ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
HÀ HUY THÍCH
SỰ CHUYỂN ĐỔI CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ
VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP
NGUYỄN CÔNG HOAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
HÀ HUY THÍCH
SỰ CHUYỂN ĐỔI LOẠI HÌNH TÁC GIẢ
VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP
NGUYỄN CÔNG HOAN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Trần Ngọc Vương. Các kết quả và số liệu
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một công
trình khoa học nào.
Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác giả luận văn đều có ghi
chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực
và nguyên bản của luận văn.
Hà Nội,ngày 22 tháng 10 năm2015
Tác giả luận văn
Hà Huy Thích
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần
Ngọc Vương - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau đại
học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình và
bạn bè đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2015
Tác giả
Hà Huy Thích
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu. ...................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn. ............................................. 3
3. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 4
5. Cấu trúc luận văn. ......................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 5
Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ
VÙNG VĂN HÓA SƠN NAM ....................................................................... 5
1.1. Truyền thống gia đình. ............................................................................ 5
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan. ............................. 5
1.1.2. Truyền thống gia đình. .......................................................................... 13
1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ. .................................................................. 16
1.2.1. Đặc điểm về địa lý. ................................................................................ 16
1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội. ................................................................. 16
1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến
phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan. ............................. 18
Chƣơng 2: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ VĂN
HỌC TÂY ÂU TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945 ................................................. 25
2.1. Văn hóa truyền thống và văn chƣơng nhà Nho. ................................. 25
2.1.1. Văn học dân gian. ................................................................................. 25
2.1.2. Từ cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại đến cái nhìn của nhà
văn, nhà thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học Việt Nam. . 26
2.1.3. Sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài và hình tượng trung tâm trong
văn chương trào phúng. .................................................................................. 31
2.2. Sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây trong sáng tác của Nguyễn
Công Hoan trƣớc cách mạng tháng 8 - 1945. ............................................. 33
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội. ................................................................... 33
2.2.2. Sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực phê phán. ............................ 34
2.2.3. Sự vận động hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực phê phán. ............. 44
Chƣơng 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA NHÀ VĂN QUA
NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG ............................................ 52
3.1. Những chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Công Hoan ..................... 52
3.1.1. Giai đoạn từ 1920 – 1923. .................................................................... 53
3.1.2. Giai đoạn từ 1929 – 1935. .................................................................... 55
3.1.3. Giai đoạn từ 1936 – 1939. .................................................................... 63
3.1.4. Giai đoạn từ 1940 – 1945. .................................................................... 66
3.2. Sự vận động về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác
của Nguyễn Công Hoan ................................................................................ 68
3.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ. ................................................................................. 68
3.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài. ........................................................................ 71
3.3. Hình tƣợng nhân vật. ............................................................................. 81
3.3.1. Hình tượng nhân vật trào phúng. .......................................................... 81
3.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình ............................................................. 84
3.4. Hệ thống ngôn ngữ- thể loại .................................................................. 87
3.4.1. Ngôn ngữ ............................................................................................... 87
3.4.2. Thể loại .................................................................................................. 90
3.5. Cốt truyện – Tình huống ....................................................................... 92
3.5.1. Cốt truyện .............................................................................................. 92
3.5.2. Tình huống truyện ................................................................................. 94
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu.
Lịch sử phát triển văn học của mỗi quốc gia, dân tộc đều ghi dấu sự vận động
và phát triển của lịch sử quốc gia, dân tộc ấy. Từ đó hình thành nên những bản sắc
riêng của quốc gia, dân tộc đó. Với hàng nghìn năm lịch sử vận động và phát triển,
văn học Việt Nam đã thực sự tạo được một dấu ấn riêng, bản sắc riêng về văn học,
văn hóa Việt.
Văn học Việt Nam có một bề dày truyền thống. Từ văn học dân gian đến văn
học thành văn đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện, phản ánh tâm tư, tình cảm
của con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Đặc biệt là gần mười thế kỉ tồn tại và
phát triển của văn học trung đại, Nho giáo giữ vai trò định hướng phát triển văn học
Việt Nam. Điều ấy thực sự tạo nên một bản sắc rất riêng của Văn học Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam có những bước phát triển
mới. Đó là bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại. Một thời đại mới của văn
học đã phôi thai từ giai đoạn quá độ, từng bước hòa nhập vào quỹ đạo của văn học
thế giới.
Sự vận động phát triển của thời đại lịch sử đã đưa văn học Việt Nam chuyển
mình sang một hướng mới. Đó là sự vận động, chuyển đổi cả nội dung và nghệ thuật
phản ánh của văn học Việt Nam. Từ những áng văn chương mang đậm màu sắc của
văn chương Trung đại chuyển sang hướng hiện đại hóa của văn học Phương Tây.
Thực tế của nền văn học sử Việt Nam cho thấy, mối liên hệ từ truyền thống
đến hiện đại chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, khai thác. Đặc biệt
là sự vận động của văn học Việt Nam được thể hiện qua một số tác giả tiêu biểu như:
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng…Sự vận động trong sáng tác
của họ thể hiện quy luật đặc thù của văn học Việt Nam.
Và nhà văn thể hiện sự vận động chuyển đổi về phong cách sáng tạo nghệ
thuật ấn tượng hơn cả là nhà văn Nguyễn Công Hoan.
Nguyễn Công Hoan là một tác gia lớn trong nền văn học cận đại Việt Nam.
Sự nghiệp của ông được tạo dựng bởi hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết
1
có giá trị trong nền văn học nước nhà.
Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan mang những nét đặc thù về quan điểm
thẩm mỹ nghệ thuật riêng, để lại những dấu ấn riêng về truyền thống của gia đình;
giai đoạn lịch sử xã hội ấn tượng cụ thể.
Có một số công trình nghiên cứu về những sáng tác của ông, nhưng phần
nhiều chỉ thiên về đọc và bình văn rồi đưa ra kết luận Hay- Dở mà chưa dựng được
một bức tranh toàn cảnh về quy luật tồn tại và vận động phát triển của đối tượng;
chưa chỉ ra được những con đường ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành con
người nhà văn.
Bởi vậy, luận văn của chúng tôi đi sâu và hướng tới sự chuyển đổi loại hình tác
giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan.
Luận văn của chúng tôi được hình thành trực tiếp từ sự gợi ý và hướng dẫn
của GS - TS Trần Ngọc Vương, đồng thời với nỗ lực tự thân của người viết. Nhưng
do thời gian hạn hẹp và do tính chất, mức độ của luận văn, chúng tôi chỉ đi vào
phạm vi chuyên sâu và giới hạn ở một số điểm sau:
(1). Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn Nam .
Đó là sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Trấn Sơn Nam đến
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.
(2). Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945.
Đó là sự chuyển biến rõ nét về nội dung và phong cách nghệ thuật của nhà văn
từ ảnh hưởng của văn chương nhà nho sang văn chương hiện thực phê phán mang
đậm phong cách văn chương phương Tây.
(3). Từ những vấn đề trên, chúng tôi đi tới vấn đề cụ thể về tư tưởng và quan điểm
nghệ thuật của nhà văn qua những sáng tác của ông. Nhằm chứng minh cho nhận
định: sự vận động chuyển đổi loại hình tác tác giả văn học qua sáng tác của Nguyễn
Công Hoan trước cách mạng tháng Tám 1945.
Tuy nhiên, do thời gian tiếp cận đề tài còn hạn chế, vốn kiến thức được trang
bị nhiều điểm còn chưa thực sự sâu sắc, nên có những vấn đề chưa được nghiên cứu
sâu. Luận văn chưa mở rông sang các tác giả cùng thời khác để thấy được sự vận
2
động biến đổi của hệ quy chiếu trong hầu hết các tác giả những năm đầu thế kỉ XX.
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn.
2.1. Mục đích và ý nghĩa lý luận.
Đối tượng nghiên cứu là một tác giả lớn, quá trình hình thành, vận động và
phát triển phong cách nhà văn Nguyễn Công Hoan. Vì vậy, chúng tôi xác định mục
đích, tính chất của luận văn là vấn đề nghiên cứu của văn học sử. Cụ thể là nghiên
cứu sự chuyển biến mang tính quy luật đặc thù của văn học Việt Nam qua ngòi bút
nhà văn.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Thực hiện được mục tiêu trên, chúng tôi hi vọng luận văn của mình góp phần
phục vụ trực tiếp cho việc tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết
của Nguyễn Công Hoan ở cấp độ phân tích, cảm nhận văn học qua thực chứng lịch
sử khách quan.
3. Lịch sử vấn đề:
Có khá nhiều nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết cho sáng tác của Nguyễn
Công Hoan, và nhiều nhà nghiên cứu coi Nguyễn Công Hoan là một nhà văn tiêu
biểu của chủ nghĩa hiện thực.
Trên tạp chí Nam Phong 7 – 1932, Trúc Hà viết phê bình về truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan “Một ngọn bút mới”. Trong bài viết của mình, Trúc Hà chỉ ra
những “lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm một vài câu hoặc
một vài chữ có ý khôi hài bông lơn thú vị”…
Trong cuốn “Phương pháp sáng tác ttrong văn học nghệ thuật”, NXB Sự
thật Hà Nội 1962, Hồng Chương chỉ ra: lối tả tỉ mỉ ở các chi tiết là một đặc điểm
của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan. Phan Cự
Đệ trong “Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975” (tập 2), NXB Đại Học và Trung học
chuyên nghiệp khẳng định: Nguyễn Công Hoan đã đặt những viên gạch đầu tiên
xây đắp nền móng cho văn xuôi hiện thực phê phán. Ông là người đầu tiên khẳng
định phương pháp hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn và là ngọn cờ đầu
3
của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 – 1945.
Năm 2002, cuốn Nguyễn Công Hoan, Tác gia – Tác phẩm do nhà nghiên
cứu Lê Thị Đức Hạnh biên soạn được xem là cuốn tài liệu tập hợp được những công
trình nghiên cứu đầy đủ nhất về Nguyễn Công Hoan từ trước tới nay.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan đều chưa thật chú ý
đến những con đường ảnh hưởng quan trọng tới sự vận động, chuyển đổi loại hình
nhà văn. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi cố gắng làm rõ sự chuyển đổi loại hình tác
giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan
dưới góc nhìn từ lý thuyết loại hình học tác giả nhà văn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp loại hình học tác giả và phương pháp logic - lịch sử là nền tảng
cho các phương pháp và thao tác khoa học mà luận văn sử dụng ở cấp khái quát
nhất. Ngoài ra, trong việc nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của văn học,
chúng tôi còn sử dụng phương pháp chuyên sâu như nghiên cứu lịch sử văn hóa và
phương pháp loại hình học tác giả.
Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp so sánh đối chiếu cũng được
chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
5. Cấu trúc luận văn.
- Chương 1: Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn
Nam .
-Chương 2. Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác
của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945.
-Chương 3. Sự vận động trong tư tưởng của nhà văn qua những tác phẩm văn
4
học của ông.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ VÙNG
VĂN HÓA SƠN NAM
1.1. Truyền thống gia đình.
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan.
Nguyễn Công Hoan- tác giả truyện ngắn xuất sắc, một hiện tượng đặc biệt
trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông sinh ngày mồng 6 tháng 3 năm 1903 trong một gia đình nho học ở làng
Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hưng Yên). Gia đình ông là
gia đình nhà nho có nhiều người làm quan với Pháp. Cha ông tuy đỗ tú tài nhưng
chỉ được nhận chức huấn đạo và ở mãi chức này cho đến khi mất. Đồng lương ít ỏi
của cha không đủ nuôi đàn con đông, nên Nguyễn Công Hoan từ nhỏ đã được ông
bác ruột, một ông quan yếm thế có tinh thần yêu nước đón về nuôi dưỡng và giáo
dục. Ngay từ những ngày còn nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu thiếu niên thông minh,
nghịch ngợm và hóm hỉnh. Tuy bé nhất trong nhà nhưng ông lại luôn là người đầu
trò trong các cuộc chơi. Ông thường tự biên soạn những vở chèo, vở tuồng từ những
tích cũ, tự lập sân khấu rồi cùng các anh con của bác chơi trò biểu diễn. Đề tài
những vở kịch do ông nghĩ ra hoàn toàn dựa theo những truyện hàng ngày nghe kể,
khi là chơi trong các trại lính lệ, lính cơ nhằm giễu cợt những thói hư tật xấu của kẻ
có quyền và xót thương những người nghèo khờ dại. Những buổi biểu diễn này
được lính lệ và nhân dân trong vùng đến xem rất đông. Cứ tối đến, họ lại kéo nhau
đến tụ tập quanh sân nhà người bác để xem “cậu chủ nhỏ diến trò” và cậu chủ nhỏ
được họ rất yêu quý. Năm lên bảy tuổi, Nguyễn Công Hoan được học tiếng Pháp
với một thầy ký rượu. Ông học tiếng thì ít mà học mánh khóe từ thầy thì nhiều. Bài
học của ông thường là những bài vè truyền khẩu nửa Tây nửa Ta, những thủ thuật
đong và pha rượu lậu cùng những buổi đàn hát. Kết quả là sau hai tháng người bác
đành phải bắt ông thôi học với thầy ký rượu. Chín tuổi, ông được bác gửi lên học ở
trường Bưởi (trường Chu Văn An). Trong thời gian học ở trường Bưởi (từ chín đến
mười sáu tuổi) ông quen và thân với nhiều nhà văn nhà thơ đương thời, đặc biệt là
5
nhà thơ Tản Đà. Ông rất thích thơ Tản Đà, bài thơ nào của Tản Đà ông cũng đọc và
thuộc. Qua Tản Đà ông còn đọc nhiều và trở nên thích thơ Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, Tú Mỡ… chính Tản Đà là nấc thang đầu tiên đưa bước Nguyễn Công Hoan
vào làng văn học. Năm mười bảy tuổi, sau một chuyến bỏ nhà ra Hải Phòng cùng
một anh con bác, trở về ông viết truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu”. Truyện
ngắn này ông viết chỉ để đùa vui nhưng thật ra đã rõ dáng dấp con người ông và
cũng đã báo hiệu những văn phẩm của ông sau này. Một chuyện bịa từ cái gốc có
thật về chuyện đi bất thành của mình. Ông bịa chuyện có thật ấy nhằm mỉa mai và
đả kích chế độ thực dân. Năm 1922 ông lại ra Hà Nội học để ôn thi vào trường Nam
Sư phạm và bắt đầu viết truyện dài “Phải gió”. Truyện dài này làm cho các bạn
cùng phòng ở với ông không nhịn được cười. Kết cục nó bị thu bởi tác giả của nó
gây mất trật tự trong khu nội trú. Cùng năm, (vào tháng 7) Nguyễn Công Hoan đỗ
vào trường Sư phạm. Ông vừa học vừa viết văn. Những truyện ngắn thời kỳ này của
ông được in trên mục “Truyện thế gian” do Tản Đà thư cục xuất bản. Truyện của
ông, giọng văn, câu văn ngắn gọn, giản dị, dí dỏm khác hẳn với lối văn cầu kì, ước
lệ, cổ điển của những tác giả cùng thời. Vì vậy truyện ngắn của ông thời kỳ này
không gây được tiếng vang, nhưng đã báo cho độc giả thấy được sự xuất hiện của
một cây bút mới với lối văn hoàn toàn mới lạ. Mặt khác, do ham đọc thơ văn, ông
có con mắt nhìn đời bằng hồn thi sĩ, nên phong cách hiện thực phê phán sắc sảo của
ông đậm chất trữ tình.
Tốt nghiệp trường Nam Sư phạm năm ông hai mươi ba tuổi. Công việc dạy
học của ông vô cùng long đong, vất vả. Do bị tình nghi có tham gia hoạt động cách
mạng nên ông không ở đâu được lâu mà luôn bị thuyên chuyển vùng. Từ thị xã Hải
Dương ông phải chuyển đến huyện Nam Sách, huyện Kim Môn, thị xã Lào Cai,
thành phố Nam Định, rồi ra đảo Trà Cổ. Con đường văn nghiệp của ông cũng không
kém phần lao đao, trắc trở. Ông luôn bị thực dân Pháp theo dõi, ghìm ngòi bút, có
thời kỳ còn bị treo bút. Nhiều tiểu thuyết của ông bị cấm lưu hành như (Cái thủ lợn-
1939), nhiều truyện ngắn bị kiểm duyệt, cắt xén hoặc xóa trắng (Êu êu Mê đo; Hồi
còi báo động). Lớn lên trong thời kì những sự kiện chính trị lớn dốn dập xảy ra ở
trong và ngoài nước, lại làm cái nghề luôn bị chèn ép và bản thân bị nghi kị nên
6
giúp ông có cái nhìn đúng về xã hội đương thời. Sẵn có thái độ hằn học với kẻ xu
nịnh, hằn học với bọn thực dân tàn ác, quan lại tham nhũng, bọn giàu sang gian trá,
nên Nguyễn Công Hoan không dễ lùi bước trước mọi khó khăn. Truyện ngắn của
ông ngày càng điêu luyện về nghệ thuật, sắc sảo về nội dung dần đưa ông tới vị trí
hàng đầu trong dòng văn học hiện thực phê phán.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, theo quy luật chung của sự phát triển, văn
học Việt Nam dần chuyển mình từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Thời kì
này giữa biết bao nếp nghĩ vay mượn, cách diễn đạt vay mượn, giữa biết bao sự mời
gọi quyến rũ tưởng không cưỡng lại được của văn học ngoại lai nhưng Nguyễn
Công Hoan đã giữ cho ngòi bút của mình đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa
hiện thực. Ông trở thành một trong những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng
nền móng cho nền văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam. Đó cũng là thời kì văn
học Việt Nam đang ở buổi sơ khai của nền văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ. Giai
đoạn này đòi hỏi mỗi người cầm bút phải tự tìm lấy mình, khẳng định mình, khẳng
định văn học nước nhà. Con đường độc đáo Nguyễn Công Hoan đã chọn và táo bạo
mở đường đi tới một mình: Viết những truyện trong đời sống thực từ những cảnh
ngang trái bất công, những sự thối nát sa đọa, những cảnh khổ đau xảy ra hàng ngày
trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Sự nghiệp văn học của ông bắt đầu từ
những năm 1920 với tập truyện ngắn đầu tay: “Kiếp hồng nhan” (xuất bản năm
1923). Truyện viết về những người thuộc tầng lớp dưới được biểu hiện bằng cách
nhìn xót thương, từ đó mà giễu cợt kẻ lộng quyền hợm của. Tuy tập truyện này
“không có ý nghĩa gì, không có mục đích nào” [23/81] nhưng vẫn gây được sự thán
phục của bạn bè. Nó là tập truyện đầu tiên của Việt Nam, gồm toàn truyện sáng tác
chứ không phải vừa truyện dịch, vừa truyện soạn như các truyện trước đó. Phải tới
những năm 1929 – 1033 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bởi những trang in
trong mục Xã hội ba đào ký trên An Nam tạo chí do Tản Đà chủ trương. Những
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trên mục Xã hội ba đào ký được độc giả rất
yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã
nhanh chóng trở nên quen thuộc với bạn đọc. Những cuốn tiểu thuyết “Những cảnh
khốn nạn” (1932); “Tắt lửa lòng”(1933); “Lệ dung”(1934); “Tấm lòng
7
vàng”(1934) cũng lần lượt xuất hiện. Đặc biệt trong cuốn “Những cảnh khốn
nạn”(Tập 1 với 218 trang) viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai đã báo hiệu
con đường văn chương độc đáo của ông sau này.
