

3

Tiểu kết

72

Chƣơng 2. MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH

TẤN NHÌN TỪ NỘI DUNG CẢM HỨNG

74

2.1. Đề tài và cảm hứng

74

2.1.1. Đề tài

74

2.1.2. Cảm hứng và Cảm hứng chủ đạo

75

2.2. Cảm hứng về thiên nhiên

76

2.2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong hiện thực cuộc sống

78

2.2.2. Tái hiện một số hình ảnh thiên nhiên: hoa cúc, chim én, ánh trăng 83

2.3. Cảm hứng về quê hƣơng đất nƣớc

90

2.3.1. Quê hƣơng đất nƣớc: những nơi chốn đã đi qua

92

2.3.2. Quê hƣơng: nơi gia đình sinh sống và đoàn tụ

95

98

2.4. Nỗi niềm hoài cổ 2.5. Cảm hứng Thiền đạo

103

2.5.1. Nhìn thiên nhiên qua cảm quan Thiền đạo

104

2.5.2. Hình ảnh tiếng chuông chùa 107

2.5.3. Một đạo tâm dào dạt

108

Tiểu kết

111

Chƣơng 3. MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH

TẤN NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

112

3.1. Quan niệm của Quách Tấn về việc làm thơ

112

3.1.1. Quan niệm của nhà thơ về việc dụng điển, luyện chữ

112

3.1.2. Quan niệm của nhà thơ về việc chọn thể thơ để sáng tác

114

3.1.3. Những thể thơ đƣợc Quách Tấn sử dụng trong các tập thơ

115

3.2. Quách Tấn với những cách tân về ngôn ngữ thơ

117

3.2.1. Những nét mới trong nghệ thuật dụng điển

117

3.2.2. Những cách tân về ngôn ngữ - hình ảnh thơ

117

3.2.3. Những đổi mới cấu trúc câu thơ

125

4

3.3. Những nét mới trong việc tổ chức nhịp điệu và hệ thống giọng điệu

thơ Quách Tấn

127

3.3.1. Những nét mới trong việc tổ chức nhịp điệu thơ Đƣờng luật của

Quách Tấn

127

3.3.2. Những nét mới trong hệ thống giọng điệu thơ Đƣờng luật của Quách

Tấn

141

Tiểu kết

151

KẾT LUẬN

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

156

NHỮNG BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

162

5

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sinh thời M.Gorki đã từng khẳng định “Nghệ sĩ là ngƣời biết khai thác

những ấn tƣợng riêng chủ quan của mình, tìm thấy trong những ấn tƣợng có cái giá

trị khái quát và biết làm cho những ấn tƣợng ấy có đƣợc hình thức riêng”. Có thể

nói, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá một nghệ sĩ là ở chỗ anh ta có đem lại một cái

gì mới mẻ, riêng biệt hay nói chính xác, là một phong cách độc đáo cho nền văn học

dân tộc hay không? Quách Tấn (1910-1992) là nhà thơ khá nổi tiế ng trong phong

trào Thơ mới giai đoa ̣ n 1932-1945 nhƣng lại viết bằng một thể loại của văn học

trung đại: thơ Đƣờng luật. Thơ ông đƣợc vinh dự lọt và o con mắt xanh củ a nhà phê bình Hoà i Thanh, đƣợc tuyể n và o Thi nhân Viê ̣t Nam (1941). Tƣ̀ khi xuất hiê ̣n trên thi đàn cho đến cuối đờ i , Quách Tấn bình tĩnh , lă ̣ng lẽ chuyên sáng tác theo thể thơ luâ ̣t Đƣờ ng , mô ̣t thể thơ cũ mà đƣơng thờ i có cuô ̣c tranh luâ ̣n gay gắt , thể thơ bị không ít nhà Thơ Mới dè bỉu, ấy thế mà thơ ông vẫn đƣợc công chúng mến mộ , còn

các nhà Thơ mớ i thì mở cƣ̉ a đón ông vào làng thơ . Đề tài này góp phần lý giải vì sao có hiê ̣n tƣơ ̣ng trên.

1.1. Quách Tấn (1910-1992) là một thành viên của nhóm Bàn Thành tứ hữu ,

mô ̣t nhóm thơ ở Bình Đi ̣nh khá nổi tiếng , đƣơ ̣c nhiề u công chú ng đô ̣c giả lú c bấy giờ biết đến. Đƣơng thờ i cũng nhƣ sau này , thơ củ a ông đƣơ ̣c nhiều nhà nghiên cƣ́ u phê bình, văn ho ̣c sƣ̉ giớ i thiê ̣u trong các công trình củ a ho ̣ . Điều cần lƣu ý là trong nhóm Bàn Thành tứ hữu, thì Chế Lan Viên, Yến Lan sáng tác theo thể thơ m ới, Hàn Mă ̣c Tƣ̉ ban đầu viết theo thể Đƣờ ng luâ ̣t (Lê ̣ Thanh thi tập ), sau lại sáng tác theo thể Thơ Mới (Gái quê, Thơ điên sau đổi tên là Đau thƣơng), chỉ riêng Quách Tấn ,

trƣớ c sau ông đề u sáng tác theo thể thơ Đƣờ ng luâ ̣t . Điều này góp phần ta ̣o nên nét đa da ̣ng, đô ̣c đáo cho nhóm thơ Bình Đi ̣nh nói riêng và cho phong trào Thơ mới nói chung. Sau khi Tản Đà ta ̣ thế thì Quách Tấn la ̣i là ngƣờ i tiếp bƣớ c . Trong khi giớ i yêu thích Thơ Mớ i ngày càng tỏ ra vui mƣ̀ ng trƣớ c thƣ̣c tế Thơ mới lấn át thơ cũ và ngƣờ i ta hƣở ng ƣ́ ng Thơ Mớ i, phụ rẫy thơ cũ, làm cho nhiều nhà thơ cũ nhụt chí, thì

“chỉ mô ̣t ngƣờ i không chi ̣u khuất phu ̣c , can đảm gi ữ tiết tháo , không chi ̣u dối lòng , cái truyền thống gia đình và cái hào mình, không chi ̣u làm mất đi cái tính tƣ̣ chủ khí của mì nh trƣớ c sƣ̣ phát triển mau mạnh của Thơ Mớ i, thì ngƣời ấy vẫn quyết

6

giƣ̃ mô ̣t lòng thuỷ chung vớ i nguồn cảm hƣ́ ng và lề lối sáng ta ̣o củ a mình”

[19,tr.15]. Ngƣời ấy là Quách Tấn , nhà thơ cổ điển đặc sắc , nhƣ̃ng vần thơ Đƣờng luật cổ điển đó đƣơ ̣c ông khơi dâ ̣y cái rung đô ̣ng tô ̣t cù ng của cảm xúc. Ông là nhà Thơ Mới sáng tác theo thể thơ cũ, tức có nghĩa thơ của ông mang tính hiện đại, thể

hiện cái chất Thơ Mới trong cái vỏ hình thức của thơ cũ. Vì thế, Tản Đà tiên sinh

trong bài “Bình thơ Quá ch Tấn” không ngần nga ̣i đă ̣t Quách Tấn bên ca ̣nh Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyê ̣n Thanh Quan , Yên Đổ… (Tiểu thuyết thƣ́ Bảy , số 32, ngày 05-01-1935) [19]. Còn Chế Lan Viên thì đã thổ lộ một cách hài lòng rằng “Qua các cổ nhân đến bây giờ , bạn trẻ chúng ta mới tìm thấy những bài thơ bát cú mà chúng ta yêu đƣơ ̣c hoàn toàn [19,tr.43]. Và Tam Ích thì đã tỏ ra vui sƣớng , không do dƣ̣ khi viết “chỉ có mấy năm mà thơ cũ chỉ còn nhờ Quách Tấn để có mặt trong lòng

ngƣờ i hâ ̣u sinh” [19,tr.109-112].

1.2. Tƣ̀ khi Quách Tấn xuất hiê ̣n trên thi đàn giai đoạn 1932-1945 đến nay đã

hơn bảy mƣơi năm. Độ lùi thời gian ấy cũng có thể đủ cho thế hệ sau có những nghĩ

suy, nhâ ̣n xét về chất lƣơ ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t thơ Quách Tấn , nhƣ̃ng đóng góp củ a ông đối

vớ i phong trào Thơ mới nói riêng, thơ ca hiê ̣n đa ̣i nói chung.

1.3. Có thể nói, đây là mô ̣t đề tài mớ i và khó ; mớ i vì tƣ̀ trƣớ c đến nay chƣa có nhà nghiên cứu nào tìm hiểu thơ Quách Tấn một cách gần nhƣ là đầy đủ và chuyên

. Đồng thời, cần

sâu nhƣ đề tài nà y; khó là vì đối tƣợng khảo sát là “mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn”, bở i muốn hiểu thơ Quách Tấn , bên ca ̣nh những tác phẩm thơ đã xuất bản, ngƣờ i viết còn tìm đo ̣c nhiều thi phẩm chƣa xuất bản nƣ̃a ; bên ca ̣nh thơ , Quách Tấn còn viết hồi ký , thi thoại và biên khảo, và chính chúng đã góp phần đắc lƣ̣c giú p ngƣờ i đo ̣c hiểu đƣơ ̣c nhƣ̃ng sáng tác củ a ông nhiều hơn phải xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật để thấy nét riêng trong thơ của Quách

Tấn và cần phải đặt thơ ông trong dòng thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX, cụ thể là thơ Đƣờng luật đăng trên Nam Phong tạp chí và thơ Đƣờng luật trong

phong trào Thơ Mới nhƣ thơ của Thái Can, Ngân Giang, v.v.. Dù biết mình còn ha ̣n chế nhiều mă ̣t, nhƣng tôi đã cố gắng cho ̣n đề tài Xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng

luật của Quách Tấn để nghiên cứu cũng không ngoài mục đích góp thêm tiếng nói

dù rất nhỏ về một nhà thơ sáng tác theo thể thơ cũ trong phong trào Thơ Mớ i.

7

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1. Nhƣ̃ng ý kiến đánh giá về thơ Quá ch Tấ n

Tƣ̀ khi Quách Tấn với những bài thơ Đƣờng luật in trên báo, xuất bản thành tập thơ thì đó cũng là lúc nhiều nhà phê bình , nhiều văn thi sĩ đã có nhƣ̃ng bài viết về thơ củ a ông . Có thể điểm lại những nhận định , đánh giá về thơ củ a ông qua ba

chă ̣ng đƣờ ng nhƣ sau:

2.1.1. Những bài viết về thơ Quá ch Tấ n trướ c 1945 - Quách Tấn xuất hiện trên thi đàn từ 1932-1933, nhƣ̃ng bài thơ đầu tay củ a ông lần đầu tiên đƣơ ̣c đăng trên An Nam tạp chí , hồi tờ báo này còn đă ̣t ta ̣i phố Hàng Khoai, Hàng Bông (Hà Nội), Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), Tiếng Dân (Huế).

Nhƣ̃ng bài thơ đó đƣợc in trong Một tấm lò ng (1939). Trong lờ i Tƣ̣a cho tâ ̣p thơ viết ngày 26 tháng 5 năm 1939, Tản Đà đã viết: “Ông Quách Tấn , ngƣờ i Bình Đi ̣nh, tác giả tập thơ “Một tấm lò ng” đây, vớ i tôi tuy chƣa tƣ̀ ng gă ̣p mă ̣t nhau mà có thể coi nhau là cố nhân (…) thờ i ngƣờ i mớ i tra ̣c ba mƣơi tuổ i. Vâ ̣y nhƣ ông , kể , nhất là là ngƣời trong tân học mà thơ ông phần nhiều làm theo thể thơ Đƣờng luật nhƣ̃ng thơ tả cảnh , có nhiều vẻ hùng hậu , u ẩn , nhã chí , tinh công (…) Thơ ông

Quách Tấn rất là có công phu . Nếu không nhâ ̣n kỹ chỗ dụng công thời không thấy

bổ n sắc củ a tác giả ”; và: “Nhƣ cái thi tài ông Quách Tấn, mà lại có công với thơ, thời sau tập Một tấm lòng đây, ông hẳn còn cho chúng ta xem nhiều tập thơ có giá

trị khác” [19,tr.20-22].

. ( …) Nhƣng hồn

- Hàn Mặc Tử đã viết lờ i Bạt cho Một tấm lò ng, đã đánh giá cao tâ ̣p thơ, chẳng hạn: “Trí ta da ̣i khờ , mắt ta no ánh sáng không đo ̣c nổi nhƣ̃ng tờ thơ củ a tâ ̣p Một tấm lò ng mà ta đang cầm trên tay . Chao ôi ! Cƣ́ mỗi tờ thơ là mỗi tờ trăng , thơm mát, dịu dàng , cơ hồ có tƣ̀ ng bản nha ̣c reo lên ở mỗi trang giấy giai nhân không hiê ̣n lên vớ i hàng chƣ̃ , mà khí vị thanh tao của văn chƣơng ửng lên

mô ̣t màu sắc phƣơng phi , đơm ra mô ̣t hồn thơ hù ng hâ ̣u” [19,tr.23-26]. Và: “Những

hàng chữ sang sáng rung rinh nhƣ bức tranh linh động, khiến hồn ta đắm mê tƣởng

chừng đây là Hàn Sơn tự hay Hoàng Hạc lâu… nhƣng không đâu, đây là hồ Đà Lạt,

bãi Quy Nhơn, chùa Cây Mai, đồng Lập Trận, là núi Nhạn, là sông Côn…, là anh

linh tú khí của nƣớc non Nam Việt hun đúc lại, tạo thành những kỳ quan thắng

tích”. Hàn Mặc Tử còn trân trọng và ca ngợi Quách Tấn: “Cũng nhƣ Đỗ Phủ đời

8

Đƣờng, thi nhân của ta đây là ngƣời trong vòng danh lợi. Thế mà trí vẫn ung dung

siêu thoát ra ngoài lề phú quý, lòng luôn luôn mơ ƣớc cảnh giang hồ mây nƣớc bốn

phƣơng. Cho nên mỗi lần thấy chim bạch nhạn vỗ cánh tung trời mà bay, là thi nhân

háo hức, bồn chồn, muốn vất bỏ cả vinh ba phú quý để làm ngƣời lãng tử. Nhƣng

cánh hồng chƣa tiện gió, mà muốn hƣởng tự do trong bốn bể thi nhân tạm đành

mộng hồn thả lỏng lúc đêm thanh. Tâm sự thi nhân, chí nguyện thi nhân, thi nhân

vẫn tự phụ trong đời chƣa ngƣời hiểu. Mắt thi nhân nhìn vào đâu cũng thấy toàn là

sự tầm thƣờng!” [19,tr.23-26].

- Sau đó , J.M. Thích trên báo Vì Chúa số 147 ra ngày 30 tháng 11 năm 1939

đã viết bài giớ i thiê ̣u tâ ̣p thơ đ ầu tay này của Quách Tấn [19,tr.27-31]. Vân Sơn trên tờ báo Điê ̣n t ín ngày 13 tháng 01 năm 1940 đã có bài điểm sách , tác giả bài viết khen thơ tả cảnh của Quách Tấn hay , đă ̣c sắc, tài tình; và thơ tả tình thì cũng k hông

kém gì thơ tả cảnh… [19,tr.32-38].

- Năm 1941, khi viết lờ i Tƣ̣a cho tâ ̣p thơ “Mù a cổ điển” , Chế Lan Viên cho rằng: “Ông nguyê ̣n ngày kia sẽ trả la ̣i hoàn toàn cho thơ cũ , cái hoàn toàn của nó –

âm điê ̣u nhi ̣p nhàng uyển chuyển đổi thay - mà “làng thơ Việt Nam đã bao lâu đánh

mất”. Mƣờ i năm, hai mƣơi năm, hay cần đến, cả một đời, điều ấy là mô ̣t điều chẳng đáng kể vớ i ông” [19,tr.41]. Cũng năm đó , trong bài viết “Nhà thơ Đƣờ ng cuối cùng: Quách Tấn”, Chế Lan Viên đã chỉ ra cái riêng, nét mới trong tâm hồn của nhà thơ cũ Quách Tấn , đó là “tính cách vƣơng giả , sƣ̣ điều hoà… Ấ y là sƣ́ c hiểu nhƣ̃ng ma lƣ̣c củ a chƣ̃, nhờ ở sƣ̣ hiểu sâu cái gì là cái hồn thơ” [19,tr.46-53].

- Cũng nhƣ Chế Lan Viên, các nhà thơ Bích Khê, Yến Lan đã viết phê bình dù chỉ mấy dòng về tập Mùa cổ điển . Bích Khê cho rằng “Chỉ mô ̣t bài “Đêm thu nghe quạ kêu”, chƣ̀ ng nấy thôi cũng đủ cho ta thấy thi sĩ đã vƣơ ̣t lên trên nhƣ̃ng thi sĩ có tiếng nhƣ: Bà Huyện Thanh Quan , Yên Đổ , Chu Ma ̣nh Trinh… [19,tr.58]; Yến Lan

, cũng có thơ hay,

thì viết “Có nhƣ̃ng bài thơ hay , hay theo ý thích củ a đám ngƣờ i hay khiến đƣơ ̣c ngƣờ i theo ý thích mình , nhƣng Mùa cổ điển hay ra ngoài hai lối trên, hay vâ ̣y mà la ̣i thêm làm cho ngƣờ i ta sƣ̃ng sờ ” [19,tr.59].

- Nam Xuyên trong mô ̣t bài viết vào mù a hè năm 1942 đã ca ngơ ̣i lờ i lẽ, ngôn

tƣ̀ , câu thơ củ a Quách Tấn và so sánh nó chẳng khác châu ngo ̣c [19,tr.56-57].

9

- Trong Thi nhân Viê ̣t Nam (1941), Hoài Thanh và Hoài Chân viết: “Hồn thơ

Đƣờng vắng đã lâu , nay la ̣i trở về trong thơ Viê ̣t (…). Cái nàng thơ xƣa này thật là

rắc rối (…). Có ngƣời say theo nàng thì nàng chẳng mặn mà chi (…). Cảm đƣợc

lòng ngƣời đàn bà khó chìu kia, hoạ chỉ có Quách Tấn. Mối lƣơng duyên gây nên tƣ̀

Một tấm lò ng , đến Mùa cổ điển thì thật đằm thắm” (…). “Đêm đã khuya , tôi ngồi mô ̣t mình xem thơ Quách Tấn… Tôi lắng lòng tôi để đón mô ̣t sƣ́ giả đờ i Đƣờ ng, đờ i Tố ng. Đời Đƣờng có lẽ đúng hơn . (…) Quách Tấn đã tìm đƣợc những lời thơ rung

cảm chúng ta một cách thấm thía . Ngƣờ i đã th oát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là

môn sở trƣờ ng củ a nhiều ngƣờ i trong làng thơ cũ…” [74,tr.267].

- Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1943) đã dành mô ̣t chỗ viết về Quách Tấn có thể nói là trang tro ̣ng : “Ông là nhà thơ rất sở trƣờ ng về thơ Đƣờ ng . Tất cả thơ trong tâ ̣p Một tấm lò ng và Mùa cổ điển của ông đều là thơ tứ tuyệt và bát cú ”

(…). Bên cạnh, cũng có ý kiến phê bình thẳng thắn: “Thơ Quá ch Tấn go ̣t giũa , cầu

kỳ (…) Thơ Quách Tấn thâ ̣n tr ọng sự cân đối (…) Thơ Quách Tấn hàm sú c (…) Thơ Quách Tấn điêu luyê ̣n thì có điêu luyê ̣n nhƣng thành thâ ̣t thì không ” [51,tr.665- 671].

Nhƣ vậy, trƣớc Cách mạng tháng Tám, các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình đều

khẳng định nét đẹp, cái mới trong thơ Đƣờng luật của Quách Tấn. Các bài viết đều

trân trọng những đóng góp của thơ Quách Tấn đối với nền văn học hiện đại. Bên

cạnh những lời khen, cũng có vài lời chê thơ ông nhƣ cầu ký, gọt giũa, ít thành thật.

2.1.2. Những bài viết về thơ Quá ch Tấn từ 1945 đến 1975 Ở chặng đƣờng từ 1945 đến 1954, lúc này cả dân tộc ta đang tâ ̣p trung chống

Pháp, vì thế mà không có nhà nghiên cứu nào viết về thơ Quách Tấn.

Chặng đƣờng 1954-1975, trong Nam ngoài Bắc đều có viết về Quách Tấn. Trong các bô ̣ văn ho ̣c sƣ̉ ở ngoài Bắc bấy giờ nhƣ Lƣợc thảo li ̣ch sƣ̉ văn học

Viê ̣t Nam của nhó m Lê Quý Đôn , Nxb Xây dƣ̣ng , 1957-1958; Sơ thảo li ̣ch sƣ̉ văn

học Việt Nam của nhóm Văn Sƣ̉ Địa, Nxb Văn hoá , 1958-1959, thì ít nhiều có nhắc

đến Quách Tấn trong chƣơng viết về văn học Việt Nam 1932-1945. Hai bô ̣ văn ho ̣c

, Lịch sử văn học Việt Nam , tâ ̣p 5

sƣ̉ củ a hai trƣờ ng : Đa ̣i ho ̣c Sƣ Pha ̣m Hà Nô ̣i (1930-1945) (bô ̣ cũ ), Nxb GD, in lần đầu 1961; Đa ̣i ho ̣c Tổng h ợp Hà Nội (nay là ), Văn học Viê ̣t Nam (1900-1945), trƣờng Đa ̣i ho ̣c Khoa ho ̣c Xã hô ̣i và Nhân văn

10

Nxb GD, HN, tái bản lần thứ 5, 2001, có nhắc đến Quách Tấn dù chỉ điểm qua.

Nhƣ̃ng bài nghiên cƣ́ u về Thơ mới, nhìn nhận lại Thơ mới đăng trên Tạp chí Văn

học (Viê ̣n Văn ho ̣c) thi thoảng có nhắc đến Quách Tấn . Đặc biệt trong chuyên khảo

Thơ ca Viê ̣t Nam : hình thức và thể loại , khi viết về thể thơ , hai nhà nghiên cƣ́ u Bù i về thơ Quách Tấn nhƣ : “Hãy nói Văn Nguyên và Hà Minh Đƣ́ c đã có nhâ ̣n xét nhƣ̃ng bài thơ thất ngôn bát cú Đƣờ ng luâ ̣t củ a Quách Tấn trong “Mù a cổ điển” dù có bị gò bó vào khuôn khổ đối thanh, đối ý, bằng trắc phân minh, vẫn thoát đƣơ ̣c, để tạo sƣ̣ đổi mớ i trong cấu trúc lời văn. Nói chung, các nhà thơ ta vừa kế thừa và nâng cao các hình thƣ́ c thơ ca cổ truyền , vƣ̀ a tiếp thu có sáng ta ̣o các thể thơ mới du nhập tƣ̀ phƣơng Tây” [48,tr.25].

Ở trong Nam, tình hình nghiên cứu về Quách Tấn có vẻ sôi nổi hơn.

- Năm 1957, tuần báo Mùa lúa mới, số 48 ra ngày12-5-1957, có đăng bài của Viê ̣t Tuỷ bình thơ Quách Tấn “Đọc bà i CẢM THU”, cụ thể là “tâm sƣ̣ củ a ngƣờ i trí thƣ́ c sống mỏi mòn , tuyê ̣t vo ̣ng trong thờ i kỳ thƣ̣c dân ph ong kiến , hoài bão một

tấm lòng thiết tha đô ̣c lâ ̣p tƣ̣ do” [19,tr.80].

- Năm 1962, Nguyễn Tƣờ ng Lân trên Nguyê ̣t san Thông tin số 2 tháng 5 có bài

; cái hay của thơ

giớ i thiê ̣u thơ Quách Tấn . Bài viết tìm hiểu tâm trạng thi nhân Quách Tấn, nhất là cách dù ng chƣ̃ đặt câu, dùng các điển tích [19,tr.84-88].

- Năm 1959, khi còn ở Mỹ Tho , Phạm Công Thiện viết bài Hƣớ ng đi của nhà

thơ trƣ́ danh Quá ch Tấn , đã cho rằng “Quách Tấn là ngƣời có thiên tài ”. Tác giả

còn cho rằng “rồi đây sẽ có mô ̣t trƣờ ng thơ rƣ̣c rỡ ở Viê ̣t Nam : Trƣờ ng thơ hàm sú c.

Và ngƣời tiên khu của nó nhất định là Quách Tấn” [19,tr.104]. Đến tháng 7-1970,

Phạm Công Thiện về dạy tại Đại học Vạn Hạnh

, lúc này ông c ó viết bài “Trá ch nhiê ̣m của tuổi trẻ Viê ̣t Nam vớ i Quá ch Tấn” trong đó c ó đoạn: “Tản Đà chấm dƣ́ t thế kỷ XIX đầu XX và Quách Tấn là thi hào vĩ đại nhất ở thế kỷ XX . Cho mãi đến

năm 1970 này, tôi chƣa thấy ai đủ sƣ́ c ma ̣nh tâm linh đƣ́ ng ngang hàng Quách Tấn”

[19,tr.105]; và “Trƣớ c năm 1932, cảm thức tâm linh Việt Nam đã bị Tàu đục khoét

cho đến đô ̣ tan rã , chỉ có Tản Đà là ngƣời cuối cùng cứu vớt lại , sau năm 1932 chỉ

còn Quách Tấn cứng đầu đi tớ i và tàn ba ̣o khinh miê ̣t tất cả cuồng phong tƣ̀ Tây phƣơng thổi tớ i” [19,tr.105]. Sau đó , tác giả bài viết đã so sánh Quách Tấn với Hàn . Kết thúc bài viết , Mă ̣c Tƣ̉ , mô ̣t bên là phƣơng Đông và mô ̣t bên là phƣơng Tây

11

[19,tr.107]; và kêu gọi thanh niên hiện nay

nh, nuôi

Phạm Công Thiê ̣n cho rằng “Quách Tấn là ngƣờ i duy nhất can đảm lì lơ ̣m sống chết vớ i nhƣ̃ng gì còn la ̣i vớ i quê hƣơng” phải có trách nhiệm “đối vớ i mô ̣t thiên tài can đảm đã chi ̣u đƣ̣ng mô ̣t mì dƣỡng mô ̣t mình tất cả di sản tâm linh cao cả nhất củ a quê hƣơng” [19,tr.108].

giả Tam Ích có gởi cho ông Trần Phong Giao

- Tháng 10 năm 1970, nhân Giai phẩm Văn ra số đă ̣c biê ̣t về Quách Tấn , học (Tổng Thƣ ký tòa soa ̣n ta ̣ p chí) mô ̣t bƣ́ c thƣ, trong đó có viết “Còn nói thơ Quách Tấn là điêu luyê ̣n là hay thì ai chả nó i đƣơ ̣c: cái hay của thơ nó ở đâu đâu ấy , chƣ́ chẳng ở riêng nơi tƣ̀ , nơi tƣ́ , nơi ý, nơi mạch, hay là nó ở cù ng mô ̣t lú c ở tƣ̀ , ở tƣ́ , ở ý, ở mạch, ở cả bốn chốn ấy” [19, tr.109], “Tấn không theo thờ i trang , thờ i thƣơ ̣ng: Tấn vẫn làm thơ Đƣờ ng , Tấn cƣ́ “chiều làm thơ Đƣờng ! Kẻ từ chối theo thời thƣợng là kẻ lui lại sau biên giới của

thƣ́ tƣ”, khó có mặ t. Ấy thế mà , Tấn la ̣ lắm : cƣ́ ng đầu , cƣ́ ng cổ nhất đi ̣nh không chịu thua thế lực khủng khiếp của thời trang trong thời gian, trong li ̣ch sƣ̉ mà vẫn cƣ́

, Đông Hồ”. có mặt, có lẽ chỉ có một mình Tấn . Và, trên mô ̣t phƣơng diê ̣n nào đó

(…) “Không, không ai quên Tấn . Giƣ̃a thế kỷ XX , tƣ̀ ngày Hoài Thanh và Hoài Chân đi ̣nh vi ̣ trí cho mấy chu ̣c ngƣờ i , cho đến bây giờ , Tấn vẫn có mă ̣t. Chuyê ̣n nhƣ vâ ̣y thâ ̣t là hiếm” [19,tr.111-112]. Trong bài“Vị trí Quách Tấn trong thi giới Việt Nam”, Tam Ích viết: “Khen thơ Quách Tấn thì cũng nhƣ khen phò mã tốt áo , vì thơ

cổ điển Quách Tấn vốn hay từ thuở nảo , thuở nao – nói cổ điển vì nếu tôi không lầm

thì hình nhƣ họ Quách không làm Thơ Mới và thơ tự do mà dù cho có làm đôi bài

thì cũng nhƣ không làm, thiên hạ nói đến anh chỉ nói thơ cổ điển chứ không nói đến

phƣơng diện khác của thơ anh, nếu phƣơng diện ấy có” [19,tr.574].

- Trần Phong Giao đã “Thử định vị Quách Tấn trong thi giới cận hiện đại”

một cách trang trọng: “Khi định vị cho Quách Tấn trong số gần 50 nhà thơ, Hoài

Thanh minh định sở trƣờng của họ Quách là thơ Cũ, một lối thơ đang bị Thơ Mới

choán chỗ và có cơ thế chỗ trên thi đàn nƣớc ta. Nói cách khác Mùa cổ điển sắp tàn

và Quách Tấn với Một tấm lòng đang khóc cái tiếng khóc âm thầm của con ngƣời

dè dặt kín đáo. Lịch sử tiến nhƣ bánh xe tốc hành đi vùn vụt, Thơ Mới và thơ tự do

tràn ngập trên thi đàn tạo thành những cơn sóng gió mà nói theo Tam Ích là „có

kích thƣớc‟” [19].

12

- Cũng trên Giai phẩm Văn số đặc biệt, Phan Ngọc Châu viết đến 23 trang để

chỉ ra những nét đă ̣c sắc trong thơ Quách Tấn : “mô ̣t tâm hồn trang tro ̣ng ”; “con

ngƣờ i Quách Tấn”; “nguồn thơ Quách Tấn ”; “bác nông dân hay chữ hay thơ ”; “con thuyền bến lách” [19,tr.113-135].

Cũng tại số tạp chí này, bài viết của Nguyễn Đồng đã chỉ ra cái tinh tế của

Quách Tấn khi viết thể thơ 4 chƣ̃, thơ lu ̣c bát , lục bát biến thể và thơ song thất lục

bát trong bài “Các thể thơ Quách Tấn hay dùng ngoài thể Đƣờng luật” [19,tr.169-

vài câu thơ của Quách Tấn 185]. Nhà văn Võ Hồng thì viết :“Quá ch Tấn trong vò ng thân mật” kể la ̣i nhƣ̃ng kỷ niê ̣m củ a ông vớ i nhà thơ , chỉ ra nét thú vị ở một

[19,tr.208-215]. Nhà nghiên cứu Trần Thúc Lâm đánh giá cao tà i năng di ̣ch thơ chƣ̃

Hán của Quách Tấn qua bài “Quá ch Tấn và thơ chƣ̃ Há n” [19,tr.216-227]. Nguyên

Thái thì đề cập đến đề tài quê hƣơng qua bài viết “Quá ch Tấn: Quê hƣơng và Thơ”

[19,tr.228-253].

- Chu Thảo trong bài Đọc “Đọng bó ng chi ều” và “Mộng Ngân sơn” đã chỉ ra nét đặc sắc của hai tập thơ này , nhất là viê ̣c nhà thơ du ̣ng công trong câu chƣ̃ trong tả cảnh để gởi gắm tâm trạng , để đi đến kết luận “thi sĩ là mô ̣t nhiếp ảnh gia ngoa ̣i hạng”. Bài viết còn chỉ ra cái chất Đƣờng thi của thơ Quách Tấn: “Tất nhiên mới

nhìn qua, ngƣời ta sẽ thấy dày đặc hơi Đƣờng trong thơ Quách Tấn. Chẳng những ở

nơi hình thức của bốn câu bảy chữ - hai mƣơi tám vị sao không có vị lu mờ - mà

ngay trong tứ thơ ngƣời ta cũng tìm thấy dấu vết thơ Đƣờng. Tôi muốn nói đến cái

nhìn, cái nghe của thi sĩ - một lối cảm nhận rất Đƣờng. Xin đọc Chiếc lá rơi (tr.70)

rồi sẽ nghĩ rằng nó phảng phất Ý châu ca, phảng phất cái ƣớc vọng, cái tƣơng tƣ tiêu

cực của ngƣời ở trong phòng the. Ngồi trong ngôi nhà cổ, có hàng rào lá hoa vây

kín, có gốc mận xanh um và lối đi lát gạch vuông đã nát dần dƣới bƣớc chân đi lại

lâu đời, nhà thơ vẫn thƣờng lắng nghe tiếng chuông chùa Hải Đức, có khác chi dƣ

âm của tiếng chuông Hàn San Tự” [19,tr.136-143].

,

- Nhà t hơ Lam Giang , ngƣờ i ba ̣n thơ mô ̣t thờ i ở Bình Đi ̣nh vớ i Quách Tấn trong “Hồn thơ nƣớ c Viê ̣t” , Sống mới, SG, 1970, đã dành nhƣ̃ng lờ i ƣu ái đối với

Quách Tấn: “Giữa lúc Thơ Mới ngang nhiên cổ võ đánh đổ lối thơ có đối đáp vô

duyên, vô vị, phi tự nhiên, bất hợp lý, thôi thì đủ mọi thứ danh từ mỉa mai, hằn học

mà trí con ngƣời có thể tìm ra. Giữa cái cảnh náo loạn phi thƣờng ấy, Quách Tấn đã

13

ung dung làm thơ Đƣờng luật mà vẫn đƣợc xếp vào hàng thi sĩ hữu danh của phong

trào Thơ Mới… Những bài thơ làm theo Đƣờng luật của Quách Tấn đều có cảm

hứng chân thành và tế nhị, nhƣ: Đêm tình, Chiều xuân. Hình thức trang nghiêm cổ

kính của Đƣờng luật, đƣợc tuân thủ triệt để. Có những ngƣời vẫn thích Đƣờng luật

nhƣng hƣởng ứng với phong trào Thơ Mới. Ít nhất họ cũng có làm đôi ba bài theo

thể điệu mới. Riêng Quách Tấn, tuyệt đối thờ ơ không cần biết Thơ Mới tám chữ là

cái quái vật gì. Thái độ ấy quả là một thái cực”. [18,tr.151-152].

- Nguyễn Vỹ trong Văn thi sĩ tiền chiến (1970) đã phát biểu: Lần đầu tiên, đọc

mấy bài thơ Đƣờng luật ký tên Quách Tấn, thật tình tôi không chú ý mấy. Đối với

những ngƣời đã quá quen thuộc với các bài thơ Đƣờng luật đăng đầy dẫy trên khắp

các báo chí Bắc Trung Nam, thì những bài thơ bát cú của ông Thông phán Quách

Tấn không có mãnh lực tân kỳ để cho tao nhân mặc khách các nơi đặc biệt lƣu ý

đến. Đến hai năm sau (1941), khi thi phẩm Mùa cổ điển ra đời thì giới yêu Thơ Mới

bắt đầu chú ý đến thơ ông nhiều hơn [88]

- Năm 1973, học giả Nguyễn Hiến Lê trong bài “Thi sĩ Quá ch Tấn: hai tập thơ và một chứng bệnh” giớ i thiê ̣u hai tâ ̣p thơ củ a Quách Tấn : Giọt trăng, Tố Nhƣ thi (tâ ̣p thơ di ̣ch thơ chƣ̃ Hán củ a thi hào Nguyễn Du ): “Tập đầu nhan đề là Giọt trăng gồm 60 bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú… Có cái giọng một ông lão nhàn tản, khoáng đạt

mà nghệ sĩ. Cả khi khóc con, giọng tuy ấm ức mà vẫn âm thầm, nhƣng thấm thía,

không nói mà chính là nói nhiều”... [19,tr.156-164].

- Quách Vũ giới thiệu tập thơ Giọt trăng trong bài “Nhìn ngắ m Giọt trăng”

[19,tr.254-262].

- Tuệ Sỹ đã chỉ ra nét đặc thù của thơ Quách Tấn: “Nhà thơ của chúng ta trong

một thoáng rung động kỳ diệu nào đó đã đọc ra bản chất tồn tại sâu xa của tạo vật.

Cũng chỉ với tâm hồn ấy mới có thể đọc ra những ẩn ngữ ấy trong lớp vỏ vô tri và

vô nghĩa ấy. Tất nhiên, nhà thơ vẫn ở trong dòng thác cuộn ào ạt theo tiến bƣớc lịch

sử của con ngƣời, nhƣng trong cuộc hành trình vô tận ấy nhà thơ có thể đạt tận cùng

về bản chất lữ thứ của mình, vì trong tận cùng tâm sự vẫn là một nỗi hoài hƣơng

bao la”. [19,tr.539]

- Lƣơng Tro ̣ng Minh trong “Nhà văn Viê ̣t Nam 1940-1970” tâ ̣p 1, đã đánh giá

cao hai tâ ̣p thơ Một tấm lò ng và Mùa cổ điển; đồng thờ i giớ i thiê ̣u hai tâ ̣p Nƣớ c non

14

Bình Định và Xƣ́ Trầm hƣơng rồi khẳng đi ̣nh bên ca ̣nh nhà thơ , ông còn là mô ̣t nhà văn làm đe ̣p cho quê hƣơng đất nƣớ c [19,tr.263-264].

- Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hƣ̃u Tro ̣ng trong Viê ̣t Nam thi nhân tiền chiến đã chỉ ra nhiều cái la ̣ trong thơ Quách Tấn , đó là sƣ̣ “buô ̣c chă ̣t cái cƣ̣u vào cái tân” , là “sƣ̣ hòa đồng giƣ̃a hình thƣ́ c và nô ̣i dung trong thi ca” [33,tr.73].

- Trên tạp chí Thờ i Tập số 15 năm 1974, Trần Hƣ̃u Cƣ điểm thơ Quách Tấn [19,tr.144-

trong bài viết “Quá ch Tấn trong buổi chiều và ng của Đông phƣơng” 155]. Cũng tại tạp chí này, Hồ Ngạc Ngữ có nhận xét về cái nhìn tâm linh trong

sáng tác thơ của Quách Tấn: “Tâm sự văn chƣơng của tiên sinh đã mở ra một con

đƣờng rộng lớn dẫn đến những nguồn cội vi diệu của thi ca, trong đó đời sống, con

ngƣời và thơ đã hòa chan với nhau một cách trọn vẹn. Tất cả chỉ là một. Và nhà thơ

là một thiền sƣ đã phá tan đƣợc những đại nghi trong tâm hồn đến với đời sống

bằng chính cái nhìn tâm linh cao cả nhất”.

Qua những bài viết về Quách Tấn từ năm 1945 - 1975 vừa trình bày, có thể

nhận thấy rõ một điều hầu hết các nhà phê bình đều đánh giá cao quan điểm tích

cực của nhà thơ trong giai đoạn này là tƣ tƣởng Thiền thấm đẫm trong từng ngôn từ

thơ, phong vị thơ mang âm hƣởng Đƣờng thi nhƣ sợi chỉ xanh xuyên suốt các sáng

tác của ông. Thơ Quách Tấn vẫn tuân thủ tính quy phạm của thể loại nhƣng mới ở

chỗ dùng chữ đặt câu, hàm súc, đa nghĩa, có chiều sâu tâm linh. Ông đã biết gắn

chặt cái cựu vào cái tân với một ý tứ tân kỳ đầy mãnh lực. Cái mốc thời gian trƣớc

năm 1975 giữa hai miền Nam - Bắc có nhiều biến động, có nhiều khác biệt trong

cùng một đất nƣớc, nhƣng đa phần bạn đọc điều mở lòng mình để chào đón một

hồn thơ dung dị mà sâu sắc này, đã chứng tỏ rằng nhà thơ cũ trong thời đại Thơ Mới

vẫn có sức lay động lòng ngƣời.

2.1.3. Những bài viết về Quách Tấn từ sau năm 1975 đến nay Tƣ̀ sau ngày đất nƣớ c thống nhất , đă ̣c biê ̣t là sau khi đổi mớ i (1986), các nhà , có điều kiện đánh giá lại văn học

nghiên cƣ́ u có di ̣p nhìn nhâ ̣n la ̣i mô ̣t số giá tri ̣ cũ lãng mạn giai đoạn 1932-1945, trong đó có Thơ Mới, dịp này đi ̣a vi ̣ củ a Quách Tấn cũng đƣợc các nhà nghiên cứu , phê bình đánh giá đú ng mƣ́ c hơn . Nhất là sau khi nhà thơ cỡi hạc quy tiên (1992), trên các báo và tạp chí từ Bắc vào Nam , của địa

phƣơng hoă ̣c trung ƣơng đều có nhiều bài viết về nhƣ̃ng kỷ niê ̣m , về cuô ̣c đờ i , về

15

. Có thể

thơ văn củ a nhà thơ lão thành Quách Tấn , tính ra đến trên mấy chục bài điểm qua vài nét nhƣ sau:

- Tên tuổi củ a Quách Tấn đã đƣơ ̣c đƣa vào

Tƣ̀ điển Văn học bô ̣ cũ (tâ ̣p 2, 1984) cũng nhƣ bộ mới (2004). Tƣ̀ điển Văn học đã nhâ ̣n đi ̣nh “Một tấm lò ng vƣ̀ a ra đờ i đã gây nên hai luồng dƣ luâ ̣n trái ngƣơ ̣c . Các nhà thơ cổ hoan nghênh , nhƣ̃ng

ngƣờ i hâm mô ̣ “ Thơ Mớ i” la ̣i làm ngơ . Báo Phong Hóa chỉ giới thiệu vắn tắt mà không bình luâ ̣n gì. Hai năm sau, Quách Tấn cho xuất bản tiếp Mùa cổ điển (1941). Đây là tác phẩm tâm đắc nhất , đồng thờ i cũng là đỉnh cao nghê ̣ thuâ ̣t củ a ông . Ở Mùa cổ điển ngòi bút nghê ̣ thuâ ̣t củ a Quách Tấn điêu luyê ̣n hơn , cảm xúc cũng sâu sắc hơn Một tấm lò ng . Song nếu nhƣ ở Một tấm lò ng ngƣờ i đo ̣c còn tìm thấy cái nhìn trong trẻo của nhà thơ trƣớc con ngƣời và thiên nhiên thì đến Mùa cổ điển, mỗi

bài thơ đều chất nặng ƣu tƣ, ẩn dấu những nỗi buồn xa vắng, đó cũng là sƣ̣ phản ánh xu hƣớ ng lãng ma ̣n – thoát ly của phong trào “ Thơ Mớ i” giai đoa ̣n chuyển sang thoái trào, dƣớ i mô ̣t hình thƣ́ c nghê ̣ thuâ ̣t tƣở ng chƣ̀ ng rất x a la ̣ vớ i Thơ Mớ i”. Sau đó, ngƣờ i biên soa ̣n giớ i thiê ̣u nhƣ̃ng tâ ̣p thơ di ̣ch từ thơ chƣ̃ Hán, nhƣ̃ng công trình nghiên cƣ́ u biên khảo , nhƣ̃ng tâ ̣p thơ đã xuất bản hoă ̣c chƣa xuất bản củ a Quách Tấn tƣ̀ sau 1945 (Tƣ̀ điển văn học , tâ ̣p 2, tr.250). Và trong Tƣ̀ điển Văn học bô ̣ mớ i (2004), mục từ “Quách Tấn” với nhận định không thay đổi so với bộ cũ, bởi đều do

Đặng Thị Hảo viết [24,tr.1470-1471].

- Trong bộ Từ điển Tác gia văn học Việt Nam (2003) Trần Mạnh Thƣờng cho

rằng: “Quách Tấn là một nhà thơ chuyên về Đƣờng luật. Có lẽ từ đầu thế kỷ đến

nay, không một nhà thơ nào chuyên chú và có công với thơ luật bằng ông; vì ông đã

sáng tác trên cả ngàn bài thơ Đƣờng, kể cả thơ dịch. Đó là cống hiến lớn của ông

đối với lịch sử thơ ca Việt Nam. Thơ Quách Tấn – dù là thơ Đƣờng luật – vẫn có

cảm xúc mới, ý lạ mà nồng nàn khiến ngƣời đọc rung động, bồi hồi theo nỗi lòng cô

đơn của tác giả, hoặc đìu hiu nhƣ bên sông lạnh mà đó cũng là tiếng hƣ không từ

cõi âm vọng về” [82].

- Nguyễn Hiến Lê, vớ i tƣ cách là ngƣờ i bạn tâm giao với Quách Tấn , trong hồi

ký của mình đã dành một số trang viết về Quách Tấn và thơ Quách Tấn . Ông cho

rằng “Quách Tấn là nhà thơ siêng năng nhất , sáng tác mạnh nhất” ; “Quách Tấn

16

chuyên về thơ luâ ̣t . Tôi cho rằng tƣ̀ đầu thế kỷ đến nay không ai có công vớ i thơ luâ ̣t bằng ông, ông có trên ngàn bài thơ luâ ̣t, kể cả thơ di ̣ch” [19,tr.279-286].

- Trần Phong Giao, trên tuần báo Văn nghê ̣ Thành phố Hồ Chí Minh số 11 năm 1991, cho rằng thơ Quách Tấn càng về sau đã “thấy” đã “nhâ ̣p” vào Thiền, đã “cảm dƣỡng hào khí củ a Thiền tông Viê ̣t Nam” [19,tr.287-296].

- Nguyễn Hoa Lƣ , trên Khánh Hòa chủ nhật ngày 23 tháng 9 năm 1990, có

bài “Một giờ vớ i cụ Quách Tấn”, đã ghi chép lại chuyê ̣n trao đổi giữa ông vớ i nhà thơ Quách Tấn, bài viết thuật lại chung quanh mối quan hê ̣ giƣ̃a nhà thơ vớ i Hàn Mă ̣c Tƣ̉ , vớ i Nguyễn Hiến Lê , về nhóm Bàn Thành tƣ́ hƣ̃u, về thơ cổ Trung Hoa, về các triết lý tôn giáo, về thơ củ a chính nhà thơ [19,tr.297-305].

- Tháng 12 năm 1990, Lê Đƣ́ c Dƣơng viết bài “Chiều đông thăm nhà thơ

Quách Tấn” , đăng trên Văn nghê ̣ (Hội Nhà văn Việt Nam ) số 10 -1991, ghi la ̣i

nhƣ̃ng kỷ niê ̣m củ a ngƣờ i viết nhân mô ̣t lần đến thăm nhà thơ [19,tr.306-314].

- Thế Vũ trên Tuổi Trẻ chủ nhật số 32 ngày 18 tháng 8 năm 1991 có viết về

ghi la ̣i chuyê ̣n trao đổi tản ma ̣n củ a

“Quá ch Tấn nƣ̉ a thế kỷ sau Mù a cổ điển” ngƣờ i viết vớ i nhà thơ lão thành [19,tr.319-324].

[19,tr.333-340]; Khuê Viê ̣t

- Nguyễn Xuân Nam trong bài “Đến Nha Trang , thăm nhà thơ Quá ch Tấn” đăng trên Văn nghê ̣ (Hô ̣i Nhà văn Viê ̣t Nam ) số 27 năm 1992 [19,tr.325-329] kể lại chuyện ông đến nhà thơ , trao đổi chuyê ̣n văn chƣơng , đƣơ ̣c nhà thơ đo ̣c hai bài thơ viết về Hàn Mă ̣c Tƣ̉ , mô ̣t bài viết trƣớ c 1945 và một bài viết gần đây . Tiếp theo , cuố i năm 1992, Hồ Sĩ Hiê ̣p có bài “Tuổi 85 – Quách Tấn” cũng đăng trên Văn nghê ̣ (Hô ̣i Nhà văn Viê ̣t Nam) số Xuân Quý Dâ ̣u , 1993 [19,tr.330-332]; Đặng Sĩ Tịnh viết “Vớ i thi sĩ Quá ch Tấn nhƣ̃ng ngà y cuối đờ i” Trƣờ ng trên Tuổi Trẻ chủ nhật số 51-1992 có bài “Cuối năm gặp thi sĩ Quá ch Tấn” [19,tr.341-343]. Nhƣ̃ng bài viết trên đều g hi la ̣i nhƣ̃ng kỷ niê ̣m củ a các tác giả đối

vớ i nhà thơ.

Vào lúc 07 giờ sáng ngày 21 tháng 12 năm 1992, nhằm ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Thân , nhà thơ lão thành Quách Tấn đã cƣỡi hạc quy tiên . Trên báo chí có đăng nhiều bài viết về nhà thơ. Nhà báo Thế Vũ trên Thanh niên có bài “Nhà thơ

Quách Tấn không còn nữa” [19,tr.344-347]; Nhà văn lão thành Võ Hồng viết “Nhớ

anh Quá ch Tấn” [19,tr.350-354] và nhà văn Trần Phong Giao viết “Nhớ thƣơng

17

Quách lão huynh” [19,tr.355-358], cả hai bài đều đăng trên Tuổi Trẻ chủ nhật ; Nhà

thơ Tế Hanh trên Văn nghê ̣ số Xuân Quý Dâ ̣u viết “Riêng nhớ tình xƣa ghé bến thăm” vớ i nhƣ̃ng tình cảm thâ ̣t cảm đô ̣ng củ a mô ̣t nhà thơ lớ p sau vớ i nhà thơ đàn anh [19,tr.359-362]; Trúc Nhƣ viết “Lầu hƣơng vắ ng bó ng” và nhà thơ Triệu Phong đo ̣c bài điếu văn “Vĩnh biê ̣t thi sĩ Quá ch Tấn” , cả hai bài đều công bố trên tạp chí Nha Trang (Hô ̣i Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa) [19,tr.363-372].

- Lê Trung Kiê ̣t , trong luâ ̣n văn Tha ̣c sĩ Ngƣ̃ v ăn “Mù a cổ điển – tác phẩm khép lại một thời thơ” , Trƣờ ng Đa ̣i ho ̣c Sƣ pha ̣m thành phố H ồ Chí Minh , bảo vệ

năm 1996, vớ i hai chƣơng viết , ở chƣơng 1, tác giả luận văn nêu lên đôi né t về Thơ

mới; chƣơng 2 viết về Mùa cổ điển - tác phẩm khép lại một thời thơ , trong đó ngƣờ i viết đã trình bày sƣ̣ nghiê ̣p văn chƣơng củ a Quách Tấn ; Mùa Cổ điển trong “Thi nhân Viê ̣t Nam”; đóng góp củ a tiếng thơ cũ trong Thơ mới [30].

- Hoài Yên, trong bài viết “Thấy gì khi đọc bà i thơ “Đêm thu nghe quạ kêu”

của Quách Tấn” đăng trên tạp chí Hán Nôm, Viê ̣n Nghiên cƣ́ u Hán Nôm , Hà Nội,

số 3, năm 2000, đã chỉ ra nhƣ̃ng chi tiết trong bài thơ mà Quách Tấ n đã ti ếp thu từ thơ Đƣờ ng của Trung Quốc [90].

Trần Đình Sử trong bài Chút duyên với thơ Quách Tấn đã viết nhƣ sau:

“Quách Tấn là một nhà thơ đi ngƣợc lại phong trào Thơ Mới, ông vững tâm làm thơ

cũ giữa lúc những lời công kích chế giễu thơ cũ đang rộn lên nhƣ ong. Và ông đã

thắng. Đến năm 1941 khi Chế Lan Viên đề tựa tập Mùa cổ điển của nhà thơ cũ

Quách Tấn, thì cuộc tranh cãi Thơ Mới - Thơ cũ khép lại. Trong Thi nhân Việt

Nam, Quách Tấn ngồi chung với các nhà Thơ Mới và Hoài Thanh đã viết những lời

rất nâng niu. Hoài Thanh đã bắt trúng hồn thơ Quách Tấn, đồng điệu với ông trong

quan niệm thơ là cái đẹp, đem ví thơ với vƣờn hoa giàu hƣơng sắc của thiên nhiên”

[Trần Đình Sử, 19-5-2002]. Nhận xét về nghệ thuật thơ Quách Tấn, Trần Đình Sử

viết: “Thơ Quách Tấn thuộc dòng thơ Đƣờng luật Việt Nam chảy suốt từ thơ Nôm

cổ điển đến thơ quốc ngữ hiện đại. Hơn 600 năm Việt hóa, thơ Đƣờng luật Việt

Nam ngày càng tinh tế, điêu luyện với những tên tuổi nhƣ Bà huyện Thanh Quan,

Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng,… đến Quách Tấn thơ Đƣờng luật trở

nên thâm trầm, hàm súc và càng đi sâu vào nghệ thuật của thể loại, mỗi từ, mỗi ý

tƣởng đều hàm nghĩa. Mỗi bài là một ý cảnh độc lập. Thơ ông thiên về ý tƣởng và

18

ám thị nhiều hơn là miêu tả và giải bày. Từ Một tấm lòng, Mùa cổ điển đến Đọng

bóng chiều, Mộng Ngân Sơn, Giọt trăng,… thơ ông nhƣ càng ngắn lại, cô đúc lại

với thể loại thất tuyệt, ngũ tuyệt,…”

- Ngƣời thực hiện luận văn này cũng có dăm bài viết về Quách Tấn. Bài “Và i

ảnh hƣởng của thơ Đƣờng đối với thơ lãng mạ n Viê ̣t Nam” trên Tạp chí Khoa học

Xã hội, Viê ̣n Khoa ho ̣c Xã hô ̣i vù ng Nam bô ̣ , số 8, năm 2005, đã chỉ ra nhƣ̃ng ảnh hƣở ng củ a thơ Đƣờ ng đối vớ i thơ Xuân Diê ̣u , Huy Câ ̣n, Thâm Tâm và Quách Tấn .

Vài bài viết khác nhƣ: Quách Tấn với quan niệm về việc làm thơ, Tạp chí Nha

Trang, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, số 191, tháng 8-2011 đã nêu lên quan

niệm của Quách Tấn về thơ và việc làm thơ. Bài Những thành tựu nghiên cứu phê

bình về Quách Tấn từ trƣớc đến nay, Tạp chí khoa học Văn hoá và Du lịch, số 2

(56), tháng 12-2011 đã tổng thuật những thành tựu nghiên cứu về Quách Tấn trong

thời gian 70 năm, nghĩa là từ lúc Quách Tấn xuất hiện trên thi đàn với lời bình giá,

nhận xét của thi sĩ Tản Đà cho đến những bài viết gần đây về Quách Tấn. Bài

Quách Tấn với những cách tân về ngôn ngữ và nhịp điệu thơ, Tạp chí Đại học Sài

Gòn, số chuyên đề Bình luận văn học 2011 đã chỉ ra những đổi mới trong thơ

Quách Tấn về ngôn ngữ và nhịp điệu. Bài Quách Tấn với việc sử dụng thể thơ và

đổi mới cấu trúc câu thơ, Tạp chí Nha Trang, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà,

số 200, tháng 5-2012 đã nêu ý kiến của Quách Tấn về sự lựa chọn thể thơ khi sáng

tác và chỉ ra một số đổi mới trong cấu trúc câu thơ Đƣờng luật của Quách Tấn.

Tóm lại, từ 1975 đến nay, nhất là sau đổi mới, các nhà nghiên cứu phê bình lại

một lần nữa khẳng định đóng góp về nội dung, về nghệ thuật của thơ Đƣờng luật

Quách Tấn trong thơ Việt hiện đại. Những đóng góp của ông đã đƣợc Tự điển văn

học xác nhận. Ông là ngƣời chuyên tâm và có công lớn đối với thể thơ cách luật, đã

sáng tác và dịch thuật trên ngàn bài. Thơ ông, nếu ban đầu ở Một tấm lòng mang cái

trong trẻo hồn nhiên của nhà thơ trƣớc thiên nhiên thì đến Mùa cổ điển lại mang cái

buồn ƣu tƣ xa vắng, nỗi “buồn mà đẹp” này cũng là nét chung của Thơ Mới bấy

giờ. Ông chuyên sáng tác thơ luật nhƣng lại mang cảm xúc mới, ý lạ mà nồng nàn,

làm cho ngƣời đọc rung động, bồi hồi theo tiếng lòng của tác giả. Để rồi càng về

sau, thơ ông dƣờng nhƣ đã nhập vào Thiền, với những vần thơ thấm đẫm Thiền vị.

Thơ đƣờng luật Việt Nam qua mấy trăm năm phát triển, đến Quách Tấn, nó trở nên

19

thâm trầm, hàm súc, đi sâu vào nghệ thuật thể loại, mỗi từ mỗi ý đều hàm nghĩa.

Thơ ông chứa nhiều ý tƣởng và ám thị cô đúc hơn là miêu tả, giãi bày.

2.2. Những ý kiến về thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX

Ở trên là những thành tựu nghiên cứu về thơ Quách Tấn từ trƣớc đến nay. Còn

ý kiến về thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX, có thể điểm qua nhƣ sau:

Thơ Đƣờng luật ở Việt Nam có một lịch sử lâu đời, nó gắn liền với văn hoá

Hán khi nền văn hoá này du nhập vào nƣớc ta. Ở đây luận văn chỉ tổng thuật đôi nét

về thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX, tức trong giai đoạn hiện đại hoá văn học

nƣớc nhà. Điều cần lƣu ý là, trƣớc thời điểm Thơ Mới xuất hiện thì đã có một vài ý

kiến công kích thơ cũ của Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Trịnh Đình Rƣ. Các nhà nghiên

cứu thƣờng nhắc đến bài “Bàn về thơ Nôm” của Phạm Quỳnh đăng trên Nam phong

tạp chí, số 5-1917 nhƣ là một phản ứng đầu tiên với thơ Đƣờng luật, khi ông viết:

“Ngƣời ta thƣờng nói thơ là cái tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Ngƣời Tàu định luật

nghiêm cho nghề thơ, thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy cho nó hay

hơn, trúng vần trúng điệu hơn, nhƣng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên

nhiên đi vậy” [bđd]. Nếu chỉ dựa vào ý này thì rõ ràng Phạm Quỳnh là ngƣời đầu

tiên công kích thơ cũ, chủ yếu là thơ Đƣờng luật. Năm 1928, trên tờ Đông Pháp

thời báo, Phan Khôi phê phán việc dạy thất ngôn luật bằng Quốc ngữ là “tục quá”;

đặc biệt ông lên án lối thất ngôn luật trong khoa cử: “từ ngày đem thất ngôn luật vào

trong khoa cử rồi thì thể ấy trở nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú”. Ngay cả một

vị Cử nhân Hán học là Trịnh Đình Rƣ, năm 1929, trên tờ Phụ nữ tân văn đã đặt câu

hỏi “Có nên chuộng thơ Đƣờng luật không?”, ông nêu cái khó của thơ luật khiến

cho ngƣời làm thơ dễ mắc phải nhƣ: thất niêm, khổ độc, trần ngôn, sáo ngữ… Ông

kêu gọi tìm một giải pháp mới, nhƣng không phải tìm cách phá luật mà quay về với

các thể thơ truyền thống của dân tộc nhƣ Lục bát, Song thất lục bát.

Lúc này, tuy đã có vài ý kiến phản đối (nhƣng không phải là tẩy chay) thơ

Đƣờng luật, nhƣng trên thi đàn, Tản Đà vẫn cho xuất bản các tập: Khối tình con I

(1916), Khối tình con II (1918), Còn chơi (1921); Trần Tuấn Khải với các tập:

Duyên nợ phù sinh I (1921), Duyên nợ phù sinh II (1923), Bút quan hoài (1927).

Trong những tập thơ trên có nhiều bài viết theo thể Đƣờng luật và vẫn đƣợc nhiều

độc giả hƣởng ứng, thƣởng thức. Điều đó cho thấy, khoảng 30 năm đầu thế kỷ XX,

20

trong quá trình vận động để hiện đại hoá văn học Việt Nam từ phạm trù trung đại

sang phạm trù hiện đại, thì thơ Đƣờng luật vẫn còn đƣợc dùng để sáng tác.

Đến thời điểm 1932, năm chính thức mở màn của phong trào Thơ Mới, với cái

mốc là bài Tình già của Phan Khôi đăng trên tờ Phụ nữ tân văn ngày 10-3-1932 đã

tạo nên làn sóng hƣởng ứng của lớp thanh niên tân học và ít nhiều gây hoang mang

cho lớp cựu học. Từ đó, trên thi đàn diễn ra hai mặt trận: phái Mới có Phan Khôi,

Thế Lữ, Nguyễn Thị Kiêm, Lƣu Trọng Lƣ, Vũ Đình Liên…; phái Cũ có Nguyễn

Văn Hanh, Thái Phỉ, Tùng Lâm, Hoàng Duy Từ… Còn ở giữa hai phái (có thể gọi

là trung gian), ngƣời ta ghi nhận có sự hiện của nhà thơ Tản Đà.

Khái niệm “phái Cũ”, “thơ Cũ” là do phái Mới, Thơ Mới đặt ra, chủ yếu để ám

chỉ lối thơ sáng tác theo thể Đƣờng luật đăng trên các báo công khai hồi đó. Sự tấn

công của Thơ Mới vào thành trì của thơ cũ không chỉ đơn thuần là sự phá bỏ hình

thức thơ cũ, nhất là sự gò bó nghiêm ngặt của thơ cách luật, mà phần nào còn là sự

tấn công vào ý thức hệ, những giá trị tinh thần, những tiêu chuẩn thẩm mỹ của văn

học trung đại với ý thức hệ phong kiến. Dƣới cái nhìn của các nhà Thơ Mới thì các

nhà thơ cũ chỉ là “thợ thơ”, và thơ cách luật chỉ là loại thơ “con chó đi vô, con mèo

đi ra”, thể Đƣờng luật thì đúng là “cái ngục giam hãm tình tứ” [44]. Tất nhiên, Thơ

Mới thắng lợi không hoàn toàn do những lời phát biểu công kích thơ cũ, mà quan

trọng hơn và chủ yếu là do những thi phẩm mới mẻ của các thi nhân tài năng nhƣ:

Lƣu Trọng Lƣ, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận… đƣợc đông đảo bạn đọc nhiệt liệt và

hồ hởi tiếp nhận.

Trong khi đó, trƣớc sự tấn công của phái Mới, những ngƣời thuộc phái Cũ nhƣ

Nguyễn Văn Hanh, Thái Phỉ, Tùng Lâm… đã có phản ứng lại. Họ dựa vào thành

tựu thơ ca gần 1000 năm của dân tộc để chỉ trích Thơ Mới là thứ thơ “luộm thuộm”,

“văn xuôi”; Nguyễn Văn Hanh trong bài “Thi cũ thi mới” đã chê trách các nhà thơ

ta bắt chƣớc thơ Tây là sai lầm. Theo ông, phá niêm, phá cách, nhƣng có vần thì còn

đƣợc, chứ tự do tới mức những câu nhƣ: “Sen, ơi Sen mầy đƣa tao đôi guốc,/ Để

tao ra vƣờn ngắm cảnh chơi” thì cũng có thể thành thơ đƣợc, ngay Thạch Lam là

nhà văn kiểu mới cũng phải cho là “lạ” quá. [dẫn lại: 76,tr.10-11]. Sở dĩ, Thơ Mới

tấn công thơ Cũ, một phần là do thơ Cũ lúc này chỉ lo chăm chút gò văn gọt chữ, vì

thế mà thơ trở nên sáo rỗng, nhạt nhẽo, khô khan. Thử đọc lại những bài thơ Đƣờng

21

luật đăng trên Nam Phong tạp chí lúc bấy giờ sẽ thấy cái nhạt nhẽo vô vị của nó.

Điều này, chính nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định trong một bài viết về Tản Đà, sau

khi nhà thơ này đã tạ thế. Sau đó, trong Thi nhân Việt Nam, khi tổng kết phong trào

Thơ Mới, Hoài Thanh và Hoài Chân rất có lý khi nói rằng: “Công kích những bài

Thơ Mới lủng củng là một chuyện thừa vậy. Công kích đƣợc những bài có giá trị

mới mong tiệt đƣợc mầm Thơ Mới. Nhƣng đã có giá trị thì còn biết biết công kích

thế nào!” [74,tr.26]. Và trong tình thế ấy “chỉ có một ngƣời hoặc có thể làm nên

chuyện. Ngƣời ấy là Tản Đà, một nhà thơ có tài” [74,tr.25]. “Nhƣng đối với Thơ

Mới, Tản Đà lại hết sức dè dặt” [74,tr.25], và lúc này, Tản Đà bị cả hai phái tranh

giành, nhƣng ông vẫn có cảm tình đặc biệt với thơ cũ, bằng chứng là trên tờ An

Nam tạp chí, ông viết nhiều bài bình luận về thơ Đƣờng luật, ông khen thơ Đƣờng

luật của Tham Toàn, Quách Tấn rất hay và công phu. Chính sự bênh vực của Tản

Đà cùng một số bài thơ Đƣờng luật khá nhuần nhị của Quách Tấn, Tham Toàn,

Bích Khê… đăng trên An Nam tạp chí đã khiến nhiều nhà thơ cũ lấy lại đƣợc tự tin

trong sáng tác. Chẳng hạn, tháng 4 năm 1935, hai ông Tƣờng Vân và Phi Vân xuất

bản tập thơ cũ ở Vinh: Những bông hoa trái mùa; năm 1936, Hàn Mặc Tử cho xuất

bản tập Gái quê ở Quy Nhơn, trong đó có một số bài thơ Đƣờng luật; nhƣng phải

đợi đến năm 1939, khi Quách Tấn cho xuất bản tập Một tấm lòng với lời Tựa của

Tản Đà và lời Bạt của Hàn Mặc Tử thì phần nào đã xua tan không khí ảm đạm của

thơ cũ; để đến năm 1941, Quách Tấn cho xuất bản tập thơ Đƣờng luật thứ hai: Mùa

cổ điển thì bạn đọc và các nhà Thơ Mới buộc lòng phải công nhận “giọng thơ nhẹ

nhàng, êm ái, có sức cuốn hút lạ lùng” này, thậm chí ngay khi đọc bản thảo tập thơ,

có ngƣời đã thốt lên “chỉ một bài Đêm thu nghe quạ kêu chừng ấy thôi cũng đủ cho

ta thấy thi sĩ đã vƣợt lên trên những thi sĩ có tiếng nhƣ: Bà huyện Thanh Quan, Yên

Đổ, Chu Mạnh Trinh…” nhƣ ý kiến của Bích Khê [19,tr.59];[71,tr.414], để sau đó,

Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp ông một chỗ ngồi xứng đáng trong Thi nhân Việt

Nam mà ở mục trên luận văn có nêu.

Từ sau 1945, đối với thơ Đƣờng luật, các nhà nghiên cứu nhìn nhận có chiều

hƣớng thống nhất. Trong các công trình văn học sử nhƣ: Thi văn Việt Nam (Hoàng

Xuân Hãn, 1951), Lƣợc thảo lịch sử văn học Việt Nam tập 3 (Nhóm Lê Quý Đôn:

Vũ Đình Liên - Trƣơng Chính - Đỗ Đức Hiểu, 1957), Mấy vấn đề văn học sử Việt

22

Nam (Trƣơng Tửu, 1958), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (Ban Văn Sử Địa: Văn

Tân - Nguyễn Hồng Phong - Nguyễn Đổng Chi, 1959), Giáo trình Lịch sử văn học

Việt Nam tập 4 (tủ sách ĐHSP, 1961), Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ -

Bạch Năng Thi, 1966), Lịch sử văn học Việt Nam tập 5, phần 1 (tủ sách ĐHSP,

1976, tb), Văn học Việt Nam 1900-1945 (Phan Cự Đệ - Trần Đình Hƣợu - Nguyễn

Trác - Nguyễn Hoành Khung - Lê Chí Dũng - Hà Văn Đức, Nxb GD, tb, 2000)…

trong các bài khái quát đã có những đánh giá chung về thơ Đƣờng luật nửa đầu thế

kỷ XX dù chỉ lƣớt qua, nhƣng cái nhìn đã có tính hệ thống và khách quan hơn, thừa

nhận sự tồn tại của thể loại này về số lƣợng, còn giá trị của nó vẫn là ý kiến khá sơ

lƣợc và thiên về nội dung hơn là hình thức nghệ thuật, trong đó đáng lƣu ý là thơ

Đƣờng luật ở bộ phận thơ ca cách mạng đƣợc đánh giá cao hơn, còn thơ Đƣờng luật

ở bộ phận thơ ca hợp pháp thì dƣờng nhƣ ít nhắc đến, nếu có thì thiên về phủ nhận

hơn là khẳng định.

