ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGUYỄN TRẦN PHONG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG TRÌNH
XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGUYỄN TRẦN PHONG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG TRÌNH
XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ NGỌC VÂN
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Luận văn nghiên cứu là của cá nhân dựa trên cơ sở lý thuyết được học tập và
qua tham khảo tình hình thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh. Các số liệu, bảng biểu, sơ đồ
và những kết quả trong luận văn là trung thực, các giải pháp đưa ra xuất phát từ
thực tiễn nghiên cứu và kinh nghiệm phù hợp với địa phương. Các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thá i Nguyên, ngày... tháng ...... năm 2015
Tác giả luận văn
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Trần Phong
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường, tôi xin trân trọng gửi lời
cảm ơn đến Ban Giám hiệu, phòng Quản lý đào đạo Sau đại học của Trường Đại
học Kinh tế & QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Ngọc Vân - người đã
tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến lãnh đạo và một số ban ngành liên quan đã
tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp cho tôi số liệu, kiến thức, kinh nghiệm thực tế về
hiệu quả dự án đầu tư công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí, đồng nghiệp, bè bạn....và gia đình đã
tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên khích lệ tôi, đồng thời có những ý kiến đóng
góp trong quá trình tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày... tháng ...... năm 2015
Tác giả luận văn
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Trần Phong
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ................................................................. vi
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... vii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
4. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của Luận văn ..................................................... 3
5. Bố cục của luận văn ............................................................................................ 3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CHO ĐẦU TƯ XÂY DỰNG ............................................ 4
1.1. Cơ sở lý luận về dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn
Ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng .............................................................. 4
1.1.1. Dự án đầu tư ............................................................................................. 4
1.1.2. Đầu tư xây dựng ....................................................................................... 7
1.1.3. Khái niệm vốn NSNN và hiệu quả dự án đầu tư xây dựng .................... 17
1.2. Cơ sở thực tiễn về sử dụng vốn đầu tư xây dựng ở một số nước và một số địa
phương trong nước ................................................................................................ 29
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước ................................................................ 29
1.2.2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước ................................... 33
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Quảng Ninh .................................. 37
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 38
2.1. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 38
2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 38
2.2.1. Phương pháp tiếp cận ............................................................................. 38
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.2.2. Chọn điểm nghiên cứu............................................................................ 38
iv
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................. 38
2.2.4. Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu ............................................... 39
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu ......................................................................... 40
Chương 3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG
TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ................................. 43
3.1. Tổng quan về tình hình Kinh tế - Xã hội tỉnh Quảng Ninh ........................... 43
3.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ........................................................... 43
3.1.2. Đặc điểm dân cư và phân bổ hành chính ................................................ 45
3.1.3. Cơ sở hạ tầng của Tỉnh ........................................................................... 45
3.1.4. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua ....................... 48
3.2. Tình hình ĐTXD từ nguồn vốn NSNN ở tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn
2010 - 2014 ........................................................................................................... 49
3.2.1. Kết quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN ...................................................... 49
3.2.2. Phân cấp quản lý dự án các công trình xây dựng sử dụng nguồn vốn
NSNN trên địa bàn Tỉnh Quảng Ninh .............................................................. 50
3.2.3. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý dự án đầu tư từ NSNN ...................... 52
3.3. Phân tích thực trạng công tác quản lý dự án đầu tư công trình xây dựng từ
nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2014 ............... 53
3.3.1. Phân tích kết quả thực hiện các dự án đầu tư ......................................... 53
3.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện các dự án đầu tư ......................................... 54
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả dự án đầu tư công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ............................ 75
3.4.1. Các yếu tố vĩ mô ..................................................................................... 75
3.4.2. Các yếu tố vi mô ..................................................................................... 76
3.5. Đánh giá chung về thực trạng đầu tư công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .............................................. 78
3.5.1. Những kết quả đạt được ......................................................................... 78
3.5.2. Những hạn chế ........................................................................................ 79
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ............................................ 86
v
Chương 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ....................... 90
4.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015 - 2020
tầm nhìn đến năm 2030 ......................................................................................... 90
4.1.1. Định hướng phát triển ............................................................................ 90
4.1.2. Các dự án đầu tư xây dựng công trình trong thời gian tới của Tỉnh ...... 91
4.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư công trình
xây dựng bằng nguồn vốn NSNN ......................................................................... 92
4.2.1. Đổi mới công tác quản lý nhằm giảm thất thoát ngân sách đầu tư XDCB ... 93
4.2.2. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và quy hoạch
đầu tư ................................................................................................................ 94
4.2.3. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá đầu tư ............................... 94
4.2.4. Hoàn thiện và nâng cao năng lực Chủ đầu tư và Ban quản lý dự án ..... 95
4.2.5. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp, quản lý trong công tác đầu tư
XDCB ............................................................................................................... 97
4.2.6. Hoàn thiện quản lý dự án trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư .................... 99
4.2.7. Hoàn thiện quản lý dự án trong giai đoạn kết thúc đầu tư ................... 104
4.3. Một số kiến nghị ......................................................................................... 110
4.3.1. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ......................... 110
4.3.2. Đổi mới quản lý giá, hạn chế tình trạng thất thoát trong khâu mua sắm,
khâu mà Kho bạc nhà nước hiện tại không có chức năng kiểm soát ............. 112
4.3.3. Đối với UBND tỉnh Quảng Ninh.......................................................... 113
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 115
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 116
vi
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐTXD : Đầu tư xây dựng
KT - XH : Kinh tế - xã hội
NSNN : Ngân sách nhà nước
QLDA : Quản lý dự án
TSCĐ : Tài sản cố định
UBND : Uỷ ban nhân dân
VĐT : Vốn đầu tư
XD : Xây dựng
XDCB : Xây dựng cơ bản
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
XDCT : Xây dựng công trình
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ nguồn NSNN tại Quảng Ninh từ
năm 2010 - 2014 ............................................................................. 50
Bảng 3.2. Kết quả các dự án đầu tư trên địa bàn do cấp Tỉnh quản lý từ năm
2010 đến năm 2014 ......................................................................... 54
Bảng 3.3. Đánh giá đáp ứng về tiến độ, chất lượng, chi phí ........................... 55
Bảng 3.4. Tổng hợp dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán năm 2013 .... 68
Bảng 3.5. Tổng hợp dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán năm 2014 ... 69
Bảng 3.6. Kết quả thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư .................... 74
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn vốn đầu tư công trình xây dựng từ ngân sách nhà nước là một nguồn
lực tài chính hết sức quan trọng của quốc gia đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn đầu tư phát triển và rất
quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế và xây dựng đất nước. Chính vì vậy
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến đầu tư công trình xây dựng và việc quản lý, sử
dụng nguồn vốn này như thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, tạo cơ sở
hạ tầng vững chắc cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng kinh tế khu vực và thế
giới. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước về phát triển đất
nước, tỉnh Quảng Ninh đã tận dụng được lợi thế so sánh tiềm năng về du lịch,
phát triển công nghiệp và sản xuất nông nghiệp tiến hành công cuộc đổi mới sâu
sắc, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và đã đạt được
những thành tựu kinh tế quan trọng, hoàn thành cơ bản mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đặt ra.
Để đạt được những thành công trên phải kể đến vai trò của công cụ trong
việc phân bổ, quản lý và sử dụng hợp lý các nguồn lực nói chung và vai trò của các
giải pháp kinh tế - tài chính nói riêng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý ngân
sách đầu tư công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, Quảng Ninh có vị trí địa lý “chiến lược về
chính trị, kinh tế”, hội tụ đầy đủ các yếu tố tự nhiên và xã hội mà cả nước có, được ví
như “nước Việt Nam thu nhỏ”, là một tỉnh miền núi thuộc khu vực Bắc của Tổ quốc,
phía tây giáp với tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ, phía tây nam giáp tỉnh
Hải Dương và Hải Phòng, phía bắc giáp tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc với cửa khẩu
Móng Cái, Hoành Mô và cửa khẩu Bắc Phong Sinh, có đường biên giới với Trung
Quốc dài 132,8 Km; là một tỉnh có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh), được xem như một phần quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế ở phía Bắc. Hướng phát triển của Quảng Ninh được Chính phủ xác định:
“Hình thành các trung tâm lớn có ý nghĩa tạo vùng và giao lưu quốc tế hỗ trợ cho các
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tỉnh Nam vùng Đồng bằng Sông Hồng, hình thành các trung tâm công nghiệp lớn, phát
2
triển các ngành công nghệ cao thuộc các lĩnh vực điện tử, tin học, sản xuất vật liệu mới,
sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, phát triển kinh tế cảng biển và đi đầu
trong hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài”.
Để phát triển kinh tế xã hội, hàng năm ngân sách Nhà nước bỏ ra một lượng
vốn đáng kể cho các dự án xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở từ Trung ương
đến địa phương. Việc quản lý dự án thuộc nguồn ngân sách nhà nước trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh thời gian qua đã có tiến bộ, nhiều dự án đầu tư đã hoàn thành và
từng bước phát huy hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện từng
bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song đến nay so với mặt bằng
chung của các tỉnh trong cả nước, những kết quả mà Quảng Ninh đạt được về kinh
tế xã hội vẫn chưa xứng với tiềm năng hiện có.
Để sử dụng nguồn vốn đầu tư vào xây dựng được đạt hiệu quả cao thì vấn đề
nâng cao hiệu quả dự án đầu tư công trình xây dựng luôn thu hút sự quan tâm của các
cấp lãnh đạo tỉnh, thành phố, huyện thị, các ngành. Bên cạnh những kết quả đạt được
vẫn còn những tồn tại trong dự án đầu tư công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh, một số
công trình chất lượng còn hạn chế, thời gian thực hiện còn bị kéo dài; chính vì vậy việc
nâng cao hiệu quả quản lý dự án đầu tư trên địa bàn là rất cần thiết.
Là một cán bộ công tác tại Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng, đã tiếp cận
với thực tế và có những kinh nghiệm nhất định về quản lý kinh tế với các dự án đầu
tư công trình xây dựng, nên tôi chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả dự án đầu tư
công trình xây dựng bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh” làm đề tài luận văn Thạc sĩ kinh tế chuyên ngành Quản lý Kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về về đầu tư xây dựng và hiệu quả sử
dụng vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng trong nền kinh tế quốc dân. Vận
dụng những cơ sở đó để phân tích thực trạng về hiệu quả dự án đầu tư xây dựng công
trình đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả dự án đầu tư các công trình
xây dựng bằng vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá những lý luận về hiệu quả quản lý dự án đầu tư
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
công trình xây dựng có sử dụng nguồn vốn NSNN.
3
- Phân tích, đánh giá thực trạng công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân
sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả dự án đầu tư công trình xây dựng bằng
vốn Ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho dự án đầu
tư công trình xây dựng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho
dự án đầu tư công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua
(giai đoạn năm 2010-2014).
4. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của Luận văn
- Luận văn là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là tài liệu
giúp tỉnh Quảng Ninh, các Ban Quản lý dự án của tỉnh và huyện, thành phố trực
thuộc tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế có cơ sở khoa học.
- Dựa trên kết quả phân tích, đánh giá thức trạng triển khai dự án đầu tư các
công trình bằng vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn đã đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các dự án đầu tư công
trình xây dựng bằng vốn NSNN trên địa bàn tỉnh trong những năm tới. Kết quả
nghiên cứu có thể được dùng làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả dự án đầu tư
công trình xây dựng bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong thời gian tới.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 4 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư xây dựng và hiệu quả sử
dụng vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý dự án đầu tư công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 4: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dự án đầu tư công trình xây
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
1.1. Cơ sở lý luận về dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn
Ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng
1.1.1. Dự án đầu tư 1.1.1.1. Khái niệm đầu tư và dự án đầu tư
a. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là một phạm trù đặc biệt đối với phạm trù kinh tế, xã hội của đất
nước. Có nhiều cách hiểu về khái niệm này, theo nghĩa rộng nhất, có thể hiểu là quá trình bỏ vốn, bao gồm cả tiền, nguồn lực và công nghệ để đạt được những mục tiêu
nhất định trong tương lai. Trong hoạt động kinh tế, đầu tư mang bản chất kinh tế, đó
là quá trình bỏ vốn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục
đích thu lợi nhuận.
Đầu tư XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, đó là việc chủ
thể kinh tế bỏ vốn để tiến hành các hoạt động XDCB nhằm tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
b. Khái niệm dự án đầu tư
Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công
việc nhằm đạt được mục tiêu hay yêu cầu nào đó trong một thời gian nhất định dựa
trên nguồn vốn xác định (Theo điều 3 - Luật đấu thầu), hay nói cách khác dự án đầu tư là một lĩnh vực hoạt động đặc thù, một nhiệm vụ cần phải được thực hiện với
phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch tiến độ nhằm tạo ra một
thể thực mới.
“Dự án đầu tư” là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp).
1.1.1.2. Vai trò của dự án đầu tư
a. Đối với nền kinh tế - xã hội Dự án là một bộ phận cấu thành trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội có
vai trò thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng đảm bảo công bằng và phát triển bền vững
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
môi trường sinh thái.
5
Dự án là cơ sở để thực hiện tốt các mục tiêu kế hoạch đặt ra thông qua các
chương trình và mối quan hệ này có tính hệ thống, logic. Việc quản lý thực hiện tốt
các dự án là cơ sở để hoàn thành tốt mục tiêu các chương trình và chỉ tiêu kế hoạch
đã xây dựng.
b. Đối với nhà nước
Dự án là cơ sở để Nhà nước thẩm định và ra quyết định đầu tư. Văn bản phê
duyệt dự án của Nhà nước là cơ sở khẳng định tính khả thi của dự án về các mặt
như: Tài chính, kinh tế - xã hội và môi trường đồng thời cũng là căn cứ cấp vốn
thực hiện dự án.
c. Đối với chủ đầu tư
+ Dự án là cơ sở để ra quyết định đầu tư, để xin cấp phép được đầu tư.
+ Dự án là cơ sở để tìm đối tác cùng thực hiện và huy động vốn đầu tư.
+ Dự án là cơ sở để giải quyết các mối quan hệ và quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các bên tham gia thực hiện dự án.
1.1.1.3. Đặc điểm của dự án đầu tư
Dự án có mục đích, kết quả xác định. Điều này thể hiện tất cả các dự án đều
phải có kết quả được xác định rõ. Kết quả này có thể là một tòa nhà, khu đô thị, một
con đường, một dây chuyền sản xuất… Mỗi dự án bao gồm một tập hợp nhiệm vụ
cần thực hiện. Mỗi nhiệm vụ lại có kết quả riêng, độc lập. Tập hợp các kết quả cụ
thể của các nhiệm vụ hình thành nên kết quả chung của dự án.
Dự án chu kỳ phát triển riêng và thời gian tồn tại hữu hạn. Dự án là một sự
sáng tạo, dự án không kéo dài mãi mãi. Khi dự án kết thúc, kết quả dự án được
chuyển giao cho bộ phận quản lý vận hành, nhóm quản lý dự án giải tán.
Dự án có sự tham gia của nhiều bên như: Chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan cung
cấp dịch vụ trong đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước. Dự án nào cũng có sự tham gia
của nhiều bên hữu quan như chủ đầu tư, người hưởng từ dự án, các nhà tư vấn. Nhà
thầu, các cơ quan quản lý Nhà nước. Tùy theo tính chất của dự án và yêu cầu của
chủ đầu tư mà sự tham gia của các thành phần trên cũng khác nhau.
Sản phẩm dự án mang tính chất đơn chiếc, độc đáo. Kết quả của dự án có
tính khác biệt cao, sản phẩm và dịch vụ do dự án đem lại duy nhất.
Môi trường hoạt động “va chạm” quan hệ giữa các dự án là quan hệ chia
nhau cùng một nguồn lực khan hiếm của tổ chức. Dự án “cạnh tranh” lẫn nhau và
với các hoạt động tổ chức sản xuất khác về tiền vốn, nhân lực, thiết bị… Trong
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quản lý, nhiều trường hợp, các thành viên ban quản lý dự án lại có “hai thủ trưởng”
6
nên không biết phải thực hiện mệnh lệnh của cấp trên trực tiếp nào nếu hai lệnh lại
mâu thuẫn nhau… do đó, môi trường quản lý dự án có nhiều quan hệ phức tạp
nhưng năng động.
Dự án có tính bất định và độ rủi ro cao, do đặc điểm mang tính dài hạn của
hoạt động đầu tư phát triển. Hầu hết các dự án đòi hỏi quy mô tiền vốn, vật tư và lao
động rất lớn để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Mặt khác, thời gian
đầu tư và vận hành kéo dài nên các dự án đều tư thường có độ rủi ro cao.
1.1.1.4. Phân loại dự án đầu tư và quản lý Nhà nước đối với dự án XDCT
Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 02 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ quy định các dự án đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số
83/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 02 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (sau đây gọi
chung là dự án) được phân loại như sau:
Theo quy mô và tính chất: Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông qua
chủ trương và cho phép đầu tư; các sự án còn lại được phân thành 3 nhóm: Nhóm
A, Nhóm B, Nhóm C.
Theo nguồn vốn đầu tư:
- Dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.
- Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà cước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước.
- Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
- Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp
nhiều nguồn vốn.
Các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước do cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền quyết định theo phân cấp, phù hợp với quy định của pháp luật về ngân
sách Nhà nước.
1.1.1.5. Quy trình hình thành và kết thúc của dự án đầu tư
Mỗi dự án đầu tư xây dựng đều có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc rõ
ràng nên dự án có một Quy trình. Quy trình của dự án bao gồm nhiều giai đoạn phát
triển từ ý tưởng đến việc triển khai nhằm đạt được kết quả và đến khi kết thúc dự
án. Thông thường, các dự án đều có quy trình bốn giai đoạn, bao gồm: Giai đoạn
hình thành dự án (Chủ trương lập dự án); giai đoạn nghiên cứu phát triển (lập dự
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
án); giai đoạn thực hiện và quản lý; giai đoạn kết thúc.
7
Tiến trình công việc chính: Xây dựng ý tưởng ban đầu, xác định quy mô và mục tiêu, đánh giá các khả năng, tính khả thi của dự án, xác định các nhân tố và cơ
sở thực hiện dự án.
Có thể thấy trong các giai đoạn trên thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề
và quyết định sự thành công hay thất bại của một dự án, dự án có phát huy tác dụng tối đa khi đưa vào khai thác sử dụng hay không chính là nhờ vào việc xác định mục
tiêu đúng đắn. Nội dung chủ yếu của giai đoạn chuẩn bị đầu tư là việc xây dựng dự
án đầu tư. Trong đó vấn đề chất lượng, tính chính xác của các kết quả nghiên cứu
tính toán và dự án là quan trọng nhất.
Đến giai đoạn thực hiện đầu tư thì vấn đề thời gian là vấn đề quan trọng hơn
vì đây là yếu tố có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến khả năng về vốn, thời
cơ cạnh tranh của sản phẩm. Giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng thì việc tổ chức quản lý và phát huy tác dụng các kết quả của dự án là
quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian tồn tại của dự án.
1.1.2. Đầu tư xây dựng 1.1.2.1. Khái niệm đầu tư xây dựng
Đầu tư xây dựng: là hoạt động bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố
định trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc...), trong lĩnh vực không sản
xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học...) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng
(cầu đường, bến cảng, sân bay…) bao gồm việc xây dựng các xí nghiệp, công trình
mới, khôi phục, cải tạo, mở rộng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí
sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn các tài sản cố định). Đầu tư xây dựng (ĐTXD) là yếu tố
quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất mở rộng, phát triển khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Nguồn vốn
đầu tư cơ bản lấy từ quỹ tích luỹ trong thu nhập quốc dân, bao gồm vốn từ ngân sách
nhà nước, vốn tự có của xí nghiệp, hợp tác xã và tổ chức kinh tế, kết hợp với vốn tín
dụng, vốn của tư nhân, vốn hợp tác và vay nước ngoài; trong đó vốn đầu tư của NSNN và vốn vay với chế độ ưu đãi của nước ngoài được tập trung chủ yếu vào những công trình lớn, chậm thu hồi vốn, nhất là những công trình kết cấu hạ tầng. Xét về mặt tổng thể thì không một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các tài sản cố định
(TSCĐ), nó bao gồm toàn bộ cơ sở kỹ thuật đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà
nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả từng thời kỳ.
Xây dựng chỉ là một khâu trong hoạt động ĐTXD. Xây dựng là các hoạt
động cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt…). Kết quả
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
của hoạt động xây dựng là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất
8
định. Như vậy, xây dựng là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch về các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất
cũng như không sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một
quốc gia.
Tóm lại, ĐTXD là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất, tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ
sở vật chất kỹ thuật cho xã hội.
1.1.2.2. Vai trò, chức năng và đặc điểm của đầu tư xây dựng
a. Vai trò của đầu tư xây dựng
Đầu tư xây dựng có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân mỗi
nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển.
ĐTXD từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp
tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng việc cung cấp các
dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng…mà các thành phần
kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư từ NSNN
được triển khai ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt nhất, đảm bảo cho nền KT -
XH phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến
tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
cầu. Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Đầu tư còn có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cho thấy, nếu muốn tốc độ phát triển
kinh tế tăng cao thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu công
nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra đầu tư còn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
ĐTXD có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, bởi vì nó tạo ra các
TSCĐ. ĐTXD là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất, đặc biệt là tạo cơ
sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ tăng nhanh
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khi có ĐTXD, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và
9
hiệu quả sản xuất. ĐTXD nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho
các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh,
thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. ĐTXD sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng
sản xuất ở các doanh nghiệp. ĐTXD sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải
thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y tế,
văn hoá và các mặt xã hội khác. ĐTXD góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm
nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các địa
phương nghèo, vùng sâu và vùng xa, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở
sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo,
hộ nghèo, khai thác các tiềm năng của vùng để vươn lên phát triển kinh tế, xoá đói
giảm nghèo. Từ đó, đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng, miền, ngành nghề, khu vực và phân
bổ hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
ĐTXD của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò hết sức quan
trọng, bởi vì vốn dành cho ĐTXD của Nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn
ĐTXD của toàn xã hội. Mặt khác ĐTXD của Nhà nước được tập trung vào những
công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời
sống KT - XH. Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng ĐTXD của Nhà nước nếu
không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả
hơn là ĐTXD từ các nguồn vốn khác.
b. Chức năng của đầu tư xây dựng
ĐTXD với mục tiêu là làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ, thực
hiện một loạt chức năng, trong đó có các chức năng quan trọng thường được chú ý là:
* Chức năng tạo năng lực mới
Chức năng này tạo ra năng lực mới của ĐTXD. Các năng lực mới do
ĐTXD tạo ra có giá trị sử dụng cá thể và thông qua đó các nhu cầu cá thể được
thoả mãn. Vì vậy chức năng năng lực tạo ra khả năng đảm bảo duy trì hoặc phát
triển sản xuất sản phẩm, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu cuối cùng hoặc khả năng
bảo vệ và cải tạo môi trường nhằm hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng xấu đến
sản xuất và tiêu dùng.
Chức năng năng lực được coi là chức năng đầu tiên của ĐTXD. Các chức
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
năng khác được suy ra hoặc hỗ trợ chức năng này.
10
* Chức năng thay thế Chức năng thay thế của ĐTXD biểu hiện khả năng thay đổi từng tổ hợp các
nhân tố sản xuất và khả năng thay thế lẫn nhau của từng nhân tố này do kết quả của
quá trình ĐTXD.
Vai trò, chức năng thay thế của ĐTXD ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, vì bản chất của nó chính là việc sử dụng vật liệu và công
nghệ mới, cao cấp hơn thay thế các vật liệu cũ và công nghệ hiện đang dùng và với
việc hướng dần nền kinh tế vào loại hình phát triển chiều sâu mà đặc trưng là thay
thế có hiệu quả các yếu tố sản xuất.
* Chức năng thu nhập và sinh lời Chức năng thu nhập và sinh lời của ĐTXD được xác định bởi khả năng tạo
ra thu nhập và sinh lời do quá trình ĐTXD mang lại. Chức năng thu nhập và sinh lời ở đây chính là sự kết hợp của chức năng năng lực và chức năng thay thế để tạo điều
kiện tăng tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc gia. Đặc trưng, kết quả
thu nhập là ở chỗ đánh giá công dụng của ĐTXD về phương diện ảnh hưởng của
nó, tạo ra mối quan hệ giá trị và thu nhập trong nền kinh tế. Do đó, chức năng thu
nhập và sinh lời của ĐTXD chính là tác động của nó trong việc tạo ra và phân phối
thu nhập quốc dân. Nói một cách chính xác hơn là tạo ra và tăng thu nhập của từng
chủ thể trong hệ thống kinh tế, mà trước hết là ảnh hưởng đến tăng thu nhập của các
tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đầu tư, làm ảnh hưởng đến việc tăng lợi
nhuận và tổng thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các tầng lớp dân cư trong
nền kinh tế.
c. Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng Đặc trưng của xây dựng, đó là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có những
đặc điểm riêng, khác với những ngành sản xuất vật chất khác. Xuất phát từ những đặc
thù riêng của ngành xây dựng, dự án đầu tư xây dựng có những đặc điểm riêng khác
với sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác:
- Dự án ĐTXD có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện, địa chất, thuỷ văn, khí hậu... Dự án ĐTXD là những TSCĐ, có chức năng tạo ra sản phẩm và dịch vụ khác cho xã hội, thường có vốn
đầu tư lớn, do nhiều người, thậm chí do nhiều cơ quan, đơn vị khác cùng tạo ra.
Dự án ĐTXD không chỉ mang ý nghĩa kinh tế kỹ thuật mà còn mang tính nghệ
thuật, phản ánh trình độ kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật của từng giai đoạn lịch sử
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhất định của một đất nước.
11
Quá trình xây dựng bị tác động bởi nhiều yếu tố tự nhiên như tình hình địa chất thuỷ văn, ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, mưa bão, động đất. Do vậy, để giảm thiểu
lãng phí, thất thoát do nguyên nhân khách quan bởi điều kiện tự nhiên, công tác điều tra
khảo sát, chuẩn bị đầu tư phải thật kỹ càng, chính xác.
Trong ĐTXD, chu kỳ sản xuất thường dài và chi phí sản xuất thường lớn. Vì vậy, chọn công trình để bỏ vốn thích hợp nhằm giảm mức tối đa thiệt hại do công trình
xây dựng dở dang là một thách thức lớn đối với các nhà thầu.
Để thực hiện một dự án ĐTXD phải trải qua nhiều giai đoạn, có rất nhiều
đơn vị tham gia thực hiện. Trên một công trường, có thể có hàng chục đơn vị làm
các công việc khác nhau, nhưng các đơn vị này cùng hoạt động trên một không gian
và thời gian, vì vậy trong tổ chức thi công cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau bằng
các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Tuy vậy, hiện nay cách thức giao nhận thầu chưa được cải tiến, giá bán được định trước khi chế tạo sản phẩm, tức là trước khi
nhà thầu biết giá thành thực tế của mình, việc ước lượng đúng đắn giá cả và phương
tiện thi công rất khó khăn vì phải dựa trên những giả thiết mà rất có thể khi thi công
thực tế bị phủ định.
Như vậy, đặc điểm này đòi hỏi cần có giải pháp tài chính để kiểm tra việc sử
dụng và quản lý vốn đầu tư ngay từ khâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, lựa
chọn địa điểm, điều tra khảo sát để dự án đầu tư đảm bảo tính khả thi.
- Dự án ĐTXD có quy mô lớn, kết cấu phức tạp.
Dự án ĐTXD với tư cách là công trình xây dựng khi đã hoàn thành đưa vào sử
dụng, đưa ra trao đổi mua bán trên thị trường là TSCĐ, không bé nhỏ như các loại sản
phẩm trong sản xuất công nghiệp. Kết cấu của sản phẩm phức tạp, một công trình có thể gồm nhiều hạng mục công trình, một hạng mục có thể bao gồm nhiều đơn vị công
trình. Với quy mô lớn và phức tạp của dự án ĐTXD dẫn đến chu kỳ sản xuất dài. Từ
đặc điểm này đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn. Muốn đáp ứng được điều đó, các quốc
gia phải phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực trong nước như: tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong các tầng lớp dân cư, đồng thời phải tìm mọi giải pháp để thu hút các nguồn lực nước ngoài như vốn ODA, FDI, NGO…
Xuất phát từ đặc điểm này, yêu cầu trong công tác quản lý kinh tế, quản lý tài
chính phải có kế hoạch, tiến độ thi công, có biện pháp kỹ thuật thi công tốt để rút ngắn
thời gian xây dựng nhằm giảm chi phí quản lý, hạ giá thành xây dựng.
- Dự án ĐTXD có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác.
12
Dự án ĐTXD sản xuất không theo dây chuyền hàng loạt, mà mỗi công trình dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên, địa điểm
nơi xây dựng công trình. Thời gian khai thác và sử dụng lâu dài, thường là 10 năm, 20
năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính chất dự án.
Quá trình ĐTXD gồm 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và giai
đoạn kết thúc đầu tư, đưa dự án vào vận hành khai thác.
Xây dựng dự án và thực hiện dự án là hai giai đoạn có thời gian dài nhưng lại
không tạo ra sản phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn giữa đầu tư và tiêu
dùng. Các nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hoá một số vốn nhằm
thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này. Muốn nâng cao hiệu quả vốn ĐTXD
cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm, nhằm đưa nhanh các dự án đầu
tư vào khai thác sử dụng.
Khi xét hiệu quả vốn ĐTXD cần quan tâm xem xét cả 3 giai đoạn của quá trình
đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện đầu tư, tức là
việc đầu tư vào xây dựng các dự án mà không chú ý thời gian khai thác dự án. Việc coi
trọng hiệu quả kinh tế do ĐTXD mang lại là hết sức cần thiết nên phải có phương án
lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự xây dựng.
- Dự án ĐTXD mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá nghệ
thuật và quốc phòng.
Đặc điểm này đòi hỏi người quản lý phải có cách nhìn toàn diện, nếu không có
thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa
các khâu công tác từ quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng cũng như quá trình
thi công.
Ngoài những đặc điểm của dự án ĐTXD nói chung thì dự án ĐTXD từ
nguồn vốn NSNN còn có đặc điểm riêng, đó là quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn
ĐTXD bị tách rời nhau.
Xuất phát từ đặc điểm này mà trong quản lý vốn ĐTXD của NSNN dễ bị thất thoát. Nếu các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không đáp ứng yêu cầu quản lý; Nhà nước không tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bằng những cơ chế chính sách
ràng buộc trách nhiệm thì thất thoát lãng phí trong ĐTXD thuộc vốn NSNN là
không thể tránh khỏi. 1.1.2.3. Các giai đoạn của quá trình đầu tư xây dựng
a. Các giai đoạn của dự án đầu tư
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Một vòng đời dự án có 04 giai đoạn ứng 04 giai đoạn quản lý dự án:
13
- Quản lý dự án ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư:
+ Lập báo cáo đầu tư, dự án đầu tư, báo cáo kinh tế kỹ thuật.
+ Đánh giá hiệu quả dự án và xác định tổng mức đầu tư.
+ Xây dựng phương án đền bù, giải phóng mặt bằng.
+ Xây dựng và biên soạn toàn bộ công việc của công tác quản lý dự án xây
dựng theo từng giai đoạn của quản lý đầu tư xây dựng công trình.
- Quản lý dự án ở giai đoạn thực hiện dự án:
+ Điều hành quản lý chung dự án.
+ Tư vấn, tuyển chọn nhà thầu thiết kế và các nhà tư vấn phụ.
+ Quản lý hợp đồng tư vấn (soạn thảo hợp đồng, phương thức thanh toán).
+ Triển khai công tác thiết kế và các thủ tục xin phê duyệt Quy hoạch.
+ Chuẩn bị cho giai đoạn thi công xây dựng.
+ Xác định dự toán, tổng dự toán công trình.
+ Thẩm định dự toán, tổng dự toán.
+ Lập hồ sơ mời thầu và hồ sơ đấu thầu.
- Quản lý dự án ở giai đoạn thi công xây dựng:
+ Quản lý và giám sát chất lượng.
+ Lập và quản lý tiến độ thi công.
+ Quản lý chi phí dự án (tổng mức đầu tư, dự toán, thanh toán vốn).
+ Quản lý các hợp đồng (soạn hợp đồng, phương thức thanh toán).
- Quản lý dự án ở giai đoạn kết thúc:
+ Nghiệm thu bàn giao công trình.
+ Lập hồ sơ quyết toán công trình.
+ Bảo hành, bảo trì và bảo hiểm công trình.
Một dự án được coi là hiệu quả khi quá trình thực hiện đầu tư phải đáp
ứng được những yêu cầu về tiến độ, chất lượng và chi phí.
- Dự án phải đáp ứng được tiến độ như kế hoạch đã đề ra
Đây là vấn đề quan trọng bậc nhất, bởi lẽ kế hoạch thực hiện đã được đề cập
đến trong dự án đầu tư và thời gian để thực hiện dự án đầu tư là một trong những
yếu tố đầu vào để phân tích hiệu quả tài chính của dự án, việc không đáp ứng được
tiến độ sẽ làm phát sinh thêm nhiều chi phí có liên quan, nhiều rủi ro có thể xảy ra
không ngoài trừ trường hợp dự án đầu tư không kết thúc, không thể thực hiện được
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
do tiến độ thi công kéo dài.
14
- Dự án phải đáp ứng được các yêu cầu về mặt chất lượng
Dự án phải đáp ứng được các yêu cầu về mặt chất lượng như đã được mô tả
trong bản vẽ thiết kế. Đây cũng là một chỉ tiêu hết sức quan trọng trong việc thực
hiện đầu tư, nếu không đảm bảo chất lượng của dự án thì không thể có được “sản phẩm dự án” có chất lượng. Có nghĩa là dự án sẽ không thể phát huy được hết hiệu
quả như đã đề cập trong dự án đầu tư; không đảm bảo chất lượng sẽ dẫn đến sự lãng
phí, thất thoát tài sản; có thể phát sinh nhiều chi phí để sửa chữa cải tạo cũng như có
thể dự án sẽ không thể đi vào vận hành và khai thác sử dụng được. Điều này dẫn đến dự án đầu tư bị phá sản, lãng phí các nguồn lực của doanh nghiệp cũng như xã hội.
- Dự án phải đáp ứng được các yêu cầu về mặt chi phí
Các chi phí vượt dự toán chi phí ban đầu xuất phát từ những nguyên nhân do
công tác khảo sát, thiết kế không kỹ, do công tác định giá không chính xác làm tăng
thêm các chi phí mà không tăng quy mô đầu tư. Có thể sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của dự án đầu tư. Khi mà lập và phân tích hiệu quả tài chính thì tất cả
các khoản chi phí đã được đề cập tới trong tổng mức đầu tư. TMĐT này là cơ sở
quan trọng để phân tích hiệu quả tài chính của dự án. Các chi phí phát sinh vượt
tổng mức đầu tư có thể sẽ làm giảm hiệu quả tài chính của dự án trong nhiều trường
hợp thì làm cho dự án đầu tư không có hiệu quả.
* Giai đoạn kết thúc đầu tư Giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai khác sử dụng, gồm những
việc như sau:
+ Nghiệm thu, bàn giao công trình.
+ Thực hiện việc kết thúc hoạt động xây dựng công trình.
+ Hướng dẫn sử dụng công trình và vận hành công trình.
+ Tạm ứng, thanh quyết toán vốn đầu tư.
+ Bảo hành công trình. + Bảo trì công trình. - Nghiệm thu, bàn giao công trình Trách nhiệm của các bên như chủ đầu tư, Nhà thầu trong việc nghiệm thu,
bàn giao, đưa công trình vào sử dụng:
Mức tiền bảo hành công trình xây dựng: - Bảo trì công trình
Để thực hiện tốt giai đoạn kết thúc đầu tư cần phải chú ý đến các nhân tố
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sau đây:
15
+ Nhân tố con người: cần có các cán bộ đủ năng lực, công tâm, làm việc
khách quan, khoa học và chính xác;
+ Phải sử dụng các trang thiết bị hiện đại để kiểm nghiệm chất lượng vật tư,
vật liệu, thiết bị, độ vững của công trình, sự đáp ứng về mặt tiêu chuẩn kỹ thuật đối
với các thiết bị.
+ Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa đơn vị thi công, giám sát, chủ đầu tư, cơ
quan cấp trên, cơ quan thanh toán để tiến hành công tác nghiệm thu bàn giao được
tiến hành đúng tiến độ đã đặt ra.
b. Phân loại dự án đầu tư:
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô và
thời hạn. Do vậy, tuỳ theo mục đích nghiên cứu và quản lý mà người ta có thể phân
loại dự án đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Các dự án đầu tư xây dựng công trình (sau đây gọi chung là dự án) được phân loại như sau:
* Theo quy mô và tính chất: Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định về chủ trương
đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B, C theo quy định tại Nghị
định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình.
* Theo nguồn vốn đầu tư: - Dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước;
- Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; - Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp
nhiều nguồn vốn.
1.1.2.4. Các hình thức tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng
Có 2 loại hình thức quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng. Căn cứ điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân, người quyết định lựa chọn một trong các hình thức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình sau:
- Chủ đầu tư xây dựng công trình thuê tổ chức Tư vấn QLDA đầu tư XDCT;
- Chủ đầu tư xây dựng công trình trực tiếp QLDA đầu tư XDCT.
a. Chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án Việc thu được sản phẩm tốt, chất lượng cao đảm bảo kỹ mỹ thuật, phát huy
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hiệu quả giá cả hợp lý chính là bài toán đối với các Chủ đầu tư. Để làm được điều
16
này thì không thể phủ nhận được vai trò công tác quản lý dự án, do đó Chủ đầu tư cần cân nhắc việc lựa chọn hình thức quản lý dự án cho phù hợp.
Chủ đầu tư trực tiếp QLDA là hình thức Chủ đầu tư sử dụng bộ máy cơ quan,
đơn vị của mình để trực tiếp tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư với 2 mô hình sau:
- Mô hình 1: Chủ đầu tư không thành lập Ban quản lý dự án mà sử dụng bộ máy hiện có của mình để trực tiếp tổ chức quản lý thực hiện dự án, mô hình này
được áp dụng với dự án quy mô nhỏ có tổng mức đầu tư dưới 7 tỷ đồng, khi bộ máy
của Chủ đầu tư kiêm nhiệm được việc quản lý thực hiện dự án.
- Mô hình 2: Chủ đầu tư thành lập Ban QLDA để giúp mình trực tiếp tổ chức
quản lý thực hiện dự án. Với hình thức này thì phải đảm bảo nguyên tắc:
+ Ban QLDA do Chủ đầu tư thành lập, là đơn vị trực thuộc Chủ đầu tư.
Quyền hạn, nhiệm vụ của Ban QLDA do Chủ đầu tư giao.
+ Ban QLDA có tư cách pháp nhân hoặc sử dụng pháp nhân của Chủ đầu tư
để tổ chức quản lý thực hiện dự án.