Tháng 6 năm 1935 khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” xuất hiện, địa vị của
ông càng được khẳng định. Kép Tư bền gồm 15 truyện phần lớn viết về những
người khốn khổ đáng thương. Ông thông cảm với nỗi dày vò họ và nói lên sự tàn
nhẫn của những người xung quanh. Trong không khí của những năm 1935- 1936
Kép Tư Bền ra đời rất đúng lúc, nó mở đầu cho trào lưu văn học tả chân xã hội.
Thời kỳ này độc giả muốn có những trang viết về cảnh lầm than của xã hội để thức
tỉnh mọi người. Trong tình trạng ấy, tập truyện ngắn Kép Tư Bền ra đời có thể xem
là một cái mốc đánh dấu trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Ông viết:“việc
cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi rằng tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và
tôi có thể theo đuổi nghề văn” [23/188]. Tập truyện với nghệ thuật độc đáo, mới lạ,
có truyện không có cốt truyện (Cô Kếu gái tân thời), có truyện viết không theo hình
thức kể chuyện (Thế là mợ nó đi Tây) đã thu hút được đông đảo bạn đọc trong cả
nước. Những tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của Khái Hưng, Nhất Linh… bị lu mờ,
thay vào đó là những tác phẩm hiện thực của Nguyễn Công Hoan. Năm đó, Kép Tư
Bền được đánh giá là tập truyện ngắn hay nhất, được mười tám tờ báo ở Trung,
Nam, Bắc viết bài khen ngợi và trở thành đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ
thuật. Phái nghệ thuật vị dân sinh của Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công
kích nghệ thuật vị nghệ thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ
gay cấn nhất thi Hải triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh
đưa phái nghệ thuật vị dân sinh đi đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến của Hải
Triều có viết “Cái chủ trương nghệ thuật vị dân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện
bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn công
Hoan” [48]. Để khẳng định chủ trương của mình, Hải Triều còn tổ chức buổi gặp
mặt tác giả với bạn đọc và trưng cầu ý kiến độc giả tại nhà sách Hương Giang (Huế).
Kết quả của cuộc trưng cầu là tác Phẩm Kép Tư Bền được xếp hàng đầu, tác giả của
nó được bạn đọc hoan nghênh nhất. Ông trở thành ngọn cờ đầu của văn học hiện
8
thực phê phán Việt Nam.
Thời kỳ mặt trận Dân chủ (1936- 1939), thực dân Pháp nới lỏng chế độ kiểm
duyệt sách báo, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan được tung hoành hơn. Nhờ ảnh
hưởng của Đảng, của sách báo Mác xít, của phong trào quần chúng khắp nơi, những
tác phẩm của ông đạt chất lượng cao hơn trước. Chúng như những chiếc gai nhọn
đối với nhà cầm quyền. Thời kỳ ông viết sung sức chưa từng thấy, với hơn 80
truyện ngắn, trong đó có khoảng 30 truyện đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân.
Ông đưa vào tác phẩm của mình từ cuộc sống Âu hóa lố lăng “Cô Kếu gái tân thời”,
đến tệ quan lại tham nhũng “Công dụng của cái miệng”; “Người thứ ba”. Từ cuộc
sống vương giả của những kẻ ăn trên ngồi chốc như “Phành phạch”;“Quyền chủ”
đến cuộc sống cùng cực của kiếp đi ở “Thằng Quýt”; “Thanh!Dạ”. Từ đề tài xã hội
này, ông đã nhanh chóng chuyển sang đề tài chính trị, không những ông tố cáo tệ
tham nhũng, thói dâm ô đểu cáng “Thằng ăn cướp”; “Đồng hào có ma”; “Nạn ô
tô”; “Nạn râu”…mà còn vạch trần những thủ đoạn chính trị lừa bịp và cơ hội của
bọn quan lại triều đình như “Biểu tình”; “Chiến tuyến bình”, những thủ đoạn mua
bán, tranh giành lá phiếu của bọn nghị viên (Trần Thiện – Lê Văn Hà). Đặc biệt ông
đã chĩa mũi nhọn đả kích vào một số chính sách của bọn thực dân Pháp: Từ sự xâm
lấn từng bước khá nguy hiểm của chính quyền thực dân “Người vợ lẽ bạn tôi” đến
những chủ trương cực kỳ vô lý và ngu xuẩn đối với trẻ con không nơi nương tựa
như “Giá ai cho cháu một hào”. Từ những thủ đoạn tuyên truyền ầm ĩ cho tên vua
bù nhìn bán nước “Đào kép mới” đến những cuộc vận động cho phong trào thể thao
một cách bịp bợm, giả dối của tên thống sứ Chatet “Tinh thần thể dục”.
Thời kỳ này ông viết nhiều tiểu thuyết, truyện dài: “Ông chủ”; “Bà
chủ”(1935), “Cô giáo Minh” (1936), “Cô làm công” (1936), “Bước đường cùng”
(1938) và “Cái thủ lợn” (1939). “Bước đường cùng” được được sáng tác trong
vòng 16 ngày trước khi tác giả ra “an trí” ở đảo Trà Cổ. Tác phẩm viết về tình cảnh
người nông dân vì thất học, u mê, tăm tối nên bị địa chủ dùng thủ đoạn để cướp nhà,
cướp ruộng và bị đẩy vào cuộc sống bần cùng. Bọn địa chủ thì gian ác, hách dịch,
đứa nào cũng dựa vào thế quan, thế Tây để bóc lột nhân dân thậm tệ, nhưng cuối
cùng những người nông dân cũng giác ngộ, họ biết đoàn kết chống lại địa chủ. Tác
9
phẩm có tính tư tưởng cao, nội dung hiện thực sâu sắc nên vừa ra đời một thời gian
ngắn thì bị chính quyền thực dân cấm. Rút cuộc 5000 cuốn “Bước đường cùng”
vẫn được tiêu thụ hết. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn đã xây dựng
được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình theo yêu cầu của chủ
nghĩa hiện thực. Đề tài của tiểu thuyết ảnh hưởng nhiều của sách báo đảng Cộng
Sản bấy giờ và đã gây được tiếng vang lớn trong kỳ mặt trận Dân chủ.
Sang những năm dại chiến thế giới II, Nguyễn Công Hoan mất phương
hướng và bế tắc. Từ con đường chủ nghĩa hiện thực ông đi chệch hướng sang con
đường chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ. Vốn chịu ít nhiều tư tưởng phong kiến, ông đã
viết một số tiểu thuyết có khuynh hướng phục cổ, tiêu biểu là “Thanh đạm” (1942).
Tác phẩm đề cao Nho giáo, phong tục và sinh hoạt phong kiến cổ xưa. “Thanh đạm”
bị lên án gay gắt làm cho Nguyễn Công Hoan trở nên bi quan, chán nản.
Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nhà văn vui mừng, hồ hởi mặc áo
lính, làm công tác văn hóa trong quân đội và dần có cơ hội trở lại viết văn. Ông
sáng tác nhiều truyện dài, nhiều tiểu thuyết xã hội như: “Tranh tối tranh sáng”
(1950); “Hỗn canh hỗn cư” (1961); “Đống rác cũ” (1963)…ngoài ra ông còn viết
nghiên cứu về Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…viết bài cho phát thanh, tham
gia vào việc biên soạn từ điển, ngữ pháp tiếng Việt của viện Ngôn ngữ. Đặc biệt,
ông viết được nhiều tập hồi ký chân thực và có giá trị: “Đời viết văn của tôi”; “Nhớ
gì ghi nấy”… “Đời viết văn của tôi” viết năm 1971, cuốn hồi ký này ghi lại các sự
kiện 60 năm văn học nước nhà, từ những bước đầu của ngành báo chí xuất bản.
Cuốn sách giới thiệu nhiểu nhà văn, nhà nghiên cứu, trong hoàn cảnh nước ta trước
đây các ngành bảo tồn, bảo tàng, xã hội học, dân tộc học chưa phát triển thì đây là
tài liệu rất tốt cho giúp cho các thế hệ sau dựng lại bức tranh chân thật về một thời
kỳ lịch sử đã qua đồng thời cũng cho họ những chi tiết chính xác về cái xã hội tù
túng, quằn quại dưới ách thực dân phong kiến. Mặt khác, cuốn hồi ký này để lại cho
các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu thế hệ sau nhiều tri thức quý báu về nghề
văn cũng nhưu kinh nghiệm viết văn của ông. Cuốn sách được đánh giá là “một
cuốn cẩm nang văn học” đối với “những hậu duệ văn học” [51/30].
Là nhà văn viết khỏe, với trên nửa thế kỉ sáng tác, Nguyễn Công Hoan sáng
10
tác tác trên 200 truyện ngắn, hơn 30 truyện dài và các thể loại khác, ông xứng đáng
là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nếu
như Ngô Tất Tố tập trung viết về người nông dân, Vũ Trọng Phụng đả kích vào giai
cấp Tư sản, thì đóng góp chủ yếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là xây dựng
thành công một phong trào châm biếm, đả kích các kiểu quan lại và địa chủ cường
hào ở nông thôn và thành thị.
Nguyễn Công Hoan viết nhiều thể loại khác nhau: Tiểu thuyết, truyện ngắn,
truyện dài, ký…nhưng ông sống trong độc giả và khẳng định mình trên văn đàn dân
tộc chính là thể loại truyện ngắn. Các nhà nghiên cứu Trúc Hà, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Hiếu công nhận: “Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan
chỉ ở trong truyện ngắn”[13]. Nhà văn cũng thừa nhận: “Trong quãng đời hoạt
động về văn học trước cách mạng của tôi, tôi đặt nhiều công phu vào viết truyện
ngắn [25/207].
Những tập truyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc ta là những
truyện ngắn lịch sử đã xuất hiện từ đời Trần, đời Lê. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVI,
truyện ngắn dân tộc đã phát triển phong phú và có nhiều kiểu, nhiều màu sắc khác
nhau. Với “Thánh Tông di thảo” và “Truền kỳ mạn lục”, những đặc điểm truyền
thống của truyện ngắn Việt Nam đã hình thành trọn vẹn. Đến thời kỳ cận đại, những
tác phẩm văn xuôi đã chuẩn bị tích cực cho chủ nghĩa hiện thực phê phán ra đời sau
những năm 1930. Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết và
kịch của Trọng Khiêm, Hồ Biểu Chánh, Vũ Đình Long, Nam Xương…bản thân nó
chưa phải là những tác phẩm hiện thực phê phán theo ý nghĩa chính xác, đầy đủ của
thuật ngữ đó. Trong lĩnh vực truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên có
công khai phá con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đi vào thế giới
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển
lãm phong phú và nhiều màu vẻ về nhũng cảnh ngộ, những con người đang khóc,
đang cười, những niềm vui, nỗi cay đắng buồn đau như là lẽ thường. Truyện ngắn
của ông sinh động, hấp dẫn với nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ nghệ thuật
kết cấu truyện gọn, chặt chẽ đến cách xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính đưa
đến một kết thúc bất ngờ làm nổi bật tiếng cười giễu cợt. Từ nghệ thuật xây dựng
11
nhân vật đặc sắc đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ và giọng điệu giản dị, trong sáng,
dễ hiểu. Đặc biệt ông rất thành công khi sử dụng thủ pháp trào phúng, gây cười
trong truyện ngắn của mình. Truyện ngắn của ông được viết dưới nhiều cung bậc
tình cảm. Có truyện ông viết ra để gây căm hờn (Sáng, chị phu mỏ), để làm kinh
tởm (Gói đồ nữ trang), để gợi lòng thương (Anh Sẩm; Cái vốn để sinh nhai), hoặc
để cười (Samandji). Có những truyện là tấn hài kịch (Ai khôn; Đàn bà là giống yếu;
Một tấm gương sáng), bi kịch (Bộ ba Chiếc quan tài), hoặc bi hài lẫn lộn (Thằng ăn
cắp; Hai thằng khốn nạn). Có những truyện xây dựng trên nguyên tắc tượng trưng
(Đào kép mới), lại có những truyện thực ra là sự nhạo lại cái gì xảy ra trong thực tế
(Cụ Chánh Bá mất giày; Báo hiếu). Đề tài thường xuyên thu hút nhà văn là quan hệ
giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Phanh phui bất công xã hội là lập trường tư
tưởng duy nhất ông chấp nhận.
Nhà văn sống hòa mình vào cuộc sống, lấy đề tài sáng tác từ giữa cuộc sống
lố lăng thời bấy giờ, nên tác phẩm của ông thường nhằm nâng cao năng lực nhận
thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Xã hội phong kiến nửa thực dân
ở Việt Nam trước 1945 đầy rẫy sự lừa bịp và khôi hài, thế nhưng kẻ thống trị luôn
tìm cách để che dấu bộ mặt thật của chúng. Cần phải phanh phui những mâu thuẫn
nội tại ấy. Một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (Đào kép mới; Tinh
thần thể dục; Chính sách thân dân…) đã đáp ứng được yêu cầu đó. Những truyện
ngắn này đã vạch ra những mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung
và hình thức để bật lên tiếng cười đả kích.
Cách mạng tháng Tám thành công, khi một loạt các nhà văn phải trăn trở “lột
xác”, “nhận đường” thì Nguyễn Công Hoan tuyệt nhiên không có hiện tượng đó.
Bạn đọc có thể đọc có thể đọc một truyện ngắn trong “Kiếp hồng nhan” viết năm
1920 với truyện “Chiếc xe lam” một trong những sáng tác sau cùng khi nhà văn vào
Sài Gòn giải phóng năm 1975 không hề thấy một khoảng cách thời gian. Nguyễn
Công Hoan không lúc nào cũ, đó là bí quyết của ông. Bí quyết ấy bắt nguồn từ chắt
lọc ý nghĩ, tư tưởng đời sống xã hội, từ việc sáng tác bằng tiếng nói hàng ngày ở xung
quanh của nhà văn. Vì vậy, ở Nguyễn Công Hoan tả chân, tả thực kia và Nguyễn
12
Công Hoan hiện thực sau này chỉ là rút kinh nghiệm hay thiếu sót bổ sung.
Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng nền giáo dục phong kiến của người bác,
văn học dân gian qua giọng kể của bà, đặc biệt là những truyện tiếu lâm. Ông cũng
chịu ảnh hưởng nhiều của văn học Pháp, nhất là trong những năm học ở trường Sư
phạm, của văn Tản Đà, thơ Tú Xương… và báo chí đương thời. Do vậy, truyện
ngắn của ông có nhiều nét gần với gần với truyện cười dân gian nhưng văn lại khá
mới. Với bản tính thích khôi hài, lại sống trong thời buổi nhố nhăng nên truyện của
ông thường là những truyện hoạt kê – truyện bật lên những chuỗi cười rơi nước mắt.
Nhà nghiên cứu Xô Viết Niculin đã viết:“Chính trong loại truyện ngắn trào phúng
đó, thiên tài xuất sắc của nhà văn được nảy nở hết sức mạnh mẽ”[37/78].
Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Công Hoan đã đóng góp cho
nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm vừa đồ sộ, vừa đạt đến một nghệ
thuật khá điêu luyện.
Đến nay, nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết của ông đã được chuyển thể sang
sân khấu (Tắt lửa lòng), điện ảnh (Lá ngọc cành vàng) và được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới như: Nga, Bungari, Anbani, Đức, Cu ba, Ấn Độ, Pháp, Nhật
Bản…vinh dự lớn nhất mà nhà văn đạt được là năm 1996 ông được nhận giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1). Ở trong nước, theo thống kê
năm 1996 tổng số sách của ông đã xuất bản là 33 cuốn, trong đó có những cuốn 4
tập. Ông là một trong những nhà văn Việt Nam có tác phẩm in ở Nhà xuất bản Văn
học nhiều nhất, tổng số đầu sách được in lên tới 25 cuốn. Tác phẩm “Bước đường
cùng” của ông được xếp vào hàng những tác phẩm được in nhiều nhất (10 lần) với
con số kỷ lục trong một lần xuất bản (lên tới 20.100 bản năm 1962). Năm 1997
chuẩn bị 95 năm ngày sinh của nhà văn (1903 – 1998), Nhà xuất bản Văn nghệ trẻ
thành phố Hồ Chí Minh cho ra đời 9 cuốn tiểu thuyết với tên “Tủ sách Nguyễn
Công Hoan”. Có nhiều công trình khoa học ở trong nước và quốc tế nghiên cứu về
ông và tác phẩm của ông. Nguyễn Công Hoan thực sự trở thành một cây đại thụ
trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.1.2. Truyền thống gia đình.
Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn
13
Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế.
Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu
thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp
quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này.
Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan
trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công
Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng
Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.
Truyền thống gia đình với Nguyễn Công Hoan có sự ảnh hưởng sâu sắc tới
sự nghiệp văn chương của nhà văn sau này. Có thể nói, tuổi ấu thơ của ông giống
như “kho tài liệu” quý giá cho ông khai thác dần dần về sau. “Nếu tờ giấy trắng
được nhuộm màu nào đầu tiên thì cái màu ấy là nền, nó rõ mãi và bền mãi. Thì
trong đời người ta những điều mắt thấy, tai nghe được và nhớ lâu nhất, tạo cho con
người một nền tảng về tư tưởng đối với sự việc, một khả năng làm cái gì sau này”
[25/53]. Cách nói đầy hình ảnh chứng minh cho con đường sáng tác của nhà văn,
đặc biệt trong những giai đoạn đầu. Đó là ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình và hoàn
cảnh xã hội thời đại Nguyễn Công Hoan.
Sinh ra và trưởng thành trong gia đình nhà quan, ông tự hào “về một dòng
dõi mà người ta gọi là thế phiệt. Từ xưa đến nay, vào đời nào cũng có người đỗ đại
khoa và làm quan to”. Lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan đến ở với bác là Nguyễn
Đạo Quán, đỗ phó bảng và làm đến chức tri phủ. Sáu tuổi học chữ Nho và mười
tuổi xoay sang học chữ Pháp.
Niềm tự hào về dòng dõi phần nào sinh ra “tính tự phụ, tự cao” ở cậu bé
Hoan ngay từ hồi cắp sách đến trường. Vốn thông minh, tinh nghịch, lại pha chút tự
cao về truyền thống gia đình, Nguyễn Công Hoan “trở nên một thằng học trò lười
biếng đọc sách, khinh thế ngạo vật, nhưng lại là người biết tự hào dân tộc, biết thù
ghét những gì làm tổn thương đến hào khí dân tộc”.
Khi thời thế đổi thay, Nho học không còn hợp thời, gia đình Nguyễn Công
Hoan rơi vào cảnh lẹt đẹt, nghèo túng. Người bất mãn với chế độ mới nhiều nhất là
14
cha ông - Nguyễn Đạo Khang. Đêm nào cha cũng kể chuyện quan Ta, quan Tây,
chuyện về những ông huyện…Câu chuyện kể thấm đẫm tâm trạng của người cha lỗi
thời, bị lép vế, muốn trút hết nỗi hằn học đối với thời cuộc đã khắc vào thói quen
của Nguyễn Công Hoan một nếp “thích biết chuyện quan trường, thích biết chuyện
quanh công đường và trong tư thất”. Vì thế ngay từ thuở thiếu thời, trong lập
trường của Nguyễn Công Hoan đã biết “chia ranh giới giữa cái gì là đáng trọng và
cái gì đáng khinh, giữa người đáng thương và kẻ đáng ghét”.