Bàn về thể thơ Đƣờng luật, trƣớc năm 1945 có một số công trình sau đây đã đề

cập đến, dù mức độ nông sâu có khác nhau: Việt Hán văn khảo (Phan kế Bính,

1918), Quốc văn cụ thể (Bùi Kỷ, 1927), Việt Nam văn học sử yếu (Dƣơng Quảng

Hàm, 1943), Đƣờng luật chỉ nam (Phạm Huy Toại, 1951), Thơ ca Việt Nam: hình

thức và thể loại (Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức, 1971), Phong trào Thơ Mới

(Phan Cự Đệ, 1982)… đã nêu và phân tích sự vận động của thể thơ Đƣờng luật ở

Việt Nam, trong đó có nói về những thay đổi về mặt hình thức thơ Đƣờng luật nửa

đầu thế kỷ XX. Chẳng hạn, Phan Cự Đệ trong Phong trào Thơ Mới đã dành gần 8

trang để phân tích sự giao thoa giữa thơ Cũ và Thơ Mới, trong đó có nêu “Trong

những bài thơ Đƣờng luật của Hàn Mặc Tử, Quách Tấn đã có cái xôn xao, cái băn

khoăn khó nói của thời đại mới… Có khi ở Quách Tấn, Phạm Văn Hạnh, hình thức

thơ Đƣờng chỉ là cái áo khoác ngoài của một tâm hồn mới và hiện đại” [14,tr.232-

233].

Lã Nhâm Thìn trong luận án PTS “Thơ Nôm Đƣờng luật” (1993), trên cơ sở

nhìn lại cả một chặng đƣờng dài lịch sử, những thành công và hạn chế của thơ Nôm

Đƣờng luật trong lịch sử thơ ca Việt Nam, đã khẳng định: “Bƣớc sang thế kỷ XX,

tuy chữ Nôm đã mất hẳn vai trò trong cuộc sống và trong sáng tác văn học, nhƣng

thể Đƣờng luật vẫn tìm đƣợc chỗ đứng cho mình. Hình thức thơ quy phạm, trang

23

trọng, chuyển tải một mội dung hài hƣớc “không nghiêm chỉnh” đã tạo thế mạnh

cho thơ trào phúng” [78,tr.44].

Lê Đức Niệm trong Diện mạo thơ Đƣờng (1995) đã khẳng định sự hiện diện

khá bề thế của thể thơ Đƣờng luật trong tập Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh và

nhận xét: “Thơ Đƣờng luật của Bác mang phong vị thơ Đƣờng nhƣng đã hiện đại

hoá… Thơ chữ Hán của Bác đã mở rộng phạm vi phản ánh nhiều vấn đề to lớn của

thời đại” [50].

Lê Sĩ Đại trong Một số đặc trƣng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng

(1996) cũng có nhắc đến sức sống của hồn thơ Đƣờng và thể Đƣờng luật trong thơ

Việt giai đoạn sau năm 1930.

Ngô Văn Phú trong Thơ Đƣờng ở Việt Nam (1996) đã nêu quá trình du nhập

của thơ Đƣờng, trong đó có thể thơ Đƣờng luật và ảnh hƣởng của nó đối với thơ

Việt Nam. Theo ông, thơ Đƣờng luật đã đƣợc các sĩ phu yêu nƣớc dùng làm vũ khí

đấu tranh với những tên tuổi lớn nhƣ Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Huân, Phan

Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… làm sáng danh cho thơ Đƣờng

luật… Sau này, thơ Đƣờng luật còn đƣợc Tú Mỡ, Đồ Phồn vận dụng trong thơ trào

phúng.

Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại (1999) đã dành

một mục viết về đặc trƣng thi pháp của thơ Tự tình, trong đó có nhắc đến thể thơ

Đƣờng luật [58,tr.170-181].

Trần Thị Lệ Thanh trong luận án Tiến sĩ Thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX (2002) đã khảo sát trên 5.000 bài thơ Đƣờng luật để khẳng định: Sự hiện

diện của thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (chƣơng 1); Hệ thống đề tài

và cảm hứng chủ đạo trong thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: thiên

nhiên, yêu nƣớc, lịch sử, nhân thế (chƣơng 2); Những đặc điểm về ngôn ngữ của

thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: từ ngữ, ngữ pháp, ngữ âm (chƣơng 3)

[76].

Tóm lại, từ những đánh giá và nhận định trên của các nhà nghiên cứu phê

bình, có thể nói thơ Quách Tấn là một hiện tƣợng độc đáo của nền văn học Việt

Nam trong buổi giao thời của Thơ Mới và thơ Cũ. Quách Tấn đã tuân thủ những

luật lệ quy phạm của các thể thơ Đƣờng luật, nhƣng ông biết làm mới, làm nổi bật

24

thể thơ này bằng cách kết hợp những tinh hoa ấy với nội dung hiện thực tƣơi mới,

sinh động, mang hơi hƣớng của cái tôi cá nhân và phần nào cũng chịu ảnh hƣởng

của tƣ tƣởng thời đại, mang nặng nỗi niềm riêng tƣ của cá nhân hòa cùng nỗi đau

của dân tộc . Tất cả nhƣ̃ng ý kiến trên đã giú p cho ngƣờ i viết luâ ̣n văn có đi ̣nh

hƣớ ng chung để dàn dựng ý tƣởng trong quá trình thực hiện đề tài.

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Đề tài mà luâ ̣n văn nghiên cƣ́ u là

Quách Tấn. Các tập thơ đã xuất bản của Quách Tấn đều sáng tác theo thể thơ

Đƣờng luật, trong đó có một số rất ít bài viết theo thể lục bát, thể đồng dao. Ở đây,

để xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn , luận văn chỉ giới hạn đối

tƣơ ̣ng và phạm vi nghiên cứu là hai tập thơ của Quách Tấn xuất bản trƣớc năm

1945: Một tấm lòng và Mùa cổ điển là chủ yếu , và ít nhiều có liên hệ đến nhƣ̃ ng

sáng tác thơ của Quách Tấn xuất bản sau năm 1945 cho đến khi ông ta ̣ thế vào năm

1992 nhƣ: Đọng bó ng chiều , Mộng Ngân Sơn, Giọt trăng, Vui vớ i trẻ em v.v.., và

Tiếng và ng khô (bản thảo đánh máy , chƣa xuất bản ); đồng thời ít nhiều có so sánh

với thơ Đƣờng luật trên Nam Phong tạp chí và trong phong trào Thơ Mới để nhằm

thấy đƣợc nét riêng và đóng góp của Quách Tấn trong phong trào Thơ Mới nói

riêng, trong thơ ca hiện đại nói chung khi ông đã lựa chọn một thể thơ cũ để sáng

tác. Nhƣng Quách Tấn không chỉ làm thơ, mà ông còn nghiên cƣ́ u biên khảo về văn hoá, viết thi thoa ̣i và hồi ký cùng dịch thuật thơ chữ Hán. Qua mô ̣t số hồi ký cù ng thi thoa ̣i, ngƣờ i đo ̣c sẽ hiểu sâu hơn về cuô ̣c đờ i củ a ông ; về mối quan hê ̣ củ a ông ; về quá trình vớ i các nhà nghiên cƣ́ u , nhà văn hoá và các văn nghệ sĩ đƣơng thời hình thành các tập thơ cũng nhƣ nguyên do sáng tác một bài thơ . Vì thế, để dựng lại

cuô ̣c đờ i, sƣ̣ nghiê ̣p, tìm hiểu giá trị nội dung , nghê ̣ thuật thơ Quách Tấn , bên ca ̣nh nhƣ̃ng sáng tác thơ , chúng tôi còn đọc các hồi ký , thi thoa ̣i củ a ông ; đo ̣c nhƣ̃ng gì mà các nhà nghiên cứu , nhƣ̃ng văn nghê ̣ sĩ viết về ông , về thơ củ a ông , để có cái nhìn toàn diện hơn khi thực hiện đề tài.

4. PHƢƠNG PHÁ P NGHIÊN CƢ́ U

Đây là đề tài nghiên cƣ́ u về một thể loại thơ của một tác giả có so sánh thơ của

các tác giả khác cùng thời trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, cho nên luận

văn sƣ̉ du ̣ng phƣơng pháp chủ yếu là phƣơng p háp loại hình để nghiên cứu về loại

25

hình thể loại thơ Đƣờng luật của Quách Tấn và của các tác giả khác đăng trên báo

chí cùng thời và trong phong trào Thơ Mới, bên cạnh sử dụng một số phƣơng pháp

bổ trợ khác, cụ thể là:

- Phƣơng pháp nghiên cƣ́ u tác giả bằng cách tìm hiểu quê hƣơng, gia đình, bản

thân, bạn bè của nhà thơ để chỉ ra những ảnh hƣởng của hồn thơ Quách Tấn .

- Cùng các phƣơng pháp khác nhƣ: Phƣơng pháp nghiên cƣ́ u tác phẩm văn học; phƣơng pháp phân tích - tổng hơ ̣p; phƣơng pháp so sánh ; phƣơng pháp nghiên cƣ́ u li ̣ch sƣ̉ , phƣơng pháp thống kê phân loại, phƣơng pháp văn hóa học…

Tất cả những phƣơng pháp trên đƣợc vận dụng đan xen khi nghiên cứu nhằm

xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn về nội dung cảm hứng, về

nghệ thuật biểu hiện, để chỉ ra nét riêng trong thơ Quách Tấn , lý giải vì sao giữa lúc

Thơ mới chịu ảnh hƣởng phƣơng Tây đan g đô ̣c chiếm thi đàn và thơ c ũ của các nhà thơ lớ p trƣớ c bi ̣ công kích , vâ ̣y mà thơ Quách Tấn vẫn đƣ́ ng vƣ̃ng vàng, đƣợc các nhà Thơ Mới mở cửa đón chào, đƣơ ̣c công chú ng ái mô ̣ và đƣơ ̣c nhà phê bình Hoài Thanh xếp cho mô ̣t chỗ ngồi xƣ́ ng đáng trong Thi nhân Viê ̣t Nam.

5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI

Tìm hiểu về Quách Tấn và thơ của ông, từ trƣớc đến nay có không ít ngƣời

quan tâm; tìm hiểu về thơ Đƣờng luật trên Nam Phong tạp chí và trong phong trào

Thơ Mới rải rác đó đây cũng đƣợc các nhà nghiên cứu nhắc đến trong một vài công

trình, đặc biệt là luận án Tiến sĩ của Trần Thị Lệ Thanh đã tìm hiểu “Thơ Đƣờng

luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có đề tài nào đặt

vấn đề Xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn để nghiên cứu. Do

vậy, đây là một đề tài tƣơng đối mới và khó. Đề tài này có vài đóng góp mới:

Một là, xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật nói chung, thơ Đƣờng luật của

Quách Tấn nói riêng, trên cơ sở đối chiếu so sánh với thơ Đƣờng luật trong văn học

Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ XX trong bối cảnh hiện đại hoá văn học nƣớc nhà.

Hai là, tìm hiểu mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn nhìn từ phƣơng

diện nội dung cảm hứng.

Ba là, tìm hiểu mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn nhìn từ phƣơng

diện nghệ thuật biểu hiện.

26

Ở đây khi xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn ở các phƣơng

diện, luận văn ít nhiều có cái nhìn so sánh đồng đại, nhằm chỉ ra nét đặc sắc rất

riêng của Quách Tấn khi sử dụng thể thơ này để sáng tác lúc Thơ Mới thắng thế trên

thi đàn, mà thơ của ông tuy sáng tác theo thể loại cũ nhƣng vẫn đƣợc các nhà Thơ

Mới nồng nhiệt đón nhận và mở rộng cửa để ông ung dung bƣớc vào thi đàn. 6. GIỚI THIỆU CẤ U TRÚ C LUẬN VĂN

Luâ ̣n văn đƣơ ̣c viết 158 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu 22 trang (tr.1-

tr.22) trình bày những vấn đề chung , trọng tâm của luận văn đƣ ợc triển khai trong

ba chƣơng nhƣ sau:

- Chƣơng 1: Thơ Đƣờng luật của Quách Tấn và xác lập mã nghệ thuật thơ

Đƣờng luật, 51 trang (tr.23-tr.73). Chƣơng này có 2 mục: một là, giới thiệu cuộc đời

và sự nghiệp Quách Tấn – một nhà Thơ Mới viết theo thể loại cũ mà vẫn đƣợc Thơ

Mới mở cửa đón nhận nồng nhiệt; hai là, xác định khái niệm “Thơ Đƣờng”, “Thơ

Đƣờng luật”, “Thơ Đƣờng luật Việt Nam”, nêu lên những tiêu chí xác lập mã nghệ

thuật thơ Đƣờng luật, đặt thơ Đƣờng luật trong bối cảnh hiện đại hoá văn học ở

nƣớc ta hồi nửa đầu thế kỷ XX trên báo chí và trong phong trào Thơ Mới.

- Chƣơng 2: Mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn nhìn từ nội dung

cảm hứng, 38 trang (tr.74-tr.111). Chƣơng này đi sâu tìm hiểu mã nghệ thuật thơ

Đƣờng luật của Quách Tấn nhìn từ nội dung cảm hứng, cụ thể là từ đề tài, những

cảm hứng chủ đạo, mà từng khía cạnh, ít nhiều có so sánh với thơ Đƣờng luật trên

Nam Phong tạp chí và trong phong trào Thơ Mới.

Chƣơng 3. Mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn nhìn từ nghệ thuật

biểu hiện, 41 trang (tr.112-tr.151). Chƣơng này nêu lên quan niệm của Quách Tấn

về việc làm thơ, việc lựa chọn và sử dụng thể thơ, những cách tân về ngôn ngữ thơ,

đổi mới trong cấu trúc câu thơ, nét mới trong tổ chức nhịp điệu và hệ thống giọng

điệu để bộc bộ phong cách riêng. Cuối mỗi chƣơng đều có Tiểu kết. Cuối cùng là

Kết luận, 04 trang (tr.152-tr.155), Tài liệu tham khảo với 94 danh mục. Phần Phụ

lục là Danh mục những bài viết của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận

văn.

27

Chƣơng 1

THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN VÀ

XÁC LẬP MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT

1.1. QUÁCH TẤN: NHÀ THƠ XUẤT SẮC CỦA DÕNG THƠ ĐƢỜNG LUẬT

VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI

1.1.1. Cuộc đời

Quách Tấn sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dâ ̣u (tƣ́ c 04-01-1910) nhƣng ghi

trong giấy khai sinh là 01-01-1910 (Đú ng ra, năm Kỷ Dâ ̣u âm li ̣ch ƣ́ ng vớ i dƣơng lịch là 1909, nhƣng vì gần cuối năm âm li ̣ch nên mớ i sang tháng giêng dƣơng li ̣ch của năm sau). Ông chào đờ i ta ̣i thôn Thuâ ̣n Nghĩa , sau khi đã đầy tháng thì mẹ đƣa về sống tại thôn Trƣờng Định , huyê ̣n Bình Khê , tỉnh Bình Định (tƣ́ c xã Bình Hòa , huyê ̣n Tây Sơn, tỉnh Bình Định hiện nay) là quê hƣơng của mẹ.

Lúc nhỏ Quách Tấn học chữ Hán với thầy đồ trong làng , nhƣng không thấy

hƣ́ ng thú , thƣờ ng bỏ ho ̣c đi chơi . Đến năm 12 tuổi, ông bỏ ho ̣c chƣ̃ Hán , theo cha học chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp tại trƣờng Pháp - Viê ̣t Quy Nhơn (Quốc ho ̣c Quy

(Primaire Nhơn). Năm 19 tuổi (1929), ông thi đâ ̣u bằng Cao đẳng Tiểu ho ̣c

Supérieur). Vì lúc này cha mẹ đã qua đời (cha mất năm 1923, mẹ qua đời năm

1928) nên Quách Tấn phải xin đi làm viê ̣c ở Tòa sƣ́ củ a Pháp để nuôi hai em . Ông (1930), rồi đổi lên Tòa sƣ́ Đồng đƣơ ̣c bổ làm phán sƣ̣ Tòa sƣ́ ta ̣i tòa Khâm sƣ́ Huế Nai Thƣơ ̣ng ở Đà La ̣t , làm việc tại đây cho đến năm 1935 mớ i đƣơ ̣c đổi xuống làm viê ̣c ta ̣i Tòa sƣ́ Nha Trang.

Năm 1945, cả nƣớc hồ hởi tham gia khởi nghĩa , giành chính quyền , tiếp theo

là kháng chiến chống Pháp bùng nổ , gia đình ông tản cƣ về Bình Đi ̣nh . Cũng nhƣ nhiều văn nghê ̣ sĩ khác , Quách Tấn tham gia kháng chiến chống Pháp , làm thủ quỹ cho Ủ y ban ủ ng hô ̣ kháng chiến và Mă ̣t trâ ̣n Liên hiê ̣p Quốc dân huyê ̣n Bình Khê (1945-1949).

Tƣ̀ năm 1949 đến năm 1951, ông mở trƣờ ng Trung ho ̣c tƣ thu ̣c Mai Xuân Thƣở ng ta ̣i thôn An Chánh huyê ̣n Bình Khê , tỉnh Bình Định . Năm 1951, ông đƣơ ̣c (1951- điều đô ̣ng da ̣y trƣờ ng Trung ho ̣c An Nhơn rồi trƣờ ng Trung ho ̣c Bình Khê 1953).

28

Cuô ̣c kháng chiến chốn g Pháp kết thú c , ông đƣa gia đình hồi cƣ về lại Nha Trang (1954). Lúc này, chính quyền miền Nam đã tái bổ nhiệm ông vào ngạch Thƣ

ký hành chính . Tƣ̀ đó cho đến năm 1965, ông đã làm viê ̣c ta ̣i Tòa Hành chính Quy Nhơn (1955-1957), Sở Du lịch Huế (1957-1958), Ty Kiến thiết Nha Trang (1958-

1963), Tòa Hành chính Nha Trang (1963-1965). Năm 1965, ông nghỉ hƣu và tiếp tục viết văn làm thơ.

Năm 1987, ông bi ̣ mù mắt . Tƣ̀ đây cho đến khi từ giã cõi đời (1992), mă ̣c dù

tuổ i cao (quá bát tuần ) và đôi mắt bị mù , nhƣng ông vẫn chƣa chi ̣u dƣ́ t nơ ̣ văn chƣơng. Ngoài cái thú làm thơ , ông còn dù ng trí nhớ củ a mình đo ̣c cho con cháu chép lại những chuyện xƣa , tích cổ, nhƣ̃ng tài liê ̣u cũ rất hiếm ngƣờ i biết, ngỏ hầu lƣu la ̣i cho mai sau.

Thân phu ̣ ông là Quách Phƣơng Xuân , lúc nhỏ học chữ Hán , lớ n ho ̣c chƣ̃

Pháp, đâ ̣u bằng Thành chung . Bình sinh , cụ rất ham văn chƣơng , nhất là thơ văn

Phú Phong tỉnh Bình Định , cụ Quố c âm. Khi làm thông ngôn cho hãng Délignon ở

có mở lớp dạy Quốc văn và Pháp văn (không lấy tiền ) cho con cháu và con em

trong ha ̣t. Tính tình ông cụ vui vẻ , phóng khoáng, hay bông đù a , thỉnh thoảng làm

thơ, thiên về loại trào phú ng.

Thân mẫu là Trần Thị Hào , con nhà cƣ̣ tô ̣c , tinh thông chƣ̃ Hán , thuô ̣c thơ

Nôm rất nhiều và viết chƣ̃ Hán rất đe ̣p . Tính bà nghiêm minh , dạy con cái lấy nghĩa

nhân làm gốc.

Chính cách sống của song thân đã ảnh hƣởng lớn đến tâm tính và cuô ̣c đờ i củ a

nhà thơ Quách Tấn.

Anh em gồm 10 ngƣờ i nhƣng còn sống đến lớn chỉ có 3 ngƣời: Quách Tấn ,

Quách Tạo và Quách Thị Mộng Lan.

Quách Tấn lập gia đình năm 1929, vợ là Nguyễn Thi ̣ Nhiếp , hiê ̣u Thanh Tâm ngƣờ i ở thôn Phú Phong , huyê ̣n Bình Khê , tỉnh Bình Định , sinh đƣơ ̣c 12 con, sống đến lớn đƣợc 8 ngƣời, hiê ̣n nay còn 6 (2 nam, 4 nƣ̃).

Lƣơng ít, con đông, suốt đờ i làm công chƣ́ c thanh liêm nên nhà thơ không có

i đổi vào làm viê ̣c ta ̣i Nha Trang

, có một cây mận to gì để lại , trƣ̀ ngôi nhà ngói mua đƣơ ̣c hồi mớ (1935). Ngôi nhà kiến trú c kiểu biê ̣t thƣ̣ “nhỏ mà xinh xinh”

29

, cái đức tính giản dị , khiêm tố n ,

trồ ng trƣớ c sân , thể hiê ̣n cái phong thái nho nhã thanh đa ̣m mà chƣ̃ng cha ̣c củ a ông.

và đã chọn thành phố biển làm quê hƣơng thứ hai Nhƣ trên có nói , tƣ̀ năm 1935, ông về làm phán sƣ̣ ta ̣i Nha Trang , Khánh Hòa , sống ta ̣i đây cho đến lú c tạ thế

vào lúc 07 giờ 10 phút ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Thân (tƣ́ c 21-12-1992) tại số

nhà 12 đƣờ ng Bến Chơ ̣ , phƣờ ng Xƣơng Huân , thành phố Nha Trang , tỉnh Khánh Hòa (hiê ̣n con cháu củ a Quách Tấn vẫn đang sinh sống ta ̣i đây và ngôi nhà cũng là đi ̣a điểm viếng thăm củ a nhiều ngƣờ i có tấm lòng yêu mến nhà thơ).

1.1.2. Sự nghiệp văn chƣơng

Quách Tấn tự Đăng Đạo , hiê ̣u Trƣờ ng Xuyên , còn có các hiệu : Đi ̣nh Phong ,

Cổ Bàn Nhân, Thi Na ̣i Thi ̣, Lão Giữ Vƣờn.

Quách Tấn tập làm thơ từ năm 1925, lúc học Đệ Nhất niên (nhƣ lớ p 6 hiê ̣n

nay) ở trƣờng Trung học Quy Nhơn (Collège de Quy Nhon ). Thầy vỡ lòng là giáo sƣ Hà Văn Bính , sách vỡ lòng là Quốc văn trích diễm của giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm. Nhờ ảnh hƣở ng củ a song thân nên Quách Tấn đã quen hơi hƣớ ng và dáng d ấp

của thi ca , vì thế ông thu nhận đƣợc dễ dàng những lời giảng dạy ở lớp . Cuối niên

khóa 1925-1926, ông đã thông tha ̣o các nguyên tắc đa ̣i cƣơng về các thể Đƣờ ng luâ ̣t, Lục bát , Song thất lu ̣c bát , Ca trù và đã làm đƣơ ̣c năm mƣờ i bài đú ng niêm

luâ ̣t. Lúc ra trƣờng (1929), Quách Tấn đã thạo các thể thơ Đƣờng luật và các thể thơ

Viê ̣t Nam. Mãi đến năm 1932 nhờ Tản Đà tiên sinh dìu dắt và Phan Sào Nam tiên sinh nâng đỡ, ông mớ i chính thƣ́ c bƣớ c vào làng thơ.

Quách Tấn làm thơ chuyên về thể thơ Đƣờng luật , các bài thơ của ông thƣờng

đăng ở An Nam tạp chí (Hà Nội), Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), Tiếng Dân (Huế).

Ngoài nhà thơ Tản Đà

(vƣ̀ a là thầy , vƣ̀ a là ba ̣n văn chƣơng ), nhƣ̃ng ba ̣n bè thiết cốt trƣớ c đây nhƣ : Hàn Mạc Tử , Chế Lan Viên , Yến Lan, Bích Khê, cũng đã

ảnh hƣởng đến đời văn chƣơng của ông . Bên cạnh, cũng phải kể cả hai ngƣời tình

nhƣ hai luồng gió đã làm rung đô ̣ng nhƣ̃ng dây đàn hồn thơ

nơi ông . Mối tình và hình ảnh của “đó a khoe tƣơi” thƣờ ng thấp t hoáng trong tác phẩm ông , đó là Liên

Tâm, ngƣờ i giú p cho tâm hồn ông bớ t khô khan . Nếu không gă ̣p nàng , có thể Mùa cổ điển vẫn giƣ̃ tính chất nhƣ Một tấm lò ng và nhƣ̃ng tác phẩm sau không có hƣơng sắc củ a tình yêu . Và một ngƣời nữa là Chức Thành , ngƣờ i đã đem trở la ̣i nơi ông

30

mô ̣t nguồn cảm hƣ́ ng ma ̣nh mẽ, sau 10 năm tâm hồn và thân xác bi ̣ nhiều nỗi đờ i đè

ép đến gần nhƣ khô cằn.

(thƣờng Thờ i bấy giờ phong trào Thơ Mớ i nổi lên công kích thơ Đƣờ ng luâ ̣t

gọi là thơ cũ ) hết sƣ́ c ki ̣ch liê ̣t . Nhƣng Quách Tấn vẫn “Quyết giƣ̃ mô ̣t lòng thủ y chung vớ i nguồn cảm hƣ́ ng và lề lối sáng ta ̣o củ a mình” , ung dung làm thơ Đƣờng luâ ̣t. “Sau khi ngƣờ i đa ̣i diê ̣n cho thơ cổ điển trong thờ i tiền chiến là thi sĩ Tản Đà tƣ̀ trần, ông là ngƣờ i đô ̣c nhất đa ̣i diê ̣n cho thơ cổ điển trong thờ i hâ ̣u chiến . Và với mô ̣t nghê ̣ thuâ ̣t sáng tác trác luyê ̣n đô ̣c đá o, riêng biê ̣t củ a mình , ông đã có mô ̣t chỗ ngồi riêng biê ̣t trên thi đàn và trong văn ho ̣c sƣ̉ Viê ̣t Nam” [19].

+ Nhƣ̃ng tâ ̣p thơ tiêu biểu củ a Quá ch Tấ n: Năm 1939, Quách Tấn góp những bài thơ đã làm từ trƣớc cho xuất bản Một

tấm lò ng, nhà in Thụy Ký , Hà Nội xuất bản . Tản Đà viết lời Tựa [63,tr.7-9] và Hàn

Mặc Tử viết lờ i Ba ̣t [63,tr.89-93].

, Hà Nội Năm 1941, Quách Tấn cho ra tiếp Mùa cổ điển do nhà in Thu ̣y Ký

xuất bản, Chế Lan Viên viết lời Tƣ̣a vào đ ầu xuân năm 1941 [64,tr.9-16]. Tập thơ

sau đó đƣơ ̣c Nxb Tân Việt Sài Gòn tái bản năm 1960, bản in lần này giữ lại 29 bài

trong tâ ̣p cũ và có thêm 30 bài mới , đây là nhƣ̃ng bài đƣơ ̣c viết tƣ̀ năm 1945 đến năm 1956.

Năm 1965, ông cho ra mắ t Đọng bó ng chiều (bản in tại Paris , không ghi nhà

xuất bản). Tâ ̣p thơ gồm 108 bài thất tuyệt chọn lọc trong số thơ làm từ xuân 1941

đến xuân 1958. So vớ i Mùa cổ điển, tâ ̣p thơ này có cách kiến trú c công phu , già dặn và mới m ẻ hơn. Tuy vâ ̣y , nô ̣i dung thi phẩm đã chƣ́ ng tỏ ông vẫn giƣ̃ bản sắc củ a mình không chịu ảnh hƣởng của thời đại , trƣớ c sau ông cũng chỉ là ông , mô ̣t nghê ̣ sĩ. Chính đây là điều độc đáo của Quách Tấn , nó đã khiến ông giữ mộ t tƣ thế riêng

biê ̣t trên thi đàn Viê ̣t Nam . Trƣớ c khi đổi tên thành Đọng bó ng chiều , bản thảo tập thơ này có nhan đề là Lá mã tiền. Có sự thay đổi nhan đề tập thơ , nhƣ chính Quách Tấn cho biết ở Lời nói đầu củ a tâ ̣p thơ : “Tâ ̣p thơ này gồm 108 bài thất tuyệt . Mô ̣t

bài rút ở Một tấm lò ng, sáu bài trích ở Mùa cổ điển, mô ̣t trăm bài cho ̣n trong số thơ

làm từ xuân 1941 đến xuân 1958. Trƣớ c kia lấy tên là Lá mã tiền do mô ̣t trong

nhƣ̃ng bài tuyê ̣t cú đầ u tiên có câu “Theo thờ i hoa cỏ đua mà u thắ m ; Ngậm đắ ng

31

riêng đôi khó m Mã Tiền” . Nhƣng khi đem ra sắp xếp la ̣i , nhâ ̣n thấy tên sá ch không nói trọn niềm Thơ, bèn đổi lại là Đọng bó ng chiều cho hơ ̣p tình, hơ ̣p cảnh”.

Năm 1966, ông cho ấn hành Mộng Ngân Sơn gồm 135 bài ngũ ngôn tuyệt cú , làm từ 1947 đến 1965. Ngân Sơn là đi ̣a danh mô ̣t xã miền nú i tỉnh Phú Yên , nơi mà em trai củ a ông là Quách Ta ̣o (Quách Kiến Đạo ) đã ở trong nhƣ̃ng ngày tản cƣ

, thảnh

(1947). Tâ ̣p thơ do nhà xuất bản Hoa Nắng , số 8, Guy de la Brosse , Paris 5e, xuất bản. Qua thi phẩm , ông cũng vẫn tƣ̣ ta ̣o cho mình mô ̣t nếp sống riêng biê ̣t thơi, vƣơ ̣t khỏi nhƣ̃ng vƣơng vấn xích xiềng củ a xã hô ̣i đang xáo trô ̣n , phân hóa... và xác định thêm sự chọn lựa của mình trên thi đàn.

Năm 1973, nhà xuất bản Rừng Trúc (Paris) in lần thƣ́ nhất tâ ̣p Giọt trăng nhân dịp Tết Quý Sửu . Ấn bản gồm 60 bài thơ ngũ tuyệt (rút trong một số 100 bài sáng

(viết ở tác tro ng thờ i gian tƣ̀ 1966-1972). Trong lờ i Tƣ̣a Nhìn ngắm giọt trăng

Paris), Thi Vũ đã đánh giá rất cao tâ ̣p thơ này “thi nhân nhƣ bƣớ c xa vào cõi Nhƣ Nhiên hù ng vĩ” [68,tr.17], chỉ mới nhìn tập thơ in trên giấy Tuyết đào , bìa in trên giấy Trú c non , mà khi cầm đến , ngƣờ i đo ̣c đã cảm thấy ngay sƣ̣ êm di ̣u , chỉ muốn

nâng niu.

Hai tâ ̣p thơ tiếp theo , Vui vớ i trẻ em (1994) và Trăng hoà ng hôn (1999) đều do

Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh in và phát hành.

Về thơ di ̣ch , năm 1973, Quách Tấn cho xuất bản một tập thơ dịch Tố Nhƣ thi

trích dịch (dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du ). Tâ ̣p thơ này , trƣớc 1975, Ban Hán

Nôm của Trƣờng Đại học Văn khoa Sài Gòn dùng làm tài liệu học tập và nghiên

cứu cho sinh viên . Sau giải phóng, tập thơ đƣơ ̣c Nhà xuất bản Văn ho ̣c , Hà Nội, tái

bản năm 1995. Nhà thơ còn trích dịch thơ của Thái Thuận (hiệu là Lã Đƣờng, ông

từng là Tao đàn Sái phu trong hội Tao đàn do Lê Thánh Tông thành lập vào cuối t hế kỷ XV): Lƣ̃ Đƣờ ng thi tuyển di ̣ch, Nxb Văn ho ̣c, Hà Nội, 2000.

+ Nhƣ̃ng tá c phẩ m thơ khá c củ a Quá ch Tấ n: Nhƣ̃ng tác phẩm sau đều chƣa xuất bản (tƣ liê ̣u do gia đình nhà thơ cung cấp). - Viết tƣ̀ năm 1955 đến 1975: 1. Vị la phù (1956) Thơ ngẫu chiếm làm trong lú c rảnh để mua vui 2. Tiếng và ng khô (1972) Thể thơ Đƣờ ng luâ ̣t thất ngôn 3. Nhánh lục (1972) Thơ lu ̣c bát

32

4. Mây cổ thá p (1973) Thơ ngũ ngôn bát cú 5. Cánh chim thu (1975) Thơ ngũ ngôn và thất ngôn bát cú

- Viết tƣ̀ 1976 đến 1986: 1. Nƣ̉ a rƣ̀ ng trăng lạnh (1976) Thơ lu ̣c bát

2. Trăng hoà ng hôn (1977) Thơ lu ̣c bát tƣ́ tuyê ̣t

3. Giàn hoa lý (1979) Thơ lu ̣c bát tƣ́ tuyê ̣t

4. Phấn bƣớ m cò n vƣơng (1983) Thơ thất ngôn bát cú 5. Trăm thiên Đƣờ ng luật Thơ thất ngôn luâ ̣t tuyển cho ̣n trong các tâ ̣p thơ .

- Viết tƣ̀ 1987 đến 1992: 1. Móc đọng tàu cau Thơ thất ngôn luâ ̣t

2. Ao đắ p tâm tƣ Thơ thất ngôn luâ ̣t

3. Xuân còn rơi rớt (1992) Thơ thất ngôn luâ ̣t

+ Thơ di ̣ch và văn biền ngẫu (1955-1975) chƣa xuấ t bả n: 1. Viê ̣t Nam Há n thi tuyển di ̣ch (dịch thơ cổ từ triều Đinh đến triều Nguyễn và

thơ Đƣờ ng - Tống)

2. Tập văn biền ngẫu: gồ m trên 15 bài văn tế, văn bia.

+ Tác phẩm văn xuôi:

Năm 1942, ông cho in tâ ̣p văn xuôi Trăng ma lầu Viê ̣t . Tác phẩm này đƣợc

Nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2003. Đây là tập truyện ngắn theo thể truyền kỳ , đƣợc

tác giả viết phỏng theo tâ ̣p Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.

Trong thờ i gian này , tâ ̣p Duyên Tiên hoàn tất , cũng thuộc thể truyền kỳ , viết

phỏng theo tập Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm.

Năm 1958 đến 1960, xuất bản 4 tâ ̣p Nghìn lẻ một đêm, chuyê ̣n cổ nƣớ c Ả Râ ̣p , viết phỏng theo Mille et une nuits của Galland và Mille nuits et nuit của Mardrus.

Năm 1994, 04 tâ ̣p Nghìn lẻ một đêm đƣơ ̣c tái bản.

Năm 1968, xuất bản tâ ̣p đi ̣a phƣơng chí Nƣớ c non Bình Đi ̣nh. Năm 1969, xuất bản tập Xƣ́ Trầm hƣơng , đây là công trình biên khảo về đi ̣a phƣơng chí tỉnh Khánh Hòa . Sau đó đƣơ ̣c tái bản vào các năm 1992, 2002 bở i Hô ̣i Văn ho ̣c Nghê ̣ thuâ ̣t tỉnh Khánh Hòa.

33

Hai tâ ̣p Nƣớ c non Bình Đi ̣nh và Xƣ́ Trầm hƣơng đƣơ ̣c đông đảo đô ̣c giả và các nhà nghiên cứu ngợi ca và đánh giá Quách Tấn không chỉ có tài năng ở thơ mà cò n lỗi la ̣c về biên khảo văn hoá nƣ̃a.

Năm 1971, tâ ̣p truyê ̣n ký trích trong tâ ̣p hồi ký Bóng ngày qua của Quách Tấn

đƣơ ̣c xuất bản. Tâ ̣p này viết về Đời Bích Khê.

Năm 1988, ông cho xuất bản 03 tâ ̣p văn xuôi:

- Nhà Tây Sơn (viết chung vớ i Quách Giao , ghi chép dƣ̣a theo nhƣ̃ng tài liê ̣u

của phụ thân ông để lại. Đây chỉ là mô ̣t số tƣ liê ̣u đƣơ ̣c cho ̣n lo ̣c, đƣơ ̣c sắp xếp có hê ̣ thống bằng lờ i văn thuâ ̣t chuyê ̣n giản di ̣, tƣ̣ nhiên và lôi cuốn ngƣờ i đo ̣c.

- Đôi né t về Hà n Mặc Tƣ̉ : Đây là cuốn hồi ký củ a tác giả ghi la ̣i nhƣ̃ng kỷ

niê ̣m cù ng lờ i giớ i thiê ̣u, bình giá về thơ Hàn Mặc Tử.

- Họ Nguyễn thôn Vân Sơn giớ i thiê ̣u thân thế và sƣ̣ nghiê ̣p văn chƣơng củ a ho ̣ Nguyễn thôn Vân Sơn gồm có cu ̣ tú Nguyễn Khuê (cha) và 4 ngƣời con là Nguyễn Bá Huân , Nguyễn Tro ̣ng Trí , Nguyễn Thú c Mâ ̣u , Nguyễn Quý Luân. Theo Quách Tấn, họ đều là những kẻ sĩ có chí khí và tài năng lỗi lạc của tỉnh Bình Định.

Nhƣ̃ng tá c phẩ m văn xuôi khá c chƣa xuấ t bả n: - Viết tƣ̀ năm 1955 đến 1975: 1. Hƣơng vƣờ n cũ: thi thoa ̣i nói về thơ văn cổ từ đờ i Trần đến đờ i Nguyễn. 2. Trong vƣờ n hoa thơ: thi thoại về thơ Đƣờng luật hiện tại.

3. Nhƣ̃ng bƣ́ c thƣ thơ: (tâ ̣p 1) nói về điển tích, giai thoa ̣i trong làng thơ. 4. Bƣớ c lãng du : ghi chép , giớ i thiê ̣u nhƣ̃ng thắng cảnh , cổ tích tƣ̀ Huế đến

Phan Rang.

5. Cảnh cũ còn đây : cổ tích li ̣ch sƣ̉ về Hà Nô ̣i , Huế và Ngũ Hành sơn ở Đà

Nẵng.

6. Nhƣ̃ng mảnh gƣơng xƣa: (3 tâ ̣p) ghi chép nhƣ̃ng truyê ̣n củ a Trung Hoa .

7. Nghìn lẻ một đêm: (4 tâ ̣p) dịch thuật (tiếp theo bốn tâ ̣p đã xuất bản).

8. Bóng ngày qua: (15 tâ ̣p hồi ký).

9. Trăng ma lầu Viê ̣t: (tâ ̣p 2)

10. Đôi né t về Đà o Tấn (nhuâ ̣n sắc truyê ̣n ký củ a Quách Giao )

- Viết tƣ̀ năm 1976 đến 1986: 1. Nhƣ̃ng bƣ́ c thƣ thơ (tâ ̣p 2): ghi la ̣i nhƣ̃ng điển tích, giai thoa ̣i trong văn thơ.

34

2. Hƣơng phấn nà ng Hƣơng (2 tâ ̣p) nói về các bài thơ luật có giá trị bị bỏ quên

của Việt Nam.

3. Thƣ gƣ̉ i cá c bạn ham đọc thơ Đƣờ ng luật: viết về phép làm thơ Đƣờ ng luâ ̣t. 4. Luật thơ sơ yếu: viết về phép làm thơ Đƣờ ng luâ ̣t.

5. Linh Phong tam kiê ̣t : viết về hành tra ̣ng củ a ba bậc chí sĩ yêu nƣớc chống

Pháp là Mai Xuân Thƣở ng, Tăng Ba ̣t Hổ , Võ Trứ.

6. Dạo quanh hý trƣờng: chuyê ̣n vui về hát bô ̣. 7. Lƣợc thuật tuồng cổ há t bội: của Đào Tấn và các tác giả khác. 8. Bát canh tập tàng: ghi chép nhƣ̃ng chuyê ̣n linh tinh.

9. Tà bá nạp: ghi chép nhƣ̃ng chuyê ̣n linh tinh. 10. Nhƣ̃ng giấc mộng không mê: chép lại những giấc mộng thú vị.

11. Ghi dấu thờ i gian (tâ ̣p 1)

Hai tập Thƣ gƣ̉ i cá c bạn ham đọc thơ Đƣờ ng luật và Luật thơ sơ yếu sau này

đƣợc biên tập lại, cho xuất bản với nhan đề là Thi pháp thơ Đƣờng, Nxb Trẻ, 1998.

- Năm 1987 mắt bi ̣ hỏ ng, không đo ̣c đƣơ ̣c, nhƣng ông vẫn tiếp tu ̣c viết: 1. Vang bó ng phong trà o Cần vƣơng tỉnh Khá nh Hò a. 2. Lƣớ t qua 40 năm thơ văn tỉnh Khá nh Hò a (tƣ̀ 1935 đến 1975). 3. Hoàn tất Ghi dấu thờ i gian (tâ ̣p 2).

+ Nhƣ̃ng bài viết củ a Quá ch Tấ n đã đƣơ ̣c in trên cá c bá o: An Nam tạp chí (Hà Nội), Tiếng Dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), Tràng An (Huế), Lành mạnh (Huế), Sông Hƣơng (Huế), Liên Hoa (Sài Gòn), Trầm hƣơng

(Nha Trang), Tạp chí Nha Trang (Hô ̣i Văn ho ̣c Nghê ̣ thuâ ̣t tỉnh Khánh Hòa ), Báo Khánh Hòa Chủ nhật , Lao động Chủ nhật (Sài Gòn), Tuổi trẻ cƣờ i (Sài Gòn), Sài Gòn Giải phóng, Văn nghê ̣ Thà nh phố Hồ Chí Minh, Ngƣờ i Bình Đi ̣nh ...

Qua nhƣ̃ng tƣ liê ̣u do gia đình thi sĩ cung cấp , chúng tôi đã thống kê đƣơ ̣c nhƣ trên, từ đó, có thể khẳng định rằng Quách Tấn không chỉ là một nhà thơ nổi tiế ng

mà còn là một nhà văn, nhà dịch thuật, nhà biên khảo văn hoá xuất sắc. Ông là mô ̣t

tác giả thành công ở nhiều thể loa ̣i văn học.

1.1.3. Quách Tấn với nhóm “Bàn Thành tứ hữu”

“Bàn Thành tƣ́ hƣ̃u” có nghĩa là bốn ngƣờ i ba ̣n ở thành Đồ Bàn. Đồ Bàn là địa

danh, tên kinh đô củ a vƣơng quốc Chămpa ngày xƣa , khi bi ̣ quân dân Đa ̣i Viê ̣t đời

35

Lê Thánh Tông đánh ba ̣i, quốc vƣơng Chămpa phải bỏ kinh đô Trà Kiê ̣u cù ng thánh

đi ̣a Mỹ Sơn (Quảng Nam) để vào đây lập kinh đô mới . Đi ̣a danh Đồ Bàn thuô ̣c tỉnh Bình Định ngày nay , nằm ở ngoa ̣i ô thành phố Quy Nhơn . Đây là mô ̣t danh xƣng mà các bạn yêu văn chƣơng ở Bình Định , trong đó có Trần Thống ở thôn Kiê ̣n Mỹ huyê ̣n Bình Khê , tă ̣ng cho bốn nhà thơ tiền chi ến thân yêu nhau nhƣ anh em ruột đang sinh sống và sáng tác ta ̣i Bình Đi ̣nh là : Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Nhƣ̃ng ngƣờ i ấy còn dù ng bô ̣ Tƣ́ linh: long, lân, quy, phụng để đặt tên

cho tƣ́ hƣ̃u: Hàn Mặc Tử là Rồng; Chế Lan Viên là Phụng; Yến Lan là Lân; Quách Tấn là Rùa. Quách Tấn cho rằng “tuy đă ̣t bổn để mua vui , song bốn linh vâ ̣t kia đã nói lên một cách khái quát chính xác cuộc đời của tứ hữu về mặt vật chất cũng nhƣ

về mă ̣t t inh thần” [71]. Cần lƣu ý là nhóm Bàn Thành tứ hữu này có khác với

Trƣờng thơ loạn với tuyên ngôn sáng tác cụ thể, mà Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử là

những ngƣời chủ xƣớng, trong khi đó thì Quách Tấn không tham gia Trƣờng thơ

loạn này.

1.1.4. Quách Tấn: nhà thơ thuỷ chung với thơ cách luật

Trƣớc năm 1945, Quách Tấn đã cho xuất bản hai tập thơ: Một tấm lòng (1939)

và Mùa cổ điển (1941). Đây là hai tâ ̣p thơ tiêu biểu cho sự tiếp nối cái cũ và hô ̣i nhâ ̣p cái mớ i, đƣơ ̣c Hoài Thanh và Hoài Chân định vị trong Thi nhân Viê ̣t Nam. Một

tấm lòng có 74 bài, trong đó có 67 bài Đƣờng luật (10 bài thất ngôn tứ tuyệt, 04 bài

ngũ ngôn tứ tuyệt, 53 bài thất ngôn bát cú), còn lại 07 bài các thể thơ khác (01 bài

thất ngôn trƣờng thiên, 05 bài lục bát, 01 bài ca theo lối kết hợp ngũ ngôn, tứ ngôn

và lục bát). Mùa cổ điển , có 36 bài thì có 34 bài thơ Đƣờng luật (28 bài thất ngôn

bát cú; 06 bài thất ngôn tuyệt cú), còn lại là 02 bài lục bát. Nếu Một tấm lòng chƣa

đƣợc đánh giá cao thì đến Mùa cổ điển, tập thơ và tác giả đƣợc bạn đọc, nhà phê

bình nồng nhiệt tán thƣởng và “Làng Thơ Mớ i tƣ̣ mình mở cƣ̉ a đón mời mô ̣t ngƣờ i cũ. Họ không nói chuyện hơn thua nữa . Thƣ̣c hành mô ̣t ý kiến phát biểu ra tƣ̀ trƣớ c , họ nhã nhặn bỏ luôn cái danh hiê ̣u Thơ Mớ i; tƣ̀ nay thơ ho ̣ chỉ go ̣i là Thơ” [74,tr.39- 40]. Mùa cổ điển đƣơ ̣c mê ̣nh danh là hồn thơ Đƣờ ng trong thơ Viê ̣t và là điểm ga ̣ch nối cách tân giƣ̃a thơ cũ và Thơ Mớ i, mà Hoài Thanh đã cho rằng “một tập thơ cũ

đã khép lại một thời đại trong thi ca” [74,tr.28 và tr.39].

36

Văn Chắc hẳn Quách Tấn cũng đã thấm nhuần tƣ tƣở ng củ a Lƣu Hiệp trong

tâm điêu long: “Tâm thuâ ̣t ảnh hƣở ng rất xa , tình cảm và tƣ tƣởng của văn chƣơng

biến đổi rất sâu . Cái nguồn mà kín đáo thì nƣớc sạch sinh ra ; cái gốc mà vững chắc

thì cái ngọn dồi dào. Cái đẹp của văn có khác nhau . Có cái đẹp lồ lộ (tú), có cái đẹp

kín đáo (ẩn). Đó là cái ý quan tro ̣ng ở ngoài lờ i văn . Cái đẹp kín đáo (ẩn) lấy viê ̣c ý

sum suê làm công phu ; cái đẹp lồ lộ (tú) lấy viê ̣c trác tuyê ̣t làm khéo . Đấy cũng là

cái đẹp của văn chƣơng xƣa, là nơi gặp gỡ của tài năng và tƣ tƣởng” [23].

Giƣ̃a lú c các nhà thơ náo nƣ́ c trang bi ̣ cho mình thi tƣ́

, vần điê ̣u sao cho phù hơ ̣p vớ i ngo ̣n triều lãng ma ̣n , ca tu ̣ng tình yêu nồng cháy , đam mê , thì Quách Tấn lại tỏ lòng trung kiên với lối thơ xƣa , nhƣ quyết giƣ̃ cho trọn vẹn chung thủy với

hình ảnh huy hoàng của thời quá khứ, những đƣờng nét cổ điển của Đƣờng thi.

Quách Tấn thƣờng nói: “Trong thơ cũng nhƣ trong đời, tôi chỉ cƣời bằng tiếng cƣời

của tôi, chỉ khóc bằng nƣớc mắt của tôi và những gì đã ra nơi miệng, nơi bút tôi đều

xuất phát từ đáy lòng. Ở đời tôi luôn luôn giữ chữ Thành và chữ Tín. Làm thơ, đức

thành tín lại càng quý trọng bội phần” [71]. Là nhà thơ rất chung thủy với thơ

Đƣờng luật, nhƣng ý và tứ trong thơ ông vẫn rất mới, nên không lỗi thời với tiến

trình phát triển của thơ Việt.

Có một số nhà thơ nhƣ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đông Hồ… ban đầu sáng tác

theo các thể thơ cũ, chủ yếu là Đƣờng luật, nhƣng trƣớc phong trào Thơ Mới phát

triển, công kích thơ cũ, thì họ đã rời bỏ thể thơ cũ để sáng tác theo thể Thơ Mới.

Hàn Mặc Tử từ năm 1930 với bút hiệu là Minh Duệ Thị, Lệ Thanh, Phong Trần đã

nổi danh với các bài thơ Đƣờng nhƣ Thức khuya, Chùa hoang, Gái ở chùa,... đã

từng đƣợc cụ Phan Bội Châu ngợi khen trên báo. Đến năm 1936 lại nổi danh với tập

thơ Gái quê, một tập Thơ Mới nhƣng trong đó vẫn có một số bài thơ Đƣờng luật.

Bích Khê đã nổi danh với những bài thơ cũ trên báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn…

đến năm 1937 khi quen với Hàn Mặc Tử thì Bích Khê chuyển hƣớng sáng tác theo

thể Thơ Mới để hai năm sau (1939) cho xuất bản tập Tinh huyết, đƣợc Hàn Mặc Tử

viết Tựa. Đông Hồ và Mộng Tuyết cũng từ bỏ thể thơ cũ mà sáng tác theo thể Thơ

Mới. Cần nói thêm rằng, Hàn Mặc Tử và Bích Khê đều là bạn thân với Quách Tấn.

Cả ba đều nổi danh trong lĩnh vực thơ Đƣờng luật. Nếu về sau Hàn Mặc Tử và Bích

Khê sáng tác theo thể Thơ Mới, thì chỉ riêng mỗi mình Quách Tấn kiên trì ở lại với

37

thơ Đƣờng luật, nhƣng ông đã làm phong phú thêm về hình thức lẫn nội dung cho

thể thơ cũ với lời thơ trau chuốt, ý thơ giàu sang và đã đƣợc văn học sử Việt Nam

dành cho một chỗ ngồi trên Tao đàn. Nhà thơ không lên tiếng trên thi đàn để bênh

vực cho thơ cũ và cũng nhƣ không bài xích Thơ Mới, ông chỉ lặng lẽ phát huy cái

cao đẹp của thơ Đƣờng luật để làm phong phú và giàu sang hơn cho Thơ Mới.

Những ngƣời yêu mến thơ Đƣờng luật vẫn tìm đƣợc hứng thú trong thơ Quách

Tấn. Những ngƣời thích cái mới trong Thơ Mới vẫn tìm đƣợc hƣơng vị nồng thắm,

mới mẻ trong thơ Đƣờng luật của Quách Tấn. Trong bài Tựa của tập thơ Một tấm

lòng, thi sĩ Tản Đà đã đặt thơ Quách Tấn ngang với thơ của Yên Đổ, Hồ Xuân

Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan. Nhà thơ Chế Lan Viên đã thừa nhận thơ của Quách

Tấn có những câu thơ đẹp nhất trong những câu thơ đẹp nhất Việt Nam. Hoài

Thanh cũng đã viết: “Quách Tấn đã tìm đƣợc những lời thơ rung cảm chúng ta một

cách thấm thía. Ngƣời đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trƣờng của

nhiều ngƣời trong làng thơ cũ” [74,tr.268]. Thơ của Quách Tấn gồm đƣợc cái uyên

thâm, trong sáng của thơ Đƣờng, cái giản dị hồn nhiên của ca dao Việt Nam và

những rung cảm thiết tha của Thơ Mới. Ở thơ ông là sự hòa hợp trọn vẹn giữa cũ và

mới.

Để hiểu rõ hơn về Quách Tấn - ngƣời thủy chung với thể thơ cách luật, thiết

nghĩ cũng nên điểm qua ảnh hƣởng của Đƣờng thi trong thơ của ông.

1.1.5. Ảnh hƣởng thơ Đƣờng đối với thơ Quách Tấn

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân viết: “Đêm đã khu ya, tôi

ngồ i mô ̣t mình xem thơ Quách Tấn . Ngoài kia có lẽ trăng sáng lắm . Nhƣng trờ i về thu, khí trời lạnh lạnh , cƣ̉ a sổ trên bàn viết đóng kín . Ngọn nến trên bàn tỏa ra một bầu ánh sáng chỉ đủ sáng chỗ tôi ngồi . Chung quanh tối cả . Tối và im . Mô ̣t thƣ́ im lă ̣ng dày đă ̣c. Trong ấy có muôn ngàn thƣ́ tiếng ta không nghe . Lúc này chính là lúc xem thơ xƣa. Tôi lắng lòng tôi để đón mô ̣t sƣ́ giả đờ i Đƣờ ng , đờ i Tống. Đời Đƣờng mớ i có cái âm u ấy” [74,tr.267].

Nhƣ̃ng lờ i “tâm sự” củ a tác giả Thi nhân Việt Nam đã chỉ cho ngƣờ i đo ̣c thấy đƣợc cái hồn thơ mang âm hƣởng Đƣờng thi củ a Quách Tấn . Điều này thể hiê ̣n rất rõ ở bài thơ: “Đêm thu nghe quạ kêu”:

Tƣ̀ Ô Y hạng rủ rê sang,

38

Bóng lẫn đêm thâu bỗng rộn rà ng.

Trờ i bến Phong Kiều sƣơng thấp thoá ng, Thu sông Xích Bích nguyê ̣t mơ mà ng. Bồn chồn thƣơng kẻ nƣơng song bạc,

Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.

Tiếng dội lƣng mây đồng vọng mãi,

Tình hoang mang gợi tứ hoang mang…

Đo ̣c kỹ bài thơ, đă ̣c biê ̣t là ba tƣ̀ đầu tiên “Ô Y hạng” làm ta liên tƣởng đến bài

Ô Y hạng của Lƣu Vũ Tích đời Đƣờng:

Chu Tƣớ c kiều biên dã thảo hoa, Ô Y hạng khẩu ti ̣ch dƣơng tà . Cƣ̣u thờ i Vƣơng, Tạ đƣờng tiền yến, Phi nhập tầm thƣờ ng bá ch tính gia. (Cỏ hoa dại bên cầu Chu Tƣớc,

Ngõ Ô Y lƣớt thƣớt nắng tà.

Én lầu Vƣơng, Tạ xƣa xa,

Bây giờ bay đậu và o nhà thƣờ ng dân.)

(Đinh Ngo ̣c Vũ di ̣ch)

Mô ̣t câu hỏi đƣơ ̣c đă ̣t r a ở đây, tại sao tác giả lại nghĩ rằng quạ “Tƣ̀ Ô Y hạng

rủ rê sang”?. Trong khi bài “Ô Y hạng” không hề nói đến qua ̣, mà là “ngõ Áo đen /

xóm Áo đen” (Ô: màu đen). Từ màu đen, nhà thơ liên tƣởng đến con quạ (quạ có bộ

lông đen tuyền), tức dùng điển theo lối liên tƣởng – cảm giác. Quách Tấn từng nói:

“tôi dù ng điển “Ô Y” trong bài “Đêm thu nghe quạ kêu” không phải vì vô ý hoă ̣c dốt điển , mà chính vì có sở do ” [71]. Cái sở do kia phải chăng do bài thơ “Ô Y hạng” ám ảnh và chi phối suy tƣ của ông?

Bốn câu thơ thƣơ ̣ng giải:

Tƣ̀ Ô Y hạng rủ rê sang

Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng

Trờ i bến Phong Kiều sƣơng thấp thoá ng Thu sông Xích Bích nguyê ̣t mơ mà ng”

39

Lờ i thơ hay, cảnh thu đẹp , ý thơ mang phong vị Đƣờng thi. Ngoài bài thơ của

Lƣu Vũ Tích vừa nêu, ý thơ của Quách Tấn còn khiến ngƣời đọc liên tƣở ng đến bài

“Phong Kiều dạ bạc “ củ a Trƣơng Kế đời Đƣờng:

Nguyê ̣t lạc ô đề sƣơng mãn thiên,

Giang phong ngƣ hỏa đối sầu miên.

Cô Tô thà nh ngoại Hàn Sơn tự,

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

(Trăng tà chiếc quạ kêu sƣơng,

Lƣ̉ a chà i cây bến, sầu vƣơng giấc hồ .

Thuyền ai đậu bến Cô Tô,

Nƣ̉ a đêm nghe tiếng chuông chù a Hà n Sơn.)

( Ngô Tất Tố di ̣ch)

Tƣ̀ mô ̣t câu thơ mở đầu trong bài Phong Kiều dạ bạc của Trƣơng Kế “nguyê ̣t

lạc, ô đề , sƣơng mãn thiên” đã đƣơ ̣c Quách Tấn khéo léo ph át triển thành bốn câu

đầu trong bài thơ của ông.

Vớ i hai tƣ̀ “ô đề”, Quách Tấn viết thành hai câu:

“Tƣ̀ Ô Y hạng rủ rê sang, Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.”

Ba tƣ̀ “sƣơng mãn thiên” đã đƣợc nhà thơ phát triển thành câu thứ ba:

“Trờ i bến Phong Kiều sƣơng thấp thoá ng,” Hai tƣ̀ “nguyê ̣t lạc” đã đƣơ ̣c Quách Tấn phát triển thành câu thƣ́ tƣ: “Thu sông Xích Bích nguyê ̣t mơ mà ng.” Rồi đến hai câu luâ ̣n:

“Bồn chồn thƣơng kẻ nƣơng song bạc,

Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?”

Chính Hoài Thanh nhận xét “ta có thể lơ đãng không thấy rõ sƣơng trên bến Phong Kiều, trăng trên dòng Xích Bích . Không thấy cả cái giếng sầu ru ̣ng . Nhƣng sắc vàng kia! Cái sắc vàng trong giây phút chiếu sáng cả trời thơ !” [74,tr.268].

Hai câu luận của bài thơ la ̣i gơ ̣i cho ta nghĩ đến mô ̣t bài thơ khác c ó liên quan

đến tiếng quạ kêu. Đó là bài Ô dạ đề của vị thi Tiên Lý Bạch đời Đƣờng:

“Hoà ng vân thà nh biên ô dục thê,

40

Quy phi “á , á”chi thƣợng đề. Cơ trung chƣ́ c cẩm Tần Xuyên nƣ̃ , Bích sa nhƣ yên cách song ngƣ̃. Đình hoa trƣớ ng nhiên tƣ vãn nhân,

Độc túc cô phòng lệ nhƣ vũ.”

(Mây và ng tiếng quạ bên thà nh,

Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu.

Tần Xuyên cô gá i buồng thêu,

Song sa khó i toả nhƣ khơi chuyê ̣n ngoà i.

Dƣ̀ ng thoi buồn bã nhớ ai, Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mƣa.)

(Tản Đà dịch)

Nhƣ vâ ̣y, ý của hai câu thơ trên của Quách Tấn giống nhƣ ý tƣởng ba câu cuối

trong bài thơ củ a Lý Ba ̣ch . Dù rằng về cách biểu đạt thì Lý Bạch sử dụng phƣơng thƣ́ c kể, còn Quách Tấn lạ i sƣ̉ du ̣ng phƣơng thƣ́ c cảm, song ý thơ vẫn tƣơng tƣ̣ , qua hai nhau. Cái ý tƣởng này còn đƣợc Quách Tấn sử dụng một lần nữa sát hơn

câu kết trong bài Đêm tình:

“Phò ng không thƣơng kẻ ngồi nƣơng triê ̣n,

Tình gửi mây xa lệ ngập ngừng.”

Có thể nói ý tƣở ng trong bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn đã bắt nguồ n lần lƣơ ̣t tƣ̀ ba bài thơ nổi tiếng đờ i Đƣờ ng . Tƣ̀ đó thấy rằng lờ i nhâ ̣n xét củ a Hoài Thanh về hồn thơ Quách Tấn nhƣ đã nêu ở trên là hoàn toàn chính xác. 1.2. XÁC LẬP MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT

1.2.1. Khái niệm: Thơ Đƣờng, Thơ Đƣờng luật, Thơ Đƣờng luật Việt Nam

Trong một vài tài liệu trƣớc đây, có nhà nghiên cứu đã nhầm lẫn, đồng nhất hai

khái niệm „Thơ Đƣờng‟ và „thơ Đƣờng luật‟ nhƣ Lạc Nam trong công trình Tìm

hiểu các thể thơ, Nxb Văn học, HN, 1995, khi ông cho rằng: “Thơ Đƣờng luật

thƣờng gọi tắt là thơ Đƣờng” [sđd,tr.108]; hay Phạm Huy Toại trong Đƣờng luật

chỉ nam, xuất bản 1952, đã đồng nhất „thơ Đƣờng luật‟ với „luật thi‟ [sđd,tr.5];

trong cuộc tranh luận giữa hai phái Mới và Cũ, trong khi phái Mới gọi thơ cũ với

ám chỉ là „thơ Đƣờng luật‟, thì phái Cũ ít nhiều đã đánh đồng nó với „thơ cổ điển‟.

41

Rõ ràng, do không nắm chắc lý thuyết về thể loại và dùng theo thói quen nên

Lạc Nam và Phạm Huy Toại đã nhầm lẫn, hiểu sai lạc về khái niệm. Còn phái Cũ

đánh đồng „thơ Đƣờng luật‟ với „thơ cổ điển‟ có thể là do thơ Đƣờng luật có sự gắn

kết và giữ vị trí gần nhƣ là độc tôn trong gần mƣời thế kỷ văn học trung đại, nên

trong một chừng mực nào đó, „thơ Đƣờng luật‟ đã đại diện cho „thơ cổ điển‟ ở góc

độ thể loại, cho nên dẫn đến tâm lý hễ nhắc đến „thơ cổ điển‟ thì ngƣời ta nghĩ ngay

đến „thơ Đƣờng luật‟ và ngƣợc lại. Đó là lý do mà luận văn cần giới thuyết lại khái

niệm „thơ Đƣờng‟ và „thơ Đƣờng luật‟.

1.2.1.1. Thơ Đường

Theo Từ điển văn học bộ mới (2004) và theo Văn học Trung Quốc tập 1, giáo

trình ĐHSP (1987) thì „Thơ Đƣờng‟ là khái niệm chỉ toàn bộ thơ ca đƣợc sáng tác

trong đời Đƣờng (618-907). Đời Đƣờng với gần 300 năm là thời đại hoàng kim của

lịch sử phát triển thơ ca trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu

đã đúc kết: “Hán phú, Đƣờng thi, Tống từ, tiểu thuyết Minh - Thanh”, đó là những

thành tựu các thể loại đạt đỉnh cao của văn học Trung Quốc, trong đó có Đƣờng thi

(thơ Đƣờng). Một thời đại thi ca phát triển rực rỡ với nội dung rất phong phú, nghệ

thuật rất đa dạng, đƣợc bảo tồn trong bộ Toàn Đƣờng thi (Toàn tập thơ Đƣờng)

khắc in dƣới đời Thanh, với 48.900 bài của hơn 2.300 tác giả.

Bên cạnh thơ là thể loại đạt thành tựu rực rỡ nhất, thì trong văn học đời Đƣờng

các thể loại khác cũng có những đóng góp đáng kể nhƣ: Tiểu thuyết truyền kỳ, Biến

văn, Từ, Phú…

Nhƣ vậy, khái niệm „thơ Đƣờng‟ chính là „thơ đời Đƣờng‟, mà thơ đời Đƣờng

bao hàm các thể: thơ cổ phong (cổ thể), thơ cận thể (Đƣờng luật), nhạc phủ (có ý

kiến cho rằng nhạc phủ là một dạng của cổ phong và tân nhạc phủ là một dạng của

Đƣờng luật).

1.2.1.2. Thơ Đường luật

Theo Từ điển văn học bộ mới (2004) thì „thơ Đƣờng luật‟ còn gọi là „thơ cận

thể‟ hay „thơ cách luật‟. Đây là thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn với luật lệ

mang tính quy phạm đƣợc đặt ra từ đời Đƣờng ở Trung Quốc. Thơ Đƣờng luật có

ba dạng chính: bát cú (mỗi bài tám câu, còn gọi là luật thi), tứ tuyệt hay tuyệt cú

(mỗi bài bốn câu) và bài luật (dạng kéo dài của thơ Đƣờng luật). Trong đó, thơ bát

42

cú, nhất là thất ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ) đƣợc coi là dạng cơ

bản, vì từ nó, có thể suy ra các dạng khác [24,tr.1690]. Thể thơ này đòi hỏi ngƣời

sáng tác phải tuân thủ theo những luật lệ quy định có tính nghiêm cách, ngặt nghèo

của thể loại nhƣ: niêm, luật, vần, đối; nếu không tuân thủ những quy định trên thì sẽ

dẫn đến: thất niêm, thất luật, lạc vận, khổ độc v.v..

Nhƣ vậy, thơ Đƣờng luật là một thể loại của thơ, mà thể loại này với những

luật lệ mang tính quy phạm đƣợc đặt ra từ đời Đƣờng, chứ nó không phải là thơ của

một thời đại, một loại hình hay một trào lƣu thơ ca. Về tính quy phạm của thể thơ

cách luật này sẽ đƣợc luận văn trình bày ở mục 1.2.2.

Điều cần lƣu ý không nên đánh đồng hai khái niệm „thơ Đƣờng luật‟ với „thơ

Đƣờng‟ nhƣ trƣớc đây có vài nhà nghiên cứu đã ngộ nhận, mà ở trên luận văn có

nêu.

Cũng không thể nhầm nó với „luật thi‟, vì „luật thi‟ là khái niệm dùng để chỉ

thể thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật, là một thể của thơ Đƣờng luật. Điều này, hai

nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong công trình Thơ ca Việt

Nam: hình thức và thể loại đã chỉ rõ: “Tính theo số câu trong bài, thơ cách luật chia

làm ba thể: thể tiểu luật gọi là tuyệt cú (tứ tuyệt), thể luật thi gọi là bát cú, thể bài

luật” [48,tr.279]

1.2.1.3. Thơ Đường luật Việt Nam

„Thơ Đƣờng luật Việt Nam‟ là một thể thơ do ngƣời Việt Nam sáng tác trên cơ

sở tiếp thu thể thơ Đƣờng luật của Trung Quốc.

Xét về ngôn ngữ văn tự, thơ Đƣờng luật Việt Nam bao gồm: thơ Đƣờng luật

bằng chữ Hán, thơ Đƣờng luật bằng chữ Nôm, thơ Đƣờng luật bằng chữ Quốc ngữ.

Xét về số lƣợng câu trong bài, thơ Đƣờng luật Việt Nam bao gồm: tứ tuyệt, bát cú

và bài luật. Xét về số lƣợng chữ trong câu, thơ Đƣờng luật Việt Nam bao gồm: ngũ

ngôn, thất ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn.

Về căn bản, thơ Đƣờng luật Việt Nam, khi sáng tác, các nhà thơ đã tuân thủ

theo những luật lệ quy định đƣợc đặt ra từ đời Đƣờng Trung Quốc, kể cả những bài

thất ngôn xen lục ngôn.

