1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––

TRẦN THỊ NHUNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ NNGGỮỮ VVĂĂNN

THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––

TRẦN THỊ NHUNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 34

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ NNGGỮỮ VVĂĂNN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3 3. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 8 4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 8 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 9 6. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................ 9 7. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 9 8. Bố cục luận văn ..............................................................................................10 NỘI DUNG ................................................................................................................... 11 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI .............................................................................. 11 1.1 Khái niệm giới (gender) ................................................................................11 1.2 Quan điểm văn hoá về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại ..............................13 1.3 Nữ giới trong văn học viết Việt Nam trước thế kỷ XVI ....................................30 1.4 Thân thế và thời đại Nguyễn Dữ ...................................................................33

CHƢƠNG 2. NGƢỜI PHỤ NỮ CHÍNH DIỆN LÝ TƢỞNG TRONG

110

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC .................................................................... 35 2.1 Ngoại hình ....................................................................................................35 2.2 Ngôn ngữ ......................................................................................................39 2.3 Tâm lý...........................................................................................................45 2.4 Cách ứng xử, hành động................................................................................51 2.5 Số phận .........................................................................................................60 2.6 Những lời bình giá về người phụ nữ ..............................................................65 CHƢƠNG 3. NGƢỜI PHỤ NỮ PHẢN DIỆN TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ...... 72 3.1 Ngoại hình ....................................................................................................72 3.2 Ngôn ngữ ......................................................................................................78 3.3 Tâm lý...........................................................................................................86 3.4 Cách ứng xử, hành động................................................................................90 3.5 Số phận .........................................................................................................97 3.6 Những lời bình giá về người phụ nữ ............................................................ 101 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Người phụ nữ chiếm một nửa nhân loại, hiển nhiên họ có vai trò, vị trí to

lớn trong đời sống gia đình và xã hội. Nghiên cứu người phụ nữ trong văn học vì

thế đã trở thành một hướng nghiên cứu rất phổ biến và phát triển trên thế giới.

Mặc dù nam giới và nữ giới có vai trò tương đương và quan trọng như nhau

trong cuộc sống nhưng có một thực tế là tương quan giữa người phụ nữ với người đàn

ông trong lịch sử văn hóa và văn học lại không phải khi nào cũng bình đẳng. Trong lịch

sử, có một thời kỳ lâu dài, xã hội phương Đông nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng

vận hành theo kiểu xã hội nam quyền, người đàn ông đã thống ngự nữ giới và áp đặt các

chuẩn mực của họ về cái đẹp, về hành vi, về đức hạnh cho người phụ nữ, bất công bất lợi

cho người phụ nữ và có lợi cho nam giới. Trong văn học, ở những thế kỷ đầu tiên của

nền văn học viết Việt Nam, kiểu nhân vật độc chiếm là những người đàn ông, họ có thể

là các thiền sư, các nho gia hay có thể là đạo sĩ. Thảng hoặc nếu ở đôi ba trường hợp có

sự hiện diện của nhân vật người phụ nữ thì họ thường bị nhìn qua lăng kính của tư tưởng

nam quyền, coi người phụ nữ như là nguồn gốc của sự cám dỗ, có thể đe dọa công phu tu

trì đạo đức của nhà tu hành, đe dọa lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của thánh

nhân quân tử. Một số công trình nghiên cứu gần đây đã nêu nhận xét về ảnh hưởng của

tư tưởng nam quyền đến vấn đề người phụ nữ trong văn học trung đại. Nhưng hiện hãy

còn rất ít nghiên cứu phân tích cụ thể những ảnh hưởng của tư tưởng này đến việc xây

dựng hình tượng người phụ nữ như một hiện tượng nghệ thuật trong thời kỳ văn học này.

Luận văn của chúng tôi với đề tài về Người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ

quan điểm giới cố gắng góp phần nhỏ bé để làm đầy khoảng trống đó.

Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam có thể thấy một sự thật không thể

phủ nhận là dù nhìn nhận theo quan điểm nào đi nữa, nhân vật văn học giai đoạn từ

thế kỷ X đến thế kỷ XV chủ yếu là nam giới. Thánh tông di thảo tuy viết khá nhiều

về người phụ nữ nhưng vấn đề tác giả của tập tác phẩm này hiện chưa được giải

quyết triệt để. Một số thi nhân trong lịch sử văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn

đề cập đến người phụ nữ song dưới dạng thức thơ và quá ít để có thể từ đó khái quát

2

lên một nguyên tắc thi pháp có tính hệ thống. Vì vậy, chúng ta có rất ít dữ kiện để

tìm hiểu xem xét toàn diện cơ chế chi phối của tư tưởng nam quyền đến việc xây

dựng nhân vật người phụ nữ. Trong bối cảnh “văn hóa giới” đặc biệt đó, Truyền kỳ

mạn lục có một vị trí đặc biệt. Trong tổng số 20 truyện của toàn tập, có đến 11

truyện xây dựng hình tượng người phụ nữ - một tỉ lệ hiếm thấy trước đó. Chưa bao

giờ mà nhân vật người phụ nữ lại xuất hiện dày đặc như thế trong văn học trung đại

Việt Nam. Do đó, chọn nghiên cứu tác phẩm này, chúng ta có được những căn cứ tư

liệu đa dạng, phong phú để tìm hiểu hai kiểu loại nhân vật phụ nữ dưới cái nhìn của

nhà Nho vốn thiên về mối quan tâm đến giá trị đạo đức theo chuẩn mực Nho giáo:

nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.

Là một nhà Nho, Nguyễn Dữ hiển nhiên mang quan điểm mỹ học Nho gia vốn coi

cái đẹp là cái đạo đức, cái gì phù hợp với đạo đức theo quan niệm Nho gia là cái đẹp còn

những yếu tố thiên về đời sống bản năng tự nhiên là xấu và bị xem thường. Vì thế, những

người phụ nữ được ông xây dựng với cảm hứng ca ngợi là điển hình cho kiểu người phụ nữ

tuân thủ các chuẩn mực người phụ nữ công dung ngôn hạnh, trinh tiết, trinh liệt, trong

trường hợp do đòi hỏi của tình huống ứng xử có thể lấy cái chết để chứng minh hay bảo vệ

cho đạo đức này. Trái lại, người phụ nữ phản diện thường là những người có lối sống tự do,

nhất là tự do yêu đương, nhiều khi là tình yêu mang yếu tố thân xác đậm nét. Tuy nhiên, một

tác giả văn học lớn luôn có tinh thần nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ trong không ít trường hợp,

dù là vô thức hay có ý thức, đã không chỉ tái hiện hình tượng người phụ nữ trinh liệt với cảm

hứng ngợi ca mà còn cố gắng chỉ ra bi kịch và sự bất công của xã hội nam quyền và sự hy

sinh đầy xót xa của những người phụ nữ ấy. Mặt khác, khi miêu tả với tinh thần phê phán

những người phụ nữ tự do, buông thả trong tình yêu, vô thức hay hữu thức, nhà văn lại đưa

những dòng ngợi ca công khai quyền sống của người phụ nữ về thân xác. Cho nên, chọn

nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục còn là chọn một trường hợp mà tác giả nhà Nho vừa tuân thủ

những nguyên lý đạo đức - thẩm mỹ Nho gia, lại vừa có thể phá vỡ những nguyên lý ấy ở

mức độ nhất định để đến với cái nhìn nữ quyền trong phạm vi mà thời đại cho phép.

Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Người phụ nữ trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm giới.

3

2. Lịch sử vấn đề

Nắm được lịch sử vấn đề nghiên cứu để tìm ra lối đi riêng là một việc làm

quan trọng không thể thiếu khi thực hiện đề tài Người phụ nữ trong Truyền kỳ

mạn lục nhìn từ quan điểm giới - đặc biệt, trong tình hình nghiên cứu Truyền kỳ

mạn lục qua các giai đoạn ngày càng có bước phát triển cả về lượng và chất, càng

ngày càng trở nên bề bộn theo thời gian. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, nghiên cứu về

người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục cũng là một đề tài có bề dày lịch sử. Ở đây,

chúng tôi chỉ đề cập những công trình tiêu biểu.

Bùi Kỷ có thể được coi là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên bàn luận về

vấn đề người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục (bản dịch

của Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm 1940). Trong lời giới thiệu này, khi nêu chủ đề

từng truyện, Bùi Kỷ đã có một vài đánh giá sơ lược về người phụ nữ. Tuy nhiên, quan điểm

đạo đức thẩm mỹ của Bùi Kỷ trong bài viết này khá phức tạp, khi thì ông phê phán thuyết

“Tòng phu” của Nho gia, khi lại đứng trên lập trường nhà Nho để nhìn nhận nhân vật.

Nhận xét về chủ đề các truyện có người phụ nữ tiết liệt, Bùi Kỷ thể hiện khá rõ thái

độ phê phán thuyết “Tòng phu”. Ông nhận xét: “Truyện 2 (Chuyện người nghĩa phụ ở

Khoái Châu) và truyện 16 (Chuyện người con gái Nam Xương): Tả rõ phụ nữ ở xã hội cũ,

dù ăn ở thủy chung với chồng thế nào, cũng chịu một thân phận hèn kém: Một đằng vì thua

bạc mà gán vợ, một đằng vì ngờ vực hão huyền để vợ phải quyên sinh. Đáng giận thay cái

thuyết “Tòng phu” đã làm hại bao nhiêu bạn quần thoa trong bao nhiêu thế kỷ!” [60.234].

Đối với nhân vật nữ vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, Bùi Kỷ tuy không

phân tích rõ nhưng lại tỏ thái độ không đồng tình với những hành vi của họ. Ông

cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5 (Chuyện kỳ ngộ ở Trại

Tây), truyện 11 (Chuyện yêu quái ở Xương Giang): có ý bài xích những thói đắm

đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên” [60.234]. Đương nhiên, “bọn thiếu

niên” mà nhà nghiên cứu nói đến ở đây gồm cả nhân vật nam và nữ.

Ngoài ra, ở các truyện còn lại có nhân vật nữ, Bùi Kỷ chủ yếu nghiêng về vấn đề xã

hội. Ông nhận định: Truyện 6 (Chuyện đối tụng ở Long cung) “bài xích quỷ thần”, truyện 7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Chuyện nghiệp oan của Đào Thị) “vạch trần những hành động bất bình của bọn đội lốt thầy

4

tu”, còn truyện 14, 18 (Chuyện nàng Tuý Tiêu và Chuyện Lệ Nương) “Tả nông nỗi luân lạc

của người phụ nữ, một đằng vì tên cường quyền chiếm đoạt làm cho rẽ thuý chia uyên, một

đằng vì bọn ngoại xâm lăng loàn áp bức, làm cho bình rơi trâm gẫy…” [60.235].

Điểm qua có thể thấy, trong những lời định giá này, tiêu chí để Bùi Kỷ đánh giá nhân

vật nữ về cơ bản vẫn là tiêu chí đức hạnh của nhà Nho. Tuy có đề cập đến thân phận thấp hèn

của người phụ nữ trong tương quan với nam giới, nhắc đến bất công trong đạo “Tam tòng”

nhưng nhà nghiên cứu không nhấn mạnh những đặc điểm này mà chú ý nhiều hơn đến ngợi

khen, thương xót những người phụ nữ tiết hạnh và phê phán những người phụ nữ sống vượt

khuôn phép Nho gia. Trường nhìn của Bùi Kỷ ít nhiều đã bao hàm vấn đề giới khi ông đặt

người phụ nữ trong tương quan với người đàn ông để phê phán thuyết “Tòng phu”, bảo vệ

người phụ nữ, nhưng về cơ bản ông vẫn đứng từ quan điểm đạo đức Nho gia để nhìn nhận họ.

Tương đối thống nhất với quan điểm đánh giá của Bùi Kỷ là quan điểm

đánh giá của cố Giáo sư Bùi Duy Tân. Trong bài nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục,

một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán, Bùi Duy Tân thể hiện thái

độ ngợi khen những người nghĩa phụ tiết liệt, đáp ứng chuẩn mực Nho gia; đồng

thời ông phê phán những người phụ nữ dám chủ động đi tìm tình yêu và hạnh phúc

ái ân, không sống theo chuẩn mực Nho gia yêu cầu. Nhà nghiên cứu khẳng định:

“Trong Truyền kỳ mạn lục, đối lập với những nhân vật phản diện, tiêu cực, đại biểu

cho những cái xấu xa, Nguyễn Dữ đã xây dựng những nhân vật có nhiều mặt tích

cực… nàng Nhị Khanh thì đảm đang, tiết liệt, Lệ Nương, Dương Thị, Túy Tiêu thì

thủy chung với người yêu, với chồng… Và tuy những nhân vật ấy thường thể hiện

phẩm chất cao qua khuôn trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhưng thực chất thì lại phản ánh

những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, và phần nào thể hiện những yêu

cầu của nhân dân về đạo lý làm người và những mối quan hệ cần xây dựng trong

gia đình và xã hội…” [21.517]. Ông cho rằng những hành động táo bạo và phóng

túng của kiểu người phụ nữ như Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào Hồng

Nương, Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây là “xa lạ với quan niệm

lành mạnh về cuộc sống, về tình yêu nam nữ trong truyện Nôm bình dân, trong văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghệ dân gian” [21.519].

5

Nhận xét về chủ đề của các truyện có người phụ nữ, Bùi Duy Tân chú ý đến vấn

đề hiện thực xã hội và luân lý Nho gia. Ông nhận xét: “Truyện người nghĩa phụ ở Khoái

Châu, Truyện người con gái Nam Xương phản ánh tình cảnh đáng thương của người phụ

nữ trong xã hội cũ: đảm đang, tình nghĩa mà vẫn phải chịu số phận oan nghiệt. Truyện

Từ Thức lấy vợ tiên miêu tả một mối tình thơ mộng giữa một nàng tiên mang nặng tình

người với một kẻ đã treo ấn từ quan, ở nơi bồng lai tiên cảnh. Truyện Lệ Nương là bi

kịch về một mối tình chung thủy trong bối cảnh đất nước ngoại xâm. Các truyện Nghiệp

oan của Đào Thị, Nàng Túy Tiêu, Cây gạo, Truyện kỳ ngộ ở trại tây… thì lại miêu tả

những mối tình trái với đạo lý Nho gia” [21.518].

Lý giải nguyên nhân gây ra bi kịch của người phụ nữ, Bùi Duy Tân nhấn

mạnh sự suy đồi của xã hội, đặc biệt là sự hoành hành của thế lực đồng tiền: “Trong

Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Nhị Khanh là nạn nhân của một người

người chồng, vì chơi bời và ham tiền mà để vợ rơi vào tay Đỗ Tam, một tên lái

buôn giàu có, quỷ quyệt. Trong Truyện cây gạo, Trình Trung Ngộ là một gã phú

thương ở đất bắc, si mê tình ái đến nỗi bỏ mạng. Truyện yêu quái ở Xương Giang

thì kể về gã phú thương họ Phạm, bỏ tiền ra mua một cô gái nhỏ có nhan sắc để làm

việc dâm ô. Những tên lái buôn ấy dựa vào thế lực đồng tiền để tác phúc, tác họa,

vung vãi bạc vàng để thỏa mãn khoái lạc vật chất. Lối sống của chúng tiêu biểu cho

chất trụy lạc của tầng lớp thị dân hư hỏng và của cả giai cấp phong kiến lúc đương

thời. Nguyễn Dữ đã làm đúng khi thẳng tay đả kích lối sống ấy” [21.514].

Có thể thấy, khi nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, nhà

nghiên cứu Bùi Duy Tân cơ bản vẫn đứng từ góc nhìn xã hội học. Ở bài viết của mình, nhà

nghiên cứu nghiêng về khảo sát hoàn cảnh xã hội để lý giải các hiện tượng văn học và hầu như

chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong tập tác phẩm này từ góc nhìn giới.

Nguyễn Phạm Hùng cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm đến đề

tài người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng

tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, ông đã đưa ra một số nhận định về vấn đề

người phụ nữ trong tập truyện này. Nhà nghiên cứu đánh giá: “Tựu chung, lần đầu tiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong văn học Việt Nam, người phụ nữ đã xuất hiện rầm rộ như thế ở Truyền kỳ mạn lục

6

với cả diện mạo, tâm hồn, tình cảm, nhu cầu và khát vọng, với số phận của mình… Nếu

như trước đây, hình ảnh người phụ nữ quý tộc có đi vào sáng tác của Nguyễn Trãi,

Nguyễn Húc v.v.. thì thường cũng mới chỉ dừng lại ở sự nhận thức trên bình độ tâm lý,

còn ở đây, nó là một đối tượng nhận thức, đối tượng thẩm mỹ trọn vẹn, thành vấn đề

người phụ nữ trong văn học…” [14.499]. Ông nhấn mạnh bi kịch của nhân vật nữ, nêu ra

những nguyên nhân phá hủy khát vọng hạnh phúc chân chính của người phụ nữ để

khẳng định lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ: “… Người phụ nữ, hoặc vì chiến tranh phong

kiến tàn khốc mà phải chịu thiệt thòi, khổ sở (Truyện Lệ Nương), hoặc vì kẻ quyền thế

độc ác xảo trá mà phải chịu cảnh “rẽ thúy chia uyên” (Truyện nàng Túy Tiêu); hoặc vì

nam quyền phong kiến mà phải chịu chia lìa (Truyện người thiếu phụ Nam Xương)…

Những khao khát hạnh phúc chân chính của người phụ nữ thường dẫn họ đến chỗ chết,

và thường tự tận… Cái chết đeo đuổi hầu hết các số phận phụ nữ trong Truyền kỳ mạn

lục. Dường như đó là giải pháp phổ biến, và cũng là giải pháp cuối cùng của tác giả khi

giải quyết vấn đề này - đó là cái bế tắc đến cùng cực của Nguyễn Dữ trước những vấn đề

con người trong xã hội đó. Rất ít số phận phụ nữ trong tác phẩm của ông được sống sót,

và sự sống sót đó hầu như cũng không đem lại một hứa hẹn tươi sáng nào!” [14.498-499].

Nói chung, những phát hiện của Nguyễn Phạm Hùng về nhân vật nữ trong

Truyền kỳ mạn lục trình bày trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã đóng góp thêm tiếng nói trong lịch sử nghiên

cứu vấn đề này. Qua bài viết, nhà nghiên cứu đã khẳng định vị trí đặc biệt của

Truyền kỳ mạn lục trong tiến trình văn học ở đề tài người phụ nữ và chỉ ra tinh thần

nhân đạo của Nguyễn Dữ khi viết về họ. Tuy nhiên, những nhận xét của Nguyễn

Phạm Hùng còn khá sơ lược, chưa mang tính chất chuyên khảo. Hơn nữa, một số

nhận định của ông thiên về ca ngợi mà không thấy hạn chế nhất định trong những

hình tượng này cũng như trong tư tưởng Nguyễn Dữ. Chẳng hạn, ông đánh giá: “…

Một quan niệm mới về việc phản ánh con người đã xuất hiện. Truyền kỳ mạn lục là

như vậy. Nó ca ngợi vẻ đẹp của con người, cả về vật chất và tinh thần. Những hình

ảnh da thịt hồng hào, tươi tốt, hở hang rất dễ gặp trong tác phẩm này. Những dục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn

vọng, ước muốn thoát ra ngoài sự tỏa chiết của tư tưởng Nho gia về “tu, tề, trị,

7

bình” với người quân tử, “công, dung, ngôn, hạnh” đối với người phụ nữ phong

kiến cũng rất dễ gặp ở đây. Con người, đó không phải là những tấm gương chói lòa

về các anh hùng, liệt nữ lưu danh sử sách mà là những con người của đời sống thực

tế sôi động, cay nghiệt” [14.501]. Nhận định này có phần cực đoan, bởi lẽ, tuy

Nguyễn Dữ đã có nhiều điểm nhân văn tiến bộ hơn so với nhà Nho đương thời

nhưng những nhân vật của ông ở một chừng mực nhất định vẫn được khen, chê theo

tiêu chí Nho gia, những khát vọng mang hơi hướng vật chất trong truyện không

được Nguyễn Dữ công khai ca ngợi, thậm chí ít nhiều còn bị ông phê phán.

Nguyễn Đăng Na cũng là một người dành nhiều tâm huyết với vấn đề người

phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Ở bài viết Truyện ngắn trong sự phát triển của văn

xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, nhà nghiên cứu chia nhân vật nữ trong Truyền

kỳ mạn lục thành ba kiểu là nhân vật nữ “có thể gọi là hạnh phúc” (Tuý Tiêu trong

Chuyện nàng Tuý Tiêu, Dương Thị trong Chuyện đối tụng ở Long cung), nhân vật

nữ “sống hiếu hạnh nết na, chuẩn mực mọi điều” (Lệ Nương trong Chuyện Lệ

Nương, Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Vũ Nương trong

Chuyện người con gái Nam Xương…) và nhân vật nữ “sống tự do phá phách” (Nhị

Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị,

Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây…). Để đưa ra

những phân tích và nhận định về người phụ nữ, nhà nghiên cứu đã tiếp cận nhân vật

từ hai góc độ chính là thi pháp học và xã hội học. Ngoài ra, ông đã ít nhiều đứng từ

góc độ nữ giới để nhìn nhận số phận người phụ nữ, phê phán Trương Sinh là

“chồng ngu”, “chồng ghen tuông”, “chồng phũ phàng”, phê phán Trọng Quỳ là

“chồng chó lợn”... Tuy nhiên, ở công trình này, nhà nghiên cứu cũng chưa đặt ra

vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ từ góc độ giới một cách có chủ định.

Tác giả Toàn Huệ Khanh trong công trình Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết

truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam cũng đề cập đến một số nhân vật nữ

trong Truyền kỳ mạn lục, phân loại họ vào nhân vật của hai kiểu truyện là truyện kỳ

quái và truyện diễm tình. Công trình này đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn

về sự giao thoa giữa tác phẩm truyền kỳ của các quốc gia vùng văn hóa Hán. Tuy

8

nhiên vì chỉ xác định mục tiêu là phân tích nhân vật theo mô-típ nên nhà nghiên cứu

này chưa quan tâm đến phương diện giới tính nữ của các nhân vật nữ. Những tri

thức về văn hóa giới ở Việt Nam thời trung đại cũng chưa được Toàn Huệ Khanh

vận dụng để lý giải hình tượng người phụ nữ.

Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu đã có về Truyền kỳ mạn lục

chưa đặt vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ từ góc nhìn giới tính của họ.

Trường quan sát của những nhà nghiên cứu này không hoặc ít bao hàm vấn đề giới.

Điều này khiến cho nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục đôi khi bị nhìn nhận thiên

lệch về vấn đề giai cấp hoặc đạo đức mà mờ nhạt về đặc điểm giới. Chính vì thế mà

luận văn hy vọng góp phần nhỏ xới lên hướng nghiên cứu giới của nhân vật nữ

trong Truyền kỳ mạn lục, góp phần giúp người đọc thấy thêm những phương diện

khác của nhân vật nữ trong tập truyền kỳ này.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi là người phụ nữ trong Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ.

Để có cái nhìn đầy đủ, khách quan hơn chúng tôi chọn nghiên cứu thêm người

phụ nữ trong một vài tác phẩm văn học Việt Nam trung đại và tư liệu lịch sử, tư liệu văn

hoá để so sánh khi cần thiết. Một số tư liệu tiêu biểu là: Truyện Kiều - Nguyễn Du, Cung

oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn, Gia huấn ca

- Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư, Lê triều hình luật, Đại Nam thực lục.

4. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục từ góc độ xem

xét việc tác giả miêu tả, đánh giá, lý giải các phương diện giới tính nữ của chúng.

Qua đó làm nổi bật sự chi phối của quan điểm giới trong thời trung đại như một vấn

đề văn hóa quan trọng đến nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ, đến quan

niệm nghệ thuật về người phụ nữ.

Luận văn cũng quan tâm chỉ ra một số biểu hiện có thể có của tư tưởng nữ quyền,

biểu hiện rõ rệt của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa của nhà Nho Nguyễn Dữ khi viết về phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nữ, tất nhiên là tư tưởng nữ quyền ở mức độ ban đầu mà thế kỷ XVI cho phép, gợi ý.

9

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như: khái

niệm giới; quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại; nữ giới trong

văn học viết Việt Nam trước thế kỷ XVI; thân thế và thời đại Nguyễn Dữ.

- Phân loại, phân tích, cắt nghĩa hai kiểu phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục từ

góc nhìn giới: Người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ phản diện. Tìm

hiểu sự chi phối của quan điểm giới thời trung đại đến nghệ thuật xây dựng hai kiểu

phụ nữ này qua ngoại hình, ngôn ngữ, tâm lý, cách ứng xử hành động, số phận của

họ và cách bình giá của người trần thuật, của tác giả lời bình về họ.

Như một số nghiên cứu đã chỉ rõ, Truyền kỳ mạn lục chịu ảnh hưởng khá

sâu sắc của Tiễn đăng tân thoại. Tuy nhiên trong khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ,

chúng tôi chưa có điều kiện so sánh hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm

này. Hy vọng đây sẽ là đề tài của một công trình nghiên cứu khác.

6. Nội dung nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục qua ngoại hình,

ngôn ngữ, tâm lý, cách ứng xử hành động và số phận của họ; đồng thời tìm hiểu và

lý giải cách miêu tả, cách nhìn nhận, bình giá của tác giả về những yếu tố đó ở hai

kiểu người phụ nữ: người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ phản diện.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

chính là: Phương pháp tiếp cận văn hóa học, Phương pháp thống kê, Phương pháp

hệ thống và Phương pháp so sánh.

7.1 Phương pháp tiếp cận văn hóa học

Chúng tôi vận dụng phương pháp tiếp cận văn hoá học để giải mã hình tượng người

phụ nữ, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng. Bởi lẽ, xã hội Việt Nam truyền thống

(chúng tôi nói đến xã hội người Kinh chịu ảnh hưởng Nho giáo chứ không bàn đến xã hội

của các tộc người ít hay không chịu ảnh hưởng Nho giáo) nếu xét từ quan điểm giới là xã hội

nam quyền, một kiểu xã hội trong đó, các chuẩn mực đạo đức của người nữ do người nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn

áp đặt (ví dụ chỉ có người phụ nữ phải giữ gìn trinh tiết, chỉ được phép lấy một chồng còn

10

người nam lại không bị hạn chế, không bị ràng buộc bởi phạm trù này, người nam có quyền

chủ động hơn người nữ trong tình yêu, hôn nhân trong khi người nữ phải đóng vai trò bị

động). Quan điểm văn hoá này đã chi phối đến cách xây dựng người phụ nữ chính diện lý

tưởng và người phụ nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn lục, đến cách tả, cách kể về họ.

7.2 Phương pháp thống kê

Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát, thống kê nhân

vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, từ đó phân loại nhân vật, tìm hiểu tính cách, số phận người

phụ nữ cũng như nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm này. Ngoài

ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê để xử lý thông tin trong các tư liệu lịch sử,

tư liệu văn học được sử dụng để chứng minh các luận điểm đã đưa ra.

7.3 Phương pháp hệ thống

Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh thể tác phẩm, nhân vật người phụ nữ

được xem xét trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống nhân vật, với cốt truyện, giọng

điệu, kết cấu… Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm mục đích giúp cho việc

tìm hiểu người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục đạt cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn.

7.4 Phương pháp so sánh

Để thấy được các mối liên hệ đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét

riêng độc đáo của nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, luận văn sử dụng phương

pháp so sánh. Chúng tôi dự kiến sẽ so sánh người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục

với người phụ nữ trong một số truyện Nôm và khúc ngâm tiêu biểu của Văn học

Việt Nam trung đại thế kỷ XVIII, người phụ nữ trong một vài tác phẩm văn học

đương đại và trong các tư liệu lịch sử đã chọn làm đối tượng nghiên cứu.

8. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai

trong ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu người phụ nữ trong

Truyền kỳ mạn lục từ quan điểm giới

Chương 2: Người phụ nữ chính diện lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chương 3: Người phụ nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn lục

11

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU NGƢỜI PHỤ NỮ

TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI

Để nghiên cứu nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục với tư cách là “người

nữ” trong bối cảnh văn hoá giới thời trung đại, luận văn triển khai một số vấn đề lý

luận về giới, phần nào tái hiện những quan điểm văn hóa về nữ giới trong xã hội

nam quyền ở Việt Nam, đồng thời phác thảo diện mạo văn học Việt Nam trước thế

kỷ XVI xét về phương diện giới. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn giúp chúng

tôi có nền tảng cơ bản để nghiên cứu đề tài.

1.1 Khái niệm giới (gender)

Giới là một thuật ngữ khoa học được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Những

hướng tiếp cận không giống nhau với vấn đề giới đã cho ra đời số lượng định nghĩa

khá phong phú về thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tôi không đi sâu phân tích từng

định nghĩa mà chỉ hướng tới đưa ra một quan niệm đáng tin cậy nhằm làm chỗ dựa

trong tiến trình nghiên cứu.

M.L. Andersen - một giáo sư xã hội học định nghĩa giới như sau: “Giới liên

quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên với hai giới

tính. Trong khi con trai và con gái là những yếu tố sinh học thì việc trở thành một

phụ nữ hay một nam giới là một quá trình văn hóa” [54.40].

Nếu như định nghĩa của M.L. Andersen nhấn mạnh giới như một cấu trúc văn

hóa - xã hội thì định nghĩa sau đây lại chú ý đến mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới:

“Giới là những khác biệt giữa nữ giới và nam giới trong cùng hộ gia đình, trong và giữa

các nền văn hóa, là cấu trúc xã hội - văn hóa có thể biến đổi theo thời gian. Những khác

biệt này được phản ánh trong các vai trò, trách nhiệm, khả năng tiếp cận các nguồn lực,

những sức ép, những ưu tiên, các nhu cầu, nhận thức và quan điểm… được thấy trong cả

hai giới. Do vậy, giới không đồng nhất với phụ nữ mà được xem là cả nữ giới và nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn

giới cùng những mối quan hệ tương tác của họ” [54.41].

12

Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam định nghĩa: “Giới là phạm trù chỉ quan

niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra gán cho

trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi

vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được” [33].

Một số định nghĩa trên đây về giới cho phép ta hình dung cách tiếp cận đa

dạng về thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng: “Khái

niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong

mối quan hệ ấy có sự phân biệt về vai trò, trách nhiệm, hành vi hoặc sự mong đợi mà

xã hội đã quy định cho mỗi giới. Những quy định/mong đợi xã hội này phù hợp với các

đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo; vì thế nó luôn biến đổi theo các

giai đoạn lịch sử và có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [54.42].

Giới do vậy là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và

những đòi hỏi, yêu cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội - văn hóa.

Trong đời sống hằng ngày, thuật ngữ giới (gender) thường bị dùng lẫn lộn

với giới tính (sex). Thực chất đây là hai phạm trù tương hỗ nhưng không đồng nhất.

Nếu giới tính chỉ nhấn mạnh đến tính (nam/nữ) (Trung văn dịch là tính biệt) thì giới

nhấn mạnh đến sự phân biệt nam/nữ trên cả phương diện xã hội (dịch sang Trung

văn có nghĩa là xã hội tính biệt - giới tính nam/nữ xét trên phương diện xã hội). Sự

khác biệt này đã được Robert Stoller chỉ rõ: “Trong khi giống gắn liền với đặc điểm

sinh lý, giới là yếu tố do văn hoá quy định, gồm toàn bộ những phản hồi được điều

kiện hoá đối với cái nhìn của xã hội về tính cách của nam và nữ” [43].

Như vậy, khái niệm giới mà chúng tôi sử dụng không những chỉ phương

diện giới tính và giải thích người đàn ông và phụ nữ ở khía cạnh sinh lý mà còn

quan tâm đến cả phương diện văn hóa - xã hội của họ như trong mối quan hệ gia

đình, quan hệ nam nữ.

Nghiên cứu về giới không phải xu hướng mới trong lịch sử nhân loại học.

Nó có thể đã được nói đến từ thời cổ đại cả ở phương Đông lẫn phương Tây. Paul

Rakita Goldin, tác giả cuốn Văn hóa giới ở Trung Hoa thời cổ đại khẳng định “Các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn

học giả Trung Hoa cổ đại đã bàn luận tới giới tính công khai và nghiêm túc như một

13

trong những đề tài quan trọng nhất của sự nghiên cứu con người” [81.1]. Quả thực,

cho đến nay, khoa học về giới đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực:

Người ta nghiên cứu giới theo quan điểm sinh lý, chỉ ra sự khác biệt về cấu tạo cơ

thể, về sức khoẻ, về tính dục giữa nam và nữ để ứng dụng vào y học, sinh học…

Người ta cũng có thể nghiên cứu giới theo quan điểm xã hội để ứng dụng trong

phân công lao động xã hội giữa nam và nữ, giải quyết vấn đề ngành nghề cho nam

và nữ, so sánh và cân đối thu nhập giữa nam và nữ, đo lường độ tuổi nghỉ hưu phù

hợp cho nam và nữ… Giới cũng có thể được nghiên cứu trong tâm lý học để chỉ ra

được đặc trưng dị biệt trong tâm lý giữa phái nam và phái nữ…. Giới cũng có thể

được nghiên cứu theo quan điểm văn hoá để chỉ ra cái nhìn về giới của nam và nữ

đối với nhau, chỉ ra địa vị gia đình và xã hội của nam giới và nữ giới v.v..

Trong nghiên cứu văn học, người ta có thể vận dụng phương pháp nghiên

cứu giới của nhân vật văn học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam/nữ. Chẳng hạn,

nhân vật người anh hùng Võ Tòng trong bộ tiểu thuyết chương hồi Thủy hử nổi

tiếng khi được quan sát từ góc nhìn giới sẽ bộc lộ đặc điểm và cũng là hạn chế của

quan niệm anh hùng cổ trung đại: người anh hùng nghĩa hiệp, tài năng nhưng lại

thiếu tình yêu người đẹp, thậm chí lạnh lùng đến tàn bạo đối với người phụ nữ có

tình yêu phóng túng. Hay nghiên cứu nhân vật phụ nữ như nàng Kiều trong Truyện

Kiều từ quan điểm giới, người ta có thể thấy quan niệm trinh tiết nghiệt ngã của

Nho giáo đã trói buộc nàng Kiều, khiến nàng mang mặc cảm tội lỗi vì mình không

còn trong trắng, và từ chối sống tình vợ chồng với Kim Trọng sau mười lăm năm ly

biệt, chờ đợi. Qua đó, hiểu được một cách toàn diện những nguyên nhân dẫn đến

bất hạnh của Kiều, từ nguyên nhân xã hội đến nguyên nhân thuộc về quan niệm giới.

Nói khác đi, vấn đề giới giúp cho việc nhận thức nhân vật toàn diện hơn. Trước đây,

nhân vật nam/nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp

bức, theo quan điểm đạo đức, đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng

ta thấy thêm những phương diện khác của nhân vật.

1.2 Quan điểm văn hoá về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn

1.2.1 Quan điểm đề cao “Tam tòng”, “Tứ đức”

14

Có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại, kể từ khi du nhập vào Việt Nam, tư tưởng

“Tam tòng” đã thực sự trở thành nghiêm lệnh gây ra nhiều bất lợi cho nữ giới. Trong Gia

ngữ, tư tưởng này được giải thích như sau: “Người phụ nữ là những người nghe theo sự dạy

bảo của người đàn ông. Bởi vậy, đối với họ, không có sự tự chủ vốn có mà chỉ có đạo “Tam

tòng”. Khi còn nhỏ theo cha và những người anh trai trong gia đình, khi đã kết hôn họ đi

theo chồng và khi chồng chết họ đi theo con trai của mình mà không tái giá” [79.90]. Trong

Lễ ký, “Tam tòng” được nói đến với nội dung tương tự: “Người phụ nữ là những người đi

theo người đàn ông suốt cuộc đời của mình: Khi còn nhỏ theo cha và những người anh trong

gia đình, khi đã kết hôn họ theo chồng, và khi chồng chết họ theo con trai của mình. Người

chồng ở đây có nghĩa là người chu cấp. Anh ta sử dụng sự hiểu biết của mình để chỉ đạo dẫn

dắt những người khác” [79.90]. Như vậy, tư tưởng “Tam tòng” thực chất là luật lệ nhằm bó

buộc người phụ nữ, đòi hỏi sự phục tùng của người phụ nữ đối với đàn ông trong suốt ba

giai đoạn của cuộc đời. Nó là tư tưởng thể hiện đậm đặc địa vị thấp hèn và thân phận phụ

thuộc của người phụ nữ trong xã hội nam quyền.

Ở Việt Nam thời trung đại, tư tưởng “Tam tòng” đã ăn sâu vào tiềm thức

của toàn xã hội. Ngoài phần tích cực là giúp người phụ nữ tự rèn mình theo tiêu

chuẩn để hướng tới cái đẹp thì “Tam tòng” đã tạo ra áp lực buộc chặt người phụ nữ

vào những khuôn phép khắc nghiệt, khiến họ phải chịu nhiều khổ đau, bất hạnh.

Trước lúc theo chồng, người phụ nữ phải phục tùng uy quyền tuyệt đối của

người cha, nghe theo lời giáo huấn của cha mà không có quyền nêu chính kiến hay

sống theo sở nguyện và khát vọng cá nhân. Điều người cha yêu cầu chủ yếu ở người

con gái không phải là tài năng, sắc đẹp hay khát vọng riêng tư của cô ta mà là những

phẩm hạnh đã được tổng kết trong những cuốn sách huấn đạo giới nữ. Người cha cũng

là người quyết định toàn bộ việc hôn nhân của con gái, người phụ nữ “không có quyền

tự do đối với việc hôn nhân của mình mà hoàn toàn do cha mẹ sắp đặt” [66].