Mặt khác, sống trong gia đình quan tri phủ, hàng ngày cậu bé Hoan được
chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt. “Tôi ngắm anh nho bóp nặn người dân khờ
khạo. Tôi lắng nghe thầy lục sự xúc xiểm, dọa nạt người chất phác đến đưa đơn
kiện. Tôi nhìn thấy nét mặt họ thay đổi ra sao khi họ vừa được tiền của người dân
nghèo khó. Và tôi còn được nghe thấy sau buổi hầu, họ chế nhạo, chửi sau lưng
những người ngốc nghếch tin mà mất tiền cho họ”. Quãng đời đó có ảnh hưởng
không nhỏ đến lập trường sáng tác sau này của nhà văn. Ông lắng nghe để mà hiểu
dần và từ đó biết suy nghĩ, trăn trở trước số phận của những con người thấp cổ bé
họng, biết “Tây là thế nào, quan ta, tổng lý, lính tráng đối với dân đen ra sao?”.
Từ hiện thực của cuộc sống gia đình đến những câu chuyện ngoài cổng chòi
và trong sân công đường đã tác động vào thế giới quan nhà văn tạo ra một cái nhìn
bi quan. Trong “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan tổng kết; “Tóm lại cuộc
đời của tôi, sống dưới chế độ phong kiến và đế quốc, với những ảnh hưởng giáo dục
của truyền thống gia đình, của nhà trường, của xã hội, với những điều mắt thấy, tai
nghe của tôi trong quá trình làm công chức của thực dân, với những phen may mắn,
lo âu, đã tạo cho tôi thành một con người bi quan đối với thời cục, hằn học đối với
chế độ, hoài nghi đối với nhân tâm, sinh ra cho tôi cái tính nghịch ngợm, ranh
mãnh, khinh thế ngạo vật, làm cho tôi thói quen hay đùa bỡn, hay chế nhạo chua
chát” [25/99]. Ông đã “ dùng óc để học trong cuốn thiên nhiên xã hội Việt Nam”
viết lên cảnh huống, tâm trạng của những con người sống trong xã hội ấy chứ không
phải ở một thế giới nào xa xôi.
Cùng với vốn sống được tích lũy trong quãng đời từ 10 đến 20 tuổi, lòng yêu
văn học có ở Nguyễn Công Hoan ngay từ hồi còn “nói ngọng”. Khi còn nhỏ, ông
15
thuộc những phương ngôn, tục ngữ,ca dao do bà nội truyền lại. Lúc đến trường, qua
lời giảng của thầy, ông hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, trần Tế Xương. Ông nói: “được nhập tâm những văn thơ hay, tôi
chịu ảnh hưởng của các bậc tiền nhân không nhỏ”.
Những năm đầu thế kỉ XX, khi báo chí xuất hiện, Nguyễn Công Hoan chăm
chú theo dõi những mẩu văn, những bài dịch từ sách Hán, sách Pháp, đặc biệt quan
tâm đến mục “Từ phú thi ca”, “Đoản thiên tiểu thuyết” bởi đó là văn sáng tác…
Lòng yêu gia đình, yêu văn học đã giúp ông nhìn cuộc đời không khô khan, trừu
tượng mà là cái nhìn của một tâm hồn thi sĩ “nghĩa là không nhìn bằng đôi mắt bình
thường những việc xảy ra một cách thẳng đuỗn, khô khan, mộc mạc, thật thà mà nhìn
bằng óc, bằng tim, vào những khía cạnh tiếng nói, trông thấy cả linh hồn sự việc”.
Vốn thông minh, tinh nghịch lại có hiếu hài hước của một tâm hồn yêu văn
chương cộng với thái độ bi quan của người bị coi là lỗi thời, tạo cho một cậu bé một
“thói quen hay đùa bỡn, hay chế nhạo chua chát”.Thuở thiếu thời Nguyễn Công
Hoan đã say sưa với những màn kịch tự biên, tự diễn. Ban đầu chỉ là “những câu nói
nhảm để chế giễu ông thầy bói, thầy cúng phỏng theo truyện tiếu lâm nhằm mục đích
gây cười sặc sụa chứ không có nghĩa lí gì”, nhưng về sau, ông “tìm những thói xấu
của những người xung quanh để làm đề tài, dựng nên kịch để chế nhạo” [25/66].
Có thể nói, tuổi ấu thơ của Nguyễn Công Hoan đã ấn định một điểm nhìn nghệ
thuật, chi phối hầu hết quá trình sáng tác của nhà văn cả trước và sau cách mạng.
1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ.
1.2.1. Đặc điểm về địa lý.
Trấn Sơn Nam hay xứ Sơn Nam hay là vùng đất phía nam Thăng Long từ thời
nhà Lê sơ đến nhà Nguyễn. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, bản đồ Việt Nam có 13
xứ (sau từ triều Tây Sơn đổi sang gọi là trấn). Đến đây, các vùng đất quanh Hà Nội
trở thành tứ trấn gồm: vùng núi phía tây được gọi là trấn Sơn Tây (hay xứ Đoài),
vùng núi phía nam Hà Nội được gọi là trấn Sơn Nam, vùng ven biển phía đông
được gọi là trấn Hải Đông (hay xứ Đông), vùng phía bắc Hà Nội được gọi là trấn
Kinh Bắc.
Ngày nay của trấn Sơn Nam là các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái
Bình và một phần các tỉnh Hưng Yên, Hà Nội (5 huyện phía nam).
16
1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội.
Trấn Sơn Nam là vùng đất phía Nam Thăng Long, từ thời Lê Sơ đến thời nhà
Nguyễn, bao gồm Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình và một phần Hưng
Yên, Hà Nội. Đó là miền đất của đồng bằng lúa nước chỉ thấp thoáng núi đá vôi ở
vùng Sơn Nam Thượng, còn vùng Sơn Nam Hạ hầu như không có núi. Văn hóa Sơn
Nam cùng với văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Xứ Đoài hình thành bản sắc văn hóa Việt
truyền thống.
Trước hết, có thể nói trấn Sơn Nam là vùng đất phát tích đế vương. Những
anh hùng để lại dấu ấn lịch sử tiêu biểu nhất trên đất Sơn Nam là Đinh Bộ Lĩnh, Lý
Công Uẩn và Trần Hưng Đạo.
Trấn Sơn Nam còn là vùng đất văn chương, chữ nghĩa. Nhân kiệt Sơn Nam
còn phải kể đến những tên tuổi lừng lẫy thời xưa như Lương Thế Vinh, Nguyễn
Hiền, Lê Quý Đôn, Ngô Quang Bích, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… vang vọng thời
nay như Trần Huy Liệu, Nam Cao, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan… Đó không
chỉ là đất của đế vương mà còn là đất của chữ nghĩa, văn chương. Người có con
đường khoa bảng hanh thông nhất nước Việt cũng ở trấn Sơn Nam. Đó chính là
Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909). Thơ Nguyễn Khuyến diễn đạt
được hòa khí vời vợi của đất trời, đặc tả được sự mong manh, cô đơn của tâm hồn
con người trong không gian chật hẹp, hai mặt của cuộc đời. Thơ ông thanh thoát
ngôn từ mà trĩu nặng tâm tư, hình tượng gần gũi mà sang trọng, nhạc điệu bay bổng
vượt qua niêm luật hà khắc của thơ Đường.
Trấn Sơn Nam, bức thủy mặc hữu tình. Vùng đất Sơn Nam như bức thủy
mặc bát ngát châu thổ đồng bằng, chấm phá mấy hòn độc sơn vừa đủ tạo dáng non
nước hữu tình. Sơn Nam ôm trọn hạ lưu sông Hồng, sông Trà, sông Đáy… những
dòng sông nặng đỏ phù sa, hẹn hò cùng biển cả, sinh nở thêm làng quê, bờ bãi. Văn
hóa Sơn Nam không có bề dày thời gian như Xứ Đoài, Kinh Bắc nhưng thừa kế và
thăng hoa được tất cả tinh hoa, tâm linh hồn Việt. Sơn Nam là đất của hát chèo, hát
xẩm và rối nước. Sơn Nam có những kiến trúc đáng kể như tháp Phổ Minh, chùa
Keo, cố đô Hoa Lư, nhà thờ đá Kim Sơn… Sơn Nam có những làng nghề cổ nổi
danh thế giới như nghề bạc Đồng Xâm, nghề đúc đồng Lý Nhân… Cảnh quan Sơn
17
Nam không nhiều nhưng lại có những chốn du ngoạn thuộc hàng Nam thiên đệ nhất
như Hương Tích, Non Nước, Cúc Phương. Non nước hữu tình ấy đương nhiên cũng
là nơi nương náu, giao duyên của những cuộc tình thơ mộng.
Nguyễn Công Hoan được sinh thành trong gia đình trâm anh thế phiệt, cộng
với truyền thống văn hóa quê hương, một vùng đất đã hội tụ được những truyền
thống vô cùng quý báu của vùng đất địa linh nhân kiệt. Có lẽ những đặc điểm ấy đã
góp phần không nhỏ hình thành một phong cách sáng tác văn học mang đậm phong
cách Nguyễn Công Hoan.
Hơn nữa, Nguyễn Công Hoan sinh ra và trưởng thành trong hoàn cảnh đất
nước chịu cảnh nô lệ, xã hội thực dân nửa phong kiến. Chứng kiến những cảnh đời
trướng tai gai mắt, Nguyễn Công Hoan đã dành hết bút lực của mình để vạch trần
những thói hư tật xấu của xã hội đương thời, phát huy truyền thống yêu nước
thương dân của các bậc tiền nhân như Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến phong
cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.
Thế kỉ XIX, trấn Sơn Nam xuất hiện khá nhiều nhà thơ tên tuổi, để lại một
dấu ấn quan trong trong nền văn học nước nhà. Tiêu biểu như: Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương, Kép Trà…
Nguyễn Khuyến , người mở đầu cho dòng văn học trào phúng và Trần Tế
Xương là người đưa dòng văn học này đến đỉnh cao. Sự tiếp nối mạch nguồn từ
Nguyễn Khuyến đến Tú Xương của dòng văn học trào phúng là con đường của sự
rạn vỡ từ lí tưởng thẩm mĩ Nho giáo, đến sự khởi đầu của mĩ học hiện thực chủ
nghĩa. Có thể khẳng định rằng Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là hai nhà thơ có
hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng. Họ là người đưa thơ trào phúng phát triển
thành một dòng nối tiếp không dứt, mở ra giai đoạn mới trong tiến trình phát triển
của nền văn học nước nhà, chuyển từ trung đại sang cận hiện đại, cầu nối đi đến văn
học hiện đại.
1.2.3.1. Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Khuyến sinh năm Ất Mùi (1835) ở Hoàng Xá, huyện Ý Yên, Nam
18
Định nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục tỉnh Hà
Nam. Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng có truyền
thống học hành thi cử. Ông nội Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh,
cha là Nguyễn Tông Khải đỗ liền ba khoa tú tài, nhưng trượt cử nhân. Từ nhỏ
Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người chăm chỉ học hành giỏi giang. Năm mười bảy
tuổi ông đi thi Hương với cha nhưng không đậu, sau đó cha mất vì nhà nghèo nên
ông đã phải thôi học để đi dạy thuê kiếm tiền nuôi mẹ. Lúc bấy giờ có ông Nghè là
Vũ Văn Lý, người làng Vĩnh Trụ, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam thấy ông học giỏi
mà phải bỏ dở giữa chừng nên đã đem về nuôi và cho ăn học tiếp. Năm Giáp Tý
(1864), Nguyễn Khuyến đi thi Hương đậu giải nguyên trường thi Nam Định. Năm
sau Nguyễn Khuyến đi thi Hội không đỗ, ông ở lại Huế học trường Quốc Tử Giám để
chờ kỳ thi khác. Năm Tân Mùi (1871), Nguyễn Khuyến thi hội lần thứ hai, đỗ Hội
Nguyên sau đó vào thi đình, đỗ Đình Nguyên. Như thế là cả ba lần thi Hương, thi Hội,
thi Đình ông đều đỗ đầu nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ.
Nguyễn Khuyến, một nhà Nho, người ẩn dật cuối cùng trong văn học Nho
giáo. Vốn xuất thân từ dòng dõi Nho gia, lại có hơn ba mươi năm dùi mài kinh sử,
từng được bổ nhiệm vị trí tổng đốc Sơn- Hưng- Tuyên, khoảng trên dưới mười năm
làm quan hiển hách, đủ đưa ông đến đỉnh cao danh vọng. Vậy mà, ông Tam Nguyên
hay chữ, một nhà nho hiển đạt lại viết khá nhiều thơ trào phúng, trong khi bậc đại
nho luôn ghét kẻ xảo ngôn, ghét cạnh khóe, châm chọc. Quá trình lội ngược dòng
của cụ Tam Nguyên Yên Đổ được lí giải trong sự vận động nội tại mang tính quy
luật của ý thức hệ tư tưởng, của nguyên tắc phản ánh thực tại và sâu xa hơn là từ sự
vận động của văn học nhà nho đến văn học hiện thực chủ nghĩa.
Bất mãn với chế độ thực dân nửa phong kiến, ông cáo quan về với cảnh
điền viên, cư sĩ, Nguyễn Khuyến không đi theo con đường ẩn dật của nhà nho trước
thế kỉ XVIII mà rẽ sang ngả đường khác. Thời đại của Nguyễn Khuyến khác với
thời đại của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, khiến ông không thể yên tâm làm
một Đào Tiềm. Cuộc xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp phá vỡ sự yên ổn không
chỉ ở thành thị mà lan rộng ra cả những miền quê nghèo hẻo lánh. Mảnh đất nghèo
Bình Lục, nơi Vườn Bùi chốn cũ không thể giữ được nét bình yên trước làn sóng
19
của chủ nghĩa tư bản. Thực tế khiến Nguyễn Khuyến không thể yên tâm làm ẩn sĩ.
Ông ở ẩn trong trạng thái không bình thường, “ông bực bội nói cái thực và trào
phúng thành ra một nhà thơ của cuộc sống chứ không phải của đạo lí xuất xứ.
Nguyễn Khuyến là nhà nho, cố sống như thánh hiền. Ông đã đưa văn chương nhà
nho sang một nẻo khác” (Trần Đình Hượu).
Thơ Nguyễn Khuyến gồm hai mảng trữ tình và trào phúng, gắn chặt với
nhau, phản ánh hai con người trong một Nguyễn Khuyến, một nhà nho chính thống
và một nhà nho phi chính thống; một truyền thống, một cách tân. Mạch thơ trào
phúng của Nguyễn Khuyến cơ bản vẫn tiếp tục mạch văn chương cảm thán thời thế
nhưng đã phá vỡ quy phạm. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ văn đến với cái đời thường,
cái hàng ngày, và trở thành “nhà thơ nông thôn số một”, “nhà thơ của làng cảnh
Việt nam” (Xuân Diệu).
Trở về đời sống ẩn sĩ không chỉ là cách bảo về lí tưởng, cách hành đạo như
nhiều nhà nho xưa, với Nguyễn Khuyến nó mang một ý nghĩa mới. Đó là “từ bỏ tư
thế của một nhà nho để làm người dân thường” (Trần Nho Thìn). Từ đây Nguyễn
Khuyến vừa chính thống, vừa phi chính thống.
Điểm cách tân của nhà nho Nguyễn Khuyến còn ở chỗ, bên cạnh nỗi day
dứt của kẻ lội ngược dòng:
“Độc đương hàn tuế thùy vi ngâu
Bất lạc phương tâm chân khả ái”
(Chọi rét một thân ai là bạn – Chẳng lạt lòng son thật đáng thương)
Ở Nguyễn Khuyến còn có một nỗi buồn mang tính thời đại mà các nhà nho
xưa chưa từng trải nghiệm “lần đầu tiên trong lịch sử nhà nho tự thú về sự vô dụng
của mẫu người mà mình đại diện… nhà thơ tự trách vấn, tự xỉ vả, thậm chí tự mạt
sát. Ông có ý thức về sự vô dụng, bất lực của kiến thức, của học vấn Nho gia trước
các nhiệm vụ lịch sử đang đặt ra rất khẩn thiết”[51/222].
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”
(Ngày xuân dặn các con)
Dám thẳng thắn nhìn lại vai trò kẻ sĩ trước thế chòng chành của lịch sử,
20
Nguyễn Khuyến nhận ra tính chất vô dụng của cái mình học và theo đuổi. Ông đem
ra giễu cợt, mạt sát, tự coi mình là ông phỗng đá, điều mà nhà nho xưa chẳng ai
dám nói.
Có thể nói, đến Nguyễn Khuyến rào cản giữa nhà nho và người nông dân cơ
hồ bị phá vỡ. Bức tranh xã hội trong thơ Nguyễn Khuyến mang nhiều mầu sắc,
phản ánh cuộc sống, sinh hoạt của người dân vùng chiêm trũng Bình Lục nói riêng,
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Và nụ cười trong thơ Nguyễn Khuyến
cũng thật hóm hỉnh “Trong Nguyễn Khuyến có một Tam Nguyên, một cụ già nông
thôn và một chàng thanh niên nghịch ngợm…cả người thanh niên nghịch ngợm,
ông già nông thôn, ông Tam Nguyên hay chữ liên kết lại và theo sự dìu dắt của ông
Tam Nguyên hay chữ mới thành Nguyễn Khuyến” (Trần Đình Hượu). Ba con người
trong một Nguyễn Khuyến đã tạo nên đặc sắc hiếm có ở Tam Nguyên Yên Đổ.
1.2.3.2. Trần Tế Xương.
Trần Tế Xương sinh ra vào ngày 5- 9- 1870 (tức 10- 8- AL) tại số nhà 247
phố Hàng Nâu thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng
dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần lập công
lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua).
Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Cuộc đời ngắn ngủi có
37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước.
Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh Nam kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3
thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc
Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp
ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. các
phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú
Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi thương đó.
Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Ông đi thi từ lúc
17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều
người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng
và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài
thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường:
21
thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú
Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là
bậc thần thơ thánh chữ.
Nếu Nguyễn Khuyến được coi là mở đầu dòng văn học trào phúng, người
đầu tiên mở ra con đường phát triển mới trong văn học Việt Nam, thì Trần Tế
Xương đưa văn học trào phúng lên đến đỉnh cao, mở ra bước tiếp cận với chủ nghĩa
hiện thực phê phán 1930 – 1945.
Trần Tế Xương nhập cuộc khi xã hội đã có sự giao tranh giữa cái cũ và cái
mới, khi Nam Định đang chuyển dần từ một vùng quê nghèo thành trung tâm khai
hóa của thực dân.
Khác với Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương thuộc tầng lớp nhà nho đã
nhuốm lối sống tư sản đậm nét. Ông lận đận cả đời vì cái nghiệp công danh để rồi
không ít khi ông sống trong trạng thái ngơ ngơ, ngẩn ngẩn:
“Chẳng phải quan, chẳng phải dân
Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hóa ra đần”
Trần Tế Xương đứng bên lề của lớp nhà nho hiển đạt. Ông khao khát bước
trên con đường đã vạch sẵn: học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan. Cả cuộc đời lận đận
với trường ốc. Cả cuộc đời lận đận lều chõng đi thi. Rốt cuộc ông đề thất bại. Ba
mươi bảy năm gắn bó với cuộc đời thì có hơn một nửa lều chõng đi thi. Bảy lần thi
đều hỏng cả. Khoa thi cuối cùng trong cuộc đời Tú Xương là vào năm 1906 (trước
khi mất một năm). Cái bằng cử nhân tối thiểu của một nhà nho để có thể thi thố tài
năng với thời cuộc tuột khỏi tay ông. Ông rên xiết. Ông chửi bới chế độ khoa cử.
Ông lên án chế độ Nho học và nhận ra sự vô học của nền học vấn ấy.