1.2.2. Những tiêu chí xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật

1.2.2.1. Khái niệm “Mã nghệ thuật”

43

Mã trong “mã nghệ thuật” (art code) cần đƣợc hiểu nhƣ là mã khóa, chìa khóa,

mật mã để mở cửa ngôi nhà nghệ thuật, nó hàm chứa nét đặc trƣng, nét riêng, nét bí

mật làm nên đối tƣợng. Vẫn là thơ Đƣờng luật nhƣng thơ của Quách Tấn khác thơ

Đƣờng luật của nhà nho ra sao về các mặt nội dung và nghệ thuật, đó là vấn đề của

mã nghệ thuật. Thơ Đƣờng luật thƣờng nói chí tải đạo, ngay thơ của các câu lạc bộ

thơ hiện nay vẫn nhƣ vậy. Song thơ Đƣờng của Quách không liên quan đến nói chí

tải đạo mà chỉ biểu lộ tâm tình cái tôi đầy cảm xúc. Nhƣ vậy, mã nghệ thuật ở đây

có thể hiểu đó là những tín hiệu của nghệ thuật ngôn từ. Mà ngôn ngữ thơ lại mang

nét đặc trƣng rất riêng, khác với ngôn ngữ văn xuôi (truyện, tiểu thuyết). Ngôn ngữ

thơ mang tính hàm súc, cô đọng, cô đúc, hết sức kiệm lời, ít lời mà nhiều ý, ý tại

ngôn ngoại. Bên cạnh, ngôn ngữ thơ còn có những đặc trƣng khác nữa nhƣ biểu

cảm, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. Riêng ở thơ cách luật, bên cạnh các đặc trƣng

vừa nêu, mã nghệ thuật còn thể hiện ở tính quy phạm về hình thức của thể loại nhƣ

niêm, luật, vần, đối, nhịp. Tất cả những yếu tố trên chỉ là các tiêu chí hình thức của

mã nghệ thuật thơ, mà khi xác lập mã nghệ thuật, ngƣời nghiên cứu cần phải xem

nó nhƣ là kim chỉ nam, nếu không sẽ lạc đƣờng mất hƣớng. Bên cạnh các tiêu chí

về hình thức, khi xác lập mã nghệ thuật của thơ cần phải tính đến các tiêu chí khác

nhƣ đề tài, cảm xúc, nghệ thuật xây dựng hình tƣợng, miêu tả hình ảnh trong thơ,

quan niệm về con ngƣời, tƣ duy nghệ thuật của tác giả v.v..

Về phƣơng pháp luận, để xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Quách

Tấn, cần phải so sánh thơ ông với thơ Đƣờng luật cùng thời. Ví dụ, thơ Đƣờng luật

trên Nam phong tạp chí chẳng hạn mà có lần Xuân Diệu đã phê phán những bài

vịnh sử, vịnh liệt nữ với quan điểm khá bảo thủ về trinh tiết, hay thơ bộc lộ lòng yêu

nƣớc với những motip sáo mòn nhƣ “gánh nƣớc”, đây chính là lối thơ nói chí, tải

đạo. Thơ Đƣờng luật của Phan Mạnh Danh thì theo lối tập cổ công phu nhƣng lối

viết rất cũ kỹ, thiếu cảm xúc chân thực.

Ở đây, chúng tôi xin đƣợc điểm qua vài nét về mã nghệ thuật - cái làm nên cái

cá tính sáng tạo và phong cách riêng của ngƣời sáng tác.

Văn học là sự tự ý thức văn hóa. Văn học chẳng những là một bộ phận của văn

hóa, chịu sự chi phối ảnh hƣởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những

phƣơng diện tồn tại và bảo lƣu văn hóa. Văn học chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ môi

44

trƣờng văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của dân tộc, đồng

thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng

dân tộc. Cùng với hệ thống giá trị văn hóa là những mô thức văn hóa riêng của một

cộng đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và thể hiện những giá trị và mô

thức mà cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ.

Mặt khác, nhà văn - chủ thể sáng tạo phải là con đẻ của một cộng đồng, thuộc

về một cộng đồng nhất định, muốn hay không anh ta cũng đã tiếp nhận những thành

tố văn hóa của cộng đồng mình, những lối tƣ duy, những mô thức ứng xử trong đó

chứa đựng nội hàm văn hóa tâm lý riêng của thời đại cũng nhƣ những ngƣng tụ giá

trị văn hóa truyền thống của cộng đồng. Vì vậy nhà văn dù sáng tạo tới đâu, viết ra

hay nói ra vấn đề gì thì cũng vẫn thể hiện tâm thái văn hóa và những kết cấu tâm lý

văn hóa độc đáo của dân tộc mình.

Từ tác phẩm của nhà văn đến công chúng độc giả là một quá trình chuyển tải

mã văn hóa của cộng đồng thăng hoa thành ngôn ngữ, các biểu tƣợng, thành mã

riêng của ngƣời sáng tác. Sự tiếp nhận tùy thuộc vào trình độ của độc giả và quan

trọng hơn là nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của thời đại, những điều này nằm trong

tâm thức văn hóa thời đại và công chúng độc giả. Điều này lý giải vì sao ngƣời ta lại

thích tác phẩm này hơn tác phẩm khác, thể loại này hơn thể loại khác, cho dù thời

đại sản sinh ra chúng đã qua đi.

Bên cạnh đó “mã nghệ thuật” - những “tín hiệu ngôn ngữ” này cần phải đƣợc

“giải mã”. Việc lập mã thuộc về tác giả và giải mã là một trò chơi trí thức thú vị đối

với độc giả. Một mật mã kêu gọi đƣợc sự quan tâm, chú ý của nhiều ngƣời, dẫn dắt

họ vào mê cung của ý nghĩa, buộc họ phải phát huy hết khả năng của mình để tìm

tòi, phát hiện, giải đáp và chứng minh, đó là một mật mã đã thành công trong công

việc “mã hóa” ngôn từ của mình. Và chắc chắn ngƣời lập ra “mật mã” này sẽ đƣợc

hoan nghênh và công nhận.

Nhƣ vậy, mã nghệ thuật của thơ chính là những tín hiệu nghệ thuật đƣợc xem

nhƣ là những tiêu chí về hình thức và nội dung của thơ, mà những tiêu chí này thể

hiện tính đặc trƣng của thơ, mà nhờ chúng ngƣời đọc có thể phân biệt thơ của nhà

thơ này với thơ của nhà thơ cách. Điều đó, còn có nghĩa là mã nghệ thuật có liên

45

quan và liên đới với cá tính sáng tạo, với phong cách thơ, vì chính chúng đã góp

phần làm nên cá tính sáng tạo và phong cách riêng của nhà thơ.

1.1.2.2. Những tiêu chí về hình thức thơ Đường luật

Về thể thơ Đƣờng luật, nhƣ trên đã nêu, có các dạng chính tứ tuyệt [tuyệt cú]

và bát cú (luận văn không khảo sát bài luật, bởi thơ Quách Tấn trƣớc 1945 không

viết theo thể này). Tứ tuyệt [tuyệt cú] có ngũ ngôn tứ tuyệt [ngũ tuyệt] và thất ngôn

tứ tuyệt [thất tuyệt]. Bát cú có ngũ ngôn bát cú và thất ngôn bát cú [luật thi].

Để xác lập mã nghệ thuật của thơ Đƣờng luật cần phải xem xét kết cấu của thể

loại; những đặc trƣng thi pháp mang tính quy phạm của thể loại nhƣ niêm, luật, vần,

đối; ngoài ra cần phải tính đến cách dùng từ ngữ, dụng điển, cách cắt nhịp, cách hoà

âm để tạo nhạc tính v.v.. Thơ Đƣờng luật của Quách Tấn qua các tập thơ đã xuất

bản đã tuân thủ những quy định chặt chẽ nghiêm ngặt của thể loại, đồng thời vẫn có

nét riêng. Vấn đề sẽ đề cập ở chƣơng 2 và 3 của luận văn. Ở đây chỉ nêu lên vài tiêu

chí về hình thức để xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật mà thôi.

Về kết cấu, bài tứ tuyệt [tuyệt cú] có kết cấu chặt chẽ, bốn câu là bốn phần với

các nhiệm vụ: Khai 開 (mở bài); Thừa 承 (tiếp nối ý mở bài); Chuyển 轉 (chuyển

ý); Hợp 合 (tóm lại, kết thúc). Trong khi đó, bài bát cú cũng với kết cấu bốn phần,

mỗi phần có hai câu, với các nhiệm vụ: Đề 題 gồm phá đề 破題 (câu 1, mở bài) và

thừa đề 承題 (câu 2, tiếp nối ý của câu phá đề); Thực 實 hoặc Trạng 狀 (hai câu 3

và 4, giải thích đầu bài cho rõ ràng); Luận 論 (hai câu 5 và 6, bàn bạc cho rộng

nghĩa đầu bài); Kết 結 (hai câu 7 và 8, tóm ý cả bài, thƣờng là nêu cảm nghĩ cảm

xúc).

Về đặc trƣng thi pháp của thể thơ, theo luật lệ quy định, một bài thơ Đƣờng

luật có yêu cầu chặt chẽ, quy phạm về: niêm, luật, vần, đối.

Niêm 拈 (dính vào nhau) là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong một

bài Đƣờng luật, tức các tiếng (chữ) ở vị trí 2, 4 của thơ ngũ ngôn; 2, 4, 6 của thơ

thất ngôn, các thanh bằng và trắc phải tuân thủ theo luật định: “nhị, tứ, lục phân

minh”. Bài tứ tuyệt Đƣờng luật yêu cầu câu 1 niêm với câu 4; câu 2 niêm với câu 3.

Bài bát cú Đƣờng luật yêu cầu câu 1 niêm với câu 8; câu 2 niêm với câu 3; câu 4

46

niêm với câu 5; câu 6 niêm với câu 7. Nếu không tuân thủ quy định trên thì bài thơ

sẽ thất niêm 失拈 (mất sự dính liền).

Luật 律 là cách sắp đặt tiếng bằng (B) và tiếng trắc (T) trong các câu của một

bài thơ. Tiếng Việt có 6 thanh, nhƣng trong phép làm thơ lại chia ra 8 thanh. Tiếng

B gồm Phù bình thanh (tiếng mang thanh ngang) và Trầm bình thanh (tiếng mang

thanh huyền). Tiếng T gồm: Phù thƣợng thanh (tiếng mang thanh ngã), Trầm

thƣợng thanh (tiếng mang thanh hỏi), Phù khứ thanh (tiếng mang thanh sắc), Trầm

khứ thanh (tiếng mang thanh nặng), Phù nhập thanh (tiếng mang thanh sắc, có phụ

âm cuối là c, ch, p, t), Phù khứ thanh (tiếng mang thanh nặng, có phụ âm cuối là c,

ch, p, t).

Thơ Đƣờng luật đƣợc làm theo hai luật: Bằng và Trắc. Luật Bằng là luật thơ

mà câu 1 bắt đầu bằng hai tiếng bằng (B), chủ yếu là tiếng thứ 2 của câu 1 phải

mang thanh B, vì tiếng thứ nhất có thể theo lệ “nhất, tam, ngũ bất luận”, ví dụ câu

phá đề bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao.

Luật Trắc là luật thơ mà câu 1 bắt đầu bằng hai tiếng trắc (T), chủ yếu là tiếng thứ 2

của câu 1 phải mang thanh T, vì tiếng thứ nhất có thể theo lệ “nhất, tam, ngũ bất

luận”, ví dụ câu phá đề bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan: Bƣớc tới

đèo Ngang bóng xế tà.

Vận 韻 (Vần) là những tiếng có thanh âm hoà hợp, tức cùng một khuôn vần,

nhằm tạo sự cộng hƣởng về mặt âm thanh và nhạc tính cho thơ. Có hai loại vần:

bằng và trắc, mà thƣờng là dùng vần bằng (vần trắc rất hiếm gặp). Trong một bài

thơ Đƣờng luật chỉ dùng một vần, tức độc vận, và buộc phải gieo ở chữ cuối của

câu một và các câu chẵn (cƣớc vận). Nhƣ vậy, một bài bát cú phải có 5 vần, gieo ở

chữ cuối các câu: 1, 2, 4, 6, 8; Bài tứ tuyệt thƣờng gặp là 3 vần, gieo ở chữ cuối các

câu: 1, 2, 4. Trƣờng hợp bài thơ chỉ có 2 vần, gieo ở các câu 2 và 4, thì đây là chiết

vận (trốn vần), tức câu 1 không gieo vần, do vậy, câu 1 và câu 2 buộc phải đối nhau,

mà bài Tụng giá hoàn kinh sƣ của Trần Quang Khải là một dẫn chứng: Đoạt sóc

Chƣơng Dƣơng độ,/ Cầm Hồ Hàm Tử quan./ Thái bình tu trí lực,/ Vạn cổ thử giang

san.

Trong một bài thơ Đƣờng luật, nếu gieo vần sai khuôn âm, không hiệp vận

(hợp vần) thì gọi là lạc vận 落韻 (lạc/rụng mất vần). Còn nếu gieo vần gƣợng gạo,

47

không hiệp vận (hợp vần) thì gọi là cƣỡng áp 彊押 (đặt gƣợng). Đây là điều cấm kỵ

trong phép làm thơ cách luật.

Đối 對 là đặt hai câu đi sóng đôi với nhau sao cho ý, lời, chữ trong hai câu đó

phải cân xứng với nhau. Đối có ba cách: Đối thanh tức tiếng mang thanh B đối với

tiếng mang thanh T. Đối từ loại với yêu cầu thực từ (tức danh từ, động từ) đối với

thực từ; hƣ từ (liên từ, trạng từ) phải đối với hƣ từ; bán thực từ (tính từ) phải đối với

bán thực từ. Đối ý là tìm hai ý tƣởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng đôi nhau.

Trong một bài thơ bát cú cặp thực (câu 3 và 4) buộc phải đối nhau; cặp luận (câu 5

và 6) buộc phải đối nhau.

Ngoài ra, khi khảo sát để xác lập mã nghệ thuật của thể thơ Đƣờng luật cần

phải xét đến cách cắt nhịp, cách hoà âm tạo nhạc tính cho thơ, nghệ thuật sử dụng

ngôn ngữ, cấu trúc câu thơ…

1.1.2.3. Những tiêu chí về tư duy nghệ thuật của thơ Đường luật

Ngoài ra, khi khảo sát để xác lập mã nghệ thuật của thể thơ Đƣờng luật cần

phải xét đến cách cắt nhịp, cách hoà âm tạo nhạc tính cho thơ, nghệ thuật sử dụng

ngôn ngữ, dụng điển, cấu trúc câu thơ,… đấy chính là tƣ duy nghệ thuật của tác gia

hay cộng đồng gởi gắm trong tác phẩm.

Tƣ duy nghệ thuật là một loại hình tƣ duy thẩm mỹ của một cộng đồng (kể cả

một tác gia), đƣợc sinh ra trong điều kiện lịch sử cụ thể. Tƣ duy nghệ thuật bao gồm

cả nội dung và phƣơng thức chiếm lĩnh cũng nhƣ cách thức thể hiện hiện thực cuộc

sống. Cố nhiên tƣ duy phải gắn liền với ngôn ngữ và không chỉ ngôn ngữ, mà nó

còn hàm chứa những quan niệm triết học, tập tục tôn giáo, phong cách đạo đức và

hứng thú thẩm mỹ… trở thành sản vật của lịch sử, có thể biến đổi và phát triển tùy

theo thời đại. Tuy nhiên trong trƣờng kỳ lịch sử, tƣ duy nghệ thuật có tính ổn định –

bền vững tƣơng đối, đã ngƣng tụ lại và thẩm thấu vào tâm lý văn hóa dân tộc, cấu

thành một loại vô thức tập thể trong tầng sâu của kết cấu văn hóa dân tộc. Nó chẳng

những bảo lƣu những giá trị văn hóa dân tộc mà còn có sức mạnh to lớn, chi phối

trực tiếp hoặc gián tiếp đến tƣ duy và hành vi văn hóa của mọi ngƣời sống trong các

thời đại khác nhau.

+ Tính cụ thể và tính tƣợng trƣng

48

Đặc trƣng đầu tiên của tƣ duy nghệ thuật thơ Đƣờng, thơ Đƣờng luật là sự kế

thừa những tƣ duy thẩm mỹ cổ đại phƣơng Đông. Đó là một kiểu tƣ duy mới lạ, đầy

cảm tính với những phƣơng thức đa dạng, ảnh hƣởng đến toàn bộ đời sống tâm linh

cũng nhƣ tƣ duy của các dân tộc phƣơng Đông. Nhìn chung, tƣ duy thẩm mỹ

phƣơng Đông có bốn đặc trƣng là tính cụ thể, tính tƣợng trƣng, tính toàn diện và

tính biểu cảm.

- Tính cụ thể của tư duy thẩm mỹ trong thơ Đường luật

Tƣ duy cụ thể là lối tƣ duy dựa vào ngoại hình cá biệt cụ thể của sự vật hay sự

vận động biến đổi của sự vật để nhận thức sự vật khách quan. Trong quá trình tƣ

duy cụ thể này, những hình tƣợng sự vật cụ thể đƣợc hết sức coi trọng. Đặc điểm cơ

bản của loại tƣ duy này là đem tất cả những cái phổ biến, cái trừu tƣợng, những

quan niệm… cố gắng chuyển hóa thành hình tƣợng cá biệt để biểu hiện những ý

niệm có tính phổ quát, có tính quan niệm, về bản chất là phƣơng thức biểu đạt của

nghệ thuật, là phƣơng thức thể hiện cái đẹp.

Ngôn ngữ thơ Đƣờng là ngôn ngữ khái quát, ngôn ngữ ý niệm. Điều này một

mặt do yêu cầu của đặc điểm tƣ duy thời đại, một mặt do yêu cầu thể loại của thơ

Đƣờng luật vốn ít từ nên không thể dùng nhiều ngôn ngữ cụ thể mà phải dùng ngôn

ngữ khái quát. Những phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn thủy, điền viên … là những

hình tƣợng ngôn ngữ khái quát tràn ngập trong thơ Đƣờng.

Tuy nhiên bản chất ngôn ngữ thơ còn cần tính biểu cảm để trực tiếp tác động

kích thích vào giác quan ngƣời đọc. Vì vậy, không thể không có tính cụ thể của

hình tƣợng ngôn ngữ. Bằng cứ là bên cạnh ngôn ngữ khái quát, trong thơ Đƣờng

vẫn cần những ngôn ngữ cụ thể. Đó là khi cần sự vật có chức năng ngữ nghĩa cụ

thể, không thể thay thế, buộc các nhà thơ phải lựa chọn ngôn ngữ cụ thể. Ví dụ bên

cạnh “điểu” (chim) khái quát còn có con hoàng ly (vàng anh), thanh điểu (chim

xanh) hay anh vũ (con vẹt) rất cụ thể, mỗi con một chức năng ngữ nghĩa khác nhau.

Mặt khác, để đạt đƣợc tính cụ thể ngôn ngữ thơ Đƣờng, đặc biệt là danh từ,

thƣờng phải kết hợp với những danh từ khác theo quy luật của tƣ duy “dùng mình

đo vật”, kiểu nhƣ dùng các bộ phận cơ thể ngƣời để phản ánh sự vật nhƣ: sơn đỉnh,

sơn đầu, sơn mạch, giang đầu, giang vĩ, giang tâm… Bên cạnh đó, danh từ thƣờng

đi liền với những tính từ để tạo thêm màu sắc tính chất cụ thể cho sự vật hiện tƣợng

49

kiểu nhƣ: mị nhãn, hàn vũ, lƣơng phong, minh nguyệt, thanh tuyền, không sơn,

bạch vân, hồng diệp, xích thằng, thiên thu tuyết, vạn lý thuyền…

Thêm nữa, đặc trƣng tƣ duy cụ thể nguyên thủy đã thúc đẩy mạnh mẽ năng lực

tƣ duy hình tƣợng và năng lực nhận thức thẩm mỹ của các dân tộc phƣơng Đông,

trong đó có các nhà thơ đời Đƣờng. Ở một trình độ nhất định, loại tƣ duy này đã

quy định và coi trọng cách thức mô phỏng sự vật khách quan của nghệ thuật

phƣơng Đông; mặt khác nó tạo ra sự thẩm thấu, đan xen và tổng hợp giữa các loại

hình nghệ thuật phƣơng Đông nhƣ: “thƣ - họa tƣơng thông, “thi - nhạc - vũ nhất

thể”, “thi trung hữu họa, họa trung hữu thi”.

- Tính tượng trưng của tư duy thẩm mỹ trong thơ Đường luật

Tƣ duy tƣợng trƣng là loại tƣ duy dùng một sự vật nào đó để biểu đạt một sự

vật khác có đặc trƣng tƣơng tự. Về bản chất tƣợng trƣng là tá dụ, là một loại hình tƣ

duy mƣợn sự vật hiện tƣợng đã biết để so sánh, giải thích sự vật chƣa biết. Thời

viễn cổ, tất cả đối tƣợng tự nhiên đƣợc con ngƣời sùng bái, về bản chất đều là vật

tƣợng trƣng. Con ngƣời thông qua quan hệ tƣơng tự của vật này với vật khác để

nhận biết sự vật. Vì vậy tƣợng trƣng là một trong những thao tác của tƣ duy ra đời

rất sớm, giúp con ngƣời nhận thức và cũng là phƣơng pháp rất sớm của nhận thức

thẩm mỹ.

Tƣợng trƣng không phải là loại tƣ duy độc hữu của thơ Đƣờng luật. Song do

yêu cầu của tƣ tƣởng thẩm mỹ “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn bất tận ý” bởi “ngôn tận”

mà “ý bất tận” và yêu cầu quy phạm của thể loại nên thơ Đƣờng luật càng cần tƣ

duy tƣợng trƣng. Ở đó, ngƣời ta luôn bắt gặp những biểu tƣợng tƣợng trƣng, hàm ẩn

nhiều lớp nghĩa. Để biểu đạt con ngƣời, các nhà thơ thƣờng dùng tự nhiên: nhƣ

sông núi (nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy), cây cỏ nhƣ tùng cúc trúc mai, điểu

thú nhƣ đại bàng, phƣợng hoàng, mãnh hổ… lại có thể dùng cả nhân vật, sự kiện,

địa danh để thể hiện. Để chỉ thời gian, các nhà thơ thƣờng dùng cây cỏ, âm thanh

chỉ mùa vụ, nhật nguyệt năm tháng chỉ thời gian tuần hoàn.

+ Tƣ duy quan hệ

Tƣ duy quan hệ là loại tƣ duy sử dụng các quan hệ để phản ánh, chiếm lĩnh

hiện thực khách quan. Tƣ duy này làm nên cái độc đáo của thơ Đƣờng, trong đó có

thơ Đƣờng luật. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã nhận định chính xác về loại tƣ duy

50

quan hệ này: “cái hay của thơ Đƣờng là ở cách khám phá hiện thực, lý giải hiện

thực, hay nói một cách triết học, cách chiếm lĩnh hiện thực. Đó là cách xác lập tính

đồng nhất của những hiện tƣợng mà giác quan cho là đối lập nhau”.

Các nhà thơ Đƣờng luật không vẽ sự vật mà tạo ra các quan hệ đồng nhất hóa

giữa sự vật này với sự vật khác, nhằm đem lại cho ngƣời đọc sự chiếm hữu thú vị

và có đƣợc hạnh phúc nhờ việc tự tham gia khám phá các quan hệ trong thơ. Vì vậy

thƣởng thức thơ Đƣờng là phải tìm ra các quan hệ ấy; đọc thơ Đƣờng không phải

đọc bằng mắt mà đọc bằng quan hệ. Có thể nói đây là đặc điểm tƣ duy của thơ

Đƣờng và cũng là cơ sở để khu biệt nó với các thể thơ khác trƣớc và sau đời Đƣờng,

rộng hơn là khu biệt cả với thơ phƣơng Đông và phƣơng Tây.

Nguyên nhân của hiện tƣợng tƣ duy quan hệ này trƣớc hết phải kể tới triết học

cổ đại Trung Quốc, trong đó có cách nhận thức từ các mặt đối lập của Lão Tử; lối tƣ

duy đặt dấu bằng giữa các hiện tƣợng đối lập của Trang Tử và đặc biệt ở quan niệm

âm dƣơng khi coi mọi sự vật đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và

dƣơng, trong âm có dƣơng, trong dƣơng có âm… đã ảnh hƣởng sâu sắc tới cách tƣ

duy của các học giả Trung Quốc ngàn năm. Vì vậy nói tƣ duy thơ Đƣờng là tƣ duy

quan hệ, nói thơ Đƣờng là thơ của các mối quan hệ, thơ âm dƣơng cũng không có gì

là quá. Bên cạnh đó đời Đƣờng là thời đại khai phóng và phục hƣng văn hóa, vừa kế

thừa tƣ duy truyền thống lại vừa tiếp nhận tƣ duy ngoại lai của Phật giáo – một hệ

tƣ tƣởng mang tính hoài nghi cao độ đối với cái hữu hình, cái văn hóa do con ngƣời

sáng tạo ra. Nó đã trực tiếp gợi ra “cái trống không” của nghệ thuật với cả phƣơng

thức truyền đạt “vô ngôn”, “trực chỉ truyền tâm” đầy chất ám dụ và cực kỳ cô đọng,

cũng đã in đậm dấu ấn vào thơ Đƣờng. Trong thời đại này, cả ba tƣ tƣởng Nho -

Phật - Đạo cùng phát triển song hành trên tinh thần Tam giáo đồng nguyên, đã đem

lại nhiều đổi mới trong quan niệm, nhận thức và cả tƣ duy về vũ trụ và nhân sinh

của ngƣời Trung Quốc đời Đƣờng.

Nguyên nhân thứ hai không kém phần quan trọng là yêu cầu của hình thức thể

loại thơ Đƣờng, đặc biệt thơ Đƣờng luật vốn là loại thơ nhỏ bé. Hiện thực cuộc sống

vốn rộng lớn, thiên hình vạn trạng làm sao có thể dung nạp vào một thể thơ nhỏ bé,

mà lại phải nói lên đƣợc những vấn đề rung động lòng ngƣời ngàn năm, thì không

thể chạy theo lối miêu tả. Ở đây chỉ có thể gợi và cách lựa chọn tốt nhất là các nhà

51

thơ đời Đƣờng phải dựng lên các mối quan hệ. Từ các mối quan hệ này, ngƣời đọc

có thể khám phá ra bản chất sâu kín của sự vật hiện tƣợng, cùng những kỳ thú của

nghệ thuật thơ.

Tƣ duy quan hệ này đã chi phối toàn bộ tổ chức nghệ thuật thơ Đƣờng, đặc

biệt là thơ Đƣờng luật, từ cấp độ vi mô đến vĩ mô.

Nói đến tổ chức nghệ thuật thơ Đƣờng, ngƣời ta hay nói tới tính cân đối. Tính

cân đối này đƣợc thể hiện ở niêm, luật, vận, đối, bộc lộ rõ tƣ duy quan hệ theo kiểu

“kết cấu song hành, đối xứng phi đối xứng”, vốn là biểu hiện của mối quan hệ cơ

bản giữa âm và dƣơng. Sự đan xen và chuyển hóa giữa thanh bằng và trắc, cả trong

lối gieo vần, trong các dòng thơ và câu thơ đã tạo nên cấu trúc chặt chẽ và tuần

hoàn từ câu 1 đến câu 8 rồi lại từ câu 8 trở về câu 1 nhƣ một cấu trúc toàn vẹn và

chỉnh thể trong quan niệm tƣ duy Trung Hoa.

Bản chất thơ ca vốn gắn liền với nhạc tính. Các nhà thơ làm thơ để đọc và đọc

cho nhau nghe chứ không phải để xuất bản nhƣ ngày nay. Mà đã đọc thì không thể

không quan tâm tới tính nhạc. Mặc dù ngôn ngữ trong thơ Đƣờng luật phần lớn là

ngôn ngữ khái quát song nhờ sự luân chuyển thanh điệu kết hợp với những khoảng

trống trong dòng thơ đã tạo thành nhịp điệu có lúc réo rắt, có lúc lắng đọng, đem lại

sức cuốn hút của nhạc tính cho thơ. Ngƣời nghe có thể cảm nhận từ hiện tƣợng réo

rắt của âm thanh để khám phá hiện thực một cách mới mẻ. Cái thanh khí của nhà

thơ đƣợc thể hiện trong thanh điệu, tiết tấu của bài thơ và đƣợc cộng hƣởng trong

lòng độc giả ngàn năm. Ngƣời Trung Quốc có câu “đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí

tƣơng cầu” là nhƣ vậy.

Tính cân đối của tƣ duy thơ Đƣờng luật thể hiện rõ rệt trong cả nội dung và

hình thức đối của thơ (trong cặp thực và cặp luận). Đó là sự thể hiện độc đáo của tƣ

duy quan hệ và là phƣơng tiện hữu hiệu phản ánh hiện thực của các nhà thơ.

Tƣ duy Trung Quốc vốn có sự cân đối trong diễn đạt, nhƣng chỉ đến đời

Đƣờng mới có câu đối thơ. Nói nhƣ nhà nghiên cứu Phan Ngọc: “câu đối thơ là do

nhu cầu nội tâm, không có ở đầu đời Hán. Cái nhu cầu thấy mình thống nhất với

ngoại giới đòi hỏi một sự thể hiện nghệ thuật mà nếu không có thì không thể nào

bộc lộ đƣợc”. Câu đối thơ trong thơ Đƣờng luật đã là một minh chứng cao độ cho

tƣu duy quan hệ của các thi nhân. Có loại đối hoàn chỉnh nhƣ một cặp âm dƣơng

52

cân đối của công đối, có loại đối ngay trong mỗi dòng thơ vừa đối xứng lại không

đối xứng của tiểu đối, cũng có loại đối ý dòng trên trƣợt thẳng xuống dòng dƣới nhƣ

kiểu đối lƣu thủy… có thể nói hình thức đối thơ trong thơ Đƣờng luật đƣợc sáng tạo

muôn vẻ trên cơ sở tƣ duy quan hệ để thể hiện sự đồng nhất các mặt đối lập của sự

vật hiện tƣợng. Mặc dù thơ Đƣờng luật không dùng hệ thống suy luận, song nhờ các

kiểu đối phong phú nên đã thúc đẩy ngƣời đọc phải suy luận.

Về mặt ngôn ngữ, cũng vì tƣ duy quan hệ tạo ra sự đồng nhất các mặt đối lập,

cùng với yêu cầu nghiêm ngặt của thể loại, cho nên những hƣ từ thể hiện sự đồng

nhất hay thống nhất đều có tần số xuất hiện cao. Đó là hệ hƣ từ cộng, tƣơng, dữ. Và

để nói lên sự thống nhất của cái đơn nhất với tổng thể, thƣờng ngƣời ta dùng hệ hƣ

từ cô, độc, nhất… Bên cạnh đó là những hình ảnh nhƣ cô phàm, cô thôn, cô vân, cô

nguyệt… vẫn còn đọng trong lòng ngƣời đọc ngàn năm nay, khi nó là tiếng lòng của

cá thể tiểu vũ trụ muốn hòa vào đại vũ trụ. Ngƣợc lại những hƣ từ mang màu sắc

chứng minh hay tạo ra mọi biện pháp suy luận kiểu nhƣ: chi, hồ, giả, dã… dƣờng

nhƣ vắng bóng trong các bài thơ Đƣờng luật. Bởi lẽ quan niệm của tƣ duy quan hệ

trong thơ Đƣờng là cần sự đồng nhất trực tiếp các mặt đối lập, chứ không cần chứng

minh và suy luận.

+ Cấu tứ nghệ thuật

Cấu tứ nghệ thuật là cách thức tổ chức của một tác phẩm nghệ thuật, là phạm

trù thẩm mỹ quan trọng của nghệ thuật. Nó là thƣớc đo của chất lƣợng thi ca, khi nó

đem lại cho độc giả những hứng thú và hƣởng thụ thẩm mỹ vô hạn, cũng là khát

vọng của thực tiễn sáng tạo nghệ thuật ở mỗi nhà thơ.

Điều đặc biệt là có nhiều nhà thơ đời Đƣờng cùng viết về một đề tài nhƣ: sơn

thủy điền viên, biên tái, chiến tranh, cung nữ, chinh phụ… song mỗi bài lại có cách

thức thể hiện độc đáo khác nhau. Điều này là do cấu tứ mỗi bài khác nhau. Đó là

cách sáng tạo trong quá trình khám phá và thể hiện cuộc sống của mỗi nhà thơ, làm

nên sức hấp dẫn và sự trƣờng tồn ấy không thể không nói tới tƣ duy quan hệ xác lập

tính đồng nhất các mặt đối lập – một loại tƣ duy sinh ra trong đời Đƣờng.

Cấu tứ (còn gọi là tứ thơ) là cách khám phá và thể hiện cuộc sống một cách

độc đáo nhất của từng nhà thơ trong từng bài thơ. Gần nghĩa với cấu tứ thơ, mỹ học

Trung Quốc có khái niệm “ý cảnh” hay “ý cảnh nghệ thuật” “cảnh giới nghệ thuật”.

53

Đó là sự kết hợp hài hòa giữa tƣ tƣởng tình cảm chủ quan của tác giả với môi

trƣờng cảnh vật khách quan tạo thành hình tƣợng mang hàm nghĩa phong phú, khêu

gợi trí tƣởng tƣợng của độc giả. Nhƣ vậy cấu tứ và ý cảnh đều phải dùng tới thao

tác tƣ duy và đăc biệt ở đây là “sự kết hợp hài hòa giữa tƣ tƣởng tình cảm chủ quan

của tác giả với môi trƣờng cảnh vật khách quan”, một kiểu tƣ duy quan hệ làm nên

cái độc đáo trong cấu tứ của thơ Đƣờng.

Trên cơ sở mối quan hệ cơ bản của triết học âm dƣơng, các nhà thơ Đƣờng đã

tạo dựng vô vàn các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời bao gồm trăm mối quan hệ

chằng chịt, giữa ngƣời với vật và giữa vật với vật, nhƣng vật ở đây vẫn để là thay

thế con ngƣời, chủ yếu là quan hệ giữa con ngƣời với thiên nhiên giữa tình và cảnh.

Cần chú ý loại quan hệ độc hữu của thơ Đƣờng là quan hệ đồng nhất giữa các mặt,

các hiện tƣợng mà giác quan cho là đối lập. Nhƣ vậy tìm hiểu tứ thơ Đƣờng thực

chất là phát hiện các quan hệ, tìm hiểu và lý giải các lớp ý nghĩa của các quan hệ ấy.

Xét từ góc độ của tƣ duy quan hệ, phát triển kiến giải về cấu tứ thơ Đƣờng của

nhà nghiên cứu Phan Ngọc, ta có thể thấy cách thức cấu tứ của thơ Đƣờng luật theo

ba kiểu quan hệ cơ bản. Một là đồng nhất giữa các mặt đối lập: âm - dƣơng; hai là

dùng mặt này nói mặt kia trên cơ sở hai mặt đối lập; ba là tạo ra các cảnh huống

nghệ thuật. Cần nói qua một chút về kiểu cấu tứ thứ ba. Đây là kiểu cấu tứ dựng lên

các cảnh huống hàm chứa đầy mâu thuẫn. Rất nhiều bài thơ đời Đƣờng không hề có

cảnh để thể hiện tình, cũng chẳng thấy có sự đồng nhất các mặt đối lập, mà chỉ thấy

nhà thơ dựng lên những cảnh huống đặc biệt với những quan hệ phi logic. Con

ngƣời sẽ đƣợc “đốn ngộ” khi rơi vào những cảnh huống này. Kiểu cấu tứ này rất

gần với công án Thiền. Đó là cách dùng hình thức lời dạy để đƣa ra phép tu tập trực

tiếp của các thiền sƣ nhằm khai thị các đệ tử phá bỏ vọng kiến, chấp thủ để đạt đốn

ngộ tuyệt đối. Công án Thiền thƣờng dùng một hệ thống nghịch ngữ phi lôgic nhằm

phá bỏ những định kiến, bẻ gãy những chuẩn mực quen thuộc của lẽ phải thông

thƣờng, phá tan tảng băng vĩnh cửu của “lý tính phổ thông”, để rồi sau đó, khi cân

bằng đƣợc trên những mảnh vỡ này là sự đốn ngộ. Đó là “trực cảm tâm linh”.

Cố nhiên để tìm hiểu hết cái hay cái đẹp của thơ Đƣờng, nhất là thơ Đƣờng

luật còn phải quan tâm tới nhiều yếu tố nghệ thuật khác cả bên trong và bên ngoài

tác phẩm để có cách tiếp cận tổng thể, liên ngành. Với mã nghệ thuật phong phú,

54

thơ Đƣờng luật nhƣ một cánh cửa có nhiều chìa khóa xung quanh, muốn mở đƣợc

cánh cửa đấy phải tìm đúng chìa khoá, càng thôi thúc ngƣời đọc xông pha, chính

điều này đã đem lại cho nền văn học Trung Quốc và văn học thế giới ngọn núi thơ

Đƣờng sừng sững hơn ngàn năm nay.

Từ những vấn đề vừa trình bày, xét ở trƣờng hợp Quách Tấn, chúng ta dễ nhận

ra rằng những bài thơ Đƣờng luật của Quách Tấn trong các tập thơ đã tuân thủ

những quy định ngặt nghèo có tính quy phạm của thể loại nhƣ niêm luật vần đối,

nhƣng thơ ông vẫn có nét mới riêng, đó là cách dùng từ đặt câu, nghệ thuật dụng

điển một cách sáng tạo theo quan hệ liên tƣởng - cảm giác, cách tân về ngôn ngữ và

hình ảnh thơ, đổi mới cấu trúc câu thơ, đổi mới trong việc tổ chức nhịp điệu và hệ

thống giọng điệu để tạo nên phong cách riêng. Chính nhờ những mã nghệ thuật này

mà thơ Quách Tấn dù trƣớc sau ông vẫn kiên trì và chung thuỷ với thể thơ Đƣờng

luật nhƣng thơ ông vẫn không cũ, trái lại rất mới. Thơ ông có cái uyên thâm trong

sáng của thơ Đƣờng, có cái hồn nhiên giản dị của ca dao Việt Nam, lại có cả cái rạo

rực, rung cảm thiết tha của Thơ Mới. Quách Tấn đã biết phát huy cái cao đẹp của

thơ Đƣờng kết hợp với hơi thở của thời đại, để từ đó, thổi hồn vào thể thơ đã cũ để

tạo cho nó một sức sống mới. Nói cách khác, nhà thơ đã “đoạt thai hoán cốt” để làm

mới lại, tƣơi hơn một thể thơ đã cũ. Vấn đề sẽ đƣợc luận văn trình bày ở chƣơng 2

và chƣơng 3 của luận văn.

1.3. THƠ ĐƢỜNG LUẬT NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ NHU CẦU KẾ THỪA

TINH HOA THƠ TRUYỀN THỐNG

1.3.1. Nhu cầu hiện đại hoá thơ Việt trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX

Vấn đề hiện đại hoá thơ Việt hồi nửa đầu thế kỷ XX đã đƣợc nhiều nhà nghiên

cứu đề cập trong nhiều công trình và tiểu luận. Đặc biệt, vấn đề này cũng đã đƣợc

nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn lý giải rất thuyết phục trong tiểu luận “Thơ ba mƣơi

năm đầu thế kỷ” ở công trình Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa,

cụ thể: một là hiện đại hóa thơ do xuất hiện kiểu tác giả mới, tiếp nhận Tây học,

chịu ảnh hƣởng thơ Tây; hai là quy luật phát triển của văn học bao giờ cũng là sự

tiếp tục, nối dài những dƣ âm của nền văn học cũ, trong đó có thể thơ Đƣờng luật

[81,tr.571-648].

55

Ở đây, luận văn xin đƣợc nêu lại những gì đã lĩnh hội từ những tƣ liệu đã đọc.

. Đến thâ ̣p Cuối thế kỷ XIX , văn ho ̣c chƣ̃ Quốc ngƣ̃ đã hình thành ở Nam bô ̣

: truyê ̣n ngắn , tiểu thuyết

niên đầu thế kỷ XX , nhiều tác phẩm văn xuôi Quốc ngƣ̃ đƣợc xuất bản, dù buổi đầu còn vụng về bút pháp , non nớ t về kết cấu , chất lƣơ ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t còn hạn chế nếu so vớ i các tác phẩm ở giai đoa ̣n sau , tuy vậy cũn g đã có vài tác phẩm gây đƣợc tiếng vang nhƣ tiểu thuyết Hoàng Tố Anh hàm oan (1910)

của Trần Thiên Trung ; truyê ̣n ngắn Sống chết mặc bay (1918) của Phạm Duy Tốn .

Để sang nhƣ̃ng năm 20 và 30 của thế kỷ XX , nền Quốc văn mớ i đã có nhƣ̃ng thành tƣ̣u đáng kể . Nhiều tác phẩm văn ho ̣c có giá tri ̣ đƣợc xuất bản . Nhiều cây bú t sáng tạo dồi dào và sung sức xuất hiện , đã đƣơ ̣c công chú ng đô ̣c giả lớp mớ i thƣ̀ a nhâ ̣n nhƣ nhƣ̃ng tài năng thƣ̣c sƣ̣. Về văn xuôi, trong Nam xuất hiê ̣n rất nhiều cây bú t viết tiểu thuyết , đoản thiên tiểu thuyết , truyê ̣n ngắn , mà ngƣời đạt nhiều thành tựu nổi , không ai khác hơn là nhà văn Hồ Biểu

bâ ̣t, đã đƣơ ̣c số đông ngƣờ i đo ̣c hâm mô ̣ Chánh với hàng chục tác phẩm bề thế , đƣơ ̣c xuất bản tƣ̀ khoảng năm 1913 đến năm 1930 và về sau ; ở ngoài Bắc , dù muộn hơn , nhƣng tiểu thuyết Kim Anh lê ̣ sƣ̉ của

Trọng Khiêm (1924) và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1926) đã cắm cái mốc

đỉnh cao của văn học chặng đƣờng đầu tiên này.

Về thơ, ở chặng đƣờng đầu này , xuất sắc hơn cả là nhƣ̃ng thi phẩm lãng ma ̣n , phóng túng, dạt dào cảm xúc của Tản Đà . Lần đầu tiên, cái tôi cá nhân của nhà thơ

đƣơ ̣c bô ̣c lô ̣ mô ̣t cách khá chân thành và th oải mái. Bên ca ̣nh, cũng cần phải nhắc

đến những bài thơ sử dụng rộng rãi các điệu thức thơ ca dân gian để thể hiện tình

cảm yêu nƣớc kín đáo mà không kém phần thiết tha của Á Nam Trần Tuấn Khải . Có

thể nói, Tản Đà và Trần Tuấn Khải chính là chiếc cầu nối giƣ̃a hai thờ i đa ̣i thơ ca : tƣ̀ thơ ca trung đa ̣i sang thơ ca hiê ̣n đa ̣i.

Đến giai đoa ̣n 1932-1945, quá trình hiện đại hóa văn học lúc này đã đạt trình

triển ma ̣nh mẽ , nhiều tác phẩm ƣu tú đô ̣ hoàn thiê ̣n . Văn ho ̣c giai đoa ̣n này phát xuất hiê ̣n vớ i nhiều đề tài phong phú và đa da ̣ng về thể loa ̣i . Văn học giai đoa ̣n này : văn ho ̣c lãng có hai bộ phận với ba dòng văn học mang ba hệ ý thức khác nhau

mạn và văn học hiện th ực phê phán thuộc bộ phận văn học hợp pháp mang ý thức

hệ tƣ sản, tiểu tƣ sản ; còn văn học cách mạng thuộc bộ phận văn học bất hợp pháp

mang ý thức hệ vô sản . Riêng dòng văn ho ̣c lãng ma ̣n , các tác phẩm của nhóm Tƣ̣

56

Lƣ̣c văn đoàn và Thơ Mớ i đã góp phần đƣa tiếng Viê ̣t văn ho ̣c viết bằng chƣ̃ Quốc ngƣ̃ lên đỉnh cao , đa ̣t đến trình đô ̣ nhuần nhu ̣y , trong sáng và tinh tế , đủ khả năng diễn đa ̣t nhƣ̃ng điều sâu kín nhất trong tâm hồn con ngƣờ i vớ i nhƣ̃ng cung bâ ̣c , sắc thái tình cảm khác nhau . Chính thành tựu của Tự Lực văn đoàn và Thơ Mới đã góp

phần hoàn thiện quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam . Đặc biệt là phong trào

, đa da ̣ng tr ƣớc Thơ Mớ i, đã làm cho vƣờ n hoa văn ho ̣c dân tô ̣c vốn đã phong phú

đó, nay càng thêm nhiều vẻ vớ i nhiều hƣơng thơm , sắc thắm. Nói nhƣ nhà phê bình

Hoài Thanh, phong trào Thơ Mớ i thâ ̣t sƣ̣ đã làm nên “mô ̣t cuô ̣c cách mệnh trong thơ ca” [74,tr.19]. Cuô ̣c cách ma ̣ng này không chỉ diễn ra ở phƣơng d iê ̣n nghê ̣ thuâ ̣t nhƣ phá bỏ những lối diễn đạt ƣớc lệ , nhƣ̃ng công thƣ́ c gò bó , nhƣ̃ng quy pha ̣m khuôn khổ…, thay vào đó là cách diễn đa ̣t mớ i ; mà còn diễn ra ở cả phƣơng diện nội dung nhƣ thể hiê ̣n sƣ̣ cảm nhâ ̣n mớ i mẻ về tâm hồn con ngƣờ i và thế giớ i hiê ̣n thƣ̣c khách quan mô ̣t cách tinh tế , tƣ̣ nhiên và chân thành hơn . Vấn đề vừa nêu thuộc phạm trù

tƣ duy nghệ thuật.

Phong trào Thơ Mớ i đã ghi nhâ ̣n nhiều tên tuổi lớ n củ a nền văn ho ̣c hiê ̣n đa ̣i nhƣ Thế Lƣ̃ , Lƣu Tro ̣ng Lƣ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diê ̣u, Huy Câ ̣n, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên , Quách Tấn , Bích Khê v .v..; trong đó , xuất hiê ̣n nhiều nhóm thơ nhƣ nhóm Xuân thu nhã tâ ̣p, nhóm Huy Xuân, nhóm Bàn Thành tứ hữu v.v.. Nhờ phong

trào Thơ mới mà diện mạo văn học Việt Nam giai đoạn này thật sự khởi sắc , cái tôi

cá nhân trữ tình đƣợc khẳng định rõ nét , tạo bƣớc nhảy vọt trong quá trình hiện đại

hóa văn học nhƣ lời khẳng định của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện

đại: “ở nƣớ c ta, mô ̣t năm có thể kể nhƣ ba mƣơi năm củ a ngƣờ i” [51].

Cuộc giao lƣu tiếp xúc với phƣơng Tây nhƣ “…mô ̣t cơn gió ma ̣nh bỗng tƣ̀ xa thổi đến . Cả nền tảng xƣa kia bị một phen điên đảo , lung lay . Sƣ̣ gă ̣p g ỡ phƣơng

” Tây là mô ̣t cuô ̣c biến thiên lớ n nhất trong li ̣ch sƣ̉ Viê ̣t Nam tƣ̀ mấy mƣơi thế kỷ

[74,tr.15]. Nếu trƣớc đây những trí thức thời xƣa vốn chỉ biết giao lƣu văn hoá trong

khu vực: văn hoá Hán mà chủ yếu là tƣ tƣởng Nho giáo thì giờ đây khi tiếp xúc với

văn hoá Phƣơng Tây , họ đã bắt đầu đọc và trích dẫn những tân thƣ của Mạnh Đức

Tƣ Cƣu (Montesquieu) hay Lƣ Thoa (J.J.Rousseau). Họ từng bƣớc chấp nhận chƣ̃

. Lúc này, những tƣ quốc ngữ , một thứ chƣ̃ ghi âm do ngƣời phƣơng Tây tạo ra

tƣởng phƣơng Tây đƣợc quảng bá trên Đông Dƣơng tạp chí và Nam Phong tạp chí.

57

cho thơ. Cuộc đổi

Một thế hệ thi sĩ mới đã làm một cuộc cách tân để tìm lối thoát mới văn tự đã đƣa chữ quốc ngữ lên ngôi. Báo chí tiếng Việt chữ Quốc ngữ nở rộ

khắp ba miền, bên cạnh các hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ mới nhƣ kịch,

điện ảnh… cũng phát triển.

Riêng về thơ, trong vài thập niên đầu thế kỷ XX , trên các báo xuất hiện những

bài thơ Đƣờng luật với đề tài và nội dung tả cảnh , vịnh sƣ̉ , thù tạc đầy khuôn sáo,

nhạt nhẽo. Vì thế mà năm 1917, trên Nam Phong tạp chí (số 5), Phạm Quỳnh đã lên

tiếng phàn nàn về đặc điểm thiếu giọng thiên nhiên của lối thơ Đƣờng luật, đề nghị

các nhà thơ nên tiếp nhận một ít sắc thái của thơ Pháp để đổi mới cho thơ Việt, làm

cho thơ Việt điều hoà đƣợc cái hay giữa phần nhân công và phần thiên thú. Tiếp đó,

Phan Khôi trên Đông Pháp thời báo (1928) và Trịnh Đình Rƣ trên Phụ nữ tân văn

(1929) cũng hùng hồn tỏ bày ý kiến về vấn đề này , mà ở mục Lịch sử vấn đề, luận

văn có nêu (xem 2.2). Thơ cũ đã bị bài bác. Lúc này, nhu cầu đổi mới thi ca trở nên

bức bối. Ngày 10-03-1932, tờ Phụ nữ tân văn (số 122), có đăng bài Một lối Thơ

Mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi, tác giả đã dõng dạc cất lời kêu gọi:

Duy tân đi! Cải lƣơng đi! và đƣa ngay bài thơ Tình già của mình ra làm ví dụ sinh

động. Tình già khó có thể đƣợc xem là một bài thơ xuất sắc . Tuy vậy , phải công

nhận rằng bài thơ có nhiều điểm „ gây sự‟ với loại thơ mà ngƣời ta vẫn quen làm,

quen đọc trƣớc đó. Đó là số câu kéo dài theo nhu cầu kể việc và thổ lộ tình cảm; số

chữ trong các câu không đều nhau, không cần niêm luật, đặc biệt, một câu chuyện

tình cảm có vẻ „phất phơ‟ đƣợc thuật lại khá chi tiết, không một chút ngƣợng

ngùng,… Từ đó, cái ngày bài Tình già ra mắt làng thơ đƣợc xem là ngày khai sinh

của phong trào Thơ Mới. Một số nhà Thơ Mới chỉ trích thơ cũ , họ chê thơ Đƣờng

luật gò bó , khuôn sáo, hình ảnh cảm xúc thi tứ đều vay mƣợn , nhƣ ý kiến của Lƣu

Trọng Lƣ, Nguyễn Thị Kiêm, Vũ Đình Liên, Trƣơng Tƣ̉ u,… Trƣớc tình thế ấy, phái

thơ cũ cũng phản kháng lại kịch liệt và gay gắt. Họ chê những nhà Thơ Mới là mù

quáng, dốt nát , vì không biết làm thơ Đƣờng luật nên chê bai và không biết trân

trọng các thể thơ truyền thống . Cuô ̣c chiến giƣ̃a hai phái không cân đối . Lƣ̣c lƣơ ̣ng

của phái Mớ i đông đảo, mạnh mẽ, hăng hái và đă ̣c biê ̣t là trẻ hơn phái Cũ , nên ho ̣ có

sƣ́ c đô ̣t phá hơn . Bên ca ̣nh đó , các nhà Thơ mới có đƣợc một sự hậu thuẫn rất lợi

hại là tờ Phong hó a vớ i đô ̣i ngũ là nhƣ̃ng ngƣờ i rất có năng l ực và dày dạn kinh

58

nghiê ̣m cùng kiến thức Tây học . Điều mà ho ̣ vƣ̃ng tâm khẳng đi ̣nh trên thi đàn là đã viết đƣơ ̣c nhƣ̃ng bài thơ thâ ̣t hay của Thế Lữ, Xuân Diệu, Lƣu Trọng Lƣ v.v..

Các nhà Thơ Mớ i đã đi tìm hình thể cho thơ, thể hiê ̣n cảm xúc chân thực, đề ra một chuẩn mƣ̣c mớ i cho cái Đe ̣p . Ngƣờ i đƣơ ̣c đánh giá cao vớ i nhƣ̃ng bƣớ c đô ̣t phá táo bạo và tài hoa bấy giờ là Xuân Diệu . Nếu Thế Lƣ̃ đƣơ ̣c xem là ngƣờ i khai phá của phong trào Thơ Mớ i vớ i sƣ̣ e dè thì Xuân Diê ̣u là ngƣờ i nối tiếp ma ̣ch khai phá , của vũ trụ . Cảm ấy một cách tinh tế và khám phá cái huyền nhiệm của cuộc sống

xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình là một trong những nguyên tắc kết cấu của thơ trữ

tình thuộc phong trào Thơ Mớ i, có thể nói Thơ Mớ i về căn bản là thơ lãng ma ̣n . Ở

Thơ Mớ i, các nhà thơ đã khẳng định mình và tuyên bố quyền sống của mình , ý thức về mình đã dẫn tớ i ý niê ̣m về kẻ khác . Cảm xúc và tâm trạng man g đâ ̣m tính chủ quan, nhƣng nó có mô ̣t giá tri ̣ hiển nhiên cần đƣơ ̣c tôn tro ̣ng , đƣơ ̣c miêu tả nhƣ mô ̣t khách thể tồn tại độc lập , thể hiê ̣n cái tôi cá nhân : Tôi là một, là riêng là thứ nhất của của Xuân Diệu trong bài Hy-mã-lạp-sơn, hay Tôi là thi sĩ của thƣơng yêu

Nguyễn Bính trong bài “Một trờ i quan tá i” . Chế Lan Viên trong lờ i Tƣ̣a tâ ̣p Điêu tàn đã viết: “Thi sĩ không phải là ngƣờ i , nó là Ngƣời Mơ , Ngƣờ i Say, Ngƣờ i Điên. Nó là Tiên , là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại . Nó xáo trộn dĩ vãng .

Nó ôm trùm Tƣơng Lai . Ngƣờ i ta không hiểu đƣơ ̣c nó vì nó nói nhiều cái vô nghĩa , . Nhƣng nó thƣờ ng không nói . Nó gào, nó thét, tuy rằng nhƣ̃ng cái vô nghĩa hơ ̣p lý nó khóc, nó cƣời. Cái cƣời của nó cũng tột cùng” . Cách thức tạo dựng một thế giới

đầy màu sắc siêu thƣ̣c ấy chính là sƣ̣ xác đi ̣nh mớ i mẻ và đô ̣c đáo về bản chất siêu nhiên củ a thi sĩ . Nếu Thơ Mớ i ban đầu là lãng mạn thì về sau lại nghiêng về phía tƣơ ̣ng trƣng, siêu thƣ̣c. Cái tôi thi nhân đứng ở vị trí trung tâm , nó làm tăng tính tự

giác và hợp quy luật của một trào lƣu thơ , nó hóa thân vào những tƣ cách mới vừa

cuô ̣c sống cũng nhƣ củ a nghê ̣ thuâ ̣t có bề rộng lẫn bề sâu , tuy Thơ Mớ i vẫn chƣa ôm trùm đƣợc hết mọi khía cạnh của , nhƣng nó đã đánh dấu mô ̣t bƣớ c chuyển lớ n

của thơ trữ tình Việt Nam từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại với một

quan niê ̣m và tƣ duy nghê ̣ thuâ ̣t mớ i, mô ̣t hê ̣ thống phƣơng thƣ́ c mớ i khi tái hiê ̣n

hiện thực cuô ̣c sống.

Trong quá trình giao lƣu văn hoá , sƣ̣ du nhâ ̣p củ a thơ ca Pháp vào thơ ca Viê ̣t là điều không thể tránh khỏi. Thơ ca Pháp nhƣ mô ̣t luồng gió mớ i thổi vào hồn thơ

59

, đổ i

,... là do ảnh

Viê ̣t. Thơ Mớ i đã thoát khỏi sƣ̣ ràng buô ̣c có tính quy pha ̣m của thơ cách luật mớ i về mă ̣t thi pháp và tƣ duy thơ , tƣ duy bằng liên tƣở ng , bằng ấn tƣơ ̣ng , bằng cảm giác , bằng âm thanh , nhịp điệu , biến cái trƣ̀ u tƣơ ̣ng thành cu ̣ thể hƣở ng củ a tƣ duy thơ hiê ̣n đa ̣i , nhất là trong thơ Pháp. Ngƣời đọc không lấy làm lạ

là trong Thơ Mới lại chịu ảnh hƣởng đậm đặc thơ ca Pháp, nhất là thơ tƣợng trƣng.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “Theo nghĩa rộng tƣợng trƣng là hình

tƣợng đƣợc hiểu ở bình diện ký hiệu, là ký hiệu chứa đựng tính đa nghĩa của hình

tƣợng. Mọi tƣợng trƣng đều là hình tƣợng, nhƣng phạm trù tƣợng trƣng nhắm chỉ

cái phần mà hình tƣợng vƣợt khỏi chính nó, chỉ là sự hiện diện của một nghĩa nào

đó vừa hoà hợp với hình tƣợng, vừa không đồng nhất hoàn toàn vào hình tƣợng.

(…) Theo nghĩa hẹp tƣợng trƣng là một dạng chuyển nghĩa (tƣơng tự nhƣ phúng

dụ). Khi kết hợp hai bình diện: nội dung “vật thể” và nghĩa bóng của nó sẽ tạo thành

một đối sánh tƣợng trƣng. Mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật (ẩn dụ, so sánh, tả

phong cảnh, các chi tiết, nhân vật v.v..) đều có thể trở thành tƣợng trƣng, nhƣng

chúng có thành tƣợng trƣng hay không, là do các dấu hiệu: 1) Độ cô đúc của sự khái

quát nghệ thuật. 2) Dụng ý của tác giả muốn vạch ra ý nghĩa tƣợng trƣng của những

điều mình miêu tả. 3) Văn cảnh tác phẩm, hệ thống sáng tác của nhà văn cho thấy

một ý nghĩa tƣợng trƣng độc lập với dụng ý miêu tả cụ thể của tác giả. 4) Văn cảnh

văn học của thời đại.” [22, tr.331-332]

Những nhà thơ tƣợng trƣng của Pháp nhƣ: Baudelaire (1821-1867), Rimbaud

(1854-1891), Verlaine (1844-1896), Mallarmé (1842-1898), Valery (1871-1945)…

và những nhà thơ lãng ma ̣n nhƣ : Lamartine (1790-1869), Alfred de Vigny (1797-

1865), Victor Hugo (1862-1885) và nhóm Thi Sơn: Theophile Gautier, Leconte de

Lisle, Sully Prudhomme… đều có ảnh hƣởng sâu đậm đến Thơ Mới ở ta.

Huy Câ ̣n , Xuân Diê ̣u , Hàn Mặc Tử, Đoàn Phú Tƣ́ , Bích Khê ,… đã chịu ảnh

hƣở ng thơ tƣơ ̣ng trƣng của Baudelaire , Verlaine,… nhƣng ngƣờ i chi ̣u ản h hƣở ng Baudelaire sâu sắc phải kể đến Bích Khê và Hàn Mặc Tƣ̉ với những bài thơ mang tính tƣợng trƣng và siêu thực . Các bài thơ của Verlaine nhƣ : Tiếng há t mù a thu , Mƣa rơi dìu di ̣u trên thà nh phố ,… đã ảnh hƣở ng trong thơ Huy Câ ̣n , Lƣu Trọng Lƣ. Các bài : Núi xa , Gƣ̉ i hƣơng cho gió của Xuân Diệu lại phảng phất tâm trạng của

Baudelaire trong bài Chim hả i âu . Các bài : Mai sau, Trò chuyện của Huy Cận lại

60

gần gũi vớ i nhƣ̃ng bài : Nhƣ̃ng hải đăng, Cầu phú c của Baudelaire. Bài Con tà u say

của Rimbaud đã gợi tứ cho tác phẩm Lờ i con đƣờ ng quê của Tế Hanh.

Thơ ca Pháp đã ảnh hƣở ng rõ rê ̣t và sâu sắc đến Thơ Mớ i trong cách gieo vần , lố i ngắt nhi ̣p , lối bắt cầu , cách làm cho ngôn ngữ giàu n hạc điệu , lối diễn tả bằng

cảm giác tinh tế . Có khá nhiều bài thơ Pháp có tác dụng gợi ý cho những bài thơ

Viê ̣t nhƣ: Cái bình vỡ của Sully Prudhonune và Vết thƣơng lò ng của Lan Sơn; U uất

của Baudelaire và Đá m ma đi của Lan Sơn; Nhƣ̃ng con voi của Leconte de Lisle và

Chiến tƣợng của Chế Lan Viên , Con voi già của Huy Thông ; Mặt trăng bạc của

Verlaine và Mây lƣng chƣ̀ ng hà ng của Xuân Diệu ,… Nhƣ̃ng ảnh hƣở ng củ a thơ ca

lãng mạn và tƣợng trƣng của Pháp đ ến Thơ Mớ i cũng rất phƣ́ c ta ̣p . Có khi là sự gặp gỡ củ a mô ̣t tâm tra ̣ng , mô ̣t ý nghĩ , nhƣng cũng có khi là sƣ̣ giống nhau củ a mô ̣t môtip hay mô ̣t hình ảnh ,… Nha ̣c điê ̣u củ a thơ tƣơ ̣ng trƣng Pháp đã ảnh hƣở ng sâu sắc đến nha ̣c điê ̣u thơ củ a Lƣu Tro ̣ng Lƣ , Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh . Thơ củ a

Lƣu Tro ̣ng Lƣ có cái êm dịu , mơ màng , trong sáng củ a Verlaine . Về nha ̣c điê ̣u thì Bích Khê gần với Baudelaire hơn.

Nếu ban đầu Thơ Mới chịu ảnh hƣởng sâu đậm thơ Pháp thì về sau Thơ Mới

có sự kết hợp một cách nhịp nhàng giữa thơ Đông và Tây , đó là sự tƣơng hợp âm thanh, màu sắc con ngƣời và vũ trụ của Đƣờng thi vớ i thơ Pháp trên cơ sở ngôn ngữ

và truyền thống văn hoá Việt. Thơ Mớ i đã cải tạo lại thơ trữ tì nh tiếng Viê ̣t tƣ̀ câu

thơ điê ̣u ngâm sang câu thơ điê ̣u nó i. Ngôn ngƣ̃ Thơ Mớ i gắn với lờ i nói và dòng

ngƣ̃ điê ̣u, cảm xúc của con ngƣời . Thành tựu nhất của Thơ Mớ i là giải phóng câu

thơ, tạo dáng lại cho câu thơ . Thơ Mớ i có thể giãi bày mọi bí mật của cõi lòng riêng tƣ, tƣ̀ nỗi buồn , sƣ̣ cô đơn , nhƣ̃ng khao khát , sƣ̣ chán chƣờ ng , ghen tuông,… Nếu

các nhà thơ cổ chỉ biết vịnh cảnh , vịnh vật, tỏ chí mà không nói đến tình cảm riêng

tƣ củ a mình, thì các nhà Thơ Mớ i thể hiê ̣n nhƣ̃ng đề tài mớ i , lấy cái tôi cá nhân làm trung tâm. Thơ Mớ i vớ i thi pháp mớ i và phát hiện ra cái tôi, bô ̣c lô ̣ cái tôi hết sƣ́ c đa da ̣ng , hấp dẫn và phƣ́ c ta ̣p , mô ̣t cái tôi cá nhân (l‟individu) vớ i tƣ cá ch là đối tƣơ ̣ng nhâ ̣n thƣ́ c và phản ánh củ a thi ca trong quá trình phát triển củ a văn ho ̣c . Các nhà Thơ Mớ i đã ga ̣t bỏ mo ̣i ràng buô ̣c ƣớ c lê ̣ , luân lý ,… củ a mô ̣t thờ i kỳ để trở về vớ i con ngƣờ i mình , tìm thấy chính mình , họ nói bằng những rung cảm trực tiếp và

mãnh liệt. Trong viê ̣c trở về vớ i cái tôi của mình, Thơ Mớ i đã gă ̣p gỡ , hòa đồng vào

61

văn hóa dân tô ̣c và văn hóa nhân loa ̣i . Các nhà Thơ Mớ i đã thể nghiê ̣m thành công các thể thơ truyề n thống nhƣ: Câu thơ tám âm tiết (phát triển từ thể ca trù ), câu thơ

bảy âm tiết (xƣ̉ lý la ̣i thất ngôn Đƣờ ng luâ ̣t), câu thơ năm âm tiết (xƣ̉ lý la ̣i ngũ ngôn Đƣờng luật). Bên ca ̣nh đó , các câu thơ bảy âm tiết (có trong ca vè dân gian), câu thơ

sáu âm tiết (lục ngôn) và thể lục bát , song thất lục bát truyền thống cũng đƣơ ̣c giƣ̃

lại. Nhờ thế, Thơ Mớ i có nhiều khả năng diễn đạt hơn thơ cũ . Trong Thi nhân Viê ̣t Nam, Hoài Thanh đã nhận định : “Phong trào Thơ Mớ i trƣớ c hết là mô ̣t cuô ̣c thí nghiê ̣m táo ba ̣o để đi ̣nh giá la ̣i giá tri ̣ nhƣ̃ng khuôn phép xƣa” [74,tr.49].

Có thể nói Thơ Mớ i là một bƣớc phát triển đạt đến sự hiện đại cả về mặt biểu

hiê ̣n cũng nhƣ cảm hƣ́ ng thơ ca , với nhiều tác phẩm đạt đến trình độ kiệt tác và đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần , mở rô ̣ng cảm xú c và làm cho cảm quan

. của con ngƣời nhạy bén hơn , tâm hồn tinh tế và hƣớ ng tớ i cái đe ̣p hoàn hảo hơn

Nếu ban đầu Thơ Mới chịu ảnh hƣởng thơ ca Pháp thì về sau nó là sự tổng hợp

tuyệt diệu củ a thơ thơ lãng ma ̣n và thơ tƣơ ̣ng trƣn g Pháp với thơ ca Trung Quốc ,

chủ yếu là Đƣờng thi và thơ ca truyền thống của dân tô ̣c .

1.3.2. Thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục tồn tại trên báo chí và

trong phong trào Thơ Mới

1.3.2.1. Tình thế tồn tại của thơ Đường luật

Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đƣờng luật là một trong số

các thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá dài, từng có vị trí gần nhƣ

là độc tôn trên thi đàn Việt Nam. Hiện chƣa có đủ căn cứ để xác định thơ Đƣờng

luật vào Việt Nam lúc nào, nhƣng việc sử dụng thơ Đƣờng luật để sáng tác ở Việt

Nam đã có rất sớm (có thể từ trƣớc thế kỷ X, lúc nƣớc nhà còn bị phong kiến

phƣơng Bắc đô hộ). Đặc biệt thể thơ này đƣợc Việt hoá bắt đầu vào đời Trần (thế

kỷ XIII), để đến thế kỷ XV đã có những thành tựu mẫu mực và sang thế kỷ XVIII,

XIX thì phát triển đến đỉnh cao. Có ngƣời còn đề nghị coi thơ Đƣờng luật viết bằng

tiếng Việt (chữ Nôm và chữ Quốc ngữ) là một trong những thể thơ dân tộc (bên

cạnh Lục bát và Song thất lục bát). Nói thế để thấy rằng thơ Đƣờng luật có một số

phận lịch sử gắn với dân tộc, cùng chia sẻ buồn vui với ngƣời Việt đã tự bao đời.

Bƣớc sang đầu thế kỷ XX, trƣớc những đổi thay lớn lao của thời đại, sự ảnh

hƣởng của văn hoá phƣơng Tây, những chuyển biến trong nhận thức thẩm mỹ của

62

lớp thanh niên Tây học, đặc biệt là sự xuất hiện của nhiều thể loại mới, thơ Đƣờng

luật mất dần địa vị trên thi đàn. Không ít ngƣời sau thất bại của thơ cũ trong trận

chiến với Thơ Mới hồi 1932 - 1945, đã đi đến kết luận: sinh mệnh nghệ thuật của

thơ Đƣờng luật đến đây là chấm dứt hoặc nếu còn cũng chỉ là cái xác không hồn...