+ Cơ cấu tổ chức của Ban QLDA gồm có Giám đốc, các phó giám đốc, và
lực lượng chuyên môn, nghiệp vụ. Cơ cấu bộ máy phải phù hợp với nhiệm vụ được
giao và đảm bảo dự án được thực hiện đúng tiến độ, chất lượng và tiết kiệm tối đa
chi phí. Các thành viên của Ban QLDA làm việc theo chế độ chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm.
+ Ban QLDA hoạt động theo quy chế do Chủ đầu tư ban hành, chịu trách
nhiệm trước Chủ đầu tư và pháp luật theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
+ Chủ đầu tư phải cử người có trách nhiệm để chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra.
Ban QLDA thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ để đảm bảo dự án được thực hiện đúng nội dung và tiến độ đã được phê duyệt.
b. Chủ đầu tư thuê tư vấn quản lý thực hiện dự án.
QLDA là hình thức Chủ đầu tư ký hợp đồng thuê một pháp nhân khác làm tư
vấn QLDA. Trong trường hợp này Chủ đầu tư phải cử cán bộ phụ trách đồng thời phân giao nhiệm vụ cho các đơn vị thuộc bộ máy của mình thực hiện hợp đồng của Tư vấn quản lý dự án.
+ Chủ đầu tư thuê Tư vấn: Trường hợp chủ đầu tư thuê tổ chức tư vấn quản
lý điều hành dự án thì tổ chức Tư vấn đó phải thành lập một tổ chức bộ máy có đủ
điều kiện năng lực tổ chức quản lý phù hợp với quy mô, tính chất của dự án. Trách nhiệm, quyền hạn của tư vấn quản lý dự án được thực hiện theo hợp đồng thỏa
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thuận giữa hai bên. Tư vấn quản lý dự án được thuê ở tổ chức, cá nhân tham gia
17
quản lý nhưng phải được chủ đầu tư chấp thuận và phù hợp với hợp đồng đã ký của chủ đầu tư.
Với hình thức Chủ đầu tư thuê tổ chức tư vấn quản lý điều hành dự án ở tỉnh
Quảng Ninh ít được áp dụng vì hiện nay hầu hết các đơn vị tư vấn trên điạ bàn tỉnh
Quảng Ninh chưa đủ năng lực để thực hiện.
1.1.3. Khái niệm vốn NSNN và hiệu quả dự án đầu tư xây dựng
1.1.3.1. Khái niệm vốn NSNN
Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu thu
nhập trong tương lai. Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là
vốn đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư.
Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế nào muốn tiến hành
được đều phải có vốn đầu tư. Vốn đầu tư trở thành yếu tố có tầm quan trọng hàng
đầu đối với tất cả các dự án đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, vốn đầu tư (VĐT) xây dựng bao gồm: chi phí cho việc khảo sát,
quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng, chi phí xây dựng
công trình, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác theo một dự án
nhất định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước được
sử dụng cho hoạt động ĐTXD được gọi là VĐT xây dựng từ NSNN.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN được quản lý thống
nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân
cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức thu cụ thể, VĐT xây dựng từ
NSNN được hình thành từ các nguồn sau:
+ Vốn trong nước của các cấp ngân sách nhà nước (vốn của NSNN cân đối
cho đầu tư xây dựng của các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương…).
+ Nguồn vốn vay nợ nước ngoài của Chính phủ cho ĐTXD và vốn viện trợ
của nước ngoài cho Chính phủ, các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước.
Vốn NSNN phân làm hai cấp quản lý đó là vốn thuộc ngân sách Trung ương
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
và vốn thuộc ngân sách địa phương.
18
+ VĐT xây dựng của ngân sách trung ương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách trung ương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích quốc
gia. Nguồn vốn này được giao cho các bộ, ngành quản lý sử dụng.
+ VĐT xây dựng của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản
thu ngân sách địa phương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa phương đó. Nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính quyền địa
phương (tỉnh, huyện, xã) quản lý thực hiện.
Nguồn VĐT xây dựng của NSNN phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các
dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có vốn đầu tư lớn, có tác dụng chung
cho nền KT - XH mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không
muốn tham gia đầu tư. Nguồn vốn cấp phát không hoàn lại này từ NSNN có tính
chất bao cấp nên dễ bị thất thoát, lãng phí, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong nguồn vốn NSNN thì phải loại nguồn vốn không được đưa vào kế hoạch và
cấp phát theo kế hoạch của Nhà nước (vốn để lại tại đơn vị), khả năng quản lý, kiểm
soát của Nhà nước gặp khó khăn hơn. Vốn ngoài nước thường phụ thuộc vào điều
kiện nhà tài trợ đặt ra, cũng làm cho việc quản lý bị chi phối. Đối với viện trợ không
hoàn lại thường do phía nước ngoài điều hành nên giá thành cao.
VĐT của NSNN dùng để đầu tư cho các dự án đầu tư thuộc các đối tượng sau:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng KT - XH, quốc phòng - an ninh không có khả
năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng phân cấp chi NSNN cho đầu tư phát triển
như các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, đào tạo, y tế, trồng rừng phòng
hộ, rừng đầu nguồn…
+ Các dự án thuộc diện nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng khoa học, công
nghệ mới…
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự
tham gia của Nhà nước theo Quy định của pháp luật.
+ Các dự án về quy hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quy hoạch phát triển ngành; Quy hoạch phát triển vùng; Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn…
+ Các dự án được bố trí bằng vốn chi sự nghiệp trong dự toán NSNN để sửa
chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp các cơ sở vật chất hiện có, có giá trị từ 100 triệu
đồng trở lên, nhằm phục hồi hoặc tăng giá trị TSCĐ (bao gồm cả việc xây dựng mới các hạng mục công trình trong các cơ sở đã có của các cơ quan, đơn vị hành chính
sự nghiệp).
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
+ Các dự án đầu tư khác theo quyết định của Chính phủ.
19
1.1.3.2. Khái niệm về hiệu quả của dự án đầu tư
Do nguồn lực khan hiếm, có hạn nên nhu cầu đầu tư luôn luôn cao hơn khả
năng đầu tư của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi VĐT phải được sử dụng có hiệu quả
trong một thời gian nhất định với một khối lượng VĐT có hạn, nhưng lại có thể thoả
mãn tốt nhất nhu cầu đầu tư nhằm góp phần thoả mãn tối đa nhu cầu xã hội. Việc đầu
tư vào các dự án như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất là vấn đề quan trọng.
Như vậy, hiệu quả của dự án đầu tư (DAĐT) là toàn bộ mục tiêu đề ra của dự
án, được đặc trưng bằng các chỉ tiêu định tính (thể hiện ở các loại hiệu quả đạt
được) và bằng các chỉ tiêu định lượng (thể hiện quan hệ giữa chi phí đã bỏ ra của dự
án và các kết quả đạt được theo mục tiêu của dự án) [9].
Lợi ích kinh tế của DAĐT thể hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu kinh tế
của quá trình ĐTXD nhằm thoả mãn chủ yếu các nhu cầu vật chất của xã hội. Do
đó, lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi cán cân thương mại, ở mức độ lợi
nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất…
Ngoài việc thực hiện các mục tiêu kinh tế nói trên DAĐT còn thực hiện các
mục tiêu xã hội khác như mục tiêu chính trị, mục tiêu an ninh quốc phòng, văn hoá
xã hội…Theo đó, lợi ích xã hội của DAĐT còn bao gồm những sự thay đổi về điều
kiện sống, điều kiện lao động, về môi trường, về hưởng thụ văn hoá, phúc lợi công
cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng…
Dựa vào quá trình quản lý ĐTXD, ta thấy rằng từ khi có VĐT, tiến hành thực
hiện đầu tư sẽ tạo một khối lượng TSCĐ. Khi các TSCĐ này được sử dụng (giai
đoạn khai thác dự án) sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhất
định. Lợi ích của VĐT cho các dự án chỉ xuất hiện khi mà sản phẩm hàng hoá dịch
vụ được sử dụng, thoả mãn nhu cầu theo mục tiêu đã định.
Để hoạt động đầu tư có hiệu quả, cần có chiến lược đầu tư dài hạn đúng quy
hoạch (quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy hoạch KT -XH…) phù
hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, KT - XH… của đất nước. Trên cơ sở quy
hoạch được phê duyệt để xác định bước đi phù hợp với mục tiêu chiến lược, từ đó
bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án theo ngành và theo vùng, đảm bảo cân đối, hợp
lý với khả năng vốn cho phép. Chất lượng và hiệu quả của dự án phụ thuộc vào việc
xác định quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ
trung ương đến địa phương trong việc ra quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư
như việc huy động vốn đầu tư, thẩm định và ra quyết định đầu tư, phân cấp quản lý
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
và giao kế hoạch, cơ chế đấu thầu, giải ngân và quyết toán…
20
1.1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn NSNN cho ĐTXD Vốn ĐTXD của NSNN là thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước là chủ
thể có quyền chi phối và định đoạt nguồn vốn NSNN dành cho ĐTXD và là người
đề ra chủ trương đầu tư, có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế dự
toán. Song quyền sử dụng vốn ĐTXD Nhà nước lại giao cho một tổ chức làm chủ đầu tư, thành lập các Ban quản lý dự án.
Chủ đầu tư và các Ban quản lý dự án là người được Nhà nước giao trách
nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp
luật. Do vậy có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VĐT thuộc NSNN.
a. Công tác quy hoạch và kế hoạch đầu tư
Công tác quy hoạch và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư (gọi tắt là kế hoạch
hoá đầu tư) là một nội dung của công tác kế hoạch hoá, là quá trình xác định mục tiêu của hoạt động đầu tư và đề xuất những giái pháp tốt nhất để đạt mục tiêu đó với
hiệu quả cao.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT trong xây dựng thì công tác quy hoạch,
kế hoạch đầu tư phải xuất phát từ nhu cầu của phát triển kinh tế. Mục đích cuối
cùng của hoạt động ĐTXD là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ
sở kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội. Do đó, nhu cầu của nền kinh tế là xuất phát
điểm cho việc lập quy hoạch và công tác kế hoạch hoá và phải dựa vào định hướng
lâu dài của Nhà nước, phù hợp với quy định của pháp luật. Kế hoạch đầu tư phải
dựa trên khả năng huy động các nguồn lực trong và ngoài nước đảm bảo tính vững
chắc và có mục tiêu rõ rệt. Công tác quy hoạch và kế hoạch phải đảm bảo tính khoa
học, tính đồng bộ và tính liên tục. Có như vậy thì hiệu quả sử dụng VĐT trong xây dựng mới được nâng cao. Ngược lại, nếu công tác quy hoạch, công tác kế hoạch
tính khoa học không cao, không xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế, không có
mục đích rõ rệt, không có tính bền vững thì dễ gây nên lãng phí thất thoát VĐT
trong xây dựng.
Có thể khẳng định quy hoạch ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả của hoạt động ĐTXD. Thực tế ĐTXD trong những năm qua cho thấy, nếu quy hoạch yếu thì tình trạng các công trình không đưa vào sử dụng được hoặc thua lỗ
kéo dài như các nhà máy đường, các cảng cá, chợ đầu mối…Quy hoạch dàn trải sẽ
làm cho việc ĐTXD manh mún không có hiệu quả. Nhưng nếu không có quy hoạch thì hậu quả lại càng nặng nề hơn. Vì vậy, khi đã có quy hoạch cần phải công bố quy
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hoạch để người dân biết để thực hiện theo quy hoạch. Trên cơ sở quy hoạch, Nhà
21
nước cần phải đưa vào đầu tư, khuyến khích các khu vực vốn khác tham gia đầu tư để tránh tình trạng quy hoạch treo.
b. Các chính sách kinh tế
Các chính sách kinh tế là nhóm nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử
dụng VĐT. Đó là chính sách thương mại, chính sách đầu tư…Các chính sách điều
tiết kinh tế vĩ mô, vi mô như chính sách tài khoá (chủ yếu là chính sách thuế và
chính sách chi tiêu của Chính phủ), chính sách tiền tệ (công cụ chính sách lãi suất
và mức cung tiền), chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách khấu hao...
Chính sách kinh tế góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, VĐT được sử
dụng có hiệu quả cao hay thấp. Các chính sách kinh tế tác động vào lĩnh vực đầu tư
góp phần tạo ra một cơ cấu đầu tư nhất định, là cơ sở để hình thành một cơ cấu kinh
tế hợp lý hay không hợp lý cũng như tác động làm tăng hoặc giảm, thất thoát VĐT,
theo đó mà VĐT được sử dụng có hiệu quả hay không có hiệu quả
Trong quá trình khai thác sử dụng, các đối tượng đầu tư hoàn thành, các
chính sách kinh tế tác động làm cho đối tượng này phát huy tác dụng tích cực hay
tiêu cực, tức là làm cho VĐT được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp.
c. Công tác tổ chức quản lý ĐTXD
Tổ chức, quản lý ĐTXD là một lĩnh vực rộng, bao gồm nhiều nội dung nhằm
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến
lược phát triển KT - XH trong từng thời kỳ nhất định để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH - HĐH đất nước.
Sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn VĐT do Nhà nước quản lý,
chống thất thoát, lãng phí, bảo đảm dự án được xây dựng đúng quy hoạch, mỹ
quan, bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong ĐTXD, áp dụng công nghệ tiên tiến với chi phí hợp lý, tổ chức quản
lý chặt chẽ theo đúng trình tự ĐTXD đối với các dự án thuộc nguồn vốn NSNN,
vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước. Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước,
chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng, nhằm
sử dụng có hiệu quả VĐT.
Chất lượng của công tác quản lý đầu tư sẽ tạo điều kiện cho việc tiết kiệm
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tránh thất thoát, lãng phí VĐT. Chính do những thiếu sót trong công tác quản lý đầu
22
tư và xây dựng đã làm cho VĐT bị thất thoát, lãng phí. Một số đối tượng đầu tư
hoàn thành mang lại hiệu quả sử dụng không như mong muốn về lợi ích KT - XH
chính là những nguyên nhân làm cho ĐTXD kém hiệu quả.
d. Tổ chức khai thác, sử dụng các dự án đầu tư
Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành sẽ tạo ra một
khối lượng cung ứng hàng hoá dịch vụ nhất định. So sánh khối lượng hàng hoá dịch
vụ này với nhu cầu hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế sẽ xác định lợi ích kinh tế của
ĐTXD.
Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành có kết quả tốt
hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Do tác động của việc chọn mô hình chiến lược CNH, tác động của việc sử
dụng các chính sách kinh tế và tác động của các tổ chức quản lý quá trình đầu tư
xây dựng. Các nhân tố này tuỳ thuộc vào mức độ đúng đắn, phù hợp của chúng mà
có tác động ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các đối tượng của quá trình đầu tư
hoàn thành.
- Các nhân tố thuộc bản thân của quá trình tổ chức, khai thác, sử dụng các
đối tượng đầu tư hoàn thành như công tác tổ chức điều hành, công tác nghiên cứu
triển khai, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, công tác
tiếp thị, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, công tác cải tiến mẫu
mã, chất lượng sản phẩm…
Nhóm nhân tố tổ chức khai thác sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành,
với vị trí riêng có vai trò quan trọng trong sự tác động độc lập và theo mối liên hệ
tác động lẫn nhau giữa chúng có thể tác động tổng hợp đến hiệu quả sử dụng VĐT.
Tóm lại, ĐTXD từ NSNN là tiền đề để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở
hạ tầng, thu hút các nguồn VĐT như vốn nước ngoài, vốn từ các doanh nghiệp, vốn
của các tầng lớp dân cư…đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, việc nâng cao hiệu quả vốn
ĐTXD từ NSNN là một vấn đề đang được các cấp, các ngành quan tâm.
1.1.3.4. Nguyên tắc và quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn NSNN trong ĐTXD
a. Một số nguyên tắc đánh giá hiệu quả các dự án ĐTXD
Các dự án đầu tư phải được đánh giá theo các giác độ lợi ích khác nhau như
lợi ích của chủ đầu tư, lợi ích của quốc gia và xã hội, lợi ích của tổ chức tài trợ cho
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dự án, lợi ích của cư dân địa phương đặt dự án.
23
Khi đánh giá dự án đầu tư, các chủ đầu tư phải xuất phát trước hết từ lợi ích trực tiếp của họ, tuy nhiên lợi ích này phải nằm trong khuôn khổ lợi ích
chung của quốc gia và cộng đồng, mà lợi ích này thể hiện trước hết ở đường lối
chung phát triển KT - XH của đất nước cũng như ở các luật có liên quan đến đầu
tư, bảo vệ môi trường…
Khi phân tích đánh giá các dự án cần quan tâm đến một số nguyên tắc chủ
yếu sau:
* Kết hợp phân tích định tính với phân tích định lượng
Phân tích định tính dựa trên cơ sở phân tích và sử dụng các lí luận và kinh
nghiệm đã đúc kết, chưa đi sâu vào tính toán định lượng.
Ngay từ đầu chưa có các tính toán tốn kém đã có thể xác định được tính chất
và định hướng của dự án. Không phải tất cả mọi vấn đề về KT - XH đều có thể tính toán thành số lượng cụ thể được và các định lượng thường là rất tốn kém. Vì vậy
phải dựa vào phân tích định tính.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở bước phân tích định tính thì các cơ sở khoa học
của quyết định chưa toàn vẹn và chưa bảo đảm. Do vậy, phải kết hợp với phân tích
định lượng.
Phân tích định lượng dựa trên các phép tính về số lượng cụ thể hoặc các công
cụ tính toán hiện đại.
Trong nhiều trường hợp, với tổng số nguồn lực như nhau, nhờ các phương
pháp tính toán định lượng sẽ tìm ra tìm được các phương án có hiệu quả nhất. Các
kết quả tính toán định lượng có khi làm thay đổi hẳn chủ trương ban đầu của chủ
đầu tư. Ví dụ tính toán định lượng đã phát hiện ra rằng với chủ trương ban đầu là quá tốn kém, vượt quá khả năng của chủ đầu tư.
Tuy nhiên việc phân tích định lượng đòi hỏi phải có các số liệu gốc bảo đảm
chính xác để tính toán ban đầu, nếu không bảo đảm yêu cầu này thì phương pháp
tính toán dù chính xác đến mấy vẫn không có ý nghĩa, thậm chí còn có thể gây nên các tác động nguy hiểm.
* Kết hợp các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối với các chỉ tiêu hiệu
quả tính theo số tương đối
Các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối như các chỉ tiêu: Tổng lợi nhuận
hàng năm, hiện giá của hiệu số thu chi (NPV), các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối như các chỉ tiêu: Tỉ suất lợi nhuận (lợi nhuận hàng năm tính cho một
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đồng vốn đầu tư), suất thu lợi nội tại (IRR).
24
Nếu chỉ tiêu tổng lợi nhuận rất lớn, nhưng chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận tính cho trường hợp sau khi đã nộp thuế lại bé hơn ngưỡng hiệu quả cho phép, ví dụ lãi suất
trung bình của thị trường vốn, thì phương án vẫn không hiệu quả, vì không đủ lợi
nhuận để trả vốn vay, hoặc đem vốn đầu tư tài chính (cho vay) sẽ lợi hơn đầu tư cho
dự án.
Nếu chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận rất lớn nhưng tổng số lợi nhuận lại rất bé thì
hiệu quả kinh doanh kém ý nghĩa, vì chỉ tiêu tổng lợi nhuận có đủ lớn thì mới tái
sản xuất và mở rộng kinh doanh được.
Cho nên để kết hợp hai loại chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối và số
tương đối, có thể rút ra nguyên tắc tổng quát để lựa chọn phương án cuối cùng là:
phải ưu tiên chọn phương án có chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối như chỉ tiêu
tổng lợi nhuận, hiện giá của hiệu số thu chi NPV là lớn nhất, còn chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối (như chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận, suất thu lợi nội tại IRR) chỉ
cần đạt ngưỡng hiệu quả quy định (nếu các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tương đối
này cũng lớn nhất thì càng tốt). Không bao giờ được phép sử dụng một trong hai chỉ
tiêu trên một cách riêng rẽ để lựa chọn dự án đầu tư.
* Kết hợp các chỉ tiêu về lợi nhuận với các chỉ tiêu về an toàn
Các chỉ tiêu về lợi nhuận như: tổng lợi nhuận thu được hàng năm, tỉ suất lợi
nhuận, hiện giá hiệu số thu chi (NPV), suất thu lợi nội tại (IRR).
Các chỉ tiêu về an toàn như: thời hạn thu hồi vốn đầu tư, điểm hoà vốn, khả
năng trả nợ...
Khi đánh giá lựa chọn phương án để đầu tư không được sử dụng một trong
hai loại chỉ tiêu trên một cách riêng rẽ, vì chỉ có kết hợp hai chỉ tiêu lợi nhuận và an toàn mới bảo đảm được tính phát triển và bền vững của kinh doanh.
* Phải tôn trọng nguyên tắc so sánh hai bước
Ở bước thứ nhất phải xét sự đáng giá của các phương án, tức là hiệu quả của
các phương án phải bảo đảm một ngưỡng hiệu quả (định mức hiệu quả) cho phép.
Ở bước thứ hai, phải chọn lấy trong số các phương án đáng giá một phương
án có hiệu quả lớn nhất.
Như vậy, phương án được chọn không phải chỉ là phương án có hiệu quả lớn
nhất mà còn phải là phương án có hiệu quả đạt mức yêu cầu.
* Phải đảm bảo tính so sánh được của các phương án
Các điều kiện bảo đảm cho tính có thể so sánh được của các phương án là
phương pháp tính toán của các phương án phải thống nhất về các mặt: hình thành số
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
liệu gốc, phương pháp so sánh và chỉ tiêu định mức hiệu quả.
25
Khi muốn so sánh một chỉ tiêu thì chỉ có chỉ tiêu đó thay đổi, còn các chỉ tiêu
khác phải giữ nguyên và giống nhau. Cụ thể như sau:
- Khi so sánh về mặt giá trị (chi phí) thì mặt giá trị sử dụng (chất lượng sản
phẩm, công suất, tuổi thọ, độ bền chắc...) của các phương án phải giống nhau. Nếu
ở đây giá trị sử dụng của các phương án khác nhau thì phải đưa các phương án về
cùng một mặt bằng giá trị sử dụng nhờ một phương pháp nhất định (trong đó có
phương pháp giá trị - giá trị sử dụng).
- Khi tuổi thọ của các phương án khác nhau thì phải quy về bằng nhau bằng
các cách như: lấy thời gian tính toán so sánh bằng bội số chung bé nhất của tuổi thọ
của các phương án, hoặc lấy bằng thời kỳ kế hoạch, hoặc theo luật đầu tư quy định,
hoặc điều chỉnh thông qua giá trị thu hồi khi đào thải tài sản, hoặc lấy bằng thời
gian tồn tại của mỏ nguyên liệu, hoặc tính san đều hàng năm.
- Khi vốn đầu tư của các phương án khác nhau thì phải quy về điều kiện có
thể so sánh được bằng cách so sánh theo hiệu quả của gia số đầu tư, hoặc có phương
án phụ thêm.
b. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong ĐTXD
Nói chung khi đánh giá các DAĐT, Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích tổng
thể của quốc gia và xã hội, từ đường lối chung phát triển đất nước và phải xem xét
toàn diện các mặt kỹ thuật, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo vệ an ninh quốc
phòng cũng như bảo vệ môi trường.
Đối với các DAĐT từ nguồn vốn NSNN, sự đánh giá dự án phải toàn diện và
sâu sắc hơn, sự phân tích dự án chủ yếu đứng trên quan điểm vĩ mô và phải coi
trọng phân tích KT - XH của dự án.
Để nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
ĐTXD từ NSNN cần phải quán triệt các quan điểm sau:
* Kết hợp chặt chẽ lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội khi xem xét đánh giá hiệu
quả sử dụng VĐT
Kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội sẽ dẫn đến sự kết hợp giữa hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội. Do đó lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi khối
lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm, sự thay đổi cán cân thương mại ở mức lợi
nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất...
Lợi ích xã hội của ĐTXD là thực hiện các mục tiêu kinh tế nói trên, ngoài ra
còn thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu xã hội khác như mục tiêu chính trị, mục
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tiêu an ninh quốc phòng, mục tiêu văn hoá xã hội, môi trường...
26
Việc phân biệt hai lợi ích này mang tính cân đối và chúng gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, phân biệt 2 lợi ích này trong nhiều trường hợp khá dễ dàng,
nhưng trong nhiều trường hợp trở nên khó khăn. Mặt khác, lợi ích kinh tế và lợi ích
xã hội trong nhiều trường hợp có sự tương thích, bổ sung cho nhau, nhưng ở những
trường hợp khác lại xung đột với nhau. Khi xem xét hiệu quả sử dụng VĐT cho các dự án cần phải đánh giá một cách kỹ lưỡng, toàn diện để quyết định ưu tiên lợi ích
kinh tế hay lợi ích xã hội. Trong rất nhiều trường hợp có sự xung đột xảy ra giữa 2
loại lợi ích như vậy, về nguyên tắc lợi ích xã hội sẽ được ưu tiên hơn.
* Kết hợp chặt chẽ 3 mặt lợi ích để xem xét hiệu quả sử dụng VĐT cho các
dự án ĐTXD
Hệ thống kinh tế được xem là hệ thống có tầng bậc. Theo các quan điểm
khác nhau được chia thành 8 tầng, 5 tầng hoặc 3 tầng. Nếu nền kinh tế được chia thành 3 tầng theo quan điểm chính thống của nước ta hiện nay thì tầng cao nhất là
“toàn bộ nền kinh tế quốc dân”. Tầng này ngoài việc coi trọng nhất mục tiêu của
mình còn phải quan tâm đến mục tiêu của 2 tầng còn lại. Mục tiêu của tầng kinh tế
“tập thể” cũng vậy trong khi coi trọng nhất mục tiêu của tầng mình còn phải quan
tâm đến mục tiêu của “toàn bộ nền kinh tế quốc dân” và mục tiêu của tầng kinh tế
“cá nhân hộ gia đình”. Tương tự tầng kinh tế “cá nhân hộ gia đình” cũng phải quan
tâm mục tiêu của 3 tầng, tuy nhiên mục tiêu của nó được coi trọng nhất.
Với vai trò con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của hệ thống quản lý,
mục tiêu cá nhân người lao động được coi là lao động trực tiếp, mạnh mẽ nhất kích
thích hoạt động kinh tế đặt hiệu quả cao. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta nhấn mạnh kết
hợp chặt chẽ 3 lợi ích: Lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động trực tiếp.
* Hiệu quả sử dụng VĐT cần được xem xét toàn diện trong suốt cả quá trình
đầu tư hoàn chỉnh
Quá trình đầu tư hoàn chỉnh một dự án đầu tư gồm 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện DAĐT, giai đoạn đưa dự án vào khai thác sử dụng. Mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất khác nhau nên có vai trò tác dụng khác nhau đối với hiệu quả sử dụng VĐT.
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án đầu tư là những giai đoạn chí
phí về VĐT rất lớn, nhưng chưa tạo ra sản phẩm, chưa thu lợi ích từ các dự án. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT của 2 giai đoạn này cần tập trung
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vào việc nâng cao chất lượng của các sản phẩm khảo sát, thiết kế, lập dự toán...,
27
nâng cao chất lượng sản phẩm ĐTXD, đảm bảo thời gian thi công, giảm thiểu những thất thoát lãng phí trong ĐTXD.
Trong giai đoạn đưa dự án vào khai thác sử dụng tức là mục tiêu cuối cùng
của dự án được thực hiện, các lợi ích KT - XH từ dự án được thu nhận những chi
phí chủ yếu là chi phí vận hành. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong giai đoạn
này cần phải tập trung vào việc thực hiện tốt tổ chức quản lý sản xuất, quản lý kỹ
thuật công nghệ, quản lý lao động, quản lý tài chính, quản lý tiêu thụ sản phẩm, hiệu
suất máy móc thiết bị, năng suất lao động được nâng cao, vốn sản xuất được tiết
kiệm, sản phẩm tiêu thụ nhanh, giá cả hợp lý. Đó là những yếu tố làm tăng hiệu quả
sản xuất trong giai đoạn khai thác dự án, góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng VĐT
cho các dự án ĐTXD. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả VĐT cần phải được xem xét
toàn diện ở cả ba giai đoạn của quá trình đầu tư hoàn chỉnh.
* Coi trọng yếu tố con người khi xem xét đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư trong các dự án đầu tư xây dựng
Nhận thức đúng vị trí con người có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng VĐT.
Xét về con người, vừa là chủ thể, vừa là khách thể, nhưng lại là khách thể có
nhận thức (khác với các khách thể khác như: nhà xưởng, mày móc...) nên phản ứng
của con người sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực lớn không lường trước được.
Điều này đòi hỏi các chính sách, nhất là chính sách về kinh tế phải quan tâm đúng
mức đến con người lao động, đồng thời cũng có những chế tài xử phạt nghiêm minh
đối với những hành vi vi phạm pháp luật của con người.
Xét về hệ thống sản xuất, con người vừa là mục tiêu vừa là phương tiện của
hệ thống này. Mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện chỉ ra rằng việc nâng cao
hiệu quả, phát triển sản xuất là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đến
lượt nó, chất lượng cuộc sống được nâng cao sẽ trở thành yếu tố sản xuất quyết định
hiệu quả và sự phát triển sản xuất.
Việc chú trọng yếu tố con người thể hiện ở việc chú ý đầu tư cải thiện mức
sống của nhân dân như đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà ở, môi trường sống và làm việc,
chăm sóc y tế, đầu tư cho các chương trình xoá đói, giảm nghèo... Đặc biệt, trong
giai đoạn nền kinh tế vật chất chuyển sang kinh tế tri thức các lợi thế như lao động
nhiều, tiền công rẻ chỉ là tạm thời và mất đi rất nhanh. Cho nên đầu tư cho con
người là đầu tư cho trí tuệ thông qua đầu tư cho giáo dục và đào tạo để nâng cao
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
28
* Kết hợp nội lực và ngoại lực khi xem xét hiệu quả sử dụng VĐT Trong bối cảnh hiện nay khi xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
phát triển mạnh mẽ thì kết hợp giữa nội lực và ngoại lực nhằm kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại có ý nghĩa hết sức quan trọng để sử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực phát triển kinh tế nhanh và bền vững; sự kết hợp đó được thể hiện ở chỗ: huy động triệt để các nguồn lực trong nước, tranh thủ huy động tối đa các nguồn lực
ngoài nước.
Để thực hiện quan điểm nói trên, trước hết phải tạo lập môi trường đầu tư
phù hợp đủ sức hấp dẫn, khuyến khích, mạnh dạn đầu tư trong và ngoài nước.
Chú trọng đầu tư cho một nền kinh tế phát triển hướng ngoại, theo đó hướng
vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ, đầu tư đúng mức vào giáo
dục và đào tạo... Đó là điều kiện để một mặt, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá dịch vụ, xuất khẩu vốn và xuất khẩu lao động; mặt khác, có thể tiếp cận tốt nhất về công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ nước ngoài. Thực hiện tốt sự kết hợp nói
trên cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế là yếu tố rất quan trọng để đánh giá hiệu quả sử
dụng VĐT.
1.1.3.5. Một số đặc trưng cơ bản các dự án sử dụng nguồn vốn NSNN
Ngân sách nhà nước (NSNN) là một phạm trù kinh tế, lịch sử gắn liền với sự
hình thành và phát triển của Nhà nước và của hàng hóa, tiền tệ. Nhà nước với tư
cách là cơ quan quyền lực thực hiện duy trì và phát triển xã hội thường quy định các
khoản thu mang tính bắt buộc các đối tượng trong xã hội phải đóng góp để đảm bảo
chi tiêu cho bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát, giáo dục và chi phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam, NSNN được qui định trong Luật NSNN như sau: "NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm
vụ của Nhà nước".
* Dự án đầu tư sử dụng NSNN có có đặc điểm sau: Một là, qui mô vốn đầu tư lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi NSNN. Hai là, có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư xây dựng. Ba là, chi ngân sách cho đầu tư XDCB được thực hiện qua nhiều cấp
ngân sách.
Bốn là, nguồn vốn đầu tư mà các chủ đầu tư sử dụng phải được tạm ứng,
nghiệm thu và thanh toán theo qui định của Nhà nước.
Như vậy, các chủ đầu tư là người chủ cạnh tranh, nhưng không phải là người
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chủ thực sự của đồng vốn nên dễ dấn đến việc thiếu trách nhiệm quản lý, sử dụng
29
tiết kiệm trong chi tiêu, thậm chí có tình trạng tìm mọi kẽ hở trong chính sách quản
lý để tiêu cực, tham nhũng, bòn rút VĐT của Nhà nước. Nếu các chủ đầu tư, các
Ban quản lý dự án không nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ không đáp ứng được yêu cầu quản lý; Nhà nước không có những cơ chế
chính sách chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm trong quản lý, không tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra thì thất thoát, lãng phí trong ĐTXD bằng nguồn vốn NSNN
là không thể tránh khỏi.
1.2. Cơ sở thực tiễn về sử dụng vốn đầu tư xây dựng ở một số nước và một số
địa phương trong nước
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước
Ở các nước phát triển và đang phát triển, dành vốn ĐTXD vào phát triển cơ
sở hạ tầng, các cơ sở kinh tế lớn mà tư nhân không thể đầu tư được và dùng chính
sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua con đường tín dụng Nhà
nước để đầu tư vào các cơ sở sản xuất, chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, các tập
đoàn kinh doanh. Gần chúng ta nhất là các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore,
Thái Lan... là những nước dùng rất lớn nguồn vốn ngân sách vào ĐTXD và đạt
được những kết quả đáng học tập.
1.2.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc đã dành một lượng VĐT thích đáng từ NSNN để đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng KT - XH, cho ra đời nhiều đặc khu kinh tế tài chính lớn, tạo tiền
đề vật chất thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Từ những năm 1970, nền
kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, từ đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng sang lĩnh vực đào tạo lực lượng lao động, hiện đại hoá ngành vận chuyển
quốc tế, nâng cấp hệ thống viễn thông. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã
đầu tư trọng điểm cho đường sắt cao tốc. Trong hai năm tới, tổng quy mô đầu tư
xây dựng đường sắt của Trung Quốc dự tính đạt 1.000 tỷ NDT.
Đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải, Bắc Kinh - Quảng Đông, Cáp
Nhĩ Tân - Đại Liên, dọc các thành phố ven biển Đông Nam … những dự án này
hoặc đang được đẩy nhanh việc xây dựng hoặc đã bước vào giai đoạn thực thi.
Các tuyến khách vận cao tốc có thể giảm mạnh thời gian đi lại của người dân, hệ
thống đường có năng lực vận chuyển cao sẽ giúp hàng hóa lưu thông dễ dàng
hơn trên toàn Trung Quốc. Sau khi được xây dựng những đường cao tốc này sẽ
giải quyết được mâu thuẫn về năng lực vận chuyển và nhu cầu vận chuyển trên
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
các tuyến chính, đẩy nhanh việc hình thành hệ thống vận tải đường sắt hiện đại
30
hóa với năng lực vận chuyển lớn, trang thiết bị tiên tiến, chức năng hoàn thiện và
thuận tiện hiệu quả.
Tháng 1/2005, “quy hoạch mạng đường bộ cao tốc quốc gia” Trung Quốc đã
đề xuất, Trung Quốc sẽ mất 30 năm để hình thành mạng đường bộ cao tốc quốc gia với 85 ngàn km đường. Theo lộ trình kế hoạch của Bộ giao thông vận tải Trung
Quốc, đến cuối năm 2008, độ dài thông xe mạng đường bộ cao tốc quốc gia có thể
đạt 49 nghìn km, đang xây dựng 14 nghìn km và còn 23 nghìn km chưa khởi công.
Trong số đó, có một bộ phận đáng kể thuộc đoạn đường giao giữa địa phận các tỉnh, có khoảng 6.000 km thuộc dạng “dự án treo”, những dự án này đều đang chuẩn bị
các điều kiện để khởi công xây dựng vào năm 2009 và 2010.
Bộ giao thông vận tải Trung Quốc nêu rõ, bằng việc xây dựng trong 3-5 năm
sẽ nỗ lực xây dựng về cơ bản mạng lưới đường bộ cao tốc quốc gia.
Ngoài ra, vào cuối “kế hoạch 5 năm thứ 11”, tổng số các sân bay dân dụng của Trung Quốc sẽ đạt khoảng 190 sân bay, tăng mới khoảng 45 sân bay. Đến 2010,
các thành phố cấp tỉnh, thành phố mở cửa chủ yếu, khu du lịch quan trọng, vùng
giao thông không thuận lợi trên toàn Trung Quốc sẽ đều có sân bay nối liền. Sẽ có
75% đơn vị hành chính cấp huyện của Trung Quốc có thể hưởng những dịch vụ
hàng không trong phạm vi bán kính 100 km hoặc 1,5 giờ xe chạy.
Cuối năm 2008, Trung Quốc đã có kế hoạch đầu tư cơ sơ hạ tầng lên tới 600
tỷ USD có mục tiêu lớn cho quá trình đô thị hoá chưa từng có trong lịch sử. Nguyên
nhân hợp lý cho kế hoạch chi tiêu hoành tráng này là đáp ứng nhu cầu tài chính cho
quá trình đô thị hóa lớn chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Thay đổi này sẽ đưa
Trung Quốc từ một nước bao thế kỷ nay với số dân chủ yếu sống ở vùng nông thôn
sang một thái cực trái ngược. 30 năm trước đây, khi Trung Quốc bắt đầu hiện đại
hóa nền kinh tế, khoảng hơn 80% người sống tại nông thôn, và chỉ 6 năm trước, con
số này là 60% và nay là 50%. 1.2.1.2. Singapore
Singapore là một nước đầu tư nguồn vốn NSNN lớn cho ĐTXD, cơ sở hạ
tầng và rất quan tâm đến hiệu quả, chất lượng các công trình xây dựng.
Ở Singapore, trên các tấm biển lớn của công trường xây dựng, người ta đã
sử dụng nhóm từ "phát triển chất lượng" thay cho nhóm từ "phát triển bất động
sản". Trong toàn bộ khâu quản lý dự án, cùng với việc quản lý chi phí, thêm hai
phần việc là quản lý giá trị và quản lý thiết bị, tiện nghi. Điều này thể hiện một
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cách tiếp cận hệ thống, một quan điểm kinh tế tổng hợp, toàn diện đối với một
31
công trình từ khi bắt đầu xây dựng, xây dựng xong, bước vào vận hành cho tới
tuổi thọ quy ước của nó.
Về xây dựng, trên phương diện quy hoạch, cả nước - thành phố Singapore
bao gồm rất nhiều nhà chọc trời, nhiều công trình đồ sộ, nhưng nhìn chung không ai
có cảm giác nặng nề bởi những khối bê tông sừng sững như một số thành phố khác,
chẳng hạn Băngkok, Hồng Kông.
