ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ------------------------
LẠI VIỆT HƯNG
NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI VÀ BƯỚC ĐẦU XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI MỘC HƯƠNG (ARISTOLOCHIA L.) Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ------------------------
LẠI VIỆT HƯNG
NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI VÀ BƯỚC ĐẦU XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI MỘC HƯƠNG (ARISTOLOCHIA L.) Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 84.201.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. ĐỖ VĂN TRƯỜNG 2. PGS.TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI - 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các
thầy, cô, các nhà khoa học trong lĩnh vực sinh học, thực vật học.
Trước hết tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Văn
Trường – Phòng Sinh học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam; PGS. TS. Nguyễn Trung
Thành – Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, là những
người thầy hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ và có những hướng dẫn, ý kiến đóng góp
vô cùng quý báu để tôi thực hiện và hoàn thành tốt luận văn của mình.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô Bộ môn Khoa học Thực vật nói riêng
và Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN nói chung; thầy
cô phòng Đào tạo Sau đại học đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện
luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các cán bộ Khoa Tài nguyên Dược liệu - Viện
Dược liệu, Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác
và nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn của mình tới những người thân trong gia đình đã luôn
động viên tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia –
(NAFOSTED-106-NN.03-2016.01) đã hỗ trợ hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
I
Lại Việt Hưng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ....................................................................................... 3
1.1. Lịch sử nghiên cứu và hệ thống học chi Mộc hương trên thế giới .................. 3
1.2. Tình hình nghiên cứu chi Mộc hương tại Việt Nam ...................................... 10
CHƯƠNG II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................ 12
2.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 12
2.2. Nội dung nghiên cứu ...................................................................................... 12
2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 12
2.3.1. Phương pháp hình thái so sánh .............................................................. 12
2.3.2. Phương pháp đánh giá giá trị bảo tồn ................................................... 14
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................... 15
3.1. Hệ thống phân loại chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam ................ 15
3.2. Đặc điểm hình thái chi Mộc hương ở Việt Nam ............................................ 16
3.2.1. Dạng sống ............................................................................................... 16
3.2.2. Hệ rễ ....................................................................................................... 16
3.2.3. Thân và vỏ .............................................................................................. 17
3.2.4. Lá ............................................................................................................ 18
3.2.5. Cụm hoa.................................................................................................. 19
3.2.6. Hoa và bao hoa ...................................................................................... 20
3.2.7. Bộ nhị - nhụy (gynostemium).................................................................. 24
3.2.8. Quả ......................................................................................................... 24
3.2.9. Hạt .......................................................................................................... 25
3.3. Khóa phân loại chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam ...................... 25
3.4. Mô tả các taxon trong chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam ........... 28
A. Phân chi Aristolochia ................................................................................. 29
A1. Aristolochia pothieri Pierre ex Lecomte. – Mộc hương pothier, Phòng kỉ pothier (Hình 3.5; Ảnh 19) ............................................................................... 29
A2. Aristolochia acuminata Lam. – Mộc hương lá nhọn, Mã đậu linh lá nhọn (Hình 3.6; Ảnh 01) ........................................................................................... 30
II
A3. Aristolochia impressinervis Liang. – Mộc hương gân dẹt, Mã đậu linh gân dẹt (Hình 3.7; Ảnh 12). .................................................................................... 33
A4. Aristolochia tuberosa Liang & Hwang, – Mộc hương củ, Mã đậu linh củ (Hình 3.8; Ảnh 23) ........................................................................................... 34
A5. Aristolochia longgangensis Liang. – Mộc hương long châu, Mã đậu linh long châu (Hình 3.9, Ảnh 14). .......................................................................... 36
A6. Aristolochia cochinchinensis Do & Luu. – Mộc hương nam bộ, Mã đậu linh nam bộ, Phòng kỷ nam bộ (Hình 3.10; Ảnh 08). ...................................... 37
A7. Aristolochia binhthuanensis T.V. Do, sp. nov. – Mộc hương bình thuận (Hình 3.11, Ảnh 05) ......................................................................................... 38
A8. Aristolochia chlamydophylla Wu ex Hwang. – Mộc hương lá mỏng (Hình 3.12; Ảnh 07). ................................................................................................... 39
A9. Aristolochia cambodiana Pierre ex Lecomte. – Mộc hương cămpuchia, Mã đậu linh cămpuchia (Hình 3.13; Ảnh 06) ................................................... 40
B. Phân chi Siphisia. ................................................................................... 42
B1. Aristolochia utriformis Hwang. – Mộc hương hoa lưỡi liềm, Mã đậu linh lưỡi liềm (Hình 3.14; Ảnh 24). ......................................................................... 42
B2. Aristolochia quangbinhensis Do. – Mộc hương quảng bình, Phòng kỉ quảng bình (Hình 3.15; Ảnh 20) ...................................................................... 43
B3. Aristolochia faviogonzalezii Do & Wanke. – Mộc hương favio, Phòng kỉ favio (Hình 3.16; Ảnh 10). ............................................................................... 44
B4. Aristolochia tadungensis Do & Luu – Mộc hương tà đùng, Phòng kỉ tà đùng, Mã đậu linh tà đùng (Hình 3.17; Ảnh 21). ............................................. 46
B5. Aristolochia xuanlienensis Huong N. T. T, Quang B. H. & Ma J. S. – Mộc hương xuân liên, Phòng kỉ Xuân Liên, Mã đậu linh xuân liên (Hình 3.18; Ảnh 25). .................................................................................................................... 48
B6. Aristolochia balansae Franch. – Mộc hương balansa, Phòng kỉ balansa (Hình 3.19; Ảnh 03). ........................................................................................ 49
B7. Aristolochia neinhuisii Do. – Mộc hương neinhuis, Phòng kỉ neinhuis, Mã đậu linh neinhuis (Hình 3.20; Ảnh 16) ...................................................... 51
B8. Aristolochia hainanensis Merr. – Mộc hương hải nam, Phòng kỉ hải nam. (Hình 3.21; Ảnh 11) ......................................................................................... 52
B9. Aristolochia tonkinensis Do & Wanke. – Mộc hương bắc bộ, Phòng kỉ bắc bộ (Hình 3.22; Ảnh 22) .............................................................................. 54
B10. Aristolochia nuichuaensis V.T. Do & H.T. Luu – Mộc hương núi chúa, Phòng kỉ núi chúa. (Hình 3.23; Ảnh 17) .......................................................... 55
III
B11. Aristolochia petelotii Schmidt. – Mộc hương pê tê lốt, Phòng kỉ pê tê lốt (Hình 3.24; Ảnh 18) ......................................................................................... 57
B12. Aristolochia fangchi Wu ex Chow & Hwang. – Mộc hương fang, Phòng kỉ fang, Mã đậu linh fang (Hình 3.25; Ảnh 09). ............................................... 58
B13. Aristolochia annamensis Do, Wanke & Neinhuis. – Mộc hương trung bộ, Phòng kỷ trung bộ, Mã đậu linh trung bộ (Hình 3.26; Ảnh 02) ................ 60
B14. Aristolochia bidoupensis Do. – Mộc hương bì đúp, Phòng kỉ bì đúp. (Hình 3.27; Ảnh 04). ........................................................................................ 61
B15. Aristolochia muluensis Y. S. Huang & Yan Liu, - Mộc hương mu lu (Ảnh 15). ........................................................................................................... 63
B16. Aristolochia kwangsiensis Chun et How ex Liang. – Mộc hương quảng tây, Mã đậu linh quảng tây (Hình 3.28; Ảnh 13). ............................................ 64
3.5. Hiện trạng phân bố và bước đầu xác định giá trị bảo tồn các loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam .................................................................... 66
3.5.1. Hiện trạng phân bố ................................................................................. 66
3.5.2. Hiện trạng quần thể và bước đầu giá trị bảo tồn .................................. 66
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................ 69
4.1. Kết luận. ......................................................................................................... 69
4.2. Kiến nghị. ....................................................................................................... 69
IV
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 70
DANH MỤC BẢNG
4 Bảng 1.1. Thống kê các hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia L.)
Bảng 3.1. Phân loại các loài chi Mộc hương ở Việt Nam 13
V
Bảng 3.2. Đánh giá mức độ nguy cấp các loài chi Mộc hương ở Việt Nam 66
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Mối quan hệ phát sinh và hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia)
Hình 3.1. Hình thái gân lá
Hình 3.2. Cấu trúc bao hoa điển hình và đặc điểm hình thái của chi Aristolochia
Hình 3.3. Đặc điểm hình thái cơ quan sinh sản chi Aristolochia ở Việt Nam
Hình 3.4. Dạng quả và hạt của chi Aristolochia ở Việt Nam.
Hình 3.5. Aristolochia pothieri
Hình 3.6. Aristolochia acuminata
Hình 3.7. Aristolochia impressinervis
Hình 3.8. Aristolochia tuberosa
Hình 3.9. Aristolochia longgangensis
Hình 3.10. Aristolochia cochinchinensis
Hình 3.11. Aristolochia binhthuanensis
Hình 3.12. Aristolochia chlamydophylla
Hình 3.13. Aristolochia cambodiana
Hình 3.14. Aristolochia utriformis
Hình 3.15. Aristolochia quangbinhensis
Hình 3.16. Aristolochia faviogonzalezii
Hình 3.17. Aristolochia tadungensis
Hình 3.18. Aristolochia xuanlienensis
Hình 3.19. Aristolochia balansae
Hình 3.20. Aristolochia neinhuisii
Hình 3.21. Aristolochia hainanensis
Hình 3.22. Aristolochia tonkinensis
VI
Hình 3.23. Aristolochia nuichuaensis
Hình 3.24. Aristolochia petelotii
Hình 3.25. Aristolochia fangchi
Hình 3.26. Aristolochia annamensis
Hình 3.27. Aristolochia bidoupensis
VII
Hình 3.28. Aristolochia kwangsiensis
1
MỞ ĐẦU
Phân loại học thực vật giúp chúng ta không những hiểu biết về sự khác nhau
của thực vật, mà còn cho ta thấy các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Do có mối
quan hệ với nhau, nên những taxon có quan hệ họ hàng thường mang nhiều đặc điểm
giống nhau về hình thái, sinh thái, về tổng hợp và tích lũy các hợp chất hữu cơ... Do
vậy, việc nghiên cứu phân loại học thực vật sẽ giúp ích to lớn cho các ngành khoa
học ứng dụng khác như: nông nghiệp, lâm nghiệp, y dược học, bảo vệ môi trường và
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm địa hình phong
phú và đa dạng, 3/4 diện tích đất là đồi núi với độ cao biến động mạnh, có nhiều
nguồn tài nguyên thực vật phong phú và đa dạng. Thống kê gần đây cho thấy, khu hệ
thực vật Việt Nam gồm khoảng 10,500 loài thuộc 265 họ thực vật bậc cao. Tuy nhiên
phần lớn các họ thực vật chưa được nghiên cứu đầy đủ. Hằng năm, nhiều loài thực
vật ở Việt Nam vẫn đang được phát hiện và mô tả mới cho khoa học thế giới.
Chi Mộc hương (Aristolochia L.) – họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm
khoảng 600 loài, phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới [16], [34]. Nhóm
này là nguồn thức ăn quan trọng cho sâu non của nhiều loài bướm Phượng họ
Papilionidae (Simonsen et al., 2000) [30], và cũng là nhóm chính trong nghiên cứu
đồng tiến hóa của sinh giới, đặc biệt mối tương quan giữa bướm-thực vật (Condamine
et al., 2012)[12].
Trên thế giới chi nay được nghiên cứu phân loại ở nhiều quốc gia và vùng lãnh
thổ như Bắc và Trung Mỹ, Địa Trung Hải, bán đảo Madagascar, khu vực Malesiaca,
Nhật Bản, Ấn Độ... Nghiên cứu phân loại chi này cũng được nghiên cứu khá đầy đủ
ở một số nước láng giềng của Việt Nam như: Trung Quốc, Thái Lan.
Ở Việt Nam, chi này tuy không lớn, nhưng các taxon lại có giá trị trong nghiên
cứu khoa học, cũng như trong thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực bảo tồn và y học.
Trước đây, chi Mộc hương ở Việt Nam cũng đã được đề cập đến trong các công trình
nghiên cứu chung về hệ thống học và phân loại họ Mộc hương ở trong và ngoài nước,
với khoảng 11-13 loài đã được ghi nhận, không có loài mới nào được mô tả từ Việt
Nam. Trong giai đoạn 2014 đến 2017, nhiều loài Mộc hương mới được phát hiện và
mô tả ở Việt Nam, đưa tổng số loài của chi này tại Việt Nam lên 23 loài. Tuy nhiên,
1
nhưng nghiên cứu đó hoặc đã từ lâu, hoặc danh pháp và vị trí các taxon đã thay đổi,
hoặc mới chỉ nghiên cứu mô tả các taxon mới cho khoa học, chưa có một công trình
nào nghiên cứu hệ thống học và phân loại đầy đủ toàn bộ chi Mộc hương ở Việt Nam.
Để góp phần vào việc nghiên cứu phân loại thực vật Việt Nam, tiến tới phục vụ biên
soạn bộ sách “Thực vật chí Việt Nam”, đồng thời để nâng cao sự hiểu biết về các
taxon, cũng như góp phần phục vụ công tác nghiên cứu ứng dụng, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu phân loại và bước đầu xác định giá trị bảo tồn
các loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam”.
Kết quả của đề tài nhằm mục tiêu: Hoàn thành việc phân loại chi Mộc hương
ở Việt Nam một cách đầy đủ và có hệ thống, làm cơ sở để biên soạn thực vật chí về
họ Mộc hương ở Việt Nam
Ngoài ra, những kết quả trong đề tài này cũng mang ý nghĩa khoa học và thực
tiễn trong xây dựng tài liệu cơ bản về chi Mộc hương tại Việt Nam
* Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần bổ sung và hoàn
chỉnh vốn tài liệu về phân loại chi Mộc hương (Aristolochia) nói riêng và họ Mộc
hương (Aristolochiaceae) nói chung. Đây là tài liệu cơ bản về phân loại chi Mộc
hương, phục vụ cho các nghiên cứu sâu hơn.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở khoa học phục vụ
thiết thực cho nghiên cứu Bảo tồn, Y - Dược, Tài nguyên thực vật, Đa dạng sinh học,
2
Bảo vệ môi trường.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu và hệ thống học chi Mộc hương (Aristlochia L.) trên
thế giới
Chi Mộc hương (Aristolochia) là chi lớn nhất của họ Mộc hương
(Aristolochiaceae), thuộc bộ Hồ tiêu (Piperales) (Wagner et al., 2012)[33]. Chi này
được C. Linnaeus (1753) mô tả lần đầu tiên trong tác phẩm "Species Plantarum" gồm
15 loài[10]. Trong đó, tác giả đi sâu phân tích một số đặc điểm hình thái của lá và
thân trong chi Mộc hương. Trong cuốn “Systema Nature” (1767), tác giả bổ sung
thêm 5 loài so với nghiên cứu đã công bố trước đó, đưa tổng số loài của chi Mộc
hương lên 20 loài.
Duchartre (1854) đã mô tả 29 loài trong chi Mộc hương [23],[24]. Trên cơ sở
đặc điểm hình thái và cấu trúc của bộ nhị - nhụy (gynostemium) tác giả lần đầu đề
xuất hệ thống học chi Mộc hương, bao gồm 2 nhóm (tương đương phân chi): nhóm
gynostemium 3 thùy và nhóm gynostemium 6 thùy. Trong đó, nhóm gynostemium 3
thùy được chia làm 3 section: Asterolytes, Siphisia và Hexondon; 3 nhóm này phân
biệt nhau ở đặc điểm hình thái của ống bao hoa. Nhóm với cấu trúc gynostemium 6
thùy được phân chia thành 2 section: Gymnolobus và Diplolobus dựa vào đặc điểm
hình thái của ống bao hoa và cánh môi.
Trong quá trình nghiên cứu phân loại họ Mộc hương (Aristolochiaceae), F.
Klotzsch (1859) đã xây dựng một hệ thống phân loại mới cho tông Aristolochieae.
Theo đó, tông Aristolochieae gồm 2 phân tông với 05 chi (Aristolochia, Endodeca,
Siphisia, Einomeida và Howardia.). Trong đó, chi Aristolochia gồm 2 phân chi:
Euaristolochia và Podanthemum; chi Siphisia gồm 4 phân chi: Eusiphisia,
3
Nepenthesia, Pentodon và Bracthycalyx [31].
Bảng 1.1. Thống kê các hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia L.)
Hệ thống
Chi
Phân chi
Section
Subsection
phân loại
1. Asterolytes
Nhóm 1. Gymnostemium 3
2. Siphisia
thùy
3. Hexondon
Duchartre
Aristolochia
(1854)
1. Pentandrae
4. Gymnolobus
Nhóm 2. Gymnostemium 6
2. Hexandrae
thùy
5. Diplolobus
1. Euaristolochia
Aristolochia
2. Podanthemum
3. Eusiphisia
Klotzsch (1859)
4. Nepenthesia
Siphisia
5. Pentodon
6. Bracthycalyx
1. Diplolobus
2. Polyanthera
Bentham
et.
Aristolochia
Hooker (1880)
3. Gymnolobus
4. Siphisia
1. Asterolytes
A. Cánh môi 2 thùy,
phiến lá hình tim
B. Cánh môi 2 thùy;
phiến lá hình ovan,
nhẵn
Schmidt (1935) Aristolochia
1. Siphisia
2. Siphisia
C. Cánh môi hình
chuông, 3 thùy hẹp
D. Cánh môi 3 thùy có
đuôi dài; gốc lá
hình ovan đến mác
5
E. Cánh môi hình
phễu, với 5 thùy
riêng biệt
3. Hexodon
4. Gymnolobus
2. Orthoaristolochia
5. Diplolobus
3. Pararistolochia
1. Asterolytes
2. Siphisia
1. Siphisia
3. Hexodon
Ma (1989)
Aristolochia
4. Gymnolobus
2. Aristolochia
5. Dilolopus
3. Pararistolochia
6
Bentham et Hooker (1880), trên cơ sở đặc điểm hình thái và sự khác nhau giữa
cấu tạo của bao hoa, tác giả đã phân chia họ Aristolochiaceae trong 5 chi: Asarum,
Bragantia, Thottea, Holostylis và Aristolochia. Trong đó chi Aristolochia gồm 4 phân
chi: Diplolopus, Polyanthera, Gymnolobus và Siphisia; các phân chi này phân biệt
với nhau bởi cấu tạo bao hoa, ống bao hoa và gynostemium [9].
Schmidt (1935) cho rằng tông Aristolochieae gồm 2 chi: Holostylis và
Aristolochia; trong đó chi Aristolochia được phân chia trong 3 phân chi: Siphisia,
Orthoaristolochia và Pararistolochia [11].
Nghiên cứu hệ thống học, phân bố và phân loại chi này tại khu vực Đông và
Đông Á, dựa trên cơ sở các hệ thống phân loại của Duchartre (1854, 1864) và Schmidt
(1935), Ma (1989) đã sắp xếp 68 loài Mộc hương ở khu vực Đông và Đông Á trong
3 phân chi: Siphisia, Pararistolochia và Aristolochia. Trong đó phân chi Siphisia gồm
3 nhánh Asterolytes, Siphisia và Hexodon; phân chi Aristolochia gồm 2 nhánh là
Gymnolobus và Diplolobus; phân chi Pararistolochia phân bố duy nhất ở khu vực
Malaysia và châu Đại Dương (Úc). Tác giả cũng chỉ ra khu vực phía Nam Trung
Quốc là trung tâm đa dạng của chi này, tuy nhiên trong tài liệu chỉ có 6 loài được ghi
nhận cho hệ thực vật Việt Nam [11],[23],[24],[25],[26].
Hwang et al. (2003) đã mô tả 45 loài của chi này cho khu hệ thực vật Trung
Quốc, và duy nhất 3 loài được ghi nhận cho Việt Nam [22].
Ngày nay, ứng dụng kĩ thuật sinh học phân tử đã đóng góp đáng kể trong nghiên
cứu hệ thống học thực vật, tiến hóa, mối quan hệ phát sinh chủng loại và đa dạng
nguồn gen. Trong các phương pháp sinh học phân tử khác nhau đã được sử dụng, giải
trình tự DNA (Deoxyribo Nucleic Acid) đã trở thành ứng dụng rộng rãi, bao gồm số
lượng lớn của các trình tự lặp lại trong toàn bộ hệ gen đã được giải mã thông qua các
phản ứng chuỗi trùng hợp hay phản ứng khuếch đại gen PCR (Polymerase Chain
Reaction) với cặp mồi thích hợp (Hillis et al., 1996; Philip et al., 1997). Mức độ biến
đổi trình tự trong vùng gen mã hóa và các vùng đệm - vùng không mã hóa của nhiều
gen lục lạp và gen nhân đã được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu hệ thống học và
mối quan hệ phát sinh chủng loại ở thực vật (Chase et al., 1993; Clegg et al., 1994).
Nghiên cứu mối quan hệ phát sinh chủng loại trong phạm vi họ Mộc hương
(Aristolochiaceae) hoặc giữa các họ trong bộ Hồ tiêu (Piperales) đã được thực hiện
7
trong suốt hai thập kỉ qua trên cơ sở đặc điểm hình thái hoặc kết hợp giữa đặc điểm
hình thái và dữ liệu phân tử. Murata et al. (2001) và Ohi-Toma et al. (2006) đã kiểm
tra mối quan hệ phát sinh loài của chi Mộc hương với hầu hết các đại diện từ khu vực
Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc) và khu vực Bắc-Trung Mỹ, trên cơ sở
trình tự của các gen rbcL, matK và phyA [27],[29]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
phần lớn không thể hiện mối quan hệ phát sinh của các loài được nghiên cứu. Những
phân tích về mối quan hệ phát sinh chủng loại của họ Aristolochiaceae hoặc phân họ
Aristolochioideae trên cơ sở đặc điểm hình thái học (González & Stevenson, 2002)
hay dữ liệu phân tử (trnL intron, trnL-trnF spacer) (Neinhuis et al., 2005) cũng duy
nhất bộc lộ đơn phát sinh dòng (monophyly) của một vài chi đã được ghi nhận trước
đó[18],[28]. Kể từ khi gene matK có thể dễ dàng nhân bản cùng với phần intron liền
kề trnK, vùng trnK-matK đã được sử dụng trong nghiên cứu mối quan hệ phát sinh
loài ở chi Aristolochia (Wanke et al., 2006a)[34]. Kết quả nghiên cứu không chỉ ủng
hộ quan điểm trước đó khi phân chia chi Aristolochia trong 3 phân chi (Aristolochia,
Siphisia và Pararistolochia), và cũng thể hiện mối quan hệ phát sinh loài ở một số
8
nhánh chính (Hình 1.1).
Hình 1.1: Mối quan hệ phát sinh và hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia)
(dựa trên nghiên cứu kết hợp đặc điểm hình thái và dữ liệu phân tử
9
của vùng gen trnK-matK (Wanke et al., 2006))
1.2. Tình hình nghiên cứu chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
Chi Mộc hương đã được nghiên cứu khá đầy đủ về mặt hệ thống học và phân
loại học ở các nước vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á như Trung Quốc, Nhật
Bản, Ấn Độ, Malesiana và Thái Lan. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn thiếu những nghiên
cứu phân loại chi Mộc hương một cách có hệ thống. Franchet (1898) là người đầu
tiên nghiên cứu chi Mộc hương ở Việt Nam và vùng lân cận, tác giả đã mô tả 3 loài
mới của chi này ở khu vực Đông Dương, trong đó duy nhât 1 loài cho khu hệ thực
vật Việt Nam (A. balansae Franch.)[17]. Sau đó, Lecomte (1909; 1910) đã đề cập 8
loài của chi này ở Việt Nam, Lào và Campuchia, trong đó 5 loài mới được mô tả
[19],[20]. Kể từ thời điểm đó, không có loài mới nào của chi Mộc hương được phát
hiện và mô tả ở Việt Nam. Tuy nhiên một số loài được ghi nhận thêm vùng phân bố
cho khu hệ thực vật Việt Nam bởi các nghiên cứu sau đó của các nhà thực vật bản
địa. Đỗ Tất Lợi (1999) đã liệt kê 2 loài Mộc hương cho hệ thực vật Việt Nam, trong
đó loài A. heterophylla đc dùng như vị thuốc chữa các chứng thủy thũng, phong thũng,
cước khí thấp thũng [7]. Phạm Hoàng Hộ (2000) đã liệt kê và mô tả sơ bộ đặc điểm
11 loài của chi Mộc hương ở Việt Nam, sau đó Nguyễn Tiến Bân (2003) đã bổ sung
thêm 2 loài (A. kwangsiensis Chun & F. C. How ex Liang and A. saccata Wall.) cho
khu hệ thực vật Việt Nam [5],[1]. Võ Văn Chi (2011) đã thống kê và mô tả ngắn gọn
đặc điểm hình thái, sinh thái, và thành phần hóa học của 10 loài Mộc hương được sử
dụng làm thuốc trong nền y học cổ truyền Việt Nam[3],[4]. Tuy nhiên danh pháp
khoa học, đặc điểm phân loại và giới hạn loài của các loài kể trên là chưa rõ ràng. Đỗ
Văn Trường (2015) khi nghiên cứu hệ thống học và tiến hóa của chi Mộc hương ở
Việt Nam và vùng lân cận đã chỉ ra rằng, chi này ở Việt Nam được phân chia trong 2
phân chi (Aristolochia và Siphisia) gồm khoảng hơn 25 loài. Tuy nhiên tác giả mới
chỉ đề cập đến một số loài Mộc hương mới được mô tả gần đây (Huong et al., 2014;
Do et al., 2014a; 2015a; 2015c; 2015d)) với phần lớn các loài thuộc phân chi Siphisia
[21],[32],[13],[14],[15] . Gần đây, Đỗ Văn Trường & cs. cũng phát hiện và mô tả
thêm một số loài Mộc hương mới cho khoa học thế giới (Do et al. 2017, 2018), cũng
như những ghi nhận mới bổ sung cho khu hệ thực vật Việt Nam (Do 2016). Thêm
vào đó, tác giả cũng xem xét lại danh pháp và phân loại một số loài Mộc hương đã
10
được ghi nhận trước đó ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, một số loài của
chi Mộc hương như: A. impressinervis, A. longgangensis, A. cambodiana, A. fangchi,
A. acuminata lần lượt bị định loại nhầm với các loài A. pierrei, A. heterophylla
(synonym của A. kaempferi), A. indica, A. westlandii, A. zolligeriana (Do & Nghiem
2017). Do đó, 3 loài: A. heterophylla, A. westlandii và A. zollingeriana (Đỗ Tất Lợi
(1999), Võ Văn Chi & Trần Hợp (2001), Nguyễn Tiến Bân (2003), Võ Văn Chi
(2011)) vẫn chưa được ghi nhận ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng chứng minh
rằng loài A. indica không có vùng phân bố tự nhiên ở Việt Nam, loài này có thể được
trồng ở Vườn Bách Thảo Sài Gòn do đó, việc đánh giá ở mức độ Nguy cấp (EN)
trong Sách Đỏ Việt Nam, phần thực vật (2007) là không cần thiết. Với những phát
hiện mới của chi Mộc hương thì việc nghiên cứu phân loại chi Mộc hương ở Việt
Nam là cần thiết để đánh giá đúng tính đa dạng và giới hạn của mỗi loài, làm cơ sở
cho công tác định loại mẫu vật.