Sự thật không hẳn nhƣ thế, nhất là đến nay thời gian đã cho một độ lùi khoảng

bảy, tám chục năm, bình tâm nhìn lại, nhận thấy thơ Đƣờng luật vẫn tiếp tục tồn tại

”. Đặc biệt hơn , trƣớc đó

và phát triển. “Mô ̣t cuô ̣c cách mệnh trong thi ca” [74,tr.19] nổ ra là do các nhà Thơ Mớ i phê phán nhƣ̃ng sƣ̣ bất câ ̣p củ a thơ cũ, có sự cách biệt giữa các nhà Nh o và lớ p trẻ đến mức lớp trẻ “không thể vui cái vui ngày trƣớ c Phạm Quỳnh trong bài Bàn về thơ Nô m [Nam phong, số 5, tháng 11-1917] đã có ý

kiến phê phán thơ cũ. Bài viết đã nêu ra nhƣ̃ng cái tô ̣i trong sáng tác thơ cũ : thất niêm, thất luâ ̣t, khổ đô ̣c, cƣỡng áp, trùng ý, trùng chữ , điê ̣p vâ ̣n… rất khắc nghiê ̣t không khác gì luâ ̣t hình. Chính những điều đó đã làm nảy ra nhu cầu bức thiết phải thay đổi thơ ca . Lớ p trẻ ý thƣ́ c đƣơ ̣c đ iều này nên đã đấu tranh tƣ̣ giải phóng . Họ khiêu chiến vớ i thái đô ̣ không khoan nhƣơ ̣ng và liều lĩnh , hình thành hai trận tuyến vớ i mô ̣t bên là các nhà Nho , trong đó cũng có mô ̣t số ngƣờ i trẻ tuổi t heo Tây ho ̣c nhƣng làm thơ cũ, và một bên là các thanh niên Tây học . Các nhà thơ cũ chủ yếu là làm thơ Đƣờ ng luâ ̣t. Thơ Đƣờ ng luâ ̣t bị các nhà Thơ Mớ i tấn công dƣ̃ dô ̣i , cần tẩy chay vì không đáp ƣ́ ng đƣơ ̣c nhu cầu củ a thờ i đa ̣i . Thơ Đƣờng luâ ̣t lúc này l âm vào tình thế của kẻ thất trận và không còn gây sự chú ý của dƣ luận rộng rãi nữa . Vì thế,

tự nó phải biết thích ứng vớ i thờ i đa ̣i . Trƣớ c tình thơ Đƣờ ng luâ ̣t muốn tồn ta ̣i thì hình này, thơ Đƣờ ng luâ ̣t gă ̣p phải rất nhiề u khó khăn và có nguy cơ bi ̣ đào thải . Đi

tìm nguyên nhân của sự đào thải này , các nhà thơ cũ phát hiện ra những điều cần

cấp bách đổi mớ i để thơ Đƣờ ng luâ ̣t tồn ta ̣i về nô ̣i d ung, cảm xúc , hình thức, cách thể hiê ̣n.

Có sự thay đổi đó, xét đến cùng là do thời đại đổi thay. Trƣớc hết là chủ thể

sáng tác đã thay đổi. Trƣớc đây, nhà Nho là nhân vật văn hóa chính trị, họ học hành

rồi thi cử để ra làm quan; họ sáng tác thơ Đƣờng luật là để nói chí, ngâm vịnh tính

tình và lúc này sáng tác văn học chƣa phải là hàng hoá. Còn bây giờ lớp trí thức mới

mà vẫn sáng tác theo thể thơ cũ nhƣ Tham Toàn, J. Leiba, Thái Can, Quách Tấn,

63

Ngân Giang… họ là những công chức, họ làm thơ nhƣ một nhu cầu nội tâm, và có

thể còn do nhu cầu kiếm sống nữa.

Lúc này, nếu thơ quay la ̣i nhƣ̃ng kiểu ngâm vịnh ngày xƣa thì sẽ không còn sƣ́ c sống, nên các nhà thơ cần phải đổi mớ i về thi hứng , thi pháp. Đặc biệt về mảng thơ miêu tả cảnh thiên nhiên cần phải thể hiê ̣n đƣợc nhƣ̃ng nét mớ i : nhà thơ nhìn cảnh vật với con mắt khác, nô ̣i dung thơ phải biểu đạt các sự vật, sƣ̣ viê ̣c cu ̣ thể chứ không công thƣ́ c sáo mòn nhƣ trƣớ c : Ấp úng không ra đƣợc nửa lời / Tình thu tha

thiết lắ m thu ơi ! (Hàn Mặc Tử ). Hay J. Leiba đã dù ng nhƣ̃ng vần thơ có gio ̣ng

/Nhƣ̃ng tƣởng / Tơi bờ i ong bƣớ m bay qua ngõ

Đƣờng thi để diễn tả nỗi lòng của ngƣời thời nay : Xuân hết, đà o hoa, lý rụng rồi / Hoa đình ti ̣ch mi ̣ch vẻ xuân phai mùa xuân ở xóm ngoài.

Đặc điểm củ a thơ Đƣờng luật là cô đọng , hàm súc, đồng thờ i đây cũng chính là đặc điểm của thơ tƣợng trƣng Pháp . Tuy nhiên, thơ Đƣờ ng luật ít dùng ngôn ngữ

,

cầu kỳ , bí hiểm nhƣ một số nhà thơ lãng mạn và thơ tƣợng trƣng của Pháp đã dùng. Về ngôn ngữ, các nhà Thơ Mớ i sáng tác theo thể Đƣờng luật đã đổi mớ i tƣ̀ ngƣ̃ không còn dù ng nhƣ̃ng tƣ̀ ngƣ̃ quá cũ kỹ , sáo mòn, công thức mang tính ƣớc lệ nhƣ

trƣớc. Cách ngắt nhịp trong thơ Đƣờng luật giai đoạn này đã có sự biến đổi nhất

đi ̣nh, nó phá bỏ sự gò bó chặt chẽ để thể hiê ̣n cu ̣ thể , sinh đô ̣ng và tƣ̣ do những cảm

xúc của cá nhân. Vấn đề sẽ đƣợc luận văn bàn kỹ ở chƣơng ba.

Là kết tinh của tinh hoa văn học của nhiều thế kỷ nên thơ Đƣờng luật đã có

những ƣu thế nổi bật. Thơ Đƣờng luật rèn luyện cho con ngƣời xử lý hài hoà âm

thanh và ý nghĩa, về cách cấu trúc bài thơ. Thơ Đƣờng luật thích hợp với việc diễn

tả tình cảm trang trọng, bền vững, không bị đột biến. Chế Lan Viên trong lời Tựa

Mùa cổ điển của Quách Tấn đã gọi thơ Đƣờng luật là “nguồn tƣợng trƣng thuần túy

nhất”.

Các nhà Thơ Mới đã cảm nhận đƣợc những bài thơ trữ tình giàu tình ngƣời và

tình yêu thiên nhiên của các nhà thơ Đƣờng lãng mạn nhƣ Lý Bạch, Vƣơng Xƣơng

Linh, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên… Trần Tử Ngang có lần đứng trƣớc cái mênh

mông của không gian và cái xa thẳm của thời gian đã thốt lên trong bài Đăng U

Châu đài ca. Và dƣờng nhƣ cái buồn mênh mang, lặng lẽ, cô đơn đó của ông đã nhẹ

nhàng đi vào thơ Huy Cận: Một chiếc linh hồn nhỏ, / Mang mang thiên cổ sầu.

64

1.3.2.2. Thơ Đường luật trên báo chí và trong phong trào Thơ Mới

Trên nhiều tờ báo hồi nửa đầu thế kỷ XX đã cho đăng nhiều thơ Đƣờng luật.

Theo thống kê của Trần Thị Lệ Thanh trong luận án Tiến sĩ: Thơ Đƣờng luật Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX thì ở bộ phận thơ ca công khai không cách mạng ở thời

điểm Thơ Mới chƣa xuất hiện 1900-1931, thơ Đƣờng luật đã ra mắt bạn đọc với

một số lƣợng nhiều chƣa từng có. Đặc biệt từ 1917 đến 1931 số lƣợng Thơ Đƣờng

luật đƣợc đăng tải “nhiều nhƣ nấm” trên các mặt báo. Ở miền Bắc, các tạp chí nhƣ:

Nam Phong tạp chí, Thực nghiệp dân báo, An Nam, Phong hoá, Phụ nữ thời đàm,

Tri tân, Đông Pháp, Hữu thanh,... chỉ hơn chục năm đã có tới mấy ngàn bài thơ

Đƣờng luật. Ở miền Trung trên các tờ Tinh hoa, Tràng An, Tiếng dân. Ở miền Nam,

các tờ nhƣ Tân thế kỷ, Thần chung, Đông phƣơng, Đông Tây, Báo mai, Đông Pháp

thời báo, Tân dân báo... số lƣợng thơ Đƣờng luật cũng tƣơng đối lớn. Chỉ riêng tờ

Phụ nữ tân văn, số lƣợng thơ Đƣờng luật đã là 385 bài của 74 tác giả. Ngoài ra còn

phải kể đến một số lƣợng lớn những sáng tác đƣợc in trong các thi tập riêng, nhƣ:

Tản Đà có 66 bài thơ Đƣờng luật; Trần Tuấn Khải có 108 bài Đƣờng luật; và một số

tác giả có sáng tác thơ Đƣờng luật nhƣ Đông Hồ, Ngân Giang, Bích Khê v.v.. Thời

điểm Thơ Mới ra đời và thắng thế đến 1945, số lƣợng thơ Đƣờng luật trên các báo

giảm hẳn. Cuộc tấn công của Thơ Mới vào thành trì thơ cũ quả đã gây nên một cuộc

cách mạng trong thi ca, khiến lớp Nho sĩ cuối mùa hầu nhƣ bất lực. Trên các tờ

Đông Pháp, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy, Đàn bà, Phụ nữ thời đàm, Hồn nƣớc, thơ

Đƣờng luật chiếm một tỷ lệ cực kỳ khiêm tốn. Bù lại, sự có mặt của những cây bút

điêu luyện nhƣ Tú Mỡ, Đồ Phồn, Vân Đài, Hằng Phƣơng, Quách Tấn... đã làm cho

vƣờn thơ Đƣờng luật tuy ít nhƣng bớt phần ảm đạm, đặc biệt là Quách Tấn với số

lƣợng và chất lƣợng nghệ thuật cao nên đƣợc công chúng hoan nghênh và đƣợc các

nhà Thơ Mới đón nhận. Riêng trên tờ Nam Phong tạp chí dù ông chủ bút Phạm

Quỳnh có phàn nàn về thơ cách luật, nhƣng ở mục Văn uyển từ số 1 (1917) đến số

179 (1932) có cho đăng 1.896 bài thơ Đƣờng luật của 148 tác giả, mà phần nhiều là

thơ vịnh cảnh, tả cảnh và thơ vịnh sử (có đến 115 bài). Còn trên An Nam tạp chí của

Tản Đà, sau 6 lần tái xuất bản, tờ báo này đã cho đăng 147 bài thơ Đƣờng luật của

42 tác giả, có tác giả đƣợc ông chủ bút tờ báo viết bài ngợi ca: Tham Toàn, Quách

Tấn, Bích Khê… với những bài thơ “rất hay”, “công phu” và “khá nhuần nhuỵ”.

65

Với bộ phận thơ ca yêu nƣớc và cách mạng, từ đầu thế kỷ đến 1929, thơ

Đƣờng luật dù không nhiều nhƣ thơ Đƣờng luật ở bộ phận thơ ca công khai, nhƣng

nếu so với những thể loại khác trong cùng bộ phận văn học này, thì thơ Đƣờng luật

vẫn chiếm một số lƣợng khá lớn. Thử thống kê qua các cuốn tuyển tập, hợp tuyển

thì thấy số lƣợng thơ Đƣờng luật so với thế kỷ XIX giảm không đáng kể 161/303 -

196/269. Từ cuối năm 1908, mặc dù cách mạng bị khủng bố và văn thơ cách mạng

lâm vào tình thế khó khăn, nhƣng thơ ca vẫn theo các chí sĩ ra Côn Đảo, vào nhà tù,

dƣờng nhƣ lại có xu thế quay về với thơ Đƣờng luật, phần lớn là thơ Đƣờng luật

chữ Hán. Sau đại chiến (1921), các chí sĩ đƣợc trả tự do, thơ Đƣờng luật của các

nhà ái quốc nhân đó xuất hiện trở lại nhiều hơn. Thời điểm từ 1929 đến 1945, đáng

kể nhất là Phan Bội Châu có 631 bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, Nôm và Quốc

ngữ; Hồ Chí Minh với 82 bài Đƣờng luật bằng chữ Hán sáng tác trong nhà tù

Tƣởng Giới Thạch (1942-1943). Ngoài ra còn có thơ Đƣờng luật của một số nhà

cách mạng vô sản nhƣ Trần Huy Liệu, Tôn Quang Phiệt, Đặng Xuân Thiều, Đinh

Chƣơng Dƣơng... dù số lƣợng ít hơn. [con số thống kê dẫn lại từ: 76,tr.11] và [7]

Trong phong trào Thơ Mới, có thể thấy có một số nhà thơ từng sáng tác theo

thể Đƣờng luật, về sau lại sáng tác theo các thể Thơ Mới mà Hàn Mặc Tử, Bích Khê

là minh chứng. Bên cạnh đó, có một vài nhà thơ trong phong trào Thơ Mới vừa

sáng tác theo thể Thơ Mới lại vừa sáng tác theo thể Đƣờng luật và cũng có một số

nhà thơ kiên trì tiếp tục sáng tác theo thể thơ cũ: Đƣờng luật (tứ tuyệt, bát cú) mà

Quách Tấn, Ngân Giang là những đại biểu. Ngân Giang sáng tác hơn 4000 bài,

trong đó có hơn 2000 bài thơ Đƣờng luật. Do chúng tôi chƣa có điều kiện đọc tất cả

các bài thơ của các tác giả thuộc phong trào Thơ Mới nên chƣa thể thống kê trong

đó có bao nhiêu bài thơ Đƣờng luật. Chỉ tính riêng trong Thi nhân Việt Nam đã

tuyển 169 bài thơ củ a 46 tác giả (riêng TTKH và Trần Huyền Trân, chỉ đƣợc giới

thiệu và trích dẫn những câu thơ, chứ không tuyển cả bài), sơ bộ chúng tôi nhận

thấy có một số nhà thơ đã sáng tác theo thể Đƣờng luật nhƣ: J. Leiba (Bến giác); Đỗ

Huy Nhiệm (Đìu hiu, Hoa tủi); Lƣu Kỳ Linh (Cành hoa thu muộn); Nguyễn Giang

(Xuân, Con đƣờng nắng, Mẹ); Quách Tấn (Đà Lạt đêm sƣơng,Về thăm nhà cảm tác,

Đêm thu nghe quạ kêu, Đêm tình, Mộng thấy Hàn Mặc Tử, Tình xƣa, Trơ trọi,

Chiều xuân, Bên sông); Lƣu Trọng Lƣ (Chiều cổ, Điệu huyền)… Đó là chƣa kể đến

66

trong rất nhiều bài thơ sáng tác theo thể Thơ Mới của nhiều tác giả ít nhiều đã chịu

ảnh hƣởng hay mang dấu vết Đƣờng thi rất rõ nhƣ trong thơ của Xuân Diệu, Huy

Cận, Thâm Tâm, Thái Can, Vân Đài, v.v.. Vấn đề sẽ đƣợc trình bày sau đây.

1.3.3. Dấu ấn tƣợng trƣng của thơ Đƣờng trong Thơ Mới

Trung Quốc là một nƣớc có truyền thống về thơ. Tính từ Kinh Thi đến thơ hiện

đại thì thơ Trung Quốc có đến hơn 2500 năm lịch sử, mà ở mỗi thời đại lịch sử, thơ

cũng có những nét đặc sắc riêng. Thơ Đƣờng là đỉnh cao của thơ Trung Quốc và

cũng là đỉnh cao của thơ ca nhân loại. Thơ Đƣờng, trong đó có thơ Đƣờng luật, cơ

bản mang tính tƣợng trƣng là chính, tức nói bằng hình thức gián tiếp thông qua sự

vật bên ngoài. Ngƣời xƣa cho rằng con ngƣời sống phải thuận theo lẽ tự nhiên, hoà

hợp với tự nhiên. Lão Tử từng nói: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo,

đạo pháp tự nhiên” (Ngƣời theo lẽ đất, đất theo lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo thuận

theo lẽ tự nhiên). Quan niệm “Thiên nhân tƣơng cảm”, “Thiên nhân tƣơng dữ” bắt

nguồn từ lối sống trên. Vƣơng Chi Hoán đời Đƣờng đã sử dụng tính chất tƣợng

trƣng trong bài Đăng Quán Tƣớc lâu: Bạch nhật y sơn tận,/ Hoàng Hà nhập hải

lƣu./ Dục cùng thiên lý mục,/ Cánh thƣớng nhất tằng lâu. Dịch: Bóng ô đã gác non

đoài,/ Sông Hoàng nƣớc chảy ra ngoài biển khơi./ Dọc ngàn tầm mắt muốn coi,/

Lầu cao ta lại lên chơi một tầng (Ngô Tất Tố). Ở đây, con ngƣời có thể thu vào tầm

mắt mình cảnh biển rộng, trời cao, non nƣớc mênh mông, khi bƣớc lên lầu cao. Bài

thơ đã thể hiện đƣợc khí thế vƣơn lên của con ngƣời thời Thịnh Đƣờng.

Trong văn học Việt Nam, thể Đƣờng luật đƣợc nhiều tác giả của nhiều thế hệ

sử dụng trong gần mƣời thế kỷ văn học trung đại, trong đó thơ Đƣờng luật chữ Hán

đời Trần của nhiều tác giả có thể nói là danh bút nên đƣợc Lê Quý Đôn khen là

“hay nhất trong nền thơ chữ Hán Việt Nam” [Kiến văn tiểu lục]. Bên cạnh phải kể

đến thơ chữ Hán của các đại thi hào: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn

Du, Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, v.v.. Còn về thơ

Đƣờng luật Nôm phải kể đến các thi hào, thi bá nhƣ: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông

và hội Tao đàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hƣơng, Bà huyện Thanh Quan,

Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xƣơng, v.v.. Trong đó, có rất nhiều

bài thơ mang dấu ấn tƣợng trƣng. Từ đó, các nhà Thơ Mới học tập cách diễn đạt

tƣợng trƣng về cảm xúc của con ngƣời, chẳng hạn nhƣ Huy Cận trong bài Tràng

67

giang với cảm xúc về tình yêu thiên nhiên đất nƣớc, tình sông núi và dƣờng nhƣ có

cùng một điệu với Bà huyện Thanh Quan trong bài Qua đèo Ngang.

Thông qua biểu tƣợng đa nghĩa, các nhà Thơ Mới còn tìm về thơ Đƣờng luật.

Thơ Đƣờng luật Trung Quốc có những bài cho đến nay vẫn còn nổi tiếng, vì các nhà

thơ đã diễn đạt theo lối tƣợng trƣng, chẳng hạn nhƣ bài Hoàng Hạc lâu của Thôi

Hiệu, dù đây là bài thơ phá cách (thất luật, thất niêm…):

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dƣ Hoàng Hạc lâu.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dƣơng thụ,

Phƣơng thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hƣơng quan hà xứ thị,

Yên ba giang thƣợng sử nhân sầu.

Tƣợng trƣng là cách biểu đạt cuộc sống thông qua biểu tƣợng đa nghĩa. Dù các

nhà Thơ Mới phần lớn học tập ở thơ ca tƣợng trƣng Pháp, nhƣng họ vẫn tìm về với

cội nguồn phƣơng Đông. Thơ Huy Cận giàu chất tƣợng trƣng, nhà thơ đã vật thể

hóa những gì thuộc về lĩnh vực ý niệm - vốn rất đặc thù của loại hình thơ tƣợng

trƣng, mà trong Lửa thiêng, khi nói về mộng thì gắn liền với những trạng thái thể

chất thích hợp với mong mỏi (Tôi mỏi chạy theo tình; Chân mỏi vạn đƣờng

cong;…), tê mê (Tê mê cõi biếc bến bờ là đâu),… Nét đặc trƣng của mộng trong thơ

Huy Cận góp phần thể hiện cho sự đa dạng, cho sự mộng mơ có tính đặc thù của

Thơ Mới 1932-1945.

1.3.4. Ảnh hƣởng của thơ Đƣờng đối với một vài nhà thơ lãng mạn Việt Nam

1932-1945

Đầu thế kỷ XX, văn ho ̣c Viê ̣t Nam đã chuyển sang một phạm trù văn học khác,

một tƣ duy nghê ̣ thuâ ̣t khác , mà phạm trù văn học và tƣ duy nghệ thuật này hoàn toàn khác vớ i văn ho ̣c văn ho ̣c trung đa ̣i trƣớ c đó . Đây là thờ i kỳ diễn ra quá trình hiê ̣n đa ̣i hoá văn ho ̣c . Quá trình này diễn ra chƣa đầy nửa thế kỷ nhƣng lại có một

nhịp độ và tốc độ phát triển mau lẹ , nói nhƣ Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại

là “ở nƣớ c ta, một năm đã có thể nhƣ ba mƣơi năm của ngƣờ i” [51]. Nếu ở chă ̣ng

68

, văn minh củ a

đƣờ ng 30 đầu thế kỷ XX là chă ̣ng đƣờ ng có nhiê ̣m vu ̣ đă ̣t nền cho công cuô ̣c hiê ̣n đa ̣i hoá văn ho ̣c nƣớc nhà mà GS . Trần Đình Hƣơ ̣u go ̣ i đây là văn ho ̣c giai đoa ̣n giao thờ i, thì sang chặng đƣờng 1932-1945 công cuô ̣c hiê ̣n đa ̣i hoá văn học đã hoàn thiê ̣n. Nguyên nhân sâu xa là lú c này xã hô ̣i Viê ̣t Nam có nhiều biến đổi nên dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong tâm lý và ý thức hệ . Mă ̣t khác, lúc này ta có điều kiê ̣n vƣơ ̣t ra ngoài giớ i ha ̣n củ a khu vƣ̣c để tiếp xú c vớ i văn hoá phƣơng Tây , của thế giới hiện đại . Đó là tiền đề ta ̣o điều kiê ̣n cho văn ho ̣c mau

chóng thoát khỏi hê ̣ thống thi pháp trung đa ̣i , để chuyển sang một hệ thống thi pháp

mớ i theo kiểu hiện đại. Văn ho ̣c Viê ̣t Nam giai đoa ̣n 1932-1945 đã làm đƣơ ̣c điều kỳ diệu ấy , đã cách tân mô ̣t cách toàn diê ̣n và sâu sắc nhất . Trong đó , thành tựu nổi bâ ̣t với công đầu là thuô ̣c về phong trào Thơ Mớ i và văn xuôi Tự Lực văn đoàn. Chỉ vớ i mô ̣t thờ i gian rất ngắn khoảng gần 10 năm, nếu tính tƣ̀ ngày bài thơ mới đầu tiên trình chánh giƣ̃a làng văn : bài Tình già của Phan Khôi tr ên báo Phụ nữ tân văn năm 1932 đến năm 1941, nhà phê bình Hoài Thanh đã có thể lựa đƣợc trong số

hàng chục nghìn bài của hàng trăm nhà thơ để chọn ra 169 bài thơ hay của 46 tác

giả với nhiều phong cách khác nhau , trong đó có nhiều tác phẩm hiện vẫn đƣợc nhiều ngƣời thuộc lòng, truyền tụng, ngợi ca. Nếu so sánh thơ Đƣờ ng (gần 300 năm, có 48.900 bài thơ hay của hơn 2.300 tác giả) vớ i Thơ Mớ i (trong gần 10 năm,

có 169 bài thơ hay củ a 46 tác giả) thì về mặt tỷ lệ, sƣ̣ thành tƣ̣u thơ ca của ta cũng

không đến nỗi là quá ít ỏi. Sau đây là con số so sánh về tỷ lệ giữa thơ Đƣờng và thơ

Mới: độ thời gian gấp 30 lần, số tác giả gấp 50 lần, số bài thơ hay gấp khoảng 290

lần. Tuy Thơ Mớ i thể hiê ̣n nhƣ̃ng cái rấ t mớ i về bú t pháp , hê ̣ thống thi pháp, tƣ duy nghê ̣ thuâ ̣t, cách cảm nhƣng nó vẫn là nguồn mạch thơ với dòng chảy không hề gián

đoa ̣n, vì thế ít nhiều dò ng thơ này cũng đã kế thƣ̀ a , phát triển và cách tân những thành tựu th ơ ca củ a cha ông , đồng thời chịu ảnh hƣởng của thơ Đƣờ ng. Điều này,

Hoài Thanh và Hoài Chân trong Một thời đại thi ca (Thi nhân Việt Nam) đã phân

chia Thơ Mới gồm ba dòng: dòng thơ Pháp; dòng thơ Đƣờng; dòng thơ Việt [74].

Thế thì Thơ Mớ i đã chi ̣u ảnh hƣởng của thơ Đƣờng nhƣ thế nào?

+ Vớ i Xuân Diê ̣u Xuân Diê ̣u là “nhà thơ mớ i nhất trong các nhà Thơ Mớ i” [74]. Nhƣng trong cái

, cái xƣa . Có thể nói chính hai yếu tố đó đã hòa mớ i hiê ̣n đa ̣i vẫn còn cái hoài cổ

69

quyê ̣n và o nhau để hồn thơ củ a chàng thi sĩ ho ̣ Ng ô trở nên đô ̣c đáo , hấp dẫn, đƣơ ̣c sƣ̣ hoan nghênh củ a tuổi trẻ “đã có nhƣ̃ng thiếu niên , thiếu nƣ̃ hoan nghênh tôi…” nhƣ Xuân Diê ̣u đã tƣ̀ ng phát biểu.

Ảnh hƣở ng củ a thơ Đƣờ ng đối vớ i thơ Xu ân Diê ̣u có thể nói là phong phú , đa dạng, lại mang mô ̣t cá tính sáng ta ̣o rất riêng củ a Xuân Diê ̣u . Chẳng ha ̣n trong cảnh mùa thu rất quen thuộc của Việt Nam , chỉ Xuân Diệu mới để ý đến : “nhƣ̃ng luồng run rẩy rung rinh lá ” cùng“cà nh biếc run run chân ý nhi” . Nghe đàn dƣớ i trăng thu, chỉ Xuân Diệu mới thấy “lung linh bó ng sá ng bỗng rung mình” và mới có cái xôn xao gƣ̉ i trong mấy hàng chƣ̃ la ̣ lù ng này : Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời /

Đà n ghê nhƣ nƣớ c l ạnh, trờ i ơi! / Long lanh tiếng sỏi vang vang hận / Trăng nhớ Tầm Dƣơng, nhạc nhớ ngƣờ i” (Nguyê ̣t cầm). Ở đây Xuân Diê ̣u đã chịu ảnh hƣởng

bài Tỳ bà hành của Bạch Cƣ Dị khi miêu tả tiếng đàn của ngƣời kỹ nữ trên bến Tầm

Dƣơng trong đêm trăng. Và đề tài mùa thu thƣờng là khởi nguồn cảm hứng cho

nhiều thi nhân, tƣ̀ các nhà thơ nổi tiếng đờ i Đƣờ ng - Trung Quốc nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ (Thu hứng), đến các nhà thơ Việt Nam nhƣ Nguyễn Khuyến (Thu ẩm, Thu điếu,

Thu vi ̣nh), Lƣu Tro ̣ng Lƣ (Tiếng thu), hay Bích Khê “Ô hay! Buồn vƣơng cây ngô đồ ng/ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” (Tỳ bà) mà nhiều ngƣời cho rằng đây

là hai câu kiệt tác trong thơ tiếng Việt. Đề tài đó tuy cũ nhƣng mớ i , tuy quen nhƣng

lạ. Cũ và quen là vì đó là đề tài muôn thuở, còn mới và lạ là do các nhà thơ đã cách

tân, sáng tạo , biến cái chung thành cái riêng củ a mình mà Xuân Diê ̣u là mô ̣t điển hình: Rặng liễu đìu hiu đƣ́ ng chi ̣u tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng / Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Vớ i á o mơ phai dê ̣t lá và ng (Đây mù a thu tớ i).

Nếu ở hai câu thơ trên nhi ̣p thơ châ ̣m và lơi , thì hai câu thơ tiếp theo , nhịp thơ

nhƣ gấp rú t hẳn lên , nghe nhƣ mô ̣t tiếng trầm trồ , mô ̣t tiế ng reo , thầm báo cho ngƣờ i đo ̣c bi ết mùa thu đã đến với một nỗi nga ̣c nhiên bất chơ ̣t : Đây mù a thu tớ i ,

mùa thu tới! Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Nếu trong thơ xƣa, mùa thu chỉ là cái cớ để các nhà thơ cũ tức cảnh , gở i gắm nỗi niềm, có khi nói chí, thì ở đây, bản thân mùa thu chính là đối tƣơ ̣ng để chàng thi sĩ lãng mạn chiêm nguỡng và rung đ ộng trƣớc một vẻ buồn mà đe ̣p củ a thiên nhiên

đất trời. Vì thế, khi nhìn sắc vàng nhạt nhoà tàn phai của lá úa, Xuân Diê ̣u la ̣i thấy

nhƣ là mô ̣t sắc áo sáng đe ̣p và hơi buồn của mùa thu khoác lên vạn vâ ̣t.

70

Bút lực tài hoa ấy không chỉ dừng lại ở đấy , bút lực đó còn giúp cho nhà thơ

phát hiện ra nét độc đáo , thú vị của cảnh đ ồng quê Việt Nam : Mây biếc về đâu bay

gấp gấp / Con cò trên ruộng cánh phân vân (Thơ duyên). Cũng là áng mây , cũng là

cánh cò thƣờng gặp trong thơ xƣa nhƣng dƣới ngòi bút của Xuân Diệu lại đầy sáng

tạo, đô ̣c đáo, mớ i mẻ . Nếu trong thơ xƣa khi miêu tả mây mù a thu thƣờ ng là “mây

đù n cƣ̉ a ải ” nhƣ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng hay mây đang trôi nhàn nhã “cô

về đâu ?

vân độc khƣ́ nhà n” nhƣ của Lý Bạch trong bài Độc toạ Kính Đình sơn, thì ở đây , mây củ a Xuân Diê ̣u la ̣i “ bay gấp gấp” vớ i vẻ hối hả nhƣng chẳng biết Cũng là cánh cò, nhƣng cánh cò củ a Vƣơng Bô ̣t thì đang cô đơn cù ng bay v ới ráng chiều vƣ̀ a sa xuống “Lạc hà dữ cô lộ tề phi ” trong bài Đằng Vƣơng Các tự , còn cánh cò của Xuân Diê ̣u la ̣i là cánh cò đang “phân vân”, ngâ ̣p ngƣ̀ ng, lƣỡng lƣ̣, nửa muốn đâ ̣u, nƣ̉ a muốn bay và nếu ba y thì không biết bay cao hay thấp, bay gần hay xa? Các nhà phê bình xƣa nay đều khen hết lời về hai câu thơ đầy sáng tạo , đô ̣c đáo,

tinh tế này củ a Xuân Diê ̣u , nói nhƣ Hoài Thanh là bởi “có sự cách biệt của hơn một

ngàn năm và của hai thế giới” [74,tr.107].

Có thể nói Xuân Diê ̣u đã đem la ̣i cho dòng thơ lãng ma ̣n mô ̣t sƣ́ c hấp dẫn nồng nàn, mãnh liệt, sục sôi vớ i mô ̣t bú t lƣ̣c tài hoa, vớ i cách dù ng tƣ̀ ngƣ̃ chính xác, sáng tạo, giàu hình ảnh và gợi cảm . Đú ng là “Xuân Diê ̣u đã gƣ̉ i trong thơ của ngƣờ i một

chút hƣơng xƣa của đất nƣớc” [74,tr.109]. Cái “chú t hƣơng xƣa” ấy phải chăng đó

chính là phong vị thơ truyền thống phƣơng Đông trong đó có phong vị Đƣờng thi đã

ảnh hƣởng sâu đậm trong hồn thơ của “nhà thơ m ới nhất trong các nhà Thơ Mớ i”

lúc bấy giờ ?

+ Với Huy Câ ̣n

“Huy Câ ̣n vƣ̀ a bƣớ c vào làng t hơ đã đƣơ ̣c ngƣờ i ta dành ngay cho mô ̣t chỗ yên ổn” [74]. Có đƣợc điều đó bởi lẽ do hồn thơ của Huy Cận “đã có hồi ngƣờ i ta tƣở ng muốn làm thơ hay phải là ngƣờ i hay khóc và thi nhân mỗi lần cầm bú t là mô ̣t lần

phải “nâng kh ăn lau mắt lê ̣”. Nhƣng buồn mãi cũng chán . Trên Tao đàn Viê ̣t Nam bỗng phe phẩy mô ̣t ngo ̣n gió yêu đờ i, tuy không thổi tan nhƣ̃ng đám mây sầu , u ám, iếng reo vui (…) Phải tinh lắm mớ i thấy lòng song cũng mấy lần ngân lên nhƣ̃ng t

mình nhƣ thế giƣ̃a thế giớ i ồ a ̣t, cái rộn rịp của cuộc đời hàng ngày” [74,tr.125-126].

Đây có lẽ là điều mà Huy Câ ̣n đã ho ̣c đƣơ ̣c qua thơ Pháp . Nhƣng vớ i tài quan sát

71

tinh tế đƣơ ̣c rèn luyê ̣n trong bối cảnh hiện thực mớ i, Huy Câ ̣n đã làm một việc táo bạo là tìm về những cảnh xƣa , với nỗi buồn nơi quán châ ̣t đèo cao , nỗi buồn củ a sông dài, trờ i rô ̣ng, nỗi buồn của ngƣời lữ thứ dừng ngựa trên non… Thơ Huy Cận đã “lƣợm lặt chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não”, “đã go ̣i dâ ̣y cái hồn buồn củ a Đông Á , ngƣờ i đã khơi la ̣i cái ma ̣ch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này . Huy Câ ̣n triền miên trong cảnh xƣa , trò chuyện với

ngƣờ i xƣa, luôn luôn đi về trên con đƣ ờng thời gian vô tận . Nhƣ̃ng con đƣờ ng về

quá khứ đi càng xa , càng cô tịch tứ bề càng vắng lặng , mênh mông. Có lẽ thi nhân

trong cuô ̣c viễn du đã có lần nhác thấy cái xa thẳm củ a thờ i gian và không gian , có lẽ ngƣời đã nghe trong hồn hơi gió la ̣nh buốt tƣ̀ vô cù ng đƣa đến . Mô ̣t Pascal hay mô ̣t Huygo trong lú c đó sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng” [74,tr.127]. Vớ i chất điềm đa ̣m

của phƣơng Đông, Huy Câ ̣n chỉ lă ̣ng lẽ buồn : Một chiếc linh hồn nhỏ / Mang mang thiên cổ sầu. Đo ̣c hai câu thơ trên của tác giả Lửa thiêng khiến chúng ta nhớ la ̣i cái buồ n củ a Trần Tƣ̉ Ngang cách chúng ta một ngàn năm trƣớ c, cũng đã có niềm cô

đơn với nỗi sầu thiên cổ trong bài Đăng U Châu đà i ca mà ở mục trƣớc luận văn có

dẫn lại. Cái buồn của Huy Cận không chỉ dừng lại ở đó mà còn trải dài , trải rộng

sâu thẳm trong không gian , vƣơn tớ i mô ̣t miền quê viễn xƣ́ : Lớ p lớ p mây cao đù n núi bạc / Chim nghiêng cá nh nhỏ : bóng chiều sa / Lòng quê dợn dợn vờ i con nƣớ c /

Không khó i hoà ng hôn cũng nhớ nhà .” (Tràng giang)

Không gian nghê ̣ thuâ ̣t trong khổ thơ mở ra đến chân trời xa lơ xa lắc , do thế

nỗi buồn củ a tác giả cũng vô tâ ̣n . Bằng mô ̣t sƣ̣ quan sát tinh tế và sƣ̉ du ̣ng ngôn ngƣ̃ chắt lo ̣c, Huy Câ ̣n đã vẽ lên mô ̣t cảnh tƣợng thiên nhiên kỳ vĩ trong buổi hoàng hôn. Nhƣ̃ng đám mây ba ̣c trắng xoá , hết lớ p này đến lớ p khác , tƣ̀ trên cao dồn tu ̣, đù n la ̣i

trông nhƣ những ngọn núi, nắng chiều chiếu vào làm nó lung linh, rƣ̣c sáng thâ ̣t đe ̣p mà nhà thơ gọi là “núi bạc”. Dƣớ i bầu trờ i mênh mông , nơi ngo ̣n nú i xa xăm , có

mô ̣t cánh chim nhỏ nhoi , đơn đô ̣c, đang nghiêng cánh dƣớ i ánh nắng chiều vƣ̀ a sa xuống. Buổi chiều đã buồn , cánh chim chiều nơi bầu trờ i mênh mông càng làm cho buổi chiều buồn thêm và lẻ loi hơn . Huy Câ ̣n đã tƣ̀ ng phát biểu rằng tƣ̀ “đù n” đƣơ ̣c sƣ̉ du ̣ng trong câu thơ “Lớ p lớ p mây cao đù n nú i bạc ” là ông mƣợn từ bài thơ Thu

hƣ́ ng của Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cƣ̉ a ải xa” nhƣng có sáng tạo, bởi “mây đùn

cửa ải” chỉ có hình khối, trong khi “mây cao đùn núi bạc” thì vừa có hình khối, lại

72

có màu sắc và ánh sáng. Hình ảnh chim nghiêng cánh dƣới ánh chiều vừa sa xuống

, là ý mà Huy Cận vay mƣợn của Vƣơng Bột đời Đƣờng

trong khổ thơ cũng là tƣ́ trong bài Đằng Vƣơng Các tự : “Lạc hà dƣ̃ cô lộ tề phi” (ráng chiều sa xuống cùng vớ i cánh cò đơn chiếc đang bay). Hình ảnh mây, núi, chim trờ i và ánh chiều tà đƣơ ̣c kết hơ ̣p trong hai câu thơ đã ta ̣o nên mô ̣t phong vi ̣ cổ điển của Đƣờng thi . Hình ảnh

thiên nhiên ấy đã gơ ̣i cho Huy Câ ̣n mô ̣t nỗi nhớ quê cồn cào da diết . Nhà thơ vớ i tâm hồn đang cô đơn , lă ̣ng lẽ ngắm nhìn vũ tru ̣ bao la , cảm nhận cái vĩnh viễn vô tận của không gian , vô cùng của thờ i gian. Thờ i gian vô ha ̣n vô cù ng , không gian

mênh mông vô tâ ̣n, còn kiếp ngƣời thì hữu hạn . Cảnh ấy, tình ấy đã gợi cho nhà thơ

viết nên hai câu cuối tuyê ̣t tác : Lòng quê dợn dợn vời con nƣớc, / Không khó i hoà ng hôn cũng nhớ nhà . Theo nhà thơ “Dợn” là nổi lên , cuô ̣n lên nhƣ sóng . Lúc dòng

thuỷ triều lên hay xuống , con nƣớ c chảy xiết , cuô ̣n lên nhƣ sóng. Lòng nhớ quê của

tác giả cũng y nhƣ thế. Khi viết hai câu thơ nà y, Huy câ ̣n đã mƣơ ̣n tƣ́ và ý tƣ̀ hai câu kết củ a Thôi Hiê ̣u đờ i Đƣờ ng trong bài “Hoà ng Hạc lâu” nổi tiếng, nổi tiếng đến nỗi khi vi ̣ thi Tiên Lý Ba ̣ch đến thăm danh thắng này không thể cất bú t đề thơ đƣơ ̣c nƣ̃a, bở i “có thơ Thôi Hiệu ở trên đầu - Thôi Hiê ̣u đề thi tại thƣợng đầu” (Lý Bạch):

. Còn Huy Câ ̣n ngày nay, dù

“Nhật mộ hƣơng quan hà xƣ́ thi ̣ ?/ Yên ba giang thƣợng sƣ̉ nhân sầu ” (Quê hƣơng khuất bó ng hoà ng hôn ,/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai - Tản Đà). Câu thơ của Thôi Hiệu mang nỗi buồn sâu lắng , nỗi nhớ quê da diết trong buổi chiều tà nơi đất khách quê ngƣời. Có điều , thi nhân đờ i Đƣờ ng ngày xƣa nhìn khói sóng trên sông mớ i nhớ quê , tƣ́ c còn có cái để bám víu mà nhớ không có khói hoàng hôn trên sông , tƣ́ c không có chỗ bám víu nhƣng nhà thơ vẫn cƣ́ nhớ nhà , vẫn cƣ́ buồn . Điều đó chƣ́ ng tỏ chàng thi sĩ lãng ma ̣n Viê ̣t Nam buồn hơn, sầu hơn thi nhân đờ i Đƣờ ng ngày xƣa ! Nỗi buồn nhớ quê hƣơng ấy trà n ngâ ̣p tâm hồn củ a kẻ tha hƣơng trong buổi hoàng hôn . Nó cắt cứa , xoáy mạnh và cuồn cuô ̣n đến da diết trong tâm hồ n nhà thơ với m ột nỗi buồn sông núi , biểu hiê ̣n tình yêu quê hƣơng sâu đâ ̣m ! Chỉ với bốn câu thơ , Huy Câ ̣n đã cho ngƣờ i đo ̣c thấy rõ mô ̣t hồn thơ hiê ̣n đa ̣i nhƣn g đâ ̣m chất cổ xƣa của mô ̣t trí thƣ́ c Tây ho ̣c nhƣng mang đâ ̣m phong vi ̣ Đƣờ ng thi.

+ Với Thâm Tâm

73

Hoài Thanh có nhận xét về Thâm Tâm và bài “Tống biệt hành” nhƣ sau: “Thơ

thất ngôn của ta bây giờ t hƣ̣c có khá c thơ thất ngôn cổ phong . Nhƣng trong “Tống biê ̣t hà nh” lại thấy sống lại cá i không khí riêng của nhiều bà i thơ cổ . Điê ̣u thơ gấp, lờ i thơ gắ t . Câu thơ gân guốc , rắ n rỏi . Không mềm mại uyển chuyển nhƣ phần nhiều thơ bây giờ . Nhƣng vẫn đƣợm chú t bâng khuâng khó hiểu của thờ i đại” [74,tr.280].

Thâm Tâm nổi tiếng bở i bài “Tống biê ̣t hà nh” và bài thơ đã cho ngƣờ i đo ̣c

thấy đƣợc thơ Đƣờ ng đã ảnh hƣở ng nhƣ thế nào trong thơ của ông.

Tống biê ̣t là một đề tài cũ thƣờ ng gă ̣p trong thơ văn xƣa ở Trung Quốc và Viê ̣t

Nam. Hầu nhƣ nhƣ̃ng nhà thơ nổi tiếng đều có nhƣ̃ng bài thơ hay về đề tài này nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ (Trung Quốc), Nguyễn Du, Cao Bá Quát (Viê ̣t Nam).

Hành là một thể thơ cổ có trƣớc đời Đƣờng . Nó là một dạng của thơ cổ phong

trƣờ ng thiên vớ i lối viết tƣ̣ do , phóng túng, không ha ̣n chế về số câu tro ng bài và

cũng không gò bó , câu thúc về niêm, luật, vần, đối. Trong văn ho ̣c Trung Quốc ,

chúng ta hay gặp những bài thơ viết theo thể hành nhƣ “Lê ̣ nhân hà nh” , “Binh xa

hành” (Đỗ Phủ), “Tỳ bà hà nh” (Bạch Cƣ Dị). Ở Việt Nam cũng có những bài hành nổ i tiếng nhƣ “Sở kiến hà nh” , “Dự Nhƣợng chuỷ thủ hành” (Nguyễn Du ). Riêng trong thơ ca lãng ma ̣n , mô ̣t số nhà thơ hay viết thể này nhƣ Thâm Tâm , Nguyễn , bi hù ng Bính… và các bài hành thƣờng sử dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẫn

nhƣ “Tống biê ̣t hà nh” ,“Trƣờ ng can hà nh” (Thâm Tâm), “Vọng nhân hà nh ”, “Hà nh phƣơng Nam” (Nguyễn Bính)… Vớ i mô ̣t đề tài cũ , mô ̣t thể thơ cổ nhƣng tƣ̀ khi ra đờ i đến nay, bài hành của Thâm Tâm lại hấp dẫn bao thế hê ̣ ngƣờ i đo ̣c.

Nhƣ thi đề , Tống biê ̣t hà nh là lời của của tác giả đối với “ly khách”. Vì thế ,

tình cảm trong bài thơ là nỗi lòng của ngƣời đƣa tiễn đối với ngƣời ra đi . Thông qua

tình cảm ấy ngƣời đọc sẽ hiểu thêm về nỗi lòng - tâm tra ̣ng củ a ly khách . Bốn câu

thơ đầu của bài thơ đã đƣợc các nhà phê bì nh xƣa nay thừa nhận đây là bốn câu thơ

hay nhất trong toàn bài và trong thơ lãng mạn. Đây cũng là những câu thơ mang âm hƣởng của Đƣờng thi. Bốn câu thơ thể hiê ̣n tâm tra ̣ng luyến lƣu xao xuyến củ a ngƣờ i đƣa tiễn trong buổi hoàng hôn ly biệt: Đƣa ngƣờ i, ta không đƣa qua sông, / Sao có tiếng só ng ở trong lò ng ? / Bóng chiều không thắm , không và ng vọt , / Sao

đầy hoà ng hôn trong mắ t trong?

74

Mô ̣t số ba ̣n cũ củ a Thâm Tâm cho biết , ông làm bài thơ này để tiễn mô ̣t ngƣờ i bạn đi lên chiến khu thƣ̣c hiê ̣n chí lớ n. Gần đây, chính ngƣời đƣợc tặng bài thơ cũng xác nhận điều này trong hồi ký của ông , và ông còn có một bài thơ hoạ lại vớ i nhan ta mà viế t bài hành Tống đề là “Gƣ̉ i Thâm Tâm” cùng l ời ghi chú “ngƣời đã vì

biê ̣t”. Ly khách trong bài thơ là ông Phạm Quang Hoà

(Đa ̣i tá Quân đô ̣i Nhân dân Việt Nam đã nghỉ hƣu ta ̣i Hà Nô ̣i ) và trong buổi tiệc tiễn đƣa ấy , theo ông Hoà , ngoài ngƣời ra đi là ông còn có ba ngƣời đƣa tiễn là b a nhà thơ : Thâm Tâm, Trần Huyền Trân và Nguyễn Bính . Buổi t iễn đƣa ấy diễn ra vào cuối hè năm 1939 tại Phố Hiến (Hƣng Yên), quê ông, hôm ấy mỗi ngƣờ i tă ̣ng ly khách mô ̣t bài thơ . Nguyễn Bính viết bài Chia tay, Trần Huyền Trân viết bài Tiễn đƣa và Thâm Tâm viết Tống biê ̣t hà nh [theo Thế Anh, Góp thêm một vài tƣ liệu xung quanh bài “Tống

biê ̣t hà nh”của Thâm Tâm , Tạp chí Văn , Hô ̣i Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh , số

5-2000, tr.91-93]. Nhƣ̃ng bài thơ ấy đều hay n hƣng bài Tống biê ̣t hà nh của Thâm Tâm la ̣i nổi tiếng hơn cả . Bài thơ là nỗi lòng của ngƣời đƣa tiễn đối với ly khách và qua nỗi lòng đó , ngƣờ i đo ̣c sẽ hiểu rõ hơn về tâm tra ̣ng củ a ly khách . Trong bài thơ, ly khách buồn chiề u hôm trƣớ c, buồn sá ng hôm nay. Nhƣng vì chí lớ n nên ly khách kìm lòng, với quyết tâm ra đi và cố làm ra vẻ dƣ̉ ng dƣng :“Một giã gia đình một dƣ̉ ng dƣng” (…) “Li khách! li khá ch ! con đƣờ ng nhỏ / Chí nhớn chƣa về bàn tay

không / Thì không bao giờ nó i trở lại / Ba năm me ̣ già cũng đƣ̀ ng mong” . Câu thơ “Chí nhớ n chƣa về bàn tay không/ Thì không bao giờ nói trở lại” nghe nhƣ mô ̣t lờ i thề, mô ̣t sƣ̣ quyết tâm mà mỗi lần đo ̣c , chúng ta lại nhớ đến lời thề của trá ng sĩ Kinh Kha ngày xƣa khi vƣơ ̣ t dòng sông Di ̣ch , tƣ̀ biê ̣t t hái tử Đan nƣớc Yên để qua đất Tần hành thích Tần Thuỷ Hoàng đế : “Gió đìu hiu, sông Di ̣ch lạnh lù ng ghê ,/ Tráng sĩ một đi không trở về” (Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn / Tráng sĩ nhất khứ bất

phục phản). Nƣớ c sông hôm ấy la ̣nh thâ ̣t ! Lạnh đến nỗi mà cả nghìn năm sau vẫn

còn thấy lạnh . Cái cảm giác này đã đƣợc Lạc Tân Vƣơng , mô ̣t trong tƣ́ kiê ̣t thờ i Sơ

Đƣờng cảm nhận rồi thốt lên trong bài Dịch Thuỷ tống biê ̣t : “Thử địa biệt Yên

Đan,/ Tráng sĩ phát xung quan./ Tích thời nhân dĩ một,/ Kim nhật thuỷ do hàn”.

Không gian tiễn đƣa trong bài thơ này không phải là dòng sông ly biê ̣t nhƣ

chúng t a thƣờ ng gă ̣p trong thơ văn xƣa . Dòng sông trong thơ văn xƣa thƣờ ng là biểu tƣợng của nơi đƣa tiễn . Mô ̣t thái tử nƣớc Yên tiễn Kinh Kha trên dòng Dịch

75

Thuỷ để sau này Lạc Tân Vƣơng khi đi qua dòng sông này , nhớ lại chuyê ̣n xƣa đã

viết nên tuyê ̣t tác Dịch Thuỷ tống biệt ; Mô ̣t Lý Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên về

Quảng Lăng cũng bên dòng Trƣờng Giang từ nơi phía tây lầu Hoàng Hạc : Hoàng

Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng … Ở đây , buổi tiễn đƣa ấy không

diễn ra nơi dòng sông “ta không đƣa qua sông” nhƣng lại “có tiếng só ng ở trong

lòng”. Tiếng sóng ở đây là “tiếng só ng lò ng”, là tình cảm, là nỗi đau của ngƣời đƣa tiễn đối vớ i ly khách. Vì là “tiếng só ng lò ng” nên dòng sông ở đây chỉ là dòng sông tâm tƣởng.

Tống biê ̣t là đề tài xƣa , hành là thể thơ cổ nhƣng qua bài thơ này Thâm Tâm

đã có sƣ̣ đổi mớ i , cách tân, sáng tạo. Hình ảnh “tiếng só ng trong lò ng ” và “hoàng hôn trong mắ t” có thể xem là hai hình ảnh đô ̣c sáng . Cũng là buổi tiễn đƣa n hƣng không có dòng sông ly biê ̣t để gơ ̣i không khí bi hù ng mà chỉ có nỗi buồn man mác , bâng khuâng. Cũng là buổi chiều ly biệt nhƣng không có nắng vàng nhớ nhung mà

chỉ có nắng không thắ m, cũng không và ng vọt . Chút nắng hoàng hôn ấy đủ để xâm chiếm cõi lòng và đo ̣ng la ̣i trong đôi mắt củ a kẻ ở , ngƣờ i đi : Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?. Chính sự cách tân về hình ảnh , về cách diễn đa ̣t ấy cù ng vớ i sƣ̣

kết hơ ̣p hà i hoà âm thanh (hài thanh) và các biện pháp tu từ mà cả bài thơ cũng nhƣ bố n câu thơ mở đầu đã tăng thêm cảm xú c cho ngƣờ i đo ̣c . Ở đây, do hoàn cảnh li ̣ch sƣ̉ củ a thờ i đa ̣i , Thâm Tâm không thể nói rõ tiễn đƣa ai và ly khách ra đi để làm gì mà chỉ biểu lộ lòng yêu nƣớ c sâu kín củ a mình qua tình cảm ngƣỡng vo ̣ng đối vớ i ngƣờ i ba ̣n ra đi vì nghĩa lớ n . Đó là điều giú p ta hiểu ta ̣i sao khi bình bài thơ này trong Thi nhân Viê ̣t Nam , Hoài Thanh đã xem bài thơ “đƣợm chú t bâng khuâng ,

khó hiểu của thờ i đại” [74]. Cái “đƣơ ̣m chú t bâng khuâng ” đấy phải chăng do âm

hƣở ng Đƣờng thi bao trù m toàn bài thơ, đă ̣c biê ̣t là ở bốn câu thơ đầu?

Có thể khẳng đi ̣nh thơ Đƣờ ng đã có ảnh hƣở ng sâu sắc đến các nhà thơ lãng

mạn Việ t Nam giai đoa ̣n 1932-1945. Tuy sƣ̣ ảnh hƣở ng ở mỗi nhà thơ mỗ i khác

nhau nhƣng sƣ̣ ảnh hƣở ng đó đã ta ̣o ra mô ̣t dấu ấn rất riêng , nhƣ̃ng phong cách thơ

khác nhau làm đa dạng , phong phú vƣờ n thơ lãng ma ̣n Viê ̣t Nam . Chính Hoài

Thanh đã nhận định: “Huống chi trong hàng thanh niên chi ̣u ảnh hƣở ng thơ văn

Pháp nhiều ngƣời lại quay về thơ Đƣờng . Thanh thế thơ Đƣờ ng ở nƣớ c ta xƣa nay bao giờ cũng lớ n . Nhƣng vì cái ho ̣c khoa cƣ̉ , nhƣ̃ng bài thơ kiê ̣t tác ngâm đi giảng

76

lại hoài đã gần thành vô nghĩa . Nó chỉ là cái máy đẻ đú c ra hàng va ̣n thí sinh cùng hàng vạn bài thơ cổ. Đến khi khoa cƣ̉ bỏ , chƣ̃ Nho không còn là một con đƣờng tiến thân. Song thiếu niên Tây ho ̣c cũng có ngƣờ i thích xem sách Nho. Họ chỉ cốt tìm mô ̣t nguồn sống tinh thần. Họ đi tới thơ Đƣờng với một tấm lòng trong sạch và mớ i mẻ, điều kiê ̣n cần thiết để hiểu thơ . Cho nên, dầu dốt nát, dầu nghĩa câu , nghĩa chữ lắm khi ho ̣ rất mờ , họ đã hiểu thơ Đƣờ ng hơn nhiều tay khoa bảng” [74,tr.33]. TIỂ U KẾ T

, lại sớm tiếp Quách Tấn sinh ra trong mô ̣t gia đình có truyền thống Nho ho ̣c

xúc với Tây học , nên ông đã chi ̣u nhiều ảnh hƣở ng củ a gia đình . Khi còn ngồi trên

ghế nhà trƣờ ng , ông đã tâ ̣p làm thơ , thích viết theo thể Đƣờng luật vì đây là sở trƣờ ng củ a ông. Lớ n lên mô ̣t chú t, tài năng thơ đó đƣợc cụ Phan Sào Nam nâng đỡ , rồi nhà thơ Tản Đà dìu dắt , nên Quách Tấn chính thƣ́ c bƣớ c lên thi đàn thâ ̣t vƣ̃ ng vàng.

Gần tro ̣n 60 năm cầm bú t , Quách Tấn đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn ho ̣c đồ sô ̣ và quý giá cả thơ lẫn văn và biên khảo , đă ̣c biê ̣t là thơ. Qua nhƣ̃ng gì trình bày, có thể khẳng định Quách Tấn có một vị tr í xứng đáng trên thi đàn văn học

. Chính

Viê ̣t Nam, mô ̣t thi sĩ hiê ̣n đa ̣i nhƣng văn phong mang phong vị Đƣờ ng thi nhờ hƣơng thơ của Quách Tấn mà vƣờ n hoa văn ho ̣c Viê ̣t Nam càng thêm phong

phú, đa da ̣ng sắc màu.

Trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ XX, trong

đó có nhu cầu hiện đại hoá thơ Việt. Trong quá trình đó, do ảnh hƣởng của phƣơng

Tây, đặc biệt là ảnh hƣởng thơ Pháp, phong trào Thơ Mới đã hình thành và phát

triển với một tốc độ “một năm bằng ba mƣơi năm của ngƣời” [51]. Cuộc đấu tranh

giữa hai phái Cũ và Mới diễn ra, cuối cùng phe Mới thắng thế. Tuy vậy, dòng thơ

Cũ, chủ yếu là thơ Đƣờng luật vẫn tiếp tục tồn tại chẳng khác nào nhƣ một mạch

ngầm xuyên suốt, không đứt đoạn. Trong khi một số nhà thơ đã ít nhiều có tiếng với

những sáng tác theo thể Đƣờng luật, nhƣng đứng trƣớc sự tấn công của Thơ Mới,

họ từ bỏ thơ cũ để sáng tác theo thời đại, thì vẫn có ngƣời âm thầm kiên trì thuỷ

chung với thể thơ Đƣờng luật. Quách Tấn chính là con ngƣời ấy.

Để xác lập mã nghệ thuật của thơ Đƣờng luật của Quách Tấn, cần phải xem

xét đặc trƣng thi pháp của thể loại quy định nhƣ: số câu trong bài, số chữ trong câu,

77

niêm, luật, vần, đối, đồng thời còn phải xét xem các yếu tố khác nhƣ cách cắt nhịp

với sự phá vợ tính quy phạm của thể loại, cách hoà âm tạo nhạc tính cho thơ, nghệ

thuật sử dụng ngôn ngữ; sự cách tân cấu trúc câu thơ, nghệ thuật dụng điển của tác

giả… Đồng thời còn xét xem các yếu tố khác nhƣ tƣ duy thơ, đề tài và cảm hứng

sáng tạo. Chính nhờ những mã nghệ thuật này mà ngƣời đọc có thể thấy đƣợc nét

riếng, cái cá tính sáng tạo và phong cách của tác giả. Đồng thời mới thấy đƣợc

những đóng góp của Quách Tấn trong phong trào Thơ Mới dù đƣợc ông viết theo

thể thơ cũ.

78

Chƣơng 2

MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN

NHÌN TỪ NỘI DUNG CẢM HỨNG

Nếu ở chƣơng 1, luận văn đã giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp Quách Tấn;

phân biệt các khái niệm „thơ Đƣờng‟, „thơ Đƣờng luật‟ và „thơ Đƣờng luật Việt

Nam‟, nêu ra những tiêu chí để xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật; đặt thể thơ

này trong bối cảnh hiện đại hoá của văn học Việt Nam, chỉ ra một số ảnh hƣởng của

thơ Đƣờng đối với thơ lãng mạn và thì sang chƣơng này, luận văn tìm hiểu mã nghệ

thuật thơ Đƣờng luật của Quách Tấn trên phƣơng diện nội dung cảm hứng nhƣ về

đề tài - cảm hứng và những cảm hứng chủ đạo.

2.1. ĐỀ TÀI VÀ CẢM HỨNG

2.1.1. Đề tài

Đề tài là “Khái niệm chỉ loại các hiện tƣợng đời sống đƣợc miêu tả, phản ánh

trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phƣơng diện khách quan của nội dung tác

phẩm. Các hiện tƣợng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo mối quan hệ

bền ngoài giữa chúng. Cho nên, có thể xác định đề tài văn học theo giới hạn bề

ngoài của phạm vị hiện thực đƣợc phản ánh trong tác phẩm: đề tài thiên nhiên, đề

tài sản xuất, đề tài chiến đấu…” (…) “Các hiện tƣợng đời sống lại có thể liên kết

với nhau thành loại theo mối quan hệ bên trong của chúng. Cho nên cũng có thể xác

định đề tài văn học theo giới hạn bên trong của phạm vi hiện thực đƣợc phản ánh

trong tác phẩm văn học” [22,tr.96]. Theo Phƣơng Lựu thì: “Đề tài là yếu tố cơ bản

của tác phẩm văn học, dùng để chỉ phạm vi đời sống hoặc tâm trạng đƣợc phản ánh

trong công trình nghệ thuật của nhà văn” [24] và [41]. Trong Thi pháp thơ Đƣờng,

Quách Tấn cũng khẳng định: “Đề tài là nguyên tố cấu thành thi phẩm. Thể cách (tự,

cú, chƣơng…) chỉ là công cụ, là thủ đoạn để biểu đạt đề tài đƣợc chọn lựa”

[69,tr.296].

Ở đây, cần lƣu ý là nghiên cứu tác phẩm văn học, tuy cùng xuất phát từ việc

tiếp cận đề tài, nhƣng trong thực tế lại có hai cách bởi xuất phát từ hai quan niệm

khác nhau. Một là, coi đề tài chỉ đơn thuần là “một hiện tƣợng đời sống đƣợc miêu

tả, một phạm vi đời sống đƣợc phản ánh” nên tiếp cận đề tài chỉ đơn thuần trên

79

phƣơng diện nội dung, tức nghiên cứu văn học theo kiểu xã hội học. Hai là, coi hiện

tƣợng đƣợc miêu tả, phạm vi đƣợc phản ánh đó phải luôn luôn gắn với cảm hứng,

cảm xúc của tác giả. Nhƣ vậy, tiếp cận đề tài, khai thác nội dung phải gắn liền với

việc khám phá nguồn cảm xúc của tác giả. Ở đây, khi thực hiện luận văn, chúng tôi

theo hƣớng tiếp cận thứ hai này.

Thế thì thơ Đƣờng luật hồi nửa đầu thế kỷ XX, và nhất là thơ của Quách Tấn

đã phản ánh phạm vi hiện thực nào, tức thể hiện đề tài và cảm hứng gì?

Nhìn một cách tổng quát, đề tài và cảm hứng chủ đạo trong thơ Đƣờng luật

chữ Hán, chữ Quốc ngữ đăng trên báo chí và in thành thi tập của các tác giả hồi nửa

đầu thế kỷ XX thì có thể nêu ra đây bốn đề tài và cảm hứng chính, đó là: Đề tài và

cảm hứng thiên nhiên; Đề tài và cảm hứng yêu nƣớc; Đề tài và cảm hứng lịch sử;

Đề tài và cảm hứng thế sự - đời tƣ.

Qua khảo sát sơ bộ thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX trên các báo nhƣ Nam

Phong tạp chí, An Nam tạp chí… và trong phong trào Thơ Mới, có thể thấy đề tài

và cảm hứng ở thơ Đƣờng luật quả là phong phú và có phần phức tạp. Phong phú là

bởi bên cạnh những đề tài có tính truyền thống nhƣ thiên nhiên, đất nƣớc, lịch sử,

thế sự,… còn có những đề tài ít nhiều mang tính chất mới, nhƣ tình yêu lứa đôi,

cuộc sống ngƣời nghèo… Phức tạp là bởi tuy cùng một đề tài cụ thể, nhƣng với

từng tác giả, lại có những cảm xúc, cảm hứng khác nhau. Riêng thơ Đƣờng luật chữ

Quốc ngữ nửa đầu thế kỷ XX, theo thống kê của Trần Thị Lệ Thanh thì “chiếm hơn

80% tổng số thơ Đƣờng luật trong giai đoạn này. Chẳng hạn về đề tài thiên nhiên

trong thơ Đƣờng luật Quốc ngữ có đến 736 trên 832 bài, tỷ lệ 88,4%” [dẫn lại:

76,tr.81].

Về đề tài và cảm hứng, chỉ xét riêng ở hai tập thơ Một tấm lòng và Mùa cổ

điển, có thể thấy, Quách Tấn thƣờng viết về thiên nhiên, về quê hƣơng đất nƣớc, về

tâm sự cá nhân (đời tƣ), v.v.. Vấn đề sẽ trình bày cụ thể ở mục tiếp theo.

2.1.2. Cảm hứng và Cảm hứng chủ đạo

Thế nào là “Cảm hƣ́ ng chủ đa ̣o” ? Theo Đại tƣ̀ điển tiếng Viê ̣t (Nxb Văn hóa , “Cảm hƣ́ ng” là “dâng trào Thông tin, 1999, tr.244) thì: nếu xét ở góc đô ̣ đô ̣ng tƣ̀

nhƣ̃ng cảm xú c, thúc đẩy óc tƣởng tƣợng , sáng tạo, hoạt động có hiê ̣u quả”; còn xét

ở góc độ danh từ, thì “Cảm hƣ́ ng” là “mô ̣t tra ̣ng thái tâm lý : trạng thái cảm hứng”.

80

Theo Tƣ̣ điển thuật ngƣ̃ văn học thì “Cảm hƣ́ ng chủ đạo là trạng thái tình cảm , gắn liền vớ i mô ̣t tƣ tƣở ng xác

mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghê ̣ thuâ ̣t đi ̣nh, mô ̣t sƣ̣ đánh giá nhất đi ̣nh , gây tác đô ̣ng đến cảm xú c củ a nhƣ̃ng ngƣờ i tiếp nhâ ̣n tác phẩm . “Bêlinxki coi cảm hƣ́ ng chủ đa ̣o là điều kiê ̣n không thể thiếu củ a viê ̣c ta ̣o ra nhƣ̃ng tác phẩm đích thƣ̣c , bở i nó “biến sƣ̣ chiếm lĩnh thuần tú y trí óc đối vớ i tƣ tƣở ng thành tình yêu đối vớ i tình yêu mãnh mẽ , mô ̣t khát vo ̣ng nhiê ̣t thành” [22,tr.38-39]. Thuâ ̣t ngƣ̃ cảm hƣ́ ng chủ đa ̣o lú c đầu chỉ yếu tố nhiê ̣t tình say sƣa diễn thuyết , sau chỉ tra ̣ng thái mê đắm khi xuất hiê ̣n tƣ́ thơ . Về sau lý luâ ̣n văn học xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nô ̣i dung nghê ̣ thuâ ̣t, của thái

. Theo nghĩa này , cảm . Cảm hứng chủ đ ạo

đô ̣ tƣ tƣở ng xú c cảm ở nghê ̣ sĩ đối vớ i thế giớ i đƣơ ̣c mô tả hƣ́ ng chủ đa ̣o thống nhất vớ i đề tài và tƣ tƣở ng củ a tác phẩm đem la ̣i cho tác phẩm mô ̣t không khí xú c cảm tinh thần nhất đi ̣nh , thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung , tác phẩm. Đây là cái mƣ́ c căng thẳng cảm xú c i quan củ a mình trong tác mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế giớ , có ngƣời phân loại cảm hứng chủ

phẩm. (…) Trong nghiên cƣ́ u văn ho ̣c hiê ̣n đa ̣i đa ̣o thành: bi ki ̣ch, chính kịch, anh hù ng, cảm thƣơng, lãng mạn, trƣ̃ tình, trào lộng, châm biếm ... Có thể gọi tắt những cảm hứng chủ đạo là “cảm hứng” [22,tr.38-39].

Tƣ̀ lý thuyết trên, vâ ̣n du ̣ng để tìm hiểu thơ Quách Tấn , xem thơ ông mang nhƣ̃ng cảm hƣ́ ng chủ đa ̣o gì? Và những cảm hứng đó đƣợc biểu hiện nhƣ thế nào để tạo ra một phong cách Q uách Tấn, không thể nhầm lẫn vớ i bất kỳ nhà thơ nào cù ng thờ i? Có thể bƣớc đầu nêu ra đây một số cảm hứng chủ đạo trong thơ Quách Tấn nhƣ: cảm hứng về thiên nhiên , cảm hứng về quê hƣơng đất nƣớc , nỗi niềm hoà i cổ , cảm hứng Thiền đạo.

2.2. CẢM HỨNG VỀ THIÊN NHIÊN

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở củ a thơ ca , là ngƣời bạn tri âm , tri kỷ vớ i thi

: nhân. Vì thế, mô ̣t trong nhƣ̃ng cảm hƣ́ ng chủ đa ̣o hàng đầu củ a thơ Quách Tấn là

Tình yêu thiên nhiên . Thiên nhiên trong thơ Quách Tấn nắm trong nguồn mạch thơ

Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XX viết về thiên nhiên nhƣ thế nào?

Trong cuộc đấu tranh giữa hai phái Mới và Cũ, nhiều ngƣời phái Mới đã cho

rằng thơ Đƣờng luật trên báo chí nửa đầu thế kỷ XX là sáo rỗng cũ mòn, đã hết

thời. Nhận xét trên chỉ đúng với một số ít bài thơ mà thôi. Thật ra, riêng về đề tài và

81

cảm hứng thiên nhiên trong thơ Đƣờng luật Quốc ngữ hồi này không chỉ sống động

mà còn giàu hình ảnh và cảm xúc. Điều này có đƣợc là do chất lƣợng miêu tả mới.

Ví dụ: Phạm Xuân Hoè đã tƣởng tƣợng phong phú khi đứng bên bờ hồ lúc trời mƣa:

“Chòm sao sợ sấm ngồi nhay nháy,/ Đoàn chớp do mây chạy nhố nhăng.” (Đứng

bờ hồ Cửu Long). Vân Đài tả đảo Cát Bà với núi giăng, với buồm căng lúc nắng

sớm: “Một núi rủ theo bao núi khác,/ Đỡ trời nghiêng chắn bể bao la./ Buồm căng

nắng sớm ngang tàng lƣợn,/Thuyền chở trăng chiều sóng sánh qua.” (Đảo Cát Bà).

