HOÀNG MINH ĐỨC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI SAU 1945
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ VĂN ĐỨC
HÀ NỘI, 2010
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
MỤC LỤC
A. PhÇn Më ®Çu ............................................................................................ 4
1. LÝ do chän ®Ò tµi: ................................................................................. 4
2. LÞch sö vÊn ®Ò: ..................................................................................... 5
3. Môc ®Ých, ®èi t îng vµ ph¹m vi nghiªn cøu: .......................................... 9
4. Ph ¬ng ph¸p nghiªn cøu: .......................................................................... 9
5. CÊu tróc luËn v¨n: ................................................................................. 10
B. PhÇn néi dung .......................................................................................... 11
Ch ¬ng 1: Ng êi kÓ chuyÖn trong truyÖn ng¾n cña T« Hoµi sau 1945
................................................................................................................... 11
1.1. §iÓm nh×n tù sù .............................................................................. 11
1.1.1. §iÓm nh×n chñ quan: ................................................................ 16
1.1.2. §iÓm nh×n kh¸ch quan: ............................................................. 21
1.1.2.1. §iÓm nh×n hµm Èn lÆng lÏ ghi chÐp ................................. 21
1.1.2.2. §iÓm nh×n bªn trong ®Æt vµo nh©n vËt. .......................... 23
1.1.2.3. Di chuyÓn ®iÓm nh×n: ...................................................... 25
1.2. Vai trß cña ng êi kÓ chuyÖn ........................................................... 28
1.2.1. Ng êi kÓ chuyÖn kiÕn t¹o lèi ®i dÉn d¾t ng êi ®äc tiÕp cËn víi thÕ giíi truyÖn.
............................................................................................................ 29
1.2.2. Ng êi kÓ chuyÖn thay t¸c gi¶ nãi lªn nh÷ng quan ®iÓm sèng,
quan ®iÓm nghÖ thuËt cña m×nh. ..................................................... 34
Ch ¬ng 2: Cèt truyÖn – KÕt cÊu tù sù trong truyÖn ng¾n cña T« Hoµi sau 1945
...................................................................................................................... 38
2.1. Cèt truyÖn tù sù ............................................................................... 40
2
2.2. KÕt cÊu tù sù .................................................................................. 47
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
2.2.1. C¸c kiÓu trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n T« Hoµi ..................... 48
2.2.1.1. TrÇn thuËt thuÇn tóy .......................................................... 49
2.2.1.2. TrÇn thuËt kÞch hãa ........................................................... 50
2.2.2. Tæ chøc hµnh ®éng trong truyÖn ng¾n T« Hoµi ..................... 55
2.2.3. Thñ ph¸p t¹o qu·ng ng ng, m¹ch rÏ trong truyÖn ng¾n T« Hoµi 64
Ch ¬ng 3: Ng«n ng÷ vµ giäng ®iÖu tù sù trong truyÖn ng¾n cña T« Hoµi sau 1945
...................................................................................................................... 70
3.1. Ng«n ng÷ tù sù: ............................................................................... 70
3.1.1. Ng«n ng÷ tù sù kh¼ng ®Þnh sù giµu cã vµ phong phó cña tiÕng ViÖt
............................................................................................................ 71
3.1.1.1. Sö dông tõ s¸ng t¹o - t¸o b¹o ................................................. 71
3.1.1.2. Lèi hµnh v¨n ®éc ®¸o ......................................................... 80
3.1.2. Ng«n ng÷ mang nh·n quan ®êi th êng – chuyÖn th êng ............ 84
3.2. Giäng ®iÖu tù sù ............................................................................. 87
3.2.1. TÝnh phøc ®iÖu: Sù kÕt hîp giäng ®iÖu trong mét v¨n b¶n tù sù
............................................................................................................ 87
3.2.2. C¸c kiÓu giäng ®iÖu chÝnh: .................................................... 90
3.2.2.1. Giäng ©n t×nh, ch©n thùc: ................................................. 90
3.2.2.2. Giäng ngËm ngïi, xãt xa ...................................................... 93
3.2.2.3. Giäng suy ngÉm, triÕt lÝ: ................................................... 94
3.2.2.4. Giäng tr÷ t×nh, hoµi niÖm: ................................................. 96
C. KÕt luËn ................................................................................................ 100
3
D. Danh môc s¸ch tham kh¶o ...................................................................... 103
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương thức khác
là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học. Từ đầu
thế kỉ XX đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới nhiều vấn
đề then chốt của lí luận văn học hiện đại mà hàng chục thế kỉ qua chưa làm
sáng tỏ. Đó là vấn đề hoạt động văn học, cấu trúc tác phẩm, hệ thống chủ thể,
cách thức tồn tại, phương diện tâm lí, hệ thống kí hiệu, bản chất giao tiếp…
Do nhấn mạnh tính khách quan trong nguyên tắc phản ánh hiện thực nên trần
thuật được đặt vào nhân tố tổ chức thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự đòi
hỏi xuất hiện hình tượng người trần thuật. Và trên phương thức phản ánh, đã
hình thành một loại hình tự sự cần thiết có một ngành nghiên cứu sâu về nó.
Tô Hoài là một nhà văn có sức viết dồi dào, sung mãn, đã ghi tên mình
vào làng tự sự Việt Nam với một phong cách thuần hậu, thủ thỉ, gần gũi trìu
mến. Không sắc lạnh, dưng dửng, không buồn miên man da diết, khi đọc
truyện ngắn của Tô Hoài ta thấy được sự tha thiết với con người, am hiểu sâu
sắc với cuộc sống.
Truyện ngắn sau 1945 được Tô Hoài sáng tác trong một bầu không khí
mới của lịch sử, là kết quả của những chuyến thâm nhập thực tế, với sự biến
chuyển trong nhận thức. Tuy vẫn nghèo, vẫn khổ, vẫn có bất công, vẫn buồn
nhưng không còn cái buồn triền miên, không còn cái cay đắng xót xa khi phải
ra đi, rời bỏ làng quê, mơ hồ không biết tương lai ra sao, truyện ngắn sau 1945
của Tô Hoài là sự đổi mới, là những nhận thức giác ngộ đơn giản, là niềm vui
khi được cống hiến, khi được hoà mình vào không khí chung của lịch sử. Có
4
buồn, có đau cũng chỉ chút thôi, rồi sau đó nó thành động lực để đi tiếp, để
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
sống tiếp. Sau 1945, các truyện ngắn của Tô Hoài vẫn triển khai trên những
mảng đề tài cũ: miền núi, vùng ven đô. Và với 33 truyện ngắn, có thành công
và cũng có điều dở nhưng phải thừa nhận rằng Tô Hoài đã góp thêm một tiếng
nói, một lối tự sự vào văn học Việt Nam hiện đại. Chính vì thế, nghiên cứu về
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của ông sau 1945 thể hiện mong muốn sẽ
giải mã được phần nào nghệ thuật tự sự của Tô Hoài và góp thêm một cảm
nhận của cá nhân về nhà văn lớn này.
2. Lịch sử vấn đề:
Tô Hoài sinh năm 1920, đến nay là có 80 năm tuổi đời, và 60 năm tuổi
viết. Ông có nhiều đóng góp đặc sắc cả trước và sau CMT8.
Tô Hoài sáng tác trên nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện kí, tiểu thuyết,
hồi kí, tự truyện, chân dung, nghiên cứu văn học, với ba mảng đề tài chính:
vùng ven đô Hà Nội, miền núi, và thiếu nhi. Tính đến nay đã có hơn trăm bài
viết nghiên cứu về Tô Hoài trên rất nhiều các phương diện từ nghệ thuật đến
nội dung. Bất kì mảng sáng tác nào của Tô Hoài cũng là mảnh đất bí ẩn để các
nhà nghiên cứu, phê bình dành cho sự quan tâm, ưu ái.
Truyện ngắn là mảng sáng tác khá thành công và có phong cách riêng.
Đã có rất nhiều bài viết trên các tạp chí, những tham luận, luận văn, luận án,
chuyên khảo, đánh giá, nghiên cứu về mảng sáng tác này. Hành trình nghiên
cứu truyện ngắn của Tô Hoài có thể chia ra thành ba hướng:
1. Nghiên cứu, thảo luận về phong cách nghệ thuật, quan niệm nghệ
thuật của Tô Hoài trong đó có nhắc đến mảng sáng tác truyện ngắn. Nguyễn
Đăng Mạnh [42] Vân Thanh [35;64]; Phan Cự Đệ [35;78]; Hà Minh Đức
[35;110]; Vương Trí Nhàn [35;185]; Nguyễn Văn Lưu [35;208]; Vĩnh Quang
5
Lê [35;578]; Nguyễn Long [35;433]. Trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Hà Minh Đức nhận định “Ở mỗi chặng đường, thành tựu có thể khác nhau
nhưng bao giờ Tô Hoài cũng có một tiếng nói, một cách nhìn, một phong cách
riêng độc đáo” [35;122]. Mảng truyện ngắn sáng tác sau 1945, được sáng tác
khi “tâm hồn ông mở ra chào đón cuộc đời mới và ngòi bút của ông xông xáo
đến nhưng miền đất lạ của hiện thực. (…) Quen thuộc với ngòi bút phê phán,
với vốn sống tích tụ khá phong phú và ổn định về cuộc đời cũ, các nhà văn
cách mạng phải thực hiện chức năng khẳng định, nắm bắt hiện thực mới trong
cơn xoáy lốc và đổi thay nhanh chóng” [35;120] từ đó nhà nghiên cứu khẳng
định “Tô Hoài là một nhà văn có nghề. Nghề văn đối với ông là một hình thức
lao động công phu vất vả. Và trong nghề văn thì lao động câu chữ là một
nhiệm vụ quan trọng” [35;138]. Phong Lê trong bài Ngót sáu mươi năm văn
Tô Hoài, có một nhận xét rất xác đáng về truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
“Từ Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ trở đi - kể có đến mấy chục cuốn về nhiều
chủ đề gắn với sự đổi đời cách mạng của các dân tộc vùng cao; của vùng Bưởi
- ngoại ô, quê ông, là “người ven thành” hoặc “những ngõ phố, người đường
phố (…) của một quá khứ từ gần đến xa, và rất xa, ấn tượng về sức viết của Tô
Hoài thật mênh mông, đồ sộ” [35;177]. Một sức viết dồi dào như vậy, đã
khiến cho ông trở thành một nhà văn gần gũi, giản dị với những truyện ngắn
hết sức đời thường. Với mảng đề tài nào, Tô Hoài cũng tự tìm cho mình một
chỗ đứng riêng: nhà văn của những câu chuyện trong nhà, trong làng; nhà văn
của miền núi, nhà văn của thiếu nhi.
2. Nghiên cứu, thảo luận từng tập truyện, từng truyện ngắn sau 1945 với
các công trình của: Nguyễn Đình Thi [35;215]; Hoàng Trung Thông [35;222];
Huỳnh Lý [35;230]; Nguyễn Văn Long [35;244]; Đỗ Kim Hồi [35;258];
6
Nguyễn Quang Trung [35;270]; Nguyên Ngọc [35;309]; Triêu Dương
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[35;276]; Thiếu Mai [35;392]… Nghiên cứu từ tập truyện ngắn Núi Cứu quốc,
tập truyện ngắn đầu tiên sáng tác sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn
Đình Thi nhận xét “Núi Cứu quốc là kết quả một cuộc chuyển biến chưa xong.
Tập truyện chưa dứt khoát trong tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tô Hoài ghi
vội, chưa kịp hoà tư tưởng và tâm hồn theo đề tài” [35;221]. Đến Truyện Tây
Bắc, tác phẩm được tặng giải thưởng lớn, đã đánh dấu một bước chuyển mình
của nhà văn trong cách kể, cách tả về vùng núi phía bắc và quần chúng dân tộc
thiểu số “Trong những tác phẩm trước đây viết về đồng bào miền núi, Tô Hoài
thường có những thiên lệch dần về dân tộc, thường nhìn vấn đề dân tộc, theo
cảm tính của mình không xuất phát từ hiện thực, từ chính sách dân tộc của
Đảng. Ở Mường Giơn vấn đề dân tộc đã được biểu hiện lên một cách đúng
đắn. (…) Bút pháp của Tô Hoài đã có phần thay đổi. Cách bố cục câu chuyện
đã chặt chẽ mạch lạc hơn. Sự sống phong phú đã bắt buộc Tô Hoài phải khơi
sâu xuống tâm lí của nhân vật. (…) Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây
Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên một cách hết sức rung động nên thơ”
[35;227]. Và tập truyện kí Người ven thành đã nhận được nhiều lời khen từ
các nhà nghiên cứu Triêu Dương cho rằng “Tô Hoài luôn bắt kịp văn phong
của thời đại” [35;377] và “Đọc tập sách một lần là thấy được Tô Hoài không
sống hời hợt. Đến đâu anh cũng cố gắng nhập người, nhập cảnh ở đó. Nhiều
khi chỉ vài nét phác hoạ đủ cho anh biết nhặt ra những vấn đề khắc vào trí nhớ
người đọc” [35;378]. Những công trình này nhìn chung đã đánh giá đúng,
trúng giá trị của các tập truyện ngắn giúp ích nhiều cho những nghiên cứu khái
quát hơn cả về mặt nội dung và hình thức.
3. Nghiên cứu, thảo luận đi sâu vào những phương thức, kĩ thuật viết
7
truyện ngắn như ngôn ngữ, cấu trúc thời gian; kết cấu, bố cục: Ngôn ngữ một
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
vùng quê trong các tác phẩm đầu tay của Tô Hoài (Võ Xuân Quế)
[35;428]; Truyện viết về loài vật của Tô Hoài (GS. Hà Minh
Đức)[35;464]; Tô Hoài qua tự truyện (Vân Thanh) [35;398]; Nhà văn và
những con chữ (Định Hải) [34]; Cảm nhận thời gian của Tô Hoài (Nguyễn
Long)[39]; Tiểu thuyết của Tô Hoài (Niculin) [63]; Tô Hoài: truyện phong
tục, thôn quê và loài vật (Thế Phong) [49]… Tuy chưa có một bài nghiên
cứu nào đi sâu vào nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài song,
các bài nghiên cứu đều chỉ ra và có phát hiện về cách kể, cách kết cấu
riêng trong truyện ngắn của ông.
Đối với mảng truyện ngắn sau 1945, gần như chưa thấy có các bài
nghiên cứu chuyên biệt đánh giá chung về một yếu tố, một phương thức tự sự,
chỉ có những nhận xét, nhận định lồng trong bài phân tích, nghiên cứu, phê
bình các tác phẩm. Song ta cũng có một vài nhận định có giá trị. Về mặt ngôn
ngữ, Triêu Dương nhận định “Người ta thường nhắc đến chất thơ trong những
trang tả cảnh của Tô Hoài. Điều đó đúng. Nhưng có lẽ nên nói cho rõ thêm:
chất thơ đây không phải là một đôi vẻ đẹp thoáng qua do cảm hứng bất thần
chợt đến mà thông qua sự quan sát kĩ lưỡng, vốn sống lọc lõi về thực tế kết
hợp với sức rung động của nhà nghệ sĩ” [35;379]; về cốt truyện, Nguyễn Văn
Long đưa ra ý kiến “Cốt truyện của tác phẩm khá đơn giản, bám sát theo diễn
biến cuộc đời của nhân vật chính và được trình bày theo trình tự thời gian”
[35;245]; về kết cấu Hoàng Trung Thông viết “Cái biểu hiện chung của Tô
Hoài từ trước đến nay vẫn là không muốn dẫn câu chuyện theo một cái cốt
mạch lạc, những cảnh, những người trong tác phẩm thường bị cắt rời ra, quan
hệ với nhau bằng một sợi dây lỏng lẻo nhưng kín đáo, người đọc phải tinh ý
8
mới nhận thấy. Vì thế nội dung tác phẩm bị tản mạn rời rạc, sự phát triển tâm
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
lí của nhân vật không nằm trong những mối tương quan chặt chẽ, tác phẩm
kém phần sinh động hấp dẫn người đọc” [35;228]; về lời văn Nguyễn Đình
Thi khẳng định “Tất cả diễn lên bằng lời văn linh động, đẹp chắc mà ta đã
quen đọc của Tô Hoài từ lâu. Nhiều hình ảnh đẹp như thơ cứ hiện ra” [35;217]
v.v… Tất cả những nhận xét, đánh giá trên sẽ trở thành những gợi ý quan
trọng để tiến tới nhận thức ngày càng rõ hơn những yếu tố nghệ thuật cấu
thành nên truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945.
Dựa vào những gợi ý trên, lấy người kể chuyện, kết cấu tự sự, cốt
truyện tự sự, ngôn ngữ tự sự, giọng điệu tự sự làm đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi đã tiến hành khảo sát một cách hệ thống các tác phẩm truyện ngắn
của tô Hoài sau 1945 để đem lại cái nhìn mới về nghệ thuật tự sự của ông.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Tô Hoài nhằm rút ra
phong cách tự sự độc đáo của nhà văn. Cố gắng tìm cách tiếp cận mới, khai thác
những bình diện mới trong nghệ thuật tự sự ở truyện ngắn Tô Hoài sau 1945.
Luận văn đi sâu nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Tô Hoài
sau 1945 trên các khía cạnh: Người kể chuyện; Cốt truyện – kết cấu tự sự;
Ngôn ngữ - giọng điệu tự sự.
Phạm vi tư liệu nghiên cứu dùng cho luận văn này là 7 tập truyện ngắn:
Núi cứu quốc (1948); Chính phủ tạm vay (1951); Xuống làng (1951); Truyện
Tây Bắc (1953); Cứu đất cứu mường (1954); Tào Lường (1955); Khác trước
(1957); Người một mình (1998); phần truyện ngắn của 2 tập kí (Người ven
thành, Vỡ tỉnh).
9
4. Phương pháp nghiên cứu:
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Trong luận văn này, phương pháp nghiên cứu chủ yếu vẫn là những
phương pháp truyền thống: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích
tác phẩm theo thể loại, phương pháp so sánh văn học, qua đó đánh giá bình
luận thể hiện quan điểm của bản thân đối với cách thể hiện các yếu tố nghệ
thuật, tổng hợp lại tạo nên một nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô
Hoài sau 1945.
5. Cấu trúc luận văn:
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Người kể chuyển trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Chương 2: Cốt truyện và kết cấu tự sự trong truyện ngắn của Tô
Hoài sau 1945
Chương 3: Ngôn ngữ tự sự và giọng điệu tự sự trong truyện ngắn
10
của Tô Hoài sau 1945
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ
HOÀI SAU 1945
1.1. Điểm nhìn tự sự
Trong nghiên cứu lí thuyết tự sự, nghiên cứu về văn xuôi không thể
không nhắc tới mối liên hệ giữa ba yếu tố: người kể chuyện, điểm nhìn, phối
cảnh. Sở dĩ nghiên cứu ba yếu tố này vì nhờ có mối quan hệ này đã tạo nên
một thành phần hữu cơ trong một tổng thể tự sự.
Theo Pospelov, người kể chuyện “người môi giới giữa các hiện tượng
được miêu tả” [64]; Tzevan Todorov khi viết về Thi pháp học cũng nhấn
mạnh “người kể chuyện là nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư
cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng mang tính
xét đoán và đánh giá… Không có người kể chuyện thì không có truyện kể”
[65].
Theo M. H. Abrams, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (A Glossary
of Literature terms) cho rằng “người kể chuyện biết mọi thứ cần biết về nhân
vật, sự kiện”. Ông phân biệt điểm nhìn của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất
11
và ngôi thứ ba. Ngôi thứ nhất có: Người kể chuyện tự ý thức; Người kể
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chuyện không đáng tin cậy; Người kể chuyện có khả năng sai lầm. Ngôi
thứ ba cũng được chia ra làm hai dạng: Điểm nhìn thông suốt (toàn thông)
với người kể chuyện thông suốt và người kể chuyện giáo huấn; Điểm nhìn
hạn chế, tức người kể chuyện hạn chế bản thân trước những gì đã được
trải nghiệm mà sau này các nhà văn đã phát triển kiểu điểm nhìn này
thông qua trần thuật dòng ý thức.
Kết luận, người kể chuyện là người dẫn dắt câu chuyện của tác phẩm.
Người kể chuyện có thể đứng dưới vai trò của một nhân vật trong tác phẩm
xưng “tôi” hoặc là một người kể hàm ẩn. Truyện có người kể xưng “tôi” là
truyện được kể ở ngôi thứ nhất, những truyện có người kể hàm ẩn là truyện
được kể ở ngôi thứ ba. Mặc dù có xuất hiện trong một số văn bản trần thuật
(Người tình của M.Duras) nhưng hình thức trần thuật từ ngôi thứ hai được sử
dụng không phổ biến trong tự sự. Việc lựa chọn các hình thức tự sự gắn liền
với vấn đề tổ chức điểm nhìn tự sự.
Về khái niệm điểm nhìn, ta có thể khẳng định đó là “mối tương quan
trong đó chỉ vị trí đứng của người kể chuyện để kể câu chuyện… Nó có thể
chi phối hoặc từ bên trong hoặc là từ bên ngoài. Ở điểm nhìn từ bên trong,
người kể chuyện là một trong các nhân vật; do đó câu chuyện được kể từ ngôi
thứ nhất. Điểm nhìn từ bên ngoài được mang lại từ một ý nghĩ từ bên ngoài
của người kể không phải là một phần của câu chuyện; trong trường hợp này
câu chuyện thường được kể từ ngôi thứ ba”. Will Greenway trong tiểu luận
“Điểm nhìn, Phối cảnh và Thời gian” (Viewpoint, Perspective and Time) phân
xuất kĩ hơn: Viewpoint hoặc point of view (điểm nhìn) là một kĩ thuật tự sự.
12
Đó là vị trí mà người kể chuyện tồn tại trong phạm vi cơ cấu truyện kể. [62]
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Trong Figure III lại dùng từ “fosalisation” (tiêu điểm hoá) để chỉ khái
niệm và định nghĩa: tiêu điểm hoá là thu hẹp tầm hiểu biết, tức chọn lọc thông
tin để kể lại so với cái mà truyền thống gọi là sự thông suốt (…). Dụng cụ của
sự chọn lọc đó, là một tiêu điểm có vị trí, tức một thứ cửa nhỏ chỉ để thoát ra
ngoài những tin tức nào đó mà tình hình cho phép…” [53;12]. Đề xuất này
của Genette nhắc chúng ta cần phải phân biệt giữa Người kể chuyện (narrator)
và Người mang tiêu điểm (focalizer). Người mang tiêu điểm và người kể
chuyện là hai vấn đề rất khác nhau. Người mang tiêu điểm là chủ thể của hành
vi được kể lại còn người kể chuyện là chủ thể của lời nói (có thể vắng mặt hay
có mặt trong lời nói). Trong một truyện kể còn có thể có nhiều người mang
nhiều tiêu điểm tức là điểm nhìn được di động từ nhân vật này sang nhân vật
khác nhưng vẫn là người kể chuyện hàm ẩn.
Với truyện kể “ngôi thứ nhất” (người kể chuyện xưng tôi), chúng ta
thấy có hai trường hợp: 1) Khi người kể chuyện xuất hiện trực tiếp như một
tác nhân thì người kể chuyện vừa mang tiêu điểm, vừa là chủ thể của ngôn từ
được sử dụng (Người kể chuyện = Người mang tiêu điểm = “tôi”); 2) Khi chỉ
đóng vai trò dẫn truyện, nhân vật xưng tôi này không mang tiêu điểm, tức là
“tôi” không phải là chủ thể cảm nhận, quan sát mà chỉ có nhiệm vụ kể chuyện.
Truyện kể “ngôi thứ ba” (Người kể chuyện hàm ẩn) lại có ba trường
hợp cụ thể: 1. Khi người kể chuyện vừa xuất hiện không trực tiếp vừa tách rời
với người mang tiêu điểm, thực chất người kể chuyện đã “tựa vào điểm nhìn
nhân vật để kể” từ bên trong [52;17] giọng kể của anh ta đã hoà với giọng kể
của nhân vật đến mức khó có thể phân biệt; 2. Khi người kể chuyện không
xuất hiện trực tiếp nhưng lại đồng thời là người mang tiêu điểm trong tác
13
phẩm: anh ta có vị trí quan sát từ bên ngoài, không kể theo điểm nhìn nhân vật
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
mà kể theo điểm nhìn của chính mình; 3. Khi người kể chuyện soi tỏ sự việc
từ ngoài vào trong; anh ta trở thành người kể chuyện “toàn năng” hay “toàn
tri”.
Trong truyện kể từ ngôi thứ hai, người kể chuyện đồng thời là một nhân
vật, kể chuyện dưới dạng đối thoại với nhân vật khác, với độc giả và sử dụng
ngôi nhân xưng thứ hai.
Tóm lại, với người kể chuyện xuất hiện trực tiếp bằng hình thức đại từ
ngôi thứ nhất, chúng ta có hai trường hợp chính: người kể chuyện xưng tôi
đóng vai trò dẫn truyện và người kể chuyện xuất hiện trực tiếp như một tác
nhân; với người kể chuyện từ ngôi thứ ba, chúng ta có ba trường hợp chính:
người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật, người kể chuyện hàm ẩn
kể theo điểm nhìn của chính mình từ bên ngoài và người kể chuyện hàm ẩn
toàn năng (soi tỏ sự việc từ ngoài và trong). Ngoài ra chúng ta cần kể đến
trường hợp không phổ biến của người kể chuyện từ ngôi thứ hai.
Như giới nghiên cứu tự sự khẳng định, cho đến nay, hai mô thức phổ
biến của tự sự là trần thuật từ ngôi thứ nhất và trần thuật từ ngôi thứ ba. Mặc
dù đã sử dụng trong không ít các văn bản trần thuật xuất sắc (Người tình của
M.Duras; Linh Sơn của Cao Hành Kiện), nhưng hình thức trần thuật từ ngôi
thứ hai được sử dụng một cách không phổ biến trong tự sự. Ở Việt Nam, trần
thuật từ ngôi thứ ba là hình thức trần thuật cổ điển được sử dụng phổ biến
trong tự sự trung đại. Bước vào quá trình hiện đại hóa, cùng với việc biến đổi
của trần thuật từ ngôi thứ ba, hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất bắt đầu
được các nhà văn sử dụng ở Việt Nam. Việc lựa chọn các hình thức trần thuật
gắn liền với vấn đề tổ chức điểm nhìn tự sự. Tương tự như một bức tranh là sự
14
tái hiện lại một hiện thực từ một góc độ quan sát nhất định, trong tự sự dòng
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
sự kiện có thể được tái hiện lại từ điểm nhìn bao trùm toàn bộ hiện thực của
nhân vật người kể chuyện trung tính (trần thuật từ ngôi thứ ba) hoặc khúc xạ
qua ý thức của một nhân vật (trần thuật từ ngôi thứ nhất). Nhân vật này có thể
chỉ là người chứng kiến diễn biến câu chuyện hoặc là một người tham gia trực
tiếp vào cốt truyện. Có thể tìm thấy tất cả những mô thức trần thuật này trong
truyện ngắn của Tô Hoài, ta có bảng thống kê sau:
Trần thuật Trần thuật từ Trần thuật từ ngôi thứ nhất
từ ngôi thứ ngôi thứ ba NKC – người NKC tham
hai chứng gia vào cốt
truyện
Đồng chí Hùng Vợ chồng A Vượt Tây Côn Tên
Vương; Tào Phủ; Mùa hái Lĩnh; Chiếc truyện
Lường; Du kích bông; Thào áo “xường ngắn
huyện; Đi dân Mỵ kể đời xám” màu
công; Xuống làng; mình; Tội hoa đào; Bác
Mường Giơn; Sầm làng; Người Niệm; Một
Sơn; Vỡ tỉnh; mất trí; người bạn;
15
Những ngày đầu; Chuyện cũ, Hai đứa trẻ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Khiêng máy; Nước mắt; đợi đi,
Thảo; Khác trước; để Chuyện
Ngõ phố; Người quên; Cô đào
ven thành; Câu thương; Cối,
chuyện bờ đầm cối ơ; Con
sen đền Đồng Cổ; ngựa; Tình
Hoa bìm biển; buồn
1.1.1. Điểm nhìn chủ quan:
Trong hệ thống truyện ngắn Tô Hoài viết sau 1945 có 16/33 truyện
ngắn kể ở danh xưng “tôi”. Ngôi thứ nhất “tôi” – người kể chuyện có hai vai
trò, một là tham gia vào sự kiện, biến cố của cốt truyện như một nhân vật và
đóng vai trò dẫn dắt kể lại câu chuyện như một người chứng. Đứng dưới vai
trò nào thì cách kể đặt điểm nhìn vào nhân vật xưng “tôi” đều giúp người đọc
dễ bắt vào câu chuyện vì có một sự định hướng quan điểm rõ ràng. Nhân vật
xưng “tôi” đem truyện mình, truyện của người khác ra kể: Vợ chồng A Phủ;
Mùa hái bông; Chiếc áo “xường xám” màu hoa đào; Người mất trí, Bác
Niệm, Hai đứa trẻ đợi đi; Chuyện cũ; Một người bạn; Chuyện để quên; Cô
đào thương; Tình buồn; Cối, cối ơ!; Nước mắt, Con ngựa…
Những câu chuyện kể dưới danh xưng “tôi”, có một số truyện mang dáng
dấp một thể loại giao thoa giữa truyện và kí. Vẫn có cốt truyện, có hành động,
nhân vật ở ngôi thứ nhất kể về những gì đã qua, được chứng kiến và trải nghiệm
nhưng thế giới tồn tại của người kể chuyện và thế giới của nhân vật khác xa nhau
về thời gian, không gian, trạng thái, cảm xúc…Trong Vượt Tây Côn Lĩnh, người
kể chuyện xưng “chúng tôi”, và cuối câu chuyện thì biết đó là đại đội trưởng của
16
đại đội Trung Lào, người trực tiếp tham gia hành quân qua Tây Côn Lĩnh. “Tôi”
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
kể câu chuyện của chính mình, kể về cuộc hành trình gian khổ vượt đỉnh Tây Côn
Lĩnh tấn công vào Hoàng Su Phìa. Không gian giá lạnh, những triền đá cao ngất,
dù đương mùa hè trên đỉnh núi vẫn rét, cây cỏ không mọc được đã được người kể
chuyện xưng “tôi” kể lại rất rõ “Đêm đến, bốn phía rên rỉ. Không phải tiếng giun dế.