Singapore có được cảnh quan đô thị văn minh, hiện đại và “thân thiện môi
trường” như ngày nay, trước hết là nhờ vào quy hoạch tổng thể 1/5.000 có từ rất
sớm - năm 1971 - và được thực hiện cho đến nay. Gọi là quy hoạch tổng thể, nhưng
thực tế đã được chi tiết hóa tại từng dự án thông qua thiết kế đô thị bằng mô hình
(mô tả về kiến trúc, tầng cao, màu sắc công trình, đường sá, đường vành đai, đường
sắt, công trình an sinh xã hội…). Ngày nay, Singapore là một trong những nước có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại nhất thế giới.
Cá biệt mới có dự án được điều chỉnh quy hoạch theo yêu cầu của nhà đầu tư
nhưng với điều kiện phải bảo đảm kết nối hạ tầng theo quy hoạch chung và được cơ
quan chuyên môn thuộc Chính phủ xét duyệt chặt chẽ. Quy hoạch tổng thể
Singapore có phân ra từng khu nhà cao tầng (trên 10 tầng), cao trung bình (3 - 10
tầng) và thấp tầng (1 - 2 tầng) và có tính đến bảo tồn kiến trúc cổ cũng như bản sắc
văn hóa của 4 tộc người (bản địa, Hoa, Malaysia và Ấn Độ). Bản quy hoạch tổng
thể cũng thể hiện việc kết nối hạ tầng (nước sạch, thoát nước, xử lý nước thải, điện,
điện thoại…) do nhà nước đầu tư.
Vấn đề cơ bản là các kiến trúc sư quy hoạch tổng thể đã có những biện pháp
xử lý hài hoà về không gian theo cả chiều đứng lẫn chiều ngang, để chỉ đạo và kiểm
soát kiến trúc ngay từ đầu, thực hiện được điều mà giới kiến trúc hiện đại gọi là Sự
hài hoà không gian thống nhất.
Đồng thời, ý thức hành động bảo vệ, tôn tạo cảnh quan được chú trọng một
cách triệt để, điều này hầu như đã thấm vào máu thịt của tất cả mọi thành viên xã
hội. Các trụ cầu vượt trong thành phố đều được trồng loại cây leo phủ kín bám chặt
vào mặt bê tông, tạo một cảm giác mượt mà, thoải mái, tươi mát tự nhiên. Nhiều
giải pháp thiết kế kiến trúc đã, đang được áp dụng linh hoạt, thông minh, sáng tạo
trong từng công trình riêng lẻ, trong một quần thể công trình và trong cả một khu
vực, dưới bối cảnh ràng buộc số một của Singapore là sự hạn chế gắt gao về diện
tích đất đai. Không kể đến những dự án cần lấn biển để có thêm mặt bằng xây dựng,
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phải mua đất và cát từ Inđônêxia chở về, một số công trình mới, có nhiều tầng hầm,
32
đã tận dụng đất cát đào lên để đắp thành những gò, đồi có độ cao khác nhau, tạo nên
sự thay đổi về địa hình, địa mạo tự nhiên, tránh đơn điệu trong bố cục tổng thể.
Ngành xây dựng Singapore hiện nay chỉ chiếm 5% tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) so với 25% năm 1996. Riêng trong lĩnh vực xây dựng nhà ở, điều đáng chú ý
là 86% số dân Singapore hiện đang sống trong những khu nhà do Nhà nước xây
dựng và quản lý, nên thị trường xây dựng tư nhân rất nhỏ bé, chỉ đảm bảo xây dựng
nhà ở cho tầng lớp trên trong xã hội và cho các nhà đầu tư mua để người nước ngoài
thuê lại.
Toàn bộ các công trình xây dựng tại Singapore, từ nhà ở, văn phòng, cơ
quan, siêu thị đến khách sạn, nhà máy, đường sá, cầu cống... đều được xây dựng và
hoàn thiện với chất lượng tuyệt hảo. Người thi công không chấp nhận cho phép có
bất cứ một sai sót nào - dù nhỏ - để tránh nguy cơ tự đào thải trong bối cảnh cạnh
tranh ác liệt của thị trường. Cả hai phía, người làm ra công trình để bán, người mua
công trình xây dựng, bất kể quy mô và công năng gì, là đã đòi hỏi nội dung chất
lượng phải ở mức độ không thể chê trách. Vì vậy, trên các tấm biển lớn của công
trường xây dựng, người ta đã sử dụng nhóm từ "phát triển chất lượng" thay cho
nhóm từ "phát triển bất động sản". Và lẽ cố nhiên, để có chất lượng các công trình
xây dựng, phải có cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ từ quy hoạch, thiết kế, vật liệu,
vật tư xây dựng đến kỹ thuật thi công, và bảo quản, duy tu các công trình xây dựng.
Tập quán xưa nay là chỉ tính đến chi phí xây dựng ban đầu, coi như thế là
xong đối với một công trình, không cần quan tâm đến những khoản khác, hoặc chỉ
quan tâm một cách hình thức. Cũng vì vậy mà tốc độ xuống cấp, cả hữu hình và vô
hình của một công trình xây dựng diễn ra rất nhanh, đưa đến những tổn thất chung
và riêng cực kỳ lớn. Một nền kinh tế đang phát triển, một đất nước còn nghèo như
Việt Nam càng phải nhận thức sâu sắc và thực hành sớm sủa cách quản lý này, ở cả
cấp độ vĩ mô và vi mô, để có thể phát huy hiệu quả thực sự của đồng vốn đang còn
ít ỏi hiện nay.
1.2.1.3. Nhật Bản
Nền kinh tế Nhật Bản phát triển từ những năm 1960-1961. Để thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, Chính phủ đã tập trung VĐT từ NSNN để đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng. Thời kỳ 1967 - 1971, Chính phủ Nhật Bản đầu tư cho cơ sở hạ tầng gần
gấp 2 lần so với giai đoạn 1964 - 1965 đặc biệt dành cho các đô thị lớn. Nhật Bản
dùng vốn NSNN để tập trung đầu tư cho hệ thống giao thông vận tải, giao thông đô
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thị, hệ thống thông tin, nhà ở đô thị, hệ thống cấp nước, thoát nước, trường học,
33
bệnh viện. Đến nay hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng của Nhật Bản đã được đầu tư
hoàn chỉnh, đồng bộ.
1.2.2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước
Ở Việt Nam, có một số tỉnh, thành phố đã rất chú trọng đến công tác đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Với mục tiêu
đó, nguồn vốn NSNN đã được đầu tư một cách có hiệu quả về đường lối, chính sách
và thực tiễn.
1.2.2.1. Tỉnh Bình Dương
Tỉnh Bình Dương được tái tập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 có diện tích là 2.695,5 km2. Với lợi thế về điều kiện địa lý tự
nhiên thuận lợi, gần thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế - văn hóa của cả
nước; đất đai bằng phẳng, nền đất thuận lợi trong ĐTXD với suất đầu tư thấp; có
các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13, quốc lộ
14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á…, cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và
các cảng biển từ 10 - 15 km... Tất cả đã tạo điều kiện cho Bình Dương kết hợp
nhuần nhuyễn những nhân tố ''thiên thời - địa lợi - nhân hòa'' để vượt khó đi lên, trở
thành một trong những tỉnh, thành phố có tốc độ phát triển nhanh và toàn diện nhất.
Tổng sản phẩm của tỉnh tăng bình quân 15,5%/năm. Ước cuối năm 2005, cơ
cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp của tỉnh có tỷ trọng tương ứng: 63,8% -
28,2% - 8% .
Những thành tựu của Bình Dương trong thời gian qua chính là sự nhạy bén
tận dụng thời cơ, tiếp thu nhanh và vận dụng nghiêm túc, sáng tạo các chủ trương,
đường lối đổi mới và cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước vào hoàn cảnh và
thực tiễn của địa phương, kịp thời đề ra các quyết sách đáp ứng yêu cầu và phù hợp
với điều kiện phát triển trong từng thời kỳ, đặc biệt là quyết sách “trải chiếu hoa”
mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến Bình Dương để sản xuất, kinh
doanh, tạo động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Tỉnh đặc biệt coi trọng việc tạo
môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn và tin cậy cho doanh nghiệp. Lãnh đạo tỉnh,
các ngành, các cấp đều coi trọng và đặt doanh nghiệp vào vị trí quan trọng của sự
phát triển. Những việc làm của Bình Dương trong thời gian qua đã tạo niềm tin cho
các chủ đầu tư và các doanh nghiệp.
Hiện nay, toàn tỉnh có trên 3.200 doanh nghiệp vốn đầu tư trong nước với
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tổng vốn đầu tư gần 15 ngàn tỷ đồng và trên l.000 doanh nghiệp của 37 quốc gia và
34
vùng lãnh thổ trên thế giới đầu tư hoạt động với tổng vốn đầu tư trên 4 tỷ 700 triệu
đô đa Mỹ, bổ sung nguồn vốn và góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển các
mặt kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tỉnh Bình Dương đã tiến hành quy hoạch 25 khu công nghiệp - cụm công
nghiệp, toàn tỉnh có 16 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích là 3.275
ha, trong đó có 7 khu công nghiệp tập trung ở các huyện phía Nam tỉnh, hình thành
và hoạt động trong giai đoạn 1995 - 2000, đạt tỷ lệ lấp kín diện tích trên 95%.
Ngoài ra, tỉnh đang triển khai xây dựng Khu Liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô
thị với quy mô diện tích gần 4.200 ha, trong đó bao gồm các khu trung tâm dịch vụ
và nhà ở đa dạng, cao cấp thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau và 6 khu công
nghiệp với hạ tầng cơ sở hiện đại tầm cỡ quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó giao
thông nội thị hoàn thành 104 tuyến đường bêtông nhựa và bêtông xi măng với tổng
chiều dài 35,35 km...
Như vậy, chưa đến 15 năm hình thành và phát triển, nhưng tỉnh Bình Dương
đã gặt hái được những kết quả đáng kể trong việc phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp.
1.2.2.2. Tỉnh Hải Dương
Hải Dương là một tỉnh đầu tư cho cơ sở hạ tầng khá lớn. Trong những năm
gần đây, để thu hút vốn đầu tư của những nhà đầu tư trong và ngoài nước, Hải
Dương tiếp tục phát huy mọi nguồn lực tài chính để đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, đặc biệt là giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, hạ tầng cơ sở các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp gắn liền hạ tầng đô thị và các khu chung cư... nhằm
tạo động lực và môi trường phát triển kinh tế, thu hút đầu tư.
Tỉnh Hải Dương rất coi trọng công tác hỗ trợ cho các nhà đầu tư, đặc biệt là
trong việc giải phóng mặt bằng các khu công nghiệp. Hiện nay tỉnh Hải Dương
đang được các nhà đầu tư đánh giá là một trong số ít các địa phương trong cả nước
có tốc độ giải phóng mặt bằng nhanh nhất, hiệu quả nhất. Khi giải phóng mặt bằng,
tỉnh đã quan tâm nhiều đến việc giải quyết đúng chính sách và tái định cư cho người
dân. Tỉnh có một quỹ đất nhất định giao cho các nhà đầu tư, vì vậy việc giải phóng
mặt bằng sẽ nhanh và rất thuận lợi.
Tỉnh Hải Dương tiếp tục khẳng định nhất quán chính sách thu hút đầu tư, và
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cho rằng “thành công của các doanh nghiệp chính là thành công của địa phương”,
35
tỉnh Hải Dương cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai, tổ
chức thực hiện dự án có hiệu quả.
Song song với việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư vào các khu
công nghiệp, tỉnh tiếp tục ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các cụm công
nghiệp đã được phê duyệt. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của tỉnh về ưu
đãi nhằm thu hút các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Ưu tiên các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ, có giá trị gia
tăng cao, các dự án có quy mô lớn, trình độ công nghệ hiện đại, các dự án sản
xuất hàng xuất khẩu.
Tỉnh Hải Dương cũng đã tích cực hoàn thiện những chính sách, như ưu đãi
hỗ trợ bồi thường giải phóng mặt bằng và thu hồi đất cho các dự án. Đồng thời đẩy
mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá cho nhà đầu
tư, chú trọng chất lượng đào tạo nhân lực để cung cấp nguồn nhân lực cho các dự án
đầu tư...
1.2.2.3. Thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là địa phương được các phương tiện thông tin đại chúng nói nhiều
về thành tích cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt là quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐTXD. Qua tiếp cận triển
khai cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, có thể thấy
những nét nổi trội cụ thể sau:
- Trên cơ sở nội dung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý
ĐTXD của nhà nước ban hành, Uỷ ban nhân dân (UBND) thành phố Đà Nẵng đã cụ
thể hoá áp dụng vào các công trình theo thẩm quyền được phân công, phân cấp.
Điểm nổi trội của UBND thành phố Đà Nẵng là đã hướng dẫn chi tiết về trình tự
các bước triển khai đầu tư và xây dựng: từ xin chủ trương đầu tư; chọn địa điểm đầu
tư; lập và phê duyệt quy hoạch tổng thể mặt bằng; lập dự án đầu tư; thanh toán chi
phí lập dự án; thẩm định phê duyệt dự án; lập thiết kế dự toán; bố trí và đăng ký vốn
đầu tư; bồi thường và giải phóng mặt bằng; tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu; tổ
chức thi công; quản lý chất lượng trong thi công; cấp phát VĐT; nghiệm thu đưa
công trình vào sử dụng; đến thanh quyết toán và bảo hành công trình. Gắn với các
bước theo trình tự trên là thủ tục, hồ sơ cần có trách nhiệm, quyền hạn quản lý, thụ
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lý của các chủ thể trong hệ thống quản lý, vận hành ĐTXD. Việc cụ thể hoá quy
36
trình quản lý và giải quyết công việc của nhà nước đã tạo một bước đột phá của Đà
Nẵng trong khâu cải cách hành chính và nâng cao năng lực của bộ máy Nhà nước.
- Bồi thường, giải phóng mặt bằng là khâu phức tạp nhất trong quá trình thực hiện dự án đầu tư và xây dựng. Trong thực tế rất nhiều dự án, công trình của Trung
ương cũng như các địa phương chậm tiến độ, gây lãng phí và một phần thất thoát
vốn do ách tắc ở khâu này. Đà Nẵng là điểm sáng trong cả nước đối với công tác
bồi thường, giải phóng mặt bằng trong thời gian qua, thành công của địa phương
này xuất phát từ các yếu tố:
Thứ nhất, UBND thành phố đã ban hành được các Quy định về bồi thường
thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất. Quy định nêu rõ cụ thể, chi tiết về đối tượng,
phạm vi, nguyên tắc, phương pháp, phân loại tài sản và đơn giá bồi thường.
Điểm đặc biệt của quy định, bồi thường đối với đất thu hồi để chỉnh trang đô thị được bồi thường theo nguyên tắc “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, định chế
này được HĐND thành phố ban hành Nghị quyết riêng. Nội dung của quy định
này dựa trên lôgic: khi Nhà nước thu hồi đất để chỉnh trang đô thị, đã làm tăng
giá trị điều kiện sống, môi trường của khu vực này thì người dân được hưởng
nguồn lợi trực tiếp từ đầu tư của Nhà nước phải hy sinh, đóng góp một phần
nguồn lực của mình tương ứng.
Thứ hai, ngoài chế định bồi thường chi tiết và cụ thể, UBND thành phố Đà
Nẵng rất coi trọng công tác tuyên truyền của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(UBMTTQVN) các cấp gắn với thực hiện cơ chế dân chủ cơ sở, kết hợp với chính
sách khen thưởng đối với các đối tượng thực hiện giải phóng vượt tiến độ và cưỡng chế kịp thời các đối tượng cố ý chống đối, không thực hiện giải phóng mặt bằng khi
các điều kiện bồi thường theo pháp luật đã được đáp ứng. Thành phố đã chỉ đạo
UBND các cấp, hàng năm ký chương trình công tác phối hợp với UBMTTQVN
cùng cấp để triển khai công tác tuyên truyền và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, nhằm hỗ trợ công tác bồi thường, GPMB nói riêng và giám sát cộng đồng về vốn ĐTXD của NSNN nói chung.
Thứ ba, trong công tác cải cách hành chính cũng như trong bồi thường, GPMB thì vai trò, trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là vai trò của cá nhân lãnh đạo chủ
chốt hết sức quan trọng và có tính chất quyết định đối với các trường hợp xung yếu,
tác động tới niềm tin của nhân dân đối với sự quan tâm của Nhà nước; mặt khác gia tăng áp lực về trách nhiệm của bộ máy quản lý, bắt buộc công chức và viên chức
không ngừng tự trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh nghề nghiệp của mình
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
để đáp ứng nhu cầu công việc.
37
Qua một số kinh nghiệm triển khai cơ chế liên quan đến vốn ĐTXD của Nhà
nước ở thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là vai trò cá nhân lãnh đạo chủ chốt về tinh
thần gương mẫu, “dám làm”, “dám chịu trách nhiệm”, đây là điểm cần được đúc kết
thành bài học kinh nghiệm quản lý của Nhà nước.
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Quảng Ninh
- Tuy rằng có nền kinh tế phát triển nhưng các nước rất chú trọng đầu tư phát
triển các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế bỏ vốn
vào đầu tư. Nhà nước chỉ tham gia vào những công trình dự án lớn và đầu tư vào
dịch vụ công cộng.
- Với phương châm cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, các cơ sở
hạ tầng phải đi trước một bước để phục vụ phát triển kinh tế vùng miền núi, nông
thôn nhằm chuyển biến tích cực cơ cấu kinh tế, các nước trong khu vực Đông Nam
Á đều có chính sách đầu tư mạnh cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, miền núi,
đường, điện, hệ thống thông tin liên lạc, kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi. Với cơ
sở hạ tầng này Nhà nước phải tập trung ưu tiên đầu tư. Nhìn chung chính sách đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng là chính sách lớn trong đường lối phát triển kinh tế và
chiếm tỷ trọng cao trong chi tiêu của Chính phủ các nước. Với chính sách cởi mở
Nhà nước còn động viên tư nhân bỏ VĐT cơ sở hạ tầng như: đường giao thông,
thuỷ lợi, thông tin bằng các hình thức BOT, BTO, BT.
- Tăng cường phân cấp đầu tư gắn với ràng buộc trách nhiệm về rủi ro đầu tư
để hạn chế đầu tư tràn lan hoặc quy mô quá lớn vượt khả năng cân đối VĐT.
- Phân định rõ giữa Nhà nước và doanh nghiệp để kiện toàn chức năng điều
tiết vĩ mô của Nhà nước và giảm tải bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Hoàn thiện thể chế phải đảm bảo tính đồng bộ và có tầm chiến lược lâu dài, hạn
chế những điều chỉnh mang tính sự vụ, cục bộ và xử lý tình thế trong một thời gian ngắn.
- Xây dựng đơn giá đền bù giải phóng mặt bằng ở các địa phương phải giải
quyết mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và nhân dân theo quan điểm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm”
- Chi tiết và công khai hoá các quy trình xử lý các công đoạn của quá trình
đầu tư để thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản lý của
bộ máy chính quyền địa phương.
- Nâng cao vai trò tiên phong của các cán bộ chủ chốt với tinh thần “dám
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
làm, dám chịu trách nhiệm” và sẵn sàng đối thoại trực tiếp với nhân dân.
38
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên về công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cần giải quyết các câu hỏi sau:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về dự án đầu tư công trình xây dựng và hiệu quả
sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng?
- Thực trạng về quản lý các dự án đầu tư công trình xây dựng bằng nguồn
vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn năm 2010 - 2014?
- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của các dự án đầu tư xây công trình
xây dựng bằng nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh?
- Để nâng cao hiệu quả, chất lượng các dự án đầu tư công trình xây dựng bằng
nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cần thực hiện những giải pháp nào?
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tiếp cận
- Tiếp cận là sự lựa chọn chỗ đứng để quan sát đối tượng nghiên cứu, là sự
khởi đầu của quá trình tiếp xúc với đối tượng nghiên cứu, là sự đi trước của tư duy
trước khi bắt tay thực hiện thao tác cụ thể của quá trình thu thập thông tin.
- Phương pháp tiếp cận bao gồm: Tiếp cận hệ thống có cấu trúc; Tiếp cận
định tình và định lượng; Tiếp cận tất nhiên và ngẫu nhiên; Tiếp cận lịch sử và logic;
Tiếp cận cá biệt và so sánh; Tiếp cân phân tích và tổng hợp.
2.2.2. Chọn điểm nghiên cứu
Chọn vùng nghiên cứu: Đề tài chọn tỉnh Quảng Ninh làm địa bàn nghiên cứu
vì đây là một tỉnh trong những năm qua có những bước đột phá trong quy hoạch,
phát triển hạ tầng và trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Để có được những giải
pháp phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo về quản lý vốn NSNN, nâng cao chất lượng xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh, Đề tài nghiên cứu, thu thập các số liệu thông tin về các dự án trên địa bàn của tỉnh.
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập thông tin là việc làm rất quan trọng trong phân tích kinh tế. Thu
thập thông tin tốt sẽ cung cấp đầy đủ thông tin về lý luận và thực tế, tạo điều kiện cho việc xử lý và phân tích thông tin, từ đó đưa ra đánh giá chính xác về thực trạng
của vấn đề nghiên cứu và đề xuất các giải pháp xác thực giúp cho việc hoàn thiện
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
công việc nghiên cứu.
39
2.2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thông tin thứ cấp là các số liệu từ các công trình nghiên cứu đã được lựa
chọn vào mục đích phân tích, minh hoạ rõ nét cho nội dung nghiên cứu. Nguồn gốc
của các tài liệu này được trình bày rõ trong phần “tài liệu tham khảo”. Nguồn tài
liệu này bao gồm:
Các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chương trình nghiên cứu
đã được xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã được công bố của các cơ quan nghiên
cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu trên internet…liên quan đến những vấn đề về công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng.
Phương pháp cụ thể là chọn BQLDA chuyên ngành, BQLDA thành phố,
BQL các sở, ban ngành; chọn một vài đơn vị thi công và một số chuyên gia trong
lĩnh vực XD cho thêm phần sinh động và mang tính chất đại diện. 2.2.3.2. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Trong quá trình thực hiện luận văn, ngoài những phương pháp kể trên, bản
thân đã thu thập ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý trong lĩnh vực XDCB
như: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Giao thông, chuyên viên XDCB
Văn phòng UBND tỉnh... để làm căn cứ cho việc đưa các kết luận một cách xác
đáng, có căn cứ khoa học và thực tiễn; làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp có
tính thực tiễn, có khả năng thực thi và có sức thuyết phục cao nhằm nâng cao việc
sử dụng hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
2.2.4. Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu 2.2.4.1. Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê mô tả là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế xã hội bằng việc mô tả thông qua các số liệu thu thập được. Trong đề tài này tác giả thực
hiện thu thập, phân tích và trình bày dữ liệu nghiên cứu bằng các bảng biểu, đồ thị,
biểu đồ,… để đánh giá tình hình tăng giảm các chỉ tiêu liên quan đến công tác quản
lý dự án đầu tư công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2012 - 2014 dựa trên các số liệu thu thập được. Qua đó thấy được những ưu, nhược điểm cũng như tồn tại của các đơn vị để đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư công trình xây dựng trong thời gian tới.
2.2.4.2. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp chủ yếu được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh
phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Xác định số gốc để so sánh; Xác định điều kiện
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
so sánh; Xác định mục tiêu so sánh. Mục tiêu so sánh trong phân tích kinh tế là xác định
40
mức biến động tuyệt đối và mức biến động tương đối theo xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Sử dụng phương pháp so sánh thông qua các chỉ tiêu về số tuyệt đối, số
tương đối, số bình quân... từ đó đưa ra các kết luận có căn cứ khoa học.
Phương pháp so sánh được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu kinh tế
xã hội. Trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp:
So sánh số tuyệt đối: Là kết quả của phép trừ giữa số liệu của kỳ phân tích
và số liệu của kỳ gốc. Phương pháp này dùng để so sánh sự biến đối giữa số liệu
của kỳ tính toán với số liệu của kỳ gốc để tìm ra nguyên nhân của sự biến đổi đó, từ
đó đưa ra các đánh giá và giải pháp tiếp theo.
∆Y = Yt - Yt-1 Trong đó: + Yt : Số liệu kỳ phân tích.
+ Yt-1 : Số liệu kỳ gốc. + ∆Y : Hiệu số (sự thay đối số tuyệt đối) giữa số liệu kỳ phân
tích và kỳ gốc.
So sánh số tương đối:
- Tỷ trọng: Được đo bằng tỷ lệ phần trăm (%), là tỷ lệ giữa số liệu thành
phần và số liệu tổng hợp. Phương pháp chỉ rõ mức độ chiếm giữ của chỉ tiêu thành
phần trong tổng số, mức độ quan trọng của chỉ tiêu tổng thể. Kết hợp với các
phương pháp khác để quan sát và phân tích được tầm quan trọng và sự biến đổi của
chỉ tiêu, nhằm đưa ra các biện pháp quản lý, điều chỉnh kịp thời.
%
Trong đó: + Yk: Số liệu của bộ phận thứ k
+ Y : Số liệu của tổng thể
+ Rk (%): Tỷ trọng của Yk so với Y.
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
- Phải sử dụng các phương pháp phân tích phù hợp để phân tích được hiệu quả về
mặt tài chính. Có thể tính toán các chỉ tiêu phân tích tài chính dự án đầu tư như sau:
a. Chỉ tiêu NPV (giá trị hiện tại thuần): NPV là mức lợi nhuận mà cả quá
trình thực hiện dự án đem lại.
Trong đó: + Bi: Tổng thu nhập của dự án năm thứ i.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
+ Ci: Tổng chi phí của dự án năm thứ i. + r: Tỷ lệ chiết khấu được chọn.
41
Dự án được chấp nhận khi NPV 0, khi đó tổng các khoản thu của dự án
tổng các khoản chi phí sau khi đã đưa về mặt bằng hiện tại.
b. Chỉ tiêu IRR (tỷ suất hoàn vốn nội bộ): Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là mức lãi
suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án
về cùng một mặt bằng thời gian hiện tại thì tại đó tổng thu bằng tổng chi.
Kết quả nếu IRR > lãi suất tiền gửi ngân hàng dài hạn cùng thời điểm (chi
phí cơ hội của vốn) thì dự án đầu tư có hiệu quả.
Trường hợp ngược lại, dự án đầu tư không có hiệu quả.
c. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (T)
Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) là số thời gian cần thiết mà dự án cần hoạt
động để thu hồi đủ số vốn đầu tư ban đầu. Thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo
tình hình hoạt động từng năm theo công thức:
Trong đó: + Ti: Thời gian thu hồi vốn.
Chỉ tiêu này (Ti) cho biết thời gian thu hồi vốn nếu chỉ dựa vào khoản thu
hồi lợi nhuận thuần và khấu hao của năm i.
d. Chỉ tiêu số lao động có việc làm: Do thực hiện đầu tư và số lao động có
việc làm tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
Số lao động có việc làm bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp và việc
làm gián tiếp. Hệ số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư được tính
bằng công thức:
Trong đó: + IT: Là hệ số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư
+ IVT: Tổng số vốn đầu tư + LT: Tổng số lao động có việc làm. Dự án đạt được hiệu quả về kinh tế - xã hội:
Việc lập và thẩm định dự án đầu tư được coi là hiệu quả khi phân tích được chính xác hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư, thông qua một số tiêu chuẩn
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đánh giá được thể hiện như sau:
42
Mức độ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống của các tầng
lớp dân cư.
- Gia tăng số lao động có việc làm.
- Tăng thu ngân sách.
- Phát triển các ngành công nghệ chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây
chuyền thúc đẩy phát triển các ngành nghề khác.
- Phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương thu nhập thấp.
Để thực hiện tốt giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đáp ứng các yêu cầu về quy
hoạch, kỹ thuật, tài chính, kinh tế - xã hội, cần chú ý đến các nhân tố ảnh hưởng
sau đây:
- Nhân tố con người: Đội ngũ cán bộ quản lý dự án phải có đủ trình độ và
năng lực chuyên môn để hiểu biết, cũng như thẩm định được các nội dung của một số dự án đầu tư.
- Lựa chọn Tư vấn: Phải có những đơn vị Tư vấn chuyên nghiệp có đủ về
trình độ, đủ tầm nhìn cũng như kinh nghiệm để giúp chủ đầu tư lập dự án đầu tư có
đủ các thông tin cần thiết để chủ đầu tư xem xét có quyết định đầu tư hay không.
- Trong quá trình lập dự án đầu tư nhất thiết phải sử dụng các trang thiết bị
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hiện đại để thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu chính xác.
43
Chương 3
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Tổng quan về tình hình Kinh tế - Xã hội tỉnh Quảng Ninh
3.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tỉnh Quảng Ninh là tỉnh miền núi, nằm ở tọa độ địa lý 20040’ - 21040' vĩ độ
bắc, 106025’ - 108025’ kinh độ đông, cách thủ đô Hà Nội 150 km. Phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Quảng Ninh có đường biên giới đất liền 132
km từ Tràng Vĩ (Móng Cái) đến giáp huyện Đình Lập (Lạng Sơn); phía Đông
giáp Vịnh Bắc Bộ với 250 km bờ biển kéo dài từ cửa Bắc Luân (Trà Cổ) đến đảo
Cát Bà (Hải Phòng); phía Tây giáp thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, tỉnh Bắc Giang và tỉnh Lạng Sơn. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.239,243 km2 trong đó diện tích đất liền 5.938 km2, vùng vịnh, biển (nội thuỷ) chiếm 2.448,853 km2, chiếm 1,8 % diện tích cả nước. Diện tích mặt biển rộng trên 6.000 km2, hơn
2.000 hòn đảo lớn nhỏ, trên 40.000 ha bãi triều, 20.000 ha eo vịnh... Quảng Ninh
có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển và cũng có nhiều điều kiện
thuận lợi cho hoạt động ĐTXD.
Quảng Ninh có nguồn tài nguyên khoáng sản ven bờ đa dạng, phong phú
(cát, cao lanh, titan...). Cát trắng là loại nguyên liệu quý đối với công nghiệp thuỷ
tinh ở nước ta và các nước khác. Đến nay vùng đồi Giếng Đáy và Đông Triều vẫn là
trung tâm sản xuất gạch ngói của Quảng Ninh bởi trữ lượng của nó còn hàng trăm
triệu tấn. Gạch ngói Giếng Đáy, đồ gốm Đông Triều đã xuất khẩu sang các nước
Châu Âu, Châu Mỹ, Hồng Kông, Malaysia và một số quốc gia khác. Gạch ngói
Giếng Đáy, Gốm Đông Triều đã góp phần đáng kể trong việc tạo lập bao miền đất,
thành phố, thị xã trong và ngoài nước với những công trình đẹp, có chất lượng.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có nhiều nhà máy Xi măng như: Nhà máy Xi
măng Cẩm Phả, Lam Thạch, Thăng Long… đó cũng là điều kiện thuận lợi về nguồn
vật liệu xây dựng, giảm bớt chi phí vận chuyển tới công trình thi công.
Mỏ đá tại huyện Hải Hà là loại đá quý, có quy mô và trữ lượng đá hết sức
lớn và đẹp. Mỏ đá tại huyện Hải Hà do có tính chất lý, hoá tốt nên được dùng để
làm vật liệu cách điện, trang trí các công trình xây dựng, dùng trong mỹ thuật điêu
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khắc… là nguyên liệu để sản xuất trong nước cũng như xuất khẩu.
44
Những nguồn tài nguyên này phần nào góp phần vào việc giảm chi phí xây dựng,
tiết kiệm ngân sách cho những công trình sử dụng nguồn vật liệu này.
Hệ thống cảng biển, cảng thuỷ nội địa phong phú (gồm 6 cảng biển, hàng
trăm cảng, bến thuỷ nội địa). Đặc biệt Khu Công nghiệp - cảng biển Hải Hà, làm
đầu mối vận tải cho cả miền Bắc và vùng Tây Nam Trung Quốc. Với hệ thống cảng
biển này cộng với các cửa khẩu Quốc tế và Quốc gia, việc vận chuyển vật liệu xây
dựng từ các vùng khác cũng như từ Trung Quốc, Hồng Kông sang được thuận lợi.
Nhờ đó, công tác xây dựng cơ bản trên địa bàn Tỉnh có nhiều thuận lợi về nguồn
cung ứng nguyên vật liệu.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi tới hoạt động ĐTXD đã nêu trên thì Quảng
Ninh cũng gặp không ít các yếu tố khó khăn đó là:
Thứ nhất, Quảng Ninh còn có Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới và
nhiều bãi biển đẹp như: Bãi tắm Soi Sim, Ti tốp, Bãi Cháy, Tuần Châu (Hạ Long)
Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng (Vân Đồn), Trà Cổ (Móng Cái) cùng các vườn
quốc gia và khu bảo tồn biển khác: Ba Mùn, Bái Tử Long, Cô Tô. Vì vậy các công
trình xây dựng đòi hỏi phải có cảnh quan kiến trúc phù hợp với từng địa danh và mỹ
quan chung của cả tỉnh.
Thứ hai, địa hình của tỉnh Quảng Ninh tương đối phức tạp chủ yếu là núi
chiếm 90% diện tích. Trong đó đất liền chiếm 87% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, hải đảo chiếm 13% diện tích; diện tích biển trên 6.000 km2. Toàn tỉnh có tới 10/14
huyện, thị, thành phố có biển, đảo (trong đó có 2 huyện đảo) diện tích đảo chiếm
11,5% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Với địa hình như vậy gây khó khăn về kết
cấu các công trình xây dựng, vận chuyển vật liệu khó khăn với chi phí cao nhất là
đối với các huyện đảo.
Thứ ba, khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu của các tỉnh miền Bắc
nước ta, một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng nhiệt đới - gió mùa.
Mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió đông nam mang theo hơi nước
có độ muối cao. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, gió đông bắc. Mưa bão tập trung
vào các tháng tư đến tháng mười, với lượng mưa trung bình hàng năm 2000 mm-
2500mm. Các hiện tượng gió lốc xảy ra thường vào tháng 6, 7, 8. Nhiệt độ trung bình hàng năm cao nhất là 280C, thấp nhất là 160C; tháng lạnh nhất là tháng 11 và
tháng 3; tần suất sương muối thường xảy ra vào tháng 12 và tháng 1 hàng năm.
Điều kiện thời tiết như vậy thường ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình cũng
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
như tuổi thọ công trình xây dựng tại đây.
45
3.1.2. Đặc điểm dân cư và phân bổ hành chính
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong quy
hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
vừa thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ; là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam.
Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh Quảng Ninh đạt gần 1.177.200 người, mật độ
dân số đạt 193 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 620.200
người, dân số sống tại nông thôn đạt 557.000 người. Dân số nam đạt 607.350 người,
trong khi đó nữ đạt 569.850 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương
tăng 11,5%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến tháng 12 năm 2014,
toàn tỉnh Quảng Ninh có 34 dân tộc và người nước ngoài cùng sinh sống. Trong đó,
người Kinh đông nhất với 1.011.794 người, tiếp sau đó là người Dao đông thứ nhì
với 59.156 người, người Tày 35.010 người, Sán Dìu có 17.946 người, người Sán
Chay có 13.786 người, người Hoa có 4.375 người. Ngoài ra còn có các dân tộc ít
người như người Nùng, người Mường, người Thái. Là tỉnh có nhiều đô thị nhất Việt
Nam với 4 thành phố Hạ Long, Móng Cái, Uông Bí, Cẩm Phả và 1 thị xã Quảng
Yên. Quảng Ninh có 186 đơn vị hành chính cấp xã gồm 106 xã, 71 phường và 9 thị
trấn. Dân số Quảng Ninh theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2010 là 1.159.463
người trong đó nữ là 566.184 người, có tỉ lệ dân số sống ở thành thị cao thứ 3 Việt
Nam (sau thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng), dân số thành thị là 667.862 người
(chiếm tỉ lệ 58,1%). Quảng Ninh thuộc diện tỉnh có số dân trung bình trong cả
nước. Tỷ lệ tăng dân số bình quân từ năm 1999 đến 2009 là 1,3% (trung bình cả
nước là 1,2%).
3.1.3. Cơ sở hạ tầng của Tỉnh
* Hệ thống giao thông
Về đường bộ: Hệ thống giao thông của Tỉnh Quảng Ninh rất phong phú bao
gồm giao thông đường bộ, đường thuỷ nội địa, đường sắt, đường biển, và các cảng
hàng không. Trong đó, hệ thông đường bộ có 5 tuyến Quốc lộ với 381 km, đường
tỉnh có 12 tuyến với 301 km, 764 km đường huyện và 2.233 km đường xã, toàn tỉnh
có 16 bến xe trong đó 6 bến xe liên tỉnh hỗn hợp. Đối với hệ thống Đường thuỷ nội
địa toàn tỉnh có 96 bến thuỷ nội địa, 5 cảng biển (9 khu bến) thuộc Danh mục cảng
biển trong Quy hoạch phát triển cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030. Các cảng biển như Cảng Cái Lân, Cảng Vạn Gia, Cảng Cửa Ông, Cảng
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hòn Nét và Cảng Mũi Chùa. Ngoài ra tỉnh còn có 65 km đường sắt quốc gia thuộc
46
tuyến Kép-Hạ Long, và hệ thống đường sắt chuyên dùng ngành than. Tỉnh đang tập
trung nguồn lực để xây dựng cảng hàng không Quảng Ninh (sân bay Vân Đồn) đáp
ứng nhu cầu đi lại, giao thương và thăm quan du lịch cho người dân và khánh du
lịch tới đây.
Quốc lộ 18A Đông Triều - Móng Cái dài 263 km, QL 18C (Tiên Yên -
Hoành Mô dài 50 km) đã hoàn thành việc nâng cấp đoạn Mông Dương - Móng Cái.
Quốc lộ 10 đi qua địa bàn tỉnh (ngã ba Biểu Nghi - bến phà Rừng dài 15 km) và
quốc lộ 10 mới đi qua Uông Bí nối Quảng Ninh với các tỉnh ven biển Bắc Bộ. Quốc
lộ 4B từ Đình Lập - Mũi Chùa dài 27 km. Quốc lộ 279 từ Ngã ba Hà Khẩu - Hạ My
dài 41 km.
Hệ thống giao thông nông thôn vẫn còn nhiều đường cấp phối, chưa có hệ
thống thoát nước, giao thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn.
Trong tháng 5/2014 khánh thành, thông xe đoạn Uông Bí - Hạ Long và động
thổ đoạn Bắc Ninh - Uông Bí (Dự án cải tạo nâng cấp QL18 theo hình thức BOT).