Về giá trị sử dụng, theo các nhà thực vật Việt Nam, một số loài của chi Mộc
hương có giá trị làm thuốc. Kết quả nghiên cứu của Viện Dược liệu (2016) ghi nhận
10 loài Mộc hương có giá trị làm thuốc. Tuy nhiên, một số loài trong danh sách này
cần được định loại và nghiên cứu lại [6].
Như vậy, Ở Việt Nam bước đầu đã có một số công trình nghiên cứu về chi
Mộc hương, tuy nhiên những nghiên cứu đó hoặc mô tả ngắn gọn, thiếu thông tin
phân loại (Phạm Hoàng Hộ, 2000) hoặc mới chỉ liệt kê thành phần loài (Nguyễn Tiến
Bân, 2003) hoặc mới chỉ tập trung vào mô tả một số taxon mới cho khoa học thể giới
(Huong et al., 2014; Do et al., 2014a; 2015a; 2015c; 2015d). Vì vậy, còn thiếu những
nghiên cứu phân loại một cách hệ thống của chi này ở Việt Nam. Hơn nữa, những
phát hiện loài mới của chi Mộc hương gần đây không chỉ làm tăng số lượng loài ở
Việt Nam, nhưng cũng khẳng định tính đa dạng và tiềm năng cho phát hiện các loài
11
Mộc hương mới cho khoa học.
CHƯƠNG II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này bao gồm:
a) Các loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
b) Các mẫu tiêu bản thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam đang
được lưu giữ tại các phòng tiêu bản trong và ngoài nước.
c). Các mẫu tiêu bản của chi Mộc hương (Aristolochia L.) được thu thập trong
các đợt điều tra và khảo sát ngoài thực địa.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Lựa chọn hệ thống phân loại thích hợp cho việc sắp xếp các taxon của chi
Mộc hương (Aristolochia L.), họ Mộc hương (Aristolochiaceae) ở Việt Nam.
- Phân tích đặc điểm hình thái của chi Mộc hương qua các đại diện ở Việt
Nam, bao gồm các đặc điểm: dạng sống; hình thái lá; cụm hoa và hoa; quả và hạt.
- Xây dựng khóa định loại các taxon (phân chi và loài) trong chi Mộc hương
(Aristolochia L.) ở Việt Nam.
- Mô tả chi tiết đặc điểm hình thái các taxon trong chi Mộc hương (Aristolochia
L.) ở Việt Nam.
- Bước đầu xác định giá trị bảo tồn các loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia
L.) ở Việt Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp hình thái so sánh
Để nghiên cứu phân loại chi Mộc hương ở Việt Nam, chúng tôi dùng phương
pháp hình thái so sánh. Đây là phương pháp kinh điển và phổ biến nhất trong nghiên
cứu phân loại thực vật từ trước đến nay, được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu do
trang thiết bị không phức tạp, dễ sử dụng, và về mặt khoa học vẫn cho những kết quả
đáng tin cậy. Phương pháp này dựa vào đặc điểm hình thái của cơ quan sinh dưỡng
và cơ quan sinh sản để nghiên cứu. Trong đó, chủ yếu dựa vào đặc điểm của cơ quan
sinh sản vì nó ít biến đổi và ít phụ thuộc vào điều kiện của môi trường bên ngoài. Dựa
vào phương pháp hình thái so sánh, nhiều tác giả đã xây dựng thành công các hệ
12
thống phân loại cũng như các hệ thống phát sinh của thực vật.
Trong so sánh hình thái của các mẫu vật, chúng tôi tuân theo nguyên tắc chỉ
so sánh các cơ quan tương ứng với nhau, là những cơ quan có chung nguồn gốc, tuy
có thể có sự sai khác chút ít trong cấu tạo và chức phận. Đồng thời, để đảm bảo tính
chính xác của phương pháp, chúng tôi chỉ so sánh các cơ quan tương ứng trong cùng
một giai đoạn phát triển. Đôi khi, các dấu hiệu về hình thái rất phức tạp, vì hiện tượng
tiêu giảm một số cơ quan để thích nghi với điều kiện bên ngoài, nên có thể phải sử
dụng các phương pháp khác để hỗ trợ nếu cần thiết.
Như vậy việc nghiên cứu phân loại chi Mộc hương ở Việt Nam được tiến hành
theo các bước sau:
Bước 1: Tập hợp, phân tích các tư liệu trong và ngoài nước về nghiên cứu hệ
thống học và phân loại chi Mộc hương ở Việt Nam và vùng lân cận. Qua đó lựa chọn
hệ thống phân loại phù hợp cho việc sắp xếp các taxon chi Mộc hương ở Việt Nam.
Bước 2: Nghiên cứu và phân tích và định loại các mẫu vật của chi Mộc hương,
hiện đang lưu giữ tại các phòng tiêu bản trong và ngoài nước. Các đặc điểm hình thái
sẽ được quan sát bằng kính lúp soi nổi, một số đặc điểm vi cấu trúc có thể quan sát
trên kính hiển vi điện tử quét (SEM - Scanning Electronic Microscopy). Trong quá
trình phân tích, so sánh và định loại, chúng tôi chủ yếu dựa vào các bản mô tả gốc,
mẫu chuẩn và các sách chuyên khảo, các bộ thực vật chí của Việt Nam và các nước
lân cận.
Bước 3: Tổ chức các chuyến nghiên cứu ngoài thực địa nhằm thu thập mẫu
vật; quan sát, ghi chép và đo đếm các đặc điểm hình thái của mẫu vật (dạng sống,
hình dạng, kích thước và màu sắc hoa, quả) mà ở trạng thái khô không quan sát và đo
đếm được; các thông tin về phân bố, môi trường sống và giá trị sử dụng cũng được
ghi nhận.
Bước 4: Tổng hợp kết quả nghiên cứu và hoàn chỉnh các nội dung khoa học
của luận văn.
- Sắp xếp các taxon chi Mộc hương ở Việt Nam theo hệ thống phân loại thích
hợp.
- Xây dựng khóa định loại các phân chi và loài ở Việt Nam. Khóa định loại
13
xây dựng theo kiểu lưỡng phân. Để xây dựng khóa này, chúng tôi đã sử dụng những
đặc điểm giống nhau và khác nhau cơ bản của cơ quan sinh dưỡng và cơ quan sinh
sản.
- Mô tả các phân chi và loài ở Việt Nam
Mô tả các phân chi theo trình tự: Danh pháp, Đặc điểm và Typus của phân
chi.
Mô tả loài gồm: Danh pháp (Tên khoa học, Tác giả, Năm công bố, Tài liệu
dẫn, Tên Việt Nam); Đặc điểm hình thái của loài (Dạng sống, Thân, Lá,
Cụm hoa, Lá Bắc, Hoa, Quả, Hạt); Typus; Sinh học và sinh thái; Phân bố;
Mẫu nghiên cứu; Giá trị sử dụng (nếu có), Ảnh minh họa (ảnh vẽ mẫu và
ảnh chụp những đặc điểm hình thái đặc trưng).
2.3.2. Phương pháp đánh giá giá trị bảo tồn
Sử dụng thang đánh giá mức độ nguy cấp của IUCN (2007), kết hợp kết quả
điều tra thực tế và các nghiên cứu của các tác giả để đánh giá giá trị bảo tồn của một
14
số loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam.
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Hệ thống phân loại chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
Nghiên cứu của Wanke (2006) dựa trên đặc điểm di truyền phân tử nghiên cứu
trên vùng gen trnK-matK ở chi Mộc hương đã chỉ ra rằng chi Mộc hương gồm 3 phân
chi (Aristolochia, Siphisia, và Pararistolochia). Kết quả của nghiên cứu này phù hợp
với quan điểm phân loại chi Mộc hương của Smith (1935), kết hợp cùng với các kết
quả nghiên cứu chi Aristolochia ở Việt Nam, chúng tôi đã lựa chọn hệ thống của
Smith (1935) sắp xếp các taxon của chi Mộc hương ở Việt Nam. Kết quả chỉ ra rằng
ở Việt Nam chi Aristolochia gồm 2 phân chi (Aristolochia và Siphisia) với 25 loài
(bảng 3.1).
Bảng 3.1. Phân loại các loài chi Mộc hương ở Việt Nam
A. acuminata
TT Phân chi Aristolochia Phân chi Siphisia
A. binhthuanensis
1 A. annamensis
A. cambodiana
2 A. balansae
A. chlamydophylla
3 A. bidoupensis
A. cochinchinensis
4 A. fangchi
A. impressinervis
5 A. faviogonzalezii
A. longgangensis
6 A. hainanensis
A. tuberosa
7 A. kwangsiensis
A. pothieri
8 A. muluensis
9 A. neinhusii
10 A. nuichuaensis
11 A. petelotii
12 A. quangbinhensis
13 A. tadungensis
15
14 A. tonkinensis
A. utriformis 15
A. xuanlienensis 16
3.2. Đặc điểm hình thái chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
3.2.1. Dạng sống
Chi Mộc hương gồm các loài dây leo, cuốn (phân chi Aristolochia) hay dây
thân gỗ trườn (phân chi Siphisia), từ một vài mét đến khoảng 30 m (A. fangchi, A.
tonkinensis).
Ảnh 3.1. Dạng sống của chi Aristolochia
(A. Bụi trườn (subgen. Siphisia), B. Leo quấn (subgen. Aristolochia))
(Ảnh: Lại Việt Hưng)
3.2.2. Hệ rễ
Phần lớn các loài trong phân chi Aristolochia có hệ rễ chùm, ngoại trừ loài
Aristolochia tuberosa có rễ dạng củ. Trong khi đó, các loài của phân chi Siphisia đặc
trưng bởi hệ rễ dạng củ, hình trứng thuôn hay hình cầu. Phần rễ này cũng được sử
dụng trong y học cổ truyền. Đặc điểm hình thái này có thể phân biệt các nhóm với
16
nhau.
3.2.3. Thân và vỏ
Đặc điểm hình thái thân và vỏ giữa các loài của 2 phân chi là khác nhau. Đối
với các loài thuộc phân chi Siphisia, thân trườn, thân dẹt hoặc đôi khi dạng oval (A.
balansae và A. tadungensis), khi non phủ nhiều lông bên ngoài, và thường hóa bần
và có nhiều khía nông (A. faviogonzalezii và A. utriformis) hay rãnh sâu (A. fangchi,
A. hainanensis, A. tonkinensis, và A. xuanlienensis) khi trưởng thành. Trong khi đó,
các loài phân chi Aristolochia được đặc trưng bởi thân quấn và vặn, vỏ bên ngoài
nhẵn hiếm khi có lông thưa, khi trưởng thành vỏ thân có 6 rãnh hay cạnh mờ.
Ảnh 3.2. Dạng thân, vỏ của chi Aristolochia
17
(A-B: Phân chi Aristolochia; C-F: Phân chi: Siphisia) (Ảnh: Lại Việt Hưng)
3.2.4. Lá
Lá đơn, mọc cách, hiếm khi mọc đối (A. neinhuisii), không có lá kèm, phiến
lá của phân chi Siphisia thường dầy, trong khi đó phiến lá của phân chi Aristolochia
mỏng (trừ A. impressinervis). Lá có cuống rõ; lá hình ngọn giáo, hình ellip, hình bầu
dục, hình trứng, hình tim hay gần tròn. Phiến lá nguyên hay chẻ 2-3 thùy (A. pothieri,
A. neinhuisii).
Mặt dưới lá của các loài thuộc phân chi Aristolochia thường có ít lông thưa
hay nhẵn, mặt trên thường nhẵn. Trong khi đó, các loài thuộc phân chi Siphisia được
đặc trưng bởi mặt dưới lá có nhiều lông hoặc nhiều lông dài, mềm và nằm (A.
faviogonzalezii và A. bidoupensis), mặt trên lá có lông thưa đến lông dầy, cứng (A.
kwangsiensis), hiếm khi cả 2 mặt lá gần như nhẵn (A. balansae).
Ảnh 3.3 Hình dạng lá các loài thuộc chi Aristolochia
(A: Lá mọc cách; B: Lá mọc đối; C: Lá nguyên; gốc lá hình tim có tai; D: Lá xẻ 2
thùy, gốc lá lõm; E-F: Phiến lá hình ngọn giáo; G: Lá hình trứng; H-I: Lá hình tim)
18
(Ảnh: Đỗ Văn Trường (A-D); Lại Việt Hưng (E-I))
Các loài Siphisia thường có hệ gân gốc dạng chân vịt, một đôi gân bên kéo dài
đến 1/3-1/2 chiều dài phiến lá (A. petelotii, A. fangchi), gân thứ cấp dạng lông chim.
Trong khi đó, gân của các loài phân chi Aristolochia thường hệ gân chân vịt, gồm 3–
9 gân gốc. Gân chính và gân bên thường tạo thành mạng lưới thưa, hiếm khi gân
mạng lưới dày đặc (A. impressinervis và A. longgangensis), gân mặt trên thường khó
quan sát và gân mặt dưới nổi rõ, hiếm khi phẳng (A. acuminata).
(A) (B)
Hình 3.1. Hình thái gân lá
(A. Gân mạng lưới dày đặc; B. Gân mạng lưới thưa)
3.2.5. Cụm hoa
Cụm hoa hình xim, hiếm khi dạng chùy (A. pothieri) hoặc hoa mọc đơn độc
(A. bidoupensis, A. quangbinhensis, A. utriformis), ở nách lá hay trên thân trưởng
thành. Cụm hoa đơn độc hay đôi khi dạng cụm gồm một vài xim (A. balansae và A.
faviogonzalezii).
Lá bắc của các loài Siphisia thường nhỏ, hình dùi, và khó quan sát, hiếm khi
hình trứng và thường không có cuống, thường ôm thân, đính ở gốc, đối diến với cuống
hoa hoặc đính ở gần giữa hoặc 1/3 chiều dài của cuống hoa dạng đơn. Ngược lại, lá
bắc của các loài thuộc phân chi Aristolochia thường dễ quan sát, hình trứng, hình
ngọn giáo hay hình tam giác, thường lớn hơn so với các loài của phân chi Siphisia,
19
và có cuống rõ.
3.2.6. Hoa và bao hoa
Hoa lưỡng tính, không đều. Hoa có cuống rõ, có nhiều lông màu xám. Cấu tạo
hoa của các loài Mộc hương là không hoàn chỉnh, đài và tràng không phân hóa, nhưng
phát triển thành 1 cấu trúc dạng tổng bao (bao hoa). Bao hoa là đặc điểm hình thái
quan trọng nhất trong cấu trúc của hoa để phân biệt giữa các phân chi và loài trong
nhóm Mộc hương. Cấu tạo bao hoa của Mộc hương gồm 3 phần: Gốc bao hoa
(utricle), ống bao hoa (tube) và cánh môi (limb). Gốc bao hoa đính với bầu, thường
mở rộng dạng hình cầu, hình trứng (phân chi Aristolochia) hay hình trụ (phân chi
Siphisia). Ống bao hoa là phần ở giữa của bao hoa, thường hẹp rõ và thẳng (phân chi
Aristolochia) hay gần như đồng dạng và uốn cong (phân chi Siphisia). Cánh môi là
phần trên cùng của bao hoa, thường mở rộng hoặc hẹp, gồm 3 thùy (phân chi Siphisia)
hay cánh môi dạng thìa; hay không phân thùy, thuôn dài (phân chi Aristolochia). Cấu
trúc bao hoa điển hình của phân chi Aristolochia và Siphisia được minh họa trong
hình dưới:
B A.
Hình 3.2. Cấu trúc bao hoa điển hình và đặc điểm hình thái của chi Aristolochia
(A: Phân chi Siphisia; B: Phân chi Aristolochia)
Bầu hoa hình bầu dục, thuôn. Đặc điểm hình thái này khá đồng nhất trong chi
Mộc hương. Riêng đối với phân chi Aristolochia, giữa bầu hoa và gốc bao hoa (hình
B), tồn tại 1 phần phụ (gọi là cán hay cuống). Phần phụ này là cơ sở để phân chia
phân chi Aristolochia thành 2 nhánh chính (sections): nhánh Podanthemum được đặc
20
trưng bởi một cán tồn tại giữa bầu hoa và gốc bao hoa (i.e. A. impressinervis và A.
acuminata), trong khi đó nhánh Aristolochia không tồn tại cán giữa bầu hoa và gốc
bao hoa (A. cochinchinensis, A. longgangensis, và A. tuberosa).
Gốc bao hoa (utricle) của các loài trong phân chi Aristolochia dạng hình cầu
hay hình trứng và phân biệt rõ với các phần khác của bao hoa. Tuy nhiên, hình dạng
và kích thước của gốc bao hoa của hầu hết các loài trong phân chi Siphisia là khá
đồng nhất với phần dưới ống bao hoa, một số loài có giới hạn phân biệt rõ giữa gốc
bao hoa và phần dưới ống bao hoa, dạng hình chuông hay hình trụ (A. balansae và A.
faviogonzalezii). Bên trong thường có 1 lớp lông dính dầy và vách thường được khảm
1 lớp màu tím sẫm, khác biệt so với ống bao hoa. Ống bao hoa của phân chi
Aristolochia là khác so với phân chi Siphisia. Các loài thuộc phân chi Aristolochia có
ống bao hoa dạng hình trụ, thẳng, hoặc hơi uốn cong, bên ngoài nhẵn, bên trong có
nhiều lông dính. Trong khi đó, các loài thuộc phân chi Siphisia có cấu tạo phức tạp
hơn, ống uốn cong, dạng chữ U hay hình móng ngựa, phân chia thành 2 phần: đều
hoặc không đều nhau, phần ống phía trên đính với cánh môi, dạng hình phễu hay hình
trụ và phần ống phía dưới đính với gốc bao hoa, thường phồng rõ và hơi cong. Phần
trên của ống thường song song với gốc bao hoa và phần dưới của ống bao hoa, tạo 1
khoảng cách với 2 phần trên, hiếm khi tiếp xúc với nhau (A. fangchi và A. petelotii).
Bên ngoài thường có lông thưa, màu nâu, và có các gân hay vết sọc màu tím hay hồng
song song và nổi rõ. Bên trong ống bao hoa thường nhẵn, hiếm khi có lông (A.
petelotii).
Cánh môi (limb) là đặc điểm hình thái quan trọng nhất được sử dụng để nghiên
cứu hệ thống học, phân loại và định loại chi Mộc hương. Cánh môi của phân chi
Aristolochia thường không phân thùy, hình ngọn giáo hay hình thuôn (A.
impressinervis và A. acuminata), đầu cánh môi tròn, nguyên (A. impressinervis, A.
pothieri, A. acuminata, và A. tuberosa), hay đầu cánh môi dài, vặn xoắn (A.
cochinchinensis và A. longgangensis). Trong khi đó, cánh môi của phân chi Siphisia
phân làm 3 thùy phân biệt rõ, hiếm khi các thùy hợp nhau, các thùy không đều nhau.
Cánh môi của nhóm Siphisia rất đa dạng như hình khiên tròn (A. fangchi), hình đĩa
(A. kwangsiensis), hình túi (A. utriformis), hình chuông (A. petelotii và A.
quangbinhensis), hay hình kèn trumpet (A. faviogonzalezii, A. hainanensis, A.
tadungensis, A. tonkinensis và A. xuanlienensis). Thùy của cánh môi hình tam giác,
21
hoặc gần tròn, với mép thùy thẳng đứng (A. utriformis) hay trải rộng trên một mặt
phẳng (A. fangchi và A. kwangsiensis). Mép thùy có thể cuộn lại dạng ống, được bao
bọc dầy đặc bởi các mụn cơm nổi rõ (A. balansae, A. hainanensis, A. faviogonzalezii,
A. kwangsiensis, A. tadungensis, A. tonkinensis, và A. xuanlienensis). Trong phân chi
Siphisia, một số loài có gờ ống dạng hình ellip giữa ống bao hoa và cánh môi, gọi là
“annulus” (A. kwangsiensis, A. petelotii, và A. quangbinhensis). Đặc biệt, duy nhất
loài Mộc hương A. utriformis có đường gờ dạng hình bán cầu, đặc điểm này khác hẳn
so với các loài khác của phân chi Siphisia ở vùng nhiệt đới châu Á.
Ảnh 3.4. Hình thái hoa và cụm hoa.
(A-B. Cụm hoa xim trong phân chi Aristolochia; C-G. Cụm hoa xim
22
trong phân chi Siphisia) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Hình thái của miệng và họng bao hoa cũng là những đặc điểm quan trọng để
phân biệt các loài trong phân chi Siphisia ở Việt Nam. Phần lớn các loài có miệng
bao hoa hình tròn, tuy nhiên một số loài được đặc trưng bởi miệng bao hoa gần vuông
(A. faviogonzalezii, A. tadungensis, và A. tonkinensis). Trong khi đó, phần lớn các
loài có họng bao hoa nhẵn (A. balansae, A. hainanensis, A. kwangsiensis, A.
quangbinhensis và A. tonkinensis), nhưng một số loài có nhiều chấm hay đốm màu
tím (A. faviogonzalezii, A. xuanlienensis) hay màu vàng (A. tadungensis) nổi rõ ở
họng (Hình 3.3).
Hình 3.3. Đặc điểm hình thái cơ quan sinh sản chi Aristolochia ở Việt Nam
(A-B: Bao hoa và cơ quan sinh sản của phân chi Aristlochia (C-F): Bao hoa và cơ
quan sinh sản của phân chi Siphisia. A: Bao hoa dạng ngọn giáo và gynostemium 6
thùy hình nón ở đỉnh. B: Bao hoa dạng thon nhọn và gynostemium 6 thùy nhọn ở
23
đỉnh. C: Bao hoa dạng kèn trumpet và gynostemium 3 thùy nhọn ở đỉnh, hướng vào
trong. D: Bao hoa dạng hình chuông và gynostemium 3 thùy, đỉnh tròn. E: Bao hoa
hình đĩa tròn, cánh môi trải rộng trên mặt phẳng và gynostemium 3 thùy nhọn đến
hình nón ở đỉnh. F: Bao hoa hình túi, cánh môi đứng và gynostemium 3 thùy xẻ nông,
gần tròn ở đỉnh).
3.2.7. Bộ nhị - nhụy (gynostemium)
Giống như các nhóm khác trong họ Mộc hương, cơ quan sinh sản của chi Mộc
hương được đặc trưng bởi 1 cấu trúc gồm cả nhị và nhụy, gọi là bộ nhị - nhụy
(gynostemium). Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt 2 phân chi Mộc hương.
Phân chi Siphisia được đặc trưng bởi bộ nhị - nhụy gồm 6 thùy. Trong khi đó, phân
chi Aristolochia được đặc trưng bởi bộ nhị - nhụy gồm 3 thùy. Bởi vì cấu trúc và hình
dạng của bộ nhị - nhụy có thể thay đổi trong suốt quá trình phát triển, nên đặc điểm
này ít được sử dụng để phân biệt các loài trong phân chi Mộc hương.
3.2.8. Quả
Dạng quả nang, nứt dọc từ phần đỉnh xuống gốc (phân chi Siphisia) hay nứt
dọc từ phần gốc hướng lên đỉnh (phân chi Aristolochia). Quả nang hình trụ thuôn dài,
có 6 cạnh hay gờ nổi rõ (A. balansae, A. faviogonzalezii, A. longgangensis, A.
tadungensis, và A. tonkinensis), hình trứng hay hình cầu (A. acuminata A.
impressinervis, và A. pothieri) (hình 3.5). Quả màu xanh, khi chín màu nâu nhạt, quả
non thường phủ nhiều lông mịn, khi già nhẵn (Hình 3.4).
Hình 3.4. Dạng quả và hạt của chi Aristolochia ở Việt Nam.
(A. Phân chi Aristolochia. a-b: Hạt hình trứng - trái tim, lồi, cả 2 mặt có nhiều
24
mụn cơm; c-d: Hạt hình trứng - trái tim, hạt lồi, cả 2 mặt nhẵn; e-f: Hạt hình tim, dẹt,
một mặt có nhiều mụn cơm và một mặt nhẵn; g-h: Hạt hình tim, dẹt, hạt có cánh, một
mặt có nhiều mụn cơm và một mặt nhẵn. B. Phân chi Siphisia. i-j: Hạt hình trứng
trái tim, lồi-lõm, không có cánh, mang cán phôi hóa gỗ giống gờ, cả hai mặt nhẵn).
3.2.9. Hạt
Hạt nhỏ, nhiều. Hạt của các loài trong phân chi Siphisia hình trứng-trái tim,
không có cánh, một mặt lồi và một mặt lõm sâu, mang cán phôi hóa gỗ giống gờ, cả
2 mặt nhẵn. Trong khi đó, hạt của các loài trong phân chi Aristolochia biến đổi, phần
lớn hạt là dẹt, hạt đôi khi lồi-lõm (A. cambodiana và A. longgangensis), hình trứng-
trái tim, hình tam giác, một mặt có mụn cơm thưa, mặt kia nhẵn, hiếm khi cả 2 mặt
có mụn cơm (A. cambodiana) hoặc nhẵn (A. longgangensis), hạt đôi khi có cánh màng
rõ (A. acuminata và A. pothieri) hoặc không có cánh (A. cambodiana, A.
impressinervis và A. longgangensis).
