ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

HÀ HUY THÍCH

SỰ CHUYỂN ĐỔI CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ

VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP

NGUYỄN CÔNG HOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

HÀ HUY THÍCH

SỰ CHUYỂN ĐỔI LOẠI HÌNH TÁC GIẢ

VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP

NGUYỄN CÔNG HOAN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng

Hà Nội – 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực

hiện dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Trần Ngọc Vương. Các kết quả và số liệu

nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một công

trình khoa học nào.

Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác giả luận văn đều có ghi

chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực

và nguyên bản của luận văn.

Hà Nội,ngày 22 tháng 10 năm2015

Tác giả luận văn

Hà Huy Thích

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần

Ngọc Vương - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau đại

học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình

giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.

Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình và

bạn bè đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian qua.

Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2015

Tác giả

Hà Huy Thích

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu. ...................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn. ............................................. 3

3. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 3

4. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 4

5. Cấu trúc luận văn. ......................................................................................... 4

PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 5

Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ

VÙNG VĂN HÓA SƠN NAM ....................................................................... 5

1.1. Truyền thống gia đình. ............................................................................ 5

1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan. ............................. 5

1.1.2. Truyền thống gia đình. .......................................................................... 13

1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ. .................................................................. 16

1.2.1. Đặc điểm về địa lý. ................................................................................ 16

1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội. ................................................................. 16

1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến

phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan. ............................. 18

Chƣơng 2: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ VĂN

HỌC TÂY ÂU TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945 ................................................. 25

2.1. Văn hóa truyền thống và văn chƣơng nhà Nho. ................................. 25

2.1.1. Văn học dân gian. ................................................................................. 25

2.1.2. Từ cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại đến cái nhìn của nhà

văn, nhà thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học Việt Nam. . 26

2.1.3. Sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài và hình tượng trung tâm trong

văn chương trào phúng. .................................................................................. 31

2.2. Sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây trong sáng tác của Nguyễn

Công Hoan trƣớc cách mạng tháng 8 - 1945. ............................................. 33

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội. ................................................................... 33

2.2.2. Sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực phê phán. ............................ 34

2.2.3. Sự vận động hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực phê phán. ............. 44

Chƣơng 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA NHÀ VĂN QUA

NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG ............................................ 52

3.1. Những chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Công Hoan ..................... 52

3.1.1. Giai đoạn từ 1920 – 1923. .................................................................... 53

3.1.2. Giai đoạn từ 1929 – 1935. .................................................................... 55

3.1.3. Giai đoạn từ 1936 – 1939. .................................................................... 63

3.1.4. Giai đoạn từ 1940 – 1945. .................................................................... 66

3.2. Sự vận động về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác

của Nguyễn Công Hoan ................................................................................ 68

3.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ. ................................................................................. 68

3.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài. ........................................................................ 71

3.3. Hình tƣợng nhân vật. ............................................................................. 81

3.3.1. Hình tượng nhân vật trào phúng. .......................................................... 81

3.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình ............................................................. 84

3.4. Hệ thống ngôn ngữ- thể loại .................................................................. 87

3.4.1. Ngôn ngữ ............................................................................................... 87

3.4.2. Thể loại .................................................................................................. 90

3.5. Cốt truyện – Tình huống ....................................................................... 92

3.5.1. Cốt truyện .............................................................................................. 92

3.5.2. Tình huống truyện ................................................................................. 94

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu.

Lịch sử phát triển văn học của mỗi quốc gia, dân tộc đều ghi dấu sự vận động

và phát triển của lịch sử quốc gia, dân tộc ấy. Từ đó hình thành nên những bản sắc

riêng của quốc gia, dân tộc đó. Với hàng nghìn năm lịch sử vận động và phát triển,

văn học Việt Nam đã thực sự tạo được một dấu ấn riêng, bản sắc riêng về văn học,

văn hóa Việt.

Văn học Việt Nam có một bề dày truyền thống. Từ văn học dân gian đến văn

học thành văn đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện, phản ánh tâm tư, tình cảm

của con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Đặc biệt là gần mười thế kỉ tồn tại và

phát triển của văn học trung đại, Nho giáo giữ vai trò định hướng phát triển văn học

Việt Nam. Điều ấy thực sự tạo nên một bản sắc rất riêng của Văn học Việt Nam.

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam có những bước phát triển

mới. Đó là bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại. Một thời đại mới của văn

học đã phôi thai từ giai đoạn quá độ, từng bước hòa nhập vào quỹ đạo của văn học

thế giới.

Sự vận động phát triển của thời đại lịch sử đã đưa văn học Việt Nam chuyển

mình sang một hướng mới. Đó là sự vận động, chuyển đổi cả nội dung và nghệ thuật

phản ánh của văn học Việt Nam. Từ những áng văn chương mang đậm màu sắc của

văn chương Trung đại chuyển sang hướng hiện đại hóa của văn học Phương Tây.

Thực tế của nền văn học sử Việt Nam cho thấy, mối liên hệ từ truyền thống

đến hiện đại chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, khai thác. Đặc biệt

là sự vận động của văn học Việt Nam được thể hiện qua một số tác giả tiêu biểu như:

Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng…Sự vận động trong sáng tác

của họ thể hiện quy luật đặc thù của văn học Việt Nam.

Và nhà văn thể hiện sự vận động chuyển đổi về phong cách sáng tạo nghệ

thuật ấn tượng hơn cả là nhà văn Nguyễn Công Hoan.

Nguyễn Công Hoan là một tác gia lớn trong nền văn học cận đại Việt Nam.

Sự nghiệp của ông được tạo dựng bởi hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết

1

có giá trị trong nền văn học nước nhà.

Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan mang những nét đặc thù về quan điểm

thẩm mỹ nghệ thuật riêng, để lại những dấu ấn riêng về truyền thống của gia đình;

giai đoạn lịch sử xã hội ấn tượng cụ thể.

Có một số công trình nghiên cứu về những sáng tác của ông, nhưng phần

nhiều chỉ thiên về đọc và bình văn rồi đưa ra kết luận Hay- Dở mà chưa dựng được

một bức tranh toàn cảnh về quy luật tồn tại và vận động phát triển của đối tượng;

chưa chỉ ra được những con đường ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành con

người nhà văn.

Bởi vậy, luận văn của chúng tôi đi sâu và hướng tới sự chuyển đổi loại hình tác

giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan.

Luận văn của chúng tôi được hình thành trực tiếp từ sự gợi ý và hướng dẫn

của GS - TS Trần Ngọc Vương, đồng thời với nỗ lực tự thân của người viết. Nhưng

do thời gian hạn hẹp và do tính chất, mức độ của luận văn, chúng tôi chỉ đi vào

phạm vi chuyên sâu và giới hạn ở một số điểm sau:

(1). Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn Nam .

Đó là sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Trấn Sơn Nam đến

phong cách nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.

(2). Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác của

Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945.

Đó là sự chuyển biến rõ nét về nội dung và phong cách nghệ thuật của nhà văn

từ ảnh hưởng của văn chương nhà nho sang văn chương hiện thực phê phán mang

đậm phong cách văn chương phương Tây.

(3). Từ những vấn đề trên, chúng tôi đi tới vấn đề cụ thể về tư tưởng và quan điểm

nghệ thuật của nhà văn qua những sáng tác của ông. Nhằm chứng minh cho nhận

định: sự vận động chuyển đổi loại hình tác tác giả văn học qua sáng tác của Nguyễn

Công Hoan trước cách mạng tháng Tám 1945.

Tuy nhiên, do thời gian tiếp cận đề tài còn hạn chế, vốn kiến thức được trang

bị nhiều điểm còn chưa thực sự sâu sắc, nên có những vấn đề chưa được nghiên cứu

sâu. Luận văn chưa mở rông sang các tác giả cùng thời khác để thấy được sự vận

2

động biến đổi của hệ quy chiếu trong hầu hết các tác giả những năm đầu thế kỉ XX.

2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn.

2.1. Mục đích và ý nghĩa lý luận.

Đối tượng nghiên cứu là một tác giả lớn, quá trình hình thành, vận động và

phát triển phong cách nhà văn Nguyễn Công Hoan. Vì vậy, chúng tôi xác định mục

đích, tính chất của luận văn là vấn đề nghiên cứu của văn học sử. Cụ thể là nghiên

cứu sự chuyển biến mang tính quy luật đặc thù của văn học Việt Nam qua ngòi bút

nhà văn.

2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.

Thực hiện được mục tiêu trên, chúng tôi hi vọng luận văn của mình góp phần

phục vụ trực tiếp cho việc tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết

của Nguyễn Công Hoan ở cấp độ phân tích, cảm nhận văn học qua thực chứng lịch

sử khách quan.

3. Lịch sử vấn đề:

Có khá nhiều nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết cho sáng tác của Nguyễn

Công Hoan, và nhiều nhà nghiên cứu coi Nguyễn Công Hoan là một nhà văn tiêu

biểu của chủ nghĩa hiện thực.

Trên tạp chí Nam Phong 7 – 1932, Trúc Hà viết phê bình về truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan “Một ngọn bút mới”. Trong bài viết của mình, Trúc Hà chỉ ra

những “lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm một vài câu hoặc

một vài chữ có ý khôi hài bông lơn thú vị”…

Trong cuốn “Phương pháp sáng tác ttrong văn học nghệ thuật”, NXB Sự

thật Hà Nội 1962, Hồng Chương chỉ ra: lối tả tỉ mỉ ở các chi tiết là một đặc điểm

của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan. Phan Cự

Đệ trong “Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975” (tập 2), NXB Đại Học và Trung học

chuyên nghiệp khẳng định: Nguyễn Công Hoan đã đặt những viên gạch đầu tiên

xây đắp nền móng cho văn xuôi hiện thực phê phán. Ông là người đầu tiên khẳng

định phương pháp hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn và là ngọn cờ đầu

3

của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 – 1945.

Năm 2002, cuốn Nguyễn Công Hoan, Tác gia – Tác phẩm do nhà nghiên

cứu Lê Thị Đức Hạnh biên soạn được xem là cuốn tài liệu tập hợp được những công

trình nghiên cứu đầy đủ nhất về Nguyễn Công Hoan từ trước tới nay.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan đều chưa thật chú ý

đến những con đường ảnh hưởng quan trọng tới sự vận động, chuyển đổi loại hình

nhà văn. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi cố gắng làm rõ sự chuyển đổi loại hình tác

giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan

dưới góc nhìn từ lý thuyết loại hình học tác giả nhà văn.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Phương pháp loại hình học tác giả và phương pháp logic - lịch sử là nền tảng

cho các phương pháp và thao tác khoa học mà luận văn sử dụng ở cấp khái quát

nhất. Ngoài ra, trong việc nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của văn học,

chúng tôi còn sử dụng phương pháp chuyên sâu như nghiên cứu lịch sử văn hóa và

phương pháp loại hình học tác giả.

Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp so sánh đối chiếu cũng được

chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu.

5. Cấu trúc luận văn.

- Chương 1: Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn

Nam .

-Chương 2. Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác

của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945.

-Chương 3. Sự vận động trong tư tưởng của nhà văn qua những tác phẩm văn

4

học của ông.

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ VÙNG

VĂN HÓA SƠN NAM

1.1. Truyền thống gia đình.

1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan.

Nguyễn Công Hoan- tác giả truyện ngắn xuất sắc, một hiện tượng đặc biệt

trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại.

Ông sinh ngày mồng 6 tháng 3 năm 1903 trong một gia đình nho học ở làng

Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hưng Yên). Gia đình ông là

gia đình nhà nho có nhiều người làm quan với Pháp. Cha ông tuy đỗ tú tài nhưng

chỉ được nhận chức huấn đạo và ở mãi chức này cho đến khi mất. Đồng lương ít ỏi

của cha không đủ nuôi đàn con đông, nên Nguyễn Công Hoan từ nhỏ đã được ông

bác ruột, một ông quan yếm thế có tinh thần yêu nước đón về nuôi dưỡng và giáo

dục. Ngay từ những ngày còn nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu thiếu niên thông minh,

nghịch ngợm và hóm hỉnh. Tuy bé nhất trong nhà nhưng ông lại luôn là người đầu

trò trong các cuộc chơi. Ông thường tự biên soạn những vở chèo, vở tuồng từ những

tích cũ, tự lập sân khấu rồi cùng các anh con của bác chơi trò biểu diễn. Đề tài

những vở kịch do ông nghĩ ra hoàn toàn dựa theo những truyện hàng ngày nghe kể,

khi là chơi trong các trại lính lệ, lính cơ nhằm giễu cợt những thói hư tật xấu của kẻ

có quyền và xót thương những người nghèo khờ dại. Những buổi biểu diễn này

được lính lệ và nhân dân trong vùng đến xem rất đông. Cứ tối đến, họ lại kéo nhau

đến tụ tập quanh sân nhà người bác để xem “cậu chủ nhỏ diến trò” và cậu chủ nhỏ

được họ rất yêu quý. Năm lên bảy tuổi, Nguyễn Công Hoan được học tiếng Pháp

với một thầy ký rượu. Ông học tiếng thì ít mà học mánh khóe từ thầy thì nhiều. Bài

học của ông thường là những bài vè truyền khẩu nửa Tây nửa Ta, những thủ thuật

đong và pha rượu lậu cùng những buổi đàn hát. Kết quả là sau hai tháng người bác

đành phải bắt ông thôi học với thầy ký rượu. Chín tuổi, ông được bác gửi lên học ở

trường Bưởi (trường Chu Văn An). Trong thời gian học ở trường Bưởi (từ chín đến

mười sáu tuổi) ông quen và thân với nhiều nhà văn nhà thơ đương thời, đặc biệt là

5

nhà thơ Tản Đà. Ông rất thích thơ Tản Đà, bài thơ nào của Tản Đà ông cũng đọc và

thuộc. Qua Tản Đà ông còn đọc nhiều và trở nên thích thơ Nguyễn Khuyến, Tú

Xương, Tú Mỡ… chính Tản Đà là nấc thang đầu tiên đưa bước Nguyễn Công Hoan

vào làng văn học. Năm mười bảy tuổi, sau một chuyến bỏ nhà ra Hải Phòng cùng

một anh con bác, trở về ông viết truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu”. Truyện

ngắn này ông viết chỉ để đùa vui nhưng thật ra đã rõ dáng dấp con người ông và

cũng đã báo hiệu những văn phẩm của ông sau này. Một chuyện bịa từ cái gốc có

thật về chuyện đi bất thành của mình. Ông bịa chuyện có thật ấy nhằm mỉa mai và

đả kích chế độ thực dân. Năm 1922 ông lại ra Hà Nội học để ôn thi vào trường Nam

Sư phạm và bắt đầu viết truyện dài “Phải gió”. Truyện dài này làm cho các bạn

cùng phòng ở với ông không nhịn được cười. Kết cục nó bị thu bởi tác giả của nó

gây mất trật tự trong khu nội trú. Cùng năm, (vào tháng 7) Nguyễn Công Hoan đỗ

vào trường Sư phạm. Ông vừa học vừa viết văn. Những truyện ngắn thời kỳ này của

ông được in trên mục “Truyện thế gian” do Tản Đà thư cục xuất bản. Truyện của

ông, giọng văn, câu văn ngắn gọn, giản dị, dí dỏm khác hẳn với lối văn cầu kì, ước

lệ, cổ điển của những tác giả cùng thời. Vì vậy truyện ngắn của ông thời kỳ này

không gây được tiếng vang, nhưng đã báo cho độc giả thấy được sự xuất hiện của

một cây bút mới với lối văn hoàn toàn mới lạ. Mặt khác, do ham đọc thơ văn, ông

có con mắt nhìn đời bằng hồn thi sĩ, nên phong cách hiện thực phê phán sắc sảo của

ông đậm chất trữ tình.

Tốt nghiệp trường Nam Sư phạm năm ông hai mươi ba tuổi. Công việc dạy

học của ông vô cùng long đong, vất vả. Do bị tình nghi có tham gia hoạt động cách

mạng nên ông không ở đâu được lâu mà luôn bị thuyên chuyển vùng. Từ thị xã Hải

Dương ông phải chuyển đến huyện Nam Sách, huyện Kim Môn, thị xã Lào Cai,

thành phố Nam Định, rồi ra đảo Trà Cổ. Con đường văn nghiệp của ông cũng không

kém phần lao đao, trắc trở. Ông luôn bị thực dân Pháp theo dõi, ghìm ngòi bút, có

thời kỳ còn bị treo bút. Nhiều tiểu thuyết của ông bị cấm lưu hành như (Cái thủ lợn-

1939), nhiều truyện ngắn bị kiểm duyệt, cắt xén hoặc xóa trắng (Êu êu Mê đo; Hồi

còi báo động). Lớn lên trong thời kì những sự kiện chính trị lớn dốn dập xảy ra ở

trong và ngoài nước, lại làm cái nghề luôn bị chèn ép và bản thân bị nghi kị nên

6

giúp ông có cái nhìn đúng về xã hội đương thời. Sẵn có thái độ hằn học với kẻ xu

nịnh, hằn học với bọn thực dân tàn ác, quan lại tham nhũng, bọn giàu sang gian trá,

nên Nguyễn Công Hoan không dễ lùi bước trước mọi khó khăn. Truyện ngắn của

ông ngày càng điêu luyện về nghệ thuật, sắc sảo về nội dung dần đưa ông tới vị trí

hàng đầu trong dòng văn học hiện thực phê phán.

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, theo quy luật chung của sự phát triển, văn

học Việt Nam dần chuyển mình từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Thời kì

này giữa biết bao nếp nghĩ vay mượn, cách diễn đạt vay mượn, giữa biết bao sự mời

gọi quyến rũ tưởng không cưỡng lại được của văn học ngoại lai nhưng Nguyễn

Công Hoan đã giữ cho ngòi bút của mình đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa

hiện thực. Ông trở thành một trong những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng

nền móng cho nền văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam. Đó cũng là thời kì văn

học Việt Nam đang ở buổi sơ khai của nền văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ. Giai

đoạn này đòi hỏi mỗi người cầm bút phải tự tìm lấy mình, khẳng định mình, khẳng

định văn học nước nhà. Con đường độc đáo Nguyễn Công Hoan đã chọn và táo bạo

mở đường đi tới một mình: Viết những truyện trong đời sống thực từ những cảnh

ngang trái bất công, những sự thối nát sa đọa, những cảnh khổ đau xảy ra hàng ngày

trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Sự nghiệp văn học của ông bắt đầu từ

những năm 1920 với tập truyện ngắn đầu tay: “Kiếp hồng nhan” (xuất bản năm

1923). Truyện viết về những người thuộc tầng lớp dưới được biểu hiện bằng cách

nhìn xót thương, từ đó mà giễu cợt kẻ lộng quyền hợm của. Tuy tập truyện này

“không có ý nghĩa gì, không có mục đích nào” [23/81] nhưng vẫn gây được sự thán

phục của bạn bè. Nó là tập truyện đầu tiên của Việt Nam, gồm toàn truyện sáng tác

chứ không phải vừa truyện dịch, vừa truyện soạn như các truyện trước đó. Phải tới

những năm 1929 – 1033 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bởi những trang in

trong mục Xã hội ba đào ký trên An Nam tạo chí do Tản Đà chủ trương. Những

truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trên mục Xã hội ba đào ký được độc giả rất

yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã

nhanh chóng trở nên quen thuộc với bạn đọc. Những cuốn tiểu thuyết “Những cảnh

khốn nạn” (1932); “Tắt lửa lòng”(1933); “Lệ dung”(1934); “Tấm lòng

7

vàng”(1934) cũng lần lượt xuất hiện. Đặc biệt trong cuốn “Những cảnh khốn

nạn”(Tập 1 với 218 trang) viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai đã báo hiệu

con đường văn chương độc đáo của ông sau này.

Tháng 6 năm 1935 khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” xuất hiện, địa vị của

ông càng được khẳng định. Kép Tư bền gồm 15 truyện phần lớn viết về những

người khốn khổ đáng thương. Ông thông cảm với nỗi dày vò họ và nói lên sự tàn

nhẫn của những người xung quanh. Trong không khí của những năm 1935- 1936

Kép Tư Bền ra đời rất đúng lúc, nó mở đầu cho trào lưu văn học tả chân xã hội.

Thời kỳ này độc giả muốn có những trang viết về cảnh lầm than của xã hội để thức

tỉnh mọi người. Trong tình trạng ấy, tập truyện ngắn Kép Tư Bền ra đời có thể xem

là một cái mốc đánh dấu trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Ông viết:“việc

cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi rằng tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và

tôi có thể theo đuổi nghề văn” [23/188]. Tập truyện với nghệ thuật độc đáo, mới lạ,

có truyện không có cốt truyện (Cô Kếu gái tân thời), có truyện viết không theo hình

thức kể chuyện (Thế là mợ nó đi Tây) đã thu hút được đông đảo bạn đọc trong cả

nước. Những tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của Khái Hưng, Nhất Linh… bị lu mờ,

thay vào đó là những tác phẩm hiện thực của Nguyễn Công Hoan. Năm đó, Kép Tư

Bền được đánh giá là tập truyện ngắn hay nhất, được mười tám tờ báo ở Trung,

Nam, Bắc viết bài khen ngợi và trở thành đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ

thuật. Phái nghệ thuật vị dân sinh của Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công

kích nghệ thuật vị nghệ thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ

gay cấn nhất thi Hải triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh

đưa phái nghệ thuật vị dân sinh đi đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến của Hải

Triều có viết “Cái chủ trương nghệ thuật vị dân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện

bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn công

Hoan” [48]. Để khẳng định chủ trương của mình, Hải Triều còn tổ chức buổi gặp

mặt tác giả với bạn đọc và trưng cầu ý kiến độc giả tại nhà sách Hương Giang (Huế).

Kết quả của cuộc trưng cầu là tác Phẩm Kép Tư Bền được xếp hàng đầu, tác giả của

nó được bạn đọc hoan nghênh nhất. Ông trở thành ngọn cờ đầu của văn học hiện

8

thực phê phán Việt Nam.

Thời kỳ mặt trận Dân chủ (1936- 1939), thực dân Pháp nới lỏng chế độ kiểm

duyệt sách báo, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan được tung hoành hơn. Nhờ ảnh

hưởng của Đảng, của sách báo Mác xít, của phong trào quần chúng khắp nơi, những

tác phẩm của ông đạt chất lượng cao hơn trước. Chúng như những chiếc gai nhọn

đối với nhà cầm quyền. Thời kỳ ông viết sung sức chưa từng thấy, với hơn 80

truyện ngắn, trong đó có khoảng 30 truyện đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân.

Ông đưa vào tác phẩm của mình từ cuộc sống Âu hóa lố lăng “Cô Kếu gái tân thời”,

đến tệ quan lại tham nhũng “Công dụng của cái miệng”; “Người thứ ba”. Từ cuộc

sống vương giả của những kẻ ăn trên ngồi chốc như “Phành phạch”;“Quyền chủ”

đến cuộc sống cùng cực của kiếp đi ở “Thằng Quýt”; “Thanh!Dạ”. Từ đề tài xã hội

này, ông đã nhanh chóng chuyển sang đề tài chính trị, không những ông tố cáo tệ

tham nhũng, thói dâm ô đểu cáng “Thằng ăn cướp”; “Đồng hào có ma”; “Nạn ô

tô”; “Nạn râu”…mà còn vạch trần những thủ đoạn chính trị lừa bịp và cơ hội của

bọn quan lại triều đình như “Biểu tình”; “Chiến tuyến bình”, những thủ đoạn mua

bán, tranh giành lá phiếu của bọn nghị viên (Trần Thiện – Lê Văn Hà). Đặc biệt ông

đã chĩa mũi nhọn đả kích vào một số chính sách của bọn thực dân Pháp: Từ sự xâm

lấn từng bước khá nguy hiểm của chính quyền thực dân “Người vợ lẽ bạn tôi” đến

những chủ trương cực kỳ vô lý và ngu xuẩn đối với trẻ con không nơi nương tựa

như “Giá ai cho cháu một hào”. Từ những thủ đoạn tuyên truyền ầm ĩ cho tên vua

bù nhìn bán nước “Đào kép mới” đến những cuộc vận động cho phong trào thể thao

một cách bịp bợm, giả dối của tên thống sứ Chatet “Tinh thần thể dục”.

Thời kỳ này ông viết nhiều tiểu thuyết, truyện dài: “Ông chủ”; “Bà

chủ”(1935), “Cô giáo Minh” (1936), “Cô làm công” (1936), “Bước đường cùng”

(1938) và “Cái thủ lợn” (1939). “Bước đường cùng” được được sáng tác trong

vòng 16 ngày trước khi tác giả ra “an trí” ở đảo Trà Cổ. Tác phẩm viết về tình cảnh

người nông dân vì thất học, u mê, tăm tối nên bị địa chủ dùng thủ đoạn để cướp nhà,

cướp ruộng và bị đẩy vào cuộc sống bần cùng. Bọn địa chủ thì gian ác, hách dịch,

đứa nào cũng dựa vào thế quan, thế Tây để bóc lột nhân dân thậm tệ, nhưng cuối

cùng những người nông dân cũng giác ngộ, họ biết đoàn kết chống lại địa chủ. Tác

9

phẩm có tính tư tưởng cao, nội dung hiện thực sâu sắc nên vừa ra đời một thời gian

ngắn thì bị chính quyền thực dân cấm. Rút cuộc 5000 cuốn “Bước đường cùng”

vẫn được tiêu thụ hết. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn đã xây dựng

được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình theo yêu cầu của chủ

nghĩa hiện thực. Đề tài của tiểu thuyết ảnh hưởng nhiều của sách báo đảng Cộng

Sản bấy giờ và đã gây được tiếng vang lớn trong kỳ mặt trận Dân chủ.

Sang những năm dại chiến thế giới II, Nguyễn Công Hoan mất phương

hướng và bế tắc. Từ con đường chủ nghĩa hiện thực ông đi chệch hướng sang con

đường chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ. Vốn chịu ít nhiều tư tưởng phong kiến, ông đã

viết một số tiểu thuyết có khuynh hướng phục cổ, tiêu biểu là “Thanh đạm” (1942).

Tác phẩm đề cao Nho giáo, phong tục và sinh hoạt phong kiến cổ xưa. “Thanh đạm”

bị lên án gay gắt làm cho Nguyễn Công Hoan trở nên bi quan, chán nản.

Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nhà văn vui mừng, hồ hởi mặc áo

lính, làm công tác văn hóa trong quân đội và dần có cơ hội trở lại viết văn. Ông

sáng tác nhiều truyện dài, nhiều tiểu thuyết xã hội như: “Tranh tối tranh sáng”

(1950); “Hỗn canh hỗn cư” (1961); “Đống rác cũ” (1963)…ngoài ra ông còn viết

nghiên cứu về Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…viết bài cho phát thanh, tham

gia vào việc biên soạn từ điển, ngữ pháp tiếng Việt của viện Ngôn ngữ. Đặc biệt,

ông viết được nhiều tập hồi ký chân thực và có giá trị: “Đời viết văn của tôi”; “Nhớ

gì ghi nấy”… “Đời viết văn của tôi” viết năm 1971, cuốn hồi ký này ghi lại các sự

kiện 60 năm văn học nước nhà, từ những bước đầu của ngành báo chí xuất bản.

Cuốn sách giới thiệu nhiểu nhà văn, nhà nghiên cứu, trong hoàn cảnh nước ta trước

đây các ngành bảo tồn, bảo tàng, xã hội học, dân tộc học chưa phát triển thì đây là

tài liệu rất tốt cho giúp cho các thế hệ sau dựng lại bức tranh chân thật về một thời

kỳ lịch sử đã qua đồng thời cũng cho họ những chi tiết chính xác về cái xã hội tù

túng, quằn quại dưới ách thực dân phong kiến. Mặt khác, cuốn hồi ký này để lại cho

các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu thế hệ sau nhiều tri thức quý báu về nghề

văn cũng nhưu kinh nghiệm viết văn của ông. Cuốn sách được đánh giá là “một

cuốn cẩm nang văn học” đối với “những hậu duệ văn học” [51/30].

Là nhà văn viết khỏe, với trên nửa thế kỉ sáng tác, Nguyễn Công Hoan sáng

10

tác tác trên 200 truyện ngắn, hơn 30 truyện dài và các thể loại khác, ông xứng đáng

là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nếu

như Ngô Tất Tố tập trung viết về người nông dân, Vũ Trọng Phụng đả kích vào giai

cấp Tư sản, thì đóng góp chủ yếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là xây dựng

thành công một phong trào châm biếm, đả kích các kiểu quan lại và địa chủ cường

hào ở nông thôn và thành thị.

Nguyễn Công Hoan viết nhiều thể loại khác nhau: Tiểu thuyết, truyện ngắn,

truyện dài, ký…nhưng ông sống trong độc giả và khẳng định mình trên văn đàn dân

tộc chính là thể loại truyện ngắn. Các nhà nghiên cứu Trúc Hà, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Hiếu công nhận: “Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan

chỉ ở trong truyện ngắn”[13]. Nhà văn cũng thừa nhận: “Trong quãng đời hoạt

động về văn học trước cách mạng của tôi, tôi đặt nhiều công phu vào viết truyện

ngắn [25/207].

Những tập truyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc ta là những

truyện ngắn lịch sử đã xuất hiện từ đời Trần, đời Lê. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVI,

truyện ngắn dân tộc đã phát triển phong phú và có nhiều kiểu, nhiều màu sắc khác

nhau. Với “Thánh Tông di thảo” và “Truền kỳ mạn lục”, những đặc điểm truyền

thống của truyện ngắn Việt Nam đã hình thành trọn vẹn. Đến thời kỳ cận đại, những

tác phẩm văn xuôi đã chuẩn bị tích cực cho chủ nghĩa hiện thực phê phán ra đời sau

những năm 1930. Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết và

kịch của Trọng Khiêm, Hồ Biểu Chánh, Vũ Đình Long, Nam Xương…bản thân nó

chưa phải là những tác phẩm hiện thực phê phán theo ý nghĩa chính xác, đầy đủ của

thuật ngữ đó. Trong lĩnh vực truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên có

công khai phá con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đi vào thế giới

truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển

lãm phong phú và nhiều màu vẻ về nhũng cảnh ngộ, những con người đang khóc,

đang cười, những niềm vui, nỗi cay đắng buồn đau như là lẽ thường. Truyện ngắn

của ông sinh động, hấp dẫn với nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ nghệ thuật

kết cấu truyện gọn, chặt chẽ đến cách xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính đưa

đến một kết thúc bất ngờ làm nổi bật tiếng cười giễu cợt. Từ nghệ thuật xây dựng

11

nhân vật đặc sắc đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ và giọng điệu giản dị, trong sáng,

dễ hiểu. Đặc biệt ông rất thành công khi sử dụng thủ pháp trào phúng, gây cười

trong truyện ngắn của mình. Truyện ngắn của ông được viết dưới nhiều cung bậc

tình cảm. Có truyện ông viết ra để gây căm hờn (Sáng, chị phu mỏ), để làm kinh

tởm (Gói đồ nữ trang), để gợi lòng thương (Anh Sẩm; Cái vốn để sinh nhai), hoặc

để cười (Samandji). Có những truyện là tấn hài kịch (Ai khôn; Đàn bà là giống yếu;

Một tấm gương sáng), bi kịch (Bộ ba Chiếc quan tài), hoặc bi hài lẫn lộn (Thằng ăn

cắp; Hai thằng khốn nạn). Có những truyện xây dựng trên nguyên tắc tượng trưng

(Đào kép mới), lại có những truyện thực ra là sự nhạo lại cái gì xảy ra trong thực tế

(Cụ Chánh Bá mất giày; Báo hiếu). Đề tài thường xuyên thu hút nhà văn là quan hệ

giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Phanh phui bất công xã hội là lập trường tư

tưởng duy nhất ông chấp nhận.

Nhà văn sống hòa mình vào cuộc sống, lấy đề tài sáng tác từ giữa cuộc sống

lố lăng thời bấy giờ, nên tác phẩm của ông thường nhằm nâng cao năng lực nhận

thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Xã hội phong kiến nửa thực dân

ở Việt Nam trước 1945 đầy rẫy sự lừa bịp và khôi hài, thế nhưng kẻ thống trị luôn

tìm cách để che dấu bộ mặt thật của chúng. Cần phải phanh phui những mâu thuẫn

nội tại ấy. Một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (Đào kép mới; Tinh

thần thể dục; Chính sách thân dân…) đã đáp ứng được yêu cầu đó. Những truyện

ngắn này đã vạch ra những mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung

và hình thức để bật lên tiếng cười đả kích.

Cách mạng tháng Tám thành công, khi một loạt các nhà văn phải trăn trở “lột

xác”, “nhận đường” thì Nguyễn Công Hoan tuyệt nhiên không có hiện tượng đó.

Bạn đọc có thể đọc có thể đọc một truyện ngắn trong “Kiếp hồng nhan” viết năm

1920 với truyện “Chiếc xe lam” một trong những sáng tác sau cùng khi nhà văn vào

Sài Gòn giải phóng năm 1975 không hề thấy một khoảng cách thời gian. Nguyễn

Công Hoan không lúc nào cũ, đó là bí quyết của ông. Bí quyết ấy bắt nguồn từ chắt

lọc ý nghĩ, tư tưởng đời sống xã hội, từ việc sáng tác bằng tiếng nói hàng ngày ở xung

quanh của nhà văn. Vì vậy, ở Nguyễn Công Hoan tả chân, tả thực kia và Nguyễn

12

Công Hoan hiện thực sau này chỉ là rút kinh nghiệm hay thiếu sót bổ sung.

Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng nền giáo dục phong kiến của người bác,

văn học dân gian qua giọng kể của bà, đặc biệt là những truyện tiếu lâm. Ông cũng

chịu ảnh hưởng nhiều của văn học Pháp, nhất là trong những năm học ở trường Sư

phạm, của văn Tản Đà, thơ Tú Xương… và báo chí đương thời. Do vậy, truyện

ngắn của ông có nhiều nét gần với gần với truyện cười dân gian nhưng văn lại khá

mới. Với bản tính thích khôi hài, lại sống trong thời buổi nhố nhăng nên truyện của

ông thường là những truyện hoạt kê – truyện bật lên những chuỗi cười rơi nước mắt.

Nhà nghiên cứu Xô Viết Niculin đã viết:“Chính trong loại truyện ngắn trào phúng

đó, thiên tài xuất sắc của nhà văn được nảy nở hết sức mạnh mẽ”[37/78].

Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Công Hoan đã đóng góp cho

nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm vừa đồ sộ, vừa đạt đến một nghệ

thuật khá điêu luyện.

Đến nay, nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết của ông đã được chuyển thể sang

sân khấu (Tắt lửa lòng), điện ảnh (Lá ngọc cành vàng) và được dịch ra nhiều thứ

tiếng trên thế giới như: Nga, Bungari, Anbani, Đức, Cu ba, Ấn Độ, Pháp, Nhật

Bản…vinh dự lớn nhất mà nhà văn đạt được là năm 1996 ông được nhận giải

thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1). Ở trong nước, theo thống kê

năm 1996 tổng số sách của ông đã xuất bản là 33 cuốn, trong đó có những cuốn 4

tập. Ông là một trong những nhà văn Việt Nam có tác phẩm in ở Nhà xuất bản Văn

học nhiều nhất, tổng số đầu sách được in lên tới 25 cuốn. Tác phẩm “Bước đường

cùng” của ông được xếp vào hàng những tác phẩm được in nhiều nhất (10 lần) với

con số kỷ lục trong một lần xuất bản (lên tới 20.100 bản năm 1962). Năm 1997

chuẩn bị 95 năm ngày sinh của nhà văn (1903 – 1998), Nhà xuất bản Văn nghệ trẻ

thành phố Hồ Chí Minh cho ra đời 9 cuốn tiểu thuyết với tên “Tủ sách Nguyễn

Công Hoan”. Có nhiều công trình khoa học ở trong nước và quốc tế nghiên cứu về

ông và tác phẩm của ông. Nguyễn Công Hoan thực sự trở thành một cây đại thụ

trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

1.1.2. Truyền thống gia đình.

Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn

13

Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang,

tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế.

Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu

thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp

quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này.

Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan

trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công

Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng

Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.

Truyền thống gia đình với Nguyễn Công Hoan có sự ảnh hưởng sâu sắc tới

sự nghiệp văn chương của nhà văn sau này. Có thể nói, tuổi ấu thơ của ông giống

như “kho tài liệu” quý giá cho ông khai thác dần dần về sau. “Nếu tờ giấy trắng

được nhuộm màu nào đầu tiên thì cái màu ấy là nền, nó rõ mãi và bền mãi. Thì

trong đời người ta những điều mắt thấy, tai nghe được và nhớ lâu nhất, tạo cho con

người một nền tảng về tư tưởng đối với sự việc, một khả năng làm cái gì sau này”

[25/53]. Cách nói đầy hình ảnh chứng minh cho con đường sáng tác của nhà văn,

đặc biệt trong những giai đoạn đầu. Đó là ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình và hoàn

cảnh xã hội thời đại Nguyễn Công Hoan.

Sinh ra và trưởng thành trong gia đình nhà quan, ông tự hào “về một dòng

dõi mà người ta gọi là thế phiệt. Từ xưa đến nay, vào đời nào cũng có người đỗ đại

khoa và làm quan to”. Lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan đến ở với bác là Nguyễn

Đạo Quán, đỗ phó bảng và làm đến chức tri phủ. Sáu tuổi học chữ Nho và mười

tuổi xoay sang học chữ Pháp.

Niềm tự hào về dòng dõi phần nào sinh ra “tính tự phụ, tự cao” ở cậu bé

Hoan ngay từ hồi cắp sách đến trường. Vốn thông minh, tinh nghịch, lại pha chút tự

cao về truyền thống gia đình, Nguyễn Công Hoan “trở nên một thằng học trò lười

biếng đọc sách, khinh thế ngạo vật, nhưng lại là người biết tự hào dân tộc, biết thù

ghét những gì làm tổn thương đến hào khí dân tộc”.

Khi thời thế đổi thay, Nho học không còn hợp thời, gia đình Nguyễn Công

Hoan rơi vào cảnh lẹt đẹt, nghèo túng. Người bất mãn với chế độ mới nhiều nhất là

14

cha ông - Nguyễn Đạo Khang. Đêm nào cha cũng kể chuyện quan Ta, quan Tây,

chuyện về những ông huyện…Câu chuyện kể thấm đẫm tâm trạng của người cha lỗi

thời, bị lép vế, muốn trút hết nỗi hằn học đối với thời cuộc đã khắc vào thói quen

của Nguyễn Công Hoan một nếp “thích biết chuyện quan trường, thích biết chuyện

quanh công đường và trong tư thất”. Vì thế ngay từ thuở thiếu thời, trong lập

trường của Nguyễn Công Hoan đã biết “chia ranh giới giữa cái gì là đáng trọng và

cái gì đáng khinh, giữa người đáng thương và kẻ đáng ghét”.

Mặt khác, sống trong gia đình quan tri phủ, hàng ngày cậu bé Hoan được

chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt. “Tôi ngắm anh nho bóp nặn người dân khờ

khạo. Tôi lắng nghe thầy lục sự xúc xiểm, dọa nạt người chất phác đến đưa đơn

kiện. Tôi nhìn thấy nét mặt họ thay đổi ra sao khi họ vừa được tiền của người dân

nghèo khó. Và tôi còn được nghe thấy sau buổi hầu, họ chế nhạo, chửi sau lưng

những người ngốc nghếch tin mà mất tiền cho họ”. Quãng đời đó có ảnh hưởng

không nhỏ đến lập trường sáng tác sau này của nhà văn. Ông lắng nghe để mà hiểu

dần và từ đó biết suy nghĩ, trăn trở trước số phận của những con người thấp cổ bé

họng, biết “Tây là thế nào, quan ta, tổng lý, lính tráng đối với dân đen ra sao?”.

Từ hiện thực của cuộc sống gia đình đến những câu chuyện ngoài cổng chòi

và trong sân công đường đã tác động vào thế giới quan nhà văn tạo ra một cái nhìn

bi quan. Trong “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan tổng kết; “Tóm lại cuộc

đời của tôi, sống dưới chế độ phong kiến và đế quốc, với những ảnh hưởng giáo dục

của truyền thống gia đình, của nhà trường, của xã hội, với những điều mắt thấy, tai

nghe của tôi trong quá trình làm công chức của thực dân, với những phen may mắn,

lo âu, đã tạo cho tôi thành một con người bi quan đối với thời cục, hằn học đối với

chế độ, hoài nghi đối với nhân tâm, sinh ra cho tôi cái tính nghịch ngợm, ranh

mãnh, khinh thế ngạo vật, làm cho tôi thói quen hay đùa bỡn, hay chế nhạo chua

chát” [25/99]. Ông đã “ dùng óc để học trong cuốn thiên nhiên xã hội Việt Nam”

viết lên cảnh huống, tâm trạng của những con người sống trong xã hội ấy chứ không

phải ở một thế giới nào xa xôi.

Cùng với vốn sống được tích lũy trong quãng đời từ 10 đến 20 tuổi, lòng yêu

văn học có ở Nguyễn Công Hoan ngay từ hồi còn “nói ngọng”. Khi còn nhỏ, ông

15

thuộc những phương ngôn, tục ngữ,ca dao do bà nội truyền lại. Lúc đến trường, qua

lời giảng của thầy, ông hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương,

Nguyễn Khuyến, trần Tế Xương. Ông nói: “được nhập tâm những văn thơ hay, tôi

chịu ảnh hưởng của các bậc tiền nhân không nhỏ”.

Những năm đầu thế kỉ XX, khi báo chí xuất hiện, Nguyễn Công Hoan chăm

chú theo dõi những mẩu văn, những bài dịch từ sách Hán, sách Pháp, đặc biệt quan

tâm đến mục “Từ phú thi ca”, “Đoản thiên tiểu thuyết” bởi đó là văn sáng tác…

Lòng yêu gia đình, yêu văn học đã giúp ông nhìn cuộc đời không khô khan, trừu

tượng mà là cái nhìn của một tâm hồn thi sĩ “nghĩa là không nhìn bằng đôi mắt bình

thường những việc xảy ra một cách thẳng đuỗn, khô khan, mộc mạc, thật thà mà nhìn

bằng óc, bằng tim, vào những khía cạnh tiếng nói, trông thấy cả linh hồn sự việc”.

Vốn thông minh, tinh nghịch lại có hiếu hài hước của một tâm hồn yêu văn

chương cộng với thái độ bi quan của người bị coi là lỗi thời, tạo cho một cậu bé một

“thói quen hay đùa bỡn, hay chế nhạo chua chát”.Thuở thiếu thời Nguyễn Công

Hoan đã say sưa với những màn kịch tự biên, tự diễn. Ban đầu chỉ là “những câu nói

nhảm để chế giễu ông thầy bói, thầy cúng phỏng theo truyện tiếu lâm nhằm mục đích

gây cười sặc sụa chứ không có nghĩa lí gì”, nhưng về sau, ông “tìm những thói xấu

của những người xung quanh để làm đề tài, dựng nên kịch để chế nhạo” [25/66].

Có thể nói, tuổi ấu thơ của Nguyễn Công Hoan đã ấn định một điểm nhìn nghệ

thuật, chi phối hầu hết quá trình sáng tác của nhà văn cả trước và sau cách mạng.

1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ.

1.2.1. Đặc điểm về địa lý.

Trấn Sơn Nam hay xứ Sơn Nam hay là vùng đất phía nam Thăng Long từ thời

nhà Lê sơ đến nhà Nguyễn. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, bản đồ Việt Nam có 13

xứ (sau từ triều Tây Sơn đổi sang gọi là trấn). Đến đây, các vùng đất quanh Hà Nội

trở thành tứ trấn gồm: vùng núi phía tây được gọi là trấn Sơn Tây (hay xứ Đoài),

vùng núi phía nam Hà Nội được gọi là trấn Sơn Nam, vùng ven biển phía đông

được gọi là trấn Hải Đông (hay xứ Đông), vùng phía bắc Hà Nội được gọi là trấn

Kinh Bắc.

Ngày nay của trấn Sơn Nam là các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái

Bình và một phần các tỉnh Hưng Yên, Hà Nội (5 huyện phía nam).

16

1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội.

Trấn Sơn Nam là vùng đất phía Nam Thăng Long, từ thời Lê Sơ đến thời nhà

Nguyễn, bao gồm Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình và một phần Hưng

Yên, Hà Nội. Đó là miền đất của đồng bằng lúa nước chỉ thấp thoáng núi đá vôi ở

vùng Sơn Nam Thượng, còn vùng Sơn Nam Hạ hầu như không có núi. Văn hóa Sơn

Nam cùng với văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Xứ Đoài hình thành bản sắc văn hóa Việt

truyền thống.

Trước hết, có thể nói trấn Sơn Nam là vùng đất phát tích đế vương. Những

anh hùng để lại dấu ấn lịch sử tiêu biểu nhất trên đất Sơn Nam là Đinh Bộ Lĩnh, Lý

Công Uẩn và Trần Hưng Đạo.

Trấn Sơn Nam còn là vùng đất văn chương, chữ nghĩa. Nhân kiệt Sơn Nam

còn phải kể đến những tên tuổi lừng lẫy thời xưa như Lương Thế Vinh, Nguyễn

Hiền, Lê Quý Đôn, Ngô Quang Bích, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… vang vọng thời

nay như Trần Huy Liệu, Nam Cao, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan… Đó không

chỉ là đất của đế vương mà còn là đất của chữ nghĩa, văn chương. Người có con

đường khoa bảng hanh thông nhất nước Việt cũng ở trấn Sơn Nam. Đó chính là

Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909). Thơ Nguyễn Khuyến diễn đạt

được hòa khí vời vợi của đất trời, đặc tả được sự mong manh, cô đơn của tâm hồn

con người trong không gian chật hẹp, hai mặt của cuộc đời. Thơ ông thanh thoát

ngôn từ mà trĩu nặng tâm tư, hình tượng gần gũi mà sang trọng, nhạc điệu bay bổng

vượt qua niêm luật hà khắc của thơ Đường.

Trấn Sơn Nam, bức thủy mặc hữu tình. Vùng đất Sơn Nam như bức thủy

mặc bát ngát châu thổ đồng bằng, chấm phá mấy hòn độc sơn vừa đủ tạo dáng non

nước hữu tình. Sơn Nam ôm trọn hạ lưu sông Hồng, sông Trà, sông Đáy… những

dòng sông nặng đỏ phù sa, hẹn hò cùng biển cả, sinh nở thêm làng quê, bờ bãi. Văn

hóa Sơn Nam không có bề dày thời gian như Xứ Đoài, Kinh Bắc nhưng thừa kế và

thăng hoa được tất cả tinh hoa, tâm linh hồn Việt. Sơn Nam là đất của hát chèo, hát

xẩm và rối nước. Sơn Nam có những kiến trúc đáng kể như tháp Phổ Minh, chùa

Keo, cố đô Hoa Lư, nhà thờ đá Kim Sơn… Sơn Nam có những làng nghề cổ nổi

danh thế giới như nghề bạc Đồng Xâm, nghề đúc đồng Lý Nhân… Cảnh quan Sơn

17

Nam không nhiều nhưng lại có những chốn du ngoạn thuộc hàng Nam thiên đệ nhất

như Hương Tích, Non Nước, Cúc Phương. Non nước hữu tình ấy đương nhiên cũng

là nơi nương náu, giao duyên của những cuộc tình thơ mộng.

Nguyễn Công Hoan được sinh thành trong gia đình trâm anh thế phiệt, cộng

với truyền thống văn hóa quê hương, một vùng đất đã hội tụ được những truyền

thống vô cùng quý báu của vùng đất địa linh nhân kiệt. Có lẽ những đặc điểm ấy đã

góp phần không nhỏ hình thành một phong cách sáng tác văn học mang đậm phong

cách Nguyễn Công Hoan.

Hơn nữa, Nguyễn Công Hoan sinh ra và trưởng thành trong hoàn cảnh đất

nước chịu cảnh nô lệ, xã hội thực dân nửa phong kiến. Chứng kiến những cảnh đời

trướng tai gai mắt, Nguyễn Công Hoan đã dành hết bút lực của mình để vạch trần

những thói hư tật xấu của xã hội đương thời, phát huy truyền thống yêu nước

thương dân của các bậc tiền nhân như Nguyễn Khuyến, Tú Xương…

1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến phong

cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.

Thế kỉ XIX, trấn Sơn Nam xuất hiện khá nhiều nhà thơ tên tuổi, để lại một

dấu ấn quan trong trong nền văn học nước nhà. Tiêu biểu như: Nguyễn Khuyến,

Trần Tế Xương, Kép Trà…

Nguyễn Khuyến , người mở đầu cho dòng văn học trào phúng và Trần Tế

Xương là người đưa dòng văn học này đến đỉnh cao. Sự tiếp nối mạch nguồn từ

Nguyễn Khuyến đến Tú Xương của dòng văn học trào phúng là con đường của sự

rạn vỡ từ lí tưởng thẩm mĩ Nho giáo, đến sự khởi đầu của mĩ học hiện thực chủ

nghĩa. Có thể khẳng định rằng Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là hai nhà thơ có

hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng. Họ là người đưa thơ trào phúng phát triển

thành một dòng nối tiếp không dứt, mở ra giai đoạn mới trong tiến trình phát triển

của nền văn học nước nhà, chuyển từ trung đại sang cận hiện đại, cầu nối đi đến văn

học hiện đại.

1.2.3.1. Nguyễn Khuyến.

Nguyễn Khuyến sinh năm Ất Mùi (1835) ở Hoàng Xá, huyện Ý Yên, Nam

18

Định nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục tỉnh Hà

Nam. Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng có truyền

thống học hành thi cử. Ông nội Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh,

cha là Nguyễn Tông Khải đỗ liền ba khoa tú tài, nhưng trượt cử nhân. Từ nhỏ

Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người chăm chỉ học hành giỏi giang. Năm mười bảy

tuổi ông đi thi Hương với cha nhưng không đậu, sau đó cha mất vì nhà nghèo nên

ông đã phải thôi học để đi dạy thuê kiếm tiền nuôi mẹ. Lúc bấy giờ có ông Nghè là

Vũ Văn Lý, người làng Vĩnh Trụ, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam thấy ông học giỏi

mà phải bỏ dở giữa chừng nên đã đem về nuôi và cho ăn học tiếp. Năm Giáp Tý

(1864), Nguyễn Khuyến đi thi Hương đậu giải nguyên trường thi Nam Định. Năm

sau Nguyễn Khuyến đi thi Hội không đỗ, ông ở lại Huế học trường Quốc Tử Giám để

chờ kỳ thi khác. Năm Tân Mùi (1871), Nguyễn Khuyến thi hội lần thứ hai, đỗ Hội

Nguyên sau đó vào thi đình, đỗ Đình Nguyên. Như thế là cả ba lần thi Hương, thi Hội,

thi Đình ông đều đỗ đầu nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ.

Nguyễn Khuyến, một nhà Nho, người ẩn dật cuối cùng trong văn học Nho

giáo. Vốn xuất thân từ dòng dõi Nho gia, lại có hơn ba mươi năm dùi mài kinh sử,

từng được bổ nhiệm vị trí tổng đốc Sơn- Hưng- Tuyên, khoảng trên dưới mười năm

làm quan hiển hách, đủ đưa ông đến đỉnh cao danh vọng. Vậy mà, ông Tam Nguyên

hay chữ, một nhà nho hiển đạt lại viết khá nhiều thơ trào phúng, trong khi bậc đại

nho luôn ghét kẻ xảo ngôn, ghét cạnh khóe, châm chọc. Quá trình lội ngược dòng

của cụ Tam Nguyên Yên Đổ được lí giải trong sự vận động nội tại mang tính quy

luật của ý thức hệ tư tưởng, của nguyên tắc phản ánh thực tại và sâu xa hơn là từ sự

vận động của văn học nhà nho đến văn học hiện thực chủ nghĩa.

Bất mãn với chế độ thực dân nửa phong kiến, ông cáo quan về với cảnh

điền viên, cư sĩ, Nguyễn Khuyến không đi theo con đường ẩn dật của nhà nho trước

thế kỉ XVIII mà rẽ sang ngả đường khác. Thời đại của Nguyễn Khuyến khác với

thời đại của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, khiến ông không thể yên tâm làm

một Đào Tiềm. Cuộc xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp phá vỡ sự yên ổn không

chỉ ở thành thị mà lan rộng ra cả những miền quê nghèo hẻo lánh. Mảnh đất nghèo

Bình Lục, nơi Vườn Bùi chốn cũ không thể giữ được nét bình yên trước làn sóng

19

của chủ nghĩa tư bản. Thực tế khiến Nguyễn Khuyến không thể yên tâm làm ẩn sĩ.

Ông ở ẩn trong trạng thái không bình thường, “ông bực bội nói cái thực và trào

phúng thành ra một nhà thơ của cuộc sống chứ không phải của đạo lí xuất xứ.

Nguyễn Khuyến là nhà nho, cố sống như thánh hiền. Ông đã đưa văn chương nhà

nho sang một nẻo khác” (Trần Đình Hượu).

Thơ Nguyễn Khuyến gồm hai mảng trữ tình và trào phúng, gắn chặt với

nhau, phản ánh hai con người trong một Nguyễn Khuyến, một nhà nho chính thống

và một nhà nho phi chính thống; một truyền thống, một cách tân. Mạch thơ trào

phúng của Nguyễn Khuyến cơ bản vẫn tiếp tục mạch văn chương cảm thán thời thế

nhưng đã phá vỡ quy phạm. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ văn đến với cái đời thường,

cái hàng ngày, và trở thành “nhà thơ nông thôn số một”, “nhà thơ của làng cảnh

Việt nam” (Xuân Diệu).

Trở về đời sống ẩn sĩ không chỉ là cách bảo về lí tưởng, cách hành đạo như

nhiều nhà nho xưa, với Nguyễn Khuyến nó mang một ý nghĩa mới. Đó là “từ bỏ tư

thế của một nhà nho để làm người dân thường” (Trần Nho Thìn). Từ đây Nguyễn

Khuyến vừa chính thống, vừa phi chính thống.

Điểm cách tân của nhà nho Nguyễn Khuyến còn ở chỗ, bên cạnh nỗi day

dứt của kẻ lội ngược dòng:

“Độc đương hàn tuế thùy vi ngâu

Bất lạc phương tâm chân khả ái”

(Chọi rét một thân ai là bạn – Chẳng lạt lòng son thật đáng thương)

Ở Nguyễn Khuyến còn có một nỗi buồn mang tính thời đại mà các nhà nho

xưa chưa từng trải nghiệm “lần đầu tiên trong lịch sử nhà nho tự thú về sự vô dụng

của mẫu người mà mình đại diện… nhà thơ tự trách vấn, tự xỉ vả, thậm chí tự mạt

sát. Ông có ý thức về sự vô dụng, bất lực của kiến thức, của học vấn Nho gia trước

các nhiệm vụ lịch sử đang đặt ra rất khẩn thiết”[51/222].

Sách vở ích gì cho buổi ấy

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”

(Ngày xuân dặn các con)

Dám thẳng thắn nhìn lại vai trò kẻ sĩ trước thế chòng chành của lịch sử,

20

Nguyễn Khuyến nhận ra tính chất vô dụng của cái mình học và theo đuổi. Ông đem

ra giễu cợt, mạt sát, tự coi mình là ông phỗng đá, điều mà nhà nho xưa chẳng ai

dám nói.

Có thể nói, đến Nguyễn Khuyến rào cản giữa nhà nho và người nông dân cơ

hồ bị phá vỡ. Bức tranh xã hội trong thơ Nguyễn Khuyến mang nhiều mầu sắc,

phản ánh cuộc sống, sinh hoạt của người dân vùng chiêm trũng Bình Lục nói riêng,

nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Và nụ cười trong thơ Nguyễn Khuyến

cũng thật hóm hỉnh “Trong Nguyễn Khuyến có một Tam Nguyên, một cụ già nông

thôn và một chàng thanh niên nghịch ngợm…cả người thanh niên nghịch ngợm,

ông già nông thôn, ông Tam Nguyên hay chữ liên kết lại và theo sự dìu dắt của ông

Tam Nguyên hay chữ mới thành Nguyễn Khuyến” (Trần Đình Hượu). Ba con người

trong một Nguyễn Khuyến đã tạo nên đặc sắc hiếm có ở Tam Nguyên Yên Đổ.

1.2.3.2. Trần Tế Xương.

Trần Tế Xương sinh ra vào ngày 5- 9- 1870 (tức 10- 8- AL) tại số nhà 247

phố Hàng Nâu thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng

dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần lập công

lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua).

Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Cuộc đời ngắn ngủi có

37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước.

Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh Nam kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3

thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc

Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp

ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. các

phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú

Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi thương đó.

Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Ông đi thi từ lúc

17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều

người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng

và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài

thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường:

21

thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú

Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là

bậc thần thơ thánh chữ.

Nếu Nguyễn Khuyến được coi là mở đầu dòng văn học trào phúng, người

đầu tiên mở ra con đường phát triển mới trong văn học Việt Nam, thì Trần Tế

Xương đưa văn học trào phúng lên đến đỉnh cao, mở ra bước tiếp cận với chủ nghĩa

hiện thực phê phán 1930 – 1945.

Trần Tế Xương nhập cuộc khi xã hội đã có sự giao tranh giữa cái cũ và cái

mới, khi Nam Định đang chuyển dần từ một vùng quê nghèo thành trung tâm khai

hóa của thực dân.

Khác với Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương thuộc tầng lớp nhà nho đã

nhuốm lối sống tư sản đậm nét. Ông lận đận cả đời vì cái nghiệp công danh để rồi

không ít khi ông sống trong trạng thái ngơ ngơ, ngẩn ngẩn:

“Chẳng phải quan, chẳng phải dân

Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hóa ra đần”

Trần Tế Xương đứng bên lề của lớp nhà nho hiển đạt. Ông khao khát bước

trên con đường đã vạch sẵn: học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan. Cả cuộc đời lận đận

với trường ốc. Cả cuộc đời lận đận lều chõng đi thi. Rốt cuộc ông đề thất bại. Ba

mươi bảy năm gắn bó với cuộc đời thì có hơn một nửa lều chõng đi thi. Bảy lần thi

đều hỏng cả. Khoa thi cuối cùng trong cuộc đời Tú Xương là vào năm 1906 (trước

khi mất một năm). Cái bằng cử nhân tối thiểu của một nhà nho để có thể thi thố tài

năng với thời cuộc tuột khỏi tay ông. Ông rên xiết. Ông chửi bới chế độ khoa cử.

Ông lên án chế độ Nho học và nhận ra sự vô học của nền học vấn ấy.

Con người Trần Tế Xương đầy mâu thuẫn. Ông lên án kịch liệt chế độ khoa

cử nhưng vẫn một lòng một dạ “trung thành” với con đường của nhà nho thuở trước.

Thực tế chứng minh, con đường nhà nho vạch sẵn là con đường duy nhất buộc lớp

thanh niên thủa trước phải phấn đấu. Trần Tế Xương mang tâm lí trên cũng là điều

dễ hiểu.

Là sản phẩm nội sinh của xã hội giao thời, Tú Xương không được coi là nhà

nho chuẩn mực, truyền thống, cũng chưa phải trí thức tiểu tư sản theo lối mới. Trần

22

Tế Xương mang tâm lí thường thấy ở nhà nho cấp thấp. Xã hội giao thời với đầy đủ

tính mâu thuẫn và phức tạp đã đóng dấu ấn rõ rệt lên con người và thơ văn Tú

Xương. Là nghệ sỹ mẫn cảm với cái mới, đồng thời cũng là nhà nho, con người và

thơ văn ông giống như bản lề khép mở giữa truyền thống và hiện đại, giữa cũ và

mới. Tú Xương đã đưa thơ văn trào phúng lên đỉnh cao, mở ra bước tiếp cận với

chủ nghĩa hiện thực.

Trần Tế Xương phủ định hoàn toàn địa vị nhà nho của mình, của giai cấp

mình. Ông lấy mình làm đối tượng trào phúng, đồng nhất tác giả với công chúng

bằng cách đẩy mình vào phía khách thể. Yếu tố phi ngã không được giữ lại trong

thơ Tú Xương. Ông tạo ra cái ta đa sắc diện, cái ta ngông nghênh, “bán trời không

văn tự”. Ông phơi bày bản chất xấu xa của thời đại không cần “giữ miệng”. Thẳng

thắn, bộc trực là bản chất con người và thơ văn Trần Tế Xương. Điều này khác hẳn

với nhà nho Nguyễn Khuyến. Nếu cụ Tam Nguyên xuất phát từ môi trường nông

thôn, từ quan niệm Nho gia, Tú Xương lại lại xuất phát từ môi trường của xã hội thị

dân đang trong chiều hướng tư sản hóa. Mặt khác, ông không bị ràng buộc bởi chốn

quyền môn (Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai, Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã

biết) nên lời ăn tiếng nói của Tú Xương khác hẳn Nguyễn Khuyến. Kín đáo, thâm

trầm và sâu lắng là đặc điểm nổi bật trong thơ trào phúng của cụ Tam Nguyên Yên

Đổ. Thẳng, sắc là phong cách trào phúng của Tú Xương.

Trần Tế Xương đưa thơ văn trào phúng lên đỉnh cao và góp phần không nhỏ

vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.

Thơ văn Trần Tế Xương góp phần tạo nên bước phát triển của văn học Việt

Nam hiện đại. Ông là người hé mở cánh cửa để bước vào chủ nghĩa hiện thực phê

phán những năm 1930- 1945.

Yếu tố thời đại quy định điểm dừng của Trần Tế Xương. Ông lấy lập trường

của lẽ phải thông thường làm điểm tựa. Là người phản ánh xã hội một cách chân

thực, song vì chưa được trang bị tri thức khoa học nên khả năng khái quát của Trần

Tế Xương khá hạn chế. Mặt khác, vấn đề thể loại thơ cũng phần nào hạn chế khả

năng phản ánh trong sáng tác của tú Xương.

Với Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam. Bức

23

tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác

rưởi, đau buồn, vì hiện thực của xã hội thực dân nửa phong kiến là như vậy. Cảm

hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái

tốt lành, những cái thuộc về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, của nhân dân, dù có bị

ẩn kín xuống nhưng vẫn không bao giờ mai một trong hoàn cảnh lịch sử tang tóc đó.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà quan, ông tự hào “về một dòng dõi mà

người ta gọi là thế phiệt.Từ xưa đến nay, vào đời nào cũng có người đỗ đại khoa và

làm quan to”. Tuổi ấu thơ, ông thuộc nhiều tục ngữ, ca dao do bà nội truyền lại. Khi

đến trường qua lời giảng của thầy, ông hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng của Hồ

Xuân Hương, Nguyễn Khuyễn, Trần Tế Xương… Hơn nữa vùng đất trấn Sơn Nam,

một vùng đồng bằng rộng lớn, nơi có một truyền thống văn hóa lâu đời, nơi có

nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương.

Nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của ông , chúng ta thấy truyền thống ấy đã có

một tác động không nhỏ trong con đường lập thân và lập nghiệp của Nguyễn Công

Hoan. Khi đã có nhận thức sâu sác về cuộc sống, Nguyễn Công Hoan không chấp

nhận một cuộc sống bình dị của một ông giáo làng an phận với cuộc đời. Bằng sự

nỗ lực vươn lên Nguyễn Công Hoan đã xác định con đường đi cho bản thân mình

bằng con đường văn nghiệp.

Và từ hiện thực cuộc sống gia đình đến những câu chuyện ngoài cổng chòi

và trong sân công đường tác động vào thế giới quan nhà văn, đã góp phần tạo nên

phong cách văn chương độc đáo Nguyễn Công Hoan mang đậm dấu ấn văn hóa trấn

24

Sơn Nam.

Chƣơng 2

SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ VĂN HỌC TÂY ÂU TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945

2.1. Văn hóa truyền thống và văn chƣơng nhà Nho.

2.1.1. Văn học dân gian.

Với bất kỳ một nền văn học nào, một quốc gia, dân tộc nào, văn học dân gian

cũng là một công trình sáng tạo để đời. Những sáng tạo đó không chỉ có giá trị vùng

miền, ý nghĩa địa phương, khu vực, quốc gia. Bởi vậy, văn học dân gian có một tầm

ảnh hưởng lớn đến quan điểm thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ

được tắm mình trong suối nguồn trong trẻo của văn học dân gian.

Với đội ngũ sáng tác chủ yếu là nhân dân lao động. Cung bậc đầu tiên của

tiếng cười hài hước là những câu chuyện cười thuần túy phản ánh tinh thần lạc quan

của nhân dân. Đó là tiếng cười sảng khoái, vô tư sau một ngày lao động vất vả. Cái

cười trong nhiều trường hợp mang tính chất sinh lí hơn là tâm lí. Cuộc sống sau lũy

tre làng tưởng chừng êm ả, vậy mà đâu đó xuất hiện tượng tiếng cười đả kích, châm

biếm, ném vào bọn cường hào ác bá. Trong xã hội phong kiến, người nông dân là

kẻ yếu thế. Cách phản kháng duy nhất của họ là tiếng cười. Tiếng cười thành vũ khí

có sức công phá lớn.

Tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian xuất hiện rải rác ở các thể loại,

từ ca dao, hò, vè, các vai hề trong chèo cho đến những câu chuyện tiếu lâm, truyện

cười, cao hơn là truyện trạng.

Vũ khí cười luôn chĩa vào thế giới bạo lực, bất bình đẳng trong xã hội, chĩa

vào những điều kiện sống còn không xứng đáng với con người.

Cái cười trong văn học dân gian là cái cười nông dân, khỏe khoắn, lạc quan.

Cái cười của những con người bị hạn chế tầm mắt, tuy không thật sâu cay như các

nhà Nho, nhưng giá trị của văn học dân gian vẫn được khẳng định.

Bất cứ một nền văn học nào cũng chứa đựng một nội lực phát triển. Nền văn

học viết nói chung và văn học trào phúng nói riêng đã tiếp thu di sản trong mạch

25

nguồn truyền thống để làm nên diện mạo riêng.

2.1.2. Từ cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại đến cái nhìn của nhà

văn, nhà thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học Việt Nam.

2.1.2.1. Vài nét về cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại Việt Nam.

Gần mười thế kỉ tồn tại của văn học trung đại, Nho giáo giữ vai trò định

hướng phát triển, chi phối quan niệm văn học, lí tưởng thẩm mĩ của cả một giai

đoạn khá dài trong lịch sử văn học Việt Nam nói riêng và văn học khu vực Đông Á

nói chung. Lực lượng sáng tác văn học nhà nho là các nho sĩ, người mang trong

mình trách nhiệm khai tâm, dẫn đạo cho đám đông quần chúng. Họ lấy văn chương

để bảo vệ đạo lí cương thường. Vì thế, hơi thở của văn học nhà nho là hơi thở của

lòng nhân nghĩa, của chuẩn mực đạo đức xã hội. Sức mạnh giáo hóa trở thành nhịp

đập của cả giai đoạn dài trong văn học Việt Nam trung đại.

Nho giáo không hoàn toàn là một tôn giáo. Vì nhà nho có vị trí trung gian

đặc biệt giữa chính quyền và nhân dân, nên tùy theo từng tình huống, hoàn cảnh,

tùy theo thân phận cá nhân của từng người mà văn chương của họ mà có thể “tôn

quân, thân thượng”, thể hiện sự trung thành vô điều kiện với vương chế và giáo lí,

nhưng lại có thể là lời cảm thán chua cay, sự bi phẫn thống thiết, hay thậm chí sự tố

cáo gay gắt.

Với bản chất “ôn nhu, đôn hậu” trong ý thức sống và trước thuật, nhà nho

luôn chủ trương một lối sống ôn hòa. Họ viết văn trước hết là để dành cho mình , để

bộc lộ tâm sự trước thời thế, sau là để uốn nắn lòng người và di dưỡng tính tình.

Thơ là để bộc lộ Tâm, Chí, Đạo. “Vì là để bộc lộ tâm chí, thơ trở thành bộ phận lớn

nhất, trữ tình trở thành nét chủ đạo trong văn học. Nhưng trữ tình không phải là

bộc lộ cái tôi cảm xúc mà bộc bạch cái ta đạo lí, vì nhằm mục đích giáo hóa, văn

học có chức năng truyền đạt chứ không có chức năng phát hiện, phản ánh, nhận

thức. Nó hướng về bắt chước, thể hiện Đạo chứ không cố gắng về mặt tìm tòi, sáng

tạo hình thức để mô tả, tái hiện thực tế. Đối với thực tế nó thiên về phẩm bình, tìm ý

nghĩa đạo lí hơn là băn khoăn tìm hiểu”[4/32,33].