Dự án “Cải tạo, nâng cấp QL 18 đoạn Uông Bí - Hạ Long theo hình thức Hợp đồng
BOT” nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh Quảng
Ninh nói riêng và vùng Đông Bắc nói chung. Dự án có tổng chiều dài tuyến 30,1km
và có tổng mức đầu tư gần 2.840 tỷ đồng. Quy mô dự án là đường cấp III đồng
bằng, 4 làn xe, tốc độ thiết kế 80km/h, nền đường rộng 20,5m. Sau lễ khánh thành
đoạn Uông Bí - Hạ Long, Bộ GTVT, UBND tỉnh và Chủ đầu tư (Công ty CP BOT
Đại Dương) đã tổ chức động thổ đoạn Bắc Ninh - Uông Bí. Đoạn tuyến này có
chiều dài khoảng 77 km được cải tạo nâng cấp đạt quy mô 4 làn xe, theo tiêu chuẩn
cấp III đồng bằng. Tổng mức đầu tư Dự án đã được Bộ GTVT phê duyệt gần 5.744
tỷ đồng.
Trong tháng 9/2014 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chính thức phát
động khởi công Dự án đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng - tuyến đường do tỉnh
Quảng Ninh “tự bỏ tiền” xây dựng để nối với TP Hải Phòng và với vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Theo thiết kế, toàn tuyến cao tốc Hạ Long - Hải Phòng có tổng
chiều dài hơn 25km, gồm 4 làn xe, vận tốc thiết kế là 100 - 110km.
Dự án đường nối Hạ Long với cầu Bạch Đằng được khởi công lần này do Sở
GTVT tỉnh Quảng Ninh làm chủ, với tổng mức đầu tư trên 6,4 nghìn tỉ đồng, chủ
yếu lấy từ nguồn vốn ngân sách địa phương. tỉnh Quảng Ninh phấn đấu hoàn tất
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tuyến đường dẫn cao tốc này vào cuối năm 2016.
47
Phần cầu Bạch Đằng có chiều dài 5,45km, với tổng số tiền phê duyệt dự án
là 7.200 tỉ đồng sẽ do Tập đoàn SE của Nhật Bản thi công theo hình thức BOT. Dự
kiến, nhà thầu sẽ khởi công xây dựng dự án vào quí 1 năm 2015 và hoàn thiện vào
năm 2017. Tuyến cao tốc này sau khi hoàn tất sẽ nối với tuyến đường đường cao tốc
Hà Nội - Hải Phòng (chiều dài 106 km). Khi đó tuyến đường kết nối tam giác kinh
tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh sẽ hoàn chỉnh, đóng vai trò quan trọng trong
hệ thống giao thông liên vùng, tạo động lực cho phát triển vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ, vùng duyên hải Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng.
Về đường thủy: Là một tỉnh có lợi thế về phát triển giao thông trên biển, hiện
có mạng lưới đường thủy do Trung ương quản lý khoảng 396km, do địa phương
quản lý 105 km.
- Hệ thống cảng biển gồm có:
+ Cảng nước sâu Cái Lân có khả năng đón tàu từ 3 - 5 vạn tấn, là cảng lớn
của Quảng Ninh, cửa ngõ “vào - ra” của cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đặc
biệt, Cảng có dịch vụ xếp dỡ hàng siêu trọng đến 100 tấn tại móc cẩu. Giai đoạn I,
công suất sẽ đạt 510.000 TEU/ năm và trong tương lai Cảng sẽ đáp ứng công suất
làm hàng 1.200.000 TEU/năm.
+ Cảng Hòn Nét - Hạ Long là cụm cảng trung chuyển hàng hóa cách bờ
khoảng 6 hải lý với độ sâu 20 m nước cho tàu 10 - 15 vạn tấn cập cảng.
+ Cảng Hòn Gai hiện đã chuyển thành cảng du lịch Quốc tế.
+ Cảng Cửa Ông chuyên dùng để xuất than, năng lực bốc xếp hàng hóa qua
cảng từ 3 - 5 triệu tấn phục vụ cho các mỏ than ở Cẩm Phả.
+ Cảng Nam Cầu Trắng dùng để xuất than cho các mỏ Hà Lầm, Hà Tu. Năng
suất thông qua cảng 3,5 triệu tấn/năm.
+ Cảng chuyên dùng B12 chủ yếu để chuyển xăng dầu cho khu vực phía Bắc
đã được Bộ Kế hoạch và đầu tư thẩm định xây dựng mới để vừa thuận lợi cho vận
tải hàng hóa, vừa không gây ô nhiễm môi trường cho Vịnh Hạ Long.
- Cảng sông có:
+ Cảng hàng hóa Vạn Gia (thành phố Móng Cái): là cửa ngõ sang Trung
Quốc, có độ sâu khoảng 9 - 10 m cho tàu 10.000 tấn cập bến, là điểm chuyển tải
thuận lợi. Năng lực thông qua cảng 2 triệu tấn/năm.
+ Cảng Mũi Ngọc (Đá Đỏ): có vị trí thích hợp xây dựng cảng đa chức năng,
vừa là cảng hàng hóa vừa là cảng hành khách. Dự kiến xây dựng bến tàu 500 tấn
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cập bến bốc hàng và tàu khách có 100 - 500 ghế ra vào thuận lợi.
48
+ Cảng Mũi Chùa: là cảng nằm giữa khu vực Hồng Gia - Hải Ninh rất thuận
lợi cho việc vận chuyển hàng hóa.
+ Cảng tàu du lịch Bãi Cháy: phục vụ vận chuyển khách du lịch tham quan
trên vịnh Hạ Long.
+ Cảng Bang: phục vụ công nghiệp xi măng ở Hoành Bồ và xuất than.
+ Cảng Cô Tô (huyện đảo Cô Tô): nối đất liền và huyện đảo, vừa phục vụ
mục đích dân sinh, vừa đảm bảo an ninh quốc phòng.
+ Cảng Tuần Châu có quy mô 150.000m2. Cầu cảng có chiều dài gần 2.000m, kết cấu bê tông đúc liền khối, kết hợp với hệ thống cầu phao có thể điều
chỉnh được theo độ cao mớn nước của tàu Quy mô của cảng có thể đáp ứng cùng
lúc khoảng 200 tàu du lịch lớn nhỏ cập bến. Cảng tàu khách Tuần Châu được đón
các phương tiện đường thủy nước ngoài.
- Về đường sắt: Hiện tại Quảng Ninh mới chỉ có tuyến đường sắt từ Kép -
Bãi Cháy dài hơn 166 km, tuyến đường này chỉ chủ yếu vận chuyển than và một
lượng hàng hóa không đáng kể từ Bãi Cháy vào trong nội địa. Trong thời gian tới,
sẽ xây dựng mới tuyến Hà Nội - Yên Viên - Hạ Long có chiều dài khoảng 180 km
để tăng cường năng lực hàng hóa thông qua địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và
góp phần giải tỏa nhanh lượng hàng qua các cảng biển thuộc tỉnh.
- Hàng không: Vừa qua Chính phủ đã phê duyệt cảng hàng không tại Vân
Đồn (Tại quyết định số 576/QĐ-BGTVT ngày 16-3-2012 của Bộ Giao thông Vận
tải về việc phê duyệt quy hoạch Cảng hàng không Quảng Ninh giai đoạn 2020 và
định hướng đến năm 2030). Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số
631/QĐ-TTg ngày 29/4/2014 công bố Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư
nước ngoài tới năm 2020, trong đó có dự án Cảng hàng không Quảng Ninh.
3.1.4. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua
Kinh tế Quảng Ninh những năm qua từng bước phát triển ổn định và tốc độ
tăng trưởng duy trì ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 2012-
2014 tăng bình quân 12,75%/năm, đạt kế hoạch đề ra, vượt 3,05% so với tốc độ
tăng trưởng thời kỳ 2005-2009, cao hơn tốc độ tăng bình quân chung của cả nước.
Trong 3 năm 2012-2014, GDP bình quân ở mức 12,35%/năm, năm 2010 GDP tăng
13,78%, GDP năm 2011 tăng 13,67%, thu nhập bình quân đầu người năm 2011 đạt
1.063 USD, năm 2012 nền kinh tế cả nước bị ảnh hưởng nặng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới song kinh tế Quảng Ninh vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 13,02%,
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thu nhập bình quân đầu người đạt 1.206 USD, cao hơn mức bình quân chung của cả
49
nước (cả nước đạt 1.100 USD); năm 2013 GDP tăng trưởng 10,3%. Năm 2014 GDP
tăng trưởng 13%.
Do tình hình phát triển kinh tế xã hội của Quảng Ninh thời gian qua chuyển
biến tích cực dẫn tới thu ngân sách tăng góp phần chủ động nguồn vốn XDCB từ
nguồn NSNN, cụ thể:
Tổng thu NSNN năm 2010 đạt 16.160 tỷ đồng, đạt 110% dự toán. Năm
2012, tổng thu NSNN đạt 22.344 tỷ đồng, đạt 115% dự toán. Năm 2012 đạt 29.590
tỷ đồng đồng, đạt 112% dự toán. Năm 2013, tổng thu NSNN đạt 32.619 tỷ đồng,
bằng 108% dự toán. Năm 2014 tổng thu NSNN của Quảng Ninh đạt 33.211 tỷ
đồng, đạt 109% dự toán. Hầu hết các địa phương đều tăng thu so với dự toán được
như: Bình Liêu tăng 107%, Ba Chẽ tăng 94%, Tiên Yên tăng 43%, Hải Hà tăng 26%,
Đông Triều tăng 24%, Hoành Bồ tăng 24%, Vân Đồn tăng 15%, Cẩm Phả tăng 11%,
Uông Bí tăng 13%... Do nguồn thu ngân sách tăng cho nên phần vốn dành cho đầu tư
XDCB từ nguồn NSNN ở Quảng Ninh cũng gia tăng trong những năm vừa qua.
Trong 5 năm 2010-2014, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những thành tựu to
lớn và đã có bước phát triển mới khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
đạt 12,7%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (khu vực công
nghiệp và dịch vụ chiếm trên 94%; nông nghiệp chiếm 5,6%). Năm 2014, Quảng
Ninh vẫn đạt được mức tăng trưởng trên 12%, gấp hơn 2 lần mức bình quân chung
của cả nước; GDP bình quân đầu người đạt trên 2.200 USD; thu ngân sách đạt hơn
29 nghìn tỷ đồng - mức cao nhất từ trước đến nay.
3.2. Tình hình ĐTXD từ nguồn vốn NSNN ở tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn
2010 - 2014
3.2.1. Kết quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN
Trong vòng 5 năm qua công tác đầu tư xây dựng của tỉnh có nhiều chuyển
biến tích cực, cơ sở hạ tầng được cải thiện tạo điều kiện thu hút các nguồn lực kinh
tế tập trung cho đầu tư phát triển, hàng trăm công trình hoàn thành đưa vào sử dụng
phát huy hiệu quả kinh tế xã hội, nhiều dự án trọng điểm của tỉnh đã hoàn thành và
phát huy hiệu quả như Trụ Sở Liên cơ quan số II, Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng
Ninh, các dự án trường học được kiên cố hóa và đạt chuẩn quốc gia, giao thông
nông thôn được cải thiện...
Với tổng số vốn dành cho công tác đầu tư xây dựng trong 5 năm qua
(2010 - 2014), tỉnh Quảng Ninh đã đầu tư cho XDCB hơn 12 ngàn tỷ đồng (xem
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bảng 3.1), đã đóng góp một phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng của tỉnh.
50
Tổng mức đầu tư có xu hướng gia tăng (năm 2010 là 4.397 tỷ, năm 2011 là 5.591
tỷ, năm 2012 là 6.777 tỷ, năm 2013 là 10.541 tỷ, năm 2014 là 12.345 tỷ) cho
thấy sự phát triển mạnh về quy mô và nhu cầu đầu tư tạo đà cho phát triển kinh
tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh; bố trí ngân sách cho đầu tư
phát triển của tỉnh tăng cả về số tuyệt đối lẫn tương đối (Bình quân chiếm trên
34% tổng chi ngân sách).
Bảng 3.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ nguồn NSNN
tại Quảng Ninh từ năm 2010 - 2014
Đơn vị: triệu đồng
Năm Năm Năm Năm Nội dung Năm 2014 2010 2011 2012 2013
Tổng chi NSĐP 3.990.235 4.965.655 5.786.155 8.951.230 10.968.381
Chi đầu tư phát triển 1.135.591 1.947.510 1.990.329 3.276.000 3.933.253
Trong đó:
1.135.591 1.931.580 1.964.928 3.251.000 3.933.253 Chi XDCB
Tỷ lệ (%) trên tổng 28,4 39,2 34,4 36,6 35,9 chi NSĐP
(Nguồn: UBND tỉnh Quảng Ninh)
Có thể thấy rằng khoản chi của NSNN cho hoạt động đầu tư XDCB là rất lớn
vì thế không quản lý tốt hoạt động này không những sẽ gây lãng phí mà còn không
đem lại hiệu quả như mong muốn.
3.2.2. Phân cấp quản lý dự án các công trình xây dựng sử dụng nguồn vốn
NSNN trên địa bàn Tỉnh Quảng Ninh
3.2.2.1. Các loại dự án sử dụng nguồn vốn NSNN
Tại Quảng Ninh các dự án có sử dụng nguồn vốn NSNN được thực hiện theo
Luật và các quy định hiện hành, theo đó tại nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08
tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây
dựng tại điều 10. Quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước; các dự án sử
dụng vốn ngân sách nhà nước bao gồm:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh không có
khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách nhà
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nước cho đầu tư phát triển;
51
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự
tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
+ Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi
được Thủ tướng Chính phủ cho phép;
+ Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển;
+ Vốn khấu hao cơ bản và các khoản thu của Nhà nước để lại cho doanh
nghiệp nhà nước để đầu tư.
Phân cấp quản lý dự án các công trình xây dựng:
Ở Quảng Ninh việc phân cấp quản lý dự án các công trình xây dựng được
quy định tại Quyết định số 1888/2011/QĐ-UBND ngày 01/6/2011 của Ủy ban Nhân
dân tỉnh Quảng Ninh về việc trình tự, thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn của các tổ
chức, cá nhân có liên quan và việc phân cấp trong quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương (bao gồm: ngân sách cấp tỉnh
(kể cả ngân sách Trung ương Ủy quyền), ngân sách cấp huyện, xã) và các dự án sử
dụng bằng nguồn thu để lại hoặc từ quỹ phát triển sự nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc địa phương quản lý nhằm thực
hiện các quy định của pháp luật về xây dựng. Theo đó,việc xác định chủ đầu tư dự
án thực hiện theo khoản 1 điều 1 Nghị định số 112/2010/NĐ-CP của Chính phủ và
quy định tại mục I, phần I Thông tư số 02/2011/TT-BXD ngày 14/02/2011 của Bộ
Xây dựng, được áp dụng như sau :
+ Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ: Ủy ban
Nhân dân tỉnh lựa chọn đơn vị có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý dự án xây
dựng công trình làm chủ đầu tư.
+ Dự án thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt của Chủ tịch UBND tỉnh:
Đối với các dự án nhóm A, B, C: Ủy ban Nhân dân tỉnh giao cho các Sở,
Ngành, Ủy ban Nhân dân cấp huyện; các đơn vị trực tiếp, quản lý sử dụng công
trình làm chủ đầu tư. Trong trường hợp các đơn vị quản lý, sử dụng công trình
không đủ điều kiện về tổ chức, nhân lực, năng lực làm chủ đầu tư thì Ủy ban Nhân
dân tỉnh sẽ giao cho đơn vị có đủ các điều kiện để làm chủ đầu tư và thực hiện theo
quy định tại Mục I phần I Thông tư số 02/2007/TT-BXD của Bộ xây dựng (đơn vị
đang hoặc sẽ quản lý sử dụng công trình có trách nhiệm cử người tham gia với Ban
quản lý dự án để quản lý đầu tư xây dựng công trình và tiếp nhận quản lý, sử dụng
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khi công trình hoàn thành).
52
Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách sự nghiệp kinh tế để đầu tư
duy tu, bảo dưỡng cơ sở vật chất hiện có và có tổng mức đầu tư đến 01 tỷ đồng, chủ
đầu tư dự án là đơn vị quản lý, sử dụng cơ sở vật chất đó. Nếu đơn vị đó không đủ
khả năng làm chủ đầu tư thì Ủy ban Nhân dân tỉnh giao cho Ngành chủ quản của
các đơn vị đó làm chủ đầu tư.
Các đơn vị sự nghiệp công lập là chủ đầu tư các dự án thực hiện bằng nguồn
vốn thu sự nghiệp để lại theo quy định để đầu tư cơ sở vật chất của đơn vị.
Các trường hợp khác, Ủy ban Nhân dân tỉnh xem xét quyết định đối với từng
dự án cụ thể phù hợp với phương thức đầu tư và quy mô của từng dự án.
3.2.3. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý dự án đầu tư từ NSNN
Cấp tỉnh: Ở tỉnh có 02 Ban quản lý dự án trực thuộc; các Ban này là đơn vị
sự nghiệp kinh tế có thu trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, có chức năng và nhiệm
vụ cơ bản:
- Làm chủ đầu tư các dự án đầu tư xây dựng thuộc vốn ngân sách do Ủy ban
Nhân dân tỉnh quyết định đầu tư;
- Làm tư vấn quản lý, điều hành dự án đầu tư xây dựng công trình; giám sát
thi công xây dựng công trình đối với các cơ quan, đơn vị làm chủ đầu tư nhưng
không đủ điều kiện trực tiếp quản lý dự án, không đủ điều kiện năng lực hoạt động
giám sát thi công xây dựng theo quy định của pháp luật; thực hiện các nhiệm vụ
khác khi được UBND tỉnh giao.
Cấp huyện: có Ban quản lý dự án trực thuộc; Ban này là đơn vị sự nghiệp
kinh tế có thu trực thuộc UBND huyện, thị xã Thành phố, có chức năng và nhiệm
vụ cơ bản:
- Làm chủ đầu tư các dự án đầu tư xây dựng thuộc vốn ngân sách do Ủy ban
Nhân dân huyện, thị xã Thành phố quyết định đầu tư;
- Làm tư vấn quản lý, điều hành dự án đầu tư xây dựng công trình; giám sát
thi công xây dựng công trình đối với các cơ quan, đơn vị làm chủ đầu tư nhưng
không đủ điều kiện trực tiếp quản lý dự án, không đủ điều kiện năng lực hoạt động
giám sát thi công xây dựng theo quy định của pháp luật; Thực hiện các nhiệm vụ
khác khi được UBND huyện giao.
Cấp xã: Trực tiếp do Chủ tịch UBND, Phường xã quyết định và thuê các tổ
chức, doanh nghiệp tư vấn và nhà thầu thực hiện các bước quản lý đầu tư theo quy
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
định của pháp luật.
53
3.3. Phân tích thực trạng công tác quản lý dự án đầu tư công trình xây dựng
từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2014
3.3.1. Phân tích kết quả thực hiện các dự án đầu tư
Trong những năm qua, công tác QLĐT công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhiều dự án đầu tư, công trình
xây dựng hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng đã góp phần phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn kết quả trên được thể hiện qua các năm như sau:
Năm 2010, tỉnh Quảng Ninh đã đầu tư 1.135,591 triệu đồng chiếm 100%
tổng chi ĐTPT của tỉnh (năm 2010 chưa có khoản chi hỗ trợ doanh nghiệp) với 607
công trình và hạng mục công trình, bao gồm 257 công trình chuyển tiếp và khoảng
120 công trình khởi công mới. Cũng trong năm này, hơn 200 công trình đã hoàn
thành, bàn giao đưa vào khai thác sử dụng, trong đó: Điện nước 23 công trình, giao
thông 42 công trình, nông lâm thuỷ lợi 46 công trình, giáo dục 30 công trình, y tế xã
hội 23 công trình, văn hoá - thể thao 5 công trình, quản lý nhà nước 31 công trình…
Năm 2011, ngân sách toàn tỉnh Quảng Ninh cân đối, bố trí đầu tư XDCB
1.931,580 triệu đồng tăng 70% so với năm 2010, chiếm 99% tổng vốn ĐTPT với
673 công trình.
Riêng năm 2012 do tình hình kinh tế trong nước khó khăn, thực hiện chủ
trương kiềm chế lạm phát cắt giảm đầu tư, nên tổng vốn đầu tư dành cho XDCB là
1.964.928 triệu đồng có tăng nhưng không tăng cao so với năm 2011 tăng khoảng
2% với 834 công trình.
Năm 2013, tỉnh tập trung nguồn lực cho đầu tư, tích cực phấn đấu tăng thu
dành cho đầu tư nhằm thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phục hồi kết quả nguồn vốn bố
trí cho năm 2013 là 3.251,000 triệu đồng tăng 65,4% so với năm 2012 với tổng
công trình 1.098 dự án, công trình.
Năm 2014 tỉnh tập trung cho đầu tư, tích cực phấn đấu tăng thu dành cho đầu
tư nhằm thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh, kết quả nguồn vốn bố trí cho năm 2014 là
3.933,253 triệu đồng tăng 2,4% so với năm 2013 và tăng 46,3% so với năm 2013,
với tổng công trình 1.255 dự án, công trình.
Tình hình thực hiện các dự án thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh theo các tiêu chí: Chất lượng, tiến độ và kinh phí…
Kết quả thực hiện các dự án đầu tư từ năm 2010 - 2014 theo địa bàn được thể
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hiện tại bảng kết quả thực hiện các dự án đầu tư (có bảng số liệu đính kèm)
54
Bảng 3.2. Kết quả các dự án đầu tư trên địa bàn do cấp Tỉnh quản lý
từ năm 2010 đến năm 2014
Đơn vị tính: Triệu đồng
Số Số Tổng số tiền đầu tư Tỷ lệ so với năm trước Năm TT dự án
1 2010 607 1.135,591
2 2011 673 1.931,580 70%
3 2012 834 1.964,928 2%
4 2013 1.098 3.251,000 65,4%
5 2014 1.255 3.933,253 2,4% (so với năm 2010 tăng 46,3%)
Tổng cộng: 4.467 12.216,352
(Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Ninh)
3.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện các dự án đầu tư
Mặc dù có thể khẳng định kết quả công tác QLDA tại tỉnh Quảng Ninh là
đáng khích lệ, bằng kết quả đã đạt được mang lại nhiều đổi mới cho tỉnh Quảng
Ninh, rất nhiều công trình được cải tạo, nâng cấp góp phần đáng kể cho việc phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Đạt được những thành công trên là do nhiều nguyên nhân nhưng tập trung lại
bao gồm những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Vốn đầu tư từ NSNN chủ yếu tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Các dự án từ NSNN chủ yếu là vào các lĩnh
vực giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng...
- Hàng năm tỉnh luôn cơ chế phân công phân cấp, quản lý và điều hành ngân
sách, tiết kiệm chi ngân sách để tập chung cho đầu tư phát triển. Chính sách khuyến
khích đổi đất lấy công trình, chính sách từ tiết kiệm trong đầu tư công trình XD.
Hàng năm đã tiết kiệm một lượng lớn để dành cho đầu tư xây dựng.
- Thường xuyên cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư công trình
XD như: quy trình cấp, thẩm định dự án đầu tư, quy trình thẩm định và phê duyệt
thiết kế, dự toán, quy trình tổ chức đấu thầu, quy trình quyết toán,… đã rút ngắn
thời gian thẩm định, giảm bớt phiền hà nhanh chóng đưa dự án vào thực hiện làm
cho công tác QLDA được hiệu quả.
- Công tác quản lý và đầu tư công trình XD dần dần đi vào nề nếp. Số hoạt
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
động trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng tăng kể cả số lượng
55
và chất lượng. Trình độ các ban quản lý dự án, các chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn
ngày càng được nâng cấp lên, máy móc thiết bị phục vụ cho công tác QLDA đầu tư
cũng thường xuyên đổi mới.
Tuy nhiên còn có rất nhiều dự án thực hiện chưa tốt công tác QLDA mà chủ
yếu là ở các loại dự án xây dựng hạ tầng, tuyến đường giao thông và xây dựng các
trụ sở làm việc dẫn đến dự án bị chậm tiến độ, chất lượng công trình sau khi hoàn
thành chưa đảm bảo chất lượng, quản lý chi phí. Đây cũng là những khía cạnh chủ
yếu trong QLDA.
- Một tiến độ thực hiện các công việc còn chưa đạt được kế hoạch đề ra. Việc
chậm trễ nằm ở tất cả các khâu, từ khâu lập dự án đầu tư trình thẩm tra, thẩm định,
đấu thầu, đền bù GPMB, thi công xây lắp, nghiệm thu bàn giao, thanh quyết toán.
Thời gian chậm trễ kéo dài qua hàng tháng, hàng quý thậm chí kéo dài hàng năm.
- Hai là chất lượng thực hiện trong khâu lập dự án đầu tư, lập thiết kế kỹ thật,
thẩm định trình phê duyệt, thi công xây lắp.
- Ba là chi phí thực hiện đầu tư còn có những công trình phát sinh nhiều, chi
phí phê duyệt bổ xung, điều chỉnh tổng mức đầu tư. Bên cạnh đó các đơn vị phường
xã lên kế hoạch đấu giá chuyển quyền sử dụng đất dôi dư, nhỏ lẻ hàng năm thực
hiện không đạt được kế hoạch đề ra dẫn đến không có nguồn để tái đầu tư theo kế
hoạch vốn đã phân bổ cho các công trình trong năm lại phải bố trí sang kế hoạch
năm sau gây ảnh hưởng tới công tác kế hoạch hóa và tăng lượng nợ đọng vốn dẫn
tới bố trí vốn bị dàn trải.
Kết quả thực hiện Công tác QLDA từ năm 2010 - 2014 được thể hiện bảng sau:
Bảng 3.3. Đánh giá đáp ứng về tiến độ, chất lượng, chi phí
Đáp ứng Đáp ứng Đáp ứng Năm Tổng
tiến độ chất lượng chi phí thực số TT Số lượng % Số lượng % Số lượng % dự án hiện
158 66,3 216 91 209 88 1 2010 238
189 75 228 90,6 210 84 2 2011 252
188 78 218 90,7 206 86 3 2012 240
176 80 204 93 196 89 4 2013 220
181 78,8 217 94 209 91 5 2014 230
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Nguồn: Báo cáo đánh giá giám sát hàng năm của HĐND tỉnh)
56
Qua bảng đánh giá tình hình thực hiện các dự án trên ta thấy số lượng các dự
án đáp ứng được chỉ tiêu tiến độ, đáp ứng về mặt chất lượng, đáp ứng về mặt chi phí
đều tăng dần qua các năm, tỷ lệ % tương đối cao.
Để làm rõ thực trạng trên tiến hành làm phân tích kết quả thực hiện các dự án
đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả thực hiện các dự án đầu tư theo các chỉ
tiêu: Tiến độ thực hiện công trình, chất lượng công trình hoàn thành và các chi phí
thực hiện công trình. Từ đó tìm ra các nhân tố ảnh hưởng làm cơ sở để đề xuất các
giải pháp hoàn thiện công tác QLDA tại tỉnh Quảng Ninh.
3.3.2.1. Phân tích việc thực hiện tiến độ các dự án đầu tư
a. Tiến độ thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư.
Trong công tác chuẩn bị đầu tư vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến chưa đáp ứng
được tiến độ yêu cầu của dự án, công tác chuẩn bị đầu tư thường chậm hoặc bị kéo
dài điều đó thể hiện ở chỗ thời gian Tỉnh đề xuất phương án đầu tư đến khi quyết
định phê duyệt dự án đầu tư thường kéo dài so với kế hoạch đầu tư đề ra từ 03 tháng
đến 01 năm.
* Các nhân tố chính làm chậm tiến độ trong công tác chuẩn bị đầu tư
- Công tác xây dựng kế hoạch vốn đầu tư: Đây là công tác có vai trò quan
trọng trong việc xác định chủ trương, định hướng và quy trình xây dựng thực hiện
kế hoạch vốn liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc tăng trưởng kinh tế, hoạch định ra quy hoạch, kế hoạch đầu tư trung hạn và ngắn
hạn. Tuy nhiên tỉnh Quảng Ninh chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch 5
năm về vốn đầu tư cũng như danh mục các dự án đầu tư, mới chỉ xây dựng kế hoạch
hàng năm. Hạn chế của việc này thiếu chủ động trong công tác tìm nguồn vốn cho đầu
tư, thực hiện nhiều dự án phát sinh trong năm do đó khi bố trí cho những dự án phát
sinh phải cắt giảm việc bố trí cho các dự án khác gây tình trạng đầu tư dàn trải và
kéo dài dự án.
- Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển, việc chồng chéo các quy hoạch vẫn xảy ra, các quy hoạch ngành
và quy hoạch tổng thể chưa có sự gắn kết. Nhiều dự án triển khai chưa có quy hoạch
vì vậy phải điều chỉnh địa điểm nhiều lần.
- Về phân bổ vốn và bố trí vốn cho các dự án: Số vốn được phân bổ cho các
địa phương theo định mức còn rất thấp so với tổng nguồn vốn ngân sách tỉnh phân
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bổ. Kết quả giám sát của Ban Kinh tế Ngân sách HĐND tỉnh Quảng Ninh cho thấy
57
số vốn được phân bổ theo nghị quyết của HĐND trên tổng số phân bổ của tỉnh cho
các địa phương cao nhất như thành phố Hạ Long được phân bổ là trên 13 tỷ chiếm
khoảng 20% tổng nguồn ngân sách tỉnh, Móng Cái là 12 tỷ chiếm 10%, huyện Đầm
Hà là 9 tỷ chiếm 10% tổng nguồn ngân sách tỉnh…; bố trí kế hoạch vốn đầu tư vẫn
còn hiện tượng dàn trải, tỷ lệ bố trí vốn cho các địa phương còn thấp bình quân các
năm chỉ đạt trên 20% so với tổng mức đầu tư. Qua giám sát tỷ lệ bố trí vốn cho các
dự án thuộc một số chủ đầu tư còn thấp Hải Hà bình quân 19%, thành phố Móng
Cái khoảng 20%, Vân Đồn 20%, Ban QLĐT công trình trọng điểm đạt từ 11-16%
trên tổng mức đầu tư... (báo cáo giám sát).
- Nhiều dự án có quyết định đầu tư sử dụng từ 2 đến 3 nguồn vốn đã gây
không ít khó khăn phức tạp cho công tác quản lý nguồn và bố trí vốn; có những dự
án gồm nhiều nguồn vốn chủ đầu tư chỉ tập trung hoàn thành vốn từ ngân sách cấp
tỉnh, vốn huy động thường bỏ ngỏ nên ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành dự án và
công tác thanh quyết toán vốn sau này như dự án Trường PTCS xã Thắng Lợi -
huyện Vân Đồn, Đường Khe ngái - Tràng Lương, Nghĩa trang nhân dân và nâng
cấp đường vào nghĩa trang Cẩm Phả, DA đường giao thông từ thị trấn Đầm Hà đến
xã Tân Bình (chậm do không xác định rõ nguồn vốn)…
Theo báo cáo Sở Kế hoạch đầu tư còn có 58 công trình đã có quyết định đầu tư
nhưng chưa được bố trí vốn với tổng mức đầu tư là 1.830,529 tỷ đồng, trong đó có 25
công trình được phê duyệt từ năm 2006 đến 2011 vẫn chưa được bố trí vốn. Như vậy
theo quy định thì các công trình này phải phê duyệt lại dự toán gây tình trạng lãng phí
không cần thiết và ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý đầu tư xây dựng.
Chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư còn có những hạn
chế như chưa tính toán đầy đủ các yếu tố tác động đến dự án (nguồn vốn, quy mô
đầu tư, tiến độ thực hiện và dự báo tăng trưởng kinh tế) dẫn đến quá trình thực hiện
phải điều chỉnh nhiều lần. Qua kiểm tra hồ sơ 30 dự án có 10 công trình điều chỉnh
do bổ sung thiết kế. Có những công trình được điều chỉnh nhiều như Chợ Đầm Hà
điều chỉnh 4 lần từ tổng mức 9 tỷ lên đến 39 tỷ đồng, Sân Vận Động Hòn Gai;
Đường dẫn Cầu Đá vách, Nâng cấp, cải tạo Quốc Lộ 279… (Báo cáo giám sát Ban
KTNS - HĐND tỉnh).
- Về phía đơn vị tư vấn do quá tải và đồng thời ký được nhiều hợp đồng với các
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
loại dự án khác nhau và mặt khác năng lực của các Chủ nhiệm dự án còn nhiều hạn chế.
58
- Do năng lực của Chủ đầu tư còn hạn chế, do đó chưa có sự phối hợp hiệu
quả với các đơn vị tư vấn trong việc lựa chọn phương án thích hợp nhất nên phải
sửa đi sửa lại.
- Do thời gian thẩm định tại các cơ quan thẩm quyền thẩm định và trình
UBND Tỉnh phê duyệt bị kéo dài dẫn đến công trình chậm tiến độ thực hiện.
b. Tiến độ thực hiện công tác đấu thầu lựa chọn nhà thầu
Công tác đấu thầu ở các Chủ đầu tư, Ban QLDA trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh được thể hiện theo các nội dung:
+ Quy trình tổ chức đấu thầu, các ban QLDA, các Chủ đầu tư đều tiến hành
theo đúng nội dung của quyết định đầu tư dự án. Nếu có phát sinh hay tình huống
xảy ra trong quá trình đấu thầu thì các đơn vị đều có văn bản báo cáo Chủ đầu tư để
xin ý kiến chỉ đạo.
+ Khi Nhà nước có thay đổi về Nghị định hướng dẫn Luật đấu thầu thì các
Ban QLDA, các nhà chủ đầu tư , UBND các huyện thị, thành phố duyệt cử cán bộ
đi tham gia các lớp tập huấn về hướng dẫn mới của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ
ban hành để có thể nắm vững quy chế của nhà nước về đấu thầu, lựa chọn nhà thầu
phù hợp với các chính sách của Nhà nước.
+ Trong quá trình thực hiện, năng lực cán bộ của các ban QLDA, các Chủ
đầu tư ngày càng được nâng cao, vận dụng một cách linh hoạt để xử lý tình huống
trong công tác đấu thầu, đảm bảo được tính đúng đắn, minh bạch cho dự án, tránh
được hiện tượng tiêu cực trong việc thi công công trình như: Lạm dụng vốn, thất
thoát và lãng phí vốn…
* Các nhân tố chính làm ảnh hưởng tiến độ trong việc lựa các chọn nhà thầu.
Mặc dù đã thực hiện tốt trong công tác đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhưng
một số dự án công tác đấu thầu còn kéo dài so với kế hoạch.
+ Thời gian của tổ tư vấn chấm thầu còn kéo dài theo quy định của dự án đấu
thầu trong nước và sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì thời gian từ khi mở thầu
đến khi quyết định phê duyệt kết quả đầu tư không quá 45 ngày. Nhưng do tổ chức
tư vấn xét thầu mà do ban QLDA tham mưu cho Chủ đầu tư phê duyệt Quyết định
tổ chức tư vấn xét thầu giúp Chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu là các cấp lãnh đạo,
chuyên viên của các Sở ngành của UBND tỉnh làm kiêm nhiệm nên thời gian giúp
Chủ đầu tư là hạn chế, đồng thời lại chấm nhiều gói thầu lớn của các huyện, thị nên
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chồng chéo dài dẫn đến vượt quá thời gian quy định, chất lượng kém hiệu quả.
59
c. Tiến độ thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.
Công tác đền bù GPMB công trình, từ khâu xác định mốc giới tại thực địa,
kê kiểm, áp giá đền bù, thỏa thuận với các hộ dân, xác nhận của các địa phương, lập
trình duyệt phương án đền bù, thẩm tra phê duyệt của địa phương, trả tiền đền bù là
một chuỗi công việc phức tạp, đi lại nhiều lần, chiếm rất nhiều thời gian, kéo dài
quá trình thực hiện dự án, đây là một trong những nguyên nhân chính làm chậm tiến
độ công trình.
* Các nhân tố chính làm ảnh hưởng tiến độ thực hiện công tác GPMB
Những khó khăn vướng mắc trong công tác GPMB chủ yếu ở các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng các khu tái định cư, các khu đô thị mới và các dự án xây dựng
các tuyến đường thuộc dự án trọng điểm, do đây là những công trình lớn có phạm vi
thu hồi đất rộng ảnh hưởng đến đất nông nghiệp, đất ở và đất cơ quan… Và trước
đây công tác quản lý đất đai chưa chặt chẽ dẫn đến có hiện tượng sai khác giữa diện
tích thực và diện tích đất trên giấy chứng nhận sở hữu nhà đất, giá nhà đất có nhiều
biến động, nên khi lên phương án đền bù chi tiết người dân chưa đồng ý, có kiến
nghị về giá bồi thường đất và không nhận tiền đền bù, dẫn đến tình trạng chậm
GPMB để bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công để thi công dự án.
* Lý do:
+ Vướng mắc về chính sách đền bù (hỗ trợ) đối với đất không có giấy tờ hợp
lệ về quyền sử dụng đất, làm kéo dài công tác đền bù GPMB và ảnh hưởng đến tiến
độ công trình.
+ Chất lượng của công tác kiểm đến chưa cao dẫn đến phát sinh khối lượng
trong quá trình thực hiện đền bù GPMB.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Cán bộ được giao nhiệm vụ đền bù GPMB còn thiếu kinh nghiệm, tinh
thần trách nhiệm chưa cao.
+ Công tác vận động, thuyết phục quần chúng chưa được chú trọng, dẫn đến
nhiều bức xúc của người dân không được giải quyết kịp thời.
+ Các chế độ chính sách của Nhà nước trong công tác quản lý đất đai, đền bù
GPMB chưa được cập nhật kịp thời.
+ Sự phối hợp trong công việc giữa cán bộ của Chủ đầu tư với cán bộ của
đơn vị tư vấn lập hồ sơ đền bù GPMB chưa chặt chẽ, kịp thời.
+ Thời gian thẩm định và trình duyệt phương án đền bù GPMB của các cấp
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
có thẩm quyền còn bị kéo dài.
60
d. Tiến độ thực hiện công tác thi công
Công tác thi công là một khâu quan trọng bậc nhất, phức tạp nhất, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến việc phát huy hiệu quả của vốn đầu tư. Tuy nhiên trong những
năm qua tại tỉnh Quảng Ninh vẫn còn nhiều dự án kéo dài do với tiến độ được
duyệt, cụ thể: Số các dự án kéo dài so với quy định (2 năm đối với dự án nhóm C, 4
năm đối với dự án nhóm B) có xu hướng gia tăng theo báo cáo của Sở kế hoạch và
Đầu tư năm 2010 là 17 CT, năm 2011 là 72 CT, năm 2012 là 68 CT, đến tháng
2013 là 129 CT, nguyên nhân chính vẫn do bố trí vốn dàn trải và vướng trong công
tác GPMB. Chỉ tính riêng các dự án được bố trí cho các địa phương với tổng số
nguồn năm 2012 là 156,738 tỷ bố trí cho 210 CT với tổng mức đầu tư 807,073 tỷ,
năm 2013 tổng nguồn vốn bố trí 133,642 tỷ bố trí cho 200 công trình với tổng mức
đầu tư 750,689 tỷ đồng. Báo cáo của Sở Giáo dục hầu hết các dự án do Sở làm chủ
đầu tư đều bị kéo dài và phải điều chỉnh như Trường Lê Chân sau 10 năm mới hoàn
thành, trường Trần Phú; Dự án Đường Bình Liêu Húc Động quyết định từ năm
2006 đến thời điểm giám sát vẫn chưa hoàn thành. Điều này ảnh hưởng tới hiệu quả
vốn đầu tư; ảnh hưởng tới đến chất lượng và tuổi thọ của công trình...