Ảnh 3.5: Hình thái Quả và Hạt chi Aristolochia ở Việt Nam
(A-C. Phân chi Aristolochia; D-F. Phân chi Siphisia)
(Ảnh: Đỗ Văn Trường)
1A. Dây leo, cuốn, thân mảnh, có đường sọc nông; bao hoa thẳng, cánh môi không
phân thùy, gốc bao hoa phân biệt rõ với ống; gynostemium 6 thùy; quả nang chẻ từ
gốc; hạt dẹt ............................................................. Aristolochia subgen. Aristolochia
2A. Gốc bao hoa có cuống đính với bầu (series Podanthemum) ........................ 3.
3A. Lá hình trứng rộng hay gần tròn, phiến xẻ 3 thùy ............. A. pothieri (A1)
25
3.3. Khóa phân loại chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
3B. Lá hình trứng hay hình trứng ngọn giáo, phiến lá nguyên ......................... 4
4A. Lá hình trứng, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn hay gần nhẵn, hệ
gân mạng lưới thưa; hạt có cánh .................................... A. acuminata (A2)
4B. Lá hình ngọn giáo thuôn, mặt dưới nhiều lông mịn, hệ gân mạng lưới
dầy; hạt không có cánh ............................................. A. impressinervis (A3)
2B. Gốc bao hoa đính trực tiếp với bầu (series Aristolochia) .............................. 5
5A. Nách lá thường có chồi, mặt dưới lá trắng như phấn ....... A. tuberosa (A4)
5B. Nách lá không có chồi; mặt dưới là màu xanh nhạt ................................. 6
6A. Cánh môi hình thuôn dài, hẹp, đầu có đuôi nhọn, vặn xoắn, thẳng đừng,
dài đến 3 cm ................................................................................................. 7
7A. Phiến lá hình tim hay gần tròn; bao hoa màu tím sẫm, họng có nhiều
lông ....................................................................... A. longgangensis (A5)
7B. Phiến lá hình trứng tam giác hay trứng rộng; bao hoa màu nâu hay
trắng kem; họng có ít lông ................................ A. cochinchinensis (A6)
6B. Cánh môi hình trứng ngọn giáo, uốn ngược, đầu nhọn, ngắn, khoảng 1.5
cm, không vặn xoắn ..................................................................................... 8
8A. Bao hoa màu vàng, gốc bao hoa hình bầu dục, dài 8-13 mm ............
............................................................................ A. binhthuanensis (A7)
8B. Bao hoa màu tím sẫm, gốc bao hoa hình trứng hay hình cầu, dài 5-6
mm .......................................................................................................... 9
9A. Cuống cụm hoa dài 2-3 cm; lá bắc hình trứng-tam giác, kích thước
11-13 × 8-10 mm, gốc ôm phần cuống cụm hoa ..................................
....................................................................... A. chlamydophylla (A8)
9B. Cuống cụm hoa < 5 mm; lá bắc hình ngọn giáo, kích thước 6-10
× 2-4 mm, có cuống ngắn ................................... A. cambodiana (A9)
1B. Dây leo, trườn, thân gỗ, có rãnh khía sâu; bao hoa uốn cong hình chữ U hay hình
móng ngựa, gốc bao hoa khó phân biệt rõ với ống; môi có 3 thùy; gynostemium 3
thùy; quả nang chẻ từ đỉnh; hạt lồi lõm ........................ Aristolochia subgen. Siphisia
10A. Lá hình ngọn giáo thuôn; thùy cánh môi hợp, tạo thành ống hình thuôn
dạng túi… ............................................................................... A. utriformis (B1)
10B. Lá hình trứng, hình trứng-tam giác, hình tim hay gần tròn; thùy cánh môi
hợp, tạo thành hình đĩa, hình chuông hay kèn trumpet ..................................... 11
26
11A. Môi hình chuông hay hình kèn trumpet, mép các thùy uốn cong ..... 12
12A. Môi hình chuông; hoa đơn độc ở nách lá .........................................
............................................................................ A. quangbinhensis (B2)
12B. Môi hình kèn trumpet; hoa xim ở nách lá và trên phần thân già .. 13
13A. Phiến lá hình tim hay gần trứng rộng, mặt trên có lông thưa, mặt
dưới lá có nhiều lông như nhung, nằm ép sát .......................................
........................................................................ A. faviogonzalezii (B3)
13B. Phiến lá hình trứng, trứng-tam giác hay trứng-ngọn giáo, gốc lá
hình nêm hay nhọn, mặt dưới lá có lông mịn ................................... 14
14A. Phần trên ống bao hoa hình phễu thuôn, dài > 2 cm; họng có
nhiều chấm hay đốm màu ............................................................ 15
15A. Miệng gần như hình chữ nhật; họng màu vàng với nhiều
chấm hay đốm màu cam ............................ A. tadungensis (B4)
15B. Miệng gần như tròn; họng màu trắng với nhiều chấm hay
đốm màu tím ........................................... A. xuanlienensis (B5)
14B. Phần trên ống bao hoa hình phễu ngắn, khoảng 1.3-1.8 cm;
họng không có chấm hay đốm màu ............................................. 16
16A. Phiến lá hình trứng, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn
trắng; mụn cơm trên bề mặt bên trong của cánh môi màu đỏ sẫm
......................................................................... A. balansae (B6)
16B. Phiến lá hình trứng, trứng-tam giác hay trứng ngọn giáo,
mặt trên nhẵn, mặt dưới lá có nhiều lông mịn; mụn cơm trên bề
mặt bên trong của cánh môi màu tím ...................................... 17
17A. Lá mọc cách, đôi khi mọc đối, phiến lá đôi khi xẻ 2-3
thùy; phần trên ống bao hoa màu hạt dẻ... A. neinhuisii (B7)
17B. Lá luôn mọc đối, phiến lá nguyên; phần trên ống bao
hoa màu vàng nhạt đến trắng kem ...................................... 18
18A. Phần trên ống bao hoa hình phễu dài 1.1-1.3 cm;
miệng gần tròn, đường kính 2.2-2.5 cm; họng màu vàng..
.......................................................... A. hainanensis (B8)
18B. Phần trên ống bao hoa hình phễu dài 1.5-1.8 cm;
miệng gần tròn, đường kính 1.2-1.3 cm; họng màu trắng .
27
........................................................... A. tonkinensis (B9)
11B. Cánh môi trải rộng dạng hình đĩa tròn, hình khiên hay hợp nhau tạo
thành hình chuông, mép các thùy không cuộn ........................................... 19
19A. Cánh môi hợp tạo thành hình chuông .......................................... 20
20A. Phiến lá hình tim hay gần tròn; họng màu trắng ..........................
......................................................................... A. nuichuaensis (B10)
20B. Phiến lá hình trứng ngọn giáo; họng màu tím sẫm ......................
.................................................................................. A. petelotii (B11)
19B. Cánh môi trải rộng tạo thành dạng hình đĩa tròn hay hình khiên . 21
21A. Phiến lá hình trứng-ngọn giáo; hệ gân lông chim ................... 22
22A. Môi dạng hình khiên tròn, đường kính 5 cm, mặt trong cánh
môi màu tím sẫm với nhiều đường sọc trắng; họng màu trắng,
không có đốm hay chấm màu. ............................. A. fangchi (B12)
22B. Môi dạng hình đĩa, tròn, đường kính 2.5 cm, mặt trong cánh
môi màu tím, không có đường sọc màu; họng màu vàng nhạt với
nhiều đốm hay chấm màu tím ....................... A. annamensis (B13)
21B. Phiến lá hình tim hay gần tròn; hệ gân chân vịt....................... 23
23B. Mặt dưới lá có nhiều lông mềm, nằm ép sát, màu trắng; bao
hoa màu vàng nhạt, mặt trong cánh môi nhẵn .................................
.......................................................................A. bidoupensis (B14)
23A. Toàn bộ thân, lá, cuống lá, hoa và bao hoa có nhiều lông cứng,
màu xám; bao hoa màu trắng, mặt trong cánh môi có nhiều mụn
cơm .............................................................................................. 24
24A. Bao hoa màu tím, họng màu tím với nhiều đốm màu trắng
..................................................................... A. muluensis (B15)
24B. Bao hoa màu trắng hay xanh nhạt, họng màu vàng không
có các chấm hay đốm màu ..................... A. kwangsiensis (B16)
3.4. Mô tả các taxon trong chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
ARISTOLOCHIA L. – MỘC HƯƠNG
L. Sp. Pl.2: 960 (1753). - Fl. Gén. Ind.-Chin. 5: 54 (1910). – Hou, Fl. Males.
ser. 10 (1): 53 (1984). – Phuphathanaph., Fl. Thai. 5 (1): 1 (1987). – Hwang, Fl. Reip.
28
Pop. Sin. 24: 243 (1988). – Hwang, Fl. Chin. 5: 258 (2003).
Cây bụi hay thân thảo, dây thân gỗ leo, trườn hay quấn. Thân thường có khía
nông hay rãnh sâu. Hệ rễ chùm nhiều hay dạng rễ củ tròn, hình thuôn dài. Lá đơn,
mọc cách, hiếm khi mọc đối, mép lá nguyên hay chẻ 2-3 thùy. Gân từ gốc dạng chân
vịt 3-9 gân, gân thứ cấp lông chim. Hoa xim mọc đơn lẻ hay thành chụm ở nách lá và
trên phần thân già. Bao hoa thẳng hay uốn cong dạng chữ U, móng ngựa. Gốc bao
hoa hình chuông, hình trụ, hình trứng hay hình cầu, phân biệt hay không phân biệt
với ống bao hoa. Ống bao hoa thẳng hay uốn cong ở giữa. Cánh môi thường 1 hay 3
thùy, rời hay hợp; cánh môi dạng hình thuôn, hình đĩa, hình khiên hay hình chuông,
phần trên các thùy nhọn hay có đuôi dài, vặn xoắn. Gynostemium hình trụ, 3 hay 6
thùy. Bao phấn 6, không có chỉ nhị, bao phấn thường đính trực tiếp với gynostemium.
Bầu 6 ô, noãn hợp. Quả nang hình trứng hay hình trụ, chẻ từ đỉnh hay từ gốc. Hạt
nhỏ, nhiều, hai mặt lồi hay dẹt, có cánh hay không có cánh.
Typus: Aristolochia rotunda L.
Trên thế giới, chi này có khoảng 600 loài, xếp trong 3 phân chi, phân bố rộng
khắp ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Ở Việt Nam, hiện gặp 25 loài được
xếp trong 2 phân chi.
A. Phân chi Aristolochia
A1. Aristolochia pothieri Pierre ex Lecomte. – Mộc hương pothier, Phòng kỉ
pothier (Hình 3.5; Ảnh 19)
Pierre ex Lecomte, Not. Syst. 1: 74 (1909). – Lecomte, Fl. Gén. Ind.-Chin. 5:
56 (1910). – Phuphathanaph., Thail. For. Bull. 15: 36 (1985) et Fl. Thai. 5 (1): 10
(1987). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27 (5): 338–343 (1989). – Phamh., Illustr. Fl. Vietn.
1: 303 (2000). – N. T. Bân, Checkl. Pl. Sp. Vietn. 2: 124 (2003).
(=) A. siamensis Craib, Kew Bull. 1913: 203. – Type: THAILAND.-, Me Ping
Rapids, Fa Ma, Kerr 2195 (K!).
Mô tả: Dây leo, quấn, thân mảnh, có lông mảnh, khi già có màu vàng rơm, có
nhiều rãnh nông. Cuống lá dài 3.5-5 cm, có lông mịn. Phiến lá hình trứng rộng hay
hình tim gần tròn, kích thước 11-13 × 12-14 cm, lá nguyên hay chẻ 3 thùy, đến ½
chiều dài của phiến lá, các thùy gần như tròn, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn,
sát, gân gốc 3, gân chân vịt, hệ gân mạng lưới nổi rõ trên cả 2 mặt lá. Cụm hoa xim,
29
chụm ở nách lá, nhiều hoa. Trục cụm hoa dài 6 cm, có nhiều lông. Lá bắc hình trứng
a
Hình 3.5. Aristolochia pothieri (A: Cành mang hoa và cụm quả; B: Quả) (Hình theo Phuphathanaphong 1987)
hay ngọn giáo, kích thước 1 × 1 mm, có lông mịn ở 2 mặt. Cuống hoa dài 6-7 m, có
lông mịn. Bầu hình thuôn, kích thước 6-8 × 1-2 mm, có nhiều lông. Bao hoa dài 2.5-
4.5 cm, thẳng, có lông màu nâu. Gốc bao hoa hình cầu hay hình trứng, 3-6 × 3-4 mm,
có cuống đính với bầu, dài khoảng 3-4 mm. Ống bao hoa hình trụ, kích thước 8-15 ×
1-2 mm. Cánh môi không phân thùy hình thìa thuôn hay trứng ngược 12-16 × 5-7
mm, mặt trong có nhiều lông mịn. Bộ nhị - nhụy hình trụ, 2-2.5 × 2-3 mm, có 6 thùy
hình nón. Bao phấn hình ellip, dài 7-9 mm. Quả nang hình trứng, kích thước 4-5 × 2-
3 mm, nang chẻ từ gốc. Hạt hình trứng-tam giác hay hình tim, mảnh, có cánh màng,
kích thước 7-8 × 6-7 mm, mặt trên có mụn cơm, mặt dưới nhẵn.
Loc. class.: Cambodia.
Typus: Pierre 499 (P, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 3-4, ra quả tháng 7-8. Mọc chủ yếu
trong rừng thưa, ven rừng, trảng cây bụi hay đồng cỏ trên núi đá vôi, ở độ cao 100-
400 m.
Phân bố: Gia Lai (Yunpa). Còn có ở Thái Lan, Lào, và Campuchia.
Mẫu nghiên cứu: GIA LAI, Yunpa, Phú Túc, B. Đ. Bình B437 (HN).
Ghi chú: Loài này có đặc điểm hình thái cụm hoa tương tự với loài Mộc
hương lá nhọn (A. acuminata), nhưng dễ dàng phân biệt với loài trên bởi phiến lá
gần như tròn và thường xẻ 3 thùy.
Hiện trạng bảo tồn: Loài này mới phát hiện phân bố tại Gia Lai (Yunpa),
quần thể phân bố ở các kiểu rừng tái sinh và trảng cỏ do đó chưa đánh giá được
mức độ phân bố của quần thể. Bước đầu xác định loài này ở diện ít nguy cấp.
A2. Aristolochia acuminata Lam. – Mộc hương lá nhọn, Mã đậu linh lá
nhọn (Hình 3.6; Ảnh 01)
Lam., Encycl. 1: 254 (1783). – Roxb., Fl. Ind. 3: 489 (1832). non. Lam. –
Lecomte, Not. Syst. 1: 76 (1909) et Fl. Gén. Ind.-Chin. 5: 58 (1910). – Schmidt, Engl.
u Prantl, Nat. Pflanzenfam. ed. 2, 16b: 241 (1935). – Liang, Acta Phytotax. Sin. 13
(2): 17 (1975). – Hou, Fl. Males. ser. 10 (1): 94 (1984). – Phuphathanaph., Thail. For.
Bull. 15: 40 (1985) et Fl. Thai. 5 (1): 15 (1987). – Hwang, Fl. Reip. Pop. Sin. 24: 243
30
(1988). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27 (5): 344 (1989). – Bosser, Adansonia 19: 169
(1997). – Phamh., Illustr. Fl. Vietn. 1: 305 (2000). – N. T. Ban, Checkl. Pl. Sp. Vietn.
2: 124 (2003). – Hwang, Fl. Chin. 5: 269 (2003).
(=) A. tagala Cham., Linnaea 7: 207 (1832). Type: PAPUA NEW GUINEA.
Daru Island, Brass 6382A (A, iso.).
(=) A. roxburghiana Klotzsch in Monatab. Akad. Wiss. Berlin 569 (1859).
Mô tả: Dây leo, quấn, có nhiều rễ chùm, thân vặn. Vỏ có nhiều khía, nông,
màu nâu, nhẵn. Cuống lá dài 2-4(-6) cm, thẳng, có lông mịn. Lá hình trứng hay trứng
ngọn giáo, kích thước 8-14(-20) × 5-8(-10) cm, phiến lá mỏng, gốc lá hình tim, có
tai, đầu lá nhọn hay có đuôi ngắn, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn, sát hay gần
như nhẵn; gân gốc 5-7, dạng chân vịt, đôi gân ngoài dài khoảng 2/3 chiều dài của lá,
nổi rõ, các gân bên trong ngắn hơn và mảnh; gân thứ cấp dạng lông chim, 3-4 đôi; hệ
gân mạng lưới, nổi rõ ở mặt trên; mép lá gợn song, nhẵn. Cụm hoa xim ở nách lá,
xim mọc cụm 2-3, mỗi xim mang 2-6 hoa. Trục cụm hoa dài 2.0-3.5 cm, thòng, nhẵn
hay có lông mịn. Lá bắc hình ngọn giáo, nhỏ, kích thước 2-3 × 1.0-1.5 mm, gốc hình
nêm, đầu nhọn, mép có lông dính, cả 2 mặt nhẵn, ôm phần trục cụm hoa, sớm rụng.
Cuống hoa dài 1.2-2.5 cm, có lông mịn. Bầu hình thuôn, kích thước 6-11 × 2 mm, có
khía. Bao hoa cong hướng lên, dài 4.0-5.5 cm, màu vàng nhạt hay nâu đổ, bên ngoài
có gân mờ, nhẵn. Gốc bao hoa hình cầu, đường kính 5-7 mm, cả 2 mặt có lông, gốc
bao hoa có cuống ngắn, dài 2-3 mm, nối với phần ống bao hoa. Ống bao hoa thẳng
hoặc hơi cong, kích thước 0.6-1.0 × 0.3-0.5 cm, bên ngoài nhẵn, bên trong có lông
thưa. Cánh môi không phân thùy, dạng ngọn giáo thuôn, kích thước 1.8-2.2(-2.5) ×
0.6-0.8 cm, màu tím hay đỏ sẫm, đầu nhọn, 2 mặt có nhiều lông; miệng rộng hơn ống
bao hoa, hình ellip, rộng 0.7-0.9 cm. Bộ nhị - nhụy hình trụ, kích thước 6-8 × 3-5
mm, 6 thùy, đỉnh hình nón. Bao phấn hình ellip, dài 1.0-1.2 cm. Quả nang hình trứng
hay trứng thuôn, kích thước 3.5-5.0 × 2.5-4.0 cm, có 6 thùy nông, quả nang mở từ
gốc. Hạt hình tim hay hình tam giác rộng, dẹt, kích thước 5-8 × 7-8 mm, gốc lõm,
đầu nhọn, có cánh màng mỏng rộng 1.0-1.5 mm, mặt trên nhẵn, mặt dưới có mụn
cơm rải rác.
Loc.class.: India.
31
Typus: Commerson s.n. (P, holo.!; P, iso.).
b
Hình 3.6. Aristolochia acuminata (A,E: Cành mang lá và hoa; B: Cành mang quả; C: Gynostemium; D: Hạt) (Hình: Theo Hwang et al. (1988))
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 4-8, ra quả tháng 10-12. Phân bố rộng
khắp dưới rừng thường xanh, rừng nửa rụng lá, trảng cây bụi trên đất pha cát, hay dọc
theo suối ở độ cao 50-800 m.
Phân bố: Lạng Sơn (Văn Quan), Quảng Ninh (Tiên Yên), Hải Dương (Chí
Linh), Thanh Hóa (Hòn Mê), Nghệ An (Nghĩa Đàn), Hà Tĩnh (Hương Sơn), Quảng
Nam (Trà My), Thừa Thiên Huế (Phú Lộc), Quảng Ngãi (Sơn Tây), Lâm Đồng. (Đức
Trọng, Đà Lạt), Phú Yên (Tuy Hòa), Bà Rịa-Vũng Tàu (Côn Đảo), Đồng Nai (Biên
Hòa). Còn có ở Ấn Độ, Nepal, Myamar, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Malaysia.
Mẫu nghiên cứu: LẠNG SƠN, Văn Quan, Lương Năng, N. Bốn 2038
(IMM);, N. Tập & N. V. Trại 2237 (IMM). – QUẢNG NINH, Tiên Yên, Hà Cối, W.
T. Tsang 29158 (P). – HẢI DƯƠNG, Chí Linh, Hoàng Hoa Thám, N. Tập et al. 4985
(IMM). – THANH HÓA, Hòn Mê, N. Tập et al. 4981 (IMM). – NGHỆ AN, Nghĩa
Đàn, N. V. Trại 8256 (IMM). – HÀ TĨNH, Hương Sơn, Rào Án, N. Tập 4978 (IMM);
N. Tập & N. V. Trại 4509 (IMM). – QUẢNG NAM, Trà My, N. Tập 3159 (IMM);
Phước Sơn, N. V. Chuyên 3165 (IMM). – THỪA THIÊN HUẾ, VQG Bạch Mã, HNF
1544 (HN); N. V. Trại 2957 (IMM); N. Đ. Phương & V. A. Tài 7125 (IMM); Thai &
Thuan 118 (HN); H. V. Tuế 7716 (HN); Thai & Thuan 22 (HN). – QUẢNG NGÃI,
Sơn Tây, N. Tập & N. Đ. Phương 5675 (IMM); Sơn Hà, N. Tập & N. Đ. Phương
5674 (IMM). – ĐẮC LẮC, Buôn Mê Thuột, N. V. Chuyên 3011 (IMM). – LÂM
ĐỒNG, Đức Trọng, Tân Hội, N. Tập 2955 (IMM); Đạ Huai, N. Tập 2524 (IMM); Đà
Lạt, Xuân Trường, N. Tập 8634 (IMM). – PHÚ YÊN, Tuy Hòa, Hòa Thịnh, N. Tập
2956 (HN). – BÀ RỊA-VŨNG TÀU, VQG Côn Đảo, Đ. V. Trường 36 & 37 (VNMN,
DR) – ĐỒNG NAI, Biên Hòa, Poilane 19575 (P).
Giá trị sử dụng: Rễ được sử dụng trong bài thuốc xương khớp của người Nùng
(Lạng Sơn). Trị bệnh trĩ, viêm đường tiết niệu, đái buốt, đau bụng, viêm loét dạ dày
- ruột, viêm họng, trúng độc thức ăn, mụn nhọt (rễ) (Danh lục cây thuốc Việt Nam –
Viện Dược liệu 2016).
Hiện trạng bảo tồn: Loài này phân bố rộng khắp Việt Nam, quần thể với kích
32
thước lớn, nhiều cây con tái sinh tốt nên loài này hiện nay chưa nguy cấp.
A3. Aristolochia impressinervis Liang. – Mộc hương gân dẹt, Mã đậu linh
gân dẹt (Hình 3.7; Ảnh 12).
Liang, Acta Phytotax. Sin. 13 (2): 15 (1975). – Hwang, Fl. Reipubl. Pop. Sin.
24: 241 (1988) & Fl. China, 5: 269 (2003). – Do, Guihaia 36(4): 503 (2016).
Mô tả: Dây leo, quấn, thân mảnh, dài 3-4 cm, thân có 6 rãnh nông, gần như
nhẵn. Cuống lá dài 1.5-2 cm, vặn xoắn, nhẵn. Phiến lá hình ngọn giáo thôn, kích
thước 10-12 × 2-4 cm, phiến lá dầy, gốc lá hình tim hay có tai, dài 0.3-0.5 cm, đầu lá
nhọn hay có đuôi, dài 1.2-1.5 cm, mặt trên lá nhẵn, mặt dưới lá có lông mịn, gân gốc
3-5, chân vịt, gân thứ cấp 3-4 đôi kiểu lông chim, hệ gân mạng lưới, mặt trên mờ, mặt
dưới mạng lưới khít nhau, nỗi rõ, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm hoa xim, đơn độc ở
nách, mỗi xim mang 3-5 hoa, các hoa mọc chụm. Trục cụm hoa dài 1-2 cm, thẳng và
nhẵn. Lá bắc hình ngọn giáo, kích thước 5-8 × 2 mm, cả 2 mặt lá nhẵn, ôm sát với
phần trục cụm hoa, tồn tại dai. Cuống hoa dài 1-1.2 cm, thòng xuống dưới, có lông
mịn. Bầu hình thuôn, kích thước 5-6 × 2-3 cm, nhẵn. Bao hoa dài 2.3-2.8 cm, bên
ngoài màu vàng nhạt, có lông mịn. Gốc bao hoa hình cầu, đường kính 5-6 mm, có
cuống ngắn đính với bầu, dài 2 mm. Ống bao hoa uốn cong ở phần gốc, kích thước
1.3-1.8 × 0.5-0.8 cm, bên trong có nhiều lông dính. Cánh môi 1, hình bầu dục thuôn,
kích thước 2-2.2 × 0.6-0.8 cm, đầu tù, màu tím đậm, có nhiều lông. Miệng rộng hơn
ống, tròn, 1.2-1.5 cm. Gynostemium hình trụ, kích thước 3-4 × 2-3 mm, có 6 thùy
nhọn. Bao phấn hình thuôn, dài 1-2 mm. Quả nang hình trứng đến hình cầu, kích
thước 1.5-1.7 × 0.8-1.2 cm, có 6 gờ thấp, lông mịn, quả nang chẻ từ gốc. Hạt hình
tim, dẹt, kích thước 2.5 × 2.5 mm, không cánh, mặt trên có nhiều mụn cơm, mặt dưới
nhẵn.
Loc.class: China, Guangxi, Da Xin.
Typus: Wang Shangling et al. 3967 (IBK, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 4-5, ra quả tháng 6-8. Cây mọc ở ven
rừng, trảng cây bụi, hay dưới tán rừng hỗn giao cây lá kim và cây lá rộng trên núi đá
vôi, ở độ cao 20-1000 m.
Phân bố: Cao Bằng (Trà Lĩnh), Quảng Ninh (Hạ Long), Hải Phòng (Cát Bà).