Con người Trần Tế Xương đầy mâu thuẫn. Ông lên án kịch liệt chế độ khoa
cử nhưng vẫn một lòng một dạ “trung thành” với con đường của nhà nho thuở trước.
Thực tế chứng minh, con đường nhà nho vạch sẵn là con đường duy nhất buộc lớp
thanh niên thủa trước phải phấn đấu. Trần Tế Xương mang tâm lí trên cũng là điều
dễ hiểu.
Là sản phẩm nội sinh của xã hội giao thời, Tú Xương không được coi là nhà
nho chuẩn mực, truyền thống, cũng chưa phải trí thức tiểu tư sản theo lối mới. Trần
22
Tế Xương mang tâm lí thường thấy ở nhà nho cấp thấp. Xã hội giao thời với đầy đủ
tính mâu thuẫn và phức tạp đã đóng dấu ấn rõ rệt lên con người và thơ văn Tú
Xương. Là nghệ sỹ mẫn cảm với cái mới, đồng thời cũng là nhà nho, con người và
thơ văn ông giống như bản lề khép mở giữa truyền thống và hiện đại, giữa cũ và
mới. Tú Xương đã đưa thơ văn trào phúng lên đỉnh cao, mở ra bước tiếp cận với
chủ nghĩa hiện thực.
Trần Tế Xương phủ định hoàn toàn địa vị nhà nho của mình, của giai cấp
mình. Ông lấy mình làm đối tượng trào phúng, đồng nhất tác giả với công chúng
bằng cách đẩy mình vào phía khách thể. Yếu tố phi ngã không được giữ lại trong
thơ Tú Xương. Ông tạo ra cái ta đa sắc diện, cái ta ngông nghênh, “bán trời không
văn tự”. Ông phơi bày bản chất xấu xa của thời đại không cần “giữ miệng”. Thẳng
thắn, bộc trực là bản chất con người và thơ văn Trần Tế Xương. Điều này khác hẳn
với nhà nho Nguyễn Khuyến. Nếu cụ Tam Nguyên xuất phát từ môi trường nông
thôn, từ quan niệm Nho gia, Tú Xương lại lại xuất phát từ môi trường của xã hội thị
dân đang trong chiều hướng tư sản hóa. Mặt khác, ông không bị ràng buộc bởi chốn
quyền môn (Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai, Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã
biết) nên lời ăn tiếng nói của Tú Xương khác hẳn Nguyễn Khuyến. Kín đáo, thâm
trầm và sâu lắng là đặc điểm nổi bật trong thơ trào phúng của cụ Tam Nguyên Yên
Đổ. Thẳng, sắc là phong cách trào phúng của Tú Xương.
Trần Tế Xương đưa thơ văn trào phúng lên đỉnh cao và góp phần không nhỏ
vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Thơ văn Trần Tế Xương góp phần tạo nên bước phát triển của văn học Việt
Nam hiện đại. Ông là người hé mở cánh cửa để bước vào chủ nghĩa hiện thực phê
phán những năm 1930- 1945.
Yếu tố thời đại quy định điểm dừng của Trần Tế Xương. Ông lấy lập trường
của lẽ phải thông thường làm điểm tựa. Là người phản ánh xã hội một cách chân
thực, song vì chưa được trang bị tri thức khoa học nên khả năng khái quát của Trần
Tế Xương khá hạn chế. Mặt khác, vấn đề thể loại thơ cũng phần nào hạn chế khả
năng phản ánh trong sáng tác của tú Xương.
Với Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam. Bức
23
tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác
rưởi, đau buồn, vì hiện thực của xã hội thực dân nửa phong kiến là như vậy. Cảm
hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái
tốt lành, những cái thuộc về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, của nhân dân, dù có bị
ẩn kín xuống nhưng vẫn không bao giờ mai một trong hoàn cảnh lịch sử tang tóc đó.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà quan, ông tự hào “về một dòng dõi mà
người ta gọi là thế phiệt.Từ xưa đến nay, vào đời nào cũng có người đỗ đại khoa và
làm quan to”. Tuổi ấu thơ, ông thuộc nhiều tục ngữ, ca dao do bà nội truyền lại. Khi
đến trường qua lời giảng của thầy, ông hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng của Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyễn, Trần Tế Xương… Hơn nữa vùng đất trấn Sơn Nam,
một vùng đồng bằng rộng lớn, nơi có một truyền thống văn hóa lâu đời, nơi có
nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương.
Nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của ông , chúng ta thấy truyền thống ấy đã có
một tác động không nhỏ trong con đường lập thân và lập nghiệp của Nguyễn Công
Hoan. Khi đã có nhận thức sâu sác về cuộc sống, Nguyễn Công Hoan không chấp
nhận một cuộc sống bình dị của một ông giáo làng an phận với cuộc đời. Bằng sự
nỗ lực vươn lên Nguyễn Công Hoan đã xác định con đường đi cho bản thân mình
bằng con đường văn nghiệp.
Và từ hiện thực cuộc sống gia đình đến những câu chuyện ngoài cổng chòi
và trong sân công đường tác động vào thế giới quan nhà văn, đã góp phần tạo nên
phong cách văn chương độc đáo Nguyễn Công Hoan mang đậm dấu ấn văn hóa trấn
24
Sơn Nam.
Chƣơng 2
SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ VĂN HỌC TÂY ÂU TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945
2.1. Văn hóa truyền thống và văn chƣơng nhà Nho.
2.1.1. Văn học dân gian.
Với bất kỳ một nền văn học nào, một quốc gia, dân tộc nào, văn học dân gian
cũng là một công trình sáng tạo để đời. Những sáng tạo đó không chỉ có giá trị vùng
miền, ý nghĩa địa phương, khu vực, quốc gia. Bởi vậy, văn học dân gian có một tầm
ảnh hưởng lớn đến quan điểm thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ
được tắm mình trong suối nguồn trong trẻo của văn học dân gian.
Với đội ngũ sáng tác chủ yếu là nhân dân lao động. Cung bậc đầu tiên của
tiếng cười hài hước là những câu chuyện cười thuần túy phản ánh tinh thần lạc quan
của nhân dân. Đó là tiếng cười sảng khoái, vô tư sau một ngày lao động vất vả. Cái
cười trong nhiều trường hợp mang tính chất sinh lí hơn là tâm lí. Cuộc sống sau lũy
tre làng tưởng chừng êm ả, vậy mà đâu đó xuất hiện tượng tiếng cười đả kích, châm
biếm, ném vào bọn cường hào ác bá. Trong xã hội phong kiến, người nông dân là
kẻ yếu thế. Cách phản kháng duy nhất của họ là tiếng cười. Tiếng cười thành vũ khí
có sức công phá lớn.
Tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian xuất hiện rải rác ở các thể loại,
từ ca dao, hò, vè, các vai hề trong chèo cho đến những câu chuyện tiếu lâm, truyện
cười, cao hơn là truyện trạng.
Vũ khí cười luôn chĩa vào thế giới bạo lực, bất bình đẳng trong xã hội, chĩa
vào những điều kiện sống còn không xứng đáng với con người.
Cái cười trong văn học dân gian là cái cười nông dân, khỏe khoắn, lạc quan.
Cái cười của những con người bị hạn chế tầm mắt, tuy không thật sâu cay như các
nhà Nho, nhưng giá trị của văn học dân gian vẫn được khẳng định.
Bất cứ một nền văn học nào cũng chứa đựng một nội lực phát triển. Nền văn
học viết nói chung và văn học trào phúng nói riêng đã tiếp thu di sản trong mạch
25
nguồn truyền thống để làm nên diện mạo riêng.
2.1.2. Từ cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại đến cái nhìn của nhà
văn, nhà thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học Việt Nam.
2.1.2.1. Vài nét về cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại Việt Nam.
Gần mười thế kỉ tồn tại của văn học trung đại, Nho giáo giữ vai trò định
hướng phát triển, chi phối quan niệm văn học, lí tưởng thẩm mĩ của cả một giai
đoạn khá dài trong lịch sử văn học Việt Nam nói riêng và văn học khu vực Đông Á
nói chung. Lực lượng sáng tác văn học nhà nho là các nho sĩ, người mang trong
mình trách nhiệm khai tâm, dẫn đạo cho đám đông quần chúng. Họ lấy văn chương
để bảo vệ đạo lí cương thường. Vì thế, hơi thở của văn học nhà nho là hơi thở của
lòng nhân nghĩa, của chuẩn mực đạo đức xã hội. Sức mạnh giáo hóa trở thành nhịp
đập của cả giai đoạn dài trong văn học Việt Nam trung đại.
Nho giáo không hoàn toàn là một tôn giáo. Vì nhà nho có vị trí trung gian
đặc biệt giữa chính quyền và nhân dân, nên tùy theo từng tình huống, hoàn cảnh,
tùy theo thân phận cá nhân của từng người mà văn chương của họ mà có thể “tôn
quân, thân thượng”, thể hiện sự trung thành vô điều kiện với vương chế và giáo lí,
nhưng lại có thể là lời cảm thán chua cay, sự bi phẫn thống thiết, hay thậm chí sự tố
cáo gay gắt.
Với bản chất “ôn nhu, đôn hậu” trong ý thức sống và trước thuật, nhà nho
luôn chủ trương một lối sống ôn hòa. Họ viết văn trước hết là để dành cho mình , để
bộc lộ tâm sự trước thời thế, sau là để uốn nắn lòng người và di dưỡng tính tình.
Thơ là để bộc lộ Tâm, Chí, Đạo. “Vì là để bộc lộ tâm chí, thơ trở thành bộ phận lớn
nhất, trữ tình trở thành nét chủ đạo trong văn học. Nhưng trữ tình không phải là
bộc lộ cái tôi cảm xúc mà bộc bạch cái ta đạo lí, vì nhằm mục đích giáo hóa, văn
học có chức năng truyền đạt chứ không có chức năng phát hiện, phản ánh, nhận
thức. Nó hướng về bắt chước, thể hiện Đạo chứ không cố gắng về mặt tìm tòi, sáng
tạo hình thức để mô tả, tái hiện thực tế. Đối với thực tế nó thiên về phẩm bình, tìm ý
nghĩa đạo lí hơn là băn khoăn tìm hiểu”[4/32,33].
Không thể phủ nhận những đóng góp của văn học nhà nho trong lịch sử văn
học dân tộc. Họ luôn khuyên răn con người sống có đạo đức, đề cao cái tài, đề cao
26
sự thông thạo thi, thư, lễ, nhạc, giúp con người biết tiến thoái, ứng đối. Tuy nhiên,
văn học nhà nho mang trong mình những nhân tố cản trở văn học phát triển theo xu
hướng hiện thực.
Quan niệm của văn chương nhà Nho quy định hệ thống đề tài, chủ đề và hình
tượng trung tâm văn học. Lấy phạm trù tâm, chí, đạo làm trung tâm. Văn học nhà
Nho vào mục đích giáo hóa hơn là nhận thức, khám phá và phát hiện cuộc sống.
Chất triết lí trở thành đặc điểm cơ bản của văn học trung đại. Dù là người ẩn dật,
người hành đạo hay người tài tử thì trong thơ của họ đều thể hiện khá rõ quan niệm
“thi dĩ ngôn chí”. Điều này được minh chứng bằng sự lựa chọn khá cầu kì các đối
tượng của tự nhiên cho phù hợp với phẩm chất cao quý của người quân tử, của đấng
trượng phu.
Đề tài quen thuộc hầu hết sáng tác của nhà Nho là: cảm hoài, tức sự, ngôn
chí…Chủ đề bảo vệ và thực hành Nho giáo được nhà nho quan tâm hàng đầu. Hệ
thống chủ đề, đề tài này kéo dài gần mười thế kỉ. Và “Nguyễn Đình Chiểu trở thành
một trong những tác giả khép lại một giai đoạn phát triển của văn học sử, tiêu biểu
nhất là khép lại của chủ đề bảo vệ và thực hành Nho giáo, sự tự thủ tiêu của cặp
đôi trung quân - ái quốc” [56/295].
2.1.2.2. Thuật ngữ trào phúng:có nhiều cách hiểu về thuật ngữ trào phúng.
Trào phúng: Lời bóng gió để cười nhạo [1].
Cách hiểu thông thường hơn là: Trào phúng có tác dụng gây cười để châm
biếm, phê phán [43/155].
Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học, đồng thời cũng là một
nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm,
phóng đại, khoa trương, hài hước…được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo,
phản kháng, những tiêu cực xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội. Trào phúng theo
nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác,
song trong lĩnh vực văn học, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn với phạm
trù mỹ học và cái hài trong các cung bậc hài hước umua, châm biếm. Văn học trào
phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ
trong truyện cười, truyện tiếu lâm đến tiểu thuyết, từ các vở kịch cho đến những bài
thơ trào phúng, châm biếm[17]. Đó là khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học của
27
tiếng cười.
Như vậy, với khái niệm này, trào phúng được hiểu một cách toàn diện và sâu
sắc, gắn văn chương trào phúng với phạm trù mỹ học của cái hài.
2.1.2.3. Sự ra đời của văn học trào phúng.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, mầm mống trào phúng có trong sáng tác
của các nhà Nho như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và nhiều nhà Nho trong
giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX.
Ở Nguyễn Trãi có sự thoảng qua nụ cười nghiêm trang mà bất bình với cuộc
sống xung quanh:
Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực quanh co
Tuồng ni cóc được bề hơn thiệt
Chớ dễ bằng ai đắn với đo (Ngôn chí V)
Mầm mống trào phúng thể hiện rõ hơn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông
ví bọn quan lại bất nhân như những lũ chuột chuyên đục khoét:
Thạc thử hồ bất nhân
Thảo thiết tứ âm đọc
Nguyên dã hữu cảo miêu
Lẫm dữu vô dư túc…
(Tăng thử)
(Chuột lớn kia bất nhân
Gậm khoét thật thảm khốc
Đồng ruộng trơ lúa khô
Kho đụn hết gạo thóc)
Phạm vi phê phán của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn nằm trong khuôn khổ Trung,
Hiếu, Tiết, Nghĩa. Ông ghét thói đời đen bạc:
“Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thường hơn hết mọi lời…
…Người của lấy cân ta thử sức
28
Mới hay rằng của nặng hơn người”(Thơ Nôm – bài 86)
Thực tế cho thấy, nhiều người trước đây dám “vượt rào”, tìm mọi khả năng
có thể để biểu hiện cái hài, cái xấu, cố gắng để tiến hành những sự phê phán cục bộ.
Tuy nhiên phải đợi đến cuối thế kỉ XIX, những mầm mống ấy mới có đủ điều kiện
để đơm hoa kết trái.
Văn chương trào phúng gắn chặt với phạm trù mĩ học của cái hài. Xung đột
trong hài kịch xuất hiện khi niềm tin đã mất.
Cuối thế kỉ XIX thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Triều đình nhà
Nguyễn nhanh chóng đầu hàng. Hiệp ước Harmand và Patenote (1883 – 1884) đánh
dấu sự sụp đổ hoàn toàn của triều Nguyễn trước chủ nghĩa tư bản Pháp. Xã hội Việt
Nam chuyển từ nhà nước phong kiến sang chế độ thực dân phong kiến. Cơn quốc
nạn khiến nhiều văn nhân, sĩ phu đứng lên theo tiếng gọi Cần Vương tập hợp lực
lượng phất cờ khởi nghĩa. Phong trào Cần Vương diễn ra rầm rộ kéo dài gần hết thế
kỉ XIX. Những sĩ phu yêu nước lần lượt hi sinh. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị
thương rồi nhịn ăn mà chết. Khi Pháp đánh ra Hà Nội lần hai, thành vỡ, tướng
Hoàng Diệu tuẫn tiết trong thế đơn phương độc mã. Phong trào Cần Vương dần tắt.
Cái chết của Đình nguyên Phan Đình Phùng chấm dứt phong trào đấu tranh theo
tiếng gọi của vua Hàm Nghi, ánh lên hình ảnh đẹp cuối cùng về người anh hùng vệ
quốc của Nho giáo.
Cuộc xâm lược của thực dân Pháp tác động mạnh chưa từng có đến đời sống
xã hội, khiến đội ngũ nhà nho phải nhận thức lại vai trò của kẻ sĩ trong xã hội. Họ
không thể đem đạo lí của Khổng Mạnh để đấu chọi với tàu đồng, đại bác, súng nhỏ,
súng to…
Xã hội biến động, quan lại phân hóa. Có kẻ làm tay sai cho giặc. Một số khác
chịu làm quan cho Pháp nhưng mang tâm lí tùy thời. Cũng có người giữ được nhân
cách, bất mãn với thời thế nhưng không đủ dũng khí là một Nguyễn Tri Phương hay
Phan Đình Phùng. Họ từ quan, trở về ẩn dật. Nhưng với tấm lòng yêu nước thương
dân, họ gửi gắm nỗi niềm vào những áng văn thơ đả kích, châm biếm.
2.1.2.4. Vài nét về đặc điểm nghệ thuật thơ văn trào phúng.
Sự vận động của lịch sử, xã hội cuối thế kỉ XIX dẫn đến sự vận động trong
29
quan niệm văn học.
Thơ văn trào phúng ra đời, chối từ phạm trù thẩm mĩ của cái cao thượng
trong văn chương trung đại, thơ trào phúng tìm cảm hứng trong đời sống thường
nhật. Trước cơn tao loạn, nhà nho không thể vùi đầu vào đạo lí thánh hiền. Họ buộc
phải hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề của hiện thực đời sống, hướng đến
cái đời thường, cái hàng ngày. Đó là cuộc chiến đấu của dân tộc trước cuộc xâm
lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Văn học hướng vào những vấn đề nóng hổi,
mang tính thời sự. Phê phán, tố cáo trở thành cảm hứng chủ đạo của văn học Việt
Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thay dần cảm hứng sử thi của giai đoạn trước,
đặc biệt trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Văn chương trào phúng trở thành
giá đỡ cho văn học cách mạng và là bước đệm của chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Đội ngũ sáng tác của dòng văn học trào phúng cơ bản vẫn là nhà nho mang ý
thức hệ phong kiến, song họ đã có quan hệ gần gũi với nhân dân hơn. Nếu như
trước đây “trong môi trường xã hội, nhà nho hòa nhi bất đồng với nhân dân, họ có
thái độ quan tâm, cảm thông đối với cuộc sống của người dân nhưng cái nhìn cảm
thông chia sẻ của nhà nho vẫn chỉ là cái nhìn từ bề trên, bên ngoài của đấng thiên
sứ” [48/220] và nhân cách kiểu nhà nho tồn tại trong sự độc lập cao với xã hội thì
nhà nho cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sống gắn bó với nhân dân hơn. Giữa họ,
không ít người xuất thân từ tầng lớp trung lưu và lớp dưới của xã hội, vì thế họ hiểu
và cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của quần chúng. Nhà thơ trào phúng đã kéo văn
học trở về với cuộc sống đời thường, phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội. Họ
đứng về phía nhân dân để tố cáo quan lại, tố cáo “tội theo Tây của các cụ lớn” và
chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân cướp nước. Văn chương trào phúng trở thành công
cụ đấu tranh chính trị. Tiếng cười không chỉ dừng lại ở mức khôi hài trong những
chuyện vặt vãnh. Tiếng cười trở lên gai góc, hiểm ác, đậm chất trí tuệ, đã mổ xẻ,
bóc trần sự thật. Lịch sử biến thiên, xã hội xô lệch. Sự đối lập giữa cái đẹp và cái
xấu; giữa cao cả và thấp hèn; giữa cái cũ và cái mới khiến cả nhà nho và nông dân
đều bật ra tiếng cười. Cái cười của nhà nho giai đoạn này phần nào đồng cảm với
cái nhìn của người nông dân.