Khi về nhà chồng, người phụ nữ bị bó buộc bởi quan niệm “xuất giá tòng phu”.

Quan niệm này buộc người phụ nữ khi lấy chồng phải hoàn toàn phục tùng chồng, tuân

theo mệnh lệnh của chồng mà không có yêu cầu ngược lại. Luật pháp phong kiến chỉ cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn

phép người vợ được bỏ chồng trong ba trường hợp hãn hữu quy định trong Lê triều hình

15

luật - Bộ luật tiến bộ nhất thời phong kiến và “ít nhiều đề cập đến một số quyền lợi của

người phụ nữ trong xã hội và trong gia đình” [5]. Ba trường hợp đó là: “Phàm chồng đã

bỏ lửng vợ năm tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và quan xã làm chứng)

thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn một năm. Vì việc quan đi xa thì không theo luật này.

Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của mình thì phải tội biếm (Điều 308)”;

“Con gái thấy chồng chưa cưới có ác tật có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ” và “con rể

lăng mạ cha mẹ vợ, đem thưa quan, cho ly dị (Điều 322)” [5]. Tuy nhiên, ngay trong bộ

luật được coi là có nhiều biểu hiện nhân đạo và bênh vực cho quyền lợi phụ nữ này,

những quy định mang tính nam quyền, bất lợi cho người phụ nữ vẫn thể hiện rõ nét. Bộ

luật qui định về “thất xuất” (bảy trường hợp người chồng được phép bỏ vợ), nhưng đây

lại là những điều mà người vợ dễ mắc phải. Khắt khe hơn Lê triều hình luật là Luật Gia

Long. Bộ luật này cho phép người chồng và gia đình nhà chồng tự tiện bỏ người vợ,

không cần ra trước công môn, chỉ cần giấy bỏ vợ, nếu người vợ có tội “thất xuất”: vô tự

(không có con trai), dâm dật (lẳng lơ), bất sự công cô (không thờ phụng cha mẹ chồng),

khẩu thiệt (lắm điều), đạo thiết (ăn trộm), đố kỵ (ghen tuông), ác tật (có bệnh đặc biệt)

(Điều 108). Nhưng cũng chính trong bộ luật này, không hề có một điều lệ nào cho phép

người vợ được bỏ chồng. Những quy định bất công này khiến cho người phụ nữ trong

xã hội phong kiến nam quyền dẫu lấy phải người chồng không ra gì vẫn phải nhẫn

nhục chịu đựng, phải “cắn răng chịu khổ” mà không được lên tiếng kêu than, không

được ly hôn. Gia huấn ca có những câu thể hiện rõ quan niệm một chiều này:

Chữ "tùy" là phận đàn bà,

Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.

Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,

Hay gặp người cờ bạc lưu niên,

Nhỏ to tiếng dịu lời êm,

Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!

Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,

Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Gia huấn ca)

16

Quan niệm “Tòng phu” là quan niệm một chiều, vì thế người phụ nữ nếu có

chút biểu hiện lẳng lơ thì bị kỳ thị, bị dè bỉu còn người đàn ông lại có quyền lấy

năm thê bảy thiếp một cách ngang nhiên hợp pháp mà không bị chê trách, không bị

đánh giá về đạo đức, thậm chí còn được khuyến khích:

Dây bìm cho tựa cành vàng,

Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.

Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,

Trai làm nên lấy bảy lấy ba,

Lấy về hầu hạ nhà ta,

Thêm hòe, nẩy quế có là con ai?

(Gia huấn ca)

Lợi dụng thuyết “Tòng phu”, giai cấp phong kiến thống trị ở một số triều

đại còn đề ra luật lệ bức người phụ nữ chết theo chồng để thỏa mãn lòng ích kỷ nam

giới. Đại việt sử ký toàn thư có một số đoạn ghi chép lại hiện tượng này. Ở triều Lý

Nhân Tông có hiện tượng Hoàng thái hậu họ Dương và bảy mươi sáu người thị nữ

bị bức tử chết theo vua Lý Thánh Tông: “Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái

phi làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà

không được dự chính sự, mới kêu với vua... Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu

và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng

Thánh Tông” [19.436]. Hiện tượng tương tự là việc các cung nữ buộc phải lên giàn

hỏa thiêu để chết theo vua Lê Nhân Tông: “Ngày Ất Dậu (tháng 12 năm 1127), vua

bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu, xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở. Ngày hôm

ấy vua ngự giá đi Na Ngạn xem các cung nữ lên dàn thiêu để chết theo Đại Hành

Hoàng Đế” [19.482]. Và một trường hợp khác là việc các phi tần bị bắt tự tử theo

Thành Vương: “Đinh Sửu [1457]... Tháng 2, ngày mồng 1, nhà Minh phế vua Cảnh

Thái là Thành Vương như cũ, cho về ở Tây cung. Tháng ấy, ngày 19, Thành Vương

mất. Ban lụa hồng cho các phi tần, bắt phải tự tử để chôn theo Thành Vương”

[19.1425]… Một số sự việc trên đây chính là minh chứng tiêu biểu cho sự bất công,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.vn

vô nhân đạo của luật “Tòng phu” nếu nó bị lợi dụng đến mức cực đoan.

17

Tư tưởng “Tam tòng” không chỉ yêu cầu người phụ nữ “tòng phụ”, “tòng phu”

mà còn đòi hỏi họ phải “tòng tử” khi người chồng qua đời. Đây là luật lệ thể hiện thái độ

không tán đồng việc người phụ nữ tái giá. Vì vậy, khi tái giá, người phụ nữ không chỉ bị

phê phán về phẩm hạnh mà còn bị tước đi những quyền lợi chính đáng: “Một người đàn

bà chết chồng thì luật bắt phải ra tay không, giao gia tài cho bên chồng, dầu của ấy là của

vợ chồng đồng công mà tạo lập ra cũng mặc. Chồng chết, có con trai mà đi lấy chồng để

kiếm phương kế nuôi con, sau lại về ở với con trong nhà chồng trước, luật cũng không

nhìn người đàn bà ấy là vợ người chồng trước nữa, chết đi, không được thờ chung với

chồng vào từ đường” [24] . Quan niệm yêu cầu người phụ nữ “tòng tử” chính là nguyên

nhân dẫn đến hiện tượng sùng bái người đàn bà thủ tiết mà chúng tôi sẽ nói rõ hơn khi

phân tích quan niệm của xã hội nam quyền về trinh tiết người phụ nữ.

Bên cạnh quan niệm về “Tam tòng”, xã hội nam quyền còn áp đặt cho người

phụ nữ chuẩn mực về “Tứ đức”: công, dung, ngôn, hạnh. Công được hiểu là sự khéo léo

của người phụ nữ trong những công việc gia đình như thêu thùa, khâu vá, nội trợ, nuôi dạy

và chăm sóc con cái; dung là vẻ đẹp hình thức đoan trang; ngôn tức là lời nói dịu dàng,

khiêm nhường còn hạnh tức là những phẩm chất như yêu thương chồng con, giàu lòng

nhân ái, đức hy sinh, son sắt thuỷ chung… Trong xã hội nam quyền “Tứ đức” đã trở thành

tiêu chí quan trọng không thể thiếu ở người phụ nữ đức hạnh:

Phận làm gái này lời giáo huấn,

Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,

Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,

Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh.

Công là đủ mùi xôi, thức bánh,

Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.

Dung là mặt ngọc trang nghiêm,

Không tha thiết, không chiều lả tả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,

18

Hạnh là đường ngay thảo kính tin.

Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,

Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.

(Gia huấn ca)

Tuân theo công, dung, ngôn, hạnh, người phụ nữ phải học hỏi, làm theo

mong muốn của nam giới từ cách nấu nướng, may vá sao cho khéo léo:

Đồ ăn thức nấu cho vừa,

Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.

Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,

Cũng học dần thói cách người ta,

Vá may giữ nếp đàn bà,

Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.

(Gia huấn ca)

Đến cách điểm trang dung mạo sao cho đoan trang, không được mỹ miều, chải chuốt:

Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,

Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,

Một vừa hai phải thì xong,

Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì?

(Gia huấn ca)

Rồi cách nói năng sao cho dịu dàng, hoà mục:

Nói đừng chau mặt, chau mày,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!

Sách có chữ "nhập gia vấn húy",

Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,

Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,

Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.

(Gia huấn ca)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Và cách ứng xử sao cho cung phụng, nhu thuận người chồng:

19

Phận con gái ở nhà thi lễ,

Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:

Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,

Đạo chồng sánh quân thân chi đạo.

(Gia huấn ca)

Bên cạnh mặt tích cực không thể phủ nhận, “Tứ đức” xét cho cùng vẫn

mang tính chất “thiên vị” nam giới. Nó không mang lại cho người phụ nữ quyền lợi

mà chỉ buộc thêm vào họ những nghĩa vụ nặng nề. Tuân theo “Tứ đức”, người phụ

nữ bị kìm hãm trong không gian gia đình, không có điều kiện hoạt động trong

không gian xã hội. Họ chỉ được khen ngợi khi là người nội trợ khéo, là dâu thảo, vợ

hiền nhưng không được khuyến khích phát triển tài năng. Li-Hsiang trong công

trình nghiên cứu Khổng giáo và người phụ nữ - một cách giải thích triết học đã

khẳng định: “Không giống như nam giới, người phụ nữ tài năng và có học thức

không được chính thức ra ngoài xã hội để triều đình có thể sử dụng, để tài năng, và

học vấn của họ có thể được khẳng định. Do không có cơ hội được chứng minh, trình

độ học thức cao của người phụ nữ thường bị coi là một sự dư thừa và vô dụng

không mang tính xã hội, không phù hợp với tính chất giới hoặc những điều tốt đẹp

được mọi người chấp nhận” [79.113]. Rõ ràng không phải người phụ nữ không có

đủ tài năng để hoạt động trên lĩnh vực giáo dục và chính trị mà chính thành kiến

phái tính đã tạo một rào cản vững chắc để kìm toả họ. Những sử liệu thời phong

kiến để lại cho đến nay về giáo dục ở Việt Nam hầu như không để lại tên tuổi người

phụ nữ nào. Trong lĩnh vực chính trị, người phụ nữ duy nhất trong lịch sử Việt Nam

tham gia vào công việc nhiếp chính là Chiêu Thánh công chúa - Lý Chiêu Hoàng.

Song ngay trong cuộc đời của người phụ nữ này cũng chứa đựng những chi tiết thể

hiện quan niệm coi thường nữ giới của người xưa. Chiêu Hoàng được kế vị ngôi cha

thực ra chỉ là trường hợp bất đắc dĩ. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã nhấn mạnh chi tiết

“Bệnh của vua ngày càng tăng mà không có con trai để giữ nghiệp lớn” [19.598]

dường như là một dụng ý để giải thích cho sự việc khác lẽ thường này.Trong tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 http://www.lrc-tnu.edu.vn

tưởng của sử gia và toàn vương triều đương thời, việc một người con gái làm hoàng

20

đế là “không phải lẽ” cũng giống như việc Võ hậu và Lữ hậu ở Trung Quốc lên ngôi là

nguyên nhân dẫn đến xã tắc loạn lạc. Vì vậy, cùng với việc ghi chép sự kiện, Ngô Sĩ

Liên có thêm lời bình: “Nếu không may mà không có con thì chọn con của người tông

thất nuôi làm con mình để nối giữ nghiệp lớn, đó cũng là một cách xử trí trong lúc biến

vậy. Lý Nhân Tông đã làm như thế rồi, Huệ Tông sao không xét việc cũ mà làm theo,

lại để đến sau lúc bệnh tật mới lập con gái mà truyền ngôi cho, thế có phải lẽ không?

Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ

hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là

người có tội với họ Lý” [19.599]. Quan niệm coi thường nữ giới và mong muốn kìm

tỏa người phụ nữ trong phạm vi gia đình thể hiện khá rõ qua lời bình này.

Tóm lại, đề cao “Tam tòng”, “Tứ đức” ở người phụ nữ là một trong những

đặc điểm quan trọng trong hệ thống quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời

trung đại. Quan điểm này yêu cầu một chiều ở người phụ nữ sự phụ thuộc nam giới

hoàn toàn và phải rèn mình theo tiêu chí nam giới yêu cầu mà không yêu cầu ngược

lại ở người đàn ông. Bên cạnh một vài nét tích cực có thể chấp nhận được, “Tam

tòng” “Tứ đức” về cơ bản là hệ thống tư tưởng gây ra nhiều bất công, bất lợi cho

người phụ nữ, đặc biệt khi nó bị nam giới lạm dụng, yêu cầu đến mức cực đoan.

Theo tiêu chí của nhà Nho, những người phụ nữ chính diện lý tưởng thường là

những người tuân theo công thức “Tam tòng”, “Tứ đức” như đã phân tích trên đây,

ngược lại những người phụ nữ không tuân theo chuẩn mực nghiêm ngặt này bị Nho

gia coi là người phụ nữ phản diện. Xây dựng hình tượng người phụ nữ trong Truyền

kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng này.

1.2.2 Quan điểm đề cao trinh tiết

Chữ “trinh” thực chất nói đến “cái nết” tốt đẹp của người phụ nữ. Nó mang

ý nghĩa chủ quan và do bản thân người phụ nữ tự nguyện thực hành. Tuy nhiên,

trong xã hội nam quyền, “trinh” đã bị yêu cầu từ phía khách quan, bị nam giới uốn

nắn thành “cái tiết”. Theo học giả Phan Khôi, “Trinh không phải là cái nết thuộc về

khách quan, mà là cái nết thuộc về chủ quan. Mình vì cái ý chí, cái phẩm giá của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 http://www.lrc-tnu.edu.vn

mình mà giữ trinh… Như vậy, trinh là một cái nết” [24], còn “Tiết khác với nết.

21

Tiết là một cái dấu tỏ ra mình đã làm hết bổn phận của mình đối với người mà mình

thuộc về. Một người đàn bà chết chồng, không lấy chồng khác, mà gọi là tiết phụ,

cũng chẳng khác nào một bề tôi chết vì vua mà gọi là tử tiết hay là tận thần tiết” [24].

Theo cách hiểu này, nếu “trinh” được đánh giá là cái nết thì việc một người phụ nữ có

quyền đi lấy chồng khác vẫn không bị gọi là “thất trinh”, miễn là chị ta vẫn giữ được

đoan chính còn nếu “trinh” được hiểu là “cái tiết” thì người phụ nữ lấy chồng khác bị

coi là “thất tiết”, là xấu xa. Trong xã hội nam quyền, “trinh” không được đánh giá như

“cái nết” mà lại bị xem xét nghiêm ngặt như “cái tiết” nên đã gây ra nhiều sức ép cho

người phụ nữ, tước đi của họ những quyền lợi chân chính.

Trình Di - một học giả Tống Nho đã tuyên bố quan điểm ấy trong câu chuyện sau:

“Có kẻ hỏi: Theo lẽ, hình như không nên lấy đàn bà góa, thế nào?

Y Xuyên tiên sinh (tức Trình Di) đáp rằng: Phải! Phàm lấy vợ,

để sánh với mình; nếu lấy người đàn bà thất tiết để sánh với mình, thì mình

cũng là thất tiết.

Lại hỏi: Người đàn bà ở góa mà bần cùng không cậy nhờ ai

được thì có nên tái giá không?

Đáp rằng: Chỉ có người đời sau sợ chết đói mới có cái thuyết ấy.

Song le, chết đói là sự rất nhỏ, còn thất tiết là sự rất lớn!” [25]

Theo lời Trình Di mà suy thì đàn bà góa dầu đói đến nỗi chết đi nữa cũng ở

vậy mà chịu chết chứ không được lấy chồng khác, nếu lấy chồng khác thì thất tiết,

mà thất tiết là sự “cực đại”, là việc hệ trọng hơn cả sinh mệnh. Câu chuyện này là

minh chứng điển hình cho quan niệm khắt khe của Nho gia về trinh tiết, thể hiện cái

nhìn “điển chế hóa” với người đàn bà quả phụ của các học giả Tống Nho.

Dưới sức ép của quan điểm văn hóa này, người phụ nữ góa bụa đi lấy chồng

khác sẽ bị đánh giá về mặt đạo đức, bị xã hội, đặc biệt là nhà Nho xem thường.

Ngược lại, những người phụ nữ cố gắng tuẫn tiết, thủ tiết sẽ được ngợi ca, nêu

gương. Vì thế, những câu chuyện và chiếu dụ biểu dương tiết phụ xuất hiện ở hầu

hết những cuốn sử chính thống cũng như các cuốn liệt truyện nước Việt thời trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 http://www.lrc-tnu.edu.vn

đại. Đại Việt Sử ký toàn thư có những đoạn ghi chép mang tính chất như vậy, tiêu

22

biểu là đoạn ghi chép về liệt phụ Mỵ Ê: “Giáp Thân, [1044]... Tháng 9, ngày mồng

1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Khi đến hành điện Ly

Nhân, sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê

phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen

là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:

Phu nhân giữ nghĩa không chịu nhục, chỉ theo một chồng cho đến chết, để toàn vẹn

trinh tiết của người đàn bà. Người làm tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu

nhân. Vua khen là trinh tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau là

đáng lắm” [19.405]... Việt sử thông giám cương mục cũng có những đoạn tương tự:

“Năm 1295... Chồng Lê Thị Ta là Phạm Mưu, sang sứ bên Nguyên bị bệnh mất. Thị

Ta nghe tin, thương khóc ba ngày, không ăn uống gì, rồi chết. Sự đó tâu về triều.

Nhà vua ban cho bạc và lụa để biểu dương tiết nghĩa của Lê thị... Năm 1437, biểu

dương tiết phụ họ Lê ở Quốc Oai vì thành tích: có nhan sắc, góa bụa sớm, không có

con, vẫn ở lại nhà chồng giữ việc thờ cúng đến trọn đời… Năm 1465, biểu dương

tiết phụ họ Nguyễn ở Nam Sách vì thành tích từ khi chồng chết, ở góa không có

điều tiếng gì” [58.135]... Chính sách biểu dương người tiết phụ, liệt nữ có lẽ phát

triển nhất ở triều Nguyễn, khi triều đình phong kiến này áp dụng dường như nguyên

bản những luật lệ hà khắc của triều Thanh - Trung Quốc vào Việt Nam. Nếu như

dưới triều Thanh, “việc giữ tiết hạnh của các góa phụ đã trở thành tín ngưỡng truyền

thống được tôn thờ và được ghi nhận bằng pháp luật chính thức” [79.136] thì tình

hình tương tự cũng diễn ra ở Việt Nam thời Nguyễn. Đã có trên dưới 280 tiết phụ

được nêu khen trong Đại Nam thực lục - Cuốn quốc sử của triều đại này. Trong số

đó có những tấm gương “tiết hạnh kỳ dị” đến mức nếu đặt trong bối cảnh văn hóa

hiện đại sẽ trở thành giả tạo và nực cười. Họ, người thì “cắt tóc giả điên”, người thì

“bôi nhọ nồi vào mặt” để không phải lấy chồng khác, người thì “cắt ngón tay thề

giữ tiết”, người thì “thắt cổ chết theo chồng”, người thì “gieo mình xuống sông tự

tử”... tất cả đều nhằm chứng minh cho cái “tiết” mà xã hội nam quyền yêu cầu. Một

vài ví dụ điển hình: “Biểu dương người đàn bà trinh tiết là Phan Thị… Phan Thị là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 http://www.lrc-tnu.edu.vn

vợ lẽ tiến sĩ Đinh Nho Hoàn. Đinh Nho Hoàn vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, chết ở

23

dọc đường, khi đem về chôn cất rồi, vợ lẽ của Nho Hoàn là Phan Thị tự thắt cổ chết.

Việc này lên đến triều đình, chúa Trịnh sai quan cấp cho ruộng thờ, tặng phong

Phan Thị là Á Thận nhân, ra lệnh cho đề hai chữ tiết phụ vào biển vàng, treo ở cửa

nhà để biểu dương” [74.T2.268]; “Nêu thưởng cho người tiết phụ họ Nguyễn ở tỉnh

Hải Dương… Hồi 18 tuổi lấy người làng là Mạc Thế Viêm, được vài tháng thì

Viêm ốm rồi chết. Nàng thề chết theo chồng, kêu gào đến thổ ra huyết; khi đã chôn

chồng, về nhà cha, thắt cổ chết. Việc ấy đến tai vua, ban cho biển ngạch”

[68.T24.387]; “Nêu thưởng cho các tiết phụ ở tỉnh Hưng Yên và tỉnh Vĩnh Long

(Người tỉnh Hưng Yên là Đoàn Thị Quang, năm 17 tuổi đi lấy chồng, được một

năm chồng chết không có con. Đoàn Thị Lưu tuổi 18 đi lấy chồng chưa được một

năm, chồng chết sinh được một con gái). Hai người đàn bà này, cha mẹ thương vì

chưa có con, ép buộc đi lấy chồng khác thì một người cởi dây lưng thắt cổ chết; một

người lấy móng tay bấu mặt cho nát ra; đều là những người giữ lòng trinh bạch

thưởng cho mỗi người 20 lạng bạc, sa màu đều hai tấm, biển ngạch đều một tấm...”

[68.T27.104]; “Nêu thưởng tiết phụ các hạt (…). Ở Quảng Yên: Ngô Thị Cách 19

tuổi, chồng chết, muốn chết theo, nhưng vì con trai còn bé, cố gượng sống để nuôi

con. Đến năm con 12 tuổi, thị ngầm vào trong khe trẫm mình. Ban cho biển ngạch

làm nhà treo biển. Lại theo hạng thứ thưởng thêm 20 lạng bạc)” [68.T29.178]…

Những người phụ nữ trên đây đều là những người rất trẻ tuổi. Họ có thể đã tự

nguyện tuẫn tiết để thể hiện tình yêu của mình với người chồng. Song, không ít

trong số họ đã vì sức ép của thời đại mà hy sinh tuổi thanh xuân một cách uổng phí,

vô nghĩa. Đó chính là sự bất công, thiếu nhân đạo của truyền thống văn hoá đề cao

người đàn bà thủ tiết, tuẫn tiết.

Có thể thấy, việc coi trọng trinh tiết người phụ nữ không chỉ xuất hiện ở

Việt Nam mà thực chất có nguồn gốc từ trung Hoa, mở rộng ra tất cả các quốc gia

thuộc vùng văn hóa phương Đông và âm ỉ tồn tại trong trường kỳ lịch sử ở vùng

văn hóa này. Tân Đường thư - Cuốn sách được viết vào khoảng thế kỷ XI ở Trung

Quốc có kể lại một câu chuyện chỉ gồm năm mươi tư ký tự Trung Hoa nhưng tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 http://www.lrc-tnu.edu.vn

biểu cho tinh thần đề cao trinh tiết người phụ nữ một cách thái quá như sau:

24

“Lư thị - vợ của Phòng Huyền Linh, là con cái của một dòng họ không

nổi tiếng. Huyền Linh cũng chỉ là một người đàn ông vô danh khi ông ta lâm bệnh

và hấp hối. Để miễn cho người vợ bổn phận tòng phu, Huyền Linh nói với Lỗ thị

rằng: “Bệnh tình của ta đã trở nên rất xấu, nhưng nàng còn trẻ, nàng không nên ở

vậy; tốt hơn là hãy đi lấy một người khác”. Nghe chồng nói, Lư thị khóc lóc, sau

đó vào phòng và móc ra một con mắt trên mặt mình để chứng minh với Huyền

Linh rằng tại căn phòng của nàng sẽ không bao giờ có một người đàn ông thứ hai.

Về sau, Huyền Linh bình phục và đối xử với Lư thị bằng sự ái mộ” [82.206].

Trong câu chuyện này, Lư Thị đã vì mục đích chứng minh lòng tiết liệt mà

tự phá hoại thân thể của mình. Hành động của nàng thể hiện tinh thần trọng danh dự

hơn thân xác, thể hiện cái nhìn khắt khe về trinh tiết người phụ nữ.

Thậm chí, có những phụ nữ còn mù quáng hy sinh cả sự sống bản thân để

chứng minh tiết trinh, thỏa mãn lòng ích kỷ “quái gở” của người đàn ông như

những người tỳ thiếp trong câu chuyện sau:

“Hồi cuối đời Nguyên, Phan Nguyên Thiệu sắp đem binh ra

đánh với Minh Thái Tổ, kêu bảy nàng hầu của mình ra nói rằng: “Ta nếu có

điều chi, chúng bay phải liệu mà tự xử lấy mình, đừng để người ta cười

cho”. Một nàng quỳ xuống thưa rằng: “Thiếp xin chết trước mặt phu quân,

kẻo còn nghi ngại!” - rồi vào buồng tự tử. Sáu nàng kia cũng chết nốt. Thế

rồi Nguyên Thiệu chẳng những không chết mà lại hàng nhà Minh!” [25]

Học giả Phan Khôi trong bài báo Tống Nho với phụ nữ cũng đưa ra một câu chuyện

thú vị về người đàn bà thủ tiết để chứng minh cho sự bất công, vô đạo của quan niệm về

trinh tiết người phụ nữ thời trung đại. Câu chuyện kể về một người đàn bà giữ tiết gần 40

năm để chờ chồng trong khi chồng bà ta đi xa, lấy vợ khác, sinh con, 60 tuổi mới trở về.

Phân tích câu chuyện này, Phan Khôi có lời bình: “… Hòa (tên người chồng) ở Rạch Giá,

lấy vợ, có một đống con; còn vợ anh ta ở nhà, cắn răng chịu đựng thống khổ già nửa đời

người, bỏ quá cái tuổi xuân xanh trôi theo giòng nước chảy, đến nay rụng răng bạc tóc rồi

mới thấy nhau thì đã muộn! Bởi đó tôi mới phải vì nhân đạo mà căm tức, tức cho sự bất bình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 http://www.lrc-tnu.edu.vn

đẳng giữa loài người!” [25]. Sự bất bình đẳng mà Phan Khôi nói ở đây chính là sự bất bình

25

đẳng giữa nam giới và nữ giới trong xã hội nam quyền phong kiến - cái xã hội “nhị trùng

đạo đức”, “cùng là người ở trong một xã hội, dưới quyền thống trị một luân lý, mà có hai thứ

luật buộc cho hai bên (nam giới và nữ giới) khoan nghiêm khác nhau” [25]. Quan niệm về

trinh tiết người phụ nữ là một quan niệm khắt khe và bất công như thế.

Ta cũng tìm thấy dấu ấn của những câu chuyện nói đến sự nghiệt ngã của quan

niệm này trong nền văn học Hàn Quốc. Truyện ngắn Hoa cúc xanh mỏng manh của Su-gil

An là một ví dụ. Được viết vào đầu thời kỳ hiện đại, câu chuyện dường như là một tiếng

nói đối thoại và tranh đấu với quan niệm nghiệt ngã về trinh tiết người phụ nữ, từ đó cất lên

tiếng nói oán ai cho thân phận đàn bà trong xã hội nam quyền. Chuyện kể rằng:

Bunyi là con gái của một gia đình nghèo, từ nhỏ đã được bán

cho một thái giám, lớn lên cô trở thành vợ của viên thái giám này. Cô sống

trong một ngôi nhà ở đó chỉ có những thái giám như là chồng cô và không hề

biết đến một cuộc sống nào khác. Vì có khó khăn trong kinh tế, cô và mẹ chồng

về sống tại một trang trại ở nông thôn. Tại đây, cô gặp Yi - một chàng trai nông

dân khỏe mạnh, và tình yêu đã đến với họ như một tất yếu. Đúng lúc đó thì có

tin chồng cô sẽ từ Seoul xuống. Yi rủ cô bỏ trốn. Bunyi rất thương bà mẹ chồng

(bà cũng có cảnh ngộ giống như cô, cho đến tận lúc ấy, bà vẫn là một trinh nữ).

Cô thấy bỏ bà ở lại là nhẫn tâm. Cô kể tất cả chuyện tình cảm của mình cho bà

nghe và bà khuyên cô nên chịu đựng số mệnh. Số mệnh đã muốn cô trở thành

vợ của một thái giám và điều đó là không thể thay đổi. Bunyi trở về quét dọn

phòng sạch sẽ rồi treo cổ tự vẫn trong vườn. [75.279]

Ở đây, mẹ chồng Bunyi và Bunyi đã tự giết chết cuộc đời mình do không

vượt qua được sức ép của tư tưởng đề cao trinh tiết. Số phận của họ cũng chính là

số phận của biết bao người phụ nữ phải chịu áp lực của quan niệm nghiệt ngã này.

Tóm lại, xã hội phương Đông nam quyền đã đề ra chuẩn mực kép về trinh tiết, đòi

hỏi khắt khe người phụ nữ phải giữ gìn “cái tiết” nhưng không yêu cầu ngược lại ở đàn ông.

Quan niệm bất công này đã cướp đi của người phụ nữ những quyền lợi thuộc về nhân quyền,

khiến họ phải chịu nhiều oan khổ, bất hạnh. Một số nhân vật nữ chính diện lý tưởng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Truyền kỳ mạn lục cũng được xây dựng mang đậm đặc dấu ấn của quan điểm văn hóa này.

26

1.2.3 Quan điểm kỳ thị nữ sắc

Nhìn nhận người phụ nữ từ điểm nhìn nam quyền, xã hội phong kiến phương

Đông cực kỳ nghiêm khắc khi đánh giá người phụ nữ. Trong xã hội đó, người phụ nữ

hầu như chỉ được sống với vẻ đẹp đạo đức, được ngợi ca ở vẻ đẹp đạo đức còn những

yếu tố tự nhiên, bản năng (thiên tính nữ, vẻ đẹp hình thể, yếu tố tính dục) lại không

được trân trọng. Vì thế, người phụ nữ đẹp thường không được coi như một giá trị mà

hay được hình dung như là sức mạnh của sự cám dỗ, ma quái, đáng sợ.

Phật giáo chủ trương “tiết dục”, “diệt dục”, coi sắc là cái cần kiêng kỵ nên

nhan sắc phụ nữ bị xem thường trong mắt các tín đồ đạo Phật. Tam tổ thực lục có kể

lại câu chuyện ca ngợi thiền sư Huyền Quang vượt qua sắc dục, giữ lòng chay bạch

với thái độ e sợ, cảnh giác với người phụ nữ nhan sắc. Cốt truyện tóm tắt như sau:

Vua Minh Tông và các đại thần muốn thử lòng dục của Huyền

Quang bèn nén sắp đặt cơ mưu, chọn người cung nữ vô cùng xinh đẹp và khéo léo

là cung nhân Điểm Bích gọi vào nội điện, ban cho một thẻ bài và căn dặn: “Vị

tăng ấy vốn không ưa sắc dục, tánh tình rất cương trực, giới hạnh lại cao nghiêm,

ngươi có nhan sắc lại có tài ăn nói và thông hiểu sử kinh, vậy hãy đến thử thầy.

Nếu thầy còn động lòng quyến luyến tình dục, ngươi hãy dụ lấy cho được kim tử

làm bằng chứng, bằng gian trá sẽ có tội, ngươi phải kính cẩn vâng lời”. Điểm Bích

vâng lệnh lên đường, đến chùa Vân Yên xin nương náu cửa chùa. Ở đây, nàng tìm

mọi cách cám dỗ Huyền Quang nhưng thiền sư tuyệt nhiên không lay động. Biết

khó dùng sắc đẹp cám dỗ Huyền Quang, Điểm Bích nảy ra kế than vãn về gia

cảnh và được thiền sư cho một dật kim tử. Nhận được dật kim tử, Điểm Bích vội

về nói dối Vua là đã cám dỗ được Huyền Quang. Vua nghe xong buồn rầu, bèn

lệnh mở đàn tràng để kiểm tra hạnh pháp của sư. Huyền Quang lên đàn tràng

chứng minh được hạnh pháp của mình. Vua biết sư bị oan lại càng kính nể. Riêng

nàng Điểm Bích bị phạt làm tỳ nữ quét tước một ngôi chùa trong nội điện.

Trong câu chuyện này, vẻ đẹp của Điểm Bích không được ca ngợi mà bị lấy

làm nền để tô đậm quan niệm: Nữ sắc là thứ sức mạnh có hại cho lí tưởng Phật; lí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 http://www.lrc-tnu.edu.vn

tưởng thánh nhân của nam giới, vì vậy nam giới cần biết cảnh giác và tránh xa nó.

27

Một câu chuyện khác cũng thể hiện quan niệm tương tự về nữ sắc là truyện

Rắn báo oán - Câu chuyện huyền thoại hóa cuộc đời Nguyễn Thị Lộ được ghi lại trong

Tang thương ngẫu lục với cốt truyện như sau:

Tục truyền rằng, thời Nguyễn Trãi còn dạy học ở làng Nhị Khê,

khi dọn gò ngoài đồng làm chỗ dạy học, học trò của ông đã đánh một con

rắn trắng cụt đuôi. Đêm ấy, ông đọc sách dưới đèn, con rắn trắng leo lên xà

nhà nhỏ một giọt máu xuống giữa cuốn sách, thấm ướt chữ đại đến ba trang

giấy (ý sẽ báo oán đến ba đời dòng họ Nguyễn Trãi). Khi hiển đạt, một hôm

đi chầu về, lúc qua phố Hàng Chiếu, Nguyễn Trãi gặp một cô gái xinh đẹp,

dùng thơ từ để xướng họa với ông. Rồi ông yêu mến cưới về làm thiếp.

Khoảng năm Thiệu Bình, cô gái ấy thường đi lại vào trong cấm, vua Thái

Tông yêu cho làm chức Nữ học sĩ. Khi vua băng hà, triều đình đem nàng ra

tra hỏi, nàng khai là do Nguyễn Trãi xui nên ông mới phải tội. Khi lâm hình,

người con gái ấy hóa thành rắn, bơi xuống nước đi mất. [38.102-103]

Việc liên hệ Thị Lộ xinh đẹp tài hoa với rắn báo oán không phải là ngẫu

nhiên. Trong tâm thức của người Việt, rắn không bao giờ là con vật biểu trưng cho

sự tốt đẹp, an toàn mà thường ám chỉ sự nguy hiểm, đen tối. Câu chuyện trên đây

tuy phi lý nhưng ít nhất ở một thời nó đã được cộng đồng trung đại chấp nhận, thể

hiện quan niệm của một bộ phận cộng đồng đó về sự nguy hiểm của nữ sắc.

Quan điểm kỳ thị nữ sắc của các học giả Nho gia thời trung đại không chỉ

thể hiện qua những giai thoại, liệt truyện mà còn được chính thức hóa bằng nhiều

phát ngôn. Sử gia Ngô Sĩ Liên khi ghi chép chuyện Nguyễn Thị Lộ đã bình luận:

“Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông

yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà

được ư?” [19.1372-1373]. Tác giả Khóa hư lục viết Giới sắc văn với những lời lẽ

đầy nghiêm khắc khi đánh giá về những yếu tố ngoại hình hấp dẫn của người phụ

nữ: “Tóc mượt lưng ong dễ khiến mịt mờ tâm tính; mặt hoa da phấn dễ xui rời rã

tinh thần. Mắt đưa lấp lánh như dao, ai không đứt ruột; lưỡi uốn ngọt ngào tựa sáo,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 http://www.lrc-tnu.edu.vn

hết thảy nghiêng tai. Người đắm đuối, nghĩa tình xa bỏ; kẻ đam mê, đạo đức tiêu

28

tan. Trên thì phong giáo đắm chìm; dưới thì cửa nhà táng loạn. Không kể kẻ phàm

người học; đều say áo pháp điểm trang. Cương kỷ quốc gia đổ vỡ chốn Tô đài…

Độc giác gần nữ am mà trở về cõi tục; Chân Quân xa thán phụ mà được lên thiên

đàng. Kẻ lánh sắc được ngũ thần thông; kẻ phạm sắc mất toàn giới hạnh” [70.98].

Còn Nguyễn Trãi thì có thơ Giới sắc để răn dạy nam giới, khuyên người quân tử né

tránh nữ sắc, nên coi nữ sắc là kẻ thù:

Sắc là giặc, đam làm chi

Thuở trọng còn phòng có thuở suy.

Trụ mất quốc gia vì Đát Kỉ,

Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.

Bại tan gia thất đời từng thấy,

Tổn hại tinh thần sự ích chi!

(Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập - Bài 190)

Lê Thánh Tông khi vịnh về Dương Quý Phi thì coi người con gái đẹp này là yêu ma mê

hoặc Đường Huyền Tông, gây nên viễn cảnh mù mịt đáng sợ của vương triều:

Yêu khí lăng cung khuyết,

Cao đường mộ vũ biên,

Châu trầm ngọc toái hậu,

Tiễu tiễu dạ như niên.

(Yêu khí nghi ngút khắp trong cung khuyết,

Cung điện đắm chìm trong cơn mưa chiều.