33
Còn có ở Trung Quốc.
c
Hình 3.7. Aristolochia impressinervis (A: Đoạn thân mang lá và hoa; B: Hoa; C: Gynostemium; D: Quả; E: Hạt) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
Mẫu nghiên cứu: CAO BẰNG, Trà Lĩnh, Quốc Toản, Thang Heng, L.
Averyanov et al. VH 4947 (HN, MO). – QUẢNG NINH, Hạ Long, Đảo Vạn Gió, V
X.Phương 5461 (HN). – HẢI PHÒNG, VQG Cát Bà, Đỉnh Ngự Lâm, Đ.V.Trường
s.n. (VNMN).
Ghi chú: Loài này khác biệt với tất cả các loài khác trong phân chi Aristolochia
ở Việt Nam bởi một số đặc điểm hình thái của lá như: lá hình ngọn giáo thuôn, phiến
lá dầy, hệ gân mạng lưới xếp khít nhau ở mặt dưới lá, có nhiều lông mịn.
Hiện trạng bảo tồn: Loài này có phân bố ở một số khu núi đá vôi phía Bắc,
nằm trong các khu rừng đặc dụng, quần thể sinh trưởng tốt. Do đó loài này ít bị nguy
cấp (LR). Loài Mộc hương gân dẹp hiện vẫn chưa có nhiều dẫn liệu về khai thác và
sử dụng do đó còn thiếu các đánh giá về mức độ quan trọng của loài.
A4. Aristolochia tuberosa Liang & Hwang, – Mộc hương củ, Mã đậu linh củ
(Hình 3.8; Ảnh 23)
Liang & Hwang, Acta Phytotax. Sin. 13 (2): 17 (1975). – Hwang, Fl. Guichow.
1: 173 (1982). – Wu et al., Fl. Yunnan. 1: 1050 (1984). – Hwang, Fl. Reip. Pop. Sin.
24: 240 (1988). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27 (5): 337 (1989). – N. T. Bân, Checkl.
Pl. Sp. Vietn. 2: 124 (2003). – Hwang, Fl. Chin. 5: 268 (2003).
(=) A. cinnabarina Cheng & Wu, Jour. Wuhan. Bot. Res. 5 (3): 219 (1987). –
Type: CHINA. Sichuan, Emei Xian, elev. 950 m, Jan 1957, J. L. Wu & M.X. Su 57903
(EMA, holo.).
Mô tả: Dây leo và quấn, thân mảnh, có rễ củ dạng hình trụ hay hình cầu tròn.
Thường có chồi sinh dưỡng ở nách lá. Thân dẹt, nhánh non có khía nông, nhẵn, xanh
thẫm, khi già có màu nâu. Cuống lá dài 6-8 cm, mảnh, thẳng, không lông. Phiến lá
hình tim đến tròn, kích thước 8-13 × 7-13 cm, gốc lá hình tim, có tai dài đến 3 cm,
đầu lá nhọn hay tù; mặt trên nhẵn, mặt dưới trắng như phân, có lông thưa; gân gốc
5-7, chân vịt, đôi gân ngoài dài khoảng 1/3 chiều dài phiến lá, gân thứ cấp 2-3 đôi,
gân lông chim, hệ gân mạng lưới, nổi rõ mặt dưới lá, mép lá nguyên, không lông.
Cụm hoa xim, đơn ở nách lá, mỗi xim mang 2-3 hoa. Trục cụm hoa dài 1-1.5 cm,
nhẵn. Lá bắc hình trứng, kích thước 4-5 × 5-6 mm, gốc lá hình nêm, đầu là nhọn, cả
2 mặt lá nhẵn, có cuống ngắn, lá bắc tồn tại dai. Cuống hoa dài 1.2-1.5 cm, nhẵn. Bầu
34
thuôn, kích thước 3-5 × 1 mm, có gờ nông, nhẵn. Bao hoa thẳng, dài 3.2-3.5 cm, màu
xanh-phớt vàng, đường kẻ mờ, nhẵn. Gốc bao hoa hình cầu, đường kính 4-5 cm, đính
trực tiếp với bầu, bên trong có lông dính thưa. Ống bao hoa hẹp, kích thước 0.6-0.8
× 0.1 cm, phần trên rộng hơn. Cánh môi không phân thùy, thuôn, kích thước 1.5-1.8
× 0.3-0.4 cm, đầu có mũi lồi ngắn, mặt trong có lông thưa. Miệng ống hình elíp, rộng
0.6-0.7 cm, màu tím sẫm, có lông thưa xung quanh. Gynostemium hình trụ, kích
thước 5-6.5 × 3-4.5 mm, nhẵn, 6 thùy hình nón. Bao phấn hình ellip, dài 0.5-0.6 mm.
Quả nang hình trứng ngược, kích thước 2-2.5 × 2.2 -2.5 cm, nhẵn, có 6 gờ thấp, nhẵn,
quả nang chẻ từ phần gốc. Hạt hình trứng, kích thước 3-4 × 2-3 mm, không có cánh,
mặt trên có nhiều mụn cơm, mặt dưới nhẵn.
Loc.class.: China, Guangxi, Tian Lin.
Typus: Zhang Zhaoqian 11057 (IBK, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 6-11, và ra quả tháng 12 đến tháng 3
năm sau. Mọc chủ yếu ven trảng cỏ, thung lũng, dọc theo các đường mòn ẩm, hay
ven suối, ở độ cao 700-2,000 m.
Phân bố: Lào Cai (Sapa), Hà Giang (Đồng Văn). Còn có ở Trung Quốc.
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, Sa Pa, Bản Khoang, N. Tập & N. Đ. Phương
9031 (IMM); N. K. Khôi & L. T. Đỏ 241 (HN); LC 7724 (HNU). – HÀ GIANG, Đồng
Văn, N. Tập & L. M. Xư 2035 (IMM).
Giá trị sử dụng: Rễ củ dùng làm thuốc giảm đau và viêm gan (Võ Văn Chi
1997). Trị đau bụng, đầy bụn, khó tiêu, nôn mửa, tê thấp, thủy thũng, tiểu tiện khó
khăn, cao huyết áp (Danh lục cây thuốc Việt Nam – Viện Dược liệu (2016))
Hiện trạng bảo tồn: Loài Mộc hương củ có hiện trạng suy giảm về nơi phân
bố do thực trạng khai thác dùng làm thuốc của các dân tộc miền núi phía Bắc, cũng
như hiện trạng khu phân bố bị thu hẹp do hoạt động của con người. Theo sách đỏ Việt
Nam 2007,loài này có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng cao. Do đó, theo phân hạng IUCN
loài này thuộc diện EN A1c,d
Ghi chú: Phân chi Aristolochia thường có rễ dạng chùm, thuôn dài. Tuy nhiên,
loài Mộc hương này khác biệt so với tất cả các loài khác trong phân chi Aristolochia
ở Việt Nam do có rễ củ dạng hình trụ hay hình cầu tròn. Hơn nữa, ở nách lá thường
35
có phần chồi sinh dưỡng phát triển thành nhánh mang hoa.
d
Hình 3.8. Aristolochia tuberosa (A: Rễ; B: Đoạn cành mang lá, hoa; C: Gynostemium) (Hình: Theo Hwang et al. 1988)
A5. Aristolochia longgangensis Liang. – Mộc hương long châu, Mã đậu linh
long châu (Hình 3.9, Ảnh 14).
Liang, Guihaia 2 (3): 143 (1982). - Hwang, Fl. Reipubl. Pop. Sin. 24: 229
(1988). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27 (5): 338 (1989). – Hwang, Fl. China, 5: 267
(2003). – Do & Nghiem, Taiwania 62(2): 216 (2017).
Mô tả: Dây leo, quấn, dài 2-3 m, thân có nhiều rễ chùm, nhỏ. Thân dẹt có khía
nông, nhẵn. Cuống lá dài 5-7 cm, thẳng, nhẵn. Nách lá không có chồi, phiến lá hình
trứng-tim, hình tim hay gần tròn, phiến lá mỏng, kích thước 10-18 × 11-14 cm, gốc
lá hình tim hay có tai, dài 2-2.5 cm, đầu lá có mũi nhọn, dài 1-1.5 cm, mặt trên lá
nhẵn, mặt dưới màu xanh nhạt có lông mịn, sát; gân gốc 7, dạng chân vịt, hệ gân
mạng lưới, nổi rõ ở mặt dưới, có nhiều lông trên gân, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm hoa
xim, đơn độc hay thành đôi, ở nách lá hay trên thân già, mỗi xim mang 3-4 hoa, tách
biệt nhau. Cuống cụm hoa ngắn, dài 2-3 cm, thẳng, nhẵn. Lá bắc hình trứng, kích
thước 5-7 × 3-4 mm, gốc tròn, đầu có mũi nhọn, nhẵn cả 2 mặt, không có cuống, tồn
tại dai. Cuống hoa dài 1-2 cm, uốn cong, có lông thưa. Bầu thuôn, kích thước 6-8 ×
2-3 mm, có lông mịn. Bao hoa dạng kèn siphon, dài 4.2-4.5 cm, bên ngoài màu tím
nhạt có nhiều đường sọc màu tím đậm, họng có nhiều lông. Gốc bao hoa hình cầu,
đường kính 5-7 mm, không có cuống nối với bầu. Ống bao hoa hình trụ, uốn cong ở
phần gốc, kích thước 1.1-1.2 × 0.2 cm, bên ngoài nhẵn, bên trong có nhiều lông dính.
Môi không phân thùy, thuôn, kích thước 2-2.2 × 0.4-0.5 cm, màu tím, có lông mịn,
đỉnh có đuôi dài 1-1.5 cm, vặn xoắn. Miệng hình ellip, đường kính 0.7-0.8 cm, rộng
hơn phần ống hoa. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 4-5 × 3-4 cm,
có 6 thùy hình nón. Bao phấn hình thuôn, dài 0.5-0.8 cm. Quả nang hình trứng ngược
hay hình trụ, kích thước 5-7 × 2-2.5 cm, nhẵn, màu nâu, quả nang chẻ từ gốc, quả có
cuống 5-7 cm, từ từ hẹp đến phần gốc. Hạt hình trứng-tim, đường kính 5-6 × 4-5 mm,
đầu có mũi nhọn, không có cánh, mặt trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class: China, Guangxi.
Typus: Zhao Rui–Feng 201(IBK, holo.).
Sinh thái và sinh thái: Cây ra hoa tháng 1-3, và quả tháng 4-8. Mọc ven đường
36
đi, dưới tán rừng thường xanh cây lá rộng, ở độ cao 200-1100 m.
Hình 3.9. Aristolochia longgangensis
e
(A: Cành mang lá, hoa; B: Hoa; C: Gynostemium; D: Quả; E-F: Hạt) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
Phân bố: Quảng Ninh (Vân Đồn), Tuyên Quang (Na Hang), Hòa Bình (Mai
Châu), Phú Thọ (Thanh Sơn), Vĩnh Phúc (Lập Thạch). Còn có ở Trung Quốc.
Mẫu nghiên cứu: QUẢNG NINH, Vân Đồn, Ba Mùn, s.n. 261 (HN). –
TUYÊN QUANG, Nà Hang, Khau Tinh, N. Đ. Khôi 14273 (HN); N. Tập et al. 4980
(IMM); N. Tập et al. 5679 (IMM) & 6489 (IMM); Đ. V. Trường 24 (VNMN, DR);
Thanh Tương, Đ. V. Trường 26 (VNMN, DR). – HÒA BÌNH, Mai Châu, KBTTN
Hang Kia-Pà Cò Đ. V. Trường 230 (VNMN, DR). – PHÚ THỌ, Thanh Sơn, Tân
Minh, N. N. Thìn s.n. (HNU). – VĨNH PHÚC, Lập Thạch, Z. Yuedui 2201 (IBK,
IBSC).
Giá trị sử dụng: Trị viêm ruột, đau dạ dày, ỉa chảy (rễ) (Danh lục Cây thuốc
Việt Nam – Viện Dược liệu)
Hiện trạng bảo tồn: Loài có phân bố rộng, được tìm thấy ở nhiều khu rừng
đặc dụng. Quần thể sinh trưởng tốt, nhiều cây con tái sinh. Dô đó loài này chưa bị đe
dọa (LR).
A6. Aristolochia cochinchinensis Do & Luu. – Mộc hương nam bộ, Mã đậu
linh nam bộ, Phòng kỷ nam bộ (Hình 3.10; Ảnh 08).
Do et al., Ann. Bot. Fennici 52: 268 (2015).
Mô tả: Dây leo, quấn, thân mảnh, rễ chùm nhiều, nhỏ. Thân dẹt, vặn, có khía
nông, thân nhẵn. Cuống lá dài 6-8 cm, mảnh, nhẵn, vết sẹo cuống lá hình trụ, nổi rõ,
kích thước 1.5-2 × 2-3 mm. Phiến lá hình trứng-tam giác hoặc trứng rộng, kích thước
8-15 × 5-10 cm, phiến mỏng, gốc lá hình tim, có tai, kích thước 1.5-2 × 1.2-1.5 cm,
đầu lá nhọn hay có mũi ngắn, dài 1 cm; mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn; gân gốc
3 đôi, hệ gân mạng lưới, nổi rõ ở mặt dưới lá, hơi lõm ở mặt trên lá, mép lá nguyên,
nhẵn. Cụm hoa xim, mọc cụm 2-4 xim ở nách lá hoặc trên phần thân già, mỗi xim
mang 5-9 hoa, hoa mọc riêng biệt. Trục cụm hoa dài 2-5 cm, thòng xuống, nhẵn. Lá
bắc ôm trục cụm hoa, hình trứng-tam giác, kích thước 6-8 × 3-4 cm, mang nhiều gân
song song, gốc hình tim, đầu có mũi nhọn, không có cuống ở gốc, cả 2 mặt có lông
mịn, tồn tại dai. Cuống hoa dài 4-5 mm, mảnh, thòng xuống, nhẵn. Bầu thuôn, kích
thước 2-3 × 1-1.2 mm, nhẵn. Bao hoa dài 2.2-2.5 cm, bên ngoài màu nâu nhạt hay
trắng kem, gần như nhẵn, có đường sọc mờ, họng có nhiều lông. Gốc bao hoa hình
37
cầu, đường kính 3-4 mm, không có cuống nối với ống bao hoa, bên ngoài nhẵn, bên
f
Hình 3.10. Aristolochia cochinchinensis (A,B: Đoạn thân mang cụm hoa, lá; D: Hoa; E: Gynostemium) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
trong có nhiều lông dính. Ống bao hoa uốn cong hướng lên trên, hình trụ, kích thước
0.6-0.7 × 0.2-0.3 cm, bên ngoài nhẵn, bên trong có lông dính thưa. Cánh môi không
phân thùy, hình thuôn dài, kích thước 1.2-1.5 × 0.2 cm, đầu có đuôi dài và vặn xoắn.
Miệng hình ellip, rộng như ống, đường kính 0.3-0.4 cm, có vết loang màu nâu nhạt,
lông thưa. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 1.5-2 × 2.2 –2.5 mm,
đầu có 6 thùy, mỗi thùy dạng hình nón. Bao phấn thuôn, dài 0.6-0.8 mm, màu trắng.
Quả nang hình trứng thuôn, có 6 rãnh dọc, nông.
Loc.class.: Vietnam, Binh Phuoc, Bu Gia Map National Park.
Typus: T.H. Luu 539 (VNMN, holo.!; SGN, iso.!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 6-8, ra quả tháng 9-11. Mọc chủ yếu
ven đường đi, nơi sáng dưới tán rừng lá rộng thường xanh trên đất basalt.
Phân bố: Bình Phước (Bù Gia Mập), Đắc Nông (Tà Đùng).
Mẫu nghiên cứu: ĐẮC NÔNG, KBTTN Tà Đùng, L. H. Trường TD 511
(SGN, VNMN).
Hiện trạng bảo tồn: Loài này có mức độ phân bố hẹp ở các Vườn Quốc gia
(Tà Đùng, Bù Gia Mập) do đó, mức độ nguy cấp của loài phụ thuộc nhiều vào các
chương trình bảo tồn và quản lý của Vườn Quốc gia (VU).
Ghi chú: Loài này có phần trên cánh môi mảnh như đuôi dài và vặn xoắn,
giống với Mộc hương long châu (A. longgangensis), nhưng nó dễ dàng phân biệt với
loài Mộc hương long châu bởi đặc điểm của lá, bao hoa và lá bắc.
A7. Aristolochia binhthuanensis T.V. Do, sp. nov. – Mộc hương bình thuận
(Hình 3.11, Ảnh 05)
Lai et al., Ann. Bot. Fennici 56: 241 – 246.
Mô tả: Dây leo, quấn, thân mảnh, vặn xoắn, nhánh non gần như nhắn, khi già
có màu vàng rơm, có các đường khía nông hay nhẵn. Cuống lá dài 4-5 cm, mảnh,
nhẵn. Phiến lá hình tìm hay gần tròn, phiến mỏng, kích thước 11-14 × 8-12 cm, gốc
lá hình tim, tai có kích thước 2.5-3 × 2-2.5 cm, đầu lá nhọn, cả 2 mặt lá nhẵn, gân gốc
9, gân chân vịt, hệ gân mạng lưới nổi rõ trên cả 2 mặt, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm
hoa xim, đơn độc hay mọc cụm 2-3 xim ở nách lá, mỗi xim có 2-3 hoa. Trục cụm hoa
rất ngắn, dài khoảng 5 mm, hơi rủ xuống. Lá bắc hình trứng rộng, kích thước 7-12 ×
38
4-6 mm, phần gốc ôm trục cụm hoa, đầu nhọn hay có mũi lỗi, mép nguyên, nhẵn cả
39
g
Hình 3.11. Aristolochia binhthuanensis (A: Cành mang lá, hoa; B-C: Hoa; D: Gynostemium; E: Quả)
2 mặt, gân gốc 5, hệ gân mạng lưới nổi rõ cả 2 mặt. Cuống hoa dài 7-9 mm, thẳng,
nhẵn. Bầu thuôn, kích thước 4-5 × 0.8-1 mm, có 6 gờ nông, nhẵn. Bao hoa dài 2-2.2
cm, uốn cong ở phần ống, bên ngoài màu vàng, có đường sọc mờ. Gốc bao hoa hình
bầu dục, kích thước 8-13 × 5-8 cm, đính trực tiếp với bầu, nhẵn cả 2 mặt. Cánh môi
không phân thùy, hình ngọn giáo thuôn, kích thước 12-16 × 7-9 mm, uốn cong hướng
xuống dưới, không vặn xoắn, đầu có mũi nhọn, mặt ngoài nhẵn, mặt trong có lông
thưa. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 1.8-2 × 2-2.2 mm, có 6 thùy
hình nón, mỗi thùy mang 1 bao phấn hình ellíp, dài 0.6-0.7 cm. Quả nang hình trứng
ngược hay hình trụ, 1.2-1.5 × 0.8-0.9 cm, có 6 thùy hay gờ nổi rõ, nang chẻ từ phần
gốc. Hạt hình trứng, kích thước 3-4 × 2.5-3 mm, không có cánh, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class.: Vietnam, Binh Thuan, Tanh Linh, Bien Lac-Nui Ong Nature
Reserve
Typus: N. G. Prilepsky 2174 (holotype VNMN ex MW: MW0736405!,
isotypes MW: MW0736406!, MW0736407!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 9, ra quả tháng 9-11. Mọc chủ yếu ở
ven rừng lá rộng thường xanh trên núi thấp.
Phân bố: Loài đặc hữu của Việt Nam: Bình Thuận (Tánh Linh).
Hiện trạng bảo tồn: Là loài đặc hữu mới được công bố ở Việt Nam nên chưa
đánh giá được các điểm phân bố mới của loài. Quần thể được tìm thấy kích thước
nhỏ, phân bố rải rác, cây con tái sinh ít, do đó loài có thể bị nguy cấp (VU).
Ghi chú: Loài này có đặc điểm hình thái tương tự với loài Mộc hương
Cămpuchia (A. cambodiana), nhưng có thể phân biệt với loài Mộc hương cămpuchia
bởi đặc điểm hình thái của lá bắc và gốc bao hoa.
A8. Aristolochia chlamydophylla Wu ex Hwang. – Mộc hương lá mỏng
(Hình 3.12; Ảnh 07).
Wu ex Hwang, Acta Phytotax. Sin. 19 (2): 223 (1981). - Hwang, Fl. Reipubl.
Pop. Sin. 24: 229 (1988) & Fl. China, 5: 266 (2003).
Mô tả: Dây leo, quấn, dài 2-3 m, rễ chùm, nhiều. Thân mảnh, dẹt, nhiều khía
nông, nhẵn. Cuống lá dài 5-7 cm, vặn, nhẵn. Phiến lá hình trứng hay trứng rộng, kích
thước 10-14 × 8-10 cm, phiến mỏng, gốc lá hình tim, có tai, dài 2-2.5 cm, đầu lá nhọn
39
hay có đuôi ngắn, mặt trên lá nhẵn, mặt dưới lá có nhiều lông mịn, sát; gân gốc 7,
40
Hình 3.12. Aristolochia chlamydophylla (A: Cành mang hoa, lá; B: Hoa; C: Gynostemium)
h
(Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
chân vịt, hệ gân dạng lưới mắt cáo, nổi rõ ở mặt dưới lá, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm
hoa xim ở nách lá, một xim hay cụm 2-3 xim, mỗi xim có 6-8 hoa, các hoa phân biệt
rõ. Trục cụm hoa dài 3-5 cm, thẳng, nhẵn. Lá bắc hình trứng, kích thước 12-14 × 9-
10 cm, có cuống ngắn, gốc hình tim, đầu nhọn, cả 2 mặt nhẵn, tồn tại dai. Cuống hoa
dài 1-1.5 cm, thẳng, có lông thưa. Bầu hình thuôn, kích thước 5-6 × 2-3 mm, có lông
thưa. Bao hoa dài 2.2-2.5 cm, màu tím sẫm, có lông thưa. Gốc bao hoa hình cầu,
đường kính 3-4 mm, không có cuống gắn với ống bao hoa. Ống bao hoa thẳng hay
uốn cong ở gần đỉnh, kích thước 1-1.2 × 0.2 cm, bên ngoài nhẵn, bên trong có nhiều
lông dính. Cánh môi không phân thùy, hình trứng ngọn giáo, kích thước 1.2-1.5 ×
0.4-0.6 cm, màu tím sẫm, uốn cong, đầu nhọn, có lông thưa. Miệng rộng hơn ống,
gần tròn, đường kính 0.6-0.7 cm. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước
2-3 × 2-3 mm, 6 thùy, thùy dạng hình nón. Bao phấn hình ellip, dài 0.5-1 mm. Quả
nang hình trụ, kích thước 4.5-5 × 1.5-2 cm, nhẵn, nang chẻ từ gốc. Hạt hình tam giác
rộng, kích thước 3 × 2 mm, dẹt, không có cánh, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class: China, Yunnan. Xishuangbana, Ruili.
Typus: S. Chow (KUN, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 3-4, ra quả tháng 5-8. Mọc chủ yếu
dưới rừng thứ sinh và trảng cây bụi trên núi đá vôi, ở độ cao 1000-1600 m.
Phân bố: Lai Châu (Sìn Hồ), Hà Giang (Quản Bạ, Vị Xuyên). Còn có ở Trung
Quốc và Thái Lan.
Mẫu nghiên cứu: LAI CHÂU, Sìn Hồ, N. V. Trại et al. 7479 (IMM). – HÀ
GIANG, Quản Bạ, Thái An, Đ. V. Trường 72 (VNMN, DR); Vị Xuyên, KBTTN
Phong Quang, Đ. V. Trường 77 (VNMN, DR).
Hiện trạng bảo tồn: Loài này phân bố ở một số khu rừng đặc dụng phía Tây
Bắc, tuy nhiên môi trường sống đang bị tác động mạnh bởi hoạt động canh tác và
khai thác bất hợp pháp, kích thước quần thể nhỏ, do đó loài này có nguy cơ bị đe dọa
(VU).
A9. Aristolochia cambodiana Pierre ex Lecomte. – Mộc hương cămpuchia,
Mã đậu linh cămpuchia (Hình 3.13; Ảnh 06)
Pierre ex Lecomte, Not. Syst. 1: 74 (1909). – Lecomte, Fl. Gén. Ind.-Chin. 5:
40
57 (1910). – Phuphathanaph., Thail. For. Bull. 15: 44 (1985) et Fl. Thai. 5 (1): 18
(1987). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27 (5): 338–343 (1989). – Phamh., Illustr. Fl. Vietn.
1: 302 (2000). – N. T. Bân, Checkl. Pl. Sp. Vietn. 2: 124 (2003). – Do, Thail. For.
Bull. 42: 96 (2014).
(=) A. dongnaiensis Pierre ex Lecomte, Not. Syst. 1: 75 (1909). – Type:
VIETNAM. Dong Nai. Bien Hoa, Sept 1868, L. Pierre 5680 (P 02031766, holo.!).
(=) A. dongnaiensis Pierre ex Lecomte var. hirsuta Lecomte, Not. Syst. 1: 76
(1909). – Type: VIETNAM: Cochinchina, Apr 1873, Harmand 3168 (P 02031764,
holo.!).
(=) A. kerrii Craib, Kew Bull. 1911: 450 (1911). – Type: THAILAND: Chieng
Mai. Doi Suthep, elev. 610 m, 09 May 1909, A.F.G. Kerr 627 (K 000820379, holo.!).