Trong văn học trào phúng, cái cười luôn đòi hỏi sự hưởng ứng của đám đông
30
quần chúng, hơn thế phải có sự giao lưu giữa tác giả và độc giả. Đó là cái cười chân
chính có sức tác động đến dư luận thời đại, “có vai trò tổ chức dư luận xã hội, tập
trung sự chú ý của dư luận này vào những khuyết điểm, những hiện tượng xã hội
tiêu cực” [2/169]. Hàng rào ngăn cách giữa tri thức Nho gia và nông dân không còn
nữa. Cái cười thành điểm chung để họ cùng chia sẻ.
Nhà thơ trào phúng hướng ngòi bút vào hiện thực trước mắt, vào những tên
quan bán nước, lên án chế độ quan trường, thậm chí lên án các nhà khoa bảng, tiêu
biểu cho tấn hài kịch của hình thái xã hội đã già cỗi, sẵn sàng bán rẻ nhân cách, làm
tay sai cho giặc. Khí tiết thanh cao của nhà nho bị bả vinh hoa, mồi phú quý làm
nhàu nát. Kẻ xu thời nịnh thế sẵn sàng quỳ gối, cúi đầu trước tên toàn quyền, nhục
nhã hơn, họ lạy cả ông Tây, me đầm.
Nhà thơ trào phúng đưa lên sân khấu hài kịch những rác rưởi của xã hội thực
dân nửa phong kiến. Họ tiễn đưa “một thế giới lỗi thời bằng tiếng cười vui vẻ”.
Cảm xúc khôi hài trong văn chương trào phúng đòi hỏi nhà văn phải có giác
quan sắc nhọn, trí tuệ linh hoạt và khả năng nắm bắt nhạy bén những mâu thuẫn
mang tính bản chất của thời đại. Chỉ ra được tính hài kịch của cuộc sống sẽ tạo được
cái cười mang bản chất xã hội. Cái cười chân chính có sức mạnh công phá, khiến
cho “Mặt đất rung chuyển và thói xấu bị đạp nhào”.
Bước đầu của sự khác biệt giữa văn học nhà Nho và văn chương trào phúng
là sự thay đổi về đề tái, chủ đề, hình tượng trung tâm.
2.1.3. Sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài và hình tượng trung tâm trong
văn chương trào phúng.
Đề tài trung tâm chính là mảng hiện thực tập hợp những sự kiện, những hiện
tượng, những diễn biến quan trọng nhất của đời sống xã hội, nó thể hiện những nét
bản chất của thời kì lịch sử đó. Chủ đề được hiểu là vấn đề chủ yếu, vấn đề trung
tâm được đặt ra từ toàn bộ hiện thực mà tác phẩm thể hiện.
Quan niệm văn học của nhà nho đã quy định hệ thống chủ đề, đề tài và hình
tượng trung tâm trong văn học. Lấy phạm trù Tâm, Chí, Đạo làm trung tâm, văn học
nhà nho hướng vào mục đích giáo hóa hơn là nhận thức, khám phá và thể hiện cuộc
sống. Chất triết lí trở thành đặc điểm cơ bản của văn học trung đại. Đề tài quen
31
thuộc trong hầu hết sáng tác của nhà nho là: Cảm hoài, tức sự, ngôn chí…
Tiến trình phát triển của nền văn học viết chứng kiến sự thay đổi của khá
nhiều hình tượng trung tâm. Thế kỉ XIII – XV xuất hiện những con người hào hứng
nhập thế, ca tụng vua sáng, tôi hiền, ca tụng xã hội (đỉnh cao là Nguyễn Trãi). Đó là
hình ảnh của nhà nho trung nghĩa, mẫu nhà nho chính thống của Nho gia.
Đến thế kỉ XVI – XVII, một số nhà nho ngả sang sắc thái bi quan, do chế độ
phong kiến bộc lộ những mặt trái. Bên cạnh loại hình nhà nho thứ nhất, còn có tiếng
nói của nhà nho ản dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng…
Cuối thế kỉ XIX, về cơ bản văn học Việt Nam vẫn chịu sự ước thúc của
những quy phạm trong văn học cổ. Tuy nhiên, trước những chuyển mình của lịnh sử,
trong lòng văn học đã nảy sinh yếu tố dự báo sự ra đời của nền văn học mới, ngoài
quỹ đạo của văn chương truyền thống. Sự trở lại của hình tượng nhà nho trung
nghĩa cuối thế kỉ XIX giống như vệt sáng cuối cùng báo hiệu sự mất giá truyền
thống trong văn học cổ, và cũng là điểm sáng đầu tiên đưa văn học tiến vào quỹ đạo
chung của thế giới.
Hệ thống hình tượng trong văn học trào phúng có hai loại:
Loại thứ nhất được xây dựng từ nguyên mẫu bản thân tác giả. Nhân vật “tự
trào” xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương và một số nhà
nho sau này. Họ đem mình ra để cười cợt, chế giễu. Nhiều khi nhà thơ trào phúng tự
phủ định mình, song thực chất lại là cách để họ khẳng định bản thân. Họ là những
chủ thể luôn giữ cho mình một thái độ bình thản, điềm nhiên luôn hài lòng và thỏa
mãn với mình. Cũng có khi ngược lại, nhà thơ trào phúng tự khẳng định mình để
phủ định bản thân
“ Nghĩ mình mà gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng”
Tác giả trào phúng luôn làm chủ được tiếng cười và “chỉ có thái độ vui tính
vô cùng tự tin của những con người vươn lên khỏi mâu thuẫn trong đó y mắc phải,
chứ không phải chỉ chịu đựng và cảm thấy bất hạnh thì mới là hài mà thôi”
(Heghen)
Thứ hai là loại nhân vật được lấy từ nguyên mẫu ngoài đời. Lọai hình tượng
32
này có khá nhiều trong sáng tác của Trần Tế Xương, Kép Trà…Xây dựng hình
tượng văn học lấy nguyên mẫu từ cuộc đời khiến trào phúng dám phá vỡ nguyên tắc
của văn học cổ. Văn học nhà nho thiên về cảm hứng ca ngợi hơn là phê phán, nếu
có phê phán thì cũng khá trang nghiêm. Thơ trào phúng lấy tố cáo, phê phán làm
cảm hứng chủ đạo. Họ phê phán thẳng thắn, chỉ mặt, vạch tên từng người. Sân khấu
hài kịch là bọn quan lại đục khoét, phường hãnh tiến trong xã hội mới. Tuy chưa đạt
đến độ nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực,
nhưng điều đó bước đầu được tạo nên sự phá cách trong văn học, đặt những viên
gạch đầu tiên khởi móng nền văn học mới. Nhân vật trong thơ trào phúng của Tú
Xương mang dấu ấn thời đại khá rõ nét, mang mầu sắc cá tính, được miêu tả chân
xác, cụ thể, ráo riết theo hướng mĩ học hiện thực chủ nghĩa.
Cả hai loại hình tượng nhân vật trên đều bộc lộ những sự quẫy đạp, thoát
khỏi truyền thống.
Như vây, việc phủ định hệ quy chiếu của văn học Nho gia đã mở ra bước
phát triển mới của văn học Việt Nam. Bản thân sự vận động quan niệm Nho giáo
không thể dẫn tới chủ nghĩa hiện thực. Do mục đích cao nhất của chủ nghĩa hiện
thực là nhận thức và phản ánh cuộc sống trên một quan điểm tiến bộ. Nhưng chính
vì sự phá vỡ những quy phạm truyền thống đó mà văn chương trào phúng có vai trò
quan trọng trong sự vận động và phát triển của nền văn học Việt Nam, trở thành cầu
nối đưa văn học tiếp bước từ truyền thống đến hiện đại.
2.2. Sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây trong sáng tác của Nguyễn Công
Hoan trƣớc cách mạng tháng 8 - 1945.
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, xã hội Việt Nam có những
bước chuyển biến căn bản – từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân phong kiến.
Cùng với những công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp là sự du nhập của
văn hóa phương Tây vào nước ta. Sự du nhập ấy có tác động lớn tới nhận thức và tư
tưởng của tầng lớp trí thức đương thời.
Những năm đầu thế kỉ XX chữ quốc ngữ được đưa vào giảng dạy ở một số cấp
học phổ thông. Cùng với ảnh hưởng của văn hoá Pháp một số nhà văn, nhà thơ đã
33
có những cái nhìn mới – bỏ bút lông viết bút sắt.
2.2.2. Sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực phê phán.
Những năm đầu thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam nhanh chóng bước vào
quá trình hiện đại hóa. Đươi ngòi bút của phong trào Tân Thư và Duy Tân, các nhà
nho chí sĩ đã hướng tới cái ngưỡng của sự thay đổi trong quan niệm văn học. Họ là
người có “đầy đủ thẩm quyền đọc lên bản án khai tử… đối với thể loại được coi là
điển – phạm – cùng – cực của truyền thống” (Trần Ngọc Vương). Tuy nhiên họ
không thể tiến hành đến cùng công cuộc đổi mới, cách tân văn học do sự quy định
của nguồn gốc xuất thân và sức hút trọng lực của văn học truyền thống.
Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam được hoàn tất với vai trò của các tri
thức Tây học. Sự ra đời của các tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ đánh dấu bước
chuyển quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. nhiều truyện
ngắn trên tạp chí Nam Phong (1917 – 1934) thành tiền thân của chủ nghĩa lãng mạn
và chủ nghĩa hiện thực giai đoạn 1930 – 1945.
Những năm 30 của thế kỉ XX, bên cạnh cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh
giai cấp còn diễn ra cuộc đấu tranh không kém phần quyết liệt, đó là cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng, ý thức hệ, hình thành những quan điểm, những tâm lí thẩm
mĩ và khuynh hướng, trào lưu văn học khác nhau.
2.2.2.1. Thuật ngữ “Chủ nghĩa hiện thực”
Chủ nghĩa hiện thực bắt nguồn từ thuật ngữ “Réalisme”. Năm 1935, tại Đại
hội nhà văn Xô Viết lần I, Gorki gọi văn học thế kỉ XIX là nền văn học hiện thực
phê phán.
Về “Chủ nghĩa hiện thực” có khá nhiều định nghĩa, trong đó có định nghĩa
của F. Enghels được coi là quan trọng hơn cả.
Trong bức thư gửi cô M.Hackness, ông nói “Theo ý tôi, đã nói đến chủ nghĩa
hiện thực thì ngoài tính chân thực của các chi tiết, còn đòi hỏi tính chân thực trong
việc tái hiện những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”.
Với quan niệm này, PGS Trần Nho Thìn đánh giá “thực tế cho thấy, để vận
dụng được công thức này vào nghiên cứu văn học dân tộc có không ít phức tạp và
khó khăn. Tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình trong một tác phẩm chỉ có
34
thể định tính chứ không định lượng được…Vậy muốn được công nhận là tính cách
điển hình thì nhân vật ấy được miêu tả ở cấp độ nào, đến một liều lượng nào về các
phương diện tiểu sử, ngoại hình, tâm lí, ngôn ngữ…? Còn khái niệm trung thành
của chi tiết cũng không phải dễ gì nắm bắt được cái hồn của nó” [52/168-169]. Và
theo ông, để hiểu tinh thần công thức kinh điển của Enghels về chủ nghĩa hiện thực
phải đặt nó “dưới ánh sáng của mối quan hệ giữa mục đích nhận thức, khám phá
bản chất và quy luật của hiện thực và phương pháp điển hình hóa với tư cách là
một phương tiện tương ứng tất yếu với mục đích này”.
Quan niệm về chủ nghĩa hiện thực của Enghels được đánh giá cao, nhưng
thực tế cho thấy để áp dụng nó vào việc nghiên cứu một tác phẩm hiện thực chủ
nghĩa là khó.
Viện sĩ N.Kônrát – nhà nghiên cứu về văn học Phương Đông lại đặt vấn đề
nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực ở một khía cạnh khác. Theo ông, để hiểu được
những yếu tố cấu tạo nên chủ nghĩa hiện thực “tốt hơn cả là căn cứ trên việc so
sánh chủ nghĩa hiện thực giữa thế kỉ XIX trong văn học Pháp với văn học lãng mạn
chủ nghĩa từng tồng tại trước nó và một thời gian song hành với nó”[31/336]. “Chủ
nghĩa hiện thực phủ nhận nguyên tắc sáng tạo của chủ nghĩa lãng mạn… yêu cầu
nhà văn xuất phát trực tiếp từ thực tế… khi lựa chọn đề tài đương thời, nhà văn
hiện thực chủ nghĩa tìm trong sự đa dạng của thực tế cái điển hình và hi vọng tạo
ra được cái tiêu biểu cho một loại hiện tượng”[31/337].
Chủ nghĩa hiện thực theo Konrat được hiểu trong sự đối lập với chủ nghĩa
lãng mạn và có phần cụ thể hơn định nghĩa của Enghels.
Chủ nghĩa hiện thực được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Khái niệm chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa rộng “dùng xác định quan hệ giữa
tác phẩm văn học đối với hiện thực, bất kể tác phẩm đó là của nhà văn thuộc
trường phái khuynh hướng nghệ thuật nào”[18/67]. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì
khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với khái niệm “sự thật đời sống”.
Với cách hiểu này, khái niệm nghĩa hiện thực mang tính chung chung, mơ hồ, do
nền văn học từ cổ chí kim đều bám rễ từ cuộc sống. Văn học nghệ thuật nói riêng và
các hình thái ý thức xã hội nói chung, đều có nhu cầu phản ánh cuộc sống ở nhiều
35
chiều khác nhau: tốt – xấu; thật – giả… Trong sáng tác của các nhà văn trong quá
khứ như : Homerơ, Đỗ Phủ… yếu tố hiện thực đã xuất hiện và đạt được thành tựu
khá cao nhờ gần gũi cuộc sống mang tính chân thực sâu sắc. Tuy nhiên những tác
phẩm đó không được coi là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, mà chỉ có thể gọi đó là
những tác phẩm mang yếu tố hiện thực.
“Khái niệm chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa rộng như vậy hiện nay không được
lưu hành vì không mang lại hiệu quả gì đáng kể cho nghiên cứu văn học” [18/67].
Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng để chỉ một
phương pháp nghệ thuật hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội dung
chặt chẽ, xác định trên cơ sở nguyên tắc mĩ học sau:
“Mô tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với những bản chất hiện
tượng của chính cuộc sống và bằng điển hình hóa các sự kiện của thực tế đời sống.
Thừa nhận sự tác động qua lại giữa con người và môi trường sống, giữa tính
cách và hoàn cảnh, các hình tượng nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa hướng tới tái
hiện chân thực các mối quan hệ khác của con người và hoàn cảnh.
Cùng với sự điển hình hóa nghệ thuật, coi trọng những chi tiết cụ thể và độ
chính xác của chúng trong việc mô tả con người và cuộc sống, coi trọng việc khách
quan hóa những điều được mô tả, làm cho chúng tự nói lên được tiếng nói của mình.
Chủ nghĩa hiện thực luôn quan tâm đến sự đa dạng, phong phú về hình thức…song
tất cả đều phải phục tùng những nguyên tắc sáng tạo hiện thực chủ nghĩa, phục
tùng nhận thức con người trong các mối quan hệ phức tạp với thế giới xung quanh,
những điều kiện lịch sử cụ thể” [18/68].
Như vậy, chủ nghĩa hiện thực dù hiểu ở góc độ nào cũng đều tập trung vào
luận điểm cơ bản, tác phẩm phải mang hơi thở cuộc sống, phải phản ánh sự vật,
hiện tượng trong mối quan hệ bản chất nhất, thể hiện quy luật của cuộc sống con
người, xã hội.
Về sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực, có khá nhiều quan niệm khác nhau. Có
người cho rằng, chủ nghĩa hiện thực xuất hiện từ thời Phục hưng thế kỉ VVI – XVII,
và và W. Shakespeare được xem là người đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực
thời Phục hưng (Xuskop, Pêtơrốp).
Shakespeare phản ánh chân thực cuộc sống con người. Ông nghiên cứu xã
36
hội trên tinh thần phân tích, mô tả thế giới bên trong con người trong sự thống nhất
với tồn tại xã hội. Ở vở kịch Hăm Lét, trong tư tưởng của chàng hoàng tử Đan
Mạch đã diễn ra quá trình đấu tranh để nhận ra: thật- giả; tốt- xấu và đi đến hành
động đòi lại công lí.
Quan niệm: “Chủ nghĩa hiện thực trong văn học thế giới chỉ có thể xuất hiện
vào những năm 20- 30 của thế kỉ XIX trong văn học Pháp” được khá nhiều nhà
nghiên cứu thừa nhận.
Theo họ, sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phải dựa trên cơ sở điều kiện xã
hội. Chủ nghĩa hiện thực phát sinh và phát triển trong một điều kiện lịch sử cụ thể,
đó là giai đoạn thịnh trị của chủ nghĩa tư bản, khi mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản. Số phận của người công nhân và nông dân
được đặt lên hàng đầu. Họ phải phiêu bạt, sống cuộc đời lao khổ trong khi tầng lớp
tư sản cứ hưởng lợi, vênh vang tự đắc. Quan hệ đồng tiền được thiết lập và trở
thành mối quan hệ cơ bản trong xã hội tư sản. Trước số phận bi thảm của đông đảo
quần chúng, các nhà văn tiến bộ không thể quay lưng lại với thực tại. Họ hướng
ngòi bút phản ánh cuộc sống một cách chân thực nhất, khách quan nhất, và thấm
đượm tình người hơn cả. Cảm hứng phê phán trở thành cảm hứng chủ đạo của các
nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa hiện thực mang tính lịch sử cụ thể, tồn tại với tư cách phương
pháp sáng tác là hiện tượng lịch sử phát sinh ở một giai đoanh phát triển nhất định
của lí trí con người.
Ra đời trong lòng xã hội tư sản, chủ nghĩa hiện thực phản ánh những mâu
thuẫn bản chất của xã hội đó. Để làm được điều này, nhà văn hiện thực phải dựa
vào tri thức khoa học, đặc biệt là thành tựu của ngành khoa học tự nhiên. Thế kỉ
XIX, loài người chứng kiến sự sụp đổ của các tư tưởng thời kì Trung cổ. Lần đầu
tiên trong lịch sử loài người, một lí thuyết hoàn chỉnh về sự tiến hóa của tự nhiên
được đón nhận như một thành tựu vĩ đại nhất của ngành Sinh học. Đó là thuyết tiến
hóa của Đác Uyn - Lí thuyết cho rằng tự nhiên là bất biến bị ông đánh đổ.
Trong lĩnh vực triết học, phép biện chứng của Hê ghen có ý nghĩa to lớn. Đặc
biệt, sự ra đời của chủ nghĩa khoa học của Mác – Ăngghen vào cuối năm 1840 đã
37
đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Sự phát triển của các ngành khoa học tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời của
chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nếu trước đây, số phận con người được giải thích
bằng những quan niệm duy tâm, siêu hình, bằng những khái niệm trừu tượng, thì
vào những năm đầu thế kỉ XIX, với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật nói riêng, sự
phát triển như vũ bão của các ngành khoa học kĩ thuật nói chung, số phận con người
được lí giải bằng những nguyên nhân cụ thể, mang tính xã hội sâu sắc. Khoa học
phát triển giúp nhà văn hiện thực chủ nghĩa có cái nhìn đúng đắn và hoàn thiện về
chính mình, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người và xã hội, tạo
khả năng bao quát, từ đó phản ánh trung thực bản chất của tự nhiên và xã hội.