Không có giun dế. Chỉ có tiếng người khe khẽ. Có hai hàm răng đã cắn lại mà tiếng
rên rỉ vẫn bật ra. Núi đá ẩm ướt, không tìm được một que củi. Chăn áo trùm hết lên
nhau, cuốn lấy nhau, vẫn run, vẫn rên, vẫn kêu, không tài nào chịu được” [20;236].
Giác quan của người đọc được sử dụng tối đa, cảm nhận từng khoảnh khắc trong giá
rét trên đỉnh núi, nỗi tuyệt vọng, sự mệt mỏi, sự đau đớn khi phải tiễn biệt đồng đội.
Thế giới tồn tại của nhân vật xưng “tôi” trong truyện thật khác với thế giới bình lặng
của người kể chuyện khi bình tâm nghĩ lại và ghi chép lại câu chuyện. Câu chuyện
thật như vốn nó đã xảy ra. Kết hợp giữa sự chân thực, linh hoạt trong thể kí cùng
những câu chuyện được kể lại trong 13 ngày của các nhân vật, người kể chuyện
xưng tôi đã đưa câu chuyện gần gũi hơn cả về nội dung, lẫn hình thức.
Trong Thào Mỵ kể đời mình, Mùa hái bông, người kể chuyện xưng “tôi,
em” cố gắng dùng cái tôi hiện tại để cảm nhận, phục hiện lại cái tôi trong quá
khứ. Điểm nhìn rơi vào những không gian khác nhau, thời gian khác nhau.
Thào Mỵ xưng “em” tự kể về câu chuyện của mình từ khi mười tuổi đi lấy
chồng cho đến lúc Thào Mỵ vào Đảng (6 - 4 - 1960). Những thăng trầm của
cuộc đời, những biến bố trong số phận và những nỗi đau khôn cùng khi năm
bảy lần tìm đến cái chết được người kể chuyện xưng “em” giãi bày, chia sẻ.
Thào Mỵ kể đời mình, Mùa hái bông đều là những câu chuyện được “tôi” -
nhân vật xuất hiện cuối truyện lặng lẽ đưa ra những lời trần thuật đầy sự đồng
cảm: “Tôi lại đọc được những dòng chữ nắn nót viết những câu văn thật đẹp.
17
Không biết những câu này Thào Mỵ nghĩ ra hay Thào Mỵ đã chép lại những
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
lời hợp với lòng mình ở quyển truyện nào, ở sổ tay nào của ai khác: Yêu mến
ơi! Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! Sáng sớm mặt trời lên chói lọi đỏ
hồng, chiếu khắp núi rừng đẹp đẽ, lúc đó nghĩ đến mùa hoa thuốc phiện.
Hôm nay trời đẹp” [20;267].
Thào Mỵ, Hắt (Mùa hái bông); Đại đội trưởng (Vượt Tây Côn Lĩnh) kể
lại câu chuyện của mình dưới dạng hồi kí, nhật kí. Điểm nhìn ngôi thứ nhất
thông suốt, mọi sự kiện, biến cố và cảm nhận mọi thăng trầm biến đổi trong
những thời điểm khác nhau, những không gian khác nhau một cách sống
động nhất. Khoảng cách giữa nhân vật - tác giả - bạn đọc được rút lại. Nhân
vật “tôi” = người kể chuyện, câu chuyện ít hư cấu, rất thật. Điểm nhìn chủ
quan mang tính chất tự truyện và hồi kí rất rõ nét.
Truyện ngắn Tô Hoài không xuất hiện người kể chuyện xưng “Tôi”
đứng ngoài cốt truyện khi sự hoà trộn giữa cái khách quan và cái chủ quan
trong chủ thể trần thuật khiến cho người kể chuyện thuần nhất thâu tóm
toàn bộ sự kiện, sự việc và diễn biễn, cảm xúc mà hình thành một dạng thức
phức tạp hơn. Một số lượng không nhỏ tự sự của Tô Hoài được xây dựng dựa trên
mô thức tự sự từ ngôi thứ nhất - kiểu nhân vật người chứng. Người kể chuyện
không còn đơn giản chỉ đóng vai trò người dẫn truyện, ghi chép lại câu chuyện mà
cùng các nhân vật khác thể hiện quan điểm, đánh giá, suy nghĩ, chiêm nghiệm cá
nhân, tạo nên một kiểu nhân vật đặc biệt: con người nhạy cảm, giàu cảm xúc và
suy tư lặng lẽ quan sát thế giới. Ta có thể gặp kiểu nhân vật này trong truyện ngắn
Thạch Lam, của Hồ Dzếnh, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu… Người kể chuyện
nhạy cảm, giàu cảm xúc, suy tư lặng lẽ quan sát thế giới ta bắt gặp trong một số
truyện ngắn của Tô Hoài: Bác Niệm, Cô đào thương, Chiếc áo xường sám màu
18
hoa đào, Hai đứa trẻ đợi đi, …
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Hai đứa trẻ đợi đi - câu chuyện buồn thương đến xót xa. Những đứa trẻ
là con rơi của các binh lính Mỹ trong chiến tranh bị thất lạc bố, ở với bà ngoại
tại Việt Nam. Tuổi thơ vất vả bên gánh hàng thuốc lá cùng bà ngoại đã khiến
cho Bi, Vồ yêu thương vô cùng với cuộc sống cơ cực đó. Dù đói rách, dù vất
vả nhưng vẫn là kí ức tuổi thơ của Bi, và Vồ. Câu chuyện được kể qua hình
ảnh đôi mắt trẻ thơ buồn xa xăm “bên cửa sổ có một chú bé đứng im đấy” “cứ
tinh mơ đã thấy nó đứng chỗ cửa sổ ấy, mà thông thường thì trẻ con giờ giấc
này chưa thể mở mắt được. Nó cứ nhìn ra mọi hoạt động trên sông sớm”,
“nhưng dường như nó cũng chẳng để ý trông cái gì. Môi nó trễ ra, và con mắt
thờ ơ lạnh lùng” [21;280-281]. Người kể chuyện xưng “tôi” - đóng vai trò một
nhân vật lặng lẽ quan sát, suy tư, cứ dõi theo Bi, Vồ, từng hành động, từng cử
chỉ. Hai đứa trẻ cứ chờ mãi, chờ mãi mà vẫn chưa lên được máy bay về Mĩ,
mà chúng cũng không thể trở về mái nhà nghèo khó của bà ngoại. Sự bơ vơ,
lạc lõng giữa cuộc đời khiến cho người kể chuyện xưng “tôi” buông một tiếng
thở dài “Đến đêm, tiếng kêu khóc của nó càng to, cả trên tầng năm cũng nghe
được. Nhưng tôi có cảm tưởng mọi người, cả những người khách du lịch nước
ngoài cũng như thông cảm, cũng như lì lợm, không thấy một cánh cửa mở,
không đi gọi hỏi người gác tầng, không nghe ai càu nhàu gì. Tuy đã khuya mà
ban giám đốc còn phải chia nhau đi từng buồng xin lỗi vì tiếng náo động khác
thường của vị khách đặc biệt của câu chuyện thời sự hôm nay. Không biết rồi
đến hôm nào hai đứa mới đi được”. [21;292]
Cô đào thương lại là một góc nhìn khác của người kể chuyện “tôi”. Tác
giả cho cốt truyện đi qua tâm thức của chú bé xưng “tôi” trong những
không gian khác nhau: không gian của vở chèo, không gian lam lũ trong
19
cuộc đời thật. Trong trường hợp này, tác dụng tiêu điểm hóa bên trong là
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
qua người kể chuyện xưng “tôi”, “sự thật của “tôi” trở nên cân bằng và
ngang bằng với sự thật của các nhân vật khác. Sự thật về nàng Châu Long,
về chú bé, gia đình chú bé, mỗi nhân vật sẽ giữ nguyên chiều kích của con
người mình và tự mình nói lên sự thật của mình. Câu chuyện có hai không
gian: không gian trong chiếu chèo; không gian ngoài đời thật. Người kể
chuyện tôi theo dõi và ghi chép ở cả hai không gian nghệ thuật đó. Không
gian trên chiếu chèo với những nhân vật Châu Long - Lưu Bình - Dương Lễ
trở nên quen thuộc, và cái đẹp trong mơ ước cứ hiển hiện ra trước mắt nhân
vật xưng “tôi” và u tôi. Ước vọng đoàn tụ. Trong không gian ngoài thật, đôi
mắt đó lại tìm kiếm, lại dõi theo nhưng rồi thất vọng, buồn bã. Cùng một
người kể chuyện nhưng hai không gian khác nhau, soi chiếu, đối ứng với
nhau như hai tấm gương đặt lồng trong nhau để cuối cùng chú bé hiểu “tại
sao tích chèo hay thế nhưng cứ đến chỗ Lưu Bình trở về thì u tôi mới xem”.
[21;368]
Bác Niệm, Cối, cối ơ, Con ngựa, người kể chuyện xưng “tôi” đều đóng
vai trò người chứng dõi theo, ghi chép và đánh giá sự việc theo cảm xúc riêng
của mình. Tôi dần hiểu cuộc đời, dần hiểu lòng người, và cũng hiểu hơn
những giá trị của cuộc sống để biết trân trọng và giữ gìn.
Từ điểm nhìn chủ quan, người kể chuyện dễ dẫn dắt người đọc đi một
con đường đơn giản đến từng ngóc ngách của câu chuyện. Dường như việc
ham tìm hiểu, ham khám phá, gặp gì viết đấy, ghi chép tỉ mỉ và đúc rút kinh
nghiệm đã khiến cho những câu chuyện được nghe kể; được chứng kiến trở
thành một phần của chính tác giả. Hồi ức tuổi thơ (Cô đào thương), nỗi dằn
vặt khi trưởng thành (Bác Niệm); sự băn khoăn trước cuộc sống (Hai đứa trẻ
20
đợi đi), sự thương cảm cho số phận (Thào Mỵ kể đời mình); nỗi buồn da diết,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
bất lực (Cối, cối ơ), những thăng trầm của đời người (Con ngựa)… tất cả như
là những mảnh ghép của bức tranh cuộc đời. Truyện hư cấu mà lại rất thật, đó
là nhờ vào tính chất hồi kí, tự truyện của điểm nhìn chủ quan.
1.1.2. Điểm nhìn khách quan:
Truyện ngắn hiện đại ngoài việc xử lí tốt điểm nhìn chủ quan, còn đa
phần vẫn sử dụng điểm nhìn tự sự truyền thống, điểm nhìn khách quan. Số
lượng truyện kể ở ngôi thứ ba là: 19/33. Truyện kể ở điểm nhìn ngôi thứ ba,
có khi người kể chuyện tựa vào điểm nhìn của nhân vật, có khi điểm nhìn là
của chính người kể chuyện hàm ẩn. Đây là cái nhìn bên ngoài không được
nhân vật hoá mà ẩn đằng sau hình bóng của tác giả. Chọn điểm nhìn tự sự
khách quan giúp Tô Hoài tạo ra một khoảng cách nhất định giữa tác giả - nhân
vật (sự kiện), giảm tối đa sự can thiệp của cá nhân vào tác phẩm, điểm nhìn
mang tính phức hợp và di chuyển linh hoạt đã tạo ra sự hấp dẫn của câu
chuyện.
1.1.2.1. Điểm nhìn hàm ẩn lặng lẽ ghi chép
Kiểu điểm nhìn người kể chuyện hàm ẩn đứng nhìn bên ngoài ẩn dưới hình
bóng tác giả mà không xuất hiện khá phổ biến trong truyện của Tô Hoài. Mường
Giơn, Sầm Sơn, Thảo, Khiêng máy, Đồng chí Hùng Vương, Tào Lường, Du kích
huyện… Ở điểm nhìn này ta không thấy bóng dáng của NKC mà chỉ thấy các sự
kiện được kể liên tiếp và thường theo trật tự tuyến tính. Khoảng cách giữa nhân vật
- độc giả thu ngắn đến mức tối đa. Tác giả lùi về phía sai, không chi phối vào hành
động, suy nghĩ của nhân vật giúp người đọc hiểu nhân vật hơn.
Mường Giơn - có thể coi là truyện ngắn cũng có thể coi là truyện vừa. Với
dung lượng 97 trang, tác giả không cố ý lấy một hay vài nhân vật nào làm trung
21
tâm mà muốn miêu tả những sự kiện, những biến cố trong đời sống của một làng
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
đồng bào Thái qua đó tâm trạng của nhiều lớp người (người già, thanh niên, thiếu
niên, lính ngụy) bộc lộ. Tâm trạng đau khổ, bất lực, ý chí quật khởi của ông
Mờng “Đôi khi, nhớ quê cũ, nghĩ mất bao nhiêu công lao mới đào được ao cá,
mới làm nên được cái nhà, sàn cột gỗ đẽo. Nhưng cứ nhớ đến thằng Tây bắn chết
thằng Sạ, thì càng nghĩ sâu xa đến những câu hát ngày xưa các cụ để lại cho con
cháu, lại văng vẳng nghe: “Thằng Tây đi đến đây làm nhiều tội ác…”. Như thế,
bố con ông Mờng yên lòng ở Mường Lùng phát nương xây dựng lại” [20;115];
tình cảm trong sáng, đẹp đẽ của Sạ và Ính “Sạ nhìn Ính, âu yếm. Hai người nhìn
nhau. Sạ nín lặng, Ính thì cười lặng lẽ. Rồi họ đứng dậy, thong thả về làng. Bấy
giờ nắng đã xế, nắng chiếu hắt ngược lên những chỏm đồi. Những đồn Tây cũ
trên các mỏm đồi quanh đồng Mường Giơn” [20;197], những nhớ thương, những
bất hạnh của Lín, của chị Yên được kể rất chi tiết. Điểm nhìn bao quát toàn bộ
câu chuyện, ẩn kín lặng lẽ trần thuật. Từng góc của cuộc sống, từng hành động,
từng cảm xúc đều được thâu tóm và thể hiện.
Thảo - truyện ngắn có tựa đề là tên của một nhân vật. Thời gian văn bản
là 17 trang, thời gian cốt truyện là hơn một ngày, kể về cảnh tản cư ra
kháng chiến của nhiều gia đình trong đó có gia đình Thảo. Người kể
chuyện không đi sâu vào cảnh tản cư mà đi sâu vào diễn tả suy nghĩ của
từng người trong gia đình Thảo. Gia đình Thảo là một gia đình đang dao
động trước tình thế khó khăn, không biết sẽ hoà mình vào kháng chiến hay
là quay trở ra Hà Nội. Ông Hai, bà Hai, Chị Phú đều trăn trở không yên.
Đặc biệt khi biết tin ông Thẩm về tề, sự băn khoăn lại càng nhân lên gấp
bội. Nhưng Thảo, đã tìm ra con đường cho gia đình mình đó là theo đuổi
22
kháng chiến đến cùng. Người kể chuyện đứng ngoài, không sử dụng ngôn
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
ngữ độc thoại nội tâm nhiều, mà ghi lại những cuộc đối thoại của Thảo để
làm sáng rõ suy nghĩ của nhân vật này:
“… Ông Hai vào ở trong đồi. Công việc mê mải, chẳng mấy khi ông
xuống đến chân đồi. Rồi có một buổi, ông Hai ra phố rèn lưỡi cuốc.
Thảo đi đâu vừa tạt về nhà, nói:
- Thầy ạ, có người làng ta vừa lên kể bố con ông Thẩm về chuyến ấy
vướng càn, chết cả rồi”.
Bà Hai nhìn ông Hai. Chị Phú lặng lẽ khóc. Con người vỗn dễ lo, dễ
buồn…” [21;88].
Cứu đất cứu mường, Đồng chí Hùng Vương, Tào Lường, Đi dân công,
Vỡ tỉnh… đều được kể bằng điểm nhìn từ bên ngoài. Người kể chuyện hàm
ẩn kể dưới tiêu điểm hàm ẩn. Đôi mắt dõi theo, lặng lẽ ghi chép khiến cho
những truyện ngắn này có sự rập rịt về hành động, sự việc và nó bao quát
được đời sống không chỉ của một mà còn của rất nhiều nhân vật trong một
thời gian dài cũng như chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Chính vì không
có tính chủ quan, nên câu chuyện được kể ra dù có dài dòng, dù có thiếu đi
sức hấp dẫn những vẫn khiến người đọc theo dõi vì trong đấy có sự đồng hiện
của nhiều cảm xúc, nhiều cách nghĩ của các nhân vật.
1.1.2.2. Điểm nhìn bên trong đặt vào nhân vật.
Với điểm nhìn đặt vào nhân vật, kể dưới ngôi thứ ba, xưng tên, ta dễ
dàng nhận thấy sự pha trộn lẫn lộn giữa phát ngôn của nhân vật và phát ngôn
của người kể chuyện. Đây là kĩ thuật sử dụng lời gián tiếp tự do trong trần
thuật được dùng ở một số tự sự của Tô Hoài (Sầm Sơn, Khiêng máy, Ngõ phố,
23
Người ven thành, Câu chuyên bờ đầm sen bên đền Đồng Cổ, Hoa bìm biển…)
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Sầm Sơn, câu chuyện kể ở “bãi biển Sầm Sơn, chặp tối ngày giữa tháng.
Trăng ngoài biển sắp lên...” [20;268] Chu - Liu Sa đi bên nhau trò chuyện.
Câu chuyện được kết cấu là một cuộc hội thoại, như một đoạn kịch, có người
hỏi, người trả lời. Quá khứ với mối tình không thành của Chu - Khúa Ly, hiện
tại với sự bình lặng của lòng người và một tình yêu lại đang nảy nở của Chu -
Liu Sa. Điểm nhìn tựa vào điểm nhìn của nhân vật và không thể phân biệt
được đâu là giọng của người kể đâu là giọng của tác giả. “Chu im lặng, dừng
lại. Anh đang nghĩ gì? Anh đang nghĩ đến những ước mong của con người,
những vui sướng tới được ước mong ấy. Thì nỗi buồn khác lại man mác hiện
ra, Khúa Ly, Khúa Ly ơi!” [20;274].
Người ven thành với bố cục khá chặt chẽ: từ chuyện ông nội và cha ông
Đô đi theo quan thầy đánh Tây 80 năm trước đến chuyện ông Đô đốt bốt địch
trong kháng chiến chống Pháp và bắt giặc lái trong kháng chiến chống Mỹ,
câu chuyện có những lúc trầm buồn, có những khi sôi nổi, có những lúc lại rất
già dặn. Điểm nhìn nhìn từ góc độ của ông Đô, câu chuyện do chính ông Đô
kể nên nó mang những suy nghĩ, những trạng thái tình cảm của ông. Song có
rất nhiều lời gián tiếp tự do, đưa ra những đánh giá, những chiêm nghiệm mà
người đọc không thể biết được đó là phát ngôn của ai, của ông Đô hay của tác
giả “Năm tháng qua trên ngọn lau mà mãi chưa ai đến. Rồi chẳng bao lâu chỉ
còn lại có lòng mong muốn tha thiết ra quân của những người cùng khổ ao
ước đổi đời. Còn những ông về làng tìm quân ra đánh Tây đã vắng vẻ lắm.
Chẳng còn trông đợi đâu được ở các quan, các người khoa bảng tiếng tăm
đứng lên dựng cờ nữa. Nhiều kẻ trong bọn ấy đã thay lòng đổi dạ, rắp ranh
24
“vứt bút lông ngậm bút sắt” đi theo Tây rồi” [21;207]. Không biết ai đang nói,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chỉ biết có một tình yêu thật mãnh liệt với quê hương nên có “lòng mong
muốn tha thiết ra quân” bảo vệ quê hương.
Đây là một giải pháp mang tính thỏa hiệp, vừa muốn khám phá thế giới
tâm lí bên trong của nhân vật nhưng chưa vượt qua ngưỡng để sáng tác theo
kiểu tự sự dòng ý thức - độc thoại nội tâm mà muốn gần hơn với dạng tự sự
truyền thống.
1.1.2.3. Di chuyển điểm nhìn:
Di chuyển điểm nhìn là hình thức truyện kể có sự phối hợp nhiều
điểm nhìn trần thuật, có sự chuyển đổi điểm nhìn từ nhân vật này sang
nhân vật khác. Với sự chuyển dịch góc nhìn thường xuyên trong tác phẩm,
nhà văn có thể mở rộng tầm khái quát, giúp người đọc tiếp cận sâu hơn
hiện thực từ đó nhận biết bản chất của sự việc được trần thuật một cách
toàn diện hơn.
Với trần thuật ở ngôi thứ ba có sự phối kết của người kể chuyện hàm ẩn
kể theo điểm nhìn của nhân vật và dạng người kể chuyện hàm ẩn toàn năng
soi chiếu bên ngoài. Đồng chí Hùng Vương, Thảo, Vỡ tỉnh, Đi dân công,
Khiêng máy,… bên cạnh sự quan sát lặng lẽ, khách quan là rất nhiều các đoạn
trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật. “Sin đeo túi và bao gạo đứng với ban chỉ
huy đại đội. Sin trông mây vẩn đầy trời, lo chốc nữa có thể mưa. Sin nhìn
Minh Thông phát biểu cái tay cứ giơ lên giơ xuống phăng phăng (Điểm nhìn
của người kể chuyện hàm ẩn) Kiết lị khỏi rồi hay sao mà giơ tay khoẻ thế?
Hay lão này giả vờ ốm? Hay lão này sợ đi khó nhọc? (Điểm nhìn của nhân
vật). Nhưng Sin cũng chỉ đoán thoáng qua, rồi lại tíu tít nghĩ chuyện gấp đi”.
[20;49]; Ra anh ấy đã nói bóng, cười bóng như thế. Soan bỗng đột ngột giận
25
chồng. Rồi lại tủi. Vì, sao bỗng dưng nó lại đánh mình rồi bỏ đi. Hay là nghĩ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
mình chợ búa đi hôm về tắt giai gái thế nào… Hay là mình muộn mằn…
(Điểm nhìn của nhân vật Soan) Nhưng những ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua, mà
một nỗi lo khác hiện ra… (Điểm nhìn của người kể chuyện hàm ẩn” [21;113]
Sự đan chéo các điểm nhìn không chỉ dừng trên các lớp văn bản có
cùng một ngôi trần thuật mà còn đi xa hơn, tiến đến sự luân chuyển thường
xuyên giữa trần thuật ngôi thứ nhất và trần thuật từ ngôi thứ ba Chiếc áo
xường xám màu hoa đào, Hai đứa trẻ đợi đi, Cối, cối ơ, Bác Niệm, Con
ngựa… có sự luân chuyển thường xuyên giữa trần thuật ngôi thứ nhất và ngôi
thứ ba. Ranh giới giữa hai kiểu trần thuật này nhiều khi trở nên mờ nhạt và
không còn nhiều ý nghĩa. Cả câu chuyện Con ngựa được kể dưới điểm nhìn
của nhân vật “tôi”. “Tôi” là một nhân vật theo sát câu chuyện, những biến đổi
thăng trầm từ khi nhân vật chính còn tên là Ếp (tên do bố mẹ đặt vì mong
muốn sau này được cưỡi ngựa oai như chánh tổng, lí trưởng cho sướng đời)
cho đến khi đổi tên là tiến sĩ Hùng với học hàm học vị, quyền lực cao trong xã
hội. Nhưng Hùng cũng không được sung sướng, lên rất cao, nhưng cuối cùng
lại xuống cũng rất nhanh, và bị những thói trăng hoa, chơi bời, bệnh tật làm
cho điêu đứng. “Tôi” kể rành mạch và theo dõi những biến chuyển của Hùng
nhưng đôi chỗ, điểm nhìn dịch chuyển vào trong nhân vật, để nhân vật tự biện
hộ cho mình: “Ai mà chẳng tính đếm ở nơi chiến trận, chỉ khác tính lên hay
tính xuống. Mỗi trận đánh ào ào nước lũ. Thế nào cũng có cậu thình lình sái
chân, xụn lưng nằm lại. Chẳng ai còn thì giờ để tị nạnh, để cáu kỉnh…”
[21;442].
Sự luân chuyển điểm nhìn này kéo theo đó là sự đa dạng về giọng điệu,
sự pha trộn giữa người trần thuật và nhân vật, đa dạng các loại lời: lời người
26
trần thuật, lời nhân vật và lời gián tiếp tự do. Đây là một cách trần thuật mà
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
vượt ra ngoài ranh giới và vùng kiểm soát của người kể chuyện thuần nhất. Sự
phối kết giữa các cấp độ của điểm nhìn trong từng ngôi kể đã được đẩy đến
những giới hạn tận cùng.
Truyện ngắn Tình buồn, được kể từ điểm nhìn của ông giáo Nhất,
nhưng đến giữa truyện, điểm nhìn đột ngột chuyển sang cho ông Cõi, kể về
chuyện tình buồn của mẹ ông giáo Nhất với chính mình trong quá khứ. Nhân
vật, nhờ vậy lúc được tự giãi bày, được tả trực diện, lúc lại bị đẩy ra xa và
được nhìn nhận, đánh giá qua cái nhìn của chính mình và của người khác.
“Bây giờ anh giáo Nhất mới nhớ lại và nhận ra hình như cả một hồi còn
trẻ không khi nào mẹ đi xem hội hè đình đám chèo hát ở đâu, cũng chẳng
biết mặt cái chợ huyện, quanh năm chỉ như gái đẻ chít khăn vuông xùm
xụp (…). Con đường bâng khuâng về những ngày nào, thì mũi đò đã đụng
bờ cát. Anh giáo Nhất vác cái xe đạp lên trước làm chòng chành con đò ọp
ẹp. Ông Cõi đứng dậy, chị nhà đò một tay bế con, một tay giơ chiếc bơi
chèo cho ông lão níu lấy, lẩy bẩy lần lên. Rồi tôi lại vẫn đương đi về ngày
xưa. Tôi vừa lập cập, vừa xăm xăm bước. (…) Làm sao chỉ vài bước chân
mà cả đời tôi không nghĩ được ra, không tìm ra cô ấy ở đâu mà cô ấy
dường như vẫn biết tôi, vẫn nhìn thấy tôi.” [21;380-381]. Điểm nhìn từ
ngôi thứ ba “anh giáo Nhất” kể về những điều lạ lùng của người mẹ, nó là
sự thiệt thòi, là sự đau đớn trong cả tuổi thanh xuân. Bà lão Tứ, ông Cõi
đều tự cảm nhận những nỗi đau mất mát vô bờ trong cuộc sống của mình
nhưng không thể tự kể về nỗi đau của chính mình mà phải để cho anh giáo
Nhất, đứng ở vai trò khách quan, đánh giá và nhận xét.
Với những phối hợp “đa phức”, đa tầng và có nhiều sự luân phiên
27
điểm nhìn về người kể chuyện như vậy, Tô Hoài đã tạo ra những thế giới
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
hiện thực ở những không gian, thời gian khác nhau. Sự tương tác và di
chuyển điểm nhìn này sẽ tạo ra sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật, phá
vỡ sự độc tôn của giọng điệu đơn thanh, tạo ra giọng đa thanh trong các
truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945.
1.2. Vai trò của người kể chuyện
Người kể chuyện là công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện, chính
vì thế nó khác với người kể chuyện trong thực tế đời sống. Người kể chuyện
trong tác phẩm không được điều chỉnh câu chuyện theo phản ứng của người
nghe mà phải tuân theo ý đồ và kết cấu tác phẩm cố định trên văn bản.
Người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự không
chỉ là một nhân vật tham gia trong tác phẩm như các nhân vật khác mà còn có
chức năng tổ chức các nhân vật khác, đánh giá về các nhân vật khác. Người kể
chuyện trong tác phẩm thay đổi rất linh hoạt, tùy thuộc vào động cơ và thái độ
của tác giả. Có thể ẩn mình hoặc có thể tham gia vào sự kiện, biến cố của cốt
truyện đứng cùng bình diện với các nhân vật khác. Thông qua người kể
chuyện, tác giả thể hiện quan điểm, tiếng nói của chính mình. Vì thế, người
kể chuyện có một chức năng vô cùng quan trọng. Là một nhân vật đặc biệt
có mối quan hệ mật thiết với nhà văn trong việc chuyển tải tư tưởng. Tác
giả - người kể chuyện - độc giả là một mối liên kết bền vững. Người kể
chuyện tài hoa chính là người có thể kéo gần khoảng cách giữa tác giả và
độc giả.
GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét, Tô Hoài là nhà văn của
“người thường, chuyện thường, đời thường”. Văn Tô Hoài không hề nhiều
biến cố, nhiều sự kiện trọng đại mà các sự việc cứ đều đều diễn ra đôi lúc dài
28
dòng, lan man nhưng người đọc vẫn phải tò mò đọc hết. Có nhiều lí do khiến
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
cho các tác phẩm của ông sống mãi, trong đó không thể không nói đến vai trò
của người kể chuyện. Người kể chuyện của Tô Hoài không có được đặc trưng
trong việc tạo những mạch tự sự đặc biệt độc đáo, hấp dẫn nhưng lại có một
ưu thế chính là sự bình thường, đơn giản đến dễ hiểu chính vì thế người kể
chuyện đã tạo một lối đi rất quen thuộc cho người đọc đi vào câu chuyện: Lối
đi của chính cuộc sống. Người kể chuyện của Tô Hoài còn thay nhà văn nói
lên được tiếng nói, tư tưởng của mình.
1.2.1. Người kể chuyện kiến tạo lối đi, dẫn dắt người đọc tiếp cận với thế
giới truyện.
Gorki khẳng định: “Trong tiểu thuyết, trong truyện ngắn những con
người được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả
luôn bên cạnh họ, tác giả mách cho người đọc hiểu rõ cần phải hiểu như thế
nào, lí giải sao cho người đọc hiểu rõ những ý nghĩa thầm kín, những động cơ
bí ẩn ở phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả”. Tác giả ở
đây chính là người kể chuyện. Người kể chuyện phải làm sao để người đọc dễ
dàng nhất hiểu được nhân vật, hiểu được hành động của nhân vật và hiểu được
những gì tác giả muốn nói.
Truyện ngắn của Tô Hoài sáng tác sau 1945 viết trong những khoảng
không gian, thời gian và đề tài khác nhau: khoảng thời gian trong kháng chiến
(các dân tộc thiểu số), khoảng thời gian trong thời bình (cuộc sống sau chiến
tranh), khoảng thời gian quay về quá khứ (cuộc sống trong thời nghĩa binh).