Không thể phủ nhận những đóng góp của văn học nhà nho trong lịch sử văn

học dân tộc. Họ luôn khuyên răn con người sống có đạo đức, đề cao cái tài, đề cao

26

sự thông thạo thi, thư, lễ, nhạc, giúp con người biết tiến thoái, ứng đối. Tuy nhiên,

văn học nhà nho mang trong mình những nhân tố cản trở văn học phát triển theo xu

hướng hiện thực.

Quan niệm của văn chương nhà Nho quy định hệ thống đề tài, chủ đề và hình

tượng trung tâm văn học. Lấy phạm trù tâm, chí, đạo làm trung tâm. Văn học nhà

Nho vào mục đích giáo hóa hơn là nhận thức, khám phá và phát hiện cuộc sống.

Chất triết lí trở thành đặc điểm cơ bản của văn học trung đại. Dù là người ẩn dật,

người hành đạo hay người tài tử thì trong thơ của họ đều thể hiện khá rõ quan niệm

“thi dĩ ngôn chí”. Điều này được minh chứng bằng sự lựa chọn khá cầu kì các đối

tượng của tự nhiên cho phù hợp với phẩm chất cao quý của người quân tử, của đấng

trượng phu.

Đề tài quen thuộc hầu hết sáng tác của nhà Nho là: cảm hoài, tức sự, ngôn

chí…Chủ đề bảo vệ và thực hành Nho giáo được nhà nho quan tâm hàng đầu. Hệ

thống chủ đề, đề tài này kéo dài gần mười thế kỉ. Và “Nguyễn Đình Chiểu trở thành

một trong những tác giả khép lại một giai đoạn phát triển của văn học sử, tiêu biểu

nhất là khép lại của chủ đề bảo vệ và thực hành Nho giáo, sự tự thủ tiêu của cặp

đôi trung quân - ái quốc” [56/295].

2.1.2.2. Thuật ngữ trào phúng:có nhiều cách hiểu về thuật ngữ trào phúng.

Trào phúng: Lời bóng gió để cười nhạo [1].

Cách hiểu thông thường hơn là: Trào phúng có tác dụng gây cười để châm

biếm, phê phán [43/155].

Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học, đồng thời cũng là một

nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm,

phóng đại, khoa trương, hài hước…được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo,

phản kháng, những tiêu cực xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội. Trào phúng theo

nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác,

song trong lĩnh vực văn học, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn với phạm

trù mỹ học và cái hài trong các cung bậc hài hước umua, châm biếm. Văn học trào

phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ

trong truyện cười, truyện tiếu lâm đến tiểu thuyết, từ các vở kịch cho đến những bài

thơ trào phúng, châm biếm[17]. Đó là khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học của

27

tiếng cười.

Như vậy, với khái niệm này, trào phúng được hiểu một cách toàn diện và sâu

sắc, gắn văn chương trào phúng với phạm trù mỹ học của cái hài.

2.1.2.3. Sự ra đời của văn học trào phúng.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, mầm mống trào phúng có trong sáng tác

của các nhà Nho như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và nhiều nhà Nho trong

giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX.

Ở Nguyễn Trãi có sự thoảng qua nụ cười nghiêm trang mà bất bình với cuộc

sống xung quanh:

Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc

Cho hay đường lợi cực quanh co

Tuồng ni cóc được bề hơn thiệt

Chớ dễ bằng ai đắn với đo (Ngôn chí V)

Mầm mống trào phúng thể hiện rõ hơn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông

ví bọn quan lại bất nhân như những lũ chuột chuyên đục khoét:

Thạc thử hồ bất nhân

Thảo thiết tứ âm đọc

Nguyên dã hữu cảo miêu

Lẫm dữu vô dư túc…

(Tăng thử)

(Chuột lớn kia bất nhân

Gậm khoét thật thảm khốc

Đồng ruộng trơ lúa khô

Kho đụn hết gạo thóc)

Phạm vi phê phán của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn nằm trong khuôn khổ Trung,

Hiếu, Tiết, Nghĩa. Ông ghét thói đời đen bạc:

“Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười

Có của thường hơn hết mọi lời…

…Người của lấy cân ta thử sức

28

Mới hay rằng của nặng hơn người”(Thơ Nôm – bài 86)

Thực tế cho thấy, nhiều người trước đây dám “vượt rào”, tìm mọi khả năng

có thể để biểu hiện cái hài, cái xấu, cố gắng để tiến hành những sự phê phán cục bộ.

Tuy nhiên phải đợi đến cuối thế kỉ XIX, những mầm mống ấy mới có đủ điều kiện

để đơm hoa kết trái.

Văn chương trào phúng gắn chặt với phạm trù mĩ học của cái hài. Xung đột

trong hài kịch xuất hiện khi niềm tin đã mất.

Cuối thế kỉ XIX thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Triều đình nhà

Nguyễn nhanh chóng đầu hàng. Hiệp ước Harmand và Patenote (1883 – 1884) đánh

dấu sự sụp đổ hoàn toàn của triều Nguyễn trước chủ nghĩa tư bản Pháp. Xã hội Việt

Nam chuyển từ nhà nước phong kiến sang chế độ thực dân phong kiến. Cơn quốc

nạn khiến nhiều văn nhân, sĩ phu đứng lên theo tiếng gọi Cần Vương tập hợp lực

lượng phất cờ khởi nghĩa. Phong trào Cần Vương diễn ra rầm rộ kéo dài gần hết thế

kỉ XIX. Những sĩ phu yêu nước lần lượt hi sinh. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị

thương rồi nhịn ăn mà chết. Khi Pháp đánh ra Hà Nội lần hai, thành vỡ, tướng

Hoàng Diệu tuẫn tiết trong thế đơn phương độc mã. Phong trào Cần Vương dần tắt.

Cái chết của Đình nguyên Phan Đình Phùng chấm dứt phong trào đấu tranh theo

tiếng gọi của vua Hàm Nghi, ánh lên hình ảnh đẹp cuối cùng về người anh hùng vệ

quốc của Nho giáo.

Cuộc xâm lược của thực dân Pháp tác động mạnh chưa từng có đến đời sống

xã hội, khiến đội ngũ nhà nho phải nhận thức lại vai trò của kẻ sĩ trong xã hội. Họ

không thể đem đạo lí của Khổng Mạnh để đấu chọi với tàu đồng, đại bác, súng nhỏ,

súng to…

Xã hội biến động, quan lại phân hóa. Có kẻ làm tay sai cho giặc. Một số khác

chịu làm quan cho Pháp nhưng mang tâm lí tùy thời. Cũng có người giữ được nhân

cách, bất mãn với thời thế nhưng không đủ dũng khí là một Nguyễn Tri Phương hay

Phan Đình Phùng. Họ từ quan, trở về ẩn dật. Nhưng với tấm lòng yêu nước thương

dân, họ gửi gắm nỗi niềm vào những áng văn thơ đả kích, châm biếm.

2.1.2.4. Vài nét về đặc điểm nghệ thuật thơ văn trào phúng.

Sự vận động của lịch sử, xã hội cuối thế kỉ XIX dẫn đến sự vận động trong

29

quan niệm văn học.

Thơ văn trào phúng ra đời, chối từ phạm trù thẩm mĩ của cái cao thượng

trong văn chương trung đại, thơ trào phúng tìm cảm hứng trong đời sống thường

nhật. Trước cơn tao loạn, nhà nho không thể vùi đầu vào đạo lí thánh hiền. Họ buộc

phải hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề của hiện thực đời sống, hướng đến

cái đời thường, cái hàng ngày. Đó là cuộc chiến đấu của dân tộc trước cuộc xâm

lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Văn học hướng vào những vấn đề nóng hổi,

mang tính thời sự. Phê phán, tố cáo trở thành cảm hứng chủ đạo của văn học Việt

Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thay dần cảm hứng sử thi của giai đoạn trước,

đặc biệt trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Văn chương trào phúng trở thành

giá đỡ cho văn học cách mạng và là bước đệm của chủ nghĩa hiện thực phê phán.

Đội ngũ sáng tác của dòng văn học trào phúng cơ bản vẫn là nhà nho mang ý

thức hệ phong kiến, song họ đã có quan hệ gần gũi với nhân dân hơn. Nếu như

trước đây “trong môi trường xã hội, nhà nho hòa nhi bất đồng với nhân dân, họ có

thái độ quan tâm, cảm thông đối với cuộc sống của người dân nhưng cái nhìn cảm

thông chia sẻ của nhà nho vẫn chỉ là cái nhìn từ bề trên, bên ngoài của đấng thiên

sứ” [48/220] và nhân cách kiểu nhà nho tồn tại trong sự độc lập cao với xã hội thì

nhà nho cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sống gắn bó với nhân dân hơn. Giữa họ,

không ít người xuất thân từ tầng lớp trung lưu và lớp dưới của xã hội, vì thế họ hiểu

và cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của quần chúng. Nhà thơ trào phúng đã kéo văn

học trở về với cuộc sống đời thường, phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội. Họ

đứng về phía nhân dân để tố cáo quan lại, tố cáo “tội theo Tây của các cụ lớn” và

chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân cướp nước. Văn chương trào phúng trở thành công

cụ đấu tranh chính trị. Tiếng cười không chỉ dừng lại ở mức khôi hài trong những

chuyện vặt vãnh. Tiếng cười trở lên gai góc, hiểm ác, đậm chất trí tuệ, đã mổ xẻ,

bóc trần sự thật. Lịch sử biến thiên, xã hội xô lệch. Sự đối lập giữa cái đẹp và cái

xấu; giữa cao cả và thấp hèn; giữa cái cũ và cái mới khiến cả nhà nho và nông dân

đều bật ra tiếng cười. Cái cười của nhà nho giai đoạn này phần nào đồng cảm với

cái nhìn của người nông dân.

Trong văn học trào phúng, cái cười luôn đòi hỏi sự hưởng ứng của đám đông

30

quần chúng, hơn thế phải có sự giao lưu giữa tác giả và độc giả. Đó là cái cười chân

chính có sức tác động đến dư luận thời đại, “có vai trò tổ chức dư luận xã hội, tập

trung sự chú ý của dư luận này vào những khuyết điểm, những hiện tượng xã hội

tiêu cực” [2/169]. Hàng rào ngăn cách giữa tri thức Nho gia và nông dân không còn

nữa. Cái cười thành điểm chung để họ cùng chia sẻ.

Nhà thơ trào phúng hướng ngòi bút vào hiện thực trước mắt, vào những tên

quan bán nước, lên án chế độ quan trường, thậm chí lên án các nhà khoa bảng, tiêu

biểu cho tấn hài kịch của hình thái xã hội đã già cỗi, sẵn sàng bán rẻ nhân cách, làm

tay sai cho giặc. Khí tiết thanh cao của nhà nho bị bả vinh hoa, mồi phú quý làm

nhàu nát. Kẻ xu thời nịnh thế sẵn sàng quỳ gối, cúi đầu trước tên toàn quyền, nhục

nhã hơn, họ lạy cả ông Tây, me đầm.

Nhà thơ trào phúng đưa lên sân khấu hài kịch những rác rưởi của xã hội thực

dân nửa phong kiến. Họ tiễn đưa “một thế giới lỗi thời bằng tiếng cười vui vẻ”.

Cảm xúc khôi hài trong văn chương trào phúng đòi hỏi nhà văn phải có giác

quan sắc nhọn, trí tuệ linh hoạt và khả năng nắm bắt nhạy bén những mâu thuẫn

mang tính bản chất của thời đại. Chỉ ra được tính hài kịch của cuộc sống sẽ tạo được

cái cười mang bản chất xã hội. Cái cười chân chính có sức mạnh công phá, khiến

cho “Mặt đất rung chuyển và thói xấu bị đạp nhào”.

Bước đầu của sự khác biệt giữa văn học nhà Nho và văn chương trào phúng

là sự thay đổi về đề tái, chủ đề, hình tượng trung tâm.

2.1.3. Sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài và hình tượng trung tâm trong

văn chương trào phúng.

Đề tài trung tâm chính là mảng hiện thực tập hợp những sự kiện, những hiện

tượng, những diễn biến quan trọng nhất của đời sống xã hội, nó thể hiện những nét

bản chất của thời kì lịch sử đó. Chủ đề được hiểu là vấn đề chủ yếu, vấn đề trung

tâm được đặt ra từ toàn bộ hiện thực mà tác phẩm thể hiện.

Quan niệm văn học của nhà nho đã quy định hệ thống chủ đề, đề tài và hình

tượng trung tâm trong văn học. Lấy phạm trù Tâm, Chí, Đạo làm trung tâm, văn học

nhà nho hướng vào mục đích giáo hóa hơn là nhận thức, khám phá và thể hiện cuộc

sống. Chất triết lí trở thành đặc điểm cơ bản của văn học trung đại. Đề tài quen

31

thuộc trong hầu hết sáng tác của nhà nho là: Cảm hoài, tức sự, ngôn chí…

Tiến trình phát triển của nền văn học viết chứng kiến sự thay đổi của khá

nhiều hình tượng trung tâm. Thế kỉ XIII – XV xuất hiện những con người hào hứng

nhập thế, ca tụng vua sáng, tôi hiền, ca tụng xã hội (đỉnh cao là Nguyễn Trãi). Đó là

hình ảnh của nhà nho trung nghĩa, mẫu nhà nho chính thống của Nho gia.

Đến thế kỉ XVI – XVII, một số nhà nho ngả sang sắc thái bi quan, do chế độ

phong kiến bộc lộ những mặt trái. Bên cạnh loại hình nhà nho thứ nhất, còn có tiếng

nói của nhà nho ản dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng…

Cuối thế kỉ XIX, về cơ bản văn học Việt Nam vẫn chịu sự ước thúc của

những quy phạm trong văn học cổ. Tuy nhiên, trước những chuyển mình của lịnh sử,

trong lòng văn học đã nảy sinh yếu tố dự báo sự ra đời của nền văn học mới, ngoài

quỹ đạo của văn chương truyền thống. Sự trở lại của hình tượng nhà nho trung

nghĩa cuối thế kỉ XIX giống như vệt sáng cuối cùng báo hiệu sự mất giá truyền

thống trong văn học cổ, và cũng là điểm sáng đầu tiên đưa văn học tiến vào quỹ đạo

chung của thế giới.

Hệ thống hình tượng trong văn học trào phúng có hai loại:

Loại thứ nhất được xây dựng từ nguyên mẫu bản thân tác giả. Nhân vật “tự

trào” xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương và một số nhà

nho sau này. Họ đem mình ra để cười cợt, chế giễu. Nhiều khi nhà thơ trào phúng tự

phủ định mình, song thực chất lại là cách để họ khẳng định bản thân. Họ là những

chủ thể luôn giữ cho mình một thái độ bình thản, điềm nhiên luôn hài lòng và thỏa

mãn với mình. Cũng có khi ngược lại, nhà thơ trào phúng tự khẳng định mình để

phủ định bản thân

“ Nghĩ mình mà gớm cho mình nhỉ

Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng”

Tác giả trào phúng luôn làm chủ được tiếng cười và “chỉ có thái độ vui tính

vô cùng tự tin của những con người vươn lên khỏi mâu thuẫn trong đó y mắc phải,

chứ không phải chỉ chịu đựng và cảm thấy bất hạnh thì mới là hài mà thôi”

(Heghen)

Thứ hai là loại nhân vật được lấy từ nguyên mẫu ngoài đời. Lọai hình tượng

32

này có khá nhiều trong sáng tác của Trần Tế Xương, Kép Trà…Xây dựng hình

tượng văn học lấy nguyên mẫu từ cuộc đời khiến trào phúng dám phá vỡ nguyên tắc

của văn học cổ. Văn học nhà nho thiên về cảm hứng ca ngợi hơn là phê phán, nếu

có phê phán thì cũng khá trang nghiêm. Thơ trào phúng lấy tố cáo, phê phán làm

cảm hứng chủ đạo. Họ phê phán thẳng thắn, chỉ mặt, vạch tên từng người. Sân khấu

hài kịch là bọn quan lại đục khoét, phường hãnh tiến trong xã hội mới. Tuy chưa đạt

đến độ nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực,

nhưng điều đó bước đầu được tạo nên sự phá cách trong văn học, đặt những viên

gạch đầu tiên khởi móng nền văn học mới. Nhân vật trong thơ trào phúng của Tú

Xương mang dấu ấn thời đại khá rõ nét, mang mầu sắc cá tính, được miêu tả chân

xác, cụ thể, ráo riết theo hướng mĩ học hiện thực chủ nghĩa.

Cả hai loại hình tượng nhân vật trên đều bộc lộ những sự quẫy đạp, thoát

khỏi truyền thống.

Như vây, việc phủ định hệ quy chiếu của văn học Nho gia đã mở ra bước

phát triển mới của văn học Việt Nam. Bản thân sự vận động quan niệm Nho giáo

không thể dẫn tới chủ nghĩa hiện thực. Do mục đích cao nhất của chủ nghĩa hiện

thực là nhận thức và phản ánh cuộc sống trên một quan điểm tiến bộ. Nhưng chính

vì sự phá vỡ những quy phạm truyền thống đó mà văn chương trào phúng có vai trò

quan trọng trong sự vận động và phát triển của nền văn học Việt Nam, trở thành cầu

nối đưa văn học tiếp bước từ truyền thống đến hiện đại.

2.2. Sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây trong sáng tác của Nguyễn Công

Hoan trƣớc cách mạng tháng 8 - 1945.

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội.

Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, xã hội Việt Nam có những

bước chuyển biến căn bản – từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân phong kiến.

Cùng với những công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp là sự du nhập của

văn hóa phương Tây vào nước ta. Sự du nhập ấy có tác động lớn tới nhận thức và tư

tưởng của tầng lớp trí thức đương thời.

Những năm đầu thế kỉ XX chữ quốc ngữ được đưa vào giảng dạy ở một số cấp

học phổ thông. Cùng với ảnh hưởng của văn hoá Pháp một số nhà văn, nhà thơ đã

33

có những cái nhìn mới – bỏ bút lông viết bút sắt.

2.2.2. Sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực phê phán.

Những năm đầu thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam nhanh chóng bước vào

quá trình hiện đại hóa. Đươi ngòi bút của phong trào Tân Thư và Duy Tân, các nhà

nho chí sĩ đã hướng tới cái ngưỡng của sự thay đổi trong quan niệm văn học. Họ là

người có “đầy đủ thẩm quyền đọc lên bản án khai tử… đối với thể loại được coi là

điển – phạm – cùng – cực của truyền thống” (Trần Ngọc Vương). Tuy nhiên họ

không thể tiến hành đến cùng công cuộc đổi mới, cách tân văn học do sự quy định

của nguồn gốc xuất thân và sức hút trọng lực của văn học truyền thống.

Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam được hoàn tất với vai trò của các tri

thức Tây học. Sự ra đời của các tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ đánh dấu bước

chuyển quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. nhiều truyện

ngắn trên tạp chí Nam Phong (1917 – 1934) thành tiền thân của chủ nghĩa lãng mạn

và chủ nghĩa hiện thực giai đoạn 1930 – 1945.

Những năm 30 của thế kỉ XX, bên cạnh cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh

giai cấp còn diễn ra cuộc đấu tranh không kém phần quyết liệt, đó là cuộc đấu tranh

trên lĩnh vực tư tưởng, ý thức hệ, hình thành những quan điểm, những tâm lí thẩm

mĩ và khuynh hướng, trào lưu văn học khác nhau.

2.2.2.1. Thuật ngữ “Chủ nghĩa hiện thực”

Chủ nghĩa hiện thực bắt nguồn từ thuật ngữ “Réalisme”. Năm 1935, tại Đại

hội nhà văn Xô Viết lần I, Gorki gọi văn học thế kỉ XIX là nền văn học hiện thực

phê phán.

Về “Chủ nghĩa hiện thực” có khá nhiều định nghĩa, trong đó có định nghĩa

của F. Enghels được coi là quan trọng hơn cả.

Trong bức thư gửi cô M.Hackness, ông nói “Theo ý tôi, đã nói đến chủ nghĩa

hiện thực thì ngoài tính chân thực của các chi tiết, còn đòi hỏi tính chân thực trong

việc tái hiện những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”.

Với quan niệm này, PGS Trần Nho Thìn đánh giá “thực tế cho thấy, để vận

dụng được công thức này vào nghiên cứu văn học dân tộc có không ít phức tạp và

khó khăn. Tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình trong một tác phẩm chỉ có

34

thể định tính chứ không định lượng được…Vậy muốn được công nhận là tính cách

điển hình thì nhân vật ấy được miêu tả ở cấp độ nào, đến một liều lượng nào về các

phương diện tiểu sử, ngoại hình, tâm lí, ngôn ngữ…? Còn khái niệm trung thành

của chi tiết cũng không phải dễ gì nắm bắt được cái hồn của nó” [52/168-169]. Và

theo ông, để hiểu tinh thần công thức kinh điển của Enghels về chủ nghĩa hiện thực

phải đặt nó “dưới ánh sáng của mối quan hệ giữa mục đích nhận thức, khám phá

bản chất và quy luật của hiện thực và phương pháp điển hình hóa với tư cách là

một phương tiện tương ứng tất yếu với mục đích này”.

Quan niệm về chủ nghĩa hiện thực của Enghels được đánh giá cao, nhưng

thực tế cho thấy để áp dụng nó vào việc nghiên cứu một tác phẩm hiện thực chủ

nghĩa là khó.

Viện sĩ N.Kônrát – nhà nghiên cứu về văn học Phương Đông lại đặt vấn đề

nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực ở một khía cạnh khác. Theo ông, để hiểu được

những yếu tố cấu tạo nên chủ nghĩa hiện thực “tốt hơn cả là căn cứ trên việc so

sánh chủ nghĩa hiện thực giữa thế kỉ XIX trong văn học Pháp với văn học lãng mạn

chủ nghĩa từng tồng tại trước nó và một thời gian song hành với nó”[31/336]. “Chủ

nghĩa hiện thực phủ nhận nguyên tắc sáng tạo của chủ nghĩa lãng mạn… yêu cầu

nhà văn xuất phát trực tiếp từ thực tế… khi lựa chọn đề tài đương thời, nhà văn

hiện thực chủ nghĩa tìm trong sự đa dạng của thực tế cái điển hình và hi vọng tạo

ra được cái tiêu biểu cho một loại hiện tượng”[31/337].

Chủ nghĩa hiện thực theo Konrat được hiểu trong sự đối lập với chủ nghĩa

lãng mạn và có phần cụ thể hơn định nghĩa của Enghels.

Chủ nghĩa hiện thực được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Khái niệm chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa rộng “dùng xác định quan hệ giữa

tác phẩm văn học đối với hiện thực, bất kể tác phẩm đó là của nhà văn thuộc

trường phái khuynh hướng nghệ thuật nào”[18/67]. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì

khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với khái niệm “sự thật đời sống”.

Với cách hiểu này, khái niệm nghĩa hiện thực mang tính chung chung, mơ hồ, do

nền văn học từ cổ chí kim đều bám rễ từ cuộc sống. Văn học nghệ thuật nói riêng và

các hình thái ý thức xã hội nói chung, đều có nhu cầu phản ánh cuộc sống ở nhiều

35

chiều khác nhau: tốt – xấu; thật – giả… Trong sáng tác của các nhà văn trong quá

khứ như : Homerơ, Đỗ Phủ… yếu tố hiện thực đã xuất hiện và đạt được thành tựu

khá cao nhờ gần gũi cuộc sống mang tính chân thực sâu sắc. Tuy nhiên những tác

phẩm đó không được coi là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, mà chỉ có thể gọi đó là

những tác phẩm mang yếu tố hiện thực.

“Khái niệm chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa rộng như vậy hiện nay không được

lưu hành vì không mang lại hiệu quả gì đáng kể cho nghiên cứu văn học” [18/67].

Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng để chỉ một

phương pháp nghệ thuật hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội dung

chặt chẽ, xác định trên cơ sở nguyên tắc mĩ học sau:

“Mô tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với những bản chất hiện

tượng của chính cuộc sống và bằng điển hình hóa các sự kiện của thực tế đời sống.

Thừa nhận sự tác động qua lại giữa con người và môi trường sống, giữa tính

cách và hoàn cảnh, các hình tượng nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa hướng tới tái

hiện chân thực các mối quan hệ khác của con người và hoàn cảnh.

Cùng với sự điển hình hóa nghệ thuật, coi trọng những chi tiết cụ thể và độ

chính xác của chúng trong việc mô tả con người và cuộc sống, coi trọng việc khách

quan hóa những điều được mô tả, làm cho chúng tự nói lên được tiếng nói của mình.

Chủ nghĩa hiện thực luôn quan tâm đến sự đa dạng, phong phú về hình thức…song

tất cả đều phải phục tùng những nguyên tắc sáng tạo hiện thực chủ nghĩa, phục

tùng nhận thức con người trong các mối quan hệ phức tạp với thế giới xung quanh,

những điều kiện lịch sử cụ thể” [18/68].

Như vậy, chủ nghĩa hiện thực dù hiểu ở góc độ nào cũng đều tập trung vào

luận điểm cơ bản, tác phẩm phải mang hơi thở cuộc sống, phải phản ánh sự vật,

hiện tượng trong mối quan hệ bản chất nhất, thể hiện quy luật của cuộc sống con

người, xã hội.

Về sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực, có khá nhiều quan niệm khác nhau. Có

người cho rằng, chủ nghĩa hiện thực xuất hiện từ thời Phục hưng thế kỉ VVI – XVII,

và và W. Shakespeare được xem là người đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực

thời Phục hưng (Xuskop, Pêtơrốp).

Shakespeare phản ánh chân thực cuộc sống con người. Ông nghiên cứu xã

36

hội trên tinh thần phân tích, mô tả thế giới bên trong con người trong sự thống nhất

với tồn tại xã hội. Ở vở kịch Hăm Lét, trong tư tưởng của chàng hoàng tử Đan

Mạch đã diễn ra quá trình đấu tranh để nhận ra: thật- giả; tốt- xấu và đi đến hành

động đòi lại công lí.

Quan niệm: “Chủ nghĩa hiện thực trong văn học thế giới chỉ có thể xuất hiện

vào những năm 20- 30 của thế kỉ XIX trong văn học Pháp” được khá nhiều nhà

nghiên cứu thừa nhận.

Theo họ, sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phải dựa trên cơ sở điều kiện xã

hội. Chủ nghĩa hiện thực phát sinh và phát triển trong một điều kiện lịch sử cụ thể,

đó là giai đoạn thịnh trị của chủ nghĩa tư bản, khi mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là

mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản. Số phận của người công nhân và nông dân

được đặt lên hàng đầu. Họ phải phiêu bạt, sống cuộc đời lao khổ trong khi tầng lớp

tư sản cứ hưởng lợi, vênh vang tự đắc. Quan hệ đồng tiền được thiết lập và trở

thành mối quan hệ cơ bản trong xã hội tư sản. Trước số phận bi thảm của đông đảo

quần chúng, các nhà văn tiến bộ không thể quay lưng lại với thực tại. Họ hướng

ngòi bút phản ánh cuộc sống một cách chân thực nhất, khách quan nhất, và thấm

đượm tình người hơn cả. Cảm hứng phê phán trở thành cảm hứng chủ đạo của các

nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa hiện thực mang tính lịch sử cụ thể, tồn tại với tư cách phương

pháp sáng tác là hiện tượng lịch sử phát sinh ở một giai đoanh phát triển nhất định

của lí trí con người.

Ra đời trong lòng xã hội tư sản, chủ nghĩa hiện thực phản ánh những mâu

thuẫn bản chất của xã hội đó. Để làm được điều này, nhà văn hiện thực phải dựa

vào tri thức khoa học, đặc biệt là thành tựu của ngành khoa học tự nhiên. Thế kỉ

XIX, loài người chứng kiến sự sụp đổ của các tư tưởng thời kì Trung cổ. Lần đầu

tiên trong lịch sử loài người, một lí thuyết hoàn chỉnh về sự tiến hóa của tự nhiên

được đón nhận như một thành tựu vĩ đại nhất của ngành Sinh học. Đó là thuyết tiến

hóa của Đác Uyn - Lí thuyết cho rằng tự nhiên là bất biến bị ông đánh đổ.

Trong lĩnh vực triết học, phép biện chứng của Hê ghen có ý nghĩa to lớn. Đặc

biệt, sự ra đời của chủ nghĩa khoa học của Mác – Ăngghen vào cuối năm 1840 đã

37

đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Sự phát triển của các ngành khoa học tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời của

chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nếu trước đây, số phận con người được giải thích

bằng những quan niệm duy tâm, siêu hình, bằng những khái niệm trừu tượng, thì

vào những năm đầu thế kỉ XIX, với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật nói riêng, sự

phát triển như vũ bão của các ngành khoa học kĩ thuật nói chung, số phận con người

được lí giải bằng những nguyên nhân cụ thể, mang tính xã hội sâu sắc. Khoa học

phát triển giúp nhà văn hiện thực chủ nghĩa có cái nhìn đúng đắn và hoàn thiện về

chính mình, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người và xã hội, tạo

khả năng bao quát, từ đó phản ánh trung thực bản chất của tự nhiên và xã hội.

Chủ nghĩa hiện thực chỉ có thể ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến

một trình độ khoa học nhất định. Mặt khác, cần phải nói tới vai trò của nền văn học

quá khứ đối với sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực. Nói cách khác, chủ nghĩa hiện

thực ra đời còn do vận động nội tại trong bản thân văn học. Nhà văn hiện thực kế

thừa truyền thống trong văn học quá khứ, đó là sự tiếp thu nền văn học thời Phục

hưng, nền văn học Ánh sáng ở Đức.

Xét đến vai trò của chủ nghĩa hiện thực, trước đây chủ nghĩa hiện thực phê

phán được coi là đỉnh cao trong văn học, là con đường phát triển tất yếu mang tính

quy luật của bất cứ nền văn học nào trên thế giới. Nhưng đến nay, vai trò của chủ

nghĩa hiện thực không bị phủ nhận nhưng cũng không được khẳng định là một

khuynh hướng văn học cao hơn bất cứ một khuynh hướng văn học nào, càng không

được xem là điểm đến duy nhất của văn học thế giới. Bởi đề cao quá mức chủ nghĩa

hiện thực sẽ dễ bị coi nhẹ, hạ thấp, hoặc phủ nhận, thậm chí phê phán gay gắt các

khuynh hướng nghệ thuật khác. Điều này sẽ “quy hẹp sự tiếp nhận của công chúng

vào giá trị nhận thức… gây ra sự bất công và bất cập trong khi đánh giá nhiều tác

giả, nhiều trào lưu, khuynh hướng khác trên con đường tìm tòi, khám phá các giá

trị mới, độc đáo, không lặp lại trong sáng tác văn học nghệ thuật” (Lê Phong).

Tiến trình phát triển của văn học cho thấy, mỗi khuynh hướng văn học đều

mang một giá trị tự thân, phản ánh một khía cạnh nào đó của cuộc sống, một góc

khuất trong tâm hồn con người. Con người vốn là một thực thể hoàn chỉnh và phức

38

tạp, mang nhiều mối quan hệ khác nhau. Theo Mác “con người là tổng hòa các mối

quan hệ”. Có người cho rằng, chủ nghĩa lãng mạn thường quay lưng lại thực tại,

tìm sự cứu cánh ở một thế giới xa xôi, mơ hồ mà không có thực. Nhà văn lãng mạn

tự thu mình trong tháp ngà nghệ thuật, thậm chí giam mình trong ốc đảo cô đơn.

Quan niệm này chỉ đúng đối với các nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn tiêu cực.

Còn các nhà văn lãng mạn tích cực, chẳng hạn như trong sáng tác của V. Huygo,

AMuytxe…lại “tràn trề niềm tin vào thực tại và tương lai, lạc quan về nhân thế và

khả năng sáng tạo đời sống”.

Trong văn học Việt Nam, không thể phủ nhận vai trò của chủ nghĩa lãng mạn

những năm 1930- 1945 với những tác phẩm của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn

Mặc Tử….

Như vậy không thể khẳng định khuynh hướng nào cao hơn, thậm chí cao

nhất, mà vai trò của chủ nghĩa hiện thực luôn đặt bên cạnh vai trò của các khuynh

hướng văn học khác, góp phần mở rộng khả năng tiếp nhận của công chúng đối với

các giá rị hiện thực.

2.2.2.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam.

Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam là một vấn đề gây nhiều tranh

luận trong giới nghiên cứu.

Trong cuốn “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” của cố giáo sư

Trần Đình Hượu có phần: “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong

văn học Việt Nam trung cận đại”. Tác giả đưa ra một số quan niệm về vấn đề thực

tại trong văn học trung đại. Theo Trần Đình Hượu, các tác giả trung đại có nói và

bàn đến cái thực trong văn học, nhưng cái thực không như ta hiểu, nghĩ ngày nay.

Cái thực trong văn học trung đại khác hẳn với chủ nghĩa hiện thực.

Theo Lê Quý Đôn, thế giới bên ngoài gồm các vật tạo nên yếu tố ngoại giới.

Thi sĩ cổ xưa tiếp xúc với ngoại giới thì sinh tình. Họ lấy cái tình đó mà than cảnh

và cái cảnh đó đã nói lên được cái có trong lòng thi nhân. Đó được coi là biểu hiện

của cái thực, nhưng là cái thực của tâm trạng, chứ hoàn toàn không phải cái thực

trong chủ nghĩa hiện thực. Còn theo Ngô Thế Lân, sáng tác là một cảm hứng ngẫu

nhiên. Ông nhấn mạnh đến cái vô tâm, vô ý của tinh thần Lão Trang khi nói về mối

39

quan hệ tình và cảnh, giữa hiện thực và sáng tác. Và như vậy, thực tại không phải là

cái mà thi nhân quan tâm. Cái quan tâm của độc giả lại là cái tâm của tác giả: “Văn

chương nhà Nho hướng vào thực tại bằng cái Tâm, Chí”. Điều này khác hẳn với

quan niệm của chủ nghĩa hiện thực.

Ngô Thời Nhậm lại nhấn mạnh “nắm lấy cái thực là cốt tử”, nhưng cái

“chân”, “thực” mà Ngô Thời Nhậm bàn đến ở đây là cái chân, cái thực đặt trong sự

đối sánh với cái giả dối, xảo trá.

Cái thực trong văn chương trung đại là sự trung thực với cái tâm chứ không

phải thực với cảnh. Còn Nguyễn Văn Siêu đề cao cái vô tâm. Theo ông đối với thực

tại nhà văn phải vô tâm. Điều này trái với nguyên lý của chủ nghĩa hiện thực.