Chủ nghĩa hiện thực chỉ có thể ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến
một trình độ khoa học nhất định. Mặt khác, cần phải nói tới vai trò của nền văn học
quá khứ đối với sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực. Nói cách khác, chủ nghĩa hiện
thực ra đời còn do vận động nội tại trong bản thân văn học. Nhà văn hiện thực kế
thừa truyền thống trong văn học quá khứ, đó là sự tiếp thu nền văn học thời Phục
hưng, nền văn học Ánh sáng ở Đức.
Xét đến vai trò của chủ nghĩa hiện thực, trước đây chủ nghĩa hiện thực phê
phán được coi là đỉnh cao trong văn học, là con đường phát triển tất yếu mang tính
quy luật của bất cứ nền văn học nào trên thế giới. Nhưng đến nay, vai trò của chủ
nghĩa hiện thực không bị phủ nhận nhưng cũng không được khẳng định là một
khuynh hướng văn học cao hơn bất cứ một khuynh hướng văn học nào, càng không
được xem là điểm đến duy nhất của văn học thế giới. Bởi đề cao quá mức chủ nghĩa
hiện thực sẽ dễ bị coi nhẹ, hạ thấp, hoặc phủ nhận, thậm chí phê phán gay gắt các
khuynh hướng nghệ thuật khác. Điều này sẽ “quy hẹp sự tiếp nhận của công chúng
vào giá trị nhận thức… gây ra sự bất công và bất cập trong khi đánh giá nhiều tác
giả, nhiều trào lưu, khuynh hướng khác trên con đường tìm tòi, khám phá các giá
trị mới, độc đáo, không lặp lại trong sáng tác văn học nghệ thuật” (Lê Phong).
Tiến trình phát triển của văn học cho thấy, mỗi khuynh hướng văn học đều
mang một giá trị tự thân, phản ánh một khía cạnh nào đó của cuộc sống, một góc
khuất trong tâm hồn con người. Con người vốn là một thực thể hoàn chỉnh và phức
38
tạp, mang nhiều mối quan hệ khác nhau. Theo Mác “con người là tổng hòa các mối
quan hệ”. Có người cho rằng, chủ nghĩa lãng mạn thường quay lưng lại thực tại,
tìm sự cứu cánh ở một thế giới xa xôi, mơ hồ mà không có thực. Nhà văn lãng mạn
tự thu mình trong tháp ngà nghệ thuật, thậm chí giam mình trong ốc đảo cô đơn.
Quan niệm này chỉ đúng đối với các nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn tiêu cực.
Còn các nhà văn lãng mạn tích cực, chẳng hạn như trong sáng tác của V. Huygo,
AMuytxe…lại “tràn trề niềm tin vào thực tại và tương lai, lạc quan về nhân thế và
khả năng sáng tạo đời sống”.
Trong văn học Việt Nam, không thể phủ nhận vai trò của chủ nghĩa lãng mạn
những năm 1930- 1945 với những tác phẩm của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn
Mặc Tử….
Như vậy không thể khẳng định khuynh hướng nào cao hơn, thậm chí cao
nhất, mà vai trò của chủ nghĩa hiện thực luôn đặt bên cạnh vai trò của các khuynh
hướng văn học khác, góp phần mở rộng khả năng tiếp nhận của công chúng đối với
các giá rị hiện thực.
2.2.2.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam.
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam là một vấn đề gây nhiều tranh
luận trong giới nghiên cứu.
Trong cuốn “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” của cố giáo sư
Trần Đình Hượu có phần: “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam trung cận đại”. Tác giả đưa ra một số quan niệm về vấn đề thực
tại trong văn học trung đại. Theo Trần Đình Hượu, các tác giả trung đại có nói và
bàn đến cái thực trong văn học, nhưng cái thực không như ta hiểu, nghĩ ngày nay.
Cái thực trong văn học trung đại khác hẳn với chủ nghĩa hiện thực.
Theo Lê Quý Đôn, thế giới bên ngoài gồm các vật tạo nên yếu tố ngoại giới.
Thi sĩ cổ xưa tiếp xúc với ngoại giới thì sinh tình. Họ lấy cái tình đó mà than cảnh
và cái cảnh đó đã nói lên được cái có trong lòng thi nhân. Đó được coi là biểu hiện
của cái thực, nhưng là cái thực của tâm trạng, chứ hoàn toàn không phải cái thực
trong chủ nghĩa hiện thực. Còn theo Ngô Thế Lân, sáng tác là một cảm hứng ngẫu
nhiên. Ông nhấn mạnh đến cái vô tâm, vô ý của tinh thần Lão Trang khi nói về mối
39
quan hệ tình và cảnh, giữa hiện thực và sáng tác. Và như vậy, thực tại không phải là
cái mà thi nhân quan tâm. Cái quan tâm của độc giả lại là cái tâm của tác giả: “Văn
chương nhà Nho hướng vào thực tại bằng cái Tâm, Chí”. Điều này khác hẳn với
quan niệm của chủ nghĩa hiện thực.
Ngô Thời Nhậm lại nhấn mạnh “nắm lấy cái thực là cốt tử”, nhưng cái
“chân”, “thực” mà Ngô Thời Nhậm bàn đến ở đây là cái chân, cái thực đặt trong sự
đối sánh với cái giả dối, xảo trá.
Cái thực trong văn chương trung đại là sự trung thực với cái tâm chứ không
phải thực với cảnh. Còn Nguyễn Văn Siêu đề cao cái vô tâm. Theo ông đối với thực
tại nhà văn phải vô tâm. Điều này trái với nguyên lý của chủ nghĩa hiện thực.
Cuối cùng cố GS Trần Đình Hượu kết luận: “Đến đây các bậc đại Nho lại
theo đuổi cái thần chứ không phải cái thực. Họ đến với văn chương theo con đường
dưỡng tâm chứ không phải ghi chép, mô tả khách quan”. Và “ hướng vào thực tại
bằng tâm, chí không dẫn dắt văn học văn học đến con đường hiện thực”.
Như vậy, dù các nhà văn thời trung đại có nói tới cái thực trong văn chương,
vẫn chưa thoát khỏi quan niệm “văn dĩ tải đạo”và “thi ngôn chí” của nhà nho.
Từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, văn học Việt Nam tiến một bước
dài trong tiến trình phát triển. Nhà văn đã phản ánh cái mới, mang tính thời đại vào
tác phẩm của mình. Trong ngâm khúc truyện Nôm, cảm hứng xót thương cho
những cảm hứng xót thương cho những cảnh ngộ éo le được coi là cảm hứng chủ
đạo . Chinh Phụ ngâm thể hiện nỗi đau biệt ly của người chinh phụ có chồng đi
chinh chiến. Số phậm hẩm hiu, ngược đời của người cung nữ được phản ánh sác nét
trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều. Nhưng điều có ý nghĩa hơn là
các nhà văn thời kì này đã biết đòi hỏi quyền hạnh phúc cho con người, đặc biệt là
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Truyện Kiều là đỉnh cao của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII. Không ngẫu
nhiên mà một số nhà nghiên cứu cho rằng: chủ nghĩa hiện thực có trong thời đại
Nguyễn Du.
Lê Đình Kị trong cuốn “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”
40
khẳng định có sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm truyện Kiều.
Đỗ Đức Dục cho rằng “có chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”. Là nhà
nghiên cứu văn học phương Tây, ông đồng tình với quan niệm có chủ nghĩa hiện
thực thời phục hưng và khi quay trở về chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam,
ông nói: “Tôi bị hấp dẫn đặc biệt bởi nền văn học của thời kì cuối Lê – Tây Sơn –
đầu Nguyễn”. Ông khẳng định “trên cơ sở tư liệu hiện có và đã nắm vững, vận
dụng lý luận…đã có sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực lần đầu tiên vào thời đại
Nguyễn Du, với đặc tính là một chủ nghĩa hiện thực tâm lí – trữ tình”.
Mặt khác, Đỗ Đức Dục cũng khẳng định: “ …giống như ở thời đại phục
hưng phương Tây, phải nói cả mối khát vọng tìm hiểu, giải thích thế giới và đời
sống xã hội làm nảy sinh ra ở thời Lê Mạt – Tây Sơn những mầm mống đầu tiên của
tư tưởng khoa học, tinh thần phê phán và thực nghiệm, những yếu tố của tư tưởng
duy lý và chủ nghĩa duy vật nói chung, xuất hiện rải rác trong những công trình
nghiên cứu có tính bác học như Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn,…của Phan Huy
Chú, của Lê Hữu Trác…” [24/22].
Sự khẳng định này dường như hơi vội vàng. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn
trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam góc nhìn văn hóa” đặt lại vấn đề “Tìm
hiểu tính luận đề trong truyện Kiều để xem xét vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện
thực ở tác phẩm này”.
Theo ông, ở Việt Nam tình hình khác phương Tây ở chỗ: “không có một
cuộc cách mạng kiểu tư sản, không có một cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nào
theo kiểu Copecnich mở đầu; ở nước ta, cho đến mãi thế kỉ XIX, thế giới quan khoa
học duy vật vẫn chỉ tồn tại dưới dạng từng mảnh vụn chứ không thành hệ thống
dưới dạng trực giác, tự phát. Thống trị và đè nặng lên tư tưởng nhận thức của con
người vẫn là thế giới quan duy tâm siêu hình. Nói Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Phan
Huy Chú là những nhà bác học Việt Nam thời kì này là nói theo nghĩa hạn chế. Bản
thân Lê Quý Đôn, nhà bác học lớn nhất của nước ta hồi đó, thì trong thế giới quan
của ông còn nhan nhản mệnh trời, nhân quả, báo ứng, tiền định… trong khi những
nét duy vật biểu hiện quá yếu ớt và tản mạn”[51/172 -173].
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam chỉ có thể ra đời sau nền văn
41
chương trào phúng, đó là vào những năm 1930 – 1945, với những sáng tác của Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…Văn học trung đại thế kỉ
XVIII mặc dù tạo được bước đột phá mới, nhưng chưa đủ điều kiện để có thể khai
sinh ra chủ nghĩa hiện thực. Thế giới quan trung đại vẫn là thế giới quan duy tâm
siêu hình. Con người nhìn cuộc đời trong mối liên hệ với các lực lượng siêu nhân
như: trời, đất, thánh thần, …
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cắt nghĩa số phận của nàng Kiều dưới
những triết lí mang tính luận đề như: tài mệnh tương đố, tư tưởng quả báo, nghiệp
chướng, định mệnh. Hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều gồm hai tuyến: chính
diện và phản diện, trong đó nhân vật phản diện dường như là những nhân vật hiện
thực, là nguyên nhân trực tiếp gây ra đau khổ cho nàng Kiều. Tuy nhiên Nguyễn Du
chưa thắng nổi sức hút của thuyết tài mệnh tương đố, tạo vật đố toàn. “Những nhân
vật phản diện của ông được miêu tả như là lực lượng của chủ nghĩa hiện thực, song
trong nhận thức của Nguyễn Du xét đến cùng nhân vật đó không phải là cái gì khác
hơn công cụ hữu hình của chủ nghĩa định mệnh … ông đã tóm cổ các thủ phạm hiện
thực gây ra đau khổ cho con người, nhưng rồi lại buông thả chúng mà quay sang
phía định mệnh để lên án” [51/179]. Cái vĩ đại của Nguyễn Du được làm nên bởi
tình đời, tình người sâu sắc. Ông khao khát tìm nguyên nhân gây ra nỗi đau khổ của
con người, nhưng cuối cùng ông rơi vào bi kịch. Đó là tấn “bi kịch của một vĩ nhân
và bi kịch của cả một thời đại”. Nhà triết học Spinoza từng nói: “Phủ định cái gì thì
bị chính cái đó quy định, ràng buộc”.
Suy cho cùng, các nhà văn thời đại Nguyễn Du vẫn chịu ảnh hưởng quan
niệm văn học của Nho giáo. “Nhìn thực tại thành cuộc đời, thành cuộc đánh ghen
của trời, mệnh với tài, tình khó nhìn đúng những điều trông thấy” và “không tìm từ
trong thực tế nội dung thực của số mệnh cũng làm Nguyễn Du xa chủ nghĩa hiện
thực” (Trần Đình Hượu).
Sau ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện thực xuất hiện trong thời đại Nguyễn Du
là ý kiến khẳng định “thơ Tú Xương là thơ hiện thực hoàn chỉnh” (ý kiến này là của
nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc và Nguyễn Đức Đàn trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn
42
học Việt Nam).
Đến năm 1986, trên Tạp chí văn học số 2, Đỗ Đức Dục khẳng định: “Theo ý tôi
chính Tú Xương mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam”.
Đúng là thơ Trần Tế Xương có yếu tố hiện thực, nhưng ông chỉ có vai trò
như bản lề khép mở giữa hai dòng văn học quá khứ và hiện đại. (Về vấn đề này
chúng tôi đã giải thích ở phần trên).
Cần phải khẳng định lại rằng, không thể có chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam thế kỉ XVIII. Chủ nghĩa hiện thực phê phán là một trào lưu văn học
nghệ thuật thuộc phạm trù ý thức hệ tư sản, ra đời và phát triển trong bối cảnh
những cuộc đấu tranh xã hội đang bóc trần các mâu thuẫn giai cấp và bản chất xấu
xa của chủ nghĩa tư bản. Ở các nước Phương Đông, chủ nghĩa hiện thực ra đời
muộn hơn các nước Phương Tây (trừ Nhật Bản). Sự chậm trễ này là do chế độ
phong kiến tồn tại lâu đời ở Phương Đông. Mặt khác, trong khi các nước trên thế
giới bước vào chủ nghĩa tư bản theo quy luật tự nhiên của lịch sử loài người thì Việt
Nam nói riêng, các nước Phương Đông nói chung hầu hết nằm trong hệ thống thuộc
địa nên chủ nghĩa tư bản ở đây mang tính chất nửa vời, không triệt để, thậm chí què
quặt, làm chậm đi quá trình phát triển. Sự phát triển tư bản ở các nước này diễn ra
với đặc điểm cá biệt và chủ nghĩa hiện thực ở mỗi nước có một cách phát triển riêng.
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam ra đời sau chủ nghĩa hiện thực
trên thế giới hơn một thế kỉ, chịu ảnh hưởng khá sâu sắc nền văn học Pháp. Nếu chủ
nghĩa hiện thực trên thế giới ra đời do sự vận động nội tại của bản thân văn học thì
ở Việt Nam, văn học hiện thực phê phán 1930- 1945 ra đời dựa trên nhiều yếu tố
trong đó không thể bỏ qua những ảnh hưởng của dòng văn học nước ngoài.
Việc dịch thuật các tác phẩm văn học nước ngoài (chủ yếu là văn học Pháp)
ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nó cung cấp
cho các nhà văn những kiến thức mới về văn học, từ đó thay đổi cách cảm, cách
nghĩ cho phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của người đọc trong giai đoạn mới.
Sự xuất hiện thể loại văn xuôi đầu thế kỉ XX với những sáng tác của Phạm
Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh… đã tạo ra một quang cảnh văn học mới
43
khác trước.
Có một số ý kiến cho rằng, những năm hai mươi của thế kỉ trước, một số
truyện ngắn trên Tạp chí Nam Phong được xem là tác phẩm mở đầu cho chủ nghĩa
hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam. Đúng là tác phẩm của Nguyễn Bá Học,
Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh có yếu tố hiện thực, nhưng về cơ bản các nhà văn
vẫn đứng trên lập trường đạo đức để tố cáo, phê phán.
Nếu như chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam ra đời chủ yếu do ảnh
hưởng của nền văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, thì chủ nghĩa hiện
thực phê phán lại là sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại. Nhà văn hiện thực
tiếp thu kinh nghiệm của thế hệ trước, cộng với sự hiểu biết về văn học hiện đại trên
thế giới đã sáng tạo ra những tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc.
Con đường đến chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam còn là con đường
kế thừa và phát huy truyền thống của dòng văn chương trào phúng. Nhà văn hiện
thực chủ nghĩa tìm thấy ở văn học trào phúng cách tiếp cận cuộc sống từ những chi
tiết đời thường, những sự kiện có thật trong đời sống xã hội nhưng cách phản ánh ở
mỗi dòng văn học lại khác nhau. Tinh thần của văn học trào phúng tập trung ở phạm
trù mĩ học cái hài, dùng cái cười để đả kích, chế giễu. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng
về sự phân tích, phê phán xã hội. Sáng tác của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương,
Kép Trà …được xem là bước đệm quan trọng cho sự ra đời chủ nghĩa hiện thực phê
phán 1930- 1945. Và người thể hiện rõ nhất dấu nối giữa hai nền văn học là Nguyễn
Công Hoan. Ông vừa là nhà văn trào phúng, vừa là nhà văn hiện thực, vừa truyền
thống, vừa cách tân.
2.2.3. Sự vận động hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực phê phán.
2.2.3.1. Sự vận động về quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa
hiện thực phê phán.
Sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán là kết quả của quá trình chuyển
đổi đầy khó khăn từ trạng thái văn học Trung đại sang văn học hiện đại. Đó là sự
thay đổi lí tưởng thẩm mĩ, quan niệm văn học, hệ thống thi pháp…
Văn học trào phúng phủ nhận lí tưởng thẩm mĩ của văn học nhà nho. Chủ
nghĩa hiện thực phê phán kế thừa quan điểm tiến bộ của văn chương trào phúng để
44
tiến vào quỹ đạo văn học thế giới.
Chủ nghĩa hiện thực gắn bó chặt chẽ với những tri thức khoa học. Nhà văn
hiện thực bước lên một tầm cao mới về sự hiểu biết, khả năng nắm bắt thực tại
trong chiều sâu bản chất, từ đó có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, thể hiện sự vận động
khách quan, mang tính quy luật của tự nhiên và xã hội.
Nếu nhà thơ trào phúng hướng vào những sự kiện nổi bật để tạo tình huống
gây cười nhờ bút pháp cường điệu và phóng đại, thì nhà văn hiện thực chủ nghĩa
chọn sự kiện mang tính bản chất nhằm nghiên cứu và phân tích thực tại. Xuskốp
nhận xét: “Sự phân tích xã hội là thực chất của chủ nghĩa hiện thực, nó tạo ra khả
năng cho người nghệ sĩ tách ra trong cuộc sống những nét chủ yếu của nó và đi gần
tới chỗ hiểu được những quy luật vận động trong đó”. Cảm hứng nhận thức bản
chất thực tại khách quan được coi là tiêu chuẩn cốt yếu của chủ nghĩa hiện thực.
Mark- Enghels kêu gọi nhà nghệ sĩ tiến bộ của thời đại mình “thâm nhập vào đáy
sâu của các quan hệ xã hội thực tại, khám phá nguồn gốc vật chất và tính điển hình
xã hội của các tính cách, hành vi cá nhân”.
Không chỉ dừng lại ở khả năng nghiên cứu tính phức tạp của thế giới bên
ngoài, nhà văn hiện thực chủ nghĩa còn đi sâu vào thế giới bên trong vô cùng phức
tạp của con người. “Nhờ vào những đặc điểm của một phương pháp sáng tác dựa
trên nguyên tắc mô tả con người trong những liên hệ thực và phong phú với lịch sử
sống, với thực tại cụ thể, nghệ thuật chủ nghĩa nghiên cứu một cách đầy đủ và đa
diện lĩnh vực của tình cảm con người, tính phức tạp thực sự của những thể nghiệm
tâm lí con người” (Xuskốp).