Sau buổi châu ngọc đắm chìm, tan nát ấy,

Là đêm dài tịch mịch tựa cơn mưa chiều)

(Lê Thánh Tông - Cổ tam bách vịnh)

Quan niệm né tránh, e sợ nữ sắc như trên vốn chính là quan niệm của nhiều

học giả Trung Hoa thời cổ đại. Tuân Tử từng tuyên bố: “Ham sắc đẹp của người

con gái là chuốc lấy cái ác nghiệt vậy”. Vương Sung đời Hán viết: “Yêu khí sinh ra

sự xinh đẹp, nên những người xinh đẹp phần lớn là ác… Người có sắc đẹp có mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 http://www.lrc-tnu.edu.vn

châm độc” [52.290]. Còn Vương Dật thì cho rằng: “Ngôn chúng nữ tật đố nga mi

29

mỹ hảo chi nhân, tiếm nhi hủy chi. Vị chi mỹ nhân nhi dâm, bất khả tín dã. Do

chúng thần tật đố trung chính, ngô dĩ dâm tà bất khả nhậm dã” [79]… Những phát

ngôn này đều xuất phát từ điểm nhìn nam giới, đều thể hiện cái nhìn nghiêm khắc

với người con gái đẹp của Nho gia.

Tóm lại, kỳ thị nữ sắc cũng là một quan niệm phổ biến trong hệ thống

những quan niệm về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại. Trong mắt của những học

giả theo quan niệm này, sắc đẹp người phụ nữ, đặc biệt là vẻ đẹp quyến rũ, hấp dẫn

về phương diện giới không biểu trưng cho cái tốt mà thường gắn với sự đen tối, sự

cám dỗ sắc dục. Xây dựng nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ chưa

thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm khắt khe này. Dường như nhà văn vẫn có quan

niệm một chiều về người phụ nữ lý tưởng. Nhân vật của ông hoặc là đức hạnh, hoặc

là hấp dẫn về phương diện giới mà thiếu sự kết hợp hài hoà giữa hai vẻ đẹp này.

1.2.4 Quan điểm coi thường đời sống bản năng của người phụ nữ

Sống phụ thuộc vào nam giới, người phụ nữ trong xã hội xưa cũng chính là

những người phải chịu nhiều thiệt thòi nhất về đời sống bản năng. Họ bị coi như

công cụ phục vụ nhu cầu tính dục của đàn ông nhưng ngược lại lại không bao giờ

được quyền đòi hỏi cho mình. Đáng nói hơn nữa, với người đàn ông, nhu cầu tính

dục được công nhận như một nhu cầu bình thường thì ở người phụ nữ, nó lại có xu

hướng sát nhập tiêu chuẩn kép về đạo đức: “Sự thừa nhận rằng việc giao hợp tính

dục là điều kiện tự nhiên và thậm chí đáng tán dương ở con trai, đàn ông nhưng lại

đáng xấu hổ, phá hoại trật tự xã hội ở con gái, đàn bà” [54.139]. Chuẩn mực kép về

hành vi tính dục cho phép nam giới có thể quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, nhưng

lại đòi hỏi phụ nữ phải giữ gìn trinh tiết, trinh tiết ở người phụ nữ là cái mà được xã

hội lượng giá “chữ trinh đáng giá ngàn vàng”.

Vì vậy, có một hiện tượng bất công là trong quan niệm của những người có

tư tưởng nam quyền, nam giới có thể có từ một đến rất nhiều phụ nữ để phục vụ nhu

cầu tính dục. Ngược lại, người phụ nữ nghĩ đến đời sống bản năng, hành động theo

bản năng lại bị xem thường, khinh bỉ. Sử cũ chép: Ở thế kỷ X, Đinh Tiên Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 http://www.lrc-tnu.edu.vn

mới lên ngôi đã lập ngay một lúc 5 hoàng hậu. Lê Đại Hành cũng lập 5 hoàng hậu.

30

Lê Long Đĩnh lập 4 hoàng hậu. Ở các thế kỷ XI, XII, các vua Lý, như Lý Thái Tổ

cũng lập 6 hoàng hậu, sau lại thêm 3 là 9; Lê Thái Tông lập 7 hoàng hậu thêm 1 là 8;

Lý Thánh Tông lập 8 hoàng hậu; Lý Nhân Tông lập 2; Lý Thần Tông lập 3

[58.124]… Đó là chưa kể những bậc vua chúa này còn có hàng chục đến hàng trăm

phi tần, mỹ nữ để phục vụ nhu cầu tính dục. Trong khi đó, người phụ nữ có quan hệ

ngoài hôn nhân lại bị gọi là “dâm phụ”, bị xử bằng những nhục hình tàn nhẫn (cạo

gáy bôi vôi, thả bè trôi sông, voi giày…). Hoặc ít nhất, những người phụ nữ này

cũng bị đánh giá về nhân phẩm bằng con mắt khắt khe và nghiêm ngặt của các nhà

Nho bảo thủ. Trường hợp nàng Xuý Vân trong vở chèo Kim Nham và nàng Kiều

trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là những ví dụ tiêu biểu.

Tóm lại, trong xã hội phương Đông nam quyền, người phụ nữ phải chịu

nhiều thiệt thòi, họ bị coi thường trong vị trí thứ yếu, thấp kém và thân phận phụ

thuộc. Trong xã hội đó, những tiêu chuẩn để xã hội đánh giá người phụ nữ bị quy

chiếu vào điểm nhìn của người đàn ông. Chúng là những tiêu chuẩn kép có lợi cho

đàn ông nhưng bất công, bất lợi cho phụ nữ, khắt khe nghiêm ngặt với phụ nữ

nhưng lại khoan dung, độ lượng với nam giới. Quan điểm về “Tam tòng”, “Tứ đức”,

quan niệm về trinh tiết, về vẻ đẹp ngoại hình, về đời sống bản năng của người phụ

nữ là những quan điểm tiêu biểu mang đặc trưng này. Dấu ấn của những quan điểm

đó cũng in đậm trong hình tượng những người phụ nữ của Truyền kỳ mạn lục. Tìm

hiểu hệ thống quan điểm trên, chúng tôi có cơ sở thực tiễn để truy nguyên nguồn

gốc văn hoá của các chi tiết nghệ thuật xung quanh hình tượng người phụ nữ trong

Truyền kỳ mạn lục.

1.3 Nữ giới trong văn học viết Việt Nam trƣớc thế kỷ XVI

Cho đến thế kỷ XVI, văn học viết ở Việt Nam đã phát triển qua gần sáu thế kỷ.

Tuy nhiên, trong suốt sáu thế kỷ này, những quan niệm về người phụ nữ hầu như không có

nhiều thay đổi. Điều đó đã chi phối đời sống văn học và tạo nên diện mạo khá riêng của

văn học giai đoạn này xét về phương diện giới. Trước khi nhận xét, xin đưa ra một vài kết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 http://www.lrc-tnu.edu.vn

quả khảo sát ban đầu:

31

Những khảo sát ban đầu về hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt

Nam trước thế kỷ XVI qua một số tập sách tiêu biểu:

Tổng số tác Số tác phẩm có Phần trăm tác phẩm Đối tƣợng khảo sát phẩm nhân vật nữ có nhân vật nữ

Thơ văn Lý - Trần 914 13 1.42%

Thiền uyển tập anh 87 0 0%

Việt điện u linh 27 4 14.8%

Lĩnh Nam chích quái 34 10 29.4%

Quốc âm thi tập 254 5 1.97%

Hồng Đức quốc âm thi tập 328 55 16.8%

19 11 57.9% Thánh Tông di thảo

Bảng thống kê nhân vật nữ trong một số tập tác phẩm tiêu biểu trƣớc Thế kỷ XVI

Chúng tôi nhận thấy, ở giai đoạn trước thế kỷ XVI, nền văn học Việt Nam rất vắng

nữ tác giả. Ba gương mặt nữ tác giả được lưu danh của văn học giai đoạn này là nguyên phi Ỷ

Lan, cung phi Nguyễn Thị Điểm Bích và nguyên phi Nguyễn Bích Châu. Song, mỗi nữ văn

sĩ này lại chỉ để lại duy nhất một tác phẩm. Những tác phẩm của họ cũng không viết về đề tài

người phụ nữ mà viết về triết lý đạo Phật, về vấn đề chính sự hoặc vịnh cảnh.

Không chỉ thiếu vắng nữ tác giả, hình ảnh người phụ nữ cũng mới chỉ thấp

thoáng xuất hiện trong một số tác phẩm. Toàn bộ tuyển tập Thơ văn Lý - Trần có tới 914

tác phẩm nhưng số tác phẩm có đề cập đến nhân vật nữ chỉ là 13, chiếm 1.42% - một con

số khiêm tốn. Thậm chí, trong Thiền uyển tập anh, nhân vật nữ hoàn toàn không được

nhắc tới dù chỉ một lần. Ở những tuyển tập khác như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích

quái, Quốc âm thi tập hay Hồng Đức quốc âm thi tập… hình tượng người phụ nữ xuất

hiện nhiều hơn song cũng chỉ chiếm một số lượng không đáng kể.

Xuất hiện bên cạnh những thánh nhân, thiền sư, những nhân vật tài đức lỗi lạc, người

phụ nữ trong văn học giai đoạn này hầu như mới chỉ được miêu tả hoặc trong tư cách của những

tấm gương chung trinh tiết liệt (Phu thê tử tiết, Ni sư đức hạnh - Nam ông mộng lục, Truyện Mỵ Ê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Việt điện u linh), hoặc những nhân thần chính diện (Truyện Nhị Trưng phu nhân, Truyện Hậu

32

thổ phu nhân - Việt điện u linh) hay trong hình ảnh những u hồn trệ phách, yêu ma quỷ quái

(Chuyện yêu nữ Châu Mai - Thánh Tông di thảo) để chứng minh thuyết giáo cho tư tưởng xã hội.

Mặc dù người phụ nữ đã dần xuất hiện nhiều hơn trong văn học giai đoạn

này, song toàn bộ phẩm chất, giá trị cũng như đời sống tâm hồn và thân thể của họ

luôn được nhìn bằng đôi mắt của nam giới. Miêu tả người phụ nữ, các nhà văn thiên

về tô đậm đức hạnh siêu phàm, chí khí hơn người của người phụ nữ mà hầu như

không chú ý đến yếu tố nữ tính, yếu tố giới của họ.

Vị ni sư trong Ni sư đức hạnh được người trần thuật ngợi ca và trân trọng là bởi vì bà

đã tu giới theo đúng yêu cầu đạo Phật: “ra thân khổ hạnh, trì giới chuyên cần, mắt tuệ thông

suốt, thường ngồi thiền định” và dám “tự nguyện đem tấm thân hư ảo để hổ lang được một

bữa no” [71.712]. Người phụ nữ trong Phu thê tử tiết cũng được khen ngợi là tấm gương liệt

nữ vì bà ta đã dám “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng”, dám hy sinh thân xác thịt để bảo vệ thân

danh tiết, chứng minh lòng trinh liệt: “Than ôi… đến như Nguyễn Thị, một người đàn bà mà

lâm nguy vẫn nhận ra tiết lớn, biết chồng chết đáng chỗ không ân hận gì, lại còn coi trọng điều

nghĩa xem nhẹ cái sống, nhìn chết như về, có thể gọi là bậc hiền phụ vậy” [71.702]. Nàng Mỵ

Ê, Vũ Nương, Chiêu Quân… được các thi sĩ Hồng Đức khen ngợi cũng đều xuất phát từ tấm

lòng: “Thờ chúa, thờ chồng hết tấc thương/ Một mình lọn đạo việc cương thường” [10.92] hay

tấm lòng thuỷ chung, trinh liệt của họ. Phẩm hạnh của tất cả những người phụ nữ được khen

ngợi này đều là những phẩm hạnh mà Nho gia yêu cầu và mong muốn ở người phụ nữ.

Tuy cũng có một số tác phẩm nói đến sắc đẹp người phụ nữ nhưng sắc đẹp đó hầu

như còn được miêu tả mang tính chất ước lệ, gắn liền với phẩm hạnh chứ không được miêu tả

ở những nét quyến rũ, hấp dẫn về phương diện giới (Vương Tường dung mạo - Hồng Đức

quốc âm thi tập). Thậm chí, một số tác phẩm khi nói đến những người phụ nữ đẹp còn tỏ thái

độ phê phán, e sợ (Vịnh nàng Điêu Thuyền - Hồng Đức quốc âm thi tập, Chuyện yêu nữ Châu

Mai - Thánh Tông di thảo, Giới sắc - Quốc âm thi tập)… Ngoài ra, do quan niệm về thánh

nhân quân tử nên những yếu tố về giới ở người phụ nữ như yếu tố tính dục, vẻ đẹp quyến rũ

nếu được nói đến thường bị nhà Nho nhìn dưới cái nhìn khinh bỉ hoặc lảng tránh miêu tả.

Tóm lại, có thể nói, trước thế kỷ XVI, người phụ nữ vẫn còn xuất hiện mờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhạt trong văn học Việt Nam. Sự xuất hiện của họ thường gắn với chức năng giáo

33

huấn đạo đức. Những vẻ đẹp hấp dẫn về phương diện giới, những khát vọng, quyền

lợi riêng tư của họ cũng chưa được các tác giả thời kỳ này trân trọng và chú ý miêu

tả, toàn bộ phẩm chất, giá trị cũng như đời sống tinh thần và thể chất của họ vẫn

luôn được nhìn bằng đôi mắt của nam quyền. Trong bối cảnh “văn hoá giới” đặc

biệt đó, Truyền kỳ mạn lục xuất hiện.

1.4 Thân thế và thời đại Nguyễn Dữ

Theo phỏng đoán của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Dữ là tác giả văn học đầu thế

kỷ XVI, tên tự, tên hiệu cũng như năm sinh năm mất của ông đều không rõ. Bài tựa Cựu biên

Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm 1547 là tài liệu cổ nhất có ghi về Nguyễn Dữ

và tác phẩm của ông: “Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu.

Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm lối học cử

nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu

hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng Tam trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền.

Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm không đặt chân tới chốn

thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý…” [39.47]. Một tài liệu khác có chép về

Nguyễn Dữ là Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn. Trong cuốn sách này, Lê Quý Đôn giới

thiệu về Nguyễn Dữ như sau: “Nguyễn Dữ người xã Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc. Cha là

Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khóa Bính Thìn đời Hồng Đức (1496), làm quan đến Thượng

thư Bộ hộ. Dữ từ nhỏ đã nổi tiếng học rộng nhớ nhiều, có thể lấy văn chương nối nghiệp nhà.

Đỗ Hương tiến, nhiều lần thi hội trúng tam trường, được bổ chức Tri huyện Thanh Tuyền, mới

được một năm lấy cớ nơi làm việc xa xôi, xin về phụng dưỡng cha mẹ. Sau vì ngụy Mạc thoán

đạt, thề không đi làm quan nữa; ở làng dạy học không đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền

kỳ mạn lục bốn quyển văn từ thanh lệ, người đương thời rất khen” [39.48].

Những ghi chép trên đây cùng nhận định của các nhà nghiên cứu khác cho phép

chúng ta đưa ra một số kết luận về thân thế Nguyễn Dữ: Ông là người huyện Gia Phúc,

thuộc Hồng Châu, cha là tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, đậu tiến sĩ đời Hồng Đức năm 1496,

làm quan đến chức Thượng thư. Nguyễn Dữ vốn sinh ra trong dòng dõi khoa hoạn, từ nhỏ

đã ham học, nhớ nhiều và có thể từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là bạn của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phùng Khắc Khoan, đã từng thi đỗ, làm quan. Tư tưởng của Nguyễn Dữ về cơ bản là tư

34

tưởng của một nhà Nho chính thống. Tư tưởng này đã để lại dấu ấn trong Truyền kỳ mạn

lục và thể hiện khá rõ nét trong nghệ thuật kể, tả người phụ nữ của tập tác phẩm này.

Nguyễn Dữ sống chủ yếu vào đầu thế kỷ XVI. Đây là thời kỳ chế độ phong kiến tập

quyền sau một thời gian đạt đến cực thịnh ở triều Lê Thánh Tông bắt đầu bộc lộ những hạn

chế nhất định. Hình ảnh quân minh thần lương của triều đại Lê Thánh Tông không còn mà

thay vào đó là các ông vua bất tài ươn hèn, là bọn gian thần đua nhau tranh quyền đoạt vị.

Song đây lại là điều kiện để nhiều tư tưởng dân chủ, tư tưởng đề cao người phụ nữ vốn tiềm

tàng trong dân gian được sống dậy. Ở một chừng mực nhất định, xã hội Việt Nam thời kỳ này

đã có dấu hiệu của xã hội thị dân, tư tưởng tự do phóng khoáng trong tình yêu đã xuất hiện.

Viết Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ ít nhiều đã ảnh hưởng từ hoàn cảnh lịch sử biến động này.

Tiểu kết: Ở chương 1, chúng tôi tìm hiểu khái niệm giới, phân tích khái

quát một số quan niệm về nữ giới ở phương Đông thời trung đại, phác thảo diện mạo của

văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV xét về phương diện giới của tác giả,

giới của nhân vật và trình bày đôi nét về thân thế, thời đại Nguyễn Dữ. Theo chúng tôi,

giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những đòi hỏi, yêu

cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội - văn hóa. Trong xã hội phương Đông

nam quyền, những tiêu chuẩn để xã hội đánh giá nữ giới bị quy chiếu vào điểm nhìn của

người đàn ông. Chúng là những tiêu chuẩn kép có lợi cho đàn ông nhưng bất công, bất

lợi cho phụ nữ, khắt khe nghiêm ngặt với phụ nữ nhưng lại khoan dung, độ lượng với

nam giới. Vì thế, chỉ những người phụ nữ đáp ứng các chuẩn mực Nho gia yêu cầu thì

được đánh giá là chính diện lý tưởng còn người phụ nữ vượt ra ngoài khuôn phép sẽ bị

coi là phản diện. Là một nhà Nho xuất thân trong gia đình khoa hoạn, khi viết về người

phụ nữ, Nguyễn Dữ chưa thể thoát khỏi sức ép của những quan niệm văn hoá này. Tuy

nhiên, trong phạm vi mà thời đại cho phép, nhà văn cũng đã có điều kiện phá vỡ những

nguyên lý ấy ở mức độ nhất định để đến với cái nhìn nữ quyền, thể hiện tư tưởng mới

của thời đại. Những vấn đề lí luận và thực tiễn này là cơ sở giúp chúng tôi phân loại các

kiểu nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, đối chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn hóa để phân tích những hình tượng người phụ nữ này qua góc nhìn giới.

35

CHƢƠNG 2

NGƢỜI PHỤ NỮ CHÍNH DIỆN LÝ TƢỞNG TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

Như đã phân tích ở chương 1, xã hội Việt Nam thời trung đại là xã hội Nho

gia nam quyền, người đàn ông và toàn xã hội đã lấy tiêu chí giá trị của nam giới, có

lợi cho nam giới để áp đặt cho phụ nữ. Vì vậy, chỉ những người phụ nữ đáp ứng tiêu

chí nam giới đã đưa ra mới được khen ngợi, được coi là người phụ nữ chính diện lý

tưởng, ngược lại người phụ nữ sẽ bị phê phán, bị coi là phản diện. Căn cứ vào quan

điểm như vậy, chúng tôi chia nhân vật người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục thành

hai kiểu: Người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ phản diện. Việc chia

nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục thành hai nhóm có ý nghĩa thuận tiện cho việc

nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu như Bùi Duy Tân, Nguyễn Đăng Na đã đề cập đến

hai kiểu nhân vật này. Cũng có một số ít trường hợp mà nhân vật nữ không dễ phân

loại (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa), trường hợp ấy

chúng tôi sẽ có biện giải riêng.

Chương 2 đi sâu phân tích và lý giải người phụ nữ chính diện lý tưởng trong

Truyền kỳ mạn lục từ góc nhìn giới bằng việc tìm hiểu ngoại hình, ngôn ngữ, tâm lý,

cách ứng xử hành động, số phận của những người phụ nữ này và cách miêu tả, cách

đánh giá của người trần thuật, của tác giả lời bình về họ.

2.1 Ngoại hình

Ngoại hình là một trong những đặc điểm quan trọng của con người nói

chung và nữ giới nói riêng. Mức độ và thái độ miêu tả vẻ đẹp ngoại hình người phụ

nữ là một nhân tố thể hiện quan niệm về cái đẹp nữ tính của mỗi người, mỗi thời kỳ.

Nếu như trong các tác phẩm văn học hiện đại, vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ được

đề cao và trân trọng như cội nguồn tạo nên sự hấp dẫn của nữ tính thì ở các truyện

về người phụ nữ chính diện lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục, vẻ đẹp ấy dường như

đã bị lấn át bởi những tiêu chuẩn về vẻ đẹp đạo đức. Thái độ kỳ thị nữ sắc của Nho

gia đã dẫn đến nguyên tắc miêu tả ít quan tâm vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 http://www.lrc-tnu.edu.vn

tưởng, đặc biệt né tránh cái đẹp thân xác của họ trong khi đức hạnh lại được khắc

36

sâu với thái độ ngưỡng mộ, thậm chí tôn thờ. Điều này khiến người đọc hình dung

giá trị của người phụ nữ không phải ở thân thể mà chủ yếu là ở đức hạnh theo chuẩn

mực Nho giáo. Tất nhiên, đức hạnh là đáng quý, nhưng nếu như người phụ nữ vừa

có đức hạnh, lại vừa có vẻ đẹp hấp dẫn về nữ tính thì là một kết hợp lý tưởng. Song

dường như đối với người xưa, có một lựa chọn mang tính chất loại trừ, hoặc là đức

hạnh, hoặc là đẹp, hấp dẫn chứ không có sự kết hợp.

Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu là một người phụ

nữ có nhan sắc, nhưng tác giả không miêu tả cụ thể và nhấn mạnh về sắc đẹp nữ tính

của nàng. Sắc đẹp đó chỉ được nhắc đến trong hai câu văn giới thiệu ngắn gọn:

“Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc

trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mến vì

tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần” [60.16]. Đoạn văn giới thiệu

Nhị Khanh và Trọng Quỳ theo mô-típ lứa đôi tài tử giai nhân - trai tài gái sắc như

nhiều truyện Nôm thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, cái đẹp của Nhị Khanh trong tác phẩm

này chỉ được điểm qua mờ nhạt. Nàng được giới thiệu là “gái sắc” nhưng cái sắc ấy

như thế nào thì tác giả không tả, không hình tượng hóa và ngợi ca như ở nàng Kiều

trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm

liễu hờn kém xanh), nàng Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang của Phạm Thái (Chiều

cá nhảy, vẻ nhạn sa/ Mắt long lanh nguyệt, tóc rà rà mây/ Má hồng môi thắm hây

hây/ Khổ mê thược dược, thức say hải đường/ Chiều sánh ngọc, vẻ so vàng/ Ôi hoa vì

sắc, ủ hương vì màu) hay nàng Dao Tiên trong Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự (Dờn

dờn mây cựa quanh trăng/ Hoa tươi mỉm động ngọc lừng thơm bay /Thiên nhiên sẵn

đúc dày dày/ Mực hoen sá thấm phấn rơi thông giồi)…

Giống như Nhị Khanh, Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

cũng không được miêu tả cụ thể, hình tượng hóa và nhấn mạnh về ngoại hình dù nàng

có thể là một người phụ nữ đẹp. Cả tác phẩm chỉ có một câu văn duy nhất nhắc đến vẻ

đẹp ngoại hình của người phụ nữ này. Song trong câu văn duy nhất ấy, ngoại hình cũng

chỉ được coi là một phần phụ, một yếu tố có tính chất bổ sung cho chân dung đạo đức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 http://www.lrc-tnu.edu.vn

của nàng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị, nết na,

37

lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin

với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” [60.170]. Trong tiếng Việt, hai chữ “lại thêm”

không bao giờ hàm ý nội dung phía sau nó là quan trọng hay được trân trọng. Trong

câu văn này, đương nhiên ý nghĩa cũng không thể khác: Tư dung của Vũ Nương chỉ là

một phần phụ bên cạnh phẩm hạnh thùy mị, nết na của nàng. Ở đây, cả người trần thuật,

gia đình Trương Sinh lẫn Trương Sinh đều coi trọng vẻ đẹp đạo đức của Vũ Nương

hơn vẻ đẹp ngoại hình, chỉ coi vẻ đẹp ngoại hình là một yếu tố đi kèm của đức hạnh.

Trong Chuyện đối tụng ở Long cung, Dương Thị cũng không được miêu tả

về vẻ đẹp ngoại hình dù cho chính vẻ đẹp đó đã hấp dẫn Thần thuồng luồng, khiến

Thần thuồng luồng mê đắm. Vẻ đẹp của Dương Thị nếu có được nhắc đến thì cũng

chỉ là mơ hồ và nhạt nhòa qua hai câu thơ:

Giai nhân tiếu sáp bích dao trâm

Lao ngã tình hoài thuộc vọng thâm.

(Người đẹp đầu cài trâm bích ngọc

Cho ta thương nhớ ngẩn ngơ lòng)

Ít quan tâm đến vẻ đẹp ngoại hình, né tránh cái đẹp hấp dẫn về phương diện

giới cũng là đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật miêu tả hình tượng nàng Lệ Nương

trong Chuyện Lệ Nương và phu nhân Ngô Chi Lan trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim

Hoa. Điều này khiến người đọc hình dung người trần thuật chỉ chú ý duy nhất ở người

phụ nữ lý tưởng là đức hạnh mà không cần quan tâm đến yếu tố thân thể, ngoại hình

của họ. So sánh với một số tác phẩm văn học của các tác giả chủ tình thế kỷ XVIII có

thể thấy, khi miêu tả người phụ nữ chính diện lý tưởng, các tác giả thế kỷ XVIII không

chỉ quan tâm đến vẻ đẹp một chiều về đạo đức mà còn quan tâm đến vẻ đẹp ngoại hình

hấp dẫn ở họ. Vì thế, Thúy Kiều trong Truyện Kiều không chỉ được Nguyễn Du ngợi

ca về đạo đức “hiếu nghĩa đủ đường” mà còn được mến mộ với sắc đẹp nghiêng thành

và vẻ đẹp mê hồn của thân thể. Nhà thơ miêu tả cảnh Kiều tắm như một cái cớ để ngợi

ca vẻ đẹp ngoại hình hấp dẫn của nàng:

Buồng the gặp buổi thong dong,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.

38

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

(Nguyễn Du - Truyện Kiều)

So sánh với một số tác phẩm văn học đương đại, sự khác biệt trong cách miêu

tả và thái độ với vẻ đẹp ngoại hình hấp dẫn về phương diện giới của người phụ nữ lại

càng rõ nét. Trong các tác phẩm văn học đương đại, ta thấy thái độ trân trọng, ngưỡng

mộ cái đẹp thân thể phụ nữ qua trang văn của nhiều nhà văn nổi tiếng từ Võ Thị Hảo,

Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Y Ban… đến Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Hồ

Anh Thái và nhiều nhà văn khác... Xin lấy tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo làm

ví dụ để so sánh với Truyền kỳ mạn lục về phương diện này.

Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã thực sự có dụng ý dành nhiều câu văn đẹp

để ngợi ca ngoại hình các nhân vật nữ, đặc biệt là cung nhân Ngạn La và tiểu thư Nhuệ

Anh. Cung nhân Ngạn La trong tác phẩm này được nhà văn ngưỡng mộ, trân trọng bởi

ngoại hình nữ tính đầy gợi cảm của nàng: “… đôi mắt mèo màu sám nâu mở to hoảng

hốt dưới đôi mày mềm mại lượn cong vút như hai cánh én. Đôi môi mọng màu hoàng

thổ sẫm kinh ngạc mở rộng làm hé lộ hàm răng đen láy. Mớ tóc dài nuôi nấng qua

mười hai năm tràn xuống nửa lưng ôm lấy một bờ vai mảnh mai màu nâu mịn mượt

như lụa. Đôi vú mới nhú như nửa vầng trăng với hai đầu vú nhỏ ương ngạnh và kiêu

hãnh. Xa xôi dưới kia cũng mượt mà và chảy tràn như lụa là cặp đùi và đôi chân thon

dài với năm ngón chân nhỏ nhắn hơi xòe ra, móng chân màu vàng” [13]. Còn ngoại

hình quyến rũ của tiểu thư Nhuệ Anh được nhà văn khắc họa với “chiếc cằm có đường

viền cứng cỏi của nàng hòa hợp kỳ lạ với đôi mắt dài như hai nét bút bay bướm được

phác qua bởi cơn thần hứng của một nhà thư họa biến thành đôi dòng sông thăm thẳm

khôn dò nửa buồn, nửa vui. Khóe mắt như nước đong. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực

đôi mắt là đường mày màu khói nhạt dường như hơi cau đa đoan đến não lòng. Nhưng

đó lại là cái nét cau cau quyến rũ đến thiêu đốt lòng người” [13]. Có thể thấy, trong tác

phẩm của mình, Võ Thị Hảo đã thực sự chú ý đến những yếu tố rất riêng của người

phụ nữ từ đôi mắt, đôi môi, mớ tóc, chiếc cằm đến đôi vú, cặp đùi, đôi chân… và miêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 http://www.lrc-tnu.edu.vn

tả chúng bằng từng đường nét tỉ mỉ, chi tiết với giọng điệu ngưỡng mộ, trân trọng. Ta

39

sẽ không thể tìm thấy cách miêu tả và thái độ tương tự về vẻ đẹp ngoại hình của những

người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Điều này xuất phát từ điểm nhìn của người trần

thuật: Nếu như các nhà thơ thế kỷ XVIII và các văn sĩ đương đại đã đứng từ điểm nhìn

nữ giới để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ, chú ý đến vẻ đẹp thân thể người

phụ nữ và miêu tả chúng một cách hình tượng, cụ thể với giọng điệu trân trọng, ngợi ca

và ngưỡng mộ thì tác giả Truyền kỳ mạn lục dường như vẫn đứng từ điểm nhìn nam

giới, điểm nhìn của nhà Nho để miêu tả họ. Vì thế, những yếu tố thuộc về ngoại hình

hấp dẫn về phương diện giới của người phụ nữ lý tưởng hầu như không được tác giả

Truyền kỳ mạn lục chú ý miêu tả.

Tóm lại, khi xây dựng hình tượng người phụ nữ chính diện lý tưởng, tác giả Truyền

kỳ mạn lục không nhấn mạnh vẻ đẹp ngoại hình, thường né tránh cái đẹp về thân thể và chỉ

nhấn mạnh đức hạnh của họ. Vì thế, vẻ đẹp ngoại hình có chất nữ tính, hấp dẫn về phương

diện giới của những người phụ nữ này hiện lên mờ nhạt trong giọng điệu kể chuyện trung

tính và những câu văn giới thiệu không hình tượng hoá. Điều này có nguồn gốc từ quan

niệm coi thường và nghiêm khắc với nữ sắc của Nho gia, quan niệm cho rằng nữ sắc gắn với

sự cám dỗ nhục dục, với cái xấu xa, độc ác, gắn với người phụ nữ phản diện còn giá trị của

người phụ nữ lý tưởng không phải ở thân thể mà là đức hạnh. So sánh các truyện về người

phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục với các tác phẩm văn học Việt Nam thế kỷ XVIII và đương

đại có thể thấy thái độ coi người đẹp như một giá trị còn mờ nhạt trong tập tác phẩm này.

2.2 Ngôn ngữ

Trong văn học, “Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan

trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật” [12.214].

Trong Truyền kỳ mạn lục, ngôn ngữ nhân vật cũng là một yếu tố quan trọng được

nhà văn sử dụng để tô đậm hình tượng nhân vật nữ và thể hiện quan niệm của mình

về tính cách, nhân phẩm của họ. Miêu tả người phụ nữ phản diện tác giả Truyền kỳ

mạn lục gắn nhân vật với những diễn ngôn táo bạo, chủ động, vượt ra ngoài chuẩn

mực đạo đức Nho gia. Ngược lại, với người phụ nữ chính diện lý tưởng, nhà văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 http://www.lrc-tnu.edu.vn

gắn nhân vật với những diễn ngôn khảng khái, lý trí, thể hiện sự phục tùng, nhu

40

thuận với người đàn ông, tuân theo khuôn phép Nho gia và hầu như chưa phân biệt

với ngôn ngữ tác giả.

Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu hiện lên qua mười

lời thoại được phát ngôn trong những tình huống khác nhau. Nhưng dù trong tình

huống nào, ngôn ngữ của nàng vẫn luôn là ngôn ngữ thiên về lý trí, thiên về thể hiện

quan niệm đạo đức của Nho gia mà hầu như không có xúc cảm nữ tính, không có phần

riêng tư cá thể. Khi Trọng Quỳ buộc phải theo cha đi xa, Nhị Khanh không ngần ngại

đặt chữ hiếu của chồng cao hơn tình cảm của mình, ngôn ngữ của nàng khi nói với

chồng giống như lời huấn đạo của Nho gia: “Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà

bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng

phiêu, bề trong thực đuổi vào chỗ tử trận. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam

chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán,

sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu

đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía

rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê” [60.17]. Trong câu nói

này, Nhị Khanh nhấn mạnh một cách tuyệt đối hoàn cảnh éo le và tội nghiệp của người

cha nhằm đánh thức đạo hiếu nơi Trọng Quỳ, đồng thời nhấn mạnh tâm nguyện bản

thân nàng sẵn sàng hy sinh hạnh phúc tuổi xuân để chồng làm tròn chữ hiếu. Giọng

điệu câu nói dứt khoát, quyết liệt, thể hiện một người phụ nữ có chí khí khảng khái,

nghiêng về lý trí hơn tình cảm, nỗi buồn của ngày chia biệt vợ - chồng bị lý trí đạo đức

làm cho mờ nhạt. Tương tự như vậy, khi nói với người bõ già, lời nói của Nhị Khanh

kiên quyết như một lời thề, thể hiện quan niệm coi trọng danh tiết đạo đức hơn sự sống:

“Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ Phùng lang hãy còn: nếu chàng không còn thì ta

đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người

khác…” [60.19]. Câu nói của Nhị Khanh không chỉ là lời tâm sự mà còn là lời nguyền

quyết kiên trinh đến cùng dẫu phải đổi bằng cái chết. Trong toàn câu chuyện, dù nói

với chồng, với con hay với người bõ già, ngôn ngữ của Nhị Khanh vẫn luôn là ngôn

ngữ đạo đức, ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của khuôn phép Nho gia. Lời của nàng giống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 http://www.lrc-tnu.edu.vn

lời chiếc loa phát ngôn cho tư tưởng đạo đức của Nho gia hơn là lời một người phụ nữ

41

nói lên nỗi lòng sâu kín của mình; riêng thơ từ nói về quan hệ ái ân riêng tư giữa vợ

chồng nàng lại là của Trọng Quỳ - của người đàn ông, do người đàn ông chủ động,

khác với những truyện về người phụ nữ phản diện, thơ từ nói về ái ân là cả nam giới và

nữ giới cùng xướng họa.

Ngôn ngữ của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng là ngôn

ngữ của diễn ngôn đạo đức, ngôn ngữ của lý trí. Khi Trương Sinh phải lên đường đi đánh

giặc, mục đích lời của Vũ Nương nói với chồng là nhằm động viên Trương Sinh, hứa

hẹn với Trương Sinh để chàng yên tâm lên đường. Vì vậy, nỗi sầu ly biệt và tâm trạng

buồn khổ của người vợ sắp rơi vào cảnh cô đơn, lẻ bóng không được tác giả chú ý diễn tả.

Ngôn ngữ của nàng lúc này mang tính chất ngôn ngữ của lời dặn dò, thề thốt, hứa hẹn và

kìm nén xúc cảm: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu,

trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”

[60.176]. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ thất tiết, Vũ Nương cũng dùng những lời nói rất

hợp lễ để giải thích với chồng. Để Trương Sinh thôi không ngờ vực, nàng đặc biệt nhấn

mạnh sự hy sinh đời sống hạnh phúc thân xác, tấm lòng sắt son vàng đá trong việc thủ

tiết với chồng, khẳng định đinh ninh việc nàng đã bỏ cả chuyện tô son điểm phấn, không

nghĩ đến cái đẹp bản thân nữa để tránh bị người đàn ông khác “quấy rối” trong thời gian

Trương Sinh đi vắng qua câu nói: “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp

chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một

tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có

sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong

chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp” [60.178]. Xét về giọng điệu, lời nói của Vũ

Nương thể hiện tư thế lệ thuộc vào Trương Sinh - người đàn ông và sự nhẫn nhục, chịu

đựng đến đáng thương của nàng trước người chồng gia trưởng này. Dù trong hoàn cảnh

bị người chồng ruồng bỏ, ngôn ngữ của Vũ Nương vẫn là thứ ngôn ngữ được trau chuốt,

chọn lọc, không có một lời nói nào vượt ra ngoài khuôn phép đạo đức, luôn luôn là ngôn

ngữ thể hiện sự phục tùng, nhu thuận: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có câu vui

nghi gia thất. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi châm gẫy, mây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 http://www.lrc-tnu.edu.vn

tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu

42

xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”

[60.179]. Ngay cả trong lời than trước bến Hoàng Giang, Vũ Nương cũng lấy các tiêu

chí đạo đức của Nho gia để đánh giá về đạo đức của mình. Ngôn ngữ của nàng là ngôn

ngữ được dùng để khẳng định nhân cách đạo đức: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm

hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin

ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm

ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa

chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng

những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ” [60.179]. Trong lời than này, Vũ Nương chỉ

xoay quanh một vấn đề duy nhất đó là vấn đề trinh tiết của người vợ chung thủy, một

lòng một dạ hướng về người chồng, bất kể là người chồng đối xử với mình như thế nào.

Lời thề thốt của nàng cũng nhằm hướng tới mục đích duy nhất là khẳng định trinh tiết.