Cuối cùng cố GS Trần Đình Hượu kết luận: “Đến đây các bậc đại Nho lại

theo đuổi cái thần chứ không phải cái thực. Họ đến với văn chương theo con đường

dưỡng tâm chứ không phải ghi chép, mô tả khách quan”. Và “ hướng vào thực tại

bằng tâm, chí không dẫn dắt văn học văn học đến con đường hiện thực”.

Như vậy, dù các nhà văn thời trung đại có nói tới cái thực trong văn chương,

vẫn chưa thoát khỏi quan niệm “văn dĩ tải đạo”và “thi ngôn chí” của nhà nho.

Từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, văn học Việt Nam tiến một bước

dài trong tiến trình phát triển. Nhà văn đã phản ánh cái mới, mang tính thời đại vào

tác phẩm của mình. Trong ngâm khúc truyện Nôm, cảm hứng xót thương cho

những cảm hứng xót thương cho những cảnh ngộ éo le được coi là cảm hứng chủ

đạo . Chinh Phụ ngâm thể hiện nỗi đau biệt ly của người chinh phụ có chồng đi

chinh chiến. Số phậm hẩm hiu, ngược đời của người cung nữ được phản ánh sác nét

trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều. Nhưng điều có ý nghĩa hơn là

các nhà văn thời kì này đã biết đòi hỏi quyền hạnh phúc cho con người, đặc biệt là

người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Truyện Kiều là đỉnh cao của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII. Không ngẫu

nhiên mà một số nhà nghiên cứu cho rằng: chủ nghĩa hiện thực có trong thời đại

Nguyễn Du.

Lê Đình Kị trong cuốn “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”

40

khẳng định có sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm truyện Kiều.

Đỗ Đức Dục cho rằng “có chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”. Là nhà

nghiên cứu văn học phương Tây, ông đồng tình với quan niệm có chủ nghĩa hiện

thực thời phục hưng và khi quay trở về chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam,

ông nói: “Tôi bị hấp dẫn đặc biệt bởi nền văn học của thời kì cuối Lê – Tây Sơn –

đầu Nguyễn”. Ông khẳng định “trên cơ sở tư liệu hiện có và đã nắm vững, vận

dụng lý luận…đã có sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực lần đầu tiên vào thời đại

Nguyễn Du, với đặc tính là một chủ nghĩa hiện thực tâm lí – trữ tình”.

Mặt khác, Đỗ Đức Dục cũng khẳng định: “ …giống như ở thời đại phục

hưng phương Tây, phải nói cả mối khát vọng tìm hiểu, giải thích thế giới và đời

sống xã hội làm nảy sinh ra ở thời Lê Mạt – Tây Sơn những mầm mống đầu tiên của

tư tưởng khoa học, tinh thần phê phán và thực nghiệm, những yếu tố của tư tưởng

duy lý và chủ nghĩa duy vật nói chung, xuất hiện rải rác trong những công trình

nghiên cứu có tính bác học như Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn,…của Phan Huy

Chú, của Lê Hữu Trác…” [24/22].

Sự khẳng định này dường như hơi vội vàng. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn

trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam góc nhìn văn hóa” đặt lại vấn đề “Tìm

hiểu tính luận đề trong truyện Kiều để xem xét vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện

thực ở tác phẩm này”.

Theo ông, ở Việt Nam tình hình khác phương Tây ở chỗ: “không có một

cuộc cách mạng kiểu tư sản, không có một cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nào

theo kiểu Copecnich mở đầu; ở nước ta, cho đến mãi thế kỉ XIX, thế giới quan khoa

học duy vật vẫn chỉ tồn tại dưới dạng từng mảnh vụn chứ không thành hệ thống

dưới dạng trực giác, tự phát. Thống trị và đè nặng lên tư tưởng nhận thức của con

người vẫn là thế giới quan duy tâm siêu hình. Nói Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Phan

Huy Chú là những nhà bác học Việt Nam thời kì này là nói theo nghĩa hạn chế. Bản

thân Lê Quý Đôn, nhà bác học lớn nhất của nước ta hồi đó, thì trong thế giới quan

của ông còn nhan nhản mệnh trời, nhân quả, báo ứng, tiền định… trong khi những

nét duy vật biểu hiện quá yếu ớt và tản mạn”[51/172 -173].

Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam chỉ có thể ra đời sau nền văn

41

chương trào phúng, đó là vào những năm 1930 – 1945, với những sáng tác của Ngô

Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…Văn học trung đại thế kỉ

XVIII mặc dù tạo được bước đột phá mới, nhưng chưa đủ điều kiện để có thể khai

sinh ra chủ nghĩa hiện thực. Thế giới quan trung đại vẫn là thế giới quan duy tâm

siêu hình. Con người nhìn cuộc đời trong mối liên hệ với các lực lượng siêu nhân

như: trời, đất, thánh thần, …

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cắt nghĩa số phận của nàng Kiều dưới

những triết lí mang tính luận đề như: tài mệnh tương đố, tư tưởng quả báo, nghiệp

chướng, định mệnh. Hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều gồm hai tuyến: chính

diện và phản diện, trong đó nhân vật phản diện dường như là những nhân vật hiện

thực, là nguyên nhân trực tiếp gây ra đau khổ cho nàng Kiều. Tuy nhiên Nguyễn Du

chưa thắng nổi sức hút của thuyết tài mệnh tương đố, tạo vật đố toàn. “Những nhân

vật phản diện của ông được miêu tả như là lực lượng của chủ nghĩa hiện thực, song

trong nhận thức của Nguyễn Du xét đến cùng nhân vật đó không phải là cái gì khác

hơn công cụ hữu hình của chủ nghĩa định mệnh … ông đã tóm cổ các thủ phạm hiện

thực gây ra đau khổ cho con người, nhưng rồi lại buông thả chúng mà quay sang

phía định mệnh để lên án” [51/179]. Cái vĩ đại của Nguyễn Du được làm nên bởi

tình đời, tình người sâu sắc. Ông khao khát tìm nguyên nhân gây ra nỗi đau khổ của

con người, nhưng cuối cùng ông rơi vào bi kịch. Đó là tấn “bi kịch của một vĩ nhân

và bi kịch của cả một thời đại”. Nhà triết học Spinoza từng nói: “Phủ định cái gì thì

bị chính cái đó quy định, ràng buộc”.

Suy cho cùng, các nhà văn thời đại Nguyễn Du vẫn chịu ảnh hưởng quan

niệm văn học của Nho giáo. “Nhìn thực tại thành cuộc đời, thành cuộc đánh ghen

của trời, mệnh với tài, tình khó nhìn đúng những điều trông thấy” và “không tìm từ

trong thực tế nội dung thực của số mệnh cũng làm Nguyễn Du xa chủ nghĩa hiện

thực” (Trần Đình Hượu).

Sau ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện thực xuất hiện trong thời đại Nguyễn Du

là ý kiến khẳng định “thơ Tú Xương là thơ hiện thực hoàn chỉnh” (ý kiến này là của

nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc và Nguyễn Đức Đàn trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn

42

học Việt Nam).

Đến năm 1986, trên Tạp chí văn học số 2, Đỗ Đức Dục khẳng định: “Theo ý tôi

chính Tú Xương mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam”.

Đúng là thơ Trần Tế Xương có yếu tố hiện thực, nhưng ông chỉ có vai trò

như bản lề khép mở giữa hai dòng văn học quá khứ và hiện đại. (Về vấn đề này

chúng tôi đã giải thích ở phần trên).

Cần phải khẳng định lại rằng, không thể có chủ nghĩa hiện thực trong văn

học Việt Nam thế kỉ XVIII. Chủ nghĩa hiện thực phê phán là một trào lưu văn học

nghệ thuật thuộc phạm trù ý thức hệ tư sản, ra đời và phát triển trong bối cảnh

những cuộc đấu tranh xã hội đang bóc trần các mâu thuẫn giai cấp và bản chất xấu

xa của chủ nghĩa tư bản. Ở các nước Phương Đông, chủ nghĩa hiện thực ra đời

muộn hơn các nước Phương Tây (trừ Nhật Bản). Sự chậm trễ này là do chế độ

phong kiến tồn tại lâu đời ở Phương Đông. Mặt khác, trong khi các nước trên thế

giới bước vào chủ nghĩa tư bản theo quy luật tự nhiên của lịch sử loài người thì Việt

Nam nói riêng, các nước Phương Đông nói chung hầu hết nằm trong hệ thống thuộc

địa nên chủ nghĩa tư bản ở đây mang tính chất nửa vời, không triệt để, thậm chí què

quặt, làm chậm đi quá trình phát triển. Sự phát triển tư bản ở các nước này diễn ra

với đặc điểm cá biệt và chủ nghĩa hiện thực ở mỗi nước có một cách phát triển riêng.

Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam ra đời sau chủ nghĩa hiện thực

trên thế giới hơn một thế kỉ, chịu ảnh hưởng khá sâu sắc nền văn học Pháp. Nếu chủ

nghĩa hiện thực trên thế giới ra đời do sự vận động nội tại của bản thân văn học thì

ở Việt Nam, văn học hiện thực phê phán 1930- 1945 ra đời dựa trên nhiều yếu tố

trong đó không thể bỏ qua những ảnh hưởng của dòng văn học nước ngoài.

Việc dịch thuật các tác phẩm văn học nước ngoài (chủ yếu là văn học Pháp)

ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nó cung cấp

cho các nhà văn những kiến thức mới về văn học, từ đó thay đổi cách cảm, cách

nghĩ cho phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của người đọc trong giai đoạn mới.

Sự xuất hiện thể loại văn xuôi đầu thế kỉ XX với những sáng tác của Phạm

Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh… đã tạo ra một quang cảnh văn học mới

43

khác trước.

Có một số ý kiến cho rằng, những năm hai mươi của thế kỉ trước, một số

truyện ngắn trên Tạp chí Nam Phong được xem là tác phẩm mở đầu cho chủ nghĩa

hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam. Đúng là tác phẩm của Nguyễn Bá Học,

Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh có yếu tố hiện thực, nhưng về cơ bản các nhà văn

vẫn đứng trên lập trường đạo đức để tố cáo, phê phán.

Nếu như chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam ra đời chủ yếu do ảnh

hưởng của nền văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, thì chủ nghĩa hiện

thực phê phán lại là sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại. Nhà văn hiện thực

tiếp thu kinh nghiệm của thế hệ trước, cộng với sự hiểu biết về văn học hiện đại trên

thế giới đã sáng tạo ra những tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc.

Con đường đến chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam còn là con đường

kế thừa và phát huy truyền thống của dòng văn chương trào phúng. Nhà văn hiện

thực chủ nghĩa tìm thấy ở văn học trào phúng cách tiếp cận cuộc sống từ những chi

tiết đời thường, những sự kiện có thật trong đời sống xã hội nhưng cách phản ánh ở

mỗi dòng văn học lại khác nhau. Tinh thần của văn học trào phúng tập trung ở phạm

trù mĩ học cái hài, dùng cái cười để đả kích, chế giễu. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng

về sự phân tích, phê phán xã hội. Sáng tác của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương,

Kép Trà …được xem là bước đệm quan trọng cho sự ra đời chủ nghĩa hiện thực phê

phán 1930- 1945. Và người thể hiện rõ nhất dấu nối giữa hai nền văn học là Nguyễn

Công Hoan. Ông vừa là nhà văn trào phúng, vừa là nhà văn hiện thực, vừa truyền

thống, vừa cách tân.

2.2.3. Sự vận động hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực phê phán.

2.2.3.1. Sự vận động về quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa

hiện thực phê phán.

Sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán là kết quả của quá trình chuyển

đổi đầy khó khăn từ trạng thái văn học Trung đại sang văn học hiện đại. Đó là sự

thay đổi lí tưởng thẩm mĩ, quan niệm văn học, hệ thống thi pháp…

Văn học trào phúng phủ nhận lí tưởng thẩm mĩ của văn học nhà nho. Chủ

nghĩa hiện thực phê phán kế thừa quan điểm tiến bộ của văn chương trào phúng để

44

tiến vào quỹ đạo văn học thế giới.

Chủ nghĩa hiện thực gắn bó chặt chẽ với những tri thức khoa học. Nhà văn

hiện thực bước lên một tầm cao mới về sự hiểu biết, khả năng nắm bắt thực tại

trong chiều sâu bản chất, từ đó có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, thể hiện sự vận động

khách quan, mang tính quy luật của tự nhiên và xã hội.

Nếu nhà thơ trào phúng hướng vào những sự kiện nổi bật để tạo tình huống

gây cười nhờ bút pháp cường điệu và phóng đại, thì nhà văn hiện thực chủ nghĩa

chọn sự kiện mang tính bản chất nhằm nghiên cứu và phân tích thực tại. Xuskốp

nhận xét: “Sự phân tích xã hội là thực chất của chủ nghĩa hiện thực, nó tạo ra khả

năng cho người nghệ sĩ tách ra trong cuộc sống những nét chủ yếu của nó và đi gần

tới chỗ hiểu được những quy luật vận động trong đó”. Cảm hứng nhận thức bản

chất thực tại khách quan được coi là tiêu chuẩn cốt yếu của chủ nghĩa hiện thực.

Mark- Enghels kêu gọi nhà nghệ sĩ tiến bộ của thời đại mình “thâm nhập vào đáy

sâu của các quan hệ xã hội thực tại, khám phá nguồn gốc vật chất và tính điển hình

xã hội của các tính cách, hành vi cá nhân”.

Không chỉ dừng lại ở khả năng nghiên cứu tính phức tạp của thế giới bên

ngoài, nhà văn hiện thực chủ nghĩa còn đi sâu vào thế giới bên trong vô cùng phức

tạp của con người. “Nhờ vào những đặc điểm của một phương pháp sáng tác dựa

trên nguyên tắc mô tả con người trong những liên hệ thực và phong phú với lịch sử

sống, với thực tại cụ thể, nghệ thuật chủ nghĩa nghiên cứu một cách đầy đủ và đa

diện lĩnh vực của tình cảm con người, tính phức tạp thực sự của những thể nghiệm

tâm lí con người” (Xuskốp).

Tuyên ngôn của L. Tônxtôi: “Nhân vật đẹp nhất trong tác phẩm của tôi là sự

thật”, được coi là lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực. Hướng đến sự thật và

phản ánh sự thật trong tính quy luật của nó là tiêu chuẩn định giá nhà văn hiện thực

chủ nghĩa.

Chủ nghĩa hiện thực mang tính lịch sử cụ thể. Vì thế, khi nghiên cứu chủ

nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam cần chú ý đến tính đặc thù của văn học

nước nhà. Không giống như chủ nghĩa hiện thực trên thế giới (phản ánh mâu thuẫn

cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản), chủ nghĩa hiện

45

thực Việt Nam không chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản mà còn có

nhiều mâu thuẫn khác. Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc điạ nửa phong kiến, mâu

thuẫn giữa địa chủ và người nông dân được coi là một trong những mâu thuẫn cơ

bản trong sáng tác của các nhà văn hiện thực (Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,

Nam Cao, …).

2.2.3.2. Hệ thống chủ đề, đề tài.

Quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ đã chi phối hệ thống chủ đề, đề tài

của chủ nghĩa hiện thực phê phán 1930- 1945.

Lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực là sự thật. Vì thế chủ đề và đề tài

của nó không thể bắt nguồn từ những cái xa xôi, trừu tượng. Nhà văn hiện thực chủ

nghĩa chắp bút từ những sự vật hiện tượng của cuộc sống đời thường, coi trọng chi

tiết, coi trọng cái hàng ngày, thậm chí cả những cái bị coi là tầm thường, ít ai để ý

mà xoáy sâu vào nó. Tuy nhiên không phải bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng

có thể đi vào tác phẩm hiện thực chủ nghĩa. Cuộc sống yêu cầu nhà văn phải tìm

trong sự đa dạng của thực tế cái điển hình, tiêu biểu cho một loại hiện tượng để từ

đó phản ánh.

Chủ đề và đề tài trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945

phản ánh cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Hình ảnh của những người

nông dân bị bóc lột đến tận xương tủy, bị bần cùng hóa và lưu manh hóa đặt trong

sự mâu thuẫn đối kháng với cuộc sống phè phỡn của những lí trưởng, cường hào, ác

bá, những quan lại người Pháp và tư sản mại bản đang sống trong cuộc đời xa hoa,

dâm đãng. Đó là hình ảnh của những nhà chứa, sòng bạc, những tiệm hút ở thành

thị, là phong trào Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung” đang nổi lên như một nạn dịch.

Chủ đề trong văn chương trào phúng tập trung phản ánh xã hội Việt Nam

trong giai đoạn quá độ, từ chế độ phong kiến sang thực dân nửa phong kiến, giai

đoạn thoái trào của một nền Nho học. Nhà văn trào phúng phủ nhận nền văn học

quá khứ ở một số phương diện nhất định, nhưng với tư cách là sản phẩm xa nhất

của nền văn học ấy, họ không thể bứt thoát hoàn toàn khỏi hệ thống quan niệm của

văn học nhà nho. Tác giả trào phúng không tạo được một cuộc cách mạng lớn trong

văn học. Tuy phản ánh sự kiện mang tính thời sự nhưng nhà thơ trào phúng chưa

46

biết chắt lọc các sự kiện thể hiện tầm khái quát xã hội.

Chủ đề và đề tài của chủ nghĩa hiện thực thể hiện tập trung nhất ở những

mâu thuẫn trong xã hội, tạo bước phát triển mới trong văn học nghệ thuật. Chủ

nghĩa hiện thực không chỉ dừng lại ở các sự kiện của hiện thực mà còn đòi hỏi nghệ

thuật phải mang một nội dung tiến bộ. “Không sáng tạo ra cuộc sống vốn đã được

sáng tạo ra rồi, mà nó họa lại cuộc sống, sáng tạo lại cuộc sống và nhà nghệ sĩ như

một mặt gương lồi, phản ảnh theo một quan điểm nhất định, sự biểu hiện muôn màu,

muôn vẻ của cuộc sống, chọn lọc trong đó những biểu hiện cần thiết để tạo thành

một bức tranh đầy đủ, sinh động và hoàn thiện” (Bieelinxki), nhờ đó sự kiện trong

tác phẩm hiện thực chủ nghĩa trung thành hơn các sự kiện ngoài cuộc đời.

2.2.3.3. Hình tượng văn học cơ bản.

Bước đột phá lớn nhất của chủ nghĩa hiện thực là xây dựng được hình tượng

văn học trung tâm. Đó là những nhân vật điển hình, những tính cách điển hình trong

hoàn cảnh điển hình.

Lần đầu tiên với chủ nghĩa hiện thực, văn học nhân loại đã xây dựng được

nhiều điển hình văn học ở mức độ cao nhất và hoàn chỉnh của nó.

Theo Bieelinxki, “vấn đề điển hình hóa là một trong những quy luật cơ bản

của sáng tác và không có nó thì không có sáng tác”.

Điển hình hóa theo “nghĩa rộng là tổng hòa mọi biện pháp nghệ thuật nhằm

làm cho hình tượng trở thành điển hình, là con đường đưa sáng tác nghệ thuật đạt

chất lượng cao.

Điển hình hóa luôn gắn với quá trình khái quát hóa và cá thể hóa nhằm làm

cho hình tượng vừa khái quát được những nét quan trọng nhất, bản chất nhất của

đời sống, lại có được hình thức cụ thể, cảm tính cá thể, đọc đáo, không lặp lại.

Trong nghĩa hẹp, điển hình hóa là hình tượng khái quát hóa đặc trưng của

phương pháp sáng tác hiện thưc chủ nghĩa, hình thành trên cơ sở quan sát tính lặp

đi lặp lại tương đối ổn định của các hiện tượng, tính cách và quá trình cuộc sống

cùng loại trong thực tế” [17/101].

Với tinh thần phân tích xã hội, khả năng khái quát đời sống, nhà văn hiện

thực chủ nghĩa đã xây dựng được nhân vật mang tính cách điển hình trong hoàn

47

cảnh điển hình.

Nhà lí luận văn học Nga Bieelinxki đưa ra định nghĩa về nhân vật điển hình.

Đó “là một con người kiêm nhiều người, một nhân vật kiêm nhiều nhân vật, tức là

sự mô tả con người bao trùm số nhiều trong nó, bao trùm cả một bộ phận những

con người cùng biểu hiện một ý niệm như nhau”. Theo ông, “trong sáng tác của

một nhà văn chân chính, mỗi nhân vật là một điển hình, và mỗi điển hình đối với

độc giả là một người lạ - quen biết”. Chủ nghĩa hiện thực sáng tạo ra những nhân

vật, những tính cách vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính khái quát, vừa quen biết

lại vừa xa lạ. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa bản

chất và hiện tượng, giữa lí tưởng và hiện thực.

Điển hình nghệ thuật được dựng từ nguyên mẫu đời sống. Nhân vật Natasa

của đại văn hòa L. Tônxtôi được lấy từ nguyên mẫu là vợ và em gái vợ, tuy nhiên

đó không phải là phép cộng số học đơn giản của hai người mà nhân vật Natasa đã

mang một chất lượng nghệ thuật mới.

Nhà thơ trào phúng dựng lên những nhân vật cụ thể, có thật trong đời sống

nhằm tạo ra bức tranh xã hội sinh động, còn nhà văn hiện thực lại đi ngược lối xây

dựng nhân vật đó. Tính cách điển hình của chủ nghĩa hiện thực phê phán được khái

quát từ nhiều nguyên mẫu của đời sống nhằm khắc họa bản chất chung của một giai

cấp, một tầng lớp trong xã hội. M. Gorki nói: “Nếu biết rút lấy ở một người trong

số 20, 50, 100 ông chủ hiệu, công chức, công nhân, những nét, những thói quen,

những thị hiếu, những dáng điệu, những niềm tin, những cách nói, … có tính chất

giai cấp tiêu biểu nhất, rút ra rồi đúc kết những cái đó lại vào một chủ hiệu, một

công chức, một công nhân. Với thủ pháp này, nhà văn sẽ xây dựng được một điển

hình và đấy sẽ là nghệ thuật”.

Với tư duy về lịch sử cụ thể, nhà văn hiện thực luôn đặt nhân vật, tính cách

điển hình trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể, điển hình rồi triển khai sự phát triển

tính cách theo diễn biến của hoàn cảnh đó. Nếu nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn là

nhân vật tư tưởng, mang đậm tính chủ quan của nhà văn, đứng cao hơn hoàn cảnh

và không bị hoàn cảnh chi phối, thì chủ nghĩa hiện thực lại phủ nhận nguyên tắc

48

sáng tạo đó mà đề cao vai trò của hoàn cảnh đối với sự phát triển tính cách nhân vật,

và sự tác động ngược trở lại của tính cách đối với hoàn cảnh. Đó là quá trình biện

chứng, thể hiện tính khách quan trong sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực.

Hoàn cảnh điển hình bao gồm những sự kiện, những quan hệ do chính tính

cách tạo nên. Tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, được giải thích bởi hoàn cảnh.

Hoàn cảnh phức tạp khiến tính cách nhân vật cũng phức tạp theo.

Chủ nghĩa hiện thực đối lập với chủ nghĩa lãng mạn ở nguyên tắc xây dựng

nhân vật. Nếu tính cách nhân vật trong văn học lãng mạn thường bất biến, mang

tính một chiều thì chủ nghĩa hiện thực chú ý đến sự phát triển của tính cách. Tính

cách luôn luôn vận động hợp với lôgíc nội tại của nó. Tác phẩm văn học là con đẻ

của nhà văn. Tính cách nhân vật là con đẻ của hoàn cảnh. Nhà nghệ sĩ hiện thực chủ

nghĩa không thể chi phối đến cuộc sống của nhân vật, đến tính cách nhân vật theo ý

muốn chủ quan của mình mà phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy luật khách quan

trong sự phát triển. Nhân vật Tachiana trong tác phẩm “Épghênhi Ônhêghin” của

Puskin đã giáng cho ông “một đòn chí mạng”. Ý định ban đầu của nhà văn bị dập

tắt, ông vẫn phải để cho nhân vật của mình đi lấy chồng trong sự nuối tiếc của chính

bản thân. L. Tônxtôi từng nói: “Biết làm thế nào được… Nói chung các nhân vật

nam, nữ của tôi đôi khi làm những việc mà thực tình tôi không muốn: Họ làm những

điều mà họ cần phải làm”. Đó chính là hệ quả của nhân vật nổi loạn.

Nhân vật nổi loạn chỉ có trong các sáng tác của nhà văn hiện thực phê phán.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán luôn tuân theo những quy luật khách quan của đời

sống. Nhân vật nổi loạn được hiểu là những nhân vật trong hướng đi về sau của nó

trái với ý đồ chủ quan của người nghệ sĩ, đối lập với dự kiến ban đầu của tác giả.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam 1930 - 1945 khác với

chủ nghĩa hiện thực phê phán trên thế giới ở đối tượng phản ánh. Các nhà văn hiện

thực phê phán trên thế giới chĩa mũi nhọn vào xã hội tư bản chủ nghĩa, còn nhà văn

hiện thực phê phán ở Việt Nam lại tập trung sự chú ý nhiều hơn vào những quan hệ,

những mâu thuẫn trong xã hội phong kiến mà chủ yếu là mâu thuẫn giữa nông dân

và địa chủ.

“Bước đường cùng” được xem là tác phẩm thành công hơn cả trên con

49

đường đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán của Nguyễn Công Hoan. Nhân vật anh

Pha phần nào đã đại diện được cho tính cách hiền lành, nhút nhát của người nông

dân trong xã hội cũ. Mặt khác, ở nhân vật này đã có sự vận động và phát triển của

tính cách tuy chưa thật rõ rệt như những sáng tác của lớp nhà văn giai đoạn sau này,

như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, …

Về vấn đề này sẽ được đề cập rõ hơn ở những chương sau.

2.3.4. Hệ thống ngôn ngữ, thể loại.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam 1930- 1945 đánh dấu

sự trưởng thành của hệ thống thể loại.

Trần Đình Hượu nói: “không có một ngôn ngữ văn học trong sáng chính xác

và không có một nền văn xuôi có nhiều khả năng diễn đạt, chưa định hình được thể

loại kịch và tiểu thuyết thì khó thành văn học hiện thực chủ nghĩa” [4/490].

Trong văn học truyền thống, kể cả dòng văn chương trào phúng, thể loại chủ

yếu vẫn là thơ. Thơ, phú, lục là đặc trưng thể loại của văn học nhà nho.

Thơ nghiêng về tâm trạng, cảm xúc hơn là miêu tả. Yếu tố trữ tình là đặc

trưng cơ bản của thơ.

Phạm vi phản ánh hiện thực trong thơ hẹp do bị giới hạn về độ dài ngắn của

thể loại.

Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX phải kể

đến vai trò của các thể loại: kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó tiểu thuyết

giữ vai trò quan trọng trong văn học hiện đại.

Tiểu thuyết là thể loại văn học gần gũi nhất với đời sống. Dung lượng phản

ánh rộng. Tiểu thuyết nói riêng, văn xuôi nói chung có khả năng thể hiện cuộc sống

một cách toàn vẹn với tất cả tính chất sinh động, phức tạp, nhiều màu, nhiều vẻ của

nó. Nhiều nhà phê bình ví tiểu thuyết như những cuốn bách khoa của đời sống, là

những cuốn sách về cuộc đời…

Truyện ngắn dung lượng phản ánh hẹp hơn tiểu thuyết, nhưng nội dung của

nó cũng bao trùm hầu hết các phạm vi hiện thực. Đó là thể loại tự sự cỡ nhỏ, súc

tích, dễ đọc…

Những năm hai mươi của thế kỉ trước, sự ra đời của các thể loại nói trên

50

đánh dấu bước trưởng thành của nền văn xuôi Việt Nam.

Cùng với sự ra đời của những thể loại văn học mới: Kịch “Chén thuốc độc”

(1921) của Vũ Đình Long, tiểu thuyết “Tố Tâm” (1925) của Song An Hoàng Ngọc

Phách, truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học,… là sự hiện diện của thứ

ngôn ngữ hiện đại hơn ngôn ngữ mà các nhà thơ trào phúng đã sử dụng.

Phạm vi độc giả của giai đoạn này không bó hẹp ở một tầng lớp nhất định mà

được mở rộng. Thị hiếu thẩm mĩ cũng khác xưa. Độc giả hiện đại không còn hợp

với thứ ngôn ngữ xa vời, chau truốt, những điển tích, điển cố… Họ yêu cầu ở văn

chương khả năng diễn đạt cuộc sống bằng thứ ngôn ngữ đời thường, không hoa mĩ,

cầu kì, không bóng gió, xa xôi.

Ngôn ngữ trong văn học hiện thực phê phán có sự phá cách lớn. Đó là thứ

ngôn ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói của người dân là thứ ngôn ngữ dễ đi vào

lòng người.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Thời kì đầu cầm bút, Nguyễn Công Hoan chưa thực sự thể hiện được quan

điểm nghệ thuật trong sáng tác . Sáng tác ban đầu chủ yếu là truyện ngắn trào phúng.

Ở lĩnh vực này, Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng yếu tố trào phúng trong văn

học dân gian và cảm hứng tự trào trong văn chương nhà nho, đặc biệt ông chịu ảnh

hưởng sâu sắc văn chương trào phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Mối quan tâm của nhà văn giai đoạn đầu gần với mối quan tâm của nhà nho.

Ông chú ý tới sự suy đồi đạo đức, đến bộ mặt giả dối, vô lương tâm của bọn quan

lại, địa chủ, tư sản, bọn nhà giàu nói chung.

Cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm lược của thực dân Pháp kéo theo sự biến dạng

trong đời sống xã hội. Văn hóa phương Tây du nhập vào nước ta, khiến một số giá

trị văn hóa truyền thống bị đảo lộn. Và Nguyễn Công Hoan là một cây bút thực sự

nhạy bén tiếp thu những quan điểm thẩm mỹ nghệ thuật văn học phương Tây vào

trong những sáng tác của mình, bước đầu tạo được những thành công về mặt lý

tưởng thẩm mĩ, lựa chọn đề tài, chủ đề và ngôn ngữ thể loại trong sáng tác văn học.

Những điều ấy thực sự hứa hẹn về sự trưởng thành trong sáng tác của nhà văn trong

51

giai đoạn sau.

Chƣơng 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA NHÀ VĂN QUA

NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG

Nguyễn Công Hoan là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam, là

người tiêu biểu cho bước chuyển của hai thời đại văn học. Ông là một trong những

tiêu điểm quan trọng để nhìn ra quy luật vận động của nền văn học Việt Nam từ

truyền thống đến hiện đại. Để làm rõ luận điểm: Sự chuyển đổi loại hình tác giả văn

học Việt Nam trước cách mạng tháng tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan. Ở

chương này chúng tôi đi vào nghiên cứu phương diện về nội dung và nghệ thuật các

sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng tám năm 1945 theo các hệ

quy chiếu: lý tưởng thẩm mỹ; hệ thống chủ đề, đề tài; hình tượng văn học trung tâm;

cốt truyện – tình huống truyện; ngôn ngữ - thể loại; kết cấu và kết thúc.

3.1. Những chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Công Hoan.

Trong cuốn “Đời viết văn của tôi”, Nguyễn Công Hoan chia sự nghiệp sáng

tác của mình thành ba thời kì lớn:

Thời kì thứ nhất: 1920 – 1928, thời kì bắt đầu vào nghề cho đến khi đi học

trường sư phạm.

Thời kì thứ hai: 1928 – 1942, thời kì này Nguyễn Công Hoan sangs tác nhiều nhất.

Thời kì thứ ba: Từ năm 1954, từ khi hòa bình lập lại cho đến khi mất.

Nguyễn Công Hoan làm công tác văn hóa trong Cục chính trị, bộ Tổng tư lệnh quân

đội nhân dân Việt Nam. Sáng tác giai đoạn này không nhiều. Một số tác phẩm bị

phê phán.

Sự phân chia trên có tính chung chung, chưa thể hiện rõ nội dung và nghệ

thuật mỗi thời kì.

Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh trong cuốn “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan” chia sự nghiệp sáng tác của nhà văn thành ba thời kì:

Từ năm 1920 – 1928.

Từ năm 1929 – 1935.

Từ năm 1936 – 1939.

Từ năm 1940 – 1945.

52

Từ năm 1945 – 1977 (khi nhà văn mất).

Sự phân chia này dựa vào nội dung cụ thể của truyện và sự chuyển biến đề

tài, chủ đề tương ứng với sự chuyển biến về quan điểm và nhận thức của tác giả

trong mỗi hoàn cảnh nhất định. Cách phân chia tương đối cụ thể và rõ ràng.

Để chứng minh cho vấn đề mà luận văn đưa ra: Sự chuyển đổi loại hình tác

giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan.

Chúng tôi dựa vào sự phân chia của nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh, nhưng chỉ

dùng lại ở giai đoạn trước 1945.

3.1.1. Giai đoạn từ 1920 – 1928.

Giai đoạn từ 1920 – 1928 được xem là giai đoạn chập chững vào nghề của

Nguyễn Công Hoan, đó là quá trình tập dượt một ngòi bút mới tham gia vào làng

văn. Vì thế hầu hết sáng tác giai đoạn này chưa thực sự được đánh giá cao.

Giai đoan khoảng mười tám, đôi mươi tuổi đời, Nguyễn Công Hoan vẫn là

một thanh niên ham chơi, sông không có mục đích, thích phiêu lưu hơn là tính

chuyện lập thân. Ông tự nói về mình: “Với người khác, chỉ sống để ăn hai bữa rồi

chơi, như vậy cũng thấy buồn. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy buồn, tôi còn mê chơi

lối ấy”[25/77]. Nhưng có lẽ chính sự mê chơi ấy đã giúp nhà văn lượm lặt được vốn

sống quý báu để viết lên những tác phẩm thấm đẫm tình người.

Sáng tác thời kì đầu tuy chưa thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của nhà văn,

nhưng phần nào đã hé lộ khuynh hướng nghệ thuật của tác giả ở các giai đoạn sau.

Năm 1920, nhân một chuyến xích mích ở gia đình, Nguyễn Công Hoan cùng

với người anh con bác bỏ nhà ra Hải Phòng tính chuyện xuất dương.

Truyện ngắn đầu tiên với tên gọi: “Quyết chí phiêu lưu” (1920) là kết quả

của chuyến phiêu lưu “Đầu voi đuôi chuột”, cùng với ảnh hưởng của tập thơ “Mê

chơi” của thi sĩ Tản Đà. Nhưng bản thảo này (theo lời nhà văn) “chỉ vài tháng thì bị

hủy, bởi việc viết truyện này chỉ như một trò đùa nghịch cho vui”[25/81].