* Các nhân tố chính làm chậm tiến độ thi công
+ Các dự án hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư, khu đô thị mới, các dự án xây
dựng tuyến đường mới thường chậm do khâu GPMB chưa xong dẫn đến chậm bàn
giao mặt bằng thi công.
+ Nhà thầu thi công chưa đủ mạnh về nhân lực, năng lực, biện pháp tổ chức
thi công chưa khoa học và hạn chế về vốn, thi công cầm chừng trông chờ vào vốn
cấp theo kế hoạch hàng năm của Nhà nước.
+ Nhiều dự án do Tư vấn lập thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán chưa chính xác,
các cơ quan có thẩm quyền thẩm tra, thẩm định còn thiếu trách nhiệm thẩm định sơ
sài dẫn đến trong quá trình thi công nhà thầu, tư vấn giám sát và Chủ đầu tư phát
hiện cần phải thay đổi thiết kế cho phù hợp và nâng cao hiệu quả sử dụng của dự án,
vì vậy phải dừng thi công chờ xử lý kỹ thuật và phê duyệt điều chỉnh thiết kế, phê
duyệt lại tổng mức đầu tư.
e. Tiến độ thực hiện công tác nghiệm thu.
Nhìn chung công tác nghiệm thu kỹ thuật công trình được các Ban QLDA,
các Chủ đầu tư trên địa bàn tỉnh, huyện thị, thành phố, tổ chức nghiệm thu theo
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đúng quy định hiện hành của Nhà nước tại nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16
61
tháng 12 năm 2004 của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn còn một số dự án thi công công
tác nghiệm thu còn chậm dẫn đến quyết toán chậm và bố trí kế hoạch vốn thiếu cho
dự án phải kéo dài sang năm kế hoạch của năm sau.
* Các nhân tố chính làm chậm công tác nghiệm thu
+ Kế hoạch nghiệm thu chưa được các đơn vị xây lắp lên kế hoạch đầy đủ và
cụ thể cho các hạng mục công trình, chưa thông báo trước cho các đơn vị liên quan
nên đôi khi Chủ đầu tư, các Ban QLDA và nhà thầu tư vấn giám sát thi công bị
động trong việc cử cán bộ đi nghiệm thu.
+ Tiến độ nghiệm thu hoàn thành toàn bộ công trình thường chậm và kéo dài
do nhà thầu chậm giải quyết các tồn tại khi nghiệm thu từng phần việc, từng hạng
mục công trình, việc này ảnh hưởng tới công tác bàn giao công trình cho đơn vị
quản lý sử dụng vận hành.
g. Tiến độ thực hiện công tác thanh quyết toán, giải ngân
Theo thông tư số 33/2007/TT- BTC của Bộ Tài Chính các công trình dự án
hoàn thành đưa vào sử dụng chậm nhất sau 6 tháng phải quyết toán. Tính đến nay
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh số công trình dự án hoàn thành nhưng chưa được
quyết toán vẫn còn.
Theo báo cáo của Sở Tài chính một số dự án hoàn thành từ nhiều năm nhưng
vẫn chưa quyết toán như Đường Hậu Cần hoàn thành năm 2007 TMDT 21 tỷ, Dự
án Hồ Đồng Đò TMĐT là 30 tỷ hoàn thành năm 2008, DA Đập Đá Trắng hoàn
thành năm 2009. Một số chủ đầu tư có giá trị quyết toán lớn nhưng chưa phê duyệt
quyết toán như Sở giao thông là 219,11 tỷ (các dự án hoàn thành từ năm 2004 đến
2011), Ban QLDA trọng điểm là 203,218 tỷ (các dự án hoàn thành từ năm 2002-
tháng 6/2014), Đầm Hà là 100,277 tỷ (các dự án hoàn thành từ năm 2005 - tháng
11/2014), Sở Y tế là 44,819 tỷ (các dự án hoàn thành từ năm 2000- 2011).
* Các nhân tố chính làm chậm công tác thanh toán, giải ngân.
Phần lớn những dự án này sẽ có những sai sót về mặt thủ tục, thiếu thủ tục và
phần lớn do trình độ quản lý vô trách nhiệm của một số cán bộ thuộc Chủ đầu tư.
Do vậy việc chấn chỉnh và tăng cường công tác giải ngân, thanh toán quyết toán là
hết sức cần thiết.
3.3.2.2. Phân tích đáp ứng về mặt chất lượng công trình
Trong những năm gần đây chất lượng thi công công trình được nâng lên nhất
là từ những năm 2011 cho đến nay nhờ có các văn bản của Nhà nước ban hành
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hướng dẫn kịp thời trong đầu tư XDCB, một phần do phân cấp giành quyền tự
62
quyết định tới các cấp huyện, thành phố, xã, phường, nên các Chủ đầu tư chủ động
trong việc bố trí vốn cho công trình và thực hiện chủ trương đầu tư dẫn đến chủ
công trình thực hiện nhanh, hiệu quả và đúng tiến độ đảm bảo chất lượng.
Chỉ tiêu chất lượng được thể hiện qua các nội dung:
- Chất lượng khảo sát xây dựng, thiết kế công trình.
- Chất lượng thi công xây dựng công trình.
- Công tác bảo hành công trình.
- Chế độ bảo trì công trình.
a. Chất lượng khảo sát xây dựng, thiết kế công trình.
Một trong những lĩnh vực quan trọng đầu tiên là công tác tư vấn kháo sát
thiết kế bao gồm các khâu: Lập quy hoạch, khảo sát, lập dự án đầu tư, lập thiết kế -
tổng dự toán, thẩm định thiết kế - tổng dự toán… công tác này càng chính xác thì
càng góp phần đáng kể quyết định tính hiệu quả của dự án (theo điều 35 khoản 4
của Luật xây dựng).
Thực tế qua các năm 2010 - 2014 thì chất lượng của công tác khảo sát thiết
kế đã từng bước được nâng cao, tuy nhiên vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu thể
hiện ở chỗ:
Nhiều công trình khảo sát chưa kỹ dẫn đến công trình đi vào thi công phải
dừng lại để xử lý kỹ thuật thay đổi thiết kế gây lãng phí kéo dài thời gian và tăng
chi phí. Việc thực hiện đầu tư tại Quảng Ninh những năm vừa qua đã thể hiện sự
lãng phí do đơn vị thiết kế khối lượng thi công vượt quá mức an toàn cần thiết, thiết
kế không đảm bảo chất lượng… nên quá trình thi công phải chỉnh sửa nhiều lần.
Khảo sát không chính xác do chưa nghiên cứu một cách thấu đáo, kỹ lưỡng kết hợp
giữa điệu kiện tự nhiên, xã hội, địa hình, địa chất thủy văn khu vực. Các công trình
xây dựng qua vùng có địa hình phức tạp cấu tạo địa chất và địa chất - thuỷ văn phức
tạp, nền đất yếu… nhưng chưa được thiết kế phương án tối ưu dẫn đến thiết kế
không đảm bảo kỹ thuật làm tuổi thọ công trình giảm, tạo ra sự lãng phí vô hình,
hoặc phải phá đi làm lại tốn rất nhiều chi phí đầu tư, không hiệu quả.
Chẳng hạn khâu khảo sát thăm dò địa chất của Dự án đầu tư xây dựng hệ
thống hạ tầng kỹ thuật Cảng Vạn Gia thành phố Móng Cái không sát với thực tế
làm ảnh hưởng đến quyết định tổng mức đầu tư sai phải bổ sung, cụ thể: dự án được
UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt tại Quyết định số 2174/QĐ-UB ngày 23/08/2004
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
có tổng mức đầu tư là 14.940 triệu đồng. Thi công xong móng kè và tường kè biển
63
có đoạn sự cố trượt, phải thiết kế làm mới và được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết
định số 3998/QĐ-UBN ngày 06/11/2007 tổng dự toán 25.536 triệu đồng. Trong đó
phần thiết kế mới là 10.587 triệu đồng. Nguyên nhân là do cơ quan tư vấn thiết kế
không đúng chuyên ngành, khảo sát thiết kế móng công trình kè biển không sát với
thực tế địa chất công trình.
Hoặc như công trình thi công hệ thống kênh mương Đầm Hà Động. Theo
thiết kế ban đầu đã được phê duyệt thì hệ thống kênh mương Đầm Hà Động bao
gồm 2 tuyến kênh chính dài 15,8 km và 9 tuyến kênh cấp I dài 44,16 km. Tuyến
kênh chính bờ phải đảm nhận tưới và tạo nguồn cho 3.011 ha, tuyến kênh N1 có
nhiệm vụ tưới cho 342 ha. Mặc dù mới thi công được 7 gói thầu từ K11 đến K17
nhưng đã bộc lộ rất nhiều bất hợp lý về thiết kế của tuyến kênh này. Theo báo cáo
của Ban Quản lý Dự án II trong quá trình thi công Ban đã phát hiện một số điểm bất
hợp lý trong thiết kế hệ thống kênh mương, đó là: Trên tuyến kênh chính bờ phải
cọc 28 - 29 theo tư vấn thiết kế yêu cầu hạ bậc nước cao trình đáy kênh trước bậc
nước 39,915m, sau bậc nước 35,372m, như vậy phải hạ đầu nước 4,543m dẫn tới
cống đầu kênh N4 tại cọc 47 thấp hơn mặt ruộng khoảng 1m (thuộc gói thầu K11).
Trên tuyến kênh N1 thuộc gói thầu K15 đáy kênh đoạn từ C0 đến C10 và dốc nước
từ cọc 16 đến đầu xi phông tại cọc 27 đoạn này đào quá sâu so với mặt ruộng dẫn
đến đáy kênh thấp hơn khu tưới. Tuyến kênh N2, đoạn từ C127 đến C149 thuộc gói
thầu K17 đáy kênh thiết kế đào sâu so với mặt ruộng. Việc thiết kế sai dẫn tới hậu
quả là có tới gần 80 ha tại xã Quảng Lợi không thể lấy nước tưới tiêu về và ảnh
hưởng tới sản xuất của hơn 200 hộ dân. Một số đoạn kênh xây trước nhà dân do đào
quá sâu ảnh hưởng đến an toàn các công trình khác; một số đoạn do mặt kênh quá
cao khiến cho việc đi lại rất khó khăn. Theo thiết kế hệ thống kênh Đầm Hà Động
sẽ dẫn nước từ hồ chứa đến diện tích canh tác của các xã ở khu vực phía dưới như
Đầm Hà, Đại Bình, Tân Bình... Tuy nhiên, trước đây huyện đã đầu tư xây dựng hệ
thống kênh mương dẫn nước xuống cho khu vực này lấy từ Kênh Đông Hà đoạn từ
C197 đến C220. Hiện tại cả đơn vị tư vấn thiết kế và chủ đầu tư đều chưa có biện
pháp khắc phục, bởi nếu đấu nối kênh mới với kênh cũ thì kênh huyện đã xây trước
đây không đáp ứng được lưu lượng nước từ kênh mới đổ về nên rất dễ bị vỡ kênh.
Còn nếu phá bỏ tuyến kênh cũ đi để xây kênh mới thì quá lãng phí nhưng đầu tư
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
xây mới một tuyến đi song song cùng cấp nước cho khu vực canh tác phía dưới
64
cũng rất lãng phí trong khi những khu khác đang cần có kênh mương thì lại chưa có
kinh phí đầu tư.
Thi công hệ thống kênh mương đầm Hà Động: Nhiều đoạn tuyến vừa làm xong đã phải sửa...
Chuyện nghe có vẻ khó tin nhưng đó là sự thật đang xảy ra trong quá trình thi công trên một số đoạn của hệ thống kênh mương Đầm Hà Động, lòng kênh thấp hơn mặt ruộng khoảng 1m. Thấy chúng tôi loay hoay tìm lối xuống bờ kênh bà con nông dân thôn Châu Hà (xã Quảng Lợi, Đầm Hà) đang làm đất trồng màu quanh khu vực có kênh chạy qua đã cười đùa: "Các đồng chí phải đi mượn thang thì mới xuống được bờ kênh. Thật ngược đời làm mương mà lại thấp hơn ruộng thì tưới làm sao?’’. Đi dọc đoạn kênh chính bờ phải chạy qua thôn Châu Hà, thôn Trung Sơn (xã Quảng Lợi) chúng tôi thấy có chỗ đã hoàn thiện việc đổ bê tông, có chỗ vừa được xây gạch, chỗ mới đào nền nhưng tất cả đều thấp hơn mặt ruộng canh tác. Quanh khu vực kênh chạy qua, nhiều chỗ lòng kênh sâu so với mặt ruộng tới 2 sải tay. Bác Phan Văn Đăng, thôn 5, xã Quảng Tân cho biết: Gia đình tôi có 5 sào ruộng đang canh tác ở khu vực có kênh chạy qua nhưng không lấy được nước từ kênh để tưới. Trước đây chúng tôi vẫn có nước để cấy lúa, trồng màu nhưng từ ngày đơn vị thi công đào kênh đã làm cả khu vực hết nước, cả đường sang ruộng cũng không có. Tôi đang lo không biết vụ xuân năm tới có nước để sản xuất hay không đây? Bao nhiêu năm nay chúng tôi mơ ước có được hệ thống công trình thuỷ lợi hoàn chỉnh phục vụ cho sản xuất cứ ngỡ được Nhà nước đầu tư cho hệ thống kênh mương này thì đồng ruộng sẽ không bị chết khát như những năm trước nữa nhưng xem ra thật khó, kênh thấp hơn ruộng thế này thì lấy nước làm sao được? Khi đơn vị thi công đào xong nền mương chúng tôi phát hiện thấy nó quá sâu so với ruộng đã phản ánh nhưng họ vẫn cứ làm, hiện có những đoạn đã đổ bê tông xong rồi như vậy là quá lãng phí.
Làm mương để hứng nước ruộng
Sơ suất nhỏ hậu quả lớn: Theo biên bản làm việc giữa Công ty cổ phần Tư vấn và Đầu tư Xây dựng Thuỷ lợi Quảng Ninh, Ban Quản lý dự án II, các đơn vị thi công thì nguyên nhân kênh thấp hơn khu tưới là do thiết kế. Ông Giáp Văn Phong, Giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn và Đầu tư Xây dựng Thuỷ lợi cho biết: Năm 2002 Công ty trúng thầu tư vấn thiết kế tuyến kênh mương Đầm Hà Động, theo đó tuyến kênh chính đang được xây là để dẫn nước tưới cho các xã ở khu vực phía dưới, còn những diện tích ở phía trên này theo thiết kế sẽ có tuyến kênh cấp 2 dẫn nước từ đầu kênh xuống. Hiện tại do việc thi công mới đang tiến hành bà con thấy kênh chạy qua khu tưới mà thấp hơn không dẫn được nước vào ruộng đã phản ánh. Do đặc thù điều kiện địa hình khu vực miền núi nên không thể đòi hỏi chỗ nào cũng có thể dẫn nước từ kênh về khu tưới được. Tuy nhiên, khi nhận được phản ánh của bà con nông dân xã Quảng Tân và Quảng Lợi về những điểm bất hợp lý trong thiết kế tuyến kênh chính Công ty đã chủ động báo cáo Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn cho điều chỉnh thiết kế, đối với kênh chính đoạn từ cọc 28 đến cọc 45 đầu kênh N4 sẽ nâng cao trình đáy kênh lên 1m, đảm bảo tưới cho khoảng 3 ha của thôn Châu Hà tạm thay thế cho kênh cấp 2 sẽ xây dựng sau này. Đoạn kênh từ cọc 90 đến cọc 112 đầu kênh N1 nâng cao trình đáy kênh lên 1m, đảm bảo tưới cho khoảng 6 ha đất canh tác hai bên bờ kênh chính của thôn Trung Sơn. Đồng thời trong quá trình thi công sẽ điều chỉnh thiết kế và bổ sung một số hạng mục như: cầu qua kênh, cống vượt cấp và nâng cao một số đoạn kênh cho phù hợp với thực tế, với quy hoạch của địa phương. Theo kế hoạch thì còn 2 năm nữa công trình sẽ hoàn thành vì vậy việc điều chỉnh thiết kế cho phù hợp chắc chắn sẽ được giải quyết nhanh, bà con sẽ lấy được nước về tưới cho tất cả các diện tích canh tác.
(Nguồn:http://www.baoquangninh.com.vn)
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
65
Như vậy, có thể thấy đây chỉ là một sơ suất rất nhỏ trong thiết kế của đơn vị tư vấn nhưng hậu quả thì lại không hề nhỏ bởi qua sự việc này đã làm mất lòng tin của người dân, làm giảm uy tín của doanh nghiệp, làm chậm tiến độ thi công công trình, thiệt hại đối với các nhà thầu. Đồng thời cho thấy công tác duyệt thiết kế kỹ thuật không chuẩn đã gây lãng phí NSNN.
b. Chất lượng trong công tác thi công Công tác thi công của các đơn vị thi công xây lắp nhìn chung đạt chất lượng song vẫn còn một số đơn vị xây lắp thi công chậm và chất lượng kém, do khi tính toán bỏ thầu nên khi bắt tay vào thi công gặp khó khăn trong việc huy động nhân lực và phương tiện thi công.
Nhà thầu ký nhiều hợp đồng thi công cùng thời điểm dẫn đến lực lượng thi công lành nghề của nhà thầu bị dàn trải, thiếu cán bộ chủ chốt và công nhân lành nghề, điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
Công tác giám sát thi công quyết định đến chất lượng công trình, đảm bảo công tác thi công đúng tiến độ và các mặt yêu cầu khác trong quá trình thi công như đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường, công tác giám sát thi công thường xuyên tại hiện trường giúp cho đơn vị thi công xử lý các tình huống tại hiện trường được nhanh chóng, đảm bảo cho thi công được thuận lợi.
Quản lý chất lượng thi công XDCT phải thực hiện các công việc sau: - Tổ chức quản lý chất lượng thi công XDCT. - Chủ đầu tư yêu cầu Nhà thầu thi công xây dựng phải thực hiện QLCL thi
công XDCT với nội dung:
+ Lập kiểm tra thực hiện biện pháp thi công, tiến độ thi công. + Lập và ghi nhật ký thi công XDCT theo quy định. + Kiểm tra an toàn lao động, vệ sinh môi trường, nghiệm thu nội bộ và lập bản vẽ hoàn công cho bộ phận công trình xây dựng và công trình xây dựng nghiệm thu hoàn thành.
+ Chuẩn bị tài liệu làm căn cứ nghiệm thu theo quy định tại điều 24, 25, 26 Nghị định 209/2004/NĐ-CP và lập phiếu yêu cầu Chủ đầu tư tổ chức nghiệm thu. (điều 31, 32 Nghị định 15/2013/NĐ-CP)
Chủ đầu tư phải thực hiện giám sát chất lượng thi công XDCT theo nội dung: + Kiểm tra các điều kiện khởi công CTXD theo quy định tại điều 72 của Luật
xây dựng.
+ Kiểm tra sự phù hợp năng lực của nhà thầu thi công XDCT với hồ sơ dự thầu và hợp đồng xây dựng về nhân công, thiết bị thi công, hệ thống quản lý chất
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lượng nhà thầu.
66
+ Kiểm tra giám sát vật tư, vật liệu và thiết bị lắp đặt vào công trình. + Kiểm tra giám sát trong quá trình thi công. - Chủ đầu tư yêu cầu nhà thầu thiết kế XDCT thực hiện giám sát tác giả
trong quá trình thi công.
Thực trạng về công tác quản lý chất lượng của các công trình xây dựng của tỉnh những năm qua còn không ít những bất cập dẫn đến chất lượng của công trình chưa được đảm bảo.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên đòi hỏi Chủ đầu tư phải có năng lực để
QLDA hoặc thành lập Ban quản lý dự án để giúp chủ đầu tư QLDA.
Nguyên nhân ảnh hưởng đến quản lý chất lượng thi công công trình. Ở tỉnh Quảng Ninh, thời gian qua, trừ một số ban QLDA có trình độ về QLDA làm theo đúng các quy trình, quy định của thông tư, nghị định của Nhà nước còn lại đa số là do các chủ đầu tư trực tiếp QLDA, do đó đã có những tồn tại sau:
Về phía Chủ đầu tư - Một số chủ đầu tư không nắm chắc các quy định về quản lý dự án, lúng túng trong tổ chức thực hiện, từ lập dự án, trình duyệt, thẩm định, tổ chức đấu thầu, giám sát thi công xây lắp và nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng.
- Công tác giám sát thi công, nghiệm thu từng phần và nghiệm thu toàn bộ do không có cán bộ thường xuyên bám sát tại hiện trường và do là cán bộ kiêm nhiệm của các đơn vị phòng ban, xã phường nên chủ yếu dựa vào báo cáo của nhà thầu. Có công trình không đảm bảo chất lượng nhưng vẫn được nghiệm thu.
- Không kiểm soát được nhà thầu. Về phía nhà thầu: Trách nhiệm của nhà thầu được quy định tại mục 3 điều 46 Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ.
- Chỉ được phép nhận thầu thi công những công trình thực hiện đúng thủ tục đầu tư và xây dựng, phù hợp với năng lực của mình; thi công đúng thiết kế được giám sát, kiểm tra thường xuyên về chất lượng công trình của chủ đầu tư tổ chức thiết kế và cơ quan giám định nhà nước theo phân cấp quản lý chất lượng CTXD;
- Chịu trách nhiệm trước Chủ đầu tư và trước pháp luật về chất lượng thi công xây lắp công trình kể cả những phần việc do nhà thầu thực hiện theo quy định của hợp đồng giao nhận thầu xây lắp;
- Vật liệu cấu kiện xây dựng sử dụng vào công trình phải có chứng nhận về
chất lượng gửi cho Chủ đầu tư để kiểm soát trước khi sử dụng theo quy định;
- Tổ chức hệ thống bảo đảm chất lượng công trình để quản lý chất lượng sản
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phẩm xây dựng trong quá trình thi công.
67
c. Chất lượng trong công tác nghiệm thu Công tác nghiệm thu công trình về cơ bản đã được Ban QLDA, các Chủ đầu tư cùng các đơn vị tư vấn giám sát thi công, tư vấn thiết kế thực hiện nghiêm túc, tuân thủ các quy định hướng dẫn hiện hành của Nhà nước về công tác quản lý chất lượng công trình, tiến hành nghiệm thu cho từng hạng mục nếu đạt yêu cầu kỹ thuật mới cho chuyển bước để thi công hạng mục tiếp theo, theo quy đinh tại nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ.
* Các nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng công trình. + Trong khâu khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, nhiều đơn vị tư vấn còn khảo sát thiết kế hời hợt, chưa khảo sát kỹ và thiết kế chưa đề cập hết khối lượng công việc dẫn đến thi công phải điều chỉnh thiết kế, bổ xung khối lượng, phải dừng thi công làm chậm tiến độ, ảnh hưởng đến chất lượng công trình và chi phí cho giá thành công trình.
+ Trong khi công trình nhà thầu thi công do cạnh tranh đã đề xuất giá dự thầu giảm tới 20 - 30% giá trị gói thầu dẫn đến không thực hiện được hợp đồng đúng tiến độ, kéo dài, thiếu các bộ có năng lực quán xuyến công trình, thiếu lực lượng công nhân lành nghề.
+ Công tác giám sát thi công của Chủ đầu tư còn làm việc kiêm nhiệm, các bộ giám sát của Ban QLDA nhiều việc nên giám sát chưa chặt chẽ nhất là nhiều dự án ở xa. 3.3.2.3. Phân tích tình hình thực hiện dự án theo kinh phí
Công tác quản lý chi phí dự án đầu tư của các Ban QLDA và các Chủ đầu tư đều tuân theo hệ thống tài chính kế toán hiện hành mà ta có thể thấy qua một số văn bản sau đây:
- Nghị định số 16/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư
XDCB nay là nghị định 12/2014/NĐ-CP.
- Công văn số 1500/TTCK-ĐT ngày 17/2/2008 của Bộ tài chính về việc triển
khai kế hoạch và cấp vốn đầu tư XDCB kế hoạch năm 2008.
- Thông tư liên tịch số 38/2008/TTLT-BTC-BXD ngày 26/4/2008 của Bộ tài chính - Bộ xây dựng hướng dẫn việc thông báo và kiểm soát giá vật liệu xây dựng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
- Thông tư số 45/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008 của Bộ tài chính bổ sung, sửa đổi một số điểm của Thông tư số 44/2007/TT-BTC ngày 15/5/2007 nay là thông tư 33/2011/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn quản lý thanh toán vốn đầu tư và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhà nước đã ban hành, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách, nguyên tắc và phương pháp lập, điều chỉnh đơn giá, dự toán; định mức
68
kinh tế - kỹ thuật trong thi công xây dựng; định mức chi phí trong hoạt động xây dựng để lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý TMĐT, tổng dự toán và thanh toán vốn đầu tư XDCT.
Kết quả thực hiện về chi phí các công trình quyết toán trong hai năm 2013 và
2014 như sau:
Bảng 3.4. Tổng hợp dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán năm 2013
Đơn vị tính: Triệu đồng
Dự án đã phê duyệt quyết toán
Loại dự án
Số TT
Tỷ lệ giảm
Tổng giá trị quyết toán được phê duyệt
Tổng giá trị đề nghị quyết toán
Số dự án, công trình
4
5
2 Tổng số
432.387
Giảm so với giá trị đề nghị quyết toán 6 = 4-5 1.689.688 1.656.688 33.000 438.618 6.231 1.251.070 1.224.301 26.769
3 741 11 730
7=6/4 1,95% 1,42% 2,14%
1
11
438.618
432.387
6.231
1,42%
A
- Nhóm B - Nhóm C Nhóm B (thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND tỉnh)
B Nhóm C
730
1.251.070 1.224.301 26.769
2,14%
230
789.874
774.815
15.059
1,91%
I
500
461.196
449.486
11.710
2,54%
II
Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND tỉnh Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp huyện
39 59 36 15 42 34 42 43 51 38 66 35
44.208 54.977 63.098 15.754 30.711 9.421 15.110 8.459 94.832 39.754 51.171 33.701
43.123 54.093 60.259 15.498 30.372 9.271 14.759 8.058 91.538 38.623 50.257 33.635
1.085 884 2.839 256 339 150 351 401 3.294 1.131 914 66
2,45% 1,61% 4,50% 1,62% 1,10% 1,59% 2,32% 4,74% 3,47% 2,84% 1,79% 0,20%
1 Huyện Yên Hưng 2 Thành phố Cẩm Phả 3 Thành phố Uông Bí 4 Huyện Ba Chẽ 5 Thành phố Hạ Long 6 Huyện Vân Đồn 7 Huyện Hoành Bồ 8 Huyện Đông Triều 9 Huyện Hải Hà 10 Huyện Đầm Hà 11 Thành phố Móng Cái 12 Huyện Tiên Yên
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(Nguồn: Sở Tài chính tỉnh Quảng Ninh)
69
Bảng 3.5. Tổng hợp dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán năm 2014
Đơn vị tính: Triệu đồng
Loại dự án
Số TT
Tỷ lệ giảm
Dự án đã phê duyệt quyết toán Giảm so Tổng với giá trị giá trị đề nghị quyết quyết toán được toán phê duyệt 6 = 4-5 5
Tổng giá trị đề nghị quyết toán 4
Số dự án, công trình 3
2 Tổng số
452.572
8
1
1314 2.621.480 2.578.077 446.215 1306 2.168.908 2.131.862
7=6/4 43.404 1,66% 6.357 1,40% 37.047 1,71%
A
8
452.572
446.215
6.357 1,40%
- Nhóm B - Nhóm C Nhóm B (thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND tỉnh)
B Nhóm C
1306 2.168.908 2.131.862
37.047 1,71%
I
265 1.157.992 1.142.535
15.457 1,33%
II
1041 1.010.916
989.327
21.590 2,14%
Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND tỉnh Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp huyện Huyện Yên Hưng 1 Thành phố Cẩm Phả 2 Thành phố Uông Bí 3 Huyện Ba Chẽ 4 Thành phố Hạ Long 5 Huyện Vân Đồn 6 Huyện Hoành Bồ 7 Huyện Đông Triều 8 9 Huyện Hải Hà 10 Huyện Đầm Hà 11 Thành phố Móng Cái 12 Huyện Tiên Yên 13 Huyện Cô Tô 14 Huyện Bình Liêu
51 58 155 105 122 54 68 78 151 56 91 52 17 31
38.566 83.244 114.237 72.936 174.812 67.869 37.225 58.024 181.158 60.887 75.108 46.850 52.947 45.810
35.910 82.125 111.120 71.576 172.463 67.176 36.146 57.115 176.743 59.934 72.402 46.617 52.890 45.109
2.656 6,89% 1.119 1,34% 3.117 2,73% 1.360 1,86% 2.350 1,34% 693 1,02% 1.079 2,90% 909 1,57% 4.415 2,44% 953 1,57% 2.706 3,60% 233 0,50% 57 0,11% 701 1,53%
(Nguồn: Sở Tài Chính tỉnh Quảng Ninh)
Trong những năm qua, việc lập và quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng, hệ
thống giá xây dựng và cơ chế chính sách có liên quan do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện dự án do khảo sát, thiết
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lập dự toán chủ đầu tư còn hời hợt, năng lực tư vấn còn yếu kém nên còn phát sinh
70
khối lượng, điều chỉnh thiết kế dẫn đến phải dừng và phê duyệt, còn do chính sách
nhà nước thay đổi liên tục và không đồng bộ. Các phát sinh này làm vượt TMĐT
ban đầu làm tăng chi phí, ảnh hưởng chất lượng QLDA, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư XDCB có nhiều cơ quan tham gia.
Công tác chuẩn bị đầu tư là do Sở KH&ĐT chủ trì thẩm định cùng các ngành tham
gia; thẩm định thiết kế kỹ thật và tổng dự toán (dự toán), quản lý chất lượng công
trình là do Sở xây dựng và Sở có xây dựng chuyên ngành; quản lý sử dụng vốn là
các Chủ đầu tư và các Ban QLDA; cấp phát thanh toán vốn là Kho bạc nhà nước;
Thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành là Sở Tài chính. Ngoài ra còn có tổ chức tư
vấn giám sát trong quán trình thực hiện dự án… nhưng việc phối hợp quản lý đang
còn xem nhẹ, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Việc thẩm định dự án các ngành chưa
nêu cao trách nhiệm mà còn phó mặc cho cơ quan chủ trì là chính, nhiều dự án
mang tính chất chuyên ngành cao nhưng các ngành chuyên môn không tham gia
hoặc tham gia chiếu lệ.
Trình tự lập, nội dung thuyết minh và thiết kế cơ sở nhìn chung phù hợp với
quy định đầu tư xây dựng của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP nay là nghị định số
12/2009/NĐ-CP, Nghị định 83/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Nhưng trong quá trình
lập Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, Tư vấn chưa nghiên cứu sâu, kỹ nên khi thực
hiện một số dự án phải điều chỉnh phát sinh nhiều lần: Có dự án phải điều chỉnh nội
dung, quy mô, giá trị tới 3 lần; có dự án tổng mức đầu tư sau điều chỉnh gấp 2 lần
ban đầu. Cá biệt có những dự án khi đấu thầu xong không triển khai thi công vì
khâu khảo sát lập dự án diện tích khu đất không chính xác đã gây dư luận không tốt
trong nhân dân. Như vậy có thể thấy những người có trách nhiệm chưa thực sự tâm
huyết với sản phẩm của mình, tạo ra sản phẩm có chất lượng chưa cao.
Tư vấn lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công - tổng dự
toán ở một số công trình chất lượng còn thấp, chưa đưa ra nhiều phương án để lựa
chọn, chưa tuân thủ theo tiêu chuẩn, quy phạm, số liệu điều tra, khảo sát chưa chính
xác. Trong thiết kế thường tính thiên về an toàn quá lớn, trong tính toán dự toán áp
dụng đơn giá, định mức và các chế độ tài chính trong XDCB chưa chính xác hoặc
sót khối lượng công việc.
Trong các năm trong số các dự án được duyệt trong 5 năm (2010 - 2014) đã
có rất nhiều dự án phải phê duyệt lại do phải điều chỉnh, bổ sung quy mô, khối
lượng hoặc tính sai, thiếu. Một số các dự án phải trả hồ sơ rất nhiều lần vì chất
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lượng dự án quá thấp. Một số dự án điều chỉnh lại nhiều lần do chế độ chính sách
71
của Nhà nước liên tục thay đổi, tăng chi phí nhân công và máy thi công, giá cả luôn
thay đổi lớn và thời gian thi công kéo dài làm chất lượng dự án chưa cao.
Một số tổ chức tư vấn yếu kém về chuyên môn nên đã bỏ sót nhiều yếu tố,
bỏ sót hạng mục của công trình hoặc kiến kế công trình không theo đúng quy định
của Nhà nước.
Ví dụ: khâu khảo sát thăm dò địa chất của Dự án đầu tư xây dựng hệ thống
hạ tầng kỹ thuật Cảng Vạn Gia thành phố Móng Cái không sát với thực tế làm ảnh
hưởng đến quyết định tổng mức đầu tư sai phải bổ sung, cụ thể: dự án được UBND
duyệt tại Quyết định số 2174/QĐ-UB ngày 23/08/2000 có tổng mức đầu tư là
14.940 triệu đồng. Thi công xong móng kè và tường kè biển có đoạn sự cố trượt,
phải thiết kế làm mới và được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 3998/QĐ-
UBND ngày 06/11/2003 tổng dự toán 25.536 triệu đồng. Trong đó phần thiết kế
mới là 10.587 triệu đồng. Nguyên nhân là cơ quan tư vấn thiết kế không đúng
chuyên ngành, khảo sát thiết kế móng công trình kè biển không sát với thực tế địa
chất công trình.
+ Dự án Công trình Trường Trung học Y tế Quảng Ninh: Dự toán tính tiên
lượng một số hạng mục chưa đúng với quy định về XDCB, khi tính khối lượng xây
còn bỏ sót nhiều khối lượng chiếm chỗ chưa trừ (như khuôn cửa, lanh tô, các đầu
dầm giằng) trùng lắp khối lượng bê tông tại các điểm giao nhau, cộng sai số học,
tính sai tăng khối lượng so với thiết kế. Tổng dự toán tính sai là: 155 triệu đồng
(kéo theo quyết toán sai được giảm trừ ở phần quyết toán sai). Điển hình là dự toán
tính sai như sơn vôi ngoài nhà Ký túc xá + nhà ăn theo thiết kế sơn vôi chỉ có 1.797 m2, dự toán lập 4.033m2, chênh lệch 2.236 m2 sai 124%. Nhà học và hiệu bộ thiết kế 06 cột, tính tiên lượng dự toán 07 cột; cột chớp cố định tiên lượng tính 109 m2, bản tổng dự toán tính 172m2 sai 63m2.
Phê duyệt đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu chưa phù hợp với quy định tạo
ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng và dễ phát
sinh tiêu cực trong quản lý đầu tư. Cụ thể:
Trong năm 2010 UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt đấu thầu hạn chế 48 gói
thầu chưa phù hợp với quy định tại Điều 19, chương II, Mục I của Luật các trường
hợp được áp dụng đấu thầu hạn chế, chiếm 25.8% số gói thầu được triển khai, khi
phê duyệt giá gói thầu xác định giảm so với dự toán được phê duyệt từ 2% đến 3%
không có căn cứ. Trong 48 gói thầu có 09 gói giảm giá 3%. Qua kiểm toán 38/48
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
gói thầu được phê duyệt đấu thầu hạn chế có ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh, chỉ có
72
10 gói thầu UBND tỉnh phê duyệt trên cơ sở tờ trình của Sở Kế hoạch và Đầu tư, 02
gói thầu Sở Kế hoạch và Đầu tư đề xuất đấu thầu rộng rãi nhưng UBND tỉnh phê
duyệt đấu thầu hạn chế.
Cũng năm 2010, UBND tỉnh còn phê duyệt chỉ định thầu 13 gói thầu xây lắp
có giá trị trên 1.000 triệu đồng và gói thầu tư vấn có giá trị trên 500 triệu đồng
(chiếm 11,3%) chưa phù hợp với qui định tại Điều 20, Chương II, Phần I của Luật
Đấu thầu về điều kiện được chỉ định thầu. Chưa có sự nhất quán trong việc xác định
tỷ lệ giảm giá như đã nêu trên.
Năm 2013, Quảng Ninh thực hiện đấu thầu rộng rãi 161/442 gói, chiếm 36%
số gói thầu thực hiện, tương đương 73% giá trị. Giá trị gói thầu được duyệt
2.401.427 triệu đồng, giá trúng thầu 2.199.079 triệu đồng, tiết kiệm qua đấu thầu
202.439 triệu đồng bằng 8,43%. Tuy nhiên, một số sai sót đã được phát hiện là: có
hiện tượng chỉ định thầu chưa đúng quy định, áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế
đối với 41 gói thầu có giá trị lớn.
Kết quả của việc thực hiện chưa nghiêm túc trong quá trình tổ chức đầu thầu
dẫn đến những hậu quả như năng lực tài chính một số nhà thầu không đảm bảo yêu
cầu nên phải chấp dứt hợp đồng như dự án Đường Trới Vũ Oai, Chợ Trung tâm thị
trấn Đầm Hà làm kéo dài thời gian thực hiện dự án, điều chỉnh dự án và làm tăng
tổng mức đầu tư của dự án (Chợ trung tâm thị trấn Đầm Hà TMĐT từ 9 tỷ lên 39 tỷ
đồng); hồ sơ mời thầu của các chủ đầu tư không đảm bảo theo quy định như không
yêu cầu nhà thầu nộp phân tích đơn giá chi tiết gây khó khăn cho công tác thanh
kiểm tra, không qui định đầy đủ công thức điều chỉnh giá theo qui định; Tại một số
dự án bản tiên lượng mời thầu được lập trên cơ sở hồ sơ thiết kế kỹ thuật đã được
thẩm định và phê quyệt, do còn sai sót về khối lượng của hồ sơ thiết kế kỹ thuật nên
tiên lượng mời thầu không chính xác. Sử dụng dự toán được duyệt làm giá gói thầu,
chỉ xét về tổng giá trị gói thầu chưa xem xét chi tiết, dẫn đến giá đấu thầu và trúng
thầu sai 659 triệu đồng. Trong đó: Dự án công trình hạ tầng kỹ thuật cảng Vạn Gia
Móng Cái: 504 triệu đồng, Dự án công trình trường Trung học Y tế Quảng Ninh:
155 triệu đồng.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hầu hết các dự án đều phải thực hiện GPMB.
Giá trị đền bù GPMB là rất lớn, có những công trình tiến hành đền bù GPMB chiếm
hơn 30 - 50% tổng mức đầu tư.