Nếu vấn đề trinh tiết của người phụ nữ không bị nhìn nhận khắt khe nghiệt ngã, nếu

người đàn ông không gia trưởng cho mình độc quyền đánh giá tiết hạnh người phụ nữ,

nếu tiêu chí để đánh giá người phụ nữ không phải là trinh tiết… thì chắc chắn Vũ Nương

không cần phải uất ức thốt lên những lời như vậy, lời nói của nàng tất nhiên cũng không

phải đề cập đến vấn đề như vậy. Xét cho cùng, ngôn ngữ và tư tưởng của Vũ Nương

trong đoạn này nói riêng và toàn bộ câu chuyện nói chung vẫn có nguồn gốc từ tư tưởng

của đạo đức Nho gia nam quyền. Đứng từ điểm nhìn của người ngoài cuộc, tác giả đã lý

tưởng hóa phần lý trí của Vũ Nương, tổ chức ngôn ngữ của nàng theo điểm nhìn của nhà

Nho mà có thể vô tình bỏ qua những tâm tư thầm kín của nàng.

Tính chất lý trí, khảng khái và theo khuôn mẫu Nho gia cũng là đặc điểm ngôn

ngữ của Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương. Lời trong bài từ của người con gái này gửi

cho Phật Sinh tuy có gửi gắm nỗi nhớ nhung vì xa cách nhưng tất cả đều hướng tới giãi

bày lòng thủy chung như nhất và khuyên Phật Sinh đi lấy người khác:

Ước Liễu thị mong gì hảo hội

Gương Ngọc Tiêu đâu chắc tái sinh

Xin chàng trân trọng lấy mình,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Liệu kết nhân duyên chốn khác,

43

Đừng vì tình một buổi,

Để lỡ kế trăm năm…

Trước khi tuẫn tiết, ngôn ngữ của Lệ Nương cũng khảng khái, đầy lí trí chứ

không phải ngôn ngữ của một người con gái với những xúc cảm thường tình: “Bọn

chúng ta vóc mềm tựa liễu, mệnh bạc như vôi, nước vỡ nhà tan lưu ly đến đó. Nay nếu

lại theo họ sang qua cửa ải tức là đến nước non quê người. Chẳng thà chết rấp ở ngòi

lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang làm những cái cô hồn ở bên đất bắc” [60.204].

Ngay cả khi đã thành hồn ma, nói chuyện với Phật Sinh, lời của Lệ Nương

vẫn đoan trang khuôn phép, không hề nói đến vấn đề riêng tư. Cùng là thơ từ do

người phụ nữ làm nhưng nếu như thơ từ của những nhân vật nữ phản diện như Nhị

Khanh (Chuyện cây gạo), Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương (Chuyện kỳ ngộ ở

Trại Tây) đề cập đến vấn đề ân ái riêng tư, đến nỗi mong nhớ khi xa tình nhân thì

thơ từ của Lệ Nương chủ yếu lại đề cập đến vấn đề tiết trinh để giải thích, khẳng

định đức hạnh của nàng:

Thiếp vốn con nhà tầm thường,

Chàng quá rủ lòng yêu mến

Trướng gấm nọ duyên chưa đầm ấm,

Giá xuân kia phận đã mỏng manh.

Trước đã không vẹn tiết để theo chồng,

Sau lại nỡ cam tâm mà hàng giặc.

Gửi chiếc thân ở trong muôn chết,

Trải một ngày như thể ba thu.

Cảm lòng chàng từ xa tìm đến,

Buồn nỗi mình biết nói làm sao?

Dám tỏ niềm riêng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Kính mong soi xét.

44

Ngôn ngữ của nàng Dương Thị trong Chuyện đối tụng ở Long cung hay

nàng Ngô Chi Lan trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa cũng vẫn là thứ ngôn ngữ

mang tính chất nhu thuận, đoan trang, khuôn phép như đã nói. Ngôn ngữ của nàng

Dương Thị luôn mang mặc cảm về người phụ nữ đi ở với người đàn ông khác mà

không tuẫn tiết, diễn ngôn của nàng luôn xoay quanh vấn đề đạo đức: “… Bởi

không thể dìm châu đắm ngọc, nên đành cam dãi nguyệt dầu hoa. Áo xiêm đã lắm

tanh nhơ, thân thế tạm còn thoi thóp…” [60.72], “Người áo xanh kia là chồng thiếp,

còn người áo đỏ là kẻ thù. Độ trước không bị cái yêu ấy bắt cướp, trải đã ba năm trời

nay. Nếu không nhờ được sự soi tới của vầng thái dương, thì hồn tàn vóc nát sẽ phải

chịu nhơ nhuốc trọn đời, còn mong gì được ló mặt ra nữa” [60.72]. Còn trong Cuộc nói

chuyện thơ ở Kim Hoa, những từ ngữ phu nhân Ngô Chi Lan dùng luôn đài các, chính

thống, không hề phạm vào cấm kỵ. Thơ từ nàng làm cũng là thứ thơ từ “hợp với ý thái

của người đời xưa… lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý

thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa thì xa…” [60.216] khác hẳn với lời thơ có giọng “đong

đeo” mà những người phụ nữ vượt ngoài khuôn phép xướng họa.

Không chỉ theo khuôn phép đạo đức Nho gia, ngôn ngữ của các nhân vật nữ lý

tưởng còn thể hiện địa vị thấp kém, phụ thuộc so với người đàn ông. Điều này thể hiện

qua hàng loạt tổ hợp từ mang mặc cảm thấp hèn và giọng điệu cung phụng người đàn

ông của các nhân vật nữ như: “nương tựa vào chàng”, “thiếp chẳng dám mong”, “đâu có

sự mất nết hư thân”, “tiếng chịu nhuốc nhơ”, “bị chồng ruồng rẫy”, “còn mặt mũi nào về

thấy người chồng”, “đa tạ tình chàng”, “đa tạ ơn chàng”, “dám tỏ niềm riêng”, “dám xin trần

bạch”, “kính mong soi xét”, “thiếp dám đâu”, “thiếp dám xin”… Ở đây, người phụ nữ đã tự

mặc nhiên chịu ảnh hưởng của quan niệm coi người đàn ông là bề trên. Họ nhún nhường,

nhẫn nhịn, cam chịu địa vị bé mọn so với đàn ông ngay cả khi người chồng của họ là người

tồi tệ, gia trưởng, bảo thủ, không hề xứng đáng với họ, thậm chí gây ra cái chết của họ.

So sánh với ngôn ngữ của nhân vật nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn lục có thể

thấy: nếu như ngôn ngữ của nhân vật nữ chính diện lý tưởng là thứ ngôn ngữ chuẩn mực

của đạo đức Nho gia, tuân theo khuôn phép Nho gia và không có lời nào vượt ra ngoài lễ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 http://www.lrc-tnu.edu.vn

giáo thì ngôn ngữ nhân vật nữ phản diện lại là thứ ngôn ngữ rất phóng túng, táo bạo, phát

45

biểu những tư tưởng trái ngược tư tưởng khắt khe của Nho gia. Cách tổ chức ngôn ngữ

nhân vật cũng phần nào thể hiện quan niệm về người phụ nữ của người trần thuật. Ở đây,

ngôn ngữ của nhân vật nữ lý tưởng đã phát biểu đúng những giáo điều mà Nho gia mong

muốn, yêu cầu ở người phụ nữ.

2.3 Tâm lý

Tâm lý tình cảm vốn là một đặc trưng khá nổi bật ở nữ giới, là yếu tố quan

trọng tạo nên bản sắc nữ giới trong số các đặc điểm “trực giác, tình cảm, yếu đuối,

dễ xúc động, phụ thuộc, dễ bị tổn thương, dễ bảo/ngoan ngoãn, không cạnh tranh,

mềm yếu, nhân hậu và dễ bộc lộ tình cảm” [54.164]. Tuy nhiên, yếu tố này lại hầu

như không được chú ý miêu tả ở hình tượng những người phụ nữ trong Truyền kỳ

mạn lục, đặc biệt là người phụ nữ chính diện lý tưởng. Đáng lưu ý hơn, những yếu

tố tâm lý nếu được nói đến trong những câu chuyện này cũng phản ánh cái nhìn

nam quyền, thiên về tô đậm đức hạnh của người phụ nữ chứ không đề cập đến thế

giới xúc cảm, ý nghĩ riêng tư của họ.

Miêu tả cảnh chia ly, điều mà người trần thuật nhấn mạnh ở người phụ nữ

chính diện lý tưởng là tính chất lý trí, tâm lý sẵn sàng chịu đựng, không ngần ngại

hy sinh và nhất dạ mong người chồng sớm trở về - Thực chất đây là những nét tâm

lý của người vợ nhu thuận, hết mực hy sinh vì chồng.

Trong Chuyện người con gái Nam Xương, miêu tả cảnh Trương Sinh (lúc này

là người chinh phu) ra đi thực hiện nghĩa vụ đất nước, người trần thuật nói đến nỗi sầu

ly biệt của Vũ Nương qua những dòng thơ xúc động: “Gió tây nổi khôn đường hồng

tiện, xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, nghĩ thêm

lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài… Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, vì chàng thân thiếp lẻ loi một

bề…” [60.177]. Tuy nhiên, những dòng thơ này được dùng chủ yếu là để nhấn mạnh

đức hạnh thủy chung và tấm lòng tha thiết thương yêu chồng của Vũ Nương, tiếp thêm

sức mạnh để người chinh phu an tâm dứt áo ra đi. Điều được người trần thuật quan tâm

trong cuộc chia tay này không phải là những xúc cảm riêng tư mà là những nét tâm lý

cao quý của người phụ nữ lý tưởng theo tiêu chí Nho gia - tâm lý nhất dạ mong chồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 http://www.lrc-tnu.edu.vn

được bình yên trở về, chẳng cần ấn phong hầu, chẳng mong phú quý vinh hoa: “Lang

46

quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu, trở về quê cũ, chỉ xin

ngày về, mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…” [60.176].

Trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, miêu tả cảnh chia tay giữa

Nhị Khanh và Trọng Quỳ, nhà văn nhấn mạnh tâm lý sẵn sàng chịu đựng và không

ngần ngại chấp nhận hy sinh hạnh phúc tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Điều này

thể hiện rõ nhất trong câu nói của Nhị Khanh với chồng: “Thiếp dám đâu đem mối

khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng,

xin đừng thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê” [60.17]. Ở đây, người đọc tuyệt

nhiên không thấy tâm trạng luyến lưu, níu kéo, buồn rầu của Nhị Khanh được bộc

lộ, miêu tả; chỉ đọng lại trong những dòng này là sự kìm nén xúc cảm riêng tư, sự

hy sinh vô điều kiện của nàng cho chồng. Những yếu tố tâm lý này không phải là

những xúc cảm thường tình làm người ra đi quyến luyến, bịn rịn mà thực chất là

động lực để người đàn ông dứt áo lên đường không vương vấn, không bận lòng về

nỗi thê noa - những nét tâm lý này xét cho cùng vẫn được nhìn từ điểm nhìn của

nam giới, là những nét tâm lý thiên về thể hiện đức hạnh người phụ nữ.

So sánh với văn học chủ tình ở thế kỷ XVIII ta thấy, cũng trong hoàn cảnh ly biệt,

nếu người phụ nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục chỉ được chú ý miêu tả với những nét

tâm lý mang tính chất hy sinh cho nam giới thì ở các nhân vật như Thúy Kiều trong Truyện

Kiều của Nguyễn Du, người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn…

tâm lý tình cảm riêng tư đã được chú ý miêu tả rất rõ. Cảnh chia tay của vợ chồng người

chinh phụ được tái hiện trong 60 câu thơ, có đến gần một nửa trong đó là những dòng nói lên

tâm trạng luyến lưu, sầu muộn của người chinh phụ. Thay vì ca ngợi đức hạnh, tâm lý sẵn

sàng chịu đựng hy sinh của người phụ nữ, nhà thơ nhấn mạnh tâm trạng níu kéo, sầu tủi của

người chinh phụ và nói đến nỗi buồn, lưu luyến của cả chinh phu; điểm nhìn miêu tả ở

Chinh phụ ngâm là điểm nhìn của nữ giới, của người trong cuộc chứ không phải điểm nhìn

của người kể chuyện toàn tri như trong những truyện về người phụ nữ chính diện lý tưởng ở

Truyền kỳ mạn lục. Thậm chí, cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh trong Truyện

Kiều, dù chỉ là cuộc chia tay giữa những nhân tình nhân ngãi chốn lầu xanh nhưng tâm lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhân vật với những xúc cảm riêng tư vẫn được Nguyễn Du trân trọng miêu tả trong một

47

thiên phú biệt ly. Điều mà nhà thơ quan tâm ở cảnh chia tay này không phải là sự cương

quyết, kìm nén xúc cảm của người phụ nữ như ở Nhị Khanh và Vũ Nương trong Truyền kỳ

mạn lục mà là nỗi bịn rịn không nỡ lìa xa của đôi tình nhân đang đắm đuối trong vườn tình:

Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san.

Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Trông vời đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về trước bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Vầng trăng, ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

(Nguyễn Du - Truyện Kiều)

Bên cạnh việc nhấn mạnh nét tâm lý sẵn sàng chịu đựng, không ngần ngại

hy sinh và nhất dạ mong chồng sớm trở về, miêu tả cảnh những người phụ nữ chính

diện lý tưởng, tác giả Truyền kỳ mạn lục còn chú ý ở họ nét tâm lý vòi vọi mong

nhớ và đợi chờ người chồng. Để nhấn mạnh nét tâm lý đó, người trần thuật tạo nên

một số chi tiết xúc động, gợi người đọc hình dung người phụ nữ như những người

đàn bà vọng phu kiên trinh.

Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương vòi vọi chờ chồng quên đi

cả chuyện tô son điểm phấn, không nghĩ đến cái đẹp bản thân, chẳng đoái hoài những thú

vui xung quanh. Tâm lý của nàng là tâm lý ngưỡng vọng, lúc nào cũng đau đáu nhớ

mong, chung thủy, nhất nhất hướng về người chồng: “Thiếp vốn con nhà nghèo, được

vào cửa tía… Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng,

ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót” [60.17]. Đây cũng là nét tâm lý của Nhị Khanh

trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Dương Thị trong Chuyện đối tụng ở Long

cung và Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương.

Có thể thấy, nét tâm lý được chú ý miêu tả ở những người phụ nữ này là

những nét tâm lý thiên về lý trí và đức hạnh. Ở họ thiếu hay mờ nhạt những cảm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 http://www.lrc-tnu.edu.vn

xúc riêng tư, đặc biệt là những nét tâm lý nhớ nhung chứa đựng yếu tố thân xác.

48

Đây là điểm khác với nghệ thuật miêu tả tâm lý các nhân vật nữ trong tác phẩm

Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm hay Truyện Kiều. Chi tiết chiếc gối hay chiếu

chăn trong những tác phẩm vừa kể được dùng miêu tả tâm lý người phụ nữ xa

chồng có tính ẩn dụ rất rõ về khát vọng tình yêu ân ái của người phụ nữ. Quyền

được quan tâm đến đời sống thân xác, những thiệt thòi về hạnh phúc thân xác đã

làm nên cái mới trong tâm lý nhân vật nữ ở những tác phẩm văn học thế kỷ XVIII -

đầu XIX, khác với Truyền kỳ mạn lục.

Miêu tả tâm trạng mong nhớ, đau đáu đợi chồng của người vợ lính, tác giả

Chinh phụ ngâm khúc đưa vào thơ những nét tâm lý chứa đựng yếu tố thân xác qua

mô-típ giấc mộng gặp chồng:

Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng

Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn?

Bui còn hồn mộng được gần,

Đêm đêm thường tới Giang Tân tìm người

Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,

Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

Sum vầy mấy lúc tình cờ,

Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.

Giận thiếp thân lại không bằng mộng,

Được gần chàng bến Lũng thành Quan.

Khi mơ những tiếc khi tàn,

Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không.

(Đoàn Thị Điểm dịch - Chinh phụ ngâm khúc)

Nỗi nhớ của người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc về đức quân

vương cũng không gắn với những hình ảnh hay chi tiết thiên về thể hiện đức

hạnh mà gắn với dư vị ngọt ngào của hạnh phúc ái ân ngắn ngủi còn sót lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong ký ức của nàng:

49

Cái đêm hôm ấy đêm gì

Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.

Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ,

Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.

Cành xuân hoa chúm chím chào,

Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai,

Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,

Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh,

Mây mưa mấy giọt chung tình,

Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn.

(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

Chinh phu ra đi, hình ảnh đầu tiên khiến người chinh phụ trong Chinh phụ

ngâm khúc cảm thấy cô đơn khi trở về là hình ảnh “buồng cũ chiếu chăn” (tạc dạ

phòng) - không gian sinh hoạt hạnh phúc ái ân của vợ chồng nàng:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Đoái trông theo đã cách ngăn,

Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.

(Đoàn Thị Điểm dịch - Chinh phụ ngâm khúc)

Không gian sinh hoạt ái ân ấy cũng là điều gợi nên cho người cung nữ trong

Cung oán ngâm khúc nỗi nhớ da diết và tâm trạng tiếc nuối xót xa về những ngày

được quân vương sủng ái:

Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục

Chốn phòng không như giục mây mưa.

Giấc chiêm bao những đêm xưa,

Giọt mưa cửa hạn còn mơ đến rày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

50

Cùng với tâm trạng nhớ mong, tâm trạng lo lắng tuổi xuân qua đi, tâm lý lo sợ sắc đẹp

chóng tàn phai cũng là điều được các tác giả văn học thế kỷ XVIII chú ý miêu tả. Trong khi đó

ta tuyệt nhiên không thấy nét tâm trạng này ở Vũ Nương hay Nhị Khanh hay bất kỳ người phụ

nữ chính diện lý tưởng nào trong Truyền kỳ mạn lục. Thực ra đây là nét tâm lý thể hiện nữ tính

rất quen thuộc mà ta có thể gặp trong hình ảnh người cung nữ của Cung oán ngâm khúc cũng

như người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc hay ở nàng Kiều trong Truyện Kiều:

Đông quân sao khéo bất tình,

Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân

Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng,

Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn

Tình buồn cảnh lại vô duyên,

Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.

Huống chi cũng lạm phần son phấn,

Luống năm năm chực phận buồng không.

Khéo vô duyên bấy cửu trùng,

Son nào nhuộm được má hồng cho tươi.

(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước;

E đến khi đầu bạc mà thương.

Mặt hoa nọ gã Phan lang

Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng.

Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,

Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.

Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa,

Gái tơ mấy chốc sẩy ra nạ dòng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đoàn Thị Điểm dịch - Chinh phụ ngâm khúc)

51

Như vậy, có thể khẳng định, việc chỉ chú ý đến nét tâm lý thể hiện đức hạnh

ở người phụ nữ không chỉ do kỹ thuật tự sự mà thực sự còn xuất phát từ điểm nhìn

và quan niệm của người viết. Trong Truyền kỳ mạn lục, khi miêu tả về người phụ

nữ lý tưởng, nhà văn đã đứng từ điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn nam giới. Quan

niệm của ông về người phụ nữ lý tưởng về cơ bản vẫn là quan niệm của nhà Nho.

Điểm nhìn và quan niệm này đã chi phối nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật nữ,

khiến cho người phụ nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục thiếu đi đời sống nội tâm

đa dạng, phong phú mà thiên về duy lý, tỉnh táo, mực thước và thiếu những rung

động thầm kín riêng tư. Điều này đã được khắc phục ít nhiều trong kiểu người phụ

nữ phản diện song còn hạn chế.

2.4 Cách ứng xử, hành động

Các nhân vật nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục thường để lại ấn tượng

trong lòng độc giả không phải qua thế giới nội tâm phong phú hay ngôn ngữ táo bạo

hoặc sắc đẹp tuyệt thế mà chủ yếu qua cách ứng xử và hành động phi thường. Họ được

ngợi ca là “nghĩa phụ”, “trinh liệt”, “trinh thuần” là bởi vì họ đã có những hành động,

những cách ứng xử mà Nho gia và những người theo quan điểm nam quyền khuyến

khích, ngưỡng mộ. Những hành động, cách ứng xử thiên về thực hiện lý tưởng đạo đức

này đương nhiên khác với cách ứng xử và hành động thiên về đời sống thân xác, thiên

về thỏa mãn khao khát cá nhân của người phụ nữ bị xem là phản diện. Miêu tả những

người phụ nữ lý tưởng, tác giả hầu như cũng chỉ chú ý đến những ứng xử của họ

trong khuôn viên, phạm vi gia đình chứ không quan tâm đến phương diện đời sống

xã hội của họ. Tề gia nội trợ chính là không gian, là địa bàn sống, địa bàn hoạt động

của nhân vật nữ chính diện lý tưởng.

Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu được giới thiệu là

một người phụ nữ lý tưởng theo quan điểm đạo đức Nho gia - Người vợ được đánh

giá trong các mối quan hệ với gia đình nhà chồng, với cả họ hàng nhà chồng và tất

nhiên, trước hết là với chồng bằng những phẩm chất cung thuận, hòa mục. Nàng

không có hành động nào vì bản thân, cho cái tôi bản thân mà tất cả đều vì người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 http://www.lrc-tnu.edu.vn

khác: “Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với

52

họ hàng rất hòa mục và thờ chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ

hiền” [60.6]. Đặc biệt, với người chồng, cách ứng xử của nàng được nhấn mạnh với

đặc điểm là cách ứng xử của kẻ bề dưới, tuyệt đối cung phụng. Tác giả chỉ nói đến người

vợ hiền, bậc nội trợ hiền nhưng không hề nói đến người chồng hiền. Thậm chí, khi đặt Nhị

Khanh trong quan hệ đối tác với Trọng Quỳ, ta thấy Trọng Quỳ là một người chồng có

nhiều thói hư tật xấu, không xứng đáng với Nhị Khanh. Người đàn ông này ngay từ đầu đã

là một kẻ “chơi bời lêu lổng”, anh ta không chỉ trác táng mà còn táo tợn lương tâm gán vợ

cho kẻ khác vì thua bạc. Một người chồng tồi tệ như vậy nhưng người viết vẫn khen cách

ứng xử nhu thuận, kính thờ chồng của Nhị Khanh mà ít nói đến nỗi khổ, sự đau lòng của

nàng. Cách ứng xử của Nhị Khanh là cách ứng xử hy sinh một chiều, nhận tất cả thiệt thòi

về mình mà không có yêu cầu ngược lại từ phía người chồng.

Cha chồng phải đi xa đảm nhiệm việc công, Trọng Quỳ còn lưu luyến chưa nỡ

xa rời, Nhị Khanh đã kiểm soát xúc cảm, dùng lý trí để khuyên nhủ chồng theo cha làm

tròn chữ hiếu, còn mình sẵn sàng chịu cảnh “phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng”

mà không chút đau đớn, lo sợ, buồn rầu: “Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị

người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng

phiêu, bề trong thực đuổi vào chỗ tử trận. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam

chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm

hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem

mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng,

xin chàng đừng thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê” [60.17]. Miêu tả và nhấn

mạnh cách ứng xử này, nhà văn rõ ràng xuất phát từ quan niệm đạo đức của nhà Nho,

đề cao ý thức kiểm soát tình cảm, hy sinh đời sống bản năng ở người phụ nữ. Đó cũng

là nguyên tắc miêu tả thống nhất xuyên suốt trong hình tượng người nghĩa phụ này.

Khi Trọng Quỳ đi xa, Nhị Khanh không chỉ làm tròn đạo hiếu với mẹ chồng,

chăm sóc mẹ chồng và chôn cất bà đúng bổn phận dâu con mà còn thủy chung với chồng

ngay cả trong hoàn cảnh éo le nhất. Cách ứng xử của nàng là khắc kỷ để chờ đợi chồng.

Khi bị bà cô Lưu Thị dụ dỗ và sau đó bị ép uổng lấy người đàn ông khác, Nhị Khanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 http://www.lrc-tnu.edu.vn

khăng khăng giữ tiết, thậm chí còn nói với người bõ già sẽ tự tử nếu cần chứ quyết “không

53

mặc áo xiêm của chồng để làm đẹp với người khác”. Chi tiết bà cô nói với Nhị Khanh về

việc nàng nên đi lấy chồng khác chớ để hoài phí tuổi xuân được coi là một thử thách để

nhà văn làm nổi bật cách ứng xử hợp đạo đức Nho gia và tôn vinh lòng trinh liệt của nàng.

Lưu Thị nói: “Nhà nước từ ngày họ Nhuận Hồ tiếm vị, ngày tháng hoang chơi, triều chính

đổ nát, họa nạn sẽ xảy ra chỉ trong sớm tối; mà Phùng lang từ ngày ra đi, thấm thoắt đã 6

năm nay, tin tức không thông, mất còn chẳng rõ. Lỡ ra mà gặp lúc rồng tranh hổ chọi, phải

khi bướm dại ong cuồng. Tra Lợi mắc vào tay, Áp Nha không sẵn mặt, chỉ e Chương Đài

tơ liễu, trôi bay đi đến tận phương nào. Chi bằng bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe,

lấp những lời giăng gió cợt trêu, nương dưới bóng tùng quân cao cả. Tội gì mà bơ vơ trơ

trọi, sống cái đời sương phụ buồn tênh” [60.18]. Lời bà cô Lưu Thị thể hiện quan điểm

sống thực tiễn, tính đến quyền sống hạnh phúc của người phụ nữ trẻ tuổi. Nó gần gũi với

quan niệm dân gian, quan niệm của người hiện đại và dường như là một lời đối thoại gián

tiếp với quan niệm khắt khe của Nho gia về sự hy sinh tuổi xuân của những người liệt phụ.

Ta có thể thấy những lời nói này khá giống với lời khuyên của Trương phu nhân với Khưu

bà trong Người bán ngọc (tác phẩm của Lê Hoằng Mưu được viết đầu thế kỷ XX) khi

Khưu bà không chịu tái giá. Trong Người bán ngọc, Trương phu nhân nói: “Ta chỉ e hiền

nương cam phận cô phòng chiếc bóng cho đến khi mái tóc của hiền nương trở nên nửa

trắng nửa vàng rồi hiền nương chợt giấc vu san, xót phận lỡ làng, hiền nương mới hối ngộ,

ngó lại mình mà coi thì thấy xương mai xỏ mòn, ngày xuân đã lụng; hiền nương dầu có

than tiếc cho lắm, cũng không thể đổi đặng cái hoa cuối mùa, nhụy rữa, canh tàng, ong

bướm đâu màng tới nữa. Chừng ấy hiền nương dầu có ăn năn, thì cũng muộn rồi” [75.270].

Có thể thấy rằng, lời nói của Lưu Thị cũng như của Trương phu nhân thực ra đều là những

lời khuyên chí tình chí lý, đều thể hiện quan điểm sống thực tiễn, tính đến quyền sống hạnh

phúc của người phụ nữ trẻ tuổi. Tuy nhiên, nếu như lời khuyên của Trương phu nhân trong

Người bán ngọc được nhìn nhận bằng thái độ đồng tình của người kể chuyện thì lời

khuyên của Lưu Thị lại bị người kể chuyện nhìn nhận bằng thái độ không đồng tình. Nó

được coi là một tác động xấu để thử thách nhân cách của Nhị Khanh.

Ta cũng gặp những chi tiết mang tính chất thử thách ở nhiều câu chuyện về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhân vật đạo đức lý tưởng trong văn học trung đại. Chẳng hạn, để khẳng định và

54

nâng tầm đạo đức của Thiền sư Huyền Quang, tác giả Tam tổ thực lục đặt Huyền

Quang trước thử thách là sự cám dỗ sắc dục của cung phi Điểm Bích: Nếu thiền sư

vượt qua, nhân cách đạo đức của ông càng tỏa sáng, ngược lại Thiền Quang sẽ bị hạ

bệ và phê phán. Đây cũng là mô-típ quen thuộc trong kiểu truyện về người liệt nữ

trong văn học cũng như lịch sử. Trong Đại Nam thực lục, những liệt nữ được ngợi

ca về trinh tiết thường được đặt vào những thử thách bị ép đi bước nữa như trường

hợp của Nhị Khanh. Đứng trước thử thách kiểu này, mỗi liệt phụ đều có cách ứng

xử khắc kỷ để khẳng định lòng trinh liệt: Có người lấy dao rạch mặt để chứng minh

tiết hạnh “Trương Thị Vân, người huyện Chân Định, Nam Định, 23 tuổi, góa chồng

ở vậy nuôi con, trong làng có kẻ hào phú muốn ép lấy, Thị Vân lấy con dao rạch

mặt, nó bèn thôi” [74.T2.675]; Có người tự vẫn để giữ tiết “Vũ Thị Lự, người xã Hạ

Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, lấy người cùng làng là Phạm Huy Thái, đẻ

được hai con gái. Năm 19 tuổi, chồng chết, trong ba năm cư tang, mỗi bữa cơm đều

cúng và khấn, coi như chồng còn sống. Có người nhà giàu yêu nàng có nhan sắc,

muốn lấy làm vợ, nàng không chịu. Cha mẹ đẻ và cha mẹ chồng thương còn trẻ góa

chồng, lại chưa có con trai, nên định ép duyên. Hôm dẫn cưới, nàng bèn gieo mình

xuống sông để tự tử, may có người cứu được” [74.T4.1043]; Có người thì cắt tóc,

thề không đổi chí “Vũ Thị Phí người Châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn, 26 tuổi, sinh được

một con trai, vừa được ba tháng thì chống chết, đã mãn tang chồng, có người nối

cầu lấy làm vợ kế, cha mẹ cũng khuyên bảo, nhưng thị tự cắt tóc, thề không đổi chí,

ở góa ở nhà chồng, trên thờ bố mẹ chồng, dưới nuôi con đến trưởng thành, trước sau

toàn tiết, không ai nói vào đâu được” [74.T5.182]… Nếu so sánh cách ứng xử của

Nhị Khanh với cách ứng xử của những liệt phụ vừa nêu trên thì nét tương đồng

nhiều đáng kể. Phản ứng của Nhị Khanh trước thử thách này là: “nghe nói sợ hãi,

mất ngủ quên ăn đến hàng tháng” [60.18].

Cũng giống như Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Vũ

Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương được ca ngợi về phẩm chất đạo đức và

cách ứng xử hiếu thuận, khuôn phép. Nàng được giới thiệu là người “thùy mỵ, nết na”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 http://www.lrc-tnu.edu.vn

về nhà chồng “luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất

55

hòa” [60.170]. Khi mẹ chồng mất, nàng không chỉ thực hiện nghĩa vụ dâu con mà còn

thay chồng đảm nhiệm việc nhà, lo tang chay tế lễ cho mẹ chồng chu tất như với cha mẹ

mình: “Bà cụ xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu

việc như đối với cha mẹ sinh ra” [60.177]. Những phẩm chất đạo đức được nhấn mạnh ở

nàng cũng như ở Nhị Khanh là phẩm chất thuộc phạm trù “Tam tòng”, “Tứ đức” của

người phụ nữ lý tưởng theo quan điểm Nho gia, đều là những phẩm chất người đàn ông

mong đợi ở người phụ nữ.

Khi xa chồng, Vũ Nương không chỉ hiếu thảo với mẹ chồng mà còn thủy

chung như nhất với chồng. Cách ứng xử của nàng cũng là tu thân khắc kỷ. Để tôn

vinh cách ứng xử này, tác giả sử dụng mô-típ người phụ nữ nhớ chồng quên cả việc

điểm trang: “Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội

lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót” [60.178]. Ta cũng gặp mô-típ tương tự

trong Truyện người liệt nữ ở An ấp (Truyền kỳ tân phả). Người liệt nữ trong câu

chuyện này khi chồng đi vắng cũng không tô son điểm phấn, quên đi cả những thói

quen nữ tính giống hệt Vũ Nương khi xa Trương Sinh:

Chinh xa hà nhật “đại đao đầu”

Bất cảm ngưng trang thưởng thúy lâu.

(Xe của người chinh phu không biết đến ngày nào mới về,

Thiếp đây không dám trang điểm lên lầu biếc trông ngóng vì rằng e lại thêm buồn)

Ở một mức độ nhất định, lòng thủy chung son sắt với chồng, cách ứng xử

khắc kỷ để thể hiện tình yêu với chồng là một nét đẹp đáng trân trọng. Song, điều

đáng nói là ở đây nét đẹp đó đã bị người trần thuật tuyệt đối hóa, khiến cho bản

năng nữ tính của người phụ nữ vô tình trở nên mờ nhạt, bị coi thường.

Cách ứng xử hiếu thuận, khắc kỷ, phục tùng người chồng cũng thể hiện ở Vũ

Nương ngay cả trong trường hợp nàng bị chồng ruồng bỏ. Bị Trương Sinh nghi ngờ

thất tiết, Vũ Nương không cãi lại, chỉ lấy những lời lẽ thấu tình đạt lý, nhẹ nhàng

phân bua với chồng. Dù bị chồng mắng nhiếc, chửi rủa, nàng vẫn “thùy mỵ, nết na”.

Cách ứng xử của nàng cũng như của Nhị Khanh rõ ràng là cách ứng xử được xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 http://www.lrc-tnu.edu.vn

dựng theo tiêu chí Nho gia, được nhìn nhận và đánh giá theo quan điểm Nho gia.

56

Một cách ứng xử khác rất nổi bật ở người phụ nữ lý tưởng là cách ứng xử xem

nhẹ thân xác, sẵn sàng hy sinh thân thể để bảo vệ thân danh tiết. Cách ứng xử này là

nguồn gốc của hành động tự vẫn để chứng minh tiết hạnh ở các nhân vật như Nhị

Khanh, Vũ Nương và Lệ Nương trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện

người con gái Nam Xương và Chuyện Lệ Nương.

Bị chồng gán cho một người đàn ông khác vì thua bạc, Nhị Khanh trong Chuyện

người nghĩa phụ ở Khoái Châu không căm giận chồng, ngược lại còn quyết giữ gìn trinh

tiết, lòng thủy chung với người chồng bạc nghĩa bằng cách về nhà dặn dò đàn con rồi thắt

cổ tự tử: “Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng: - Bỏ nghèo theo giàu,

thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chàng mới không

nỡ rẻ bỏ, còn đoái thu đến cái dung nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng

hầu hạ như đã đối với chàng xưa vậy. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một

chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút. Đỗ cả mừng, rót đầy chén xà cừ rượu đưa

mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng: - Cha

con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó

khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi. Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà

chết” [60.23]. Cả Nhị Khanh cũng như người kể chuyện đều xem hành động tự tuẫn là một

tất yếu để bảo vệ tiết hạnh. Vì vậy, Nhị Khanh đến với cái chết rất chóng vánh. Người kể

chuyện tuy có thể cũng thương xót cho nàng nhưng về cơ bản, cảm hứng ngợi ca hành

động này vẫn rõ nét hơn thái độ thương xót.

Lấy cái chết để chứng minh đạo đức, thể hiện tinh thần “Sát thân thành

nhân, xả thân thủ nghĩa” như Nhị Khanh đã làm cũng là cách ứng xử của Vũ Nương

trong Chuyện người con gái Nam Xương và nàng Lệ Nương trong Chuyện Lệ

Nương. Lệ Nương khi lâm vào tình cảnh phải chạy sang sứ người đã quyết định tự

vẫn để thực hiện lý tưởng đạo đức. Còn Vũ Nương khi bị chồng nghi oan, không có

cách nào chứng minh được lòng trinh bạch cũng đã gieo mình xuống Hoàng Giang

tự vẫn, quyết định lấy cái chết để khẳng định trinh tiết của mình: “… Đoạn rồi nàng

tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng: - Kẻ bạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 http://www.lrc-tnu.edu.vn

mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu

57

nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết,

trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu

Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm,

trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói

xong gieo mình xuống sông mà chết” [60.179-180].

Có thể thấy hành động tuẫn tiết của những người phụ nữ lý tưởng thường được

xây dựng theo một mô-típ khá thống nhất. Trước khi chết, những người phụ nữ này

luôn có lời than thở, bộc lộ thái độ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, tiếp đó họ hành động

quyết liệt, dứt khoát để chứng minh phẩm hạnh. Những hành động của họ là những

hành động hướng tới lý tưởng đạo đức Nho gia - lý tưởng sẵn sàng chết khi cần thiết để

bảo vệ tiết hạnh, đặt các giá trị luân lý đạo đức cao hơn giá trị của thân xác.

Xét về nguồn gốc văn hóa có thể thấy, hiện tượng người phụ nữ không nề

hà hy sinh thân xác thịt để bảo vệ thân danh tiết trong Truyền kỳ mạn lục không

phải là hiện tượng cá biệt. Đây thực chất là một nét văn hóa khá nổi bật ở Việt Nam

hay nói chung là của toàn bộ vùng văn hóa phương Đông thời trung đại. Hàng trăm

câu chuyện về tấm gương liệt nữ dám tự tử để giữ gìn tiết hạnh trong Đại Nam thực

lục và nhiều tấm gương khác tồn tại rải rác trong các sử liệu đã chứng minh điều đó.