Cuộc phiêu lưu không thành, Nguyễn Công Hoan trở về say sưa với cuốn

“Ba người lính ngự lâm pháo thủ” của A.Dumas, ông lại có hứng thú sáng tác.

Năm 1922, Nguyễn Công Hoan viết một số truyện ngắn in vào tập “Truyện

53

thế gian” của Tản Đà tu thư cục, còn một số in thành tập “Kiếp hồng nhan”.

Năm 1923, truyện “Kiếp hồng nhan” xuất bản, đây là tập truyện ngắn mở

đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn..

Tập truyện có khoảng 10 truyện ngắn như Kiếp hồng nhan (kể về đời một

người con gái bạc mệnh, long đong), Sóng vũ môn (là nỗi bất công trong xã hội, cụ

thể là sự bất công trong thi cử), Cô hàng nước (đề cao sự chung tình của một anh

phu xe với chị hàng nước), Trần ai tri kỉ (kể về tình yêu cao thượng của một người

làm thợ tán son ở phố hàng Gai)…

Năm 1923, ông viết truyện dài đầu tiên với tên gọi “Phải gió”. Câu chuyện

dở dang không có lời kết (vì lí do đi học) như một giấc chiêm bao nhằm chế nhạo

những người phụ nữ tự do ăn chơi dựa vào tinh thần nữ quyền đang được đề cao

trên báo chí hồi bấy giờ. Truyện hoàn toàn do trí tưởng tượng của nhà văn “bịa ra

những chi tiết rất vô lí để đả kích bọn phụ nữ rởm hợm”.

Nội dung của truyện ngắn giai đoạn này chưa thật sâu sắc và có giá trị nghệ

thuật. Sau này trong cuốn “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan nhận xét: đó

là một thứ văn “rườm rà, “ấu trĩ”, “triết thuyết lí”, “giảng đạo đức”, “là cái bệnh

tham lam nhồi nhét để khoe khoang văn chương và tư tưởng của người mới tập cầm

bút” [25/85].

Đối với nội dung truyện, ông khẳng định: “Những truyện mà tôi viết không

nói lên được cái gì. Nó tựa vào bất cứ một đề tài nào làm tôi rung cảm. Cốt truyện

xa thực tế. Lối kể rườm rà, tham lam”,“chưa có một định hướng chính trị nghệ

thuật nào”. Đó là một lời nhận xét khá nghiêm khắc đối với những tác phẩm đầu

tay của nhà văn. Thực chất, giai đoạn sáng tác đầu tiên này mang nhược điểm của

một cây bút mới vào nghề, nhưng không phải tất cả đều hạn chế. Bên cạnh yếu tố

lãng mạn, bảo thủ trong một số truyện ngắn (Kiếp hồng nhan) còn có yếu tố tích

cực, mang tính dự báo cho ngòi bút hiện thực nảy nở giai đoạn sau.

Truyện ngắn “Sóng vũ môn” vẽ lên được bức tranh xã hội bất công trong thi

cử thời phong kiến. Câu chuyện kể về cậu học trò nhà quê hiếu học tên là Hoàng

Quý, lều chõng đi thi, nhưng chỉ vì sơ ý không nhớ đến tên húy của nhà vua mà tai

hại một đời. Anh oán hận phép thi khắc nghiệt vô lí khiến cho một người có tài như

54

anh phải thân bại, danh liệt. “Sóng Vũ môn” là câu chuyện mang màu sắc lịch sử tả

cảnh trường thi Hà Nội dưới thời Tự Đức, vì thế ít nhiều nó mang trong mình giá trị

hiện thực nhất định.

Sáng tác của Nguyễn Công Hoan thời kì đầu bước chân vào làng văn còn

chịu nhiều ảnh hưởng của lối viết truyền thống. Đặc biệt là ở đề tài, chủ đề và hình

tượng nhân vật.

Giai đoạn 1920 – 1928 mang tính chất khai mở cho toàn bộ cuộc đời sáng tác

của nhà văn sau này. Tuy còn mang nhiều nhược điểm của một cây bút mới vào

nghề, song phần nào cũng hứa hẹn sự thành công trong chặng đường tiếp sau.

3.1.2. Giai đoạn từ 1929 – 1935.

3.1.2.1. Sự vận động trong tư tưởng của nhà văn.

Giai đoạn này đánh dấu sự trưởng thành trong con người và trong sáng tác

của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Không còn là một thanh niên bồng bột, ham chơi,

thích phiêu lưu như thuở thiếu thời, Nguyễn Công Hoan đã nghiêm khắc nhìn lại

mình bởi không muốn lặp lại cuộc sống buồn tẻ của một trí thức bình thường.

Sự vận động trong tư tưởng và trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan gắn

với từng bước đi của lịch sử dân tộc. Những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, các phong

trào yêu nước diễn ra sôi nổi đã tác động đến quá trình chuyển biến tư tượng của thế

hệ thanh niên nói chung và nhà văn Nguyễn Công Hoan nói riêng.

Năm 1925, sau sự kiện Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải – Trung Quốc,

trong nước diễn ra phong trào đòi ân xá cho những chí sỹ cách mạng ấy. Một năm

sau, sự kiện đám tang cụ Phan Chu Trinh cũng tạo nên những ảnh hưởng khong nhỏ

đến phong trào yêu nước khắp từ Nam ra Bắc, đặc biệt tiếng bôm Sa Điền của Phạm

Hồng Thái mưu giết tên toàn quyền Méclanh nổ ra vào năm 1928 như sự thức tỉnh

thế hệ thanh niên yêu nước, trong đó có Nguyễn Công Hoan.

Từ một thanh niên ham chơi, năm 1922 Nguyễn Công Hoan thi vào trường

Nam Sư phạm. Năm 1926 ông làm nghề dạy học, đến năm 1928 theo lời khuyên

của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, ông gia nhập Quốc dân đảng, trở thành người

thanh niên sống có lý tưởng. Nguyễn Công Hoan trăn trở suy nghĩ về tuổi thanh

55

niên của mình và day dứt với câu hỏi: “người thanh niên mất nước phải sống thế

nào cho ra sống?”, và ông đã rút ra chân lý “Chỉ có người nào biết đặt danh cho tổ

quốc, lợi cho tương lai, tình với đồng bào mới được sống thanh thoát”.

Từ suy nghĩ ấy, nguyễn Công Hoan đã viết một số truyện: Một cái chương

trình quyết thực hành, Sách bị cấm…đem trao đổi với bạn bè. Được một số người

khuyến khích, ông lại say sưa viết về những vấn đề mang ý nghĩa xã hội sâu sắc

như: Răng con chó nhà tư bản, Hà thành nữ sĩ…truyện dài “Tay trắng, trắng

tay”(1929 – phần 1), phần thứ 2 đề là “Chiếc nhẫn vàng”(phần này năm 1931 tiếp

tục viết)…

Nguyễn Công Hoan hăm hở nhập cuộc với hi vọng Đảng có thể làm cho

“thực tế được giải thoát”. Hoạt động trong Quốc dân đảng chưa được bao lâu thì tổ

chức này tan rã. Chứng kiến sự mất mát hi sinh của nhiều đồng chí, ông càng thấm

thía nỗi đau của người dân mất nước.

Không hoạt động chính trị, ông chuyển sang viết văn, với hi vọng văn

chương sẽ giải thoát khỏi “sự hằn học sẵn có trong con người về cuộc đời”. Sự

trưởng thành trong suy nghĩ nguyễn Công Hoan ý thức được vai trò của người cầm

bút : “văn chương không nên chỉ là thứ gải trí, nó phải thêm một nhiệm vụ là có

ích”. Ngòi bút của nhà văn không mơ hồ, xa xôi như giai đoạn trước mà tập trung

khai thác những đề tài ngay trong cuộc sống, những sự việc xảy ra hàng ngày, hàng

giờ ở trong nước. Ông phơi bày mặt trái của xã hội thực dân nửa phong kiến bằng

bút pháp trào phúng.

3.1.2.2. Ngòi bút trào phúng Nguyễn Công Hoan

Những năm đầu thế kỉ XX, văn hóa, văn học phương Tây tràn vào Việt Nam

thật mạnh mẽ, nó đã chi phối sự ra đời của các trào lưu văn học. giữa các ngả

đường khác nhau Nguyễn Công Hoan đã chọ con đường nối tiếp mạch nguồn

truyền thống để bước vào thế giới văn học hiện đại, mặc dầu được đào tạo trong

trường Pháp - Việt, nhưng khác với trí thức Tây học, ông chị ảnh hưởng của dòng

văn học truyền thống nhiều hơn văn học phương Tây. trong bài tham luận về kinh

nghiệm viết văn đọc ở Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm 1957, ông

nói:“Đối với tôi, ảnh hưởng trường học của Pháp, ảnh hưởng của sách báo nước

56

ngoài không có mấy…Nếu được củng cố thêm về mặt chính trị và hưởng thụ phần

văn học tốt của nước Pháp trước kia…thì khiếu được khai thông hơn, nhiệt tình

được vững chắc hơn, quyết rằng tôi không phải mò mẫm một mình để viết, lắm lúc

như anh xẩm mất gậy”[25/277]. Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc dòng

văn học trào phúng. Sáng tác giai đoạn 1929 – 1935 đánh dấu trong lĩnh vực truyện

ngắn trào phúng của nguyễn Công Hoan.

Ông quan niệm cuộc đời như một sân khấu hài kịch. Con người là giả dối,

lừa bịp. Cái nhìn của nhà văn giai đoạn này gần với cái nhìn “chu nhi phục thủy”

của nhà nho.

Năm 1930, Nguyễn Công Hoan nhận lời mời của Tản Đà viết cho mục “An

Nam nhị thập thế kỉ ba đào kí” trên An Nam tạp chí. Nhan đề của mục thể hiện rõ

tinh thần trào phúng của thời đại: Ghi lại những sóng lớn của xã hội An Nam thế kỉ

XX, bất chấp “điều hay nhẽ dở, sự nhỏ, sự to trong xã hội để nơi nọ biết được sự

tình của nơi kia, kẻ sinh sau nghe được câu chuyện về thủa trước”. Nguyễn Công

Hoan thành người viết nhiều nhất mục và truyện ngắn của ông từ đó có tên gọi “Xã

hội ba đào kí”.

Trở về gần với cái nhìn dâu bể của nhà nho, Nguyễn Công Hoan củng cố ghi

lại những cảnh huống của xã hội bằng ngòi bút khách quan. Ông chú ý đến việc

nhận thức và khám phá các hiện tượng phức tạp trong xã hội thực dân nửa phong

kiến. truyện ngắn “Xã hội ba đào kí” trở thành hồi chuông cảnh báo cho sự suy đồi

trầm trọng về mặt đạo đức cuả con người.

Nguyễn Công Hoan khẳng định mình qua từng giai đoạn khác nhau. Nếu ở

giai đoạn 1920 đến 1923, số lượng sáng tác của nhà văn chưa nhiều, mục đích và

quan điểm nghệ thuật chưa thật rõ ràng, thì đến giai đoạn này số lượng sáng tác và

nội dung truyện đã đánh dấu sự trưởng thành trong ngòi bút Nguyễn Công Hoan.

Hơn 80 truyện ngắn, khoảng 10 truyện dài. Nội dung các sáng tác được khai thác từ

những vấn đề thời sự nóng bỏng. Đó là những sự kiện được tận mắt nhìn, tận tai

nghe, hoặc là đọc trên sách báo.

Sáng tác của Nguyễn Công Hoan giống như “chuyện chơi”. Sau ba năm dạy

học ở Hải Dương, năm 1929, Nguyễn Công Hoan bị điều lên Lào Cai dạy học. Ông

57

viết thư trao đổi với một người nữ đồng nghiệp bằng truyện ngắn. Mỗi tuần một câu

chuyện và ông cố gắng viết làm sao cho thật ngắn gọn, cho đúng với giọng hay

“đùa bỡn”, hay “chế nhạo chua chát” của mình. Về sau, động lực thúc đẩy Nguyễn

Công Hoan sáng tác là tấm lòng nhà văn với cuộc đời; “Lòng muốn viết những cái

gì mà mình cho là cần viết, không viết không an tâm, không viết thì thấy hậm hực,

thấy canh cánh bên lòng, thiếu nhiệm vụ của người cầm bút, không viết là che giấu

cho đối phương để lừa độc giả…Viết ra được thì thấy lòng nhẹ nhàng thanh thoát,

kiêu hãnh” [26/280].

Từ suy nghĩ ấy, ông dồn hết tâm lực vào ngòi bút bằng một trái tim ấm nóng.

Ông quan niệm: “truyện phải có nội dung bổ ích và trước hết truyện phải

thực”[25/132]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan vì thế đầy ắp những chi tiết thực

của cuộc đời. Ông phanh phui bản chất xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến

bằng ngòi bút trào phúng.

Nguyễn Công Hoan quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch, trên sân

khấu hài kịch ấy có sự góp mặt của đầy đủ tầng lớp, từ quan lại, cường hào ác bá,

đến những bọn áp bức bóc lột, từ kẻ giàu cho đến người nghèo.

Sống dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, Nguyễn Công Hoan nhìn “cái gì

cũng giả dối, lừa bịp đáng khôi hài”. Ông nhận ra trong mặt “nghiêm chỉnh” có cái

“dối trá”, trong vỏ nhân nghĩa có cái tàn bạo. Ông coi thường tất cả. Ông coi cuộc

đời giống như những trò lừa bịp. Không ít tác phẩm, Nguyễn Công Hoan đưa ra

nhũng định nghĩa cay đắng về cuộc đời: “Đời ngày nay chẳng phải là một bà hiền

mẫu biết thưởng phạt công minh. Đời đã hóa ra một con mụ chửa hoang đẻ bậy,

sinh non ra toàn những hạng mất dạy, hoặc đói cơm”… “Đời này ăn nhau về chỗ

ranh mãnh…nói đúng hơn là mất dạy”(Một tấm gương sáng). Trong truyện ngắn

“Đàn bà là giống yếu” ông kết luận: “Ở đời này ai không thừa cơ lợi dụng là khờ”.

Nguyễn Công Hoan nhìn cuộc đời theo chiều hướng suy đồi. Đó là sự suy

đồi về đạo đức, về nhân cách. Ông giễu cợt lối sống trụy lạc, rởm hợm, vô ơn bạc

nghĩa của những con người khoác màu áo đạo đức. Thế giới trong sáng tác của

Nguyễn Công Hoan là một thế giới “bị lộn trái”, “con người đeo mặt nạ để lừa dối,

58

bóc lột lẫn nhau”.

Ở Nguyễn Công Hoan, cái nhìn thuở ban đầu gần với cái nhìn của nhà nho,

gần với cái nhìn của nhà thơ: Nguyễn Khuyến, Tú Xương…

Sự tha hóa về đạo đức, nhân cách đã có trong thơ trào phúng của Trần Tế

Xương. Ông vẽ lên bức tranh xã hội bằng thơ những cảnh lố lăng, được thể hiện khá rõ

trong một số tác phẩm của ông như “Năm mới chúc nhau”, “Vịnh khoa thi hương”…

Bức tranh xã hội bằng thơ của Trần Tế Xương tuy hiện thực nhưng độ sâu về

hình ảnh chưa thật rõ.

Đến Nguyễn Công Hoan, trò dối trá, lừa bịp bị lật tẩy quyết liệt hơn nữa.

Ông đã đưa ra ánh sáng bộ mặt thật của xã hội thực dân đầy mâu thuẫn tự che đậy

bằng vỏ bọc hào nhoáng. Trong xã hội ấy, thói bạo tàn chui vào vỏ nhân nghĩa, trò

lừa bịp dối trá, bất nhân khoác áo mầu đạo đức, tệ hống hách làm ra vẻ khiêm

nhường…Tác phẩm Nguyễn Công Hoan giai đoạn này phản ánh bộ mặt méo mó,

xô lệch của xã hội thực dân.

Giai đoạn 1929 – 1935 đánh dấu bước trưởng thành ngòi bút trào phúng

Nguyễn Công Hoan. Truyện ngắn của ông giai đoạn này giống những màn bi hài

kịch thấm đày nước mắt. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đưa đến cho độc giả tiếng cười

nhưng ngay sau đó họ lại cùng ông rơi lệ. Tấn bi hài kịch luôn bắt đầu từ những trò

dối trá, lừa bịp và kết thúc bằng nước mắt.

Từ sự trăn trở với cuộc đời, nguyễn Công Hoan đã phơi bày trước dư luận xã

hội những cảnh éo le trái ngược, những tâm hồn đang xói lở trong xã hội ba đào.

Truyện ngắn “Răng con chó của nhà tư sản” thể hiện về sự xuống cấp về

đạo đức của con người. Số phận người ăn mày đặc sau số phận của một con chó.

Hình ảnh đối lập giữa một bên là con vật sạch sẽ, thơm tho, được nâng niu, cung

phụng tử tế, với một bên là một người ăn mày đói rách “đen thủi đen thui, nằm chờ

bên cạnh cái dạ dày lép kẹp” có giá trị tố cáo sâu sắc. Mặc cho người ăn mày van

lạy “rã cả bọt mép” , ông chủ vẫn thờ ơ cho đến khi “cái tiếng hết hơi” do gào to

của người ăn mày đập đến màng nhĩ, ông mới trợn mắt, hầm hầm quát: “Bước ngay!

không ông đá cho một cái thì chết bây giờ”. Màn bi hài kịch diễn ra trong tình thế

rất gay cấn giữa người và chó cốt để giành lấy đĩa cơm: “người tiến chó cũng tiến,

59

người lùi chó cũng lùi. Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người, đều

cùng giữ miếng như nhau” . Vậy là người hóa vật, vật hóa người. Một tấn bi hài

kịch cười ra nước mắt về thân phận con người trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh ông chủ nghiến răng: “à, mày đánh gẫy răng

chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi đền mạng. Bất quá ba chục bạc là

cùng!”. Ông nhảy lên ô tô, phóng xe hết sức nhanh đuổi theo người ăn mày. Đó là

đạo đức của con người, cụ thể là bọn tư sản trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

Răng của một con chó phải đền bằng cả mạng người.

Bằng ngòi bút trào phúng, Nguyễn Công Hoan rung lên hồi chuông cảnh báo

sự xuống cấp đạo đức con người.

Nếu nhà nho giai đoạn trước đặt phạm trù đạo đức là trung tâm, thì truyện ngắn

xã hội ba đào kí vấn đề về sự suy đồi đạo đức cũng được đặt ra một cách cấp thiết.

Truyện “Báo hiếu: trả nghĩa cha” đặt vấn đề về một nghĩa cử cao đẹp của

con cái với cha mẹ. Nhan đề của truyện ngắn đối lập hoàn toàn với nội dung của tác

phẩm. Cấu trúc của câu chuyện giống như một vở kịch gồm hai cảnh:

Cảnh 1: Ngoài trời mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương, trong nhà

ông chủ hãng xe Con Cọp, tiệc tùng linh đình. Những lời chúc mừng chen lẫn tiếng

cười của khách tham dự. hình ảnh của ông chủ bệ vệ luôn nở nụ cười “thiệp mời

của nhà tư sản”.

Cảnh 2: Ngoài trời mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu xương. Hình ảnh một

bà lão cô đơn, rách rưới, lưng khoác áo tơi, đầu đội nón nghệ, trạc ngoài 60, quê

mùa, đần ngốc, xấu như con khỉ, hai mắt thì toét nhèm những nhử…cái quần ống

chỗ ướt chỗ khô… Trời rét khiến bà run chẳng được. hai lớp cảnh đối nhau. một

bên là nhà tư sản giàu có, một bên là người nông dân quê mùa đần ngốc. Giữa họ

tưởng không có mối quan hệ. Thế nhưng, chính người đàn bà góa ấy: “vì chót chiều

chồng mà tình cờ đẻ ra một đứa con trai…thằng con trai ấy tức là ông chủ”.

Ngày giỗ chồng, bà từ quê lần mò ra thành phố, tìm đến nhà con trai, nhưng

không ngờ bà lại là người khiến cho người con trai “hiếu thảo” ấy phải xấu hổ với

mọi người trong bữa tiệc „báo hiếu” cha. Ông chủ đón mẹ tại nơi đầy muỗi và hôi

thối. Ông trợn mắt mắng vào mặt bà: “Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà

60

cầm lấy! bà về đi! Mặc kệ bà”.

Thì ra ông chủ đã đem sĩ diện mà đổi lấy chữ hiếu. Hóa ra câu chuyện báo

hiếu trả nghĩa cho cha chỉ là một hành động lừa bịp, giả dối. Đó là cái vẻ bề ngoài

nhằm dấu đi bản chất vô lương tâm của một nhà tư sản. Đồng hào ván của đứa con

trai dúi vào tay người mẹ góa, rồi đuổi mẹ đi trong mưa gió thể hiện sự mất giá của

tình mẫu tử và sự lên ngôi của tờ giấy bạc trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

Hạt nhân tiếng cười trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan bắt

nguồn từ nhận thức về sự trái ngược giữa bản chất và hiện tượng, giữa vẻ phô

trương bên ngoài và tình trạng thiếu sức sống bên trong. Bằng cách xây dựng những

tình huống khác nhau, ông tạo ra cái cười mang nhiều cung bậc. Từ khôi hài , mỉa

mai đến châm biếm, tố cáo. tiếng cười thành vũ khí chiến đấu. Sáng tác của Nguyễn

Công Hoan vì thế có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

3.1.2.3. Cây bút hiện thực Nguyễn Công Hoan.

Nghề dạy học đã giúp ông hiểu biết thêm về cuộc đời muôn hình muôn vẻ.

“Tôi hiểu nông thôn, với nhũng cơ cực của người nông dân vì đế quốc, phong kiến

và tôn giáo làm cho u mê, tăm tối nghèo khổ”…Người đời tin và sẵn sàng và sẵn

sàng bộc lộ những uẩn khúc tự đáy lòng với những sáng tác của ông “Thế là 20

năm trong giáo giới…tôi được học thêm ở cuốn sách thiên nhiên nhiều rất hay

trong những trang rộng lớn và vô tận” [26/98].

Vốn sống mà ông lượm lặt được một cách chăm chỉ và có suy nghĩ. Thời kì này

là tài liệu cho cả một giai đoạn dài trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan.

Bạn đọc không chỉ biết đến Nguyễn Công Hoan là một cây bút trào phúng

tiêu biểu những năm đầu thế kỉ XX, mà Nguyễn Công Hoan còn được biết đến với

một cây bút hiện thực xuất sắc. Tập truyện “Kép Tư Bền” (1935) được báo chí đánh

giá cao và Hải Triều gọi đó là “tác phẩm thuộc về cái trào lưu nghệ thuật vị nhân

sinh ở nước ta”.

Bên cạnh đề tài tố cáo bọn nhà giàu, vô lương tâm, số phận của người nghèo

trong xã hội được nhà văn đề cập trong nhiều tác phẩm. Ông chú ý khai thác những

61

cảnh đời éo le, cơ cực, vắt mũi không đủ đút miệng của bao kiếp người khốn khó.

Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên của phu xe với cô gái giang hồ cứ day dứt người

đọc. Nước mắt của người phu xe hòa lẫn những giọt nước mắt ngầm của nhà văn.

Họ khóc để rửa sạch cái vết ba đào của kiếp “Người ngựa và ngựa người”.

Ám ảnh người đọc còn là hình ảnh anh kép hát rong truyện ngắn “Kép Tư

Bền”vô tình bị người đời bắt diễn trò bông lơn giữa lúc cha hấp hối. Vì món nợ ông

chủ rạp Kịch trường, Tư Bền phải nhận lời đóng vai Ông huyện ba phải, mua vui

cho thiên hạ. Đời kép hát thật phũ phàng. Ông chủ rạp hát thì ác nghiệt bắt anh phải

quên đi sự nhàu gan nát ruột vì người cha hấp hối để mà bông mà đùa, mà pha trò

trên sân khấu cho khán giả hét lên mà cười “cười đến nỗi phải lăn cả ra đất”. Cái

cảnh thương tâm của anh Tư Bền đi đôi với bông lơn, cứ diễn ra mãi, mà mỗi chốc

lại càng thương tâm hơn.

Có thể nói, giai đoạn từ 1929 – 1935, Nguyễn Công Hoan thành công ở

truyện ngắn trào phúng. Truyện ngắn hiện thực cũng được gây tiếng vang. Tuy

nhiên phải đến thời kì mặt trận Dân chủ, ngòi bút hiện thực phê phán Nguyễn Công

Hoan mới đạt đến đỉnh cao. Hoài Thanh tin rằng: “một ngày kia nghệ thuật ông sẽ

hoàn toàn và tự khắc sẽ được công chúng hoan nghênh một cách hoàn toàn”.

Mỗi sáng tác của Nguyễn Công Hoan thường khai thác một vấn đề của cuộc

sống. Sự phân biệt bút pháp trào phúng và hiện thực ở nhà văn là điều không đơn

giản. Tác phẩm của ông luôn có sự hòa quyện của truyền thống và hiện đại. Ông

đến với hiện thực bằng con đường của các tác giả trào phúng giai đoạn trước. Ông

tạo mối căm ghét, phẫn nộ ở độc giả bằng sự kết hợp tài tình giữa cái hài và cái bi.

Bielinxki từng nói: “Kết hợp giữa cái bi và cái hài là biết thể hiện cuộc sống theo

đúng bản chất của nó”.

Nếu ở mảng truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan đã được những thành tựu đáng

kể thì trong lĩnh vực truyện dài, ông hầu như không gặt hái được gì ngoài tác phẩm

“Bước đường cùng” và “Cái thủ lợn”.

Gần chục truyện dài viết trong thời kì này không tạo được tiếng vang . Hầu

hết truyện nghiêng về khuynh hướng lãng mạn, trong đó có cả tích cực và tiêu cực.

“Tắt lửa lòng” (1933 – 1934), “Lá ngọc cành vàng” (1934)…là những cuốn tiểu

62

thuyết bi lụy về tình yêu. Yếu tố chống lễ giáo phong kiến khá mờ nhạt, dù đã miêu

tả đượcthủ đoạn thâm độc của tên quan tri phủ, sự hư hỏng và hợm mình của một cô

gái con quan, song nổi lên lại là mối thương tâm của độc giả về cuộc tình dang dở.

“Tấm lòng vàng”(1934) là câu chuyện có ý nghĩa giáo dục. truyện kể về tấm

lòng của người thầy giáo âm thầm giúp đỡ một học trò nghèo ham học. Khi thành

đạt, trò tìm cách trả nghĩa cho người thầy đáng kính ấy. Theo lời kể của Nguyễn

Công Hoan, đó là một câu chuyện có thật trong cuộc đời dạy học của nhà văn.

“Ông chủ” (1935) được xem là thành công hơn cả. truyện đề cập đến mâu

thuẫn giữa nông dân và địa chủ. Cốt truyện xoay quanh cảnh nghèo hèn của vợ

chồng Đĩ Nuôi. Vì nợ nần ông chủ, chị Nuôi phải bán dòng sữa, trở thành người vú

em trong gia đình ông chủ. Với bản chất háo sắc, dâm ô của một tên địa chủ, chị bị

hắn ve vãn và cuối cùng bị mang tiếng là kẻ phụ chồng. Kết thúc truyện là cái chết

của người chồng đáng thương ôm trong lòng mối hận vì nghĩ vợ thất tiết, là cái chết

của đứa con trai bé bỏng vì ốm đau bệnh tật. Cảnh nghèo hèn khiến gia đình Đĩ

Nuôi li tán. Câu chuyện thương tâm toát lên vấn đề về số phận bấp bênh của người

nông dân. Về bản chất dâm ô, gian sảo của bọn nhà giàu. tuy nhiên, nhận thức về

mâu thuẫn cơ bản khiến người nông dân đau khổ của nhà văn trong giai đoạn này

chưa thật sâu sắc. tính cách nhân vật chưa bộc lộ rõ. Phải đến năm 1938, với “Bước

đường cùng” Nguyễn Công Hoan mới đến được đỉnh cao của ngòi bút hiện thực

phê phán những năm 1930 – 1945.

3.1.3. Giai đoạn từ 1936 – 1939.

Đây là giai đoạn nở rộ những sáng tác hiện thực của Nguyễn Công Hoan.

Ngòi bút của nhà văn đã đi sâu vào những vấn đề bản chất xã hội.

Giai đoạn từ 1936 – 1939, cuộc đấu tranh chống phát xít lan rộng ra toàn thế

giới. Ở Việt Nam, làn sóng cách mạng dâng cao, phong trào đấu tranh của mọi tầng

lớp trong xã hội diễn ra sôi nổi. Nông dân chống sưu thuế, phu phen. Tầng lớp tiểu

tu sản đáu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, công nhân đò tự do nghiệp

đoàn…

Các phong trào chính trị đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học nước nhà. Đặc

biệt, tháng 01 năm 1937, chế độ kiểm duyệt bãi bỏ về hình thức, tạo điều kiện cho

63

văn học hiện thực phê phán phát triển. hàng loạt tác phẩm ra đời như “Tắt đèn” của

Ngô Tất Tố, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng,…có không ít nhà văn từ khuynh hướng

lãng mạn chuyển sang hiện thực như: Tam Lang, Nguyên Hồng…

Phong trào cách mạng và không khí văn học đã tác động đến tư tưởng của

Nguyễn Công Hoan, chi phối đến việc lựa chọn đề tài, chủ đề và việc xây dựng tính

cách nhân vật.

Tháng 09 năm 1936, Nguyễn Công Hoan từ Lào Cai chuyển về dạy học ở

Nam Định. Tại đây, ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều nhà chính trị cách

mạng …điều này có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của nhà văn.

Thời kì Mặt trận Dân chủ, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan được tung hoành

hơn trước. Nhiều tác phẩm mang màu sắc chính trị rõ nét. Ông nhìn rõ bọ mặt

phong kiến, đế quốc. Ngòi bút của ông đã xích lại gần với quần chúng nhân dân hơn.

Hàng loạt truyện ngắn, truyện dài trên “Tiểu thuyết thứ Bảy” vạch trần bọn quan lại

tham nhũng, công kích chế độ bất công , lột mặt nạ của bọn thực dân. Sở mật thám

coi ông là “một tay cộng sản nguy hiểm, cần phải tống sớm ra khỏi nơi tập trung

thợ thuyền này”.

Năm 1938, Nguyễn Công Hoan bị đày ra đảo Trà Cổ để dạy học. Biết đó là

hành động khéo léo của bọn thực dân, ông nán lại ở Nam Định một thời gian để

chống lại sự thuyên chuyển bất công ấy. trong vòng mười sáu ngày, ông hoàn thành

cuốn tiểu thuyết “Bước đường cùng” và lập tức cho in. Khi viết “Bước đường

cùng”, ông đoán trước sách in ra sẽ bị cấm , thậm chí tác giả của nó có thể bị truy tố

“nhưng có điều việc phải làm thì tôi cứ làm. Phải làm nghĩa là nên làm. Phải làm

nghĩa là nhân cái đà chính trị đương lên hồi bấy giờ, tôi phải đóng góp những điều

mà tôi biết về nông thôn và nông dân để tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến

quan lại địa chủ”.

Dù nhà văn bị theo dõi và các tác phẩm bị kiểm duyệt nghiêm ngặt, Nguyễn

Công Hoan vẫn viết. Ông quan niệm: “Mày bỏ tù ông thì mày nuôi. Ra tù ông lại

viết, cóc sợ”. Với Nguyễn Công Hoan “tự do sáng tác không phải là vấn đề, mà vấn

đề là ở người cầm bút có nhiệt tình và có sống hay không”

Số lượng truyện ngắn giai đoạn này khoảng hơn tám mươi truyện, gần mười

64

truyện dài trong đó nổi bật là “Bước đường cùng” (1938); “Cái thủ lợn”

(1939).Sáng tác giai đoạn này vẫn có sự đan xen giữa bút pháp trào phúng và hiện

thực. Tuy nhiên, như đã nói Nguyễn Công Hoan thành công ở mảng hiện thực hơn

trào phúng.

Nguyễn Công Hoan tiếp tục khai thác những đề tài trong giai đoạn trước,

song ngòi bút đi sâu vào việc phân tích, khám phá, phát hiện những hiện tượng

mang tính chất bản chất. Ông vạch trần bộ mặt giả dối, ti tiện của bọn địa chủ, quan

lại phong kiến (Thàng quýt, Thằng ăn cướp, Đồng hào có ma…). Nhà văn kết luận:

“Tất cả lũ ấy đều ăn tàn phá hại, đểu giả ngang nhau”(Cái thủ lợn). Ông nhận ra

nỗi cơ cực của người nông dân vì những tai ách chồng chéo khiến họ không ngóc

đầu lên được. Những cuộc đời cứ quằn quại, day dứt dưới ngòi bút Nguyễn Công

Hoan.

“Thằng ăn cướp” tố cáo tội cướp ngày của bọn quan lại, khiến bọn cướp

đêm phải bỏ nghề. “Đồng hào có ma” vạch trần tên quan huyện Hinh đê tiện, lợi

dụng sự vụng về, nhút nhát của người nông dân mà ăn cắp, khiến đồng hào biến mất

giữa ban ngày trước cửa chốn công đường vốn quanh minh chính đại.

Bên cạnh cái nhìn đạo đức của nhà nho, ông vốn đặt vấn đề giai cấp và bước

đầu xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.

Sức tố cáo trong ngòi bút Nguyễn Công Hoan giai đoạn này mãnh liệt, ý

nghĩa khái quát hình tượng rộng lớn và sâu sắc hơn, ông đã đánh thẳng vào mặt bọn

những chính sách xảo quyệt (Chính sách thân dân). Bên cạnh hình ảnh người nông

dân, thằng ăn cắp, người hát xẩm… còn có hình ảnh người công nhân. Đây là đề tài

hoàn toàn mới và không nhiều trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Ông đã phát

hiện ra bản chất ngoan cường, bất khuất của chị phu mỏ, của anh pha.

“Sáng, chị phu mỏ” là câu chuyện kể về người công nhân biết vùng lên đấu

tranh đến cùng để giữ nhân cách, đồng thời tố cáo hành động đê tiện của ông chủ

Nhì, một tên thực dân dâm ô, gian ác. Vì cần tiền chạy chữa cho mẹ, chị Sáng phải

liều đến vay lương ông chủ. Nhưng không những không vay được được tiền, chị

còn bị ông chủ dở trò cưỡng bức. Chị lăn lộn quyết liệt với một tên “dâm thần” và

65

sẵn sàng hủy hoại thân mình để thoát nạn. trước sự chống trả của chị, ông chủ buộc

phải buông tha. Chị trở thành hình tượng một người công nhân duy nhất có sức

chiến đấu mãnh liệt nhất trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.