Thời gian được nói đến chính là quá khứ - hiện tại. Làm sao để người đọc bắt
nhanh được với câu chuyện, hoà mình vào không khí của truyện, để từ đó theo
dõi nhân vật? Người kể chuyện phải tạo ra được hoàn cảnh ở thời điểm được
29
giới hạn trong truyện. Mỗi một thời điểm, mỗi một hoàn cảnh, người kể
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chuyện lại chọn những nét khác nhau, những chi tiết khác nhau để tả, để kể
sao cho người đọc nhận ra được mình đang đứng trong không gian nào, thời
gian nào, và nhân vật được chi phối bởi yếu tố đó ra sao.
Trong những năm kháng chiến, chính nhờ vốn sống, sự trải nghiệm đã
giúp tác giả xây dựng nhân vật người kể chuyện bắt được những nét thật đặc
trưng tạo nên một không khí kháng chiến hừng hực khí thế: Những truyện
ngắn: Vỡ tỉnh; Đi dân công, Đồng chí Hùng Vương, Tào Lường, Xuống làng;
Cứu đất cứu mường; Mường Giơn; Vợ chồng A Phủ; Vượt Tây côn Lĩnh;
Khác trước; Vỡ tỉnh; Những ngày đầu; Thảo; Khiêng máy… là những truyện
ngắn sôi sục khí thế. Người kể chuyện lân la, nhìn ngó và tìm những đặc điểm
thú vị nhất đem kể lại cho người đọc. Một anh cán bộ người dân tộc với bí
danh Hùng Vương, dù bận rộn công tác nhưng rất hăm hở với việc học chữ,
thường xuyên viết thư để hỏi về các chữ lạ “Tôi có việc danh từ muốn hỏi
đồng chí” [20;11]; sự giác ngộ, tin yêu cách mạng của quần chúng ở Tào
Lùng, Tào Lường; mỗi khi có cán bộ lên nhà “dù bận đến đâu, con Pú cũng rối
rít dắt em ra máng nước cọ mặt, cọ tay, cọ chân” [20;21]; sự hào hức, nô nức
của nhân dân quyết tâm theo kháng chiến đem của cải, tài sản ra giúp nước
“Những ba lô và gồng gánh, bồ, sọt ở đâu chui ra không biết, lù lù dưới ánh
những ngọn đèn hoa kì nhòe nhoẹt trước của nhà hàng chứa trọ. Có một tốp
dân công tải gạo qua. Đằng kia, đám đông người còn lao xao trước cửa hàng
mậu, hỏi mua muối lẻ về làm bữa tối. Những tốp người đi đường xa về nghỉ,
đã quen như chim chiều về tổ. Cái phố ồn dần. Tới nửa đêm thì lại đông hơn
nữa, lúc này có thêm cả một cái chợ bán vài đòn gánh kéo từ ngoài bờ sông
vào. Phía ngã ba trạm gác đưa lại tiếng hò dô ta … một hai ba… ai ơi đứng
30
lại… Đêm nay phố có mít tinh hoan nghênh chiến thắng trên mặt trận Tây Bắc”
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[21;71-72]. Còn biết bao những cảnh, những việc khác của những con người nơi
miền xuôi, những dân tộc anh em nơi miền ngược được tả được kể: đi dân công,
lao động tập thể; xung phong làm du kích; anh nông dân đánh vợ để tạo chứng
cứ che mắt người làng trốn đi Việt Minh hay những nỗ lực vượt qua cái đói, cái
rét, nỗi sợ, vẫn đánh địch rất quyết liệt của những anh bộ đội trong trung đoàn
Trung Lào… Người kể chuyện đã tái hiện thật thành công hoàn cảnh, không khí
kháng chiến tuy gian lao, khó nhọc nhưng lại sôi sục ý chí ấy.
Trong thời bình, người ta nghĩ nhiều về quá khứ, sống thật chân thành
với hiện tại và đặc biệt là tìm kiếm tình yêu. Người kể chuyện say sưa ghi
chép, say mê kể. Sự bình yên của không gian, thanh bình và mơ màng đã tạo
nên những khung cảnh lí tưởng cuộc sống, nơi đó những mối tình lãng mạn
đang e ấp, rồi nảy nở: Hạ - Chư (Câu chuyện bên bờ đầm sen đền Đồng Cổ)
“Hạ ở trong đám gái đội quả cơm nén. Chư là trai làng đón cơm nén cho chạ
thết, ngồi cơm rượu ngay bên đòn kiệu. (…) Không biết cô Hạ mê người trai
kiệu ấy từ lúc nào. Trông thấy nhau lúc đội cơm nén, lúc kiệu bay, hay lúc vào
đầu gò, người trai lực điền khéo lựa một bên gối quì xuống cho cái vai kiệu
oai nghi nhô lên? Hay là say nhau ở đêm chèo sáng trăng, ngay từ lúc tiếng
trống vào hát vỡ nước rộn rã hai bờ sông Tô Lịch” [21;230]; Sạ - Ính (Mường
Giơn) “Hai người nhìn nhau, rồi họ đứng dậy, thong thả về làng. Bấy giờ nắng
đã xế, nắng chiều hắt ngược lên những chỏm đồi. Những đồn Tây cũ trên các
chỏm đồi quanh cánh đồng Mường Giơn, đất đào còn đỏ sẫm đen như những
vết máu khô đọng lại như nhắc người ta những cái khổ hại đã qua những
chuyện bình yêu đương tới” [20;197]; Chu - Liu Sa (Sầm Sơn) “Bãi biển Sầm
Sơn, chặp tối một ngày giữa tháng. Trăng ngoài biển sắp lên cao. (…) Giải
31
cát, biển và ánh trăng trải dài. Hai bóng người đi, tít tắp, thong thả men theo
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
lợi nước viền ngấn cát” [20;268]. Sự trong sáng, vụng dại, nỗi nhớ thương da
diết của những cặp đôi yêu thương được người kể chuyện dành cho sự nâng
niu đến kì lạ. Khung cảnh xung quanh họ là những đêm hội vui tươi, những
buổi chiều hoàng hôn vàng nắng hay buổi đêm với ánh trăng lạnh hiền hoà.
Mọi thứ đều êm đềm, dịu nhẹ để chắp cánh cho tình yêu được bay lên.
Không xây dựng những hoàn cảnh điển hình mà chỉ tập trung vào những gì
bình dị, quen thuộc, người kể chuyện đã tạo nên những cảnh ngộ rất đời thường:
cảnh ngộ đơn độc của Bi - Vồ (Hai đứa trẻ đợi đi); nỗi chua xót câm lặng của ông
Vãn (Nước mắt); sự đau đớn tuyệt vọng trong cơn say của nhân vật “tôi” (Cối, cối
ơ); cảnh gà trống nuôi con của bác Niệm (Bác Niệm); buổi họp tổ dân phố và
cuộc sống nhiều thị phi và những chuyện vụn vặt nơi ngõ phố thị thành (Ngõ
phố)… tất cả thật gần gũi để người đọc tự thấy thêm yêu, thêm hiểu đất nước
mình, đồng bào mình và đôi khi cả chính mình nữa. Việc tạo ra những hoàn
cảnh, những không khí hợp với thời điểm mà tác giả định kể với người đọc, đã
giúp người đọc hiểu hơn về những suy nghĩ, hành động của nhân vật.
Không chỉ tạo ra hoàn cảnh để giúp người đọc dễ hình dung về cuộc
sống của nhân vật, người kể chuyện của Tô Hoài còn hướng người đọc cùng
suy ngẫm, chia sẻ và đồng cảm với những day dứt, những khắc khoải, những
nỗi nhớ thương, những niềm vui nho nhỏ của con người. Bác Niệm trong
truyện ngắn cùng tên, một con người mộc mạc, chân chất, trong suốt cả cuộc đời
mình, bác vì hoàn cảnh mà đã đổi rất nhiều nghề, mỗi lần đổi nghề là một lần
tâm sự: khi còn ở Việt Bắc, bác làm anh nuôi, sống tỉ mỉ, cẩn thận với “bao
thương nhớ vợ con, chất đầy trong hòm”; rồi bác học chữ, bác cũng viết thơ để
khai bút đầu xuân; khi vợ bác bỏ đi, một mình gà trống nuôi con, bác xoay sở
32
cuộc sống với biết bao nhiêu công việc “làm gia công mì sợi, hay dán hộp mứt,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
hộp thuốc, dán bìa cặp - công việc mà bà con hàng phố vẫn phơi bìa phơi mì
nhan nhản trên vỉa hè những buổi trưa nắng” [21;275] rồi bác làm cả “việc đốn
cây to trong công viên”… nhưng những vất vả đó không ngăn được tâm hồn
nghệ sĩ, bác Niệm viết văn, tự viết lại cuộc đời mình. Truyện ngắn chỉ vẻn vẹn có
hơn chục trang, người kể chuyện đã khéo léo vun vén toàn bộ cuộc đời bác Niệm
vào trang giấy, cùng nhân vật buồn vui và đưa người đọc những băn khoăn, khó
trả lời “Không phải người ta cứ nghĩ thế nào thì viết được ra đúng thế. Tôi nhìn
ra ánh trăng thành phố. Tấm lòng bác Niệm cao xa và thiêng liêng hơn gấp bao
nhiêu lần bác Niệm viết thành chữ. Chữ của bác chẳng nói được nỗi lòng bác.
Nhưng tôi cứ thấy ở mỗi câu hiện ra cuộc đời, trong đó có cả niềm hân hoan mai
sau mà lúc ấy người viết không còn nữa” [21;178 - 179].
Chiếc áo sường xám mầu hoa đào lại là những tâm sự khác. Người kể
chuyện xưng tôi đóng vai trò người làm chứng, kể lại câu chuyện. Câu chuyện
về ông Mã Hợp, về cô Phảy. Hai người họ từng có thời thanh niên, trẻ trung,
sôi nổi cống hiến cho cuộc đời, họ cũng có những tình yêu đẹp và những cố
gắng kiếm tìm trong cuộc sống. Song, cuộc sống luôn đầy rẫy những trái
ngang, mỗi người đều đi qua những nỗi đau riêng, và ôm ấp trong lòng những
kỉ niệm không thể nào quên. Người kể chuyện cảm thông, thấu hiểu, lắng
nghe và chia sẻ. Quá khứ, hiện tại, lẫn lộn trong hồi ức đầy hơi men của ông
Mã Hợp. Cao trào của câu chuyện đổ hết về đoạn cuối truyện: hóa ra con
người dù già đến mấy, dù trải nghiệm bao nhiêu họ có thể quên tất cả, mất tất
cả nhưng những kỉ niệm và tình yêu là còn mãi: “Bà lão lục lọi các thứ trong
làn. Đống xống áo cái rách cái bạc phếch, dưới cùng, có tờ giấy bóng trang
kim bọc một mảnh lụa đào màu còn tươi. Không phải mảnh lụa, đấy là cái áo
33
“xường xám” mà ngày trước các cô con gái Trung Quốc ở thành phố hay mặc.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
(…) Ôi, tấm áo ngày xưa. Cái áo năm xưa ở ngoài Hồng Công, những buổi tối
mùa hạ, mùa thu, hai người đã quàng vai nhau đi dạo, ngồi chơi bên bờ đảo.
(…) Cái áo thời ấy đây, thế thì người ta còn có hồn, chết rồi còn gặp nhau, cái
áo xường xám này vẫn như năm xưa, vẫn đây mà. Bà lão lại móm mém cười,
hai tay đẩy tấm áo ra, nước mắt chan chứa xuống hố mắt” [20;289].
Không độc đáo, gay cấn trong mạch tự sự nhưng truyện ngắn của Tô
Hoài vẫn được ghi nhận vì những nỗ lực của tác giả. Tác giả đã dùng vốn
sống, trải nghiệm của mình xây dựng nên nhân vật người kể chuyện có khả
năng dựng lại quang cảnh, không khí của quá khứ, của kháng chiến, khung
cảnh cuộc sống của các dân tộc miền núi, cuộc sống của những người ven đô.
Tạo ra một lối đi quen thuộc, bám vào đời sống, không ở đâu thấy rõ cái học
trong đời sống của Tô Hoài bằng nhìn vào các truyện ngắn của ông. Từ tên
đất, tên trạm đến những món ăn đặc sản địa phương, từ cách chạm cửa miếu
đến lúc làm lễ dựng nóc, từ những người trai khiêng kiệu đến cảnh kiệu bay,
kiệu bò, rồi cách nói, cách gọi đồ vật, sự vật theo lời xưa đã thấy rõ được ưu
điểm của con mắt quan sát. Một năng lực quan sát tỉ mỉ, tìm tòi cặn kẽ, người
kể chuyện của Tô Hoài đã hoàn thành nhiệm vụ thay tác giả dẫn đường để
người đọc hiểu sâu sắc nhất về câu chuyện, về nhân vật, về tư tưởng mà tác
giả gửi gắm.
1.2.2. Người kể chuyện thay tác giả nói lên những quan điểm sống, quan
điểm nghệ thuật của mình.
“Cái truyện hay nhất bao giờ cũng là cái truyện ta sẽ viết. Người viết
phải thấy rõ cái khó ấy, cái đau khổ ấy, niềm hi vọng không cùng ấy trong lúc
cầm bút” [19]. Tô Hoài quan niệm như vậy về một truyện ngắn hay. Người kể
34
chuyện của Tô Hoài cần làm được điều đó. Cái khó, cái đau khổ, niềm hi vọng
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
không cùng ấy phải chăng chính là khát vọng muốn đi sâu vào cuộc sống,
tham lam muốn hiểu nhiều, hiểu nhiều hơn nữa về cuộc sống. Chính vì thế đề
tài mà Tô Hoài hướng đến không hề hạn chế, từ miền xuôi, đến miền ngược,
từ hoà bình đến kháng chiến, từ hiện tại trở về quá khứ. Người kể chuyện Tô
Hoài hướng đến những tình cảm chân thật mộc mạc: tình yêu dân tộc, tình yêu
quê hương (Tào Lường; Mường Giơn; Người ven thành; Thảo …); tình yêu
cuộc sống, khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống đến bất diệt (Vợ chồng A
Phủ; Thào Mỵ kể đời mình; Mùa hái bông…); sự tin yêu vào con người, cảm
thông với con người (Hai đứa trẻ đợi đi, Cô đào thương; Hoa bìm biểm; Nước
mắt; Tình buồn; Chuyện cũ; …). Ta thấy giọt nước mắt của bà lão Phảy khi
run run nhìn tấm áo xường xám màu lụa đào; thấy tiếng thở dài đồng cảm với
sự đơn độc bơ vơ của hai đứa trẻ; nỗi hồi hộp, lo lắng của cậu bé giàu lòng
nhân ái khi xem Lưu Bình - Dương Lễ; nước mắt của một bà lão gần đất xa
trời mới dám tìm lại tình yêu thực sự của mình. Ngòi bút của tác giả run lên
khi cùng nhân vật hành trình, đồng cảm cùng với suy nghĩ của họ.
Bên cạnh quan niệm về cuộc sống, người kể chuyện còn cho ta thấy rất
rõ quan niệm về văn chương, nghệ thuật của Tô Hoài. Tô Hoài cho rằng “Trên
thế giới, nền văn học đã phát triển của dân tộc nào cũng có văn xuôi. Vì thế,
truyện ngắn, truyện dài và các thể loại khác của văn xuôi Việt Nam phải đượm
màu sắc, hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn của nó. Lẫn lộn sao được? Chân lí đó
đã quyết định và bắt buộc nhà văn Việt Nam phải sáng tác thế nào cho thật là
Việt Nam” [18;111]. Trong tất cả các truyện ngắn không phải chỉ giai đoạn
sau 1945 mà còn cả trước đó và về mãi sau này, tất cả đều lôi cuốn bởi không
gian trong đó là không gian rất Việt, con người trong đó cũng rất Việt, phong
35
tục, tập quán lại càng Việt Nam.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Một cách để biểu đạt âm hưởng Việt trong truyện ngắn của mình, Tô
Hoài đã trang bị cho người kể chuyện một nhãn quan phong tục độc đáo, và
am hiểu vô cùng về cuộc sống. Người kể chuyện cố gắng giấu mình đi, dõi đôi
mắt vào hiện thực để ghi lại những phong tục thật thú vị. Chính nhờ điều này
mà người đọc thích thú hơn khi đọc truyện vì không chỉ tìm hiểu được hiện
thực mà qua những truyện ngắn, một nền văn hóa Việt Nam với những truyền
thống được hiện ra. Đêm hội còn trong ngày Tết của người dân tộc, tục đi
cuông, đi ở, phạt vạ; lễ hội rước kiệu, văn hoá ẩm thực…. Sự lồng ghép khéo
léo đã khiến cho những phong tục không còn khô khan như một bài học văn
hóa lịch sử mà nhẹ nhàng luồn sâu vào trí nhớ của người đọc.
Tô Hoài hay đứng ngoài, đem một con mắt thú vị mà nhìn ngắm những
người xung quanh. Đôi khi đứng quá xa, gần như tường thuật cho ta nghe
phong tục Việt Nam, và tả cho ta nghe. Phong tục của các đồng bào dân tộc:
tục lệ kiêng đi hái củi ngày Tết, những bó củi to mà mọi người kiếm sẵn cho
tháng Tết đã dựng cả đầu lán và rải rác trên các lối rừng [20;32]; đi sêu; làm
cuông (trong chế độ thổ ti, lang đạo ở Tây Bắc trước, các nhà chảo mường (tri
châu; lí trưởng) bắt từng xã từng thôn hàng năm, hàng mùa phải đi hầu hạ, làm
không công cho nhà quan, gọi là làm cuông) [20;87]; tục mường, mỗi khi một
nhà bỏ nương cũ thì để lại người già trông nương, trông kho đựng thóc và nuôi
gà, bao giờ con cháu làm xong nương mới, có lúa ăn đầy đủ mới đón người
già đi [20;90]… Không phải ai cũng có cơ hội lên Tây Bắc, có thời gian tìm
hiểu về văn hoá các dân tộc, nhưng đọc truyện ngắn sau 1945 của Tô Hoài,
người ta dễ dàng hiểu và thích thú tìm hiểu về các phong tục đó.
Đối với những người dân ở thôn quê, ta ngạc nhiên vì sự am hiểu đến kì
36
lạ những công thức, cách làm, kĩ thuật nghề nghiệp như: Nghề làm cối “Tôi
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
thì độc một việc tìm đất lèn thớt cối. Không biết từ đời Thần Nông, Bành Tổ,
cái ông tổ sư nghề đóng cối tai quái đến thế nào đã nghĩ ra chỉ có một thứ đất
oái oăm ấy mới nặn nên mặt cái thớt cối chắc như trát xi măng. Xi măng còn
nẻ, còn mòn, chứ hai thớt cối đêm ngày nghiến nhau ken két mà những chiếc
dăm cối cứ trơ ra như hàm răng bàn cuốc của cái đứa trẻ ranh mười tám. Đất
thịt, đất thó gan gà mịn đến đâu, tơi đến đâu cũng không thể ví được với đất tổ
mối - đất cứt mối làm tổ đùn lên, chỉ đất tổ mối mới luyện được mặt thớt cối.
.. Đất cứt mối, mối ăn đất đào hang rồi lại ỉa ra đất, đùn cứt đất ra cửa. Đất cứt
mối tơi hơn tất cả các thứ đất trên đời, lại quyện rớt rãi trong bụng con mối,
đất như có keo dính. [21;385]; nghề giã dó “Năm đầu tập bóc dó. Hạ ốm
tưởng chết. Nhựa dó ăn tay, ăn mặt, sưng tím cả cánh tay. Hơi dó bốc ngạt
thở, nóng phổng thịt, mặt phù to như cái lệnh” [21;256]… Nhưng đặc sắc hơn
cả là những trang tả lễ hội “Kiệu bát cống quay tròn, bây giờ mới thật như
chiếc hoa giữa đám hội, vừa bay vừa cong cánh nở. Lòng hân hoan mong đợi
của cả nghìn người xem hội cứ thế bồng bột mãi lên. Hai mươi bốn trai kiệu,
nghe tiếng trống khẩu, một lượt quì như hai mươi bốn thớt voi rồi từ từ bò
qua, vai kiệu vẫn phẳng lừ như tường đứng. Rồi kiệu quay trên những khuôn
mặt phừng đỏ, quay đến đâu, người xem giãn ra rồi lại chụm, mỗi lúc một
đông và dồn dập. Kiệu với người quần thảo”… [20;230]; những đêm cả làng
vui bên chiếu chèo “Đêm tháng ba, trăng xuông còn lạnh. Tiếng trống chèo
bung nhóc… bung bung nhóc… sôi lên ấm áp bên kia khoanh tre. Chẳng ai
nhìn thấy ai, đoán cũng biết người xóm nào xóm nào. (…) Nhưng sàn rạp vẫn
nghìn nghịt vào như nước cuốn, có chỗ ầm ầm - đấy là đám gà chọi trai làng
cà khịa nhau. (…) Chen à, chen đi, bọn trẻ con lũ lượt chui vào như mối đùn,
37
mặt nghếch vừa đúng mép ván sàn. Sàn ván không buộc, chốc chốc lại vênh
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
lên đập bốp vào cằm một cái” [21;366]… Đẹp, độc đáo và đặc sắc, đó là
những trang tả phong tục, mà khi đó dường như đôi mắt của người kể chuyện
cứ dán chặt vào rồi sử dụng hết vốn từ mình có để viết ra sao cho hay nhất,
thật nhất.
Người kể chuyện chưa bao giờ nói rằng, đây là người Việt Nam, kia là
đất Việt Nam, nhưng ngôn ngữ địa phương, lối nói ví von, các bài thơ nôm,
lối sống dựa theo thời tiết; hình ảnh sông núi, thôn xóm; tên địa danh, tên đất,
cách đặt tên xấu cho dễ nuôi, thói quen ăn uống, các loại rau gia vị, những
nghề nghiệp chỉ ở Việt Nam mới có, tất cả đều đều nói lên rằng, đó là văn
chương của người Việt và thấm nhuần âm hưởng Việt.
* Tiểu kết: Người kể chuyện của Tô Hoài có gì đặc biệt? Không có
được sự dửng dưng như Nam Cao, triết lí sâu xa như Nguyễn Minh Châu; bay
bổng lãng mạn như Thạch Lam; cầu kì và khó tính như người kể chuyện của
Nguyễn Tuân… nhưng người kể chuyện của Tô Hoài có cái hóm hỉnh, dân dã
của người nông dân; có sự chân thật mộc mạc của các dân tộc thiểu số và đặc
biệt là thủ thỉ và sâu sắc, một người kể chuyện mang phong cách rất Việt
Nam.
CHƯƠNG 2: CỐT TRUYỆN – KẾT CẤU TỰ SỰ TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA TÔ HOÀI SAU 1945
Kết cấu là phạm trù nằm ở trung tâm những nghiên cứu có tính nội tại
về tác phẩm văn học (thi pháp học, kí hiệu học, tự sự học). Theo lí thuyết lí
luận văn học truyền thống thì kết cấu là “sự tạo thành và liên kết các bộ phận
trong bố cục tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo
thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan theo một chiều
38
hướng tư tưởng nhất định” [45;143] là “Toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
động của tác phẩm (...) không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương
quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết
bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm bao gồm: tổ chức
hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật, tổ chức những
liên kết cụ thể của các tác phẩm cốt truyện: nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu
tố ngoài cốt truyện ... sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh
thể nghệ thuật” [13]. Bản chất của kết cấu được hình dung như là “sự tổ
chức”, sự “tạo thành và liên kết các bộ phận” nghĩa là những nguyên tắc,
những cách thức liên kết các thành tố cấu thành nên một tổng thể.
Từ đó kết cấu trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá một tác
phẩm hay dở, độc đáo hay nhàm chán.
Để nghiên cứu một thể loại văn học cụ thể, người nghiên cứu phải chi
tiết hóa nội hàm khái niệm, trừu tượng để có thể ứng dụng và thao tác trên
đối tượng. Trong công trình Bình luận truyện ngắn, Bùi Việt Thắng đã chỉ
rõ “kết cấu là chiến lược, còn bố cục là chiến thuật “sắp xếp phân bố các
chương đoạn, các bộ phận các tác phẩm theo một trình tự nhất định, bố cục
là một phương diện của kết cấu” [56]. Nó bị chi phối sâu sắc bởi các phạm
trù cốt truyện và bố cục.
Để có thể có được một cách hình dung khác về kết cấu của tác phẩm tự
sự, cần rọi một ánh sáng khác vào bản chất tác phẩm. Giống như một thông
điệp ngôn ngữ là sự mã hóa của một nội dung hiện thực, một văn bản tự sự là sự
tái tổ chức một thực tại hư cấu (một cốt truyện, dù là cốt truyện hành động hay
cốt truyện tâm lí) vào một thực tại có giới hạn (một cuốn tiểu thuyết vài trăm
trang hoặc một truyện cực ngắn chưa đầy một trang in). Như vậy đương nhiên
39
cốt truyện và bố cục là những phạm trù quyết định sự tồn tại của một tự sự.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
2.1. Cốt truyện tự sự
Cốt truyện là chất liệu cơ bản quyết định sự tồn tại của tự sự (không thể
có truyện nếu không có chuyện) và bố cục phản ánh lao động nghệ thuật của
nghệ sĩ, là sự tái tổ chức cốt truyện trong thực tại ngôn ngữ (giống như cách
thức họa sĩ “gói” một phong cảnh hiện thực vào một bức tranh có giới hạn).
Cốt truyện từ đơn giản (kể chuyện theo mạch tuyến tính thời gian ở ngôi thứ
ba) đến phức tạp (xáo trộn trật tự thời gian nghệ thuật “tiêu cự”, thay đổi điểm
nhìn, phản ánh cốt truyện qua ý thức của các nhân vật khác nhau). Nghiên cứu
cốt truyện là nghiên cứu cú pháp của truyện kể.
“Cốt truyện - cửa ải gian khó của nhà văn” có lẽ đây là điều cốt tử và
khẳng định được trình độ sáng tác thực sự của nhà văn khi viết truyện ngắn.
Truyện ngắn hay nhất định phải có cốt truyện hay. “Cốt truyện là “ông ngáo
ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của họ
trong quá trình triển khai tác phẩm” [55].
E. M. Forter từng viết “Truyện là sự trần thuật về một chuỗi sự kiện
được sắp xếp theo một trình tự thời gian nào đó. Một cốt truyện hay cũng là sự
trần thuật về chuỗi sự kiện nhưng điểm nhất rơi vào quan hệ nhân quả”. Cốt
truyện chính là sự kết hợp giữa hai yếu tố: chuỗi sự kiện và cách thức tác giả
chuyển tải.
Trong hệ thống truyện ngắn của Tô Hoài sáng tác sau 1945 với hai
mảng đề tài chính: miền núi và cuộc sống của con người nơi thành thị cũ, có
đến 24/ 33 truyện ngắn có cách xây dựng cốt truyện khá đơn giản. Không
phức tạp, lắt léo, ít có những trình tự đảo thời gian, ít sự kiện quan trọng. Dù
câu chuyện bao quát cả một thời kì dài đấu tranh của một cộng đồng như Cứu
40
đất cứu mường, Mường Giơn, Những ngày đầu, Xuống làng, Tào Lường…
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
hay nói về cuộc sống của một cá nhân như Lục trong Vỡ tỉnh, Thảo trong
Thảo, A Phủ, Mỵ trong Vợ chồng A Phủ; Hải, bác Bảo trong Ngõ phố, … thì
diễn biến số phận nhân vật vẫn bám sát theo trình tự thời gian kể. Những câu
chuyện kể theo dòng hồi kí như Thào Mỵ kể đời mình; Mùa hái bông; Vượt
Tây Côn Lĩnh, cũng có cốt truyện kể theo trật tự thời gian tuyến tính. Ta thấy
chuỗi sự kiện trong các truyện ngắn là diễn ra theo các giai đoạn: giới thiệu -
đầu mối phát triển - thắt nút - giải quyết. Các truyện ngắn của Tô Hoài giải
quyết khá trọn vẹn cách xây dựng cốt truyện theo cách này.
Dùng một lối xây dựng cốt truyện khá mạch lạc, đơn giản, nhân vật
được phân rõ thành hai tuyến, truyện ngắn của Tô Hoài gần gũi với truyện dân
gian. Chính cách xây dựng này phù hợp với nội dung và nhân vật trong
truyện, tạo nên sự thống nhất thẩm mĩ và hình thức nội dung tác phẩm. Mường
Giơn là truyện ngắn có số lượng trang khá lớn 97 trang, câu truyện xoay
quanh cuộc đấu tranh giác ngộ của nhân dân Mường Giơn, tập trung diễn tả sự
đổi thay từ cuộc sống khổ cực đi dần đến sự giác ngộ Cách mạng và đưa cuộc
sống tốt hơn của gia đình ông Mờng, ông Tạ On và dân tộc Thái.
Có thể chia cốt truyện của Mường Giơn ra thành ba phần:
Phần 1: Từ đầu cho đến “Trời ơi, quân này không phải người, nó là con
thần quái đại bàng bắt người ta, rồi ính khóc” [20;121] Sạ chết và Mát bị bắt
đi làm vợ Bang Kỳ.
Phần 2: từ “Hai cái Tết buồn nữa qua rồi” [20;121] đến “Rào làng chứ
rào cái bụng người a thì mày không rào được đâu”[20;182]: Những khó khăn,
khốn khổ của nhân dân Mường Giơn đi dần đến những giác ngộ ban đầu.
Phần 3: Phần còn lại: Sự đổi thay từ cuộc sống khổ cực đi đến ấm no
41
sau khi giác ngộ.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Cốt truyện chính là kể về sự vận động đổi thay trong suy nghĩ của con
người đến sự đổi thay trong cuộc sống của nhân dân Mường Giơn và xoay
quanh gia đình trung tâm là gia đình ông Mờng. Gia đình ông Mờng có hai cô
con gái Mát và Ính. Mát và Sạ yêu nhau, Sạ trong một lần đi rừng bị đồn là bị
Tây bắn chết. Mát bị gả cho Bang Kỳ. Ở nhà chỉ còn Ính, ông Mờng và cậu
Tân. Tân còn nhỏ, ông Mờng già yếu, Tây càn liên tục, rồi những thanh niên
đi theo làm lính khố đỏ về làm khổ nhân dân. Ính với tâm hồn trong trẻo, ngập
tràn tình yêu quê hương đất nước, đã nhanh chóng tìm được con đường đi để
cuộc sống bớt khổ. Ính cùng với bố quay trở lại làng, trồng lương thực nuôi bộ
đội, giảng giải điều hay lẽ phải cho Bân, và cuối cùng khi Việt Minh tràn đến
giải phóng Mường Giơn, Ính gặp lại Sạ. Người dân Mường Giơn đã không
còn khổ cực, có lúa ăn, có thịt ăn, Tết đã ngập tràn tiếng cười. Còn Sạ và Ính
nảy nở tình yêu với nhau. Đây là cốt truyện khá đơn giản và kết thúc có hậu
như một câu chuyện dân gian.