Nét văn hóa này trở thành một nhân tố chi phối sâu sắc đến việc xây dựng hình

tượng nhân vật nữ lý tưởng trong văn học. Sách Tang thương ngẫu lục có kể lại câu

chuyện về liệt phụ Đoàn phu nhân nhảy xuống sông chết theo chồng và được người

đời ngợi ca về đức hạnh như sau:

Đoàn phu nhân là vợ thứ của Du Lĩnh hầu Ngô phúc Du, người

làng Trảo Nha (Hà Tĩnh). Hầu là con nhà tướng, trong năm Cảnh Hưng,

quản đốc đội quân tiên phong. Tháng sáu năm Bính ngọ (1786), bị chết tại

trận. Bà vợ cả quy y cửa phật, Đoàn thị đẹp mà không có con, được Hầu

coi như vợ chính. Chưa bao lâu, phu nhân đem việc dặn dò người nhà của

Trình Hầu, rồi đến lập một đàn chay ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng chỗ tu

của bà vợ cả. Làm chay xong, phu nhân cùng bà vợ cả cùng lũ con của Hầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 http://www.lrc-tnu.edu.vn

ra đặt trước bài vị ở bến Thúy Ái, nơi hầu chết trận khi trước, ngoảnh về

58

phía nam chiêm hồn để tế, mọi người xa gần kéo nhau đến xem đông lắm.

Đoạn, phu nhân ăn mặc chải chuốt, son phấn điểm trang, bơi một chiếc

thuyền con ra giữa dòng, gieo mình xuống nước mà chết. Dân ở đây lập

miếu thờ [38.65-66].

Nam ông mộng lục cũng kể lại một câu chuyện tương tự về người đàn bà

sẵn sàng xem thường cái chết, dám hi sinh thân xác để thực hiện thuyết “tòng phu”:

Năm Đinh Hợi, niên hiệu Vĩnh Lạc, vào ngày đại quân bình định đất

Giao Chỉ, có một người đầu mục tên là Ngô Miễn nhảy xuống nước tự tử, vợ là

Nguyễn Thị ngửa mặt lên trời than rằng: “Chồng ta thờ chúa, một đời ăn lộc, từ

chỗ Trung quan được lên tham dự Chính phủ, nay vì nghĩa mà chết, thế là chết

đáng chỗ, còn oán hận gì. Nếu thiếp muốn sống há không còn nơi nào sao?

Nhưng cái nghĩa vợ chồng, cái ơn vua tôi ta không nỡ lòng phụ bạc. Thà chết

theo nhau vậy”. Nói đoạn, cũng nhảy xuống nước mà chết [71.702].

Người phụ nữ trong những tác phẩm kể trên và người phụ nữ lý tưởng trong

Truyền kỳ mạn lục rõ ràng có nhiều điểm tương đồng. Tất cả những người phụ nữ này

đều đã chọn cái chết như một giải pháp duy nhất vì danh dự và tình nghĩa. Đó là những

hành động mang lại lợi ích một chiều cho người đàn ông, hy sinh tất cả vì người đàn

ông. Những hành động đó suy cho cùng đều xuất phát từ quan niệm nghiệt ngã và khắt

khe với trinh tiết người phụ nữ của Nho giáo nam quyền - quan niệm coi người con gái

đi lấy chồng khác hay thất tiết là trái luân thường, xấu xa, tội lỗi… Như đã nói, chỉ thấy

thực tế có những liệt nữ chết vì chồng chứ ta không thấy những tấm gương đàn ông

chết vì thủy chung với vợ. Do đó, có thể nói những hy sinh của người phụ nữ là rất

đáng thương vì đó là sự hy sinh một chiều.

Đáng nói hơn nữa, những người phụ nữ trinh liệt này, ngay cả đến lúc chết đi -

thậm chí là chết do sự xấu xa của người đàn ông vẫn cứ giữ cách ứng xử nhu thuận với

người đàn ông: Nhị Khanh thắt cổ chết nhưng vẫn nghĩ đến ân tình, không hề oán trách

chồng, khi được gặp chồng, nàng còn tỏ ra nhún nhường, cảm tạ ơn huệ của Trọng Quỳ:

“Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội đến đây, biết lấy gì để tặng chàng được!” [60.26]; Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương khi gặp lại Trương Sinh cũng không

59

một lời trách móc người chồng nhẫn tâm, gia trưởng này mà còn cảm tạ chút hành

động nhỏ mọn của anh ta: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng

không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa” [60.183]. Rút

cuộc, Nhị Khanh và Vũ Nương là những người chịu nhiều thiệt thòi, hy sinh cả tấm

thân vàng ngọc cho chồng nhưng không hề thấy có chi tiết nào nói lên sự hy sinh

ngược lại của người chồng dành cho họ.

Nhận hết những hy sinh thiệt thòi về bản thân mình và ứng xử hành động theo khuôn

phép Nho gia là đặc điểm nổi bật xuyên suốt trong hình tượng các nhân vật nữ lý tưởng, không

chỉ ở Vũ Nương, Nhị Khanh, Lệ Nương mà còn ở phu nhân Ngô Chi Lan, Dương Thị.

Phu nhân Ngô Chi Lan trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa dù không có

hành động tuẫn tiết như những liệt phụ trên đây nhưng vẫn là người phụ nữ có cách

ứng xử hợp lễ, không vượt ngoài lễ giáo. Tuy nàng bị tỵ hiềm và mỉa mai qua một

số câu thơ ám chỉ quan hệ bất chính với Lê Thánh Tông nhưng câu chuyện không

hướng tới phê phán nàng mà thực chất là để giải oan cho nàng. Nàng được giới

thiệu là “bậc nội trợ hiền của tiên sinh họ Phù”. Trong cuộc nói chuyện với Lã

Đường Sái tiên sinh, nàng cũng luôn giữ lễ, cẩn trọng và thể hiện cách ứng xử của

một người phụ nữ đoan chính. Những bài thơ nàng làm luôn giữ vẻ đài các chính

thống, không phạm vào danh giáo, không nói đến vấn đề ân ái như thơ của các nhân

vật nữ bị coi là phản diện. Tất cả hành động và ứng xử của nàng vẫn đáp ứng những

tiêu chí Nho gia yêu cầu. Ngô Chi Lan chính là kiểu nhân vật chính diện lý tưởng

cần minh oan, thái độ của tác giả với nàng vẫn là ngưỡng mộ và ca ngợi.

Trong các nhân vật nữ lý tưởng, hành động và cách ứng xử của Dương Thị

trong Chuyện đối tụng ở Long cung có một số khác biệt. Nếu Lệ Nương, Vũ Nương, Nhị

Khanh khi lâm vào đường cùng đã liều mình tự vẫn để bảo vệ và chứng minh tiết hạnh

thì Dương Thị lại không ứng xử và hành động như vậy. Dương Thị bị Thần thuồng

luồng bắt bất ngờ trong đêm trăng trung thu. Bị bắt như vậy, nàng không tự vẫn để bảo

toàn tiết hạnh với chồng mà chấp nhận sống với kẻ thù, thậm chí còn được kẻ thù “gối

chăn yêu dấu, hơn hết các phòng” và sinh cho kẻ thù một cậu con trai. Cách ứng xử của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 http://www.lrc-tnu.edu.vn

người phụ nữ chính diện trong câu chuyện này đã có nhiều điểm linh hoạt hơn các nhân

60

vật nữ khác song cũng vẫn mang nhiều đặc điểm của cách ứng xử theo chuẩn mực đạo

đức Nho gia: Trở thành vợ của thần Thuồng luồng, được Thần thuồng luồng yêu chiều

hết mực, tuy không tự vẫn nhưng trái tim Dương Thị không bao giờ nguôi nhớ chồng cũ.

Trong bức thư gửi cho Trịnh thái thú, nàng vẫn khăng khăng tỏ bày nỗi oan uổng, khổ

đau của mình khi phải sống bên Thần thuồng luồng, gửi gắm đến Trịnh thái thú nỗi nhớ

mong, lòng thiết tha được trở về và cả nỗi tủi thẹn vì mặc cảm: “Non thề bể hẹn, chao ôi

việc trước lỡ làng, gió dập mưa dồn, ngán nỗi kiếp này lận đận. Nước non muôn dặm,

tâm sự mấy lời. Nghĩ như thiếp chút phận mỏng manh, tấm thân mềm yếu. Duyên đôi

lứa tự trời xe lại, ước trăm năm cùng huyệt dám sai. Nào ngờ biến dậy một đêm, đến nỗi

bình rơi đáy vực. Bởi không thể dìm châu đắm ngọc, nên đành cam dãi nguyệt dầu hoa.

Áo xiêm đã lắm tanh nhơ, thân thế tạm còn thoi thóp. Sầu đầy tựa hề, ngày dài như năm.

Nào hay giữa lúc bơ vơ, bỗng nhận được thư thăm hỏi. Ngắm cành thoa mà ứa lệ, nhìn

khách đến những đau lòng. Một bước lỗi lầm, riêng cỏ nội hoa hèn thắc mắc, ba sinh thề

ước, có trời cao đất cả trừng trị. Ngọc bích chưa lành, cân vàng xin chuộc” [60.71]. Sau

đó, để trở về với người chồng đã thề non hẹn biển, nàng buộc phải để lại đứa con đứt

ruột đẻ ra dưới thủy phủ. Cách ứng xử của nàng phần nào vẫn được miêu tả theo tiêu chí

người phụ nữ chính diện của Nho gia.

Qua phân tích có thể thấy, đặc điểm nổi bật trong cách ứng xử, hành động

của người phụ nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục là: Các hành động và cách ứng

xử này xét cho cùng đều là hành động và cách ứng xử hợp chuẩn mực đạo đức Nho

gia, hướng tới thực hiện lý tưởng đạo đức Nho gia. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào,

hành động và cách ứng xử của người phụ nữ lý tưởng vẫn luôn có lợi cho nam giới,

hy sinh vì nam giới, phục tùng nam giới mà không đòi hỏi sự hy sinh ngược lại.

2.5 Số phận

Mỗi nhân vật nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục tuy có nét riêng khác

nhau nhưng xét cho cùng, họ đều có số phận bi kịch, đều là nạn nhân của người đàn

ông và những thành kiến khắt khe do xã hội phụ quyền áp đặt. Tái hiện số phận của

họ, Nguyễn Dữ chưa thoát khỏi sự chi phối của tư tưởng nam quyền, nhưng đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 http://www.lrc-tnu.edu.vn

thời ông cũng có những điểm tiến bộ vượt trội so với các tác giả cùng thời.

61

Qua số phận người phụ nữ này, Nguyễn Dữ giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ

hơn về sự bất bình đẳng trong quan hệ giới của xã hội nam quyền: Ở đó, người phụ nữ

thường trở thành nạn nhân đáng thương của đàn ông, thường là người hy sinh tất cả cho

đàn ông, toàn tâm toàn ý với người đàn ông nhưng không nhận được sự hy sinh ngược lại.

Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu tuy có nhiều phẩm

chất tốt đẹp nhưng lại không được sống hạnh phúc yên bình. Nàng lấy phải người chồng

“chơi bời lêu lổng”, vô tâm và bạc bẽo. Cuộc đời nàng là chuỗi dài những bất hạnh và

kết thúc bằng bi kịch mà những bất hạnh và bi kịch đó đều do chồng nàng - người đàn

ông gây nên: Vì chồng, Nhị Khanh phải sống cô đơn lẻ bóng sáu năm đằng đẵng. Vì

chồng, nàng nhất dạ đợi chờ trong khi Trọng Quỳ chơi bời trác táng, phá hoại gia tư. Vì

chồng, nàng trở thành món hàng trao đổi cho một canh bạc. Và cuối cùng, cũng vì chồng,

nàng lâm vào bi kịch không lối thoát, đành xót xa thắt cổ tự vẫn, để lại bầy con thơ tội

nghiệp… Tất cả những hành động của người phụ nữ này đều vì Trọng Quỳ nhưng không

có một chi tiết nào trong truyện cho ta thấy sự hy sinh ngược lại của Trọng Quỳ cho nàng.

Số phận Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng không

hạnh phúc hơn Nhị Khanh. Trương Sinh - chồng Vũ Nương là một người đàn ông

không ra gì, không xứng đáng với Vũ Nương. Anh ta không chỉ “có tính hay ghen,

đối với vợ phòng ngừa thái quá” mà còn “không có học” và cực kỳ gia trưởng.

Nghe con trẻ nói những lời thơ dại, anh ta không hề tìm hiểu sự tình mà vội về nhà

quát tháo, chửi bới vợ: “Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói như vậy, tin chắc

đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được. Về đến nhà, mắng vợ một

bữa cho hả giận…” [60.178]. Cho mình độc quyền phán xét vợ, Trương Sinh ngang

nhiên thực hiện hành động bạo lực thân thể và bạo lực tinh thần với Vũ Nương, chà

đạp nhân phẩm và gây ra khổ đau tột cùng cho nàng: “Chàng vẫn không tin. Nhưng

nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường

mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho

nàng cũng chẳng ăn thua gì cả…” [60.178]. Tiêu chí duy nhất để người đàn ông này

đánh giá vợ cuối cùng chỉ xoay quanh một vấn đề đó là trinh tiết: “Chàng tuy giận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 http://www.lrc-tnu.edu.vn

là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương…” [60.180]. Cuối cùng,

62

vì đau khổ và bất lực, Vũ Nương đành nhảy xuống sông tự vẫn. Bi kịch của nàng

chính là hậu quả của tư tưởng nam quyền, của sự ích kỷ và thành kiến khắt khe của

người đàn ông về trinh tiết phụ nữ. Ở đây, người chồng, người đàn ông tự cho mình

quyền phán xét, đánh giá, yêu cầu về thủy chung, trinh tiết ở người vợ trong khi đó,

người vợ không có quyền yêu cầu, phán xét ngược lại về thủy chung, trinh tiết của

người chồng. Yêu cầu một chiều này nhiều khi đã đẩy người vợ đến chỗ chết một

cách bất công.

Nếu Nhị Khanh và Vũ Nương là nạn nhân của những quan niệm và thành kiến

khắt khe của người chồng thì Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương và Dương Thị trong

Chuyện đối tụng ở Long cung lại là nạn nhân của người đàn ông dâm dật. Trong Chuyện

đối tụng ở Long cung, Dương Thị và chồng nàng đang sống cuộc sống yên bình hạnh

phúc thì tai họa bất ngờ đổ ập xuống họ. Dương Thị bị Thần thuồng luồng bắt đi rồi buộc

phải trở thành vợ của tên thủy quái này. Tuy được yêu chiều hơn người nhưng không lúc

nào Dương Thị nguôi nhớ về Trịnh lang, tâm hồn nàng không lúc nào nguôi mặc cảm về

sự tanh nhơ của người phụ nữ sống với người đàn ông khác không phải chồng mình.

Cuối cùng, để được trở về với chồng, Dương Thị buộc vĩnh viễn để đứa con đứt ruột đẻ

ra nơi thủy phủ. Số phận của nàng dù sao vẫn là số phận đầy bi kịch. Cũng giống Dương

Thị, Lệ Nương yêu Phật Sinh đắm đuối, hai người từng có mối tình gắn bó thắm thiết.

Vậy mà, chưa kịp được thỏa nguyện duyên trời, Lệ Nương đã sớm bị bắt vào cung, nàng

rơi vào bi kịch không được sống với người mình yêu.

Phu nhân Ngô Chi Lan trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa tuy không

gặp phải những bất hạnh, bi kịch lớn như những người phụ nữ chính diện lý tưởng

khác nhưng lại là người phụ nữ bị dị nghị và nghi oan là có quan hệ bất chính với

Lê Thánh Tông. Nàng bị mỉa mai và giễu cợt bằng những câu thơ ác ý như:

Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận,

Ưng hoán Kim Hoa học sĩ lai.

(Quân vương nếu muốn khuây buồn nản,

Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hay:

63

Yến bãi long lâu thi lực quyện

Lục canh lưu đãi hiểu miên trì.

(Tiệc cạn lầu rồng sức thơ mỏi,

Canh dài giữ đợi giấc nằm trưa)

Ở đây, Kim Hoa học sĩ trở thành đối tượng đả kích của dư luận nhà Nho và

bị xem thường về nhân cách, trong khi đó người đàn ông (quân vương) lại vô can và

không hề bị cười cợt mai mỉa. Cách đánh giá này thể hiện thái độ thiên vị nam giới,

phản ánh bi kịch đáng thương, oan uổng của người phụ nữ trong xã hội nam quyền.

Tái hiện bi kịch của Kim Hoa học sĩ, của Nhị Khanh, Vũ Nương, Lệ Nương, Dương

Thị, tác giả Truyền kỳ mạn lục đã thấy được cuộc đời khổ đau bất hạnh của người

phụ nữ và cất lên tiếng nói cảm thông với họ. Đó là tấm lòng nhân đạo, là tinh thần

nữ quyền đáng đề cao và trân trọng ở Nguyễn Dữ. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng,

bên cạnh tinh thần nhân đạo không thể phủ nhận trên đây, khi tái hiện số phận

người phụ nữ chính diện lý tưởng, Nguyễn Dữ vẫn chịu sự chi phối của tư tưởng

nam quyền. Kết thúc khuyến thưởng của tất cả các câu chuyện này là một trong

những biểu hiện của sự chi phối đó.

Kiểu kết thúc quen thuộc trong các truyện về người phụ nữ lý tưởng trong

Truyền kỳ mạn lục là: nhân vật nữ được giải oan, được sống nơi tiên cảnh nhờ đạo đức lý

tưởng của mình. Đó là phần thưởng cho những người phụ nữ đã sống đúng bổn phận

“Tam tòng”, dám hy sinh thân thể để bảo vệ thân danh tiết: Nhị Khanh trong Chuyện

người nghĩa phụ ở Khoái Châu sau khi chết không bị tan xương nát thịt mà được nương

nhờ vào tòa đền thiêng, được giao coi giữ những văn sớ tấu đối của thế giới các vị thần; Vũ

Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương sau khi gieo mình xuống sông tự vẫn đã

được các vị tiên trong thủy cung cứu giúp và được sống trong thế giới thần tiên; Lệ Nương

trong Chuyện Lệ Nương nhờ hành động trinh liệt, khi chết đi được gặp lại Phật Sinh, được

chàng cải táng để siêu thoát; Ngô Chi Lan trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa nhờ cuộc

đời đoan chính và khuôn phép nên khi chết đi nàng tìm được người tri âm là Lã Đường Sái

tiên sinh để có cơ hội tỏ bày tâm sự, được minh oan. Còn Dương Thị trong Chuyện đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 http://www.lrc-tnu.edu.vn

tụng ở Long cung thì nhờ tình yêu tha thiết với chồng nên được giải oan, được trở về sống

64

với Trịnh lang. Dương Thị là nhân vật được đánh giá mềm dẻo nhất trong số các nhân vật

nữ lý tưởng của Truyền kỳ mạn lục.

Theo một số nhà nghiên cứu, việc Nguyễn Dữ sử dụng yếu tố kỳ ảo để xây

dựng kết truyện như trên là một cách để nhà văn đem lại công bằng cho người phụ

nữ, thể hiện tư tưởng nhân đạo. Song, cũng cần thấy rằng, dù ít hay nhiều, bên cạnh

tinh thần nhân đạo tích cực, nhà văn vẫn có quan niệm đề cao và ca ngợi người phụ

nữ hy sinh thân mình để chứng minh tiết hạnh. Thần thánh hóa họ tức là vô hình

trung nhà văn đã tuyên truyền cho đạo đức theo lập trường nam quyền Nho giáo -

người phụ nữ cứ sống, cứ hy sinh vì người chồng thì dù cho bị chồng bạc đãi, hắt

hủi, số phận sẽ được đền đáp ở thế giới bên kia.

So sánh có thể thấy, số phận nhân vật sau khi chết của những người phụ nữ

chính diện lý tưởng này hoàn toàn khác với số phận sau khi chết của người phụ nữ

phản diện. Nếu như người phụ nữ chính diện chết đi được biến thành tiên thì nhân vật

nữ phản diện bị trừng phạt, phải sống cảnh thân tàn ma dại: Nhị Khanh trong Chuyện

cây gạo bị đạo nhân trừng phạt, hồn phách tiêu tan; Đào Hồng Nương và Liễu Nhu

Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây thì trở thành thân cây xơ xác; Đào Hàn Than

trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị thì bị biến thành mấy giọt máu tươi rồi tan biến

không còn gì nữa; Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang thì bị trừng trị bằng

nhục hình của địa ngục… Kiểu kết truyện này rõ ràng mang tính chất giáo huấn, bảo vệ

người phụ nữ tuân theo khuôn phép Nho gia và nghiêm khắc răn đe những người phụ

nữ có sắc đẹp, dám sống với khát vọng giới tính, vượt ra ngoài lễ giáo. Qua đó cho thấy,

tác giả vẫn đứng trên quan điểm nam quyền để đánh giá người phụ nữ.

Tóm lại, khi tái hiện số phận người phụ nữ chính diện lý tưởng, Nguyễn Dữ

đã thể hiện tấm lòng cảm thông, thương xót cho người phụ nữ. Ông thấy được nỗi

đau và nỗi oan khiên của những người phụ nữ đáng thương này trong xã hội nam

quyền bất công. Tuy nhiên, do sự chi phối của quan niệm đạo đức thẩm mỹ thời đại,

ở một mức độ nhất định nhà văn chưa thoát khỏi điểm nhìn nam quyền khi tỏ thái

độ đồng tình và thần thánh hóa người đàn bà tuẫn tiết, ngợi khen một chiều người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 http://www.lrc-tnu.edu.vn

phụ nữ hy sinh tất cả vì đàn ông.

65

2.6 Những lời bình giá về ngƣời phụ nữ

Điểm nhìn nam quyền chính là nền tảng chi phối kỹ thuật tự sự, nội dung

hình tượng nhân vật và cũng là nhân tố quan trọng chi phối cách đánh giá về người

phụ nữ chính diện lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục. Dưới điểm nhìn này, người

phụ nữ chính diện lý tưởng luôn được nhìn nhận bằng thái độ ngợi ca dù qua lời

đánh giá của người kể chuyện, của nhân vật phụ hay của tác giả lời bình.

Người kể chuyện trong các truyện về người phụ nữ chính diện lý tưởng không

chỉ thể hiện thái độ đồng tình, ca ngợi, ngưỡng mộ người phụ nữ lý tưởng qua cách tổ

chức hành động, ứng xử, ngôn ngữ, số phận của họ mà còn thể hiện thái độ đó trực tiếp

qua lời văn trần thuật. Những câu văn giới thiệu về đức hạnh của người phụ nữ lý

tưởng luôn là những câu có giọng điệu khẳng định, ngợi ca rõ nét. Câu văn nói về

phẩm hạnh của Nhị Khanh khi ở nhà chồng trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái

Châu là một ví dụ: “Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau về nhà họ Phùng, khéo biết

cư xử với họ hàng rất hòa mục và thờ chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người

nội trợ hiền” [60.16]. Ta cũng tìm thấy những câu văn có giọng điệu tương tự trong

Chuyện người con gái Nam Xương: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương.

Người đã thùy mỵ, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương

Sinh mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính

hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng

để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa” [60.176]; hoặc trong Cuộc nói chuyện thơ ở

Kim Hoa: “Huyện Kim Hoa có người con gái họ Ngô tên Chi Lan, là bậc nội trợ hiền

của vị tiên sinh họ Phù. Nàng chữ tốt văn hay, nhất là thơ ca càng giỏi lắm” [60.209]…

Trong những câu văn này, người trần thuật thường dùng ngôn ngữ và giọng điệu khen

ngợi để giới thiệu về nhân vật. Ngôn ngữ và giọng điệu này khó có thể tìm thấy ở

những câu văn giới thiệu về người phụ nữ phản diện.

Lời đánh giá từ chính các nhân vật trong truyện cũng là một yếu tố góp phần thể

hiện thái độ đồng tình hay không đồng tình, ngợi ca hay phê phán người phụ nữ trong

Truyền kỳ mạn lục. Thực chất đây là hiện tượng di chuyển điểm nhìn trong nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 http://www.lrc-tnu.edu.vn

trần thuật. Hiện tượng này ở các truyện về người phụ nữ chính diện lý tưởng tuy không

66

phong phú bằng các truyện về người phụ nữ phản diện song vẫn có. Ta gặp hiện tượng

này trong những câu đánh giá nhân phẩm Vũ Nương của Phan Lang trong Chuyện người

con gái Nam Xương hay lời phán của Diêm Vương về Dương Thị trong Chuyện đối tụng

ở Long cung hoặc lời đánh giá của bà già qua đường về tiết hạnh Lệ Nương trong

Chuyện Lệ Nương… Những lời đánh giá này đều có điểm chung là chỉ chú ý đến tiết

nghĩa của người phụ nữ mà không quan tâm đến đời sống riêng tư của họ (Ví dụ: Phan

Lang trong Chuyện người con gái Nam Xương thì đánh giá Vũ Nương “nghĩa khác Tào

Nga, hồn không Tinh Vệ”; bà già trong Chuyện Lệ Nương thì đánh giá Lệ Nương là tấm

gương “trinh thuần cương liệt”…). Quan điểm đánh giá của các nhân vật này cũng thống

nhất với quan điểm đánh giá của tác giả lời bình.

Có thể khẳng định, cho đến nay, vấn đề xác định tác giả của lời bình cuối

mỗi truyện trong Truyền kỳ mạn lục thực sự vẫn là một vấn đề còn nhiều tồn nghi.

Chúng tôi không đi sâu vào cuộc tranh luận vốn đã rất phức tạp này mà chỉ có ý coi

lời bình cuối mỗi truyện như một yếu tố nghệ thuật độc đáo không thể tách rời của

Truyền kỳ mạn lục, từ đó việc nghiên cứu người phụ nữ trong tập tác phẩm này

cũng không thể bỏ qua lời bình. Theo chúng tôi, người viết lời bình (dù là Nguyễn

Dữ hay người khác) vẫn đứng ở điểm nhìn và lập trường nam quyền phong kiến để

nhìn nhận, đánh giá nhân vật nữ. Vì vậy, nhân vật nữ nào thỏa mãn các tiêu chí Nho

gia yêu cầu, phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức văn hóa nam quyền thì được ca ngợi,

ngược lại sẽ bị coi là xấu xa, phản diện. Những lời bình này tuy có một vài ý phê

phán người đàn ông nhưng cuối cùng vẫn nhằm hướng tới bảo vệ trật tự nam quyền.

Lời bình trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu tuy có hình thức là chê

Nhị Khanh không theo đạo “Tam tòng” nhưng lại khen ngợi nàng đã dám tự vẫn để giữ

trinh tiết, chết cái chết hợp nghĩa. Vì thế, tuy chê mà lại thành khen và tuy khen mà lại

thật bất công với người phụ nữ. Bởi vì, xét đến cùng tác giả lời bình vẫn hướng tới mục

đích khuyến khích người phụ nữ tuẫn tiết theo chồng, thực hiện đạo “Tam tòng”, hy sinh

cho chồng và không đòi hỏi ngược lại. Cái nghĩa mà tác giả ngợi khen ở Nhị Khanh

không có gì khác là tinh thần dám lấy cái chết để chứng minh tiết hạnh, cái đạo mà tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 http://www.lrc-tnu.edu.vn

giả lời bình khuyến khích ở đây cũng vẫn là đạo “Tam tòng”: “Than ôi, người con gái có

67

ba đạo theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả đã theo chồng không?

Thưa rằng không. Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục. Chết hợp

với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là theo chồng đó” [60.27]. Ngay cả

lời trách Trọng Quỳ nặng nề cũng là lời trách xuất phát từ quan điểm bảo vệ cho trật tự

nam quyền gia trưởng, chứ không xuất phát từ quan điểm bảo vệ và lên tiếng cho quyền

lợi người phụ nữ: “Có người vợ như thế mà để cho phải hàm oan một cách ai oán, Trọng

Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà, phải trước tự sửa mình lấy chính, khiến

cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời đất” [60.27].

Tương tự như vậy, lời bình trong Chuyện người con gái Nam Xương tuy phê

phán thói đa nghi của Trương Sinh nhưng lại có ý bảo vệ người đàn ông này bằng việc dẫn

ra nhiều tích truyện liên quan đến thói đa nghi của người đời: “Than ôi! Những việc từa

tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc. Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại hiền

cũng phải phân vân, mất búa đổ ngờ tuy con người láng giềng cũng khó chối cãi, ý dĩ đầy

xe, Quang Võ đổ ngờ lão tướng, trói lại mà giết, Tào Tháo đến phụ ân nhân, việc Thị Thiết

cũng tương tự như vậy” [60.183-184]. Đáng nói hơn, mục đích cuối cùng của lời bình vẫn

là nhằm hướng tới ngợi ca “nết trinh thuần” của Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ nói

chung- một phẩm chất có lợi một chiều cho nam giới: “Nếu không được trời xét tâm thành,

nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc đã trôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn

đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch ra hết” [60.184]. Ở

đây, tác giả lời bình rõ ràng đứng trên quan điểm đạo đức Nho gia để đánh giá Vũ Thị

Thiết, dù có khen cũng là khen theo tiêu chí Nho gia. Ta có thể thấy sự thống nhất trong

quan điểm của tác giả lời bình này với quan điểm của vua Lê Thánh Tông cũng như một

số nhà Nho khác khi đánh giá về hành động tuẫn tiết của Vũ Nương.

Lê Thánh Tông khi đi qua đền thờ Vũ Thị đã làm hai bài thơ thể hiện niềm

xót thương người phụ nữ bất hạnh này, cảm kích tinh thần trinh liệt của nàng. Cả

hai bài thơ của Lê Thánh Tông (Hoàng Giang điếu Vũ Nương và Lại bài viếng Vũ

Thị) đều phản ánh cái nhìn nam quyền về người phụ nữ. Thơ tuy có trách người

chồng song chủ yếu vẫn là nhằm mục đích tôn vinh lòng kiên trinh của người phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nữ, thể hiện thái độ tôn sùng người phụ nữ tuẫn tiết:

68

I. Ngàn lau san sát cỏ xanh xanh,

Sảy nhớ ngày xưa kẻ tiết trinh.

Cách trở bấy lâu hằng giữ phận,

Hiềm nghi một phút bỗng vô tình.

Hay lòng phó mặc vầng cao thẳm,

Lẻ bóng tìm nơi chốn vẳng thanh.

Dầu nhẫn ai ai qua đến đấy,

Thương nàng hòa lại trách Trương Sinh.

(Lê Thánh Tông - Hoàng Giang điếu Vũ Nương)

II. Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,

Cung nước chi cho lụy đến nàng.

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,

Giải oan chăng lọ mấy đàn tràng.

Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,

Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.

(Lê Thánh Tông - Lại bài viếng Vũ Thị)

Viết về Vũ Nương, nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng có bài Đề Vũ Thị từ. Bài

thơ bảo vệ Vũ Thị Thiết, không đồng tình với việc xây miếu thờ nàng (Bởi lẽ, thực

chất mục đích của việc xây miếu chính là tôn vinh, ca ngợi, đồng thời khuyến khích

người khác noi gương. Việc làm này chúng tỏ người ta quan tâm khía cạnh đạo đức

của hành vi tự tử hơn là số phận cay đắng của người phụ nữ). Nguyễn Khuyến có vẻ

nhân bản khi không tán thành việc xây miếu nhưng về cơ bản ông vẫn đứng từ quan

điểm nam quyền để nận xét Vũ Nương. Tiêu chí để nhà thơ ngợi ca Vũ Nương cuối

cùng vẫn là nết đoan trinh, là hành động tuẫn tiết của nàng:

Cách biệt ba năm một chữ trinh

Nỗi riêng thương nhớ có thần minh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chồng ngu tin vội lời đồn nhảm,

69

Cha giả gây thêm chuyện chẳng lành.

Tiếng sóng hôm nay còn giận dữ,

Bóng đèn năm ấy quá vô tình.

Giải oan, xây miếu làm chi nhỉ ?!

Thơ viết vì ai tỏ bất bình.

(Nguyễn Khuyến - Đề Vũ Thị từ )

Nguyễn Công Trứ - một nhà Nho tài tử có nhiều tư tưởng tiến bộ thì lại xét

nét Vũ Nương với những lời thơ khá bảo thủ và gia trưởng. Ông không chỉ không

đồng tình với “cái lý” của Vũ Nương, với hành động không theo gương nữ tắc của

nàng mà còn bênh vực “thủ phạm” Trương Sinh một cách trực diện “Tiếng phũ

phàng chi nỡ trách đàn ông”:

Đọc đến truyện Nam Xương liệt nữ,

Dẫu tình ngay, song lý cũng gian.

Thực cùng chồng chi nỡ dối cùng con,

Gương nữ tắc trông vào chưa phải lẽ.

Đã có ngọn đèn chơi với trẻ,

Thời chi chiếc bóng gọi là chồng!

Tiếng phũ phàng chi nỡ trách đàn ông,

Trong mờ tối đèn ai nấy rạng.

Bước chân ra chưa hề trông bóng thoảng.

Bến Hoàng Giang ai khéo hẹn hò cùng,

Mình gieo xuống chốn Long cung,

Ngàn năm dầu đục dầu trong khôn bàn.

Dẫu tình ngay song lý cũng là gian.

(Nguyễn Công Trứ - Vịnh Nam Xương liệt nữ)

Một bài thơ khác ca ngợi Vũ Nương được khắc bằng gỗ trang trí trong đền thờ Vũ

Thị, chưa rõ tác giả nhưng cũng là một minh chứng tiêu biểu cho cách “đọc” hình tượng

nhân vật này theo tinh thần Tống Nho - khá thống nhất với cách bình giá nhân vật Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nương trong lời bình cuối truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Truyền kỳ mạn lục:

70

Bạch nhật thi đề phân tạo hóa

Hồng nhan tình tự phó cao thâm.

Hoàng giang chính khí tồn thiên địa,

Cố quận anh phong xuyến cổ kim

(Ngự đề Vũ thị nương từ)

(Bài thơ này viết giữa thanh thiên bạch nhật để làm rõ lẽ tạo hóa

Tấm lòng sâu kín của người hồng nhan đều phó mặc cho trời đất

Chí khí của người phụ nữ trên dòng Hoàng giang trường tồn cùng trời đất

Đạo đức tốt đẹp của bà sẽ mãi còn với thời gian)

Tuy lời bình theo sau truyện Chuyện người con gái Nam Xương và những

lời thơ vịnh, điếu viếng Vũ Nương được ra đời trong những mốc thời gian không

giống nhau nhưng có một điểm chung không thể phủ nhận là tác giả của những lời

bình, lời thơ này đều đứng từ điểm nhìn nam quyền để nhận xét Vũ Nương, đều

nhằm ngợi khen tiết trinh của nàng, ngợi ca và thần thánh hóa hành động tuẫn tiết

của nàng. Thái độ thương xót, cảm thông cho thân phận cay đắng của Vũ Nương dù

có nhưng nó hầu như không phải là vấn đề hàng đầu được đặt ra trong lời bình cũng

như trong các bài thơ đã nêu trên đây.

Lời bình Chuyện Lệ Nương tuy không nhắc đến người phụ nữ nhưng thực chất lại thể

hiện quan điểm giới bảo thủ bất công, thể hiện thái độ không trân trọng người phụ nữ. Hình

thức là phê phán người đàn ông nhưng nội dung lời bình rõ ràng lại thiên về giáo huấn, định

hướng đạo đức cho nam giới, bảo vệ trật tự nam quyền : “Than ôi, điều tín ước gần với lẽ phải

thì lời nói tất nên giữ đúng, nếu đối với lẽ phải mà chưa được ổn thì sự giữ đúng không cần.

Như chàng họ Lý kia, vì mối ân tình, giữ bền ước cũ, lưu ly hoạn nạn, vẫn chẳng quên lời thì

thật đáng thương, mà lẽ phải thì chưa được ổn. Bởi sao? Cảm tình mà đi tìm thì nên, liều chết

mà đi tìm thì không nên, huống lại thôi không lấy vợ, để đứt dòng giống của tiền nhân phỏng

có nên không? Cho nên người quân tử phải biết tòng quyền chứ không nên chấp nhất. Giữ

điều nhỏ để mất điều lớn, chẳng là gã Lý Sinh này ư?” [60.208].

Không chỉ nhằm mục đích đánh giá nhân vật, việc đưa ra lời bình cuối mỗi truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 http://www.lrc-tnu.edu.vn

còn nhằm mục đích định hướng tư tưởng đạo đức cho người đọc. Đây chính là đặc điểm

71

quen thuộc không chỉ trong Truyền kỳ mạn lục mà còn là đặc điểm của nhiều tác phẩm viết

về người phụ nữ trong văn học trung đại như Truyện liệt phụ Đoàn phu nhân trong Tang

thương ngẫu lục, Truyện phu thê tử tiết trong Nam ông mộng lục, Truyện bà phu nhân trinh

liệt Mỵ Ê trong Lĩnh Nam chích quái… Điểm chung trong tất cả những lời bình này là nhằm

định hướng cho người phụ nữ hy sinh thân xác bản năng để giữ gìn trinh tiết.

Tóm lại, thái độ đánh giá người nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục được thể

hiện phong phú qua việc di chuyển điểm nhìn cũng như qua lời bình cuối mỗi truyện.

Thống nhất ở những lời đánh giá này đều là thái độ ngợi ca, bảo vệ người phụ nữ làm

theo lễ giáo, đáp ứng các tiêu chuẩn người phụ nữ “Tam tòng, “Tứ đức”, hy sinh tất cả vì

người đàn ông và khắc kỷ với bản thân. Tuy chưa thể khẳng định dứt khoát vấn đề tác

giả lời bình nhưng từ quan điểm giới chúng tôi có thể khẳng định, dù tác giả lời bình là ai

thì người đó vẫn đứng ở điểm nhìn nam quyền để bình giá người phụ nữ. Vì vậy, lời bình

thường hướng tới mục đích khẳng định đức hạnh của người phụ nữ, định hướng những

hành động và phẩm hạnh tương tự cho nữ giới. Lời bình dù có phê phán người đàn ông

nhưng không nhằm hạ thấp mà thiên về giáo huấn họ để bảo vệ trật tự nam quyền.