Giai đoạn 1936 – 1939, vấn đề người nông dân được nhà văn đặc biệt chú ý.

Ông nghĩ: “muốn gây thành dư luận…phải đưa anh nông dân vào trong truyện dài”.

Ý định đó được thực hiện ở “Bước đường cùng” và trở thành tác phẩm hiện thực

xuất sắc nhất của Nguyễn Công Hoan.

Lần đầu tiên, người nông dân dám vùng lên đánh địa chủ. Hành động của

anh Pha tuy là tự phát song vẫn mang một ý nghĩa hiện thực sâu sắc.

Có thể nói, giai đoạn 1936 – 1939 Nguyễn Công Hoan khẳng định chỗ đứng

của mình trong hàng ngũ nhà văn hiện thực phê phán. Mặc dù đôi lúc lập trường

sáng tác của nhà văn bị lung lay, song không thể phủ nhận những đóng góp của

Nguyễn Công Hoan cho chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam

trong những năm đầu thế kỉ XX.

3.1.4.Giai đoạn từ 1940 – 1945.

Thời lì Mặt trận Dân chủ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan được thỏa sức tung

hoành. Ông công kích quan lại phong kiến, chĩa mũi nhọn vào những chính sách

của bọn thực dân…Đây là thời kì nở rộ những sáng tác xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao

trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Sang đến những năm 40 của thế

kỉ XX, đó là thời kì nhà văn bị rơi vào tình trạng lúng túng, bế tắc về tư tưởng trong

sáng tác nghệ thuật. Giai đoạn từ 1940 đến 1945 là một bước lùi đáng tiếc, bản thân

ông coi đây là thời kì “tàn tạ”. Sự thụt lùi này bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân

khách quan và chủ quan.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phong trào dân chủ

bị đàn áp. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng phát xít Nhật, nhân dân ta chịu

một cổ hai tròng. Cuộc sống vốn đã nghèo đói, cực khổ nay lại cành cơ cực hơn.

Thực dân Pháp đưa ra những chính sách mị dân nhằm ru ngủ tinh thần đấu tranh

cách mạng của quần chúng nhân dân. Đó là phong trào thể dục, thể thao…

Trên lĩnh vực văn hoá, chúng ra sức truyền bá tư tưởng nô dịch, phản động ,

ngăn cản nền văn học công khai, tiến bộ… Tháng 9 năm 1939, chế độ kiểm duyệt

66

được tái thiết. Nhà văn mất quyền tự do ngôn luận, không ít người rơi vào tình trạng

hoang mang, bế tắc. Nhiều khuynh hướng văn học ra đời như: khuynh hướng phục

cổ, duy tâm, thần bí, khuynh hướng lãng mạn đồi trụy…Đời sống văn học tiêu điều.

Nhiều báo chí, nhà xuất bản bị đóng cửa. Đó là thời kì có nhiều biến cố quan trọng

trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử văn học Việt Nam nói riêng.

Với Nguyễn Công Hoan, ngoài khó khăn chung ấy còn có rất nhiều khó khăn

riêng, tác động không nhỏ tới quá trình sáng tác của nhà văn.

Gia đình Nguyễn Công Hoan thường xuyên bị khám xét. Em trai và con nhà

văn bị đế quốc bắt. Bản thân nhà văn bị tòa Nam án xét xử ba năm tù. Nhưng do

khai sinh ở Hà Nội, tòa Nam án không có thẩm quyền nên ông được tha. Đầu năm

1945, ông bị Nhật bắt và ở tù đến khi khởi nghĩa tháng Tám.

Trên lĩnh vực sáng tác, sau tiểu thuyết “Bước đường cùng”, “Cái thủ lợn”,

hàng loạt các truyện ngắn gây tinh thần phản chiến bị cấm (Chiến tranh, Thiếu hoa),

Nguyễn Công Hoan bị coi là tên cộng sản nguy hiểm. Các tác phẩm bị kiểm duyệt

nghiêm ngặt trước khi in. Các nhà in dường như cũng e ngại tác phẩm của nhà văn.

Ông chán ngán vì biết mình bị “treo giò”. Giai đoạn từ 1940 đến 1945, ông viết

khá thưa thớt. Năm 1940, tập truyện ngắn “Ông chủ báo” xuất bản, tuy nhiên hầu

hết các truyện được viết trước năm 1940 như “Ông chủ báo chẳng bàng

lòng”(1932), “Cái thú tổ tôm”(1934)…

Bên cạnh những mặt mạnh của ngòi bút tố cáo, giai đoạn này do những khó

khăn khách quan và chủ quan, Nguyễn Công Hoan vấp phải những hạn chế đáng

tiếc. Những truyện dài của nhà văn thời kì này hầu hết rơi vào khuynh hướng lãng

mạn tiêu cực.

Năm 1942, Nguyễn Công Hoan viết “Thanh đạm”, “Nghịch cảnh”, “Danh

tiết”, ca ngợi quan lại, ca ngợi đạo đức phong kiến.

Nhân vật chính trong tiểu thuyết “Thanh đạm” là quân huyện Lê Sĩ Cư

“Trong huyện Văn Lâm này, từ cụ Bảng Hoàng cho đến cụ Cử, Tú, ai cũng phục

ông là người hay chữ. Ông cai trị dân, lấy thanh, thận, cần làm phương châm. Ông

thương dân như con, vì vậy dân trọng ông như cha…” [39/292].

Nếu như trước đây, quan lại dưới con mắt Nguyễn Công Hoan là “một lũ bị

67

thịt”, chuyên ăn bẩn, thì Lê Sĩ Cư lại khác hẳn “người ông phương phi, nhưng là

cái đẫy đà, thanh tú của con người phúc hậu”. Đó là một ông quan thanh liêm, bao

giờ cũng nghĩ đến sự ấm no của thiên hạ “lấy hai chữ Thanh đạm làm quý”. Ông

quan niệm “Nghèo trong sạch còn hơn giàu mà dơ bẩn”. Vì thế, hơn mười năm làm

quan “vẫn chỉ có cái nhà gianh và mười mẫu ruộng của ông bà để lại”. Ông được

coi là “một hạng người thiêng liêng, một hạng người trên hẳn những người dân

phàm thường, chỉ kém bậc thần thánh một chút” [41/292].

Khi viết “Thanh đạm”, Nguyễn Công Hoan giải thích “tôi cần thay đổi

chiến thuật. Chiến thuật mới mà tôi cho là rất khôn khéo, thế nào kiểm duyệt cũng

mắc mưu là tôi không công kích quan trường một cách gián tiếp. Nêu lên một số

đức tính của quan trường xưa…khiến cho độc giả yêu quan trường xưa, thì sẽ so

sánh với quan trường ngày nay, họ sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói…”[25/217].

Mặt khác, hiện tượng giao thoa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực ở

Nguyễn Công Hoan được ông giải thích gián tiếp thông qua việc lí giải “Khối mâu

thuẫn của Tản Đà”. Ông cho rằng dưới thời Pháp thuộc, người cầm bút bị thực dân

nghi ngờ, theo dõi. Những bài phê bình của Tản Đà “không phải do thái độ chính

trị mà là do ông muốn sinh kế khỏi bị làm khó dễ thôi”. Ông nói “ sinh kế của nhà

văn cũng là yếu tố làm cho một trào lưu văn học nói chung và khuynh hướng của

một nhà văn nói riêng không thuần nhất”. Cuối cùng Nguyễn Công Hoan kết luận:

“Sở dĩ trào lưu văn học trong một thời kì, khuynh hướng, tư tưởng trong một nhà

văn không thuần nhất là do phần nhiều các nhà văn trước cách mạng viết lách vì

sinh kế. Cho nên mới vì một bữa rượu, vì tình đối với bạn, vì túng bài, vì được

người mách cho một chuyện, hoặc vì gì gì nữa…thì lập tức họ viết ngay”.

Lời giải thích như trên như sự giãi bày ccho nguyên nhân giao động trong

ngòi bút Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng Tám.

Có thể nói, thời kì 1940 – 1945 Nguyễn Công Hoan không tạo tiếng vang

như thời kì trước.

3.2. Sự vận động về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của

Nguyễn Công Hoan.

68

3.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ.

Như ở chương I chúng tôi đã trình bày. Văn học Trung đại Việt Nam chịu

ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Điều này đã chi phối đến thế giới quan, quan điểm

thẩm mỹ của nhà văn. Quan điểm thẩm mỹ “Văn dĩ tải đạo – Thi dĩ ngôn chí” đã

thực sự chi phối quan điểm thẩm mỹ trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ trung

đại Việt Nam.

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam biến động do sự xâm lược

của thực dân Pháp. Sự khai thác thuộc địa mạn mẽ của người Pháp đã thực sự làm

cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX bị phân hóa, một bộ phận không

nhỏ dân chúng chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa, văn học phương Tây. Điều này có

ảnh hưởng sâu sắc đến Văn học Việt Nam, bởi vậy văn học Việt Nam đã có những

bước chuyển biến quan trọng. Loại hình văn học nhà nho bị xuống giá, thay vào đó

là người nghệ sỹ của ngôn từ. Văn học nhà nho tìm cách thích ứng với xã hội hiện

hiện đại nhưng bất lực.

Văn học Việt Nam ra đời với một quan niệm văn học khắc trước. Hệ thống

thể loại và tiêu chuẩn cái đẹp đã khác xưa, tạo ra sự gián đoạn với truyền thống văn

học vùng Đông Á. Tuy nhiên trong văn học hiện đại vẫn có những yếu tố truyền

thống đang được phát huy tích cực.

Ở trong nền văn học Trung đại Việt Nam, người đọc có thể bắt gặp những

trang văn, trang thơ thể hiện sự phản kháng, phê phán mạnh mẽ xã hội thực dân nửa

phong kiến, phê phán giới quan trường trong buổi giao thời Á – Âu như trong thơ

văn của Nguyễn Khuyến; Tú Xương.

Bước sang thế kỉ XX, công cuộc ổn địnhtrật tự xã hội của người Pháp ở

Đông Dương đã tương đối ổn định, cái mới đã dần được thiết lập, dần thay thế

những cái cũ. Nguyễn Công Hoan nhập cuộc trong bối cảnh xã hội ấy – xã hội thực

dân nửa phong kiến mang trong mình những mâu thuẫn không thể điều hòa được.

Trong hoàn cảnh ấy, yếu tố hài đã nảy sinh- yếu tố hài không chỉ trong cái cũ mà

nằm ngay trong bản thân cái mới.

Nguyễn Công Hoan là người nhạy bén với thời cuộc, lại sẵn có khiếu hài

hước từ tuổi ấu thơ , ông phơi bày mặt trái xã hội thực dân nửa phong kiến bằng

69

ngòi bút trào phúng. Ông quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch, và trên sân

khấu ấy có sự góp mặt của mọi tầng lớp, từ quan lại, địa chủ đến người nông dân; từ

kẻ giàu cho đến người nghèo; từ nông thôn ra thành thị…tất cả cùng diễn kịch. Kẻ

giàu sang diễn “trò làm phúc”. Kẻ bất hiếu diễn trò “báo hiếu”. Kẻ thất tiết diễn

trò “tiết hạnh”. Người nghèo hèn diễn trò ăn cắp…Cả một thế giới làm trò. Con

người đeo mặt nạ để lừa bịp lẫn nhau. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan ví như

một “tấn trò đời với nhiều cung bậc khác nhau của tình cảm” (Phong Lê). Bằng sự

kết hợp giữa ngòi bút trào phúng và hiện thực, ông đem đến cho độc giả tiếng cười

với nhiều cung bậc. Đó là tiếng cười hả hê, khoái trá xen lẫn sự khinh bỉ, chua chát.

Đằng sau tiếng cười còn là nước mắt, là sự căm giận của nhà văn khóc thương cho

cảnh ba đào của xã hội An Nam.

Hạt nhân tiếng cười trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là sự nhận thức

những mâu thuẫn trái ngược của cuộc sống, sự đối lập giữa nội dung và hình thức;

giữa bản chất và hiện tượng; giữa tính chất giàu sức sống bề ngoài và tình trạng

thiếu sức sống bên trong. Hầu hết tác phẩm của ông được dẫn dắt bằng lý tưởng

thẩm mỹ của cái hài.

Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, dưới con mắt của nhà văn Nguyễn Công

Hoan toàn là những trò lừa bịp, đáng khôi hài. “Tôi bi quan, tôi hoài nghi, tôi khinh

ngạo tất cả. Bởi vì tôi sống dưới một chế độ xã hội không làm cho tôi vui vẻ, tin

tưởng và kính trọng một mảy may…Tôi bi quan, hoài nghi, khinh ngạo với cả những

việc mà họ cho là tốt. Tôi cho là cái tốt mà họ khoe chỉ là để lừa gạt che dấu cho

một cái xấu sắp hình thành. Cho nên, có thể nói rằng khả năng của tôi là viết về

những mặt xấu của xã hội cũ… về tư tưởng, sinh hoạt, tác phong của người giàu.

Tôi không tả nổi một người giàu đẹp dù người ấy là phụ nữ” [25/286].

Mặt mạnh của Nguyễn Công Hoan là miêu tả mặt trái của đời sống xã hội cũ,

đặc biệt là bọn quan lại. Ông bộc bạch: “Người viết văn chịu ảnh hưởng về mặt nào

nhiều nhất thì có khả năng sáng tác về mặt ấy nhiều nhất”[25/295].

Lý tưởng thẩm mĩ của cái hài luôn theo sát bước đường sáng tác của Nguyễn

Công Hoan. Cái hài của nhà văn luôn gắn với cái thực. Có khá nhiều cách cho nhà

văn chiếm lĩnh hiện thực. Nguyễn Công Hoan chiếm lĩnh cuộc sống trên phương

70

diện của cái hài. Bởi ông nhận ra sức mạnh của tiếng cười đúng như nhận xét của

Bakhtin: “Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười

lôi cuốn đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã

sờ mó từ khắp mọi phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ

ngoài để nhìn vào bên trong, hồ nghi, phân tích, chia cắt, bóc trần…tiếng cười là

nhân tố cơ bản nhất, tạo ra thái độ không biết sợ, mà không có tiền đề ấy thì không

thể chiếm lĩnh hiện thực” [11/50/51].

Nguyễn Công Hoan là người có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa

hiện thực Việt Nam và góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực với một khối

lượng tác phẩm đồ sộ. Những thành tựu sáng tác vẻ vang đó trước Cách mạng tháng

Tám đủ khẳng định ông là một nhà văn xuôi lớn của dân tộc.

3.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài.

Thế giới trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là một thế giới vô cùng

phức tạp như bản thân cuộc sống. Sự đa dạng và phức tạp được thể hiện rõ ở nhất ở

chủ đề, đề tài trong sáng tác của nhà văn trước cách mạng tháng tám năm 1945.

Vào những năm đầu của thề kỉ XX, trên văn đàn xuất hiện nhiều ngả đường

khác nhau, nhiều khuynh hướng văn học đối lập nhau, Nguyễn Công Hoan chọn

con đường tiếp nối truyền thống để nhóm lên một thế giới mới. Văn ông “không réo

rắt như một khúc đàn, không nhẹ nhàng như một bài thơ, không man mác như gió

thổi mặt nước”, “không bóng bẩy như cành hoa trong gương, văn ông có cái hay,

rõ ràng, sáng sủa, thiết thực…” và Trúc Hà gọi đó là một ngọn bút mới – ngọn bút

Nguyễn Công Hoan.

Nguyễn Công Hoan quan niệm: “nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống”, “Viết

văn tức là làm một cái gì có ích”. Suy nghĩ ấy đã giúp ông chuyển từ những đề tài

xa thực tế, từ bất cứ một câu chuyện gì làm ông rung cảm của buổi chập chững vào

nghề đến những đề tài nóng bỏng của cuộc sống. Xã hội thiên binh vạn trạng được

nhà văn phản ánh vào tác phẩm bằng bút pháp hiện thực đan xen trào phúng nhằm

lên án, tố cáo những bất công ngang trái của xã hội thực dân nửa phong kiến. Ông

tâm sự: “Chưa bao giờ tôi viết gì mà lại không đúng với thực tế”[25/201]. Tác phẩm

của nhà văn bắt nguồn từ cuộc sống đông đặc trước mắt, cảm xúc nảy sinh từ hiện

71

thực. Ông phản ánh trung thực, ngang tầm xã hội. Nghĩa là, cuộc sống thế nào thì văn

chương thế đó. Nhưng không phải nhà văn sao chép cuộc sống một cách thụ động.

Ông luôn đứng ở tư thế chủ động để phản ánh. mỗi tác phẩm của Nguyễn Công Hoan

thường đặt một vấn đề cấp thiết của cuộc sống. Tác phẩm của ông giống như “một

bách khoa toàn thư về xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám…Đóng góp của

ông vào nền văn học thế giới là đề tài rút ra từ đời sống hiện thực ở Việt Nam, chứ

không bắt chước viết theo một nhà văn nào” (Lê Thị Đức Hạnh).

Thế giới trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là một thế giới thực – một

thế giới ở đó có sự hiện diện của người thật, việc thật. Ông nói “những nhân vật tả

trong truyện là những người tôi gặp nhiều lần. Từ dáng điệu, cử chỉ cho đến lời ăn

tiếng nói của họ được nhắc đi nhắc lại vào mắt, vào tai tôi, nên tôi thuộc lòng. Tôi

thuộc lòng đến nỗi thoạt gặp ai, tôi cũng đoán được bụng dạ họ”. Ông miêu tả khá

sinh động những cảnh huống, những cuộc đời, những kiếp người khác nhau trong

xã hội. Ông phơi bày cảnh nhố nhăng, lừa bịp, Nguyễn Công Hoan được đánh giá

“là người mở ra một kỉ nguyên mới cho cái tư triều văn nghệ tả thiệt và xã hội ở

nước ta” (Hải Triều).

Có thể nói, hệ thống chủ đề, đề tài trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là

vô cùng phong phú, đa dạng, thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng của nhà văn,

sự vận động của văn học nước nhà trong những năm đầu thế kỉ XX.

Để làm rõ được hệ thống chủ đề tài trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Công

Hoan, chúng tôi dựa vào sự phân chia của nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh.

Trong cuốn “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan chia nội dung truyện

thành ba loại:

Loại thứ nhất: Tố cáo tội ác của bọn nhà giàu, tức là quan lại, địa chủ, tư

sản dùng thế lực kinh tế hoặc chính trị để áp bức bóc lộc người nghèo lép vế.

Loại thứ hai: Tình bày nỗi thống khổ của người nghèo lép vế, tức là nông

dân, công nhân, người lao động bị bọn nhà giàu dùng kinh tế hoặc chính trị để áp

bức bóc lột.

Loại thứ ba: Giễu cợt cảnh thối tha nhơ nhuốc, những tâm lí giả dối, kệch

cỡm, những hành động nhố nhăng hoặc nực cười của tất cả các hạng người trong xã

72

hội tư sản và tiểu tư sản.

Sự phân chia này chưa thật cụ thể, bởi khi gọi tên chung “bọn nhà giàu”, ông

vấp phải một khái niệm khá mơ hồ. Chính điều này làm cho giai đoạn đầu của

Nguyễn Công Hoan đôi khi chệch hướng. Ông chủ yếu coi mâu thuẫn giàu nghèo là

mâu thuẫn cơ bản mà chưa nhìn ra mâu thuẫn giai cấp.

Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh trong cuốn “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan” , cũng chia nội dung sáng tác của Nguyễn Công Hoan giai đoạn 1929 –

1935 thành ba loại.

Một loại tố cáo, lên án bọn chuyên sống bằng cách áp bức, bóc lột những

người nghèo khổ. Chúng sống vô lương tâm, nhân cách rất đê tiện nhưng lại làm ra

mặt đạo đức như bọn quan lại và tay sai, cường hào, bọn địa chủ tư sản.

Một loại miêu tả những cảnh khổ cực của nông dân và của những người

nghèo khác như: Kép hát, đi ở, phu xe… cả những kẻ ăn cắp, ăn mày, gái

điếm…nhằm mục đích phê phán xã hội đương thời.

Một loại phê phán những hạng người tuy không phải là tư sản nhưng nhờ đế

quốc mà phong lưu, ảnh hưởng tới lối sống tư sản đồi trụy ở châu Âu. Đó là những

công chức có lương cao bổng hậu, một số ít tiểu tư sản, tiểu trí thức bám vào bọn

thống trị sống đê tiện,mất nhân cách…mô tả và phê phán mọi cái xấu xa, thối nát

của tầng lớp trên và trung lưu trong xã hội cũ.

Căn cứ vào sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan trước cách mạng, đồng

thời dựa vào cách phân chia của nhà văn, của nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh,

chúng tôi chia hệ thống chủ đề và đề tài thành bốn mảng chính, tạo cái nhìn khái

quát về sáng tác của nhà văn trước Cách mạng tháng Tám, trong sự vận động từ

quan điểm văn chương trào phúng nhà nho đến cốt cách văn phong Tây phương

hiện thực.

Nhìn lại quá trình sáng tác của nhà văn trong những năm đầu thế kỉ XX, giai

đoạn 1920 – 1923, giai đoạn này chủ đề,đề tài trong các sáng tác của nhà văn rất

gần với chủ đề của nhà nho. Từ năm 1929 – 1935 thì chủ đề, đề tài trong sáng tác

của ông có phong phú, đa dạng hơn. Ông quan tâm đến hầu hết đến mọi tầng lớp

trong xã hội. Tuy nhiên, phải đến thời kì Mặt trận Dân chủ, dưới ảnh hưởng của

73

Đảng, Nguyễn Công Hoan đã nhận thức được những vấn đề mang bản chất, sức tố

cáo mãnh liệt, ý nghĩa khái quát hình tượng rộng lớn và sâu sắc hơn. Đặc biệt giai

đoạn 1936 – 1939 xuất hiện đề tài khá mới. Ông viết về người công nhân, về đề tài

chính trị, phát hiện ra bản chất ngoan cường bất khuất của người lao động. Có tác

phẩm đã đặt vấn đề giai cấp mang chiều sâu về tầm khái quát, bước đầu xây dựng

được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.

3.2.2.1. Hệ thống chủ đề, đề tài về quan lại, cường hào, địa chủ, tư sản…vô

lương tâm, giả đạo đức.

Đây là mảng đề tài chiếm tỉ lệ khá cao trong sáng tác của nhà văn Nguyễn

Công Hoan. Ông vạch mặt bọn quan lại tham ô, hống hách, bọn người mất nhân

cách. Đó chẳng qua chỉ là bọn ăn cướp.

Giai đoạn từ 1925 đến 1935, Nguyễn Công Hoan kế thừa mạch cảm hứng

trong thơ trào phúng thế kỉ XIX, đặc biệt là thơ Trần Tế Xương. Ông dựng lên

nhiều hình tượng mang tính hài, mức độ phản ánh hiện thực trong sáng tác của ông

khá sâu sắc.

Tuổi ấu thơ sống trong tri phủ, Nguyễn Công Hoan nghe đủ mọi chuyện,

chuyện quan Tây, quan Ta, chuyện quan nha tổng lý, chuyện hàng phố, chuyện dân

quê, chuyện dối trên lừa dưới, chuyện trai gái bịp bợm…Vì thế ngay từ buổi thanh

niên, Nguyễn Công Hoan đã mang tâm trạng căm ghét bọn thực dân tàn ác, bọn

quan lại tham nhũng dâm ô, bọn nhà giàu lừa đảo bất lương, bọn xu nịnh luồn cúi

hèn hạ. Ông nói: “Tôi xúc động nhất những tấn bi kịch, hài kịch diễn ra ở cửa

quyền. Tôi rất thích chú ý những cảnh thối tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn mưu mô

làm tội ác trong giới những người có thể lực, có địa vị” [25/281].Tác phẩm của

Nguyễn Công Hoan luôn đầy ắp những hình ảnh thực, đậm chất sống của cuộc đời.

Ông phơi bày bản chất xấu xa, vô trách nhiệm của bọn quan lại bằng nghệ thuật trào

phúng khá đặc sắc.

Trong lĩnh vực truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan luôn chú ý tạo tình huống,

những biến cố gây cười. Ông tiếp thu nghệ thuật cường điệu, phóng đại trong văn

học dân gian. Vì vậy, tiếng cười trong sáng tác của nhà văn gần với cái cười của

74

nhân dân.

Viết về đề tài bọn quan lại, địa chủ, … ngòi bút của Nguyễn Công Hoan gần

với ngòi bút của nhà nho hơn cả. Ông lên án bọn người áp bức trên phương diện đạo

đức phong kiến, sự vô trách nhiệm của bọn người cầm cân nảy mực trong xã hội.

Trước Nguyễn Công Hoan, các bậc túc nho thường day dứt về vấn đề đạo đức

suy đồi, về nhân tình thế thái. Nối tiếp mạch cảm hứng ấy, Nguyễn Công Hoan đã

viết hàng loạt tác phẩm để phanh phui bộ mặt giả đạo đức, lối sống trụy lạc trong xã

hội cũ. “Báo hiếu: trả nghĩa cha”, “Báo hiếu” trả nghĩa mẹ”, “Thế là mợ nó đi Tây”,

“Đàn bà là giống yếu”, “Một tấm gương sáng”, … là những truyện ngắn viết vào

đầu những năm 30 và được in trên mục “An Nam nhị thập thế kỉ xã hội ba đào kí”.

Vấn đề về sự suy đồi của đạo đức, nhân cách được Nguyễn Công Hoan đặt ra

một cách ráo riết. Mỗi truyện là một vấn đề nhức nhối của thời đại. Bằng ngòi bút

hiện thực, ông vạch toạc những sự thật đau lòng của một xã hội mục nát, rởm hợm

đang được che đậy bởi vẻ hào nhoáng. Những câu chuyện thực được dẫn dắt bằng

lối kể hài hước đã đem đến chiều sâu cho tiếng cười phê phán. Đó là tiếng cười mặn,

lạt, chua, cay, có sức công phá hơn cả những lời kêu ca than vãn.

Đọc tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, người đọc không thể quên hình ảnh

một đám tang linh đình giữa phố. Đứa con trai “hiếu thảo” của người mẹ góa báo

hiếu bằng cách tổ chức đám tang uy vệ cho mẹ. Người con dâu khóc lóc thảm

thương thành ra ốm yếu. Nhưng ông trời độc địa chẳng cảm được nỗi đau của

những đứa con mất mẹ. Ai chứng kiến đám tang đó cũng phải “khen người hiếu chủ

đã khéo trả nghĩa mẹ. Mà nhất là trông thấy người ấy, ta lại càng khâm phục cái

bụng hiếu thảo, không bờ bến”.

Lời văn giễu nhại của Nguyễn Công Hoan đã lột cái vỏ hào nhoáng để trơ ra

cái giả dối, cái lố bịch, cái đáng cười. Bản chất vô lương tâm của một tên nhà giàu

được che đậy bằng tấm lòng hiếu nghĩa của hắn. Người mẹ đáng thương không phải

do thụ bệnh mà chết. Chỉ con vú và thắng Quýt mới biết bà vì: Uất lên mà chết?

Thắt cổ? Hay uống phải thuốc độc?

Nguyễn Công Hoan đã dụng công dựng lên một “thế giới lộn ngược” nhằm

75

mục đích chế giễu, phê phán xã hội thực dân phong kiến với quá nhiều nghịch cảnh,

quá nhiều sự đảo lộn trật tự và giá trị. Ông chú ý đến sự đối lập có tính bản chất để

tạo tiếng cười.

Hầu hết tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, cái thật được thể hiện thông qua

lăng kính của cái hài. Đây là đặc trưng của văn châm biếm. “Một mặt, văn châm

biếm muốn tái hiện thực tế, phát hiện môt cách hiện thực những thiếu sót và mâu

thuẫn của các hiện tượng trong cuộc sống, nhưng đồng thời sức mạnh của sự phản

kháng và sự bất bình lên cao tới mức nó dựng lại các hiện tượng đó, phá vỡ tỉ lệ,

chế giễu chúng, miêu tả chúng dưới hình thức hoạt kê, méo mó, lố bịch, kì quái để

nhấn mạnh tính chất không thể thừa nhận được của chúng” [49/209].

Như chính nhà văn tự nhận, sở trường của Nguyễn Công Hoan là viết về cái

xấu. Trong cuốn “Đời viết văn của tôi” ông bộc bạch: “Bởi vì tôi vốn bi quan nên

nhìn mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu dễ nhập tâm hơn

phía tốt. Cho nên tôi nhớ rất kĩ”. Viết về cái xấu trong xã hội không nhằm giễu cợt,

chê bai, không bẳng thái độ bàng quan của người ngoài cuộc. Nguyễn Công Hoan

viết bằng cả tấm lòng, bằng những giọt nước mắt. Hoài Thanh nhận xét: “Văn của

Nguyễn Công Hoan xem mệt mà có ích. Văn như thế xem khôn người ra” [18/265].

Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan luôn có tiếng cười xen lẫn nước mắt. Cái

cười được tạo ra bằng ngôn ngữ trào phúng, bằng sự đối lập giữa bản chất và hiện

tượng, giữa nội dung và hình thức. Nhà văn đã lật tẩy mặt trái của xã hội qua mảng

đề tài viết về bọn nhà giàu. Ngòi bút trào phúng kết hợp với phê phán tạo cho tác

phẩm giá trị hiện thực sâu sắc.

3.2.2.2. Chủ đề, đề tài về người nghèo trong xã hội.

Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm là giọt nước mắt cảm thông cho

những cảnh đời, những kiếp người thê thảm trong xã hội. Ông nói: “Tôi không thể

nào yên tâm trước những nỗi thống khổ của người nghèo, bị bọn nhà giàu dùng thế

lực, địa vị mà áp bức bóc lột. Người nghèo của tôi không cứ chỉ là nông dân mà là

76

bất cứ một hạng người nào không có tiền, bị lép vế trong xã hội” [25/281].

Ở mảng đề tài về người nghèo, tác giả đã đồng cảm với nhiều lớp người

trong xã hội, từ nông dân cho đến những người đi ở, từ những người kéo xe, kép hát

đến những kẻ ăn cắp, người hát xẩm, thậm chí cả gái điếm,…

“Hai thằng khốn nạn” không chỉ là sự khốn nạn về vật chất mà còn là sự

khốn nạn về tâm hồn của một tên nhà giàu vô lương tâm.

Gia đình bác Lan cũng như bao gia đình nông dân khác chịu cảnh bêu rếch,

khổ sở vì đê vỡ. Tai bay vạ gió ập đến khiến gia đình bác tan nát, chia li. “Cái cảnh

gà sống không còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng”. Tài sản duy nhất và có

giá trị nhất với bác lúc này là đứa con trai mới biết ngồi. Bác khóc cho sự nghèo đói

và túng quẫn. Cái dạ giày lép kẹp của hai cha con khiến buộc bác phải quảy đôi

quang, gánh thằng bé lang thang hết làng này sang làng khác để giao bán. Được

người ta mách đến nhà ông Nghị Trinh hiếm hoi may ra ông ấy mua cho.

Nhưng cảnh không như bác nghĩ. Cái giọng hách dịch và vô lương tâm của

hắn được bộc lộ qua hành động bớt tiền vì lưng thằng bé có nhiều nốt ruồi…

Nguyễn Công Hoan luôn đặt ra những tình huống đối lập nhau, tạo chiều sâu

cho tác phẩm. Người đọc cảm thông cho người nghèo khổ bao nhiêu thì căm ghét

bọn nhà giàu bất lương bấy nhiêu. Truyện được viết dưới hình thức tương phản

nhằm phơi bày bản chất xấu xa của tên địa chủ, đồng thời xót xa cho số phận của

người dân.

Nguyễn Khắc Hiếu nhận xét: “Lối văn chép chuyện thời ông ta được đến

những chỗ đau đớn của người đời, chuyện như bịa chơi mà trò đời thường có”.

Cảnh chìm nổi của những kiếp người trong xã hội ba đào thật đáng thương.

Nguyễn Công Hoan đã viết bằng cả tấm lòng, tình cảm. Qua sự cảm thông, chia sẻ,

thương xót, nhà văn còn lên tiếng tố cáo bọn người chuyên bóc lột, đục khoét.

Người nông dân được đưa vào tiểu thuyết và gây thanh dư luận đánh dấu sự

thành công của cây bút hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan.“Bước đường cùng”

là nỗi khổ của người nông dân bị địa chủ, quan lại bóc lột. Nguyên nhân nỗi khổ tuy

chưa được nhà văn nhìn nhận chính xác (tất cả do dốt mà ra), song ở họ đã có ý

77

thức đấu tranh chống áp bức theo quy luật tất yếu của cuộc sống.

Bên cạnh đề tài tố cáo bọn quan lại, nhà giàu, sự đồng cảm với người nghèo,

sáng tác của Nguyễn Công Hoan còn lên án lối sống rởm hợm của tầng lớp trung

lưu, những con người ảnh hưởng lối sống đồi trụy phương Tây.

3.2.2.3. Chủ đề, đề tài về tầng lớp trung lưu, những người chịu ảnh hưởng lối

sống phương Tây.

Hệ thống chủ đề, đề tài trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách

mạng khá đa dạng và phong phú.

“Oẳn tà roằn”, kể về một cô gái mười tám tuổi, tên Nguyệt. Vì ăn nằm với

nhiều người nên không biết ai là cha của đứa trẻ trong bụng. Cô đóng kịch với

Phong và Bắc, dọa tự tử, uống thuốc thôi thai. Được sự an ủi của hai người, cô giữ

lại cái thai và tưởng thế là yên chuyện. Nhưng điều bất ngờ, thú vị mà cả nhân vật

chính và người đọc không ngờ tới nằm ở phần kết. Nguyệt sang nhà hộ sinh ở Bắc

Ninh để che mắt thiên hạ. Đứa con thứ hai này được những “ông bố” lần lượt đến

thăm. Đầu tiên là hai chàng công tử, mặc áo Tây. Họ rúc rích nhìn nhau cười và đi

ra. Tiếp đến là Phong, rồi sau cùng là Bắc. Anh là người hồ hởi đón nhận đứa con

nhiều nhất, nhưng cuối cùng phải thở dài, thất vọng. Thì ra thằng bé “không phải là

con Rồng cháu Tiên. Nó là giống “oẳn tà roằn” không biết chống gậy”. Nguyễn

Công Hoan vạch trần lối sống trụy lạc, hư đốn của một hạng đàn bà trong xã hội

thực dân nửa phong kiến.