Hàn Mặc Tử thì miêu tả thiên nhiên kết hợp với tình cảm chủ quan, khám phá thiên

nhiên bằng tâm hồn, bằng tƣởng tƣợng bay bổng và cảm xúc mạnh mẽ: “Bóng

nguyệt leo song sờ sẫm gối,/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.” (Thức khuya); “Hôm

nay có một nửa trăng thôi,/ Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi…/ Ta nhớ mình xa thƣơng

đứt ruột,/ Gió làm nên tội buổi chia phôi.” (Một nửa trăng). Quách Tấn thì quan sát

thiên nhiên với những biến thái tinh vi và miêu tả hoàn toàn bằng chủ quan: “Tình

ta lóng lánh giọt sƣơng mai,/ Ngọc mấy hàng ngƣng đọng bóng trời./ Dì gió đa tình

ơi, chớ đến,/ làm cho lá sợ hạt sƣơng rơi.” (Giọt sƣơng mai); và: “Trăng ghẹo non

sông nằm thồn thức,/ Gió ru trời đất ngủ mơ màng.” (Canh khuya tỉnh giấc). Từ đó,

có thể thấy, thơ Đƣờng luật Quốc ngữ hồi này đã có sự chuyển biến về chất lƣợng

trong cách viết, trong cách diễn đạt; về tƣ duy cũng nhƣ về cảm xúc. Điều này,

không chỉ thấy ở thơ của các nhà thơ vừa trích dẫn ở trên, mà còn thấy ở các nhà

thơ khác nhƣ: Đông Hồ, Lê Bạch Nhƣ, Mộng Lan, Ái Hoa, Mộng Sơn, Đỗ Huy

Nhiệm, Trần Hữu Giƣơng… Chẳng hạn, Đông Hồ trong bài Xuân nhật thi bút:

“Khói lồng bờ liễu mày xanh biếc,/ Sƣơng đƣợm cành mai dáng thƣớt tha. (…) Nõn

nà má thắm đào say gió,/ Tha thiết mày xanh liễu nhuốm sƣơng.” Còn đây là thơ

của Mộng Sơn tả gió: “Ngàn mây tóc xoả bay theo gió,/ Dặm liễu rùng mình lƣớt

dƣới mƣa./ Quán khách buồn trông giời đất lạnh,/ Bên tai thác đổ tự bao giờ?”

(Gió). Đỗ Huy Nhiệm cũng có thơ tả gió: “Cơn gió đìu hiu lƣớt mặt hồ,/ Thổi rơi

xuống nƣớc chiếc hoa khô./ Giật mình làn nƣớc cau mày giận,/ Tan cả vầng trăng

toả lững lờ.” (Đìu hiu). Nhƣ vậy, cùng một đề tài về “gió”, mỗi nhà thơ có cách tƣ

duy và cảm xúc khác nhau.

Có khi nhà thơ không chỉ tả cảnh đang vận động mà cảnh còn đƣợc xây dựng

bằng tƣởng tƣợng, liên tƣởng có khi nghịch lý nhƣ trong thơ của Đông Hồ: “Mặt

82

nƣớc hòn non nổi,/ Đáy hồ mảnh nguyệt trôi./ Chiếc thuyền thong thả dạo,/ Tiếng

hát động chân trời.” (Bơi thuyền chơi Đông hồ - Đông Hồ), nhờ thế mà ngƣời đọc

có cảm giác thiên nhiên gần với cuộc sống con ngƣời, và do vậy, thiên nhiên sống

động hơn, tình cảm hơn.

Với Quách Tấn, tình yêu thiên nhiên trong thơ ông, có thể nói , đƣợc hình

thành từ quan niệm “thiên nhân tƣơng dữ”, “thiên nhân tƣơng cảm”, xem thiên

, mà trái lại còn gắn bó , hòa hợp với con ngƣời . Mă ̣t

, của triết học và nhất là những tinh

nhiên không chỉ là khách thể khác, nhƣ̃ng thành tƣ̣u củ a khoa ho ̣c kỹ thuâ ̣t hoa củ a tôn giáo , đă ̣c biê ̣t là nhà Phâ ̣t đã chi phối cách nhìn , sƣ̣ cảm nhâ ̣n và tƣ duy của Quách Tấn về thiên nhiên . Tƣ̀ đó , ngƣờ i đo ̣c có thể hiểu thêm về Quách Tấn và . Ông thơ củ a ông viết về thiên nhiên . Quách Tấn là con ngƣời mến mộ đạo Phật

nhìn thiên nhiên bằng cảm quan Phật giáo . Theo nhà thơ, “con ngƣờ i và thiên nhiên

tác động tƣơng hỗ với nhau về các mặt thể xác , trí tuệ và tâm linh” , bằng mô ̣t thái đô ̣ “đồng rung cảm, đồng đau khổ và đồng sinh diê ̣t” [71]. Chính vì thế mà , thiên nhiên trong thơ Quách Tấn là hình ảnh thiên nhiên hiện thực , mang dấu ấn cảm xúc

cá nhân nhà thơ, có khi đƣợc nhìn qua cảm quan Thiền đạo của nhà Phật . Đồng

thời, thiên nhiên trong thơ ông không tĩnh tại mà luôn có sự vận động. Đọc những

bài thơ viết về thiên nhiên qua các tập thơ trƣớc năm 1945: Một tấm lòng (1939),

Mùa cổ điển (1941) và từ năm 1945 về sau: Đọng bóng chiều (1965), Mộng Ngân

Sơn (1966), Giọt trăng (1973)… sẽ thấy rõ điều này

2.2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong hiê ̣n thƣ ̣c cuô ̣c số ng

Vớ i tƣ cách là nhà thơ , Quách Tấn luôn muốn hòa điệu cùng với thiên nhiên .

Bở i con ngƣờ i sống giƣ̃a thiên nhiên , thiên nhiên là cái nôi nuôi dƣỡng con ngƣờ i;

,

đồng thờ i , thiên nhiên còn là đối tƣơ ̣ng , là khách thể để con ngƣời ngắm nhìn thƣở ng thƣ́ c, giãi bày hay gởi gắm tâm tƣ .

Đây là ƣớ c vo ̣ng củ a nhà thơ trong cái ồn ã giƣ̃a đờ i thƣờ ng , trong lòng phố

thị: Cám ơn ông hàng xóm,

Ngƣng mở má y thu thanh.

Võng đƣa thềm mận chín,

Nghe sẻ gọi bình minh. (Tiếng vui)

83

Mô ̣t tình cảnh rất đáng thƣơng ! Thi sĩ phải c hịu đựng tiếng loa phát thanh

suố t ngày dài , suốt năm tháng ! Ông chỉ mong ƣớ c có đƣơ ̣c chú t khoảnh khắc yên tĩnh để lắng lòng nghe tiếng chim hót và ngắm ánh bình minh .

Đôi dòng thơ trên đủ cho thấy nhƣ̃ng gì mà Quách Tấn kha o khát, nhƣ̃ng gì là chất sống quan tro ̣ng củ a thi sĩ: hoa trái, chim chóc, ánh bình minh, trăng sao và bao nhiêu yếu tố khác củ a thiên nhiên , mô ̣t thiên nhiên hiê ̣n hƣ̃u đã tƣ̀ muôn triê ̣u năm ,

trƣớ c khi loài ngƣờ i có mă ̣t trên trái đất này. Tƣ̀ đó , dáng vẻ của thiên nhiên không

ngƣ̀ ng ánh lên tỏa sắc lung linh và bao vẻ đe ̣p đă ̣c thù củ a nó đã đƣơ ̣c ngòi bú t

Quách Tấn tái hiện lại thật sinh động.

Đó là vẻ thanh bình , nhẹ nhàng và nên thơ nhƣ một bức tr

anh tả chân vớ i nhƣ̃ng hình ảnh quen thuô ̣c bình di ̣ ở thôn quê , thông qua hình ảnh cây măng tre vớ i vòi cong cong , cao vú t nơi bu ̣i tre , mọc bên dòng khe nƣớc trong vắt ; và trên cành

măng ấy, có con chim chèo bẻo đang đậu lắc lƣ , dƣờng nhƣ nó đang cất tiếng hót

líu lo dƣới nền trời rạng đông rực hồng ấm áp . Theo cách diễn đạt của thơ cổ điển

“ý tại ngôn ngoại”, cho dù nhà thơ không nhắc đến âm thanh nhƣng câu thơ vẫn

vang vo ̣ng tiếng chim:

Lên dò ng khe nƣớ c trong, Cây măng vò i cong cong.

Lắ c lƣ chim chè o bẻo,

Trên nền trờ i rạng đông.

(Rạng đông)

Đây là cảnh cánh đồng quê vàng ửng hƣơng thơm của lúa theo làn gió nồm

nam; dƣớ i ánh nắng hồng, có tiếng chim cu cƣờm đang gù gù dòn dã . Cảnh đƣợc vẽ

lại thật uyển chuyển, gió phơi phới đƣa hƣơng, rỡ ràng và vui tƣơi:

Sóng gợn đồng lúa thơm,

Hƣơng theo ngọn gió nồm.

Qua hà ng tre nắ ng nhuộm,

Dòn dã tiếng cu cƣờm.

(Đơn giản)

84

Đó còn là cảnh gió thổi bất chơ ̣t , trăng soi lô ̣ng lẫy làm con ngƣ ời choáng

ngơ ̣p cuốn hú t cả thần hồn :“Thình lình dì gió mở tung cửa ,/ Đƣa chi ̣ Hằ ng Nga lộng lẫy và o.” (Thình lình)

Hoă ̣c cảnh vâ ̣t lãng ma ̣n , thơ mô ̣ng vớ i hoa , gió, trăng, dáng liễu rủ nhƣ tóc

xỏa, chúng nhƣ đang tình tự q uấn quyê ̣n bên nhau qua cách dù ng các đô ̣ng tƣ̀

“chộp”, “dƣ̀ ng” thâ ̣t đă ̣c sắc và liên tƣở ng thú vi ̣ :“Hồn hoa chộp mộng thơm hồn gió,/ Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.” (Đêm tình)

Thiên nhiên vớ i các loài hoa khoe sắc thắm tƣơi trƣ ớc gió, dƣớ i sƣơng đƣơ ̣c

nhà thơ ghi lại thật kiều diễm , thâ ̣t vƣơng giả làm cho lòng ngƣờ i chuếnh choáng

đắm say. Nàng gió đã làm những cánh hoa thƣợc dƣợc đong đƣa nhƣ đang say múa

làm cho những đóa hải đƣờ ng trong mƣa ; nhƣ̃ng gio ̣t sƣơng trong đêm xuân nhƣ

chơ ̣t tỉnh giấc mô ̣ng đe ̣p :“Thƣợc dƣợc gió bay mà u tú y vũ ,/ Hải đƣờng sƣơng tỉnh giấc xuân tiêu .” (Xuân quạnh). Có lẽ khi viết hai câu thơ trên , Quách Tấn đã chịu

ảnh hƣởng thơ Cung oá n ngâm khú c của Ôn Nhƣ Hầu Nguyễn Gia Thiều , ở câu

137-138 của khúc ngâm: “Khoa thƣợc dƣợc mơ mò ng thụy vũ , Đó a hải đƣờ ng thƣ́ c

ngủ xuân tiêu” . Có điều ở đây , Quách Tấn mƣợn chữ nghĩa chứ không mƣợn ý

tƣở ng củ a ngƣờ i xƣa . Câu thơ củ a cu ̣ Nguy ễn Gia Thiều ghi lại tâm trạng của cung nƣ̃, lúc này nàng đang hồi tƣởng lại ngày tháng đƣợc nhà vua sủng ái , thông qua nhƣ̃ng hình ảnh ẩn du ̣ và nhƣ̃ng điển cố . Ngƣờ i cung nƣ̃ tƣở ng tƣơ ̣ng tâm tra ̣ng củ a nàng trong cái đêm hôm ấy chẳng khác nào nhƣ cành hoa thƣợc dƣợc đang khoe vẻ

đe ̣p mơ màng dƣớ i cơn mƣa lành ngày xuân êm di ̣u ; và cũng chẳng khác gì đóa hải đƣờ ng mơn mở n đang say ngủ lú c đêm xuân . Bên ca ̣nh hình ảnh thiên nhiên ẩn du ̣ trên, câu thơ cò n dù ng nhƣ̃ng điển cố : “thụy vũ” là cơn mƣa , chỉ điềm lành ; đây chính là ân sủng của nhà vua . “Xuân tiêu” là đêm xuân , lấy tƣ̀ ý củ a Đƣờ ng thi “Xuân tiêu nhất khắ c tri ̣ thiên kim” (Một khắ c đêm xuân xƣ́ ng nghìn và ng ). Câu thơ “Đó a hải đƣờ ng thƣ́ c ngủ xuân tiêu” đã dù ng điển Dƣơng Quý phi say rƣơ ̣u nằm ngủ, vua Đƣờ ng Minh Hoàng go ̣i mãi không dâ ̣y , vua bèn nói “Hải đƣờ ng thụy vi ̣

túc da?” (Hoa hải đƣờ ng ngủ chƣa đủ sao ?), ý muốn nói nhà vua sủng yêu nàng lắm và ví nàng đe ̣p nhƣ hoa hải đƣờ ng . Còn câu thơ của Quách Tấn chủ yếu là tả vẻ đe ̣p tình tƣ́ củ a thiên nhiên trong đêm xuân.

85

Đôi khi nhà thơ dù ng thủ pháp “lấy mây vẽ trăng” của thơ xƣa để tái hiện cảnh vâ ̣t. Điều này thể hiê ̣n trong bài thơ tả con sâu cƣ̉ u . Trong bài thơ, tác giả không chỉ tả con sâu già nép mình trong lá mà qua đó , nhà thơ nhƣ muốn tái hiện cả một bầu

trờ i ánh ngờ i sắc xanh , rỡ ràng, lô ̣ng lẫy nhƣ ha ̣t ngo ̣c kim cƣơng :“Châu thân trùm phí thúy ,/ Đôi mắ t ngờ i kim cƣơng ./ Mộng ấp trờ i xanh thẳm ,/ Trên cà nh cƣ̉ lý hƣơng (Con sâu cƣ̉ u ). Còn đây là cảnh vƣờ n dƣ̀ a củ a mô ̣t vù ng quê ven biển đƣơ ̣c nhà thơ vẽ lại qua một điểm nhìn liên tƣởng độc đáo . Nhìn tàu dừ a đung đƣa theo

làn gió biển, nhà thơ liên tƣởng đến đuôi chim phụng đang tung bay . Sƣ̣ liên tƣở ng này làm cho hình ảnh thiên nhiên vừa diễm lệ , vƣ̀ a huyền thoa ̣i :“Vƣờ n dƣ̀ a mé biển tung đuôi phụng.” (Qua Phú Yên tƣ́ c cảnh)

Cũng nhƣ các bậc thi nhân ngày xƣa , Quách Tấn đã xem thiên nhiên là bầu

; mây nƣớ c là ba ̣n

bạn, tri kỷ tri âm . Ông xem bầy én biển Nha Trang là tƣơng tri hữu; mảnh trăng là cố tri . Thiên nhiên ấy nhƣ đang trò chuyê ̣n , cùng trao đổi tâm

tình với nhà thơ : “Tuy không ngƣờ i đối bó ng ,/ Bầy é n bạn tƣơng tri . (Vàng ngập

,/ Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri .”

bến) hay: “Đêm đêm nằ m đợi canh gà giục (Lánh cƣ). Thâ ̣t chẳng khác nào nhƣ cu ̣ Ƣ́ c Trai năm xƣa tƣ̀ bỏ chốn quan trƣờ ng để trở về Côn Sơn ngồi ngâm th ơ nhàn dƣớ i rƣ̀ ng trú c , dƣới bóng cây tùng , múc nƣớc khe pha trà , gối đầu lên đá mà ngủ và xem thiên nhiên là láng giềng , bầu ba ̣n, anh

em: “Nú i lá ng giềng , chim bầu bạn ; Mây khá ch khƣ́ a , nguyê ̣t an h tam”; hay “Cò

nằ m, hạc lẩn nên bầu bạn; Ấp ủ cùng ta làm cái con”.

Trong một tập thơ khác dù không viết theo thể Đƣờng luật, mà viết theo lối

đồng dao, nhƣng cảm hứng này cũng thể hiện rõ. Có khi nhà thơ cùng thiên nhiên

bay nhảy vớ i trẻ thơ, để reo lên n iềm vui mê say , trong sáng :“Ô vui thay!/ Ô vui

thay!/ Hoa xoan lay/ Đà n bƣớ m bay / Trong nắ ng hƣ̀ ng / Trong gió hƣơng / Tiếng ve gọi/ Lờ i trẻ nó i/ Ngang qua đƣờ ng...” (Trong nắ ng hè – tập Vui với trẻ em).

Dƣớ i cái nhìn củ a thi nhân, thiên nhiên nhƣ có tâm tra ̣ng củ a con ngƣờ i , mang nỗi đau con ngƣờ i , nhất là buồn nhớ trong buổi chia ly . Hình ảnh giậu trúc ngoài ngõ bao lần đổi thay, phải chăng vì vƣơng vấn nỗi buồn ly biê ̣t?:

Ngõ ngoài trúc đổi bao lần biếc,

Còn vƣớng hoàng hôn lúc biệt ly.

(Ngõ trúc)

86

Mùa đông, lá cây lìa cành ; bầu trờ i dƣờ ng nhƣ trĩu nă ̣ng , trờ i đất nhƣ gần vớ i nhau hơn. Đây là mô ̣t quy luâ ̣t tuần hoàn củ a thiên nhiên . Nhƣng nhìn sƣ̣ đổi thay của thiên nhiên lúc đông về , nhà thơ nhƣ hiểu và cảm thông nỗi niềm của thiên

. Rõ ràng c ái nhìn về thiên

nhiên, rồi thổi vào chú ng mô ̣t tình cảm củ a con ngƣờ i nhiên củ a Quách Tấn thâ ̣t đâ ̣m tính nhân văn:

Lá thƣơng nhánh nặng bay hầu hết,

Trờ i sợ non côi xích xuống gần. (Trờ i đông)

hoă ̣c: Lẻ vàng hoa mật trắng,

Khăng khít niềm thƣơng thân. (Bóng chiều xƣa)

Nhƣ̃ng hòn đá vô tri vô giác mà ta ̣o hóa khéo cho chú ng xếp chồng lên nhau ở bãi biển Nha Trang, dƣớ i cái nhìn của thi nhân cũng mang nặng tình ngƣời, mô ̣t tình nghĩa gia đình thâm sâu, ở đó, chúng biết nƣơng tựa nhau, đỡ đần nhau:

Trờ i mây biển nƣớ c cảnh mênh mông, Chân nú i dô ra đá mấy chồng. Khăng khít thớ t em nƣơng thớ t chi ̣, Vƣ̃ng và ng hò n chá u đỡ hò n ông.

(Chơi Hò n Chồng cảm đề ) Theo Quách Tấn, thiên nhiên đã bồi đắp cho con ngƣờ i niềm ru ng cảm và tình , bằng sƣ̣ tôn

thƣơng yêu sâu lắng thì con ngƣờ i cũng phải đáp la ̣i bằng tình cảm trọng nhau. Đây là mô ̣t ƣ́ ng xƣ̉ đe ̣p , thắm tình đâ ̣m nghĩa. Bằng chƣ́ ng là nhà thơ đã cất bƣớ c rón rén , nhẹ nhàng lúc đi dạo tron g đêm khuya , vì sợ các chú chim thức giấc: “Bƣớ c hoa dìu gió nhe ̣,/ E động giấc hoà ng ly.” (Giếng hƣơng)

Nhà thơ cho rằng , cái đẹp của thiên nhiên phải hài hòa , phải là cái đẹp nguyên

sinh. Vì thế, ông không muốn hái hoa vì thƣơng; nhìn thấy hoa rụng lại càng thƣơng thêm, chẳng khác nào nhƣ Nguyễn Trãi ngày xƣa sơ ̣ làm mất đi vẻ đe ̣p củ a thiên nhiên, cụ thể là sợ làm tan vỡ vẻ đẹp ánh trăng trong ao nên chẳng muốn buông dây

câu cá ; sơ ̣ chim không nơi làm tổ nên ngại phát cây rừng : “Trì tham nguyê ̣t hiê ̣n , chẳng buông cá ; Rƣ̀ ng tiếc chim về , ngại phát cây”. Còn Quách Tấn thì:

Thƣơng hoa không nở há i,

87

Hoa rụng lò ng thêm thƣơng.

(Tình hoa)

Đó là nhƣ̃ng nét đồng cảm , đồng rung đô ̣ng , cùng chia sẻ vui buồn củ a thi sĩ

đố i vớ i thiên nhiên. Mô ̣t tấm lòng đầy nhân ái, đâ ̣m chất nhân văn. 2.2.2. Tái hiê ̣n mô ̣t số hình ảnh thiên nhiên: hoa cú c, chim én, ánh trăng...

- Trƣớ c hết là hình ảnh hoa cú c. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ Quách Tấn, hoa cú c xuất hiê ̣n vớ i tần số cao . Quách Tấn miêu tả nhiều hoa cúc bởi nhà thơ rất yêu hoa cú c . Sƣ̣ yêu thích đó nhƣ in sâu trong tâm tƣở ng nhà thơ , thành nỗi “á m ảnh” trong thơ ông , tƣ̀ đó cái sắc vàng di ̣u tƣơi tắn kia nhƣ lan tỏa khắp trong thơ

ông, nhƣ̃ng cánh hoa tƣở ng chƣ̀ ng mong manh kia la ̣i bao phủ đƣơ ̣c toàn bộ hồn thơ Quách Tấn. Bài thơ sau viết theo lối thơ bốn chữ nhƣ đồng dao:

Vàng ƣơm lác đác

Cành sƣơng xao xác

Chồi cú c đƣợm hƣơng

Nét cúc tuy buồn

Lòng cúc vẫn đƣợm

Nắ ng xuân không tƣởng

Ngại gì lạnh thu

Song Nam bạn bầu

Có ông Bành Trạch …

(Các loài hoa – tâ ̣p Vui vớ i trẻ em)

Ở đây, hoa cú c là biểu tƣợng cho cốt cách thanh cao , phẩm tiết cƣ́ ng cỏi , ngờ i sáng, trong sa ̣ch củ a bâ ̣c đa ̣i ẩn . Hình ảnh này bắt nguồn từ điển tích nhà hiền triết

Bành Trạch , tƣ́ c Đào Tiềm [Đào Uyên Minh ], làm quan ở huyện Bành Trạch , vì không thể uốn gối khom lƣng với quan trên mà ông đã cáo quan về ở ẩn , sớ m tối vui cù ng vớ i cú c nơi vƣờ n Bù i (Bùi viên). Ngƣờ i dù ng hoa cú c thay cho sƣ̣ thanh

đa ̣m không bâ ̣n bi ̣u đến sƣ̣ đờ i . Hoa cú c nở vào mù a thu , trong tiết trù ng dƣơng (tiết

trùng cửu, tức ngày mùng 9 tháng 9). Nói về mùa thu là nhắc đến hoa cúc . Ngƣờ i ta

nói “Quách Tấn là nhà thơ Mớ i nhƣng mang nă ̣ng âm hƣở ng thơ Đƣờ ng” hay “mô ̣t

nhà thơ cổ điển sống trong thời đại cách tân” . Phải chăng ở bài thơ “Cá c loà i hoa” vớ i đoa ̣n thơ vƣ̀ a trích đã phần nào thể hiê ̣n đƣơ ̣c lờ i nhâ ̣n xét này : thể thơ cách tân,

88

ý thơ mới lạ , hình ảnh thơ giàu sắc biểu cảm “lác đác” , “xao xác” , “vàng ƣơm” , “đƣơ ̣m hƣơng”, “nét cú c”, “lòng cú c”. Nhƣng cả đoa ̣n thơ vẫn mang đâ ̣m âm hƣở ng

thơ đờ i Tấn , thơ đờ i Đƣờ ng , ngƣờ i đo ̣c có cảm tƣở ng nhƣ sẽ có cả thờ i đa ̣i đã qua trong đó , hoa cú c chỉ đe ̣p nhất khi đƣơ ̣c ông Bành Tra ̣ch chăm sóc . Hình ảnh nhà ẩn sĩ hiền triết Bành Trạch xuất hiện ở cuối đoạn thơ đã thể hiện sự khéo léo trong

dụng ý của Quách Tấn . Nếu nhƣ hoa cú c củ a nhà hiền triết Đào Tiềm tƣơ ̣ng trƣng cho sƣ̣ ở ẩn , đa ̣m ba ̣c , thanh nhàn thì ở Quách Tấn , dƣớ i cái nhìn tinh tế , thi sĩ đã làm mới hình ảnh hoa cúc , nhƣng hơi thở Đƣờ ng thi vẫn phâ ̣p phồng trong tƣ̀ ng

cánh hoa.

Trong tâ ̣p thơ Mùa cổ điển thi nhân đã nói nhiều về hoa cú c: - Một mai trăng chở thu về cú c,

Rèm cuốn sƣơng hƣơng tỏa lững lờ.

(Qua xuân)

- Vƣờ n sƣơng thơ thẩn đêm qua lạnh, Cúc nở nhìn nhau miệng mỉm cƣời.

(Hiu quạnh)

- Bên luống cú c già vầy bạn cũ, Ra về sống á o đƣợm mù i hƣơng.

(Túp lều thơ)

Hình ảnh hoa cúc qua ba trích dẫn trên mang ba sắc thái khác nhau . Hoa cú c

trong bài “Qua xuân” là khát vọng , ao ƣớ c củ a nhà thơ . Ông mong ánh trăng thu

thơm chở hoa cú c về trong sƣơng thu bãng lãng và hoa lặng lẽ lững lờ tỏa hƣơng

trong đêm. Cũng là hoa cúc trong vƣờn đêm thu đầy sƣơng lạnh , nhƣng chú ng đang khoe sắc mà nhà thơ ngỡ là chú ng đang mĩm cƣờ i vớ i nhau , làm cho tác giả nhƣ bớt cô đơn, hiu qua ̣nh hơn (Hiu quạnh). Cuối cù ng, hoa cú c trong bài “Túp lều thơ” thì

giƣ̃a hoa và thi nhân nhƣ hòa làm mô ̣t , tri kỷ tri âm . Có thể nói , hoa cú c trong tâ ̣p “Mù a cổ điển” đầm ấm nhƣ mù a thu cổ điển . Mô ̣t mù a thu đầy âm sắc lãng ma ̣n của tao nhân mặc khách , cảnh và tình hòa làm m ột trong con ngƣời thi nhân. Ở đây,

giƣ̃a con ngƣờ i và thiên nhiên , giƣ̃a chủ thể và khách thể , giƣ̃a tiểu ngã và đa ̣i ngã chỉ là một, mô ̣t sƣ̣ hòa quyê ̣n khăng khít . Vì thế mà nhà thơ đến thăm luống cúc già , để khi “Ra về sống á o đƣợm mù i hƣơng” . Đo ̣c câu thơ này củ a Quách Tấn làm tôi

89

nhớ đến câu thơ củ a Nguyễn Ƣ́ c Trai cách đây sáu trăm năm: “Há i cú c, ƣơm lan , hƣơng bé n á o ; Tìm mai , đạp nguyê ̣t , tuyết xâm khăn” . Phải chăng Quách Tấn đã

chịu ảnh hƣởng tiền nhân khi viết nhƣ̃ng dòng thơ trên?

Hoa cú c trong tâ ̣p Đọng bó ng chiều lại có màu vàng rực rỡ . Cả một màu vàng

ngâ ̣p tràn trên sân hoa nhƣ “phay phá y mƣa” : “Sân hoa phay phá y mƣa hoà ng

cúc” (Đối cảnh). Còn đây là đôi nhà nh hoa cú c nở trong đêm thu đầy sƣơng dƣớ i ánh trăng, đƣơ ̣c nhà thơ biểu đa ̣t bằng mô ̣t ngôn ngƣ̃ cô đo ̣ng , kiê ̣m lờ i, giàu hình ảnh “thu ngậm hƣơng / mộng đêm sƣơng”:

Giếng cú c đôi nhà nh thu ngậm hƣơng,

Đôi nhà nh trăng nở mộng đêm sƣơng. (Giếng cú c)

Hay nhƣ hoa cú c chờ đơ ̣i thu về mớ i phô phang cái sắc vàng thơm tƣơi :

Thƣơng xuân thƣợc dƣợc xếp hồng trang,

Giếng cú c chờ thu ngậm ý và ng.

(Hoa là i)

Cái sắc vàng rực rỡ kia đã làm cho không gian mùa t hu thêm đầy ý vi ̣. Và có lẽ

chính màu vàng rực rỡ đó đã khẳng định một hƣơng thơ Qu ách Tấn mang đặt trƣng

riêng: “Giếng cú c chờ thu ngậm ý và ng”, mô ̣t hình ảnh thơ đâ ̣m sắc thái biểu cảm!

Qua đến tâ ̣p thơ Mộng Ngân Sơn thì hoa cú c la ̣i chƣ́ a chan tâm sƣ̣ :

Lê ̣ nến thềm hoa rụng,

Hƣơng xƣa chợt thoảng lò ng.

Bóng ai ngày mừng sáng,

Vầy cú c giếng thu trong.

(Bóng hƣơng xƣa)

Và trong tập thơ ngũ ngôn Mây cổ thá p , hoa cú c la ̣i nở rô ̣ trong mù a thu ở nhƣ̃ng bài thơ : Ly trà sớ m , Đơm lò ng, Vƣờ n cú c, Nắ ng hanh, Trồng hoa cú c , Tình

hoa lá … Có thể trích ra đây vài c âu thơ với những từ ngữ thuần Việt nhƣ “chập

chợt”, “nôn nao” giàu sắc thái biểu cảm nhƣ:

- Khóm cúc vừa đơm hoa,

Bên song hƣơng chập chợt.

(Đơm lò ng)

90

- Nôn nao bà ng trú t lá ,

Lặng lẽ cú c đơm hoa.

(Nắ ng hanh)

Thi nhân yêu hoa cú c nên bắt chƣớ c trồng hoa cúc nhƣng:

Cúc ngƣời đặng đầy hoa,

Cúc mình trong những lá.

Cúc tặng từng quen xuân,

Cúc trồng ngờ mới hạ.

(Tình hoa lá)

Cúc đƣợc nhà thơ trồng không ra hoa kịp Tết vì ông đã trồng cú c vào tiết

Trùng dƣơng nên bị muô ̣n, vì nhân gian có câu “Lễ Vu lan lang thang trồng cú c”

tƣ́ c trồng vào dịp rằm tháng bảy âm lịch thì cúc mớ i ki ̣p ra hoa vào di ̣p Tết. Tuy vâ ̣y thi tƣ́ vẫn tràn đầy trong thơ “Hƣơng và ng chất chƣ́ a lục” (Vƣờ n cú c).

- Tiếp theo là hình ảnh chim é n. Để có nhƣ̃ng hình ảnh miêu tả sắc nét về chim én thật không đơn giản ! Bở i lẽ chim én lấy bầu trờ i làm nơi bay nhảy , còn Quách

Tấn – mô ̣t con ngƣờ i hƣ̃u ha ̣n tr ong kiếp đờ i – chỉ tồn tại đƣợc ở mặt đất . Giƣ̃a bầu

trờ i xanh vờ i vơ ̣i kia và mă ̣t đất mênh mông này có mô ̣t khoảng cách : khoảng cách giƣ̃a cái vô ha ̣n và cái hƣ̃u ha ̣n. Cần lƣu ý là, hình ảnh chim é n đƣơ ̣c xuất hiê ̣n nhiều trong tâ ̣p thơ “Mây cổ thá p” (1972). Đây là khoảng thờ i gian nhà thơ vừa mổ mô ̣t con mắt ; đó cũng là khoảng cách trong tầm nhìn củ a thi sĩ . Thế nhƣng , vƣơ ̣t qua mọi khoảng cách, vƣơ ̣t lên trên tất cả khó khăn , Quách Tấn vẫn mở r ộng lòng mình

đó n thiên nhiên, thân mâ ̣t tiếp ngƣờ i ba ̣n tri kỷ củ a mo ̣i kiếp ngƣờ i :

Ríu rít đôi liền đôi,

Phòng thơ én liệng mồi.

(Én liệng phòng)

Qua hình ảnh “chim én” cho thấy rõ thơ Quách Tấn thật sự đã thoát sáo, không

ƣớc lệ lối mòn mà cảm hứng thơ ông lấy từ hiện thực xung quanh thành phố Nha

Trang. Tƣ̀ dƣớ i sân nhà thơ đã nhìn lên bầu trời và gặp đƣợc mây hồng rực rỡ cùng

vớ i én liê ̣ng. Trong thơ Quách Tấn chim én đã chiếm mô ̣t khung trờ i rô ̣ng lớ n. Chim

én có thật trong khung cảnh trƣớc nhà . Nha Trang là xƣ́ sở củ a loài chim én . Chim én đã hiện hữu cùng với đầm Xƣơng Huân, vớ i nƣớ c mây trƣớ c nhà thi sĩ:

91

Vƣ̀ ng hồng vƣ̀ a hé mọc,

Mở cƣ̉ a é n và o nhà .

(Én vào nhà)

Én liệng đầm Xƣơng Huân, hoă ̣c:

và:

Song thu nhìn é n liê ̣ng, Thấp thoá ng bó ng tà dƣơng.

Đọc những câu thơ trên, ngƣờ i đo ̣c có cảm tƣở ng dƣờ ng nhƣ giƣ̃a thi sĩ và thiên nhiên (ở đây là hình ảnh chim én ) có sự đồng điệu. Sƣ̣ đồng điê ̣u đó bắt nguồn tƣ̀ tình yêu thiên nhiên trong con ngƣờ i nhà thơ; sƣ̣ đồng điê ̣u đó còn là sƣ̣ t ƣơng quan vô hình ảnh, nhƣ đã trình bày, chim én chao liê ̣ng trên bầu trờ i còn Quách Tấn . Nhƣng tƣ̣u tồ n ta ̣i trên mă ̣t đất , mà giữa bầu trời và mặt đất lại có khoảng cách

. Tƣơng quan giƣ̃a con ngƣờ i và thiên nhiên là mối

trung la ̣i , chim én vẫn là cái “tiểu ngã ” trong cái “đại ngã” – bầu trờ i và Quách Tấn vẫn là cái “nhất thể” trong cái “đại thể” – mặt đất. Thiên nhiên là mô ̣t “đại thể” bao trù m khắp nơi nơi tƣơng quan đối tác tƣơng tƣ̣ giƣ̃a ngƣờ i vớ i ngƣờ i.

Quách Tấn không chỉ coi thiên nhiên nhƣ một thực thể khách quan mà còn

xem nó nhƣ mô ̣t con ngƣờ i thân mến luôn luôn gần gũi . Cảnh thiên nhiên trƣớc mắt là một nguồn vui , mô ̣t đối tƣơ ̣ng an ủ i ngƣờ i thơ lú c buồn và c ũng là ngƣời cùng chia sẻ vớ i thi nhân nhƣ̃ng niềm vui . Trên bầu trờ i củ a Tổ quốc, nhƣ̃ng cánh én mù a xuân vẫn luôn luôn bay lƣơ ̣n làm đe ̣p cho cuô ̣c đờ i , trong khi nhƣ̃ng cánh én nơi xứ Trầm hƣơng vẫn mang trên cánh màu xanh thẳm của biển, hƣơng trầm củ a nú i rƣ̀ ng và gợi nhớ nắng mai , ánh chiều trên nƣớc đầm Xƣơng Huân . Trong thơ văn Quách

Tấn, chúng đều ngƣng đọng thành những vần thơ, câu văn đầy cảm xú c.

Chính vì yêu cánh én , yêu thiên nhiên bằng mô ̣t tâm hồn giàu cảm xú c mà lòng thi nhân mở rộng trƣớc hoàng hôn . Đây là mô ̣t nét đă ̣c biê ̣t trong phong cách thơ Quách Tấn . Thƣờ ng thì trƣớ c cảnh hoàng hôn , con ngƣời bao giờ cũng buồn . Nhà thơ Thô i Hiê ̣u đờ i Đƣờ ng đã tƣ̀ ng viết trong bài Hoàng Hạc lâu : Nhật mộ

hƣơng quan hà xƣ́ thi ̣,/ Yên ba giang thƣợng sƣ̉ nhân sầu . Thờ i tiền chiến, Huy Câ ̣n

cũng đã gởi gắm nỗi buồn trên sông nƣớc mênh mang để rồi nỗi buồn đó nhƣ trả i

rô ̣ng ra nơi chân trờ i viễn xƣ́ , ở mô ̣t vù ng quê xa lắc xa lơ và khép la ̣i bằng nỗi nhớ

nhà da diết đau đáu trong bốn câu cuối trong bài Tràng giang.

92

Hoàng hôn thƣờng là thời gian để gia đình sum ho ̣p đầm ấm. Nó sẽ là nỗi buồn đố i vớ i nhƣ̃ng ai xa quê, đang trên đƣờ ng lƣ̃ thƣ́ . Riêng vớ i Quách Tấn thì trái la ̣i . Nhà thơ không buồn . Lòng thi nhân nhƣ mở rộng để đón nhận hoàng hôn với nét

mă ̣t ra ̣ng rỡ . Dƣờ ng nhƣ tâm hồn nhà thơ đã hòa hơ ̣p vớ i thiên nhiên , đã đi sâu vào

cái nhất thể của vũ trụ, gần nhƣ tất cả vũ trụ đều đọng lại trong thơ:

Hoàng hôn lòng mở rộng,

Mày nguyệt nét thanh tân.

- Cuối cù ng là hình ảnh trăng. Trăng là đề tài muôn thuở củ a thi ca . Mỗi nhà thơ đã mirêu tả , tái hiện nàng trăng với những dáng vẻ , sắc thái khác nhau , nét đẹp

khác nhau, để tạo nên cái riêng của mình . Sắc thái ấy nhƣ tƣ̀ ng ánh trăng lung linh , huyền ảo đang chiếu sáng, dát vàng khắp thế gian.

Trăng trong thơ Quách Tấn cũng l à một trong những ánh trăng thơ mộng kia .

Có thể nói trăng là nỗi “á m ảnh” trong hồn thơ Quách Tấn , vì thế ông có hẳn mấy tâ ̣p thơ về hình ảnh trăng : Giọt trăng (1966-1972), Nƣ̉ a vầng trăng lạnh (1975- 1976) , Trăng hoà ng hôn (1975-1977).

Cũng nhƣ chim én, cảnh đêm sƣơng rất đặc trƣng của Đà Lạt cũng nói về cảm

xúc thực của Quách Tấn. Đơn cƣ̉ nhƣ bài “Đà Lạt đêm sƣơng” trong tâ ̣p Một tấm lòng. Bài thơ chỉ với ba khổ thơ thất ngôn , ấy thế mà , thi nhân đã đƣa ngƣờ i đ ọc

vào quá trình biến chuyển của không gian , thờ i gian và xú c cảm củ a ngƣờ i thƣở ng ngoạn cảnh hồ dƣới ánh trăng trong đêm sƣơng ; thi nhân còn dẫn ngƣờ i đo ̣c đi tƣ̀

cảnh thực đầy màu sắc vào cõi mộng say say :

Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im,

Thờ i khắ c theo nhau lải rải chìm. Đứng tựa non cao bờ suối ngọc,

Hồn say nhè nhe ̣ mộng êm êm.

Rồi tiến vào thế giớ i mờ ảo mênh mang không còn gì để bám tƣ̣a . Mô ̣ng cũng

tan mà thƣ̣c cũng tan, chỉ còn một bóng ngƣời giữa hƣ vô:

Một là n sƣơng bạc bỗng tƣ̀ mô,

Lẻn cuốn vừng trăng cuốn mặt hồ.

Cuốn cả non sao bờ suối ngọc,

Ngƣờ i lơ lƣ̉ ng đƣ́ ng giƣ̃a hƣ vô.

93

Cuối cù ng, thi nhân đƣa ngƣờ i đo ̣c xuyên qua thế giớ i m ộng với một gam màu

trong suốt để tận hƣởng hạnh phúc đê mê của cõi thiên thai :

Trờ i đất tan ra thà nh thủy tinh, Một bà n tay ngọc đẫm hƣơng trinh.

Âm thầm mơn trớ n bên đôi má , Hơi má t đê mê chạy khắ p mình.

Toàn bộ bài thơ đƣợc chiếu sá ng bở i á nh trăng bàng ba ̣c . Ánh sáng làm khuôn

trăng dƣớ i nƣớ c, trên trờ i càng long lanh. Ngƣơ ̣c la ̣i, ánh trăng long lanh đã làm cho

mă ̣t hồ thoáng rƣ̣c sáng, đầy thơ mô ̣ng! Nhà thơ tận hƣởng từng giây từng phút cảnh sắc kỳ diê ̣u , mênh mông, thơ mô ̣ng ấy vớ i cảm quan và tỉnh thƣ́ c củ a mình . Vì vậy, nhà thơ thấy đƣợc từng đơn vị thời gian đi qua . Nhà thơ đã níu thời gian chậm bƣớc

để mong kéo dài thời khắc hƣởng thụ vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên . Và trong

khung cảnh huyền ảo ấy , thờ i gian đã chiều theo ƣớ c muốn củ a thi nhân , thờ i khắc dƣ̀ ng la ̣i và hiê ̣n thành mô ̣t hƣ̃u thể có mắt, có tình.

“kẻ ngắ m Thờ i khắc không nhƣ̃ng chiều lòng thi nhân mà đã trở thành mô ̣t

cảnh” để cùng thi nhân thƣở ng cảnh, trong cảnh ấy chính thi nhân la ̣i trở thành mô ̣t bóng hình thầm lặng đứng “tƣ̣a non cao” bên “bờ suối ngọc” say sƣa chìm đắm trong “Bó ng trăng ló ng lá nh mặt hồ im” . Ôi thơ mô ̣ng làm sao ! Sông Ngân đã rờ i

bỏ vũ trụ tuôn thành dòng suối ngọc lung linh ru mơ cho thi nhân.

Con ngƣờ i vẫn thƣờ ng mong đƣơ ̣c hòa nhâ ̣p , trầm lắng vào thiên nhiên và suối

nguồ n củ a va ̣n hƣ̃u . Vớ i Quách Tấn trong “Đà Lạt đêm sƣơng” , tất cả vẻ đe ̣p củ a thiên nhiên diễm ảo lung linh trong suốt đã hô ̣i tu ̣ vây quanh thi nhân .

Nếu nhƣ ở bài “Đà Lạt đêm sƣơng” ánh trăng mang vẻ đẹp lung linh huyền ảo

thì ở bài “Bên sông” cũng là trăng, nhƣng mang sƣ̣ hòa quyê ̣n cả trờ i nƣớ c: Gió rủ canh đi ngàn liễu khó i,

Sông đƣ̀ a lạnh đến bó ng trăng trong. Thuyền ai tiếng há t trên kia vẳng, Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.

Ánh trăng ở đây là ánh trăng trong , nhƣ mô ̣t tấm gƣơng phản chiếu ro ̣i ảnh

hình của thiên nhiên , của cuộc sống . Ánh trăng chiếu xuống dòng sông , rải bao

nhiêu là gơ ̣n vàng trên sông . Tƣ̀ đó , dòng sông lạnh với sƣơng khói ở dƣới đất khúc

94

xạ lên ánh trăng nơi bầu trời . Cả bầu trời, cả mặt đất , cả không gian, cả vũ trụ sóng

sánh ánh và ng củ a trăng . “Lạnh” mô ̣t tính tƣ̀ đƣơ ̣c Quách Tấn sƣ̉ du ̣ng đú ng lú c đú ng chỗ . Nó nhƣ là “nhãn tự” của câu thơ , của cả bài thơ . “Lạnh” đã thổi vào “Bó ng trăng trong” mô ̣t hơi thở mớ i, tạo sức sống mới. Bóng trăng kia không chỉ là vâ ̣t thể để con ngƣờ i ngắm nhìn , không chỉ là tinh tú củ a màn đêm mà ở đây nàng trăng nhƣ mang sƣ̣ sống củ a con ngƣờ i , mang nhƣ̃ng cảm xú c bình di ̣ mô ̣c ma ̣c củ a kiếp ngƣờ i. Cái lạnh của đêm thanh tĩnh , của gió sông tác đ ộng vào nàng trăng , làm

cho ngƣờ i đo ̣c có cảm tƣở ng ánh trăng kia cũng “là nh lạnh”, cả khoảng đêm “là nh

lạnh”, và con ngƣời trong khung cảnh đấy cũng “lạnh”, để rồi theo cái “lạnh” của

ngƣờ i ngắm cảnh thổi đến, ngƣờ i đo ̣c cũng rùng mình theo.

Qua nhƣ̃ng hình ảnh thiên nhiên vƣ̀ a phân tích , có thể nhận thấy sở dĩ Quách

đã có mô ̣t quan niê ̣m sống , mô ̣t tƣ

Tấn truyền đƣơ ̣c cái đe ̣p củ a thiên nhiên để rung cảm ngƣờ i đo ̣c là vì nhà thơ đã số ng, đã hòa nhâ ̣p vào thiên nhiên và nhất là tƣở ng hòa nhi ̣p vớ i thế giớ i gồm cả vâ ̣t chất lẫn tinh thần cù ng vớ i hồn thiêng củ a

Quê hƣơng, Đất nƣớc.

Quách Tấn không chỉ là nhà thơ yêu thiên nhiên mà hồn thơ của ông còn hòa quyê ̣n cù ng thiê n nhiên. Thi sĩ không dù ng thiên nhiên để nói về mình, hay tâm sự mà thể hiện thiên nhiên nhƣ mô ̣t nhu cầu tâm linh, xuất phát từ mô ̣t tấm lòng , mô ̣t

kỷ niệm về quê hƣơng yêu dấu .

: tình yêu mang cốt

Qua viê ̣c tìm hiểu cảm hƣ́ ng này, ngƣờ i đo ̣c dễ dàng nhâ ̣n ra nét tài hoa, tinh tế trong văn phong củ a Quách Tấn . Bút lực ấy đã làm mọi ngƣời ngạc nhiên . Sƣ̣ nga ̣c nhiên đó do thi nhân đã thổi vào thiên nhiên mô ̣t tình yêu mớ i cách của Quách Tấn và nói đơn giản hơn đây chính là “bình cũ rƣơ ̣u mớ i”.

Thiên nhiên trong thơ Quách Tấn thâ ̣t đă ̣c biê ̣t , vƣ̀ a mang phong cách hiê ̣n đa ̣i vƣ̀ a có cốt cách cổ điển . Để có mô ̣t văn phong tài hoa nhƣ thế thâ ̣t không đơn giản . Đây là sƣ̣ hòa nhâ ̣p giƣ̃a cũ v à mới để tạo nên một tổng thể duy nhất , làm nên chất hƣơng thơ Quá ch Tấn.

2.3. CẢM HỨNG VỀ QUÊ HƢƠNG ĐẤT NƢỚC

Đề tài và cảm hứng về quê hƣơng đất nƣớc là một truyền thống lớn, một nội

dung chủ yếu và cũng là chủ đề xuyên suốt của văn học Việt Nam. Qua đề tài - cảm

hứng này, các tác giả đã bộc lộ lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc của mình và ít nhiều

95

đã truyển tải tình yêu ấy đến với ngƣời đọc. Cảm hứng về quê hƣơng đất nƣớc trong

thơ Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ không chỉ thể hiện trong bộ phận văn học cách mạng

mà còn thấy thấp thoáng trong bộ phận văn học công khai hợp pháp. Trên báo chí,

nhiều lúc các tác giả muốn bộc lộ lòng yêu nƣớc thƣơng nhà của mình nhƣng vì chế

độ kiểm duyệt quá gắt gao của thực dân nên họ phải tìm cách nói quanh co, bóng

gió, kín đáo. Có thể nêu ra đây một vài thi phẩm viết theo thể thơ Đƣờng luật của

vài tác giả cùng thời với Quách Tấn. Giang Hồ Du Tử trong bài Đọc sử cảm vịnh đã

cất lời kêu gọi kín đáo: “Bốn nghìn năm lẻ đắp xây nên,/ Dân chẳng ngu si nƣớc

chẳng hèn./ Muôn dặm non sông màu gấm vóc,/ Một đoàn con cháu giống rồng

tiên./ Thịnh suy ngắm lại gƣơng tang hải,/ Thời thế trông vào bạn thiếu niên./ Nhắn

nhủ ai ơi nên gắng sức, Võ đài này chính buổi đua chen. (Đọc sử cảm vịnh - Giang

Hồ Du Tử). Nguyễn Văn Năng sau khi gợi lại một thời oai hùng của cha ông nhƣ

Đinh Bộ Lĩnh với ngọn cờ lau, dòng Bạch Đằng với chiến công hiển hách của Ngô

Quyền, của Trần Quốc Tuấn ở câu thực và luận thì nhà thơ đã than thở cho vận

nƣớc suy vi ở câu đề và kết: “Bâng khuâng hồn nƣớc cũ,/ Đau đớn nhớ ngƣời xƣa.

(…) Trời đất này ngao ngán,/ Lòng ai bối rối tơ.” (Nhớ - Nguyễn Văn Năng). Và

trong câu thực:“Nhớ ngƣời chƣa ráo đôi hàng lệ,/ Đợi nƣớc thêm đau một tấm

lòng”; câu kết: “Phen này tỉnh dậy xem sao đã, Nam tử sao đành phụ núi sông.”

trong bài Đêm không ngủ của Nguyễn Văn Năng cũng thể hiện nội dung vừa nêu.

Một số tác giả thì dùng thể Đƣờng luật với bút pháp trào phúng để công kích những

tên tay sai bán nƣớc cầu vinh, mà những thi phẩm này có bài đƣợc đăng trên báo chí

tiến bộ công khai nhƣ Lê Quang Chiểu với bài Mắng Tôn Thọ Tƣờng; Lê Cƣơng

Phụng với bài Trở về Huế; Phan Điện với bài Vịnh Hoàng Cao Khải… Tất cả đều là

những thi phẩm chứa chan lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc.

Với thơ Đƣờng luật của Quách Tấn, trong hồi ký Bóng ngày qua, nhà thơ cho

biết tập Bó hoa rừng với 50 bài thơ Đƣờng luật của ông và Hàn Mặc Tử sở dĩ không

dám cho xuất bản vì trong lời đề Tựa, nhà chí sĩ Sào Nam Phan Bội Châu đã hạ bút

khen “hai ngọn bút có lực”, “hai mảnh hồn thắm thiết nghĩa non sông” mà theo hồi

ký của Quách Tấn thì: “thời bấy giờ ngấm ngầm yêu nƣớc mà có khi còn bị tù tội,

huống hồ nỗi lòng gởi gắm vào thơ “bị” bậc cách mạng lừng danh “phác giác”. Nỗi

mừng không thắng nỗi sợ…” [71,tr.192].

96

Có thể nói Quách Tấn là một nhà thơ yêu thiết tha và tự hào về nhƣ̃ng cảnh vật

. Hình của quê hƣơng đất nƣớ c . Hình ảnh quê hƣơng đất nƣớc đƣợc nhà thơ ghi lại trong nhiều thi phẩm . Đó là nhƣ̃ng thắng cảnh củ a quê hƣơng mà ông đã tái hiê ̣n qua sƣ̣ cảm nhận riêng . Sáng tác thơ về cảnh đẹp , không chỉ là ghi la ̣i nhƣ̃ng kỷ niê ̣m để ghi dấu nhƣ̃ng đi ̣a danh mà bƣớ c chân nhà thơ đã tƣ̀ ng đến , mà còn là cách để thi nhân giãi bày , bô ̣c lô ̣ nỗi niềm đối vớ i quê hƣơng đất nƣớ c xiết bao tƣ̣ hào

, là quê nhà

ảnh quê hƣơng trong th ơ Quách Tấn là nhƣ̃ng nơi chốn ông đã đi qua nơi gia đình đang đoàn tu ̣. 2.3.1. Quê hƣơng đấ t nƣớ c: nhƣ̃ng nơi chố n đã đi qua

Sinh thờ i , Quách Tấn bôn ba nhiều nơi và đi đến đâu thi sĩ cũng đều để lại

nhƣ̃ng bài thơ hay viết về thắng cảnh quê hƣơng vớ i mô ̣t tình yêu da ̣t dào pha lẫn niềm tƣ̣ hào về đất nƣớ c đe ̣p giàu.

Đây là cảnh Đà La ̣t trong bài thơ “Đà Lạt đêm sƣơng” mà ở trên có giảng

ủa thi nhân đối với thắng cảnh quê

bình, giờ xin đƣơ ̣c nhắc la ̣i để thấy cái tình c hƣơng. Đó là vẻ đe ̣p củ a ánh trăng phản chiếu lón g lánh trên mă ̣t hồ phẳng lặ ng,

. Nhà thơ đang đứng tựa bên bờ hố ngắm trong khi thờ i gian đang chầm châ ̣m trôi

cảnh mà ngỡ mình nhƣ đang bên bờ suối ngo ̣c, thả hồn theo cảnh , nhâ ̣p vào cảnh nhƣ đang say, đang mô ̣ng. Sƣơng tƣ̀ đâu ù a về làm cho trăng in mă ̣t hồ tan biến , bờ

suố i ngo ̣c cũng mất , và con ngƣời nhƣ đang chông chênh cõi hƣ vô ; khi đó ta có

cảm giác nhƣ đất trời đang tan ra trong suốt , tƣ̣a thủ y tinh , mà ở trên vừa trích dẫn.

Phải có con mắt quan sát tinh tế , phải có tấm lòng hòa điệu , phải có một thế đứng

đă ̣c biê ̣t , nhà thơ mới bao quát đƣợc toàn bộ khung cảnh , mớ i có nhƣ̃ng câu thơ

“huyền ảo” cùng ánh trăng “bãng lãng” , cùng sƣơng mù nơi xứ cao nguyên thơ

mô ̣ng này !

Còn đây là cảnh cố đô Huế vớ i sông Hƣơng nú i Ngƣ̣ thơ mô ̣ng. Phong cảnh xƣ́ Huế tuyê ̣t đe ̣p , đe ̣p tƣ̀ ngo ̣n nú i dòng sông tĩnh lă ̣ng , hiền hòa, đe ̣p tƣ̀ nhƣ̃ng vƣờ n , chùm long nhãn , đe ̣p tƣ̀ cung cây chìm trong sƣơng khói vớ i nhƣ̃ng cu ̣m thanh trà điê ̣n thâm nghiêm , chùa đền cổ kính , lăng tẩm cô liêu… Tất cả bao trù m mô ̣t bầu không khí buồn dìu di ̣u nhƣ cảnh hoàng hôn mù a thu . Ngƣờ i ta thƣờ ng ví Huế vớ i ngƣờ i cô phu ̣ nhớ chồng nơi xa , nằm mơ màng bên cƣ̉ a sổ , màu núi Ngự là vầng trán, sông Hƣơng là đôi mắt và cung lăng chù a miếu là nhƣ̃ng viên bích ngo ̣c kim

97

cƣơng cài nơi mái tóc , đeo nơi ngƣ̣c nơi tay , quả thật đúng nhƣ thế . Thâ ̣t là đầy

mô ̣ng đầy thơ ! Bài thơ “Thu Trà ng An” đƣơ ̣c viết khi tác giả cùng với Chế Lan

Viên đi thăm Huế , ít nhiều thể hiện dáng trầm mặc của cố đô . Đêm thất ti ̣ch (mùng

7 tháng 7 âm li ̣ch) đã buồn, bở i gắn vớ i mối tình Ngƣu Lang – Chƣ́ c Nƣ̃ , dù đêm ấy họ trùng phùng sau một năm dài xa cách , nhớ thƣơng; đêm ấy thi nhân càng buồn thêm vì đang xa quê , trên bƣớ c giang hồ , nhớ về cố lý (quê cũ ). Cảnh buồn đến chăn gối cũng trễ trà ng, trong khi gió trăng thì chờ n chợ, mờ ảo; lòng ngƣời cũng

buồ n nên âm điê ̣u bài thơ cũng mang mô ̣t điê ̣u buồn tiêu tao :

Thân không hò he ̣n bƣớ c giang hồ , Để lẻ hoa và ng tiết rụng ngô. Chăn gối trễ trà ng đêm thất tịch,

Gió trăng chờn chợ bến hoàng đô.

Xuân tà n ngọn sá p tâm cò n bé n, Thu ấm lò nghê đú c chẳng cô. Đà nh cũng nƣớ c mây niềm cố lý ,

Mƣ̀ ng tin sƣơng sớ m tạnh đầm ô.

Và đây là cảnh hoàng cung hoang tàn theo thời gian trong bài “Rụng tiếng

vàng”, “Thế miếu” chỉ còn là phế tích, “gầy go ̣” trong gió sƣơng củ a buổi chiều thu nắng nha ̣t , tiếng qua ̣ rô ̣n ràng . Chỉ cần nhìn cảnh , ngƣờ i đo ̣c cũng đã nhâ ̣n ra nỗi

buồ n củ a thi nhân cù ng vớ i mây chiều man mác:

Nắ ng nhạt chiều thu quạ rộn rà ng,

Sầu vƣơng lau lá ch lạnh thà nh hoang.

Tro tà n thƣ viê ̣n duyên ngao ngá n,

Đá ná t hoà ng cung bƣớ c ngỡ ngà ng. Gầy gọ gió sƣơng tƣ̀ ng Thế miếu,

Bẽ bàng trăng nƣớc trúc Hƣơng giang.

Trông vờ i Thiên Mụ mây man má c,

Lơ lƣ̉ ng chuông hôm rụng tiếng và ng.

(Rụng tiếng vàng)

98

, sóng lặng, Hoă ̣c bài “Lại viếng Hƣơng giang” viết về cảnh dòng sông êm ả

trăng soi bóng nƣớ c , tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang trong gió làm cho thi nhân

ngâ ̣p ngƣ̀ ng:

Sóng lặng Trƣờng Tiền trăng để nhớ,

Chuông hồi Thiên Mụ gió đƣa thƣơng.

Ngập ngƣ̀ ng lối cũ vƣờ n Thƣơng Bạc,

Bẻ nhánh hoa về ấp ủ hƣơng.

(Lại viếng Hƣơng giang)

, nơi Trong tâ ̣p thơ Một tấm lò ng , Quách Tấn viết nhiều về những vùng đất

chốn mà bƣớ c chân nhà thơ tƣ̀ ng đi qua , để ghi lại nỗi niềm cảm xúc đối với cảnh . Chẳng ha ̣n, đến Chợ Lớn , nhà thơ tự hỏi đây là nơi trung tâm phố phƣờng s ao la ̣i

vắng vẻ? Chùa Cây Mai xƣa kia là nơi bao tao nhân mặc khách đến viếng cảnh làm

thơ, nay la ̣i vắng bóng trăng tà ? Nghĩ kỹ , cảnh buồn vắng bởi quê hƣơng đang bị

giă ̣c Pháp chiếm đóng (Đến Chợ Lớ n cảm hoà i).

Đi ngang qua Phú Yên, nhà thơ cũng ghi lại những gì trông thấy : đây đỉnh nú i Cù Mông, nọ Vũng Rô , con đƣờng thiên lý, vƣờ n dƣ̀ a mé biển , rẫy bắp bên sƣờ n núi, chuông ngân nơi Nha ̣n Tháp, gió lộng đầm Ô Loan , mây phủ ngo ̣n Đá Bia v .v.. (Qua Phú Yên tƣ́ c cảnh).

Đến Đà La ̣t , cảnh nơi đây thơ mộng nên tác giả sáng tác nhiều thơ . Ngoài bài

Đà Lạt đêm sƣơng đã dẫn ở trên, trong tâ ̣p thơ Một tấm lò ng , Quách Tấn còn viết

thêm bảy bài ngơ ̣i ca cảnh đe ̣p Đà La ̣t : Phong cảnh Đà Lạt, Cảnh hồ Đà Lạt , Cảnh

Cam Ly, Lại đến Cam Ly , Cảnh Djiring, Mùa đông ở Đà Lạt cảm hoài , Mùa hạ ở

Đà Lạt cảm hoà i . Đây là sáu câu đầu bài Phong cảnh Đà Lạt: “Thị thành pha lẫn

thú lâm tuyền,/ Dẫu chẳng Bồng lai thế cũng Tiên,/ Hoa cỏ vẽ vời tranh thuỷ mạc,/

Lâu đài tô điểm cảnh thiên nhiên./ Ngày vui non gió thơ đầy túi,/ Đêm thƣởng hồ

trăng rƣợu nặng thuyền.” Còn đây là cặp thực và luận bài Cảnh hồ Đà Lạt: “Lâu

đài giợn bóng quanh ba mặt,/ Hoa cỏ lồng gƣơng mƣớt bốn mùa./ Đêm tạnh sƣơng

pha màu thuỷ trắng,/ Ngày thanh nƣớc nhuộm sắc trời thu.”

, Cảnh chùa ông Núi Về Bình Đi ̣nh, về la ̣i nơi chôn nhau cắt rốn , thi nhân đã viết năm bài : Chơi bãi , Đá Vọng phu (02 bài) và Cảnh Phú Quy Nhơn cảm hoà i

Phong. Cảnh Phú Phong là bài thơ trực tiếp viết về quê mình . Phú Phong ngày xƣa

99

thuô ̣c huyê ̣n Bình Khê , có thời Phú Phong cũng là tên huyện , nay là thi ̣ trấn thuô ̣c , tên sông, tên nú i thân quen nhƣ : huyê ̣n Tây Sơn . Bài thơ nhắc đến những tên đất Phú Phong, Bình Khê, Núi Chúa, Sông Côn, Cây Cốc , Đồng Hƣu, Cổ Bàn (thành Đồ Bàn), Hầm Hô bằng mô ̣t tình cảm tƣ̣ hào về quê hƣơng . Đây là mô ̣t miền quê với đất đai màu mỡ tƣơi tốt nên “cây sum trá i”, “nƣớ c khỏa dò ng” và là một miền

đất ghi dấu anh hù ng . Chính các địa danh xuất hiện trong thơ ông tạo nên không

gian hiện thực chứ không ƣớc lệ, mà ở trên luận văn có nhấn mạnh:

Tiếng hạt Bình Khê đất Phú Phong, Ruộng nƣơng mà u mỡ chợ là ng đông.

Chàm pha Núi Chúa cây sum trá i, Lụa trải Sông Côn nƣớc khỏa dòng.

Cây Cốc phố phƣờ ng danh Tấn sĩ, Đồng Hƣu đồn lũy dấu anh hùng.

Cổ Bà n non nƣớ c cò n thiêng mãi, Có thuở Hầm Hô cá hóa rồng.

(Cảnh Phú Phong)

2.3.2. Quê hƣơng: nơi gia đình đang sinh số ng và đoàn tu ̣

Viết về nhƣ̃ng cảnh đe ̣p củ a quê hƣơng , Quách Tấn không thể không nói đến

. Nha Trang , miền thù y

nơi vù ng đất mình sinh sống , nơi gia đình đang đoàn tu ̣ dƣơng cát trắng vớ i bốn mù a nắng gió lồng lô ̣ng mát mẻ , hàng dừa bên bờ đung đƣa , trên biển sóng theo làn gió biển , nơi đó có đàn chim én tung bay trên trờ i xanh nhấp nhô. Đó là nhƣ̃ng hình ảnh gần gũi , quen thuô ̣c xung quanh nhà củ a ông , mà ngày ngày nhà thơ đã chƣ́ ng kiến rồi ghi la ̣i nhƣ̃ng vẻ đe ̣p tinh tế ấy bằng cả tấm

lòng dạt dào tự hào về cảnh đẹp quê hƣơng . Bài thơ “Bên sông” là một trong nhiều

bài viết về cảnh vật xung quanh nhà , nơi đó có cái đầm rô ̣ng lớ n , nối liền vớ i dòng (biển Đông ). Ngày xƣa , nơi sông Cái (sông Nha Trang ) chảy ra vịnh Nha Trang

khúc đầm ấy có nhiều cảnh thơ mộng , đêm có ánh trăng trải trên sông , thuyền bè qua la ̣i vớ i tiếng hát trầm bổng ; ven bờ là hàng liễu rủ . Cảnh ấy giờ đây không còn nƣ̃a, bở i đô thi ̣ hóa . Đầm nƣớc nay bị lấp đi , chỉ còn lại tên chợ nổi tiếng, là trung

tâm thƣơng mại củ a Nha Trang, Khánh Hòa: Chơ ̣ Đầm. Cảnh ngày xƣa trƣớc nhà đã

gơ ̣i ý tƣ́ cho thi nhân viết bài thơ “Bên sông” mà ở trên đã dẫn. Bài thơ là niềm cảm

100

khái của thi nhân trƣớc cảnh . Cảnh đầm Xƣơng Huân còn gây nhiều cảm hứng cho

nhà thơ một tình cảm đậm đà hƣơng vị:

Nào là:

Hay: Thuyền cỏ hiu hiu gió Bích Đầm. Én liệng đầm Xƣơng Huân,

Đƣờng Gaffeux lan nở.

Hoă ̣c ánh nắng trên bến Hà Ra gần nhà , xa hơn là chù a Hải Đƣ́ c trên đồi Trại

Thuỷ ở Phƣơng Sơn vớ i tiếng chuông ngân , trƣớ c mă ̣t là đàn én dê ̣t trong buổ i chiều xuân … Tất cả đƣơ ̣c thi nhân mở lòng đó n nhâ ̣n vớ i niềm vui ra ̣ng rỡ :

Ngƣ̀ ng bú t trƣớ c ra sân, Non xa xích lại gần. Bến Hà Ra nắ ng đọng,

Chùa Hải Đức chuông ngân.

Cỏ biếc chuồng xây mộng,

Mây hƣờ ng é n dê ̣t xuân.

Hoàng hôn lòng mở rộng,

Mày nguyê ̣t né t thanh tân. (Bài thơ ra sân, tâ ̣p Mây cổ thá p - 1972)

, cạn kiệt

Ở bài “Vọng phu thạch” (I, II), tuy là tả cảnh thiên nhiên nhƣng trên cả là tình yêu quê hƣơng đất nƣớc , mô ̣t tình yêu quê hƣơng đất nƣớ c thâ ̣t son sắt thủ y chung chẳ ng khác nào tình nghĩa đá vàng củ a vơ ̣ chờ chồng đến mòn mỏi dòng lệ. Hình ảnh đá vọng phu là một hình ảnh quen thuộc ở Việt Nam , đă ̣c biê ̣t là

ở dãi đất miền Trung , nó đã đi vào truyện kể dân gian thật cảm đô ̣ng. Nếu nhƣ ở

Lạng Sơn có nàng Tô Thị thì khắp vùng duyên hải Nam Trung bộ , hình ảnh này ẩn

hiê ̣n trong làn sƣơng, thấp thoáng trong màu xanh ba ̣t ngàn củ a nú i rƣ̀ ng : Vọng phu thạch (Bài chị)

Chồng đi biê ̣t tích tƣ̣ bao giờ , Đất đổi trời thay vẫn cứ chờ.

Lụy nhớ mƣa ngàn luôn nƣợp nƣợp,

Tóc thề mây núi bạc phơ phơ.

Non chồng nghĩa nặng cao vờ i vợi, Nƣớ c vƣớ ng tình sầu chảy lƣ̉ ng lờ .

101

Dâu bể đã bao đờ i kiếp trải, Lòng son một tấm mãi trơ trơ.

Vọng phu thạch (Bài em)

Ngƣờ i đã không về tin cũng không,

Đầu non dắt trẻ đứng trông chồng.

Nƣớ c mây quạnh vắ ng trò ng khô lê ̣,

Mƣa nắ ng phôi pha má lợt hồng.

Lờ i thê ̣ vƣ̃ng ghi lò ng sắ t đá , Khối tình riêng nặng gá nh non sông. Nỗi niềm ai biết, không ai biết.

Gƣơng nguyê ̣t nghìn thu rạng biển đông.