Tuyên ngôn của L. Tônxtôi: “Nhân vật đẹp nhất trong tác phẩm của tôi là sự
thật”, được coi là lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực. Hướng đến sự thật và
phản ánh sự thật trong tính quy luật của nó là tiêu chuẩn định giá nhà văn hiện thực
chủ nghĩa.
Chủ nghĩa hiện thực mang tính lịch sử cụ thể. Vì thế, khi nghiên cứu chủ
nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam cần chú ý đến tính đặc thù của văn học
nước nhà. Không giống như chủ nghĩa hiện thực trên thế giới (phản ánh mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản), chủ nghĩa hiện
45
thực Việt Nam không chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản mà còn có
nhiều mâu thuẫn khác. Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc điạ nửa phong kiến, mâu
thuẫn giữa địa chủ và người nông dân được coi là một trong những mâu thuẫn cơ
bản trong sáng tác của các nhà văn hiện thực (Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Nam Cao, …).
2.2.3.2. Hệ thống chủ đề, đề tài.
Quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ đã chi phối hệ thống chủ đề, đề tài
của chủ nghĩa hiện thực phê phán 1930- 1945.
Lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực là sự thật. Vì thế chủ đề và đề tài
của nó không thể bắt nguồn từ những cái xa xôi, trừu tượng. Nhà văn hiện thực chủ
nghĩa chắp bút từ những sự vật hiện tượng của cuộc sống đời thường, coi trọng chi
tiết, coi trọng cái hàng ngày, thậm chí cả những cái bị coi là tầm thường, ít ai để ý
mà xoáy sâu vào nó. Tuy nhiên không phải bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng
có thể đi vào tác phẩm hiện thực chủ nghĩa. Cuộc sống yêu cầu nhà văn phải tìm
trong sự đa dạng của thực tế cái điển hình, tiêu biểu cho một loại hiện tượng để từ
đó phản ánh.
Chủ đề và đề tài trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945
phản ánh cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Hình ảnh của những người
nông dân bị bóc lột đến tận xương tủy, bị bần cùng hóa và lưu manh hóa đặt trong
sự mâu thuẫn đối kháng với cuộc sống phè phỡn của những lí trưởng, cường hào, ác
bá, những quan lại người Pháp và tư sản mại bản đang sống trong cuộc đời xa hoa,
dâm đãng. Đó là hình ảnh của những nhà chứa, sòng bạc, những tiệm hút ở thành
thị, là phong trào Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung” đang nổi lên như một nạn dịch.
Chủ đề trong văn chương trào phúng tập trung phản ánh xã hội Việt Nam
trong giai đoạn quá độ, từ chế độ phong kiến sang thực dân nửa phong kiến, giai
đoạn thoái trào của một nền Nho học. Nhà văn trào phúng phủ nhận nền văn học
quá khứ ở một số phương diện nhất định, nhưng với tư cách là sản phẩm xa nhất
của nền văn học ấy, họ không thể bứt thoát hoàn toàn khỏi hệ thống quan niệm của
văn học nhà nho. Tác giả trào phúng không tạo được một cuộc cách mạng lớn trong
văn học. Tuy phản ánh sự kiện mang tính thời sự nhưng nhà thơ trào phúng chưa
46
biết chắt lọc các sự kiện thể hiện tầm khái quát xã hội.
Chủ đề và đề tài của chủ nghĩa hiện thực thể hiện tập trung nhất ở những
mâu thuẫn trong xã hội, tạo bước phát triển mới trong văn học nghệ thuật. Chủ
nghĩa hiện thực không chỉ dừng lại ở các sự kiện của hiện thực mà còn đòi hỏi nghệ
thuật phải mang một nội dung tiến bộ. “Không sáng tạo ra cuộc sống vốn đã được
sáng tạo ra rồi, mà nó họa lại cuộc sống, sáng tạo lại cuộc sống và nhà nghệ sĩ như
một mặt gương lồi, phản ảnh theo một quan điểm nhất định, sự biểu hiện muôn màu,
muôn vẻ của cuộc sống, chọn lọc trong đó những biểu hiện cần thiết để tạo thành
một bức tranh đầy đủ, sinh động và hoàn thiện” (Bieelinxki), nhờ đó sự kiện trong
tác phẩm hiện thực chủ nghĩa trung thành hơn các sự kiện ngoài cuộc đời.
2.2.3.3. Hình tượng văn học cơ bản.
Bước đột phá lớn nhất của chủ nghĩa hiện thực là xây dựng được hình tượng
văn học trung tâm. Đó là những nhân vật điển hình, những tính cách điển hình trong
hoàn cảnh điển hình.
Lần đầu tiên với chủ nghĩa hiện thực, văn học nhân loại đã xây dựng được
nhiều điển hình văn học ở mức độ cao nhất và hoàn chỉnh của nó.
Theo Bieelinxki, “vấn đề điển hình hóa là một trong những quy luật cơ bản
của sáng tác và không có nó thì không có sáng tác”.
Điển hình hóa theo “nghĩa rộng là tổng hòa mọi biện pháp nghệ thuật nhằm
làm cho hình tượng trở thành điển hình, là con đường đưa sáng tác nghệ thuật đạt
chất lượng cao.
Điển hình hóa luôn gắn với quá trình khái quát hóa và cá thể hóa nhằm làm
cho hình tượng vừa khái quát được những nét quan trọng nhất, bản chất nhất của
đời sống, lại có được hình thức cụ thể, cảm tính cá thể, đọc đáo, không lặp lại.
Trong nghĩa hẹp, điển hình hóa là hình tượng khái quát hóa đặc trưng của
phương pháp sáng tác hiện thưc chủ nghĩa, hình thành trên cơ sở quan sát tính lặp
đi lặp lại tương đối ổn định của các hiện tượng, tính cách và quá trình cuộc sống
cùng loại trong thực tế” [17/101].
Với tinh thần phân tích xã hội, khả năng khái quát đời sống, nhà văn hiện
thực chủ nghĩa đã xây dựng được nhân vật mang tính cách điển hình trong hoàn
47
cảnh điển hình.
Nhà lí luận văn học Nga Bieelinxki đưa ra định nghĩa về nhân vật điển hình.
Đó “là một con người kiêm nhiều người, một nhân vật kiêm nhiều nhân vật, tức là
sự mô tả con người bao trùm số nhiều trong nó, bao trùm cả một bộ phận những
con người cùng biểu hiện một ý niệm như nhau”. Theo ông, “trong sáng tác của
một nhà văn chân chính, mỗi nhân vật là một điển hình, và mỗi điển hình đối với
độc giả là một người lạ - quen biết”. Chủ nghĩa hiện thực sáng tạo ra những nhân
vật, những tính cách vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính khái quát, vừa quen biết
lại vừa xa lạ. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa bản
chất và hiện tượng, giữa lí tưởng và hiện thực.
Điển hình nghệ thuật được dựng từ nguyên mẫu đời sống. Nhân vật Natasa
của đại văn hòa L. Tônxtôi được lấy từ nguyên mẫu là vợ và em gái vợ, tuy nhiên
đó không phải là phép cộng số học đơn giản của hai người mà nhân vật Natasa đã
mang một chất lượng nghệ thuật mới.
Nhà thơ trào phúng dựng lên những nhân vật cụ thể, có thật trong đời sống
nhằm tạo ra bức tranh xã hội sinh động, còn nhà văn hiện thực lại đi ngược lối xây
dựng nhân vật đó. Tính cách điển hình của chủ nghĩa hiện thực phê phán được khái
quát từ nhiều nguyên mẫu của đời sống nhằm khắc họa bản chất chung của một giai
cấp, một tầng lớp trong xã hội. M. Gorki nói: “Nếu biết rút lấy ở một người trong
số 20, 50, 100 ông chủ hiệu, công chức, công nhân, những nét, những thói quen,
những thị hiếu, những dáng điệu, những niềm tin, những cách nói, … có tính chất
giai cấp tiêu biểu nhất, rút ra rồi đúc kết những cái đó lại vào một chủ hiệu, một
công chức, một công nhân. Với thủ pháp này, nhà văn sẽ xây dựng được một điển
hình và đấy sẽ là nghệ thuật”.
Với tư duy về lịch sử cụ thể, nhà văn hiện thực luôn đặt nhân vật, tính cách
điển hình trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể, điển hình rồi triển khai sự phát triển
tính cách theo diễn biến của hoàn cảnh đó. Nếu nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn là
nhân vật tư tưởng, mang đậm tính chủ quan của nhà văn, đứng cao hơn hoàn cảnh
và không bị hoàn cảnh chi phối, thì chủ nghĩa hiện thực lại phủ nhận nguyên tắc
48
sáng tạo đó mà đề cao vai trò của hoàn cảnh đối với sự phát triển tính cách nhân vật,
và sự tác động ngược trở lại của tính cách đối với hoàn cảnh. Đó là quá trình biện
chứng, thể hiện tính khách quan trong sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực.
Hoàn cảnh điển hình bao gồm những sự kiện, những quan hệ do chính tính
cách tạo nên. Tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, được giải thích bởi hoàn cảnh.
Hoàn cảnh phức tạp khiến tính cách nhân vật cũng phức tạp theo.
Chủ nghĩa hiện thực đối lập với chủ nghĩa lãng mạn ở nguyên tắc xây dựng
nhân vật. Nếu tính cách nhân vật trong văn học lãng mạn thường bất biến, mang
tính một chiều thì chủ nghĩa hiện thực chú ý đến sự phát triển của tính cách. Tính
cách luôn luôn vận động hợp với lôgíc nội tại của nó. Tác phẩm văn học là con đẻ
của nhà văn. Tính cách nhân vật là con đẻ của hoàn cảnh. Nhà nghệ sĩ hiện thực chủ
nghĩa không thể chi phối đến cuộc sống của nhân vật, đến tính cách nhân vật theo ý
muốn chủ quan của mình mà phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy luật khách quan
trong sự phát triển. Nhân vật Tachiana trong tác phẩm “Épghênhi Ônhêghin” của
Puskin đã giáng cho ông “một đòn chí mạng”. Ý định ban đầu của nhà văn bị dập
tắt, ông vẫn phải để cho nhân vật của mình đi lấy chồng trong sự nuối tiếc của chính
bản thân. L. Tônxtôi từng nói: “Biết làm thế nào được… Nói chung các nhân vật
nam, nữ của tôi đôi khi làm những việc mà thực tình tôi không muốn: Họ làm những
điều mà họ cần phải làm”. Đó chính là hệ quả của nhân vật nổi loạn.
Nhân vật nổi loạn chỉ có trong các sáng tác của nhà văn hiện thực phê phán.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán luôn tuân theo những quy luật khách quan của đời
sống. Nhân vật nổi loạn được hiểu là những nhân vật trong hướng đi về sau của nó
trái với ý đồ chủ quan của người nghệ sĩ, đối lập với dự kiến ban đầu của tác giả.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam 1930 - 1945 khác với
chủ nghĩa hiện thực phê phán trên thế giới ở đối tượng phản ánh. Các nhà văn hiện
thực phê phán trên thế giới chĩa mũi nhọn vào xã hội tư bản chủ nghĩa, còn nhà văn
hiện thực phê phán ở Việt Nam lại tập trung sự chú ý nhiều hơn vào những quan hệ,
những mâu thuẫn trong xã hội phong kiến mà chủ yếu là mâu thuẫn giữa nông dân
và địa chủ.
“Bước đường cùng” được xem là tác phẩm thành công hơn cả trên con
49
đường đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán của Nguyễn Công Hoan. Nhân vật anh
Pha phần nào đã đại diện được cho tính cách hiền lành, nhút nhát của người nông
dân trong xã hội cũ. Mặt khác, ở nhân vật này đã có sự vận động và phát triển của
tính cách tuy chưa thật rõ rệt như những sáng tác của lớp nhà văn giai đoạn sau này,
như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, …
Về vấn đề này sẽ được đề cập rõ hơn ở những chương sau.
2.3.4. Hệ thống ngôn ngữ, thể loại.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam 1930- 1945 đánh dấu
sự trưởng thành của hệ thống thể loại.
Trần Đình Hượu nói: “không có một ngôn ngữ văn học trong sáng chính xác
và không có một nền văn xuôi có nhiều khả năng diễn đạt, chưa định hình được thể
loại kịch và tiểu thuyết thì khó thành văn học hiện thực chủ nghĩa” [4/490].
Trong văn học truyền thống, kể cả dòng văn chương trào phúng, thể loại chủ
yếu vẫn là thơ. Thơ, phú, lục là đặc trưng thể loại của văn học nhà nho.
Thơ nghiêng về tâm trạng, cảm xúc hơn là miêu tả. Yếu tố trữ tình là đặc
trưng cơ bản của thơ.
Phạm vi phản ánh hiện thực trong thơ hẹp do bị giới hạn về độ dài ngắn của
thể loại.
Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX phải kể
đến vai trò của các thể loại: kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó tiểu thuyết
giữ vai trò quan trọng trong văn học hiện đại.
Tiểu thuyết là thể loại văn học gần gũi nhất với đời sống. Dung lượng phản
ánh rộng. Tiểu thuyết nói riêng, văn xuôi nói chung có khả năng thể hiện cuộc sống
một cách toàn vẹn với tất cả tính chất sinh động, phức tạp, nhiều màu, nhiều vẻ của
nó. Nhiều nhà phê bình ví tiểu thuyết như những cuốn bách khoa của đời sống, là
những cuốn sách về cuộc đời…
Truyện ngắn dung lượng phản ánh hẹp hơn tiểu thuyết, nhưng nội dung của
nó cũng bao trùm hầu hết các phạm vi hiện thực. Đó là thể loại tự sự cỡ nhỏ, súc
tích, dễ đọc…
Những năm hai mươi của thế kỉ trước, sự ra đời của các thể loại nói trên
50
đánh dấu bước trưởng thành của nền văn xuôi Việt Nam.
Cùng với sự ra đời của những thể loại văn học mới: Kịch “Chén thuốc độc”
(1921) của Vũ Đình Long, tiểu thuyết “Tố Tâm” (1925) của Song An Hoàng Ngọc
Phách, truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học,… là sự hiện diện của thứ
ngôn ngữ hiện đại hơn ngôn ngữ mà các nhà thơ trào phúng đã sử dụng.
Phạm vi độc giả của giai đoạn này không bó hẹp ở một tầng lớp nhất định mà
được mở rộng. Thị hiếu thẩm mĩ cũng khác xưa. Độc giả hiện đại không còn hợp
với thứ ngôn ngữ xa vời, chau truốt, những điển tích, điển cố… Họ yêu cầu ở văn
chương khả năng diễn đạt cuộc sống bằng thứ ngôn ngữ đời thường, không hoa mĩ,
cầu kì, không bóng gió, xa xôi.
Ngôn ngữ trong văn học hiện thực phê phán có sự phá cách lớn. Đó là thứ
ngôn ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói của người dân là thứ ngôn ngữ dễ đi vào
lòng người.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Thời kì đầu cầm bút, Nguyễn Công Hoan chưa thực sự thể hiện được quan
điểm nghệ thuật trong sáng tác . Sáng tác ban đầu chủ yếu là truyện ngắn trào phúng.
Ở lĩnh vực này, Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng yếu tố trào phúng trong văn
học dân gian và cảm hứng tự trào trong văn chương nhà nho, đặc biệt ông chịu ảnh
hưởng sâu sắc văn chương trào phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Mối quan tâm của nhà văn giai đoạn đầu gần với mối quan tâm của nhà nho.
Ông chú ý tới sự suy đồi đạo đức, đến bộ mặt giả dối, vô lương tâm của bọn quan
lại, địa chủ, tư sản, bọn nhà giàu nói chung.
Cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm lược của thực dân Pháp kéo theo sự biến dạng
trong đời sống xã hội. Văn hóa phương Tây du nhập vào nước ta, khiến một số giá
trị văn hóa truyền thống bị đảo lộn. Và Nguyễn Công Hoan là một cây bút thực sự
nhạy bén tiếp thu những quan điểm thẩm mỹ nghệ thuật văn học phương Tây vào
trong những sáng tác của mình, bước đầu tạo được những thành công về mặt lý
tưởng thẩm mĩ, lựa chọn đề tài, chủ đề và ngôn ngữ thể loại trong sáng tác văn học.
Những điều ấy thực sự hứa hẹn về sự trưởng thành trong sáng tác của nhà văn trong
51
giai đoạn sau.
Chƣơng 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA NHÀ VĂN QUA
NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG
Nguyễn Công Hoan là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam, là
người tiêu biểu cho bước chuyển của hai thời đại văn học. Ông là một trong những
tiêu điểm quan trọng để nhìn ra quy luật vận động của nền văn học Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại. Để làm rõ luận điểm: Sự chuyển đổi loại hình tác giả văn
học Việt Nam trước cách mạng tháng tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan. Ở
chương này chúng tôi đi vào nghiên cứu phương diện về nội dung và nghệ thuật các
sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng tám năm 1945 theo các hệ
quy chiếu: lý tưởng thẩm mỹ; hệ thống chủ đề, đề tài; hình tượng văn học trung tâm;
cốt truyện – tình huống truyện; ngôn ngữ - thể loại; kết cấu và kết thúc.
3.1. Những chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Công Hoan.
Trong cuốn “Đời viết văn của tôi”, Nguyễn Công Hoan chia sự nghiệp sáng
tác của mình thành ba thời kì lớn:
Thời kì thứ nhất: 1920 – 1928, thời kì bắt đầu vào nghề cho đến khi đi học
trường sư phạm.
Thời kì thứ hai: 1928 – 1942, thời kì này Nguyễn Công Hoan sangs tác nhiều nhất.
Thời kì thứ ba: Từ năm 1954, từ khi hòa bình lập lại cho đến khi mất.
Nguyễn Công Hoan làm công tác văn hóa trong Cục chính trị, bộ Tổng tư lệnh quân
đội nhân dân Việt Nam. Sáng tác giai đoạn này không nhiều. Một số tác phẩm bị
phê phán.
Sự phân chia trên có tính chung chung, chưa thể hiện rõ nội dung và nghệ
thuật mỗi thời kì.
Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh trong cuốn “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan” chia sự nghiệp sáng tác của nhà văn thành ba thời kì:
Từ năm 1920 – 1928.
Từ năm 1929 – 1935.
Từ năm 1936 – 1939.
Từ năm 1940 – 1945.
52
Từ năm 1945 – 1977 (khi nhà văn mất).
Sự phân chia này dựa vào nội dung cụ thể của truyện và sự chuyển biến đề
tài, chủ đề tương ứng với sự chuyển biến về quan điểm và nhận thức của tác giả
trong mỗi hoàn cảnh nhất định. Cách phân chia tương đối cụ thể và rõ ràng.
Để chứng minh cho vấn đề mà luận văn đưa ra: Sự chuyển đổi loại hình tác
giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan.
Chúng tôi dựa vào sự phân chia của nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh, nhưng chỉ
dùng lại ở giai đoạn trước 1945.
3.1.1. Giai đoạn từ 1920 – 1928.
Giai đoạn từ 1920 – 1928 được xem là giai đoạn chập chững vào nghề của
Nguyễn Công Hoan, đó là quá trình tập dượt một ngòi bút mới tham gia vào làng
văn. Vì thế hầu hết sáng tác giai đoạn này chưa thực sự được đánh giá cao.