Tiểu kết

Qua phân tích người phụ nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục có thể thấy, những

người phụ này thường là những người hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông, là nạn nhân

của người đàn ông và trở thành cái bóng của đàn ông mà không có đời sống riêng tư cá thể.

Miêu tả những người phụ nữ này, nhà văn không nhấn mạnh ngoại hình, không quan tâm đến

những nét tâm lý có chứa đựng cảm xúc riêng tư và yếu tố bản năng của họ mà quan tâm và

chú trọng ca ngợi ngôn hành phẩm hạnh đáp ứng tiêu chí về người phụ nữ lý tưởng của Nho

gia. Từ điểm nhìn nam quyền, nhà văn đôi khi đã đạo đức hóa, thần thánh hóa nhân vật, làm

mờ yếu tố giới ở người phụ nữ. Vì vậy, kiểu nhân vật nữ này thường chỉ được hiện lên với

phẩm chất nhu thuận, cung phụng, hy sinh hết mình vì người đàn ông và khắc kỷ với bản thân.

Nhà văn do quán tính nghệ thuật của thời đại vẫn chưa thể thoát khỏi hạn chế đó. Tuy nhiên,

cũng không thể phủ nhận rằng, khi xây dựng các nhân vật này, Nguyễn Dữ đã cảm nhận được

bi kịch đáng thương của người phụ nữ, cảm thông cho thân phận của họ. Đó là tinh thần nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 http://www.lrc-tnu.edu.vn

đạo và nét nữ quyền đáng chú ý và trân trọng của Nguyễn Dữ.

72

CHƢƠNG 3

NGƢỜI PHỤ NỮ PHẢN DIỆN TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

Như chúng tôi đã giới thuyết ở đầu chương 2, việc chia người phụ nữ trong

Truyền kỳ mạn lục thành hai kiểu thực ra xuất phát từ quan điểm về nữ giới ở Việt

Nam thời trung đại, đặc biệt là từ những tiêu chí do Nho gia đặt ra cho người phụ

nữ. Vì vậy, thuật ngữ “người phụ nữ phản diện” cần phải được hiểu theo nghĩa

tương đối, gắn liền với quan điểm về nữ giới trong bối cảnh văn hóa nhất định.

Quan điểm này đã chi phối sâu sắc điểm nhìn trần thuật, cách miêu tả ngoại hình,

hành vi, ngôn ngữ, tâm lý, số phận của những người phụ nữ ngôn hành vượt ngoài

khuôn phép Nho gia cũng như chi phối cách nhìn, cách đánh giá về họ. Phân tích và

cắt nghĩa những nội dung này chính là nhiệm vụ của chương 3.

3.1 Ngoại hình

Nếu như ở những người phụ nữ chính diện lý tưởng vẻ đẹp ngoại hình hầu

như chỉ được nhắc đến mờ nhạt và luôn được tả kèm vẻ đẹp đạo đức thì ở nhân vật

nữ phản diện, vẻ đẹp ngoại hình lại luôn được người trần thuật nhấn mạnh. Tuy

nhiên, vẻ đẹp đó không được miêu tả với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ mà lại được

dùng như một yếu tố để tô đậm kiểu nhân vật biểu tượng cho sự cám dỗ sắc dục,

nguy hiểm. Những người phụ nữ có ngoại hình gợi cảm hấp dẫn này không bao giờ

thuộc về thế giới của con người luân lý như người phụ nữ chính diện lý tưởng. Họ

là con người của thế giới ma quái, đáng sợ, những bậc chính nhân quân tử tu dưỡng

đạo đức thánh hiền nên né tránh vì vẻ đẹp có sức cám dỗ ma quái này sẽ làm tiêu

ma ý chí và sự nghiệp của họ. Hướng suy nghĩ trên đây đã chi phối đến nghệ thuật

xây dựng hình tượng nữ nhân vật có vẻ đẹp đầy chất nữ tính.

Trong Chuyện cây gạo, vẻ đẹp tuyệt sắc của nàng Nhị Khanh được tác giả

nhấn mạnh và nhắc lại hai lần ngay ở đầu truyện: “Trình Trung Ngộ là một chàng

đẹp trai ở đất Bắc Hà. Nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng Nam buôn bán. Chàng

thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang. Dọc đường,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 http://www.lrc-tnu.edu.vn

hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ

73

theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc” [60.28]. Ở đây, vẻ

đẹp của Nhị Khanh không được coi là yếu tố tô thêm vẻ đẹp đạo đức lý tưởng mà

được coi như một biểu hiện của sự cám dỗ, mê hoặc. Vì thế, nếu như điều đầu tiên

khiến người đàn ông và gia đình người đàn ông chú ý và yêu mến những nhân vật

nữ lý tưởng là đức hạnh thì điều đầu tiên làm Trung Ngộ đắm đuối Nhị Khanh lại là

sức hấp dẫn của vẻ đẹp tuyệt sắc và tiếp đó là sự quyến rũ của thân thể gợi cảm

“Đầu cài én ngọc hình nghiêng chếch/ Lưng thắt ve vàng dáng ỏe oai” [60.31].Con

mắt quan sát của nhân vật Trung Ngộ, của người kể chuyện đều chú mục vào những

vẻ đẹp của thân thể người con gái như vậy là đã rõ ràng. Với các nhân vật nữ chính

diện, con mắt quan sát không hướng đến các yếu tố như vậy.

Hai cô gái trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây cũng để lại ấn tượng mạnh trong

lòng độc giả với sắc đẹp tột bậc qua lời nhận xét của Hà Nhân: “Vẻ kiều diễm của

em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng đáng với một câu thơ cổ: “Mỹ nhân nhan sắc

đẹp như hoa”” [60.52]. Cùng với sắc đẹp đó hai cô gái còn xuất hiện với những cử

chỉ rất đa tình và quyến rũ. Vẻ đẹp tột bậc và vẻ đa tình quyến rũ này đã khiến cho

Hà Nhân siêu lòng, chàng dù có lòng sắt đá cũng không mần ngơ được và cuối cùng

cũng bị mê hoặc: “Lâu lâu như thế, sinh không mần ngơ được, một hôm mới dừng

lại trò chuyện lân la” [60.48].

Trong Chuyện nàng Túy Tiêu, ngoại hình Túy Tiêu được nhấn mạnh trực

tiếp qua lời giới thiệu của người trần thuật: “Trong bọn con hát có ả Túy Tiêu là

người rất xinh đẹp” [60.153]. Cũng chính vẻ đẹp này mới là yếu tố đầu tiên làm Dư

Nhuận Chi say mê nàng ngay từ lần gặp đầu tiên chứ không phải đức hạnh của nàng.

Tuy nhiên, vẻ đẹp đó ngay từ đầu đã không được gắn với những dấu hiệu tốt đẹp,

những tiêu chuẩn đạo đức hợp thức mà gắn với sự phong lưu và đa tình. Vì thế, sắc

đẹp của Tuý Tiêu không đem lại điều gì tốt đẹp, thậm chí còn là nguyên nhân gây ra

bất hạnh cho chồng nàng trong suốt cuộc đời.

Đào Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị xuất hiện với chân dung

một người phụ nữ có ngoại hình lộng lẫy qua lời nhận xét của sư cụ Pháp Vân và cậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 http://www.lrc-tnu.edu.vn

học trò. Tuy nhiên, dưới con mắt của cả hai người này, vẻ đẹp của nàng đều gắn với sự

74

lẳng lơ, cám dỗ sắc dục, khiến người khác e sợ hoặc xem thường. Sư cụ Pháp Vân nói

đến sắc đẹp của Hàn Than trong câu văn huấn đạo, nhắc nhở sư Vô Kỷ, cảnh báo rằng

sắc đẹp nàng sẽ là nguyên nhân làm vấy bẩn lòng thiền, mờ bóng tâm sáng của Vô Kỷ:

“Người con gái này… tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá,

sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng

nguyệt. Vậy người nên từ chối, đừng để hối hận về sau” [60.79]. Còn trong mắt cậu học

trò, ngoại hình nữ tính của Hàn Than lại tượng trưng cho sự lẳng lơ, đáng khinh, đáng

mai mỉa. Giọng nói, mái tóc, cách đi đứng, trang phục, thân thể… của nàng dưới mắt cậu

học trò này đều lộ vẻ cám dỗ, trần tục:

Kính nghĩ am chủ có ở núi Phật tích là Đào thị:

Sổ ca nhạc rút tên ra khỏi.

Cửa Phạm Vương núp bóng tìm vào.

Miệng đào lưng liễu, uốn lưỡi vừa véo von mấy khúc Dương Châu.

Nhật sáng mây lành, nghển đầu đã nương tựa dưới trời Đâu xuất

Quần ném dòng Tương lớp lớp

Tóc rơi mây Sở từng từng

Trong mơ xúc cảnh bâng khuâng, du tiên nửa gối

Trước gió ghẹo người giéo giắt, đoản địch vài xoang.

Phòng tăng vắng vẻ khác phòng ca

Áo đạo nhẹ nhàng hơn áo múa

Khe Tào múc nước, chợt ngờ mặt phấn trong gương

Lá bối tụng kinh, còn thoảng âm vang trước nóc!

Mùi thiền dẫu bén,

Lòng tục chưa phai…

Sau này, quả thực sắc đẹp và sức hấp dẫn của Hàn Than đã làm lay động lòng

dục của sư Vô Kỷ, khiến Vô Kỷ trễ nải kinh kệ và đắm chìm trong bể tình.

Giống như các nhân vật nữ trên, nàng Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở

Xương Giang được giới thiệu là một người con gái “khá có tư sắc”. Tuy nhiên, tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 http://www.lrc-tnu.edu.vn

sắc này lại là dấu hiệu để người ta nhận ra nàng là yêu quái và né tránh, e sợ: “...

75

suốt một giải đường mười dặm, người ta đều phải đi trưa về sớm, bảo nhau thấy gái

đẹp chớ trêu vào” [60.122]. Sắc đẹp của Thị Nghi được miêu tả thực ra cũng không

phải nhằm mục đích ca ngợi nàng mà là để biến nàng thành một tấm gương răn sắc.

Chính chồng của Thị Nghi cũng công nhận sắc đẹp nàng đã quyến rũ anh ta và làm

anh ta mê muội: “Đem môi son má phấn làm tôi say mê, Rút nguyên khí chân tinh

khiến tôi hao tổn” [60.128]. Diêm Vương trách tội viên quan họ Hoàng cũng là vì

anh ta đã phạm lời răn sắc của thánh hiền mà mê đắm Thị Nghi: “Nhà ngươi theo

dòng Nho học, đọc sách thánh hiền trải xem những sự tích xưa nay, há không biết

lời răn sắc đẹp, cớ sao lại đi vào con đường ấy!” [60.130]. Cả hai người đàn ông

này đều nhìn sắc đẹp của Thị Nghi với thái độ kỳ thị, e sợ.

Như vậy, những người phụ nữ có vẻ đẹp ngoại hình hấp dẫn trong Truyền kỳ

mạn lục thường được miêu tả theo mô-típ là biểu tượng của sự quyến rũ nhục dục, của

sự nguy hiểm. Cách miêu tả này không phải chỉ xuất hiện trong Truyền kỳ mạn lục mà

đã từng xuất hiện khá nhiều trong văn học Phương Đông nói chung và văn học Việt

Nam nói riêng. Đọc Truyện yêu nữ Châu Mai trong Thánh Tông di thảo, ta có thể thấy

cách miêu tả tương tự. Trong câu chuyện này, vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ

cũng được nhấn mạnh nhưng không phải để ca ngợi mà nhằm cảnh báo, răn đe nam

giới cảnh giác trước người phụ nữ đẹp. Gắn người con gái đẹp với yêu ma nghĩa là vô

tình hay hữu thức nhà văn đã thể hiện thái độ e sợ đối với nữ sắc: “Đến năm Hồng Đức

thứ sáu (1475), nó (yêu quái) lại hiện thành một người con gái đẹp tuyệt trần, trạc mười

sáu tuổi, mắt long lanh như nước mùa thu, môi đỏ như son vẽ, tóc mây mặt hoa, cười

nói duyên dáng, làm cho người ta phải động lòng” [36.10].

Miêu tả người phụ nữ có ngoại hình đẹp, hấp dẫn về phương diện giới tác giả Truyền

kỳ mạn lục không chỉ gắn họ với hồn ma mà còn xây dựng những kết cấu truyện nhấn mạnh bi

kịch của người đàn ông khi bị quyến rũ bởi những người phụ nữ này. Mô-típ quen thuộc trong

các truyện về họ là: những người đàn ông mê đắm sắc dục nếu không sớm tỉnh ngộ thường sẽ

phải trả giá đắt. Tiêu biểu nhất có thể kể đến trường hợp Trình Trung Ngộ trong Chuyện cây gạo

và sư bác Vô Kỷ trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị. Miêu tả nhân vật Trình Trung Ngộ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhà văn tô đậm chi tiết chàng trai này vì mê đắm sắc đẹp của Nhị Khanh mà bị Nhị Khanh ám

76

khiến hồn vía không còn như người thường. Cảnh chàng ốm nặng được miêu tả kinh dị như có

dụng ý được dùng để răn đe nam giới, tô đậm sự ma quái của Nhị Khanh - người con gái có sắc

đẹp quyến rũ: “Từ đấy, Trung Ngộ sinh ra ốm nặng. Mà Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc

đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường

ứng đáp với nàng và muốn vùng dậy để đi theo. Người trong thuyền phải lấy dây thừng trói lại

thì chàng mắng: - Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngọt ngào, ta phải đi theo chứ

không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được; dự gì đến các người mà dám đem dây trói

buộc ta thế này” [60.35]. Cảnh Trung Ngộ chết cũng được miêu tả trong không gian rùng rợn:

“Một đêm người trong thuyền ngủ say, đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung Ngộ. Họ vội đến

Đông thôn thì thấy chàng đã nằm ôm quan tài mà chết, bèn phải thu liệm chôn ngay ở đấy”

[60.35]. Tương tự như vậy là hiện tượng sư Vô Kỷ trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị bị mê

hoặc và cám dỗ bởi sắc đẹp của Hàn Than mà trễ nải kinh kệ, cuối cùng cũng ốm lai nhai rồi đi

theo tiếng gọi của Hàn Than xuống âm phủ. Cả Trình Trung Ngộ và Vô Kỷ đều được xây dựng

theo mô-típ nhân vật vì mê đắm sắc dục mà phải chịu hậu quả bi thảm.

Ở những chuyện khác, tuy kết thúc người đàn ông không bị trừng phạt

nghiêm khắc như Trung Ngộ và Vô Kỷ nhưng trước khi tỉnh ngộ, những người đàn

ông này cũng được xây dựng theo mô-típ bị sắc dục làm cho mê mải, ngu muội; Hà

Nhân trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây vì mê đắm sắc dục mà trễ nải học hành

“mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng” [60.58]; Viên

quan họ Hoàng trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang vì mê đắm Thị Nghi mà bị

ma ám khiến người khác kinh sợ: “Làm quan được một tháng, Hoàng bỗng bị bệnh

điên cuồng hoảng hốt, mê lịm đi không còn biết gì. Nàng sớm tối khóc lóc thiết tha

không rời ra một bước. Song Hoàng thuốc không chịu uống, mạch không cho xem;

ai đem bùa dấu đến thì Hoàng mắng nhiếc. Các thầy thuốc thầy cúng đều ngờ là có

ma quỷ, nhưng cũng không biết làm thế nào, chỉ đành nhìn nhau mà thôi” [60.124].

Như vậy, về cơ bản, quan niệm của tác giả Truyền kỳ mạn lục về người phụ nữ có

ngoại hình hấp dẫn về phương diện giới là quan niệm mang tính chất một chiều. Với nhà văn,

dường như không có sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp đạo đức và vẻ đẹp ngoại hình hấp dẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 http://www.lrc-tnu.edu.vn

mà chỉ có vẻ đẹp mang tính chất loại trừ: hoặc là đức hạnh, hoặc là đẹp hấp dẫn về phương

77

diện giới. Vì thế, vô hình trung, người phụ nữ có ngoại hình hấp dẫn trở thành đối lập với cái

đạo đức, không những không được nhìn nhận bằng thái độ ngưỡng mộ mà còn bị né tránh, e

sợ. So sánh với văn học thế kỷ XVIII có thể thấy các tác giả thế kỷ này đã có cái nhìn hoàn

chỉnh hơn về vẻ đẹp người phụ nữ. Với họ, vẻ đẹp ngoại hình cũng đáng ngưỡng mộ, đáng

trân trọng như vẻ đẹp đạo đức, nếu có sự kết hợp giữa cả hai thì đó là sự kết hợp lý tưởng. Vì

thế, trong Thiếu nữ ngủ ngày nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã không ngại ngần vẽ ra trước mắt độc

giả một người phụ nữ đẹp mỹ miều với tất cả sự hấp dẫn của ngoại hình đầy nữ tính bằng

cách liệt kê nhiều yếu tố của một thân thể đẹp, thanh tân, mang màu sắc phồn thực:

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.

Lược trúc biếng cài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,

Một lạch đào nguyên suối chửa thông.

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,

Đi thì cũng dở, ở chẳng xong.

(Hồ Xuân Hương - Thiếu nữ ngủ ngày)

Táo bạo hơn, nhà thơ quý tộc Nguyễn Gia Thiều qua Cung oán ngâm khúc

còn dám công khai miêu tả vẻ đẹp đa tình đầy gợi cảm của người cung nữ - một vẻ

đẹp mà Nho giáo, Phật giáo vốn né tránh, e sợ:

Áng đào kiểm đâm bông não chúng

Khóe thu ba rợn sóng khuynh thành.

Bóng gương lấp ló trong mành,

Cỏ cây cũng muốn nổi mình mây mưa.

Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,

Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,

Hương trời đắm nguyệt say hoa,

Tây Thi mất vía, hằng Nga giật mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

78

Tóm lại, nếu như vẻ đẹp ngoại hình có yếu tố thân thể, thân xác không được chú ý

miêu tả ở người phụ nữ chính diện thì vẻ đẹp đó lại khá được tác giả Truyền kỳ mạn lục

nhấn mạnh ở những người phụ nữ phản diện. Tuy nhiên, việc nhấn mạnh miêu tả ở đây

không gắn với thái độ ngưỡng mộ, khẳng định tích cực mà thường gắn với thái độ né tránh,

e sợ. Ở hình thức này hay khác, những phụ nữ đẹp hấp dẫn về hình thể, mang yếu tố

“sexual” đậm nét thường thuộc về thế giới ma quỷ, đáng sợ chứ không phải là người bình

thường. Họ được miêu tả trong hình ảnh ma quái và là trở lực của người đàn ông trên con

đường tu trì. Tâm thế tiếp nhận người đẹp trong những câu chuyện này cũng chính là tâm

thức tiếp nhận hình ảnh người phụ nữ hồng nhan phổ biến ở phương Đông thời trung đại.

3.2 Ngôn ngữ

Khác với ngôn ngữ đoan chính nhất nhất theo chuẩn mực đạo đức Nho gia

của các nhân vật nữ lý tưởng, ngôn ngữ của nhân vật nữ phản diện trong Truyền kỳ

mạn lục là ngôn ngữ táo bạo, chủ động và vượt ra ngoài khuôn phép Nho gia. Đặc

điểm này hầu như thống nhất trong ngôn ngữ của hầu hết các nhân vật nữ phản diện.

Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo là người phụ nữ hội tụ đầy đủ nhất những

đặc điểm ngôn ngữ này. Gặp nhau giữa phố xá đông người, Trình Trung Ngộ dù là

một nam nhân cũng chỉ dám “mang một mối tình u uất trong lòng”, chưa đủ can

đảm thổ lộ với Nhị Khanh thì Nhị Khanh lại dám chủ động gợi ý cho người đàn ông

nàng thích thời gian, địa điểm hẹn hò bằng những lời lẽ táo bạo, lả lơi qua lời thoại

với người hầu gái: “Ta lâu nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm

giời, không lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong cảnh ra sao.

Đêm nay nên qua thăm cảnh cũ, để được khuây khỏa chút tình u uất ở trong lòng,

vậy em có đi theo ta không?” [60.228]. Sự táo bạo trong ngôn ngữ của nàng không

chỉ thể hiện qua giọng điệu lẳng lơ, suồng sã, qua nội dung diễn ngôn vượt ngoài

khuôn phép Nho gia (rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài…) mà còn thể hiện

trong cử chỉ đi kèm đầy cá tính và ngạo nghễ: “xốc xiêm rảo bước, và bảo với con

hầu gái” [60.28]. Ngôn ngữ và cử chỉ dạng này quả thực rất táo bạo và hiếm có ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 http://www.lrc-tnu.edu.vn

những người phụ nữ được Nho gia khen ngợi.

79

Ta cũng thấy những lời nói chủ động và táo bạo như vậy của Nhị Khanh trong

buổi tối nàng “hẹn hò” Trung Ngộ. Người con gái này không ngần ngại bộc bạch xúc cảm

của mình bằng tiếng thở dài và những lời tâm sự đa sầu đa cảm khi đứng trên cầu Liễu

Khê: “Nước non vẫn nước non nhà, cảnh còn như cũ người đà khác xưa, làm sao khỏi cảm

động bùi ngùi cho được!” [60.29]. Thậm chí, biết Trung Ngộ đang dõi theo mình, nàng

chủ động thúc giục chàng xuất hiện bằng lời nói dỗi hờn: “Giải niềm u uất, muốn mượn

tiếng đàn; song điệu cao ý xa, đời làm gì có kẻ tri âm hiểu cho mình được, chẳng bằng về

cho sớm là hơn” [60.29]. Nàng cũng chính là người chủ động tạo cơ hội, mở đường cho

Trình Trung Ngộ, chủ động khẳng định cuộc gặp gỡ giữa nàng và Trung Ngộ là cuộc gặp

gỡ do “duyên trời” xếp đặt: “Vậy chàng cũng ở đây ư? Thiếp đã từng nhiều lần được

chàng đoái tới, ơn ấy thật vẫn ghi lòng. Chỉ vì ở đường sá vội vàng, không tiện tỏ bày

chung khúc. Giờ nhân đêm vắng, dạo bước nhàn du, không ngờ chàng lại đã đến trước ở

đây. Nếu không phải duyên trời, sao lại có cuộc gặp gỡ may mắn như vậy…” [60.29].

Ngôn ngữ của nàng quả thực rất táo bạo và chủ động, đặc biệt khi đặt chúng vào bối cảnh

văn hóa đã quen với quan niệm cho rằng trong tình yêu, nam giới phải đóng vai trò chủ

động còn nữ giới chỉ là người bị động và phụ thuộc.

Không đề cập đến những luân lý đạo đức của Nho gia, diễn ngôn của Nhị Khanh

đưa ra những triết lý về sự sống và cái chết hết sức phóng khoáng và táo bạo, thể hiện thái

độ trân trọng hạnh phúc trần thế. Nàng nói với Trung Ngộ trong buổi đầu hò hẹn: “Nghĩ

đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm

lấy thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan

lạc ái ân, cũng không thể được nữa” [60.29-30]. Tìm thú vui say trước mắt, hưởng hạnh

phúc ái ân cho khỏi phí tuổi xuân xanh sắc là triết lý, cũng là niềm say mê và tâm nguyện

của nàng: “Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời có làm gì, chẳng

qua rồi cũng một nấm đất vàng là hết chuyện. Đời trước những người hay chữ như Ban Cơ,

Sái Nữ nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một

thời xuân tươi tốt” [60.32]. Quan niệm của nàng về sự sống và cái chết thật khác với quan

niệm sống tu thân khắc kỷ để khi chết đi vẫn còn tiếng thơm của Nho gia; cũng hoàn toàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 http://www.lrc-tnu.edu.vn

khác với quan niệm “Sát thân thành nhân, xả thân thủ nghĩa” của Nho gia mà Nhị Khanh

80

trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Vũ Nương trong Chuyện người con gái

Nam Xương, Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương đã thực hành.

Đặc biệt hơn nữa, bằng ngôn ngữ, Nhị Khanh đã dám chủ động đặt ra vấn đề tận

hưởng hạnh phúc ái ân, chủ động làm thơ từ ghi lại cuộc hoan lạc giữa nàng và Trung Ngộ.

Lời nói của nàng táo bạo đến mức sắng sổ, táo tợn và quả thực xa lạ so với ngôn ngữ của

người phụ nữ tiết hạnh theo chuẩn Nho giáo, xa lạ so với bối cảnh văn hoá mà những diễn

ngôn về tính dục luôn bị trục xuất khỏi diễn ngôn chính thống của thời đại: “Thân tàn một

mảnh, cách với chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay

dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía

rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp thế sẽ không phải phàn

nàn gì nữa” [60.30]. Trong văn học truyền thống, chủ thể của những diễn ngôn về tính dục

hầu như thuộc về nam giới, người phụ nữ không có quyền đặt ra vấn đề tính dục, không được

nói đến tính dục. Vậy mà Nhị Khanh lại táo bạo nói ra những điều mà Nho gia, Phật gia cấm

kỵ. Không thể loại trừ khả năng tác giả Truyền kỳ mạn lục đã mượn lời Nhị Khanh (một hồn

ma) để nói lên những tư tưởng mới về con người tự nhiên, thể hiện tư tưởng tự do của thời đại

ông như nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân đã khẳng định “Rõ ràng Nguyễn Dữ đã mượn truyện

quái để nói việc thực” [21.506]. Đó là tinh thần nhân đạo đáng ghi nhận của Nguyễn Dữ. Tuy

nhiên, cũng cần thấy rằng, bên cạnh tinh thần nhân đạo đáng quý thì thái độ của người kể

chuyện trước những phát ngôn phóng túng này về cơ bản vẫn là không khẳng định. Thái độ

này được thể hiện rõ trong nghệ thuật tổ chức không gian nghệ thuật, trong việc gắn những

lời lẽ táo bạo này với phát ngôn của hồn ma. Không gian nghệ thuật của truyện, không gian

của những cuộc gặp gỡ giữa đôi trai gái - nơi Nhị Khanh nói lên những lời táo bạo trên đây là

không gian đêm tối. Không gian này tô đậm tính chất phóng túng, rùng rợn của Nhị Khanh -

đêm che giấu cho nàng khỏi con mắt soi mói của đạo đức phong kiến, đêm là thời gian của

ma quỷ theo tâm thức dân gian. Hơn nữa, đến cuối truyện ta vỡ lẽ rằng người nói lên những

lời lẽ táo tợn này là hồn ma chứ không phải người thực. Nếu có thái độ khẳng định hoàn toàn,

có thể nhà văn không cần những hình thức lắt léo như thế.

Nếu như trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, trong đêm vợ chồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhị Khanh - Trọng Quỳ hội ngộ, người chủ động làm thơ ghi lại cuộc hoan lạc là

81

Trọng Quỳ - người chồng thì trong câu chuyện này, người chủ động lại là Nhị

Khanh - người con gái. Không những là người chủ động, Nhị Khanh còn dùng ngôn

ngữ rất phóng túng, táo bạo để miêu tả cảnh ái ân:

I. Cùng diêm cửu khốn ngọ miên trì

Tu đối tân lang ngữ biệt ly

Ngọc duẩn chỉnh là châu xuyến tử

Hương la thoát hoán tú hài nhi

Mộng tàn bán chẩm mé hồ điệp

Xuân tận tam canh oán tử quy

Thử khứ vị thù đồng huyệt ước

Hảo tương nhất tử vị tâm tri

(Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu,

Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu.

Măng ngọc vuốt ve nghiêng xuyến trạm,

Dải là cổi tháo trút hài thêu.

Mộng tàn gối bướm bâng khuâng lạc

Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu

Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy

Vì nhau một thác sẵn xin liều)

II. Giải kỳ nhẫn phụ thử lương tiêu

Túy bão ngân tranh bát phục khiêu.

Ngọc yến nhiệm dung trâm trụy kế

Kim thuyền ky phạ thúc tiêm yêu.

Yên như đường ngạc hồng do thấp

Hãn thối mai trong bạch vị tiêu

Tảo vãn kết thành loan phượng hữu,

Phong thần nguyệt tịch nhiệm chiên yêu.

(Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ôm tranh nhẹ bấm một đôi bài

82

Đầu cài én ngọc hình nghiêng chếch

Lưng thắt ve vàng dáng ỏe oai

Đường lúc nỏ rồi hồng đượm ướt

Mai khi rã hết trắng chưa phai,

Phượng loan sớm kết nên đôi lứa,

Gió sớm giăng khuya thỏa cợt cười)

Cả hai bài thơ đều táo bạo tái hiện những cử chỉ, cảm giác của người phụ

nữ khi hoan lạc chốn buồng the. Lời thơ cũng hoàn toàn không bị ràng buộc bởi bất

kỳ một chuẩn mực và khuôn phép nào, rất khác với các diễn ngôn đạo đức của nhân

vật nữ lý tưởng, lại càng xa lạ với quan niệm nghiệt ngã của Nho gia về quyền

hưởng thụ hạnh phúc ái ân của người phụ nữ.

Ngôn ngữ của Nhị Khanh đôi khi còn quyết liệt, ranh mãnh khiến Trình Trung

Ngộ và độc giả không khỏi ghê rợn. Nó như một lời trách ai oán, lại như một lời đòi hỏi

đầy quả quyết và táo tợn. Kiểu ngôn ngữ này thể hiện rõ nhất trong câu nói của nàng

đêm Trung Ngộ đến Đông thôn và định bỏ chạy: “Chàng đã từ xa lại đây, quyết không

có lý nào còn trở về nữa. Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết

mà hẹn hò nhau! Xin sớm theo nhau đi cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ

một mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về” [60.34]. Câu nói phản ánh sự

chủ động táo bạo của Nhị Khanh, tô đậm tính chất ma quái của nàng và đồng thời thể

hiện thái độ quyết liệt trong hành động giữ gìn hạnh phúc cá nhân của nàng.

Ngôn ngữ của Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở

Trại Tây cũng là thứ ngôn ngữ chủ động, táo bạo và không bị bó buộc bởi những phép

tắc ngặt nghèo của Nho gia. Ngay từ buổi đầu hò hẹn, hai nàng đã dám bóng gió nói đến

vấn đề tính dục, dám gợi tình cho Hà Nhân, chủ động nói lên những triết lý hưởng thụ

bằng câu nói ranh mãnh: “Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu Nương, một người

họ Đào, tên gọi Hồng Nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan Thái Sư. Từ ngày quan

Thái sư qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 http://www.lrc-tnu.edu.vn

em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang” [60.48].

83

Khi Hà Nhân lả lơi cợt ghẹo, hai nàng cũng đáp lại bằng ngôn ngữ tuy hàm ẩn

nhưng chứa đựng màu sắc nhục dục: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong,

chỉn e mưa gió nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu” [60.49].

Không cố định trong một giọng điệu nào, ngôn ngữ của hai người con gái này

biến hoặc rất phong phú, mỗi lúc một vẻ. Nhưng dù là được nói với giọng điệu nào: giận

dỗi “Chị ấy vẫn khỏe chứ có làm sao đâu. Chỉ vì hôm nọ chàng khen em đẹp mà không

nói gì đến chị ấy, nên chị ấy xấu hổ không dám đến nữa” [60.51]; đùa cợt “Lang quân

vừa cưới vợ, sao không hẵng ở nhà vầy vui duyên mới, đã vội lên đường?”; tâm tình

“Bọn chúng em thân bồ vóc liễu, không thể cáng đáng được việc tần tảo ở gia đình. Vả

ngôi chủ phụ trong nhà, tất phải là người trong nền nếp trâm anh, chúng em đâu dám

chòi mòi đến. Chỉ mong chàng sau buổi về quê, tình cũ sẽ vấn vương không rứt, sớm đẹp

lòng quyến luyến hương thổ để lại tính kế tìm hoa, sẽ xem cây liễu Hàn Hoành, vẫn chờ

đợi với những cành dài ngày xưa, cây đào Thôi Hộ, vẫn chào đón những hoa cười năm

ngoái. Xin chàng lưu ý, đừng vì ấp yêu duyên mới mà lạt phai tình cũ, khiến chúng em

thành những bông hoa vô chủ ở Giang Nam” [60.54] hay não nề than thở “Ham vui ân ái,

ai ai chẳng lòng; nhưng số trời đã định, kỳ về đến nơi, biết làm sao được. Rồi đây cánh rã

trong bùn, hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh sắc, thú vui biết sẽ thuộc về đâu” [60.59]…

thì ngôn ngữ của hai nàng vẫn luôn là ngôn ngữ chủ động, táo bạo, tinh quái và có phần

lả lơi, khác với ngôn ngữ của người phụ nữ chính chuyên theo tiêu chí Nho gia.

Tính chất chủ động, táo bạo, tinh quái và lả lơi trong ngôn ngữ của hai nàng

được thể hiện rõ nhất trong những bài thơ họ làm nhân lúc ái ân tình nồng với Hà Nhân.

Bài thơ không ngần ngại miêu tả quan hệ tính dục và tình trạng chốn buồng the với

những từ ngữ nhắc đến thân thể, gợi liên tưởng đến quan hệ thân xác nam nữ:

Xạ trần lang hãn thấp la y

Thúy đại khinh tần bát tự my.

Bảo đại đông phong khoan đả lụ

Tiêm yêu bãi loạn bất thăng xuy.

(Mồ hôi dâm dấp áo là,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mày xanh đôi nét tà tà như chau.

84

Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau,

Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng)

Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì,

Đăng ủng ngân giang xuất giang duy.

Phân phó tài lang phan chiết khứ,

Tân hồng nhận thủ tiểu đào chi.

(Cung sâu thưa điểm giọt rồng,

Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh

Tài lang mặc sức vin cành,

Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi)

Không chỉ mạnh bạo trong hành động trêu ghẹo Hà Nhân, mạnh bạo trong

hành động đối đáp với người đàn ông này bằng những triết lý hưởng thụ, hai nàng

còn rất mạnh bạo trong chốn buồng the. Hai bài thơ trên đây đã cho thấy rất rõ điều

đó. Tuy nhiên, đến cuối truyện, ta cũng vỡ lẽ rằng hai cô chỉ là linh hồn của hai loài

cây chứ không phải người thực. Nói khác đi, có thể suy ra từ diễn ngôn của họ là

chỉ có hồn ma hay tinh cây mới có quan niệm phóng túng về đời sống thân xác.

Người phụ nữ đức hạnh không bao giờ phát ngôn như vậy.

Ngôn ngữ của Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị cũng là

ngôn ngữ táo bạo. Nàng không chỉ dám thách thức cậu học trò về tài làm thơ với

câu nói rất tự tin, coi thường nam giới: “Anh bé con này cũng làm văn được à? Vậy

thử làm cho tôi xem nào” [60.76] mà còn dám đối đáp trực tiếp với vua bằng bài thơ

có ẩn tên mình:

Hàn Than ngư đớp nguyệt

Cổ lũy nhạn minh sương

(Bến lạnh cá đớp nguyệt

Lũy cổ nhạn kêu sương)

Thậm chí khi chết đi, Hàn Than còn dám thẳng thắn đặt ra vấn đề tự do yêu

đương, thẳng thắn đặt ra khát vọng được trả thù đời dù có phải đổi lấy cái chết khi hiện về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói với Vô Kỷ: “… đài dao mệnh đứt, đến nỗi chia bầy, sống còn chưa thỏa nguyện yêu

85

đương, chết sẽ cùng nhau quấn quýt. Mong chàng hiểu câu kệ lục như, bỏ cõi tứ đại tạm

rời cảnh Phật, về chốn suối vàng, để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu thai, để trả

cho xong cái nợ oan gia ngày trước” [60.87]. Tính chất táo bạo trong ngôn ngữ cũng hoàn

toàn thống nhất với những hành động trong suốt cuộc đời người con gái “cá tính” này.

Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang không nói nhiều. Ngôn

ngữ của nàng tuy không táo bạo và thẳng thắn đề cập đến vấn đề hoan lạc ái ân như

Nhị Khanh hay Hồng Nương, Nhu Nương nhưng những câu nói của nàng lại được

cố ý tổ chức theo mô-típ ngôn ngữ mang nhiều nét trí trá, ranh mãnh của một hồn

ma, khiến người nghe dù có sắt đá cũng phải ỉu mềm. Lời nói của nàng luôn mang

giọng điệu ngọt nhạt tinh quái: “Thiếp vốn người ở Phong Châu, cha mẹ làm nghề

buôn hàng tấm. Không may bị quân cường đạo giết người cướp của, cha mẹ thiếp

đều hồn chôn bụng cá, xương gửi lòng sông. Còn lại tấm thân yếu ớt trơ trọi này

thoát khỏi miệng hùm lần lên bờ sông, tìm vào nhà dân ở đậu. Hôm qua nhân ra bờ

sông hái dâu cho bà chủ, chợt đi qua chỗ gặp nạn cũ, bất giác đau xót mà ngồi đây

khóc lóc đến giờ” [60.123].: “Chiếc thân trôi nổi, nào có đáng tiếc gì đâu, chỉ hận

một điều là hài cốt cha mẹ, chưa vớt lên được để đem về mai táng… Nếu vậy thật là

lòng trời. Ngài quả giúp cho được như thế, thật là cái ơn cốt nhục sinh tử. Thiếp dù

có nát thân báo đền cũng đều không dám quản…” [60.123]. Có khi lời nói của nàng

lại mang nét đanh đá, quyết liệt không giống với kiểu ngôn ngữ chuẩn mực, điềm

đạm, nhu thuận của người phụ nữ đạo đức lý tưởng: “Anh chàng huyễn thuật này ở

đâu ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà của ta!” [60.125]. Cũng như những nhân vật nữ

bị coi là phản diện khác, hành động và lời nói của Thị Nghi luôn được miêu tả gắn

với những cử chỉ như “khép nép lau ráo nước mắt rồi nói”, “lại khóc nói”, “mừng rỡ

nói”, “cả giận, lấy gậy đập vỡ cái chai rồi mắng”… Những cử chỉ kèm lời này hầu

như không có ở nhân vật nữ chính diện lý tưởng.