Nguyễn Công Hoan luôn chú ý đến cách kết truyện độc đáo. Tình huống bất

ngờ của truyện tạo tiếng cười cho độc giả, nhưng ngay sau tiếng cười thường kéo

theo những giọt nước mắt khóc cho nhân tình thế thái.

“Những cái đạo đức, luân lí, tình ái mà trước họ cho là thiêng liêng cao quý

lắm, thì ngày nay đã hóa ra một bức màn che đậy biết bao sự thối tha, hèn mạt ở

trong” (Hải Triều). Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan phơi bày toàn những chuyện

lố lăng, lừa bịp trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

“Thế là mợ nó đi Tây” được viết dưới hình thức những lá thư, bày tỏ nỗi

lòng người xa xứ, cảnh vợ xa chồng, mẹ xa con của nhân vật Tuyết Anh- người

đang du học tại Pháp. Tám bức thư đầu là những dòng cảm xúc đầy nước mắt.

78

Người đọc như đựơc chứng kiến sự “tan nát cõi lòng” của Tuyết Anh. “Nếu biết

trước rằng cảnh li biệt nó xé tan nát ruột gan tôi như thế này thà cứ chịu ở nhà dạy

học, đỡ cậu mỗi tháng ba bốn chục lương thì được gần gụi gia đình sớm tối vui thú

với cậu, với con, việc gì đòi xuất dương du học, đến nỗi bây giờ vất vả một mình,

thân gái dặm trường, khóc thầm với bóng!”. Mỗi bức thư nhân lên một niềm nhớ. Cô

thương chồng vất vả nuôi mình ăn học, cảm cái ơn trời bể vì chồng đã chu toàn việc

ma chay cho mẹ. Cô hứa sẽ “đem tiếng thơm về” để đền ơn trả nghĩa cho chồng. Và

“nếu kiếp luân hồi mà có thực, thì tôi xin cả kiếp sau cũng tìm được cậu để trả nghĩa

cho trọn cái ơn này”. Nhưng bức thư cuối cùng- bức thư thứ chín, sự việc xoay chiều,

đổi hướng. Đó là bức thư tạ tội của người vợ bạc bẽo, phản bội lại chồng khi công

thành danh toại. Cô bỏ chồng con để đi theo người bạn mới đậu y khoa.

Nhan đề của tác phẩm phần nào nói lên ý nghĩa truyện. Hai từ “thế là” tạo ra

nghĩa đen và nghĩa bóng cho việc “đi Tây” của nhân vật chính. Nghệ thuật viết

truyện của Nguyễn Công Hoan được ông ví như việc đánh cá bằng lờ. “Câu kết

truyện của tôi là cái lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột”. Văn Nguyễn Công

Hoan hấp dẫn người đọc bởi những biến cố, những tình huống bất ngờ. Qua việc

“đi Tây” của Tuyết Anh, ông vạch trần sự vô ơn bạc nghĩa của con người. Họ luôn

đeo mặt nạ để lừa bịp lẫn nhau.

Trong xã hội thực dân nửa phong kiến xuất hiện nhiều loại người với nhiều cách

làm ăn khác nhau. Bên cạnh loại người hư hỏng, ảnh hưởng lối sống phương Tây còn

có bọn công chức, lương cao bổng hậu, nhờ đế quốc mà ngoi lên. Ông tố cáo sự hiếu

danh mà ngu xuẩn của bọn có tiền, những cách thức làm ăn bịp bợm của bọn chủ báo

(“Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo”, “Ông chủ báo chẳng bằng lòng”).

Nguyễn Công Hoan chú ý đến hầu hết tầng lớp trong xã hội. Bên cạnh mảng

đề tài lên án, tố cáo bịn nhà giàu, phê phán tầng lớp trung lưu, cảm thông với người

nghèo khổ, Nguyễn Công Hoan còn lên tiếng phản đối chiến tranh, những chính

sách lừa bịp củ bọn thực dân.

3.2.2.4. Hệ thống chủ đề chống chính sách của bọn thực dân, chống chiến tranh

Hệ thống chủ đề, đề tài này mang tính chính trị, chỉ xuất hiện trong thời kì

79

Mặt trận Dân chủ (1936- 1939).

Dưới ảnh hưởng của Đảng, của phong trào đấu tranh cách mạng, Nguyễn

Công Hoan đã hướng ngòi bút vào vấn đề mới, có ý nghĩa lớn lao với toàn dân tộc.

Đó là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chống phát xít. Sáng tác của

Nguyễn Công Hoan mang đậm không khí cách mạng.

Ông thẳng tay tố cáo những chính sách bịp bợm, xảo quyệt, nhằm ru ngủ

quần chúng của bọn thực dân. Chính sách của chúng chẳng khác những trò hề trong

xã hội.

“Đào kép mới” viết bằng giọng giễu nhại tên vua bù nhìn nhằm phê phán bọn

vua quan phong kiến và thực dân. Gánh hát trương ra những dòng quảng cáo rầm rộ

về sự đổi mới của mình. Rạp đông hẳn bởi ai cũng muốn thử xem tài đào kép mới,

tích hát mới. Nhưng rồi người ta lắc đầu với nhau. Họ kéo về vì biết mình bị lừa. Vẫn

những con người ấy, chỉ khác họ bỏ râu ria đi và thay vị trí ngồi của mình.

Truyện tố cáo triều đình Bảo Đại. Đó thực chất chỉ là lũ đào kép bôi mặt lại,

đổi vai cho nhau.

“Chính sách thân dân” được khai thác trên cơ sở mâu thuẫn giữa lời nói và

việc làm, giữa bản chất và hiện tượng. Tờ sức với những lời lẽ ngọt ngào của tên

quan phụ mẫu Lê Thăng khiến cho dân chúng phải nghi ngờ. Họ chẳng dám tin vì

trước kia người ta đã chịu nhiều vố cay đắng vì những lời ngọt ngào như thế rồi.

Đúng như sự hoài nghi của dân chúng. Chính sách thân dân chỉ là cách moi

tiền mới của tên quan phụ mẫu. Mỗi khi có ai qua đời, phải báo tin cho quan phụ

mẫu để ngài viếng thăm. Nhưng tiền đi lại, đón rước, tiền chơi bời cũng đủ khổ cho

người dưới quyền, cho người dân nghèo trong xã hội.

Không ít những trò lố bịch diễn ra hàng ngày trong xã hội thời Nguyễn Công

Hoan. “Tinh thần thể dục” tố cáo phong trào vui vẻ chung của thực dân, bắt người

dân đi xem bóng như một cuộc truy lùng tội phạm khiến cho người dân bỗng dưng

lâm vào cảnh “trốn như trốn giặc”. Chúng lợi dụng phong trào thể thao để ru ngủ

quần chúng , làm họ lãng quên nhiệm vụ cứu nước.

Câu chuyện vẽ lên cảnh cực khổ của nông dân khi bị lí trưởng bắt đi xem

bóng đá. Người ta van xin, đút lót để được tha. Người ta đặt cành cau lên bàn xin

80

cho chồng ốm nghỉ. Người thì khấm ba hào để được ông lí cho phép thuê người đi

thay con trai. Nguyễn Công Hoan đã tố cáo trực tiếp chính sách bịp bợm của bọn

thực dân.

Bên cạnh chủ đề chống chính sách của bọn thực dân, thời kì Mặt trận dân

chủ, nhà văn còn quan tâm tới chủ đề chống chiến tranh phát xít.

Trong truyện “Chiến tranh”, Nguyễn Công Hoan tố cáo sự tàn ác đến lạnh

người của quân phát xít. Chúng sẵn sàng xả súng vào những binh sĩ bị thương,

những người dù được chữa trị khỏi nhưng không còn khả năng ra trận. Nét mặt bình

thản, dí súng vào thái dương những binh sĩ thể hiện sự vô lương tâm, vô nhân đạo

của bọn phát xít.

Nhìn chung, hệ thống chủ đề, đề tài trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan

đầu những năm 30 phong phú, đa dạng, gần với mối quan tâm của nhà nho, đặc biệt

có sự gần gũi về đề tài trong thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

3.3. Hình tƣợng nhân vật.

Thế giới trong tác phẩm của ông là một thế giới thực- thế giới của người thực,

việc thực , với nhiều loại khác nhau như: quan lại, người nghèo...

Hình tượng nghệ thuật luôn giữ vị trí quan trọng và trở thành một trong

những vấn đề trung tâm của tác phẩm. Hình tượng là bóng dáng của hiện thực.

“Hình tượng nhân vật không phải là sự bừng sáng đột xuất trong tâm hồn

nhà văn. Nó không nảy sinh một cách bất ngờ, chớp nhoáng. Nó ra đời là do sự nỗ

lực hoạt động sáng tạo của nhà văn trong quá trình thâm nhập, phản ánh nội dung

khách quan của cuộc sống và biểu thị những suy nghĩ, tình cảm của mình về cuộc

sống đó” [16/287].

Hình tượng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng

thể hiện rõ sự đan xen, hòa quyện giữa bút pháp trào phúng và hiện thực.

3.3.1. Hình tượng nhân vật trào phúng.

Trong chuỗi cười dân gian có rất nhiều nhân vật trào phúng nhưng kết tinh

cao hơn cả là ở Trạng Quỳnh. Cái cười trong truyện “Trạng Quỳnh” được khai thác

ở phía cạnh phi lí, quá đáng của con người.

Đến văn học nhà nho, hầu như hình tượng nhân vật trào phúng không xuất hiện.

81

Ngay cả thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến nhân vật trào phúng khá mờ nhạt.

Trong chuỗi cười cay độc của Trần Tế Xương có sự xuất hiện hàng loạt chân

dung trào phúng đặc sắc. Đó là hình tượng của bà đầm, ông cử, … Tuy nhiên, do hạn

chế về thể loại, về lập trường và về hệ quy chiếu, nhân vật trào phúng của Trần Tế

Xương chưa có sự khái quát cao độ như các nhân vật trào phúng trong văn xuôi, đặc

biệt trong chuyện ngắn trào phúng và tiểu thuyết hoạt kê những năm 30 của thế kỉ XX.

Hình tượng nhân vật trào phúng trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan kết

tinh chủ yếu ở nhân vật phản diện, mà chủ yếu là ở quan lại, địa chủ, tư sản tàn ác.

Hình tượng nhân vật trào phúng được dựng lên thông qua việc miêu tả ngoại

hình. Đó là bọn nhà giàu, béo phị. Béo vì đó là bọn người chuyên ăn bẩn.

“Hai thằng khốn nạn”: hình tượng nhân vật Nghị Trinh được miêu tả: “Một

người mặt mũi phương phi, cổ dụt, bụng phệ, môi trễ mà không râu”.

Trong truyện “Báo hiếu: Trả nghĩa cha”, hình tượng nhân vật vợ chồng tên

tư sản được khắc họa bằng ngòi bút trào phúng: “Hai ông bà cùng béo tốt đẹp đẽ,

nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái

hộp, tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với

bộ ria sửa khéo như vẽ”.

Nguyễn Công Hoan có ác cảm với bọn quan lại, bọn nhà giàu từ tấm bé. Khi

miêu tả chúng, ông sử dụng biện pháp cường điệu, phóng đại thường thấy trong văn

học trào phúng nhằm tô đậm bản chất xấu xa, độc ác của bọn nhà giàu. Chúng xấu

cả về ngoại hình lẫn tâm hồn. Từ quan ông đến quan bà.

Nhân vật phản diện trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan luôn có sự tương

đồng giữa nội dung và hình thức. Một bản chất xấu luôn đi kèm với một gương mặt

xấu. Đây là khuôn mặt bà Phủ trong truyện ngắn “Đàn bà là giống yếu”- “Người ta

tưởng đó là chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và ngay đầu

quả chuối nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp

với cặp mắt híp…”.

Ấn tượng xấu về bọn nhà giàu theo ông suốt chặng đường dài sáng tác. Thậm

chí cả khi Nguyễn Công Hoan đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực phê phán.

Ở “Bước đường cùng” khi tả quan phụ mẫu, bút pháp trào phúng in khá đậm:

82

“Ngài cúi mặt xuống cả tấm thịt chèn lên quai hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó

vẽ lên một nét răn chia má làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phính và nung núc

những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi giá chỉ mũi kim nhỏ lỡ đụng vào là có

thể làm chảy ra hàng lít nước nhờn mà ta quen gọi là mỡ”.

Nguyễn Công Hoan dựng lên hình trượng trào phúng sinh động, nhằm tố cảo

bọn quan lại ăn bẩn.Có thể nói hình tượng nhân vật trào phúng chiếm tỉ lệ khá cao

trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng.

Hình tượng nhân vật trào phúng của Nguyễn Công Hoan luôn được dựng lên

bằng thủ pháp cường điệu, phóng đại. Về hình thức, đứa nào cũng béo chụt chịt. Về

phẩm chất và nhân cách, chúng đều là một bọn tàn nhẫn, vụ lợi, dâm ô. Nhà văn tô

đậm nét xấu xí, kì quái của nhân vật nhằm thể hiện sự tương xứng với bản chất bỉ ổi,

xấu xa của bọn người lòng lang dạ thú. Ở chúng “cái gì cũng cong cong, từ cái

sống mũi đến cái lương tâm, từ cái lương tâm đến cách xử kiện. Chúng hết sức

trâng tráo”. Những người cầm cân nảy mực trong xã hội thời Nguyễn Công Hoan

quan niệm: “Đi kiện thầy không nên cậy có lẽ phải. Lý thì làm gì. Một ông quan xử

kiện mà phải dựa vào luật là một ông quan kém” (Cái thủ lợn).

Bên cạnh việc xây dựng hình tượng nhân vật trào phúng bằng cách tô đậm

ngoại hình xấu xí, kì quái, Nguyễn Công Hoan còn chú ý tới lời ăn, tiếng nói, cử chỉ

và hành động đê tiện của bọn quan lại, địa chủ, tư sản.

Lời lẽ của bọn quan lại bao giờ cũng hách dịch, sặc mùi tiền bạc.

Bản chất của tên quan phụ mẫu được thể hiện đầy đủ ở cả anh Pha trước

công đường trong “Bước đường cùng”.Sau khi đọc thư của Nghị Lại, quan hỏi:

Đâu? Anh Pha chẳng hiểu gì.

Quan cau mặt.

Vào quan không có lối nói bằng nước rãi …

Quan quắc mắt:

Nghèo thì bước! Xét cái con mẹ mày, làm mất thì giờ của ông …

Từ ngoại hình đến tâm địa, bọn quan lại đều xấu xa, tàn ác.

Vốn hiểu biết nhiều người trong xã hội, ông nhìn thấu tâm can chúng. Nhờ

vậy, dù sử dụng nhiều thủ pháp phóng đại nhưng tác phẩm của ông vẫn rất hiện

83

thực, mang hơi thở của cuộc sống, của thời đại.

3.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình.

Bên cạnh thành công của nhân vật trào phúng, Nguyễn Công Hoan còn xây

dựng được nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, vươn tới sự thành công

của ngòi bút hiện thực phê phán 1930- 1945.

Năm 1935, Nguyễn Công Hoan viết truyện dài “Bà chủ”. Tác phẩm như

hồi chuông phản tỉnh con người về sự băng hoại đạo đức, đồng thời ít nhiều thể hiện

được sự vận động của tính cách nhân vật và sự tác động của hoàn cảnh trong việc

hình thành tính cách.

Phần đầu truyện viết về “công việc của ban chấn hưng đạo đức”.

Những tưởng đó là một vấn đề trang nghiêm nhưng thực chất lại “chấn

hưng” tình yêu trai gái, thứ tình cảm tất yếu của con người.

Nhân vật Thanh, vốn là con nhà mõ. Chị bị bắt vì chót tâm sự với người yêu

trong đêm tối. Chị được bà trưởng ban dạy dỗ, chỉ bảo để khỏi bị mang tiếng xấu.

Cuộc đối thoại của bà trưởng ban và Thanh thể hiện rõ tính chất trào phúng.

Bà đưa ra câu hỏi hết sức vô lý (Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, hầu hết

những cuộc đối thoại đều mang yếu tố trào phúng).

“Chị yêu anh ấy, Tại làm sao chị lại yêu anh ấy?

Bẩm bà tại anh ấy yêu con.

Không được, thế đời này chị quý nhất cái gì?

Bẩm con quý nhất anh ấy. Ồ, Chị này mê muội quá. Đàn bà con gái gì quý bằng

chữ trinh chữ tiết. Người ta bảo chữ trinh đáng giá nghìn vàng, chị có nghe thấy

câu ấy không? …”

Bà trưởng ban Chấn hưng đạo đức dạy chị phải giữ cho được hai chữ “trinh

tiết”. Nhưng thực chất bà lại là người leo lên chức trưởng ban bằng việc bán rẻ

nhân cách cho cụ Chánh hội.

Thanh nhận ra rằng: “Sở dĩ bà ấy là trưởng ban đạo đức chẳng qua chỉ tại

bà ấy nhân tình với cụ chánh hội …”. “Thì ra ban ngày bà ấy giảng đạo đức trinh

tiết cho cháu nghe, mà đến tối thì cụ Chánh hội lại đến với bà ấy”.

Công việc chấn hưng của bà chỉ là cái vỏ che đậy cho hành động xấu xa, bỉ

84

ổi. Vì thế bà càng cố gắng “trau dồi đạo đức” cho Thanh thì càng ngày Thanh càng

xa đọa: “Cô coi việc mỗi tối đến nhà bà trưởng ban nghe thuyết trình là một cơ hội

tốt để gặp người yêu”.

“Việc bà nói để lấy tiền thì bà cứ nói, mà việc nghe để lấy tiếng thì em cứ

nghe”. Tất cả chỉ là trò dối trá, lừa bịp để che đi những hành động đê tiện …”.

Thanh hiểu rằng: “Ở đời này cứ thật thà mãi sao được”.

Từ môt cô gái thôn quê với tình yêu đích thực, cô đánh mất mình, trở thành

một người đàn bà sa đọa về đạo đức, xói lở về tâm hồn, tình cảm.

Cuộc đời khiến cho Thanh hiểu hết những mánh khóe. Thanh leo lên bậc

thang xã hội một cách nhanh chóng nhờ vào sự hư hỏng của bản thân. Thanh trở

thành bà lớn. “Thanh ngẫm nghĩ lại cái đoạn đời bé con ở nhà quê sao nó buồn tẻ,

hủ lậu thế. Giá Thanh không hư một dạo thì làm gì có lúc này được sung sướng,

danh giá, văn minh”.

Từng ăn nằm với anh bếp, rồi trở thành người yêu của một cậu sinh viên

trường luật, Thanh ngang nhiên bước vào xã hội thượng lưu. Cô học nhảy đầm,

đóng kịch. Bây giờ Thanh không còn là con bé quê mùa. Người ta gọi Thanh là bà

thượng lưu khuê các, bà Bạch Tuyết. Thanh trở nên danh giá. Cô sẵn sàng bỏ sinh

viên trường luật vì lý do “Trăm hai một tháng làm sao đủ tiêu được, … mà hắn có

mẹ già, mình thích tự do, chịu sao nổi”.

Thanh dùng mọi cách để tiếp xúc với chú bá chín Sềnh - một người Trung

Hoa giàu có. Đối với Thanh ái tình chẳng có nghĩa lý gì mà cái quan trọng hơn cả là

tiền!

Thanh và Cát gặp nhau, hai người có bản chất khá giống nhau: “Tôi cũng

như anh, ta chỉ lăm le dùng ngọn lưỡi để lừa phường ngu dại …”

Hoàn cảnh xã hội đã xua đẩy con người đến những bến bờ không lường

trước được, từ cô bé quê mùa chất phác với tình yêu trong trắng ngây thơ Thanh trở

thành gái giang hồ, thành chủ tư bản nhờ những mánh khóe lừa lọc.

Thanh tâm sự với một nhà văn: “Trái tim của em đã bị em mang đi cho

người ta nhiều lần bây giờ nó thành chai ra rồi chỉ có vàng bạc mới vạch cho nó

85

thành vết được”.

Xã hội đã nhào nặn ra Thanh- cô thành điển hình cho một loại người trong

xã hội thực dân nửa phong kiến.

Thanh vốn con nhà mõ, vì chửa hoang bị làng đuổi đi. Nhưng bây giờ cô trở

nên giàu có. Cô về làng được “người ta quý, người ta trọng, người ta kính. Người

ta tin Thanh gọi Thanh là bà chủ”. Thanh được dân làng trọng vọng, cung kính và

trở thành một bà chủ đứng đắn, nghiêm trang.

Kết thúc tác phẩm, Nguyễn Công Hoan viết: “Phải, chính bà chủ đã thắng

trận trên một chiến địa kim tiền”.

Đồng tiền tha hóa con người, đồng tiền len lỏi vào

“Bước đường cùng” được coi là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Tác

phẩm lần đầu tiên dựng lên được hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh

điển hình.

Nằm trong mạch tố cáo quan lại, bọn địa chủ, nhà giàu, “Bước đường cùng”

đã xây dựng được nhân vật phản diện mang tính điển hình, đó là hình tượng nhân

vật Nghị Lại- một hình tượng nhân vật địa chủ khá thành công.

Từ ngoại hình đến đời sống nội tâm của Nghị Lại được miêu tả cụ thể: nước

da xanh mét và cặp môi thâm sịt của dân nghiện … lão chẳng có mấy chữ nghĩa và

rấ keo bẩn.

Trong tác phẩm, Nguyễn Công Hoan đã xoáy sâu vào tội ác cướp đoạt

ruộng đất của giai cấp địa chủ. Chúng chiếm đoạt ruộng đất của nông dân bằng mọi

cách. Đặc biệt, đến đây bọn địa chủ đã biết kết hợp với thực dân để đàn áp dân

nghèo. Nguyễn Công Hoan đã phơi trần bản chất chính trị phản động của chúng

bằng ngòi bút hiện thực.

Bên cạnh việc tố cáo địa chủ, vấn đề số phận của người nông dân được đặt

ra một cách cấp thiết. Nhân vật anh Pha đại diện cho người nông dân trong xã hội

cũ, bị tước đoạt hết ruộng đất, bị dồn đến bước đường cùng. Không lối thoát, họ

phải vùng dậy đấu tranh đòi công lí. Hành động phản kháng của anh Pha thể hiệ cho

quy luật “có áp bức có đấu tranh” trong cuộc sống. Anh trở thành hình tượng nhân

vật chính diện thành công duy nhất trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước

86

Cách mạng.

Tính cách nhân vật Pha có sự vận động phát triển. Mở đầu tác phẩm là hình

ảnh của một người nông dân khúm núm, sợ sệt. Kết thúc truyện là một con người

mạnh mẽ, dám vùng lên chống lại quan Nghị Lại.

Tâm lý và hành động nhân vật luôn có sự vận động theo các tình huống truyện.

Lần đầu ở công đường, đứng trước quan phụ mẫu, anh run rẩy, nói lắp ba

lắp bắp. Khi đến nhà Nghị Lại, bao căm hờn uất ức đều tan biến. Anh lại sợ quan

như thường. Nghị Lại ngày một tàn ác hơn khiến anh Pha và nhiều người nông dân

khác phải khổ cực. Pha không còn nhút nhát như trước. Anh thề sẽ chống lại đến

cùng. Trước lời dọa nạt của Phát, người làm thuê cho Nghị Lại, Pha nói: “Anh trình

quan giời tôi cũng không cần”. Tính cách nhân vật đến đây có sự chuyển biến rõ rệt.

Đỉnh cao của sự phát triển tính cách tập trung ở đoạn Nghị Lại dẫn lính đến ruộng

lúa nhà Pha. Pha run bắn người lên không phải vì sợ như những lần đối diện với

quan, mà vì sự căm giận, sự uất ức. “Anh vớ được chiếc đòn càn xông vào Nghị Lại

phang một cáu thật mạnh vào đầu- Đồ ăn cướp!”.

Anh Pha không còn là người nông dân cam chịu. Anh nhận ra rằng nguyên

nhân cái khổ là do dốt (đó là điểm hạn chế của Nguyễn Công Hoan). Quá trình

chuyển biến tư tưởng của nhân vật anh Pha từ con người nhút nhát cả tin, sợ và con

Nghị Lại như một ân nhân đến một con người có suy nghĩ mạnh bạo, thù ghét và

đánh Nghị Lại. Quá trình ấy tuy ngắn ngủi nhưng là một quá trình tất yếu. Anh đại

diện cho người nông dân bước đầu có ý thức về sự nghèo khổ của mình. Họ đã biết

đoàn kết nhau để chống lại bọn địa chủ cường hào.

Với việc xây dựng được những nhân vật điển hình tuy chưa được sâu sắc

nhưng phần nào đã đánh dấu được sự thành công của ngòi bút hiện thực phê phán

Nguyễn Công Hoan.

3.4. Hệ thống ngôn ngữ- thể loại.

3.4.1. Ngôn ngữ.

“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki) và là một trong những

tiêu chí để định giá tác phẩm. Ngôn ngữ cũng thuộc phạm trù lịch sử và vận động

87

mang tính quy luật.

Trong văn học nhà nho, ngôn ngữ mang đậm yếu tố ước lệ tượng trưng. Đến

thời đại của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, ngôn ngữ thuộc phạm trù cái bi, cái

hài lấn át ngôn ngữ phạm trù cái cao cả. Cái hài gắn với sự nhận thức và đánh giá

hiện thực thông qua cái cười. Ngôn ngữ trào phúng xuất phát từ cái nhìn và thái độ

đối với cuộc sống. Đỉnh cao trong thơ trào phúng là Trần Tế Xương. Ông được coi là

người nghệ sĩ có tài quan sát thế giới bên ngoài, nắm bắt được cái thần của nó để tái

hiện cuộc sống bằng những hình tượng sinh động dưới biệt tài sử dụng ngôn ngữ.

Đến những năm hai mươi của thế kỉ trước, với sự xuất hiện các thể loại mới

trong văn học, đặc biệt là kịch, tiểu thuyết và truyện ngắn, ngôn ngữ đã đem đến

những thành tựu mới cho văn học Việt Nam hiện đại. Kế thừa cách nói gần gũi,

giản dị trong văn học dân gian và lối nói thẳng, sắc trong thơ trào phúng của Trần

Tế Xương, văn học hiện đại ra mắt công chúng với một lối nói mới, gần với lời ăn

tiếng nói của người dân.

Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu của giai đoạn đầu

thế kỉ XX có công trong việc đưa văn học trở về với cuộc sống đời thường bằng

cách phản ánh hiện thực thông qua ngôn ngữ bình dân, suồng sã. Với ông, một

trong những điều quan trọng khi sáng tác là phải “viết làm sao cho câu văn giản dị,

sáng sủa, dễ hiểu cho lỗ tai bình thường của người Việt Nam. Nghĩa là làm thế nào

đặt câu văn như lời nói chuyện, và phải cố làm thế dù đó là một khó khăn cho

người cầm bút mang cố tật ăn nói bằng văn chương”.

Đọc tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, độc giả được tiếp xúc với ngôn ngữ

dân tộc, mà một trong những ấn tượng đầu tiên là: giản dị, trong sáng. Chính điều

này làm cho tác phẩm của ông trở nên sinh động. Nguyễn Công Hoan đặc biệt thành

công trong việc đưa ngôn ngữ bình dân vào ngôn ngữ tiểu thuyết, không ít khi nhà

văn đưa những khẩu ngữ dân gian vào truyện ngắn như: “vắt mũi không đủ đút

miệng”, “đau như hoạn”, …

Với một ngôn ngữ bình dân, suồng sã, nhân vật trong sáng tác của ông mang

lời ăn tiếng nói giống hệt ngoài đời. Nhiều khi ông đưa ngôn ngữ thông tục (“tức

như bò đá”) vào văn chương. Ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan

88

dường là thứ ngôn ngữ muốn san bằng tất cả.

Ngoài việc dùng lối diễn đạt dễ hiểu, ấn tượng của độc giả khi tiếp xúc với

tác phẩm của Nguyễn Công Hoan còn là ngôn ngữ trào phúng. Ông thường dùng lối

giễu nhại ngôn ngữ nhân vật để tạo tiếng cười cho người đọc. Ông đưa hình ảnh so

sánh ví von khiến độc giả có những liên tưởng thú vị. Truyện “Đàn bà là giống

yếu”, ông viết: “Quan ông vừa nói tiếp, vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà:

Một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột”. Hay khi tả khuôn mặt bà Phủ, ông

viết: “Người ta tưởng chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và

ngay đầu quả chuối nằm dài hai múi cà chua …”.

Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan giàu hình ảnh, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ

hiện đại và mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Trong cuốn “Đời viết văn của tôi”, Nguyễn Công Hoan tâm sự: “Tôi nghiệm

thấy rằng khi văn chương mà viết đúng như tiếng nói và lối nói của dân tộc thì nó

hay, nó đứng vững mãi. Bởi vì ngôn ngữ của dân tộc là một thứ ngôn ngữ trường

cửu, ít thay đổi về thời thế. Đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam là văn vẻ giản dị, là

chững chạc nhưng sinh động. Đó là một bài học cho tôi mà do tình cờ, không định,

tôi đã theo ngay từ ngày mới vỡ lòng” [25/121].

Nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thường có ngôn ngữ riêng,

từ bọn lính lệ cho đến quan phụ mẫu, từ nông dân cho tới địa chủ, từ thằng ăn cắp

cho đến người hát xẩm, … tất cả đều được nói bằng ngôn ngữ của chính mình. Điều

này là một trong những yếu tố tạo nên tính khách quan cho tác phẩm. Chẳng hạn,

ngôn ngữ của tên lính lệ trong tiểu thuyết “Bước đường cùng” thể hiện rõ tính hách

dịch của chúng:

Mày định kêu cho cụ tổ mày nghe phải không? Bố mày đánh thì mày phải

câm kia mà!

Bố mày bảo thế nghĩa là bố mày bảo liệu hồn … Quân ngu như lợn …

Bản chất của mỗi hạng người trong xã hội luôn được thể hiện qua lời ăn,

tiếng nói của họ. Bọn quan lại, cường hào, lí trưởng trong tác phẩm của Nguyễn

Công Hoan thường nói bằng ngôn ngữ hống hách như chính bản chất chúng vậy.

Ngôn ngữ của tên Lý Trưởng trong truyện ngắn “Tinh thần thể dục” tiêu

89

biểu cho sự bất nhân của bọn có thế lực trong xã hội thực dân nửa phong kiến: “Hễ

đứa nào láo cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố chúng nó! Việc

quan thế này có chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây

cho ông!”.

Biểu hiện cho sự lép vế của những người nghèo trong xã hội, nhân vật của

Nguyễn Công Hoan thường nói bằng ngôn ngữ riêng của hạng người cùng khổ, bị lệ

thuộc: “Lạy thày, nhà con chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám

đến kêu. Lạy thày, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà

con đi xem bóng đá vội”.

Có thể nói, hệ thống ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sự

kế thừa ngôn ngữ trong văn chương truyền thống, đặc biệt trong văn học dân gian

và thơ trào phúng, đồng thời đã đánh dấu sự trưởng thành của ngôn ngữ trong văn

xuôi hiện đại. Đó là ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, một ngôn ngữ

giản dị và trong sáng.

Dấu ấn truyền thống và hiện đại in đậm trong sáng tác của Nguyễn Công

Hoan trước Cách mạng không chỉ thể hiện ở lí tưởng thẩm mĩ, chủ đề, đề tài, hình

tượng nhân vật mà còn được biểu hiện khá rõ ở hệ thống thể loại.

3.4.2. Thể loại:

Trước Nguyễn Công Hoan, thể loại chủ yếu trong văn học là thơ. Nếu

Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương đến với trào phúng bằng vần thơ chế giễu,đả

kích sâu cay những mặt trái của xã hội thực dân nửa phong kiến thì Nguyễn Công

Hoan lại đem tiếng cười phê phán vào tác phẩm bẳng một thể loại mới, đó là truyện

ngắn và tiểu thuyết.

Mỗi thể loại có một lợi thế riêng trong việc phản ánh hiện thực. Truyện ngắn

là thể loại tự sự cỡ nhỏ, có khả năng phản ánh hiện thực sau tiểu thuyết. Tuy nhiên,

ở thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương cũng đạt được những

thành tựu nhất định, riêng có của thể loại thơ trào phúng.

Là nhà văn của giai đoạn chuyển tiếp giữa dòng văn học trào phúng và trào

lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945, Nguyễn Công Hoan thành

90

công nhiều ở truyện ngắn trào phúng. Ông đưa ra những lí luận về chuyện ngắn khá

cụ thể. Trên lĩnh vực truyện dài, như đã nói, Nguyễn Công Hoan không tạo được

tiếng vang như ở truyện ngắn.

Với nhà văn, “truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây

dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu, dùng

tiếng có cân nhắc”. Ông được xem như bậc thầy của truyện ngắn trào phúng. Mỗi

tác phẩm là một vấn đề của cuộc sống, vì thế, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

thường cô đúc, ngắn gọn. Ông luôn tâm niệm: “mỗi truyện cần một ý, một ý thôi, ý

ấy là ý chính của truyện”. Quan niệm về truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gần

với quan niệm của K.Pautốpxki: “Tôi biết rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn

gọn, trong đó cái bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường và cái gì

không bình thường hiện ra như một cái bình thường”.

Nếu tiểu thuyết phản ánh cuộc sống trong tính toàn vẹn của nó thì truyện

ngắn nói chung và tác phẩm của Nguyễn Công Hoan nói riêng phản ánh một lát cắt

của cuộc sống, một khoảnh khắc, thậm chí là một ánh chớp lóe bất ngờ trong cuộc

đời nhân vật.

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng thành của truyện

ngắn hiện đại ở lối kết cấu bất ngờ. Mỗi tác phẩm của ông giống như một màn kịch

với những xung đột mang tính bản chất nhất. Theo nhà văn: “Viết truyện cũng như

đánh trận. Nếu đánh trận là đánh vào đồn thì viết truyện là đánh vào tình cảm của

người đọc. Nhằm vào mặt tình cảm nào của độc giả làm đích để gợi, tác giả phải

định trước đi. Tác giả phải chọn chi tiết đầy đủ để nắm lấy tình cảm của độc giả …

Chi tiết mà lỏng lẻo, chống chếnh, thì tình cảm của độc giả sểnh lọt đến chỗ khác

mất. Một đôi khi, nếu muốn, tác giả cũng có thể hãm tình cảm của độc giả đi chậm

lại, hoặc đưa chậm nó đi một tí. Đó là nghi binh, để làm cái đà cho nó nhảy vọt đến

ý định của mình, tức là đến cái kết cục đột ngột, bất ngờ của truyện” [56/749].