Thực tế cho thấy công tác đền bù GPMB thực sự khó khăn đối với các công
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trình nằm trong khu vực trung tâm. Trước khi thực hiện đền bù GPMB phải có đầy
73
đủ hồ sơ pháp lý, các thủ tục cần thiết theo đúng quy định hiện hành: Luật đất đai;
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP về việc đền bù giải
phóng mặt bằng nay là nghị định 69/2009/NĐ-CP; các quyết định của UBND tỉnh
Quảng Ninh về việc ban hành bảng giá đất, ban hành giá đền bù hỗ trợ công trình
xây dựng, giá cây trồng vật nuôi trên đất; các văn bản hướng dẫn khác có liên quan.
Trong quá trình thực hiện gặp nhiều vướng mắc nhưng nhờ có năng lực, kinh
nghiệm giải quyết tốt hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trình tự thực hiện bài bản
khi có đủ văn bản pháp lý tiến hành đo đạc, điều tra, khảo sát, lập và trình duyệt
phương án đền bù giải tỏa. Kết hợp với chính quyền sở tại công bố công khai việc
tính đền bù từng hộ dân, có biện pháp vận động thuyết phục để người dân thấy hợp
lý, tự giác chấp hành. Giải quyết những khiếu lại, phát sinh trong quá trình thực
hiện. Ngoài những ưu điểm làm được thì cũng không tránh khỏi tồn tại, hạn chế dẫn
đến dự án phải GPMB thì tiến độ thực hiện của dự án vẫn bị kéo dài ảnh hưởng đến
chất lượng dự án và chi phí.
Qua việc thẩm tra quyết toán cụ thể trong 2 năm 2013 và 2014 còn có Chủ
đầu tư lập sai chế độ, định mức quy định; còn sai sót trong nghiệm thu khối lượng
xây dựng hoàn thành làm thất thoát vốn đầu tư trong quyết toán công trình.
Theo nguyên tắc của Bộ Tài chính đã quy định, các công trình xây dựng phải
được quyết toán theo đúng thời hạn và được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán
độc lập. Báo cáo quyết toán công trình do bên B lập bảng tập hợp tất cả những chi
phí mà bên B đã chi phục vụ việc hoàn thành công trình. Những chi phí này phải
phù hợp với dự toán trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá đã được duyệt.
Đối với những hợp đồng chìa khoá trao tay, trọn gói, khi hoàn thành công
trình đúng thiết kế, đảm bảo chất lượng và thời hạn, nhà thầu được thanh toán đúng
số tiền đã ký trong hợp đồng.
Tại Quảng Ninh những năm qua, đã phát hiện nhiêu sai sót trong công tác quyết
toán tại một số địa phương. Ví dụ, quá trình thanh tra tại thị xã Uông Bí 3 năm 2010 -
2012 đã phát hiện nhiều hạng mục công trình quyết toán sai, khối lượng và đơn giá, sai
số học với giá trị sai là 674.946.589 đồng. Trong đó: Sai về khối lượng: 581.016.239
đồng; sai về giá, sai số học: 61.152.574 đồng; sai về kiến thiết cơ bản khác: 32.777.779
đồng. Với một số dạng sai trong quyết toán được xác định như sau:
+ Loại đường bê tông khi quyết toán có các dạng sai chủ yếu là: Sai quy
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phạm kỹ thuật kết cấu mặt đường (phần gỗ khe co giãn quyết toán đơn giá theo
74
Quyết định 778/QĐ-UB ngày 3/4/2003 của UBND tỉnh nhưng thực tế không thi
công hoặc làm thiếu khối lượng), thiếu diện tích, chiều dày bê tông, sai đơn giá và
tính sai chi phí lưu thông dẫn đến sai giá trị khối lượng quyết toán.
+ Công trình đường Bí Giàng phường Yên Thanh có giá trị quyết toán 910
triệu đồng, qua thanh tra còn xác định trên hồ sơ và thực tế hiện trường tính sai
chiều dài đường, sai khối lượng đất đào đất đắp với giá trị sai 75.042.000 đồng.
Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh quản lý đầu tư và
xây dựng nguồn vốn của Nhà nước, trong đó có đẩy mạnh và tăng cường công tác
giám sát, đánh giá đầu tư; Thực hiện Nghị định 07/CP và Thông tư số 03/2007/TT-
BKH ngày 19/05/2007 của Bộ kế hoạch và đầu tư nay là thông tư số 23/2014/TT-
BKH của Bộ kế hoạch.
Đa số các Ban quản lý và chủ đầu tư thực hiện chưa đầy đủ công việc giám
sát đánh giá đầu tư, có một số đơn vị thực hiện nhưng chỉ mang hình thức nhưng
chưa phản ánh được tình hình thực hiện dự án, giúp tỉnh kịp thời điều chỉnh các
hoạt động đầu tư, điều chỉnh các dự án có căn cứ hơn.
Bảng 3.6. Kết quả thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư
TT Nội dung
1 Tổng số dự án 2 Số dự án thực hiện GSĐ GĐT 3 Tỷ lệ (%) các DA thực hiện Năm 2010 238 178 75 Năm 2011 252 201 80 Năm 2012 240 204 85 Năm 2013 220 196 89 Năm 2014 230 210 91
(Nguồn báo cáo đánh giá hàng năm của UBND tỉnh các dự án đầu tư)
Qua thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư đã nắm bắt quá trình đầu tư của các
dự án tốt hơn, kịp thời uốn nắn và xử lý các vướng mắc đưa công tác đầu tư vào nề
nếp và tuân thủ theo đúng pháp luật. Kết quả các dự án đã thực hiện tốt cơ bản
không vi phạm các quy chế, quy định quản lý đầu tư và xây dựng.
Các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến giá trị công trình.
Về khả năng nguồn vốn vẫn còn hạn chế do đó các dự án ít hoàn thành theo
đúng tiến độ đề ra.
Các Ban quản lý, chủ đầu tư năng lực quản lý dự án còn rất hạn chế. Chất
lượng tư vấn trách nhiệm chưa cao, năng lực hạn chế do đó trong quá trình lập dự
án, thiết kế kỹ thuật chưa đưa ra được giải pháp tốt quá trình khảo sát tính toán còn
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thiếu nhiều.
75
Dự án phải điều chỉnh lại nhiều lần nguyên nhân do hạn chế chính sách, giá
cả luôn thay đổi lớn, thời gian thi công kéo dài.
Các cấp, các ngành, các chủ đầu tư chưa hiểu biết và chưa quan tâm đúng
mức đến công tác theo dõi, giám sát, quản lý quá trình thực hiện đầu tư để đảm bảo
hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí. Đây là một trong những nguyên nhân của
những vấn đề tồn tại trong đầu tư (phân tán, chậm tiến độ, hiệu quả kém). Có đơn vị
còn coi đây là công việc không cần thiết, một thủ tục phiền hà.
Thủ tục trình duyệt xin cấp vốn thường diễn ra quá nhiều khâu, các tổ chức
cho tạm ứng vốn, thanh toán vốn thì thường chậm trễ về thời gian cấp phát khiến
nhiều chủ công trình phải tạm dừng vì không có vốn để thực hiện các công việc tiếp
theo của dự án.
Sự ảnh hưởng của công tác quản lý tiến độ, quản lý chất lượng kéo theo đó là
những khó khăn về quản lý chi phí. Thời gian thi công kéo dài hơn so dự kiến dẫn
đến các chế độ của nhà nước hay đơn giá có thể thay đổi, dẫn đến phải dự toán theo
chế độ mới điều này làm ảnh hưởng đến công tác quản lý.
Một số cơ quan quản lý nhà nước và các chủ đầu tư thuộc UBND tỉnh chưa
được thực sự nâng cao trước trách nhiệm vốn đầu tư của nhà nước, buông lỏng quản
lý ở các khâu được giao trách nhiệm.
Qua đánh giá kết quả thực hiện các dự án đầu tư và phân tích mặt được và
mặt hạn chế tồn tại của dự án từ đó tìm ra nhân tố ảnh hưởng đến công tác QLDA
đầu tư xây dựng trên địa bàn.
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả dự án đầu tư công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.4.1. Các yếu tố vĩ mô
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về xây dựng trong phạm vi cả nước.
Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm trước Chính Phủ thực hiện thống nhất quản lý
nhà nước về xây dựng.
Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình
phối hợp với Bộ Xây dựng để thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng.
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về xây
dựng trên địa bàn theo phân cấp của Chính Phủ.
* Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển và các hoạt
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
động xây dựng.
76
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng.
- Ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng.
- Quản lý chất lượng, lưu trữ hồ sơ công trình xây dựng.
- Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động xây dựng.
- Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm
trong hoạt động xây dựng.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ trong hoạt động xây dựng.
- Đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động xây dựng.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động xây dựng.
Tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước, trình độ dân trí, đặc
điểm của địa phương, mà mỗi tỉnh, mỗi thành phố có những cách quản lý và mức độ
quản lý khác nhau.
* Thanh tra xây dựng
Thanh tra xây dựng là thanh tra chuyên ngành về xây dựng có các nhiệm vụ
quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
- Thanh tra việc thực hiện pháp luật xây dựng.
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về xây dựng.
- Xác minh, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo về xây dựng.
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu và giải trình những
vấn đề cần thiết.
- Yêu cầu giám định những nội dung có liên quan đến chất lượng công trình
xây dựng trong trường hợp cần thiết.
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định.
- Lập biên bản thanh tra, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện các biện pháp xử lý.
3.4.2. Các yếu tố vi mô
Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình là một quá trình phức tạp, đòi hỏi
sự tham gia trực tiếp của nhiều bên tham gia trực tiếp thông qua các hợp đồng kinh
tế, trong đó:
* Chủ đầu tư xây dựng công trình
Chủ đầu tư xây dựng công trình là người sở hữu vốn hoặc là người được giao
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quyền sử dụng vốn để đầu tư xây dựng công trình.
77
Đa số các dự án chủ đầu tư đồng nhất với chủ sở hữu và chủ sử dụng như: Trụ
sở cơ quan, khách sạn, trường học ... Tuy nhiện cũng có nhiều dự án chủ đầu tư chỉ là
người quản lý dự án, còn người sử dụng lại là người khác, đó là các công trình công
cộng do nhà nước đầu tư hoặc người có vốn không đủ năng lực làm chủ đầu tư.
Đặc biệt hiện nay trong nền kinh tế thị trường, rất nhiều dự án xây dựng công
trình, chủ đầu tư và chủ sử dụng là hai chủ thể khác nhau, ví dụ nhà chung cư, chủ
đầu tư xây dựng và bán các căn hộ cho các cá nhân sử dụng. Do tính chất đa dạng
về chủ đầu tư, không phải lúc nào chủ đầu tư cũng quản lý tốt các dự án với các
mục tiêu chung, mà nhiều khi vì cá nhân chủ đầu tư đã buông lỏng quản lý dẫn đến
nhiều tiêu cực. Vì vậy trách nhiệm của chủ đầu tư được pháp luật quy định là chủ
thể chịu trách nhiệm chính, chịu trách nhiệm về mọi mặt liên quan đến dự án trước
pháp luật và một số dự án như là chung cư, chủ đầu tư chịu trách nhiệm đến cùng
sản phẩm do mình cung cấp trước xã hội.
Trong quản lý dự án đầu tư xây dựng chủ đầu tư có các nhiệm vụ sau đây:
- Lập báo cáo đầu tư trình cấp có thẩm quyền cho chủ trương đầu tư.
- Tổ chức lập dự án đầu tư xây dựng hoặc báo cáo kinh tế kỹ thuật. Nếu
không tự làm được thì thuê tư vấn, thiết kế thực hiện.
- Tổ chức thẩm định phê duyệt dự án đầu tư.
- Tổ chức khảo sát xây dựng.
- Tổ chức thiết kế xây dựng, dự toán, tổng dự toán.
- Thẩm định thiết kế, dự toán, tổng dự toán.
- Tổ chức lựa chọn các nhà thầu xây dựng.
- Xin cấp phép xây dựng.
- Xin cấp đất đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư.
- Tổ chức giám sát chất lượng thi công xây dựng.
- Tổ chức kiểm định chất lượng xây dựng.
- Nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào sử dụng.
- Xin chứng nhận công trình được phép sử dụng.
- Thanh quyết toán vốn đầu tư dự án.
- Các công việc khác liên quan.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Thành lập ban quản lý để tự quản lý dự án nếu đủ năng lực.
78
* Nhà thầu tư vấn
Tư vấn là một khái niệm rộng, nó mô tả hoạt động kinh tế trong đó sản phẩm
đơn vị tư vấn cung cấp là chất xám, tri thức, được thể hiện qua các bản vẽ, các hồ sơ
hướng dẫn, chứng nhận phù hợp, đạt chất lượng... Tư vấn trong hoạt động xây dựng
gồm có tư vấn thiết kế, tư vấn lập dự án, tư vấn giám sát, tư vấn lập định mức, tư
vấn thẩm định thẩm tra, tư vấn chuyên ngành liên quan...
Tư vấn thiết kế phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, được phép hoạt động
trong lĩnh vực tư vấn ký hợp đồng. Năng lực của đơn vị tư vấn phải đạt về số lượng
và chất lượng theo quy định của pháp luật và đáp ứng được tính chất phức tạp và
thời gian yêu cầu cho tùng dự án cụ thể.
* Nhà thầu xây dựng
Là đơn vị trực tiếp thực hiện các công việc xây lắp công trình theo như bản
vẽ thiết kế đã được phê duyệt.
Nhà thầu xây dựng được lựa chọn thông qua đấu thầu đảm bảo đầy đủ
các yêu cầu về năng lực kinh nghiệm, năng lực nhân lực, máy móc và năng lực
tài chính.
3.5. Đánh giá chung về thực trạng đầu tư công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.5.1. Những kết quả đạt được
Trong những năm vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng,
cùng với cả nước, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được nhiều thành tựu lớn về phát triển
KT - XH. Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng tăng lên, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tuy rằng chưa mạnh nhưng đúng hướng, tình hình xã hội ổn định, đời sống
nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên mức tăng GDP về tuyệt đối trên địa bàn thành
phố còn thấp, thu ngân sách chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu chi của thành
phố, đặc biệt tích luỹ cho ĐTPT không đáng kể.
Tổng nguồn vốn huy động toàn xã hội giai đoạn 2010 - 2014 đã tăng lên
đáng kể qua các năm, tỷ lệ VĐT trong nước so với GDP đạt ở mức cao, nguồn vốn
huy động đóng góp của nhân dân và quỹ đất tăng nhanh góp phần thúc đẩy nền kinh
tế của thành phố phát triển một cách toàn diện.
Trong những năm qua, công tác QLĐT công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Quảng Ninh đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhiều dự án đầu tư, công trình
79
xây dựng hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng đã góp phần phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn.
Tổng thu ngân sách tăng qua từng năm là điều kiện quan trọng để tăng chi
đầu tư phát triển, trong đó có tăng chi cho công tác QLĐT công trình xây dựng.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thay đổi theo
chiều hướng tích cực đã giảm sức ép chi đầu tư phát triển từ NSNN.
Hoạt động đầu tư công trình xây dựng từ NSNN góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Đầu tư phát triển tăng đã tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động,
giảm tỷ lệ thất nghiệp.
3.5.2. Những hạn chế
a) Công tác quy hoạch
Công tác quy hoạch giữa các vùng, các ngành còn chồng chéo, chậm triển
khai. Các quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu tính dự báo và ổn định đã dẫn đến việc
khai thác, sử dụng, quản lý xây dựng, giới thiệu địa điểm đầu tư còn bị động. Chất
lượng một số dự án quy hoạch còn hạn chế, đội ngũ cán bộ làm công tác quy hoạch
còn thiếu và yếu. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tài nguyên thiếu chặt
chẽ, xảy ra tình trạng lãng phí, vi phạm Luật Đất đai trong việc giao và cho thuê đất.
Việc vi phạm quy hoạch lộ giới gây lãng phí, tốn kém VĐT.
Phần lớn là các quy hoạch đã công bố nhưng không thực hiện, bị “treo” ở
một số phường nội thị như Hồng Hải, Hà Khẩu, Giếng Đáy cho dù đã có quy hoạch
chi tiết, gây lãng phí rất lớn nguồn vốn của Nhà nước.
Trong quy hoạch đô thị, vai trò quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền
phát huy chưa đều. Các cấp, ngành, các đơn vị chưa quan tâm đúng mức tới việc
xây dựng, quản lý và tổ chức thực hiện đúng quy hoạch đã được thống nhất phê
duyệt. Việc quản lý quy hoạch xây dựng còn lỏng lẻo. Việc xử lý vi phạm thiếu
kiên quyết, mức xử phạt còn thiếu răn đe; còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong
quản lý quy hoạch và xây dựng.
b) Công tác kế hoạch hoá
Công tác kế hoạch hoá còn nhiều bất cập, việc phân bổ VĐT cho các vùng
chưa thật sự hợp lý. Đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung, chưa dứt điểm cho các
công trình trọng điểm, chuyển tiếp; việc phân bổ vốn chậm; nhiều dự án chưa đủ
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thủ tục vẫn ghi kế hoạch vốn.
80
Trong thời gian qua trên địa bàn thành phố vẫn chưa xây dựng được kế
hoạch đầu tư trung và dài hạn, kế hoạch chỉ điều hành trong 01 năm, có khi là 06
tháng và mang nhiều yếu tố chủ quan, thiếu căn cứ khoa học, có hiện tượng “khéo”
chạy thì được bố trí vốn nên vội vàng thuê tư vấn lập dự án theo khối lượng đơn vị
“xin” được cho dự án, chứ không xuất phát từ nhu cầu thực tế của chiến lược phát
triển KT - XH hay quy hoạch chi tiết của thành phố. Chính vì vậy, VĐT thường dàn
trải, chia mỗi công trình một ít dẫn đến tình trạng đa số các dự án phải kéo dài nhiều
năm, thậm chí có dự án đưa vào bàn giao sử dụng mà vẫn không có vốn bố trí trả nợ
do phải “chia” cho các dự án khác, làm cho chất lượng công trình kém, hiệu quả sử
dụng không cao. Theo Nghị định số 16/CP của Chính phủ thì các dự án nhóm C
thời gian bố trí kế hoạch vốn là 2 năm nhưng hầu như có quá nhiều dự án được bố
trí từ ba năm trở lên. Đây là bài toán nan giải không không chỉ cho thành phố mà
còn cho tỉnh và cả nước.
Trong đầu tư XDCB còn có hiện tượng khối lượng xây dựng dở dang lớn,
nhiều công trình chờ vốn do không được bố trí kế hoạch vốn năm đó mặc dù là
công trình chuyển tiếp. Ngược lại có hiện tượng nghịch lý là vốn NSNN đã bố trí
theo kế hoạch lại bị ứ đọng không thanh toán được do đơn vị chưa đủ thủ tục theo
quy định của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng và các văn bản hướng dẫn. Các
đơn vị thi công vẫn đi vay các tổ chức tín dụng để đảm bảo tiến độ, chưa thu lại
được vốn để tái đầu tư trong khi đó vẫn phải trả lãi vay cho các tổ chức tín dụng nên
giá trị công trình vẫn phải gánh chịu những chi phí bất hợp lý.
c) Chưa làm tốt công tác quản lý và thực hiện dự án đầu tư
* Trình độ đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực quản lý hoạt động quản
lý đầu tư (bao gồm cả chủ đầu tư và các ban quản lý dự án).
Nhìn chung trình độ và phẩm chất của một số cán bộ quản lý trong lĩnh vực
đầu tư còn yếu kém, kỷ cương phép nước, công tác kiểm tra, thanh tra còn buông
lỏng, nhiều người có trọng trách trong quản lý dự án đầu tư nhưng không có bằng
cấp chuyên môn lĩnh vực mình đảm nhận. Một số cán bộ quản lý dự án đầu tư bị tác
động tiêu cực của thị trường, sút kém phẩm chất. Trong điều kiện này, công tác
kiểm tra thanh tra chưa được chú trọng, chưa xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm
làm thất thoát vốn của nhà nước dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và đó
cũng là nguyên nhân làm cho việc sử dụng VĐT không mang lại hiệu quả như
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mong đợi.
81
Công tác tổ chức quản lý VĐT XDCB trên địa bàn thành phố còn nhiều cồng
kềnh, chồng chéo, quá nhiều đầu mối và quá nhiều chủ đầu tư.
* Công tác chuẩn bị đầu tư chưa được coi trọng
Các chủ đầu tư thường quan tâm đến số lượng dự án và khối lượng vốn được
phân bổ. Họ ít chú trọng đến mặt hiệu quả KT - XH do VĐT mang lại. Hiện
tượng khoán trắng cho các đơn vị tư vấn lập dự án còn khá phổ biến. Nhiều dự
án thiếu tính khả thi, phải phê duyệt lại hoặc điều chỉnh nhiều lần; cán bộ làm
công tác thẩm định còn yếu kém về chuyên môn và thiếu thông tin cần thiết....
cũng chính vì công tác chuẩn bị đầu tư chưa được chú trọng nên có không ít dự
án CBĐT phải xoá bỏ, do không khả thi để thực hiện dự án, làm lãng phí không
ít vốn nhà nước. Và cũng ở công tác này chưa chú trọng nên một số dự án bỏ qua
giai đoạn này, triển khai ngay ở khâu thực hiện nên không tính toán kỹ càng gây
lãng phí, thất thoát VĐT NSNN.
*Chất lượng công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án và thiết kế kỹ thuật-
tổng dự toán chưa được quan tâm.
Tình trạng không tuân thủ trình tự đầu tư trong thời gian qua là khá phổ biến
trên địa bàn thành phố, chưa thực hiện đúng các nội duyệt đã được duyệt trong
quyết định đầu tư, áp dụng sai định mức, đơn giá; công tác thẩm định dự án còn
buông lỏng chất lượng, coi trọng số lượng dẫn đến các quyết định phê duyệt liên tục
phải bổ sung, điều chỉnh.
Tình trạng một số cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư, quyết định phê
duyệt thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán, dự toán chi tiết thiếu chính xác dẫn đến phải
bổ sung, điều chỉnh nhiều lần. Thậm chí có những dự án vừa thiết kế, vừa thi
công..., đến giai đoạn cuối hoặc khi thi công xong mới trình duyệt hoặc xin điều
chỉnh tổng dự toán nhằm hợp thức hoá các chi phí phát sinh.
* Công tác đấu thầu, chỉ định thầu chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Công tác này còn nhiều bất cập: quá trình chuẩn bị đấu thầu thường kéo dài;
hồ sơ mời thầu không rõ ràng, quá nhiều lỗi, các tiêu chí thường mâu thuẫn lẫn
nhau, khó hiểu gây nhầm lẫn trong quá trình lập hồ sơ dự thầu, cũng như trong quá
trình xét thầu; một số chủ đầu tư cố tình lập hồ sơ mời thầu có các tiêu chí quá cao,
chỉ có một số ít nhà thầu đáp ứng (thường được chủ đầu tư “nhắm” trước hoặc
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thông báo mời thầu không rộng rãi, trên báo địa phương hoặc một số báo ít người
82
đọc); hoặc áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế nên không có tính cạnh tranh cao
trong đấu thầu.
Trong đấu thầu có hiện tượng thông thầu, “quân xanh quân đỏ” dàn xếp
trước nên chất lượng đấu thầu không cao không giảm được phần nào tỷ lệ tiết kiệm
chi ngân sách của nhà nước.
Hiện tượng mua bán thầu hiện nay khá phổ biến. Có nhà thầu trúng thầu
hoặc được chỉ định thầu nhưng thực tế không tham gia thi công mà “bán” lại toàn
bộ hoặc một phần dự án cho nhà thầu khác lấy chênh lệch. Làm cho chất lượng
không đảm bảo, gây thất thoát vốn đầu tư.
Hội đồng xét thầu thường không có chuyên môn lẫn kinh nghiệm thậm chí
không có chứng chỉ đấu thầu vẫn được chủ đầu tư mời vào hội đồng xét thầu, làm
chất lượng bị hạn chế, đánh giá sai các nhà thầu tham gia. Có hiện tượng dùng ảnh
hưởng cá nhân hoặc chủ đầu tư “bật đèn xanh” nên các thành viên trong hội đồng cố
tình đánh giá sai sự thật, dẫn đến nhà thầu có năng lực thì không trúng còn nhà thầu
kém thì được đề nghị trúng thầu.
Do luật Đấu thầu cũng như Nghị định của chính phủ chưa có quy định giá
“sàn” nên có nhiều nhà thầu khi tham gia đấu thầu bỏ giá quá thấp nên khi thi công
chất lượng công trình không đảm bảo.
Thời gian xét thầu, thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu đôi lúc vượt thời
gian theo quy định của luật Đấu thầu và Nghị định hướng dẫn, làm cho các nhà thầu
thiệt hại không nhỏ do phải trả một khoản chi phí trong thời gian làm bảo lãnh thầu
và kéo dài tiến độ thực hiện dự án.
Công tác chỉ định thầu cũng nhiều bất cập: các chủ đầu tư thường chia nhỏ
dự án để chỉ định thầu, hoặc chỉ định sai điều kiện quy định của Luật đất thầu. lựa
chọn nhà thầu thiếu hoặc không có kinh nghiệm, hoặc tình hình tài chính thiếu lành
mạnh, làm cho các dự án thiếu chất lượng.
Một số nội dung trong Nghị định hướng dẫn luật Đấu thầu không mang tính
khả thi, mâu thuẫn, khó hiểu làm hạn chế đến việc thực hiện quy trình đấu thầu.
* Công tác giải phóng mặt bằng còn vướng mắc, nhiều bất cập, chưa được
quan tâm đúng mức.
Công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án chưa được các chủ đầu tư
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
triển khai một cách quyết liệt, chưa chủ động chuẩn bị các điều kiện như: quỹ đất,
83
quỹ nhà, công tác chuẩn bị đền bù giải phóng mặt bằng nên một so dự án ghi vốn
nhiều năm nhưng vẫn không triển khai được.... Tiềm năng và khả năng về quỹ đất là
một nguồn lực rất lớn, đặc biệt là đất đô thị, đất mặt đường chưa được khai thác một
cách có hiệu quả. Nói chung chính sách trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng
đang có nhiều bất cập nổi cộm ở ba vấn đề sau:
Thứ nhất, về đền bù thiệt hại đối với đất ở đô thị: do không thống nhất giữa
quy định về xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai và chính sách, điều kiện để được
đền bù về đất được quy định tại luật Đất đai dẫn đến chính quyền địa phương và
một số cán bộ thừa hành lúng túng trong việc lập phương án và phương thức đền
bù, trợ cấp.
Thứ hai, về đền bù thiệt hại đối với đất nông nghiệp: người nông dân chưa
được hỗ trợ đền bù cho các chi phí trong quá trình đầu tư thâm canh đã làm thay đổi
độ phì nhiêu thâm canh của đất nông nghiệp khi đền bù. Tương tự như trường hợp
sử dụng đất tạm thời, thuê đất hoặc đấu thầu quyền sử dụng đất để sản xuất nông
nghiệp. Việc xác định chi phí đầu tư vào đất chưa được làm rõ trong quá trình lập
phương án đền bù thiệt hại, nên người sử dụng đất thường đòi hỏi được đền bù cao
hơn mức Nhà nước đặt ra. Chưa có chính sách hỗ trợ việc, tạo ngành nghề mới làm
đối với các hộ gia đình bị thu hồi hết đất sản xuất.
Thứ ba, về tái định cư: đối với các dự án phải tổ chức di dời dân để giải
phóng mặt bằng, thành phố chưa có hỗ trợ về mặt tài chính, cơ chế, chính sách về
đầu tư đối với dự án xây dựng khu tái định cư; chưa quy định cụ thể trách nhiệm
quyền lợi của chủ đầu tư trong việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư, nhất
là các dự án phải thực hiện tái định cư tại chỗ. Việc chưa có các quy định chi tiết về
chính sách tái định cư đã làm ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng chậm, làm
chậm tiến độ thực hiện dự án.
* Việc giải ngân cho các dự án còn thấp so với kế hoạch
Công tác giải ngân còn hạn chế; khối lượng thực hiện và thanh toán VĐT ở
đầu năm còn ít; tình trạng vốn chờ công trình còn khá phổ biến.
Công tác thanh toán vốn đầu tư chưa được các chủ đầu tư quan tâm. Nhiều
công trình đã có khối lượng thực hiện nhưng chủ đầu tư và đơn vị thi công không
nghiệm thu để thanh toán; hoặc các dự án được ghi kế hoạch nhưng chưa có các thủ
tục đến cuối năm mới hoàn tất thủ tục cần thiết dẫn đến hiện tượng vốn chờ công
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trình. Công tác thanh toán vốn thường phải dồn vào các tháng cuối năm.
84
* Công tác quyết toán vốn đầu tư còn hạn chế
Chức năng và trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thuộc đầu tư, đa số các chủ
đầu tư khi công trình hoàn thành không chịu lập báo cáo quyết toán công trình, trình
cơ quan có thẩm quyền thẩm tra và phê duyệt quyết toán. Đa số đều lập báo cáo
quyết toán chậm so với quy định từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí có công trình chậm
từ 2 đến 3 năm.
Chất lượng của báo cáo quyết toán thường kém, do đa số các ban quản lý,
chủ đầu tư kiêm nhiệm nên không thành thạo trong khâu lập báo cáo, dẫn đến tình
trạng chỉnh sửa nhiều lần, làm kéo dài thời gian phê duyệt.
Chất lượng của công tác thẩm tra quyết toán chưa cao, thành phần hội đồng
gồm nhiều cơ quan tham gia, nhưng số lượng cơ quan tham gia ít, lực lượng lại
mỏng, nên hạn chế nhiều trong khâu thẩm tra, ít đi kiểm tra thực tế và không kiểm
tra các phần khuất của công trình mà chỉ dựa vào hồ sơ, sổ sách, chứng từ các đơn
vị trình lên, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác thanh quyết
toán, đôi khi thất thoát lãng phí VĐT trên thực tế không nắm được.
* Chất lượng công tác tư vấn còn thấp, có nhiều sai sót
Công tác tư vấn bao gồm các công việc: tư vấn khảo sát thiết kế lập dự án
khả thi, báo cáo đầu tư, tư vấn khảo sát, thiết kế dự toán - tổng dự toán; tư vấn ban
quản lý dự án; tư vấn lập hồ sơ mời thầu và phân tích đánh giá hồ sơ mời thầu; tư
vấn giám sát, kiểm toán... Bao gồm nhiều ngành, lĩnh vực: giao thông, thuỷ lợi, dân
dụng công nghiệp, hạ tầng... hoạt động rất rộng, đối tượng công việc phong phú
nhưng chất lượng của công tác tư vấn chưa cao, còn sai sót nhiều được thể hiện ở
các mặt sau:
- Hầu hết các công tác tư vấn trên địa bàn ít khi phải đấu thầu nên các chủ
đầu tư thường chọn các đơn vị “có mối quan hệ” mà không chú trọng đến kinh
nghiệm của họ dẫn đến tình trạng sai sót nhiều, phải bổ sung nhiều lần, làm chậm
tiến độ, lãng phí thất thoát vốn đầu tư.
- Tay nghề hầu hết của các đơn vị tư vấn còn yếu, đa số mới thành lập, cán
bộ kỹ sư mới ra trường, mặt khác chạy theo sản lượng, chưa có tâm huyết với nghề
nghiệp, hoặc cố tình bắt tay với chủ đầu tư và đơn vị thi công để lập các hồ sơ khác
với thực tế, gây thất thoát VĐT.
- Đa số các đơn vị tư vấn đều đăng ký rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhưng
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đội ngũ cán bộ ít, không đủ năng lực thực hiện các lĩnh vực mà lại nhận làm các dự
85
án “quá sức” mình nên không thể tránh khỏi tình trạng dự án không khả thi hoặc chí
ít kém hiệu quả... Phần lớn chưa thực hiện đúng theo điều 54, 57, 58, 59, 61,62 của
Nghị định số 16/2005/NĐ/CP về lập, thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình;
hợp đồng tư vấn trong điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân lập dự án đầu tư xây
dựng công trình, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng và giám sát công trình.
* Chất lượng công tác nghiệm thu chưa đáp ứng nhu cầu
Tình trạng nghiệm thu không đúng khối lượng, định mức, đơn giá, chủng
loại vật tư, vật liệu đang phổ biến; chủ yếu là nghiệm thu trên giấy tờ và theo dự
toán ban đầu duyệt. Việc này đã làm tăng giá trị công trình, gây thất thoát lãng phí
VĐT XDCB của Nhà nước.
* Công tác quản lý giá, ra thông báo vật tư, vật liệu chưa kịp thời đầy đủ,
thiếu chính xác. Định mức, đơn giá nhân công, hao phí vật liệu cũng bất cập ở một
số phần việc
Giá vật liệu trên thị trường thay đổi liên tục hàng tháng, thậm chí hàng tuần
đều có sự biến động. Thế mà hàng quý liên Sở Tài chính - Xây dựng mới ra thông
báo đơn giá vật liệu thậm chí hai quý mới ra thông báo một lần; điều này làm ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công do phải điều chỉnh dự toán, dự án, nghiệm
thu... nhiều lần. Nên khi lập dự toán và thanh quyết toán không ít nhiều khó khăn
khi thẩm định.
Định mức, đơn giá nhân công và hao phí vật liệu còn bất cập, cùng một công
việc, tính chất thành phần công việc, nhân công giống nhau nhưng ở mỗi ngành lại
ra thông báo áp định mức khác nhau.
d) Công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra trong quản lý vốn đầu tư XDCB
chưa được tăng cường
Qua thanh tra, kiểm tra của các cơ quan: Như thanh tra Tỉnh uỷ, thanh tra
nhà nước Tỉnh, thanh tra UBND, ban, ngành, kiểm toán... đã phát hiện sai phạm thất
thoát VĐT XDCB từ NSNN trong các khâu: trình tự thực hiện đầu tư XDCB, lập
thẩm định và phê duyệt dự án, thiết kế - tổng dự toán, đấu thầu, chỉ định thầu;
nghiệm thu, thanh toán, quyết toán công trình...
Tuy nhiên công tác chỉ đạo, kết luận thanh tra dự án đầu tư XDCB chưa tốt
nên một số cuộc thanh tra chưa làm rõ thất thoát lãng phí và những hành vi tham
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
những tiêu cực trong quản lý, sử dụng vốn ở khâu nào mà chỉ dựng lại ở việc xem
86
xét về trình tự thủ tục đầu tư XDCB nên chưa quy rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân
để kiến nghị xử lý.
3.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
a) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hệ thống thiết bị trang bị trong thời kỳ bao cấp lạc hậu nhưng không
được đổi mới. Mặt khác, quá trình đổi mới cũng là quá trình mà sự hoà nhập kinh tế
thành phố và tỉnh với cả nước, các nước trong khu vực và quốc tế diễn ra sâu rộng hơn.
Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế tỉnh Quảng Ninh cũng chịu những tác động
tiêu cực từ mọi phía. Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông
Nam Á, tình hình lạm phát cao, chỉ số giá tiêu dùng vượt ngưỡng cho phép đã có ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế tỉnh. Để ổn định và phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền
vững, đẩy mạnh CNH - HĐH của tỉnh, từ xuất phát nền kinh tế thấp kém và lạc hậu
phải chuyển đổi cơ chế quản lý như nước ta hiện nay tất yếu sẽ có có quá nhiều việc
phải làm và dẫn đến những bất cập, không đồng bộ. Điều này sẽ có tác động tiêu cực
đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện dự án do khảo sát, thiết lập dự toán chủ
đầu tư còn hời hợt, năng lực tư vấn còn yếu kém nên còn phát sinh khối lượng, điều
chỉnh thiết kế dẫn đến phải dừng và phê duyệt, còn do chính sách nhà nước thay đổi
liên tục và không đồng bộ. Các phát sinh này làm vượt TMĐT ban đầu làm tăng chi
phí, ảnh hưởng chất lượng QLDA, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Thứ ba, trong các năm trong số các dự án được duyệt trong 5 năm (2010 -
2014) đã có rất nhiều dự án phải phê duyệt lại do phải điều chỉnh, bổ sung quy mô,
khối lượng hoặc tính sai, thiếu. Một số các dự án phải trả hồ sơ rất nhiều lần vì chất
lượng dự án quá thấp. Một số dự án điều chỉnh lại nhiều lần do chế độ chính sách
của Nhà nước liên tục thay đổi, tăng chi phí nhân công và máy thi công, giá cả luôn
thay đổi lớn và thời gian thi công kéo dài làm chất lượng dự án chưa cao.
Thứ tư, kết quả của việc thực hiện chưa nghiêm túc trong quá trình tổ chức
đầu thầu dẫn đến những hậu quả như năng lực tài chính một số nhà thầu không đảm
bảo yêu cầu nên phải chấp dứt hợp đồng như đã trình bày chi tiết ở phần thực trạng.
b) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, cơ sở vật chất thiếu thốn
nên tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP còn hạn hẹp. Khối lượng vốn đầu tư huy
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
động được rất hạn chế không đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Hiệu quả sản xuất kinh
87
doanh và sức cạnh tranh còn thấp. Đầu tư cho phát triển vẫn còn tình trạng dàn trải,
chưa hợp lý. Chưa xác định chính xác và tập trung đầu tư cho nhưng ngành mũi
nhọn. Thu hút đầu tư nước ngoài giảm, dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm, hiệu
quả hạn chế, lĩnh vực tài chính ngân hàng còn nhiều mặt chậm đổi mới, sản xuất
chưa kịp gắn kết với nhu cầu của thị trường, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà
nước còn chậm. Hoạt động của các hợp tác xã chuyển đổi còn lúng túng. Khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quan tâm, hỗ trợ đúng mức từ phía Nhà nước.
Tình trạng quan hệ hợp tác với các địa phương và các vừng trong cả nước còn nhiều
hạn chế, lợi thế so sánh của thành phố chưa được phát huy, nhiều tiềm năng chưa
được khai thác. Điều này làm cho khối lượng VĐT huy động được rất ít, kết hợp
với việc bố trí vốn thiếu tập trung, thiếu đồng bộ, co kéo đáp ứng nhiều mục tiêu
đầu tư cấp bách nên hiệu quả kinh tế thấp, chủ trương đầu tư chưa đúng, công tác
chuẩn bị đầu tư kém và thiếu thiết kế tổng thể.
Thứ hai, quy chế quản lý đầu tư và xây dựng chưa rõ ràng, không ổn định.
Thông qua hàng loạt các văn bản pháp quy từ Luật, quy chế quản lý đến các văn
bản dưới Luật khá đầy đủ nhưng chưa đồng bộ và còn có những sơ hở đã bị lợi
dụng trong quá trình thực thi các văn bản nói trên. Mặt khác, tuy đã có những quy
định hướng dẫn rõ ràng nhưng vẫn không được chấp hành hoặc hiểu sai hoặc cố
tình làm sai.
Thứ ba, môi trường đầu tư trên địa bàn thành phố chưa thực sự được cải
thiện, cơ chế chính sách thu hút VĐT từ nước ngoài còn nhiều bất cập, chưa tạo nên
một hành lang pháp lý thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi gọi VĐT, mặt khác do
thủ tục hành chính chồng chéo gây cản trở cho doanh nghiệp và cá nhân trong và
ngoài nước góp VĐT.