Mô tả: Dây quấn, mảnh, rễ chùm, nhiều. Thân dẹt, có khía nông, vặn xoắn,
nhẵn. Cuống lá dài 2–4(–6) cm, mảnh, thẳng, nhẵn. Phiến lá hình tam giác, trứng-tam
giác hay trứng rộng, kích thước 4–8(–10) × 5–7(–8) cm, mỏng, gốc lá hình tim hay
lõm, có tai, kích thước 1.5–2.5 × 1.8–2.0 cm, đầu lá có mũi nhọn; mặt trên lá nhẵn,
mặt dưới lá có lông mịn, dày; gân gốc 5-7, chân vịt, hệ gân mạng lưới thưa, nổi rõ ở
mặt dưới lá, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm hoa xim, mỗi xim mang 6-8 hoa, hoa mọc
chụm dầy, ở nách lá. Trục cụm hoa ngắn, dài 0.3-0.5 cm, nhẵn. Lá bắc hình ngọn
giáo, kích thước 6-10 × 2-4 mm, gốc hình nêm có cuống rõ, dài 3-5 3 mm, đầu tù, cả
2 mặt có nhiều lông, và hệ gân song song. Cuống hoa dài 0.8-1 cm, rủ xuống dưới,
nhẵn. Bầu hình thuôn, kích thước 2-3 × 1-1.2 mm, có lông mịn. Bao hoa thẳng, dài
1.2-1.5 cm, màu tím sẫm. Gốc bao hoa màu tím sẫm, hình cầu, đường kính 2.5-3.5
cm, không có cuống đính với ống bao hoa, bên ngoài nhẵn, bên trong có lông dính
thưa. Ống bao hoa thẳng, kích thước 0.3-0.6 × 0.1-0.2 cm, rộng ở phần trên, bên ngoài
có lông thưa, bên trong có lông dính thưa. Cánh môi không phân thùy, hình ngọn
giáo, kích thước 0.8-1.2 × 0.6-1 cm, bên trong nhẵn. Miệng rộng hơn phần ống, hình
ellip, đường kính 0.5-0.6 cm, màu tím sậm, có lông rải rác. Bộ nhị - nhụy
(gymnostemium) hình trụ, kích thước 3-4 × 3-5 cm, có 6 thùy, hình nón. Bao phấn
hình ellip, dài 0.4-0.5 cm. Quả nang hình trứng, kích thước 1.5-1.8 cm, 6 thùy nông,
nhẵn, nang chẻ từ gốc; quả có cuống dài 1.5-1.8 cm, nhẵn. Hạt hình trứng-tim, kích
thước 3-4 × 2-2.5 cm, không có cánh, mặt trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt đều có
mụn cơm.
41
Loc.class.: Cambodia, Samrong Tong.
i
Hình 3.13. Aristolochia cambodiana (A: Đoạn thân mang lá, quả; B-C: Hạt) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
j
Typus: L. Pierre 574 (P 00623810, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 2-4, ra quả tháng 8-12. Mọc chủ yếu
ở rừng kín lá rộng trên đồi núi thấp, hay dưới tán rừng nửa rụng lá, ở độ cao 300-700
m.
Phân bố: Kon Tum (Đac Glây), Gia Lai (Ayunpa). Còn có ở Thái Lan và
Cămpuchia.
Mẫu nghiên cứu: KON TUM, Đac Glây, L. Averyanov et al., VH 2394 (HN,
MO); N. H. Hiến 128 (HN). – GIA LAI, Ayunpa, D.T. Nguyen 3157 (IMM).
Giá trị sử dụng: Rễ được sử dụng làm thuốc điều trị cảm cúm, xương khớp,
và điều hòa khí huyết.
Giá trị bảo tồn: Một số quần thể kích thước nhỏ của loài này được ghi nhận ở
Kon Tum và Gia Lai, môi tường sống và sinh cảnh vẫn đang bị tác động mạnh mẽ,
do đó loài này có thể bị đe dọa (LR)
B. Phân chi Siphisia.
B1. Aristolochia utriformis Hwang. – Mộc hương hoa lưỡi liềm, Mã đậu
linh lưỡi liềm (Hình 3.14; Ảnh 24).
Hwang, Acta Phytotax. Sin, 19: 228 (1981) - Hwang, Fl. Reipubl. Pop. Sin.
24: 225 (1988); et Fl. China 5: 265 (2003). – Do et al., Syst. Bot. 40(3): 684 (2015).
Mô tả: Dây leo hay trườn, đôi khi cuốn, thân gỗ mảnh. Thân gần tròn, có gờ
cạnh, nhánh non có lông mịn, vở trên thân già không nứt, có nhiều bì khổng nổi rõ.
Cuống lá dài 3-4 cm, thẳng, nhẵn. Phiến lá hình trứng đến ngọn giáo, kích thước 7-
11 × 3-4 cm, lá mỏng, gốc lá nhọn, có tai dài 1-1.5 cm, đầu lá nhọn hay có đuôi ngắn,
mặt trên có lông thưa, mặt dưới có lông mềm, mịn, màu trắng, gân gốc 5, chân vịt,
gân thứ cấp 3-4 đôi, lông chim, hệ gân dạng lưới mắt cáo, nổi rõ ở mặt trên. Hoa đơn
độc ở nách lá. Lá bắc hình dùi, nhỏ, kích thước 2-3 × 2 mm, cả 2 mặt lá có lông mềm,
không có cuống, tồn tại dai. Trục cụm hoa dài 1.5-3.2 cm, có lông thưa. Bầu thuôn,
kích thước 1-1.2 × 0.2-0.3 cm, màu nâu, nhẵn. Bao hoa hình Z, dài 4-4.5 cm, màu
vàng hơi xanh, có đường sọc nâu, mờ, mặt ngoài nhẵn. Gốc bao hoa hình trụ, kích
thước 0.5-0.6 × 0.6-0.8 cm, bên trong màu tím sẫm và có lông dính thưa. Ống bao
42
hoa uốn cong ở giữa, phồng, kích thước 1.3-1.5 × 0.6-0.8 cm, bên trong màu tím nhạt,
j
Hình 3.14. Aristolochia utriformis (A: Cành mang lá, hoa; B-C: Hoa; D: Gynostemium) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
nhẵn. Cánh môi 3 thùy hình trứng-tam giác rộng, kích thước 1-1.2 × 0.8-1 cm, đầu
tù, khi hoa nở các thùy hợp nhau tạo thành túi hình trụ, phồng, kích thước 1.3-1.5 ×
0.7-1.2 cm, mặt trong nhẵn. Họng bao hoa màu vàng sẫm, có đường gờ dạng bán cầu
bao bọc phần họng ống bao hoa, phần đỉnh có lỗ nhỏ. Bộ nhị - nhụy (gynostemium)
hình trụ, kích thước 2-3 × 2.5-3 cm, màu vàng-trắng, có 3 thùy tròn ở đỉnh, nhẵn. Bao
phấn thuôn, dài 1-1.5 mm, màu vàng.
Loc.class.: China, Yunnan, Wenshan.
Typus: K. M. Feng 22205 (KUN, holo.; IBSC, iso.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 12-5 năm sau, ra quả tháng 6-8. Mọc
chủ yếu dưới tán rừng hỗn giao cây gỗ hay cây tre nứa, ven rừng thứ sinh trên núi đá
vôi, dọc theo khe suối, ẩm, ở độ cao 1800-2000 m.
Phân bố: Lào Cai (Sapa). Còn có ở Trung Quốc (Vân Nam)
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, Sa Pa, VQG Hoàng Liên, Đ.V.Trường 38
(VNMN, DR); N.Tập & N.V.Trại 8813 (IMM).
Giá trị sử dụng: Rễ được sử dụng làm thuốc để điều trị các bệnh về tiêu hóa,
gan và xương khớp (theo kinh nghiệm sử dụng của người Dao).
Hiện trạng bảo tồn: Loài này mới được ghie nhận tại Vườn Quốc gia Hoàng
Liên với quần thể kích thước rất nhỏ, ít cây tái sinh và đang bị khai thác mạnh làm
thuốc, do đó loài này cũng sẽ bị nguy cấp trong tương lai gần (VU)
Ghi chú: Loài này khác biệt với tất cả các loài khác trong phân chi Siphisia ở
Việt Nam bởi đặc điểm hình thái của lá, cụm hoa và cấu trúc bao hoa
B2. Aristolochia quangbinhensis Do. – Mộc hương quảng bình, Phòng kỉ
quảng bình (Hình 3.15; Ảnh 20)
Do et al., Phytokeys 33: 51 (2014).
Mô tả: Dây trườn thân gỗ, dài 5-8 cm. Thân dẹt, nhánh non có nhiều lông màu
nâu vàng, vỏ trên phần thân già nứt dọc hay có nhiều rãnh, nhẵn. Cuống lá dài 1.5-
2.5 cm, thẳng, có nhiều lông màu nâu. Phiến lá hình ellip hay ellip thuôn, kích thước
8-13 × 3-5 cm, phiến lá dầy, gốc lá hình tim, có tai 3-4 × 1.5-2 cm, đầu lá nhọn, mặt
trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn, màu nâu, gân gốc 3, dạng chân vịt, gân thứ cấp 7-8
đôi, gân lông chim, hệ gân mạng lưới và nổi rõ trên cả 2 mặt lá. Hoa đơn độc ở nách
43
lá, lá bắc hình ngọn giáo, kích thước 3 × 2 mm, không có cuống, cả 2 mặt nhẵn, tồn
44
k
Hình 3.15. Aristolochia quangbinhensis (A: Cành mang hoa, lá; B-F: Hoa; G: Gynostemium; H: Lát cắt ngang bầu) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
tại dai. Cuống hoa dài 1.5-2 cm, rủ xuống dưới, màu tím, có nhiều lông cứng. Bao
hoa dạng chữ S, dài 3.2-3.5 cm, bên ngoài có đường sọc mờ, nhiều lông màu nâu-
vàng, bên trong nhẵn. Bầu hình thuôn, kích thước 1-1.2 × 0.3-0.4 cm, màu xanh-vàng.
Gốc bao hoa hình trứng, kích thước 1.5-1.8 × 0.5-0.6 cm, bên ngoài màu trắng, bên
trong có nhiều vết loang màu tím sẫm. Ống bao hoa uốn cong, hẹp và song song với
gốc bao hoa, hình trụ, kích thước 0.9-1 × 0.4-0.5 cm. Cánh môi 3 thùy không đều
nhau, bên ngoài màu hồng nhạt, có nhiều lông cứng, thùy bên hình tam giác rộng,
đầu có mũi, thùy dưới hình bán cầu, khi hoa nở các thùy hợp tạo thành dạng chuông,
đường kính 1.8-2.2 cm, mép uốn cong, bên trong thùy màu hồng, nhẵn, không có các
đốm và chấm màu. Miệng của ống bao hoa có gờ nổi rõ, màu tím, tròn, đường kính
2-2.5 cm. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 4-5 × 2-3 mm, màu trắng,
nhẵn, có 3 thùy tròn. Bao phấn hình thuôn, dài 2-3 mm, màu vàng.
Loc.class.: Vietnam, Quang Binh, Minh Hoa.
Typus: Đ.V.Trường 39 (VNMN, holo.!; DR, iso.!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 3-4, mọc chủ yếu trong kiểu rừng thứ
sinh hay trảng cây bụi, nơi ẩm ven sông, ven suối.
Phân bố: Đặc hữu hẹp ở miền Trung Việt Nam: Quảng Bình (Minh Hóa),
Quảng Trị.
Mẫu nghiên cứu: QUẢNG TRỊ, Đăk Rông, Triệu Nguyên, P.K.Lộc HLF6009
(HN).
Giá trị bảo tồn: Mộc hương Quảng Bình có vùng phân bố hẹp ở Quảng Bình
và Quảng Trị nằm ở khu vực rừng tái sinh ít được bảo vệ, do đó loài này cũng có
nguy cơ cao bị đe dọa (VU).
Ghi chú: Mộc hương quảng bình có đặc điểm hình thái cụm hoa và bao hoa
khác biệt so với các loài trong phân chi Siphisia ở Việt Nam. Loài này được mô tả
năm 2014 trên cơ sở duy nhất mẫu chuẩn thu tại Quảng Bình. Nghiên cứu này chúng
tôi cũng ghi nhận vùng phân bố mới ở Quảng Trị.
B3. Aristolochia faviogonzalezii Do & Wanke. – Mộc hương favio, Phòng kỉ
favio (Hình 3.16; Ảnh 10).
44
Do et al., Syst. Bot. 40(3): 672 (2015).
Mô tả: Dây leo hay trườn thân gỗ, dài đến 8-10 mm, rễ củ hình trụ thuôn hay
gần tròn. Thân dẹt, nhánh non có nhiều lông mịn, vỏ trên phần thân già thường có
nhiều rãnh hay khía sâu. Cuống lá dài 5-8 cm, vặn, nhiều lông mịn. Phiến lá hình
trứng rộng hay hình tim, kích thước 18-23 × 15-20 cm, lá dầy, gốc lá hình tim, có tai,
dài 2-3 cm, đầu lá có mũi nhọn hay đuôi ngắn, dài 1-1.2 cm, mặt trên lá có lông thưa,
màu xanh thẫm, mặt dưới có nhiều lông; gân gốc 5, chân vịt, gân thứ cấp 4-5 đôi,
lông chum, hệ gân mạng lưới nổi rõ ở mặt dưới lá, hơi mờ ở mặt trên lá, mép lá
nguyên, có nhiều lông. Cụm hoa xim ở phần thân già, thường mọc thành cụm 6-10
xim, mỗi xim mang 3-4 hoa, các hoa mọc riêng biệt nhau. Trục cụm hoa dài 5-9 cm,
có lông mịn. Lá bắc hình tam giác, kích thước 2.5-3 × 2-2.5 mm, không có cuống, cả
2 mặt có nhiều lông. Cuống hóa dài 1.2-1.4 cm, rủ, nhiều lông màu nâu. Bầu hình
thuôn, kích thước 1.1-1.3 × 0.4-0.5 cm, nhiều lông màu nâu. Bao hoa hình móng ngựa
hay hình chữ U, dài 6.5-7 cm, màu trắng-vàng nhạt. Gốc bao hoa hình chuông, dài
1.1-1.2 cm, rộng 0.6-0.7 cm ở gốc và 1.0-1.1 cm ở đỉnh, mặt trong có nhiều vết loang
màu tím sậm và lông dính. Ống bao hoa dài 5.2-5.5 cm, phần gốc hình móng ngựa,
phồng, đường kính 1.6-1.8 cm, phần trên hình phễu, dài 1.4-1.5 cm, hẹp ở gốc, màu
tím sậm. Cánh môi có 3 thùy không đều, 2 thùy bên hình tam giác, kích thước 2-2.2
× 1-1.1 cm, thùy dưới hình bán nguyệt, kích thước 1.8-2 × 0.4-0.5 cm, mép các thùy
cuộn lại dạng ống tạo thành kèn trumpet, bên trong thùy màu tím sậm mang nhiều
mụn cơm và lông cứng. Miệng gần hình chữ nhật, kích thước 2.4-2.5 × 1.8-2 cm,
phần trên màu trắng với nhiều đốm màu sẫm, phần dưới màu hồng. Bộ nhị - nhụy
(gymnostemium) hình trụ, kích thước 5-6 × 3-4 mm, màu vàng nhạt, có 3 thùy nhọn,
nhẵn; Bao phấn thuôn, dài 2.8-3 mm, màu vàng. Quả nang hình trụ, kích thước 5-6 ×
1.5-1.8 cm, có 6 gờ nổi rõ, màu nâu, có lông mịn, nang chẻ từ đỉnh. Hạt hình trứng,
kích thước 6-7 × 4-5 mm, không có cánh, mặt trên lỗi, mặt dưới lõm, hai mặt nhẵn.
Loc.class.: Vietnam, Ha Nam: Kim Bang district, Thanh Son community, on
But Son limestone range, near the But Son cement factory.
Typus: T.V. Do 14 (VNMN, holo.!; DR, iso.!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 8-12, ra quả tháng 12-1 năm sau. Mọc
chủ yếu ven rừng hay ven đường mòn, nơi ẩm, khe núi đá vôi, ở độ cao 120-450 m.
Phân bố: Loài đặc hữu hẹp ở miền Bắc Việt Nam: Hà Nam (Kim Bảng), Ninh
45
Bình (Hoa Lư), Thanh Hóa (Bá Thước).
46
l
Hình 3.16. Aristolochia faviogonzalezii (A: Cành mang lá; B-C: Hoa; D: Gynostemium; E: Cành mang quả; F: Lông) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
Mẫu nghiên cứu: NINH BÌNH, Hoa Lư, Ninh Hải, Văn Lâm, Chiến & Hùng
4488 (IMM). – THANH HÓA, Bá Thước, Lũng Cao, KBTTN Pù Luông, Đ.V.
Trường s.n. (VNMN).
Giá trị sử dụng: Toàn bộ thân sử dụng làm thuốc để điều trị bệnh gan và bệnh
thấp khớp (theo kinh nghiệm sử dụng của người Mường).
Giá trị bảo tồn: Loài này có vùng phân bố ngoài vùng bảo vệ của Khu bảo tồn
thiên nhiên Pù Luông và khu vực núi đá vôi đang được khai thác của khu vực Hoa
Lư (Ninh Bình) nên đứng trước nguy cơ sụt giảm nghiêm trọng số lượng cá thể của
quẩn thể (VU).
Ghi chú: Mộc hương favio có đặc điểm hình thái của bao hoa tương tự với
loài Mộc hương carthcati (A. carthcartii) – loài phân bố chính ở vùng Hymalaya,
nhưng có thể phân biệt 2 loài này dựa vào đặc điểm hình thái của lá và cấu trúc họng
ống hoa. Loài này được mô tả năm 2015 trên cơ sở mẫu chuẩn duy nhất thu tại Hà
Nam (Do et al. 2015), nghiên cứu này chúng tôi cũng ghi nhận vùng phân bố mới ở
vùng núi đá vôi Ninh Bình (Hoa Lư) và Thanh Hóa (KBTTN Pù Luông).
B4. Aristolochia tadungensis Do & Luu – Mộc hương tà đùng, Phòng kỉ tà
đùng, Mã đậu linh tà đùng (Hình 3.17; Ảnh 21).
Do et al., Syst. Bot. 40(3): 677 (2015).
Mô tả: Dây leo hay trườn, thân gỗ, cao đến 20 m. Thân gần tròn, vặn xoắn,
nhánh non mảnh có nhiều lông, vỏ trên thân già thường nứt dọc sâu. Cuống lá dài 8-
10 cm, vặn, nhẵn. Phiến lá hình trứng và trứng – chóp hình giáo, 25-27 × 8-10 cm,
phiến lá dầy, gốc lá tròn hay cắt ngang, đầu lá nhọn hay có mũi ngắn, mặt trên xanh
thẫm, nhẵn, mặt dưới có nhiều lông trắng mềm, gân gốc 3, chân vịt, đôi gân ngoài dài
khoảng ½ chiều dài phiến lá, gân thứ cấp 4-5 đôi, gân lông chim, hệ gân mạng lưới
nổi rõ ở mặt dưới lá, mép lá nguyên, không lông. Cụm hoa xim, xim đơn độc trên
phần thân già, xim mang 3-4 hoa, các hoa mọc tách rời nhau. Trục cụm hoa dài 4-10
cm, uốn cong xuống dưới, có nhiều lông màu nâu. Lá bắc hình tam giác, 1.8-2 x1.3-
1.5 mm, cả 2 mặt có lông màu nâu, ôm trục cụm hoa, không có cuống. Cuống hoa dài
2.2-2.4 cm, rủ xuống dưới, có nhiều lông màu nâu. Bầu thuôn, kích thước 0.3-0.4 cm,
nhiều lông màu nâu. Bao hoa hình móng ngựa, dài 4.5-4.8 cm, màu trắng-vàng nhạt,
46
có lông thưa. Gốc bao hoa hình trụ, phồng, kích thước 0.6-0.7 × 1.1-1.2 cm, bên trong
màu tím sậm và có nhiều lông dính. Ống bao hoa gồm 2 phần: phần dưới hình móng
ngựa, phồng, đường kính 1-1.1 cm, phần trên hình phễu, dài 2-2.3 cm, đường kính
0.6-0.7 cm ở gốc và 0.9-1 cm ở phần đỉnh. Cánh môi 3 thùy, không đều nhau, hai
thùy bên hình tam giác hẹp, kích thước 1.1-1.2 × 0.5-0.6 cm, thùy dưới hình tam giác
rộng, kích thước 0.8-0.9 × 0.4-0.5 cm, khi hoa nở mép các thùy cuộn lại dạng ống tạo
thành môi giống như kèn trumpet, mặt trong thùy màu tím sẫm với nhiều mụn cơm
nổi rõ. Miệng ống bao hoa gần như hình vuông, kích thước 1.3-1.5 × 1.1-1.2 cm.
Họng hoa màu vàng có nhiều chấm hay đốm màu da cam. Bộ nhị - nhụy
(gynostemium) hình trụ, kích thước 5-6 × 3-4 mm, màu vàng, 3 thùy nhọn. Quả nang
hình thuôn dài, kích thước 9-10 × 2.8-3 cm, màu xanh hơi vàng, có 6 gờ nổi rõ, bên
ngoài nhiều lông nâu, quả nang chẻ từ phần đỉnh. Hạt hình trứng, kích thước 9-10 ×
5-6 cm, không có cánh, mặt trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class.: Vietnam, Dac Nong, Ta Dung NR.
Typus: TD 395 (VNMN, holo.!; SGN, iso.!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 10-11, ra quả tháng 12-1 năm sau.
Mọc chủ yếu trong kiểu rừng kín thường xanh, ẩm.
Phân bố: Đặc hữu ở miền Nam Việt Nam: Đắc Nông (Đăk Glong), Kon Tum
(Kon Plong), Gia Lai (An Khê), Lâm Đồng (Đà Lạt, Lạc Dương).
Mẫu nghiên cứu: LÂM ĐỒNG, Đà Lạt, Xuân Trường, Đ. V. Trường 87
(VNMN); Tà Nùng, Đ. V. Trường 91 (VNMN); Lạc Dương, Đạ Sar, VQG Bì Đoúp-
Núi Bà, Đ. V. Trường s.n. (VNMN). – KON TUM, Kon Plong, Măng Đen, Đ. V.
Trường 273 (VNMN). – GIA LAI, An Khê, Đ. V. Trường & W. Fang VNM_CN 1083
(VNMN).
Giá trị bảo tồn: Loài này ban đầu được mô tả duy nhất tại Vườn Quốc gia Tà
Đùng (Đăk Nông), gần đây nhiều quần thể với kích thước lớn cũng được tìm thấy
trong các khu ừng đặc dụng ở Tây Nguyên. Do đó, loài này trong tương lai chưa có
nguy suy giảm (LR)
Ghi chú: Loài này có đặc điểm hình thái và màu sắc bao hoa tương tự với loài
Mộc hương Hải Nam, tuy nhiên có thể phân biệt 2 loài trên bằng đặc điểm hình thái
của lá và họng ống hoa. Nghiên cứu này, chúng tôi cũng ghi nhận vùng phân bố mới
47
của loài này ở Kon Tum và Gia Lai.
48
m
Hình 3.17. Aristolochia tadungensis (A: Lá; B-C: Hoa; D: Gynostemium; E: Quả; F: Hạt) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
B5. Aristolochia xuanlienensis Huong N. T. T, Quang B. H. & Ma J. S. –
Mộc hương xuân liên, Phòng kỉ Xuân Liên, Mã đậu linh xuân liên (Hình 3.18; Ảnh
25).
Nguyen et al., Phytotaxa 188 (4): 176 (2015).
Mô tả: Dây leo hay trườn, thân gỗ, nhánh non có lông mịn, ép sát thân, màu
nâu, vỏ trên thân già có nhiều rãnh hay khía sâu, nứt dọc. Cuống lá dài 3-8 cm, có
lông màu nâu vàng. Phiến lá hình trứng, trứng ngọn giáo hay trứng hẹp, phiến lá dầy,
kích thước 12-25 × 7-15 cm, cả 2 mặt lá khi non có nhiều lông mềm, trắng, gần như
nhẵn khi già, gốc lá tròn, đầu lá có mũi nhọn, gân gốc 3-5, gân chân vịt, gân bên 4-5
đôi, gân lông chim, hệ gân mạng lưới, nổi rõ ơtr mặt trên, mép lá nguyên. Cụm hoa
xim, ở nách lá hoặc trên phần thân già, mỗi xim mang 3-4 hoa. Trục cụm hoa dài
khoảng 3 cm, có nhiều lông. Bao hoa hình móng ngựa, màu trắng có nhiều đường sọc
màu tím. Gốc bao hoa hình trụ, kích thước 9-10 × 6-8 mm, bên trong màu tím nhạt,
có nhiều lông dính. Phần trên ống bao hoa hình phễu, dài 2-2.3 cm, đường kính phần
gốc 0.7-0.9 cm, đường kính phần đỉnh 1.8-2.2 cm. Cánh môi 3 thùy tam giác, không
đều nhau, khi hoa nở 2 thùy bên cuộn lại dạng ốn và thùy dưới dạng tam giác rộng,
tạo thành kèn trumpet, đường kính 2-2.2 cm. Họng màu trắng kem, có nhiều đốm
màu tím sẫm. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 7-8 × 3-4 mm, nhẵn,
3 thùy tròn. Bao phấn 3 đôi, thuôn, dài 2 mm. Quả nang hình trụ, hẹp, kích thước 8-
10 × 2-2.5 cm, màu vàng-xanh. Hạt hình tim, kích thước 4-6 × 3-4 mm, mặt trên lồi,
mặt dưới lõm, nhẵn cả 2 mặt.
Loc.class.: Vietnam, Thanh Hoa, Xuan Lien NR..
Typus: Hai D.V., Quang B.H, Cuong N.T, Vu D.Q, Thanh B.V., & Thanh T.X
XL 129 (holotype HN!; isotypes: CSH).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 9-1, ra quả tháng 3-5. Mọc chủ yếu
ven rừng thứ sinh, trảng cây bụi nơi ẩm trên núi đá vôi, ở độ cao 200-900 m.
Phân bố: Đặc hữu của miền Bắc Việt Nam: Thanh Hóa (Thường Xuân, Cẩm
Thủy), Ninh Bình (Hoa Lư)
Mẫu nghiên cứu: THANH HÓA, Thường Xuân, KBTTN Xuân Liên, N. T. T.
Hương, Đ. V. Hài, B. H. Quang & N. S. Khang DVH 105 (HN); Đ. V. Trường 92
48
(VNMN); Cẩm Thủy, Cẩm Thạch, N. V. Trại & N. V. Tập 2300 (NIMM), Đ. V.