Cốt truyện của Mường Giơn có mô hình như sau:
Cuộc sống khổ cực
Quá trình giác ngộ CM
Cuộc sống tốt đẹp hơn
Vợ chồng A Phủ, Đồng chí Hùng Vương; Tào Lường; Du kích
huyện; Đi dân công; Xuống làng; Cứu đất cứu mường; đều có mô hình cốt
truyện như trên. Chính vì sự đơn giản, và hướng vận động rõ ràng nên
mạch truyện rất chậm, ít căng thẳng, ít cao trào. Tuy đạt được sự dễ hiểu,
gần gũi khi đọc truyện, nhưng cốt truyện đơn giản lại bộc lộ rất rõ nhược
điểm: chưa làm nổi bật tính cách nhân vật, làm người đọc cảm thấy lê thê
42
thiếu sức hấp dẫn. Đọc Mường Giơn, Đi dân công, Du kích huyện, ,… mọi
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
tính cách nhân vật đều na ná nhau: bộc trực, thẳng thắn, tốt bụng, và có
một tình yêu quê hương sâu sắc.
Một số truyện ngắn khác của Tô Hoài: Vỡ tỉnh, Những ngày đầu;
Khiêng máy; Thảo; Tội làng; Khác trước; Câu chuyện bờ đầm sen đền Đồng
Cổ; Ngõ phố… dạng cốt truyện cũng đơn giản nhưng không phải theo mô
hình phát triển của quá trình tịnh tiến, mà theo mô hình phát triển diễn dịch.
Từ một sự việc khác thường, mang tính biến cố, đẩy đến những tâm tình và
những hành động của nhân vật, xoay quanh biến cố đó. Những truyện ngắn
này đi sâu vào tâm tình, các nhân vật đã có sự khác biệt về tính cách.
Khác trước, là câu chuyện có văn phong khá dí dỏm, hơi trào lộng.
Kể về cặp vợ chồng Soan và Triều. Câu chuyện đi sâu vào tình cảm. Bắt
đầu bằng trận đòn Triều đánh Soan mà không rõ nguyên cớ và Triều bỏ đi.
Sau đó, mạch truyện phát triển qua những suy tư trong lòng của Soan. Soan
ở với mẹ chồng cũng nhiều điều khó chịu, băn khoăn không biết tình cảm
của chồng dành cho mình ra sao. Rồi Soan tham gia công tác cho khuây
khoả, nhưng tại đây, Soan tìm được niềm vui mới. Khi chính quyền đã được
thành lập, Triều trở về với vai trò là anh bộ đội Việt Minh, hai vợ chồng sống
hạnh phúc và giờ họ có thêm một niềm vui chung, niềm vui đi theo Cách
mạng. Các sự việc lần lượt diễn ra. Mạch truyện phát triển theo sự phát triển
tâm tình của nhân vật Soan và vẫn đi theo trật tự thời gian.
43
Ta có mô hình cho loại cốt truyện này như sau:
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Biến cố (thay đổi hiện thực)
Suy nghĩ + hành động (1)
Suy nghĩ + hành động (2)
Suy nghĩ + hành động (3)
Hình thành cuộc sống mới
Mô hình cốt truyện này được liên kết với nhau bằng những suy nghĩ, và
tình cảm để biến đổi cuộc sống cũ thành một cuộc sống mới. Soan luôn đặt
câu hỏi về chồng, và mong ngóng sự quay về của Triều, nhưng Soan không có
lời giải đáp. Mọi việc Soan làm sau này cũng chỉ là vì tự dưng buộc phải thế.
Những truyện ngắn này, Tô Hoài đều đi sâu vào tâm tình và ở truyện nào cũng
có một vài nhân vật mang nét điển hình, tiêu biểu hẳn cho một tầng lớp người
vào một thời gian nhất định, vào một hoàn cảnh nhất định: đội trưởng tự vệ
Trường vốn là anh thợ cửi, chị cán bộ Tày mắt nâu vốn là một cô gái miền
xuôi; anh Lực “mất trí” vốn là tay quân báo gan dạ; Kể là một anh thanh niên
nghèo si tình biểu hiện mối tình thắm thiết ở ngay trong cái chết… Những cốt
truyện này đã nắm vững các nhân vật và xây dựng được không khí thời đại mà
các nhân vật sống.
Không phủ nhận trong 33 truyện ngắn sau 1945, có những cốt truyện
đơn giản nhưng lại có những cốt truyện xây dựng rất hợp lí, khiến cho chuyện
được kể để lại dư ba (Hai đứa trẻ đợi đi, Cô đào thương, Chiếc áo sườn xám
màu hoa đào, Người ven thành, Một người bạn, Câu chuyện bên bờ sen miếu
44
đồng cổ, Nước mắt, Tình buồn…).
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Cô đào thương, câu chuyện có cốt truyện đối xứng. Chuyện 1: Truyện
trên chiếu chèo; Chuyện 2: Truyện ngoài đời thật về chú bé mê chèo. Câu
chuyện trên chiếu chèo là một tích xưa khá nổi tiếng: Lưu Bình - Dương Lễ.
Chuyện Dương Lễ khích ý chí của người bạn thân bằng cơm hẩm, cà thiu và
để Châu Long, người vợ tài sắc của mình, đi hầu hạ bạn đã quá quen thuộc với
mọi người Việt Nam. Tích chèo trong truyện Cô đào thương đặc biệt đi sâu
vào nhân vật Châu Long, những nét đẹp và những u ẩn qua tiếng hát của Châu
Long, khi phải thay chồng chăm sóc bạn. Chịu nhận về mình những hi sinh,
nỗi buồn riêng để toại nguyện cho mong muốn của chồng. Cuối cùng, tích
chèo vẫn có hậu, Châu Long đoàn tụ cùng Dương Lễ, Lưu Bình hiểu ra tấm
lòng bạn mà càng trân trọng hơn tình thủ túc bao nhiêu năm.
Truyện 2: Chuyện về cậu bé mê chèo: cứ mong ngóng mãi đến giờ
chiếu chèo, mà lần nào xem cũng hồi hộp, lo lắng chỉ sợ “ông Lưu Bình lạc
đường không gặp được Châu Long thì khốn; ông Dương Lễ mất vợ về tay Lưu
Bình thì nguy” và cứ miên man mãi về nàng Ba Châu Long. Rồi sự thật về
những diễn viên xinh đẹp trên chiếu chèo cũng lếch thếch, nhếch nhác ngoài
đời làm chú bé buồn bã và xót thương. Hai truyện cân xứng với nhau, đối
chiếu cho nhau. Câu chuyện có hậu trên chiếu chèo là “ước mong được tái
hợp” bao năm của mẹ chú bé, chỉ mong cha chú trở về đoàn tụ mà không
được. Và ngầm ý sâu xa của truyện ngắn chính là sự thiệt thòi của những
người phụ nữ. Nàng Ba Châu Long cũng chịu nhiều thiệt thòi, mẹ chú bé cũng
vậy, và diễn viên đóng vai nàng Ba thì lam lũ cực nhọc hơn nhiều. Câu
chuyện để lại dư ba sâu lắng đến khi đọc hết dòng cuối cùng.
Hai đứa trẻ đợi đi, cốt truyện cũng có hai chuyện: chuyện của Bi và Vồ.
45
Song hai chuyện này không đối xứng mà song song với nhau, làm sáng rõ cho nhau.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Người ven thành, cốt truyện có sự đảo trật tự thời gian là sự đồng
hiện giữa quá khứ và hiện tại. Câu chuyện về ông nội ông Đô quyết tâm
theo quan Ba đánh giặc. Câu chuyện hiện tại về chính ông Đô. Ông Đô
ngày ngày kể chuyện cho tụi trẻ, và câu chuyện vẫn quanh quẩn chỉ về gia
đình ông trong quá khứ. Ông đi bắt chim, bẫy chuột làm thú vui hàng
ngày, nhưng “đùng một cái” đồn Pháp bị nổ; ông Đô hả hê lắm vì chính
ông là tác giả của vụ nổ đấy. Trong kháng chiến chống Mĩ, ông lại bắt
được thằng lái Mĩ. Ông gô cổ thằng Tây bằng cái thừng và “Sướng quá, cụ
Đô quát to: Gét ớp!. Thằng tù giật mình, ngớ ngẩn, rồi cong cái lưng dài,
lom khom đứng. Cụ Đô càng sướng hăng, lại quát: Gâu!. Thằng Mĩ giật
thót, bước lò dò. (…) Cụ Đô ngửa mặt cười khớ khớ...” [21;227]. Sự đồng
hiện giữa quá khứ, hiện tại để chứng minh một điều: truyền thống gia
đình, truyên thống dân tộc: chính là lòng yêu nước, yêu quê hương sâu
sắc. Ông Nội ông Đô; bố ông Đô, giờ là ông Đô đều lập được chiến công
trong kháng chiến. Và ông Đô rồi thành cụ Đô đang tiếp tục làm công việc
giáo dục những đứa trẻ của làng mình biết quý truyền thống đó để đứng
lên bảo vệ tổ quốc. Tình buồn, Hoa bìm biển có dạng cốt truyện đảo trật tự
thời gian, các mảng hiện thực đan xen nhau.
Trong số truyện của Tô Hoài có kiểu truyện ngắn biến thể: truyện ngắn
- nhật kí (Vượt Tây Côn Lĩnh); truyện ngắn - hồi ức (Thào Mỵ kể đời mình;
Mùa hái bông). Vượt Tây Côn Lĩnh là câu chuyện về cuộc hành quân vượt qua
đỉnh núi Tây Côn Lĩnh của Hoàng Sa Phìa. Cả câu chuyện được nối lại với
nhau bằng những suy nghĩ của người đại đội trưởng. Giống như đang đọc nhật
kí chứ không phải là đọc một câu truyện ngắn. Cao trào, xung đột hay những
46
khoảnh khắc vui mừng, buồn bã, sợ hãi đều được viết thông qua cảm xúc của
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
nhân vật xưng tôi, chúng tôi trong hồi kí. Tính chất hồi kí, nhật kí giúp cho sự
sắp xếp các chi tiết được linh hoạt hơn và tạo độ tin cậy tối đa cho người đọc.
Bác Niệm, Chuyện cũ, Cối, cối ơ!, Một người bạn, Con ngựa Có dạng cốt
truyện mang tính chất hồi kí, nhật kí.
2.2. Kết cấu tự sự
Nếu cốt truyện là chất liệu cơ bản quyết định sự tồn tại của tự sự
“không thể có truyện nếu không có chuyện”, bố cục phản ánh lao động nghệ
thuật của nghệ sĩ. Nghĩa là sự tái tổ chức cốt truyện trong thực tại ngôn ngữ
(giống như cách thức họa sĩ “gói” một phong cảnh “hiện thực” vào một bức
tranh có giới hạn) từ đơn giản (kể chuyện theo mạch tuyến tính thời gian ở
ngôi thứ nhất) đến phức tạp (xáo trộn trật tự thời gian, nghệ thuật tụ tiêu, thay
đôi điểm nhìn, phản ánh cốt truyện qua ý thức của nhân vật khác nhau).
Nghiên cứu bố cục là nghiên cứu cú pháp của truyện kể. Bên cạnh trục phân
tích ngữ pháp còn tồn tại một số trục phân tích kết cấu tự sự khác. Bản chất
lao động của người viết tự sự không chỉ gói gọn trong việc sắp xếp các tình
tiết của cốt truyện thành một văn bản tự sự. Nhà văn phải lựa chọn cho mình
một “chiến lược trần thuật” trong việc tổ chức những điểm nhìn nghệ thuật
phải tổ chức và phối hợp các không gian tồn tại của hiện thực (các kiểu không
gian nghệ thuật). Phải bố trí, sắp đặt các tình tiết và sự xuất hiện các tình tiết,
phải làm chủ thời gian nghệ thuật của văn bản, tạo ra độ căng cho trần thuật
bằng các dòng sự kiện hoặc tạo ra các điểm dừng trần thuật bằng các đoạn
miêu tả, các đoạn đan xen các cảnh độc thoại nội tâm hoặc đối thoại, các
trường đoạn phân tích tâm lí. Kết cấu không chỉ là sự sắp đặt các tình tiết sự
kiện mà bao hàm cả việc sử dụng tổ chức và phối hợp các kĩ thuật trần thuật
47
để tạo nên một công trình mang dấu ấn của sáng tạo của người nghệ sĩ.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
2.2.1. Các kiểu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài
Ngay trong giai đoạn sơ khởi của mĩ học và lí luận văn học phương
Tây, Ariston đề cao thể loại mang tính bắt chiếc, mô phỏng thuần túy mà đỉnh
cao là bi kịch. Trong khi đó Platon lại đề cao những thể loại có tính kể, trần
thuật mà điển hình là các anh hùng ca của Homere. Từ đó mô phỏng, bắt chiếc
và kể trần thuật trở thành những phạm trù có ý nghĩa nòng cốt của mĩ học
và lí luận văn học phương Tây được sử dụng cho đến tận ngày này. Những
khái niệm này đặc biệt có ý nghĩa trong nghiên cứu tự sự học. Nó chỉ ra
hai hành vi có tính bản thể của bất cứ một tự sự nào: kể và tả, hay chính
xác hơn, tái tạo, tái hiện.
Là một trong ba phương thức sáng tạo văn học chủ đạo (tự sự, trữ tình,
kịch), bản chất của một tự sự là một hành vi kể nghĩa là tái tạo lại tạng một
diễn ngôn, một chuỗi hành động và biến cố diễn ra trong một không gian và
một thời gian xác định qua khúc xạ ý thức của một nhân vật hư cấu. Tuy
nhiên, trong quá trình trần thuật, người kể chuyện thường phải đi ra ngoài
hành vi có tính bản thể của mình. Anh ta phải tái hiện lại những dấu hiệu của
không gian bối cảnh nơi câu chuyện diễn ra, phải dựng lên các chân dung
nhân vật và đan xen vào diễn ngôn những phát ngôn (đối thoại, độc thoại, độc
thoại nội tâm) của nhân vật. Như vậy những kĩ thuật của kịch, của trữ tình đều
được sử dụng trong tự sự. Lịch sử tự sự của các dân tộc trên thế giới đã chứng
tỏ con đường đi của tự sự dẫn từ một thể loại trần thuật thuần túy sang một thể
loại vừa trần thuật vừa mô phỏng, thậm chí chỉ trần thuật thuần túy mô phỏng.
Với cách hiểu đó, ta mới hiểu hết những tuyên ngôn về truyện ngắn, tiểu
thuyết như “Tiểu thuyết đó là một cái gương mà người ta kéo đi dọc đường.”
48
“Truyện ngắn là một lát cắt của cuộc sống”. Từ đó cung cấp cho ta công cụ lí
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
luận để phân tích kết cấu tự sự của truyện ngắn Tô Hoài sau 1945: trần thuật
thuần túy và trần thuật kịch hóa. Bên cạnh hai phương thức trần thuật thuần
túy và trần thuật kịch hóa, trong các giai đoạn phát triển tiếp theo của văn học,
xuất hiện một phương thức thể hiện nữa là “trữ tình” từ đó xuất hiện phương
thức trần thuật thơ hóa. (Song trong các sáng tác của Tô Hoài sau 1945,
phương thức trần thuật này không được sử dụng).
Một trong những đơn vị kết cấu dùng để quy chiếu và phân loại các
kiểu kết cấu truyện ngắn Tô Hoài là khái niệm cảnh. “Cảnh là một khái niệm
có nguồn gốc từ nghệ thuật sân khấu ở phương Tây. Trong kịch nói, cảnh là
đơn vị kết cấu lên một vở kịch có các hồi đánh dấu bằng những dấu hiệu hoặc
sự ra đi của nhân vật.
Cảnh là một hành động liên tục và phát triển, cấu thành nên một tổng
thể và bản thân nó là thành phần của một chuỗi hành động chung. Cảnh là một
mảnh hoàn chỉnh và độc lập của một toàn thể. Tùy vào nội dung hành động
của trung tâm cảnh mà người ta chia ra thành cảnh có tính trữ tình và tính
kịch” [58].
2.2.1.1. Trần thuật thuần túy
Trần thuật thuần tuý là sự tái hiện một chuỗi các hành động thoáng qua
về cuộc đời của con người mà không dừng lại để tái hiện một hành động chủ
yếu nào cả. Khái niệm cảnh không hề xuất hiện trong kiểu trần thuật này. Ta
gặp kiểu trần thuật này trong Thào Mỵ kể đời mình. Dung lượng truyện ngắn
dài 15 trang văn bản có 5 đoạn tương ứng với 5 khúc trong cuộc đời của Thào
Mỵ từ khi lên mười phải lấy chồng cho đến khi vào Đảng. Thào Mỵ được cha
mẹ gả đi lấy chồng mà chưa hề biết mặt chồng, rồi tự tự (không chết); sau đó
49
sống mòn mỏi, rũ rượi và bị gia đình chồng ghét bỏ trong nhiều năm. Vì khổ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
cực quá bỏ đi theo Cách mạng. Không có một hành động nào được tái hiện
đặc biệt, mà tất cả các sự kiện trôi đi lặng lẽ. Giọng điệu đều đều, dàn trải.
Truyện kể mang tính miêu tả và tái hiện rất rõ. Mùa hái bông cũng mang dạng
thức trần thuật này.
2.2.1.2. Trần thuật kịch hóa
Đây là dạng trần thuật phổ biến trong truyện ngắn Tô Hoài. Có tới 29
truyện trên tổng số 33 truyện, chiếm 87%. Đối lập với cách trần thuật thuần
tuý là sự liệt kê hành động, trần thuật kịch hoá lại được xây dựng dựa trên kết
cấu kịch: có nhiều cảnh nối tiếp nhau.
Có hai truyện gồm một cảnh: Sầm Sơn, Chiếc áo xường xám màu hoa
đào. Hai truyện ngắn này toàn bộ trần thuật được cấu tạo nên một hành động
tiếp diễn duy nhất, trong một không gian giới hạn; một thời gian nhất định.
Sầm Sơn là cuộc nói chuyện của Chu và Liu Sa trong một đêm trăng sáng trên
biển. Chiếc áo “xường xám” màu hoa đào, là cuộc trò chuyện của nhân vật
“tôi” với lão Mã Hợp, bà lão Phảy trong căn nhà của ông bà về cuộc đời của
hai người vào buổi tối.
Đối lập với hai truyện ngắn này là các truyện ngắn có hình thức trần
thuật nhiều lớp cảnh: Đồng chí Hùng Vương; Tào Lường; Du kích huyện; Đi
dân công; Xuống làng; Cứu đất cứu mường; Mường Giơn; Vợ chồng A Phủ;
Vượt Tây Côn Lĩnh; Vỡ tỉnh, Những ngày đầu, Khiêng máy, Thảo, Tội làng,
Khác trước, Người mất trí, Ngõ phố, Người ven thành, Câu chuyện bờ đầm
sen đền Đồng Cổ, Bác Niệm, Hai đứa trẻ đợi đi, Chuyện cũ, Một người bạn,
Chuyện để quên, Cô đào thương, Tình buồn, Nước mắt, Con ngựa.
Con ngựa, Cối, cối ơ, Một người bạn là những truyện ngắn mà các cảnh
50
có kiểu quan hệ đối chiếu. Cả ba truyện ngắn này đều được kể dưới điểm nhìn
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
của người trần thuật xưng “tôi” (ngôi thứ nhất). Con ngựa là cuộc đời đầy
mưu toan, khôn lỏi nhưng cuối cùng vẫn chết thảm của Nguyễn Văn Ếp (tức
Trần Hùng) được tái hiện thông qua ý thức của nhân vật người kể chuyện.
Toàn bộ truyện ngắn là sáu cuộc gặp gỡ. Trong cuộc gặp gỡ thứ nhất, trong
con mắt của nhân vật “tôi”, Ếp là một người khá háo danh, ngay cả cái tên bố
mẹ đặt cho cũng chối bỏ, tự đổi tên là Hùng Thắng và là một kẻ nhát gan,
khôn lỏi, “cứ sắp ra trận thì y như rằng đau bụng kêu khóc lâm li” (Sự tha hoá
lần 1). Trong lần gặp thứ hai, khi mà những mưa bom, bão đạn không giết
được Ếp và kỉ luật thép của quân đội đã không phát hiện ra sự hèn nhát của
Hùng Thắng. Hùng Thắng trở thành tiến sĩ Trần Hùng, cặp kè bên cạnh là một
cô gái xinh đẹp. Nhưng điều đáng nói hơn là sự nói dối trắng trợn từ tên tuổi,
bằng cấp dù “thằng Ếp ngày trước mù chữ” vậy mà “thi được bằng, mà bằng
đỏ - ai biết sự thể thì nói mỉa “bằng hữu nghị”, “bằng thuê”. Nhưng xấu hổ
hơn là Trần Hùng chối bỏ hoàn toàn xuất thân nghèo khó của gia đình mình.
(Sự tha hoá lần thứ 2). Trong lần gặp thứ ba: “tôi” gặp Trần Hùng trong bệnh
viện bị áp xe nặng. Bệnh tật dường như là sự trừng phạt đầu tiên của số phận,
là sự cảnh báo về sự sa đoạ nhưng Trần Hùng vẫn thế, cứ trơ trơ và không hề
quan tâm gì (Sự tha hoá lần 3). Lần gặp thứ tư, tại nhà của Trần Hùng khi
Trần Hùng mới khỏi bệnh. “Căn nhà tuyền toàng chẳng một chút của nả đáng
tiền”. Lúc này “tôi” so sánh rồi tự hỏi, bằng cấp, quyền lực, tiền tài, đều có cả,
vậy mà Trần Hùng không có gì cho gia đình mình. Trần Hùng vẫn giọng
khinh khi, coi thường, trắng trợn đầy cợt nhả, dường như bệnh tật không làm
cho Trần Hùng suy nghĩ lại (Sự tha hoá lần 4). Truyện ngắn kết thúc bằng
cuộc gặp gỡ của “tôi” với một người đã chết “Trần Hùng”. “Ngày hôm ấy,
51
đám ma. Chẳng có ai, chỉ một mình Nhâm và ba thằng con. Với tôi (…) ở
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
trong làng, khi đặt người chết vào xăng, trước lúc đóng cái áo quan, người ta
phải gọi đúng tên cúng cơm, không trúng tên thì hồn người chết không biết
chỗ vào. Rồi tôi sốt ruột không yên. Tôi trèo lên, cũng chỗ gốc cây sấu ấy.
Tôi che hai tay lên miệng làm loa, tôi gọi to ra bốn phía – như ở làng vẫn
hú hồn hú vía người chết lúc áo quan đương đóng cá.
- Ba hồn bảy vía Nguyễn Văn Ếp! Ba hồn bảy vía Nguyễn Văn Ếp ở
đâu thì về nhập quan! Ba hồn bảy vía Nguyễn Văn Ếp…” [21;493]. Sự lạnh
lẽo của đám ma, và đến tận khi chết, nhân vật chính mới được gọi đúng bằng
cái tên của mình. Sự bi thảm của cuộc đời không phải do ai tạo ra mà do chính
Trần Hùng lựa chọn. Lối sống đồi truỵ, suy nghĩ lệch lạc đã đẩy cuộc đời nhân
vật đi vào những bi kịch. Giữa sáu lần gặp là những khoảng tâm trạng, những
suy nghĩ mông lung, khiến cho thời gian bị tỉnh lược, nó tạo nên những quãng
ngưng nặng nề, bi thảm của tự sự.
Đồng chí Hùng Vương, Vỡ tỉnh, Khiêng máy; Thảo; Tội làng; Khác
trước; Vợ chồng A Phủ; Ngõ phố; Người ven thành; Nước mắt… là những
truyện ngắn mà các cảnh có mối quan hệ nhân quả. Hiệu ứng của cảnh này sẽ
đẩy đến sự xuất hiện và hình thành của cảnh khác.
Vợ chồng A Phủ, truyện ngắn có kết cấu tiêu biểu cho mối quan hệ này.
Truyện ngắn gồm có sáu cảnh chính (được đánh số) như sau:
(1) Cảnh Mỵ làm dâu: lầm lũi quanh xó nhà, ở lâu trong cái khổ Mỵ quen rồi;
(2) Cảnh ngày Tết: Mỵ uống nhiều rượu vì buồn và vì muốn đi chơi ngày Tết.
(3) Cảnh Mỵ bị A Sử “nắm lấy thắt lưng trói tay Mỵ. Xách cả một thúng sợi
dây ra trói đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỵ xoã xuống, nó quấn luôn tóc vào cột
52
nhà làm cho Mỵ không cúi đầu được” [20;204]
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
(4) Cảnh A Phủ bị bắt sống, trói gô chân tay lại vì tội A Phủ đánh A Sử. A
Phủ bị phạt vạ, và phải làm con ở cho nhà Thống lí Pá Tra
(5) Cảnh A Phủ làm mất bò rồi bị phạt trói, bỏ đói. Đêm đêm, khi nghe tiếng
thổi lửa của Mỵ, A Phủ mở mắt. “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại. Thấy tình cảnh thế, Mỵ lại nhớ lại đêm Mỵ bị A Sử
trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ,
không lau được” [20;213]. (Cảnh trung tâm)
(6) Cảnh hai người bỏ chạy: Mỵ cởi trói cho A Phủ “A Phủ bỗng khuỵ xuống
không bước nổi. Nhưng nghĩ đến cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật
sức vùng lên, chạy. Mỵ đứng lặng trong bóng tối. Bỗng Mỵ cũng vụt chạy ra”
[20;214]
(7) Cảnh gặp gỡ với cán bộ A Châu rồi kết làm anh em;
(8) Cảnh vợ chồng A Phủ theo du kích chạy trốn lên vùng Phìn Sa.
Ta có sơ đồ mối quan hệ giữa các cảnh như sau:
Cảnh (1)
Cảnh (2)
Cảnh (3)
Cảnh (6)
Cảnh (4)
Cảnh (5)
Cảnh (7)
Cảnh (8)
Sơ đồ: Mối quan hệ giữa các cảnh trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
53
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Cảnh (1) là nguyên nhân dẫn đến cảnh (2): Mỵ sống lầm lũi và quen với
nỗi khổ cả về thân xác lẫn tinh thần, Mỵ không còn tự thấy mình là con người
nữa. Vì buồn, khổ, nên Mỵ uống thật nhiều rượu. Trong cơn say, con người
khao khát yêu cuộc sống, khao khát tình yêu trong Mỵ mới được đánh thức.
Và Mỵ muốn đi chơi.
Cảnh (2) là nguyên nhân của cảnh (3): Mỵ chỉ là con ở trong nhà thống
lí Pá Tra nên không có quyền tự quyết định cuộc sống của mình. A Sử, là một
người ích kỉ, thấy Mỵ muốn được đi chơi, nên đã trói Mỵ, hành hạ Mỵ.
Đến cảnh (3) thì mạch truyện chuyển sang nhân vật A Phủ.
Cảnh (4): Cảnh A Phủ bị bắt sống vì tội đánh A Sử, như thế, A Phủ phải ở
lại để làm con ở gán nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên nhân này dẫn đến khi
làm mất một con bò, A Phủ bị hành hạ, trói, đánh và bị bỏ đói trong cảnh (5).
Cảnh (5) và cuộc độc thoại nội tâm của Mỵ chính là cao trào của câu chuyện
Cảnh (3) và cảnh (5) có chung hoàn cảnh, chung cảnh ngộ. Chính vì thế
nên cảnh (3) trở thành nguyên nhân đẩy đến sự giải thoát A Phủ ở cảnh (6).
Mỵ hằng đêm ra thổi lửa và thấy người bị trói giống hệt mình. Mỵ nghĩ, không
thể để cho người đó chết oan uổng như mình được. Phải cứu lấy anh ta. Đây là
giai đoạn cởi nút.
Cảnh (1), cảnh (2), cảnh (3), cảnh (4), cảnh (5); đều trở thành nguyên
nhân để thúc đẩy cảnh (6) diễn ra. A Phủ sau khi được cởi trói thì cảm tưởng
như không đi nổi, nhưng vì cái chết đang đến gần, ở lại là chết, A Phủ vùng
đứng lên, chạy. Mỵ cũng thế, sự lầm lũi quanh năm không ngẩng đầu lên làm
người, sự hành hạ về thể xác và đêm hội mùa xuân đã đánh thức bản năng,
54
khát khao được sống của Mỵ nên Mỵ cũng vùng bỏ chạy.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Cảnh (6) là tập trung giải quyết mâu thuẫn của toàn truyện vì thế nó
chính là nguyên nhân để dẫn đến cảnh (7): A Phủ gặp A Châu, và kết làm anh
em với mong muốn sẽ không còn khổ, không còn sợ thằng Tây nữa.
Cảnh (7) chính là cơ sở dẫn đến cảnh (8): A Châu chính là người dẫn
đường, là người đưa vợ chồng A Phủ giác ngộ với Cách mạng. Vì thế, A Phủ
theo du kích để tự bảo vệ cuộc sống của mình, bảo vệ quê hương và bắt đầu
cuộc sống mới.
Các truyện ngắn còn lại có mối quan hệ giữa các cảnh là mối quan hệ hỗn
hợp. Nó vừa là nhân quả, nhưng cũng là mối quan hệ tương đồng, tương liên.
Trên đây là hai phương thức trần thuật hiện diện trong truyện ngắn của
Tô Hoài mà người viết có thể cảm nhận, chỉ ra được. Những trường hợp phân
tích là những trường hợp mang tính điển hình. Tuy nhiên, trên thực tế tác
phẩm, trong nhiều trường hợp đã có sự pha trộn các hình thức kết cấu và
đương nhiên trên đây chỉ là một cách phân loại.