Trong truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan thường sử dụng thủ pháp đối lập giữa bản

chất và hiện tượng, giữa thật và giả, vì thế thường ở mỗi tác phẩm gợi lên hai sắc

thái thẩm mĩ ở người đọc là: cảm thương và ghê tởm.

Điểm cách tân cơ bản trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thể hiên ở việc

91

xây dựng các biến cố, tình huống truyện tạo kịch tính. Mỗi truyện ngắn của ông là

một vở kịch ngắn với diễn biến thường có lớp lang trình tự, thắt nút, mở nút dẫn đến

một kết cục bất ngờ như: “Ngựa người và người ngựa”. Tác động tới người đọc

chính là ở yếu tố bất thường, ngạc nhiên và hấp dẫn trong tác phẩm Nguyễn Công

Hoan trước Cách mạng. Ông chịu ảnh hưởng khá ro những chuyện kể dân gian,

nhất là lối kết thúc bất ngờ của truyện tiếu lâm (Oằn tà roằn).

Tuy đạt được những thành công như đã nói, Nguyễn Công Hoan còn có

những hạn chế khó tránh khỏi của thế hệ nhà văn những năm đầu thế kỉ XX.

Kết cấu truyện đơn tuyến. Tác phẩm của nhà văn mang đậm yếu tố kể. Ông

quan tâm đến cốt truyện sự kiện nhiều hơn là cốt truyện tâm lí. Vì đề cao cốt truyện

sự kiện, Nguyễn Công Hoan không quan tâm nhiều đến việc xây dựng tính cách

nhân vật trong khi xu hướng của truyện ngắn hiện đại thường lược bỏ những sự kiện

quan trọng để dành cho sự hồi tưởng, suy luận, (Tuyết trên đỉnh Kilimanjarrô của E.

Hemingway).

Mặt khác, trong những năm đầu, khi mới bước chân vào làng văn, Nguyễn

Công Hoan còn chịu ảnh hưởng của lối chép truyện truyền thống, đặc biệt khi viết

cho mục “An Nam nhị thập thế kỉ xã hội ba đào kí” trên An Nam tạp chí. Truyện

ngắn trên An Nam tạp chí không ít truyện được ghi chép theo sự kiện, với diễn

biến theo thời gian tuyến, một số được kết cấu theo kết cấu truyện dân gian: nguyên

nhân- kết quả (Thằng ăn cắp).

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường là những truyện kể có kết cấu đơn

tuyến, thậm chí đến mức đơn giản. Bù lại, Nguyễn Công Hoan rất giỏi nhận ra và

khai thác sự độc đáo của các chi tiết.

Từng bước, từng bước, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng

thành của truyện ngắn hiện đại.

3.5. Cốt truyện – Tình huống.

3.5.1. Cốt truyện:

Cốt truyện là chỉ cái phần lõi của truyện, cái phần có thể tóm tắt, thuật lại

hay mượn để sáng tạo ra tác phẩm khác. Nói cách khác, cốt truyện thường được

hiểu là hệ thống các sự kiện chính, chi tiết cơ bản dùng để biểu hiện tính cách và

92

phản ánh mâu thuẫn, xung đột xã hội.

Cốt truyện của Nguyễn Công Hoan được khái quát từ chính hiện thực đời

sống. Những cảnh vật xảy ra xung quanh ông là nguồn tài liệu phong phú và đa

dạng để ông khai thác và sáng tạo. Nhiều khi những gợi ý cho nhà văn chỉ là “một

câu nói, một hình ảnh, một câu thì thào từ miệng người nọ qua người kia”[25/363].

Truyện ngắn “Sáu mạng người” là do tác giả biết có một tên quan quát hỏi

thẻ của sáu người đi buôn chè sớm. Vì không có thẻ, họ sợ hãi bỏ chạy, hắn đã sai

lính bắn chết. Vậy mà hắn được thăng chức án sát vì báo cáo lếu láo là tiêu diệt

được toán cướp rừng. Cứ như vậy ta có thể dẫn chứng hàng loạt những trường hợp

mà Nguyễn Công Hoan đã lấy truyện thật trong cuộc đời để xây dựng ý cho các

truyện ngắn của mình.

Khi viết truyện “Báo hiếu” tác giả dựa vào một sự kiện có thật về một tên tri

huyện Thanh Hà: Nguyễn Ngọc Chung rất bất hiếu với mẹ, ngày giỗ bố nó, bà mẹ

từ quê ra, thấy mẹ rách rưới quê mùa, hắn đuổi mẹ về, vứt cho hai hào và ra lệnh

cấm xe ở phố không cho ai kéo bà cụ. Với tất cả các sự kiện đó, ông có thể hư cấu

thêm: Vì uất ức với đứa con, bà cụ tự tử để tạo thành một truyện ngắn. Nhưng ông

không làm vậy, ông tách ra làm hai truyện “vì hai ý lồng vào một truyện thế nào

cũng có ý kém nổi bật. Tôi mới ăn dè, cắn ra làm hai để viết ra thành hai truyện

riêng”[25/236].

Có truyện chỉ dựa vào một câu nói, một tấm ảnh sau đó nhà văn tưởng tượng

viết nên truyện. Vào năm lũ lụt, nhà văn đọc trên báo thoáng thấy hình ảnh chiếc

quan tài bị kẹt trên cây khi nước lũ lên, Nguyễn Công Hoan tưởng tượng ra cảnh

chôn chiếc quan tài đó và truyện “Chiếc quan tài ra đời”.

Có truyện dùng một hiện tượng nào đó làm thân truyện rồi thêm cốt truyện

như viết “Hai thằng khốn nạn” là do Nguyễn Công Hoan trông thấy người gánh

con đi bán năm đói, ông liền lấy đó làm thân truyện rồi thêm vào cái kết truyện.

Hoặc có truyện, việc thật có nội dung này lại được lật ngược lại để lập ý khác.

Chẳng hạn viết “Xuất giá tòng phu” là do tác giả trông thấy người ta đánh vợ vì

ngoại tình. Nhưng ông thấy truyện này chẳng có gì đáng viết, trong khi ông biết có

những tên phủ này hiến vợ cho công sứ, tên huyện kia đưa vợ vào hầu quan tổng

93

đốc, nên nhà văn mới viết thành truyện chồng đánh vợ vì vợ không chịu hiến thân

cho “ông chủ của chồng”… Từ những sự việc trong cuộc sống, tác giả dùng nhiều

hình thức xây dựng cốt truyện sao cho thích hợp với ngòi bút trào phúng của mình,

đồng thời có ý nghĩa sâu cay với xã hội đương thời.

Nhưng dù dựa vào những truyện có thật hay hư cấu, thì những sáng tác của ông

mang một dấu ấn rõ nét. Đó là sự vận động về quan điểm sáng tác của nhà văn, từ

những truyện ngắn mang nặng quan điểm của một nhà Nho “Ôn nhu đôn hậu” như

“Lá ngọc cành vàng”…đến những sáng tác thể hiện những cảm xúc chân thực mang

tính thời sự qua những cảnh, những người, những việc tập trung tiêu biểu cho thực tế

cuộc sống chứ không phải là những bản sao chép cuộc sống một cách tầm thường.

Nguyễn Công Hoan có lối xây dựng cốt truyện rất đặc sắc thông qua chi tiết:

“Cấu tạo nên truyện là do những chi tiết nhặt nhạnh ở đây đó, làm sao cho gọn ghẽ,

chặt chẽ để làm nổi lên ý chính” [25/361]. Ví dụ, trong truyện “Oẳn tà roằn” cô ả

có đến một trăm tình nhân, không biết ngủ với anh nào mà bụng ễnh, nên hết gạ lấy

anh này lại gạ lấy anh nọ, và với anh nào chị ta cũng đổ là đã làm cho chị ta có

mang. Rốt cuộc là có mấy anh hứa là sẽ nhận đứa bé làm con sau khi chị đẻ xong và

sễ cưới chị làm vợ. Đến khi chị ta ở cữ tại nhà thương, hết anh nhân tình nọ lễ mễ

đem quà vào thăm, đến anh nhân tình khác ôm đồm các thứ khác lại cho đứa bé.

Nhưng rốt cuộc anh nào cũng chuồn cả vì đứa con mà chị ta đẻ ra là một thằng

bé…tóc quăn như bún và da đen như than. Tác giả đã xâu chuỗi một loạt các chi tiết

lại với nhau để tạo nên một tấn hài kịch rất ngộ nghĩnh làm cho người đọc khoái tra

vô cùng.

3.5.2. Tình huống truyện:

Là người có trí tuệ sắc sảo, bản thân lại có năng khiếu hài bẩm sinh. Nguyễn

Công Hoan rất nhạy cảm trong việc nhận ra những mâu thuẫn trái tự nhiên vốn đầy

rẫy trong xã hội đương thời. Dưới con mắt nhà văn, con người luôn tồn tại dưới

dạng tương phản tốt – xấu, chân thật – giả dối, đạo đức và vô đạo đức, tử tế và đểu

giả, có lương tâm và bất lương, công lý và bất công...Đối với nhà văn, con người

luôn được nhìn nhận ở hai bình diện xung khắc nhau: con và người, bản năng và trí

tuệ, nói và làm. Tác phẩm của ông là sự nắm bắt con người ở xung đột giữa thuyết

94

giáo và lối sống thực tại, giữa sự giao giảng đạo đức và hành động thực tiễn xấu xa ,

giữa lời nói trống giỗng và việc làm bậy bạ…Do vậy, trong truyện ngắn của mình

Nguyễn Công Hoan chú trọng xây dựng tình huống chứa đầy mâu thuẫn, xung đột.

Và tiếng cười thường bật ra khi bản chất diễn trò bộc lộ qua hai phương chiếu bất

khả dung hợp này. Truyện cười bao giờ cũng phải tạo ra được một tình huống gây

cười. Tình huống này phải là tình huống bất ngờ mang tính nghịch lý, phi lý,oái

oăm. Để gây cười, tác giả truyện cười phải dẫn dắt tình tiết sao cho cốt truyện lên

tới đỉnh điểm, căng thẳng, đầy kịch tính, tạo nên sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.

Tình huống gây cười trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan cũng không

nằm ngoài thông lệ ấy. Có thể chia thành ba nhóm tình huống sau:

3.5.2.1. Tình huống nghịch lý, phi lý.

- Nghịch lý, phi lý về đạo đức: Như trên đã nói, Nguyễn Công Hoan rất quan

tâm đến vấn đề con người. Con người trong sáng tác của ông là con người mất đạo

đức, vô lương tâm, giả dối, thấp hèn…nhưng nhiều khi lại mang một màu sắc hào

nhoáng giả tạo. Tiếng cười của nhà văn đã phanh phui, lột trần lớp vỏ bề ngoài ấy

để trơ ra cái xấu xa ghê tởm ở bên trong.

Đúng như M.Bakhtin đã nhận xét về giá trị và chức năng của tiếng cười.

“Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi cuốn

đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể xuồng xã sờ mó từ

khắp mọi phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ ngoài để

nhìn vào bên trong, hồ nghi, phân tích, chia cắt, bóc trần nghiên cứu và thử nghiệm

một cách tự do. Tiếng cười là nhân tố cơ bản nhất tạo ra thái độ không biết sợ, mà

không biết có tiền đề ấy thì không thể chiếm lĩnh thế giới hiện thực” [2/51].

Để tạo nên tiếng cười, Nguyễn Công Hoan lôi cuốn đối tượng vào những

tình huống nghịch lý, phi lý về đạo đức.

Ông chủ hãng ô tô Con Cọp là một nhà tư sản giàu có, nhân giỗ cha ông mời

rất đông khách nhưng lại đuổi mẹ ra ngoài đường trời mưa giá rét sau khi bố thí cho

hai hào ván (Báo hiếu: trả nghĩa cha). Cũng ông chủ hãng ô tô Con Cọp cùng vộ giết

mẹ đẻ rồi lại làm đám ma hết sức to tát để che mắt thiên hạ. Nhưng đám ma càng to

95

bao nhiêu, người đọc càng nhìn rõ thực chất bất hiếu của vợ chồng hắn bấy nhiêu.

Hoặc một trường hợp khác, một nhà tư sản sẵn sàng đè chết người ăn mày vì

người này đánh gãy hai chiếc răng con chó của hắn rồi đền mạng “bất quá ba chục

bạc là cùng”. Một mạng người không bằng hai cái răng con chó, không bằng ba

chục bạc. Tiếng cười ở đây chĩa vào sự mất nhân tính của tên tư sản nọ, đồng thời

cũng là tiếng cười xót xa cho thân phận con người yếu hèn trong xã hội vô nhân ấy

(Răng con chó của nhà tư sản). Thằng ăn cắp ăn quỵt bát bún riêu hai xu, lấy trộm

củ khoai lang mà bị (Bữa no…đòn) của đám đông “hàng chục…hàng trăm người”.

Đành rằng ăn cắp là xấu, là đáng khinh nhưng chỉ vì “bát bún riêu”, “củ khoai lang”

mà bị trận đòn nhừ tử gần chết thì cũng là một nghịch lý, xót xa cho số kiếp con

người nhân phẩm bị vùi dập. Tiếng cười ở đây chĩa vào đám đông vô hồn, chĩa vào

tình trạng mất nhân tính của con người trong xã hội phi nhân tính (Thằng ăn cắp,

Bữa no …đòn).

Quan huyện tư pháp đi khám người chết đuối lại đòi khấn “70 đồng” mới

cho chôn. Thật là một sự vô lý quá mức thông thường về tư cách quan tư pháp (Thịt

người chết). Quan đi bắt thàng ăn cướp nhưng lại “cướp lại” những thứ thằng ăn

cướp cướp được. Quan còn cao tay hơn kẻ cướp, đến nỗi nó phải bỏ nghề (Thằng ăn

cướp). Một ông phán nuôi kẻ hầu người hạ trong nhà nhưng lại giở trò “mất ví”

đuổi khéo người cậu vì nhớ cháu mà ra thăm “vì tốn kém lắm” cũng là nghịch lý

đáng khinh, đáng cười.

Con người trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thường sống trái hẳn

với đạo lý. Đạo làm vợ phải theo chữ “tam tòng”. Trong đó tòng phu là thủ tiết với

chồng, nhưng ở đây “tòng phu” là vâng lời chồng đi ngủ với quan trên, vợ phản đối

thì chồng còn quát tháo “Luân lý để đi đâu?”; “Giáo dục để đâu?”(Xuất giá tòng

phu). Đạo làm con gái phải tiết trinh, nhưng cô Nguyệt lại đi ngược lại đạo lý ấy

đến mức khó tin(Oẳn tà roằn). Truyện ngắn “Thế là mợ nó đi Tây” lại có hai tình

huống nghịch lý: chồng ho lao lại ra sức làm để nuôi vợ đi Tây, lại còn chăm nom

cả gia đình bên vợ. Vợ đi Tây viết thư về với bao nỗi yêu thương chồng, nhưng

trong bụng thì đã “vĩnh quyết” từ khi bước chân xuống tàu.Vợ quan phủ ngủ với

96

thằng cung văn ngay trong phòng quan phủ, quan phủ bắt được nhưng vợ quan phủ

lại lên lớp cho chồng, bắt chồng phải cung đốn thêm cho mình những thứ sang

trong hơn(Đàn bà là giống yếu).

- Nghịch lý về hoàn cảnh: Nhà văn đưa nhân vật vào trong những hoàn cảnh

mang tính chất nghịch lý để làm nổi bật thân phận, số kiếp của họ. Ở đây lại thường

là những nhân vật dưới đáy xã hội, muốn sống họ phải làm trái lẽ phải thông thường.

Thằng ăn mày vì lành lặn nên không xin ăn được. Để kiếm sống, nó phải

kiếm “vốn sinh nhai” bằng cách tự làm thương tật mình. Nó phải què cụt để có

miếng ăn (Cái vốn để sinh nhai)

Anh Tiêu ốm nặng đến nỗi phải ho ra máu mà vẫn phải đi kéo xe giờ. Bởi vì

không kéo thì không có tiền, anh đói, vợ con anh đói và không có tiền trả thuê xe

(Được chuyến khách).

Đêm ba mươi tết, anh phu phải kéo xe cô gái điếm để mong kiếm được một

hai hào về ăn tết, cuối cùng còn bị lỗ, mất công, mất tiền(ngựa người và người ngựa).

Người ta chết thì được chôn dưới đất, nhưng anh Cu chết không có đất mà

chôn phải chôn dưới nước vì lũ đã ngập hết đất đai (Chiếc quan tài).

Anh Xích bị chết đuối mà vẫn chưa được vớt lên đưa ma vì quan nghi ngờ có

chuyện “bức tử”. Ông bà Cửu đứt từng khúc ruột khi xác con trương phềnh dưới

nước làm mồi cho cá rỉa (Thịt người chết).

Kép Tư Bền lại phải cười mua vui cho thiên hạ trong hoàn cảnh đáng khóc vì

nghe tin cha ở nhà sắp gần đất xa trời(Kép Tư Bền).

Một người hoàn cảnh sắp chết vì đói. Một kẻ lại phát ốm lên vì quá béo va

ăn quá no (Hai cái bụng)…

Tạo dựng ra những tình huống nghịch lý, phi lý trong truyện ngắn là nói tới

sự thật mâu thuẫn, phi lý, xung đột trong xã hội, nhà văn đã phản ánh thực trạng tồi

tệ của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.

3.5.2.2.Tình huống ngẫu nhiên.

Truyện cười phải sử dụng cái ngẫu nhiên. Dùng cái ngẫu nhiên cho các yếu

tố được gặp nhau để hình thành nên cốt truyện.

Trong truyện (Đồng hào có ma) thì chi tiết ngẫu nhiên này choa hành động

97

ăn cắp của quan, từ đó bật ra tiếng cười và chủ đề truyện.

Để lôi cuốn sự chú ý của độc giả, nhà văn để cho nhân vật Samandji ngẫu

nhiên nói câu “Anh không tốt” với nhân vật “Tôi”. Câu nói này lại đánh trúng vào

hoàn cảnh “bi đát” của nhân vật “Tôi”. Người đọc chăm chú theo dõi, cuối cùng té

ra sự hiểu lầm “của tôi” và của độc giả (Samadji). Một việc tày đình tưởng xảy ra

mà lại không xảy ra, vì nhân vật …ngớ ngẩn!

Anh phu xe ngẫu nhiên gặp cô gái điếm. Nếu là gặp người khác thì không có

chuyện (Người ngựa và ngựa người). Sự hiểu lầm ở đây tăng thêm chất bi hài kịch

cho số phận mỗi người.

Bác phó lý ngẫu nhiên trúng xổ số, và phải bác phó lý trúng xổ số thì tính

cách đểu giả của quan cũng như cái vận hạn mới được bộc lộ rõ, bởi vì bác nghèo,

lại thuộc hạ quan(Cái nạn ô tô). Được xe tưởng là sướng hóa ra khốn nạn. Nhân vật

“tôi” được chứng kiến Trinh nói gì trúng nấy (Ngẫu nhiên). Đi tìm bắt kẻ giết người,

ngẫu nhiên gặp cái lò gạch trong có người (Cái lò gạch bí mật). Thật là chó ngáp

phải ruồi.

Nếu “tôi” gặp người nhà ông chủ, người này nói luôn là “mèo đẻ” thì không

có truyện. Người viết truyện phải sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên. Một người nói cộc

lốc: “Ồ! Thôi!”. Một người nói: “Đi nhà thương. Đương gắt như mắm đấy!”. Một

người nói “Đẻ”. Một người nói: “Bông, băng, cồn”…Những chi tiết ngẫu nhiên

kéo độc giả đi theo mạch nghi ngờ của “Tôi”. Cả nhân vật trong truyện, cả độc giả

đều phán đoán (Lại chuyện con mèo), thì ra chuyện con mèo đẻ mà ông chủ làm

rùm beng như chuyện con người.

3.5.2.3.Tình huống nhân vật dùng mẹo.

Đây là những tình huống do nhân vật tạo dựng ra bằng cách dùng mẹo, lập

mưu vì một mục đích đê tiện để lừa dối, chuộc lợi. Người lập mưu thì đê tiện, còn

kẻ mắc mưu thì đáng thương.

Ông Phán muốn đuổi cậu nên mới lập mẹo mất cái ví (Mất cái ví). Cụ Chánh

Bá muốn có đôi giày mới nên cùng thằng đầy tớ lập mẹo mất giày(Cụ Chánh Bá mấ

giày). Cụ lớn tuần lập mưu nhờ bà Chánh đong thóc hộ để chuộc lợi 500 đồng

(Hé!Hé! Hé!). Một ông quan vì vô trách nhiệm để vỡ đê nhưng khôn khéo lập mưu

98

“tự tử” để tránh tội. Kết quả không những thoát tội mà được tiếng là thương dân

(Tôi tự tử). Một vị quan ra lệnh cấm chợ rồi quên. Dân tình khổ sở điêu đứng. Quan

nghĩ ra cách “làm ra cách khó khăn, đổ lệnh cho trên và mình làm ơn cố xin hộ để

được tiếng là nhân quan” (Cấm chợ). vì nhầm lẫn đám chọi gà là “biểu tình”, để

tránh lỗi với quan trên ông huyện phải tạo ra biểu tình giả bằng cách cho lính đón

lõng hai đầu làng, dồn người vào giữa làng (Biểu tình).

Nhìn chung, nhờ việc xây dựng các tình huống truyện khéo léo, giàu kịch

tính, xung đột, phi lý, ngẫu nhiên…Nguyễn Công Hoan đã tạo ra tiếng cười trào

phúng rất hiệu quả.

TIỂU KẾT CHƢƠNNG 3

Ở mỗi chặng đường sáng tác của Nguyễn Công Hoan, chúng ta nhận thấy rõ

nét của sự vận động về quan điểm nghệ thuật sáng tác của nhà văn. Từ lí tưởng

thẩm mĩ đến hệ thống chủ đề, đề tài, ngôn ngữ cho đến hình tượng nhân vật trung

tâm đều có sự vận động dịch chuyển từ quan điểm cầm bút của một nhà nho vận

động đến cái nhìn hiện thực mang đậm phong cách phương Tây. Nhưng có một điều

là ở Nguyễn Công Hoan không có sự phân chia rạch ròi giữa trào phúng và hiện

thực. Mỗi tác phẩm đều được đan quyện bởi hai bút pháp nói trên. Điều này là đặc

trưng riêng của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam. Hầu hết các

nhà văn hiện thực chủ nghĩa đều mang dấu ấn trào phúng. tuy nhiên, mức độ đậm

nhạt ở mỗi tác giả khác nhau. Nguyễn Công Hoan là “Người khai sơn, phá thạch

cho truyện ngắn trào phúng”, đồng thời cũng là người mở đầu cho chủ nghĩa hiện

thực phê phán, là người “thuộc về cái triều lưu nghệ thuật vị nhân sinh ở nước ta”

(Hải Triều).

Tác phẩm của ông phản ánh cuộc sống đa chiều, đa diện. Ông dựng

lên một thế giới bị lộn trái bằng ngòi bút trào phúng kết hợp với hiện thực. Nguyễn

Công Hoan thựcsự là một nhà văn tiêu biểu cho giai đoạn văn học giao thời từ

99

truyền thống đến hiện đại.

PHẦN KẾT LUẬN

Sự vận động của văn học Việt nam từ truyền thống đến hiện đại, trải qua

những biến cố thăng trầm của lịch sử. Và qua mỗi chặng đường lịch sử ấy sáng tác

của nhà văn Nguyễn Công Hoan thể hiện quá trình nhận thức của ông về cuộc sống.

Sự nghiệp sáng tác trước cách mạng tháng Tám của nhà văn, thực sự đã chứng minh

cho sự vân động của văn học Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại.

Cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm lược của thực dân Pháp kéo theo sự thay đổi

trong đời sống xã hội, sự thay đổi trong văn chương. Văn học trào phúng ra đời đem

theo luồng sinh khí mới cho văn học. Lấy hiện thực làm đối tượng phản ánh, văn

chương trào phúng mở ra một thừi đại mới, tạo tiền đề cho sự ra đời trào lưu hiện

thực phê phán 1930 1945.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học việt Nam ra đời hoàn toàn tuân

theo quy luật của chủ nghĩa hiện thực phê phán trên thế giới mà trước hết tuân thủ

quy luật vận động của xã hội Việt Nam và quán tính lịch sử của văn học dân tộc. Đó

là sự tiếp nối truyền thống văn học trong quá khứ, mà chủ yếu là dòng văn học trào

phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Trong toàn bộ những chương trên, chúng tôi đã trình bày những nguồn ảnh

hưởng tới phong cách sáng tác Nguyễn Công Hoan đến sự vận động từ dòng văn

học trào phúng sang trào lưu hiện thực phê phán 1930 – 1945 thông qua sự nghiệp

sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng.

Bước vào nền văn học hiện đại, dấu ấn truyền thống in đậm trong sáng tác

của các nhà văn hiện thực phê phán thời kì đầu. Nguyễn Công Hoan là người thể

hiện rõ nhất sự ảnh hưởng ấy. Sáng tác của nhà văn là sự minh chứng cho quy luật

vận động của văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.

Nguyễn Công Hoan được đánh giá là người viết truyện ngắn trào phúng

thành công nhất đầu thế kỉ XX, đồng thời, ông cũng được coi là người đặt những

viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.

Mỗi một chặng đường sáng tác của Nguyễn Công Hoan thể hiện sự vận động

của văn học nói chung, đồng thời thể hiện quá trình chuyển biến trong tư tưởng của

100

nhà văn nói riêng. Tiếp thu kinh nghiệm và thủ pháp nghệ thuật của văn chương

trào phúng, Nguyễn Công Hoan nhìn cuộc đời qua lăng kính của cái hài. Ông phơi

bày mặt trái của xã hội thực dân bằng nhiều cung bậc khác nhau của tiếng cười.

Trong quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Công Hoan có sự

đan xen, hòa quyện giữa cái hài và cái thực. Ông đến với hiện thực bằng cảm hứng

trào phúng. Sự kết tinh nhuần nhuyễn này thể hiện khá thành công trong việc tạo

dựng hình tượng nhân vật trung tâm trong sáng tác của nhà văn trước cách mạng.

Nhiều nhân vật mang tính khái quát cho một lớp người cụ thể trong xã hội thực dân

nửa phong kiến.

Nguyễn Công Hoan là tác giả tiêu biểu cho giai đoạn giao thời của văn học.

Sáng tác của ông thể hiện rõ sự vận động trong quan niêm nghệ thuật của nhà văn

- từ dòng văn học trào phúng đến văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.

Từ truyền thống đến hiện đại, văn học Việt Nam đã trải qua trải qua một quá

trình vận động đầy khó khăn. Điều đó thể hiện một nỗ lực không mệt mỏi của nhà

văn trong trong quá trình tiếp cận hiện thực để sáng tạo nghệ thuật.

Trước Nguyễn Công Hoan, một Tản Đà sâu sắc và tài hoa đã mạnh dạn thử

bút ở mọi thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn và đã góp phần đẩy văn chương vào

quỹ đạo hiện đại. “Nhưng dù cái bóng của Tản Đà đã ít nhiều đỏ qua ranh giới

hiện đại thì bước chân ông vẫn còn dừng lại trước lằn ranh khắc nghiệt của thời

đại” (Vũ Anh Tuấn). Cuối cùng, ông chỉ đóng vai người “dạo những bản đàn mở

đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa” (Hoài Thanh).

Cùng với Nguyễn Công Hoan, người được xem là bước chuyển giữa truyền

thống và hiện đại có Ngô tất Tố - một điển hình đẹp và sáng của mẫu hình văn hóa,

văn học ở chặng đường chuyển tiếp từ truyền thống sang hiện đại. Là một cây bút

chịu ảnh hưởng sâu sác của Nho giáo, nhưng Ngô Tất Tố đã chuyển mình một cách

mạnh mẽ trong môi trường văn chương báo chí những năm đầu thế kỉ XX, chặng

đang hoàn tất của quá trình hiện đại hóa.

Với việc nghiên cứu sự chuyển biến trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan

trước cách mạng tháng Tám, mục tiêu của luận văn nhằm vạch ra những “bằng

101

chứng” sự vận động đúng quy luật của văn học sử ở một bộ phận văn học mà từ

trước tới nay giới nghiên cứu chưa quan tâm nhiều lắm nhưng theo chúng tôi là

quan trọng.

Chúng tôi hi vọng luận văn sẽ mở ra hướng nghiên cứu tiếp tục cho các tác

giả giai đoạn giao thời, để bạn đọc cảm nhận được sâu sắc quá trình vận động của

102

văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh(2004), Từ điển Hán Việt, NXB Khoa học xã hội Hà Nội.

2. Bakhtin.M(1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, người dịch Phạm Vĩnh Cư,

Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

3. Borep. IU (1964), Những phạm trù mỹ học cơ bản, NXB chính trị Matxcơva.

4. Trương Chính, Phong Châu (2004), Tiếng cười dân gian Việt Nam, NXB khoa

học chính trị, Hà Nội.

5. Xuân Diệu (1979),Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học Hà Nội.

6. Đỗ Đức Dục (1971), “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học (số 4), tr 5 – 8.

7. Đỗ Đức Dục (1982), “Trở lại vấn đề xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong

văn học Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 1), tr 3 – 6.

8. Đỗ Đức Dục (1964), “Tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực phê phán”, Tạp chí văn học

( số 2), tr 11 – 16.

9. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam,

NXB khoa học xã hội.

10. Phan Cự Đệ(2000) Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo Dục Việt Nam.

11. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu (2000), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB

Giáo Dục Việt Nam.

12. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo Dục Việt Nam.

13. Phan Cự Đệ (2000), tuyển tập (1,3) NXB Giáo Dục Việt Nam.

14. Học Đình (1935) Phê bình Kép Tư Bền, NXB Văn học.

15. Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang (2000), Lý luận văn học, NXB Giáo dục Việt

Nam.

16. Guranich.U (1962), cái cười vũ khí người mạnh, NXB văn học.

17. Lê Bá Hán, Phương Lựu (1980), Cơ sở lý luận văn học (tập 1) NXB Đại học và

THCN.

18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học

103

Quốc gia.

19. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, NXB

Khoa học xã hội.

20. Lê Thị Đức Hạnh (1970), “Ảnh hưởng của Đảng đối với sáng tác của Nguyễn

Công Hoan trước cách mạng”, Tạp chí văn học (số 6), tr 15 – 19.

21. Lê Thị Đức Hạnh(2002), Nguyễn Công Hoan tác gia, tác phẩm, NXB Giáo duc

Việt Nam.

22. Heghe (1999), Mỹ học (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội.

23. Đỗ Đức Hiển (1982), Từ điển văn học, NXB Thế giới.

24. Trần Văn Hiếu(2000), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam

(1930 – 1945) Nguyễn Công Hoan – Vũ Trọng Phụng – Nam Cao, NXB Văn

học Hà Nội.

25. Nguyễn Công Hoan(1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn học.

26. Nguyễn Công Hoan (1957 – 1958), Truyện ngắn chọn lọc (tập 1,2), NXB Hội

nhà văn.

27. Nguyễn Công Hoan (1973 -1974), Truyện ngắn chọn loc (tập 1,2), NXB Văn

học Hà Nội.

28. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học Hà Nội.

29. Nguyễn Công Hoan (1998), Nhớ gì ghi nấy, NXB Hội nhà văn.

30. Nguyễn Văn Huyền (1992), Nguyễn Khuyến tác phẩm, NXB Thành phố Hồ

Chí Minh.

31. Mai Hương (2000), Tú Xương, Thơ, lời bình và giai thoại, NXB văn hóa thông

tin Hà Nội.

32. Trần Đình Hượu(1995), Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại, NXB

văn hóa thông tin Hà Nội.

33. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hóa Thông

tin Hà Nội.

34. Trần Đình Hượu – Lê Trí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời

1900 – 1930, NXB Đại học và THCN, Hà Nội.

104

35. Konrat. N (1992), Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục Việt Nam.

36. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, NXB

khoa học.

37. Vũ Ngọc Khánh (2003), Thơ văn trào phúng Việt Nam, NXB văn học thế giới.

38. Vũ Ngọc Khánh (1996), Hành trình vào xứ sở cười, NXB Giáo dục Việt Nam.

39. Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại – Lịch sử và lý luận, NXB khoa

học xã hội.

40. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1988), Lý luận văn học (tập 3), NXB Giáo

dục Việt Nam.

41. Trần Thanh Mại toàn tập (tập 2), Thời và thơ Tú Xương, NXB văn hóa.

42. Lê Minh (1991), Nguyễn Công Hoan toàn tập (tập 1,2,3,4,5), NXB Văn học.

43. Lê Minh (1992), Chân dung văn học, Trường viết văn Nguyễn Du Hà Nội.

44. Lê Minh (2003), Nguyễn Công Hoan với nghề văn, NXb Thanh Niên.

45. Lê Minh (1993), Nguyễn Công Hoan nhà văn hiện thực lớn, NXB Hội nhà Văn.

46. Petơrốp (1980), Chủ nghĩa hiện thực phê phán, NXB Đại học và Trung học

chuyên nghiệp.

47. Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

48. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam

1930 – 1945, NXB Văn học.

49. Nguyễn Thanh Sơn (2000) “An Nam tạp chí và những truyện ngắn xã hội ba

đào ký”, Tạp chí văn học (số 2), tr 08 - 12.

50. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào phúng

Nguyễn Công Hoan, NXB Đại học Quốc gia.

51. Văn Tân (1958), Văn học trào phúng Việt Nam, NXB sử địa Hà Nội.

52. Timofeep (1962), Nguyên lý lý luận văn học (tập 2), NXB Văn hóa.

53. Phạm Xuân Thạch (2014), Sự khởi sinh của tính hiện đại – Trần thuật việt Nam

trong ba thập niên đầu thế kỉ XX, NXB Giáo Dục Việt Nam.

54. Bùi Việt Thắng (1997), “Nguyễn Công Hoan văn và đời” trong các nhà văn

được giải thưởng HCM, NXB Hội nhà văn.

55. Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,

105

NXB Giáo Dục Việt Nam.

56. Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học Nhà Nho tài tử và văn

học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia.

57. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,

NXB Đại học Quốc gia.

58. Trần Ngọc Vương – Trần Hải Yến – Phạm Xuân Thạch (2010), Giáo trình văn

học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX, NXB Đại học Quốc gia Hà nội.

59. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các góc độ chữ, NXB Tri thức.

106

60. Xuskop.B (1982), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, NXB tác phẩm mới.