49
n
Hình 3.18. Aristolochia xuanlienensis (A: Cành mang lá, hoa; B-D: Đoạn thân và lát cắt ngang thân; E: Hoa; F-G: Gynostemium; H: Quả; I: Lát cắt ngang bầu) (Hình: Nguyễn Thị Thanh Hương)
Trường 34 (VNMN) – NINH BÌNH, Hoa Lư, Ninh Hải, Văn Lâm, N. Tập et al. 4986
(NIMM); Đ. V. Trường s.n. (VNMN).
Giá trị sử dụng: Thân sử dụng làm thuốc (theo kinh nghiệm sử dụng của người
Mường).
Giá trị bảo tồn: Một số quần thể kích thước nhỏ của loài này được ghi nhận ở
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên và khu vực lân cận, môi tường sống và sinh cảnh
vẫn đang bị tác động mạnh mẽ, do đó loài này có thể bị đe dọa (LR)
Ghi chú: Loài Mộc hương xuân liên có đặc điểm hình thái hoa tương tự với
loài Mộc hương Bắc Bộ (A. tonkinensis), nhưng có thể phân biệt loài này với loài
Mộc hương bắc bộ bởi những chấm màu tím bên trong họng của ống bao hoa
B6. Aristolochia balansae Franch. – Mộc hương balansa, Phòng kỉ balansa
(Hình 3.19; Ảnh 03).
Franch. Journ. de Bot. 12: 311 (1898). – Lecomte, Not. Syst. 1: 74 (1909) et
Fl. Gén. Ind.-Chin. 4: 55 (1910). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27 (5): 349 (1989). –
Phamh., Illustr. Fl. Vietn. 1: 302 (2000). – N.T. Ban, Checkl. Pl. Sp. Vietn. 2: 123
(2003).
Mô tả: Dây leo thân gỗ, quấn hay trườn, cao 4-8 m, thân đơn, dẹt, khi non có
lông mịn, nhẵn khi trưởng thành; vỏ có nhiều rãnh dọc sâu. Cuống lá dài 2.5–5.0 cm,
vặn, nhẵn. Phiến lá hình trứng, kích thước 10–18(–20) × 5–10 cm, phiến lá dầy, gốc
lá hình nêm hay tròn, đầu lá tù hay có mũi nhọn, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn
trắng; gân gốc 3, đôi gân bên dài ½ chiều dài của phiến lá; gân thứ cấp 4-5 đôi, hệ
gân mạng lưới, nổi rõ ở mặt dưới lá, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm hoa xim, đơn hay
mọc thành cụm 2-3 xim, ở nách lá hay trên phần thân già, mỗi xim mang 4-5 hoa,
tách rời nhau. Trục cụm hoa dài 4-5 cm, cong, có lông mịn. Lá bắc hình tam giác,
nhỏ, 2-3 × 1-1.5 cm, cả 2 mặt có nhiều lông mịn, không có cuống, ôm trụm cụm hoa,
tồn tại dai. Cuống hoa dài 2-2.5 cm, rủ xuống dưới, nhiều lông mịn. Bầu thuôn, kích
thước 0.8-1 × 0.2-0.3 cm, nhiều lông mịn. Bao hoa hình móng ngựa, dài 4-4.5 cm,
nhẵn, bên ngoài màu trắng kem, có nhiều đường sọc màu tím, song song. Gốc bao
hoa hình chuông, kích thước 1.0-1.2 × 0.9-1.1 cm, bên trong có nhiều lông dính. Ống
bao hoa uốn cong ở phần giữa, dạng chữ U, gồm 2 phần: phần dưới phồng rõ, phần
49
trên hình phễu ngắn, hẹp ở gốc và song song với gốc bao hoa, 1-1.2 cm dài, 0.5-0.6
cm ở phần gốc và 1.3-1.5 cm ở phần đỉnh. Môi có 3 thùy không đều nhau, 2 thùy bên
hình delta, kích thước 1.5-1.8 × 0.6-0.7 cm, thùy dưới nhỏ hơn, kích thước 1.8-2 ×
0.8-1 cm, mép các thùy uốn cong hình thành môi dạng kèn trumpet và bộc lộc mặt
trong các thùy màu tím sẫm, với nhiều các mụn cơm hay các lông dính. Miệng gần
tròn, đường kính 2-2.2 cm. Họng màu vàng sẫm, không có chấm hay đốm nhỏ. Bộ
nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 6-8 × 4-5 cm, có 3 thùy, màu trắng
kem hay vàng nhạt, các thùy có đỉnh nhọn và nhẵn. Bao phấn thuôn, dài 2.8-3 cm,
màu vàng. Quả nang hình trụ hẹp, màu nâu, kích thước 10-12 × 2-2.2 cm, nang chẻ
từ đỉnh. Hạt hình trứng, kích thước 6-8 × 4-5 cm, không có cánh, mặt trên lồi, mặt
dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class: Vietnam, Hanoi, Ba Vi National Park
Typus: Balansa 3159 (P 00623809, holo!, K, iso.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 8-10, ra quả tháng 10-12. Mọc chủ
yếu dưới tán rừng thường xanh, ẩm hay nơi sáng ven đường đi, ở độ cao 600-800 m.
Phân bố: Loài đặc hữu hẹp, phân bố ở Miền Bắc Việt Nam: Hà Nội (Ba Vì),
Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hóa (Bá Thước)
Mẫu nghiên cứu: HÀ NỘI, VQG Ba Vì, s.n. (P); Đ. V. Trường 01 & 02
(VNMN, DR). – NINH BÌNH, VQG Cúc Phương, Đ. V. Trường 41 (VNMN, DR). –
THANH HÓA, Bá Thước, KBTTN Pù Luông, Đ. V. Trường 60 (VNMN).
Giá trị sử dụng: Vỏ dùng chữa lị và chữa bí tiểu tiện, có khi còn dùng chữa
thấp khớp (Võ Văn Chi 1997).
Giá trị bảo tồn: Nghiên cứu gần đây chúng tôi đã ghi nhận vùng phân bố mới
của loài này, các quần thể gồm nhiều cây tái sinh và và phát triển tốt. Do đó loài Mộc
hương này hiện nay chưa nguy cấp.
Ghi chú: Mộc hương balansae được Franchet mô tả năm 1898 dựa trên mẫu
hoa thu được tại VQG Ba Vì. Sau đó loài này vẫn được biết đến là đặc hữu hẹp ở Ba
Vì (Phạm Hoàng Hộ 2000, Nguyễn Tiến Bân 2003). Tuy nhiên, nghiên cứu này, lần
đầu tiên chúng tôi mô tả đặc điểm hình thái của quả. Hơn nữa, chúng tôi cũng ghi
nhận vùng phân bố mới của Loài mộc hương balansa ở VQG Cúc Phương (Ninh
50
Bình) và KBTTN Pù Luông (Thanh Hóa).
Hình 3.19. Aristolochia balansae
o
(A: Cành mang hoa, lá; B: Gynostemium) (Hình: Theo Phạm Hoàng Hộ 1999)
B7. Aristolochia neinhuisii Do. – Mộc hương neinhuis, Phòng kỉ neinhuis,
Mã đậu linh neinhuis (Hình 3.20; Ảnh 16)
Do et al., Ann. Bot. Fennici 54: 203 (2017)
Mô tả: Dây leo hay trườn thân gỗ, cao đến 20 m, thân rễ hình trụ hay gần tròn.
Thân gần dẹt, nhánh non mảnh, có lông mịn, vỏ trên phần thân già xẻ rãnh hay có
khía sâu, màu nâu. Cuống lá dài 5-9 cm, vặn xoắn, có lông mịn. Lá đơn, mọc cách
đôi khi mọc đối, phiến lá hình trứng hay trứng-ngọn giáo, kích thước 18-26 × 8-15
cm, phiến lá dầy, gốc lá tròn hay hơi lõm, đầu lá nhọn, mặt trên màu xanh thẫm, nhẵn,
mặt dưới có lông mịn, nằm ép sát phiến lá, gân gốc 3, chân vịt, đôi gân bên ngoài dài
khoảng ½ chiều dài phiến lá, gân thứ cấp 4-5 đôi, gân lông chim, gân mạng lưới, nỗi
rõ mặt dưới lá, mép lá nguyên đôi khi có 2 thùy, không lông. Cụm hoa xim, mọc cụm
2-3 xim, ở nách lá hay trên phần thân già, mỗi xim mang 1-3 hoa, riêng biệt nhau.
Trục cụm hoa 2-3 cm, có nhiều lông màu nâu. Lá bắc hình tam giác, kích thước 1.5-
2 × 1.5-1.8 mm, cả 2 mặt lá có nhiều lông màu nâu, ôm trục cụm hoa. Cuống hoa dài
1.5-1.7 cm, rủ xuống phía dưới, nhiều lông màu nâu. Bầu thuôn, kích thước 0.8-0.9
× 0.2-0.3 cm. Bao hoa hình móng ngựa, dài 3-3.2 cm, màu vàng nhạt hay màu hạt dẻ,
có đường kẻ sọc mờ. Gốc bao hoa hình chuông, phồng, dài 0.8-0.9 cm, đường kính
gốc là 0.5-0.6 cm và ở phần đỉnh là 0.8-0.9 cm, bên trong màu tím sẫm và có nhiều
lông dính. Ống bao hoa gồm 2 phần: Phần dưới hình móng ngựa, phồng, và hẹp hơn
gốc bao hoa, đường kính 0.7-0.8 cm, bên trong màu trắng kem, nhẵn; phân trên hình
phễu thuôn, dài 2.3-2.5 m, đường kính phần gốc là 0.5-0.6 cm, và phần đỉnh là 1-1.1
cm, bên trong màu vàng nhạt, nhẵn. Cánh môi 3 thùy không đều nhau, hai thùy bên
hình tam giác rộng, kích thước 1.2-1.3 × 0.6-0.7 cm, thùy giữa tam giác hẹp, kích
thước 1-1.1 × 0.5-0.6 cm, khi hoa nở mép các thùy cuộn lại dạng ống tạo thành kèn
trumpet, gần tròn, đường kính 2-2.2 cm, bên trong thùy màu tím sẫm có nhiều mụn
cơm. Họng ống bao hoa màu vàng, không có chấm hay đốt. Bộ nhị - nhụy
(gynostemium) hình trụ, kích thước 6-7 × 3-4 cm, có 3 thùy nhọn, màu vàng, nhẵn.
Quả nang hình trụ, kích thước 8-10 × 2.2-2.5 cm, màu vàng nhạt-xanh, có lông thưa,
màu nâu, có 6 gờ hay cạnh nổi rõ. Hạt hình trứng, kích thước 8-9 × 4-5 mm, không
có cánh, mặt trên lỗi, mặt dưới lõm, nhẵn cả 2 mặt.
Loc.class.: Vietnam, Lam Dong, Bidoup-Nui Ba NP.
51
Typus: T.V.Do 89 (holotype VNMN!; isotype VNMN!; DR!)
52
p
Hình 3.20. Aristolochia neinhuisii (A: Cành mang lá; B-E; Hoa; F: Quả) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 10-12, ra quả tháng 1-3. Mọc chủ yếu
dưới tán rừng lá rộng thường xanh ẩm, ven suối.
Phân bố: Loài đặc hữu hẹp của Việt Nam: Lâm Đồng (Lạc Dương).
Giá trị bảo tồn: Mộc hương neihuis mới được ghi nhận vào năm 2017, mặc
dù quần thể kích thước nhỏ, nhưng phần lớn các quần thể sinh trường phát triển tốt
và nằm trong khu vực bảo vệ nghiêm ngặt, nên loài này ở mức độ ít nguy cấp (LR)
Ghi chú: Mộc hương neinhuis có đặc điểm hình thái hoa dạng kèn trumpet
tương tự với một số loài trong phân chi Siphisia ở Việt Nam như: A. balansae, A.
hainanensis, A. tonkinensis và A. tadungensis, nhưng khác biệt so với các loài ở trên
bởi đặc điểm hình thái của lá như: lá mọc cách, đôi khi mọc đối, phiến lá đôi khi xẻ
2-3 thùy.
B8. Aristolochia hainanensis Merr. – Mộc hương hải nam, Phòng kỉ hải
nam. (Hình 3.21; Ảnh 11)
Merr., Philipp. Journ. Sc. 21: 341 (1922). – Liang, Acta Phytotax. Sin. 13 (2):
13 (1975). – Hwang, Fl. Reip. Pop. Sin. 24: 223 (1988). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27
(5): 349 (1989); et Fl. Chin. 5: 265 (2003). – Do et al., Syst. Bot. 40(3): 684 (2015).
(=) Aristolochia carinata Merr. & Chun, Sunyatsenia 5: 219–220 (1935). –
Type: CHINA. Hainan: Fanya, Ng Chi Leng, 25 Oct 1932, N.K. Chun & C.L.
Tso 44161 (PE, holo.; IBK, NY, iso.!).
(≡) Hocquaria hainanenis (Merr.) Migo, Journ. Shanghai. Sci. Inst. 14: 334
(1944).
Mô tả: Dây leo hay trườn, thân gỗ, dài đến 5 m. Thân dẹt, nhánh non có nhiều
lông màu trắng kem, vỏ trên phần thân già thường có nhiều rãnh hay khía sâu, đôi khi
tạo thành cánh. Cuống lá dài 4-10 cm, vặn, có nhiều lông màu nâu. Phiến lá hình
trứng hay hình trứng ngọn giáo, kích thước 15-25 × 6-15 cm, dầy, gốc lá tròn hay
hình nêm, đầu lá nhọn, mặt trên có lông thưa sau nhẵn, mặt dưới có nhiều lông màu
trắng, gân gốc 3, đôi gân bên dài khoảng 1/3 chiều dài của phiến lá, gân thứ cấp 3-4
đôi, lông chim, hệ gân mạng lưới, mờ ở mặt trên và nổi rõ ở mặt dưới lá. Hoa dạng
xim, đơn độc ở nách lá và trên phần thân già, mang 3-4 hoa, các hoa mọc riêng biệt.
Trục cụm hoa dài 3-4 cm, thẳng, có nhiều lông màu nâu. Lá bắc hình tam giác, kích
52
thước 2 × 1.5 cm, cả 2 mặt có lông nâu, không có cuống, tồn tại dai. Cuống hoa dài
2-2,5 cm, thòng xuống dưới, có nhiều lông màu nâu. Bầu thuôn, kích thước 1-1.2 ×
0.2-0.4 cm, có nhiều lông nâu. Bao hoa hình chữ U, dài 4.5-5 cm, màu vàng nhạt có
nhiều đường sọc màu tím, bên ngoài nhiều lông. Gốc bao hoa hình trụ, kích thước
0.6-0.8 × 1-1.2 cm, bên trong có vết loang màu tím và phủ nhiều lông dính. Ống bao
hoa dài 1.5-2,5 cm, gồm 2 phần: phần phía dưới phồng to, phần ống phía trên hình
phễu, phần gốc hẹp đường kính 0,3-0.4 cm, phần đỉnh mở rộng đường kính 2-2.2 cm.
Cánh môi gồm 3 thùy không đều nhau, thùy hình tam giác rộng, các thùy cuộn lại
dạng ống tạo thành kèn trumpet, mặt trong các thùy màu tím có nhiều mụn cơm.
Miệng bao hoa gần tròn, đường kính 2.2-2.5 cm. Họng màu vàng, nhẵn, không có
đốm hay chấm màu. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 3 × 3 mm, có
3 thùy nhọn. Bao phấn hình thuôn, dài 2-2.5 mm, màu vàng. Quả nang, hình trụ hẹp,
kích thước 6-7 × 2-3 cm, quả có 6 gờ nổi rõ, bên ngoài có nhiều lông, nang nứt dọc
từ phần đỉnh. Hạt hình trứng-tam giác, kích thước 6-8 × 4-5 mm, không có cánh, mặt
trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class.: China, Hainan, Five Finger Mt.
Typus: McClure 8630 (K, holo.; A, US, iso.)
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 12-3 năm sau, ra quả từ tháng 4-7.
Mọc chủ yếu dưới tán rừng kín thường xanh, ẩm, hoặc dọc theo khe và ven suối ở độ
cao 600-1000 m.
Phân bố: Hà Giang (Vị Xuyên), Điện Biên (Điện Biên Đông), Tuyên Quang
(Na Hang), Hải Phòng (Cát Bà). Còn có ở Nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng
Tây, và Hải Nam)
Mẫu nghiên cứu: HÀ GIANG, Vị Xuyên, KBTTN Tây Côn Lĩnh, Đ. V.
Trường 78 (VNMN, DR). – ĐIỆN BIÊN, Điện Biên Đông, Mường Phăng, N. Tập
8812 (IMM). – TUYÊN QUANG, Na Hang, KBTTN Nà Hang, Đ. V. Trường 26
(VNMN, DR); N. Tập et al. 6490 (IMM); Chiêm Hóa, Yên Nguyên, N. V. Trại & N.
V. Sơn 6492 (IMM). – HẢI PHÒNG, VQG Cát Bà, N. H. Hiến 826 (HN); LX-VN
3716 (HN).
Giá trị sử dụng: Trị thấp khớp, sưng tấy đỏ (rễ) (Danh lục cây thuốc Việt Nam
53
- Viện Dược liệu, 2016)
q
Hình 3.21. Aristolochia hainanensis (A: Đoạn thân mang lá; B: Hoa; C: Gynostemium; D: Quả; E-F: Hạt) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
Giá trị bảo tồn: Loài này được ghi nhận trong các khu rừng đặc dụng được
bảo vệ nghiêm ngặt, quần thể sinh turowngr phát triển tốt, do đó loài này hiện nay
chưa nguy cấp.
Ghi chú: Loài này có đặc điểm hình thái tương tự với loài Mộc hương Bắc Bộ
(A. tonkinensis), nhưng có thể phân biệt bởi đặc điểm hình thái và màu sắc của họng
ống hoa.
B9. Aristolochia tonkinensis Do & Wanke. – Mộc hương bắc bộ, Phòng kỉ
bắc bộ (Hình 3.22; Ảnh 22)
Do et al., Syst. Bot. 40(3): 678 (2015)
Mô tả: Dây leo hay trườn thân gỗ, dây leo cao đến 10 m, thân rễ hình trụ hay
tròn. Thân dẹt, nhánh non có nhiều lông màu xám, mịn, vỏ trên thân già xẻ rãnh hay
khía sâu. Lá mọc đối, cuống lá dài 6-10 cm, vặn xoắn, có nhiều lông xám mịn. Phiến
lá hình trứng- trứng rộng, hiếm khi hình tam giác, phiến dầy, kích thước 20-25 × 12-
14 cm, gốc tròn hay cắt ngang, đầu có mũi nhọn ngắn, mặt trên xanh thẫm, có lông
thưa, mặt dưới có lông trắng, mịn; gân gốc 3, chân vịt, đôi gân bên ngoài dài khoảng
1/3 chiều dài phiến lá, gân thứ cấp 5-6 đôi, gân chân vịt, hệ gân mạng lưới nổi rõ ở
mặt dưới lá, mép lá nguyên, không lông. Cụm hoa hình xim, đơn độc, trên nách lá
hay trên thân hóa gỗ, mỗi xim 3-4 hoa, mọc tách rời nhau. Trục cụm hoa dài 1.5-2.5
cm, có nhiều lông. Lá bắc hình trứng, kích thước 2-2.2 × 1-1.5 mm, cả 2 mặt có nhiều
lông màu nâu, ôm sát trục cụm hoa, tồn tại dai. Cuống hoa dài 1.2-1.5 cm, rủ xuống
dưới, nhiều lông nâu. Bầu thuôn, dài 0.6-0.8 × 0.2-0.3 cm, nhiều lông mịn. Bao hoa
hình móng ngựa, dài 4.2-4.5 cm, bên ngoài màu trắng có lông thưa và đường sọc màu
tím. Gốc bao hoa hình trụ, kích thước 0.8-0.9 × 0.5-0.8 cm, bên trong màu tím sẫm
có nhiều lông dính. Ống bao hoa màu vàng nhạt đến trắng kem, dài 3.2-4.5 cm, gồm
2 phần: phần dưới hình móng ngựa, phồng, đường kính 1.1-1.3 cm, phân trên hình
phễu hẹp, song song với gốc bao hoa, đường kính 0.5-0.6 cm ở phần gốc, và 0.8-0.9
cm ở phần đỉnh. Cánh môi 3 thùy không đều, 2 thùy bên hình tam giác, kích thước1.1-
1.2 × 0.5-0.6 cm, thùy dưới hình tam giác rộng, kích thước 0.8-0.9 × 0.4-0.5 cm, khi
hoa nở mép các thùy cuộn lại dạng ống tạo thành hình trumpet, với mặt trong thùy
màu tím sẫm và có nhiều mụn cơm, lông cứng nổi rõ. Miệng ống bao hoa gần vuông,
kích thước 1.2-1.3 × 0.9-1 cm. Họng ống bao hoa màu trắng, không có đốm và chấm.
54
Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 3-4 × 2-3 mm, màu vàng, 3 thùy
55
r
Hình 3.22. Aristolochia tonkinensis (A: Lá; B: Hoa; C: Quả) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
tròn, nhẵn. Quả nang hình trụ dài, kích thước 10-12 × 2.5-3 cm, màu nâu-xanh nhạt,
có 6 gờ nổi rõ như cánh, bên ngoài có nhiều lông mịn, nang chẻ từ phần đỉnh. Hạt
hình trứng, kích thước 8-9 × 5-6 mm, không có cánh, mặt trên lồi, mặt dưới lõm, cả
2 mặt nhẵn.
Loc.class.: Vietnam, Ninh Binh, Cuc Phuong NP.
Typus: N.M.Cuong 1493 (MO, holo.!; CPNP, L, iso.!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 11-3, ra quả 2-5. Mọc chủ yếu ven
rừng cây lá rộng thường xanh trên núi thấp, trảng cây bụi, nơi ẩm, dọc theo suối.
Phân bố: Đặc hữu ở miền Bắc Việt Nam: Hòa Bình (Lạc Sơn, Đà Bắc), Ninh
Bình (Nho Quan)
Mẫu nghiên cứu: HÒA BÌNH, Lạc Sơn, KBTTN Ngọc Sơn-Ngổ Luông, Đ.
V. Trường 116 (VNMN); Đà Bắc, KBTTN Pu Canh, Đ. V. Trường 33 (VNMN). –
NINH BÌNH, Nho Quan, VQG Cúc Phương, N. M. Cường 1564 (CPNP); Đ. V.
Trường 12 (VNMN, DR); Đ. V. Trường 40 (VNMN, DR).
Giá trị bảo tồn: Mặc dù loài này với kích thước quần thể không lớn, nhưng
sinh trưởng tốt, nhiều cây con tái sinh và phân bố chính trong các khu rừng đặc dụng
nên ít bị đe dọa (LR).
B10. Aristolochia nuichuaensis V.T. Do & H.T. Luu – Mộc hương núi chúa,
Phòng kỉ núi chúa. (Hình 3.23; Ảnh 17)
Do et al., Ann. Fenn. Botanici. 56: 107 (2018)
Mô tả: Dây leo hay trườn, thân gỗ, thân dẹt, vặn xoắn, nhánh non gần như
nhẵn, vỏ trên phần thân già có nhiều rãnh hay khía sâu, màu nâu. Cuống lá dài 7-12
cm, vặn xoắn, nhẵn. Phiến lá hình trứng rộng hay hình tim, kích thước 18-24 × 14-17
cm, phiến lá dầy, gốc lá hình tim, tai có kích thước 2-4 × 1-4 cm, đầu lá nhọn, mặt
trên lá xanh thẫm, nhẵn, mặt dưới lá có nhiều lông trắng, mềm, ép sát phiến lá, gân
gốc 5, gân chân vịt, gân thứ cấp 4-5 đôi, gân lông chim, hệ gân mạng lưới, nổi rõ cả
2 mặt lá. Cụm hoa xim, mọc cụm 1-3 xim trên phần thân già, mỗi xim mang 3-4 hoa.
Trục cụm hoa dài 10-16 cm, có nhiều lông màu nâu. Lá bắc hình dùi, kích thước 2-3
× 1-1.5 mm, cả 2 mặt có lông màu nâu, ôm phần trục cụm hoa. Cuống hoa dài 2.5-
2.8 cm, thẳng, có nhiều lông màu nâu. Bầu thuôn, kích thước 0.8-1 × 0.2-0.3 cm,
55
thẳng, có lông mịn. Bao hoa hình móng ngựa, dài 4.2-4.5 cm. Gốc bao hoa hình
chuông, dài 0.9-1.1 cm, đường kính phần gốc 0.6-0.7 cm, phần đỉnh 1-1.1 cm, bên
trong màu tím, có nhiều lông dính. Ống bao hoa gồm 2 phần: phần dưới hình móng
ngựa, phồng, đường kính 1.2-1.3 cm, bên ngoài có lông mịn, màu tím nhạt, bên trong
màu tím nhạt hay hồng, phần trên hẹp hơn, hình trụ, kích thước 2-2.2 × 0.6-0.7 cm,
bên ngoài nhẵn, màu tím sẫm, bên trong nhẵn, màu trắng. Cánh môi 3 thùy không
đều nhau, 2 thùy bên hình tam giác rộng, thùy dưới tam giác hẹp hoen, khi hoa nở
các thùy hợp nhau tạo thành hình chuông, đường kính 4.5-5 cm, mép các thùy không
cuộn lại, bên ngoài màu trắng kem nhiều đường sọc màu tím, nhẵn, bên trong màu
trắng có nhiều đường sọc màu tím, lõm, và nhẵn. Họng bao hoa hình ellip, đường
kính 0.8-0.9 cm, màu trắng, nhẵn. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước
6-7 × 2-3 mm, màu vàng nhạt, có 3 thùy nhọn. Bao phấn 3 đôi, thuôn, dài 4.5-5
mm,màu vàng. Quả nang hình thuôn, kích thước 4-5 × 1.5-1.8 cm, có 6 gờ hay cạnh
nổi rõ, màu xanh-vàng nhạt, có nhiều lông màu nâu. Hạt hình trứng, 7-8 × 2-4 cm,
mặt trên lỗi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc. class.: Vietnam, Ninh Thuan, Nui Chua National Park
Typus: Nguyen Thanh Trung & Luu Hong Truong Luu 1119 (holotype SGN;
isotypes VNMN, SGN).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 10-1, ra quả tháng 12-2. Mọc chủ yếu
dưới tán rừng cây lá rộng thường xanh, ẩm, độ cao 700-1200 m.
