LỜI CAM ĐOAN<br />
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi,<br />
nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và<br />
trung thực.<br />
<br />
Tác giả luận văn<br />
<br />
Nguyễn Hồng Khanh<br />
<br />
2<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng<br />
trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh<br />
đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về<br />
Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên<br />
thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển<br />
nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh<br />
tế. Cụ thể như sau:<br />
“Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn<br />
thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường.<br />
Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có<br />
sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy<br />
hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ.<br />
Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý<br />
và đảm bảo an toàn về nước.<br />
Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh<br />
tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”.<br />
Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính<br />
phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông<br />
qua vào tháng 5/1998.<br />
Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc<br />
đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn<br />
hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít<br />
các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước.<br />
Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa<br />
vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau:<br />
“1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ<br />
sau đây:<br />
e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai<br />
<br />
3<br />
<br />
thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”.<br />
Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công<br />
trình thuỷ lợi đã quy định:<br />
“3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực<br />
hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp<br />
luật”.<br />
Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá<br />
nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước<br />
đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu.<br />
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI<br />
1. Tính cấp thiết của đề tài<br />
Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một<br />
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới<br />
tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm<br />
muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và<br />
nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản<br />
xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng<br />
cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là<br />
những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn...<br />
Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống<br />
công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để<br />
quản lý, khai thác các công trình như sau:<br />
- Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục<br />
chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các<br />
tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình<br />
thuỷ lợi.<br />
- Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm<br />
nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý,<br />
khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập... quản lý các công<br />
<br />
4<br />
<br />
trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng.<br />
- Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác<br />
công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi,<br />
Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công<br />
trình thuỷ lợi.<br />
Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,<br />
hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến<br />
kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng<br />
lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu<br />
này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành.<br />
Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp<br />
ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi<br />
và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình<br />
thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành<br />
Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị<br />
định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định<br />
số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số<br />
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ.<br />
Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối<br />
với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa<br />
tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện<br />
tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định<br />
chặt chẽ.<br />
Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp,<br />
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm<br />
thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày<br />
15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐCP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số<br />
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số<br />
<br />
5<br />
<br />
điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.<br />
Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn<br />
phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc<br />
giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng<br />
công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức<br />
của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách<br />
nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi.<br />
Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông<br />
dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt<br />
do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà<br />
nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có<br />
chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính<br />
phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với<br />
từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:<br />
- Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho<br />
vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình.<br />
- Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí<br />
nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi.<br />
Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển<br />
nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính<br />
phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình<br />
thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công<br />
trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài<br />
luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động<br />
tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của<br />
mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi<br />
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí.<br />
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài<br />
Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính<br />
quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để<br />
đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi.<br />
<br />