Bài “Ngậm đắ ng” trong tâ ̣p “Đọng bó ng chiều” viết về Am Chú a (huyê ̣n Diên Khánh, Khánh Hòa), nơi Thánh Mẫu Thiên Y A Na thác sinh , để qua đó nhà thơ bộc lô ̣ nỗi niềm cảm khái củ a mình trƣớ c cảnh. Bài thơ đƣợc viết theo thể thất tuyệt, dƣ̣a , sau đó cƣỡi vào sự tích xƣa về Thánh Mẫu đầu thai làm con của ông bà trồng dƣa

hạc lên Tiên, mà câu đầu của bài thơ nghe n hƣ mang hơi thơ củ a Thôi Hiê ̣u trong

bài “Hoà ng Hạc lâu”:

Ngƣờ i tiên cỡi hạc đi không lại,

Non Dƣa vắ ng vẻ cảnh am Tiên.

Theo thờ i hoa cỏ đua mà u thắ m,

Ngậm đắ ng riêng đôi khó m mã tiền.

(Ngậm đắ ng)

Cũng là viết về Thánh Mẫu , nhƣng đây cảnh tháp Bà Thiên Y A Na ở Nha

Trang, lă ̣ng lẽ trên đồi Cù Huân , cạnh dòng sông Cái , bên cầu Hà Ra , trong đêm trăng rƣ̣c sáng , trăng ro ̣i khắp bến sông , còn bầu trời thì mây trôi trên bóng tháp , lòng nhà thơ nhƣ cảm nhận đƣơ ̣c ý vi ̣ thần tiên qua hình ảnh trầm hƣơng:

Dòng mây trôi cổ tháp,

Trăng ngập bến Hà Ra.

Phảng phất cơn trầm thoảng,

Trờ i Thiên Y A Na. (Bóng trầm hƣơng, tâ ̣p Mộng Ngân Sơn)

102

Có lần nhà thơ Bƣớc lên hòn Trại Thủy nghĩ về chuyện xƣa , nơi đây mô ̣t thờ i

, để chống

vua Quang Trung Nguyễn Huê ̣ cho lính Thủ y binh đóng quân tâ ̣p luyê ̣n lại chúa Nguyễn Ánh, nhà thơ tự hỏi bao ngƣời đã da ngựa bọc thây để gây dựng cơ

đồ, để rồi cơ đồ ấy đã v ề ai? (Bƣớ c lên hò n Trại Thủy tâ ̣p Một tấm lò ng ); hay nhƣ bài “Nha Trang” viết vào đầu năm 1945 trong tâ ̣p Mây cổ thá p ghi la ̣i tâm tra ̣ng “tha hƣơng mà cố hƣơng” trong nhƣ̃ng ngày ly loa ̣n , quê hƣơng bi ̣ giă ̣c chiếm đó ng. Nhƣ̃ng bài thơ viết về quê hƣơng đất nƣớ c ấy bô ̣c lô ̣ tình cảm củ a tác giả đối vớ i quê hƣơng, ít nhiều cũng mang nỗi niềm nuối tiếc, hoài cổ. 2.4. NỖ I NIỀ M HOÀ I CỔ

Hoài cổ (hoài 懷: nhớ ; cổ 古: xƣa) là nỗi niềm luyến tiếc , tƣở ng nhớ cái thuộc

về xƣa cũ . Hoài cổ là cảm hứng của rất nhiều nhà thơ , nhất là thơ củ a các nhà Nho

tƣ̀ thế kỷ XIX tr ở về trƣớc. Nhiều nhà Thơ mới cũng đã thể hiện cảm hứng này . Vũ Đình Liên vớ i “hai nguồn cảm hƣ́ ng chính l à lòng thƣơng ngƣời và tình hoài cổ” [74,tr.65] đã ta ̣o nên kiê ̣t tác Ông Đồ nhƣ chính nhà thơ tƣ̀ ng xác nhâ ̣n vào năm 1941 trong bƣ́ c thƣ gở i cho Hoài Thanh : “Ông chính là cái di tích tiều tu ̣y đáng thƣơng củ a mô ̣t thờ i tàn” [74,tr.66]. Mô ̣t ba ̣n thơ trong nhóm Bàn Thành tứ hữu là Chế Lan Viên cũng vớ i nỗi niềm hoài cổ mà đã để la ̣i tâ ̣p thơ đầu tay nổi tiếng Điêu tàn (1937), khẳng đi ̣nh chỗ đƣ́ ng trên thi đàn văn ho ̣c lãng ma ̣n bấy giờ . Riêng đối vớ i Quách Tấn, thơ ông cũng mang mô ̣t nỗi niềm hoài cổ .

Cảm hứng về nỗi niềm hoài cổ (khiển hoài) qua thơ ở mục Văn uyển, trên Nam

Phong tạp chí, đƣợc bộc lộ rõ qua các bài thơ vịnh sử: nhân vật lịch sử nƣớc Nam,

nhân vật lịch sử Trung Quốc, có bài vịnh theo thần thoại, truyền thuyết lịch sử. Nội

dung và đặc trƣng thi pháp của thơ vịnh sử là để khiển hoài, ngôn chí; để đánh giá,

khen chê, lấy bỏ nhƣ nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng đúc kết và nói nhƣ nhà

nghiên cứu Trần Nho Thìn là “dùng để bình luận, đánh giá, phán xét, rút ra bài học

lịch sử” [80,tr.102]; ở đó, qua các bài thơ vịnh sử, thƣờng có sự thống nhất giữa

chân thực lịch sử và hiện thực cuộc sống. Thơ vịnh sử nhân vật nƣớc Nam trên Nam

Phong tạp chí nhiều nhất là vịnh Triệu Ẩu (10 bài), Hai Bà Trƣng (9 bài) chủ yếu là

Bà Trƣng Trắc, thứ đến là vịnh Hƣng Đạo đại vƣơng Trần Quốc Tuấn. Chẳng hạn,

vịnh về Hai Bà Trƣng, thì trƣớc đó trong Hồng Đức quốc âm thi tập có ngợi ca:

Tô Định bay hồn vang một trận, Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.

103

Sau này, đầu thế kỷ XVI, Đặng Minh Khiêm trong tập thơ vịnh sử chữ Hán

Thoát Hiên vịnh sử thi tập cũng tiếp tục ca ngợi vị nữ anh hùng này. Kế tục mạch

cảm hứng ấy, trên Nam Phong tạp chí, các tác giả viết:

- Quần thoa đánh đuổi bao quân Hán, Thành quách thu về một cõi Nam. (số 17)

- Xông pha trăm trận thánh vƣơng nghiệp, Đánh đổ ba quân của sứ Tàu.(số 50)

- Nữ nhi chi khác bậc anh hùng, Thù nƣớc thù nhà quyết trả xong. (số 114)

- Phá toang mấy cõi thành Tô Định, Nhẹ bƣớc phong vân chiếm bệ rồng. (số164)

Cũng viết về Hai Bà Trƣng, nhƣng khác với tác giả vịnh sử trên Nam

Phong tạp chí, nữ sĩ Ngân Giang trong phong trào Thơ Mới đã khéo léo đƣa

vào thơ mình những cách tân nghệ thuật, thêm yếu tố tính nữ vào trong hình

tƣợng nhân vật:

Thù hận đôi lần chau khóe hạnh,

Một trời loáng thoáng bóng sao rơi.

Dồn sƣơng vó ngựa xa non thẳm,

Gạt gió chim bằng vƣợt dặm khơi.

Ngang dọc non sông đƣờng kiếm mã,

Huy hoàng cung điện nếp cân đai.

Bốn phƣơng gió bão dồn chân ngựa,

Tám nẻo mƣa ngàn táp đóa mai.

Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ,

Ngai vàng đâu tính chuyện tƣơng lai.

Hồn ngƣời chín suối cƣời an ủi,

Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi.

Lạc tƣớng quên đâu lời tuyết hận,

Non hồng quét sạch bụi trần ai.

Cờ tang điểm tƣớng nghiêm hàng trận,

104

Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời...

Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa,

Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi.

Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá!

Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.

(1939)

Thì ra, Ngân Giang đã tái hiện sự nghiệp hiển hách của Trƣng Nữ Vƣơng vừa

bằng cảm hứng dân tộc lịch sử để tạo ra chất sử thi sảng khoái vừa bằng cảm quan

về chính thân phận mình - một ngƣời phụ nữ tài sắc mà bơ vơ cô độc giữa cõi đời.

Cái chất nhân văn trong thi phẩm tuyệt tác này là ở chỗ đó, nhất là bốn câu cuối bài.

Nhà thơ Đông Hồ, bạn của nữ sĩ Ngân Giang, trong khi bình giảng bốn câu thơ cuối

cùng của bài thơ trên đã sung sƣớng quá, xúc động quá, nên đã đột quỵ ngay tại

giảng đƣờng Đại học Văn khoa Sài Gòn vào ngày 25-3-1969!

Riêng Quách Tấn trong hai tập thơ xuất bản trƣớc năm 1945, ông không viết

thơ vịnh sử mà chỉ có thơ vịnh cảnh, tức cảnh, cảm hoài. So vớ i các nhà thơ cù ng

. Có thể bắt gặp tâm tra ̣ng

thờ i, sƣ̣ khác biê ̣t củ a thơ Quách Tấn về cảm hứng nỗi niềm hoài cổ là ở chỗ nhà thơ nói lên nhƣ̃ng niềm nuối tiếc , luyến tiếc củ a mình về một thời đã xa , về mô ̣t cái gì đó trong quá vãng mà không mong có ngày gă ̣p la ̣i ; đó còn là niềm thƣơng nhớ ngƣờ i xƣa, nhất là nhƣ̃ng mối tình củ a mô ̣t thờ i trai trẻ này ở bất kỳ nhà thơ nào, nhƣng Quách Tấn có cái tâm sƣ̣ riêng của ông. Đo ̣c thơ ông, ngƣờ i đo ̣c sẽ cảm nhâ ̣n về một Quách Tấn với dáng hình, tâm tƣ trĩu nă ̣ng cù ng nhƣ̃ng gì đã ảnh hƣở ng sâu đâ ̣m đến cả đờ i thơ của ông. Nói đơn giản hơn, đó chính , là những dòng thơ đƣợc viết ra từ cõi lòng chân thật , ghi la ̣i nhƣ̃ng kỷ niê ̣m thâ ̣t

không hề che đâ ̣y hay giấu giếm . Nhƣ̃ng dòng thơ đó “chất nă ̣ng ƣu tƣ , ẩn dấu nhƣ̃ng nỗi buồn xa vắng” nhƣ Đă ̣ng Thi ̣ Hảo đã nhâ ̣n đi ̣nh trong Tƣ̀ điển văn học [24,tr.1470].

Nỗi niềm hoài cổ của Quách Tấn đƣợc thể hiện rõ nhất ở bài “Đêm thu nghe quạ kêu”. Bài thơ đƣợc Hoài Thanh ví “có thể sánh ngang vớ i thơ Đƣờ ng , thơ Tống ngày xƣa” [74,tr.267], và bài thơ này cũng đ ƣợc xem là “sƣ̣ mang nă ̣ng đẻ đau” của

chính nhà thơ:

105

Tƣ̀ Ô Y hạng rủ rê sang,

Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng…

Trờ i bến Phong Kiều sƣơng thấp thoá ng, Thu sông Xích Bích nguyê ̣t mơ mà ng. Bồn chồn thƣơng kẻ nƣơng song bạc,

Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?

Tiếng dội lƣng mây đồng vọng mãi,

Tình hoang mang gợi tứ hoang mang…

Sở dĩ nói bài thơ mang nỗi niềm hoài cổ bở i lẽ theo nhƣ lờ i th ƣ củ a Quách Tấn gƣ̉ i thi sĩ Bàng Bá Lân: “Nhƣ̃ng thơ củ a tôi phần nhiều đều có mô ̣t “li ̣ch sƣ̉ ” và mô ̣t , mƣờ i năm , rồi mô ̣t khi gă ̣p “tâm sƣ̣” . Có bài đã nằm trong ngƣời tôi hàng chín

duyên lành liền phát hiê ̣n . Nhƣ bài “Đêm thu nghe quạ kêu” là một . Nguồn cảm

xúc bài thơ này nằm trong ngƣờ i tôi ngót 12 năm trờ i” [73,tr.26].

Trong tác phẩm “Trƣờ ng Xuyên thi thoại – Nhƣ̃ng bà i thơ kỷ niê ̣m” [73], Quách Tấn đã kể lại lai lịch , hoàn cảnh ra đời của bài thơ . Đa ̣i để là , hồi còn trai trẻ , năm 1927, khi ông còn ở quê nhà , mẹ ông bị bệnh , ông đi bốc thuốc cho bà , khi về trờ i tối. Đêm ấy có trăng nhƣng không sáng vì trờ i đầy sƣơng . Trên đƣờ ng về , vì nghe tiếng đô ̣ng nên bầy qua ̣ thảng thốt , kêu thất thanh , rùng rợn. Tƣ̀ đó tiến g qua ̣ ám ảnh ông. Sau đó me ̣ mất. Nhƣng tiếng qua ̣ vẫn não nù ng. Mãi đến năm 1939, khi

đã về làm viê ̣c ta ̣i Nha Trang , trong mô ̣t đêm khuya , ông đang ngồi hóng mát vớ i ngƣờ i ba ̣n thơ Nguyễn Đình , lại một lần nữa, ông nghe tiếng quạ kêu rộn ràng. Suốt đêm không ngủ , nhà thơ nhớ mẹ, nhớ bồi hồi làng xƣa , nƣớ c mắt tuôn trào . Sau đó ,

nhà thơ cất bút viết bài “Đêm thu nghe quạ kêu”.

Tƣ̀ đó , ngƣờ i đo ̣c ít nhiều sẽ nhâ ̣n ra đƣơ ̣c tín hiê ̣u nghê ̣ thuâ ̣t thấp th oáng sau nhƣ̃ng câu thơ . Để hình thành bài thơ “Đêm thu nghe quạ kêu” , không chỉ có văn bản với những cấu trúc nghệ thuật thơ biểu hiện trong tác phẩm , mà còn phải tính

đến những yếu tố ngoài văn bản , có tác dụng hình thàn h văn bản . Nếu không , sẽ không thấy hết ý nghĩ a, nghê ̣ thuâ ̣t củ a tác phẩm . Chính cái nỗi niềm hoài cổ mà Quách Tấn đã thai nghén ý thơ , ngôn ngƣ̃ thơ trong cả 12 năm, đú ng mô ̣t giáp trong hê ̣ can chi. Để rồi tƣ̀ cái nỗi niềm hoài cổ trên mà các yếu tố địa lý , văn hóa ám ảnh nhà thơ, tạo ra những liên tƣởng , chắp nối để hình thành tác phẩm . Cái thực hóa cái

106

mô ̣ng, cái thực bớt đi phần cụ thể rùng rợn , thê lƣơng. Bến đò An Thái , con sông

Côn, tiếng qua ̣ não nù ng chỉ còn trong tâm thƣ́ c , tƣ̀ ngƣ̃ đƣơ ̣c ghi la ̣i trên văn bản đã bị “khú c xa ̣” đi nhiều . Muốn rõ ngo ̣n nguồn la ̣ch sô ng cần tiếp câ ̣n cấu trú c nghê ̣ thuâ ̣t tác phẩm, tiếp câ ̣n cấu trú c văn bản và cả cấu trú c ngoài văn bản. Cái nỗi niềm hoài cổ biểu hiện thông qua tín hiệu nghệ thuật đã thể hiện con ngƣời và khuynh

hƣớ ng nghê ̣ thuâ ̣t nhà thơ.

Cần phải nói thêm rằng , ở bài “Đêm thu nghe quạ kêu” cũng thể hiện một phong cách củ a Q uách Tấn là thƣờn g dù ng điển cố , điển tích rất riêng theo phƣơng thƣ́ c liên tƣởng – cảm giác . Nhƣ̃ng hình ảnh thƣ̣c , mô ̣ng hiê ̣n ra , ẩn vào đan xen , , điển tích Đƣờ ng thi vốn đã thấ m sâu quấn quít lấy nhau , tƣ̀ đó hàng loa ̣t điển cố trong con ngƣờ i cổ điển Quách Tấn dần xuất hiê ̣n trên trang giấy , trên nhƣ̃ng dò ng , mà còn thơ. Về ý tƣở ng , bài thơ không chỉ bắt nguồn từ cảm xúc thật của tác giả

chịu ảnh hƣởng từ ba bài thơ nổi tiếng đời Đƣờng mà ở trƣớc luận văn có nhắc đến.

Chính nỗi niềm hoài cổ mà Quách Tấn đã để lại cho hậu thế một kiệt tác , đồng

thờ i vi ̣ trí củ a ông càng đƣơ ̣c khẳng đi ̣nh trên thi đàn Viê ̣t Nam . Bên ca ̣nh đó , bạn đo ̣c cũng thích thú , tò mò trƣớc nỗi niềm hoài cổ củ a ông, bở i lẽ bài thơ “Đêm thu nghe quạ kêu” đƣơ ̣c thai nghén đú ng mô ̣t giáp tròn , hình thành trong nửa đêm . Rồi đến hai năm sau (1941) mớ i đƣơ ̣c sƣ̉ a chƣ̃a la ̣i . Đồng thời, có một sự ngẫu nhiên lạ

lùng: Quách Tấn bi ̣ tiếng qua ̣ ám ảnh vào năm Đinh Mão (1927), rồi viết bài thơ

này vào năm Kỷ Mão (1939), sau đó tác giả viết lại sự tích, hoàn cảnh ra đời bài thơ

vào năm Quý Mão (1963) gở i cho Bàng Bá Lân . Ba năm Mão gắn vớ i mô ̣t b ài thơ.

Âu cũng là thiê ̣n duyên!

Nỗi niềm hoài cổ củ a nhà thơ còn thể hiê ̣n trong bài “Mộng thấy Hà n Mặc

Ôi Lê ̣ Thanh ! Ôi Lê ̣ Thanh, Tƣ̉ ”:

Một giấc trƣa nay lại gặp mình. Nhan sắ c châu phun mà u phú quý , Tài hoa bút trổ né t tinh anh. Rƣợu tà n thu cũ say sƣa chuyê ̣n, Hƣởng tạ trờ i cao bá t ngá t tình. Tôi khó c tôi cƣờ i vang cả mộng,

Nhớ thƣơng đƣa lạc gió qua mà nh.

107

Bài thơ in trong “Mù a cổ điển” (1941) đƣơ ̣c Quách Tấn viết vào khoảng 1939-1940. Có thể xem đây là một bức thƣ bằng thơ của Quách Tấn gởi cho Hàn

Mă ̣c Tƣ̉ sau mô ̣t giấc mô ̣ng đe ̣p ban trƣa. Mở đầu bài thơ là tiếng go ̣i ba ̣n đến hai lần. Tiếng go ̣i nhƣ dồn chƣ́ a nỗi niềm thiết tha nhớ ba ̣n . Nhớ ba ̣n là nh ớ những vần

thơ nhƣ châu phun, nét bút tinh anh của bạn. Nhớ ba ̣n, nhà thơ đã khóc, cƣờ i vang cả mộng. Trên thƣ̣c tế thì lú c bấy giờ Hàn Mă ̣c Tƣ̉ đã vào nhà thƣơng ở Quy Hòa (Quy Nhơn), nhƣng trong mô ̣ng la ̣i thấy Tƣ̉ la ̣i sắc sả o mă ̣n mà hơn xƣa. Phải chăng

Quách Tấn biết mình sắp phải “chia xa” Hàn Mặc Tử , mình sắp mất đi một tri âm

tri kỷ nên nhà thơ đã “hoài cổ” , nhớ la ̣i nhƣ̃ng hình ảnh đe ̣p về ba ̣n , giƣ̃ la ̣i nhƣ̃ng nét thanh xuân nhất về bạn ? Có thể thấy chữ “tôi” trong bài này rất mới, cảm xúc

dâng tràn ít thấy trong thơ cổ.

Có thể nói, làm thơ là để gởi gắm cõi lòng . Quách Tấn cũng thế . Thơ củ a ông

, khó lòng gặp lại . Đó còn là

thƣờ ng khắc ghi nhƣ̃ng kỷ niê ̣m về mô ̣t thờ i đã xa nhƣ̃ng kỷ niê ̣m đe ̣p về nhƣ̃ng mối tình củ a thi nhân mô ̣t thờ i trai trẻ vớ i Liên Tâm , vớ i Chƣ́ c Thành . Chính những mối tình ấy đã làm nên chất men để góp phần tạo

cảm hứng cho thi nhân đề thơ , mà trong hồi ký Bóng ngày qua, nhà thơ có nói rất

rõ. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhan đề các tập thơ của ông đã mang cái ý hoài

niê ̣m, tƣởng nhớ một thời đã xa nhƣ : Một tấm lò ng, Mùa cổ điển, Đọng bó ng chiều,

Mộng Ngân Sơn…

2.5. CẢM HỨNG THIỀN ĐẠO

Cảm hứng này rất ít gặp trong hai tập thơ xuất bản trƣớc năm 1945, mà nhiều

nhất là ở những tập thơ sau này nhƣ các tập: Đọng bóng chiều, Mộng Ngân Sơn,

Giọt trăng. Cùng thời với Quách Tấn có nhà thơ J.Leiba (Lê Văn Bái) với bài Bến

giác mang cảm hứng Thiền - Phật và ít nhiều có pha chất Lão - Trang. Nhà thơ xem

cuộc đời là hƣ ảo, là “phù thế”, nên nhà thơ hơi bi quan, muốn xa lánh cõi đời. Tác

giả đã dùng nhiều từ ngữ nhà Phật để diễn đạt ý tƣởng trên:

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá!

Lệ lòng mong cạn chốn am Không.

Cửa Thiền một đóng duyên trần dứt,

Quên hết ngƣời quen chốn bụi hồng.

108

Riêng Quách Tấn, nói nhƣ nhà nghiên cứu Trần Phong Giao thì “thơ Quách

Tấn càng về sau đã “thấy”, đã “nhâ ̣p” vào Thiền, đã “cảm dƣỡng hào khí củ a Thi ền tông Viê ̣t Nam” [19,tr.287-296].

2.5.1. Nhìn thiên nhiên qua cảm quan Thiền đạo

Quách Tấn là một Phật tử thuần thành , ông thƣờ ng nghiền ngẫm , nghiên cƣ́ u kinh Phâ ̣t, nên thơ củ a ông ít nhiều cũng mang cảm quan triết lý nhà Phâ ̣t v à mang cả cảm hứng đạo học. Điều này đƣợc thể hiện qua nhƣ̃ng vần thơ viết về thiên nhiên

của ông. Thiên nhiên đƣợc nhìn qua cảm quan Thiền đạo.

Trong mối quan hê ̣ qua la ̣i giƣ̃a thi nhân và thiên nhiên , tính tƣơng hỗ từ thể

.

xác qua trí t uê ̣ đến tâm linh đã phơi bày mô ̣t cách tích cƣ̣c và không mâu thuẫn Quách Tấn không chỉ nhìn ngắm thiên nhiên với con mắt thẩm mỹ mà còn với cả

con mắt triết lý và tâm linh . Ta có cảm tƣở ng Quách Tấn đã hòa quyê ̣n cù ng thiê n tiểu ngã và đa ̣i ngã để làm thành khối nhiên, khăng khít trong mối quan hê ̣ giƣ̃a đồ ng nhất, mà thiên nhiên là tiền đề, là điều kiện để khởi động từng phút , tƣ̀ ng giây, tƣ̀ ng sát na cảm xú c củ a thi sĩ, hỗ trơ ̣ thi sĩ ý thƣ́ c đƣơ ̣c sƣ̣ có mă ̣t củ a ngũ quan (ngũ căn) và những tính năng của nó , mà thuật ngữ của nhà Phâ ̣t go ̣i là “nhãn thƣ́ c, nhĩ

,

thƣ́ c, tỵ thức, thiê ̣t thƣ́ c , ý thức” . Thiên nhiên xung quanh ta là hiê ̣n thân củ a đất nƣớ c, không khí, năng lƣơ ̣ng mă ̣t trờ i, của sự vận hành tháng năm , vớ i thờ i gian vô tâ ̣n. Sƣ̣ hòa nhâ ̣p củ a nó cũng là hòa nhâ ̣p vào suối nguồn củ a sƣ̣ sống .

Cụ thể hơn, vớ i mô ̣t vỏ sò khô , Quách Tấn cũng gởi vào nó hơi thở , hồn thơm của một s ức sống thơ dạt dào . Nhìn vỏ sò khô , mô ̣t thƣ̣c thể chết , Quách Tấn lại

. Có sự sống , cái chết nào lại chẳng liên

nghe tiếng reo vang vo ̣ng củ a biển khơi quan đến môi trƣờ ng sống vớ i thế giớ i đồng hiê ̣n hƣ̃u ? Hiê ̣n thể củ a vỏ sò hoặc con sò đâu thể thiếu vắng biển khơi. Tiểu ngã và đa ̣i ngã tƣơng duyên vớ i nhau:

Vỏ sò khô ấp ủ,

Niềm băng tuyết đêm sƣơng.

Muôn xa bờ bến cũ,

Vang vọng só ng trù ng dƣơng.

(Ấp ủ)

109

Và mỗi khi tiểu ngã và đa ̣i ngã tƣơng quan , tƣơng duyên vớ i nhau thì mỗi đô ̣ng tác đều gây sƣ̣ chuyển đô ̣ng dây chuyền . Mô ̣t cái bú ng chân nhảy củ a con cào cào màu xanh cũng đủ khiến bầu trời buổi chiều thu rung chuyển :

Nƣớ c ngoạn trờ i long lanh,

Con cà o cà o á o xanh.

Bờ cao bú ng chân nhảy,

Mây chiều thu rung rinh.

(Búng chân)

Đây là nhâ ̣n thƣ́ c triết lý – đú ng hơn là đa ̣o lý – của Quách Tấn. Nó bắt nguồn

tƣ̀ sƣ̣ thấm nhuần đa ̣o Phâ ̣t . Trong thế giớ i tƣơng quan tƣơng duyên và cả tƣơng tác . Tất cả đều tác đô ̣ng nƣ̃a, thì đâu đâu cũng mang tính động thái và tính tiến trình

qua la ̣i , đều vận chuyển , nghĩa là không diễn ra theo một chiều mang tính định

mê ̣nh, mang tính “Sá ng thế”. Tính tƣơng quan, tƣơng duyên quyết đi ̣nh cho sƣ̣ sinh diê ̣t cũng nhƣ hình ảnh , màu sắc của thiên nhiên cũng quyết định tính vô biên , vô thƣờ ng và vô ngã củ a nó . Thơ văn củ a Quách Tấn đã giú p ngƣờ i viết nhƣ̃ng dòng chƣ̃ này hiểu sâu thêm nhận thức ấy . Trong hoàn cảnh cuô ̣c sống có sƣ̣ đổi thay ào ạt từng phút từng giờ, hiếm có ngƣờ i nào ung dung, thong dong nhƣ Quách Tấn, bở i nhà thơ luôn giữ lòng tự tại trƣớc thực tế thay đổi theo thời gia n. Có sự tĩnh tại đó là

nhờ thi sĩ đã nghiê ̣m ra , đã trƣ̣c cảm đƣơ ̣c cái lẽ “Là mộng cũng là chân” để lƣợng hƣơng xuân ngào nga ̣t mãi trong lòng:

Mƣờ i hai mù a lá rụng,

Đây mù a hƣơng nở xuân. Theo duyên lò ng chẳng đổi, Là mộng cũng là chân.

(Nở xuân)

Mộng huyễn và chân thật xét đến cùng , có chung một bản thể . Nó là hai mặt

của một thực tại , bởi “Tâm pháp nhất nhƣ”, “Vạn vật nhất thể”. Nhà thơ đồng nhất

mộng và chân là nhờ nhận thức đƣợc chân lý ấy . Chính vì nhà thơ tĩnh tâm trƣớc

thƣ̣c ta ̣i , nên đã chấm dƣ́ t mo ̣i bay nhảy , mọi tìm kiếm , đi và đế n để nhƣ “Chim dƣ̀ ng cá nh biê ̣t ly” (Mơ Đạo), để không còn hỏi “Cảnh hay lò ng?” và để nhận thức

đƣơ ̣c rằng “Lò ng vớ i cảnh không chia” (Quán trọ đêm thu) và:

110

Mây nƣớ c hằ ng tƣ̣ tại, Vàng đá chẳng vô tri. Thiên nhiên trong thơ Quách Tấn mang đâ ̣m chất thanh ti ̣nh và sung mãn nét đe ̣p tâm linh trong sƣ̣ “Ân á nh cõi tƣ̀ bi” , nhờ thế mà thi nhân dƣờ ng nhƣ đã chƣ́ ng nghiê ̣m đƣơ ̣c “Hƣơng gió thoảng liên trì ” (Mơ Đạo) dù chỉ trong mô ̣t sát na , mô ̣t cái nháy mắt, mô ̣t chú t gió thoảng qua!

Tƣ tƣở ng Đa ̣o Phâ ̣t thấm nhuần trong con ngƣờ i Quách Tấn . Vì thế trƣớc khi

từ giã cõi đời, nhà thơ dặn dò con cháu nhớ khắc trên bia mô ̣:

Nghìn xƣa không cò n nƣ̃a,

Nghìn sau rồi cũng không.

Phảng phất bờ trăng rạng,

Hƣơng Ƣu đà m trổ bông. (Thoáng hiện)

Tồn tại và hủy diệt, sắ c và không, hƣ̃u và vô đều cùng bản thể, nhất nhƣ. Nghìn

xƣa không còn là thƣ̣c ta ̣i. Quá khứ nghìn năm sau sẽ không còn ; và tƣơng lai nghìn năm sau dù chƣa hiê ̣n hƣ̃u cũng chẳng tồn ta ̣i . Tất cả đều là Không. Giác ngộ và thấu hiểu đƣơ ̣c chƣ̃ Không trong tƣ tƣởng triết ho ̣c nhà Phâ ̣t là cả nhƣ̃ng chuỗi thờ i gian chiêm nghiê ̣m, nghiền ngẫm, suy tƣ. Không ở đây chẳng phải là sự đối đãi, đối

lập giữa “có” và “không”, “hữu” và “vô” mà là cái Không vƣợt lên trên. Đó là chân

. Ông không

không diệu hữu. Dƣờ ng nhƣ Quách Tấn đã nghiê ̣m ra đƣơ ̣c điều đó giƣ̃ chă ̣t cái đã qua , cũng không sống với cái chƣa có thực , không để cho nhƣ̃ng gì của quá khứ và tƣơng lai chen vào phút giây đang hít thở , thì lúc đó vầng trăng rạng

cũng cho “thấy” cả hƣơng Ƣu đàm . Hoa Ƣu đàm là hoa Giác ngô ̣ , theo kinh Phâ ̣t , mấy nghìn năm mớ i nở hoa mô ̣t lần . Dĩ nhiên hoa này không xuất hiện trong cuộc sống ồn ã vang dô ̣i trong loa phát thanh và rô ̣n ràng xe cô ̣ , cũng không xuất hi ện ở

nơi đâu đâu, khi con ngƣờ i tấp nâ ̣p bay nhảy, tìm kiếm, đi và đến... Ngƣờ i ta chỉ gă ̣p nó khi lòng mình thật sự lặng lẽ, thanh tĩnh.

Cũng nhƣ thiền sƣ Vạn Hạnh đời Lý, Quách Tấn đã xem “Thân nhƣ bóng

chớp có rồi không”. Ông thƣờng nói đùa rằng đời tôi có tứ thú và tam vô. Tứ thú là:

Có tiền in sách đẹp,/ Gặp bạn sẵn thơ hay./ Giấc tỉnh hồi chuông sớm,/ Võng trƣa

111

giấc ngủ ngày. Còn tam vô là: Không biết hút thuốc, không chơi cờ bạc và không đi

xe đạp.

2.5.2. Hình ảnh tiếng chuông chùa

Tiếng chuông chùa đối với thi nhân nhƣ một kỷ vật thiêng liêng từng chôn sâu

trong tiềm thức của ông, nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non chùa chiền thì nó

bỗng dƣng trỗi dậy:

Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng,

Đầm Ô sen nở gió thơm tho.

Không những lắm lúc ngắm cảnh thiên nhiên, tiếng chuông chùa làm ông chú

ý, mà mỗi khi chợt tỉnh giấc nồng, tiếng chuông cũng hiện đến:

Mây nƣớc nhuốm phong trần,

Nơi đâu tình cố nhân.

Những đêm buồn tỉnh giấc,

Chùa cũ tiếng chuông ngân.

Nhờ nghe tiếng chuông chùa ngân vang mà khách hành hƣơng trút hết mọi nỗi

ƣu phiền, nhƣ Chu Mạnh Trinh đã viết: “Lạ cho vừa bén mùi thiền,/ Mà trăm não

với ngàn phiền sạch không”. Hay: “Thoảng bên tai một tiếng chày kình,/ Khách

tang hải giật mình trong giấc mộng” (Hƣơng Sơn phong cảnh ca).

Không khác gì cảm nhận của họ Chu, Quách Tấn cũng mô tả trạng thái tâm

hồn mình khi đến viếng một cảnh chùa quen thuộc: “Ngƣời đến viếng cảnh chùa,

lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát,

tƣởng chừng mình đã xa lánh hẳn cõi trần tục.” [Nƣớc non Bình Định]

Thế rồi, thoảng đâu đây nhƣ có tiếng gió ru hồn lữ khách:

Gió ru hồn mộng thiu thiu,

Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.

Và thi sĩ tiếp: “Nếu không có tiếng chuông hay mộng thì mộng còn mãi chìm

trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vƣơng hƣơng bay lờ lững trong hồ sen yên

tịnh.”

Cứ thế, thời gian trôi đi và bóng tịch dƣơng dần dà đổ xuống với tiếng chuông

chùa cổ thân yêu:

Mây tạnh non cao đọng nắng chiều,

112

Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu.

Thêm nhiều lá rụng cây quằn quại,

Đã vắng ngƣời sang bến nhẩy triều.

Thế rồi, ngày lại ngày trong sự tất bật của cuộc sống đời thƣờng, nhƣng mỗi

khi nhìn thấy cảnh chùa thì âm vang tiếng chuông lại ngân nga tựa hồ bất tận:

Chùa ẩn non mây trắng,

Bóng in hồ liễu xanh.

Mai chiều chuông đã tạnh,

Vòng sóng còn long lanh.

(Tiếng ngân)

Đây là hình ảnh thiên nhiên đầy tình tự, là khoảng trời xanh tinh khiết còn lại

trong đôi mắt long lanh của một nhà thơ trong cảnh xế chiều của đời mình.

2.5.3. Một đạo tâm dào dạt

Có lần tôi đi theo ba tôi đến thăm nhà thơ, nghe ông tâm sự: “Gia đình tôi theo

đạo Phật, và tôi chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng Thiền trong Phật giáo”. Và trong khi đàm

đạo, ông thƣờng nhắc đến ngọn đồi Trại Thủy, nơi tọa lạc của Phật học viện Nha

trang, một trung tâm đào tạo Tăng tài trong giai đoạn cận hiện đại. Từ đó mới biết

hồi ấy, Hòa thƣợng Thích Trí Thủ đàm nhiệm Giám viện Phật học viện lại là chỗ

tƣơng giao tâm đắc với thi sĩ, vì thế, một hôm lên thăm chùa, nhân ngẫu hứng thi sĩ

đã cảm tác một bài ngũ ngôn, để tặng Hòa thƣợng:

Trăng lên đồi Trại Thủy,

Chuông khua ngời âm ba.

Bồi hồi mây khóa viện,

Sân Bồ đề sƣơng sa.

Ngoài ra, ngôi chùa Kim Liên tại Diên Khánh cũng là nơi lƣu lại dấu chân của

thi nhân. Một hôm đến viếng cảnh chùa, thấy Thƣợng tọa viện chủ tiếp đón khách

tham quan niềm nỡ, ông liền làm bài thơ để lại lƣu niệm:

Dặm hồng dìu dịu nắng,

Theo hứng viếng làng tu.

Ngụm nƣớc đằm chơn vị,

Im lìm sen nở thu.

113

Ngƣời xƣa từng nói: “Nhân giả nhạo sơn; trí giả nhạo thủy.” (Ngƣời nhân ƣa

cảnh núi rừng; ngƣời trí ƣa nơi sông nƣớc). Phải chăng vì vậy mà các cảnh chùa

tiêu biểu cho đạo từ bi nhân ái – thƣờng đƣợc xây cất trên các đồi núi? Thậm chí có

những ngôi danh lam quanh năm mây phủ xa xôi chập chờn trông có vẻ tiêu dao

thoát tục:

Cây chen đá chất chập chùng,

Biển giăng dƣới núi, chùa lồng trong mây.

Bụi đời không bợn mảy may,

Chút thân rộng tháng dài ngày thảnh thơi.

Phải chăng kiếp sống nhân sinh chập chờn nhƣ ảo mộng? Con ngƣời luôn luôn

chơi vơi giữa dòng trƣờng lƣu bất tận, khiến đôi lúc nhà thơ chợt hứng cất tiếng gọi

đò vang cả hƣ không:

Đời nửa khói mây chìm bóng mộng,

Gọi đò một tiếng lạnh hƣ không.”

Ta nghe đƣợc dƣ âm của thiền sƣ Không Lộ đời Lý còn phảng phất đâu đây:

Hữu thì trực thƣớng cô phong đính,

Trƣờng khiếu nhất thanh hàn thái hƣ.

(Ngôn hoài)

(Có khi xông thẳng lên đầu núi,

Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.) [Thơ văn Lý – Trần, tập 1]

Không những chịu ảnh hƣởng sâu sắc tƣ tƣởng của các thiền sƣ - điều mà thi sĩ

đã khẳng định - ông còn thâm nhập cốt lõi của kinh Duy Ma Cật:

Ngày qua chầm chậm vách kim thinh,

Cảnh giới Duy Ma mình với mình.

Hoa rải tờ thơ hƣơng lành lạnh,

Trăng cài nhánh mộng bóng xanh xanh.

Có lần ông thổ lộ cái ý vừa nêu: “Cây thiết mộc lan nở hoa lần này là lần thứ

hai (tháng 12-1992). Lần trƣớc nở tôi 79 tuổi (1989). Hai nhánh lan đã lên cao nhƣ

hai cây sào, hoa nở trắng trên đọt, hƣơng bay chập chờn theo gió, nghe lũ cháu reo

mừng. Tôi tƣởng chừng nhƣ hoa của thiên nữ từ trong vách Phƣơng trƣợng của Duy

Ma Cật bung ra rải xuống hạ giới vậy” [71].

114

Điều này chứng tỏ càng về già nhà thơ càng đến gần cõi Đạo, nhƣ nhà văn

Trần Phong Giao nhận xét: “Tới lúc về già, ta thấy khí vị Thiền lung linh bàng bạc

trong thơ Quách Tấn, nhất là trong nhiều bài in trong hai tập Mộng Ngân Sơn và

Giọt trăng”.

Một hôm vào lúc xế chiều, Quách Tấn lên chùa Hải Đức (ở Nha Trang) thăm

một ngƣời bạn vong niên (tƣơng truyền là thầy Nguyên Tánh). Mặc dù tuổi tác

chênh lệch nhau, nhƣng hai tâm hồn nhƣ cùng chung một giai điệu:

Áo giũ ngày sƣơng gió,

Lên chùa thăm cố nhân.

Non nghiêng thềm bóng xế,

Lịu địu bóng nhàn vân.

Phong cách ấy quả thực có khác với thế nhân trong những lúc thù tạc vãng lai.

Ngƣời đời đến và đi trong âm thanh và tốc độ của thời đại cơ khí, ồn ào và vội vã…

Nhƣng thời đại của nhà thơ là thời đại ẩn tình trầm lặng của một đám mây lơ lửng,

lồng trong bóng núi nghiêng nghiêng. Ngƣời đời rồi cũng có lúc“Giũ áo phong

sƣơng trên gác trọ” để ngồi lại chiêm nghiệm chính mình, nhƣ thi sĩ đã làm:

Khép cửa phiền ba lại,

Vƣờn quê nắng sƣởi tình.

Thanh bình lòng giếng ngọt,

Chim hót ngọc âm thanh.

Để thấy rõ hơn chân dung của Quách Tấn, chúng ta có thể nghe ý kiến của

Phạm Công Thiện, một ngƣời bạn tâm giao của thi sĩ đã viết trong bài“Trách nhiệm

của tuổi trẻ Việt Nam với Quách Tấn”: “Quách Tấn là một Phật tử trọn vẹn, đã thu

tóm tất cả những bài thơ mộng của Phật giáo vào trong cuộc đời trầm lặng của

mình. Quách Tấn đã đi ngƣợc lại tất cả phong trào thời thƣợng… Ông xứng đáng là

kẻ nối dòng của các vị thiền sƣ: Vạn Hạnh, Không Lộ, Ngộ Ấn, và tất cả những

thiền sƣ thi sĩ đã nuôi dƣỡng linh hồn của cả một dân tộc, linh hồn của Lý Thƣờng

Kiệt đánh Tống và Trần Hƣng Đạo đánh Nguyên.” [19]

Phải chăng vì đƣợc nuôi dƣỡng trong không khí tâm linh của các thiền sƣ thi sĩ

quá khứ mà “Quách Tấn luôn luôn giữ phong độ của kẻ mang hào khí ngút ngàn?

Mỗi hàng, mỗi câu đều thể hiện sáng sủa, uy nghiêm mà tràn ngập thi ca, khiến cho

115

ngƣời đọc „lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ‟. Tất cả con ngƣời

Quách Tấn là thi ca, là tiếng báo hiệu của một sự tựu thành” nhƣ lời nhà văn

Nguyễn Thái đã viết trong bài Quách Tấn: quê hƣơng và thơ [19]. TIỂ U KẾ T

Có thể nói những cảm hứng chủ đạo trong thơ Quách Tấn có thể giống nhƣ các

nhà thơ khác nhƣng cảm hứng đấy vẫn mang phong cách riêng củ a Quách Tấn .

Cũng là tả cảnh thiên nhiên nhƣng bên cạnh tình cảm , nhà thơ còn biểu lộ triết lý

nhân sinh theo quan niê ̣m nhà Phâ ̣t . Để thể hiê ̣n tình cảm – triết lý ấy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ thơ , hình ảnh thơ để câu thơ không nặng nề , trái lại vẫn nhẹ nhàng ,

thanh thản và càng đo ̣c , ý vị của câu thơ càng mới thấm dần , mớ i lan tỏa trong tƣ̀ ng mao ma ̣ch củ a ngƣờ i đo ̣c.

Tình yêu quê hƣơng đất nƣớc trong thơ Quách Tấn man g đâ ̣m tính nhân văn , thể hiê ̣n nhân sinh quan tích cƣ̣c củ a ông. Quách Tấn nhìn đất nƣớc, nhìn quê hƣơng không chỉ để miêu tả , phản ảnh những cái hay , cái đẹp của xứ sở mình , của những nơi mà ông tƣ̀ ng đi qua và củ a chính nhƣ̃ ng cảnh bình di ̣ xung quanh nhà mình mà còn thể hiện cả tấm lòng của thi nhân đối với cảnh giang sơn cẩm tú , mỹ lệ của quê

hƣơng.

Cũng là nỗi niềm hoài cổ nhƣng hoài cổ của Quách Tấn lại là những kỷ niệm

thâ ̣t, gắn liền vớ i cuô ̣c đờ i riêng củ a ông . Nhờ thế, đo ̣c thơ Quách Tấn, ngƣờ i đo ̣c sẽ hiểu thêm về cuô ̣c đờ i củ a chính bản thân nhà thơ thông qua ngôn tƣ̀ chắt lo ̣c , ý thơ hàm súc, tinh tế.

mớ i nhƣ̃ng thi đề tƣở ng chƣ̀ ng nhƣ đã cũ

cảnh quen thuộc thì dƣới cái nhìn của Quách Tấn

Rõ ràng, vớ i bú t lƣ̣c sắc sảo , Quách Tấn đã làm mớ i nhƣ̃ng cảm hƣ́ ng thơ , làm . Nếu ví cảm hƣ́ ng chủ đa ̣o là mô ̣t khung , ông đã tìm ra cho mình lối đi riêng, cách cảm nhận riêng về kh ung cảnh đó , mà vẫn không làm mất đi vẻ đẹp

nguyên sơ củ a cảnh.

116

Chƣơng 3

MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN

NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

Trong chƣơng này , luận văn sẽ không tìm hiểu nghê ̣ thuâ ̣t thơ Quách Tấn mô ̣t

cách chung chung, mà chủ yếu là cố gắng đi sâu tìm hiểu để chỉ ra những nét đổi

mớ i, tƣ́ c nhƣ̃ng cách tân nghê ̣ thuâ ̣t trong thơ Đƣờng luật của Quách Tấn, cụ thể là thể thơ , ngôn ngƣ̃ thơ , nhịp điệu và giọng tìm hiểu các yếu tố nghê ̣ thuâ ̣t chính là điê ̣u thơ. Nhƣng trƣớ c khi đi sâu trình bày nhƣ̃ng nét đă ̣c sắc nghê ̣ thuâ ̣t rất riêng đó tác giả về viê ̣c làm của Quách Tấn, có lẽ cũng cần nêu ra đây quan niệm của chính

thơ.

3.1. QUAN NIỆM CỦA QUÁCH TẤN VỀ VIỆC LÀM THƠ

Quách Tấn là con ngƣời đa tài, thành công ở nhiều thể loại khác nhau. Bên

cạnh sáng tác thơ, Quách Tấn còn dịch thơ văn chữ Hán, tiếng Pháp và viết biên

khảo về văn hoá, địa chí, mà những công trình này đều đƣợc các nhà nghiên cứu và

ngƣời đọc đánh giá cao.

Riêng về thơ, Quách Tấn thƣờng suy tƣ, trăn trở và thƣờng phát biểu quan

niệm của mình về việc làm thơ.

3.1.1. Quan niê ̣m củ a nhà thơ về viê ̣c dù ng điển, luyê ̣n chƣ̃

Quách Tấn là nhà thơ hiện đại, thời Thơ Mới, nhƣng ông sáng tác theo thể thơ

cũ, thƣờng là thơ cách luật. Chính vì thế mà ngƣời đọc bắt gặp trong thơ ông một số

điển cố, điển tích chẳng khác nào nhƣ thơ thời trung đại. Vì sao vậy? Thơ cách luật

thƣờng hàm súc, cô đọng, ít lời nhiều ý, ý tại ngôn ngoại, muốn vậy phải dùng điển.

Việc này, Quách Tấn đã tâm sự trong tập hồi ký Bóng ngày qua (Đời văn chƣơng)

là nhiều nhất . Nhà thơ nhiều lần cho rằng , ngƣờ i làm thơ dù ng điển để trang điểm cho câu thơ về mă ̣t hình thƣ́ c và mƣơ ̣n nghĩa củ a điển để diễn ý củ a mình . Ngƣờ i dùng điển t hƣờ ng thiên về lý trí . Trong hồi ký Bóng ngày qua (Đời văn chƣơng), Quách Tấn nói: “Tôi dù ng điển để gơ ̣i ý , nhất là để mƣơ ̣n nguồn cảm hƣ́ ng , nghĩa là mƣơ ̣n nhƣ̃ng trƣờ ng hơ ̣p riêng biê ̣t củ a mỗi điển tích để truyền cho đô ̣c giả nhƣ̃ng cảm giác ấy , cái thi vị ấy phải nhờ không khí điển tích gây trở lại mới mong thỏa

mãn đƣợc ít nhiều” [71].

117

Theo Quách Tấn , khi sáng tác , ngƣờ i làm thơ dù ng điển là chuyê ̣n cƣ̣c chẳng đã. Nhà thơ nƣợn điển để giãi b ày cảm hứng , không phải vì bí ý , tƣ́ mà là để diễn đa ̣t mô ̣t ý tƣở ng nào đó cho ý nhi ̣, kín đáo, nhƣ̃ng ý không thể nói thẳng thƣ̀ ng . Nhà thơ chỉ cần dù ng mô ̣t điển cố , điển tích có thể diễn đa ̣t mô ̣t ý tƣở ng , mà ý tƣởng đó nếu viết ra có thể rất dông dài . Ông viết: “Dù ng điển là sƣ̣ cƣ̣c chẳng đã . Có nhiều điều không thể nói thẳng , không tiê ̣n nói trắng , nên phải dù ng điển cho đƣơ ̣c uyển chuyển, cho đƣơ ̣c kín nhe ̣m , đƣơ ̣c thanh tao . Có nhiều ý phải nói hàng trang giấy mớ i đủ , phải dùng điển làm “đại biểu” cho đƣợc gọn gàng” [71,tr.260].

Quách Tấn nghĩ rằng, có điển cố, điển tích mà không dù ng thì thâ ̣t lãng phí . Là nhà thơ, nếu có vốn hiểu biết sâu rô ̣ng , nhiều lú c không muốn dù ng điển nhƣng tƣ̣ . nó chợt đến , có khi dùng một cách không cố ý , để khi đọc lại mới vỗ vế mà cƣời

Lúc này thì thú vị biết bao ! Nhà thơ phải khổ công luyện chữ , để khi cần, hƣ́ ng thơ chơ ̣t đến thì có ngay từ ngữ mà dùng , nhƣ móc tƣ̀ tú i ra , chƣ́ không phải tốn công tìm tòi. Ngƣờ i làm thơ chẳng khác ngƣờ i thơ ̣ mài ngo ̣c giũa ngà , tƣ́ c phải du ̣ng công rèn chữ chuốt câu sao cho ý nhị , thanh thoát, đƣ̀ ng để la ̣i mô ̣t tỳ vết nào: “biết nhiều điển tích nhiều khi mình không đi ̣nh dù ng , tƣ̣ nhiên chú ng cũng đến đú ng lú c. Lắm khi chỉ có một ý mà điển đến cả mớ, điển này tranh vớ i điển kia để phu ̣c vu ̣ cho thơ; làm ngƣời làm thơ phải mất công dàn x ếp cho ổn thỏa . Có khi chúng lén vào trong

thơ lúc nào mình không hay biết; khi ngâm la ̣i mớ i vỗ vế mà cƣờ i” [71,tr.260-261].

Ông nói tiếp về ki nh nghiê ̣m luyê ̣n chƣ̃ làm thơ : “Khách làm thơ phải luyê ̣n

chƣ̃ trƣớ c khi làm thơ chớ

không phải trong khi làm thơ . Họ luyện chữ trong lúc , trên mỗi ngƣờ i ... luôn luôn

rảnh rang. Nhƣ̃ng chƣ̃ ho ̣c thu thâ ̣p đƣơ ̣c trong sách vở đƣơ ̣c đem chù i rƣ̉ a , nung nấu ... có khi bị biến chế thành nghĩa riêng tiếp tháp vớ i nhƣ̃ng chữ không thông dụng thành những “con la” đủ sức xứng vóc chở những ý tƣở ng riêng biê ̣t củ a ho ̣. Họ rèn luyện , trau chuốt rồi để đó . Đến khi ho ̣ làm thơ thì , chớ đâu cần “cha ̣y ngƣơ ̣c cha ̣y xuôi ” có lắm đem ra dù ng nhƣ móc tiền trong tú i

khi “bần ƣ nhất tƣ̣” , có lắm khi “nghĩ một chữ nát một khúc ruột” thật nhƣng “đó đâu phải để trang sƣ́ c cho câu thơ , mà chính để diễn tả cho đúng với ý nghĩa mình muốn diễn tả .

Huống nƣ̃a thơ ̣ làm đồ ngà phải thi ết phải tha, thơ ̣ mài ngo ̣c phải trác phải ma .

Kẻ làm thơ hóa lại kém công phu hơn thợ ngà, thơ ̣ ngo ̣c sao ?

118

, Nếu còn để cho ngƣờ i ta thấy rõ sƣ̣ go ̣t giũa là do công phu chƣa đú ng mƣ́ c

bút pháp chƣa tinh luyện, chƣ́ đâu phải lỗi tại sự dụng công.

Rèn chữ chuốt câu mà còn để thấy dấu rìu búa , dùng điển mà còn để thấy dấu

cắt vá thì thơ chƣa có thể go ̣i là trác luyê ̣n, là đẹp đƣợc” [71,tr.262].

Tiếp đến, Quách Tấn còn cho ngƣời đọc thấy đƣợc s ự dung công thật công phu

của ông khi làm thơ : “Tƣ̀ khi tôi biết đƣơ ̣c “chân diê ̣n mu ̣c” củ a thơ , tôi làm thơ rất công phu. Không phải công phu ở chỗ “thôi xao tƣ̀ điê ̣u” mà còn “công phu trong viê ̣c uẫn nhƣỡng tâm tƣ” [71,tr.263].

Nhà thơ còn cho ngƣời đọc thấy rõ kinh nghiệm làm thơ là phải tìm ý , có ý rồi

cần nghiền ngẫm để có cảm xú c , khi cảm xú c , ý nghĩ hòa nhập thì cần nuôi dƣỡng để tạo tứ thơ . Có tứ thơ , đó chính là lú c bƣ̀ ng vỡ . Ông viết : “Khi lòng rung động trƣớ c cảnh, khi trí nghĩ đƣơ ̣c ý mớ i , không bao giờ làm thơ ngay . Tôi để cho mối cảm xúc, cho ý nghĩ thâm nhâ ̣p vào tâm hồn . Tôi nuôi dƣỡng ấp ủ nhƣ con gà mái ấp trứng. Chờ khi thơ cảm thơ tƣ́ thai nghén trong t âm tƣở ng đã thành hình , không còn có thể nằm mãi trong vỏ trứng đƣợc nữa , thì chỉ một cái khảy nhỏ của con gà

mẹ, là có ngay một con gà con ra đời” [71,tr.264].

Quách Tấn từng viết trong Lờ i Tƣ̣a tâ ̣p Mộng Ngân sơn (1966): “Làm thơ cũng nhƣ sanh con, niềm đau khổ , nỗi mƣ̀ ng vui, riêng nhƣ̃ng kẻ đã tƣ̀ ng làm cha me ̣ mớ i biết thấu. Đối với đứa con đầu lòng , ngƣờ i sanh con la ̣i còn đeo thêm chú t tình đă ̣c biê ̣t, vì nghĩ thƣơng cảnh khởi đầu nan” [67].

, Trên đây là trình bày mô ̣t vài quan niê ̣m củ a Quách Tấn trong viê ̣c làm thơ

, điển tích mà nhà thơ có trong cách dù ng chƣ̃ đă ̣t câu , trong viê ̣c sƣ̉ du ̣ng điển cố ghi trong hồi ký Bóng ngày qua . Rõ ràng là ông làm thơ thật khổ công , thôi xao , chẳng khác nào ngƣờ i thơ ̣ kim hoàn cha ̣m khắc mài giũa ngà ngo ̣c để ta ̣o nên tác phẩm tuyê ̣t mỹ . 3.1.2. Quan niê ̣m củ a nhà thơ về viê ̣c cho ̣n thể thơ để sá ng tá c

Quách Tấn chuyên sáng tác thể thơ Đƣờng luật . Đây là thể thơ mà ông am hiểu luâ ̣t thơ và đã tâ ̣p tành làm thơ khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờ ng , qua sách giáo khoa Quốc văn trích diễm của Dƣơng Quảng Hàm . Thơ Đƣờ ng luâ ̣t la ̣i có bát cú và tƣ́ tuyê ̣t, trong đó chia ra thất ngôn và ngũ ngôn. Ở ba tập thơ đầu Một tấm lò ng, Mùa cổ điển, Đọng bó ng chiều , phần lớ n Quách Tấn cho ̣n thể thất ngôn bá t cú và thất

119

, thể hiê ̣n quan niê ̣m

ngôn tƣ́ tuyê ̣t để sáng tác . Điều này có lý do riêng củ a tác giả của ông về viê ̣c cho ̣n thể thơ.

Lời Tựa tập Mộng Ngân Sơn, Quách Tấn có dẫn lại lời của nhà lý luận văn

chƣơng cổ ở Trung Quốc, ông viết: “Trong tâ ̣p sách nổi tiếng Tùy Viên thi thoại , “Trƣớ c nên tâ ̣p làm thơ ngũ ngôn . Vì trên với Viên Mai có da ̣y về phép làm thơ đƣơ ̣c Cổ phong , dƣớ i tiếp đƣơ ̣c Câ ̣n thể” . Nhƣng riêng Quách Tấn , ông la ̣i nghĩ khác. Nhà thơ nhận thấy rằng : “Thơ Thất ngôn âm trƣờ ng , thơ Ngũ ngôn âm đoản . Mô ̣t bên là tơ trú c , mô ̣t bên là săng đá . Tơ trú c dễ rung cảm ngƣờ i nghe, săng đá dễ làm cho ngƣời nghe sanh chán ghét . Cho nên, tƣ̀ lú c biết làm thơ , tôi tránh thể Ngũ ngôn. Có lẽ ở Việt Nam ta cũng ít ngƣời hâm mộ . Trong làng thơ Quốc âm tƣ̀ trƣớ c đến nay, không thấy đƣơ ̣c nhiều thơ Ngũ ngôn truyền tu ̣ng” [67]

Nhƣng về sau, bắt đầu tƣ̀ Tết năm Ấ t Dâ ̣u (1945), nhân di ̣p em trai nhà thơ về thăm nhà , hai anh em xƣớ ng ho ̣a thơ văn , có làm thử thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà

nhà thơ ngâm nga cảm thấy thích thú . Đến năm 1947, khi em trai tản cƣ về Ngân

Sơn, mô ̣t xã miền nú i Phú Yên , là vùng quê kháng chiến , nhớ em, tác giả làm một

bài ngũ ngôn. Tác giả “Tƣ̀ ấy ma ̣nh da ̣n làm thơ Ngũ ngôn , và chuyên về thơ Tuyệt cú” [Lờ i Tƣ̣a tâ ̣p Mộng Ngân Sơn , 1966]. Qua lời Tựa, ngƣờ i đo ̣c sẽ hiểu vì sao cả tâ ̣p thơ Mộng Ngân sơn có 135 bài, và tất cả đều là thơ ngũ ngôn tứ tuyệt.

Điều đó cho thấy , nếu ban đầu Quách Tấn cho ̣n thể thơ thất ngôn (bát cú hoă ̣c tƣ́ tuyê ̣t) để sáng tác, thì từ năm 1947 về sau, bên ca ̣nh thể thất ngôn, ông còn dù ng thể ngũ ngôn tứ tuyệt để sáng tác. Thi thoảng, ngƣờ i đo ̣c còn bắt gă ̣p thể lục bát hay lục bát biến thể, dù các thể này, ông rất ít khi sƣ̉ du ̣ng.

Tóm lại , Quách Tấn là mô ̣t “bà me ̣ khó tính” khi “mang nă ̣ng đẻ đau ra đƣ́ a

con tinh thần” và ông đã “chăm chú t chăm sóc đƣ́ a con ấy tƣ̀ ng ly tƣ̀ ng tý mô ̣t” [71]. Nhờ thế mà nhƣ̃ng vần thơ củ a Quách Tấn mang dấu ấn riêng , phong cách

riêng củ a ông“giữa cái bộn bề cuộc sống hiện đại vẫn còn thấy không khí cổ điển”

và trong không khí cổ điển , thơ của ông vẫn mang đă ̣c trƣng bú t pháp hiê ̣n đa ̣i

không thể nào nhầm lẫn vớ i bất kỳ mô ̣t nhà thơ nào khác trƣớ c đó hoă ̣c cù ng t hờ i.

3.1.3. Những thể thơ đƣợc Quách Tấn sử dụng trong các tập thơ

luâ ̣t: thất Thể thơ mà Quách Tấn thƣờ ng sƣ̉ du ̣ng nhiều hơn cả là thơ Đƣờ ng

ngôn bát cú ; thất ngôn tƣ́ tuyê ̣t , ngũ ngôn tứ tuyệt mà ở trên luận văn có giới thiệu

120

qua. Bên ca ̣nh thơ cách luâ ̣t vƣ̀ a nêu , Quách Tấn còn làm thơ lục bát , lục bát biến thể và có khi dù ng lối ca vè dân gian : thơ mỗi câu có ba, bốn, năm tiếng, mà tập thơ viết cho thiếu nhi Vui vớ i trẻ em là tiêu biểu cho thể này . Chỉ tính riêng trong 5 tâ ̣p thơ xuất bản tƣ̀ 1939 đến 1973, qua thống kê, có thể thấy các thể thơ mà Quách tiên

sinh thƣờ ng sƣ̉ du ̣ng nhƣ sau:

- Một tấm lò ng (1939) có 74 bài, trong đó có 67 bài Đƣờng luật (10 bài thất

ngôn tứ tuyệt, 04 bài ngũ ngôn tứ tuyệt, 53 bài thất ngôn bát cú); còn lại 07 bài (01

bài thất ngôn trƣờng thiên, 05 bài lục bát, 01 bài ca viết theo lối kết hợp tứ ngôn,

ngũ ngôn và lục bát).

- Mùa cổ điển (1941) có 36 bài, trong đó có 34 bài Đƣờng luật (28 bài thất ngôn bát cú; 06 bài thất ngôn tứ tuyệt); còn lại 02 bài lục bát . Ở tập Mùa cổ điển

(bản mới , 1960) thì có 59 bài, trong đó tuyển tƣ̀ tâ ̣p thơ xuất bản năm 1941 là 29 bài, còn lại 30 bài mới . Đây là nhƣ̃ng bài thơ đƣơ ̣c viết sau năm 1941, chủ yếu là

trong nhƣ̃ng năm kháng chiến chống Pháp . Tâ ̣p thơ sau cũng chỉ có vài bài lục bát, còn lại là thơ cách luật.

- Đọng bó ng chiều (1965) gồm 108 bài thất ngôn tuyê ̣t cú .

- Mộng Ngân sơn (1966) gồm 135 bài ngũ ngôn tuyê ̣t cú . - Giọt trăng (1973) in 60 bài ngũ ngôn tuyệt cú, chọn từ bản thảo 100 bài.

Ngoài ra, nhƣ̃ng tâ ̣p thơ chƣa xuất bản mà gia đình nhà thơ cho biết nhƣ Tiếng ; Mây cổ thá p theo thể ngũ ngôn bát cú ;

vàng khô viết theo thể thất ngôn bát cú Cánh chim thu theo thể ngũ ngôn và thất ngôn bát cú v.v..

Con số thống kê nhƣ trên đủ để khẳng đi ̣nh Quách Tấn là nhà thơ có sở trƣờ ng về thơ cách luâ ̣t và thơ của ông có nhiều câu thơ , nhiều bài thơ hay, “có những câu

thơ đe ̣p nhất trong nhƣ̃ng câu thơ đe ̣p nhất củ a văn ho ̣c Viê ̣t Nam ” nhƣ nhà thơ Chế Lan Viên khen tă ̣ng. Nhƣ̃ng câu thơ, nhƣ̃ng bài thơ nhƣ: Đêm thu nghe quạ kêu , Đà

Lạt đêm sƣơng , Mộng Ngân Sơn , Mộng thấy Hà n Mặc Tƣ̉ , Qua Phú Yên tƣ́ c cảnh , Bên sông, Trơ trọi, Chiều xuân, Đêm tình, Tình xƣa, Về thăm nhà cảm tá c v.v.. là nhƣ̃ng ví du ̣. Điều đó còn dù ng để giải thích ta ̣i sao nhà thơ tiền bối Tản Đà la ̣i đă ̣t ông bên ca ̣nh các nhà thơ cổ điển nhƣ Hồ Xuân Hƣơng , Bà Huyện Thanh Quan , Yên Đổ và nhà phê bình Hoài Thanh mă ̣c nhiên công nhâ ̣n và xếp cho ông mô ̣t vi ̣

121

trí xứng đáng ở bàn nhất , bàn nhì trong phong trào thơ Mới , và trích thơ của ông

đến 09 bài trong tuyển tập Thi nhân Viê ̣t Nam [74, 267-274].

3.2. QUÁCH TẤN VỚI NHỮNG CÁCH TÂN VỀ NGÔN NGỮ THƠ

3.2.1. Những nét mới trong nghệ thuật dụng điển

Điển cố - điển tích là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc thù đƣợc sử

dụng phổ biến trong văn học trung đại ở Trung Quốc và Việt Nam. Do ảnh hƣởng

triết học và mỹ học phƣơng Đông, chủ yếu là Trung Hoa, điển cố không chỉ là một

biện pháp tu từ mà còn là một cách thức độc đáo để biểu hiện tƣ tƣởng tình cảm

cũng nhƣ để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật. Do vậy, về tác dụng của việc sử dụng

điển cố thƣờng góp phần vào việc nâng cao khả năng biểu hiện và tính chất hàm súc

của ngôn ngữ văn học cũng nhƣ hình tƣợng văn học. Riêng trƣờng hợp của Quách

Tấn, có lần ông tâm sự đại để rằng: dùng điển là để gợi ý , mƣơ ̣n nguồn cảm hƣ́ ng

chứ không phỉa vì bí ý, bí tứ mà là để diễn đạt ý tƣởng cho ý nhị, kín đáo, và diễn

đạt gọn gàng [71]. Vấn đề này luận văn đã đề cập ở mục 3.1.1. Quan niê ̣m củ a nhà thơ về viê ̣c dù ng điển , luyê ̣n chƣ̃ . Ở đây, luận văn chỉ đi sâu vào những nét mới trong nghệ thuật dụng điển của Quách Tấn để thấy cái riêng, cái cá tính sáng tạo

trong thơ ông. Đặc biệt, nhà thơ đã dụng điển theo phép liên tƣởng – cảm giác, chứ

không phải vì ông không hiểu ý của điển cố, điển tích, hay “dùng điển sai” nhƣ nhà

phê bình Hoài Thanh đã chú thích ở bài Đêm thu nghe quạ kêu trong Thi nhân Việt

Nam [74,tr.271]. Theo Quách Tấn trong tác phẩm“Trƣờ ng Xuyên thi thoại – Nhƣ̃ng

bài thơ kỷ niệm” [73], Quách Tấn đã kể lại lai lịch , hoàn cảnh ra đời của bài thơ , thì

việc dụng điển trong bài thơ này, bắt nguồn từ một địa danh Ô Y Hạng (ngõ áo đen),

chính màu đen ấy, tác giả liên tƣởng đến hình ảnh con quạ với sắc lông màu đen

tuyền, rồi nghĩ đến bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trƣơng Kế, mà ở trên mục 2.4.

luận văn có đề cập [xin xem tr.93-98].

3.2.2. Những cách tân về ngôn ngữ - hình ảnh thơ

3.2.2.1. Cách dùng từ ngữ có đổi mới

Nếu tiếng thơ thƣờ ng hƣớ ng tớ i sƣ̣ giao thoa , tƣơng thông giƣ̃a con ngƣờ i vớ i

thiên nhiên , nhà thơ thƣờng đặt cái “tâm” giữa thi ên nhiên , vạn vật , tạo nên cảm

giác hòa điệu giữa đời sống tâm linh với ngoại cảnh , thì những từ “sơn, thủy, yên,

hoa, tuyết, nguyê ̣t, phong” sẽ đƣợc xuất hiện với tần số rất cao . Nói nhƣ Nguyễn

122

Thị Bích Hải trong Thi phá p t hơ Đƣờ ng là “thơ thể hiê ̣n con ngƣờ i vũ tru ̣” [20]. Chính vì thế , nhƣ̃ng tác phẩm thơ củ a Quách Tấn “nhà thơ Mớ i mang phong cách Đƣờng thi” cũng không nằm ngoài mạch chảy này .

Trong nhƣ̃ng tâ ̣p thơ củ a Quách Tấn , lấy Mùa cổ điể n làm ví dụ minh họa , để

“mổ xẻ”, thống kê nhƣ̃ng khung bâ ̣c tƣ̀ ngƣ̃ vƣ̀ a nêu, ta nhâ ̣n thấy:

- “Gió ” (phong) : xuất hiê ̣n trong “gió trải tƣ̀ mây” , “gió và ng” , “gió rải khắ p nơi nơi”, “gió mƣa” (2 lần), “dì gió ”, “gió hôn hoa”, “ngọn gió”, “hồn gió ”, “gió qua mà nh” , “gió văn chƣơng” , “gió bấc”, “mƣa gió ”, “chi ̣ gió ”, “ngọn gió

hƣơng”, “bay theo gió ” , “gió rú ”, “gió ”, “cà nh gió ” , “gió về‟ , “gió tƣ̣ mô về” , “gió hồi hộp cây”, “gió thu”, “ngọn gió vè o”, “gió sƣơng”. Tất cả 25 lần trên tổng số 36 bài thơ trong tập Mùa cổ điển, chiếm tỷ lê ̣ 69,4%.