Phân bố: Loài đặc hữu ở miền Nam Việt Nam: Ninh Thuận (Ninh Hải).
Giá trị sử dụng: Trị đau bụng, phong thấp, đau đầu (thân rễ) (Danh lục cây
thuốc Việt Nam – Viện Dược liệu 2016).
Giá trị bảo tồn: Là loài mới được phát hiện nên thiếu thông tin để đánh giá về
mức độ suy giảm cá thể trong quần thể. Tuy nhiê, hiện nay loài này vẫn chưa bị đe
dọa do môi trường sống vẫn đang được bảo vệ nghiêm ngặt.
Ghi chú: Loài Mộc hương núi chúa có đặc điểm hình thái lá tương tự với loài
Mộc hương bì đoúp (A. bidoupensis) và Mộc hương favio (A. faviogonzalezii) nhưng
dễ dàng phân biệt với 2 loài trên bời đặc điểm hình thái của hoa. Loài này có đặc
điểm hình thái hoa gần giống với loài Mộc hương fangchi (A. fangchi), nhưng lá của
56
2 loài này khác biệt.
s
Hình 3.23. Aristolochia nuichuaensis (A: Cành mang lá; B: Đoạn thân mang hoa; C-E: Hoa) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
B11. Aristolochia petelotii Schmidt. – Mộc hương pê tê lốt, Phòng kỉ pê tê
lốt (Hình 3.24; Ảnh 18)
Schmidt, Repert. Spec. Nov. Regni Veg. 32: 95 (1933). - Lecomte, Not. Syst.
1: 76 (1909); et Fl. Gén. Ind.-Chin. 4: 55 (1910). – Hwang, Fl. Reip. Pop. Sin. 24:
222 (1988). – Ma, Acta Bot. Yunnan, 11 (3): 322 (1989). et Acta Phytotax. Sin. 27
(5): 357 (1989). – Phamh., Illustr. Fl. Vietn. 1: 304 (2000). – N. T. Bân, Checkl. Pl.
Sp. Vietn. 2: 124 (2003). – Hwang, Fl. Chin. 5: 264 (2003).
Mô tả: Dây trườn thân gỗ, kéo dài đến 8 m, thân rễ hình trụ hay tròn. Thân dẹt,
nhánh non có nhiều lông màu nâu nhạt, vỏ trên thân già có nhiều rãnh hay khía sâu.
Cuống lá dài 3-6 cm, rủ xuống, có nhiều lông màu nâu. Phiến lá hình trứng hẹp hay
trứng với chóp lá hình ngọn giáo, kích thước 12-20 × 5-11 cm, phiến lá dầy, gốc lá
hình tim hay hơi lõm, đầu lá nhọn có đuôi dài 0.5-0.8 cm, cả 2 mặt lá có lông cứng,
gân gốc 3, đôi gân bên ngoài dài khoảng 1/3 chiều dài của phiến lá, gân thứ cấp 4-5
đôi, dạng lông chim, hệ gân mạng lưới, nổi rõ mặt dưới lá, mép lá nguyên, nhẵn. Cụm
hoa xim, đơn độc và mọc chụm 2-3 xim, trên phần thân già, mỗi xim mang 1-3 hoa.
Trục cụm hoa dài 2-8 cm, có nhiều lông màu nâu. Lá bắc hình thuôn, kích thước 6-8
× 2-3 mm, cả hai mặt có lông, không có cuống, tồn tại dai. Cuống hoa dài 2-2.2 cm,
rủ xuống dưới, có nhiều lông. Bầu hình thuôn, kích thước 1.5-1.8 × 0.5-0.6 cm, có
nhiều lông. Bao hoa hình chữ U hẹp, dài 8-10 cm, màu tím phớt vàng có nhiều đường
gờ song song, bên ngoài nhiều lông màu nâu. Gốc bao hoa hình ellip đến hình trụ,
kích thước 4.8-5 × 1-1.2 cm, bên trong màu tím sẫm có nhiều lông dính màu xám.
Ống bao hoa hình trụ, hẹp hơn gốc bao hoa, kích thước 2.3-2.5 × 0.7-0.8 cm, bên
ngoài có lông nâu, thưa. Cánh môi 3 thùy, không đều nhau, các thùy không cuộn, hợp
lại tạo thành hình chuông, đường kính 2.8-3 cm, thùy hình tam giác rộng với đỉnh
nhọn, bên trong thùy màu tím sẫm có nhiều gân lõm và đốm trắng, nhẵn, bên ngoài
thùy màu tím-vàng với nhiều gân hay gờ nổi rõ. Miệng ống bao hoa có gờ nổi rõ,
đường kính 0.8-1 cm. Họng màu tím sậm, không có đốt hay chấm màu. Bộ nhị nhụy
(gynostemium) hình trụ, kích thước 9-10 × 4-5 mm, nhẵn, màu trắng-vàng, 3 thùy
tròn. Bao phấn thuôn, dài 5-6 mm, màu vàng. Quả nang, hình trụ thuôn, kích thước
6-8 × 2-3 cm, màu nâu đen, có 6 gờ nổi rõ, nang chẻ từ phần đỉnh. Hạt hình trứng-
tim, lõm ở gốc, mặt trên lồi, mặt dưới lõm, nhẵn cả 2 mặt.
57
Loc.class: Vietnam, Lao Cai, Sa Pa.
58
t
Hình 3.24. Aristolochia petelotii (A: Cành mang hoa; B: Lá; C: Hoa; D: Gynostemium) (Hình: Theo Hwang et al. 1988)
Typus: Petelot 4418 (P 02028702, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 3-7, ra quả tháng 9-12. Mọc chủ yếu
dưới tán rừng kín thường xanh, ẩm, độ cao khoảng 900-1400 m.
Phân bố: Lào Cai (Sapa, Bát Xát), Hà Giang (Quản Bạ, Bắc Mê), Cao Bằng
(Nguyên Bình).
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, Sa Pa, Petelot 4418 (P); Petelot s.n. (VNM); Bản
Khoang, N. Tập & N. Đ. Phương & Đ. V. Sơn 5677 (IMM); Tả Giàng Phìn, N. Tập
& N. Đ. Phương 5672 (IMM); N. Đ. Phương & N. T. Huyền 7122 (IMM); Đ. V.
Trường 22 (VNMN, DR); Đ. V. Trường 42 (VNMN, DR); Bát Xát, Y Tý, Đ. V.
Trường 243 (VNMN). – HÀ GIANG, Quản Bạ, Thái An, N. Đ. Phương & Đ. V. Sơn
7476 (IMM); Bắc Mê, Nấm Dẩn, P.V.Trưởng et al. s.n. (NIMM). – CAO BẰNG,
Nguyên Bình, VQG Phia Oắc-Phia Đén, Đ. V. Trường 65 (VNMN, DR)
Giá trị sử dụng: Trị đau xương, phong thấp (thân rễ) (Danh lục cây thuốc Việt
Nam – Viện Dược liệu, 2016).
Giá trị bảo tồn: Loài này phân bố rộng khắp khu vực vùng núi cao phía Bắc,
tái sinh tốt. Do đó loài Mộc hương này hiện nay chưa nguy cấp.
Ghi chú: Loài này được Schmidt mô tả đầu tiên năm 1933 trên cơ sở duy nhất
mẫu hoa (Petelot 4418 (P)) thu tại Tả Phình Văn, Sapa, Lào Cai. Nghiên cứu này,
chúng tôi mô tả thêm đặc điểm hình thái của quả nang. Hơn nữa, chúng tôi cũng ghi
nhận thêm vùng phân bố của loài này ở Hà Giang (KBTTN Bát Đại Sơn, Bắc Mê) và
Cao Bằng (VQG Phia Oắc-Phia Đén).
B12. Aristolochia fangchi Wu ex Chow & Hwang. – Mộc hương fang, Phòng
kỉ fang, Mã đậu linh fang (Hình 3.25; Ảnh 09).
Hwang et al., Fl. China 5: 264 (2003). – Liang, Acta Phytotax. Sin. 13 (2):
(1975). – Hwang, Fl. Reip. Pop. Sin. 24: 220 (1988). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27
(5): 356 (1989). – Hwang et al., Fl. China 5: 264 (2003). – Do et al., Syst. Bot. 40(3):
681 (2015).
Mô tả: Dây leo hay trườn, thân gỗ, thường dài 2-3 m. Thân dẹt, khi non có
nhiều lông xám, cây trưởng thành vỏ có nhiều rãnh nứt dọc. Cuống lá dài 2-4 cm,
thẳng, có nhiều lông màu nâu, mịn. Phiến lá hình trứng thuôn, kích thước 6-16 × 3.5-
58
6 cm, lá dầy, gốc lá trong, đầu lá nhọn hay tù, mặt trên nhẵn, mặt dưới có nhiều lông
mịn, xám, gân gốc 3, đôi gân bên ngoài dài khoảng 1/3 chiều dài của phiến lá; gân
thứ cấp 3-4 đôi, gân lông chim, hệ gân mạng lưới, mặt trên dẹt, nổi rõ mặt dưới lá,
mép lá nguyên, có lông ngắn. Cụm hoa xim, đơn độc ở phần thân già, mỗi xim mang
2-4 hoa, các hoa mọc riêng biệt nhau. Trục cụm hoa dài 3-4 cm, thẳng, có nhiều lông
màu nâu. Lá bắc hình delta rộng, kích thước 3-8 × 1-1.2 mm, cả hai mặt có nhiều
lông, gốc không có cuống, ôm phần trục cụm hoa, sớm rụng. Cuống hoa dài 2-2.2
mm, rủ xuống, nhẵn. Bầu hình bầu dục thuôn, kích thước 1.8-2 × 0.3-0.4 ccm, có
nhiều lông màu nâu. Bao hoa hình chữ U, dài 8-9 cm, màu tím sẫm, bên ngoài có
nhiều lông cứng và các đường viền song song, nổi rõ. Gốc bao hoa hình trụ thuôn dài,
kích thước 4-4.2 × 1.3-1.4 cm, bên trong màu tím sẫm, phủ nhiều lông dính. Ống bao
hoa uốn cong hướng lên, song song với gốc bao hoa, hình trụ thuôn dài, hẹp hơn gốc
bao hoa, kích thước 2-2.2 × 0.9-1 cm, bên ngoài nhiều lông màu nâu, bên trong nhẵn.
Cánh môi 3 thùy không đều nhau, khi hoa nở các thùy gần như hợp tạo thành khiên
tròn, bên trong màu tím sẫm với nhiều chấm trắng, bên ngoài màu trắng hơi vàng với
nhiều đường viền dạng mạng lưới nổi rõ, đầu mỗi thùy có mũi nhọn ngắn, môi rộng
5-6 cm, xung quanh họng có vòng tròn màu trắng. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình
trụ, kích thước 4 × 4 mm, màu trắng hơi vàng, có 3 thùy ở đỉnh, thùy dạng tù. Bao
phấn thuôn, kích thước 2.5-3 mm, màu vàng. Quả nang hình trụ, kích thước 6-8 × 3-
4 cm, có 6 gờ nổi rõ, nhiều lông màu nâu, nang chẻ từ đỉnh. Hạt hình trứng tam giác,
kích thước 5-6 × 2.5-4 cm, không có cánh, mặt trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Locc.class.: China, Guangdong, Jilong Shan.
Typus: G.L. Shi 2 (IBSC, lecto.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 4-5, quả tháng 6-10. Mọc chủ yếu ven
rừng lá rộng thường xanh hay rừng hỗn giao cây gỗ và cây tre nứa, hay ven trảng cây
bụi trên núi đá vôi, ở độ cao 700-900 m.
Phân bố: Hà Giang (Bắc Mê), Quảng Ninh (Yên Tử), Hòa Bình (Đà Bắc).
Còn có ở Trưng Quốc (Quảng Đông và Quảng Tây).
Mẫu nghiên cứu: HÀ GIANG, KBTTN Bắc Mê, Đ. V. Trường 66 (VNMN,
DR). – QUẢNG NINH, Uông Bí, Yên Tử, Đ. V. Trường 35 (VNMN, DR); V. V.
Chuyên 2958 (IMM). – HÒA BÌNH, Đà Bắc, KBTTN Pu Canh, Đ. V. Trường 31
59
(VNMN, DR); N. V. Trại 5661 (IMM).
60
u
Hình 3.25. Aristolochia fangchi (A: Cành mang lá; B-C: Hoa; D: Quả; E: Hạt) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
Giá trị sử dụng: Toàn bộ thân sử dụng làm thuốc điều trị các bệnh về gan và
khớp (Theo kinh nghiệm sử dụng của người Dao).
Giá trị bảo tồn: Một số quần thể kích thước nhỏ của loài này được ghi nhận ở
các khu rừng đặc dụng phía Bắc, tuy nhiên hiện nay môi trường sống đang bị tác động
mạnh, cùng với việc khai thác nguyên liệu làm thuốc nên loài này có nguy cơ bị đe
dọa cao (VU).
Ghi chú: Mộc hương fang có đặc điểm hình thái bao hoa tương tự với loài
Mộc hương fetelot, nhưng có thế phân biệt với loài trên bởi đặc điểm hình thái của lá
và bên trong thùy của cánh môi.
B13. Aristolochia annamensis Do, Wanke & Neinhuis. – Mộc hương trung
bộ, Phòng kỷ trung bộ, Mã đậu linh trung bộ (Hình 3.26; Ảnh 02)
Do et al., Phytotaxa 220(1): 069 (2015)
Mô tả: Dây leo hay trườn thân gỗ, dài đến 18 m. Thân dẹt, vặn, nhánh non
mảnh, có lông mịn, vỏ trên thân già có rãnh hay khía sâu, màu nâu. Cuống lá dài 4-5
cm, thẳng, nhẵn. Phiến lá hình ngọn giáo hay trứng ngọn giáo, phiến dầy, kích thước
12-18 × 6-8 cm, gốc lá bằng hay hơi lõm, đầu lá nhọn, mặt trên xanh thẫm, nhẵn, mặt
dưới lá có nhiều lông áp sát, màu trắng, gân gốc 3, chân vịt, đôi gân ngoài dài khoảng
½ chiều dài của phiến lá, gân lá thứ cấp 4-5 đôi, dạng lông chim, hệ gân mạng lưới
nổi rõ mặt dưới lá, mép lá nguyên. Cụm hoa xim, đơn độc trên phần thân già hóa gỗ,
mỗi xim 3-4 hoa, hoa mọc riêng rẽ. Trục cụm hoa dài 4-6 m, có nhiều lông nâu mịn.
Lá bắc hình tam giác, kích thước 2-2.5 × 1.5-1.8 mm, cả hai mặt lá có nhiều lông màu
nâu, ôm trục cụm hoa. Cuống hoa dài 2.5-2.8 cm, thẳng, nhiều lông màu nâu. Bầu
thuôn, kích thước 0.8-1 × 0.2-0.3 cm, có nhiều lông màu xám. Bao hoa hình móng
ngựa, dài 5.5-5.8 cm, bên ngoài có lông màu tím nhạt, có lông thưa và đường sọc màu
tím mờ. Gốc bao hoa hình trụ, phồng, kích thước 0.9-0.9 × 0.6-0.8 cm, bên trong màu
tím, nhiều lông dính. Ống bao hoa gồm 2 phần: phân dưới hình móng ngựa, phồng,
đường kính 1.1-1.2 cm, phần trên hình trụ, kích thước 3-3.2 × 0.4-0.5 cm, màu tím
sẫm không có các đường sọc. Cánh môi 3 thùy, không đều nhau, 2 thùy bên hình tam
giác rộng hơn, kích thước 1.2-1.4 × 0.5-0.6 cm, thùy dưới hẹp hơn, 0.6-0.7 × 0.9-1
cm, khi hoa nở các thùy hợp và trải rộng tạo thành hình đĩa, đường kính 2-2.2 cm,
với mép các thùy hơi uốn cong, bên trong thùy màu tím sẫm, nhẵn, không có gân và
60
mụn cơm. Họng màu trắng hay vàng nhạt, có nhiều chấm hay đốm mày tím, đường
61
v
Hình 3.26. Aristolochia annamensis (A: Lá; B: Cành mang hoa, quả; C-E: Hoa; F: Quả) (Hình: Nguyễn Hữu Quyết)
kính 1-1.1 cm. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 5-6 × 3-4 cm, 3
thùy tròn, màu tím. Bao phấn dài 2.2-2.5 mm, màu vàng. Quả nang hình thuôn dài,
kích thước 5-6 × 1.8-2.2 cm, có 6 gờ nổi rõ, màu xanh-vàng nhạt, có nhiều lông màu
nâu, quả nang chẻ từ đỉnh. Hạt hình trứng, kích thước 6-7 × 4-5 cm, không có cánh,
mặt trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class.: Thua Thien Hue, Phu Loc, Bach Ma NP.
Typus: T.V.Do 70 (holotype: VNMN!; isotype: DR!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 9-11, ra quả tháng 10-12. Mọc chủ
yếu trong các kiểu rừng lá rộng thường xanh, ẩm, dọc theo khe suối, ở độ cao từ 700-
1240 m.
Phân bố: Đặc hữu ở miền Trung Việt Nam: Quảng Trị (Đak Rông), Thừa
Thiên Huế (Phú Lộc, A Lưới), Đà Nẵng (Bà Nà), Quảng Nam (Núi Thành, Sông
Thanh, Tây Giang).
Mẫu nghiên cứu: QUẢNG TRỊ, Đak Rông, Đ. V. Trường 110 (VNMN). –
THỪA THIÊN HUẾ, A Lưới, Nghi 3160 (NIMM); Phú Lộc, VQG Bạch Mã, Đ. V.
Trường 108 & 109 (VNMN). – ĐÀ NẴNG, Bà Nà Hill, Đ. V. Trường 111 (VNMN).
– QUẢNG NAM, Núi Thành, Tam Trà, Bon & Phong 2959 (NIMM), Tam Mỹ, N.
Tập 466 (NIMM); Sông Thanh, KBTTN Sông Thanh, Đ. V. Trường 112 & 114
(VNMN); Tây Giang, Lăng, N. Tập & N. Đ. Phương 7124 (NIMM).
Giá trị bảo tồn: Loài này có phân bố rộng, ghi nhận nhiều quần thể trong các
khu rừng đặc dùng ở miền Trung, cây có khả năng tái sinh tốt. Do đó, loài này hiện
chưa bị đe dọa.
B14. Aristolochia bidoupensis Do. – Mộc hương bì đúp, Phòng kỉ bì đúp.
(Hình 3.27; Ảnh 04).
Do et al., Nord. J. Bot. 34: 513 (2016).
Mô tả: Dây leo hay trườn thân gỗ, dài đến 8 m, có rễ củ dạng hình trụ hay hình
trứng thuôn. Thân tròn, nhánh non có nhiều lông mịn, áp sát, vỏ trên phần thân già
có nhiều rãnh hay khía sâu, màu nâu. Cuống lá dài 6-8 m, vặn xoắn, có lông mịn.
Phiến lá hình hình trứng rộng, hình tim hay gần tròn, kích thước 25-32 × 14-28 cm,
phiến lá dầy, gốc lá hình tim, tai có kích thước 2-3 × 0.8-1 cm, đầu lá nhọn, mép
61
nguyên, cả 2 mặt lá và mép lá có nhiều lông màu trắng, ép sát, lông mềm, khi già mặt
62
Hình 3.27. Aristolochia bidoupensis
(A: Cành mang hoa, lá; B: Gân lá; C: Lông; D-F: Hoa; G: Gynostemium)
w
(Hình: Đỗ Văn Trường)
lá phía trên gần như nhẵn, gân gốc 5, gân chân vịt, gân thứ cấp 4-5 đôi, gân lông
chim, hệ gân mạng lưới, nổi rõ mặt dưới lá. Hoa đơn độc ở nách lá và trên phần thân
già. Lá bắc hình trứng, giống như vảy, kích thước 3-4 × 2-3 mm, đính gần gốc của
cuống hoa, tồn tại dai. Cuống hoa dài 1.3-1.5 cm, mọc rủ xuống phía dưới. Bầu hoa
thuôn, kích thước 0.6-0.7 × 0.3-0.4 cm. Bao hoa hình móng ngựa, dài 3.5-4 cm, bên
ngoài màu vàng nhạt, có nhiều đường sọc và chấm màu tím. Gốc bao hoa hình trụ,
kích thước 0.7-0.8 × 0.4-0.5 cm, bên trong màu tím sẫm, có nhiều lông dính. Ống bao
hoa gồm 2 phần, phần dưới phồng, đường kính 1.3-1.4 cm, phần trên hình phễu,
thuôn, dài 2-2.8 cm, đường kính gốc 0.6-0.7 cm, đướng kính phần trên 1.3-1.4 cm,
có nhiều đường sọc và chấm màu tím sẫm. Cánh môi 3 thùy không đều nhau, 2 thùy
bên hình tam giác rộng, kích thước 1.5-1.7 × 0.5-0.6 cm, thùy dưới tam giác hẹp 1.8-
2 × 0.4-0.5 cm, khi hoa nở các thùy trải rộng và hợp nhau tạo thành dạng đĩa, đường
kính 2.2-2.3 cm, bên trong màu tím sẫm, nhẵn, không có đường sọc hay đốm màu.
Họng màu vàng tươi, không có đốm màu, có đường gờ tròn nổi rõ, màu tím đậm,
đường kính 1.1-1.2 cm. Bộ nhị - nhụy (gynostemium) hình trụ, kích thước 6-7 × 4-5
mm, màu vàng, nhẵn, có 3 thùy nhọn; bao phấn dài 2.5-3 mm, màu vàng.
Loc. class.: Vietnam, Lam Dong, Bidoup-Nui Ba NP.
Typus: Do 90 (holotype: VNMN!; isotype: VNMN!).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 3-5, quả tháng 6-8. Mọc chủ yếu trong
kiểu rừng lá rộng thường xanh, ẩm, hay ven rừng thứ sinh, dọc theo khe suối.
Phân bố: Loài đặc hữu ở vùng Tây Nguyên Việt Nam: Gia Lai (An Khê), Lâm
Đồng (Đà Lạt, Lạc Dương)
Mẫu nghiên cứu: GIA LAI, An Khê, Đ. V. Trường & W. Fang VNM_CN
1082 (VNMN). – LÂM ĐỒNG, Đà Lạt, Xuân Trường, N. Tập 106 (NIMM); Đ. V.
Trường 86 (VNMN); Thác Dalata, Đ. V. Trường 88 (VNMN).
Giá trị bảo tồn: Loài này phân bố chính trong các khu rừng đặc dụng của Tây
Nguyên, sinh cảnh sống đang được bảo vệ tốt, quần thể với nhiều cá thể sinh trưởng
tốt, cây con tái sinh nhiều. Do đó, loài này ít có nguy cơ bị đe dọa.
Ghi chú: Loài này có đặc điểm hình thái lá tương tự với loài Mộc hương Favio
62
(A. faviogonzalezii) ở miền Bắc Việt Nam và loài Mộc hương Núi Chúa (A.
nuichuaensis) ở miền Nam Việt Nam, tuy nhiên nó khác loài trên bởi đặc điểm hình
thái của ống bao hoa, hình dạng cánh môi và họng ống hoa.
B15. Aristolochia muluensis Y. S. Huang & Yan Liu, - Mộc hương mu lu
(Ảnh 15).
Huang et al. Ann. Bot. Fennici 50: 175 (2013).
Mô tả: Cây leo thân gỗ, có rãnh khía sâu; rễ củ gần tròn. Thân tròn, cành non
có lông vàng đến hơi nâu dày đặc, thân già có rãnh khía sâu. Lá hình trứng, trứng tam
giác, hình tim hay gần tròn kích thước 9-25 × 12-21 cm, đỉnh lá tù đến nhọn; gốc lá
tròn hay có tai sâu 1,5-2,2cm, rộng 0,6-1cm. Mặt trên lá nhẵn, mặt dưới nhiều lông,
phiến lá nguyên. Gân lá hình chân vịt với 3 gân chính, gân thứ cấp 4 cặp hình lông
chim, mặt trên hơi lõm, mặt dưới nổi rõ. Cụm hoa hình xim từ 2-4 hoa trên cành non
hoặc thân già; trục cụm hoa dài 2,2-3,2 cm có nhiều lông rậm nâu. Lá bắc hình dùi;
ôm lấy trục cao 3-5 mm; rộng 1,5-2 cm có lông dày đặc ở 2 mặt. Cuống dài 1,2-1,5
cm, hơi cong. Bầu thuôn dài 11-12 mm đường kính 3-4 cm có lông. Bao hoa hình
móng ngựa, màu tím, họng màu tím với nhiều đốm trắng. Gốc bao hoa hình elipsoid
cao 1,1-1,2 cm đường kính 0,5-0,6cm. Ống hình trụ cao 1,6 -1,8cm đường kính 0,5-
0,6cm. Môi gồm 3 thùy không đều nhau, màu tím sẫm với mặt ngoài có lông rậm;
các thùy trải rộng thành hình đĩa tròn hay hình khiên đường kính 2,2-3cm, mép các
thùy không cuộn; mặt ngoài của cánh môi thùy đỏ tía, có lông màu nâu dày đặc. mặt
trong có màu tím đậm. Họng màu tím với các đốm trắng. Gynostemium 3 thùy cao
4-6 mm, đường kính 2,5-3 mm, thùy màu trắng, hơi tù. Bao phấn thuôn dài 2,5-3 mm
màu vàng.
Loc.class.: China. Guangxi, Hechi, Huangnjiang contry, Mulun NR.
Typus: Yu-Song Huang et al. ML 1425(holotype IBK; isotype IBK).
Sinh học và sinh thái: Cây mọc vùng đệm của rừng núi đá vôi, ra hoa tháng
4-5.
Phân bố: Hà Giang (Mèo Vạc, Lũng Chình), Lạng Sơn (Văn Quan, Tri Lễ);
còn có ở Trung Quốc.
Mẫu nghiên cứu: LẠNG SƠN, Văn Quan, Tri Lễ, Tập – Trại 3235 (NIMM);
63
HÀ GIANG,Mèo Vạc, Lũng Chình, L.M.Xư 2048 (NIMM).