2.2.2. Tổ chức hành động trong truyện ngắn Tô Hoài
Truyện ngắn, là lát cắt ngang của cuộc sống, là tấm kính lồi soi vào
cuộc đời. Vì thế kết cấu của truyện ngắn không thể bỏ qua phương thức phân
cảnh. Bản chất của thơ ca là những vận động có tính quy hồi thì bản chất của
văn xuôi tự sự là sự vận động theo đường thẳng, là sự biến đổi. Yếu tố làm
nên một trần thuật chính là đường dây sự kiện, những hành động và những
biến đổi từ góc nhìn đó, nghiên cứu tự sự không thể bỏ qua phạm trù tình
huống.
Tình huống là yếu tố quyết định sự vận động của đường dây cốt truyện.
55
Cần phân biệt giữa tình huống và phương thức mở đầu và kết thúc.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Mở đầu và kết thúc là giới hạn của một văn bản tự sự, nó là một kỹ
thuật viết, tùy thuộc vào khả năng, ý đồ của người viết mà sẽ có những mở
đầu và kết thúc khác nhau. Tình huống lại là yếu tố thuộc bình diện cốt truyện,
nó quyết định sự vận động của nội dung cốt truyện. Một truyện ngắn hay không
thể thiếu tình huống. “Truyện ngắn có cái này quan trọng: đó là cái trong tiếng
Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga… người ta gọi và bây giờ văn học các nước đều gọi là
mô-măng (moment), dịch nguyên văn bản tiếng ta là “chốc lát” … Truyện ngắn
không phải là truyện dài tóm tắt, ta còn chưa tìm ra được cái mô-măng ấy thì còn
chưa viết được truyện ngắn. Mà suy ra nó là chủ đề đấy thôi, có nó thì truyện có
chủ đề… Nhà văn phải vận dụng những suy nghĩ của mình, sự lịch lãm của mình,
vốn sống của mình, tự mình tạo ra những mô-măng, trong mỗi mô-măng đó là
châu tuần lại những con người vốn xa cách nhau, cho họ tham gia vào chủ đề anh
hằng suy nghĩ, từ sự tham gia đó và những quan hệ giữa họ với nhau, sẽ xảy ra
tính cách của họ. Đây là cách đặt những con người vào tình huống” (Nguyễn
Thành Long). Được hiểu như một trạng thái khởi đầu quyết định sự vận động của
cốt truyện, có thể hình dung ra hai dạng tình huống truyện: Tình huống truyện hàm
chứa xung đột, tình huống truyện thiếu vắng xung đột.
Truyện ngắn sau 1945 của Tô Hoài rất ít truyện bắt đầu bằng tình huống
thiếu vắng xung đột. Trường hợp của truyện ngắn Sầm Sơn là một điển hình.
Sầm Sơn được khởi đầu bằng cuộc đi dạo của đôi thanh niên trong khung cảnh
yên bình của đêm trăng trên biển. Tự sự bắt đầu bằng những đoạn tả khung
cảnh thật yên bình, mĩ lệ “Giải cát dài tít xa lên tận cửa sông Mã (…) Biển
đêm không còn ai. Trên bờ cũng hết người đi dạo. Chỉ có hai người ấy. Khi họ
đi ra tới giữa bãi cát sáng trăng bóng nước và ánh trăng thì trông rõ cả hai
56
người” [20;268] và tự sự cứ chầm chậm trôi. Không có sự xáo trộn những
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
xung đột, chỉ có con người và cảnh vật. Sự thanh bình, yên ả của biển đêm
khiến cho lòng người tĩnh lặng. Quá khứ đau buồn vẫn âm ỉ, nhức nhối, nhưng
tất cả đã qua, giờ chỉ có hai người và biển khơi. Không có độ căng của tự sự.
Chỉ có “Trăng đã lên cao, xoè tròn như chiếc quạt sáng. Rì rào, sóng liếm chân
người đi.(…) Tiếng cười nhẹ nhàng của Liu Sa, ru vào vắng lặng đêm Sầm
Sơn càng khuya càng mênh mông mãi ra. Cô thiếu nữ Mèo Trắng và người
cán bộ cũ ở trên núi còn đi dọc biển, đến lúc trăng trong lắm, mới trở lại”
[20;276].
Đối lập với dạng tình huống không hàm chứa xung đột là những tình
huống truyện xuất hiện ngay từ đầu đã tích tụ xung đột: sự bế tắc, sự cùng quẫn,
sự khó khăn và tình thế nhân vật phải đương đầu giải quyết. Dạng tình huống
này xuất hiện hầu hết trong truyện ngắn của Tô Hoài. Trong những truyện ngắn
về đề tài miền núi, có một dạng tự sự bắt đầu bằng một dạng tình huống giống
nhau, đưa nhân vật vào trong cục diện của các trận càn, các nhiệm vụ của kháng
chiến, từ đó buộc nhân vật phải bộc lộ tính cách, trí tuệ, sự hiểu biết để giải
quyết công việc và nhiệm vụ đề ra. Đối với những truyện ngắn viết về cuộc
sống vùng ven đô với những người nông dân chân chất, tình huống truyện lại
bắt đầu bằng những mâu thuẫn trong cuộc sống: hai đứa trẻ con lai trong chiến
tranh đang chờ đợi sự sắp xếp tương lai (Hai đứa trẻ đợi đi); cuộc gặp gỡ giữa
những người xưa cũ (Hoa bìm biển); những éo le của sự đời, làm biến đổi cuộc
sống, tính cách của con người (Một người bạn, Cối, cối ơ; Con ngựa).
Vợ chồng A Phủ, Tình buồn là những truyện ngắn tiêu biểu cho dạng
tình huống này. Đáng chú ý là các truyện này đều được mở đầu ngay từ đoạn
giữa của tự sự. Vợ chồng A Phủ được mở ra bằng một giọng kể êm ru “Ai ở xa
57
về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi công tác dưới khe suối lên, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi” [20;198]. Một thế giới hứa hẹn nhiều sức gợi
cảm, qua một bức chân dung thiếu phụ buồn. Thế giới của nhân vật tù đọng,
cuộc sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, căn buồng chỉ có một của sổ
lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết
là sương hay là nắng” [20;199]. Một thiếu phụ buồn quanh năm, bị hành hạ cả
về thể xác và tinh thần, không còn có cảm thức làm người, và quên đi những
cảm nhận niềm vui, nỗi buồn của con người khiến cho truyện ngắn phủ một
màu âm u, bế tắc.
Tình buồn, tự sự bắt đầu bằng một loạt những lời dẫn dắt về cuộc sống
của bà cụ Tứ, từ khi mới đi lấy chồng nhiều thị phi, đến khi thành một bà lão
già lẩm cẩm hay ăn vụng. Tình huống mở ra bằng sự việc bà lão Tứ ốm không
dậy được “Nhà có người ốm cứ buồn thiu như ngày mưa dầm” và trong lúc
đau ốm đấy, bà lão mới nhờ anh con trai làm một việc cho mình, tìm ông cả
Cõi bên làng Giang Hạ. Sự ảm đạm của không gian, sự lặng lẽ của con người,
nỗi đau ốm bao trùm làm cho không gian truyện phủ một màu bí ẩn. Phải có
truyện gì đó thì bà lão mới nhờ vả như vậy? Có bao điều bí ẩn sau lời nhờ vả
đó. Tình huống tạo ra những khúc mắc lớn nơi người đọc.
Đây là những kiểu trạng thái giống như bầu trời đang tích tụ mây đen, u
ám báo hiệu một cơn mưa lớn. Những éo le, những mẫu thuẫn, những buồn tủi
hứa hẹn nổ ra những xung đột, những bí ẩn thú vị giữa người với người, giữa
người với hoàn cảnh.
Nếu như tình huống là sự khởi đầu của tự sự, quy định sự vận động của
58
cốt truyện thì biến cố là yếu tố mang tính định tính cho sự vận động của
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
cốt truyện. Tình huống giống như một tập hợp tính chất hình thành nên
một không gian thì biến cố có ý nghĩa là một sự kiện đặc biệt, một lực tác
động vào không gian đó để tạo nên sự thay đổi.
Trong số truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945, có ba truyện (Bác Niệm,
Hai đứa trẻ đợi đi, Sầm Sơn) là những truyện ngắn được xây dựng trên sự
thiếu vắng biến cố. Mỗi tình huống truyện chính là một biến cố. Truyện ngắn
Hai đứa trẻ đợi đi bắt đầu bằng khung cảnh của một khách sạn ba sao với số
phận của hai đứa trẻ lai Mỹ (Bi và Vồ). Cả hai đứa đều là con lai của lính Mỹ
bỏ lại sau chiến tranh. Mẹ bỏ chúng lập gia đình khác, để chúng ở lại với bà
ngoại. Không gian sang trọng của khách sạn với những tiện nghi hiện đại, cơm
ngon, quần áo đẹp và bộ đồ chơi đoàn tầu xanh mà tuổi thơ của Bi và Vồ
không hề có, nhưng chính nơi này, số phận của hai chú bé thay đổi. Chúng
phải xa rời căn nhà thân yêu của bà ngoại, xa rời cái tủ kính bán thuốc, và xa
cả tình cảm bà cháu để đến một nơi xa lạ. Không gia đình, không người thân,
hai chú bé tự chơi với nhau, tự an ủi động viên lẫn nhau. Các công đoạn để
đưa hai đứa trẻ sang Mỹ đang được thực hiện, còn hai đứa trẻ không quan tâm
chỉ “đứng trên cửa sổ nhìn ra sông” tìm ngoại, “Bi nói nếu Bi trông thấy ngoại
thì cả Bi với Vồ cùng chạy xuống, trốn đi với ngoại. Hai đứa cứ ngong ngóng”
[21;292]. Hành động của hai đứa trẻ trở nên bất thường, chúng muốn chạy
trốn khỏi sự giàu sang sung sướng mà người bố Mỹ sẽ cho chúng để trở về với
sự khó nhọc, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc của bà ngoại. Một phần cuộc
sống lộ ra. Hoá ra, công ơn sinh thành không thể bằng công ơn dưỡng dục, dù
là người Việt gốc hay người lai thì tình người vẫn được đề cao. Khao khát
muốn quay về được sống trong vòng tay yêu thương của bà đã khiến đứa trẻ
59
bỏ trốn “Ô tô chở hai đứa trẻ về đến chỗ có đường rẽ vào chợ Phú Nhuận,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chẳng biết thằng Bi trông thấy ngoại hay chỉ là một người giống ngoại nó, nó
la to: Ngoại! Ngoại! Rồi xô cửa xe toang ra, nhảy đại xuống đường” [21; 293].
Sầm Sơn cũng được xây dựng như vậy, toàn bộ truyện ngắn là một biến
cố. Một cuộc đi dạo. Trong cuộc đi dạo đó, Chu và Liu Sa đi từ không gian
của biển Sầm Sơn trở về không gian của núi rừng nơi Liu Sa sống. Mỗi câu
nói, mỗi hành động, mỗi suy nghĩ đều biến đổi. Từ sự buồn bã đi đến niềm
vui, từ sự cô đơn trở về với niềm ấm áp… Cách tổ chức tình huống chính là
biến cố truyện đã khiến cho cả hai truyện ngắn này tuy được tổ chức trần thuật
dưới dạng kịch hoá nhưng lại là những truyện ngắn đậm tâm trạng, nhẹ nhàng
và để lại dư âm.
Thơ là sự xảy lặp của những xúc cảm, những hình ảnh lập đi lặp lại thì
văn xuôi là một thứ ngôn ngữ mạch thẳng - ngôn ngữ của sự vận động và thay
đổi. Số lượng không nhỏ truyện ngắn sau 1945 của Tô Hoài được xây dựng
trên cơ sở các biến cố. Có 27/33 truyện ngắn xây dựng trên kiểu biến cố này
(Đồng chí Hùng Vương; Tào Lường; Du kích huyện; Đi dân công; Xuống
làng; Cứu đất cứu mường; Mường Giơn; Vợ chồng A Phủ; Vượt Tây Côn
Lĩnh; Mùa hái bông; Thào Mỵ kể đời mình; Vỡ tỉnh, Những ngày đầu; Khiêng
máy; Thảo, Tội làng; Khác trước; Người mất trí; Ngõ phố; Người ven thành;
Câu chuyện bờ đầm sen đền Đồng Cổ; Chuyện cũ; Chuyện để quên; Tình
buồn; Nước mắt). Vấn đề là vai trò, chức năng của biến cố trong tổng thể cấu
trúc tự sự . “Tình huống hình thành một thứ không gian ngữ nghĩa quyết định
sự tồn tại của nhân vật, biến cố là lực tác động lên không gian ngữ nghĩa đó”.
[58]
Tự sự vốn là quá trình vận động và biến đổi cuộc đời của nhân vật. Ý
60
nghĩa xa xưa, cổ điển của biến cố là có vai trò tác động vào không gian ngữ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
nghĩa ban đầu làm biến đổi không gian - khiến cho nhân vật vượt ra khỏi
không gian đó đạt tới một trạng thái tồn tại khác. Ta có mô hình như sau:
Trạng thái khởi đầu – Biến cố – Trạng thái kết thúc.
Cứu đất cứu mường là truyện ngắn tiêu biểu cho kiểu kết cấu này.
Truyện ngắn được xây dựng dựa trên cốt truyện có trình tự sự kiện theo diễn
biến thời gian và tổ chức trần thuật theo kiểu kịch hoá với 6 cảnh chính: Cảnh
1: Cảnh nhộn nhịp ngày mùa của những người đồng bào phía Tây Mường Cơi;
Cảnh 2: Cuộc gặp gỡ giữa Nhấn và cán bộ Sơn, Nhấn kể về cuộc đời bất
hạnh của mẹ mình (bà Ảng); Cảnh 3: Nhấn quyết định xuống đón bà Ảng
lên Mường Cơi sống. Cảnh 4: Bà Ảng bị chầu Cầm Vàng giết hại. Cảnh 5:
Nhấn báo thù cho mẹ; Cảnh 6: Nhấn đi theo cán bộ làm du kích. Truyện
ngắn là cuộc hành trình đi từ cuộc sống đau khổ của Nhấn, bà Ảng, ông
Sênh và những đồng bào ở Mường Cơi. Tình huống xảy ra là cuộc gặp gỡ
giữa Nhấn và cán bộ Sơn (sự giác ngộ đầu tiên). Biến cố chính là khi bà
Ảng, mẹ của Nhấn bị châu Cầm Vàng giết hại, lúc này sự biến đổi tâm
trạng lớn trong lòng Nhấn, Nhấn căm thù và phải nghĩ cách trả thù. Nhấn
hiểu, muốn hết khổ, muốn hết nghèo thì phải tìm một con đường khác, phải
đi theo bộ đội. Sau biến cố trung tâm, Nhấn, gia đình Nhấn và đồng bào ở
Mường Cơi đã tìm được con đường để đi và có niềm tin để hi vọng. Tiếng
chim kì báo hiệu niềm vui cứ lảnh lót khắp núi rừng Mường Cơi. Hầu hết
các truyện ngắn viết về đề tài miền núi, và những ngày đầu khi kháng chiến
thành công đều được xây dựng theo dạng biến cố này.
Song ở dạng biến cố cổ điển: không phải lúc nào cũng có vai trò tác
động, làm thay đổi sự tồn tại, số phận (tồn tại có tính vật chất - xã hội) của
61
nhân vật mà còn có một vai trò khác, tác động vào tình cảm, suy nghĩ, tâm
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
trạng (tồn tại có tính chất nội cảm - đời sống nội tâm). Trường hợp truyện
ngắn Cô đào thương, Hoa bìm biển cho ta một ví dụ khác về vai trò của biến
cố. Cả hai truyện ngắn đều viết về những biến đổi nội tâm tinh tế diễn ra trong
tâm hồn của nhân vật.
Hoa bìm biển được tổ chức theo phương thức trần thuật kịch hoá,
truyện ngắn gồm nhiều lớp cảnh mô tả những thay đổi nội tâm của ông Thái.
Ông Thái vốn luôn luôn tự hào và tự cao về sự hiểu biết của mình, cho đến khi
về già ông vẫn luôn tự mãn về mình và không hề nhận thấy mình đã không
còn tráng kiện. Thời trai trẻ ông Thái yêu bà Vân nhưng do cách trở địa lí, thư
từ không qua lại nên ông lại đành lỗi hẹn với mối tình đầu. Tình huống xảy ra,
bà Vân từ Mỹ trở về và mời ông vào Sài Gòn gặp. Sự va đập đầu tiên khiến
ông suy nghĩ miên man: phải nhờ đến bà Vân ông mới được vào Sài Gòn chơi;
Ông đã chuẩn bị rất kĩ cho buổi gặp gỡ, vậy mà câu đầu tiên bà Vân dành cho
ông là sự lạnh lùng thờ ơ: “Dạo này anh ốm quá”. Tiếp đó là hàng loạt những
va đập vào trong suy nghĩ và lòng sĩ diện của ông Thái khi gặp ông Năm, gặp
các bạn của bà Vân. Biến cố xảy ra khi ông Thái và bà Vân đi Vũng Tàu gặp
cô Hậu. Tại đây, kí ức về quá khứ dội lại, ông Thái lại thêm một lần nữa thất
vọng. Khi ở ngoài bãi biển Vũng Tầu, ông mới nhận thấy mình đã thật già,
thật bất lực. Truyện ngắn là sự mâu thuẫn giữa tưởng tượng và thực tế khiến
ông Thái trở nên suy ngẫm và buồn bã. Giờ ông nhận ra tất cả đều đã qua đi,
ông cũng không còn trẻ nữa, những phong lưu trong quá khứ giờ đã bị thời
gian phủ lấp. Ngày về Hà Nội, ông Thái từ một người tự tin, hách lắm nhưng
giờ thì buồn hơn, im lặng “ông cũng là cái phất trần bỏ xó và im lặng ngồi
suốt ngày bên cửa sổ nhà bốn tầng thế này” [21;326]… Như vậy phạm vi ngữ
62
nghĩa của những thay đổi ở đây không diễn ra trong những tồn tại có tính vật
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chất - xã hội mà diễn ra trong đời sống nội tâm của nhân vật - một thứ biến cố
tâm trạng, biến cố nội tâm.
Những dạng biến cố “cổ điển” nói trên, dẫu phạm vi ngữ nghĩa của
những thay đổi có thể diễn ra trong những tồn tại mang tính vật chất - xã hội
hay những tồn tại có tính nội tâm, đều gây ra một sự biến đổi, nghĩa là một
quá trình vận động từ trạng thái khởi điểm đến một trạng thái tồn tại mới. Đây
là dạng kết cấu đường thẳng. Đối lập với dạng biến cố trên, có những truyện
ngắn Tô Hoài được xây dựng trên cơ sở biến cố không chứa đựng yếu tố biến
đổi. Khi biến cố xảy ra, nó không có tác dụng thay đổi ngay không gian ngữ
nghĩa của nhân vật, không làm biến chuyển nội tâm, tâm trạng nhưng nó có sự
khác biệt với không gian ngữ nghĩa của nhân vật từng sống, từ sự biến đổi đó,
ta nhìn thấy tầng sâu của hiện thực trong câu chuyện.
Cối, cối ơ chính là tiêu biểu cho dạng biến cố này. Truyện ngắn bắt đầu
bằng một không gian quá khứ, khi tôi còn là những anh thợ phụ việc cho cụ
phó Cả làm cối. Không gian đầy khoáng đạt, công việc tìm đất tổ mối làm cối,
tìm tre đực làm dăm cối; và đi đến đâu cũng được người ta xem trọng và được
ăn uống tử tế. Biến cố xảy ra: nạn đói xuất hiện khiến nghề cối thất thế, người
ta đi theo Việt Minh, thời thế thay đổi, tôi và Tần cùng đi với đoàn cán bộ lên
Sơn La, từ giã vĩnh viễn với nghề làm cối. Không gian mới, thời đại mới đã
lôi tôi và Tần vào những vòng xoáy của cuộc sống. Tần trở thành cán bộ, trở
thành tổ trưởng, rồi làm nghề muối, nghề rau; rồi trồng vườn, rồi làm giám
đốc hai cái kho dây đồng, dây cáp. Cái biến cố kia không đủ làm cho chúng
tôi xơ xác tiều tuỵ nhưng lại đẩy tôi và Tần vào những vòng xoáy mới của
cuộc sống, nó hứa hẹn, báo hiệu những niềm vui ngắn còn những nỗi buồn
63
dài. Tần vào tù. Tôi lên thăm và việc khiến Tần vào tù không phải vì thôi nghề
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
cối, mà vì thời thế đã đẩy Tần như thế. Tần bắt chước người ta để khi về hưu
có cái nhà, có tài sản. Khi gần đến cái chết, cả tôi và Tần mới thực nhớ ngày
xưa “Chưa không quên cái nghề đóng cối. Mà từ thuở lọt lòng đến nay
chúng tôi thật sự chỉ có mỗi nghề ấy, quên thế nào được. Tần lại chồm lên;
hai tay vồ xuống đất réo lên: Cối, cối…” [21;405]. Cối, cối ơ; Con ngựa;
Một người bạn là ba truyện ngắn có dạng biến cố này.
2.2.3. Thủ pháp tạo quãng ngưng, mạch rẽ trong truyện ngắn Tô Hoài
Cách biểu hiện chung của Tô Hoài từ trước đến nay vẫn là không muốn
dẫn câu chuyện theo một cái cốt mạch lạc, những cảnh những người trong tác
phẩm thường bị cắt rời ra, quan hệ với nhau bằng một sợi dây lỏng lẻo nhưng
kín đáo, người đọc phải tinh ý mới nhận thấy. Vì thế nội dung tác phẩm bị tản
mạn rời rạc, sự phát triển tâm lí của nhân vật không nằm trong những mối
tương quan chặt chẽ, tác phẩm kém phần sinh động hấp dẫn người đọc.
Lối văn nhẹ nhàng kín đáo của Tô Hoài vẫn còn hạn chế ông nhiều
trong khi cần dựng lên những cảnh những việc mạnh mẽ, dào dạt sức sống.
Những lúc đó ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài không theo kịp nội dung thực
tế mà ông có. Tuy nhiên trong tác phẩm có nhưng đoạn tả phong cảnh và con
người của Tây Bắc hết sức đẹp đẽ. Chính điều này đã làm nên điểm nhấn
trong phong cách truyện của Tô Hoài. Truyện ngắn của Tô Hoài thường nhẹ
nhàng song lại ẩn chứa rất nhiều hàm ý, có nhiều lúc người đọc cảm tưởng
căng đầu ra mà vẫn không hiểu hết những gì ông viết. Những đoạn tả phong
cảnh, con người và những tình cảm trong sáng thiêng liêng đã làm cho nhịp
truyện được giãn ra đôi khi nó tạo nên những quãng ngưng và mạch rẽ cho tác
64
phẩm.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Quãng ngưng: là một thủ pháp làm cho câu chuyện chậm lại, đánh
lừa người đọc. Người đọc đang hối hả theo dõi dòng sự kiện, nhưng tác
giả chêm vào đó một đoạn tưởng chừng không liên quan gì, nhưng thực
chất nó giúp chúng ta thả lỏng người để nhìn nhận đúng hơn những gì sắp
xảy ra với nhân vật.
Trong truyện ngắn của Tô Hoài, những đoạn tả cảnh rất sống động đã
giúp người đọc kéo dãn được mình và thích thú hơn khi đọc truyện. Ngõ phố,
câu chuyện rất gần gũi với những người đã từng sống trong thời kì bao cấp,
khi mà lời của tập thể, nhận xét của tập thể trở thành một bản án nặng nế
nhất. Ông Bảo, Hải là hai nhân vật chính. Ông Bảo, người đại diện cho thế
hệ đi trước với sự trầm tính và lòng khoan dung vô bờ. Hải đại diện cho thế
hệ thanh niên với những sai lầm khi còn trẻ tuổi. Ông Bảo đã tin tưởng và
thuyết phục tổ dân phố giao cho Hải công việc trị an, nhưng có tin đồn Hải
ăn cắp. Lòng tin bị tổn thương. Con người đầy lòng nhân ái này bị đưa vào
thế bí, không biết phải như thế nào. Tin hay không tin? Trong lúc tâm trạng
của nhân vật Bảo nặng nề và đầy mẫu thuẫn, tác giả chêm vào đó một đoạn
tả cảnh “Những ngọn đèn có chụp phòng không, sáng tròn bóng trước của
hàng giải khát. Khi nãy, cái cửa hàng còn xúm đông thế mà đến lúc cô bán
hàng vừa rút cái nõ cắm giữa mặt thùng kẽm ra - dấu hiệu hết bia, người ta
lật đật tàn hết ngay. Họ vào trong phố tìm những quán bia còn bán khuya
hơn. Con đường và dãy nhà ven đê đã vắng, chỉ le lói bờ hè những đốm đèn
của mấy nhà chạy nước dưới bãi lên, đầu nhà nào cũng buộc gốc cây một
con bò kéo, tiếng bò nhai cỏ rào rạo.
Xa xa, từ phía Hàng Chính, Hàng Mắm chật chội, chen chúc những
65
mảnh nóc nhà so le, vang từ mặt đường lại tiếng va nhau xoang xoảng của
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chiếc thùng tôn xếp hàng lấy nước máy và nghe rõ cả tiếng nước trong vòi ồ ồ
xuống. Có những tiếng động Hà Nội quen thuộc đến nỗi cứ đêm khuya tĩnh
lắm ở xa đâu người ta cũng nghe được”. [21;198]
Đoạn tả cảnh tưởng chừng vô duyên và lạc điệu. Nhưng hãy đọc kĩ lại
xem. Sự tĩnh lặng, những âm thanh nhỏ bé của phố phường, có phải ai cũng
cảm nhận được? Không, phải là người điềm tĩnh và đang suy nghĩ xa xôi điều
gì đó mới tĩnh lặng và lắng nghe được những âm thanh nhỏ bé kia. Ông Hải
đang suy nghĩ chín lắm, day dứt lắm để làm thế nào không đánh mất một con
người.
Ngoài những đoạn tả cảnh đặc sắc làm không khí truyện chùng xuống,
giúp người đọc thư giãn, Tô Hoài còn sử dụng chi tiết như là một thủ pháp để
tạo mạch rẽ và quãng ngưng cho truyện ngắn.
Vợ chồng A Phủ, một truyện ngắn khá tiêu biểu cho kết cấu truyện
ngắn. Với phần đầu truyện là cuộc sống tủi buồn, tủi khổ, quanh năm chỉ
lầm lũi như con rùa quanh xó nhà không biết ngẩng mặt lên của Mỵ. Gian
phòng cũng chỉ có một ô cửa sổ bé tí. Sự tù túng đến rợn ngợp. Có lẽ câu
chuyện sẽ mãi thế. Người đọc đều cảm thấy như vậy. Nhưng không. Trong
cái ảm đảm, đen tối của cuộc đời lại tồn tại những ánh sáng của tình yêu,
của sự sống. Câu chuyện rẽ ngoặt sang một hướng khác khi đêm hội mùa
xuân tới. (…) Mùa xuân đã về trên vùng núi cao. Dẫu còn nghèo khó song
mùa xuân vẫn khơi gợi niềm vui sống. “Những chiếc váy hoa đã đem phơi
trên mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại
đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát” [20;201]. Và
những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân “Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười
66
ầm trên sân chơi trước nhà” [20;201]. Tiếng sáo gọi bạn tình “Mỵ nghe
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Mỵ ngồi nhẩm thầm bài hát của người
đang thổi sáo” [20;202]. Những âm thanh, những cảnh sắc đó, phủ một màu
hồng tươi sáng lên bức tranh đầy màu xám của cuộc đời Mỵ. Truyện ngắn
dường như vui hơn, tâm trạng người đọc cũng nhẹ nhàng, thoải mái hơn.
Quảng rẽ này báo biệu một sự đổi thay không chỉ của đất trời, mà còn là sự
đổi thay của số phận, của câu chuyện. Ngọn lửa sống trong lòng Mỵ đã
bùng lên, bùng lên trong đêm tình mùa xuân. Sự sống trỗi dậy trở lại trong
lòng Mỵ. Xây dựng chi tiết “tiếng sáo”, tác giả đã đưa một biểu tượng của
sự sống, tình yêu, tự do trở lại với nhân vật. Sự sống trỗi dậy như những
đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mỵ, đợt sau lại mạnh mẽ hơn đợt trước.
Người ven thành, là sự nối tiếp truyền thống yêu nước từ đời ông,
đời cha, rồi đến thế hệ của ông Đô, con ông Đô. Thế hệ nào trong gia đình
ông Đô cũng anh dũng, quả cảm và lập chiến công lớn. Câu chuyện tái
hiện về một vùng quê trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ. Trong cái không khí lao động và chiến đấu, người người nhà nhà tăng
gia sản xuất, du kích tìm mọi cách để phá cái bốt địch thì tác giả đưa ra
những chi tiết tách rời hẳn cái không khí đó. Ông Đô ra ngoài ruộng làm
nhà ở. Ông sợ máy bay? Ông sợ chết? Có bao câu hỏi thắc mắc. Câu
chuyện càng lí thú và khó hiểu hơn khi tác giả miêu tả những cuộc đi bắt
chim, đánh chuột. Chi tiết “Mùa rét, trong vùng có cái thú đi đào chuột
đồng. (…) Ông Đô trông thấy con chuột lũn cũn bò đến tận tường cái bốt.
Không kịp rồi, con chuột tí ù to tướng đã trốn lên ngách thượng, thoát vào
bờ thép gai phía trong đồn. Ông Đô không dám đuổi. Ông đành nhìn con
chuột cho đến lúc nó mất hút sau tường. Bỗng ông nói một mình: Được
67
rồi!” [21;221]. Chi tiết này làm người đọc chột dạ! Chắc chắn sẽ có gì đó
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
liên quan đến chú chuột. Quả nhiên sau đó: Cái bốt chứa đạn dược của
địch bị nổ tan tành. Du kích không phá được, nhưng ông lại phá được chỉ
với một cái mẹo nhỏ đốt đuôi chuột.
Truyện ngắn của Tô Hoài có rất nhiều các quãng ngưng bằng những
đoạn miêu tả, hoặc đưa ra những chi tiết mang tính thức tỉnh, bẻ ngoặt lại
mạch truyện và thay đổi số phận nhân vật.