Tóm lại, nếu như trong văn học trung đại nói chung, ngôn ngữ nhân vật

thường bị lẫn với ngôn ngữ tác giả thì ngôn ngữ của những nhân vật nữ phản diện

trong Truyền kỳ mạn lục bước đầu đã có cá tính riêng. Ngôn ngữ của họ là thứ ngôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngữ mang tính chất táo bạo, chủ động, ranh mãnh và vượt ngoài khuôn phép Nho

86

gia. Tuy nhiên, sự chi phối của quan điểm coi thường nữ giới vẫn thể hiện đậm nét

trong nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ của những nhân vật này. Ở đây, người trần thuật

đã đặt những diễn ngôn “lệch chuẩn” trong miệng những hồn ma bị người đời khinh

bỉ né tránh, để nhân vật diễn đạt nó trong không gian phi chính thống chứ không

phải trong miệng những con người chính diện lý tưởng, trong không gian văn hóa

chính thống. Khó có thể nói tác giả đã hoàn toàn đồng tình và dám bảo vệ cho những

diễn ngôn đầy tính nhục dục và đề cập đến khát vọng tự nhiên của người phụ nữ. Dù

vậy, chúng tôi không phủ nhận một khả năng rằng, rất có thể, Nguyễn Dữ đã mượn lời

của những hồn ma mà nói hộ, phát ngôn hộ tư tưởng tự do yêu đương vốn có cơ sở để

bùng tỏa trong điều kiện lịch sử cho phép. Đó là tinh thần nhân đạo đáng trân trọng ở

nhà Nho Nguyễn Dữ. Song lại phải nói thêm là sự khẳng định trực tiếp quyền sống

thân xác như trong văn học thế kỷ XVIII (Thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc,

Truyện Kiều…) vẫn tích cực hơn là sự đối phó quanh co, kín đáo như vậy.

3.3 Tâm lý

Trong Truyền kỳ mạn lục, nếu như tâm lý được nhấn mạnh ở những người

phụ nữ chính diện lý tưởng là những nét tâm lý thiên về lý trí và thể hiện phẩm hạnh

đạo đức thì những nét tâm lý ở người phụ nữ phản diện lại là những nét tâm lý đời

thường, những tình cảm thuần túy, thậm chí, có cả những nét tâm lý chứa đựng yếu

tố thân xác, thể hiện tâm tư thầm kín của người phụ nữ.

Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây là câu chuyện mà tâm lý nhân vật nữ được diễn tả

nhiều hơn cả trong các truyện về người phụ nữ ở tập tác phẩm này. Qua câu chuyện,

lần đầu tiên trong văn học, tâm trạng ghen tuông, mặc cảm của người phụ nữ được nói

tới qua nhân vật Đào Hồng Nương: Thấy Hà Nhân khen Liễu Nhu Nương nhan sắc tột

bậc mà không nhắc đến mình, Hồng Nương buồn rầu mấy hôm không đến, sau đó gửi

Hà Nhân một bài thơ bộc bạch suy nghĩ và tâm trạng của nàng:

Tinh hà cốt cách tuyết tinh thần,

Lộ nhị yên điều lưỡng dạng tân.

Khả hận Đông hoàng tư trước ý,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhất chi tiều tụy nhất chi xuân.

87

(Băng sơn cốt cách, tuyết tinh thần,

Nhị mởn ngành mềm đã xứng cân.

Khá trách Đông hoàng thiên vị lắm,

Một cành bỏ héo, một cành xuân)

Những tâm tư, tình cảm của cô gái này không chỉ được thổ lộ táo bạo, bình

đẳng với nam giới mà còn được người đàn ông - Hà Nhân đáp lại bằng một bài thơ

hóm hỉnh, lời lẽ phóng khoáng:

Tương tư nhất đoạn nhất lao thần

Để sự tài thành biệt hận tân.

Bằng trượng phong di phiền ký ngữ,

Vị thùy tiều tụy? vị thùy xuân?

(Tương tư nặng gánh khổ tâm thần

Ân ái chưa hề lệch cán cân.

Dì gió, nhờ đem tin nhắn nhủ:

Hoa nào bỏ héo lá nào xuân?)

Cảm xúc lưu luyến, bịn rịn của Liễu Nhu Nương khi xa tình nhân cũng

được miêu tả khá tinh tế qua những bài thơ, lời từ mà nàng làm:

Đế thành nọ mé bên đông,

Mấy gian nhà cũ giữa vùng trại hoang.

Phấn son ngày tháng điểm trang,

Quạnh hiu gác khói hiên sương lạnh lùng.

Vừa tuần đôi tám xuân dung,

Tin ong sứ điệp chưa thông nẻo nào.

Bên hoa hôm sớm tiêu dao,

Đường xuân thẹn chửa dám chào hỏi ai.

Nho sinh bỗng có một người

Văn chương kinh sử tót vời lảu thông

Trong tường ngấp nghé xa trông,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tuy duyên chưa buộc mà lòng đã trao.

88

Tình yêu chẳng dễ ngăn rào,

Đời hoa thôi đã gửi vào chúa xuân

Cành xanh lá biếc thanh tân,

Múa may theo ngọn gió xuân dập dìu

Lòng hoa khi giọt sương gieo,

Sầu xuân đã nhẹ nhàng tiêu, nhẹ nhàng

Miệt mài trong cuộc truy hoan,

Tây Thi ngực nở, Tiểu Man lưng mềm

Năm tròn chăn gối vừa êm,

Non sông giục khách trạnh niềm gia hương.

Tin nhà gửi đến đau thương,

Càng đau thương lúc buông cương dặm ngoài.

Bon bon xe ruổi trời mai,

Lòng em khô héo tiễn người đường xa

Bến Nam cỏ áy bóng tà,

Vườn tây một rặng mai già khóc mưa.

Cỏ cây rầu rĩ tiêu sơ,

Chàng về thiếp luống ngẩn ngơ tâm hồn.

Vì chàng hát khúc nỉ non,

Biệt ly để nặng đau buồn cho ai

Đáng nói hơn, trong lời ca này, ta tuyệt nhiên không thấy Nhu Nương nhấn

mạnh đến tấm lòng thủy chung hay kìm nén tình cảm để người đàn ông yên tâm ra đi

như ở tâm trạng của người phụ nữ chính diện lý tưởng. Ngược lại, từng câu chữ của

nàng đều xoáy vào tâm trạng đau buồn, nuối tiếc và níu kéo. Đó là tâm trạng riêng tư,

không phải những tâm trạng được miêu tả để tô đậm chân dung đạo đức. Những tâm

trạng riêng tư như thế này cũng được miêu tả trong bài từ của Đào Hồng Nương:

Trời thu nhuộm biếc chừ, lá thu chen hồng

Đập vải tiếng vang chừ, mọi nhà tây đông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chim nhạn về nam chừ, chim hồng sang sông

89

Khói chiều thảm đạm chừ, sầu mới mênh mông

Tình lang chẳng ở chừ, lòng tơ trăm vòng,

Tạm cắt tình xưa chừ, về lập tân phòng.

Cúc Hà ủ rũ chừ, lan Sở thẹn thùng

Nâng chén rượu quỳnh chừ, đối bóng giăng trong

Dễ ly biệt chừ, khó lúc trùng phùng

Than ôi em hát một khúc chừ, nhớ thương không cùng.

Hận không sợi tơ chừ, buộc níu chinh an

Hận không bờ bãi chừ, ngăn chẹn hồi lan,

Hận không oanh vàng chừ, gọi khách miên man

Ly biệt từ đây chừ, bao lại đoàn loan?

Hoa lưu cửa động chừ, nước xuống nhân gian

Nỡ để thân em chừ, ôm mối hờn oan.

Than ôi em hát hai khúc chừ, lệ châu lan tràn.

Nổi bật trong lời từ Hồng Nương làm là tâm trạng buồn rầu, sầu tủi và nhớ

thương, oán hờn của nàng. Đây là những tâm lý riêng tư làm níu giữ người ra đi,

khiến người ra đi thêm lưu luyến, bịn rịn chứ không phải những nét tâm lý thiên về

thể hiện đức hạnh, thiên về lý trí khiến người ra đi có thêm dũng khí lên đường như

ở tâm lý lúc chia tay chồng của những người phụ nữ lý tưởng.

Bên cạnh việc miêu tả tâm lý buồn rầu, sầu tủi, nhớ thương của người phụ

nữ khi phải xa tình nhân, ở những truyện về người phụ nữ phản diện, tác giả Truyền

kỳ mạn lục đã ít nhiều quan tâm đến những yếu tố tâm lý có chứa đựng khát vọng

về hạnh phúc ái ân của người phụ nữ. Trong Chuyện nàng Túy Tiêu, miêu tả tâm lý

của Túy Tiêu khi xa Dư Nhuận Chi, nhà văn không chỉ quan tâm đến tâm lý vòi vọi

mong chờ của người phụ nữ mà còn chú ý đến tâm lý tiếc nuối, xa xót của nàng về

quãng đời ái ân ngắn ngủi. Nét tâm lý này thiếu vắng trong thế giới tâm lý của

những người phụ nữ chính diện lý tưởng:

Duyên kim phận cải xe vương,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Những mừng giây sắn được nương bóng tùng.

90

Thiên thai một cuộc kỳ phùng,

Thú vui lửa đượm hương nồng chưa bao.

Chương Đài cành liễu nghiêng chao,

Biệt ly mang nặng biết bao oán sầu.

Duyên may hóa rủi ngờ đâu.

Ngậm hờn mối tủi chịu sầu cho xong.

Như vậy, nét tâm lý thiên về hy sinh đời sống bản năng, sẵn sàng chịu đựng

thiệt thòi vì người đàn ông của nhân vật phụ nữ chính diện không thấy xuất hiện trong

tâm lý nhân vật nữ phản diện. Nét tâm lý được chú ý miêu tả ở những người phụ nữ

này chủ yếu là những nét tâm lý đời thường, gắn với xúc cảm riêng tư, cá nhân: tâm lý

đau buồn, sầu tủi, nuối tiếc và níu kéo, bên cạnh đó còn có nét tâm lý chứa đựng khát

vọng ái ân của người phụ nữ. Nhà văn đã thể hiện những nét tâm lý này khá thành công

qua thể loại từ khúc. Những lời từ này chính là nền móng để các nhà thơ thế kỷ sau học

tập, phát triển nhằm thể hiện phong phú thêm thế giới nội tâm nhân vật.

3.4 Cách ứng xử, hành động

Đặc điểm nổi bật trong cách ứng xử và hành động của người phụ nữ phản

diện trong Truyền kỳ mạn lục là những người phụ nữ này luôn chọn cách ứng xử và

hành động thiên về đời sống thân xác, thiên về thỏa mãn khát vọng cá nhân chứ

không ứng xử và hành động theo những chuẩn mực đạo đức Nho gia, không ứng xử

và hành động hoàn toàn vì nam giới như những nhân vật nữ chính diện đã làm.

Trong quan hệ tình yêu - hôn nhân, nếu như ở các nhân vật nữ chính diện lý

tưởng, tình yêu và hôn nhân bao giờ cũng có sự can thiệp của gia đình, nằm trong

phạm vi gia đình thì ở những người phụ nữ phản diện, tình yêu và hôn nhân là hành

vi cá nhân chỉ liên quan đến người đàn ông và người phụ nữ, hoàn toàn thoát ly

khỏi phạm vi gia đình. Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu lấy

Trọng Quỳ là có sự ưng thuận của đôi bên cha mẹ: “Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng

ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kỳ cưới hỏi” [60.16]. Vũ Nương trong

Chuyện người con gái Nam Xương trở thành vợ của Trương Sinh phải qua sự cưới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 http://www.lrc-tnu.edu.vn

hỏi tử tế của gia đình Trương Sinh: “Trong làng có chàng Trương Sinh mến vì dung

91

hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” [60.176]. Còn nàng Lệ Nương và

Phật Sinh trong Chuyện Lệ Nương được yêu nhau, đi lại với nhau cũng là do cha mẹ

đã định sẵn hôn ước từ khi còn trứng nước: “Chúng ta ở trong phố vẫn quen thân

nhau, việc đi lễ cầu tự hôm nay lại không hẹn mà cùng giống nhau. Nếu mà hương

lửa có duyên, sau này ta sẽ cho các con sinh nên đôi lứa. Bình dân ta lại làm bạn với

bình dân, chẳng cần phải kén chọn con ông cháu cha gì cả; nói có Sơn thần chứng

giám, tôi quyết không sai lời” [60.195]… Trong khi đó, Trọng Quỳ trong Chuyện

cây gạo đến với Nhị Khanh nơi đất khách quê người, không cần quan tâm đến sự

can thiệp của gia đình. Nhị Khanh cũng chẳng hề quan tâm Trọng Quỳ là ai, gốc

tích chàng ra sao, cũng không cần dẫn chàng về thăm nhà mình vì nàng quan niệm

chuyện yêu đương trai gái là việc riêng tây. Khi Trọng Quỳ nghe lời khuyên nhủ

của bạn bè muốn về thăm gia quyến Nhị Khanh, nàng không chối từ, chỉ tâm sự với

Trọng Quỳ: “Nhà thiếp không phải xa xôi là mấy. Nhưng nghĩ chúng mình gặp gỡ,

chẳng qua là một cuộc riêng tây. Chỉn e thuyền quyên ghen ghét, tai mắt nghi ngờ,

đánh vịt mà kinh uyên, đốt lan mà héo huệ. Cho nên thà mang sao mà đến, đội

nguyệt mà về, khỏi để mối lo cho lang quân đó thôi” [60.33]. Lời tâm sự này khẳng

định dứt khoát quan niệm tự do yêu đương của Nhị Khanh, thể hiện quan niệm

phóng túng của nàng về tình yêu nam nữ.

Giống như cuộc tình giữa Nhị Khanh và Trình Trung Ngộ trong Chuyện

cây gạo, cuộc kỳ ngộ giữa Hà Nhân và hai nàng Nhu, Liễu trong Chuyện kỳ ngộ ở

Trại Tây cũng là cuộc gặp gỡ thoát ly phạm vi gia đình. Ba người hẹn hò qua lại với

nhau nơi kinh thành phồn hoa, không hề có sự kiểm soát của cha mẹ. Liễu Nương

và Nhu Nương cũng không cần bận tâm đến gia đình của thư sinh họ Hà, mục đích

hai nàng đến với chàng không phải là quan hệ bó buộc trong hôn nhân mà chỉ là đi

lại để thỏa mãn những khát khao chưa thỏa. Vì thế, khi Hà Nhân bị cha mẹ gọi về định

việc cưới hỏi, hai nàng tuy buồn nhớ nhưng không ngăn cản, không hề tỏ bày mong

muốn được làm vợ chàng.

Ta cũng thấy quan niệm và cách ứng xử trong tình yêu, hôn nhân tương tự như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 http://www.lrc-tnu.edu.vn

thế ở nhân vật Thị Nghi, Hàn Than, Túy Tiêu trong các truyện Chuyện yêu quái ở Xương

92

Giang, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện nàng Túy Tiêu. Những người con gái

này đến với hôn nhân không bị bó buộc trong phạm vi gia đình hay tuân theo những luật

lệ định sẵn. Họ hành động theo sự lựa chọn cá nhân, riêng tư. Những cuộc tình mà

những người con gái này tạo nên là những cuộc tình mang tính chất nổi loạn, những cuộc

tình mang đậm yếu tố thân xác, những cuộc tình lệch chuẩn so với truyền thống tiếp

nhận của xã hội, trái với những giáo điều răn dạy của Nho gia. Miêu tả cách ứng xử đó

của người phụ nữ, người trần thuật tuy không tỏ rõ thái độ phê phán gay gắt nhưng thái

độ không đồng tình dường như thể hiện tương đối rõ ở mỗi truyện, nhất là trong phần kết.

Không chỉ chú ý đến cách ứng xử trái đạo lý Nho giáo chính thống, miêu tả

các nhân vật nữ phản diện, nhà văn còn chú ý nhiều đến hành động của họ. Nếu như

các nhân vật nữ chính diện lý tưởng thường chỉ được tô đậm trong hành động tự vẫn

để chứng minh lòng trinh liệt và hầu như không có cử chỉ kèm lời thì các nhân vật

nữ phản diện lại xuất hiện với hàng loạt hành động và cử chỉ, nhất là những hành

động và cử chỉ vốn bị Nho gia phong kiến phê phán.

Xuất hiện trước Trình Trung Ngộ, Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo không

nhu mì như những người con gái khuôn phép mà “xốc xiêm rảo bước”, vừa đi vừa

nói chuyện với người hầu gái. Bao giờ nói nàng cũng có những cử chỉ kèm lời rất

tình tứ như cười, thở dài, chau mày, ôm đàn… Tất cả những cử chỉ đó dưới con mắt

Nho gia đều là biểu hiện của người phụ nữ đa tình lẳng lơ, không phải là cử chỉ của

người con gái đoan chính. Bởi lẽ, theo quan điểm Nho gia, người con gái đoan

chính thì phải phải ăn nói đoan trang, không được có những cử chỉ kèm lời:

Nói đừng chau mặt, chau mày,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!

(Gia huấn ca)

Không chỉ xuất hiện với những cử chỉ vượt lễ giáo, Nhị Khanh còn đối lập

với các nhân vật phụ nữ lý tưởng qua hàng loạt hành động ma quái, chủ động và táo

bạo. Giữa đêm khuya, nàng lên cầu hẹn hò với chàng trai chưa một lần nói chuyện,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong thời gian chờ đợi người con trai ấy xuất hiện, nàng ngồi “tựa vào lan can trên

93

cầu, ôm đàn gẩy mấy khúc Nam cung, mấy điệu Thu tứ” - rất tình tứ và nghệ sĩ,

không tuân theo lời gia huấn chính thống dành cho nữ giới:

Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,

Khi tối tăm đèn phải phân minh,

Hoặc khi hội hát linh đình,

Được lời dạy đến thì mình hãy ra.

Ra phải có mẹ già em nhỏ,

Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.

(Gia huấn ca)

Khác hẳn với quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, “nam nữ đại phòng”

của Nho giáo, Nhị Khanh gợi ý cho Trung Ngộ đến gặp mình trong không gian đêm

tối - không gian bị nhà Nho coi là không gian gian dâm, sau đó xuống thuyền cùng

Trung Ngộ tình tự, ân ái, làm thơ. Nàng cũng chính là người chủ động đến thuyền

Trung Ngộ hàng đêm để được thỏa thú vui ân ái mà nàng khao khát. Hành động của

nàng tất cả đều chủ động, bình đẳng với Trung Ngộ chứ không bị động so với người

đàn ông này dù cho những hành động như vậy dễ bị quan điểm Nho giáo cho là cọc

đi tìm trâu, gian dâm, thiếu đứng đắn.

Khi hiện nguyên hình là ma, khiến Trung Ngộ sợ hãi, Nhị Khanh cũng vẫn

tự tin, kiên quyết tranh đấu đến cùng để thỏa khát vọng của mình. Nàng dùng lời

nói ranh mãnh và táo tợn để yêu cầu Trung Ngộ: “Chàng đã từ xa lại đây, quyết không

có lý nào còn trở về nữa. Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết

mà hẹn hò nhau! Xin sớm theo nhau đi cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ

một mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về” [60.34]; đồng thời nàng cũng

hành động quyết liệt và dữ dội để níu giữ tình nhân: “Nói rồi nàng sấn lại nắm vạt áo

chàng. Nhưng may vạt áo cũ bở, chàng giật rách mà chạy được thoát” [60.34]. Không sợ

dư luận và những người bạn của Trung Ngộ, khi Trung Ngộ ốm vì bị ám, Nhị Khanh

ngang nhiên “đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào” [60.35] để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 http://www.lrc-tnu.edu.vn

lôi kéo Trung Ngộ theo mình.

94

Tuy nhiên, tất cả những hành động chủ động và táo bạo đó của Nhị Khanh

lại được nhìn bằng thái độ e sợ và coi thường. Hành động, cử chỉ của nàng rõ ràng

được miêu tả với dụng ý tô đậm chân dung một yêu nữ. Thái độ coi thường e sợ này

không chỉ thể hiện trong những từ ngữ nhấn mạnh sự đa tình, tinh quái của nàng

(xốc xiêm rảo bước, thở dài mà nói, chau mày nói, cười mà rằng, sấn lại nắm vạt áo,

gọi eo éo, nói thì thào…) mà còn thể hiện rõ qua chi tiết cường điệu hóa hình ảnh

của nàng sau khi nàng và Trung Ngộ chết, thể hiện qua lời nhận xét của người kể

chuyện, của các nhân vật trong truyện về nàng và đặc biệt qua phần kết truyện và

lời bình về nàng ở cuối tác phẩm.

Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây

cũng có những hành động, cử chỉ rất giống với Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo.

Hai nàng cũng là những người chủ động trêu ghẹo Hà Nhân, chủ động đến với cuộc

tình ân ái tay ba. Thấy Hà Nhân đi học qua Trại Tây, hai nàng chủ động quyến rũ

Hà Nhân bằng những hành động hấp dẫn nam giới như “nhí nhoẻn cười đùa”, hái

những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp ném cho chàng: “Ngày ngày đi qua, Sinh thường

thấy hai người con gái đứng ở bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái

những quả ngon, bẻ những bông hoa đẹp mà ném cho sinh nữa” [60.48].

Khi gối chăn êm ấm với Hà Nhân, hai nàng làm thơ từ ghi lại cảnh ân ái. Hành

động chủ động làm thơ đã là hãn hữu đối với người phụ nữ xưa, làm thơ ghi lại cảnh ân

ái lại càng vô cùng hiếm có. Vậy mà cũng giống Nhị Khanh, Hồng Nương và Nhu

Nương không ngần ngại viết ra những câu thơ miêu tả hành động chốn buồng the. Thơ

của hai nàng không ngần ngại miêu tả quan hệ tính dục và tình trạng chốn buồng the với

những từ ngữ nhắc đến thân thể, gợi liên tưởng quan hệ thân xác nam-nữ. Thêm nữa, sau

đêm đầu hò hẹn, ngày nào hai nàng cũng chủ động “sớm đi tối đến” để thỏa nguyện chăn

gối với chàng thư sinh này.

Cùng với những hành động chủ động, táo bạo ấy, hai nàng còn hiện lên với

những cử chỉ đa tình, quyến rũ. Những cử chỉ đó dù rất nhỏ nhưng rõ ràng được nhấn

mạnh có dụng ý nhằm đặc tả chân dung những người con gái lẳng lơ như: “nhí nhoẻn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 http://www.lrc-tnu.edu.vn

cười đùa”, “tươi cười bảo”, “tươi cười hỏi”, hay “nắc nỏm khen”, “thẹn thò nói rằng”

95

và “gượng lệ nói”… Miêu tả những cử chỉ này, dụng ý của tác giả không phải ngợi ca

mà chỉ nhằm tô đậm thêm sự hấp dẫn, tinh quái của hai cô gái.

Đào Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị cũng hiện lên với

những hành động rất chủ động, táo bạo: Người con gái này dám liều ứng khẩu với

vua khi chầu ở tiệc rượu, nàng còn dám đưa tên của mình vào bài thơ đó mà không

e sợ hay lo lắng; Khi bị người khác ức hiếp, nàng cũng không chịu nhẫn nhịn mà

dám chủ động bán đồ trang sức để thuê người trả thù; Đến tu ở chùa Phật Tích, dù

đang bị truy đuổi nhưng Hàn Than vẫn chủ động sống theo sở thích của mình. Nàng

mở am Cư Tĩnh để hội họp cùng những văn nhân, làm thơ xướng họa tự do tự tại;

Sau khi trốn khỏi chùa Phật Tích, nàng chạy đến chùa Lộ Kỳ - một nơi nước tú non

kỳ, phong cảnh tuyệt đẹp để xin trú thân. Dù bị sư cụ Pháp Vân từ chối, dù đang

sống trong thân phận kẻ chạy trốn, những hành động của nàng vẫn luôn mang dáng

dấp hành động của một người con gái không bao giờ từ bỏ hạnh phúc trần thế; Nàng

tuy ở cõi Phật yên tĩnh nhưng vẫn giữ nguyên những bản năng nữ tính vốn có: “Hàn

Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa trừ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên,

mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn” [60.80]; Sau đó nàng còn

dám tư thông với sư bác Vô Kỷ, yêu sư bác Vô Kỷ si mê đắm đuối: “Cõi dục đã gần,

máy thiền dễ chạm, bèn cùng nhau tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say

sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến

kinh kệ nữa” [60.80]. Nàng cũng cùng Vô Kỷ làm thơ liên cú, ngâm vịnh rất lãng

mạn, tự tại và tài hoa, thể hiện tài năng khác hẳn người thường: “Hàng ngày hai

người cùng nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể

ngâm vịnh được đều dấp bút đề vịnh để ghi danh thắng” [60.80]. Không bị ràng

buộc bởi những luật lệ nghiêm ngặt, Hàn Than yêu sư bác Vô Kỷ bằng tình yêu

đắm đuối, quên cả kinh kệ, quên tất cả luân lý xung quanh: “Hai người ham mê

nhau quá, ngoài cái thú vui sướng trước mắt, không còn nghĩ đến điều gì là lạ”

[60.87]. Những hành động đó trong con mắt người thường là chính đáng và cần

được trân trọng nhưng ở đây, nó dường như lại bị dư luận nhà Nho, bị sư cụ Pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Vân nhìn bằng con mắt nghiêm khắc và e sợ; Khi chết đi, Hàn Than vẫn kiên quyết

96

tranh đấu để dù làm ma vẫn được sống bên cạnh người yêu, được trả thù đời nên

nàng đã chủ động báo mộng cho Vô Kỷ, rủ Vô Kỷ về suối vàng đầu thai kiếp khác.

Đáng tiếc, chung cục cho chuỗi hành động táo bạo của Hàn Than vẫn là một bi kịch

ai oán. Kế hoạch trả thù của nàng bị phát hiện và phá vỡ vào giai đoạn cuối cùng.

Kết thúc khuyến trừng phạt của câu chuyện được xây dựng với dụng ý trừng trị Hàn

Than và sư bác Vô Kỷ đến tận gốc rễ vì những hành động táo bạo của họ. Xét cho

cùng, những hành động đó không sai, nó chỉ trái với đạo lý nghiệt ngã của Nho gia

và trái với những quy tắc Nho gia yêu cầu với người phụ nữ.

Trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang, thái độ ghê sợ, kì thị người phụ nữ thể

hiện ngay ở nhan đề tác phẩm. Thị Nghi - người con gái mang nhiều bất hạnh trong

cuộc đời và dám hành động để đạt được chút hạnh phúc ngắn ngủi bị coi là yêu quái.

Nàng được tả trong hình ảnh của một nữ quái đáng sợ ở đầu truyện: “Ở Phong Châu có

người họ Hồ tên là Kỳ Vọng. Cuối đời họ Hồ, Kỳ Vọng đi buôn bán, ngụ ở thành

Xương Giang rồi ốm chết ở thành ấy. Người vợ nghèo kiết, không có tiền để đưa ma

chồng về quê được, phải đem bán người con gái nhỏ là Thị Nghi cho một nhà phú

thương họ Phạm. Người con gái lớn lên, khá có tư sắc, họ Phạm yêu mến rồi cùng nàng

tư thông. Vợ Phạm biết việc ấy, bèn mượn cớ khác đánh Thị Nghi một trận đau quá

đến chết rồi đem chôn ở bên cạnh làng. Sau mấy tháng, hồn Thị Nghi hưng yêu tác

quái, biến huyễn đủ vẻ, hoặc nhập vào chị ả buôn tương, hoặc ốp vào cô nàng bán rượu,

người có vai vế thì bị dâm sát, người có tiền của thì bị bóc lột, suốt một giải đường

mười dặm, người ta đều phải đi trưa về sớm, bảo nhau thấy gái đẹp chớ trêu vào”

[60.122]. Giữa đêm khuya, thấy viên quan họ Hòang qua bến sông, Thị Nghi biến

thành cô gái mặc áo lụa đỏ ngồi trên đệm cỏ rồi khóc ai oán để gây chú ý. Sau khi được

viên quan họ Hoàng giúp đỡ tìm hài cốt cha mẹ, nàng chủ động tự nguyện đặt vấn đề

mong được làm vợ viên quan này, thoát ly hẳn quan niệm người phụ nữ chính chuyên

phải lấy chồng theo ý cha mẹ, phải do người đàn ông chủ động: “Thiếp cùng chàng vốn

chẳng hẹn hò, bỗng nên gặp gỡ. Nhưng trước kia vì cha mẹ chưa được mồ yên mả đẹp,

cho nên phải chống lại những sự đùa cợt của chàng. Nay việc đã viên thành, vậy xin

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 http://www.lrc-tnu.edu.vn

được đem mình hầu hạ khăn lược, vả lại chàng đi làm quan xa, giúp trong thiếu kẻ, vậy

97

thiếp xin đương những công việc tảo tần” [60.124]. Tuy vậy, kết cục cho những hành

động hết sức táo bạo của nàng cũng là sự trừng trị vô cùng tàn nhẫn. Chung cục cho

những hành động đó vẫn là bất hạnh nối tiếp bất hạnh.

Trong Chuyện nàng Túy Tiêu, Túy Tiêu tuy bị Trụ quốc họ Thân bắt về làm vợ

lẽ nhưng nàng không kiên quyết tự tuẫn để giữ tiết như những người phụ nữ chính diện

lý tưởng mà chấp nhận sống với kẻ thù. Không chỉ sống với kẻ thù, khi được Dư

Nhuận Chi giải thoát, người phụ nữ này lại tiếp tục sống với chồng cũ mà không xấu

hổ hay mặc cảm về thân phận của mình. Hành động và cách ứng xử của nàng là cách

hành động tự do, không bị bó buộc bởi khuôn phép Nho gia. Cũng chính vì lí do này

mà Túy Tiêu bị phê phán và coi thường chứ không được ngưỡng mộ và ca ngợi như

những nhân vật nữ lý tưởng lấy cái chết để chứng minh đức hạnh.

Tóm lại, hành động của những người phụ nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn

lục là những hành động táo bạo, chủ động, vượt ngoài khuôn phép Nho gia. Cách ứng

xử của họ cũng không phải là cách ứng xử hết mực vì người đàn ông, hy sinh tất cả vì

người đàn ông và nhất nhất tuân theo chuẩn mực đạo đức Nho gia như những người

phụ nữ chính diện lý tưởng mà là cách ứng xử vượt ngoài lễ giáo, lấy khát vọng và

quyền lợi cá nhân làm tiêu chí xử thế. Tuy nhiên, những hành động và ứng xử táo bạo

này hầu như không được miêu tả với thái độ đồng tình hay ngưỡng mộ mà thường bị

ghê sợ, khinh thường.

3.5 Số phận

Nếu như cuộc đời và số phận của những người phụ nữ chính diện lý tưởng

được tái hiện chủ yếu qua hai giai đoạn: khi còn sống và khi đã chết hoặc trước

hoạn nạn và sau hoạn nạn với những bất hạnh riêng nhưng cuối cùng vẫn được thần

thánh hóa, được rửa oan hoặc tìm lại hạnh phúc vì họ đã ứng xử và hành động theo

chuẩn mực Nho gia thì những người phụ nữ phản diện lại có số phận khác hẳn.

Quan niệm và điểm nhìn Nho giáo nam quyền cũng chi phối sâu sắc cách tổ chức

cuộc đời, số phận của những người phụ nữ này. Cuộc đời người phụ nữ phản diện

thường được tái hiện qua ba giai đoạn, dù khi sống làm người thực sự hay khi đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 http://www.lrc-tnu.edu.vn

chết, số phận của họ luôn luôn bất hạnh: Khi còn sống, người phụ nữ bị vùi dập do

98

thấp kém hèn mọn; khi chết đi họ cố vẫy vùng để thực hiện khát khao chưa thỏa

nhưng lại bị những lễ nghi hà khắc của Nho gia đánh giá với thái độ nghiêm khắc;

chết thêm một lần nữa, họ bị trừng trị nghiệt ngã, thảm khốc.

Trừ nàng Túy Tiêu trong Chuyện nàng Túy Tiêu dù gặp bất hạnh là bị quan

Quốc trụ bắt đi nhưng cuối cùng Túy Tiêu vẫn được trở về với chồng, sống cuộc

đời hạnh phúc đến già, hầu hết những người phụ nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn

lục đều có quãng đời khi còn sống rất bi kịch và đau đớn. Nhị Khanh trong Chuyện

cây gạo thì bị chồng ruồng rẫy: “Thiếp tên Nhị Khanh, là cháu gái ông cụ họ Hối,

một nhà danh giá trong làng. Hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn hàn. Mới đây bị

người chồng ruồng bỏ, thiếp phải dời ra ở bên ngoài lũy làng” [60.29]. Hồng Nương

và Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây thì phải sống trong thân phận tì

thiếp, chưa thỏa mãn đời sống ái ân: “Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu

Nương, một người họ Đào, tên gọi Hồng Nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan

Thái sư. Từ ngày quan Thái sư qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín” [60.48].

Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang thì phải chịu cái chết đau đớn,

nhục nhã chỉ vì thói ghen tuông của vợ thương gia họ Phạm: “Người con gái lớn lên,

khá có tư sắc, họ Phạm yêu mến rồi cùng nàng tư thông. Vợ Phạm biết việc ấy, bèn

mượn cớ khác đánh Thị Nghi một trận đau đớn đến chết rồi đem chôn ở bên cạnh

làng” [60.122]. Bất hạnh nhất là cuộc đời Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của

Đào Thị với bao bi kịch nối tiếp: Hầu hạ vua Dụ Tôn không được bao lâu, Hàn Than

bị đẩy ra phố bơ vơ không nơi dựa dẫm, nàng thường xuyên đi lại nhà quan Hành

khiển Ngụy Nhược Chân rồi bị vợ Ngụy Nhược Chân đánh một trận tàn nhẫn; Định trả

thù người đàn bà độc ác đó, Hàn Than đem trâm hoa bằng vàng ngọc đi bán để thuê

người vào nhà Nhược Chân. Không ngờ việc bị phát hiện, nàng phải chạy trốn ở chùa

Phật Tích; Không bao lâu sau, nàng bị phát giác và buộc phải chạy trốn lên chùa Lộ Kỳ;

Sống với sư Vô Kỷ chưa được bao lâu nàng có thai, ốm liệt giường rồi chết trên giường

cữ rất thương tâm: “Năm kỷ sửu (1349) nàng quả vì có thai rồi ốm, lay lứt từ mùa xuân

đến mùa hạ, ngồi lên nằm xuống, đều tất phải có người đỡ vực. Sư Vô Kỷ vốn không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 http://www.lrc-tnu.edu.vn

biết thuốc, lại không biết đường chạy chữa, khiến nàng sau phải quằn quại chết trên

99

giường cữ” [60.87]. Mở đầu cuộc đời người con gái này cũng là một chi tiết thương

tâm, kết thúc cuộc đời người con gái này cũng là một bi kịch. Khổ đau dường như đeo

đuổi suốt cuộc đời nàng.

Khi sống phải chịu bất hạnh, chịu bao cảnh oan nghiệt, chết đi, tất cả những

người con gái này đều muốn vẫy vùng để thực hiện khát khao chưa thỏa. Họ đã chủ

động hành động, chủ động thực hiện khát vọng và phần nào đã có chút hạnh phúc.

Tuy nhiên, trong suốt những tháng ngày đó, họ vẫn bị người đời nhìn với con mắt

ghê sợ hoặc xem thường. Quãng đời được vùng vẫy của họ quá ngắn ngủi nhưng cái

giá phải trả cho nó lại vô cùng đắt ở phần kết thúc truyện.

Nếu như kết truyện của những truyện về người phụ nữ lý tưởng được xây dựng

theo mô-típ khuyến thưởng, thần thánh hóa thì trong những truyện về người phụ nữ phản

diện, phần kết truyện được tổ chức theo mô-típ khuyến phạt, ma quái hóa.