Các biện pháp hỗ trợ đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, chuẩn bị kết cấu
hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp... chưa được quan tâm thực hiện, giá thuê
đất chưa phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Thứ tư, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và tổ chức đầu tư chưa đồng bộ và
bộc lộ nhiều bất cập, liên tục thay đổi nên tạo ra nhiều khe hở gây thất thoát, lãng
phí VĐT.
Thứ năm, chất lượng công tác hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển
KT - XH của tỉnh còn hạn chế. Mối quan hệ giữa quy hoạch và giải phóng mặt bằng
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Chiến lược và quy hoạch định hướng phát triển KT
88
- XH của tỉnh chưa được thực hiện có hiệu quả, nhiều dự án không được thực hiện
theo quy hoạch chung của tỉnh.
Thứ sáu, công tác xây dựng chiến lược phát triển KT - XH trên địa bàn chưa
sát với tình hình thực tế, chưa thấy được lợi thế so sánh với các vùng, địa phương
khác; quy hoạch các ngành chưa đầy đủ và thiếu chính xác nên không thể trở thành
chỗ dựa tin cậy cho các quyết định đầu tư. Nhiều chủ trương đầu tư được cấp có
thẩm quyền phê duyệt sai ngay từ địa điểm, thời điểm đầu tư do thiếu tính đồng bộ
nên chất lượng dự án chưa cao, trình độ tổ chức tư vấn thiết kế còn yếu chưa quan
tâm đến môi trường sinh thái, vùng nguyên liệu, các tài liệu địa chất công trình...
Thứ bảy, chủ đầu tư là người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử
dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quyết định của pháp luật. Tuy nhiên nhiều chủ đầu
tư không có chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư XDCB, tuỳ tiện tự đặt ra cho mình
quyền hạch sách chỉ đạo bên B thi công theo ý mình, nhiều chủ đầu tư còn giao cho
nhà thầu tự lo công việc bỏ qua nhưng quy trình, quy phạm trong quá trình đầu tư.
Nhiều công trình có khối lượng lớn không chịu làm hồ sơ để thanh toán cho bên B
hoặc công trình đã đưa vào khai thác sử dụng nhưng không chịu làm báo cáo quyết
toán trình cấp có thẩm quyền thẩm tra và phê duyệt, thủ tục XDCB còn mất nhiều
thời gian trong khâu thủ tục hành chính, một số chủ đầu tư thiếu tinh thần trách
nhiệm, nhiều hiện tượng giao phó, hoặc bỏ mặc cho đơn vị tư vấn triển khai chuẩn bị
dự án, song các văn bản của Nhà nước chưa có những chế tài quy định trách nhiệm
khi dự án không mang lại hiệu quả như dự án đã đề ra. Tuy nhiên năng lực hiện nay
của một số chủ đầu tư đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu và nhiệm vụ được giao, thiếu những cán bộ có trình độ chuyên môn.
Thứ tám, chất lượng công tác tổ chức tư vấn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu thực
tế. Hầu hết các dự án trình thẩm định, phê duyệt vòng một đều không đủ điều kiện,
phê duyệt phải chỉnh sửa, bổ sung. nhiều dự án trong quá trình tổ chức thực hiện,
thậm chí có dự án chưa khởi công đã phải phê duyệt điều chỉnh dẫn đến kéo dài thời
gian thủ tục chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng dự án. Cơ chế chính sách vận hành
của dự án là một trong những yếu tố quyết định đến tính khả thi trong việc triển
khai dự án. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đầu tư chất xám một cách thoả đáng
và tồn tại tình trạng chủ đầu tư và đơn vị tư vấn trong chờ, ỷ lại vào ý kiến của cơ
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quan thẩm định.
89
Thứ chín, trình độ, năng lực, của các cơ quan, cá nhân quản lý trong lĩnh vực
đầu tư XDCB. Hiện nay trên địa bàn thành phố còn thiếu trầm trọng những cán bộ
có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực XDCB. Do vậy, hầu hết những sai phạm
trong quá trình đầu tư XDCB gây thất thoát lãng phí lớn cho NSNN đều xảy ra ở
những bộ phận yếu kém về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Trong giai đoạn 2010 - 2014, đường lối đổi mới được thực hiện, theo đó các
chính sách mở cửa và cải cách kinh tế được tiến hành có hệ thống rộng rãi và sâu
sắc theo lộ trình phù hợp. Nhờ vậy đã thu nhiều thành tích quan trọng trong việc ổn
định và phát triển kinh tế của thành phố nói chung và trong lĩnh vực đầu tư nói
riêng, tạo đà cho bước phát triển sau này.
Việc phân tích, đánh giá một cách chính xác đầy đủ những nguyên nhân chủ
quan, khách quan của những thành công và hạn chế trong lĩnh vực đầu tư XDCB từ
nguồn vốn NSNN sẽ là những căn cứ thực tiễn quan trọng cho những giải pháp có
tính khả thi cao, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT XDCB từ NSNN nói
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng trong giai đoạn 2015- 2020.
90
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
4.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015 -
2020 tầm nhìn đến năm 2030
4.1.1. Định hướng phát triển
Quảng Ninh có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước và của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, đặc biệt là trong chiến
lược phát triển kinh tế ven biển và kinh tế biển. Triển khai Nghị quyết TW 4 (khoá
X) của Đảng về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, BCH Đảng bộ tỉnh đã đề
ra chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đó theo các mục tiêu và quan điểm:
Khai thác và phát huy những tiềm năng và lợi thế vùng biển đảo, từng bước xây
dựng vùng biển đảo của tỉnh trở thành một vùng kinh tế phát triển năng động, một
trung tâm kinh tế mạnh mà nòng cốt chính là cảng biển, công nghiệp và du lịch.
Quảng Ninh cũng hết sức chú trọng tới việc phát triển các khu kinh tế tổng hợp,
khu, cụm công nghiệp ven biển, đảo, phát triển các khu kinh tế thương mại gắn với
vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ. Để phát triển kinh tế xã hội, hàng năm ngân
sách Nhà nước bỏ ra một lượng vốn đáng kể cho các dự án xây dựng các công trình
hạ tầng cơ sở từ Trung ương đến các địa phương. Việc quản lý dự án thuộc nguồn
ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian qua đã có tiến bộ, nhiều
dự án đầu tư đã hoàn thành và từng bước phát huy hiệu quả, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Song đến nay so với mặt bằng chung của các tỉnh trong cả nước, những kết quả mà
Quảng Ninh đạt được về kinh tế xã hội vẫn chưa xứng với tiềm năng hiện có. Tổng
vốn ngân sách dành cho đầu tư xây dựng còn chưa cao, để sử dụng nguồn vốn đầu
tư vào xây dựng được đạt hiệu quả cao thì vấn đề nâng cao công tác QLDA đầu tư
xây dựng luôn thu hút sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, thành phố, huyện
thị, các cấp, các ngành. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay tỉnh Quảng Ninh đang có
04 thành phố trực thuộc; trong có có thành phố Hạ Long là thành phố Đô thị loại 1.
Để đạt trên 13,5% như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đề ra cần
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nghiên cứu, xem xét định hướng và giải pháp phù hợp hơn, nhất là trong tình hình
91
hiện nay khi tăng trưởng của tỉnh mới chỉ theo chiều rộng, chưa có chiều sâu.
Quảng Ninh hiện đang có rất nhiều những lợi thế, mà nổi trội nhất là Vịnh Hạ Long
đã 2 lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và vừa qua được
đánh giá là 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Do vậy, việc xây dựng các
quy hoạch quan trọng cần phải đặt ở tầm nhìn rộng hơn, chiến lược hơn, dài hơn và
phù hợp với xu thế phát triển của các nước trong khu vực và quốc tế.
Trong định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
mới này sẽ nghiên cứu xem xét lựa chọn mục tiêu phát triển tập trung vào 3 nhóm
vấn đề lớn, đó là tăng trưởng kinh tế, việc làm và môi trường. Còn lại các mục tiêu
khác như quy mô GDP, GDP/người… giảm nghèo, giảm mức độ ô nhiễm môi
trường chỉ là hệ quả khi những mục tiêu quan trọng được giải quyết. Tỉnh cũng đã
xác định với các giải pháp trong quy hoạch phát triển cần có sự tập trung cao, đi
thẳng vào những khâu quan trọng nhất để tạo sự đột phá, tạo sức lan toả và kích
thích phát triển. Trong bối cảnh tiềm năng có nhưng nguồn lực thì hạn chế nên để
có giải pháp tốt đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu, sự tham gia đóng góp hiệu quả
của các chuyên gia trong và ngoài nước. Năm 2016 là năm Quảng Ninh bước vào
giai đoạn mới để xây dựng quy hoạch theo chỉ đạo của Chính phủ, vì muốn phát
huy được tiềm năng thế mạnh thì trước hết phải có quy hoạch tốt, có dự án tốt thì có
nhà đầu tư tốt. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc cho Quảng Ninh được
thuê tư vấn nước ngoài lập các quy hoạch gồm: Tổng thể phát triển kinh tế - xã hội;
xây dựng đô thị và hạ tầng kỹ thuật; sử dụng đất đai và tài nguyên; phát triển nguồn
nhân lực. Tỉnh đã và đang xem xét lựa chọn đơn vị tư vấn có uy tín, kinh nghiệm
mang tầm cỡ quốc tế tham gia nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh trên tầm nhìn mới; phấn đấu xứng đáng là trung
tâm kinh tế - văn hoá - xã hội của vùng Duyên hải Bắc Bộ.
4.1.2. Các dự án đầu tư xây dựng công trình trong thời gian tới của Tỉnh
* Các dự án đầu tư phát triển trong thời 2015 - 2020
1. Dự án phát triển Hạ tầng đô thị.
2 . Dự án phát triển hạ tầng xã hội.
3. Dự án phát triển hạ tầng Văn hóa, Thể thao và Du lịch thương mại.
4. Dự án tài nguyên môi trường phát triển bền vững.
5. Các khu đô thị mới.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
6. Các khu tái định cư.
92
7. Cải tạo, xây dựng trụ sở hành chính.
Nguồn vốn để thực hiện:
+ Vốn Ngân sách của tỉnh ghi vốn cho các dự án.
+ Vốn trái phiếu Chính phủ.
+ Các loại vốn khác.
Với các nguồn vốn như trên thì việc đầu tư cho các dự án trọng điểm và thực
hiện theo định hướng trên là khả thi, nhưng để thực hiện những định hướng phát
triển trong thời gian tới thì cần phải nâng cao công tác QLDA đầu tư xây dựng công
trình, qua quá trình công tác và được học tập tại Lớp cao học ngành quản lý kinh tế
được thầy, cô truyền giảng kiến thức và nghiên cứu em đưa ra những đề xuất giải
pháp chống thất thoát, lãng phí và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác
QLDA đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Các giải pháp trong các giai
đoạn của quá trình đầu tư đó là:
- Hoàn thiện và nâng cao năng lực Chủ đầu tư và QLDA.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp và quản lý trong đầu tư XDCB.
- Giai đoạn chuẩn bị đầu tư : Bao gồm các giải pháp cho công tác khảo sát,
thiết kế , lập thẩm định đầu tư.
- Giai đoạn thực hiện đầu tư: Bao gồm các giải pháp về công tác; công tác
lựa chọn nhà thầu theo luật đấu thầu, công tác đền bù và giải phóng mặt bằng và
công tác giám sát thi xây dựng công trình.
- Giai đoạn kết thúc đầu tư: Bao gồm các giải pháp về công tác nghiệm thu và
lập hồ sơ hoàn công, thanh quyết toán, giải ngân, công tác đánh giá giám sát đấu thầu.
4.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư công
trình xây dựng bằng nguồn vốn NSNN
Công tác QLDA đầu tư công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
những năm gần đây đạt được những kết quả đáng mừng xong bên cạnh đó ban
QLDA, các Chủ đầu tư còn nhiều thiếu sót cần phải khắc phục để thực hiện được
những định hướng trên có hiệu quả nghĩa là mục đích cuối cùng của công tác
QLDA là làm sao thu được sản phẩm tốt nhất với giá cả hợp lý. Nội hàm của
QLDA là một phạm vi rộng và thực sự đổi mới thực hiện các biện pháp chấn chỉnh
quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao công tác QLDA nhằm nâng cao hiệu quả vốn
đầu tư, nhất là nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước theo chỉ thị 1792/CT-TTg ngày
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
15/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư và xây dựng
93
bằng nguồn vốn Nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ, trong đó tập trung vào các
vấn đề trọng tâm sau đây:
4.2.1. Đổi mới công tác quản lý nhằm giảm thất thoát ngân sách đầu tư XDCB
Đổi mới công tác quản lý ngân sách đầu tư XDCB có vai trò quan trọng
trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo môi trường đầu tư lành mạnh,
thu hút thêm nhiều nguồn vốn từ các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thực hiện
tốt các mục tiêu xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.
Trên thực tế, tình hình thực hiện vốn đầu tư từ NSNN của tỉnh còn thấp, kế
hoạch giải ngân vốn đầu tư cơ bản không hoàn thành. Việc giải ngân chậm gây lãng
phí về vốn, thời gian và cơ hội đầu tư. Vì vậy trong thời gian tới cần xem xét lại
việc phân bổ vốn, tránh tình trạng đầu tư dàn trải như hiện nay, vốn đầu tư nên huy
động từ nhiều nguồn để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách. Giảm bớt thủ tục đầu tư
XDCB, mở rộng cơ chế đấu thầu để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Thực trạng lĩnh vực đầu tư XDCB tại tỉnh, vấn đề lãng phí, thất thoát vốn là
2 căn bệnh mang tính phổ biến nên việc đổi mới quản lý đầu tư XDCB từ nguồn
vốn NSNN là rất quan trọng và không thể thiếu. Hơn nữa do yêu cầu đảm bảo chất
lượng và tuổi thọ công trình, nên việc quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả nguồn
vốn đầu tư XDCB từ NSNN là công tác thường xuyên và phải thực hiện quyết liệt.
Kết quả cuối cùng chính là chất lượng công trình sau khi hoàn thành và đưa vào sử
dụng đúng thời gian. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc như: một số
quyết định chủ trương đầu tư thiếu chính xác; tình trạng đầu tư dàn trải diễn ra phổ
biến, thể hiện ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư, từ chủ trương đầu tư quy
hoạch, lập, thẩm định dự án, thanh quyết toán và đưa công trình vào khai thác sử
dụng kém chất lượng; nợ tồn đọng vốn đầu tư XDCB ở mức cao và có xu hướng
ngày càng tăng. Những thất thoát, lãng phí trong xây dựng làm giảm sút chất lượng
công trình, ảnh hưởng đến tuổi thọ của công trình so với thiết kế. Đây cũng là một
thất thoát vốn mà Nhà nước phải tính đến, bởi lẽ công trình chỉ phục vụ được trong
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
một số năm ít hơn số năm trong dự án được duyệt.
94
4.2.2. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và quy hoạch
đầu tư
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và quy hoạch đầu
tư nhằm thực hiện đúng mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Quảng Ninh trong những năm tới đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ
XVII thông qua. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-
2015 đã được nêu trong văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XVII,
xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn để đảm bảo cho kinh tế Quảng Ninh phát triển
ổn định và vững chắc. Nghiên cứu dự báo thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để
định ra bức tranh tổng thể cho đầu tư phát triển. Trên cơ sở đó định ra kế hoạch đầu
tư hàng năm để chủ động bố trí các khoản chi trong dự toán chi ngân sách Nhà nước
cho bộ máy quản lý, hoạt động sự nghiệp, an ninh quốc phòng và cùng các nguồn
vốn huy động khác cho đầu tư phát triển nhằm phục vụ các mục tiêu của tỉnh.
Cần chấn chỉnh lại công tác quy hoạch tổng thể theo định hướng của Đại hội
Đảng bộ tỉnh, chỉ đạo thống nhất từ tỉnh đến các cấp thành phố, huyện, thị và nâng
cao chất lượng công tác lập quy hoạch là bước cụ thể hoá của chiến lược, thật sự trở
thành công cụ hữu hiệu cho kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Cần
phải rà soát, bổ xung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 tầm nhìn
đến năm 2030. Từ đó gắn liền mô hình quy hoạch chi tiết với quy hoạch đầu tư tổng
thể. Căn cứ các mục tiêu chiến lược đã xác định, tìm nguồn vốn đầu tư phù hợp với
các mục tiêu.
4.2.3. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá đầu tư
Yếu tố quan trọng hàng đầu là quản lý có hiệu quả các nguồn lực đầu tư
cho phát triển. Việc tập trung vào công tác kế hoạch hoá là rất quan trọng, nhằm
thực hiện phương hướng, cơ cấu, mục tiêu kế hoạch đã đề ra tạo điều kiện thời
gian cho việc lập dự án. Cơ chế điều hành kế hoạch đầu tư trong thời gian qua đã
từng bước thay đổi cùng với công tác cải cách nền hành chính tỉnh, song vẫn còn
bộc lộ những nhược điểm như: kế hoạch bố trí dàn trải, thiếu tập trung, bố trí kế
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hoạch theo kiểu chia phần, ít chú ý đến hiệu quả kinh tế. Từ đó dẫn đến tình
95
trạng tiêu cực, chạy vốn, gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản. Để khắc phục
tình trạng trên, công tác kế hoạch hoá đầu tư cần được kiện toàn và nâng cao
chất lượng với các giải pháp sau:
- Thứ nhất: củng cố và nâng cao kỷ luật trong khâu triển khai, điều hành kế
hoạch đầu tư hàng năm của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh. Không bố trí vốn
cho các dự án chưa hoàn chỉnh thủ tục.
- Thứ hai: quy định rõ thẩm quyền và nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu
tư, ban quản lý dự án đối với các trường hợp hiệu quả thấp, chậm tiến độ (đối với
trường hợp do nguyên nhân chủ quan).
- Thứ ba: nghiên cứu để quy định xử phạt đối với trường hợp thừa hoặc thiếu
vốn cho giá trị khối lượng thực hiện đủ điều kiện thanh toán đối với các cơ quan,
đơn vị liên quan.
- Thứ tư: đảm bảo bố trí vốn xây dựng cơ bản theo hướng tập trung vào các
lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm của tỉnh như: bố trí vốn đầu tư cho các ngành, lĩnh
vực nông nghiệp nông thôn, kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, hạ tầng xã hội, kiên
cố hoá trường lớp học, phù hợp với khả năng cân đối vốn của năm kế hoạch và
những năm tiếp theo; quản lý vốn theo phân cấp của Luật Ngân sách Nhà nước và
các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư. Chấm dứt tình trạng đầu tư
không đồng bộ, không hiệu quả, dành vốn thanh toán trong các khoản nợ đến hạn
trong XDCB. Khắc phục tình trạng này không những là điều kiện đảm bảo đầu tư
có hiệu quả mà còn là giải pháp để lành mạnh hoá, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường.
- Thứ năm: xác định rõ nguồn lực, cơ cấu nguồn vốn đầu tư, khuyến khích và
phát huy xã hội hoá đầu tư, giảm dần tỷ trọng và các danh mục các công trình sử
dụng vốn NSNN. Có giải pháp xử lý, hạn chế tình trạng các dự án không thực hiện
đúng cam kết huy động các nguồn vốn khác, chỉ trông chờ vào vốn ngân sách.
4.2.4. Hoàn thiện và nâng cao năng lực Chủ đầu tư và Ban quản lý dự án
4.2.4.1. Sự cần thiết thực hiện giải pháp
Con người luôn luôn xác định là nhân tố quan trọng và quyết định. Đảng
và Nhà nước ta chú trọng việc đào tạo nâng cao năng lực trình độ của cán bộ
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quản lý và thực hiện đổi mới cơ chế quản lý trong thời gian qua đã có thay đổi.
96
Khi luật xây dựng, luật đấu thầu, luật đầu tư được ban hành và có hiệu lực thì
việc tổ chức triển khai thực hiện là một công việc cực kỳ quan trọng, cần được
các cấp, các ngành, địa phương và cơ sở nghiêm túc quán triệt và thi hành để các
điều khoản cụ thể của các Luật thật sự được đi vào cuộc sống. Năng lực của Chủ
đầu tư, ban QLDA là yếu tố quan trọng tạo nên sản phẩm xây dựng có chất
lượng đảm bảo yêu cầu kỹ mỹ thuật, khai thác có hiệu quả. Chủ đầu tư, Ban
QLDA có năng lực sẽ nắm vững được mục tiêu của dự án, yêu cầu kỹ thuật,
quản lý chất lượng công trình, quy trình quản lý dự án, hợp lý các thủ tục đảm
bảo cơ sở pháp lý theo quy định. Để có đội ngũ cán bộ có năng lực, kinh nghiệm
QLDA thì phải tuân theo quy chế quản lý đầu tư xây dựng.
Chủ đầu tư trực tiếp quản lý và điều hành thì phải thành lập Ban QLDA có
đủ năng lực và nghiệp vụ, chuyên môn. Giám đốc, các chức danh chuyên trách
trong Ban QLDA có trình độ đào tạo phù hợp với từng dự án, có như thế mới am
hiểu chuyên sâu về công tác chuyên môn, tránh gây những hậu quả không đáng có
khi thực hiện dự án. Do đó Chủ đầu tư dứt khoát phải thành lập Ban QLDA với đội
ngũ cán bộ đủ năng lực, kinh nghiệm thực hiện quản lý các dự án đầu tư từ NSNN.
4.2.4.2. Nội dung giải pháp và tổ chức thực hiện
Một là, Cụ thể hóa tiêu chuẩn và quy định trách nhiệm của chủ đầu tư. Một
thực tế cho thấy rằng QLDA, nhiều chủ đầu tư còn tỏ ra nhiều yếu kém, không đủ
trình độ ngành nghề không phù hợp, thiếu trách nhiệm v.v… Tiêu chuẩn của Chủ
đầu tư và Ban quản lý dự án phải có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành phù hợp
với chuyên môn của dự án.
Hai là, Thường xuyên đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về đầu tư
XDCB. Công tác QLDA đầu tư cần được coi là một nghề và vì vậy phải có những
các bộ chuyên nghiệp. Chương trình đào tạo phân ra nhiều lĩnh vực chuyên môn
khác nhau để các bộ chuyên viên hoạt động trong lĩnh vực nào thì được đào tạo
chuyên sâu trong lĩnh vực đó.
Ba là, Chủ đầu tư phải nâng cao trách nhiệm trong việc lựa chọn nhà thầu tư
vấn lập dự án, thiết kế kỹ thuật, thực hiện chọn thầu theo đúng quy định. Thường
xuyên kiểm tra đôn đốc đơn vị tư vấn, tuyệt đối nghiêm cấm việc bắt ép các đơn vị
tư vấn làm theo ý chủ quan không có cơ sở khoa học.
Bốn là, Tăng cường quyền hạn trách nhiệm chủ đầu tư, theo quy định của
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
điều lệ, chủ đầu tư là người trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư, quản lý sử dụng
97
tài sản sau đầu tư nên chủ đầu tư phải có trách nhiệm từ khâu dự án đến quá trình
khai thác sử dụng. Để tăng cường quyền hạn và trách nhiệm chủ đầu tư, ngăn ngừa
thất thoát lãng phí cần chấn chỉnh khâu này theo hướng sau:
- Xác định rõ trách nhiệm tác nhân của chủ đầu tư đối với hoạt động đầu tư.
Quản lý chặt chẽ chủ đầu tư trong việc thành lập Ban quản lý dự án, trong việc lựa
chọn nhà thầu, trong đấu thầu và chỉ định thầu, phương thức thanh toán và thời gian
thanh toán, việc quản lý giá cả và thời gian xây dựng. Ban hành cơ chế kiểm tra và
ràng buộc Chủ đầu tư nhằm hạn chế sự chi phối các hoạt động đấu thầu, lựa chọn
Nhà thầu theo luật đấu thầu và thanh quyết toán công trình. Đây là khâu quan trọng
để hạn chế thất thoát kém hiệu quả.
4.2.5. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp, quản lý trong công tác đầu tư
XDCB
4.2.5.1. Sự cần thiết thực hiện giải pháp
Thực hiện nghị định 12/201/NĐ-CP của Chính phủ, UBND tỉnh Quảng Ninh
đã phân cấp cho UBND cấp huyện, thành phố thuộc tỉnh trong công tác quản lý, tổ
chức thực hiện công tác đầu tư công trình XD trên địa bàn tỉnh, đã cụ thể hoá các
tiêu chí tại bản Quy định về quản lý các dự án đầu tư xây dựng công trình sử dụng
nguồn vốn ngân sách của địa phương ban hành kèm theo Quyết định số
4170/2011/QĐ-UBND ngày 28/2/2011 của UBND tỉnh để thay thế Quyết định số
1888/2007/QĐ-UBND ngày 01/6/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh cho phù hợp
với tình hình quản lý hiện tại. Thực hiện cơ chế phân công phân cấp tỉnh, các
ngành, các cấp (cấp huyện và cấp xã, phường) đã phát huy được tính chủ động trong
điều hành ngân sách cũng như tăng trách nhiệm và quyền hạn trong quyền quyết
định đầu tư, bố trí vốn và thực hiện dự án.
Nhìn lại, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phân cấp quản lý vốn đầu
tư còn nhiều điểm khiếm khuyết cần sửa đổi bổ sung kịp thời. Văn bản phân cấp
chưa rõ ràng, chưa triệt để, chưa diễn ra mạnh mẽ, chưa bao quát hết những khía
cạnh cần quản lý; cần phải đưa ra các giải pháp sau:
4.2.5.2. Nội dung giải pháp và tổ chức thực hiện
Một là, Đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư xây dựng. Nhằm đổi mới công tác
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quản lý đầu tư, tăng cường trách nhiệm cho các cấp, vấn đề quan trọng hàng đầu là
98
phân cấp quản lý cho các cấp theo hướng ngày càng triệt để, làm rõ thẩm quyền và
trách nhiệm trong công tác quản lý đầu tư xây dựng.
Hướng phân cấp phải đảm bảo các mục tiêu sau:
- Tăng cường chủ động sáng tạo, linh hoạt cho các cấp huyện, thành phố
trong quản lý đầu tư XDCB.
- Động viên thêm nguồn lực cho đầu tư, nhất là các nguồn lực cấp xã. Tạo
điều kiện cho các tổ chức xã hội và toàn thể quần chúng tham gia vào quản lý đầu
tư. Cụ thể đẩy mạnh công tác đấu giá chuyển quyền sử dụng đất dôi dư, nhỏ lẻ và
đất kế hoạch của các phường, xã để hoàn thành kế hoạch tỉnh giao và kế hoạch tỉnh
phấn đấu và tạo nguồn cho phường, xã xây dựng, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc,
nhà văn hóa, trạm y tế xã, phường; đối ứng TPCP xây dựng trường, lớp học đạt
chuẩn, UBND tỉnh đã ủy quyền cho UBND thành phố, thị xã trực thuộc được thẩm
định phê duyệt thủ tục để tổ chức đấu giá QSDĐ nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện
đấu giá đất và giải ngân vốn trong năm kế hoạch.
Chống tư tưởng ỷ lại của cấp dưới, trông chờ vào cấp trên, hạn chế việc cố
chạy bằng những dự án nhưng không quan tâm đến hiệu quả của chúng.
Hai là: Đề cao trách nhiệm của cá nhân người ra quyết đầu tư.
Trong lĩnh vực đầu tư XDCB mặc dù có nhiều dự án không có hiệu quả thậm
trí gây thất thoát lớn về kinh tế và ảnh hưởng xấu đến vấn đề xã hội nhưng vẫn
không bị truy cứu trách nhiệm. Trong các văn bản pháp quy về chế độ quản lý đầu
tư XDCB nước ta từ trước tới nay chưa đặt ra các chế tài cụ thể đối với các tổ chức
và cá nhân khi gây ra hậu quả cho đất nước trong lĩnh vực này. Để nâng cao trách
nhiệm cá nhân và tổ chức trong quản lý đầu tư XDCB Tỉnh phải có những quy định
cụ thể buộc cá nhân và tổ chức phải chịu trách nhiệm với những thất thoát đó.
Ba là: Đề cao vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước.
Trong mọi giai đoạn của dự án đầu tư từ vốn của ngân sách nhà nước thì vai
trò quản lý nhà nước đóng vai tò quan trọng đó là việc:
- Thanh tra, kiểm tra mọi trình thủ tục đầu tư xây dựng theo quy định của
pháp luật;
- Thanh tra, kiểm tra việc đảm bảo chất lượng và an toàn công trình;
- Thanh tra, kiểm tra công tác thanh toán, quyết toán đưa vào quy định phải
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
kiểm toán mọi chi phí khi thanh toán quyết toán;
99
- Thanh tra, kiểm tra việc đảm bảo tiến độ;
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh mọi vi phạm trong các hợp đồng
xây dựng nhất là tình trạng tiêu cực, hiệu quả dự án kém làm thất thoát lãng phí vốn
nhà nước trong đầu tư.
- Đánh giá hiệu quả đầu tư theo mục tiêu của dự án, theo chu trình của dự án
(cả giai đoạn đầu tư và kết thúc đầu tư đưa dự án vào khai thác sử dụng).
4.2.6. Hoàn thiện quản lý dự án trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư
4.2.6.1. Giải pháp trong công tác khảo sát
a) Sự cần thiết thực hiện giải pháp
Sau khi có kế hoạch được duyệt, công tác khảo sát cũng được quan tâm
ngay. Công tác khảo sát là công việc ban đầu, là giai đoạn công trình còn hoang sơ,
tiến hành gặp rất nhiều khó khăn vì vậy nếu chủ động được công tác kế hoạch đồng
nghĩa với việc chủ động công tác khảo sát.
- Về phía đơn vị Tư vấn khảo sát, thiết kế phải được thực hiện nghiêm túc
công tác khảo sát phục vụ lập dự án đầu tư và thiết kế kỹ thuật, bởi vì kết quả khảo
sát là đầu vào cho quá trình thiết kế, số liệu đầu vào không chính xác tất yếu dẫn đến
đề án thiết kế sẽ bị thay đổi trong quá trình tổ chức thực hiện dự án, phải xử lý hiện
trường quá nhiều, gây khó khăn cho công tác QLDA và chậm tiến độ công trình.
- Công tác khảo sát ở một giai đoạn phải được xác định chi tiết và được
duyệt trong đề cương khảo sát. Việc khảo sát để đưa ra nhiều phương án lựa chọn ví
dụ: đối với xây dựng tuyến đường đô thị thì việc lực chọn tuyến là rất quan trọng
một tuyến tối ưu phải đảm bảo các chỉ tiêu về kinh tế và kỹ thuật, thuận lợi cho thi
công, đền bù ít phức tạp nhất. Thực tế nhiều dự án xây dựng các tuyến đường mới
đến giai đoạn thi công mới phát hiện ra nếu hướng tuyến thay đổi thì sẽ thi công
thuận lợi và kinh tế hơn rất nhiều.
- Công tác khảo sát sau khi lựa chọn được tuyến, lựa chọn địa điểm việc
khảo sát kỹ địa hình, địa chất là rất quan trọng (giai đoạn lập thiết kế kỹ thuật và
thiết kế bản vẽ thi công). Cán bộ thiết kế căn cứ vào địa hình, địa chất, các đặc tính
cơ lý của đất để làm cơ sở tính toán thiết kế. Nếu khảo sát địa hình, địa chất sai, cấp
đất đá không chuẩn xác kéo theo thiết kế sai làm tăng khối lượng chi phí nhân công,
tăng chi phí máy.
- Phương án nhiệm vụ khảo sát cần được lập một cách khoa học, chính xác.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Các số liệu khảo sát phải mang tính thừa kế đối với tất cả các giai đoạn của dự án để
100
tránh lãng phí. Tốt nhất nên để cơ quan Tư vấn thực hiện công tác toàn bộ khảo sát
một công trình qua tất cả các giai đoạn.
Đẩy mạnh công tác giám sát, nghiệm thu khối lượng, chất lượng của công tác
khảo sát. Ngay cả nội bộ đơn vị Tư vấn cũng thực hiện chưa nghiêm chỉnh, các Chủ
đầu tư, các Ban QLDA gần như khoán trắng cho các đơn vị Tư vấn. Thực tế nhiều
sửa đổi phát sinh kinh tế làm tăng chi phí cũng do chủ yếu là công tác khảo sát làm
chưa chính xác. Ban QLDA đã quy định hướng dẫn về quản lý chất lượng công tác
khảo sát dựa trên Quy định về quản lý chất lượng công trình ban hành kèm theo
Nghị định 15/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 thay thế Nghị định 209/2004/NĐ-CP
của Chính phủ làm cơ sở cho các đơn vị thực hiện.
Khi lập biện pháp thi công, đơn vị tư vấn thiết kế phải cử các bộ có kinh
nghiệm khảo sát điều kiện thực tế cụ thể để lập biện pháp tổ chức thi công, cụ thể
phải xác định các điều kiện vận chuyển bằng ô tô, cơ giới thủ công, đường vận
chuyển...có phương án so sánh để đưa ra biện pháp thi công tối ưu, đảm bảo đủ điều
kiện thi công và tiết kiệm chi phí, giảm giá thành công trình.
b) Nội dung giải pháp và tổ chức thực hiện
Về phía Chủ đầu tư hoặc Ban QLDA các cấp cần hoàn thiện và củng cố một
số việc như sau:
- Cử cán bộ có trách nhiệm phối hợp kịp thời và đồng bộ với đơn vị Tư vấn
trong việc lập nhiệm vụ và phương án khảo sát trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
kịp thời đúng tiến độ.
- Phối hợp các cơ quan chức năng, đơn vị quản lý vận hành cung cấp hồ sơ
kỹ thuật, hồ sơ tuyến, hồ sơ các công trình có liên quan, các số liệu hạ tầng kỹ thuật
khác cho đơn vị Tư vấn.
- Thường xuyên liên hệ các đơn vị Tư vấn để giải quyết các khó khăn vướng
mắc trong công tác khảo sát.
- Phê duyệt phương án kỹ thuật khảo sát xây dựng cho nhà thầu Tư vấn lập.
Phương án đó phải phù hợp đáp ứng được yêu cầu sau:
+ Phù hợp với nhiệm vụ khảo sát xây dựng được Chủ đầu tư phê duyệt.
+ Tuân thủ các tiêu chuẩn về khảo sát được xây dựng.
- Chủ đầu tư phải thực hiện giám sát khảo sát công trình.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Chủ đầu tư phải nghiệm thu kết quả khảo sát xây dựng.
101
4.2.6.2. Giải pháp trong công tác lập dự án đầu tư
a. Nâng cao năng lực của các đơn vị Tư vấn
Hiện nay trong điều kiện kinh tế thị trường các công ty Tư vấn được thành
lập nhiều, một số tư vấn mới thành lập năng lực còn hạn chế, không đủ lực lượng,
thiếu chủ nhiệm đề án hoặc một chủ nhiệm đề án kiêm nhiệm nhiều dự án. Vấn đề
này đã tồn tại lâu nhưng chưa giải quyết được, do vậy giải pháp là cần rà soát lại,
sắp xếp lực lượng của các đơn vị Tư vấn đảm bảo hoàn thành dự án đảm bảo chất
lượng, cho nên các Ban QLDA, các Chủ đầu tư do UBND tỉnh đã ủy quyền phải có
quyết định đúng đắn trong việc lực chọn Nhà tư vấn thiết kế đủ năng lực để giao dự
án, nhà tư vấn thực hiện đúng tiến độ, sản phẩm đạt chất lượng.
Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại, nâng cao năng lực cho các cán
bộ thiết kế, chủ trì, chủ nhiệm dự án đảm bảo đáp ứng các mục tiêu làm chủ công
tác Tư vấn xây dựng các công trình. Đối với việc đào tạo lại cán bộ tư vấn, chỉ chọn
những người đã tốt nghiệp Đại học theo chuyên ngành thì được làm tư vấn theo
đúng lĩnh vực khác. Nhà tư vấn cần phải hiểu sâu về lĩnh vực chuyên môn của một
số lĩnh vực khác như: chính sách chế độ tài chính, pháp luật…
Các đơn vị phải nâng cao trách nhiệm hơn nữa chất lượng của công tác tư
vấn. Phải thực hiện các công việc tư vấn một cách đúng đắn, khoa học. Các đơn vị
tư vấn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các sản phẩm tư vấn của mình, về sự
chính xác của tài liệu tham khảo và các số liệu tính toán. Những ý định của chủ đầu
tư trái với nghiệp vụ chuyên môn, đơn vị tư vấn phải thuyết phục trên cơ sở các
luận cứ khoa học các quy định của Nhà nước quản lý đầu tư và xây dựng, nếu
không thuyết phục được phải lập báo cáo gửi riêng UBND tỉnh và các cơ quan thẩm
định công tác tư vấn đó, trong trường hợp này các cơ quan tư vấn sẽ không chịu
trách nhiệm về các sai sót do việc ép buộc của chủ đầu tư gây ra.
Bên cạnh đó chủ đầu tư cũng phải tạo điều kiện cho nhà tư vấn có đủ thời
gian cần thiết đủ để các nhà tư vấn thu thập, nghiên cứu, khảo nghiệm các số liệu
liên quan đến dự án. Tuy nhiên cũng có thể căn cứ vào trình độ, khả năng thực tế,
sản phẩm đã được xã hội thừa nhận để chọn thầu tư vấn nhưng cũng chỉ áp dụng
cho những công trình tương tự.
b. Nâng cao năng lực quản lý của các cán bộ quản lý dự án
Thực tế cho thấy các cán bộ quản lý theo dõi công tác lập dự án của các Ban
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
QLDA của UBND tỉnh, huyện thị, thành phố trực thuộc tỉnh còn có hạn chế về mặt
102
chuyên môn, bằng chứng ở chỗ không am hiểu sâu về chế độ định mức của Nhà
nước, về phân tích hiệu quả kinh tế tài chính của dự án, về các giải pháp kỹ thuật, vì
vậy cho nên không thể kiểm soát được chất lượng sản phẩm Tư vấn trước khi trình
duyệt. Về việc này các Ban QLDA và các Chủ đầu tư của UBND tỉnh, huyện thị,
thành phố trực thuộc tỉnh cần phải được đào tạo lại các cán bộ được phân công theo
dõi công tác lập dự án đầu tư, để đảm bảo chỉ trình duyệt những dự án đầu tư xây
dựng đạt được hiệu quả kinh tế, kỹ thuật.
c. Nâng cao trách nhiệm, năng lực cán bộ, công chức các sở ngành trong
công tác thuộc UBND tỉnh trong công tác thẩm định dự án đầu tư.
Thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, báo cáo kinh tế kỹ thuật công trình là
công việc hết sức quan trọng, là khâu quyết định cho sự thành bại của quá trình đầu
tư một dự án. Từ những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển có thể phải chịu
nhiều rủi ro và mang tính mạo hiểm cao nên trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư việc
nghiên cứu khảo sát tính toán và dự án đòi hỏi thật kỹ lưỡng, chính xác, trên tất cả
các phương diện nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả vốn đầu tư. Đây là vấn đề quan
trọng nhất.