Một thủ pháp tạo quãng ngưng nữa mà ta thấy trong truyện ngắn Tô
Hoài đó là những đoạn độc thoại nội tâm. Xen giữa những tự sự, những đối
thoại, xuất hiện những đoạn độc thoại, tự nói chuyện. Hạ và Chư - mối tình
của cô thợ cửi với anh chàng khiêng kiệu, trong sáng nhưng lại buồn bã. Chư
phải bỏ làng đi còn Hạ thì phải lấy lão lái Ẻn. Hạ định tự tử chết cho xong
chuyện, nhưng thương cha mẹ Hạ lại thôi. Hạ không còn muốn sống, không
còn thấy vui buồn gì nữa. Nhân vật rơi vào trạng thái trầm cảm, sống theo
nghĩa vụ và trách nhiệm. Đêm đêm Hạ ngồi ở mạn thuyền mà buồn bã “Chiếc
thuyền ngược này dài hơn một đời người. Ngày chí tối, nhà thuyền quăng dây
song lên bờ, hàng chục phu chài gò cổ kéo. Những người kéo thuyền đóng khố
đơn, đen cháy như ếch đồng hạn hán, cứ gập đội người lại, nối nhau, bấm
chân đi. Những lời hô vui mà thảm thiết:
Ra khoang… em bước… qua cầu…
Bến vui em đến…
Trên mui bỗng lóng lánh một trời sao. Con thuyền đêm nao cũng đi qua
một trời sao ấy. Dù cho con người có cạn nước mắt rồi cũng vẫn muốn sống
hi vọng, như người chèo thuyền mong đến bến… (…) Bây giờ thì xa lắm rồi.
Chư biết đâu mà đuổi theo cứu Hạ được. Bây giờ thì cha mẹ cũng khỏi lo nợ,
68
lo tù tội được rồi” [21;254]. Sự đau đớn và nỗi tuyệt vọng đã báo hiệu một sự
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chuyển mình của mạch truyện. Hạ sẽ chấp nhận cuộc sống tù túng? Chấp nhận
làm vợ một người không yêu? Không, khi những lo lắng về gia đình, bố mẹ
không còn nữa, người yêu thì xa lắc không biết bao giờ gặp lại. Hạ tự tìm con
đường cho mình. Hạ trẫm mình tự vẫn. Nếu thoát, Hạ sẽ tiếp tục hi vọng, nếu
không thể sống được, Hạ đành chấp nhận. Đoạn tả cảnh, kết hợp với độc thoại
đã làm sáng rõ hơn tâm trạng và những suy nghĩ của Hạ. Chiếc thuyền, cảnh
sông nước mênh mang như một khoảng cách đủ xa để con người thấy bơ vơ,
cô độc, sự yên tĩnh của ban đêm dưới trăng sao đủ để con người thấy nhỏ bé,
bất lực. Tình yêu, gia đình, giờ đã xa hết. Tâm trạng của Hạ báo hiệu một sự
thay đổi. Hạ sẽ có cuộc sống mới nếu dũng cảm bỏ trốn và dũng cảm hi vọng.
Vợ chồng A Phủ, Hoa bìm biển, Cối, cối ơ, Cô đào thương là những
truyện ngắn có những đoạn độc thoại mà sau đó là sự biến chuyển trong suy
nghĩ, trong hành động và cuộc sống của nhân vật. Những đoạn độc thoại này
giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng, hiểu hơn về suy nghĩ và nó báo hiệu
những biến chuyển sẽ xảy ra trong lòng người.
* Tiểu kết: Tính chất của tự sự là mô phỏng, bắt chước, thuộc tính của
văn xuôi là đi theo hệ quy chiếu đường thẳng và biến đổi trên trục đường
thẳng đó. Vì thế, tổ chức cốt truyện, tổ chức kết cấu là điều vô cùng quan
trọng, nó quyết định độ hấp dẫn và sức sống của tác phẩm. Tô Hoài thường
xây dựng những cốt truyện đơn giản, mạch lạc, gần với cốt truyện dân gian.
Kết cấu không lắt léo, không có những pha gay cấn hay những tình huống
nguy kịch, chính vì thế mà tính cách trong truyện ngắn sau 1945 thường na ná
giống nhau, tâm tình, số phận nhân vật không được khơi sâu, ít để lại ấn
tượng. Song bằng những trải nghiệm, vốn sống phong phú, truyện ngắn của
69
Tô Hoài đã xây dựng được những mạch rẽ, những chi tiết phát sáng đã lặng lẽ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
nối tình tiết, nối kết các nhân vật, làm thành một chỉnh thể mà người đọc phải
thật tinh ý mới nhận ra được. Vì thế, dù đơn giản, dễ hiểu, tổ chức cốt truyện
theo trình tự thời gian song truyện của Tô Hoài vẫn khiến người đọc phải nhớ,
phải tìm đọc.
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA TÔ HOÀI SAU 1945
3.1. Ngôn ngữ tự sự:
Mác - xim Gorki nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Có một ý
tưởng độc đáo, một đề tài thú vị, một cốt truyện hấp dẫn, nhưng khi viết ra thì
lại không được như mong muốn. Tại sao vậy? Tất cả là nằm ở ngôn ngữ. Chữ
nghĩa dùng để thể hiện nhưng nếu ngôn ngữ không làm nổi bật hình tượng
nhân vật, không đặc sắc sẽ khiến văn không có màu vẻ.
Cần phân biệt ngôn ngữ của NKC và ngôn ngữ của nhân vật được nhắc tới
trong tác phẩm: ngôn ngữ NKC là lời gián tiếp, nghĩa là “lời văn đảm đương chức
năng trần thuật, giới thiệu, miêu tả, bình luận của con người và sự kiện”. Ngôn ngữ
nhân vật là lời trực tiếp - lời của các nhân vật khác “được đặt trong ngoặc kép hoặc
sau gạch đầu dòng. Tiếp cận ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau
1945, người viết chỉ xin đề cập đến khía cạnh ngôn ngữ người kể chuyện.
Với những khả năng vô biên của ngôn ngữ, việc nghiên cứu ngôn ngữ
kể chuyện sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều đặc điểm về tự sự trong truyện ngắn
của Tô Hoài. Ngôn ngữ của NKC với tư cách như là một công cụ của tư duy,
đồng thời cũng là phương tiện để phản ánh vốn sống, vốn văn hoá của nhân
70
vật, câu chuyện. Vốn là một nhà văn được xếp vào nhóm các nhà văn “tả
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chân” trong cuốn Những nhà văn hiện đại Việt Nam, Tô Hoài được nhận định
là người có vốn ngôn ngữ vô cùng dồi dào. Một phần được “giời cho”, một
phần là “đọc lượm lặt chữ của nhân gian”, ông được cho là người có “nhiều
chữ”. Thậm chí đã có người cho rằng, người ta có thể làm một cuốn từ điển
chuyên ngành về một số nghề nghiệp được nhắc đến trong các tác phẩm của
ông. Phong phú, sinh động, hơi thở của cuộc sống, được truyền đến người đọc
qua từng con chữ trong các trang văn của Tô Hoài
3.1.1. Ngôn ngữ tự sự khẳng định sự giàu có và phong phú của tiếng Việt
Tô Hoài viết trong cuốn Sổ tay viết văn “Văn học là nghệ thuật của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hình thức văn hóa của dân tộc” “Ngôn ngữ Việt Nam
thật dai sức và điêu luyện. Sống chen giữa những dân tộc to lớn, bị đô hộ hàng
nghìn năm, nhưng tiếng Việt đã có “sức kháng cự mãnh liệt trước những đe
dọa đồng hóa và vẫn phát triển, trong sáng, phong phú sắc thái dân
tộc”[18;112]. Không ai có thể phủ nhận khả năng dùng từ và vốn từ dường
như không vơi cạn của Tô Hoài.
3.1.1.1. Sử dụng từ sáng tạo - táo bạo
Tô Hoài không chỉ là người viết khỏe, viết nhiều mà còn là một trong
những nhà văn đến với nghề cầm bút không phải từ lí luận viết văn mà từ
những quan sát thực tế. Khi nhìn, thì nghĩ, cho nên biết phân biệt, biết so sánh,
do nghề nó tạo thành thói quen. Truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945 là kết quả
của một quá trình lao động nghiêm túc, đi, trải nghiệm và viết. Những biến
chuyển trong cảnh sắc và thiên nhiên, hay những biến chuyển trong nội tâm
con người được Tô Hoài diễn tả thông qua những đặc sắc trong so sánh tu từ,
cách sử dụng từ táo bạo, sáng tạo.
71
* So sánh tu từ:
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
So sánh còn gọi là tỉ dụ, là “phương thức biểu đạt bằng ngôn ngữ một
cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có dấu hiệu tương
đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm,
thuộc tính của hiện tượng kia” [13].
Do chức năng nhận thức, chức năng biểu cảm, cảm xúc và lối cấu tạo
tương đối đơn giản nên so sánh tu từ được các nhà văn sử dụng như một công
cụ chính để miêu tả hình ảnh và để phân biệt nhãn quan cảm thụ và tưởng
tượng của mỗi nhà văn. “Trong văn chương so sánh là một phương thức gợi
cảm”. Nguyễn Tuân - nhà văn tôn thờ chủ nghĩa xê dịch, hoài niệm về những
gì vang bóng và luôn sống trong dư âm của quá khứ có cách so sánh rất cầu kì,
chau chuốt “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích thuở xưa”, Nam Cao lại sử dụng so sánh rất mộc mạc và
giản dị, và dường như văn của Nam Cao thiếu hẳn đi phương thức gợi cảm
này vì với Nam Cao, cuộc sống không cần phải ví von, mà nên nói thẳng, nói
thật, thật dễ hiểu. Thạch Lam, Thanh Tịnh, Nguyễn Minh Châu… nhà văn nào
cũng dùng so sánh như một cách thể hiện hình ảnh, biểu đạt cảm xúc của
mình. Tô Hoài cũng vậy. Văn Tô Hoài vốn được Vũ Bằng đánh giá là một thứ
văn “láu cá” viết ôn hoà và khoan dung, chính vì thế nên mọi thứ trong ngôn
ngữ của Tô Hoài đều giản dị, thân mật và gần gũi. Đối tượng chính mà Tô
Hoài so sánh là những sự vật rất gần gũi “một sải vải mới”; “bát úp” “trẻ con
chơi rồng rắn lên mây”; “mạch máu trên thân người”; “cánh tay áo chàm bát
ngát”; “mỡ rán”; “dòng kiến bò”; “một đồng tiền thủng lỗ”; “nước chảy trên
lá”; “con gà què”… những hình ảnh nay là hình ảnh của cuộc sống. Những
cảm giác trừu tượng, những hình ảnh xa lạ được trừu xuất lại đơn giản gần gũi
72
nên người đọc dễ liên tưởng và nhận ra. Một ưu điểm của so sánh đơn giản, dễ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
hiểu sẽ làm cho câu văn bớt nặng nề, ngôn ngữ trần thuật trở nên tự nhiên, dí
dỏm.
Để lôi kéo được bạn đọc, ngoài một mạch văn chau chuốt, ngôn từ đẹp
đẽ, ý tưởng độc đáo thì cần một điều quan trọng hơn là chân thực. Muốn có sự
chân thực, trước tiên là thể hiện ở ngôn ngữ. Xuất thân từ một gia đình làm
nghề thủ công, khi bắt đầu sáng tác, Tô Hoài viết về “những chuyện trong
làng, và trong nhà” đó là quê hương ông. Tô Hoài tiếp thu có chọn lọc lời ăn
tiếng nói hàng ngày của nhưng người dân lao động, tiếp xúc với họ, hiểu
những buồn vui, vất vả của họ. Rồi Tô Hoài có một khoảng thời gian đi thực
tế, đi nhiều, gặp nhiều, cùng ăn, cùng ở, cùng sống với đồng bào ở miền núi
phía bắc nên một phần trong ông là ảnh hưởng cuộc sống, thói quen và tiếng
nói của đồng bào dân tộc nơi đây. Cắt nghĩa, đem những cảnh sống của người
ven đô, của đồng bào dân tộc đặt dưới con mắt của độc giả, vậy phải lí giải và
cắt nghĩa thế nào cho người đọc thấy dễ hiểu nhất.
- Cảnh cày ruộng của gia đình đồng chí Hùng Vương: “Ba con trâu, ba
cái bừa răng gỗ, ba người bừa đi bừa lại, quấn vòng vèo trên mảnh ruộng nước
hẹp, như trẻ con chơi rông rắn đuổi nhau [20;13]. (Nếu là đi cày ở ruộng bậc
thang, thì ít người hiểu, nhưng ví với trò chơi rồng rắn lên mây thì từ người
già đến trẻ nhỏ đọc lên đều tưởng tượng ra được)
- Cảnh rừng Tây Bắc: “Mưa bụi lớt phớt trên mũi, lạnh buốt như đâm phải
gai hạt dẻ”[20;35]; “Buổi sáng, từ trong hóc núi cuối thung, mây trắng trôi cuồn
cuộn bập bềnh như sóng trên làng mạc và cánh đồng. Các chỏm núi trên triền núi
Cứu quốc xanh rì nhô lên như những cù lao chơi vơi giữa bể tuyết” [20;16].
- Cảnh chiến đấu: “Eng bật người lên, ghếch súng bắn liên tiếp vào những
73
lỗ lửa trước mặt. Trong đồi, liên thanh phóng ra, rèo rèo như rán mỡ” [20;35].
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
- Cảnh bộ đội hành quân: “Bộ đội từ bên kia đèo về làng. Họ đi dưới
mưa như một dòng kiến bò vắt qua ruộng, qua rừng, qua đèo, về từ trưa, mãi
tới chiều ngớt mưa mới cạn người” [20;41].
- Cảnh ốm đau: “Hai vai đau buốt như đóng đinh” [20;54].
- Cảnh lao động: “Hoả tốc nối nhau như tên. Người phu trạm như cái
vạc lặn lội suốt đêm” [21;239].
Ngoài sự dễ hiểu, gần gũi, so sánh mà Tô Hoài sử dụng rất đa dạng. Ta
bắt gặp rất nhiều sự so sánh lạ. Không chỉ giúp cảm nhận về hình ảnh, âm
thanh, mà với so sánh đó, tất cả các giác quan của người đọc cùng làm việc.
“Quả trám trắng lẹt đẹt rơi. Con hươu gộ dưới gốc, tiếng khô như một cành
củi gẫy” [20;14]. Con hươu cặm cụi tìm thức ăn dưới gốc (thị giác); tiếng khô
(cảm giác); cành củi gẫy (hình ảnh, âm thanh, cảm giác); “Ánh lửa bập bùng
hắt lên những cái đầu trọc bóng nham nhở tóc, mặt anh nào cũng vêu vao vạc
từng nét sâu hoắm như đã đói khát hàng tháng ròng rã” [20;242]. Sự đói khát
là nỗi mệt mỏi về thể xác, về tinh thần đã diễn tả được những nhọc nhằn của
các anh bộ đội trên con đường Vượt Tây Côn Lĩnh.
Sự kết hợp độc đáo giữa cái so sánh và cái bị so sánh. Không ai nghĩ
rằng, sự vật này lại có thể được ví von với sự vật kia. Tô Hoái so sánh “tiếng
trống phập phùng như tiếng gió thổi vào lá chuối. Tiếng hát giáo đầu lúc xa
lúc gần, cũng như những năm nào bình yên, [20;249]. Tiếng trống được ví với
tiếng gió mà phải là tiếng gió thổi vào lá chuối. Tiếng hát được ví với những
năm tháng bình yên. Hoá ra so sánh không phải chỉ là về hình ảnh, mà một
động từ, một sự vật cũng có thể được nhìn nhận ở cảm giác, ở nỗi nhớ. Những
năm tháng bình yên xưa kia chắc hẳn có những tiếng hát giáo đầu nên khi
74
nghe tiếng hát giáo đầu năm nay lại thấy bồi hồi. Có rất nhiều những hình ảnh
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
so sánh đặc biệt như thế: “Liên thanh phóng ra rèo rèo như rán mỡ” [20;35];
“Tiếng quát như cái hiệu ấn rập đầu người xuống; Người cầm roi bỗng ngã
đùng xuống như cây chuối đổ; Lão cai trạm quen tay vuốt xoắn một bên ria
mép, phất cây hèo, bước một chân lên như làm điệu múa dùi trống giữa đám
rước…” [21;243]; “Đời chồng con của người ta thời buổi này như đứa vào
đám bạc, trúng một tiếng là phất lên như diều” [21;143]; “Cánh đồng chín
vàng như một chiếc chiếu mới; vòng vèo trong núi, thấp thoáng con đường
Cao Bằng như ai vắt sợi chỉ” [21;59]; “Bàn tay khô xàm xạm như tờ giấy nháp
[21;469]; Chuyện ông đi kháng chiến kể ra cũng vừa bình thường lại cũng thật
khúc khuỷu như mối tình” [21;314]…
Lối nói ví von, so sánh xuất hiện dày đặc trong truyện ngắn Tô Hoài.
Cách cụ thể hoá ngôn ngữ bằng hình ảnh, tạo nên cái duyên trong cách kể
chuyện, đem lại cho người đọc những cảm nhận về màu sắc, âm thanh, hình
ảnh, cảm giác mới lạ. Có những hình ảnh so sánh khiến cho người đọc ngạc
nhiên, thú vị bật cười và tâm đắc: “hoá ra là như thế đấy”.
* Sử dụng từ táo bạo, sáng tạo
Tô Hoài có một kho ngôn ngữ hết sức đa dạng mà nhà văn thu nhận
được từ rất nhiều nguồn: từ cuộc sống thực tế, từ sách báo đủ loại, từ những
lớp người đa dạng mà ông có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc. “Tôi cố gắng không bao
giờ bỏ rơi một tiếng mới, một tiếng hay, hoặc một câu nói, một lối nói lạ tai.
… Đi thực tế là trọng tâm. Còn ngày thường, anh đi đường, anh ăn cơm, anh
nói chuyện với bạn, nhìn thấy cái gì, nghe thấy cái gì, nếu anh thu lượm được
cái mới, tức cũng là hiểu biết thực tế” [18;66]. Tô Hoài kể ông có những
75
quyển sổ tay nhỏ, đi đến đâu, nghe thấy gì hay thì đều ghi lại để lần sau sử
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
dụng. Có những từ độc đáo đến nỗi tìm mãi trong từ điển không có, chỉ có thể
thấy trong ngôn ngữ dân gian.
Ta bắt gặp một từ rất thú vị: “ngữ” với nghĩa là chừng mực, mức độ
không chỉ được dùng trong các kết hợp với động từ mà còn được dùng kết hợp
với danh từ và dùng độc lập như một danh từ. “Ông lão biết đâu ở đây cũng
như ở Nghĩa Đô, nhà nào có, mới dám ăn mỗi ngày một bữa cơm ngữ” [21;8]
Cách dùng này, theo Tô Hoài kể, là dựa theo thói quen trong tiếng nói hàng
ngày của nhân dân làng Nghĩa Đô. Đây là một cách dùng từ rất sáng tạo, ngắn
gọn và sáng ý trong lời nói hàng ngày của nhân dân vùng Nghĩa Đô. Và nó đã
được Tô Hoài đưa vào văn, như một nét đặc biệt.
Mạnh dạn trong việc sử dụng, cải biến và sáng tạo ra cách dùng từ
riêng của mình. Ngôn ngữ tự sự của Tô Hoài vừa lạ nhưng lại rất Việt. Nhiều
khi những thành ngữ, quán ngữ được ông biến đổi một vài yếu tố để tạo nên
sự phù hợp với nhân vật, hoàn cảnh cụ thể mà vẫn không mất đi giá trị của
chúng. Nói về sự cùng tuổi đồng trang lứa, dân gian có thành ngữ “bằng vai
phải lứa”, NKC của Tô Hoài dùng là “Trai mới lớn lên đều thuộc những loạt
con gái bằng chà bằng lứa” [21;39]. Để nói về việc giỗ chạp Tô Hoài dùng
“Năm nào chứ năm nay thì rúi với ráy gì” [21;6].
Trong truyện ngắn của Tô Hoài, ngôn ngữ được sáng tạo trong cách
dùng từ, tạo nên lối diễn đạt gợi cảm, sinh động. Tả cảnh núi rừng Cao Bằng,
tác giả viết: “Trông sang phía Cao Bằng trước mặt, núi xanh, núi trắng loang
lổ dán lên nhau” [20;14]; “mỗi cái hai gian nhỏ, cái nọ ngồi sau cái kia”
[20;15] Từ “dán” và từ “ngồi” dường như chỉ là hai động từ rất bình thường,
nhưng khi đặt vào văn cảnh, lại có hiệu quả hình ảnh rõ rệt. Không dùng từ
76
“trùng điệp” mà vẫn thấy cảnh núi rừng san sát; không nói nhiều đến sự đông
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
đúc, nhưng chỉ với từ “ngồi” đã thấy được không gian, khung cảnh của những
ngôi nhà nối tiếp nhau. Một vẻ đẹp trù phú, ấm áp đến kì lạ; “Mỗi buổi chiều,
nắng bên này ngả về bên ấy, bóng núi sang theo, như núi liền nhau” [20;252].
Nắng không còn là một vật vô tri mà trở nên có tình cảm, có suy nghĩ, chiều
ngả của nắng, khiến bóng núi sang theo, vẻ hùng vĩ, mênh mang của núi đồi
lại thêm rộng bởi các ngọn núi đang nối vào nhau.
Không chỉ thành công trong việc biểu đạt hình ảnh thiên nhiên với
những nét trữ tình, mĩ lệ, văn tự sự của Tô Hoài sinh động ở mọi hoạt động,
hình ảnh, sự vật. Tả sự ghen tị, là hình ảnh “hai gò má nhô cao càng thưỡi
thêm cái môi dưới” Từ “thưỡi” vừa tạo được hình ảnh, vừa tạo được cảm giác,
vừa khiến cho người đọc nhìn ra gương mặt và thấy khó chịu về cái thái độ
này; “Mươi say cười lỉu đầu xuống vai xã đội lè nhè” [20;60]. “lỉu đầu” - là
thế nào? là cái đầu không còn tự đứng thẳng, không còn theo sự chỉ bảo của
chủ nhân nữa, nó cứ tự nghoẹo sang, tự đổ xuống. Rất chuẩn xác! Chỉ có
người say rượu mới thế!
Một đặc trưng trong phong cách sử dụng từ ngữ trong ngôn ngữ của Tô
Hoài là cách dùng tính từ và từ láy giúp lời văn thêm gợi cảm, giàu hình ảnh.
Bất cứ trang nào, cũng có thể liệt kê một hệ thống các từ láy, tính từ. Tô Hoài
tả cảnh biển về đêm “Giải cát dài tít xa lên tận cửa sông Mã sang sáng in
bóng những toà nhà mới nhiều tầng cao đứng nghển đầu, mở những ô mắt cửa
sổ lóng lánh trên hàng cây sa mộc. Bóng núi đơn sơ trông gọn nét hơn, như
đằng chân trời dần dần ai cuốn bức mành treo.
Lúc này, biển đã vắng hẳn. Sau một ngày ồn ã, náo động của những
người đi nghỉ mát, biển trở lại những lặng lẽ bình thường, mà ta dễ thấy ở bất
77
cứ bờ biển nào. Sóng nước mơ hồ thì thào khi xa khi gần. Bóng trăng rỡn
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
loang loáng trên cát. Những người chài kéo thừng lưới đứng yên, tưởng
không bao giờ đụng đậy” [20;268]; tả cảnh chiều “Chiều đã nhuốm sương giá
mà vẫn rớt nắng vàng rực trong những cây hoa mai vừa nãy còn trắng ngần.
Tiếng vó ngựa trên chợ về nghe lốc cốc cả đàn như mõ trâu đạc trong cửa
rừng. Người lác đác rẽ vào xóm, người đi chợ về, người kiếm rau kiếm củi ở
rừng ra.” [20;281]; tả cảnh đêm “Cánh cửa nhà ai buồn thiu, chặp tối đã xùm
xụp con mắt mu bào. Biết ngủ thật hay vờ. Bỗng dưng cái cửa bừng ra, mở ti
hí. (…) Trên một cửa sổ xinh xinh, ánh điện nhuộm hồng miếng vải hoa che
cửa” [21;184]. Mỗi một khung cảnh, một hoàn cảnh, một thời điểm khác nhau,
Tô Hoài đều tìm được những tính từ chỉ rất xác thực, trữ tính. Cảnh biển vào
đêm đẹp huyền ảo, cảnh chiều là sự hối hả, vội vã, cảnh đêm tĩnh lặng, ấm áp.
Không chỉ hay, đặc biệt trong những trang tả cảnh mà Tô Hoài tả gì cũng đẹp,
cũng thú vị. Tả tâm trạng buồn “Ông lại im lặng như chiếc phất trần dựng xó
tường. Cái phất trần thỉnh thoảng bà ấy còn lấy ra phất bụi, ông thì chẳng ai
đụng đến. Ông lặng lẽ. Ngồi xuông, không có một giọt rượu gặm nhấm lại kỉ
niệm” [21;326]; Sự cô đơn có bao nhiêu cách diễn tả nhưng được diễn tả bằng
hình ảnh “Ngồi xuông, không có một giọt rượu gặm nhấm kỉ niệm” thì thật
sáng, thật rõ. Rượu thường gắn với những phút thăng hoa của cảm xúc hay
những lắng đọng buồn bã của con người, buồn và cô đơn thì dùng rượu, nhưng
giờ ông Thái còn không có rượu để làm bạn, thật lặng lẽ, cô quạnh biết bao.
Tâm trạng vui, khoái chí “Lão Đô, lão Đô càng sửng sốt mãi lên vì mấy cái
tiếng cộc lốc kì lạ mình quát, chính mình quát, thế mà lại tức khắc sai được
thằng giặc đi đứng đúng kiểu cách.
Cụ Đô ngửa mặt cười khơ khớ… Được rồi, được!
78
Trời tháng mười lại im vắng, sạch trong.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Đương giữa mùa ngói. Những đàn ngói xanh, những đàn ngói đỏ tới tấp
bay qua cánh đồng”. [21;227]; tâm trạng trong tình yêu “Trường không nói
như thế. Trường muốn nói một chuyện gì, một câu gì mà chưa tìm ra. Nhưng
xung quanh im lặng quá, Trường thấy ngại. Vả lại, cả Mì vẫn thức ngồi đấy.
Thế là Trường lại chỉ ngồi và lặng lẽ nhìn sang hình khuôn mặt trăng trắng tựa
cột bên kia – chỉ ngồi cách nhau, có thể thò chân ra thì đụng được. Sương lùa
vào chỏm mũi lạnh ngắt. Trong lòng thoáng buồn buồn. Từ hôm mặt trận lan
tới, nay mới thấy mình nhơ nhớ như thế” [21;48]. Hình ảnh, từ ngữ được sử
dụng đều thật chuẩn và gợi tả. Sự nên thơ, chất trữ tình, sự khác biệt độc đáo
có được là nhờ vào nghệ thuật sử dụng từ ngữ của nhà văn.
Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng tạo nên sự độc đáo vào táo bạo trong
cách dùng từ của Tô Hoài chính là cách sử dụng các cấp độ từ, sự mở rộng đến
vô cùng các trường từ ngữ về màu sắc, trạng thái của sự vật, của hành động. Với
một động từ nhớ thôi, ngôn ngữ tự sự của Tô Hoài có bao nhiêu kiểu nhớ: nhơ
nhớ; nhớ lại mồn một; tơ tưởng; nhớ làm sao; mong ngóng; nhớ da diết; nhớ
khắc khoải; nhớ thương; tương tư; khéo nhớ… Với một cái cười mà có đến cả
chục kiểu cười: cười lỉu đầu (chỉ người say rượu); cười khanh khách; cười tủm
tỉm; cười héo hắt, cười rã rượi, cười lớn, cười toáng, cười toe toét, cười mủm
mỉm; cười khùng khục; cười nụ; …; Cái đói: da bủng vàng nghệ; đói lử rử; đói lử
lả; đói khát; đói rệu rã; đói vàng mắt…; màu vàng: vàng khè; vàng nuột, vàng
tươi; vàng ruộm; vàng chói; vàng nghệ, vàng rượi, vàng hây…; cách nói: lảu
bảu; rì rầm; lảm nhảm; léo nhéo; choang choác; tam toạng; oang oang; lửng lơ;
xôn xao; dữ dội; lẻ nhẻ; liến thoắng; thì thầm; thủ thỉ; ông ổng; choe choé, lanh
79
lảnh; phào phào; léo xéo…”. Không thể kể hết những trường từ mà Tô Hoài sử
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
dụng, chỉ biết là ở mỗi cảnh, mỗi tâm trạng, một tình huống, mỗi hành động, lại
là một sắc độ, một mức độ thể hiện khác nhau.
Sự dồi dào đến vô tận, đã khiến cho ngôn ngữ tự sự của Tô Hoài vừa sinh
động, vừa độc đáo lại vừa gần gũi mà vẫn không kém phần nên thơ, trữ tình.
3.1.1.2. Lối hành văn độc đáo
Từ là bộ phận cấu tạo nên câu. Câu cấu tạo thành đoạn. Từng đoạn ghép
thành tác phẩm. Câu trở thành một công cụ để diễn tả cảm giác. Giai đoạn của
văn chương Tự lực văn đoàn, để diễn tả những cảm xúc dàn trải, mênh mang,
nhà văn thường sử dụng những câu văn dài, nhiều mệnh đề. Giai đoạn văn
xuôi hiện đại trước sự đòi hỏi của tính tốc độ, của thông tin đặt ra cho nhà văn
phải giản lược tối đa những lời bình luận, đánh giá, những từ thừa để tạo thành
một dòng thác ngôn từ, câu văn xô lệch ngữ pháp, dồn tư tưởng vào các thành
phần phụ. Tô Hoài cũng rất quan tâm đến cách viết câu. Đọc văn Tô Hoài
tưởng rằng mọi thứ đều thật giản đơn, dễ dàng nhưng nếu nghiền ngẫm thật kĩ
ta lại thấy sự đổi mới liên tục, liên tục. Tô Hoài đã từng tâm sự: “Tôi chưa biết
là tôi đã thành công hay thất bại về việc này. Nhưng đúng là tôi luôn đổi mới.