- “Mây” (vân): “Nhà n vân”, “tờ mây”, “mây trắ ng”, “lƣng mây” , “mây ấp

nguyê ̣t”, “mây rộng” , “mây xa” , “mây chiều” , “nƣớ c mây” (2 lần), “mây qua

chái”, “mây thu”, rồng mây”, “bè o mây”, “non mây”, “mây nƣớ c”, “tƣ̀ ng mây”,

“mây ủ ê trờ i”, “mây phớ i”, “mây nú i”. Tất cả 20 lần chiếm tỷ lê ̣ 55,5%.

- Sƣơng: xuất hiê ̣n trong “rƣ̀ ng sƣơng”, (2 lần), “sƣơng thấp thoá ng” , “theo

sƣơng”, “sƣơng mai”, “sƣơng rơi”, “sƣơng buông”, “mà n sƣơng”, “pha sƣơng”, “nắ ng sƣơng”, “trong sƣơng”, “cà nh sƣơng”, “cỏ sƣơng”, “phân sƣơng”, “ngà n

sƣơng”, “vƣờ n sƣơng” , “đồi sƣơng” , “sƣơng bạc” , “gió sƣơng” . Tất cả 19 lần,

chiếm tỷ lê ̣ 53%.

- “Trăng” (nguyê ̣t) : xuất hiê ̣n trong “nguyê ̣t mơ mà ng” , “thân gầy vớ i

nguyê ̣t”, “mây ấp nguyê ̣t” , “một trăng cao” , “tó c trăng” , “nà ng trăng” , “trăng

hôn lá ”, „gƣơng nguyê ̣t” , “trăng dầm gối” , “nƣờ ng trăng”, “bến nguyê ̣t” , “bó ng

trăng run” , “trăng lạ i trò n trăng” , “chở nguyê ̣t” , “neo nguyê ̣t” . Tất cả 15 lần, chiếm tỷ lê ̣ 42%.

- “Thủy” (nƣớ c): xuất hiê ̣n trong “Só ng mà i nghiên biển” , “sông chau mặt” , “Sông Xích Bích” , “nƣớ c trôi xuôi” , “nƣớ c mây” (2 lần), “biển Đông” , “biển nƣớ c”, “gởi nƣớ c non ai” , “mây nƣớ c” , “gƣơng nƣớ c” , “sông đƣ̀ a” , “nƣớ c vƣớ ng”, “trờ i biển”, “só ng trằ n trọc biển”. Tất cả 15 lần, chiếm tỷ lê ̣ 42%.

- “Hoa” : xuất hiê ̣n trong “thiếu nƣ̃ bƣng hoa” , “gió hôn hoa” , “hồn hoa chợp mộng” , “luống cú c già ” , “hoa đẫm hƣơng” , “bó ng hoa nô đù a” , “lê ̣ hoa

123

rơi”, “cá nh hải đƣờ ng” , “cú c vẩn vơ hồn” , “cú c nở nhìn nhau” , hoa tỉ muội” , “rè m hoa”, “hoa thơm”. Tất cả 13 lần, chiếm tỷ lê ̣ 36, 1%.

- Thu : xuất hiê ̣n trong “trờ i thu” , “thu sông Xích Bích” , “rƣ̀ ng thu” , “giọt mƣa thu” , “sông thu” , “mây thu” , “mấy lƣợt mƣa thu” , “thu mờ ” , “vƣờ n thu” ,

“hồn thu”, “gió thu”, “phò ng thu”. Tất cả 12 lần, chiếm tỷ lê ̣ 33,3%.

- Sơn (núi) : xuất hiê ̣n trong “nú i bạc đầu” , “Hà n sơn”, “non côi”, “non gối

nƣớ c”, “đầu non” , “non mây” , “mây nú i” , “non chồng” , “và ng lƣ̉ ng lo non” ,

“ngò i non chấm”. Tất cả 10 lần, chiếm 28%.

- Liễu: xuất hiê ̣n trong “nƣơng rè m liễu” , “liễu riêng xuân” , “dƣớ i liễu chờ xuân”, “rƣ̀ ng dƣơng liễu”, “tó c liễu”, “liễu né p tƣờ ng”, “liễu rối bờ i”, “liễu nhởn nhơ”, “ngà n liễu khó c”, “vƣờ n tú y liễu”. Tất cả 10 lần, chiếm tỷ lê ̣ 28%.

- Nhạn : xuất hiê ̣n trong “nhạn đề”, “vội và ng cá nh nhạn” , “nhạn lạc trờ i” ,

“nhạn lạc đàn”, “lò ng bạch nhạn”, “đƣa thƣ nhạn”. Tất cả 6 lần, chiếm tỷ lê ̣ 17%.

- Yên (khói) : xuất hiê ̣n trong “quây quần mây khó i” , “nghê phơi khó i”, “khó i trần gian” , “khó i mây quanh quẩn hồi chuông rụng” . Tất cả 4 lần, chiếm tỷ lê ̣ 11%.

- Đi ̣ch : xuất hiê ̣n trong “tiếng đi ̣ch”, “tiếng đi ̣ch xa”, “tiếng đi ̣ch dồn”, “lò ng

nƣơng tiếng đi ̣ch”. Tất cả 4 lần, chiếm tỷ lê ̣ 11%.

Sở dĩ luâ ̣n văn cho ̣n tâ ̣p thơ Mùa cổ điển để thống kê nhằm làm ví dụ minh họa cho “cách dù ng tƣ̀ ngƣ̃ có đổi mớ i” của Quách Tấn , bở i lẽ vi ̣ trí củ a tâ ̣p thơ trên thi đàn đã đƣơ ̣c các nhà phê bình đánh giá rất cao và so vớ i các tâ ̣p thơ khác thì đây cũng là tập thơ tâm đắc và chất chứa nhiều kỷ niệm của Q uách Tấn.

Nếu thơ ngày xƣa , các thi nhân thƣờng ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên thì trong

thơ Quách Tấn , nhƣ̃ng tƣ̀ ch ỉ thiên nhiên nhƣ :“phong, vân, sƣơng, nguyê ̣t, thủy, hoa, thu, sơn, liễu, nhạn, yên, đi ̣ch...” có tần số xuất hiện cao . Đây là nhƣ̃ng tƣ̀ mà thơ cổ ƣa dù ng , và Quách Tấn đã nối tiếp bút pháp , cách dùng từ đó của các tiền nhân.

các cụ Nhƣng nét khác biê ̣t giƣ̃a cách dù ng tƣ̀ củ a Quách Tấn nếu so sánh vớ i

ngày xƣa, có lẽ ở chỗ Mùa cổ điển tiếp nối cái cũ và hô ̣i nhâ ̣p cái mớ i . Về khía ca ̣nh này, tƣ̀ ngƣ̃ trong tâ ̣p Mùa cổ điển có thể chia thành ba loại : loại từ ngữ dùng trong

124

thơ cũ , loại từ ngữ dùng trong thơ mới hoặc thơ cũ đều đƣợc , và loại từ ngữ dù ng

trong thơ mớ i.

Chẳng ha ̣n, tƣ̀ “nguyê ̣t” (trăng) có tần số xuất hiện 15 lần đƣơ ̣c phân thành. Loại 1: gồm “gƣơng nguyê ̣t nghìn thu” , tần số xuất hiê ̣n mô ̣t lần , chiếm tỷ lê ̣ , “nghìn thu”, nên cu ̣m tƣ̀

6,6%. Vì “gƣơng nguyê ̣t” đƣ́ ng bên ca ̣nh tƣ̀ ngƣ̃ cũ “gƣơng nguyê ̣t nghìn thu”, thuô ̣c loa ̣i tƣ̀ ngƣ̃ dù ng trong thơ cũ.

Loại 2: gồm “Nguyê ̣t mơ mà ng” , “mây ấp nguyê ̣t” , “nà ng trăng” , “nƣờ ng

trăng”, “bến nguyê ̣t” , “chở nguyê ̣t”, “neo nguyê ̣t” , tần số xuất hiê ̣n 7 lần, chiếm 46,6%. Vì những nhóm từ này mang tính chất trung tính , không biểu hiê ̣n rõ tính khác biệt giữa cũ và mới nên các nhóm từ này thuộc loại từ ngữ dùng trong thơ cũ ,

thơ mớ i đều đƣơ ̣c.

Loại 3: gồm “thân gầy vớ i nguyê ̣t”, “một trăng cao”, “tó c trăng”, “trăng hôn

lá”, “trăng dầm gối”, “bó ng trăng run”, “trăng lại trò n trăng”. Tần số xuất hiê ̣n 7 lần, chiếm 46,6%. Vì mang tính chất dấu ấn cá nhân cá tính sáng tạo , biểu hiê ̣n rõ

tính khác biệt giữa cũ và mới nên các cụm này thuộc loại từ ngữ trong thơ mới .

Nhƣ̃ng điều vƣ̀ a trình bày trên đây càng khẳng đi ̣nh thêm bú t lƣ̣c tài hoa củ a Quách Tấn, mô ̣t thi sĩ thuô ̣c phong trào thơ Mớ i nhƣng hơi thơ mang đâ ̣m sắc thái Đƣờng thi, đồng thờ i trong “cá i cũ” vẫn nhâ ̣n thấy “cá i mớ i”, “cá i tôi sá ng tạo”

của Quách Tấn.

, dùng từ của Quách Tấn nhằm

3.2.2.2. Cách dùng từ ghép nghĩa trên cơ sở láy âm (từ ghé p - láy) Đây là sƣ̣ sáng ta ̣o đă ̣c biê ̣t trong cách cho ̣n tƣ̀ đa ̣t đƣơ ̣c mu ̣c đích câu thơ mang sắc thái biểu cảm cao .

Đi và o ví du ̣ cu ̣ thể : “Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng , / Trờ i biển nôn

nao tiếng đi ̣ch dồn.” (Chiều xuân)

Duyên ngô ̣ đằm thắm không xa , “quanh quẩn” gần đây và “quấn quít”, không rờ i nhau củ a tƣ̀ ghép nghĩa “quanh quấn”, mang tính hàm sú c trong câu thơ trên bắt đầu tƣ̀ mô ̣t buổi chiều xuân.

Buổi chiều xuân trong bài thơ này nằm ở giao điểm nắng chiều di ̣u dần và bóng hoàng hôn đang ch ờ chực sẵn “Chim mang về tổ bó ng hoà ng hôn” . Non xa lƣ̉ ng lơ mô ̣t màu vàng củ a nắng chiều xuân vắt ngang trên lƣng trờ i , và trong không gian mờ xa , nắng chiều dìu di ̣u không sáng hẳn , xa xa khó phân biê ̣t đâu là biển ,

125

đâu là bờ , thì cồn cát kia đọng một màu xanh biếc của biển , “và ng lƣ̉ ng lơ non biếc

. Sóng của đồi

đọng cồn” . Hƣơng củ a gió trên cành cây làm lao xao hoa tỉ muô ̣i sƣơng lƣơ ̣n trên cỏ “Đồi sƣơng só ng lƣợn cỏ vƣơng tôn” . Tất cả nhƣ̃ng nét đe ̣p đó đều nằm trong không gian nắng chiều dìu dịu , mờ xa đƣơ ̣c miêu tả ở mấy câu thơ

trên.

Vì vậy, theo lôgic cấu tƣ́ củ a bài thơ , không gian chiều xuân vớ i đă ̣c điểm mờ

xa trong nắng chiều vàng dìu di ̣u đƣơ ̣c chuyển tiếp:

Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng,

Trờ i biển nôn nao tiếng đi ̣ch dồn.

Ở đây “khó i mây” đƣơ ̣c hiểu là mây ráng củ a nắng vàng chiều xuân hòa quyê ̣n , trôi bồng bềnh “quanh quẩn”

,

vớ i khói lam chiều tƣ̀ nhà ai đó đang bay lên tu ̣ la ̣i đâu đây và “quấn quít” làn sóng âm vang của từng hồi chuông chùa vọng lại không chi ̣u rờ i xa nhau . Và ở phía chân trời xa , biển nôn nao chờ đón tiếng đi ̣ch nhƣ là chờ đón sƣ̣ tĩnh lă ̣ng củ a vũ tru ̣ mênh mông bao la.

“quanh Qua viê ̣c tìm hiể u về nguyên nhân và ý nghĩa củ a sƣ̣ xuất hiê ̣n tƣ̀

, ta nhâ ̣n thấy rằng tƣ̀ quấn” trong câu thơ trên và trong không gian chiều xuân “quanh quấn” đƣơ ̣c ghép nghĩa tƣ̀ “quanh quẩn” và “quấn quít” , trên cơ sở phƣơng thƣ́ c láy phu ̣ âm đầu “qu”. Mà hiệu quả thẩm mỹ là kết hợp khéo léo , hòa hơ ̣p giƣ̃a hình ảnh “khó i mây” vớ i “hồi chuông vọng” qua đô ̣ng tƣ̀ “quanh quẩn” đƣ́ ng giƣ̃a ta ̣o hơ ̣p, nhân duyên củ a cuô ̣c sống nhân sinh chân chất bình di ̣. Ở đó, có thể t ìm thấy sự súc tích và giàu hình ảnh của chữ nghĩa . Câu thơ gơ ̣i nhiều suy

sống nhân sinh ,

tƣở ng. Suy tƣở ng về sƣ̣ nuối tiếc buổi nắng vàng chiều xuân trƣớ c khi màn đêm buông xuống. Suy tƣở ng về sƣ̣ lƣu luyến củ a cuô ̣c nhân duyên hòa hơ ̣p diê ̣u kỳ giƣ̃a buổi chiều vàng phƣơng Đông vớ i sƣ̣ tĩnh lă ̣ng tâm hồn trong tiếng chuông chù a vọng lại. Suy tƣở ng về vòng xoáy âm thanh củ a tƣ̀ ng hồi chuông chù a lan xa trong không gian mênh mông và tâm điểm củ a nó phải chăng là cuô ̣c chân chất, bình dị, hiền hòa?

Mô ̣t ví du ̣ khác . Trong bài “Thu Trà ng An” , ở hai câu thực , Quách Tấn viết : “Chăn gối trễ trà ng đêm thất ti ̣ch , / Gió trăng chờn chợ bến hoàng đô” . Tƣ̀ trễ tràng là một từ láy , có gốc là trễ vớ i hai nét nghĩa : mô ̣t là , bị sa xuống , tụt xuống hơn bình thƣờ ng ; hai là , châ ̣m, muô ̣n. Do vâ ̣y, trễ trà ng cũng mang hai nét nghĩa :

126

mô ̣t là, trễ xuống, tụt xuống một cách tự nhiên , lỏng lẻo; hai là, tỏ ra chểnh mảng, ít để tâm tới, khiến cho bi ̣ châ ̣m hoă ̣c chê ̣ch choa ̣c . Câu thơ “Chăn gối trễ trà ng…” có lẽ cũng mang hai nét nghĩa trên , vƣ̀ a bi ̣ tu ̣t (trễ, sa) xuống, lỏng lẻo ; vƣ̀ a chểnh mảng. Còn “Gió trăng chờ n chợ”? . “Chờ n chợ” là tƣ̀ mà nhà thơ sáng ta ̣o, nghĩ ra.

Trong tiếng Viê ̣t có tƣ̀ “chờ n” và từ láy “chờ n chợn”, chƣ́ không có tƣ̀ “chờ n chợ”. Chờ n là một động từ , mang hai nét nghĩa : mô ̣t là , không còn ăn khớ p vì bi ̣ mòn , bị trƣơ ̣t răng; hai là , không dám làm , dám nghĩ tiếp , sau khi gă ̣p phải khó khăn (có ý hơi lo sơ ̣). Và từ chờ n chợn là dạng láy của chờ n, mang nghĩa giảm nhe ̣, hơi lo sơ ̣; hơi bi ̣ mòn . Còn “chờ n chợ” thì sao ?, và thế nào là Gió trăng chờn chợ ?. Có lẽ , chờ n chợ mang nét nghĩa gần vớ i chờ n vờ n , chỉ trạng thái lƣợn lờ , quanh quẩn , không chi ̣u rờ i ra. Chắc là đêm hôm thất ti ̣ch ấy nơi bến Hƣơng giang , có gió nhƣng

gió rất nhẹ , khẽ; có trăng nhƣng là trăng non đầu tháng nên lờ mờ , không tỏ . Đêm

ấy trăng thì lờ mờ , gió thì lƣợn lờ quanh quẩn nơi bến sông :“Gió trăng chờ n chợ

bến hoà ng đô”.

Tƣ̀ ngƣ̃ trong câu thơ trên gơ ̣i nhiều hơn tả , thƣ̣c và tƣơ ̣ng trƣng; đó là nét mớ i,

sinh đô ̣ng , đô ̣c đáo củ a ngôn ngƣ̃ thơ ca thể hiê ̣n phong cách thơ Quách Tấn qua cách dùng từ ghép nghĩa trên cơ sở láy âm (tƣ̀ ghép – láy).

3.2.2.3. Cách dùng từ vừa bộc lộ sắc thái biểu cảm vừa phù hợp với kỹ thuật

phố i thanh theo quy luật: thấ p – cao

Tiêu biểu nhất là trƣờ ng hơ ̣p đô ̣ng tƣ̀ “cợt” trong câu “Gió và ng cợt sá ng sông chau mặt , / Mây trắ ng vờ n cây nú i bạc đầu .” (Cảm thu ). Đo ̣c bài thơ , ngƣờ i đo ̣c nhâ ̣n thấy sƣ̣ hòa hơ ̣p giƣ̃a cảnh và tình.

“Cảm thu” là tiếng thơ th ƣơng cảm cho tấm lòng củ a ai đó nhƣ mù a thu kia sầu khổ vì tƣơng tƣ “Tƣơng tƣ nhuộm trắ ng má i đầu non xanh” (Thƣơng thu), thiết tƣở ng đã giải mã hô ̣ câu “Mây trắ ng vờ n cây nú i bạc đầu”.

thu kia có vẻ nhƣ không bằng lòng trƣớ c Câu thơ “gió và ng cợt só ng sông chau mặt” cần đƣơ ̣c hiểu là : Hình ảnh sông “cƣ̉ chỉ vuốt ve” , mang tính chất “đù a

cợt” của chị gió , làm xáo động một sự bình lặng vốn là tính cố hữu của một tâm

hồn tĩnh lă ̣ng. Có thể nói đô ̣ng tƣ̀ “cợt” - “vờ n” bổ sung nghĩa cho nhau , că ̣p đô ̣ng tƣ̀ mang sách thái biểu cảm cao . Cả hai động từ này đối xứng nhau , đều chỉ một hành động , mô ̣t thái đô ̣ “lẳng lơ” của “gió và ng” và “mây trắ ng” . Chính hành

127

, có những tâm tƣ nhƣ con

đô ̣ng “cợt” - “vờ n” đấy đã làm sông phải “chau mặt” còn núi thì “bạc đầu” . Ở đây, sông, núi, gió, mây mang tính cách củ a con ngƣờ i ngƣờ i.

Mă ̣t khác, về kỹ thuâ ̣t phối thanh luâ ̣t thấp – cao (trầm – bổng) âm tiết “cợt” hiê ̣n ở vi ̣ trí chƣ̃ 3 mang thanh trắc thấp kết hơ ̣p vớ i âm tiết “só ng” hiê ̣n ở vi ̣ trí chƣ̃ thƣ́ 4 liền kề phía sau mang thanh trắc cao . Sƣ̣ kết hơ ̣p này phù hơ ̣p vớ i kỹ thuâ ̣t phố i thanh luâ ̣t thấp – cao. Chính nhờ sự kết hợp nhƣ trên mà hầu hết những câu thơ

của Quách Tấn đều giàu sức biểu cảm và giàu chất nhạc .

3.2.2.4. Cách dùng từ ngữ tinh hoa dân gian một cách chính xác về sắc thái

biểu cả m theo cả m xú c mớ i – hướ ng nội

/ Đó là trƣờ ng hơ ̣p đô ̣ng tƣ̀ “đƣ̀ a” trong câu “Gió rủ canh đi ngà n liễu khó c

Sông đƣ̀ a lạnh tớ i bó ng trăng run” (Bên sông).

Bài thơ ghi lại cảm xúc về nỗi buồn mênh mông , xa vắng củ a chủ thể trƣ̃ tình ,

khi tình và cảnh bên sông trong đêm cù ng một tâm trạng buồn.

Mở đầu bài thơ , trong mô ̣t đêm nào đó không biết là canh mấy có trăng sáng

đủ để nhìn rõ ngo ̣n gió khuya la ̣nh làm xao đô ̣ng bóng liễu đang soi mình dƣớ i nƣớ c. Kế đến , trên sông gió khuya khe khẽ “đƣ̀ a” mă ̣t n ƣớc. Vì gió không dám “lù a” hoă ̣c “đù a” bở i sơ ̣ làm kinh đô ̣ng bóng trăng đang soi mình dƣớ i sông . Nhƣng tiếc thay đã làm xao đô ̣ng bóng trăng , làm cho “bó ng trăng run” .

Để rồi sau đó , kế tiếp, hình tƣợng nghệ thuật mang ý nghĩ a khái quát xuất hiê ̣n ,

, vang xa vào mênh mông , nhƣ bắc nhi ̣p

xa xa , trong đêm tối tĩnh mi ̣ch , giƣ̃a bốn bề sông nƣớ c vắng lă ̣ng bên kia sông không biết tiếng hát tƣ̀ thuyền ai vẳng la ̣i cầu cho tâm tra ̣ng buồn củ a ngƣờ i đƣ́ ng đơ ̣i bên bờ sông.

Kết thú c bài thơ bằng hình ảnh liên tƣở ng tƣơng đồng . Tiếng hát bên sông hay điê ̣u đàn lẻ ba ̣n ? Chiếc thuyền đô ̣c hành hay hành trình tinh thần đi tìm cái “đe ̣p” của một ngƣời chịu cảnh “lẻ điê ̣u”, “trơ trọi”, “hiu quạnh” ... đang thổn thƣ́ c cù ng gió khuya lạnh , cùng bóng liễu rũ buồn , cùng bóng trăng run , cùng vạn vật , cùng

trờ i đất...

Không biết bầu tâm sƣ̣ củ a chủ thể trƣ̃ tình trong bài thơ “Bên sông” nhiều hay ít, chỉ thấy nói là “gởi chút buồn”. Nhƣng dù thế nào cũng không thể không có nỗi

128

, / Để lẻ trong sƣơng buồ n lẻ ba ̣n , không tri kỷ : “Con thuyền bến lá ch không tri kỷ

mấy điê ̣u đà n”.

Bài thơ khép lại bằng nỗi buồn mênh mông xa vắng:

Thuyền ai tiếng há t bên kia vẳng? Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.

Qua phân tích ma ̣ch cảm xú c – hình tƣợng thơ từ phần đầu đến phần kết , nhâ ̣n thấy rằng đô ̣ng tƣ̀ “lù a” ; đô ̣ng tƣ̀ “đù a” hay đô ̣ng tƣ̀ “đƣ̀ a” đều là từ ngữ dân gian dùng để chỉ hoạt đô ̣ng đẩy qua đẩy la ̣i , dù những sắc thái biểu cảm của mỗi động từ

có khác nhau . Giọng điệu toàn bài thơ chậm , buồn, nhẹ nhàng. Trong đó , ngọn gió khuya bên sông nổi lên nhƣ mô ̣t nguyên cớ đầu tiên gây nên nỗi buồn , nhƣng quan trọng hơn nữa là tâm trạng buồn của ngƣời đứng đợi bên sông nên đã để lại nỗi

“lù a”

buồn có tính chất vũ tru ̣ “ngà n liễu khó c” , “bó ng trăng run” . Thêm nƣ̃a , lẽ nào , ngọn gió khuya bên sông kia lại vô tâm có cử chỉ “thô bạo” vớ i cái “đe ̣p”: “bó ng trăng” và “bó ng trăng soi mình dƣớ i sông” đƣơ ̣c diễn tả bằng đô ̣ng tƣ̀ (mạnh) hoă ̣c đô ̣ng tƣ̀ “đù a” là những động từ giả định nằm trong trục đối chiếu , lƣ̣a

chọn từ ngữ.

Vâ ̣y chỉ còn đô ̣ng tƣ̀ “đƣ̀ a” hiê ̣n có trong bài thơ là tinh hoa củ a tƣ̀ ngƣ̃ dân

gian, đƣơ ̣c sƣ̉ du ̣ng chính xác về sắc thái biểu cảm.

3.2.2.5. Cách dùng kỹ thuật nhồi chữ , điê ̣p âm tiết và điê ̣p phần vần trong

dòng thơ, tạo âm hưởng điệp khúc

Khi bàn về tính chất quan tro ̣ng nhất củ a yếu tố nha ̣c trong thơ , Quách Tấn đƣa ra hình ảnh so sánh dí dỏm , chí lý: “Thơ không có nhạc có thể ví nhƣ một ống tiêu dùng để thổi lửa, hay một ống thổi lƣ̉ a dù ng là m ống tiêu .” [trích lại trong mô ̣t bƣ́ c thƣ củ a thi sĩ Quách Tấn gở i cho thi sĩ Bàng Bá Lân , tháng 8 năm 1963 trong tâ ̣p “Nhƣ̃ng bƣ́ c thƣ thơ” của Quách Tấn].

Vì vậy, hai tác giả củ a “Viê ̣t Nam thi nhân tiền chiến” đã phát hiê ̣n có nhƣ̃ng

câu nhồi chƣ̃ rất hay, mang âm lƣơ ̣ng điê ̣p khú c :

Sầu mong theo lê ̣, khôn rơi lê ̣,

Nhớ gởi và o thơ, nghĩ tội thơ.

(Trơ trọi)

Tỉnh mộng nằm ôn trang mộng cũ, hay:

129

Mong thơ lần giở xấp thơ xƣa.

(Lại nhắn ai)

Cái hay ở đây là kỹ thuật nhồi c hƣ̃ chẳng nhƣ̃ng ta ̣o âm hƣở ng điê ̣p khú c mà , trong câu thơ , tạo nhịp điệu tƣơng còn hình thành thế đối xứng trong dòng thơ

xƣ́ ng. Tất cả góp phần hòa điê ̣u , hòa âm. Kỹ thuật nhồi chữ rất hay trong dòng thơ , trong câu thơ theo phé p điê ̣p âm tiết hay mô ̣t nhóm âm tiết để ta ̣o nên âm hƣở ng điê ̣p khú c trong thơ.

Bên ca ̣nh đó , ngôn ngƣ̃ thơ Quách Tấn mang âm hƣở ng điê ̣p khú c nhờ âm hƣở ng củ a mấy phù bình thanh đồng âm “lƣơng – thƣơng – nƣơng”. Thi sĩ Bàng Bá Lân trong Văn thi sĩ hiê ̣n đại , đoa ̣n viết về Quách Tấn đã tìm thấy nét đe ̣p trên đây “cảnh êm đe ̣p của một đêm tình có nhạc” , có thơ, có cả ngƣời đẹp nƣơng song gở i tình theo mây xa mà rƣng rƣng mắt lê ̣:

Giấc thắ m tình duyên non gố i nƣớ c, Màn sƣơng để lọt ánh sao băng.

Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió ,

Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.

Muôn điê ̣u tơ lò ng run sẽ sẽ, Mƣa vờ i só ng nhạc giợn lâng lâng.

Phòng hƣơng thƣơng kẻ ngồi nƣơng triện,

Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.

(Đêm tình)

Thơ ngâm xong mà dƣ âm còn văng vẳng nhờ âm hƣở ng củ a mấy phù bình

thanh đồng âm “thƣơng – hƣơng – nƣơng” nghe nhƣ là sóng nha ̣c.

Nhƣ vâ ̣y, âm hƣở ng điê ̣p khú c trong trƣờ ng hơ ̣p trên cũng là phép điệp phần

vần củ a âm tiết trong cù ng mô ̣t dòng thơ. 3.2.3. Những đổ i mớ i cấ u trú c câu thơ

, Quách Tấn đã có những dụng công đổi mới . Sƣ̣ Khi sƣ̉ du ̣ng các thể thơ cũ

đổi mớ i này đƣơ ̣c thể hiê ̣n trong cấu trú c câu th ơ củ a bài : “Mộng thấy Hà n Mặc Tƣ̉ ” trong “Mù a cổ điển” , mà Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đƣ́ c đã chỉ ra thâ ̣t cu ̣ thể trong Thơ ca Viê ̣t Nam: hình thƣ́ c và thể loại : “Hãy nói những bài thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật của Quách Tấ n, dù có gá vào khuôn khổ đối thanh đối ý , bằng

130

trắc phân minh , vẫn không thoát đƣơ ̣c sƣ̣ đổi mớ i trong cấu trú c lờ i văn . Chúng ta thấy rõ điều đó , nếu chú ng ta so sánh nhƣ̃ng câu mở , câu kết trong bài “Mộng thấy

Hàn Mặc Tử ” vớ i nhƣ̃ng câu mở , câu kết trong bài “Khó c Bằ ng Phi” của Ôn Nhƣ Hầu Nguyễn Gia Thiều” [20,tr.25-26].

Tƣ̀ gơ ̣i ý trên , ta hãy thƣ̉ so sánh . Hai câu mở (câu đề ) trong bài “Mộng thấy

Hàn Mặc Tử”, Quách Tấn viết: “Ơi Lê ̣ Thanh! Ơi Lê ̣ Thanh !/ Một giấc trƣa nay lại

gặp mình”. Còn hai câu đề trong bài “Khóc Bằng Phi , Nguyễn Gia Thiều viết : “Ôi Thị Bằng ơi, đã mất rồi,/ Ơi tình ơi nghĩa ớ i duyên ơi”.

Sang hai câu kết củ a bài “Mộng thấy Hà n Mặc Tƣ̉ ”, Quách Tấn viết:“Tôi khó c

. Còn trong bài

tôi cƣờ i vang cả mộng … / Nhớ thƣơng đƣa lạc gió qua mà nh” “Khó c Bằ ng phi”, Nguyễn Gia Thiều viết :“Mối tình muốn dƣ́ t cà ng thêm bận ,/ Lẽo đẽo theo hoà i cƣ́ chẳng thôi” . Cách cấu trúc lời văn tron g hai că ̣p câu thơ củ a hai nhà thơ có khác nhau , mà theo Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức thì “cấu trú c câu thơ ở “Mộng thấy Hà n Mặc Tƣ̉ ” mớ i hơn cấu trú c câu thơ Ôn Nhƣ Hầu là dĩ nhiên , và Ôn Nhƣ Hầu làm sao viết đƣơ ̣c câu sau đây vớ i ý thƣ́ c cá nhân rõ rê ̣t:

Tôi khó c tôi cƣời vang cả mộng…

Nhớ thƣơng đƣa lạc gió qua mà nh. [48,tr.26]

“Mộng thấy Hà n Mặc Tƣ̉ ” vớ i ý

Sƣ̣ đổi mớ i trong cấu trú c câu thơ củ a bài thƣ́ c cá nhân rõ rê ̣t bắt nguồn tƣ̀ cảm xú c mớ i rất riêng , chân thƣ̣c và cảm đô ̣ng .

Tình bạn tri kỷ , nhƣng hoàn cảnh cuộc sống đành phải chia ly , lúc này Quách Tấn

làm việc ở Nha Trang, còn Hàn Mặc Tử đang nằm bệnh tại Quy Hoà - Quy Nhơn,

nên nỗi nhớ thƣơng nhƣ không có bờ bến đâ ̣u . Thôi đành gă ̣p nhau trong mô ̣ng vâ ̣y !

Cảm xúc trào dâng , vƣơ ̣t bến bờ nhâ ̣p thân vào mô ̣t : bạn và mình , mô ̣ng và thâ ̣t . Mọi cái nhƣ cố níu giữ để không tuột khỏi tầm tay cái còn lại của mìn h là tình ba ̣n tri âm. Nhớ thƣơng nhau “đƣa lạc” vào vƣờn đào kết nghĩa thuở ngày xƣa . Bƣớ c đi trong tiếng nƣ́ c nghe ̣n ngào , theo nhi ̣p lòng thổn thƣ́ c , châ ̣m buồn : “Tôi khó c / tôi cƣờ i/ vang cả mộng …”; “Nhớ thƣơng/ đƣa lạc gió qua m ành”. Đó là cảm xú c mớ i

rất riêng run lên trong cấu trú c câu thơ nhƣ lờ i nói thƣờ ng , mà đã trở thành câu thơ

hay củ a phong trào Thơ mới.

131

Cái mới trong cấu trúc câu kết có lẽ còn ở chỗ tuy là lời kết nhƣng âm hƣởng

của vần “anh” trong âm tiết “mà nh” ngân xa nhƣ muốn quay trở la ̣i quấn quý t làn

sóng âm vang của tiếng gọi thân thƣơng trìu mến .“Ơi Lê ̣ Thanh ! Ơi Lê ̣ Thanh !” ở

câu đầu nhƣ muốn nhờ làn gió gở i vào không gian mênh mông xa cách nỗi nhớ

thƣơng da diết khôn nguôi... mô ̣t giai điê ̣u thơ.

3.3. NHỮNG NÉT MỚ I TRONG VIỆC TỔ CHỨC NHỊP ĐIỆU VÀ HỆ

THỐNG GIỌNG ĐIỆU

Là một nhà thơ chuyên viết theo thể Đƣờng luật, am hiểu tƣờng tận thi luật

nên Quách Tấn đã làm nên những bài thơ đặc sắc, xuất thần, phần lớn thể hiện qua

việc tổ chức nhịp điệu và hệ thống giọng điệu.

3.3.1. Những nét mới trong việc tổ chức nhịp điệu thơ Đƣờng luật của Quách

Tấn

3.3.1.1. Nhịp điệu và một vài nhịp điệu trong thơ Quách Tấn

Giữa nhiều yếu tố đảm bảo sự liên kết trong kết cấu văn bản ngôn từ một bài

thơ trữ tình, vần và nhịp thƣờng vẫn đƣợc xem là hai yếu tố cơ bản nhất, đồng thời

cũng thu hút sự chú ý nhiều nhất của giới nghiên cứu ngữ văn học. Vai trò và chức

năng của nhịp điệu trong việc tổ chức một bài thơ trữ tình đƣợc các nhà nghiên cứu,

phê bình nhận định nhƣ thế nào? Nếu không có nhịp điệu, ngƣời ta không thể nào

nhận thức nổi, nhận thức đúng về nội dung của chuỗi âm thanh, chuỗi ngôn từ phát

ra tƣởng chừng vô tận theo thời gian. Nhờ nhịp điệu gắn liền với những chỗ ngừng,

ngắt đƣợc phân bố hợp lí, căn cứ vào quy luật tổ chức nội dung ý nghĩa của ngôn từ

và khả năng chú ý, theo dõi cũng nhƣ nhịp thở. Tùy trạng thái cảm xúc của độc giả

mà chuỗi ngôn từ bất định kia đƣợc cấu trúc, trở thành tác phẩm nghệ thuật có khả

năng gây xúc động và đƣa lại những nhận thức mới về cuộc sống. So với nhịp điệu

của văn xuôi, nhịp điệu của thơ trữ tình có tính tổ chức cao hơn hẳn đến mức trở

thành yếu tố đặc trƣng nhất của thơ. Bởi vì thơ về cơ bản đã đƣợc giải phóng khỏi

chức năng tạo hình, thuật sự để tập trung vào việc biểu hiện, bộc lộ cảm xúc, mà

cảm xúc là một cái gì rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhƣ vậy, nhịp điệu vừa phân

định lớp lang của dòng cảm xúc đƣợc diễn tả bằng những âm thanh mang nghĩa.

Giữa những yếu tố tạo nên tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, nhịp điệu đã đóng một

vai trò hết sức cơ bản. Có nhà lý luận đã cho rằng: Trong thơ ca không tồn tại cái

132

nhịp điệu thuần túy, cũng nhƣ trong hội họa không tồn tại sự đối xứng thuần túy.

Nhịp điệu chỉ tồn tại nhƣ là sự tác động lẫn nhau giữa các thuộc tính tự nhiên ở chất

liệu ngôn từ và quy luật bố cục về sự luân phiên đƣợc thực hiện một cách không đầy

đủ, do có sự kháng cự của chất liệu. Một chức năng khác của nhịp điệu là chức năng

khơi dậy mâu thuẫn đối nghịch trong tâm lý cảm thụ, nền tảng của nhịp điệu đƣợc

hợp thành bởi cái cảm giác về sự đấu tranh giữa âm luật của thể thơ với ngôn từ, về

sự bất hòa, sự không ăn khớp, sự mâu thuẫn giữa chúng với nhau.

Chúng ta thử tìm hiểu những yếu tố tạo nên nhịp thơ là những yếu tố nào?

Nhịp thơ là cái đƣợc nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chất chu kỳ,

cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngƣng, chỗ ngắt và của

những đơn vị văn bản nhƣ câu thơ (dòng thơ), khổ thơ, thậm chí đoạn thơ. Nhƣ vậy,

yếu tố tạo nên nhịp điệu quan trọng nhất ở đây là những chỗ ngƣng, chỗ ngắt trong

sự phân bố mau, thƣa đa dạng của chúng, là độ dài, ngắn khác nhau của các quãng

nghỉ hơi sau mỗi khổ thơ, đoạn thơ. Hiện tƣợng này có sự đồng nhất hai khái niệm

nhịp và ngắt nhịp chính là có cơ sở ở điểm này. Những chỗ ngừng, chỗ ngắt có thể

liên quan hoặc không liên quan tới sự tồn tại của vần mà liên quan tới những quy

định khác trong mô hình âm luật, nhƣng phải nhận ra rằng những chỗ ngƣng, ngắt

nhờ vần bao giờ cũng có một vị trí nổi bật. Nhờ vần, những chỗ ngƣng, ngắt trở nên

sắc nét hơn. Do ở thơ tự do, số lƣợng âm tiết trong từng dòng thƣờng không cố

định, đơn vị nhịp điệu có thể dài, ngắn khác nhau, ngƣời ta không thể ngừng nhịp

theo mô hình sẳn có, khi ấy, trong nhiều trƣờng hợp, vần trở thành một tiêu chí rất

quan trọng giúp ngƣời ta ngừng nhịp đúng chỗ. Để khảo sát hình thức nhịp điệu của

một bài thơ, ta có thể dựa vào nhiều đơn vị tổ chức văn bản nhƣ câu thơ (dòng thơ),

khổ thơ, đoạn thơ, nhƣng thực tế cho thấy rằng giữa chúng, câu thơ (dòng thơ) vẫn

là đơn vị cơ bản nhất. Điều này có nguyên nhân ở chỗ các yếu tố tạo nhịp điệu nhƣ

cú pháp, âm điệu (âm điệu của từ, âm điệu của đoạn câu), sự hòa âm (hòa âm nhờ

luân phiên thanh điệu hay bố trí xen kẽ âm tiết có trọng âm với âm tiết không có

trọng âm)… tập trung với một mật độ dày ở câu thơ. Khi đi vào tìm hiểu bất cứ một

yếu tố thơ nào trong bài thơ, ta cũng không tránh khỏi việc động đến những yếu tố

khác vốn cùng nằm trong một mạng lƣới quan hệ chằng chịt. Nếu quan tâm chủ yếu

tới tốc độ lƣu chuyển của chuỗi ngôn từ do mạng lƣới quan hệ ấy tạo nên, có thể gọi

133

chính nó là nhạc điệu. Chúng ta không nên đồng nhất ba khái niệm: nhịp điệu, ngữ

điệu và nhạc điệu, nhƣng phải thấy rằng chúng thực sự bào hàm lẫn nhau vì đều

hƣớng tới định danh cùng một khách thể. Câu thơ nhƣ một đơn vị then chốt của mọi

sự khảo sát về nhịp điệu, hay nói khác hơn là nhƣ một đơn vị nhịp điệu cơ sở. Có

nghĩa là có sự tồn tại của những loại hình nhịp điệu khác nhau trong thơ của từng

thời đại khác nhau, bởi vì có sự tồn tại thực tế của nhiều loại hình câu thơ.

Nhịp điệu và thi tứ gắn bó chặt chẽ với nhau. Thơ muốn trở thành khúc nhạc

lòng, nhạc hồn không thể không có tiết tấu, nhịp điệu uyển chuyển. Nhạc lòng

chuyển hóa thành nhạc thơ. Nhạc thơ đa dạng, khi trầm bổng du dƣơng, lúc thanh

thoát, nhẹ nhàng ứng với điệu hồn thi sĩ. Nhạc thơ biểu hiện cụ thể ở nhịp điệu. Thi

nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân trong không gian, tạo thành các bƣớc

sóng gõ cửa tâm hồn độc giả. Thơ giàu nhạc điệu chỉ khi nào tâm hồn nhà thơ tràn

đầy xúc cảm. Mọi sự thay đổi ngôn từ đều làm biến đổi nhịp điệu và nội dung tƣ

tƣởng thể hiện. Xuân Diệu nói: “thơ hay thì lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”. Do chỗ

nhà thơ thổi hồn mình vào ngôn từ, cho nên chất nhạc thấm đẫm từng câu, từng

chữ. Mỗi khuôn nhịp có thể ví với những âm giai độc đáo trong bản giao hƣởng tâm

hồn của thi sĩ. Trong thơ, nhịp nhạc, vần điệu vận động khá đều đặn theo một chu

kỳ, quy luật nào đó. Thơ tìm tòi tiết tấu, hƣớng tới sự gián đoạn trong chuỗi ngữ lƣu

liên tục. Thơ gây ấn tƣợng bằng việc lệch chuẩn nhịp điệu. Thơ phá hủy tính chất

tuyến tính của thời gian. Thơ hƣớng về ấn tƣợng ban đầu nên tìm tới các hình thức

chuyển nghĩa. Thơ liên tục tạo ra các ký hiệu biểu đạt. Sự biểu đạt ý tứ bằng hình

thức tiết tấu, nhịp điệu, khiến cho lời thơ không cần phải kéo dài nhƣ câu văn xuôi,

lời thơ dứt khoát. Ngƣời xƣa thƣờng nói: Ý tại ngôn ngoại, có lẽ muốn nhấn mạnh

rằng: Ý tứ nằm ở tiết tấu, vần nhịp. Chính tiết tấu, nhịp điệu góp phần tạo ra ý thơ

phong phú. Sự thu hẹp vƣơng quốc thơ, sự mở rộng ranh giới văn xuôi, hoặc sự

chuyển dịch của hai hệ thống đó vào nhau khiến nhiều ngƣời nhầm tƣởng vần, nhịp

không còn quan trọng đối với thơ nữa. Thơ dù biến đổi đến đâu vẫn giữ cho mình

những yếu tố nòng cốt, đảm bảo cho sức sống bất tử của thể loại, khiến nó tồn tại

với tƣ cách phát ngôn thơ chứ không phải văn xuôi đơn thuần. Phản bội vần, nhịp,

tiết tấu - theo nghĩa chặt chẽ của từ này, đồng nghĩa với việc phản thơ. Đổi mới thơ

đích thực, trƣớc hết thuộc về đổi mới vần, nhịp, tiết tấu… Nhịp điệu góp phần làm

134

nên ý nghĩa của bài thơ. Cách gieo vần, ngắt nhịp, tổ chức tiết tấu câu thơ ít nhiều

làm cho bài thơ phong phú thêm sức mạnh và năng lƣợng. Một dòng thơ ngắn có

thể tƣơng ứng với một khuôn nhịp. Nhƣng thƣờng thì một câu thơ, dòng thơ có

nhiều nhịp. Nhịp thơ không nhất thiết phải đều đặn, cố định. Nhịp thơ đổi thay theo

nhu cầu biểu hiện ý tình; theo nhiệm vụ tái hiện sự vận động của sự vật, hiện tƣợng,

theo ngữ điệu phát ngôn ở từng nhân vật.

Tổ chức nhịp điệu trong một bài thơ nhƣ thế nào phụ thuộc vào tƣ duy thơ ở

từng tác giả. Tổ chức nhịp thơ thuộc về hệ thống biểu hiện nghệ thuật. Cả vần lẫn

nhịp đều biểu đạt tƣ tƣởng, cảm xúc… Bỏ qua nhịp điệu, độc giả không thể gọi tên

sự vật một cách đầy đủ. Ngƣời ta có thể chủ trƣơng thơ không vần, nhƣng nhịp thơ

thì không bao giờ mất đi trong thi phẩm. Nhịp thơ trƣớc hết đƣợc lĩnh hội bằng trực

giác, nhƣng không vì thế mà mất đi sự tinh tế, bí ẩn của thơ. Những cấu trúc nhịp

sáng tạo luôn hấp dẫn, mời gọi độc giả cắt nghĩa. Giá trị của bài thơ không chỉ xét ở

nội dung tƣ tƣởng, mà chủ yếu ở chỗ khiến cho bài thơ trở thành một tác phẩm nghệ

thuật. Nhịp thơ tham gia vào quá trình đó bằng cách tạo ra những giá trị thẩm mỹ

đặc sắc ở từng khuôn nhịp cụ thể. Phát hiện ra ý nghĩa của nhịp thơ giúp độc giả

tiếp cận với chiều sâu và vẻ đẹp toàn vẹn của đối tƣợng miêu tả. Khái niệm bƣớc

thơ, quãng nhịp hay bƣớc nhịp diễn đạt độ dài của sự ngừng ngắt trong câu thơ.

Mỗi bƣớc thơ có độ dài nhất định và tƣơng đối trọn vẹn về nghĩa. Chúng có thể độc

lập về ngữ pháp. Mỗi bƣớc thơ có một tiêu điểm ngữ nghĩa, thể hiện ở sự nhấn

giọng. Trƣờng độ bƣớc nhịp hài hòa với tiết tấu thơ, độ dài của các bƣớc thơ không

đều nhau. Sự không đều nhau này tạo thành âm vang ngôn từ. Thuật ngữ khuôn

nhịp hay cấu trúc nhịp điệu giúp ta nhận diện đƣợc sự lặp lại đều đặn theo chu kỳ

của những bƣớc nhịp, các âm thanh mạnh yếu. Các khuôn âm luật ấy góp phần tạo

ra tính nhạc cho bài thơ. Mỗi khuôn nhịp có trƣờng độ bƣớc nhịp nhất định. Ở mỗi

bƣớc nhịp, số âm tiết hợp thành tiết tấu câu thơ luôn đƣợc hạn định.

Nhịp thơ là khái niệm chỉ một đơn vị ngôn ngữ nào đó đƣợc khu biệt về qui tắc

tổ chức âm thanh, từ loại, ngữ pháp so với các đơn vị ngôn ngữ khác. Có nhịp dòng

thơ và nhịp tiết tấu trong dòng thơ. Nhịp thơ trùng với khung đoạn ngừng nghỉ của

lời nói nghệ thuật. Nhịp thơ thay đổi tạo nên cảm giác lời thơ vận động. Nhịp thơ là

nhân tố năng động tạo dựng hệ thống lời thơ ở cả phƣơng diện ngữ nghĩa và âm

135

thanh, chứ không phải yếu tố tĩnh tại. Nhịp điệu nằm bên trong bản thân kiến trúc

ngôn từ và quy định kiểu kiến trúc ấy. Nhịp thơ một mặt thỏa ƣớc tuân theo quy luật

khách quan của thể loại, mặt khác vận động theo quy luật trái tim, hơi thở con

ngƣời. Hình thái nhịp điệu hiện thực hóa cấu trúc ý thơ, tứ thơ. Đƣờng nét vận động

của nhịp điệu, ngữ điệu thể hiện rõ tính nhạc của ngôn từ. Nhịp thơ chịu sự chi phối

của nhiều yếu tố, trƣớc hết là bị chế ƣớc bởi thi pháp thể loại. Ví dụ ở thơ Đƣờng

luật thì ngắt nhịp theo hình thể đối lập nhau: chẵn trƣớc, lẻ sau 4/3 hay 2/2/3. Thơ

Đƣờng luật kết thúc ở nhịp lẻ. Theo luật âm dƣơng đắp đối, nhịp thơ của ngƣời Tàu

biểu hiện tính cƣơng, tiết tấu mạnh mẽ, sang trọng. Thơ lục bát của ngƣời Việt ƣa

nhịp chẵn, nhịp đôi. Cặp song thất trong thơ song thất lục bát, dùng nhịp lẻ trƣớc,

chẵn sau (3/4). Nhịp thơ của thơ ngƣời Việt biểu hiện tính nhu, tiết tấu mềm mại,

gọn gàng. Thơ ngũ ngôn của ngƣời Việt nhiều khi ngắt nhịp lẻ trƣớc, chẵn sau

(3/2), thơ ngũ ngôn của Trung Quốc có cách ngắt nhịp khác: chẵn trƣớc, lẻ sau

(2/3). Nhƣ vậy, luật thơ Việt Nam khác với thi luật của Tàu. Hiểu theo nghĩa hẹp

hơn thì cấu trúc nhịp thơ mang tính dân tộc. Điều đó thể hiện rõ ở chỗ: cùng một thể

thơ (thất ngôn, ngũ ngôn) nhƣng cách thức tổ chức nhịp điệu của thi nhân Việt Nam

và Trung Quốc không giống nhau. Sự khác biệt này có lẽ là do hệ tƣ tƣởng và quan

niệm triết học – mỹ học của chủ thể sáng tạo quy định. Vì nhịp điệu của thơ không

tách rời hệ hình tƣ duy và điệu thức xúc cảm, nhịp thơ luôn phù hợp với ngữ nghĩa

và ngữ điệu.

Ranh giới của từng nhịp do sự luân phiên của các nhóm thanh điệu cao bổng -

thấp trầm, mạnh - yếu quy định. Trong thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt Đƣờng luật

cuối tiếng thứ tƣ bao giờ cũng tạo thành một nhịp, vì nhịp thơ ngắt ở đây có tác

dụng cân chỉnh cao độ và trƣờng độ trong cấu trúc âm thanh của câu. Thơ luật trắc

vần bằng và thơ luật bằng bằng vần bằng khác nhau về hệ thống thanh điệu. Do đó,

vẻ đẹp âm nhạc ở từng bài không giống nhau. Hiện tƣợng một câu thơ có thể tách

thành bốn nhịp trở lên rất ít xảy ra trong thơ thất ngôn Đƣờng luật, bởi vì hệ thống

thanh điệu đƣợc phân bố tƣơng đối đều theo quy luật thể loại, các âm tiết hiệp vần

với nhau cũng thƣờng đứng ở vị trí cố định (vần chân). Thơ thất ngôn Đƣờng luật

có khuôn âm luật chặt chẽ. Đối với thể song thất lục bát, trong câu thất ngôn luôn

gieo vần lƣng ở chữ thứ ba hoặc chữ thứ năm (thƣờng là chữ thứ năm). Do đó, nhịp

136

thơ thƣờng ngắt ở tiếng lẻ trƣớc. Thơ thất ngôn Đƣờng luật không có vần lƣng,

ngƣời làm thơ gieo vần chân và theo lối độc vận. Do vậy, nhịp thƣờng ngừng ở

tiếng chẵn. Các bƣớc thơ liên kết với nhau, một phần nhờ hiện tƣợng gieo vần. Ở

thơ cổ điển, số âm tiết trong mỗi dòng đều nhau, vì thế nhịp thơ ổn định. Thơ Mới

phá vỡ nguyên tắc tạo nhịp của thơ cổ điển, khƣớc từ quan niệm phân đôi thế giới

của ngƣời xƣa, hơn nữa đã sử dụng nhiều kiểu câu, nên nhịp thơ linh hoạt, biến hóa

đa dạng. Từ những câu thơ vô nhân xƣng ở thơ trung đại đến câu thơ nhấn mạnh

chủ ngữ ở thơ hiện đại có thể xem nhƣ bƣớc chuyển lớn về sự phân bố nhịp điệu.

Khi nhà thơ ý thức về cá tính, đề cao tính chất cá nhân trong cảm thụ, miêu tả thế

giới thì lập tức xuất hiện dòng thơ mang nhịp lẻ.

Hiện tƣợng đảo ngữ, viết sai ngữ pháp đều ảnh hƣởng đến cơ cấu nhịp điệu.

Nhịp thơ chịu sự quy định của hệ thống kiểu câu. Sự đa dạng của kiểu câu quy định

chỗ ngắt giọng, tạo ra sự phong phú về chất nhạc bên trong câu thơ. Thơ điệu nói,

điệu ngâm khác nhau trong việc quy định cao độ cho các thanh, tức tạo ra cấu trúc

câu có điểm nhấn giọng xác định và theo đó quy định luôn nhịp thơ. Thơ điệu ngâm

khuôn nhịp thƣờng kéo dài. Thơ điệu nói khuôn nhịp co giãn tự do. Đối với câu

ghép, mỗi vế tƣơng đƣơng với một đơn vị nhịp. Nhịp thơ tạo ra lƣợng ý nghĩa bổ

sung khá lớn so với nghĩa từ vựng. Nhịp thơ thể hiện kỹ thuật tổ chức các đơn vị

ngôn ngữ của nhà thơ. Nhịp thơ tạo ra sức vang vọng về âm điệu và ngữ nghĩa. Tính

có nhịp điệu chính là một tiêu chí để phân biệt lời thơ với ngôn ngữ văn xuôi, cho

thấy sự gần gũi giữa nó với âm nhạc. Sự đa dạng của nhịp thơ giống nhƣ sự đa dạng

của giai điệu. Các thanh điệu cao thấp, các âm luyến láy đƣợc biểu hiện qua các

bƣớc đi của giai điêu, nhịp điệu.

Trên đây là những điều cơ bản để nhận diện nhịp điệu của một bài thơ, đặc biệt

là thể thơ Đƣờng luật. So với những chuẩn mực trên thì thơ Quách Tấn có những

đổi mới gì trong việc tổ chức nhịp điệu của những bài thơ Đƣờng luật của mình?

Thơ Quách Tấn tuy có sự nối tiếp về thể loại, nhịp điệu, giọng điệu,… của

Đƣờng thi, nhƣng các bài thơ của Quách Tấn phần lớn đều có những nét cách tân ở

hầu hết các khía cạnh của thơ nhƣ tiết tấu, từ ngữ, thể loại,… Trong suốt sáu mƣơi

năm sáng tạo, Quách Tấn đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chƣơng không nhỏ.

Trong các tập thơ của Quách Tấn, có tập thơ làm theo thể ngũ tuyệt với những cách

137

tân độc đáo. Giọt trăng là một tập thơ làm theo thể ngũ tuyệt, gồm đủ cảnh quê

hƣơng của Một tấm lòng, tâm hồn cao đẹp của Mùa cổ điển, nỗi lòng thiết tha của

Đọng bóng chiều, thâm tình quê hƣơng của Mộng Ngân Sơn. Đọc Giọt trăng mà

lòng ta không rung động, tâm ta không phiêu diêu thì chỉ tại lòng chƣa hòa hợp với

thơ chớ không phải thơ dở hay lòng ta không hiểu thơ. Hãy đọc qua bài Dừng tay

bút để thấy đƣợc nhịp thơ, cách dùng từ có những biến đổi:

Hiên mận / dừng tay bút,

Chiều rơi / chiếc lá khô.

Ngõ ngoài / xe ngựa vắng,

Xóng xánh / nƣớc hồ thu.

Nhịp của bài thơ vẫn là nhịp 2/3 truyền thống của thơ ngũ tuyệt, vậy mà khi

đọc bài thơ ta thấy có một nét gì rất riêng của Quách Tấn. Vẫn là những từ cổ: xe

ngựa, hồ thu gợi một không khí Đƣờng thi cổ kính. Với các từ: hiên mận, dừng tay

bút, chiếc lá khô, xóng xánh có thể hình dung đƣợc bức tranh một nhà thơ đang mãi

viết đến nỗi quên cả thời gian, lúc mỏi tay thì dừng bút và nhìn ra hiên mận thấy đã

chiều rơi. Nhìn ra xa nữa, ở ngõ ngoài có vẻ vắng vẻ, không có xe ngựa nào đi qua,

chỉ có nƣớc hồ thu xanh biếc và xóng xánh. Tác giả dùng từ xóng xánh chứ không

phải là sóng sánh nhƣ mọi ngƣời vẫn hay dùng. Với cách ngắt nhịp 2/3, câu thơ nhƣ

nhịp vào không gian vắng lặng một phút ngẩn ngơ của nhà thơ trƣớc cảnh đẹp lúc

chiều tà, có chiếc lá khô rơi, có nƣớc hồ thu xanh biêng biếc xóng xánh mặt hồ để

nhà thơ thả hồn vào thiên nhiên thơ mộng.

Một bài thơ khác: Chốn ẩn

Rào keo / lá xanh mƣớt,

Sân mận / cành khẳng khiu.

Mừng khách / làng thơ đến,

Thềm vang / tiếng sẻ kêu.

Cũng vẫn là nhịp thơ 2/3 nhƣng khung cảnh ở đây không vắng lặng nhƣ ở bài

Dừng tay bút mà thật là sống động. Các từ tƣợng hình: xanh mƣớt, khẳng khiu từ

tƣợng thanh tiếng sẻ kêu, biện pháp tu từ nhân hóa: chim sẻ kêu mừng khách, tất cả

những âm vang bên ngoài của cảnh vật thể hiện lòng mến khách của Quách Tấn, vì

đối với nhà thơ, bạn bè là một vốn tài sản quý giá biết bao. Nhịp ngắt 2/3 nhƣ một

138

tiếng reo từ trong lòng Quách Tấn chào đón khách làng thơ tri âm, tri kỷ. Tựa đề là

Chốn ẩn là nơi nhà thơ về ẩn mình, sống an nhàn thanh bạch mà có bạn thơ đến

thăm và đàm đạo thì còn gì bằng!

Hoặc một cảnh vật vừa thoáng hiện trƣớc mắt Quách Tấn cũng thành thơ, dù là

một chú chuồn chuồn bé nhỏ - trong bài Ao trƣa:

Bờ ao / cọng cỏ chỉ,

Lả lƣớt / ngọn nồm đƣa.

Con chuồn chuồn / điểm nƣớc,

Mong dừng chân / nghỉ trƣa.

Hai câu thơ đầu là nhịp thơ 2/3, nhƣng hai câu thơ cuối với nhịp thơ 3/2. Bài

thơ này có sự thay đổi về nhịp thơ so với nhịp truyền thống (nhịp 2/3), cách ngắt

nhịp chẵn/lẻ (âm/dƣơng) này là truyền thống cố định, hầu nhƣ không có ngoại lệ, đó

cũng là sự hô ứng tự nhiên với nhịp điệu của vũ trụ. Vậy mà với bài thơ Ao trƣa,

Quách Tấn đã phá cách một cách nhẹ nhàng, ba phụ âm đầu của cụm từ cọng cỏ chỉ

nhƣ điệp thêm vào nhịp điệu câu thơ diễn tả một sự mỏng manh, dễ thƣơng của

cọng cỏ chỉ và con chuồn chuồn ớt xinh xắn, đáng yêu vào một buổi trƣa hè. Cảnh

và tình trong thơ Quách Tấn khi cắt những lát mỏng vào thiên nhiên thì thật là sinh

động và đầy sức sống.

Cũng bài thơ ngũ tuyệt, Quách Tấn còn có bài Mãi còn:

Hoa quỳnh / sống nửa đêm,

Hoa phù dung / một buổi.

Nghìn trƣớc / tiếp nghìn sau,

Mắt / nhìn nhau / một tối.

Ở bài thơ này có nhiều biến đổi về nhịp điệu so với nhịp điệu của thơ truyền

thống. Câu 1 với nhịp 2/3, câu 2 nhịp 3/2, câu 3 nhịp 2/3 và câu 4 nhịp 1/2/2. Bài

thơ có bố cục hai phần, hai câu đầu miêu tả về hai loài hoa và đặc điểm của nó; hai

câu cuối nâng lên tầm triết lý, đong đầy tâm trạng của thi nhân.

Trong Giọt trăng, riêng về nét thƣơng tâm có mƣời một giọt lệ khóc con.

Chừng ấy bài hoài niệm cũng chƣa đủ diễn tả tấm lòng của thi nhân đối với con. Có

nhiều nhà thơ, nhà văn bình về tập thơ Giọt trăng nhƣ: Nguyễn Hiến Lê, Chu Thảo,

Trần Hữu Cƣ, Trúc Nhƣ, Trần Phong Giao,… Thơ trong Giọt trăng giống nhƣ

139

những giọt trăng trong cõi đời. Giọt trăng biến chuyển theo từng tâm trạng của

ngƣời ngắm, theo từng lúc, từng nơi. Giọt trăng đẹp về hình thức và thành công vì

nội dung hàm súc, đặc biệt là có những phá cách về nhịp điệu thơ. Cũng với thể thơ

ngũ tuyệt, tập thơ Mộng Ngân Sơn lại có những cách tân mới về nhịp điệu thơ, về từ

ngữ và ngay cả tựa đề của tập thơ, bài thơ. Theo tục tính của xứ sở, Quách Tấn lấy

tên Mộng Ngân Sơn mà đặt tên cho tập thơ ngũ ngôn này. Nhan đề là Mộng Ngân

Sơn là một cách điệu.

Song trƣa / cài / gió bấc,

Buồn / tựa gối / thiu thiu.

Giấc mộng / Ngân Sơn tỉnh,

Sƣơng lam / đọng nắng chiều.

Câu thơ đầu với nhịp thơ 2/1/2, câu thứ hai với nhịp thơ 1/2/2 và hai câu 4, 5

nhịp 2/3 có một sự thay đổi hệ thống nhịp điệu lớn trong một bài thơ. Từ cài ở câu 1

tác giả dùng rất lạ, song trƣa sao không cài cửa, cài liếp, cài phên mà lại cài gió

bấc? Đã có mấy ai lấy song mà cài gió bấc chƣa? Chắc có lẽ chỉ có mình Quách

Tấn làm nhƣ thế. Nhịp thơ 2/1/2 nhẹ nhàng, qua đến câu 2 nhịp thơ cũng thật lạ:

1/2/2. Hai câu thơ đầu với cách ngắt nhịp bất thƣờng nhƣ thế đã gợi lên một phong

cảnh thanh bình, êm dịu, một sự thanh thản trong tâm hồn nhà thơ. Nhƣng đọc đến

hai câu cuối, với cách ngắt nhịp bình thƣờng thì nỗi buồn nhẹ nhàng len lỏi vào hồn

thơ Quách Tấn, chữ mộng, tỉnh và đọng nhƣ chứa đầy tâm trạng và nỗi lòng của tác

giả. Thơ trong Mộng Ngân Sơn cô đọng, súc tích và gợi cảm. Các bài viết từ năm

1947-1953 phần nhiều mang một chút buồn thân phận. Tâm tình của tác giả luôn

lắng đọng nơi hai câu cuối. Trong Chiều tiễn biệt, Tình cổ nhân, Bến đò xƣa, Nẻo

mƣa thu, Nhớ em,… đều có vị đắng của chén trà pha đậm. Những bài thơ làm từ

năm 1959-1962 phần nhiều mang tính chất nhẹ nhàng, trong sáng. Những cảnh xinh

đẹp của quê hƣơng cùng với hình ảnh các sinh vật nhỏ bé, thân thƣơng nơi đồng

quê thƣờng gây cảm hứng và làm nền cho những bài thơ đơn giản nhƣng đầy đặn

hồn thơ. Các bài: Rạng đông, Dòng thu, Đơn giản, Âm ba đã thể hiện một phần

trong tập thơ. Đến năm 1963 là năm biến động của chợ đời ở miền Nam, khiến cho

thơ trong Mộng Ngân Sơn chịu một phần ảnh hƣởng. Từ các bài Lặng lẽ, Thâm u,

Nhánh chiều, Mùa hoa cau đến các bài Thê lƣơng, Bồi hồi, Tựa ngõ,… đều mang

140

một dấu ấn xót xa cho thân phận nhà thơ. Từ năm 1964 đến năm 1965, cái sôi động

của tình thế qua đi nhƣng vẫn còn vƣơng lại một chút niềm ƣu tƣ (các bài: Trong

sƣơng, Chi xiết, Úa nắng, Ai có hay, Vang vọng) để rồi kết thúc tập thơ bằng một

tuyệt tác:

Gởi gắm / dòng / tâm sự,

Trang khuya / nến / ửng hồng.

Muôn nghìn / sau / ngoảnh lại,

Dù mộng / chẳng / hƣ không.

(Trăng khuya)

Cả bài thơ với nhịp 2/1/2 rất lạ, khác hẳn nhịp thơ Đƣờng luật ngũ ngôn 2/3.

Bài thơ nhƣ một thông điệp tâm sự nhắn gửi cho các thế hệ mai sau về sự chuyển

dịch của thời gian. Nỗi lòng của nhà thơ Quách Tấn thấm đẫm qua từng dòng thơ,

từng trang thơ để cho độc giả hôm nay vẫn còn bồi hồi.

Một thể loại thơ khác mà Quách Tấn vẫn hay sử dụng để làm thơ cho mình đó

là thể thơ ngũ ngôn bát cú. Trong thời gian 1945-1973, tập thơ Mây cổ tháp phần

lớn làm theo thể ngũ ngôn bát cú. Bài ngũ luật đầu tiên của tập thơ và cũng là bài

ngũ luật đầu tiên của đời thơ Quách Tấn là bài Nha Trang, sáng tác vào đầu xuân

năm Ất Dậu (1945):

Mƣời năm / trời Nha Trang,

Tha hƣơng / mà cố hƣơng.

Bạn bằng / duyên mận trắng,

Giấy bút / mộng mai vàng.

Thế loạn / đành xa cách,

Tình thâm / dám phụ phàng.

Bên đƣờng / xe ngoảnh lại,

Sùi sụt / sóng Cù giang.

Cả bài thơ với nhịp điệu 2/3, câu thơ thứ nhất nhƣ thời gian tha hƣơng của nhà

thơ Quách Tấn cứ kéo dài. Câu thơ thứ hai với hai từ gần nhƣ đối lập nhau, tha

hƣơng và cố hƣơng làm nổi bật nỗi niềm nhớ thƣơng quê hƣơng da diết. Nhà thơ

chỉ biết bạn bè cùng cây mận, giấy bút để nguôi ngoai nỗi nhớ quê nhà, lúc này ông

nhƣ một ẩn sĩ tìm nơi nƣơng náu cho qua thời loạn. Một bƣớc đi mang nặng hình

141

bóng quê hƣơng trong lòng, thi nhân nhƣ không muốn rời xa quê hƣơng, dù là nữa

bƣớc.

Từ năm Ất Dậu (1945) đến Tân Hợi (1971) ngót một phần tƣ thế kỷ, thơ ngũ

luật của Quách Tấn gom góp tất cả chỉ đƣợc trên ba mƣơi bài. Năm Nhâm Tý

(1972) thơ ngũ luật đƣợc Quách Tấn tiếp tục sáng tác cho đến cuối xuân Quý Sửu

(1973) thì tập thơ Mây cổ tháp đƣợc hoàn tất. Tập thơ gồm 108 bài và chia làm hai

phần. Theo nhà thơ thì Phần I gồm những bài dụng công, lọc ý, chải lời nhƣ các bài

Đợi tri âm, Thâm u, Chức phụ từ, Gối hƣơng, Song thu nhìn én, Ngụm bình minh,

Chuông sớm, Lần chuỗi, Ra sân, Ngồi đối sách, Gót tầm phƣơng, Rừng sao nắng,

Vàng ngập bến,… Phần II gồm những bài tùy hứng, lời chảy theo ý, ý nổi trên lời,

không sửa soạn, không trau chuốt, nhƣ các bài: Mình ở nhà, Mình với mình, Thềm

nắng ấm, Trƣớc sau, Vui tết, Cúc tháng ba,… Tuy phân ra làm hai phần, vì bên

ngoài hình thức lời thơ song phần bên trong vẫn không cách biệt nhau, vì tất cả đều

là nhịp bƣớc của tâm, hơi thở của hồn, những tình cảnh bên ngoài, những suy tƣ của

nội tâm chất chứa theo ngày tháng và khi gặp đƣợc duyên lành, khi cảm xúc lên tột

độ thì lời thơ tuôn trào. Vì thế, lời thơ dù có trau chuốt hay chơn chất thì vẫn là

tiếng lòng. Nhan đề của tập thơ Mây cổ tháp cũng có sự cách tân, đó là lấy từ câu

ba, câu bốn bài Vàng ngập bến: Chuông lừng mây cổ tháp,/ Buồn rộng gió tà huy.