Thẩm định dự án có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho chủ đầu tư, tổ
chức tài trợ vốn đánh giá một cách khách quan tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả
thi của dự án giúp cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư được đúng đắn. Thẩm định
dự án là một chức năng chủ yếu trong quản lý Nhà nước về đầu tư, thẩm định dự án
phải được xem xét toàn diện về quy hoạch xây dựng, các phương án kiến trúc công
nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên, hiệu quả kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái phương diện tài chính và các khía cạnh xã hội khác đảm bảo dự án có tính khả
thi giúp cho người có thẩm quyền ra quyết định đầu tư. Thời gian qua, dự án công
trình do các UBND huyện thị, thành phố Quản lý và điều hành việc thẩm định do
các phòng hạ tầng hoặc Tài chính kế hoạch chủ trì, có tham khảo một số ý kiến của
một số Sở, ngành liên quan. Sau một thời gian triển khai cho thấy chất lượng thẩm
định dự án còn nhiều hạn chế. Một phần do chất lượng lập dự án thấp, phần do năng
lực, trình độ, kinh nghiệm, phương pháp tổ chức thực hiện của các cán bộ thực thi
còn bất cập. Nên đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Ngoài
những nội dung kiểm tra, cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện từng chỉ tiêu
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
của dự án. Cơ quan thẩm định quan tâm hơn nữa đến một số chỉ tiêu sau:
103
- Về tài chính: Khả năng nguồn vốn hỗ trợ của tỉnh cũng như vốn của Chủ
đầu tư bố trí cho công trình.
- Về hiệu quả kinh tế xã hội cần kiểm tra:
+ Về công nghệ, tác động môi trường và kế hoạch tiến độ thực hiện dự án đều
là những vấn đề quan trọng mà Chủ đầu tư dự án khi lập chưa lường trước được.
+ Về phương pháp và thời gian thẩm định. Tùy theo dự án mà cơ quan chủ
trì thẩm tra phân công cán bộ có hiểu biết trong lĩnh vực đó đảm nhiệm. Và các cán
bộ đó phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Nhà nước. Đối với một số dự án lớn,
phức tạp nên tổ chức hội thảo khoa học. Trường hợp cần tham khảo ý kiến một số
ngành, cơ quan chỉ trì phải gửi yêu cầu và thời gian hoàn thành. Nếu có ý kiến quan
điểm khác nhau ở những vấn đề lớn cơ quan chủ trì cần mời đại diện các ngành bàn
bạc thống nhất. Trường hợp chưa thống nhất phải báo đầy đủ cho người có thẩm
quyền phê duyệt dự án quyết định. Cần khắc phục tư tưởng nể nang, dễ dãi, đơn
giản trong việc thẩm định dự án. Về thời gian, yêu cầu phải tiến hành khẩn trương
tránh những thủ tục rườm rà, phiền hà, thực hiện đúng hoặc sớm hơn mốc thời gian
quy định. Mặt khác thông qua việc thẩm định dự án, với chức năng của mình Sở Kế
hoạch và Đầu tư, các phòng hạ tầng, Tài chính kế hoạch hàng năm nên thống nhất
hướng dẫn các chủ đầu tư về nội dung phương pháp kinh nghiệm, thời gian lập dự
án, định hướng đầu tư để các chủ đầu tư có nhu cầu đầu tư chủ động lập dự án tìm
nguồn vốn tài trợ và kế hoạch bố trí vốn, khắc phục tình trạng thiếu dự án, dự án lập
và thẩm định vội vàng chất lượng thấp không đáp ứng yêu cầu.
Nội dung giải pháp và tổ chức thực hiện:
Tổ chức học tập, quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị định số
155/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về Quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư và Nghị định số 62/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 6
năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
53/2007/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Nâng cao chất lượng thẩm định phê duyệt dự án đầu tư. Phải có cơ chế
khuyến khích đãi ngộ các chuyên gia giỏi và có đạo đức nghề nghiệp tham gia vào
công tác tư vấn thẩm định dự án đầu tư. Tỉnh phải nhanh chóng thành lập các bộ
phận trực thuộc UBND tỉnh hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư làm chức năng giám định
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đầu tư nhằm kiểm tra giám sát, phân tích đánh giá từng giai đoạn hoặc toàn bộ quá
104
trình đầu tư và xây dựng để đảm bảo cho đầu tư phù hợp quy hoạch mục tiêu phát
triển KT - XH, nâng cao hiệu quả và hạn chế thấp nhất rủi ro trong quá trình đầu tư
xây dựng công trình.
4.2.7. Hoàn thiện quản lý dự án trong giai đoạn kết thúc đầu tư
4.2.7.1. Giải pháp trong công tác nghiệm thu và lập hồ sơ hoàn công
Tất cả các công việc xây dựng sau khi hoàn thành đúng yêu cầu kỹ thuật của
bản vẽ thi công cần được tổ chức nghiệm thu và lập biên bản nghiệm thu tại hiện
trường và có sự chấp thuận của bộ phận Giám sát công trình của Chủ đầu tư. Trước
khi tổ chức nghiệm thu hoàn thành bộ phận công trình, hoàn thành giai đoạn xây
dựng phải lập hồ sơ hoàn công được xác nhận của bộ phận Giám sát A, hồ sơ hoàn
công công trình thực hiện theo Nghị định 15/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định số
209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình
xây dựng, Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18/4/2008 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính
phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng, thay thế Khoản 4 Điều 13, Điều 18
và Điều 30 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Hồ sơ hoàn công bao gồm:
Bản vẽ hoàn công, các biên bản nghiệm thu công việc cấu thành, những thay đổi bổ
sung, bảng tính khối lượng... đều được thể hiện chi tiết cụ thể trong hồ sơ hoàn công
theo quy định tại Thông tư số 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 Quy định chi tiết
một số nội dung về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Nội dung giải pháp và tổ chức thực hiện:
- Để công tác nghiệm thu kỹ thuật không tốn nhiều thời gian và không có
nhiều tồn tại hoặc phải nghiệm thu nhiều lần, các nhà thầu xây lắp cần phải nghiêm
túc tổ chức nghiệm thu nội bộ trước khi nghiệm thu với Ban QLDA, với chủ đầu tư
và Tư vấn Giám sát kỹ thuật thi công.
- Khi khối lượng xây lắp hạng mục công trình đã hoàn thành, các Ban
QLDA, các chủ đầu tư thuộc UBND tỉnh, huyện thị, thành phố trực thuộc tỉnh đôn
đốc đơn vị xây lắp phải hoàn chỉnh nhật ký thi công, bản vẽ hoàn công, các biên bản
thí nghiệm... để tiến hành nghiệm thu ngay cho nhà thầu, tránh tình trạng đến cuối
công trình mới hoàn tất hồ sơ (nhất là hạng mục bị che khuất) tránh tình trạng bản
vẽ hoàn công thiếu chính xác dẫn đến ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch duy tu
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bảo dưỡng công trình.
105
- Tổ chức nghiệm thu từng hạng mục xây dựng, từng giai đoạn thi công và
nghiệm thu công trình hoàn thành nghiệm thu đưa vào sử dụng phải theo đúng quy
định tại Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 Chính phủ về quản lý chất
lượng CTXD.
4.2.7.2. Giải pháp trong công tác thanh quyết toán
Việc Quyết toán dự án hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng phải đảm bảo
tuân thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước đã được quy định tại Thông tư số
19/2011/TT-BTC ngày 14/2/2011 của Bộ tài chính, theo chế độ quy định thì công
trình dự án hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, chậm nhất là 9 tháng đối với dự án
nhóm B; 6 tháng đối với dự án nhóm C chủ đầu tư phải quyết toán công trình hoàn
thành để bàn giao tài sản cho đơn vị sử dụng. Đây là khâu cuối cùng rất quan trọng
của quá trình đầu tư vốn. Thông qua quyết toán nhằm đánh giá kết quả đầu tư, xác
định năng lực sản xuất hiệu quả đầu tư mang lại, xác định rõ trách nhiệm của Ban
QLDA, Chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp phát vốn, kiểm soát thanh toán, đồng
thời rút kinh nghiệm nhằm không ngừng hoàn thiện nâng cao hiệu quả công tác quản
lý vốn đồng thời có quyết định giá trị của công trình đối với người sử dụng. Do đặc
điểm của hoạt động đầu tư phát triển là thời gian dài nhiều yếu tố liên quan đến giá
thành sản phẩm lại biến động, việc quản lý, theo dõi phức tạp, nhất là trong điều kiện
chúng ta xác định kinh tế quốc doanh là chủ đạo, các sản phẩm đầu tư xây dựng thuộc
sở hữu Nhà nước là chính... nên việc xác định đúng giá trị đích thực của sản phẩm
đầu tư xây dựng trong cơ chế quản lý hiện hành là việc rất khó khăn.
Vì vậy tình trạng chủ đầu tư và nhà thầu đề nghị quyết toán cao hơn giá trị
đích thực, công trình xây dựng hoàn thành chưa quyết toán, quyết toán chậm đang
là phổ biến. Nhất là các dự án thuộc ngân sách phường, xã. Như trong phần đánh
giá đã đề cập, vấn đề là Nhà nước phải bổ sung quy định sao cho mọi chủ đầu tư,
cấp trên chủ đầu tư buộc phải quan tâm đến việc quyết toán. Khắc phục tư tưởng
thấy công trình khánh thành là xong công việc. Để từng bước khắc phục tình trạng
này, theo tôi cấp có thẩm quyền cần chỉ đạo các ngành, nắm chính xác số lượng dự
án đầu tư hoàn thành bằng vốn Nhà nước đến nay chưa được duyệt quyết toán theo
quy định, để có giải pháp xử lý. Đối với dự án mới hoàn thành cần hướng dẫn chủ
đầu tư và nhà thầu lập báo cáo quyết toán theo chế độ trong thời gian quy định. Tùy
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
theo quy mô và tính chất phức tạp của từng dự án cơ quan cấp phát hoặc cho vay
106
vốn trực tiếp thẩm tra báo cáo quyết toán hoặc trình cấp có thẩm quyền thành lập tổ
tư vấn thẩm tra quyết toán. Dù có tổ tư vấn hay không có tổ tư vấn trách nhiệm
chính vẫn do cơ quan chủ trì thuộc ngành tài chính cùng cấp, vẫn do cá nhân từng
cán bộ thẩm tra quyết toán. Vì vậy các cán bộ làm công tác này phải có năng lực để
phát hiện ra những sai trái, thủ thuật của các Chủ đầu tư và Nhà thầu trong công tác
quyết toán như khối lượng sai với thực tế, áp định mức, đơn giá không đúng định
mức quy định phải đảm bảo thời gian thẩm tra theo chế độ và phải công tâm không
được tiêu cực thông qua việc hợp thức hóa cho nhà thầu. Trong thẩm tra quyết toán
đối với công trình đấu thầu hết sức chú ý đến chất lượng, chủng loại vật liệu và biên
bản nghiệm thu chất lượng công trình, bản vẽ hoàn công, khối lượng phát sinh
ngoài thầu. Đối với công trình chỉ định thầu hết sức chú ý đơn giá và khối lượng.
Thực hiện nghiêm túc việc giữ lại 5% giá trị chờ bảo hành.
Nội dung giải pháp và tổ chức thực hiện
- Tất cả các công trình kết thúc đầu tư phải thanh quyết toán theo đúng thời
gian quy định. Các công trình thanh quyết toán chậm so với quy định, cơ quan thẩm
định quyết toán có quyền đề nghị UBND tỉnh, huyện thị, thành phố có văn bản phạt
Chủ đầu tư 10% - 30% giá trị chi phí quản lý dự án. Không thẩm định các quyết
toán chưa đủ thủ tục theo quy định. Các cơ quan cấp phát và thẩm định quyết toán
phải chịu trách nhiệm về việc cấp phát, thẩm định quyết toán sai khi các cơ quan
phát hiện ra.
- Tiến hành lập và thông báo giá vật liệu theo tháng. Giá được lập theo đúng
quy trình, phải phù hợp với thị trường và phải tạo điều kiện khuyến khích cạnh
tranh giữa các nhà cung cấp vật liệu. Liên Sở Xây dựng và Sở Tài chính lập và trình
UBND tỉnh Quyết định ban hành bảng hệ số điều chỉnh giá vật liệu đến chân công
trình với mật độ điểm tính toán dầy hơn (có thể tới cụm xã, phường có giá tương
đối giống nhau).
Giải ngân vốn đầu tư có giá trị rất quan trọng trong hoạt động đầu tư xây
dựng. Nó không có ý nghĩa trong việc giải ngân vấn đề tài chính cho các nhà thầu,
trong việc đẩy nhanh tiến độ thi công, bàn giao, sớm đưa công trình vào khai thác sử
dụng mà nó còn tác động trực tiếp đến tầm quan hệ trực tiếp ở tầm quản lý vĩ mô.
Như phần đánh giá thực trạng tình hình, việc giải ngân vốn đầu tư không
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
riêng tỉnh Quảng Ninh mà phạm vi trên toàn quốc đều chậm. Không riêng vốn ngân
107
sách Nhà nước, vốn ODA mà cả vốn tín dụng, mặc dù Nhà nước trong các năm đã
tập trung tháo gỡ song kết quả cũng chưa như mong muốn. Để từng bước khắc phục
căn bệnh kinh niên này tôi xin nêu một số giải pháp.
- Trước hết về việc giải phóng mặt bằng đây là việc tiền đề cho việc thực
hiện dự án. Để giải quyết được vấn đề này, trên cơ sở chính sách Nhà nước Ban
quản lý dự án, các Chủ đầu tư cần khẩn trương xây dựng phương án đền bù và
thông qua cấp có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó chuẩn bị đủ kinh phí, quỹ đất đai
(trường hợp phải cấp lại), đến thời điểm triển khai cần chỉ đạo khẩn trương đồng
loạt, dứt điểm. Không để cho người dân chần chừ, tính toán lâu trên mảnh đất của
họ. Trong quá trình tiến hành cần kết hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở, các đoàn
thể quần chúng, chú trọng phương pháp thuyết phục, giải thích để dân tự nguyện
chấp nhận. Nếu các chế độ đền bù tương đối thỏa đáng mà một số ít hộ không chịu
di chuyển thì phải cương quyết cưỡng chế. Không nên để tình trạng một vài hộ chây
ỳ ngang nhiên thách thức chính quyền, làm cản trở việc chung.
Hai là, cơ quan cấp phát phải đảm bảo đúng tiến độ thời gian, khối lượng
hoàn thành phù hợp với thiết kế dự toán được duyệt và phải kiểm tra giám sát việc
sử dụng vốn đã thanh toán. Thực hiện nghiêm túc, công khai quy trình cấp phát;
Thực hiện đơn giản một số giấy tờ thuộc trách nhiệm của các cơ quan khác như giấy
cấp đất, giấy phép hành nghề, giấy phép xây dựng. Trường hợp trong quá trình
thanh toán vốn có những sai sót thì tách phần đó riêng, cho thanh toán ngay phần đủ
điều kiện. Khắc phục nghịch lý Nhà nước có vốn, nhà thầu cần vốn mà ách tắc
chậm trễ. Trường hợp do nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng khối lượng
hoàn thành có mà thiếu thủ tục thì cơ quan Tài chính - Kho bạc Nhà nước phải báo
cáo cấp có thẩm quyền vận dụng tháo gỡ như cho phép tạm cấp, hoặc cho vay vốn
một tỷ lệ nhất định trong khi chờ đợi hoàn chỉnh thủ tục. Mặt khác phải chú ý nâng
cao kiến thức kỹ thuật - kinh tế xây dựng cơ bản cho cán bộ chuyên quản để có điều
kiện đáp ứng về chất lượng quản lý và thời gian giải quyết công việc. Trường hợp
chủ đầu tư không làm hoặc chần chừ làm quá chậm thủ tục nghiệm thu thanh toán
cho Nhà thầu khi nhà thầu đủ điều kiện thì phải quy trách nhiệm vật chất cho Chủ
đầu tư.
Ba là: Cải tiến thủ tục cấp phát, chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vốn đầu tư.
108
Lâu nay việc thanh toán vốn bao gồm cả cấp phát và cho tạm ứng, việc quyết
toán công trình thường chậm và sách nhiễu thường ở nơi đây. Gây ách tắc về tài
chính cho đơn vị thi công, chậm tiến độ xây dựng và tạo ra sơ hở trong công tác quản
lý vốn. Để khắc phục những tồn tại trên cần quy định rõ trách nhiệm của từng khâu,
từng cấp và từng người có liên quan một cách cụ thể gắn với chế độ thưởng phạt công
minh. Trường hợp cấp phát cho tạm ứng không đúng tiến độ, gây lãng phí, thất thoát
vốn và tài sản của Nhà nước thì phải bồi thường và bị xử lý theo Pháp luật.
4.2.7.3. Một số giải pháp khác
a. Trong công tác giám sát đánh giá đầu tư
Nâng cao chất lượng công tác GSĐGĐT, rà soát và chấn chỉnh các khâu
trong hoạt động đầu tư và xây dựng:
- Coi trọng chất lượng giám sát và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu
quả chống thất thoát.
- UBND tỉnh chỉ đạo các huyện, thành phố rà soát lại các quy hoạch, thực
hiện giám sát từng khâu bố trí đầu tư đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, đánh giá
tổng thể đầu tư, bố trí kế hoạch tập trung và rà soát lại từng dự án để đảm bảo hiệu
quả, thực hiện giám sát thường xuyên trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư
(chuẩn bị đầu tư, phê duyệt TKKT, tổng dự án, đấu thầu, quản lý vốn, ký hợp đồng,
thanh quyết toán...) tìm các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư kế hoạch 5
năm, kịp thời rút kinh nghiệm và chấn chỉnh công tác QLDA đầu tư xây dựng.
Đối với các dự án đầu tư trong quá trình thực hiện giám sát đầu tư, ở dự án
đầu tư nào phát hiện thấy những yếu tố thay đổi so với dự án ban đầu hoặc những
vấn đề mới phát sinh, phải báo cáo kịp thời và nhất thiết đánh giá lại tính khả thi và
hiệu quả của dự án trước khi quyết định điều chỉnh hoặc tiếp tục thực hiện.
Những dự án không lập đầy đủ báo cáo GSĐGĐT không bố trí kế hoạch đầu
tư và không được điều chỉnh dự án, đề nghị Kho bạc Nhà nước không cấp vốn
thanh toán.
Tăng cường công tác giám sát cộng đồng: Tất cả các dự án, chương trình đầu
tư (trừ công trình bí mật quốc gia) đều phải được thực hiện giám sát cộng đồng
trong toàn bộ quá trình đầu tư. Các phương án quy hoạch đã được phê duyệt, các
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chương trình dự án phải được công bố công khai nội dung cơ bản trên các phương
109
tiện thông tin đại chúng thích hợp (như: niêm yết, pa-nô, phát thanh, truyền hình...)
để dân biết, dân bàn, dân giám sát.
b. Công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng
Tăng cường công tác quản lý chất lượng theo đúng Nghị định số
15/2013/NĐ-CP về quản lý chất lượng công trình xây dựng, có hiệu lực kể từ ngày
15/04/2013. Đây là Nghị định mới nhất về quản lý chất lượng công trình xây dựng
được ban hành để thay thế Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004, Nghị định
số 49/2008/NĐ-CP ngày 18/4/2008 và một số điều của Nghị định số 12/2009/NĐ-
CP ngày 12/02/2009.
Các cơ quan quản lý đầu tư và xây dựng, các chủ đầu tư, các nhà thầu phải
chịu trách nhiệm kiểm tra, theo dõi thường xuyên chất lượng của sản phẩm từ tư
vấn đến thi công xây lắp và cung cấp thiết bị. Công trình có chất lượng kém, trách
nhiệm trước tiên thuộc về Chủ đầu tư.
c. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý vốn đầu tư xây dựng
Cán bộ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng nói chung và cán bộ quản lý vốn đầu
tư xây dựng nói riêng luôn là nhân tố quan trọng trong hoạt động đầu tư phát triển.
Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện nay đặt ra yêu cầu rất cao đối với cán bộ
làm công tác quản lý vốn. Do đối tượng quản lý rất rộng lớn, phức tạp và đa dạng,
lãng phí thất thoát còn lớn, nên người cán bộ quản lý vốn từ cán bộ làm công tác
thẩm định, cấp phát, tổng hợp, ngoài kiến thức, kinh nghiệm về quản lý tài chính,
rất cần kiến thức về kinh tế, kỹ thuật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, kiến thức tin
học, ngoại ngữ, nhất là trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và hội nhập quốc
tế, nhiệm vụ nâng cao trình độ cán bộ đặt ra như một nhu cầu cấp bách. Có như vậy
cán bộ quản lý vốn đầu tư mới giúp cho Nhà nước đầu tư đúng mục đích, đạt hiệu
quả, mới phát hiện được những sơ hở của cơ chế chính sách, những vi phạm của các
đối tượng quản lý nhằm chống thất thoát nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Để nâng cao trình độ đòi hỏi cán bộ trong ngành phải tích cực học tập,
nghiên cứu tranh thủ tiếp thu những thông tin mới, các kinh nghiệm quản lý vốn
đầu tư của nước ngoài. Mặt khác cơ quan cũng cần đầu tư thời gian cử cán bộ đi dự
các cuộc hội thảo, tổ chức tập huấn nghiệp vụ với các hình thức thích hợp gắn với
chế độ kiểm tra, có chính sách khen thưởng thỏa đáng với những người có thành
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tích phát hiện ra những sai trái có giá trị lớn trong việc thanh quyết toán. Nhằm hạn
110
chế tiêu cực, đề nghị Nhà nước nghiên cứu trích thưởng cho người có công chống
thất thoát vốn Nhà nước trong đầu tư xây dựng.
4.3. Một số kiến nghị
4.3.1. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung một số nội dung ở các Nghị định
về quản lý đầu tư xây dựng, cụ thể như sau:
+ Hồ sơ thiết kế cơ sở của các dự án đầu tư hạ tầng các khu đô thị, khu
công nghiệp (theo quy định tại Nghị định số 16/2009/NĐ-CP ngày 07/02/2009
và 112/2010/NĐ-CP ngày 29/9/2010) về cơ bản trùng lặp với hồ sơ quy định chi
tiết xây dựng (theo quy định tại Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 24/01/2009).
Theo quy định hiện hành, các dự án nói trên phải lập và trình duyệt cả quy hoạch
chi tiết và dự án đầu tư (trong đó có hồ sơ thiết kế cơ sở hệ thống hạ tầng kỹ
thuật) gây lãng phí cả về vốn và thời gian. Để cải cách thủ tục và tiết kiệm chi
phí, đề nghị quy định "những dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, khu công
nghiệp đã có quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan thẩm quyền phê duyệt thì
không phải lập và trình duyệt thiết kế cơ sở".
+ Quy định về đấu thầu tại Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 và
các Mẫu hồ sơ mời thầu quy định chung cho các loại công trình, tương đối phù hợp
với các công trình quy mô lớn, có độ phức tạp, yêu cầu cao về kỹ thuật. Song trên
thực tế, phần lớn các công trình có quy mô nhỏ, yêu cầu kỹ thuật đơn giản đã bị
ràng buộc bởi các yêu cầu quá cao, làm hạn chế hoặc triệt tiêu khả năng tham gia
đấu thầu của các doanh nghiệp mới. Công tác đấu thầu tuy đã thực hiện đầy đủ các
quy trình, nội dung theo quy định của pháp luật về đấu thầu; song hiệu quả mang lại
còn rất hạn chế, không tương xứng với chi phí, thời gian bỏ ra. Vì vậy, cần thiết
phải đưa ra một số tiêu chí cơ bản để xác định quy mô gói thầu, yêu cầu kỹ thuật
của gói thầu. Đối với gói thầu quy mô nhỏ, yêu cầu kỹ thuật đơn giản chỉ cần yêu
cầu về năng lực kỹ thuật và khả năng về vốn để tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
mới tham gia đấu thầu, xem xét sửa đổi theo hướng áp dụng hình thức chào giá
cạnh tranh để tiết kiệm chi phí cho công tác đấu thầu và thời gian thực hiện.
Luật Đấu thầu đã quy định: Việc lựa chọn nhà thầu để thực hiện gói thầu
thuộc các dự án quyết định tại Điều 1 của Luật (sử dụng vốn Nhà nước từ 30% trở
lên) phải áp dụng đấu thầu rộng rãi (Khoản 1, Điều 18). Tuy nhiên, nhằm hạn chế
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
làm giảm hiệu quả của đấu thầu. Hình thức chỉ định thầu cần được quy định chặt
111
chẽ đối với các gói thầu cụ thể theo hướng làm rõ quy trình được thu hẹp tới mức
tối thiểu. Những trường hợp chỉ định thầu cần được công khai hoá các điều kiện và
phải do một hội đồng (mang tính chất tư vấn) xem xét và đầu tư là người quy định
lựa chọn, chịu trách nhiệm về sự lựa chọn đó.
Để bảo đảm tính minh bạch, công khai trong đấu thầu, cần quy định chi tiết
việc đăng tải công khai các thông tin về đấu thầu trong hệ thống thông tin về đấu
thầu do Nhà nước quản lý (Báo đấu thầu và trang tin điện tử về đấu thầu) để ngăn
chặn được các thông tin sai lệch, mang tính hình thức... Có quy định cụ thể về việc
khiếu nại và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu và xử lý vi phạm. Việc quy
định các hành vi bị cấm trong đấu thầu đã được Luật Đấu thầu xử lý vi phạm (Điều
12), song cần được xác định rất cụ thể trong các thông tư hướng dẫn thực hiện Luật
và phải có cơ chế để thu thập thông tin, phát hiện vi phạm của các chủ thể tham gia
đấu thầu.
Trường hợp giá dự thầu có đơn giá quá thấp khác thường, để tránh hiện
tượng phá giá thầu, cần có quy định: Yêu cầu nhà thầu giải trình làm rõ những đơn
giá khác thường đó; nếu giải trình không đủ rõ thì cần có quy định xử lý thích hợp
để loại bỏ những nhà thầu "phá giá".
Đơn giản hơn là phân cấp mạnh quá trình xét duyệt kết quả đấu thầu nhưng
không đơn giản và coi nhẹ thủ tục đấu thầu nhằm ràng buộc trách nhiệm thực hiện
nghiêm túc các quy định đấu thầu đối với cả chủ đầu tư, bên mời thầu và nhà thầu.
Kết quả đấu thầu dẫn đến việc ký kết hợp đồng, hợp đồng kinh tế trong ĐTXD
có những đặc điểm riêng. Đây là hợp đồng đặt hàng sản xuất sản phẩm có giá trị lớn,
phải thực hiện trong thời gian dài, trong thời gian đó diễn ra nhiều biến động thị
trường và có thể gặp nhiều rủi ro. Vì vậy, cần được quy phạm hoá chi tiết, có các toà
án kinh tế tham gia xét xử các tranh chấp, tránh tình trạng hoà giải thông cảm mà
thường cuối cùng NSNN vẫn phái gánh chịu.
Việc tổ chức các Trung tâm đấu thầu Quốc gia để thực hiện đấu thầu xây
dựng, mua sắm tài sản công theo kinh nghiệm của Trung Quốc cần được nghiên
cứu và áp dụng cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Trước mắt Chính phủ
cần có quy định chi tiết về việc áp dụng đấu thầu qua mạng thông tin trực tuyến
(Điều 30 Luật Đấu thầu) làm cơ sở đưa hình thức đấu thầu này vào áp dụng sớm
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trong thực tế.
112
Mặt khác, theo quy định của Luật Đấu thầu hiện hành, việc đấu thầu EPC
(tổng thầu) hoặc từng gói thầu của các dự án đầu tư xây dựng được chia làm hai giai
đoạn. Giai đoạn sơ tuyển về năng lực, kinh nghiệm và giai đoạn đấu thầu thương
mại và giá. Theo phương thức lựa chọn này thì hầu hết các nhà thầu đều vượt qua
giai đoạn 1, vì các nhà thầu có thể thuê các nhà tư vấn có kinh nghiệm làm bài. Giai
đoạn 2 là đấu giá. Thực chất đấu thầu ở Việt Nam hiện nay là đấu về giá.
Hiện chúng ta đang vận dụng một cách cứng nhắc và máy móc Luật Đấu
thầu của các nước và ngân hàng tư bản mà chúng ta quên rằng hình thức sở hữu của
các nước này so với nước ta đang hoàn toàn khác. Các nhà đầu tư của các nước tư
bản là các nhà đầu tư tư nhân. Nhà máy, dự án là sở hữu riêng của họ, trong khi ở
nước ta tài sản, của cải, nhà máy, dự án là của Nhà nước. Khi chúng ta chưa đa dạng
và thay đổi hình thức sở hữu mà lại áp dụng vội vàng và cứng nhắc Luật Đấu thầu
của nước ngoài sẽ làm thiệt hại đến quyền lợi quốc gia, cản trở quá trình công
nghiệp hóa và xây dựng các tập đoàn công nghiệp trong nước.
Vì vậy, Nhà nước cần sớm nghiên cứu sửa đổi Luật Đấu thầu. Một trong
những bất cập của Luật Đấu thầu là việc chúng ta bãi bỏ điều khoản nêu xuất xứ
thiết bị trong hồ sơ mời thầu. Chúng ta phải có những quy định cụ thể cho các yêu
cầu tối thiểu về cấp độ tiên tiến và hiện đại của thiết bị công nghệ cho từng lĩnh vực
công nghiệp như năng lượng, thuỷ điện, nhiệt điện, xi măng, thép, lọc, hoá dầu...
đồng thời quy định trách nhiệm cụ thể cho từng bộ, ban, ngành để quản lý, giám sát
việc thực hiện các yêu cầu này. Nghĩa là trong Luật đấu thầu và hồ sơ mời thầu cần
đưa hệ số tính điểm về xuất xứ thiết bị vào để xét thầu.
4.3.2. Đổi mới quản lý giá, hạn chế tình trạng thất thoát trong khâu mua sắm,
khâu mà Kho bạc nhà nước hiện tại không có chức năng kiểm soát
Mục tiêu đổi mới cơ chế định giá xây dựng là chuyển từ định giá hành chính
sang hệ thống định giá theo cơ chế thị trường, làm sao cho giá cả phản ánh đúng
đắn hơn giá trị và quy luật theo nguyên tắc. Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giá
xây dựng theo nguyên tắc nhà nước thống nhất quản lý giá xây dựng thông qua việc
ban hành các chính sách chế độ về giá, các nguyên tắc và quản lý đơn giá, dự toán,
các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, định mức các loại chi phí sao cho phù hợp với từng
thời kỳ, làm căn cứ xác định tổng mức đầu tư, tổng dự toán các hạng mục, giá xét
thầu và giá chỉ định thầu. Đây cũng là cơ sở thống nhất để công tác kiểm soát giá trị
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
xây dựng từng hạng mục hoàn thành, kiểm tra hồ sơ đối với hệ thống công việc
113
trong trình tự đầu tư và xây dựng mang tính chất chuẩn mực, tránh khỏi sự trùng
lắp, bỏ sót, thậm chí lúng túng trong việc xác định giá trị hợp pháp..
- Cần thống nhất quản lý giá xây dựng vào một đầu mối và có phân cấp rõ
ràng để tránh tình trạng trùng chéo như hiện nay khi công bố định mức, đơn giá. Ban
hành đồng bộ các căn cứ pháp lý như suất vốn đầu tư, định mức đơn giá dự toán phục
vụ quy trình xác định giá sản phẩm xây dựng như tổng mức đầu tư, dự toán công
trình, các hạng mục, cũng như các văn bản hướng dẫn phương pháp lập giá sản phẩm
xây dựng đối với những công trình thuộc dự án sử dụng vốn ngân sách theo các giai
đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng.
- Hoàn thiện cơ cấu từng khoản mục chi phí một cách thống nhất và phù hợp
với triển khai trên thực tế. Xây dựng các danh mục, lựa chọn phương pháp tính chi
phí chung phù hợp với tình hình trong nước, khu vực và quốc tế trong từng thời kỳ.
Trị số định mức chung phải phù hợp với quy mô, tính chất của từng loại công trình,
công tác xây lắp.
Như đã đề cập ở các chương trước thì tình trạng thất thoát lãng phí vốn đầu
tư XDCB từ NSNN nói chung và ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng có thể xảy ra ở nhiều
khâu, nhiều giai đoạn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy để thực hiện thành
công công tác chống thất thoát lãng phí cần rất nhiều giải pháp đồng bộ từ cơ chế
chính sách tới năng lực quản lý, hoàn thiện quy trình quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả dự án trong quá trình thực hiện đầu tư.
4.3.3. Đối với UBND tỉnh Quảng Ninh
Chỉ đạo cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định các sản phẩm tư vấn: Tăng
cường công tác thẩm định dự án đầu tư xây dựng, không quyết định đầu tư dự án
không có trong quy hoạch và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, đúng đắn của
các báo cáo thẩm định, thẩm tra và chất lượng của sản phẩm tư vấn trình duyệt.
UBND tỉnh chỉ đạo chủ đầu tư: Có chế tài nhằm hạn chế các đơn vị tư vấn về
những tính toán thiếu chính xác. Mức phạt từ 10% - 50% giá trị hợp đồng, tùy theo
mức độ thiếu chính xác.
Chấm dứt hợp đồng và phạt đơn vị tư vấn có sản phẩm tư vấn có chất lượng
thấp không cho thực hiện công tác tư vấn đó ở các dự án do địa phương quản lý
trong vòng 1 - 3 năm, gửi thông báo đến các cơ quan quản lý đầu tư xây dựng và
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
các huyện, thành phố.
114
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về việc QLDA đầu tư. Xây dựng đồng bộ các
chính sách liên quan đến việc QLNN đối với các dự án đầu tư. Cải cách thủ tục
hành chính theo hướng phân cấp mạnh, rõ trách nhiệm, giảm thời gian, của các
khâu trong quá trình đầu tư và xây dựng.
Để góp phần chống thất thoát, tiêu cực trong quản lý đầu tư và xây dựng,
kiến nghị Nhà nước nghiên cứu chế độ trích thưởng cho những người có công
chống thất thoát, lãng phí vốn Nhà nước như phát hiện trong thiết kế, dự toán, thanh
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
toán, quyết toán dự án sai chế độ quy định với giá trị kinh tế lớn.
115
KẾT LUẬN
Trong những năm qua (giai đoạn năm 2010-2014), tỉnh Quảng Ninh đã dành
nguồn vốn cho đầu tư công trình XD trên địa bàn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi
ngân sách địa phương (bình quân hàng năm chiếm trên 35%) và đang có xu hướng
ngày càng tăng. Đây được coi là điểm khá tích cực trong công tác điều hành ngân
sách, tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển của tỉnh. Tuy nhiên công tác quản lý
đầu tư xây dựng cũng còn những hạn chế, yếu kém: số vốn thực hiện của nhiều dự
án, công trình khi triển khai thực hiện đã tăng lên gấp nhiều lần so với dự toán được
duyệt, thời gian thực hiện nhiều công trình kéo dài, chất lượng thi công không đảm
bảo... gây lãng phí không nhỏ nguồn vốn NSNN.
Thực tế đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách nghiêm túc giải pháp hoàn
thiện quy trình quản lý nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư xây dựng các công
trình dân dụng có sử dụng vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đó là lý do tác
giả lựa chọn đề tài nghiên cứu này. Luận văn đã tập trung hệ thống hoá một số vấn
đề lý luận về QLDA trong đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách. Trên cơ sở
phân tích những bước tiến hành một dự án đầu tư ngân sách nhà nước, luận văn đã
phân tích thực trạng QLDA đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; nguyên nhân dẫn đến những yếu kém đó.
Luận văn sau đó đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác QLDA đầu tư trong XDCB tại Quảng Ninh; từ đó đưa ra các Giải pháp “Nâng
cao hiệu quả dự án đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh”. Đây là đề tài khá phức tạp và nhạy cảm, cùng với những hạn chế
không thể tránh khỏi về mặt thời gian và trình độ của học viên, luận văn khó tránh
khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như cách thức trình bày. Tuy vậy, Tác giả
mong muốn đây sẽ là tài liệu tham khảo thiết thực trong việc quản lý NSNN trong
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đầu tư xây dựng cơ bản.
116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ kế hoạch và Đầu tư (2005) Luật đầu tư số 59/2005/QH11 của Ngày 29
tháng 11 năm 2005 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bộ xây dựng (2009), Thông tư số 03/2009/TT-BXD ngày 26/3/2009 quy định
chi tiết một số nội dung của Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của
Chính phủ về quản lý DA đầu tư xây dựng.
3. Bộ xây dựng (2009), Thông tư số 04/2009/TT-BXD ngày 26/5/2009 hướng
dẫn lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.
4. Bộ xây dựng (2013), Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06/2/2013 Quản lý
chất lượng công trình.
5. Bộ xây dựng (2013), Thông tư số 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 Quy định
chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
6. Chính phủ (2009), Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 07/02/2009 của chính
phù về quản lý DA đầu tư xây dựng công trình.
7. Chính phủ (2009), Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 của chính
phù về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.
8. Chính phủ (2010), Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của chính
phù về hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
9. Đỗ Thị Xuân Lan (2003), Quản lý dự án xây dựng, NXB Đại học Quốc Gia
TP.HCM, TP Hồ Chí Minh.
10. Phạm Quang Long (2007), Một số giải pháp hoàn thiện vốn đầu tư xây dựng
cơ bản từ ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc
sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Huế.
11. Trần Văn Sơn (2006), Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản
của ngân sách địa phương (Lấy ví dụ ở Nghệ An), Luận văn Thạc sỹ kinh tế,
Đại học Kinh tế Quốc dân.
12. Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Quảng Ninh, Hướng dẫn quy trình, cấu tạo hồ sơ
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trình phê duyệt dự án.
117
13. Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ninh, Hướng dẫn quy trình, hồ sơ thẩm định thiết kế
và dự toán.
14. Trần Phú Tài (2004), Quản lý dự án, NXB Thống kê.
15. Trịnh Quốc Thắng (2007), Quản lý dự án đầu tư xây dựng, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.
16. Cao Hào Thi (2004), Quản lý dự án, NXB ĐHQG TP.HCM, TP Hồ Chí Minh.
17. Lê Minh Thông (2002), Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư –
xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Luận văn
Thạc sỹ kinh tế. Học viện tài chính.
18. Nguyễn Xuân Thuỷ; Trần Việt Hoa; Nguyễn Việt Ánh (2003), Quản trị dự án
đầu tư Nxb Thống kê, Hà Nô ̣i .
19. Bùi Ngọc Toàn (2009), Quản lý dự án xây dựng lập thẩm định dự án, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.
20. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2012), Quyết định số 1788/2012/QĐ-
UBND ngày 18 tháng 7 năm 2012 về lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng
sử dụng vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
21. Website tham khảo
- Bách khoa toàn thư: www.wikipedia.org.
- Trang web: www.quanlyduan.vn.
- Diễn đàn: www.giaxaydung.vn.
- Trang web: Bộ Xây dựng www.xaydung.gov.vn.
- Trang web Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn.
Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Trang web: www.thuvienphapluat.vn.