Tôi thường suy nghĩ rằng cuộc đời không bao giờ lặp lại. Cho nên cuộc đời là
một mặt của vấn đề. Trong khi cuộc sống, nhân vật, phân cảnh, vạn vật biến
chuyển không ngừng, thì câu văn cũng không thể đứng nguyên tại chỗ. Theo
tôi, một là khi câu văn biểu hiện một ý trong tiểu thuyết, nhưng lại làm theo
chủ quan của mình nghĩ, hai là nó lặp lại đến nỗi người đọc nhận thấy cách
mình kiến trúc câu, thì tôi cho đó là sự thất bại (…) Tôi kiên quyết không lặp
lại cách hành văn” [18;116] . “Người đọc chỉ nhận thấy dáng câu, chứ không
80
bao giờ thấy được kiến trúc câu”.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Truyện ngắn của Tô Hoài khi đọc thường đưa lại một sự hình dung rõ
ràng, nhà văn dùng rất nhiều từ tượng thanh tượng hình, đặc biệt là câu văn
viết ra gợi hình ảnh rất nhiều:
- Tiếng súng vang núi, cuốn theo gió, uôm lại, nghe đầy hai bên tai.
- Tiếng con hươu khô khốc, giật thót, ngay bên cạnh [21;48]
- Làng xóm lặng lẽ, lạnh lẽo, bí mật. Nhưng ngoài đồng, tiếng đập lúa
thình thịch vẫn đều đều. Những đệp thóc gặt rồi phơi vàng rượi trên các mỏm
đá dọc bờ suối [20;5]
- Buổi sáng, từ trong hốc núi cuối thung, mây trắng trôi cuồn cuộn bập
bềnh như sóng trên làng mạc và cánh đồng. Các chỏm núi trên triền núi Cứu
quốc xanh rì nhô lên như những cù lao chơi vơi giữa bể tuyết. [21;14]
- Đêm trên núi cao, gió hun hút hú lên. Con sơn dương kêu kíu kít, rét
lắm. (…) Con sơn dương kíu kít, khắc khoải ghê lạnh như tiếng gió hú.
- Buổi sáng, sương nặng hạt rơi buốt như mưa nay. Dưới thung, vườn
mận nở hoa trắng tinh. (…) Thỉnh thoảng, tiếng mooc - chi - ê xa xa phía chợ
Phủ đội đến, lịm vào sương mờ và rừng hoa mận trắng xóa. Năm nay ăn tết
trong rừng [20;27]
- Gốc rạ mới còn vàng hây. Buổi chiều óng ả cây rơm, cái lóng đựng
thóc đập giữa ruộng, và tiếng trẻ em reo. Cánh đồng gặt thơm ngọt, đầm ấm.
[20;58]
- Đường lũng vắt qua mỏm núi rồi xô xuống một cái triền dài những vạt
đất, vạt rừng kẹp giữa hai sườn yên ngựa. Nhà ở chi chít trổ trong hang. Đại
bác không thể đánh cháy, đánh sập được [20;101] …
Những câu văn trên đôi khi không có cấu trúc đặc biệt nhưng lại nổi lên
81
và hay kì lạ là do sự sắp xếp các chữ trong một câu. Cách sắp xếp này tạo nên
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
một thứ âm điệu nghe rất thích tai khiến ta cứ muốn ngâm lên khe khẽ. Sự vật
từ vô tri đến hữu tri, từ cảnh động đến cảnh tĩnh đều đậm sức sống. “Đường
lũng” biết vắt qua, “vạt rừng” biết kẹp hai sườn ngựa; “nhà ở” biết trổ; tiếng
moóc - chi - ê biết lặn, biết “lịm” vào sương; “làng xóm” lặng lẽ, lạnh lẽo, bí
mật. Không phải là câu tả, mà là câu nói để cho người đọc nghe. Hay như câu
văn “buổi sớm óng ả cây rơm” không biết có đúng ngữ pháp không nữa,
nhưng sao mà hay quá, sao mà bình yên thế. Không có một từ nào tả màu sắc
vậy mà vẫn ngập đầy một màu vàng tươi sáng, rực rỡ, ấm áp.
Những câu văn gợi hình ảnh như thế đọc lên ta thấy mọi thứ đều được
tả thật đích xác, bắt được đặc điểm của sự vật trong khoảnh khắc. Không phải
chỉ do tác dụng của chọn từ, dùng từ, mà do cách viết câu. Từ phải đặt đúng
chỗ, đúng vị trí của câu văn, sẽ tạo ra hình ảnh và công thêm nhịp điệu. Khi
chữ vào óc, bao giờ cũng thành hình ảnh trước “Mỗi câu văn là do từng hình
ảnh xuất hiện liên tiếp từng chữ mang hình ảnh nối nhau. Chữ của câu văn
phải như gõ vào, nó kêu được chữ phải làm nổi hình ảnh liên tiếp. Cấu tạo câu
phải là hình ảnh và hình ảnh liên tiếp”. Hãy đọc một đoạn văn Tô Hoài viết,
mới thấy những hình ảnh xô ra liên tiếp:
“Ông trăng mùng mười vừa lên lơ lửng đầu núi. Ánh trăng rét ngọt.
Dòng suối mờ mờ giữa những tảng đen sẫm. Trai gái làng còn nhớ năm trước
tan kịch cũng trăng rét ngọt như thế này. Thế nào cũng có người kín đáo, đợi
nhau ở đầu bản, tặng nhau chiếc khăn mặt, con dao díp, cái hộp trầu và đưa
quần áo đổi cho nhau giữ làm kỉ niệm. Ông giăng mùng mười lên lơ lửng đầu
núi. Các bó đóm lập lòe về lán trong rừng.” [21;168]. Một đoạn ngắn mà có
tới 8 hành động liên tiếp xảy ra. Hay ở chỗ là quá khứ, hiện tại đồng hiện. Ông
82
trăng mùng mười năm nay cũng như ông trăng mùng mười năm ngoái, cũng
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
vẫn rét ngọt, vẫn có những đôi trai gái hò hẹn tặng nhau kỉ vật. Và dường như
tả được cả bước đi của thời gian: Ông trăng mùng mười vừa lên Ông trăng
mùng mười lên lơ lửng; Dòng suối mờ mờ đom đóm lập loè xuất hiện. Trời
cứ dần khuya, dần khuya rồi.
Câu văn của Tô Hoài dùng có sự đột phá về cấu trúc câu. Có những câu
có cấu trúc phóng túng, đôi khi phá vỡ các quy tắc ngữ pháp thông thường, tạo
nên những câu văn giàu giá trị nghệ thuật. Nhiều câu văn bị lược bỏ chủ ngữ
“Rét ở đá, rét ở bóng tối, rét từ ruột rét ra”; “Bây giờ mới thấy rét thật, rét ghê
quá” [20;236]; “Lại tiếng reo rập rờn đến sau lưng. Rồi lũ lượt nữa ào tới, toàn
dân công” [20;58]; hoặc những câu bị đảo phần vị ngữ lên trước nhằm nhấn
mạnh ý định nói “Ghê nhất là mỗi khi nghĩ mới hôm qua còn nóng nực thì
trong người tự dưng rùng mình như đương cơn sốt, càng rét khiếp” [20;236]
Tô Hoài còn có cách tách câu rất đặc biệt. “Còn bao nhiêu nữa. Cộng tất cả
cái khổ lại, ai cũng khóc, rồi cả một trăm năm mươi người xung phong đi bộ
đội” [21;30]. “Im tựa ngừng lại. Ông già nhớ thoáng ngày tấm bé xa xôi ở với
mẹ trong cái lều vó lặng ngắt giữa bãi lau ngập nước, trông ra chỉ thấy những
tảng đá treo lơ lửng đầu gọng đương hạ xuống giữa tiếng vó cất kêu kẽo kẹt,
rợn như “ma đón nghiến răng”” [21;223]. Những câu ngắt nhịp liên tiếp, điệp
cấu trúc: “Một trăm năm mươi người đi lính cho Tây được học rồi nói ra. 16
người bị đốt nhà. 22 người có cha mẹ, vợ con bị giết. 30 người, nhà có người
chết đói, chết ốm vì mất trâu, vì phải đi tiếp tế, phải đi phu. 34 người phải
đánh, phải tù. 21 người phải dồn làng, mất ruột. 13 nhà phải nói đầy đi mường
khác” [20;195]. Đoạn văn có gì lạ đâu, không nhiều từ láy, không nhiều từ gợi
83
hình nhưng cả một hiện thực phơi bày với chết chóc, li tán, với phu dịch, khổ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
sai. Những con số, kết hợp với sự việc đã nhấn mạnh hơn hết sự khốc liệt, tàn
bạo của cuộc sống nô lệ.
Những câu văn ngắn xen giữa làm cho nhịp câu đột ngột bị ngắt,
chuyển hẳn sang những cảnh, những tình huống khác. “Đêm đến, bốn phía rên
rỉ. Không phải tiếng giun dế. Không có tiếng giun dế. Chỉ có tiếng người khe
khẽ” ; “Trời đục lờ. Sắp sáng. Sống rồi”. [20;237]; “Tiểu đoàn “mũ sắt” 39.
Đại đội Ba-dô-ca. Trung đội địa lôi. Ban chỉ huy trung đoàn 72. Tiểu đoàn 55,
mà đi sau là văn phòng lưu động có cái máy chữ hai người khênh lủng lẳng.
Sau cùng, đại đội du kích Ba Bể. Tất cả lại tiếp tục hành quân. Họ đi dưới
mưa, đoàn người như dòng kiến bò từ từ vắt qua ruộng, qua rừng, qua đèo”
[20;41]; “Một vệt áo chàm đụng đậy và cái ánh nón trắng sáng dưới thung.
Một vệt áo chàm khác từ trong đội vụt ra. Đấy là Kim” [20;66]. Đa dạng và
phong phú, không có sự lặp lại, tất cả đều biến đổi. Câu đơn giản, không lồng
ghép các bộ phận, vậy mà cần tả gì là tả được nấy. Cần chuyển đoạn chỗ nào
là chuyển được ở chỗ đấy. Dường như dùng chữ, sắp xếp hình ảnh không phải
là một thao tác thông thường, mà nhờ đó nó tạo thành một sự liên kết, sự liên
kết của hơi văn. Hơi văn tạo nên mạch ngầm của đoạn, tạo được không khí,
cảm xúc mà tác giả muốn nói đến.
Cấu trúc câu, dùng câu chính là một thế mạnh của Tô Hoài.
3.1.2. Ngôn ngữ mang nhãn quan đời thường – chuyện thường
Tô Hoài là một nhà văn của “chuyện thường, đời thường, người thường”,
ai cũng biết nhận định này. Nhưng phải đọc những tác phẩm của Tô Hoài mới
biết hết điều đó. Chỉ đọc văn Tô Hoài người ta mới thấy có thật nhiều nghề của
cuộc sống: nghề đóng cối; nghề ngả cây ở công viên; nghề mài dao, nghề móc
84
cống; nghề bán chè tươi; nghề đưa gói hoa cúng hàng tháng; nghề đi câu, nghề
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
đánh rậm, nghề cắt cỏ công viên, nghề chặt cành si bán cho voi vườn bách thảo;
nghề lấy nước vo gạo… Cuộc sống hiện hiện ra sau những chữ dùng của Tô
Hoài.
Sự am hiểu sâu sắc ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ nghề nghiệp chính là
một lí do để ông trở thành nhà văn của đời thường. Chính ở đây người ta mới
thấy được công phu học chữ, công phu thâm nhập thực tế tiếng nói dân tộc của
tác giả. Chỉ một đoạn ngắn thôi mà có bao nhiêu chữ về công việc của người thợ
cửi “Trong “tàu seo” vừa róc rách nước “vét tàu” bây giờ đã nặng tiếng động
liềm. Những cô thợ tan “seo đèn” đã đốt đuốc về trong xóm từ lâu. Hạ đứng seo
mà bồn chồn” [21;231]. “Tàu seo” là một thứ thùng hay bể nhỏ đựng nước có bọt
dó và nhựa gỗ mò dùng để seo giấy. Liềm tức là liềm làm giấy là một loại lưới
đan bằng thanh tre vót thật nhỏ như một thứ dây để cho vào khuôn seo khi seo
giấy. Còn “seo giấy” là đặt liềm vào khuôn, nhúng xuống tàu seo lắc chao cho
thành hình tờ giấy trên mặt liềm. Seo đèn là một công đoạn của dệt cửi. Có rất
nhiều rất nhiều những từ chuyên môn như thế, mỗi nghề lại có những am hiểu
riêng: nghề làm cối “Cụ phó Cả đi đào trộm những gốc tre đực, những cây tre
chết gióc, vác về ngâm giấu xuống ao. Cụ chẻ tre, chẻ mây, đánh đai nan, cưa tai
cối, lõi cối. Thằng Tần đẽo gọt làm dăm, làm đinh. Cái dăm nhọn bằng chiếc
chông tre. Cây tre đực đã chắc, tre dăm cứng như đinh sắt. Thớt cối đẩy nhẹ
nhàng, trấu bay ra như rắc hoa, mấy mùa mới phải xem lại. ... Tôi thì độc một
việc tìm đất lèn thớt cối. Xi măng còn nẻ, còn mòn, chứ hai thớt cối đêm này
nghiến nhau ken két mà những chiếc dăm cối cứ trơ ra như hàm răng bàn cuốc
của cái đứa trẻ ranh mười tám. Đất thịt, đất thó gan gà mịn đến đâu, tơi đến đâu
cũng không thể ví được với đất tổ mối - đất cứt mối làm tổ đùn lên, chỉ đất tổ mối
85
mới luyện được mặt thớt cối. Những tổ mối ngoằn ngoèo lên ở chân đê, chân tre,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
gò bụi tầm xuân, từng tảng đỏ ngòn như xây luỹ. Đấy là cứt mối, mối ăn đất đào
hang rồi lại ỉa ra đất, đùn cứt ra cửa. Đất mối tơi hơn tất cả các thứ đất trên đời,
lại quyện rớt rãi trong bụng con mối, đất như có keo dính” [21;384]. Ai mà biết
được, cối lại làm từ đất cứt mối, những dăm cối lại phải tìm một thứ tre già đặc
biệt đến vậy. Phải ham tìm hiểu, say tìm kiếm, Tô Hoài mới viết được thật đến
vậy. Người đọc chỉ ngồi tại chỗ mà biết được sự vận động bên ngoài, tìm hiểu
được cuộc sống xung quanh mà không phải nhọc công.
Song hiện thực - đời thường không chỉ ở sự am hiểu ngôn ngữ, mà còn
ở cách chọn ngôn ngữ sử dụng. Thứ ngôn ngữ kiểu cách, trau chuốt đã dần lùi
xa vào thời Tự lực văn đoàn, còn ở giai đoạn mà Tô Hoài sống cần một thứ
ngôn ngữ mang sắc thái đời thường hơn. Chất nên thơ vẫn đậm trong trang
văn của Tô Hoài nhưng bên cạnh đó có thêm một thứ ngôn ngữ thô nhám, xù
xì. Ngôn ngữ văn xuôi bớt đi vẻ trang trọng, trịnh thượng mà gần gũi với đời
thường, thẳng thắn trong cách định danh, định tính, suồng sã trong giọng điệu,
thành phần khẩu ngữ gia tăng, cú pháp linh hoạt, mềm mại. Những tên địa
danh, tên người mới thật gần gũi: Tư, Hùng Vương, Pí Cáy; Tào Lường;
Mường Giờn, Sạ, Ính; Lín; Pảo; Bi, Vồ; …
Tô Hoài còn xen lẫn tiếng địa phương, tiếng dân tộc vào câu văn tạo
màu sắc vùng miền: “Cá (bố) có về không/ Cá không về/ Cá bảo mời đồng chí
ra chơi ăn cơm ngay” [20;5]; “Húi dà, khổ lắm, đau lắm, lúc trước thằng Pháp
nó làm người ta khổ lắm, đau lắm” [20;14]; Cách nói bằng những hình ảnh
định lượng của người miền núi: “Sắp đến chưa? Còn một dốc nữa.”; “Tao nhớ
mái cái thù mày giết Tào Lường. Bao giờ tao có chết thì mới để mày lấy mất
86
độc lập của tao…”[20;14]
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Ngôn ngữ tự sự mang nhãn quan đời thường, chuyện thường chính là một
nét đặc biệt trong truyện ngắn Tô Hoài. Không phải nhà văn nào cũng có thể dùng
thật hay những từ ngữ trong sinh hoạt hàng ngày hay và chuẩn như vậy.
3.2. Giọng điệu tự sự
Giọng điệu là linh hồn của ngôn ngữ tự sự, góp phần tạo nên sự thành
công của một văn bản tự sự. Có nhiều quan niệm khác nhau về giọng điệu
nhưng hầu hết đều thống nhất cho rằng “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập
trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với các hiện tượng được miêu tả
trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên dùng từ, sắc điệu tình cảm, cảm
thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”.
Giọng điệu có thể được coi là yếu tố hàng đầu xây dựng phong cách nhà
văn, phân biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác. Một văn bản tự sự (truyện
ngắn, tiểu thuyết; hồi kí, tự truyện) có thể là sự pha kết giữa các giọng điệu
nhưng thường chỉ có một giọng điệu chủ đạo bao trùm tác phẩm, chi phối cách
kể chuyện. Có nhiều kiểu giọng điệu và nhiều yếu tố tạo nên giọng điệu. Quan
trọng nhất trong các yếu tố tạo nên giọng điệu chính là do điểm nhìn của
người kể chuyện. Điểm nhìn đặt ở góc nào, con người như thế nào sẽ quy định
giọng điệu, thái độ, tình cảm của lời tự sự.
3.2.1. Tính phức điệu: Sự kết hợp giọng điệu trong một văn bản tự sự
Nhà văn nào cũng cố gắng tạo ra một sự kết hợp giọng điệu. Giọng
điệu càng đa dạng, càng phong phú, được kết hợp linh hoạt càng thể hiện
được rõ thái độ, tình cảm, nhận thức của nhà văn trước cuộc sống và nhờ đó
mà tác phẩm có sức lôi cuốn. Thế giới muôn mầu muôn vẻ, khó có thể kể
hay về những điều xảy ra trong cuộc sống dưới một giọng điệu, một góc
87
nhìn. Mỗi tác phẩm đương nhiên sẽ có một giọng điệu chủ chốt, nhưng Tô
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
Hoài không gò ép truyện ngắn của mình trong một giọng điệu đó, mà mỗi
truyện ngắn là sự kết hợp khéo léo giữa các giọng điệu. Các giọng điệu đan
xen nhau, tạo ra những nếp gấp cho cuộc sống, khiến nhịp sống trôi đi khi
nhanh khi chậm.
Đọc truyện ngắn Tô Hoài sau 1945 ta thường gặp một giọng điệu đa
thanh mà ở đó khi thì ngôn ngữ của nhân vật, khi thì ngôn ngữ trần thuật của
người kể chuyện, có khi là lời bình đan xen của tác giả tạo nên những trang
viết sinh động và hấp dẫn. Bằng cách này, tác giả giúp người đọc thâm nhập
vào thế giới của nhân vật, lí giải những hành động, lời nói của nhân vật qua đó
giúp bộc lộ tính cách và làm phát triển tiết tấu của truyện.
Sự đa thanh trong truyện ngắn của Tô Hoài có hai hiện tượng: đối thoại
giữa nhân vật với người kể chuyện; đối thoại giữa người kể chuyện với độc
giả. Hiện tượng đối thoại giữa nhân vật với người kể chuyện xảy ra khi nhân
vật và người kể chuyện là một. Người kể chuyện xưng “tôi” vừa giữ vai trò kể
chuyện nhưng đôi khi lại trò chuyện với chính mình. Ông Cõi trong truyện
ngắn Tình buồn, trên con đường đi từ làng Giang qua sông để thăm bà cụ Tứ,
người yêu từ xa xưa, trên con đường ngắn ngủi đó, có bao nhiêu trăn trở, bao
nhiêu bâng khuâng, ông Cõi tự nói với mình để giãi bày. “Nghĩ thế thì tôi bồi
hồi giật mình. (1) Làm sao chỉ vài bước chân mà cả đời tôi không nghĩ được
ra, không tìm ra cô ấy ở đâu mà cô ấy dường như vẫn biết tôi, vẫn nhìn thấy
tôi. (2) Nếp nhà ba gian lợp lá mía, chát xi măng xám nhạt.(3) Trước sân, hai
cây mít xum xuê lá. (4) Một vườn xoan sau nhà. (5) Cái cổng rong cành rào
chống hốc, con chó cũng chui lọt. (6) Nhà tuy ngăn nắp nhưng chẳng có của
nả, cũng không cửa giả nên hồn. (7) Tôi bỗng ngỡ tôi đương đi về nhà tôi. (8)
88
Ừ giá mà ngày ấy chúng tôi lấy được nhau thì nhà cửa, vườn tược, con cái
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chắc cũng tương tự đại khái thế này. (9) Ngày ngày ra sông xuống đồng kiếm
cái ăn, cả đời người chẳng có điều phải nghĩ xa nghĩ gần. (10) Ở trong làng
xóm, ngẩng mặt lên bốn phía bờ tre mù mịt, quan tâm đâu đến ngoài kia đồng
đất thế nào, tôi đương đi về nhà tôi đây(11)”. [21;381] Câu (1), (3), (4), (5), là
lời trần thuật của người kể chuyện, tả về quang cảnh ngôi nhà, về nơi mà để
lại nhiều yêu dấu. Câu (2); (7); (8); (9); (10) là những lời giãi bày, là những lời
tự hỏi, tự trách. Tại sao lâu thế mà “tôi” không một lần dũng cảm tìm lại
người xưa, nếu chục năm trước, anh cả Cõi cũng có quyết tâm, dũng khí
vượt qua những rào cản, những định kiến thì giờ đây chắc của cuộc sống
của ông cũng không đơn độc, còn bà lão Tứ cũng không phải ôm nỗi buồn
dai dẳng suốt bao năm. Đây gần như là một cách độc thoại, tự hỏi mình. Ở
đây có sự phân vai, người hỏi, người trả lời. Hoặc đôi khi chỉ có lời hỏi còn
câu trả lời là sự im lặng. Điều này giúp cho nội tâm nhân vật được soi tỏ và
tạo được niềm tin nơi độc giả.
Hiện tượng thứ hai là người kể chuyện đối thoại với độc giả. Trong
những giai đoạn then chốt của câu chuyện, người kể chuyện đưa ra lời bình
luận, đánh giá. Trước tình cảnh đáng thương của Mái (Nước mắt), không ai
không động lòng, mỗi người một kiểu thương khác nhau. Người kể chuyện
chêm vào những lời trữ tình ngoại đề đưa ra nhận xét của riêng mình.
Người kể truyện nói với độc giả, hay là đang nói chuyện với chính mình.
“Có biết đâu, không phải người ta chỉ khó chịu, chỉ thờ ơ. Những người
già thì ngậm ngùi, rầu rĩ, đương nghĩ, đương nhớ gì khác chứ chẳng phải
xót thương đứa con gái tàn tật. Mấy cô hàng xóm ghé mặt sau vách đưa
nửa con mắt nhìn vào. Vẫn thấy Mái, có lúc gật gật vu vơ chẳng nhằm ai,
89
có lúc lắc lia lịa. Nhưng chỉ cái cười ơ hờ của Mái, người đương cáu kỉnh
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
cũng thấy thương. Con bé câm chỉ biết cười, làng xóm vẫn thương hại thế”
[21;406]. Những lời bình luận, đánh giá này giúp định hướng người đọc để
tìm hiểu sâu hơn về tác phẩm.
Sự đa thanh, đa sắc điệu làm câu chuyện bớt nhàm chán. Và nhiều
người cùng kể, cùng bình luận, cùng trò chuyện khiến nội dung và tư tưởng
cũng như tính cách của nhân vật được bộc lộ.
3.2.2. Các kiểu giọng điệu chính:
3.2.2.1. Giọng ân tình, chân thực:
“Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá”,
đó là tâm trạng của Tô Hoài sau một cuộc hành trình đi sâu tìm hiểu quần
chúng. Sống chan hoà và hoà nhập với nhân dân, cùng ăn, cùng ở, cùng làm
với đồng bào đã khiến cho Tô Hoài có một tình cảm sâu sắc đối với họ. Vì thế
“Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành
người, thành việc trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi
sáng tác” [35;80]. Tình cảm sâu sắc và vốn kiến thức, tài liệu thực tế mà Tô
Hoài thu thập được đã giúp ông viết nên những truyện ngắn mang nét riêng về
miền núi. Ông viết với cả tình cảm, cả những nhớ thương và những gì ông
quan sát được nên giọng điệu trong các tác phẩm này là một giọng điệu chân
thực mà ân tình.
Tập truyện Núi cứu quốc, Cứu đất cứu mường; Mường Giơn; Truyện
Tây Bắc đều được kể bằng giọng điệu này. Chân thực vì sao? Không như
những nhà văn lãng mạn ngày xưa viết những truyện đường rừng tưởng tưởng
với những cảnh nên thơ giả tạo, và những cô gái dân tộc bí ẩn, hoang dã.
Những ma thiêng, nước độc, những cách sống theo bản năng, những phong
90
tục tập quán quái dị, man rợ… Tô Hoài không viết thế. Từng truyện ngắn cho
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
ta hiểu đúng về những con người ở nơi đây cần cù vất vả: “Mỗi năm thường
thiếu ăn đến ba bốn tháng. Cứ đầu tháng Giêng đã phải đào củ pẩu ăn đợi ngô.
Có năm mất ngô vì con gấu, con sơn dương, con rím về làm hại, bố con ông
Ké ăn nhiều củ pẩu quá, hai mu bàn chân phù to, không thể đi làm được”
[20;14]; chân thực và giản dị “ Ông ké Sểnh bỏ cái tay xỉa răng nheo mắt:
- Au Việt Nam! Nước boong hây vì pển từ lốm hẩu Tây? (Nước Việt
Nam! Nước Việt Nam vì thế nào mà mất cho Tây) - Tiếng hát i í thảm thiết,
rên rỉ như tiếng khóc. Bài hát dài (…) ánh lửa bếp chấp chới bùng lên. Được
thấy ké Sểnh khóc thật. Nước mắt nham nháp thấm xuống má khô nheo. Được
trố mắt nhìn ké Sểnh. Ké Sểnh mếu máo cười:
- Nó buồn quá cháu à” [20;14]; nồng hậu, ấm áp “Còn ít ngày nữa thì
đến Tết. Nghe nói Tết này bộ đội về ăn Tết với mường (…) Ai nấy thiết tha
mong. Nhà nhà tấp nập. Nhiều nơi đã mổ lợn sấy thịt. Ngày nắng, trên các
sân ảng, khói bếp nấu rượu bốc nghi ngút. Hai chum rượu cần đứng đầu cột
đã cắm điệu đợi vui Tết có người đến hút. (…) Trai gái làng may áo mới,
tập xoè. Ngày nào các chị cũng đi lấy lá thơm gội đầu. Các làng Mèo trên
núi từ xưa vẫn ăn Tết đầu tháng chạp, năm nay Tết đã qua rồi, nghe có bộ
đội về, cả làng lại rục rịch ăn Tết lại” [20;81] và anh dũng, quật cường
“Một tháng nay chúng tôi đã tấn công đuổi địch chạy quanh Lao Chải, vó
chân sắt của bộ đội Lao Hà đã từng băng qua các đỉnh núi lạnh ghê người,
đá sắc như dao. Những con người này đã từng được ruồi vàng đốt mưng mủ
sưng người như thằng phỗng. Đủ vành đói khát rồi. Được, Tây Côn Lĩnh!
Tây Côn Lĩnh kia! Xưa nay chưa ai trèo qua đầu mày thì ngày mai bộ đội
91
Việt Nam sẽ trèo qua đầu mày” [20;234]. Càng đọc, ta lại càng thêm yêu,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
thêm quý nhiều hơn những đồng bào dân tộc bởi lòng thuỷ chung, sự trong
sáng và khát vọng quật cường vươn lên.
Tô Hoài đã dùng một giọng điệu ân tình da diết để tạo nên những nét
hài hoà, ấm áp mầu sắc, êm ái âm thanh để vẽ ra những bức tranh đẹp về cảnh
Tây Bắc “Mùa xuân năm nào cũng vậy. Những nương lúa âm thầm cứ dần dần
vàng hoe rồi đỏ ngọt trong khe sâu. Các tổ đổi công lần lượt mải miết gặt”;
“Giữa trưa, nắng hanh đang đọng từng vũng trong rừng trám cao vút, im lặng.
Một chiếc cuống gẫy cũng nghe tiếng. Đó là hương nhu để trên tảng đá mùi
thơm dịu trong nắng” [21;30]. Phải yêu biết bao, hiểu biết bao, nhớ thương
biết bao thì Tô Hoài mới viết được những câu văn trong trẻo, thật hay, thật
sống động như thế.
Những truyện ngắn viết về miền núi không chỉ là một bức tranh đẹp về
cảnh vật, một bản cáo trạng chứa hờn căm, nó còn là lời tri ân da diết. Giọng
kể ân cần hơn, trìu mến hơn, khi cần căm hờn thì căm hờn “Tao nhớ mãi cái
thù mày giết Tào Lường. Bao giờ tao có chết thì tao mới để mày lấy mất độc
lập của tao” [20;14]; khi bình yên thì thật bình yên “Sạ và Mát im lặng.
Nhưng, tự dưng Ính cứ cười giòn tan. Tiếng cười hoà với tiếng đùa cợt của
đám trẻ nhặt rau đằng xa, không thấy bóng mà chỉ nghe tiếng nô giỡn đưa lại.
Câu chuyện ba người cứ vẩn vơ vui vui thế. Ính còn đòi anh Sạ kể cổ tích
thêm nữa. Nhưng từ lúc nãy, không biết Sạ mải nghĩ điều gì. Sạ im lặng rồi
hẹn mai đi bắt hiu hiu thì kể” [20;197]…
Những bản tình ca Tây Bắc cứ ngân mãi trong lòng người đọc, dù đôi
chỗ tác giả còn chuộng lạ, khoe chữ; nhiều chỗ viết còn tự nhiên, còn chế
giễu và chưa đến được cái thật của sự việc nhưng trên hết vẫn là một giọng
92
điều trìu mến, da diết nhớ thương.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
3.2.2.2. Giọng ngậm ngùi, xót xa
Mỗi khi nhớ về những kỉ niệm trong kí ức, giọng kể dường như trùng
xuống trong sắc thái ngậm ngùi. Những truyện ngắn mang dáng dấp của hồi
kí, nhật kí thường có một giọng điệu như thế. Ngậm ngùi trước cảnh ngộ của
nhân vật, xót xa cho sự nghiệt ngã mà số phận đổ lên đầu con người. Giọng
điệu ngậm ngùi, xót xa đặc biệt dành nhiều ưu ái cho những số phận của
người phụ nữ. Thào Mỵ, Hắt, Hoa hay bà cụ Tứ, bà lão Phảy, bà Ảng, Mỵ,
Mái… đều là những người phụ nữ có số phận bất hạnh. Mỗi người một nỗi
khổ riêng. Thào Mỵ bị ép ngả từ năm lên mười cho một thằng bé mới lên bốn.