Trong Chuyện cây gạo, câu chuyện hoàn toàn có thể kết thúc ở chi tiết

Trình Trung Ngộ ôm quan tài Nhị Khanh chết ở Đông Thôn - chi tiết khép lại toàn

bộ tiến trình tự sự và logic với các chi tiết có từ đầu đến cuối truyện. Thế nhưng,

không dừng lại ở đó, phần kết của câu chuyện có thêm những tình tiết tô đậm tính

chất ma quái, đồi tệ của đôi trai gái dám vượt ra ngoài lễ giáo. Đôi tình nhân Nhị

Khanh và Trình Trung Ngộ sau khi chết bị cường điệu hóa trong hình ảnh dâm quỷ

hết sức ghê rợn: “…những đêm tối giời, người ta thường thấy hai người dắt tay

nhau đi đôi, khi thì hát, khi thì khóc; thường bắt người ta phải cầu khẩn lễ bái, hễ

không được như ý thì làm tai làm vạ” [60.35]; “Linh hồn của hai người bèn nương

tựa vào cây gạo ấy làm yêu làm quái, hễ ai động đến cành lá cây gạo thì dao gẫy rìu

mẻ, không thể nào đẫn phạt được” [60.35]; “Giữa lúc sông quạnh trăng mờ, bốn bề

im lặng, đạo nhân thấy một đôi trai gái thân thể lõa lồ cùng nhau cười đùa nô giỡn,

một lát, đến gõ thình thình mà gọi hỏi trong chùa” [60.36]… Không chỉ bị ghê sợ,

bị khinh bỉ, Nhị Khanh và Trung Ngộ còn bị diệt trừ đến tận gốc tích và chịu cảnh

đày đọa. Cây gạo hai người ẩn náu thì bị nhổ bật, thân xác hai người thì bị hành hạ

trong roi vọt: “Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây gạo đã bị nhổ bật, cành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 http://www.lrc-tnu.edu.vn

cây gẫy nát và bị tước như tước đay vậy. Kế nghe thấy trong không có tiếng roi vọt

100

và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông, có 6, 7 trăm lính đầu trâu gông trói

hai người mà dẫn đi” [60.37]…

Trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, câu chuyện kết thúc với sự kiện Hà Nhân

tỉnh ngộ, hai nàng Nhu, Liễu bị lộ diện trong thân xác hoang tàn xơ xác: “vài ba cây

đào liễu xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu” [60.61].

Ở Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, sau khi chết, Vô Kỷ và Hàn Than đầu

thai thành hai cậu con trai Nhược Chân nhằm trả thù gia đình này về tội người vợ

Nhược Chân đã hành hạ tinh thần và thể xác Hàn Than khiến cuộc đời nàng chìm

nổi. Tuy nhiên, kế hoạch trả thù chưa được thực hiện, vợ chồng nàng đã bị một thầy

tu phát hiện và sau đó bị sư cụ Pháp Vân phá vỡ. Yếu tố kỳ ảo được sử dụng để ca

ngợi sư cụ Pháp Vân, khuyến khích trừng phạt Hàn Than và Vô Kỷ. Dưới pháp

thuật của sư cụ Pháp Vân, họ bị diệt trừ đến tận gốc rễ, bị biến thành tro bụi trong

nỗi đớn đau chưa trả được thù, chưa thỏa nguyện yêu đương.

Kết thúc Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Thị Nghi bị phát hiện là yêu ma,

buộc phải trở về hình dạng tàn tạ là một đống xương trắng. Ngôi mộ của nàng

chẳng có xương cốt mà chỉ còn mấy giọt máu tươi rồi những giọt máu đó cũng tan

biến đi mất. Thậm chí, khi xuống âm phủ, nàng vẫn còn bị kỳ thị, bị hạch tội, bị lấy

làm gương yêu quỷ để răn đời.

Có thể khẳng định, nguyên nhân gây ra đau khổ cho những người phụ nữ này

chính là những người đàn ông và những quan điểm kỳ thị nữ giới mà xã hội đã gây ra cho

họ. Thế nhưng, người đàn ông hầu như không bị trừng trị mà tội danh hầu hết lại đổ cho

người phụ nữ. Người đàn ông dẫu có bị trách cứ cũng là do lỗi đã để cho sắc dục của

người phụ nữ gây ra. Quan điểm thưởng phạt giữa người đàn ông và phụ nữ có nhiều điểm

thiên lệch, thể hiện thái độ thiên vị nam giới. Kết thúc cuộc đời những người phụ nữ phản

diện là kết thúc nghiệt ngã, cáo buộc họ đã dám phạm lễ giáo. Miêu tả số phận người phụ

nữ phản diện, Nguyễn Dữ ít nhiều vẫn đứng từ điểm nhìn của một nhà Nho, thiên về bảo

vệ nam quyền, ít bênh vựa người phụ nữ. Tuy nhiên, Nguyễn Dữ cũng rất nhân đạo khi

phản ánh những bi kịch của họ. Ông giúp người đọc thấy được sự bi thương của số phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 http://www.lrc-tnu.edu.vn

người phụ nữ trong xã hội nam quyền bất công.

101

3.6 Những lời bình giá về ngƣời phụ nữ

Nếu như người phụ nữ chính diện nhờ hành động, cách ứng xử hợp với

khuôn phép Nho gia mà được ngợi ca ở mọi điểm nhìn thì người phụ nữ phản diện

có những hành động và cách ứng xử vượt ra ngoài khuôn phép lại luôn bị phê phán.

Thái độ phê phán và không đồng tình này đã chi phối sâu sắc không chỉ cách tả,

cách kể về ngoại hình, ngôn ngữ, tâm lý, cách ứng xử hành động, số phận nhân vật

mà còn thể hiện trực tiếp qua những lời nhận xét trong lời bình cuối tác phẩm.

Trong con mắt bạn buôn của Trung Ngộ, Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo

bị nhìn nhận như hạng gái lẳng lơ, trăng gió hời hợt: “Như người con gái ấy không

là cô ả nũng nịu ở chốn buồng thêu thì tất cũng dì bé yêu chiều ở nơi gác gấm”

[60.32]; Dưới mắt dân làng, nàng và Trung Ngộ bị ghê sợ, căm ghét: “Người nàng

đấy không thể chịu được mọi nỗi khổ hại, họ bèn đào mả phá quan tài của chàng,

rồi cùng cả hài cốt của nàng, vứt bỏ xuống sông cho trôi theo dòng nước” [60.35];

Trong con mắt đạo nhân, hai người bị nhìn với thái độ khinh bỉ: “Đạo nhân cho là

đôi trai gái lẳng lơ đêm giăng dắt nhau đi chơi, khinh bỉ cái phẩm cách của họ, nên

cứ đóng cửa nằm im, không thèm đánh tiếng” [60.36]… Rõ ràng, Nhị Khanh với

những hành động táo bạo chính đáng nhưng vượt ra ngoài lễ giáo đã bị nhìn nhận

với thái độ phê phán, ghê tởm. Giọng điệu lạnh lùng, coi thường Nhị Khanh thể

hiện khá rõ trong những câu văn đánh giá này.

Cùng những lời đánh giá của người trần thuật và các nhân vật trong truyện,

Nhị Khanh còn bị khinh bỉ, ghê sợ qua lời bình cuối truyện. Lời bình chú trọng đến

việc ca ngợi công đức lớn lao của vị đạo nhân, ủng hộ hành động đối xử dã man với

Nhị Khanh và Trình Trung Ngộ. Nàng Nhị Khanh giai nhân tuyệt sắc với quan niệm

sống phóng túng, nghiêng về thân xác bị gắn với “cái giống ma quỷ”, bị đem ra làm bài

học răn dạy cho nam giới: “Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn

đáng lo cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường hay mắc phải” [60.37].

Ở đây, Trình Trung Ngộ - “tòng phạm” với Nhị Khanh tuy không bị xét tội nhưng

cũng bị coi thường là kẻ thất phu đa dục, vì không có trí thức, không học đạo thánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhân nên mới mắc phải quỷ. Thái độ e sợ người đẹp, coi thường người phụ nữ có khát

102

vọng giới tính, nghiêng về thân xác thể hiện rất rõ. Qua lời bình ta cũng thấy quan niệm

khá bảo thủ về tình yêu tự do và về người phụ nữ sống vượt ra ngoài lễ giáo.

Trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Hồng Nương và Nhu Nương bị cụ già

hàng xóm Hà Nhân đánh giá là những hạng gái dâm đãng, những u hồn trệ phách

đáng ghê sợ: “Ồ! Cậu rõ nói chuyện chiêm bao chửa! Cái dinh cơ ấy từ khi quan

Thái sư mất, trải hơn 20 năm nay, đã thành một nơi hoang quạnh. Mấy gian đền

mốc một người quét dọn cũng không có, làm gì nhiều những cô gái họ nọ họ kia

như cậu nói. Chẳng qua đó là những hạng gái lẳng lơ dâm đãng; nếu không thì là

những u hồn trệ phách, hiện lên thành yêu quỷ đó thôi” [60.60]. Cách đánh giá

người phụ nữ ở đây rất giống với cách xây dựng những hình ảnh người phụ nữ đẹp

là u hồn trệ phách của Sơn Nam Thúc trong Thánh Tông di thảo.

Cũng giống như ở Chuyện cây gạo, thái độ đánh giá nhân vật nữ trong

Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây không chỉ thể hiện qua kết cấu tự sự, giọng điệu trần

thuật, qua nhận xét của các nhân vật phụ mà còn được thể hiện qua lời bình cuối tác

phẩm. Ở đây, tác giả lời bình đã đứng trên quan điểm nhà Nho chính thống răn giáo

nam giới cần biết quả dục, tiết dục, né tránh sự quyến rũ từ sắc đẹp và nhục dục của

người phụ nữ: “Than ôi, thanh lòng không bằng quả dục. Dục nếu yên lặng thì lòng

trống rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến

quấy nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều vật dục, cho nên loài kia

mới thừa cơ quyến rũ. Nếu không thì những giống nguyệt quái hoa yêu, mê hoặc

sao được mà chẳng phải thu hình nép bóng ở trước Lương công là một bậc chính

nhân. Kẻ sĩ gánh cặp ở Trường An, tưởng nên chăm chỉ về học nghiệp, tuy không

dám mong đến được chỗ vô dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt

lắm” [60.64]. Ở đây, người phụ nữ bị coi là tà yêu quỷ, là án ngữ trong con đường

học hành của đấng nam nhi.

Trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Hàn Than cũng được đánh giá qua

nhiều điểm nhìn khác nhau. Qua điểm nhìn nào, nhân vật cũng bị hình dung là

người phụ nữ tà dâm, lẳng lơ; Trong điểm nhìn của vợ Nhược Chân, Hàn Than là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 http://www.lrc-tnu.edu.vn

người phụ nữ đi quyến rũ đàn ông, quyến rũ chồng người khác. Vì thế, không biết

103

thực hư thế nào, nàng bị vợ Nhược Chân đánh cho một trận tàn nhẫn; Trong mắt

của cậu học trò, nàng là cô gái lẳng lơ, lòng còn nhiều tà dục nên cách đi cách đứng,

hành động, dáng vẻ, cử chỉ của nàng được cậu ta tái hiện trong bài thơ với thái độ

giễu cợt, khinh miệt; Trong mắt sư cụ Pháp Vân, Hàn Than là người phụ nữ không

đoan chính, dễ trở thành án ngữ trên con đường tu giới của người đàn ông: “Người

con gái này, nết không cẩn nguyệt, tính bén lẳng lơ, tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng

lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm

bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt” [60.79]; Trong mắt của người kể

chuyện, Hàn Than là một “ả danh kỹ”, một người con gái có nhiều vật dục và chỉ

biết đắm đuối trong tình yêu, ngoài thú vui trước mắt không còn nghĩ đến điều gì

khác, không thể đến được cõi thiền… Tất cả những lời đánh giá này đều khe khắt

với Hàn Than, thể hiện thái độ e sợ, kỳ thị nàng.

Không trực tiếp phê phán Hàn Than, tác giả lời bình phê phán hai nhân vật

nam trong truyện là Vô Kỷ và Nhược Chân. Tuy dụng ý lời bình thiên về tính chất

phê phán xã hội nhưng qua đó phần nào thấy được quan niệm của tác giả lời bình

về người phụ nữ. Ở đây, sư Vô Kỷ bị phê phán vì yêu sắc đẹp và tài năng của

nàng Hàn Than mà trễ nải việc tu chính, quả dục: “Than ôi, theo về dị đoan chỉ là

có hại. Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng phép, thì mối hại phỏng còn

xiết nói được ư? Gã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian dâm, buông thói tà dục, chẳng

những dối người, mà còn dối vị phật của hắn thờ nữa. Giá đem xử vào cái tội như

vua Ngụy giết bọn Sa môn ngày xưa thì hắn cũng không oan chút nào” [60.92].

Phê phán thói gian dâm, tà dục của Vô Kỷ nghĩa là vô hình trung tác giả lời bình

đã phê phán yếu tố sắc dục của Hàn Than, nói rộng ra là của người phụ nữ. Tác

giả lời bình rõ ràng vẫn đứng trên quan điểm Nho giáo chính thống, quan điểm

nam quyền để đánh giá nhân vật.

Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang cũng bị đánh giá qua

nhiều điểm nhìn khác nhau. Song, dù ở điểm nhìn của ai, nàng vẫn bị đánh giá

theo những nghiêm luật chặt chẽ của Nho gia nam quyền: Trong con mắt những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 http://www.lrc-tnu.edu.vn

người dân ở Xương Giang, Thị Nghi khi còn sống là một người con gái không

104

đoan chính, dám tư thông với ông chủ họ Phạm; khi chết đi, nàng bị xem là yêu

quái chuyên hạch sách, tác quái khiến người thường phải kinh sợ; Trong con mắt

đạo nhân chữa bệnh cho viên quan họ Hoàng, Thị Nghi là tà yêu gây ra bệnh quỷ

ám của chồng: “Tôi chợt trông mặt ông này, thấy đầy những yêu khí, mà người

con gái ấy, chính là gốc rễ tà yêu” [60.125]; Thậm chí, chính trong mắt người

chồng, Thị Nghi cuối cùng cũng bị nhìn như kẻ thù. Từ một người vợ, nàng trở

thành một nữ quái đáng khinh bỉ: “Há bởi trước đặt bày huyền hoặc. Cốt muôn

người phòng bị tà gian… Đem môi son má phấn làm tôi say mê, rút nguyên khí

chân tinh khiến tôi hao tổn. Nếu không gặp thần y cứu chữa. Sớm đã về chín suối

vật vờ…” [60.128]; Tương tự như vậy, trong mắt của diêm vương, Thị Nghi là

loài nhơ nhớp, dâm tà. Tất cả những lời miệt thị con người xấu xa nhất đã được

Diêm vương dùng để đánh giá nàng:

Cớ sao loài nhơ nhớp,

Dám dở thói điên cuồng.

Một đời chỉ sống với tà dâm, tham lam đã lắm,

Đến chết vẫn còn toan dối trá, giả mạo sao nhiều

Cho là tội danh có thể trốn qua,

Cho là Minh phủ không thể trừng phạt.

Cáo họ Nhâm, hổ họ Thôi, lắm trò biến huyễn…

Thị Nghi bị Diêm Vương coi thường, khinh bỉ và trừng phạt ngay cả khi

đã thân tàn ma dại, một nắm xương cũng không còn: “Không ngờ cái nhãi, mà

dám đảo điên, đã làm sự dâm tà lại còn toan kiện bậy. Vậy nên đem tống giam vào

ngục” [60.128].

Thành kiến đối với sắc đẹp của Thị Nghi càng thể hiện rõ hơn qua lời bình

cuối tác phẩm. Ở đây, lời bình trở thành lời giáo huấn nam giới, răn dạy nam giới

tránh xa nữ sắc: “… Phương Chi xem thấy yêu nữ mê người, sẽ biết răn sợ trước

sắc đẹp, xem thấy linh từ xử án sẽ biết tránh trước thần thiêng. Nghi để truyền

nghi, chẳng có gì là quá đáng vậy” [60.131]. Tư tưởng của tác giả lời bình giống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 http://www.lrc-tnu.edu.vn

với tư tưởng của Diêm Vương khi răn dạy viên quan họ Hoàng: “Nhà ngươi theo

105

đòi Nho học, đọc sách thánh hiền trải xem những sự tích xưa nay, há không biết lời

răn sắc đẹp, cớ sao lại đi vào con đường ấy!” [60.131]. Tất cả những nhân vật này

đều đã đứng trên quan điểm nam quyền để đánh giá nhân vật nữ. Vì vậy, những gì

có hại cho người đàn ông đều bị xem là xấu xa. Người phụ nữ với bao bất hạnh

không được thương xót hay cảm thông.

Trong Chuyện nàng Túy Tiêu, lời bình gay gắt phê phán Túy Tiêu là người con

gái bất chính, không theo đạo “Tam tòng”, coi thường nàng là một ả ca xướng: “Than ôi,

người con trai bất trung, ông vua trung thường xấu hổ lấy làm bề tôi, người con gái bất

chính, kẻ sĩ trung thường xấu hổ lấy làm vợ. Túy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng là người

chính chuyên, không hiểu Nhuận Chi ham luyến về cái gì? Vì nàng hiền chăng? Nhưng

hết là vợ họ Trương lại là hầu họ Lý? Vì nàng đẹp chăng? Thì hết làm mê Hạ Sái lại làm

hoặc Dương Thành” [60.166]. Không chỉ miệt thị Túy Tiêu, lời bình còn hướng đến

trách móc Dư Nhuận Chi đã để sắc đẹp của Túy Tiêu, lụy mình trước người khác chỉ vì

một ả ca nữ không chính chuyên: “Vậy mà lại khinh thường sự đi sự đến, nhẫn nhục tới

ở với người, sờ đầu cọp, vuốt râu hùm, xuýt nữa thì không thoát miệng cọp. Như chàng

Nhuận Chi, thật là một người ngu vậy” [60.166]. Nếu đây quả thực là lời bình của

Nguyễn Dữ thì quả thực tư tưởng bảo vệ trật tự nam quyền và kỳ thị người phụ nữ vẫn

còn sâu đậm trong ông.

Như vậy, hầu hết những lời bình trong các truyện về người phụ nữ phản

diện trong Truyền kỳ mạn lục đều là những câu văn mang tính chất giáo huấn,

phê phán lối sống buông thả bản năng của người đàn ông và phụ nữ, chỉ rõ tác

hại của lối sống đó đối với sự tu thân chính quả của người đàn ông. Đặc biệt,

lời bình tỏ thái độ khá khắt khe và không đồng tình với những người phụ nữ

sống và hành động không theo chuẩn mực Nho gia. Cách bình luận này thể hiện

quan niệm văn hóa cho rằng người phụ nữ đẹp là biểu tượng của sự cám dỗ sắc

dục, là tượng trưng cho dục vọng bản năng, là đáng sợ như ma quỷ. Quan điểm

của tác giả lời bình hầu như thống nhất tuyệt đối với tư tưởng của những đạo

nhân trong các truyện. Những nhân vật này xuất hiện như biểu tượng của con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 http://www.lrc-tnu.edu.vn

người luân lý, con người không thể bị sa ngã trước hấp dẫn của sắc dục.

106

Tiểu kết

Nếu như người phụ nữ chính diện lý tưởng là những người sống theo bổn

phận nghĩa vụ đạo đức, tuân theo khuôn phép Nho gia yêu cầu và được ngợi khen,

thần thánh hóa do đã nhu thuận, khắc kỷ, hy sinh hết mình vì người đàn ông, trong

trường hợp đòi hỏi của hoàn cảnh có thể lấy thân xác để chứng minh tiết hạnh và

không được miêu tả về đời sống riêng tư cá thể thì người phụ nữ phản diện lại được

xây dựng theo mô-típ ngược lại. Những người phụ nữ này là những người có vẻ đẹp

ngoại hình hấp dẫn về phương diện giới. Họ có những hành động và cách ứng xử

vượt ngoài khuôn phép Nho gia, dám lấy khát vọng và quyền lợi cá nhân làm tiêu

chí xử thế. Tâm lý của họ là thế giới tâm lý chứa đựng những rung động riêng tư,

thậm chí chứa đựng những khát vọng mang yếu tố thân xác. Qua các diễn ngôn, họ

dám chủ động, táo bạo phát biểu những quan niệm phóng túng về tình yêu, về quan

hệ ái ân nam nữ. Xây dựng hình tượng những người phụ nữ phản diện, một mặt nhà

văn đã đưa ra những dòng ngợi ca công khai về quyền sống của người phụ nữ về

thân xác, thể hiện thái độ thương xót với số phận bi kịch của họ. Đó là tinh thần

nhân đạo đáng quý của Nguyễn Dữ. Nhưng đồng thời, do chưa thoát khỏi ảnh

hưởng của tư tưởng nam quyền, ở một chừng mực nào đó, nhà văn vẫn miêu tả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 http://www.lrc-tnu.edu.vn

những người phụ nữ tự do, buông thả này với tinh thần phê phán.

107

KẾT LUẬN

Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi vận dụng những tri thức về văn hóa giới

thời trung đại ở Việt Nam để phân tích, cắt nghĩa hình tượng người phụ nữ trong

Truyền kỳ mạn lục từ góc nhìn giới. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một

số kết luận như sau:

1. Xã hội Việt Nam thời trung đại là xã hội nam quyền với Nho giáo là quốc

giáo. Trong bối cảnh văn hóa đó, người phụ nữ có địa vị thấp hèn và sống trong

thân phận phụ thuộc, người đàn ông và toàn xã hội đã lấy tiêu chí giá trị của nam

giới, có lợi cho nam giới để áp đặt cho người phụ nữ. Vì vậy, chỉ có những người

phụ nữ đáp ứng các tiêu chí nam giới đã đưa ra mới được khen ngợi, được coi là

người phụ nữ chính diện lý tưởng, ngược lại sẽ bị phê phán, bị coi là người phụ nữ

phản diện. Căn cứ vào quan điểm như vậy về người phụ nữ ở Việt Nam thời trung

đại, chúng tôi chia nhân vật người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục thành hai kiểu:

Người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ phản diện nhằm tìm hiểu sự chi

phối của quan điểm văn hóa giới thời trung đại đến việc kể, tả, nhìn nhận, đánh giá

về người phụ nữ trong tập tác phẩm này. Những người phụ nữ được coi là nhân vật

nữ lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục gồm có: nàng Nhị Khanh trong Chuyện người

nghĩa phụ ở Khoái Châu, nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương,

nàng Dương Thị trong Chuyện đối tụng ở Long cung, nàng Lệ Nương trong Chuyện

Lệ Nương và phu nhân Ngô Chi Lan trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa. Ngược

lại, những người phụ nữ ngôn hành vượt ra ngoài khuôn phép Nho gia, bị coi là

người phụ nữ phản diện gồm có: Nàng Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào

Hồng Nương và Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, nàng Thị Nghi

trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang, nàng Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan

của Đào Thị, nàng Túy Tiêu trong Chuyện nàng Túy Tiêu. Ngoài các nhân vật nữ

trên, Giáng Hương trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên được coi là nhân vật trung

gian. Người con gái này tuy là tiên nữ nhưng chưa dứt được “thất tình”, đem lòng

yêu Từ Thức, vướng lụy nhân duyên, khác hẳn các tiên nữ khác cố nén dục sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong cô quạnh. Tuy nhiên, miêu tả cuộc tình giữa nàng tiên nữ này với Từ Thức,

108

tác giả không phủ nhận tình yêu thân xác ái ân. Thái độ của tác giả với nàng tiên nữ

này là trung tính, không rõ rệt khen hay chê như nhân vật nữ ở các truyện khác. Sự

phân loại này chắc chắn chỉ mang tính tương đối và cần gắn với quan điểm văn hóa

về nữ giới thời trung đại.

2. Nghiên cứu người phụ nữ từ quan điểm văn hóa giới thời trung đại chúng

tôi nhận thấy, quan điểm về nữ giới của Nho gia đã chi phối sâu sắc cách kể, tả,

đánh giá về người phụ nữ. Vì vậy, những người phụ nữ chính diện trong tập tác

phẩm này thường được kể, tả với đặc điểm là những người hoàn toàn phụ thuộc vào

người đàn ông, trở thành cái bóng của người đàn ông, hy sinh vì người đàn ông mà

không nhận được sự hy sinh ngược lại. Họ được xây dựng theo mô hình người phụ

nữ gắn với phạm vi không gian gia đình, gần như đoạn tuyệt với bản năng, không

được sống với những khát vọng riêng tư mà hầu như chỉ được hiện lên qua bổn

phận, nghĩa vụ đạo đức. Ngôn hành của họ tất cả đều nhất nhất được xây dựng theo

tiêu chí về người phụ nữ chính chuyên của Nho gia. Những yếu tố giới của họ như

vẻ đẹp ngoại hình hấp dẫn về phương diện giới, tâm lý tình cảm riêng tư, khát khao

hạnh phúc ái ân hầu như không được tác giả chú ý miêu tả. Hình ảnh những người

phụ nữ này mang một số nét của con người thánh nhân, con người lý tưởng.

Nếu như người phụ nữ chính diện lý tưởng là những người sống theo bổn

phận nghĩa vụ đạo đức, tuân theo khuôn phép Nho gia yêu cầu và được ngợi khen,

được thần thánh hóa do đã hy sinh hết mình vì người đàn ông và không có đời sống

riêng tư cá thể thì người phụ nữ phản diện lại được xây dựng theo mô-típ ngược lại.

Những người phụ nữ này hiện lên với vẻ đẹp hấp dẫn về phương diện giới, với

những diễn ngôn mang tính chất táo bạo, chủ động, vượt ngoài khuôn phép Nho gia

và những hành động táo bạo, chủ động. Cách ứng xử của họ là cách ứng xử lấy khát

vọng và quyền lợi cá nhân làm tiêu chí xử thế. Xây dựng những nhân vật này, nhà

văn đã bắt đầu chú ý đến thế giới riêng tư, thậm chí là những yếu tố tâm lý có chứa

đựng những khát vọng về quan hệ thân xác, ái ân của họ. Họ hiện lên trong mô hình

con người bình phàm với những khao khát tự nhiên, không bị lý tưởng hoá, có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều nét tính cách và phẩm chất của con người phàm trần.

109

3. So với các tác phẩm văn học trước thế kỷ XVI, Truyền kỳ mạn lục đạt

thành tựu nổi bật và đáng ghi nhận, đặc biệt ở những tác phẩm viết về người phụ nữ.

Tuy nhiên, là một nhà Nho chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo chính thống, tư

tưởng của Nguyễn Dữ về cơ bản vẫn là tư tưởng của nhà Nho. Vì vậy, cái nhìn khắt

khe và nghiêm khắc với người phụ nữ vẫn chi phối sâu sắc nghệ thuật xây dựng

nhân vật của Truyền kỳ mạn lục. Công trình nghiên cứu bên cạnh việc chỉ ra được

sự chi phối sâu sắc của quan điểm nam quyền đến thi pháp xây dựng hình tượng

người phụ nữ cũng đồng thời chỉ ra được những biểu hiện đáng trân trọng của tinh

thần nhân đạo của Nguyễn Dữ. Cụ thể là, khi miêu tả những người phụ nữ chính

diện lý tưởng, nhà văn đã phần nào thấy được bi kịch đáng thương của người phụ

nữ, tỏ thái độ thương xót cho cuộc đời của họ. Đồng thời, khi miêu tả những người

phụ nữ phản diện, ở một số truyện, có thể nhà văn đã mượn yếu tố kỳ ảo để che

chắn cho những phát ngôn táo bạo của người phụ nữ đẹp, phóng túng, mượn lời họ

để nói hộ những tư tưởng mới về con người tự nhiên mà các thế kỷ sau này sẽ phát

triển thành một xu hướng chính. Đây là tinh thần nhân đạo và nữ quyền hiếm có của

tác giả Truyền kỳ mạn lục, khiến cho Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi ra đời đã hợp

với tâm thế tiếp nhận của người đương thời, và đồng thời còn gây được chú ý của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều nhà nghiên cứu và độc giả các thời đại.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Phạm Văn Ánh (2009), Có hay không yếu tố nữ trong bài Từ điệu Nguyễn Lang

Quy của Khuông Việt Đại Sư, http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (2006), Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929-1930-1931, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

4. Ngô Bắc dịch (2007), “Phụ nữ phương Tây nhìn phụ nữ Việt Nam 100 năm trước”, Gabrielle

5. Ngô Vũ Hải Bằng (2008), Quyền lợi của người phụ nữ trong bộ luật Hồng Đức,

http://e-cadao.com/tieuluan/linhtinh/luathongduc.htm.

M. Vassal, On & Off Duty in Annam, London: William Heinemann, 1910, các trang 132-147.

http://www.viet-studies.info/NguyenDinhChu_ThieuPhuNamXuong.htm

6. Nguyễn Đình Chú (2010), Nói thêm về Chuyện người con gái Nam Xương,

7. Mai Ngọc Chúc (2005), Thần nữ và liệt nữ Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

8. Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm

chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học

Việt Nam đương đại, http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=82&menu=107, Hà Nội.

10. Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên (1982), Hồng Đức Quốc âm thi tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

11. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Võ Thị Hảo (2004), Giàn thiêu, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

14. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên tiến trình văn học trung đại, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

15. Nguyễn Việt Hùng, Người phụ nữ và xã hội mẫu quyền trong sử thi Tây Nguyên

(Trường hợp Otndrong của người Mơ nông), http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/, Hà Nội.

16. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng Chủ biên)

(2004), Từ điển văn học (Bộ Mới), Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

17. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 http://www.lrc-tnu.edu.vn

hóa thông tin, Hà Nội.

111

18. Nguyễn Thị Huyền (2009), Nguyên lý tính mẫu trong truyền thống văn học Việt

Nam, http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/1125/70/.

19. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb.

Khoa học xã hội, Bản điện tử, www.thuvien-ebook.net, Hà Nội.

20. Toàn Huệ Khanh (2005), Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc -

Trung Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại,

Truyền kỳ mạn lục, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2004), Văn học Việt Nam thế

kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Tái bản lần thứ bảy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Khỏa (2002), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

23. Phan Khôi (1929), “Văn học với nữ tánh”, Phụ nữ tân văn, S2, Sài Gòn.

24. Phan Khôi (1929), “Chữ trinh: Cái tiết với cái nết”, Phụ nữ tân văn, S21, Sài Gòn.

25. Phan Khôi (1931), “Tống Nho với phụ nữ”, Phụ nữ tân văn, S9, Sài Gòn.

http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/My-hoc/Phe_binh_Van_hoc_nu_quyen/.

26. Lý Lan (2009), Phê bình văn học nữ quyền,

27. Nguyễn Khánh Linh (2009), Người phụ nữ nghe tiếng nói của chính mình trong

kịch của Samuel Beckett, http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/, Hà Nội.

28. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

30. Quang Minh (1958), Hoa Tiên truyện - Nguyễn Huy Tự, Nxb Lửa Thiêng.

31. Nguyễn Đăng Na (1999) Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1 - Truyện

ngắn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Catid=115&NewsId=516&lang=VN

33. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2005), Những điều cần biết về bình đẳng giới,

34. Trần Nghĩa (2000), “Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại”,

Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Nxb Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

35. Trần Nghĩa (2000), “Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Nxb Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

112

36. Nguyễn Bích Ngô (2001), Thánh Tông di thảo - Khuyết danh, Nxb Văn học, Hà Nội.

37. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Đạm Nguyên (1970), Tang thương ngẫu lục - Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục,

Phạm Tú Châu, Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Thị Ngân dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Nguyên (2009), Nhận diện thân thể sáng tác trong văn học Trung

Quốc, http://www.khoavanhoc-ussh.edu.vn/, Hà Nội.

41. Vũ Ngọc Phan (2000), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

42. Paul Schneider (2000), “Khảo cứu bản dịch Nôm Truyền kỳ mạn lục”, Tạp chí

Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Nxb Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3469

44. Trần Huyền Sâm (2010), Siêu lí đàn bà nhìn từ góc độ nữ giới,

http://lamkieu.com.vn/index.php/tap-van/doc-suyngam/4480-dan-ba.

43. Nguyễn Hưng Quốc (2005), Nữ quyền luận và đồng tính luận,

45. Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm (1999), Thiền uyển tập anh, Nxb Đại học Vạn

46. Lê Thị Thanh Tâm (2006), Phan Thị Bạch Vân và tinh thần phụ nữ,

http://www.khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1098:phan-th-bch-

van-va-tinh-thn-ph-n&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106#_ftnref1_ftnref1, Sài Gòn.

Hạnh, Bản điện tử, www.thuvien-ebook.net, Sài Gòn.

47. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - Tác gia - Tác phẩm văn học

48. Lê Văn Tấn (2010), Nguyễn Dữ và 19 lời bình trong Truyền kỳ mạn lục,

http://web.hanu.vn/vnh/mod/forum/discuss.php?d=2706.

trung đại Việt Nam, Tập 1-2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

http://thuvien247.net/sach3954.html

49. Nguyễn Phúc Bửu Tập (2010), Địa vị người đàn bà trong kinh phật,

50. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

51. Trần Nho Thìn (2007), Truyện Kiều: Khảo - chú - bình, NXB Giáo dục, Hà Nội.

52. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 http://www.lrc-tnu.edu.vn

Giáo dục, Hà Nội.

113

53. Trần Nho Thìn (2009), Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương

pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền, Báo cáo tại Hội

thảo Nho giáo viện Triết học, http://www.khoavanhocngonngu.edu.vn/, Hà Nội.

54. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

56. Phan Việt Thủy, Phái tính trong ngôn ngữ và văn học,

http://tienve.org/home/viet/viewVietJournals.do?action=viewArtwork&artworkId=278#2

55. Nhã Thuyên (2009), “Thơ nữ: Giới là vấn đề”, Văn nghệ trẻ, Tháng 9 năm 2009.

57. Nguyễn Công Trứ (2001), Thơ Nguyễn Công Trứ chọn lọc, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

58. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb KHXH, Hà Nội.

59. Khổng Tử (2002), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

60. Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch (1988), Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ, Nxb

Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

61. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Bản dịch của Lê Hữu Mục,

http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=7983.

http://www.yahoovanhoaviet.com/news/index.php?act=view&code=post&pid=5&cid=34&id=19604

62. Thế Uyên (2008), Tính dục và nhà văn nữ Việt Nam 1955-1975,

63. Hoàng Hữu Yên, Ngô Lập Chi, Trần Văn Giáp (1962), Truyền kỳ tân phả -

Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

64. Hoàng Hữu Yên (1994), Sơ kính tân trang - Phạm Thái, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

65. Hoàng Hữu Yên (1996), “Những tài nữ và tiết phụ họ Phan trên đất Hồng Lam

vào thời cuối Lê”, Tạp chí Hán Nôm, số 2-1996, Hà Nội.

66. Phương Yến (2008), Lệ tục làng xã cổ truyền và những ảnh hưởng đối với người

phụ nữ ở xã hội phong kiến, thongtinphapluatdansu.wrdpres.com.

67. Lê Thu Yến (Chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam trung đại - Những công trình

nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

68. Nhiều tác giả (1971), Đại Nam thực lục, Từ tập 24 đến tập 38, Nxb KHXH, Hà Nội.

69. Nhiều tác giả (1977), Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.

70. Nhiều tác giả (1988), Thơ văn Lý - Trần, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.

71. Nhiều tác giả (1978), Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, Nxb KHXH, Hà Nội.

72. Nhiều tác giả dịch (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học - G.N. Pospelov, Tập 1-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 http://www.lrc-tnu.edu.vn

2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

114

73. Nhiều tác giả (2005), Gia huấn ca - Nguyễn Trãi, http://vnthuquan.net/truyen/, Hà Nội.

74. Nhiều tác giả (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1 - 5 (Bộ mới), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu Văn học Việt Nam những khả năng và thách

thức, Nxb Thế giới, Hà Nội.

Tiếng Anh

76. Alison Campion (2005), The Changing Role of Women During the Rise of Neo-Confucianism.

77. Christine Le (1999), On different ground a contextualized understanding of the

concept of self of women in VietNam, UMI company, New York.

78. Li Yu-ning (1992), Chinese women through chinese eyes, United States of American.

79. Li-Hsiang Lisa Rosenlee (2006), Confucianism and Women - A Philosophical

Interpretation, State University of New York Press, New York.

http://www.vanhoahoc.edu.vn//index.php?option=com_content&task=view&id=1490&Itemid=123

80. Nguyen Khanh Ninh, Jack Dash Harris (2008), Vietnamese masculinity and Gender ralations

81. Paul Rakita Goldin (2002), The Culture of Sex in ancient China, University of

Hawai„i Press Honolulu, Hawai.

82. Richard L. Davis (2006), “Chaste and Filial Women in Chinese Historical Writings of the

Eleventh Century”, Journal of the American Oriental Society, Vol.121, No.2, American.

83. Susan Brownell and Jeffrey N. Wasserstrom (2002), Chinese Femininities/

Chinese Masculinities, The Regents of the University of California, London.

84. Jing Yin (2006), “Toward a Confucian Feminism: A Critique of Eurocentric

Feminist Discourse”, China Media Research, 2(3), China.

Tiếng Trung

85. Lưu Tuệ Anh (1995), Thoát khỏi hàng rào Nho giáo, phê phán ý thức nam

quyền trong văn học, Nxb Nhân dân, Bắc Kinh.

86. Trương Nham Băng (2001), Luận chủ nghĩa nữ quyền, Nxb Giáo dục Sơn Đông, Trung Quốc.

87. Lã Văn Hạo (2005), Giải thích hiện đại về trinh tiết, Thông tin nghiên cứu lịch

sử tư tưởng Trung Quốc, Trung Quốc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 http://www.lrc-tnu.edu.vn

88. Lưu Đạt Lâm (1993), Trung Quốc cổ đại tính văn hóa, Nxb Nhân dân, Trung Quốc.

115

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 http://www.lrc-tnu.edu.vn