Giá trị sử dụng: Rễ được sử dụng trong y học cổ truyền có tác dụng lợi tiểu,
lợi gan (Theo kinh nghiệm của dây tộc Tày).
Giá trị bảo tồn: Loài này hiện nay đang được sử dụng nhiều tại các địa phương
như Lạng Sơn, Hà Giang. Tuy nhiên hiện nay dẫn liệu để đánh giá mức độ suy giảm
của loài này trong tự nhiên vẫn còn thiếu (DD).
Ghi chú: Loài A. muluensis gần giống với loài A. kwangsiensis bởi đặc điểm
phiến lá hình tim đến gần tròn, có lông dày đặc ở mặt dưới. Tuy nhiên, điểm khác
biệt ở hình thái của bao hoa, mặt trong của các thùy cánh môi và họng.
B16. Aristolochia kwangsiensis Chun et How ex Liang. – Mộc hương quảng
tây, Mã đậu linh quảng tây (Hình 3.28; Ảnh 13).
Liang, Acta Phytotax. Sin. 13 (2): 12 (1975). – Hwang, Fl. Guichow. 1: 175
(1982). – Wu et al., Fl. Yunnan, 1: 1050 (1984). – J. Wuhan Bot. Res. 5 (3): 221
(1987). – Hwang, Fl. Reip. Pop. Sin. 24: 208 (1988). – Ma, Acta Phytotax. Sin. 27
(5): 363 (1989). – Nguyen, Checkl. Pl. Sp. Vietn. 2: 123 (2003). – Hwang et al., Fl.
Chin. 5: 262 (2003).
(≡) A. shukangii Chun et How nom. nud. in herb.
Mô tả: Dây leo hay trườn, thân gỗ, dài đến 10 cm, thân rễ dạng củ tròn hay
hình trụ. Thân dẹt, nhánh non có nhiều lông màu nâu nhạt hay vàng, vỏ trên nhánh
già có nhiều đường khía hay rãnh dọc. Cuống lá dài 6-10 cm, có nhiều lông màu nâu.
Phiến lá hình trứng rộng, hình tim hay gần tròn, kích thước 10-23 × 10-22 cm, dầy,
gốc lá hình tim, có tai kích thước 3-4 × 0.8-1 cm, đầu lá tù hay nhọn, mặt trên có lông
thưa, mặt dưới có nhiều lông cứng, gân gốc 3, 2 gân bên dài khoảng ½ chiều dài phiến
lá, gân thứ cấp 4 đôi, lông chim, hệ gân mạng lưới, nổi rõ ở mặt trên và hơi lõm ở
mặt dưới, mép lá nguyên, có nhiều lông. Cụm hoa xim, đơn độc ở nách lá và trên
phần thân già, mang 2-4 hoa, các hoa mọc chụm. Trục cụm hoa dài 1.5-2.0 cm, có
nhiều lông cứng màu nâu. Lá bắc hình trứng, kích thước 5-6 × 2.5-3 mm, cả mặt 2 có
nhiều lông, ôm trục cụm hoa, sớm rụng. Cuống hoa dài 2-3 cm, thòng xuống dưới,
nhiều lông. Bầu thuôn, dài 1-1.1 × 0.3-0.4 cm, màu nâu, có nhiều lông. Bao hoa hình
móng ngựa, dài 4-5 cm, màu trắng, nhiều lông cứng, có đường viền màu tím nhạt,
mờ. Gốc bao hoa hình ellip, kích thước 2.2-2.5 × 0.6-0.8 cm. Ống bao hoa song song
64
với gốc bao hoa, hẹp hơn, dạng hình trụ, kích thước 2-2.5 × 0.4-0.5 cm. Cánh môi 3
thùy, các thùy không đều, bên ngoài có nhiều lông cứng và màu tím sẫm, khi hoa nở,
các thùy tam giác trải rộng tạo thành hình đĩa tròn, 2 thùy bên nhỏ hơn thùy dưới, bên
trong thùy màu tím sẫm, được phủ nhiều mụn cơm hình nón. Quanh vùng miệng ống
hoa có đường gờ tròn nổi rõ, đường kính khoảng 0.5 cm. Họng màu vàng, không có
đốm hay chấm. Gynostemium hình trụ, kích thước 5-6 × 2-3 mm, màu trắng, có 3
thùy tù, nhẵn. Bao phấn thuôn, dài 2.5-3 mm, màu vàng. Quả nang hình trụ, kích
thước 6-8 × 2 cm, màu xanh-vàng nhạt, bên ngoài có nhiều lông cứng, 6 gờ nổi rõ,
nang mở từ phần đỉnh. Hạt hình trứng, kích thước 8 × 5-6 mm, không có cánh, mặt
trên lồi, mặt dưới lõm, cả 2 mặt nhẵn.
Loc.class: China, Guangxi, Long Zhou
Typus: L.S. Gang 200508 (IBK, holo.).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa tháng 1-5, ra quả tháng 7-9. Mọc chủ yếu
ven rừng, trảng cây bụi, hay dọc theo suối ở khu vực núi đá vôi, ở độ cao 300-1500
m.
Phân bố: Hà Giang (Mèo Vạc), Cao Bằng (Thạch An), Bắc Kạn (Na Rỳ),
Lạng Sơn (Cao Lộc, Văn Quan), Hải Phòng (Cát Bà). Còn có ở Trung Quốc
Mẫu nghiên cứu: HÀ GIANG, Mèo Vạc, Lũng Chình, N. Tập s.n. (IMM). –
CAO BẰNG, Thạch An, N. Tập 2019 (IMM); Đ. V. Trường s.n. (VNMN); Trùng
Khánh. KBTTN Trùng Khánh, Đ. V. Trường 43 (VNMN). – BẮC KẠN, KBTTN Na
Rỳ, Đ. V. Trường LNKH 02 (VNMN, DR). – LẠNG SƠN, Cao Lộc, Đồng Đăng, V.
V. Chuyên 1912 (IMM); Văn Quan, Tri Lễ, N.V.Trại & N. Tập 3235 (IMM). – HẢI
PHÒNG, VQG Cát Bà, LX-VN 3798 (HN).
Giá trị sử dụng: Rễ có tác dụng giảm đau, dùng chữa đau họng, đau dạ dày,
đau gan và chữa rắn cắn.[1]
Giá trị bảo tồn: Mặc dù loài này có phân bố rộng và gặp ở nhiều kiểu sinh thái
rừng khác nhau, tuy nhiên một số điểm phân bố trước đây không còn tìm lại được,
khu phân bố cách xa nhau. Theo sách đỏ Việt Nam 2007, loài này thuộc diện nguy
cấp EN A1c,d[2, 8]
Ghi chú: Mộc hương Quảng Tây có đặc điểm hình thái khác biệt so với tất cả
65
các loài khác trong phân chi Siphisia ở Việt Nam bởi toàn bộ thân, lá và bao hoa có
x
Hình 3.28. Aristolochia kwangsiensis (A: Cành mang lá, quả; B-C: Hạt)
lông cứng màu nâu. Lá hình tim với hệ gân tam cấp và thứ cấp phát triển, nổi rõ trên cả 2 mặt lá. Phần họng bao hoa có đường gờ tròn, nổi rõ.
3.5. Hiện trạng phân bố và bước đầu xác định giá trị bảo tồn các loài thuộc chi
Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
3.5.1. Hiện trạng phân bố
Các loài thuộc chi Aristolochia ở Việt Nam phân bố rộng khắp Việt Nam, dọc
từ miền Bắc đến miền Nam trong đó có thể kể đến 3 vùng phân bố chính của chi
Mộc hương là: Khu vực Tây và Đông Bắc Bộ trong đó tập trung tại các tỉnh biên giới
(Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh) (11 loài); khu vực Ninh Bình
- Bắc Trung Bộ (7 loài); khu vực Tây Nguyên (7 loài) . Tuy nhiên, mức độ phân bố
của các loài trong chi là không đồng nhất. Hầu hết các loài trong chi có vùng phân
bố hẹp (1-4 điểm phân bố), trong đó một số loài mới chỉ ghi nhận 1 khu vực phân bố
như: A. binhthuanensis, A. pothieri, A. utriformis, A. neinhuisii, A. nuichuaensis,
A.muluensis; một số loài là đặc hữu hẹp như: A. bidoupensis; A. xuanlienensis; A.
quangbinhensis; A. binhthuanensis… Loài A. acuminata có vùng phân bố rộng nhất
(12 điểm phân bố).
3.5.2. Hiện trạng quần thể và bước đầu xác định giá trị bảo tồn các loài chi Mộc
hương ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về giá trị sử dụng của chi Mộc hương ít được thực
hiện, tuy nhiên một số loài bước đầu đã được ghi nhận có giá trị làm thuốc như:
A.acuminata; A. balansae; A. tuberosa, A. cambodiana… Tại Lạng Sơn, loài
A.acuminata đang được khai thác thân sẽ để sử dụng làm thuốc với số lượng lớn.
Theo ghi nhận từ người dân địa phương tần suất gặp loài này ít hơn do diện tích rừng
bị thu hẹp cùng với việc thu mua nhiều, do đó đứng trước nguy cơ sắp bị đe dọa.
Theo Sách đỏ Việt Nam (2007) và Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt
Nam (2007) có 03 loài của chi Mộc hương ở trong diện bảo tồn bao gồm: A. indica
(VU A1c); A. tuberosa (EN A1c,d); A. kwangsiensis (EN A1c,d) [2],[8]. Tuy nhiên,
như đã trình bày trước đó, loài A. indica không có ở Việt Nam, mẫu mô tả của loài
này thực tế là loài A. cambodiana do đó, bước đầu có thể đánh giá loài A. cambodiana
thuộc diện VU A1c.
Một số loài Mộc hương đặc hữu tại Việt Nam như: A. binhthuanensis, A.
66
neinhuisii, A. nuichuaensis, A. bidoupensis, A. faviogonzalezii, A.tadungensis có
vùng phân bố hẹp (1-2 địa điểm phân bố) cần được duy trì bảo tồn. Trong đó, quần
thể loài A. faviogonzalezii nằm ngoài khu vực rừng được bảo vệ do đó đang chịu tác
động mạnh của con người. Các quần thể của loài A. tadungensis được tìm thấy trong
một số khu rừng đặc dụng song số lượng cá thể ít.
Dựa vào các kết quả nghiên cứu phân bố các loài Mộc hương, bước đầu xác
định giá trị bảo tồn của một số loài như sau (Bảng 3.2)
Bảng 3.2. Đánh giá mức độ nguy cấp các loài chi Mộc hương ở Việt Nam
Mức độ Mức độ TT Tên loài TT Tên loài nguy cấp nguy cấp
Aristolochia Không 1 Aristolochia acuminata LR 14 longgangensis nguy cấp
Không Aristolochia 2 Aristolochia annamensis 15 DD nguy cấp muluensis
Không Aristolochia 3 Aristolochia balansae 16 LR nguy cấp neinhuisii
Không Aristolochia Không Aristolochia bidoupensis 17 4 nguy cấp nuichuaensis nguy cấp
Aristolochia binhthuanensis VU 18 Aristolochia petelotii LR 5
Aristolochia cambodiana VU A1c 19 Aristolochia pothieri LR 6
Aristolochia Aristolochia chlamydophylla VU 20 VU 7 quangbinhensis
Aristolochia Không 8 Aristolochia cochinchinensis VU 21 tadungensis nguy cấp
Aristolochia 9 Aristolochia fangchi VU 22 LR tonkinensis
67
Aristolochia 10 Aristolochia faviogonzalezii VU 23 EN A1c,d tuberosa
Không Aristolochia 11 Aristolochia hainanensis 24 VU nguy cấp utriformis
Aristlochia 12 Aristolochia impressinervis LR 25 LR xuanlienensis
68
13 Aristolochia kwangsiensis EN A1c,d
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận.
- Lựa chọn hệ thống phân loại của Schmidt (1935) để sắp xếp các taxon chi
Mộc hương (Aristolochia) ở Việt Nam. Theo đó chi này ở Việt Nam gồm 25 loài,
được xếp trong 2 phân chi: Aristolochia (9 loài) và Siphisia (16 loài)
- Đã phân tích đặc điểm hình thái của chi Mộc hương qua các đại diện ở Việt
Nam bao gồm: đặc điểm dạng sống; đặc điểm hình thái lá; đặc điểm hình thái cụm
hoa và hoa; đặc điểm hình thái quả và hạt.
- Hoàn thiện khóa định loại 25 loài Mộc hương thuộc 02 phân chi ở Việt Nam.
- Mô tả đầy đủ 25 loài Mộc hương ở Việt Nam gồm: danh pháp, đặc điểm hình
thái, sinh thái, mẫu nghiên cứu, phân bố, giá trị sử dụng. Trong đó, đã phát hiện và
mô tả 01 loài Mộc hương mới cho khoa học (A.binhthuanensis) và 02 loài Mộc hương
bổ sung cho khu hệ thực vật Việt Nam (A. chlamydophylla và A. muluensis).
- Bước đầu xác định giá trị bảo tồn cho cho các loài ở các cấp độ khác nhau:
02 (EN); 08(VU); 07(LR); 01(DD) và 07 (Không nguy cấp)
4.2. Kiến nghị.
Tiếp tục nghiên cứu bổ sung các dẫn liệu còn thiếu về các loài thuộc chi Mộc
hương ở Việt Nam làm cơ sở hoàn thiện dữ liệu về các loài thuộc chi Mộc hương ở
Việt Nam.
Nghiên cứu hoạt chất sinh học trong một số loài đặc hữu và phân bố hẹp làm
69
cơ sở đề xuất sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.
2.
3. 4. 5. 6.
7.
8. Nguyễn Tiến Bân (2003), Danh lục các loài thực vật Việt Nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, Nguyễn Tiến Bân (2007), Sách đỏ Việt Nam - Phần II. Thực vật. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, Võ Văn Chi (2011), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Tập 1. Nxb. Y học, Hà Nội, Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 2. Nxb. Y học, Hà Nội, Phạm Hoàng Hộ (2000), Cây cỏ Việt Nam, Tập 3. Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, Viện Dược liệu (2016), Danh lục cây thuốc Việt Nam. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, Đỗ Tất Lợi (1999), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nxb. Y học, Hà Nội, Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang Cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội,
Tiếng Anh
9.
10. 11. Bentham G., Hooker J D. (1880), Aristolochiaceae (Genera Plantarum). Reeve, London, 121-125. Linnaeus C. (1753), Species Plantarum Vol.2. L. Salvius, Stockholm, Schmidt O C. (1935), Aristolochiaceae (Die natürlichen Pflanzenfamilien). Leipzig: Engelmann, 204-242.
latitudinal gradients 12. Condamine F L., Sperling F AH., Wahlberg N., Rasplus Jean‐Y., Kergoat G in species diversity? swallowtail Y. (2012), "What causes Evolutionary processes and ecological constraints on biodiversity", Ecology Letters, 15(3), 267-277.
13. Do T V., Luu T H., Wanke S., Neinhuis C. (2015), "Three new species and three new records of Aristolochia subgenus Siphisia from Vietnam including a key to the Asian species", Systematic Botany, 40(3), 671-691.
14. Do T V., Wanke S., Neinhuis C., Pooma R. (2015), "Aristolochia phuphathanaphongiana sp. nov. from southwestern Thailand", Nordic Journal of Botany, 33(5), 567-571.
15. Do TV., Nguyen DQ., Nguyen TQT., Wanke S., Neinhuis C. (2015), "A new species of Aristolochia subgenus Aristolochia (Aristolochiaceae) from southern Vietnams", Ann. Bot. Fenn, 52(3-4), 268-273.
70
16. González F. (2012), "Florística y sistemática filogenética innecesariamente disyuntas: El caso de Aristolochia, Euglypha y Holostylis (Aristolochiaceae)", Revista de la Academia Colombiana de Ciencias Exactas, Físicas y Naturales, 36(139), 193-202. 17. A. R. Franchet (1898), "Plantarum sinensium ecloge secunda", Journal de Botanique, 12(311–315.
19.
20. 18. González F., Stevenson., Dennis W. (2002), "A phylogenetic analysis of the subfamily Aristolochioideae (Aristolochiaceae)", Revista de la Academia Colombiana de Ciencias Exactas. Físicas y Naturales, 26(25-60. Lecomte H. (1909), "Aristolochiaceae d’Indo-Chine.", Notulae Systematicae (Paris) 1), 72–76. Lecomte H. (1910), Aristolochiaceae (Flore Générale de l'Indo-Chine). Masson, Paris, 52-58.
21. Huong N T T., Hai D V., Quang B H., Cuong N T., Khang N S., Vu D Q., Ma J S. (2014), "Aristolochia xuanlienensis, a new species of Aristolochiaceae from Vietnam", Phytotaxa 188(176-180.
22. Hwang S M., Kelly L. M., Gilbert M G. (2003), Aristolochiaceae (Flora of China) Missouri Botanical Garden Press and Beijing: Science Press, 246-269. 23. Duchartre P M. (1854), Aristolochiaceae (Extrait du manuel général des plantes) Librairie Agricole de la Maison Rustique, Paris, 2-5. 24. Duchartre P M. (1854), "Tentamen methodicae divisionis generis Aristolochia", Annales des sciences naturelles, Botanique, 4(29-76. 25. Duchartre P M. (1864), Aristolochiaceae (Prodromus systematis naturalis regni vegetabilis). Masson, Paris, 433-439. 26. Ma J S., Cheng C Y. (1989), "New taxa of Chinese Aristolochia L.", Acta Phytotaxonomica Sinica, 27(293–297.
27. Murata J., Ohi-Thoma T., Wu S., Darnaedi D., Sugawara T., Nakanishi T., Murata H. (2001), "Molecular phylogeny of Aristolochia (Aristolochiaceae) inferred from matK sequences. ", Acta phytotaxonomica et geobotanica, 52(75-83.
30. 28. Neinhuis C., Wanke S., Hilu KW., Müller K., Borsch T. (2005), "Phylogeny of Aristolochiaceae based on parsimony, likelihood, and Bayesian analyses of trnL-trnF sequences", Plant Systematics and Evolution, 250(1-2), 7-26. 29. Ohi-Toma T., Sugawara T., Murata H., Wanke S., Neinhuis C., Murata J. (2006), "Molecular phylogeny of Aristolochia sensu lato (Aristolochiaceae) based on sequences of rbcL, matK, and phyA genes, with special reference to differentiation of chromosome numbers. ", Systematic Botany, 31(481-492. Simmons M P., Ochoterena H. (2000), "Gaps as characters in sequence-based phylogenetic analyses", Systematic Biology, 49(369–381.
31. Klotzsch T. (1859), Die Aristolochiaceae des Berliner Herbariums. 32. Do T V., Nghiem T D., Wanke S., Neinhuis C. (2014), "Aristolochia quangbinhensis (Aristolochiaceae), a new species from Central Vietnam", PhytoKeys, 33), 51.
33. Wagner S T., Isnard S., Rowe N P., Samain M S., Neinhuis C., Wanke S. (2012), "Escaping the lianoid habit: Evolution of shrub‐like growth forms in Aristolochia subgenus Isotrema (Aristolochiaceae)", American Journal of Botany, 99(10), 1609-1629.
71
34. Wanke S., González F., Neinhuis C. (2006), "Systematics of pipevines: to Combining morphological and fast-evolving molecular characters
the relationships within
72
investigate subfamily Aristolochioideae (Aristolochiaceae)", International Journal of Plant Sciences, 167(6), 1215- 1227.
PHỤ LỤC 1. BẢNG TRA CỨU TÊN KHOA HỌC
Tên Khoa học Trang
Aristolochia acuminata Aristolochia annamensis
Aristolochia balansae
11, 15, 19, 21, 24, 25, 26, 30, 66, 67 15, 28, 60, 67 10, 15, 17, 18, 19, 21, 22, 23, 24, 27, 49, 51, 66, 67 15, 18, 19, 28, 56, 61, 66, 67 Aristolochia bidoupensis 15, 26, 38, 66, 67 Aristolochia binhthuanensis 11, 15, 25, 26, 39, 40, 66, 67 Aristolochia cambodiana 52 Aristolochia carinata 26, 39, 67, 68, Aristolochia chlamydophylla 34 Aristolochia cinnabarina 37, 15, 21, 26, 67 Aristolochia cochinchinensis Aristolochia dongnaiensis 40 Aristolochia dongnaiensis var hirsuta 40 Aristolochia fangchi
Aristolochia faviogonzalezii
Aristolochia hainanensis Aristolochia heterophylla Aristolochia impressinervis Aristolochia indica Aristolochia kaempferi Aristolochia kerrii Aristolochia kwangsiensis Aristolochia longgangensis Aristolochia muluensis Aristolochia neinhuisii Aristolochia nuichuaensis Aristolochia petelotii Aristolochia pothieri Aristolochia quangbinhensis Aristolochia rotunda Aristolochia roxburghiana Aristolochia saccata Aristolochia shukangii Aristolochia siamensis Aristolochia tadungensis Aristolochia tagala
Aristolochia tonkinensis
i
11, 15, 16, 17, 19, 21, 22, 28, 56, 58, 67, 15, 17, 18, 19, 21, 22, 23, 24, 27, 44, 56, 62, 66, 67 15, 17, 21, 22, 23, 27, 52, 67, 10, 11 11, 15, 18, 19, 20, 21, 24, 25, 26, 32, 67 11, 66 11 40 10, 15, 18, 21, 22, 23, 28, 63, 64, 66, 67 11, 15, 19, 21, 24, 25, 26, 35, 28, 67 15, 28, 62, 63, 66, 67 18, 27, 50, 66, 67 15, 28, 55, 62, 66, 67 15, 19, 21, 22, 28, 56, 67 15, 18, 19, 21, 24, 25, 29, 66, 67 15, 19, 21, 22, 23, 27, 43, 66, 67 29 30 10 64 29 15, 17, 21, 22, 23, 24, 27, 46, 52, 66, 67 30 15, 16, 17, 21, 22, 23, 24, 27, 49, 52, 53, 67 8, 16, 21, 26, 34, 66, 67 16, 17, 19, 21, 22, 26, 42, 66, 67 Aristolochia tuberosa Aristolochia utriformis
ii
Aristolochia westlandii Aristolochia xuanlienensis Aristolochia zolligeriana Hocquaria hainanensis 11 16, 17, 21, 22, 23, 27, 47, 66, 67 11 52
PHỤ LỤC 2
Ảnh 01. Aristolochia acuminata
(A:Cành mang lá, cụm hoa; B: Hình dạng lá; C: Hạt)
iii
(Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 02. Aristolochia annamensis
(A:Dạng thân; B-E: Hoa; D: Lá; E: Quả)
iv
(Ảnh. A-C: Lại Việt Hưng; D,E: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 03. Aristolochia balansae
v
(A: Lá; B: Hoa; C: Đoạn cành) (Ảnh: Lại Việt Hưng)
Ảnh 04. Aristolochia bidoupensis
vi
(A,B: Lá; C,D: Hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 05. Aristolochia binhthuanensis
(A: Đoạn thân; B,E: Cành mang lá, hoa; C,F,G: Hoa; D: Lá; H: Bầu)
vii
(Ảnh: Nguyễn Thị Thành Đạt)
Ảnh 06. Aristolochia cambodiana
viii
(A: Cụm hoa; B: Quả) (Ảnh: A.Đỗ Văn Trường; B: Lại Việt Hưng)
Ảnh 07. Aristolochia chlamydophylla
ix
(A: Thân; B-C: Cành mang hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 08. Aristolochia cochinchinensis
x
(A,C: Hoa; B: Thân) (Ảnh: Lại Việt Hưng)
Ảnh 09. Aristolochia fangchi
xi
(A: Cành; B: Lá; C: Hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 10. Aristolochia faviogonzalezii
xii
(A-B: Cành, lá; C: Hoa) (Ảnh: A,B. Lại Việt Hưng; C.Đỗ Văn Trường)
Ảnh 11. Aristolochia hainanensis
xiii
(A: Thân; B: Lá; C-E: Hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 12. Aristolochia impressinervis
xiv
(A: Hoa; B: Đoạn cành) (Ảnh: B. Lại Việt Hưng)
Ảnh 13. Aristolochia kwangsiensis
xv
(Ảnh: Theo Liang et al. 1975)
Ảnh 14. Aristolochia longgangensis
(A: Thân; B-C: Cụm hoa, Hoa)
xvi
(Ảnh: A. Đỗ Văn Trường; B-C. Lại Việt Hưng)
Ảnh 15. Aristolochia muluensis
xvii
(A,B: Lá; C: Hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 16. Aristolochia neinhuisii
(A-C: Đoạn thân, cành; D: Thân mang hoa)
xviii
(Ảnh : Đỗ Văn Trường)
Ảnh 17. Aristolochia nuichuaensis
xix
(A,B: Lá; C,D: Hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 18. Aristolochia petelotii
xx
(A,B: Đoạn thân; C,D: Hoa) (Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 19. Aristolochia pothieri
(A: Thân; B: Đoạn cành mang hoa)
xxi
(Ảnh : Đỗ Văn Trường)
Ảnh 20. Aristolochia quangbinhensis
xxii
(A, B: Lá; C: Hoa) (Ảnh: Lại Việt Hưng)
Ảnh 21. Aristolochia tadungensis
xxiii
(A-C: Hoa; D: Quả; E,F: Lá) (Ảnh: Lại Việt Hưng)
Ảnh 22. Aristolochia tonkinensis
xxiv
(Thân mang quả và hoa) (Ảnh: Nguyễn Mạnh Cường)
Ảnh 23. Aristolochia tuberosa
(A: Đoạn thân mang lá, hoa; B-C: Hoa)
xxv
(Ảnh: Đỗ Văn Trường)
Ảnh 24. Aristolochia utriformis
(A: Cành mang hoa; B,C: Hoa)
xxvi
(Ảnh. A: Đỗ Văn Trường; B-C: Lại Việt Hưng)
Ảnh 25. Aristolochia xuanlienensis
(A: Đoạn thân; B: Cụm hoa; C,D: Hoa)
xxvii
(Ảnh. A,B: Đỗ Văn Trường; C,D: Lại Việt Hưng)