Thào Mỵ sợ hãi trước số phận đời mình nhưng không có cách nào đành lấy
chồng. Đã mấy lần ăn lá ngón mà không chết. Đó như là một món nợ từ kiếp
trước mà kiếp này Thào Mỵ phải trả, giọng kể xót xa đến rơi lệ “Mỗi buổi
chiều, nắng bên này ngả về bên ấy, bóng núi sang theo, như núi liền nhau.
Nhưng thật thì không có đường sang và em sợ lắm, em không biết mặt nó bao
giờ (…) Sợ cứ sợ, nhưng cái nợ lâu năm còn phải sợ hơn. Mẹ em sợ em phải
lấy người Mèo hoa nhưng lại bảo em: Con ơi! Con đến tuổi lấy chồng rồi, con
có thương bố mẹ thì con đi lấy chồng cho bố mẹ có phận nhờ mà trả được nợ
người ta” [20;252]. Thương gia đình, thương bố mẹ, Thào Mỵ đành lấy chồng
và chịu nhiều cơ cực.
Rồi những Mỵ, Mát, bà Ảng đều là những cô gái đẹp, nhưng hồng nhan
thường bạc mệnh, “dân trắng mà đẹp thì chỉ sinh lo, sinh bệnh cho cha mẹ!”, tất
cả đều bị những tri châu, những thống lí, những châu đoàn, những quan bang,
quan lang rồi lại quan đồn Pháp cướp đi. Giọng văn như ai oán, như trách móc,
93
như kêu than “Sinh làm thân con gái đã không bao giờ được làng chia phần
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
ruộng, một đời chỉ ăn ké ở đậu, lại để cho bố mẹ phải lo nghĩ nghèo khổ vì mình.
Cho nên em như bó củi trong rừng lấy về, đặt đâu em ở đấy” [20;81].
Sự cảm thông, nỗi xót xa đâu chỉ dành cho một ai. Ông Vãn, một ông già
tốt bụng, đã mất con mất vợ trong một lần bom dội. Cái chết đến bất ngờ nhanh
quá. Mãi sau rồi càng lâu lại càng ngấm, mỗi lần chợt nhớ cảm thấy buốt xương
sống, thấm thía cái đau từ đâu thui thủi đến. Truyện ngắn đặt tên là Nước mắt, có
phải vì tất cả các chi tiết, các lời nói đều là những giọt nước mắt của nhân vật đau
đớn cho số phận mình, đau đớn và cảm thông cho nhân vật khác. Giọng văn
buồn thương, xoáy sâu “Hình như càng lâu càng về già, cái nhớ càng dai dẳng
đeo đuổi, không nhãng đi được. Nhớ đến hoảng hốt, phấp phỏng, trông thấy con
sao mà buồn thế, con ơi!” [21;406].
Cảm thông trước sự bất hạnh của số phận, tác giả đồng cảm cùng nhân
vật, để cho nhân vật có dịp được giãi bày. Bà lão Phảy cứ âm thầm uống rượu,
âm thầm buồn vì sự cô quạnh tuổi già. Thời trẻ bà cũng từng đến nơi phồn hoa
đô hội nhưng đến khi về già thì không có ai. Nỗi buồn cứ sánh lên cùng hơi
rượu, giọng kể cứ trùng xuống với suy tư và cuối cùng là những giọt nước mắt
“ Tôi rũ cái áo “xường xám” lụa màu hoa đào, gấp nếp phẳng ra rồi giơ lên
ướm trước mặt bà lão. Màu hoa đào phơi ra như ngoài kia có nắng hắt vào, với
tiếng pháo đón xuân rào rạt vang động. Cái áo thời ấy đấy, thế thì người ta còn
có hồn, chết rồi còn gặp nhau, cái áo xường xám này vẫn như xưa, vẫn đây
mà. Bà lão lại móm mém cười, hai tay đẩy tấm áo ra, nước mắt chan chứa
xuống hố mắt” [20;289].
3.2.2.3. Giọng suy ngẫm, triết lí:
Một đề tài cũng khá phổ biến trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945 là
94
cuộc sống của con người nơi vùng ven đô thời hậu chiến. Con người thuần hậu,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
chất phác, đang tự bươi trải trong một xã hội mới, vừa mới bước ra khỏi chiến
tranh nên mỗi người sẽ chọn cho mình một cách kiếm sống, để tồn tại. Chính lúc
này, bản chất con người bộc lộ, và có rất nhiều những ưu điểm, và nhược điểm
được bộc lộ. Điều này khiến cho tác giả suy nghĩ, suy nghĩ rất nhiều.
Nhân vật Tần và “tôi” trong truyện ngắn Cối, cối ơ đã cùng nhau lớn
lên, cùng nhau theo học nghề làm cối, rồi sau kháng chiến chống Mỹ, chống
Pháp, tôi và Tần mỗi người một con đường, một cuộc đời. Tần thì đi đến đâu
cũng có người cơm nước hầu hạ, còn Tôi lận đận mãi vẫn không xong, mà
thấy cái việc gì làm cũng bạc bẽo. Cuộc đời run rủi tôi và Tần gặp lại nhau.
Uống rượu, và hàn huyên cả hai mới biết những toan tính, những thay đổi của
cuộc đời chả ra sao. Truyện mở ra bằng một câu triết lí “ Cái đau, cái vui chắp
lại thành ngày tháng, ngày tháng cả đời tôi chỉ có mưa dầm chẳng lúc nào
tạnh. Giá mà ngày ấy cố theo anh em, giá mà cứ ở quách trên ngược thành ông
bủ trồng sắn… Đời người tôi cũng chỉ toàn những cái giá mà…” [21;384] và
kết thúc bằng những suy ngẫm “Chưa không quên cái nghề đóng cối. Mà từ
thuở lọt lòng đến nay chúng tôi thật sự chỉ có mỗi nghề ấy, quên thế nào được.
Tần lại chồm lên, hai tay vồ xuống đất réo lên: Cối, cối…” [21;405]
Bác Niệm là câu chuyện đời thu gọn trong vài chục trang giấy. Giọng
điệu chủ chốt của tác phẩm là giọng suy ngẫm, triết lí. Bác Niệm triết lí về
cuộc đời, còn tôi suy ngẫm về cuộc đời bác Niệm. Khi còn làm anh nuôi cho
cơ quan ở Việt Bắc, bác là người cẩn thận luôn trồng đủ các loại rau gia vị,
trước cửa, đủ các thú gia cầm, vật nuôi bởi vì theo bác “Ở đời thì người nào
việc nấy, cả con chó cũng có việc của con chó. Nấu ăn thiếu gia vị như ăn
không muối, đắng miệng. Miếng thịt, con cá rán kĩ. Nồi kho phải đủ gừng,
95
thảo quả. Cái đậu rán thì ướp hành. Dẫu cho chỉ bát canh suông nấu quả dọc,
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
nhưng thêm mấy lát hành, cũng dễ lùa cơm hơn” [21;263]. Rồi khi bác Niệm
không còn làm anh nuôi nữa, bác kiếm nghề khác trong thành phố để cu Nam
có điều kiện học hành thì cả cơ quan tiếc bác, nhớ bác. Một thời gian sau,
“tôi” - nhân vật người kể chuyện gặp lại bác Niệm. Bác vẫn thế, vẫn chỉn chu,
vẫn cẩn thận. Bác Niệm đem những cuốn sổ bác ghi chép lại đời mình muốn
in thành sách. Lúc này, trong tôi dâng lên một sự trân trọng, kính nể vô cùng
“Tôi lại hiểu bác Niệm cầm bút hay chẻ củi, mọi công việc đều ngành ngọn, đến
đầu đến đũa. ở con người như bác Niệm, khi trồng búi giềng, cây ớt hay đẩy cái
củi vào giữa bếp cho lửa đượm đều, hay mài cái rìu sắc, xắn cuộn thằng đay để
dòng cho cẩn thận cái cây ngả, đều công phu như đêm ngày lo toan về đứa con”
[21;279]. Và tôi triết lí về cái nghề viết văn “Không phải người ta cứ nghĩ thế nào
thì viết được ra đúng thế. Tấm lòng bác Niệm cao xa và thiêng liêng hơn gấp bao
nhiêu lần bác Niệm viết thành chữ. Chữ của bác chẳng nói được nỗi lòng bác.
Nhưng tôi cứ thấy ở mỗi câu hiện ra cuộc đời, trong đó có cả niềm hân hoan mãi
sau lúc ấy người viết không còn nữa” [21;279].
Có bao triết lí tác giả tự rút ra trong cuộc đời, suy ngẫm về cuộc đời của
những người làm nghề đào hát, suy ngẫm về cuộc đời nhiều trôi dạt của những
đứa trẻ lai, về cô giáo vùng cao, và về những con người đang cố gắng kiếm tìm
một cuộc sống mới. Có lên án, có chế giễu, nhưng thẳm sâu hơn là những suy
ngẫm đầy lòng nhân đạo, đầy tình người cho những cuộc đời, những con người.
3.2.2.4. Giọng trữ tình, hoài niệm:
Dễ dàng nhận thấy truyện ngắn sau 1945 của Tô Hoài có một giọng
điệu mang sắc thái trầm buồn. Sầm Sơn; Người ven thành; Câu chuyện bờ
đầm sen bên đền đồng cổ; Hoa bìm biển; Tình buồn … là những tác phẩm
96
mang giọng điệu trữ tình, hoài niệm với sắc thái trầm buồn man mác. Nhớ
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
thương, hồi tưởng, hoài niệm về những gì xảy ra trong quá khứ với nhiều éo
le, bất hạnh, nhà văn không thể cười được, cũng không thể bình tâm được mà
Tô Hoài cảm giác như đó chính là tâm sự của mình mà buồn, mà ngậm ngùi.
Sầm Sơn, cuộc đi chơi lần đầu trên bãi biển Sầm Sơn của Liu Sa, một
thiếu nữ H’mông trắng, câu chuyện sẽ không có ý nghĩa gì nếu không có cái
kỉ niệm về tâm tình thầm kín giữa anh cán bộ Chu với Khúa Ly, chị của Liu
Sa. “Chu dắt tay Liu Sa líu díu bước khỏi ngọn sóng. Chu nghĩ thầm: Liu Sa
giống chị quá. Nhưng lúc này, nghĩ thế, Chu không thấy gợn buồn. Vết
thương trong lòng Chu cũng là viết thương chiến tranh trên mình Tổ quốc”
[20;268]. Những nhận xét thơ ngây của cô thiếu nữ H’mông trắng về nước
biển, về bãi cát, về những chấm lửa của đèn đánh cá ở Sầm Sơn trong đêm
trăng chỉ làm cho Chu nhớ lại miền núi, nhớ lại quê hương kháng chiến và
mối tình giữa anh và Khúa Ly ngày xưa. Tô Hoài như cùng nhân vật hoài
niệm “Chu im lặng, dừng lại. Anh đang nghĩ gì? Anh đang nghĩ đến những
ước mong của con người, những vui sướng tới được ước mong ấy. Thì nỗi
buồn khác lại man mác hiện ra, Khúa Ly, Khúa Ly ơi!” [20;273]. Quá khứ đã
xa rồi, những mất mát cũng qua rồi, nhưng “Dù kỉ niệm nhẹ nhàng nhất thì
bao giờ cũng đượm buồn. Huống chi những chuyện buồn thảm đã qua ấy”
[20;276].
Tình buồn lại là một hoài niệm khác. Bà lão Tứ từ khi lấy chồng đã bị mang
những tiếng oan, tiếng thị phi đồn thổi. Nhưng thời gian cứ qua đi, con cái khôn
lớn, điều tiếng cũng bớt dần. Câu chuyện sẽ chẳng có gì nếu thiếu đi đoạn cuối, khi
bà lão Tứ ốm gần đất xa trời nhưng không quên bắt anh giáo Nhất phải sang làng
Hạ mời ông Cõi sang chơi. Ông Cõi “chỉ mới nghe thoáng thế thôi, đã như thấy
97
ngay cả rồi. Như là có thần linh giao nhau khi người ta cũng nghĩ đến nhau hay là
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
bởi nét mặt người đàn ông này, cái mũi và con mắt sao mà phảng phất cô ấy đến
thế” [21;372]. Và từ đây kí ức của mấy chục năm trước ùa về trong tâm trí của ông
Cõi. Mối tình đầy trái ngang giữa cô gái con nhà giàu và anh chàng nghèo. Cô gái
cứ một lòng chung thuỷ cứ “xểnh ra lại đi tìm tôi” rồi khóc hết nước mắt, bị đánh
thừa sống thiếu chết vậy mà vẫn quyết tâm một lòng yêu nhau, rủ nhau cùng trẫm
mình tự vẫn. Câu chuyện vốn đã buồn lại càng buồn hơn bởi cái giọng điệu da
diết, đầy buồn thương “Thế rồi chỉ một việc nhẹ nhàng, vừa tan hoang lại vừa
xong. Bố mẹ cô ấy đã tìm gả được chồng cho con gái. (…) Một hôm, cô ấy đi chợ
rồi không về nữa. Thế là biệt tăm từ ngày ấy” [21; 380]. Mối tình dang dở đó đã
biến ông Cõi thành một người đơn độc cả đời còn bà lão Tứ “cả một hồi còn trẻ
không khi nào mẹ đi xem hội đình đám hát chèo ở đâu, cũng chẳng biết mặt cái
chợ huyện, mà quanh năm mẹ chỉ như gái đẻ chít khăn vuông xùm xụp, ra cái chợ
hôm lèo tèo mấy mủng cá tếp ươn của nhà chài dưới sông đêm lên đầu làng lúc
xẩm tối” [21;380]. Nhà văn bồi hồi cùng nhân vật khi bước trên con đường để gặp
lại người xưa “Làm sao chỉ vài bước chân mà cả đời tôi không nghĩ được ra,
không tìm ra cô ấy ở đâu mà cô ấy dường như vẫn biết tôi, vẫn nhìn thấy
tôi”[21;382].
Giọng trữ tình, hoài niệm không chỉ được biểu hiện trong tác phẩm
mà ngay từ cái nhan đề, cho đến không gian, thời gian đã thấy điều đó.
Tình buồn, buồn ngay từ cái nhan đề, rồi buồn vào đến không gian căn
buồng nơi hai người gặp gỡ cho đến thời gian là một buổi chiều muộn;
Sầm Sơn là đêm tối bình yên với không gian rộng lớn Sự tương phản giữa
không gian rộng lớn với con người bé nhỏ khiến cho cảm thức về nỗi nhớ
càng trối dậy. Người ven thành, Câu chuyện bên bờ đầm sen bên đền đồng
98
cổ, Hoa bìm biển, đều tái hiện những không gian trong quá khứ, những
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
con người trong quá khứ. Vào sâu văn bản, những tác phẩm này được viết
với những nhịp văn chậm giãi, sử dụng nhiều những thán từ “Chao ôi”
“Thật là”; “Khúa Ly ơi! Chư ơi! Xa lắm rồi!” … Kết hợp với những câu
hỏi tu từ “Phải làm sao? Không thể quay về được ư? Làm sao chỉ vài bước
chân mà cả đời tôi không nghĩ được ra”, tự hỏi mình mà không bao giờ có
thể giải đáp được. Các tác phẩm trùm lên một không khí buồn, một thanh
âm trầm lắng, cứ len lỏi trong cảm xúc, suy nghĩ của người đọc.
* Tiểu kết: Dễ dàng nhận thấy sự nỗ lực học chữ và sử dụng chữ của
nhà văn Tô Hoài. Khi đọc truyện ngắn của Tô Hoài ta thấy một thứ tiếng Việt
phong phú và trong sáng và gần gũi đến vô cùng. Sử dụng từ táo bạo cộng với
lối hành văn độc đáo đã tạo được hình ảnh, nhịp điệu cho truyện ngắn. Bên
cạnh ngôn ngữ, ta còn ấn tượng bởi giọng điệu. Khi ân tình da diết, khi đồng
cảm sẻ chia, khi lại trầm ngâm suy tư… những sắc điệu đan xen nhau, kết hợp
với nhau tạo thành một bản hợp tấu đa thanh, đa giọng trong truyện ngắn Tô
Hoài. Ngôn ngữ và giọng điệu tự sự là một trong những yếu tố tạo nên sự
99
thành công của truyện ngắn Tô Hoài.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
C. KẾT LUẬN
1. Vào nghề văn không quá sớm nhưng Tô Hoài đã tạo ra một cơn lốc
văn chương. Một sức viết dồi dào, một năng lực văn chương kì lạ đã giúp Tô
Hoài trở thành một trong những nhà văn thuộc hàng đại thụ trong văn học Việt
Nam. Sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài được chia theo sự phân kì lịch sử, các
tác phẩm sáng tác trước Cách mạng và các tác phẩm sáng tác sau Cách mạng.
Tô Hoài sáng tác trên nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi
kí, tự truyện, bút kí… nhưng truyện ngắn là thể loại có số lượng tác phẩm
nhiều nhất. Truyện ngắn sáng tác trước cách mạng gồm 4 tập (O chuột, Nhà
nghèo, Nước lên, Mực tàu giấy bản); truyện ngắn sáng tác sau Cách mạng
gồm 7 tập (Núi cứu quốc (1948); Chính phủ tạm vay (1951); Xuống làng
(1951); Truyện Tây Bắc (phần truyện ngắn – 1953); Cứu đất cứu mường
(1954); Tào Lường (1955); Khác trước (1957); Vỡ tỉnh (phần truyện ngắn -
1962). Mọi hành trình ngắn dài của Tô Hoài sau 1945 đều in dấu ấn trên các
trang viết, đều trở thành nguồn văn của ông.
2. Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945 trở thành
một “kĩ thuật” rất riêng, nhờ vậy, mà dòng mạch văn học hiện đại của dân tộc
có thêm một phong cách truyện ngắn mang tên: Tô Hoài. Trước hết, nghệ
thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1945 của ông chú trọng đến hình tượng
người kể chuyện. Người kể chuyện có sự linh động của các điểm nhìn: điểm
nhìn chủ quan mang tính chất hồi kí, tự truyện; điểm nhìn khách quan với
điểm nhìn từ bên trong và điểm nhìn từ bên ngoài, di chuyển điểm nhìn linh
hoạt đã khiến cho sự kiện, biến cố được soi rọi từ nhiều góc độ, trở nên rõ
ràng và sống động hơn. Người kể chuyện trong truyện ngắn sau 1945 có vai
100
trò lớn trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm, kiến tạo mạch tự sự dẫn người đọc
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
đi theo một con đường quen thuộc, gần gũi, con đường của cuộc sống. Với
người kể chuyện của Tô Hoài thì một truyện ngắn sáng tác ra phải kể được
“cái khó ấy, niềm hi vọng ấy trong khi cầm bút” và mỗi truyện ngắn viết ra
phải mang phong cách Việt và thấm nhuần truyền thống Việt.
3. Cốt truyện và kết cấu là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng của
tự sự, tổ chức cốt truyện chính là cửa ải khó nhất của nhà văn. Cốt truyện của Tô
Hoài khá đơn giản, thường là cách tổ chức theo trật tự tuyến tính, gần với cốt
truyện dân gian, nhờ thế nên dễ hiểu và dễ đọc. Tô Hoài đặt các nhân vật trong
mối quan hệ rời rạc, không liền mạch, muốn nắm bắt được phải thật tinh ý mới
thấy sợi dây mỏng manh nối kết chúng. Có được điều đó là nhờ vào tổ chức kết
cấu. Kết cấu của Tô Hoài nhìn dưới góc độ trần thuật chia ra làm hai loại: trần
thuật thuần tuý và trần thuật kịch hoá. Kết cấu nhìn dưới góc độ tổ chức hành
động, ta thấy các tình huống của Tô Hoài hàm chứa tính xung đột và đẩy nhân
vật vào tư thế buộc phải hành động. Bên cạnh đó chêm xen những đoạn tả cảnh,
những đoạn độc thoại nội tâm, những chi tiết phát sáng tạo ra những quãng
ngưng, mạch rẽ làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn, thú vị hơn.
4. Song điều đặc biệt thú vị trong các sáng tác của Tô Hoài phải kể đến
ngôn ngữ và giọng điệu tự sự. Đặc biệt là ngôn ngữ tự sự. Với một ý thức lớn
trong việc học chữ và sử dụng chữ, ta thấy ở Tô Hoài một năng lực ngôn ngữ
dồi dào. Cách sử dụng từ táo bạo, so sánh tu từ được dùng đặc sắc, và rậm rịt
những từ chỉ hành động, từ láy, tính từ khiến cho mỗi hành động, mỗi chi tiết
được miêu tả đặc biệt. Câu văn của Tô Hoài có cấu trúc đơn giản song
người đọc chỉ thấy dáng câu mà không thể nhìn thấy kiến trúc câu. Câu là
sự nối liên tiếp của các hình ảnh. Đọc một câu lên, hình ảnh đã hiện ra
101
trước và đi vào trong trí nhớ khi kịp phân tích được cấu trúc câu. Song
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
không thể phủ nhận, ngôn ngữ trong những truyện ngắn sáng tác về miền
núi ta thấy một sự chuộng lạ, khoe chữ và xa rời cái nét tự nhiên vốn có
của người dân tộc. Nhược điểm này đã được sửa chữa rất nhiều trong các
sáng tác về sau của ông. Có ai đó nói, đọc văn Tô Hoài sẽ hiểu được một
phần văn hoá Việt, một phần truyền thống Việt. Quả nhiên là như vậy. Tô
Hoài luôn dành sự ân tình trìu mến với một miền Tây để thương để nhớ cho
ông; dành sự yêu thương, đồng cảm cho những kiếp người bất hạnh; và những
suy nghĩ nghiêm túc trước cuộc sống nhiều đổi thay. Những sắc điệu đan xen
nhau, kết hợp với nhau trong truyện ngắn của Tô Hoài tạo nên một bản hợp
tấu đa thanh, đa giọng.
Sự thành công của từng yếu tố đã góp phần tạo nên sự thành công của
truyện ngắn Tô Hoài sau Cách mạng. Người kể chuyện, Cốt truyện - Kết cấu
tự sự; Ngôn ngữ - Giọng điệu tự sự luôn được đặt trong mối quan hệ mật thiết,
hữu cơ làm nên phong cách riêng cho nhà văn.
Luận văn đã đề xuất việc nghiên cứu một tác giả lớn của văn học hiện
đại từ phương pháp nghiên cứu tự sự học - một công cụ hữu ích cho việc vận
dụng đối với các tác phẩm cụ thể. Song PGS. TS. Đặng Anh Đào có lần nói:
“Khuôn khổ của lí luận vốn định hình, còn tác phẩm là một thế giới đa dạng”.
Các truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945 vẫn luôn là những thế giới muôn màu
102
cần được khám phá.
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
D. DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO
[1]. Tạ Duy Anh (biên soạn), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh Niên, 2000
[2]. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 1999
[3]. Trần Lê Bảo (Khoa Văn ĐHSP HàNội), Giải mã văn hoá trong tác phẩm
văn học, Tham luận tại Hội thảo Việt Nam học, 2009
[4]. Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học như là quá trình, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Viện Văn học, Hà Nội, 2004
[5]. Đặng Anh Đào, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
[6]. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng, Thi pháp học ở Việt Nam, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2010
[7]. Phan Cự Đệ (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, 2004
[8]. Hà Minh Đức (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 326 tr, 2002
[9]. Hà Minh Đức, Tô Hoài sức sáng tạo của một đời văn (Trò chuyện, ghi
chép và nghiên cứu về Tô Hoài), NXB Giáo dục Việt Nam, 2010
[10]. Hà Minh Đức, Tâm lí thời đại và sự tiếp nhận giá trị văn chương, Hội
103
thảo Việt Nam học, 2009
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[11]. Hoàng Cẩm Giang, Cấu trúc thể loại tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI, Luận
văn thạc sĩ, Đại học KHXH&NV.
[12]. Văn Cầm Hải, Tô Hoài – người đi nhặt chữ của giời, nguồn: http://tintuc.xalo.vn/, 2009
[13]. Lê Bá Hãn – Trần Đình Sử (chủ biên), Từ điển các thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục, 451 tr, 2000
[14]. Hà Mỹ Hạnh, Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước
Cách mạng tháng 8 năm 1945, Luận văn Thạc sĩ, Đại học KHXH &NV, 2009
[15]. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, 2000
[16]. Nguyễn Thái Hoà, Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, 2000
[17]. Tô Hoài, Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học, 284 tr, 1997
[18]. Tô Hoài, Sổ tay viết văn, Nxb Văn nghệ, 1967
[19]. Tô Hoài, Tôi viết bằng tình yêu cuộc sống, Tạp chí Văn học, số 6, 2003
[20]. Tô Hoài, Tuyển tập truyện ngắn sau năm 1945, tập 1, Nxb Văn học, 1995
[21]. Tô Hoài, Tuyển tập truyện ngắn sau năm 1945, tập 2, Nxb Văn học, 1995
[22]. Tô Hoài, Một quãng đường, Tạp chí Tác phẩm mới, số 16, 1971
[23]. Tô Hoài, Núi cứu quốc, Cứu quốc Trung ương, 135 tr, 1948
[24]. Tô Hoài, Xuống làng, Nxb Văn nghệ, 160 tr, 1951
[25]. Tô Hoài, Chính phủ tạm vay, Nxb Văn nghệ, 1951
104
[26]. Tô Hoài, Truyện Tây Bắc, Nxb Văn nghệ, 1951
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[27]. Tô Hoài, Cứu đất cứu mường, Nxb Văn nghệ, 1953
[28]. Tô Hoài, Tào Lường, Nxb Văn nghệ, 1955
[29]. Tô Hoài, Khác trước, Nxb Văn nghệ, 1957
[30]. Tô Hoài, Vỡ tỉnh, Nxb Văn học, 1962
[31]. Tô Hoài, Người ven thành, Nxb Văn học, 1972
[32]. Tô Hoài, Người một mình, Nxb Hội nhà văn, 1998
[33]. Lại Thị Thu Huyền, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Chân dung văn
học Tô Hoài, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2006
[34]. Định Hải, Nhà văn và những con chữ, Báo Văn nghệ, 1-6-1985
[35]. Phong Lê (giới thiệu) – Vân Thanh (tuyển chọn), Tô Hoài, về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2000
[36]. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003
[37]. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục,
2003
[38]. Nguyễn Văn Long, Tô Hoài, Phong cách tiểu thuyết, nguồn:
http://phongdiep.net/, 2009
[39]. Nguyễn Long, Cảm nhận thời gian của Tô Hoài, Tạp chí Tác phẩm mới,
105
số 8 - 1998
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[40]. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, 252 tr, 2000.
[41]. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong
cách, Nxb Trẻ, 393 tr, 2003.
[42]. Nguyễn Đăng Mạnh, Khải luận, Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 30A,
Nxb Khoa học xã hội.
[43]. Phạm Duy Nghĩa, Văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống – hiện đại,
Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn, 2009
[44]. Nhiều tác giả, Lý luận văn học (ĐHKHXH & NV), NXB Giáo dục, 1997
[45]. Nhiều tác giả, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng 8, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999
[46]. Đoàn Đức Phương, Chuyên đề: Phương pháp nghiên cứu văn học, Đại
học KHXH&NV, 2005
[47]. Trần Thị Mai Phương, Nhân vật người kể chuyện trong hồi kí và tự
truyện Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học KHXH &NV, 2009
[48]. Vũ Ngọc Phan (chủ biên), Nhà văn hiện đại Việt Nam, Nxb Văn hoá, 1998
[49]. Thế Phong, Tô Hoài, truyện phong tục, thôn quê và loài vật, Sách Lược
sử văn nghệ Việt Nam, NXB Vàng Son, Sài Gòn, 1974.
106
[50]. Nguyễn Hưng Quốc, Văn bản và liên văn bản, http://www.tienve.org
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[51]. Trần Đình Sử, Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, NxB Tác phẩm
mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1980
[52]. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Hội nhà văn, 298 tr, 1987
[53]. Trần Đình Sử (chủ biên), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử,
phần 1, Nxb Đại học sư phạm, 523 tr, 2004.
[54]. Trần Đình Sử (chủ biên), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử,
phần 2, Nxb Đại học Sư phạm, 2008
[55]. Andrew Taylor, Cốt truyện, cửa ải gian khó của nhà văn, H.T dịch,
Nguồn: http://evan.com.vn
[56]. Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, H, 1999
[57]. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn, những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể
loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 456 tr, 2000.
[58]. Phạm Xuân Thạch, Vấn đề kết cấu truyện ngắn Thạch Lam dưới ánh
sáng trần thuật học, http://thachpx.googlepages.com
[59]. Nguyễn Thị Bích Thu, Luận văn Tiến sĩ, Truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn 1945 – 1975, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[60]. Nguyễn Thị Bích Thu, Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 11/2006
107
[61]. Lý Hoài Thu, Đồng cảm và sáng tạo, NXB Văn học, 2005
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945
[62]. Will Greenway, Điểm nhìn, phối cảnh và thời gian (Viewpoint, Perspective
and Time), nguồn: http://www.writing-word.com/fiction/greenway2.shtml
[63]. Niculin, Tiểu thuyết của Tô Hoài, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 9 – 1968
[64]. G.N. Pospelov, Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập), Nhiều người dịch,
Nxb Giáo dục, 1985
[65]. Tzvetan Todorow, Tại sao Jakobobson và Bakhtine không bao giờ gặp
108
nhau, Phạm Xuân Thạch dịch, nguồn: http://thachpx.googlepages.com
Hoàng Minh Đức – Văn Cao học K52
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!
Go to Purchase Now>>
AnyBizSoft
PDF Merger
Merge multiple PDF files into one
Select page range of PDF to merge
Select specific page(s) to merge
Extract page(s) from different PDF
files and merge into one