Nhịp điệu trong bài thơ Lần chuỗi cũng không có gì thay đổi so với nhịp thơ

ngũ ngôn Đƣờng luật (2/3), thế nhƣng ở bài thơ này có những ý tƣởng thâm trầm

của Quách Tấn hƣớng về đạo Phật. Bài thơ Lần chuỗi đƣợc Quách Tấn sáng tác

trong mùa Phật Đản tại Nha Trang, do Hòa thƣợng Trí Thủ tổ chức tại lễ đài chính

tại Phật học viện Hải Đức:

Chuông ngân / chùa sẫm nắng,

Hƣơng quyện / áo tràng bay.

Trăm tám / vì sao mọc,

Xoay tròn / đôi lóng tay.

Mƣời phƣơng / cây lặng gió,

Năm sắc / hồ trôi mây.

Lần bƣớc / lên đầu núi,

Ánh vàng / tràn đó đây.

142

Trong buổi lễ trang nghiêm, Hòa thƣợng có đeo xâu tràng hạt lấp lánh và sắc

phục y vàng rực rỡ. Nắng bình minh chiếu vào xâu tràng hạt và cả màu vàng của y

làm cho nhà thơ đã cảm xúc viết bài thơ trên.

Hoặc bài thơ Tĩnh mịch của Quách Tấn có nhịp điệu khác hẳn nhịp thơ thất

ngôn Đƣờng luật:

Bờ / nghiêng lau lách / bƣớc sƣơng lồng,

Trăng / muộn màng canh / lánh mặt sông.

Đời / nửa khói mây / chìm bóng mộng,

Gọi đò một tiếng / lạnh hƣ không.

Bài thơ có nhịp thơ 1/3/3 nhƣ kéo dài thời gian, làm cho không gian trải rộng

mênh mông. Các từ ở cuối các câu nhƣ: lồng, sông, mộng, không có cùng vần, gợi

cảm giác nhẹ nhàng, lan tỏa. Tiếng gọi đò gợi cho ta cái cô đơn tột cùng của khách

lữ hành. Ngoại cảnh thì đầy lau lách, sƣơng lồng, nội tâm lại ngập tràn khói mây, để

rồi tất cả chìm vào bóng mộng. Trƣớc cái không gian tột cùng đơn độc này, chắc

chắn lòng phải bật nên lời và lời thốt ra lại là một lời kêu gọi đến tha nhân, kêu gọi

một con đò để đƣa mình ra khỏi bến mê. Tiếng gọi đó phá tan cái không khí nặng

nề nhƣng lại làm tăng thêm cảnh tịch mịch bên bờ sông, vì chỉ có một tiếng gọi đò

thôi rồi tất cả lại chìm trong tĩnh mịch: Gọi đò một tiếng lạnh hƣ không.

Triều Phƣơng nhận xét về bài Tĩnh mịch nhƣ sau: “Lữ khách đứng trên một bờ

sông và cất tiếng “gọi đò” để tìm lấy phƣơng tiện vƣợt lên bờ giác bên kia. Cuộc

đời mờ ảo, bƣớc đi mông lung lồng sƣơng lạnh. Canh khuya. Cô đơn. Vậy mà

khách lữ hành vẫn đi vì đã tỉnh thức đƣợc mặt ảo mộng, chóng đổi thay nhƣ “khói

mây” của cuộc đời, có đó rồi tan nhƣ bóng mộng. Song khách lữ hành còn tỉnh thức

đƣợc một mặt khác nữa của cuộc đời. Đó là mặt của sáng sủa, mặt của hằng mà biểu

tƣợng là mặt trăng. Trăng còn đang “lánh mặt sông” nên ta chƣa thấy đƣợc đó

thôi… Trong “tĩnh mịch” khách lữ hành còn đang bƣớc đi trong ánh “sƣơng lồng”

với lòng nặng khói mây của “Đời nửa khói mây chìm bóng mộng”, nên tiếng gọi đò

chƣa thoát ra tâm trạng cầu mong. Nỗi tha thiết não nùng trong tiếng gọi đò đã làm

rung chuyển cả vũ trụ để đồng cảm với tâm sự cô đơn, lạnh lẽo của khách lữ hành”

[19,198-199].

Một bài thơ với nhịp điệu lạ : Thoáng hiện.

143

Nghìn trƣớc / không / còn nữa,

Nghìn sau / rồi / cũng không.

Phảng phất / bờ trăng rạng,

Hƣơng ƣu đàm / trổ bông.

(Mộng Ngân Sơn)

Với nhịp thơ hai câu đầu là 2/1/2, cách thể hiện cách quãng so sánh về thời

gian nghìn trƣớc với nghìn sau, để nói về cái không thƣờng hằng trong cuộc sống.

Nói nhƣ Hồng Châu: “Bài thơ tóm tắt cuộc đời đến và đi của tác giả. Hai câu đầu

liền lạc một ý bao gồm triết lý nhân sinh ở đời. Nhƣng không phải bằng con mắt tri

thức phân biệt mà cảm nhận cái bƣớc đi của thơi gian bằng chính ngộ. Tức là thâm

nhập vào (sinh trụ di diệt với nó). Cái ngộ ấy phải dùng con mắt Huệ cho nên thấy

cái “nghìn trƣớc” và cũng thấy cái “nghìn sau”. Hai câu này vang lên từ “Không”,

“không” là đối thể của có, nhƣng ở đây câu thơ đâu có đề cập đến cái có, cái hữu vi

hữu hình. Vậy phải hiểu từ “Không” - nó còn gắn thêm một đƣờng sâu hơn của

tánh “Không” là nguyên bản của vạn vật. Thực thể của vạn vật không có cái tƣớng

riêng của nó. Cái tánh không bao trùm lên cặp mâu thuẫn có - không. Tánh không

của vạn vật phải ngộ bằng tâm. Khi tâm của tác giả đã ngộ ra cái lẽ trong sinh diệt

thì có cái phi diệt. Tâm liền thấy bờ giải thoát (trăng)” [19]

3.3.1.2. Đổi mớ i trong cá ch hòa điê ̣u để tạo nhi ̣p điê ̣u Hòa điệu theo cổ nhân là kỹ năng tạo sƣ̣ hò a hợp phụ thuộc và o nhi ̣p điê ̣u . Bở i vâ ̣y, trong câu thơ thất ngôn , nhịp điệu đƣợc ngắt theo 2/2/3 hoă ̣c 4/3 (nhịp truyền

thố ng là 4/3) cố đi ̣nh, không thay đổi.

Thế nhƣng, nhƣ̃ng câu thơ củ a Quách Tấn la ̣i khác . Để tránh tình trạng “gọt chân cho vƣ̀ a già y”, “hình thƣ́ c tró i buộc, tiêu diê ̣t sinh khí của nội dung” , thi sĩ đã có sự đổi mới trong cách hòa điệu . Đặc điểm của nó là không thừa nhận sự hòa hợp

phụ thuộc vào nhịp điệu nhƣ một nguyên tắc cứng nhắc, bất di bất di ̣ch.

Câu thơ thất ngôn củ a Quách Tấn nhi ̣p điê ̣u đƣơ ̣c ngắt linh hoa ̣t hơn cơ sở xã

hô ̣i – thẩm mỹ củ a nó , nhƣ GS . Lê Đình Ky ̣ trong Thơ Mớ i : Nhƣ̃ng bƣớ c thăng trầm có nhận định : “nô ̣i dung, nhịp điê ̣u mớ i trong sinh hoa ̣t , trong tâm hồn không thể bi ̣ gò bó trong nhi ̣p điê ̣u thơ cũ . Xã hội phát triển , tầm mắt , tâm tƣ con ngƣờ i

144

càng mở rộng . Quan hê ̣ giƣ̃a cá nhân và cá nhân giƣ̃a cá nhân vớ i cô ̣ng đồng theo

đó trở nên đa dạng, phƣ́ c ta ̣p. Cái mới nảy sinh trên mọi mặt vật chất và tinh thần

, nhƣ̃ng phƣơng tiê ̣n biểu hiê ̣n khác trƣớ c , mô ̣t

đòi hỏi phải có mô ̣t nghê ̣ thuâ ̣t mớ i thƣ pháp không cƣ́ ng nhắcmà uyển chuyển , phóng khoáng” [12].

Hẳn trong thơ xƣa ít có dòng thơ nào la ̣ lùng nhƣ thơ của Quách Tấn:

(nhịp 3/4)

(nhịp 5/2)

(nhịp 3/2/2 hoă ̣c 3/4)

(nhịp 3/2/2 hoă ̣c 3/4)

(nhịp 2/5)

(nhịp 3/4)

(nhịp 3/4)

(nhịp 2/3/2)

“Đây lò ng ta,/ đó một trờ i thu” “Dì gió đa tình ơi,/ chớ đếm” “Lò ng chan chƣ́ a/ biết bao cay đắ ng” “Mộng sớ m tan,/ rồi vẫn đắ m hƣơng: “Đêm nọ/ giở pho tình sƣ̉ nọ” “Tình cũng lơ / mà bạn cũng lơ” “Tâm hồn riêng/ gƣ̉ i nƣớ c non ai” “Dâu bể/ đã bao đờ i/ kiếp trải” “Trƣa Bồng lai/ khẽ rung rinh biếc” (nhịp 3/4)

(nhịp 1/2/4)

(nhịp 2/5) “A! / ra mình/ mớ i ngoại hai mƣơi” “Cò n đặng/ bảy mƣơi chín tuổi nữa”

(nhịp 3/2/2) “Đƣa duyên vợ/ nhƣ̃ng khen bà nguyê ̣t” (nhịp 3/4) “Đi ̣nh số chồng/ riêng oá n lão trờ i” (nhịp 3/4) “Tình hoang mang/ gợi trí hoang mang” (nhịp 3/4) “Khối tình riêng/ nặng gá nh/ non sông

3.3.1.3. Đối ngẫu - một cá ch thứ c tạo sự hài hòa cho câu thơ , một dạng làm

nên nha ̣c tính

Mă ̣t khác, “hò a điê ̣u” còn là kỹ năng ta ̣o sƣ̣ hài hòa về âm điê ̣u trong sƣ̣ đối

xƣ́ ng, mà đặc điểm chủ yếu của nó là “đối cốt để giƣ̃ cho ý đƣợc cân , lờ i đƣợc hò a, , không thật chỉnh mà ý khỏi mắc phải sự chênh lệch . Có nhiều khi chữ đối chọi cũng nhƣ lờ i rất cân xƣ́ ng nhau” . Chẳng ha ̣n sƣ̣ đối xƣ́ ng giƣ̃a hai câu luâ ̣n trong bài “Một đêm mƣa mù a thu”:

Thơ dầm / mƣ̣c lạnh / thƣơng khôn né n! Nếu xó t / tình chi / lê ̣ chẳng khô?

Tuy chƣ̃ “mƣ̣c lạnh” đố i cho ̣i không thâ ̣t chỉnh vớ i “tình chi” nhƣng ý cũng nhƣ lờ i “thơ dầm mƣ̣c lạnh” rất cân xƣ́ ng vớ i “nên xó t tình chi” . Bở i lẽ, nếu thay

145

“tình chi” bằng “tình đau” chẳng ha ̣n để đối cho ̣i thâ ̣t chỉnh vớ i chƣ̃ “mƣ̣c lạnh”, (ở đây là câu hỏi tự vấn ). Điều này không phù thì không còn tồn tại dạng câu hỏi

. Nhà thơ muốn tạo câu trên bằng câu cảm

hơ ̣p vớ i du ̣ng ý nghê ̣ thuâ ̣t củ a tác giả thán kết hợp cộng hƣởng sức nặng của câu hỏi tự vấn ở dƣới để diễn tả tình cảm

bƣ́ c xú c, “thƣơng khôn né n” và nỗi tự vấn , dằn vă ̣t, xót xa, đau khổ khôn cù ng “lê ̣ chẳng khô”.

Hoă ̣c chƣ̃, sƣ̣ đối xƣ́ ng giƣ̃a hai câu thƣ̣c (trạng): Có tơ / ai nhớ / công tằ m khổ! Không mật / đà nh chê / kiếp bƣớ m nhà n!

Mă ̣c dù , “ai nhớ ” đối cho ̣i kh ông thâ ̣t chỉnh vớ i “đà nh chê” , song qua biê ̣n pháp so sánh tƣơng phản thì ý cũng nhƣ lời của câu “Có tơ ai nhớ công tằ m khổ ,” rất cân xƣ́ ng vớ i “Không mật đà nh chê kiếp bƣớ m nhà n” . Đây là trƣờ ng hơ ̣p “bất

đố i chi đối “ (không đố i mà đối) tƣ́ c là chỉ đối ý chƣ́ không đối chƣ̃ .

Qua đó , nhâ ̣n thấy rằng Quách Tấn sƣ̉ du ̣ng phép đối rất linh hoa ̣t , không máy

móc, không cƣ́ ng nhắc , không bắt buô ̣c chƣ̃ đối chƣ̃ sát pha ̣t vớ i nhau ; mà cốt yếu

là giữ cho ý đƣợc cân, lờ i đƣơ ̣c hòa, đối xƣ́ ng càng cao, hài hòa càng lớn.

Tóm lại, cùng với sự thay đổi nhịp điệu , viê ̣c dù ng đối ngẫu nhƣ trên đã phân . Có thể thấy hầu hết các tích, là yếu tố thứ hai trong kỹ thuật hòa điệu có đổi mới

bài thơ Đƣờng luật của Quách Tấn đều có những nét cách tân so với thơ Đƣờng

luật, đó là cách tân về thể loại, câu chữ, đặc biệt là có những đổi mới đáng kể trong

việc tổ chức nhịp điệu. Bên cạnh đó, hệ thống giọng điệu của thơ Quách Tấn cũng

đa dạng và có nhiều nét mới.

3.3.2. Những nét mới trong hệ thống giọng điệu thơ Đƣờng luật của Quách

Tấn

Giọng điệu là một hiện tƣợng nghệ thuật, là phƣơng tiện biểu hiện quan trọng

của chủ thể sáng tạo, đồng thời còn là một biểu hiện của thi pháp trong những thời

đại thi ca nhất định. Trong cái nhìn mỹ học phƣơng Đông, khí - tình - điệu trở thành

những yếu tố cốt lõi làm nên giọng điệu. M.B. Khrapchenkô từng khẳng định: “Đề

tài, tƣ tƣởng, hình tƣợng chỉ đƣợc thể hiện trong một môi trƣờng giọng điệu nhất

định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tƣợng sáng tác,

đối với những mặt khác nhau của nó”. Trong hệ thống giọng điệu có nhiều giọng:

146

- Giọng thơ nén lặng, tiết chế: phảng phất một nỗi buồn thế sự, tĩnh lặng, thuần

khiết.

- Giọng thơ đài các: giọng thơ ngâm khẽ khàng mà vang giữa thinh không,

không muốn khuấy động không gian, tinh tế, nó nhƣ muốn tan vào niềm vui, nỗi

đau của những phận ngƣời nhỏ nhoi, đơn lẻ.

- Giọng thơ suy tƣởng triết lý: chất triết lý, nặng nề về suy tƣởng đã tạo nên

giọng điệu thi ca.

- Giọng thơ hồn nhiên trong trẻo: Hiện ra nhƣ một yếu tố cơ bản thuộc phong

cách nghệ thuật, giọng điệu văn chƣơng vừa cho phép ngƣời đọc nhận ra vẻ riêng

của ngƣời nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa nhƣ một tiêu chí xác định chân tài của nhà thơ.

Thơ Quách Tấn có đủ các giọng điệu ấy. Nếu trong nhịp thơ, Quách Tấn có

những cách tân đầy sáng tạo thì ở hệ thống giọng điệu, thơ Quách Tấn nhƣ một

vƣờn hoa thơm mát, đầy hƣơng sắc.

Quách Tấn là ngƣời ham học hỏi, nhà thơ đọc rất nhiều thơ văn Đông Tây kim

cổ. Chính vì thế thơ ông lắng đọng, suy tƣ, tĩnh lặng, thuần khiết và phảng phất một

nỗi buồn thế sự, làm nên giọng thơ nén lặng, tiết chế:

Vin cành xuân muộn nép ven tƣờng,

Nhìn bóng phù sinh đọng bóng gƣơng.

Nếp áo đã phai màu thế hệ,

Mái đầu chƣa trắng nợ văn chƣơng.

Đôi tờ thơ cổ nâng niu ngọc,

Một mảnh vƣờn quê ấp ủ hƣơng.

Chiu chít rừng liêu cơn tỉnh mộng,

Ánh tà dƣơng lẫn ánh triêu dƣơng.

(Nhìn bóng phù sinh)

Ngƣời ta có sẵn bảy tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục), khi bị sự vật tác động thì

sinh cảm xúc. Cảm xúc trƣớc sự vật thì nói lên cái chí, đó là điều tự nhiên. Thơ

Quách Tấn không đơn điệu chỉ thể hiện buồn hay vui mà hầu hết thơ ông thể hiện

đầy đủ cả bảy tình kia. Chính vì luôn cầu tiến và tiếp cận cái mới nên thơ Quách

147

Tấn vừa có phong vị của Đƣờng thi nhƣng lại luôn có những cách tân làm say mê

độc giả.

Giếng ngọt Giang Nam một khóm già,

Thân gầy vóc hạc nhánh trìu hoa.

Tình xuân chừng đợi duyên công chúa,

Hƣơng muộn càng say giấc Tố Nga.

Mộng bén song khuya hồn đọng ngọc,

Vần gieo sƣơng sớm giá trau ngà.

Hỡi ngƣời thức trắng đêm thƣơng nhớ,

Tiếng địch thành cao vọng bến xa.

(Khóm mai già)

Quách Tấn thƣờng nói với bạn thơ của mình: “Đọc thơ Á Đông tôi cảm thấy

lòng tôi bay ra hòa cùng vũ trụ. Đọc thơ Âu Mỹ tôi cảm thấy vũ trụ dồn vào lòng tôi

để cùng tôi đồng hóa. Cho nên đọc thơ Trung Hoa (vì tôi đọc thơ Trung Hoa nhiều

hơn các nƣớc khác nhƣ Nhật, Ấn) tôi thấy đƣợc hồn vũ trụ trong đó có hồn tôi…

Đọc văn thơ Tây phƣơng, tôi có cảm giác sống trong cảnh mùa xuân tƣơi ấm. Đọc

văn thơ Đông phƣơng tôi có cảm giác sống trong mùa thu dịu hiền” [71,tr.284].

Bên cạnh giọng thơ nén lặng, tiết chế, thơ Quách Tấn lại có một giọng thơ rất

sang trọng, đài các, làm nên một giọng thơ rất đặc trƣng của Quách Tấn, góp phần

tạo nên những câu thơ hay của những câu thơ hay nhất trong nền văn học Việt Nam.

Nguyễn Hiến Lê khi nhận xét về tập Đọng bóng chiều của Quách Tấn có viết: Từ

trƣớc tôi vẫn thích cái vẻ cổ kính, trang nhã, điêu luyện và cái nhạc trong thơ của

ông. Trong Đọng bóng chiều này, vẻ cổ kính còn hơn cả trong Mùa cổ điển. Những

bài “Song chiều”, “Run phiếm”, “Rót hƣơng”, “Buồn thƣơng”, “Tháng ba gió

lạnh”, “Nửa mộng”, “Đốt cảnh”, “Bên sông”, “Qua xuân”, “Lặng lẽ”,… đều có

những câu tuyệt thú, đủ tình cảm và nhạc [19,tr.386]. Trong bài thơ Đêm thu, giọng

thơ thật nhẹ nhàng, trong trẻo nhƣng thật sang trọng, quý phái:

Vƣờn thu óng ả nét thùy dƣơng,

Đƣa nhẹ đêm theo cánh hải đƣờng.

Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt,

Phất phơ tơ nhện tủa ngàn sƣơng.

148

Chim hồi hộp mộng cơn mƣa lá,

Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hƣơng.

Say khƣớt hơi men thời Lý Bạch,

Non xa mây phới nếp Nghê thƣờng.

Các từ óng ả, thùy dƣơng, cánh hải đƣờng, rẻo vàng, bến nguyệt, gió hƣơng,

Nghê thƣờng,… gợi lên một cái gì rất Đƣờng thi, mơ màng, thơ mộng. Bài thơ trữ

tình đầy tâm trạng của thi nhân, chất thơ đậm đặc, mang lại hƣơng vị dễ thƣơng,

tinh khiết và cả một trời thu rất đẹp và cũng rất lạ trong cái nhìn của thi gia Quách

Tấn.

Tâm hồn của các nhà thơ cũ yên tĩnh trong khuôn khổ nhỏ hẹp của lòng hồ,

muôn nghìn năm vẫn không chán soi từng ấy mây trắng, từng ấy trời xanh, từng ấy

trăng gầy và liễu yếu. Nhƣng trong thơ Quách Tấn, tuy có tiếp thu cái cũ của Đƣờng

thi nhƣng lại nhú mầm cái mới và làm rạn vỡ luật lệ gò bó của thơ Đƣờng. Đó là cái

tính cách vƣơng giả - một tính cách cần thiết của nhà thơ. Nhà thơ có thể bình dân,

có thể quê mùa, có thể vẩn đục,… Nhƣng cái bản chất cao quý của thơ, ngƣời sáng

tác bằng bất cứ giá nào phải thể hiện vẹn nguyên. Nếu Hàn Mặc Tử có những câu

thơ hay, gây đƣợc sự chú ý của những ngƣời xung quanh nhƣ:

Ngọc Nhƣ ý vô tri còn biết cả,

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh

Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ

Bút tôi reo, nhƣ châu ngọc đền vua…

thì Quách Tấn cũng có những vần thơ đài các, sang trọng không kém:

- Lúc ở bút nhuần hoa thƣợng uyển,

Đƣờng về gƣơng tợ nguyệt trung thu.

- Lúc hứng ngửa nghiêng trời đất rộng,

Ngồi buồn xáo trộn cổ kim chơi.

- Tóc vƣớng hơi hƣơng vƣờn thúy liễu,

Lòng nƣơng tiếng địch bến vi lô.

- Chùa Phật hầu son Nguyễn Uy Viễn,

Non tiên rêu biếc Trần Hy Di.

- Gành Ráng sóng vờn gƣơng đế bá,

149

Non xa mây phới nếp Nghê thƣờng.

- Cành gió hƣơng xao hoa tỉ muội,

Đồi sƣơng sóng lƣợn cỏ vƣơng tôn.

- Vàng ngọc nhảy reo câu khiển hứng,

Non sông huyền hoặc sắc chiêm bao.

- Tình ta lóng lánh giọt sƣơng mai,

Ngọc mấy hàng ngƣng đọng bóng trời.

Một bài thơ khác thể hiện rõ nhất sự hòa quyện tuyệt vời giữa tâm hồn thi nhân

với cảnh sắc thiên nhiên hữu tình của đất trời Đà Lạt, xứ sở của sƣơng mù - bài Đà

Lạt đêm sƣơng với ba khổ thất ngôn:

Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im,

Thời khắc theo nhau lải rải chìm.

Đứng dựa non sao bờ suối ngọc,

Hồn say dịu dịu mộng êm êm.

**

Một luồng sƣơng bạc bỗng từ mô,

Lẻn cuốn vừng trăng cuốn mặt hồ.

Cuốn cả non sao bờ suối ngọc,

Ngƣời lơ lửng đứng giữa hƣ vô.

**

Trời đất tan ra thành thủy tinh,

Một bàn tay ngọc đẫm hƣơng trinh.

Âm thầm mơn trớn bên đôi má,

Hơi mát đê mê chạy khắp mình.

Cảm nhận thiên nhiên đến nhƣ vậy là hết ý! Câu cuối của bài thơ “Hơi mát đê

mê chạy khắp mình” nhƣ một sự bứt phá của thi nhân khi sử dụng cái vỏ của thơ cổ

điển mà chuyển tải hồn thơ dào dạt mới. Nó mang hơi hƣớng của làn gió phƣơng

Tây phả vào, nhằm diễn tả một trạng thái rất riêng, rất gợi cảm của cái tôi Quách

Tấn. Trong tập thơ Mùa cổ điển có bài thơ Đêm xuân cũng có cách thể hiện lạ này:

Lơ lửng từng mây dạo tiếng tơ,

Đêm trong nhƣ kính dịu thu mờ.

150

Phấn sƣơng điểm má đào non nõn,

Gƣơng nƣớc soi mày liễu nhởn nhơ.

Mƣợn lƣợc nƣờng trăng mây rẽ tóc,

Khơi tình chị gió lá đề thơ.

Bồng lai một giấc muôn năm cũ,

Mơ ƣớc chi cho bƣớm phỉnh phờ.

Bài thơ có cách dùng từ rất mới nhƣ: trong nhƣ kính, non nõn, nhởn nhơ,

nƣờng trăng, phỉnh phờ,… Giọng thơ có một sự thay đổi, từ Bồng lai một giấc

muôn năm cũ – một cái gì đó vĩnh hằng, bất biến, mang hơi hƣớng của Đƣờng thi –

đến Mơ ƣớc chi… Quy luật đã nhƣ vậy thì mơ ƣớc mà làm chi để cho bƣớm phỉnh

phờ. Một sự nhận chân quy luật vĩnh hằng của thời gian thật sâu sắc. Buồn, nhƣng

thật vƣơng giả!

Song song với giọng thơ đài các, thơ Quách Tấn còn có giọng thơ suy tƣởng,

điều hòa. Một lần đến Viếng mộ Tản Đà mà nhà thơ đã có sự đồng cảm, xót xa cho

sự hạn hữu của cuộc đời một con ngƣời Trần gian để lại nụ cƣời cho hoa. Một mối

cảm hoài cho phận ngƣời, phận mình trong nghiệp văn chƣơng:

Vừa mới hôm nào tôi với anh,

Mở chồng sách cổ vạc sang canh.

Nghìn thu tâm sự thƣơng ngƣời trƣớc,

Một mối văn chƣơng cảm nhận mình.

Chừ đã cách xa ngƣời mỗi cõi,

Biết tìm đâu gặp đã ba sinh.

Bên mồ nắm trấu riêng sùi sụt,

Nhen bóng hoàng hôn đốm lửa xanh.

Vẫn biết là Chừ đã cách xa ngƣời mỗi cõi mà còn mong tìm ở một nơi nào đó

gặp lại bạn thơ để lòng bớt nỗi cô đơn trống vắng, để nhen lên ở cuối chân trời một

đốm lửa xanh sƣởi ấm cõi lòng băng giá của ngƣời ở lại. Hiểu đƣợc ngƣời đi trƣớc

để rồi Quách Tấn băn khoăn cho phận mình sau này, thể hiện qua bài Tâm sự:

Ngƣời nay còn chửa hiểu mình,

Ngƣời sau đâu dễ thấu tình ngƣời nay.

Bụi đƣờng khi phủi đôi tay,

151

Nghìn thu tâm sự dấu giày rêu phong.

Cảm nhận cuộc sống ở nhiều phía nên mặc dù biết cuộc sống là vô thƣờng,

nhƣng thi gia Quách Tấn vẫn rất nâng niu, trân trọng những phút giây đƣợc hiện

hữu trên cõi đời này. Vì thế, tâm hồn Quách Tấn có một sự điều hòa rất tinh tế. Nhà

thơ điều hòa cảnh này cùng cảnh khác, tình này cùng tình khác. Và tình cảnh của

nhà thơ lại điều hòa với nhau. Không khí của câu thơ nhờ thế mà êm dịu lạ thƣờng,

nhƣ một buổi mai tinh lặng sau một đêm dài của mùa xuân. Cái tính cách điều hòa

ấy giúp cho tâm hồn Quách Tấn ăn nhịp dễ dàng với cái lề luật khắt khe, cái thế đối

đáp ràng buộc ở trong thơ cũ. Đó là những câu thơ:

- Hƣơng trà pha lẫn hƣơng trầm thoảng,

Tiếng dế hòa ăn tiếng địch xa.

- Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.

- Hồn tan theo mộng tứ theo thơ.

Trong thơ ông, cảnh và tình nhƣ hòa quyện vào nhau:

Chiếc gối lơ làng duyên phấn điệp,

Cung cầm lểnh loảng giọng hà mô.

Thơ đầm mực lạnh thƣơng khôn nén,

Nến xót tình chi lệ chẳng khô?

hay: Nhớ chập chồng non mây sớm tối,

Tình lai láng biển nƣớc đầy vơi.

hoặc: Nƣớc mây quạnh vắng tròng khô lệ,

Mƣa nắng phôi pha má lợt hồng.

Lời thệ vững ghi lòng sắt đá,

Khối tình riêng nặng gánh non sông.

Và: Lụy nhớ mƣa ngàn tuôn nƣợp nƣợp,

Tóc thề mây núi bạc phơ phơ.

Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi,

Nƣớc vƣớng tình sâu chảy lững lờ!

Trong các bài thơ của Quách Tấn có những câu thơ đƣợc xếp vào những câu

thơ đẹp nhất của Quách Tấn và cũng là những câu thơ đẹp nhất mà văn chƣơng Việt

Nam có thể có. Đó là những câu:

152

Quây quần mây khói liễu riêng xuân,

Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng.

hay: Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió,

Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.

hoặc: Trầm xây đỉnh bạc nghê phơi khói,

Lồng bóng rồng mây chén rƣợu hƣờng.

Những câu thơ vẽ nên bức tranh vô cùng huyền ảo. Khóm liễu tƣơi xanh riêng

giữ một bầu khói mây quấn quýt, khói mây nhƣ thƣơng tiếc những âm điệu mà uốn

mình vây lấy giọt đồng tan. Một hồn hoa đang tỉnh thức bỗng chợp mơ mà chớp lấy

hƣơng, làm cho thơm sự phiêu lƣu của gió, trong lúc tóc xanh kia của liễu – một bài

thơ xanh mƣớt thời Đƣờng Tống. Bài Đêm thu nghe quạ kêu mà ở trên có nêu với

một giọng thơ ngân khẽ khàng mà vang cả thinh không.

Nếu ở các giọng thơ nén lặng, tiết chế; giọng thơ đài các; giọng thơ suy tƣởng

đều thoáng nét buồn man mác của tâm trạng thì trong thơ Quách Tấn còn có một

giọng thơ khác nữa, đó là giọng thơ hồn nhiên, trong trẻo, yêu đời và thật sống

động, thể hiện một tình yêu cuộc sống tràn đầy.

Cuộc sống của Quách Tấn tuy sâu sắc, thâm trầm nhƣng thật ra rất đơn giản.

Khi đứng trƣớc một cảnh vật, nhà thơ đã nhạy cảm phát hiện đƣợc những nét rất

tinh khôi, trong veo của thiên nhiên hữu tình.

Bên dòng khe nƣớc trong,

Cây măng vòi cong cong.

Lắc lƣ chim chèo bẻo,

Trên nền trời rạng đông.

(Rạng đông)

Bất chợt một tiếng chim cu gáy đồng vọng trên cánh đồng cũng gợi cho nhà

thơ một ý thơ thật thuần khiết, thanh bình ở đồng quê:

Sóng gợn đồng lúa thơm,

Hƣơng theo ngọn gió nồm.

Qua hàng tre nắng nhuộm,

Dòn dã tiếng cu cƣờm.

(Đơn giản)

153

Hay là một khoảnh khắc thật bình thƣờng trong muôn vàn khoảnh khắc của

cuộc sống của thi nhân, bất chợt dừng ngọn bút để cảm nhận sự cô liêu của tâm hồn

mình hòa cùng cảnh chiều tà của cảnh vật:

Trang thơ dừng ngọn bút,

Đƣơng trải lòng cô liêu.

Thấp thoáng ngoài sân mận,

Mƣa hoa dệt nắng chiều.

(Dừng bút)

Một cảnh mùa thu thật đẹp, thật hồn nhiên, trong trẻo trong bức tranh mùa thu

của Quách Tấn, thật sinh động qua một tiếng cào cào búng chân:

Nƣớc ngậm trời long lanh,

Con cào cào áo xanh.

Bờ cao búng chân nhảy,

Mây chiều thu rung rinh.

(Búng chân)

Còn đây là một Vƣờn hồng với đủ cảnh, sắc, tình và một hình ảnh nhân hóa

độc đáo về con vật vô tri Con sâu cửu:

Vƣờn hồng vang tiếng sẻ,

Gió thổi mặt trời lên.

Hƣơng ấm hoa hàm tiếu,

Con sâu già ngủ quên.

Thật là hóm hỉnh và đặc sắc trong cách dùng từ và biện pháp tu từ của Quách

Tấn. Và đây một tiếng dế cũng tìm chỗ lạc vào vƣờn thơ của Quách Tấn:

Sân lài hoa nở trắng,

Tiếng dế dịu dàng sƣơng.

Man mác nghìn xƣa đọng,

Cành trăng đôi bóng hƣơng.

(Hoa nở trắng)

Thật tinh khiết và trong ngần nhƣ pha lê. Phải có một tâm hồn thanh trong, dịu

nhẹ, mực thƣớc và tinh tế, Quách Tấn mới tiếp nhận cảnh vật thiên nhiên xung

quanh mình để nhả tơ cho đời những bài thơ tuyệt tác:

154

Bờ ao cọng cỏ chỉ,

Lả lƣớt ngọn nồm đƣa.

Con chuồn chuồn điểm nƣớc,

Mong dừng chân nghỉ trƣa.

(Ao trƣa)

Hình ảnh cây mận đƣợc trở đi trở lại trong tâm tƣởng và trong thơ Quách Tấn.

Cây mận đã trở thành một nhân chứng cho bao nhiêu là dâu bể đã xảy ra trong đời

sống văn chƣơng của ông. Chính dƣới gốc mận này, những thi sĩ nổi danh của Việt

Nam từ tiền chiến đã từng họp mặt nhƣ: Tản Đà, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích

Khê,… Và điều cảm động nhất là thi sĩ Tản Đà đã từng ở ngôi nhà này trong mấy

hôm và đã ngồi tƣ lự nhiều giờ dƣới gốc mận. Cây mận này là nơi gợi hứng vô tận

cho những vần thơ của ông. Cây mận đã trở thành một tiểu vũ trụ riêng tƣ của ông.

Ở đó, ông trốn gió, trốn mƣa, trốn những cơn giông bão của tâm hồn và những tiếng

động ồn ào huyên náo nhất của thời đại cơ giới. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra

điều đó khi ta đọc những thi phẩm của ông, nhất là trong Mộng Ngân Sơn. Quách

Tấn đã nhờ cây mận ru ngủ mình trong một Giấc chiều xuân:

Song chiều ôm sách ngủ,

Đƣờng tạnh gót phong sƣơng.

Gió mận hiu hiu thổi,

Đầy sân rải trắng hƣơng.

(Giấc chiều xuân)

Thật là thiếu sót nếu ta không đọc qua bài Giếng hƣơng, để thấy đƣợc cái

trong trẻo, đài các, vƣơng giả của cảnh – tình hay là sự nhẹ nhàng, tinh khiết trong

tâm hồn nhà thơ:

Trăng đọng giếng tƣờng vi,

Hƣơng tràn thấm lối đi.

Bƣớc hoa dìu gió nhẹ,

E động giấc hoàng ly.

Nhƣ vậy, có thể thấy thơ Đƣờng luật của Quách Tấn là thơ đa giọng: nén lặng

tiết chế, đài các sang trọng, suy tƣởng triết lý, hồn nhiên trong trẻo. Dù ở giọng điệu

nào thơ ông cũng chất chứa đầy tâm trạng, nỗi lòng và tình yêu cuộc sống, với một

155

cái nhìn tích cực trƣớc cuộc đời, tuy rằng ông đã nếm trải hầu nhƣ đủ hết mùi vị của

cuộc đời. Sự ngọt ngào, thanh đạm của tâm hồn Quách Tấn hòa quyện vào thiên

nhiên và cái tâm ngộ đạo của ông đã tạo nên một phong cách thơ đặc biệt cho riêng

mình, nhƣ Quách Tấn từng tâm sự: “Tôi làm thơ – từ khi biết thơ là gì – để gởi gắm

tâm sự, để giải tỏa tâm hồn. Tôi làm thơ cho tôi trƣớc hết. Cho nên tôi không thể giả

dối với tôi”. [71]

Rõ ràng Quách Tấn đã thể hiện rất rõ sự cách tân, làm mới thêm thơ Đƣờng

luật ở việc dùng từ ngữ thật sống động, thể hiện sự cách tân trong việc tổ chức nhịp

điệu và hệ thống giọng điệu, để qua đó bộc lộ một cái tôi đầy cá tính tách biệt với

thơ Đƣờng luật đƣơng thời. Nói chung, thơ Quách Tấn có cái uyên thâm và trong

sáng của thơ Đƣờng; có cái giản dị và hồn nhiên của ca dao truyền thống; có những

rung động thiết tha của Thơ Mới, mà có thể gọi đó là phong cách thơ của Quách

Tấn. TIỂ U KẾ T

Về mă ̣t nghê ̣ thuâ ̣t , luận văn bƣớ c đầu chỉ ra nhƣ̃ng cách tân nghê ̣ thuâ ̣t trong thơ củ a ông. Trên cơ sở nêu quan niê ̣m củ a Quách Tấn về viê ̣c làm thơ , luâ ̣n văn đi sâu thống kê các thể thơ mà Quách Tấn ƣa dù ng để khẳng đi ̣nh ông là nhà thơ có sở trƣờ ng về thơ cách luật . Về ngôn ngƣ̃ thơ Quách Tấn , luận văn đã chỉ ra cách dù ng tƣ̀ ngƣ̃ có đổi mớ i, mang sắc thái biểu cảm mớ i , dùng từ ghép - láy độc đáo; dùng từ biểu cảm phù hơ ̣p vớ i quy luâ ̣t phối thanh thấp - cao; dùng từ ngƣ̃ dân gian ta ̣o cảm xúc hƣớng nội ; kỹ thuật nhồi chữ , điê ̣p âm tiết , điê ̣p vần để ta ̣o âm hƣở ng điê ̣p

khúc. Về nhịp điệu, có thể thấy Quách Tấn đã đổi mới cách hòa nhịp, tạo nhịp điệu,

đố i ngẫu, phối âm, hoà âm để tạo nhạc tín h cho thơ. Về giọng điệu, thơ Quách Tấn

đa thanh, đa giọng chẳng khác nào nhƣ một vƣờn hoa đầy hƣơng sắc với giọng nén

lặng tiết chế, giọng đài các sang trọng, giọng suy tƣởng triết lý, giọng hồn nhiên

trong trẻo. Từ giọng điệu trên, có thể rút ra kết luận: thơ Quách Tấn có cái uyên

thâm và trong sáng của thơ Đƣờng; có cái giản dị và hồn nhiên của ca dao truyền

thống; có những rung động thiết tha của Thơ Mới, mà có thể gọi đó là phong cách

thơ của ông. Nhờ nhƣ̃ng cách tân nghê ̣ thuâ ̣t trên mà giƣ̃a lú c Thơ mới đang thắng thế, thì tiếng thơ mang phong vi ̣ Đƣờ ng thi của ông vẫn ung dung vƣ̃ng chãi bƣớ c

lên thi đàn Thơ mới, đƣơ ̣c nhiều ngƣờ i đón nhận và trọng vọng.

156

KẾT LUẬN

Thơ Đƣờng luật là một thể thơ “trói voi bỏ rọ” nhƣ có nhà nghiên cứu đã nói,

bởi đây là thể thơ với yêu cầu câu thúc về số tiếng (chữ) trong câu và số câu trong

bài và ngƣời sáng tác phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt về niêm, luật, vần,

đối; chỉ có hai mƣơi chữ hoặc hai mƣơi tám chữ (nếu là thơ tứ tuyệt), hay bốn mƣơi

chữ hoặc năm mƣơi sáu chữ mà ngƣời làm thơ phải phản ánh cho đủ, cho hay và

sáng rõ những gì mà mình muốn thể hiện thông qua đề tài, thi đề. Đây là thể thơ

giàu tính hàm súc, cô đọng với “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời). Muốn xác định

mã nghệ thuật của thơ Đƣờng luật, trƣớc hết cần phải xét xem những yếu tố mang

tính quy phạm ngặt nghèo đó. Nhƣng đấy chỉ là cái chung. Bởi tất cả những ai sáng

tác theo thể thơ này đều buộc phải tuân thủ những yêu cầu mang tính quy phạm đó,

nếu không tuân thủ theo yêu cầu thì bài thơ sẽ thất niêm, thất luật, lạc vận, cƣỡng

áp, khổ độc. Ở thơ Đƣờng luật của Quách Tấn cũng vậy, nghĩa là nhà thơ buộc phải

tuân theo những quy định trên. Nhƣng nếu chỉ xác định những yếu tố đó thì bất kỳ

bài thơ Đƣờng luật của bất kỳ của tác giả nào ở bất kỳ thời đại nào cũng nhƣ nhau,

làm sao mà thấy đƣợc cái cá tính sáng tạo, cái giọng điệu và phong cách riêng của

từng nhà thơ? Muốn xác định cái rất riêng ấy của từng tác giả, thiết nghĩ cần phải

xen xét các yếu tố nghệ thuật khác nhƣ nghệ thuật dụng điển, nghệ thuật dùng từ đặt

câu diễn ý, phép đối ngẫu, cách tân cấu trúc câu thơ, cách cắt nhịp để tạo nhịp điệu,

cách phối âm để tạo nhạc tính và sự hoà điệu trong bài thơ, làm nên giọng điệu thơ,

v.v.. nói chung là cần phải xét xem “sự phá vỡ tính quy phạm” của thơ cách luật để

thấy cái mới, nét riêng của từng nhà thơ.

Trong lúc Thơ Mới vừa xuất hiện trên thi đàn, nhiều ngƣời công kích thơ cũ,

chê bai những bài thơ Đƣờng luật sáo rỗng đăng trên các báo chí bấy giờ, nhƣ Nam

Phong tạp chí, An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo v.v.. và đã có nhiều nhà thơ từ

bỏ thể thơ Đƣờng luật để sáng tác theo thể Thơ Mới nhƣ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,

Đông Hồ, Mộng Tuyết… Vậy mà, Quách Tấn trƣớc sau vẫn sáng tác theo thể thơ

cũ: thơ Đƣờng luật và tìm cách “làm mới” thể thơ này, để đƣợc công chúng ngợi

khen và các nhà Thơ Mới đón nhận. Nhờ thế, từ khi tập thơ thứ hai của Quách Tấn

xuất bản: tập Mùa cổ điển, nhà thơ Chế Lan Viên viết lời Tựa, thì lúc này ngƣời ta

157

không còn phân biệt “Mới” và “Cũ” nữa. Đúng là tập thơ “đã khép lại một thời đại

trong thi ca” nhƣ nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định [74].

Qua viê ̣c Xác lập mã nghệ thuật thơ Đƣờng luật Quá ch Tấn , chúng tôi có di ̣p ; đồng thời có điều

đƣơ ̣c hiểu sâu hơn về cuô ̣c đờ i và văn nghiê ̣p củ a Quách Tấn kiện đi sâu nghiên cứu về tƣ tƣởng, nội dung và nghệ thuật thơ Đƣờng luật của

Quách Tấn, nhất là qua hai tập Một tấm lòng (1939) và Mùa cổ điển (1941) và một

số tập thơ khác của ông. Nhờ vậy , chúng tôi mới thấy đƣợc những cách tân nghệ

thuật trong thơ ông qua những vần thơ cổ và hiểu đƣợc vì sao Quách Tấn sống trong

thờ i đa ̣i Thơ Mớ i, là thành viên của nhóm “Bàn thành tƣ́ hƣ̃u” , mà nhóm này có ba

nhà thơ sáng tác theo thể thơ m ới, còn riêng ông vẫn thủy chung với thể thơ Đƣờng

luật. Có thể nói ông là ngƣời đã “lội ngƣợc dò ng li ̣ch sƣ̉ ” . Nhƣng chính viê ̣c lô ̣i ngƣơ ̣c dòng đó đã ta ̣o nên phong cách Quách Tấn. Trong con ngƣờ i thơ củ a thi nhân có sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới , giƣ̃a cái cổ điển và cái hiê ̣n đ ại. Vì thế, trong Thi nhân Viê ̣t Nam , nhà phê bình Hoài Thanh khi viết “Một thờ i đại trong thơ ca”

đã có nhâ ̣n xét hoàn toàn xác đáng rằng : “Cảm đƣơ ̣c lòng ngƣờ i đàn bà khó chiều

...” [74,tr.34]. Nói cách khác , Hoài Thanh

kia (thơ Đƣờ ng) họa chỉ có Quách Tấn ngay tƣ̀ đầu đã nhìn thấy cái mớ i trong thể thơ cũ mà Quách Tấn đã sƣ̉ du ̣ng . Để rồi, cũng theo Hoài Thanh, chính tập thơ thứ hai của Quách Tấn là Mùa cổ điển “đã

khép lại một thời đại thi ca ” [74,tr.28]. Bên ca ̣nh đó , phải thừa nhận rằng, sở dĩ thơ Đƣờng luật của Quách Tấn chống chọi đƣợc với thơ Mới và bền vững với thời gian

là vì Quách Tấn đã kết hợp đƣợc cái vi tế , sâu lắng củ a thơ Đƣờ ng vớ i cách dù ng chữ, đă ̣t câu, diễn ý và nhất là chất thơ củ a cõi lòng thi nhân có sƣ̣ hòa hơ ̣p vớ i hiện

thực của thờ i đa ̣i mới.

Trong vấn đề tƣ tƣở ng, khi nhâ ̣n thƣ́ c đƣơ ̣c lẽ tuần hoàn củ a vũ tru ̣, Quách Tấn

đã chấp nhâ ̣n sƣ̣ biến chuyển củ a t hơ ca theo dòng trào lƣu tiến hóa nên nhà thơ không phản ƣ́ ng cũng nhƣ không theo dòng mà la ̣i hòa đồng cù ng vớ i sƣ̣ phát triển tích cực ấy . Các nhà thơ nhƣ Hàn Mặc Tử , Bích Khê, Đông Hồ ... đã tuân theo luâ ̣t tiến triển củ a thơ ca tƣ̀ bỏ thể thơ cũ , sáng tác theo thể thơ mới và đã có một địa vị xƣ́ ng đáng trong thơ ca Viê ̣t Nam . Riêng nhà thơ Quách Tấn vẫn giƣ̃ cho mình thể thơ Đƣờ ng luâ ̣t. Song ông đã làm phong phú thêm về hình thƣ́ c lẫn nô ̣i dung vớ i lờ i thơ trau chuốt , ý thơ giàu sang và đã đƣợc văn học sử Việt Nam dành cho một chỗ

158

,

ngồ i vƣ̃ng vàng , mô ̣t góc chiếu êm thắm trên thi đàn văn ho ̣c lãng ma ̣n ngày đó cũng nhƣ chặng đƣờng văn học sau này . Giƣ̃a lú c mo ̣i ngƣờ i ồ n ào công kích nhau thì nhà thơ không lên tiếng để bênh vực cho thơ Cũ , cũng nhƣ không bài xích thơ

Mớ i, mà chỉ âm thầm lặng lẽ phát huy cái cao đẹp , cái sang trọng của thơ Đƣờng và

hòa hợp những cái mới có ích để tạo nên nét mới sau những dòng thơ cổ kính .

Nhƣ̃ng ngƣờ i yêu mến thơ xƣa vẫn tìm đƣơ ̣c nhiều hƣ́ ng thú trong thơ Quách Tấn và những ngƣời ƣa thích cái mới vẫn tìm đƣợc hƣơng vị nồng thắm tƣơi tắn trong

thơ củ a ông . Trong bài tƣ̣a củ a tâ ̣p thơ “Một tấm lò ng” , thi sĩ Tản Đà đã đă ̣t thơ Quách Tấn ngang với thơ của Hồ Xuân Hƣơng , Bà Huyện Thanh Quan , Yên Đổ .

Nhà thơ mới Chế Lan Viên đã thừa nhận trên báo chí rằng “

thơ củ a Quách Tấn có nhƣ̃ng câu thơ đe ̣p nhất trong nhƣ̃ng câu thơ đe ̣p nhất Viê ̣t Nam” . Hoài Thanh cũng

đã viết: “Quách Tấn đã tìm đƣợc những lời thơ riêng cảm chúng ta một cách thấm thía. Ngƣờ i đã thoát hẳn cái lối chơi chƣ̃ nó vẫn là môn sở trƣờ ng củ a nhiều ngƣờ i trong làng thơ cũ ; và lúc này thì “Làng Thơ Mớ i tƣ̣ mình mở cƣ̉ a đón mô ̣t ngƣờ i cũ . Họ không nói chuyện hơn thua nữa” . Bở i lẽ, ở Quách Tấn , “Mối lƣơng duyên gây nên tƣ̀ Một tấm lò ng , đến Mùa cổ điển thì thật đằm thắm . Mùa cổ điển gồm cả cái giàu sang của Thái Can . Leiba sú c tích la ̣i trong mô ̣t khuôn khổ rắn chắc . Nhƣng Quách Tấn có thật là thơ cũ hoàn toàn ? Có thực Quách Tấn không bao giờ mơ

tƣở ng ba ̣n phƣơng xa?” [74,tr.34].

Về nô ̣i dung thơ Quá ch Tấn, vẫn là đề tài quen thuô ̣c , vẫn là cảm hƣ́ ng thƣờ ng

,

gă ̣p trong nhiều thi phẩm củ a các nhà thơ xƣa nhƣ lòng yêu quê hƣơng đất nƣớ c tình yêu thiên nhiên đằm thắm thiết tha đến độ tri kỷ tri âm , cùng với nỗi niềm hoài

cổ , cảm hứng Thiền nhƣng Quách Tấn đã biết thổi vào đó cái hơi thở củ a thờ i đa ̣i mớ i bấy giờ , tạo nên một hƣơng thơ riêng , mà đƣơng thời ngƣời đọc không thể phụ rẫy hoă ̣c thờ ơ.

Về nghê ̣ thuâ ̣t , tuy sƣ̉ du ̣ng thuần thu ̣c thể thơ Đƣ ờng luật với vần điệu , niêm,

luâ ̣t, đối thâ ̣t cân chỉnh qua mô ̣t kết cấu câu thú c , gò bó với đề , thƣ̣c, luâ ̣n, kết chă ̣t chẽ, quy pha ̣m; nhà thơ dụng công “thôi xao” trong viê ̣c dù ng tƣ̀ đă ̣t câu, dùng điển tích điển cố nhƣng ngôn n gƣ̃ thơ Quách Tấn có bƣớ c cách tân đáng kể , biết dù ng tƣ̀ ngƣ̃ vớ i nhƣ̃ng sắc thái biểu cảm mớ i ; dùng từ ghép nghĩa trên cơ sở láy âm kết hợp , tiếp thu và kế thƣ̀ a tối đa nhƣ̃ng tinh hoa củ a ngôn ngƣ̃ dân gian theo cảm xú c mớ i

159

cùng cách nhồi chữ điệp âm để tạo âm hƣởng và nhất là có ý thức đổi mới trong cấu

trúc câu thơ, để tạo nên giọng điệu riê ng: đa thanh, đa giọng, đầy hƣơng sắc với các

giọng điệu: nén lặng tiết chế, đài các sang trọng, suy tƣởng triết lý, hồn nhiên trong

trẻo.

Tóm lại , thơ củ a Quách Tấn bao gồm cái uyên thâm , trong sáng củ a thơ

Đƣờng, cái giản dị hồn nhiên của ca dao Việt Nam và những rung cảm thiết tha của

Thơ Mớ i . Thi nhân là sƣ̣ hòa hơ ̣p tro ̣n ve ̣n giƣ̃a thơ cũ và thơ mới , là sự hài hòa duyên dáng giƣ̃a nét cổ điển quý phái đáng yêu và nét hiê ̣n đa ̣i di ̣u dàng tuyê ̣t đe ̣p .

160

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh chủ biên (1977), Điển cố văn học, Nxb Khoa học Xã hội, HN. 2. Bƣu Văn Phan Kế Bính (1970), Việt Hán văn khảo, (Nam Ký HN xuất bản lần

đầu 1927), Nxb Mặc Lâm, SG, in lần thứ 3.

3. Phan Canh (1999), Thi ca Việt Nam thời tiền chiến, Nxb Đồng Nai, tb.

4. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hoá Thông tin, HN.

5. Huy Cận - Hà Minh Đức chủ biên (1997), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong

thi ca (60 năm phong trào Thơ Mới), Nxb Giáo dục, tb lần thứ nhất, HN.

6. Nguyễn Huệ Chi (2012), Tìm hiểu cái “tôi” “Thơ Mới”, Hội thảo khoa học

Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự Lực văn đoàn – 80 năm nhìn lại, Trƣờng

ĐHSP TP. HCM, Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM, Khoa Văn học

và Ngôn ngữ (Trƣờng ĐHKHXH&NV-ĐHQG HCM), Tạp chí Thế giới Mới đồng

tổ chức ngày 20/10/2012, tr.29-39.

7. Nguyễn Đình Chú (2003), Thử tìm hiểu nguyên nhân tồn tại của thơ Đƣờng luật

Việt Nam trong thế kỷ XX, in trong: Bút xƣa – Thơ Đƣờng luật thế kỷ XXI, Hoài

Yên sƣu tầm, tuyển chọn, Nxb Văn hoá Dân tộc, HN.

8. Nguyễn Đình Chú (2007), Nữ sĩ Ngân Giang giữa nền thơ Đƣờng luật Việt Nam

thế kỷ XX, in trong: Thắp sáng Đƣờng thi, Nxb Hà Nội.

9. Nguyễn Đình Chú (2012), Nguyễn Đình Chú tuyển tập, Nguyễn Công Lý giới

thiệu và tuyển chọn, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN,

10. Nguyễn Xuân Diện - Trần Văn Toàn (1998), Bƣớc đầu tìm hiểu ảnh hƣởng của

thơ Đƣờng đối với Thơ Mới, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.46-53.

11. Lê Chí Dũng (1999), Sáng tạo trong thơ Đƣờng luật, in trong: Nguyễn Khuyến:

về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, HN, tr.518-529.

12. Lê Chí Dũng (2001), Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm Đƣờng luật, Nxb Văn

học, HN.

13. Đặng Anh Đào (1994), Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam , Tạp

chí Văn học, HN, số 7, tr.1-10.

14. Phan Cƣ̣ Đê ̣ (1982), Phong trà o Thơ Mớ i, Nxb Khoa học Xã hội, HN.

161

15. Phan Cƣ̣ Đê ̣, Trần Đình Hƣơ ̣u và… (2001), Văn học Viê ̣t Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, HN, tb lần thƣ́ 5.

16. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học Xã hội, HN.

17. Hà Minh Đức (2012), Thơ tình trong phong trào Thơ Mới (1932-1945), Tạp chí

Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr.25-33.

18. Lam Giang (1970), Hồn thơ nƣớc Việt, Nxb Sống Mới, SG.

19. Quách Giao (sƣu tầm) (1994), Quách Tấn qua cái nhìn phê bình văn học , Nxb

Trẻ, TP. HCM.

20. Nguyễn Thi ̣ Bích Hải (1995), Thi phá p thơ Đƣờ ng, Nxb Thuâ ̣n Hoá, Huế. 21. Dƣơng Quảng Hàm (1968), Viê ̣t Nam văn học sƣ̉ yếu, (Nha học chính Đông

Pháp in lần đầu 1943), Trung tâm Ho ̣c liê ̣u Bô ̣ Quốc gia Giáo du ̣c, SG, tb lần thứ 9. 22. Lê Bá Hán, Trần Đình Sƣ̉ , Nguyễn Khắc Phi (1999), Tƣ̀ điển thuật ngƣ̃ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nô ̣i, tb lần thƣ́ 3.

23. Lƣu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Trần Thanh Đạm và Phạm Thị Hảo dịch,

Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn học, HN.

24. Đỗ Đứ c Hiểu , Nguyễn Huê ̣ Chi và… chủ biên (2004), Tƣ̀ điển Văn học (bô ̣ mớ i), Nxb Thế giớ i, HN.

25. Nguyễn Hữu Hiếu (2007), Một số thay đổi có tính chất đột biến của Thơ Mới

Việt Nam dƣới ảnh hƣởng của thơ tƣợng trƣng, in trong: Lê Chí Dũng (chủ biên),

Những suy nghĩ mới những tiếp cận mới về Ngữ văn, Nxb Khoa học Xã hội, HN,

tr.191-276.

26. Nguyễn Hữu Hiếu (2012), Thơ Mới – đôi điều nhìn lại và suy nghĩ, Hội thảo

khoa học Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự Lực văn đoàn – 80 năm nhìn lại,

Trƣờng ĐHSP TP. HCM, Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM, Khoa

Văn học và Ngôn ngữ (Trƣờng ĐHKHXH&NV-ĐHQG HCM), Tạp chí Thế giới

Mới đồng tổ chức ngày 20/10/2012, đĩa CD.

27. Hoàng Thị Huế (2012), Thể Thơ Mới nhìn từ sự vận động nội tại của thể loại

văn học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr.70-79.

28. Đoàn Trọng Huy (2012), Hồn dân tộc nhiệm màu từ Thơ Mới, Hội thảo khoa

học Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự Lực văn đoàn – 80 năm nhìn lại, Trƣờng

162

ĐHSP TP. HCM, Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM, Khoa Văn học

và Ngôn ngữ (Trƣờng ĐHKHXH &NV-ĐHQG HCM), Tạp chí Thế giới Mới đồng

tổ chức ngày 20/10/2012, đĩa CD.

29. Ƣu Thiên Bùi Kỷ (1956), Quốc văn cụ thể, (bản in lần đầu tại HN 1927), Nxb

Tân Việt, SG, in lần thứ 3.

30. Lê Trung Kiê ̣t (1996), “Mù a cổ điển”- tác phẩm khép lại một thời thơ , luâ ̣n văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờ ng ĐHSP TP. HCM. 31. Lê Đình Ky ̣ (1993), Thơ mới: nhƣ̃ng bƣớ c thăng trầm, Nxb TP. HCM. 32. Nguyễn Tƣờ ng Lân (1962), Thơ Quách Tấn , Nguyê ̣t san Thông tin , SG, số 2,

tháng 5, tr.15-19.

33. Nguyễn Tấn Long , Nguyễn Hƣ̃u Tro ̣ng (1969), Viê ̣t Nam thi nhân tiền chiến ,

Nxb Sống Mớ i, SG. 34. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1970), Các khuynh hƣớng thi ca tiền chiến, Nxb

Số ng Mớ i, SG.

35. Nguyễn Tấn Long (1996), Viê ̣t Nam thi nhân tiền chiến , quyển thƣợng, Nxb

Văn học, HN, tb.

36. Nguyễn Tấn Long (1996), Viê ̣t Nam thi nhân tiền chiến , quyển trung, Nxb Văn

học, HN, tb.

37. Nguyễn Tấn Long (1996), Viê ̣t Nam thi nhân tiền chiến, quyển hạ, Nxb Văn học,

HN, tb.

38. Huỳnh Lý - Hoàng Dung (1976), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 5, phần 1, Nxb

GD, HN, tb lần thứ 4.

39. Lê Nguyễn Lƣu (2007), Đƣờng thi tuyển dịch, tập 1, Nxb Thuận Hoá, Huế, tb

lần thứ nhất.

40. Lê Nguyễn Lƣu (2007), Đƣờng thi tuyển dịch, tập 2, Nxb Thuận Hoá, Huế, tb

lần thứ nhất.

41. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, Nxb GD, HN, tb lần thứ tƣ.

42. Viên Mai (2002), Tuỳ Viên thi thoại, Trƣơng Đình Chi dịch, Nxb Văn nghệ TP.

HCM.

163

43. Nguyễn Đăng Ma ̣nh (1994), Kế thƣ̀ a truyền thống dân tô ̣c trong đổi mớ i thơ ca qua kinh nghiê ̣m li ̣ch sƣ̉ củ a phong trào Thơ Mớ i, Tạp chí Văn học , HN, số 11,

tr.24-32.

(1978), Lịch sử văn học Việt Nam , tâ ̣p 5 (1930 – 44. Nguyễn Đăng Ma ̣nh và…

1945), Nxb Giáo dục, HN, tb lần thứ 5.

45. Nguyễn Đăng Ma ̣nh (1999), Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,

Nxb ĐHQG HN.

46. Nam Phong tạp chí (1917-1934), từ số 1 đến số 206.

47. Phạm Thế Ngũ (1998), Viê ̣t Nam văn học sƣ̉ giản ƣớ c tân biên , tâ ̣p 3, (Văn ho ̣c

hiê ̣n đa ̣i 1862-1945), Quốc ho ̣c tù ng thƣ, in lần đầu 1965, Nxb Đồng Tháp, tb. 48. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Viê ̣t Nam (Hình thức và Thể

loại), Nxb Khoa học Xã hội, HN.

49. Lê Đƣ́ c Niê ̣m (1993), Thơ Đƣờ ng, Nxb Khoa học Xã hội, HN. 50. Lê Đức Niệm (1995), Diện mạo thơ Đƣờng, Nxb Văn hoá Thông tin, HN.

51. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn Việt Nam hiện đại , in lần đầu 1943, Nxb Văn

học, HN, tb.

52. Nguyễn Khắc Phi - Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đƣờng, Nxb Đà

Nẵng.

53. Vũ Đức Phúc (1969), Sƣ̣ phát triển củ a chủ nghĩa lãng ma ̣n tƣ sản ở Viê ̣t Nam và phong trào Thơ Mớ i: Cuô ̣c tranh luâ ̣n về Thơ Mới, thơ cũ trƣớ c c ách mạng, Tạp

chí Văn học, HN, số 5, tr.20-31.

54. Lê Triều Phƣơng , Phan Hồng Châu , Quách Tùng Phong (2002), Hƣơng thơ

Quách Tấn, Nxb Hô ̣i Nhà văn, HN. 55. Trần Tro ̣ng San biên soa ̣n (1972), Đƣờng thi, tâ ̣p 1, Bắc Đẩu, SG, tb lần 3.

56. Trần Tro ̣ng San biên soa ̣n (1972), Đƣờng thi, tâ ̣p 2, Bắc Đẩu, SG, tb lần 3.

57. Trần Đình Sƣ̉ (1993), Thơ mớ i và sƣ̣ đổi mớ i thi ph áp thơ trữ tình tiếng Việt , Tạp chí Văn học, HN, số 6, tr.11-20.

58. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo dục, HN.

59. Trần Đình Sử (2012), Mấy vấn đề thi pháp Thơ Mới nhƣ là cuộc cách mạng

trong thơ Việt, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr.9-24.

164

60. Trần Đình Sƣ̉ (2012), Địa vị lịch sử của phong trào Thơ Mới, Hội thảo khoa học Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự Lực văn đoàn – 80 năm nhìn lại, Trƣờng

ĐHSP TP. HCM, Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM, Khoa Văn học

và Ngôn ngữ (Trƣờng ĐHKHXH & NV-ĐHQG TP. HCM), Tạp chí Thế giới Mới

đồng tổ chức ngày 20/10/2012, tr.6-11.

61. Nguyễn Thanh Tâm (2012), Thơ Mới – Một diễn giải từ “lịch sử - sinh thành

học”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr.100-110.

62. Văn Tâm (1992), Giớ i thuyết Thơ mớ i, Tạp chí Văn học, HN, số 6, tr.6-10. 63. Quách Tấn (1939), Một tấm lò ng, Nhà in Thuỵ Ký, Hàng Trống, HN. 64. Quách Tấn (1941), Mùa cổ điển, Nhà in Thuỵ Ký, Hàng Trống, HN.

65. Quách Tấn (1960), Mùa cổ điển, Nxb Tân Viê ̣t, SG, tái bản lần thứ 1.

66. Quách Tấn (1965), Đọng bó ng chiều, in ta ̣i Paris (không ghi nơi xuất bản). 67. Quách Tấn (1966), Mộng Ngân Sơn, Hoa Nắng, Paris.

68. Quách Tấn (1973), Giọt trăng, Thi Vũ giớ i thiê ̣u, Nxb Rƣ̀ ng Trúc, Paris. 69. Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đƣờng, Nxb Trẻ, TP. HCM.

70. Quách Tấn (1999), Trăng hoà ng hôn, Nxb Trẻ, TP. HCM. 71. Quách Tấn (1999), Bóng ngày qua (Đời văn chƣơng), Nxb Hô ̣i Nhà văn, HN. 72. Quách Tấn (2000), Bóng ngày qua (Bàn Thành tứ hữu ), Nxb Văn nghê ̣ , TP.

HCM.

73. Quách Tấn (2000), Trƣờ ng Xuyên thi thoại, Trung tâm Nghiên cứu Quốc ho ̣c và

Nxb Văn nghê ̣ Tp. HCM.

74. Hoài Thanh - Hoài Chân (1998), Thi nhân Viê ̣t Nam , in lần đầu 1941, Nxb Văn

học, tái bản lần thứ 14, HN.

75. Hoài Thanh (1965), Mô ̣t vài ý kiến về phong trào Thơ mớ i và quyển Thi nhân Viê ̣t Nam, Tạp chí Văn học, HN, số 1, tr.1-8.

76. Trần Thị Lệ Thanh (2002), Thơ Đƣờng luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, luận

án Tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng ĐHSP Hà Nội.

77. Nguyễn Bá Thành (1995), Tƣ duy thơ và tƣ duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Văn học, HN.

78. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đƣờng luật, Nxb Giáo dục, HN.

79. Lã Nhâm Thìn (2002), Bình giảng thơ Nôm Đƣờng luật, Nxb Giáo dục, HN.

165

80. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hoá, Nxb

Giáo dục, HN.

81. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hoá, Nxb

Giáo dục, HN.

82. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb

Giáo dục Việt Nam, HN.

83. Trần Nho Thìn (2012), Nhà thơ lãng mạn “đọc” văn học phƣơng Đông truyền

thống: Xuân Diệu với Mơ xƣa, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr41-50.

84. Trần Mạnh Thƣờng (2003), Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb

Hội Nhà văn, HN.

85. Phan Trọng Thƣởng (2012), Thơ Mới – Một hiện tƣợng lịch sử có tính khu vực,

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr.3-8.

86. Đỗ Lai Thuý (2012), Thơ Mới thành công và thất bại của thành công, Tạp chí

Nghiên cứu Văn học, số 6 (484), tr.34-40.

, Nxb 87. Nguyễn Quốc Tuý (1997), Thơ mớ i – Bình minh thơ Việt Nam hiện đại

Giáo dục, HN.

88. Trần Trung Viên (1998), Văn đàn bảo giám, Nxb Văn học, HN, tb.

89. Trần Ngọc Vƣơng (1997), Văn học Việt Nam nguồn riêng giữa dòng chung,

Nxb Giáo dục, HN.

90. Nguyễn Vỹ (1970), Văn thi sĩ tiền chiến, Sống Mới, SG.

91. Nguyễn Thi ̣ Thanh Xuân (2004), Phê bình Văn học Viê ̣t Nam nƣ̉ a đầu thế kỷ XX (1900 – 1945), Nxb ĐHQG TP. HCM.

92. Hoài Yên (2000), Thấy gì khi đo ̣c bài thơ “Đêm thu nghe quạ kêu” của Quách Tấn, Tạp chí Hán Nôm, HN, số 3, tr.63-69.

93. http://www.quach-tan.com nhƣ̃ng bài viết củ a Quách Tấn ở Đƣ́ c. 94. http://www.quachtan.com nhƣ̃ng bài viết về Quách Tấn ở Ú c.

166

NHỮNG BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

1. Nguyễn Công Thanh Dung (2005), “Vài ảnh hƣởng của thơ Đƣờng đối với

thơ lãng mạn Việt Nam 1932-1945”, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Khoa

học Xã hội vùng Nam Bộ, số 8 (84), (ISSN 1859-0136), tr.56-66.

2. Nguyễn Công Thanh Dung (2011), “Quách Tấn với những cách tân về

ngôn ngữ và nhịp điệu thơ”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, chuyên đề Bình luận

văn học, (ISSN 1859-3208), tr.92-100.

3. Nguyễn Công Thanh Dung (2011), “Quách Tấn với quan niệm về việc làm

thơ”, Tạp chí Nha Trang, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, số 191, tháng

8-2011, tr.70-74.

4. Nguyễn Công Thanh Dung (2011), “Những thành tựu nghiên cứu phê bình

về Quách Tấn từ trƣớc đến nay”, Tạp chí khoa học Văn hoá và Du lịch, số 2

(56), tháng 12-2011, (ISSN 1859-3720), tr.102-111.

5. Nguyễn Công Thanh Dung (2012), “Quách Tấn với việc sử dụng thể thơ và

đổi mới cấu trúc câu thơ”, Tạp chí Nha Trang, Hội Văn học Nghệ thuật

Khánh Hoà, số 200, tháng 5-2012, tr.78-81.

167