Giai đoan khoảng mười tám, đôi mươi tuổi đời, Nguyễn Công Hoan vẫn là
một thanh niên ham chơi, sông không có mục đích, thích phiêu lưu hơn là tính
chuyện lập thân. Ông tự nói về mình: “Với người khác, chỉ sống để ăn hai bữa rồi
chơi, như vậy cũng thấy buồn. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy buồn, tôi còn mê chơi
lối ấy”[25/77]. Nhưng có lẽ chính sự mê chơi ấy đã giúp nhà văn lượm lặt được vốn
sống quý báu để viết lên những tác phẩm thấm đẫm tình người.
Sáng tác thời kì đầu tuy chưa thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của nhà văn,
nhưng phần nào đã hé lộ khuynh hướng nghệ thuật của tác giả ở các giai đoạn sau.
Năm 1920, nhân một chuyến xích mích ở gia đình, Nguyễn Công Hoan cùng
với người anh con bác bỏ nhà ra Hải Phòng tính chuyện xuất dương.
Truyện ngắn đầu tiên với tên gọi: “Quyết chí phiêu lưu” (1920) là kết quả
của chuyến phiêu lưu “Đầu voi đuôi chuột”, cùng với ảnh hưởng của tập thơ “Mê
chơi” của thi sĩ Tản Đà. Nhưng bản thảo này (theo lời nhà văn) “chỉ vài tháng thì bị
hủy, bởi việc viết truyện này chỉ như một trò đùa nghịch cho vui”[25/81].
Cuộc phiêu lưu không thành, Nguyễn Công Hoan trở về say sưa với cuốn
“Ba người lính ngự lâm pháo thủ” của A.Dumas, ông lại có hứng thú sáng tác.
Năm 1922, Nguyễn Công Hoan viết một số truyện ngắn in vào tập “Truyện
53
thế gian” của Tản Đà tu thư cục, còn một số in thành tập “Kiếp hồng nhan”.
Năm 1923, truyện “Kiếp hồng nhan” xuất bản, đây là tập truyện ngắn mở
đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn..
Tập truyện có khoảng 10 truyện ngắn như Kiếp hồng nhan (kể về đời một
người con gái bạc mệnh, long đong), Sóng vũ môn (là nỗi bất công trong xã hội, cụ
thể là sự bất công trong thi cử), Cô hàng nước (đề cao sự chung tình của một anh
phu xe với chị hàng nước), Trần ai tri kỉ (kể về tình yêu cao thượng của một người
làm thợ tán son ở phố hàng Gai)…
Năm 1923, ông viết truyện dài đầu tiên với tên gọi “Phải gió”. Câu chuyện
dở dang không có lời kết (vì lí do đi học) như một giấc chiêm bao nhằm chế nhạo
những người phụ nữ tự do ăn chơi dựa vào tinh thần nữ quyền đang được đề cao
trên báo chí hồi bấy giờ. Truyện hoàn toàn do trí tưởng tượng của nhà văn “bịa ra
những chi tiết rất vô lí để đả kích bọn phụ nữ rởm hợm”.
Nội dung của truyện ngắn giai đoạn này chưa thật sâu sắc và có giá trị nghệ
thuật. Sau này trong cuốn “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan nhận xét: đó
là một thứ văn “rườm rà, “ấu trĩ”, “triết thuyết lí”, “giảng đạo đức”, “là cái bệnh
tham lam nhồi nhét để khoe khoang văn chương và tư tưởng của người mới tập cầm
bút” [25/85].
Đối với nội dung truyện, ông khẳng định: “Những truyện mà tôi viết không
nói lên được cái gì. Nó tựa vào bất cứ một đề tài nào làm tôi rung cảm. Cốt truyện
xa thực tế. Lối kể rườm rà, tham lam”,“chưa có một định hướng chính trị nghệ
thuật nào”. Đó là một lời nhận xét khá nghiêm khắc đối với những tác phẩm đầu
tay của nhà văn. Thực chất, giai đoạn sáng tác đầu tiên này mang nhược điểm của
một cây bút mới vào nghề, nhưng không phải tất cả đều hạn chế. Bên cạnh yếu tố
lãng mạn, bảo thủ trong một số truyện ngắn (Kiếp hồng nhan) còn có yếu tố tích
cực, mang tính dự báo cho ngòi bút hiện thực nảy nở giai đoạn sau.
Truyện ngắn “Sóng vũ môn” vẽ lên được bức tranh xã hội bất công trong thi
cử thời phong kiến. Câu chuyện kể về cậu học trò nhà quê hiếu học tên là Hoàng
Quý, lều chõng đi thi, nhưng chỉ vì sơ ý không nhớ đến tên húy của nhà vua mà tai
hại một đời. Anh oán hận phép thi khắc nghiệt vô lí khiến cho một người có tài như
54
anh phải thân bại, danh liệt. “Sóng Vũ môn” là câu chuyện mang màu sắc lịch sử tả
cảnh trường thi Hà Nội dưới thời Tự Đức, vì thế ít nhiều nó mang trong mình giá trị
hiện thực nhất định.
Sáng tác của Nguyễn Công Hoan thời kì đầu bước chân vào làng văn còn
chịu nhiều ảnh hưởng của lối viết truyền thống. Đặc biệt là ở đề tài, chủ đề và hình
tượng nhân vật.
Giai đoạn 1920 – 1928 mang tính chất khai mở cho toàn bộ cuộc đời sáng tác
của nhà văn sau này. Tuy còn mang nhiều nhược điểm của một cây bút mới vào
nghề, song phần nào cũng hứa hẹn sự thành công trong chặng đường tiếp sau.
3.1.2. Giai đoạn từ 1929 – 1935.
3.1.2.1. Sự vận động trong tư tưởng của nhà văn.
Giai đoạn này đánh dấu sự trưởng thành trong con người và trong sáng tác
của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Không còn là một thanh niên bồng bột, ham chơi,
thích phiêu lưu như thuở thiếu thời, Nguyễn Công Hoan đã nghiêm khắc nhìn lại
mình bởi không muốn lặp lại cuộc sống buồn tẻ của một trí thức bình thường.
Sự vận động trong tư tưởng và trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan gắn
với từng bước đi của lịch sử dân tộc. Những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, các phong
trào yêu nước diễn ra sôi nổi đã tác động đến quá trình chuyển biến tư tượng của thế
hệ thanh niên nói chung và nhà văn Nguyễn Công Hoan nói riêng.
Năm 1925, sau sự kiện Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải – Trung Quốc,
trong nước diễn ra phong trào đòi ân xá cho những chí sỹ cách mạng ấy. Một năm
sau, sự kiện đám tang cụ Phan Chu Trinh cũng tạo nên những ảnh hưởng khong nhỏ
đến phong trào yêu nước khắp từ Nam ra Bắc, đặc biệt tiếng bôm Sa Điền của Phạm
Hồng Thái mưu giết tên toàn quyền Méclanh nổ ra vào năm 1928 như sự thức tỉnh
thế hệ thanh niên yêu nước, trong đó có Nguyễn Công Hoan.
Từ một thanh niên ham chơi, năm 1922 Nguyễn Công Hoan thi vào trường
Nam Sư phạm. Năm 1926 ông làm nghề dạy học, đến năm 1928 theo lời khuyên
của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, ông gia nhập Quốc dân đảng, trở thành người
thanh niên sống có lý tưởng. Nguyễn Công Hoan trăn trở suy nghĩ về tuổi thanh
55
niên của mình và day dứt với câu hỏi: “người thanh niên mất nước phải sống thế
nào cho ra sống?”, và ông đã rút ra chân lý “Chỉ có người nào biết đặt danh cho tổ
quốc, lợi cho tương lai, tình với đồng bào mới được sống thanh thoát”.
Từ suy nghĩ ấy, nguyễn Công Hoan đã viết một số truyện: Một cái chương
trình quyết thực hành, Sách bị cấm…đem trao đổi với bạn bè. Được một số người
khuyến khích, ông lại say sưa viết về những vấn đề mang ý nghĩa xã hội sâu sắc
như: Răng con chó nhà tư bản, Hà thành nữ sĩ…truyện dài “Tay trắng, trắng
tay”(1929 – phần 1), phần thứ 2 đề là “Chiếc nhẫn vàng”(phần này năm 1931 tiếp
tục viết)…
Nguyễn Công Hoan hăm hở nhập cuộc với hi vọng Đảng có thể làm cho
“thực tế được giải thoát”. Hoạt động trong Quốc dân đảng chưa được bao lâu thì tổ
chức này tan rã. Chứng kiến sự mất mát hi sinh của nhiều đồng chí, ông càng thấm
thía nỗi đau của người dân mất nước.
Không hoạt động chính trị, ông chuyển sang viết văn, với hi vọng văn
chương sẽ giải thoát khỏi “sự hằn học sẵn có trong con người về cuộc đời”. Sự
trưởng thành trong suy nghĩ nguyễn Công Hoan ý thức được vai trò của người cầm
bút : “văn chương không nên chỉ là thứ gải trí, nó phải thêm một nhiệm vụ là có
ích”. Ngòi bút của nhà văn không mơ hồ, xa xôi như giai đoạn trước mà tập trung
khai thác những đề tài ngay trong cuộc sống, những sự việc xảy ra hàng ngày, hàng
giờ ở trong nước. Ông phơi bày mặt trái của xã hội thực dân nửa phong kiến bằng
bút pháp trào phúng.
3.1.2.2. Ngòi bút trào phúng Nguyễn Công Hoan
Những năm đầu thế kỉ XX, văn hóa, văn học phương Tây tràn vào Việt Nam
thật mạnh mẽ, nó đã chi phối sự ra đời của các trào lưu văn học. giữa các ngả
đường khác nhau Nguyễn Công Hoan đã chọ con đường nối tiếp mạch nguồn
truyền thống để bước vào thế giới văn học hiện đại, mặc dầu được đào tạo trong
trường Pháp - Việt, nhưng khác với trí thức Tây học, ông chị ảnh hưởng của dòng
văn học truyền thống nhiều hơn văn học phương Tây. trong bài tham luận về kinh
nghiệm viết văn đọc ở Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm 1957, ông
nói:“Đối với tôi, ảnh hưởng trường học của Pháp, ảnh hưởng của sách báo nước
56
ngoài không có mấy…Nếu được củng cố thêm về mặt chính trị và hưởng thụ phần
văn học tốt của nước Pháp trước kia…thì khiếu được khai thông hơn, nhiệt tình
được vững chắc hơn, quyết rằng tôi không phải mò mẫm một mình để viết, lắm lúc
như anh xẩm mất gậy”[25/277]. Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc dòng
văn học trào phúng. Sáng tác giai đoạn 1929 – 1935 đánh dấu trong lĩnh vực truyện
ngắn trào phúng của nguyễn Công Hoan.
Ông quan niệm cuộc đời như một sân khấu hài kịch. Con người là giả dối,
lừa bịp. Cái nhìn của nhà văn giai đoạn này gần với cái nhìn “chu nhi phục thủy”
của nhà nho.
Năm 1930, Nguyễn Công Hoan nhận lời mời của Tản Đà viết cho mục “An
Nam nhị thập thế kỉ ba đào kí” trên An Nam tạp chí. Nhan đề của mục thể hiện rõ
tinh thần trào phúng của thời đại: Ghi lại những sóng lớn của xã hội An Nam thế kỉ
XX, bất chấp “điều hay nhẽ dở, sự nhỏ, sự to trong xã hội để nơi nọ biết được sự
tình của nơi kia, kẻ sinh sau nghe được câu chuyện về thủa trước”. Nguyễn Công
Hoan thành người viết nhiều nhất mục và truyện ngắn của ông từ đó có tên gọi “Xã
hội ba đào kí”.
Trở về gần với cái nhìn dâu bể của nhà nho, Nguyễn Công Hoan củng cố ghi
lại những cảnh huống của xã hội bằng ngòi bút khách quan. Ông chú ý đến việc
nhận thức và khám phá các hiện tượng phức tạp trong xã hội thực dân nửa phong
kiến. truyện ngắn “Xã hội ba đào kí” trở thành hồi chuông cảnh báo cho sự suy đồi
trầm trọng về mặt đạo đức cuả con người.
Nguyễn Công Hoan khẳng định mình qua từng giai đoạn khác nhau. Nếu ở
giai đoạn 1920 đến 1923, số lượng sáng tác của nhà văn chưa nhiều, mục đích và
quan điểm nghệ thuật chưa thật rõ ràng, thì đến giai đoạn này số lượng sáng tác và
nội dung truyện đã đánh dấu sự trưởng thành trong ngòi bút Nguyễn Công Hoan.
Hơn 80 truyện ngắn, khoảng 10 truyện dài. Nội dung các sáng tác được khai thác từ
những vấn đề thời sự nóng bỏng. Đó là những sự kiện được tận mắt nhìn, tận tai
nghe, hoặc là đọc trên sách báo.
Sáng tác của Nguyễn Công Hoan giống như “chuyện chơi”. Sau ba năm dạy
học ở Hải Dương, năm 1929, Nguyễn Công Hoan bị điều lên Lào Cai dạy học. Ông
57
viết thư trao đổi với một người nữ đồng nghiệp bằng truyện ngắn. Mỗi tuần một câu
chuyện và ông cố gắng viết làm sao cho thật ngắn gọn, cho đúng với giọng hay
“đùa bỡn”, hay “chế nhạo chua chát” của mình. Về sau, động lực thúc đẩy Nguyễn
Công Hoan sáng tác là tấm lòng nhà văn với cuộc đời; “Lòng muốn viết những cái
gì mà mình cho là cần viết, không viết không an tâm, không viết thì thấy hậm hực,
thấy canh cánh bên lòng, thiếu nhiệm vụ của người cầm bút, không viết là che giấu
cho đối phương để lừa độc giả…Viết ra được thì thấy lòng nhẹ nhàng thanh thoát,
kiêu hãnh” [26/280].
Từ suy nghĩ ấy, ông dồn hết tâm lực vào ngòi bút bằng một trái tim ấm nóng.
Ông quan niệm: “truyện phải có nội dung bổ ích và trước hết truyện phải
thực”[25/132]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan vì thế đầy ắp những chi tiết thực
của cuộc đời. Ông phanh phui bản chất xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến
bằng ngòi bút trào phúng.
Nguyễn Công Hoan quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch, trên sân
khấu hài kịch ấy có sự góp mặt của đầy đủ tầng lớp, từ quan lại, cường hào ác bá,
đến những bọn áp bức bóc lột, từ kẻ giàu cho đến người nghèo.
Sống dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, Nguyễn Công Hoan nhìn “cái gì
cũng giả dối, lừa bịp đáng khôi hài”. Ông nhận ra trong mặt “nghiêm chỉnh” có cái
“dối trá”, trong vỏ nhân nghĩa có cái tàn bạo. Ông coi thường tất cả. Ông coi cuộc
đời giống như những trò lừa bịp. Không ít tác phẩm, Nguyễn Công Hoan đưa ra
nhũng định nghĩa cay đắng về cuộc đời: “Đời ngày nay chẳng phải là một bà hiền
mẫu biết thưởng phạt công minh. Đời đã hóa ra một con mụ chửa hoang đẻ bậy,
sinh non ra toàn những hạng mất dạy, hoặc đói cơm”… “Đời này ăn nhau về chỗ
ranh mãnh…nói đúng hơn là mất dạy”(Một tấm gương sáng). Trong truyện ngắn
“Đàn bà là giống yếu” ông kết luận: “Ở đời này ai không thừa cơ lợi dụng là khờ”.
Nguyễn Công Hoan nhìn cuộc đời theo chiều hướng suy đồi. Đó là sự suy
đồi về đạo đức, về nhân cách. Ông giễu cợt lối sống trụy lạc, rởm hợm, vô ơn bạc
nghĩa của những con người khoác màu áo đạo đức. Thế giới trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan là một thế giới “bị lộn trái”, “con người đeo mặt nạ để lừa dối,
58
bóc lột lẫn nhau”.
Ở Nguyễn Công Hoan, cái nhìn thuở ban đầu gần với cái nhìn của nhà nho,
gần với cái nhìn của nhà thơ: Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
Sự tha hóa về đạo đức, nhân cách đã có trong thơ trào phúng của Trần Tế
Xương. Ông vẽ lên bức tranh xã hội bằng thơ những cảnh lố lăng, được thể hiện khá rõ
trong một số tác phẩm của ông như “Năm mới chúc nhau”, “Vịnh khoa thi hương”…
Bức tranh xã hội bằng thơ của Trần Tế Xương tuy hiện thực nhưng độ sâu về
hình ảnh chưa thật rõ.
Đến Nguyễn Công Hoan, trò dối trá, lừa bịp bị lật tẩy quyết liệt hơn nữa.
Ông đã đưa ra ánh sáng bộ mặt thật của xã hội thực dân đầy mâu thuẫn tự che đậy
bằng vỏ bọc hào nhoáng. Trong xã hội ấy, thói bạo tàn chui vào vỏ nhân nghĩa, trò
lừa bịp dối trá, bất nhân khoác áo mầu đạo đức, tệ hống hách làm ra vẻ khiêm
nhường…Tác phẩm Nguyễn Công Hoan giai đoạn này phản ánh bộ mặt méo mó,
xô lệch của xã hội thực dân.
Giai đoạn 1929 – 1935 đánh dấu bước trưởng thành ngòi bút trào phúng
Nguyễn Công Hoan. Truyện ngắn của ông giai đoạn này giống những màn bi hài
kịch thấm đày nước mắt. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đưa đến cho độc giả tiếng cười
nhưng ngay sau đó họ lại cùng ông rơi lệ. Tấn bi hài kịch luôn bắt đầu từ những trò
dối trá, lừa bịp và kết thúc bằng nước mắt.
Từ sự trăn trở với cuộc đời, nguyễn Công Hoan đã phơi bày trước dư luận xã
hội những cảnh éo le trái ngược, những tâm hồn đang xói lở trong xã hội ba đào.
Truyện ngắn “Răng con chó của nhà tư sản” thể hiện về sự xuống cấp về
đạo đức của con người. Số phận người ăn mày đặc sau số phận của một con chó.
Hình ảnh đối lập giữa một bên là con vật sạch sẽ, thơm tho, được nâng niu, cung
phụng tử tế, với một bên là một người ăn mày đói rách “đen thủi đen thui, nằm chờ
bên cạnh cái dạ dày lép kẹp” có giá trị tố cáo sâu sắc. Mặc cho người ăn mày van
lạy “rã cả bọt mép” , ông chủ vẫn thờ ơ cho đến khi “cái tiếng hết hơi” do gào to
của người ăn mày đập đến màng nhĩ, ông mới trợn mắt, hầm hầm quát: “Bước ngay!
không ông đá cho một cái thì chết bây giờ”. Màn bi hài kịch diễn ra trong tình thế
rất gay cấn giữa người và chó cốt để giành lấy đĩa cơm: “người tiến chó cũng tiến,
59
người lùi chó cũng lùi. Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người, đều
cùng giữ miếng như nhau” . Vậy là người hóa vật, vật hóa người. Một tấn bi hài
kịch cười ra nước mắt về thân phận con người trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh ông chủ nghiến răng: “à, mày đánh gẫy răng
chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi đền mạng. Bất quá ba chục bạc là
cùng!”. Ông nhảy lên ô tô, phóng xe hết sức nhanh đuổi theo người ăn mày. Đó là
đạo đức của con người, cụ thể là bọn tư sản trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Răng của một con chó phải đền bằng cả mạng người.
Bằng ngòi bút trào phúng, Nguyễn Công Hoan rung lên hồi chuông cảnh báo
sự xuống cấp đạo đức con người.
Nếu nhà nho giai đoạn trước đặt phạm trù đạo đức là trung tâm, thì truyện ngắn
xã hội ba đào kí vấn đề về sự suy đồi đạo đức cũng được đặt ra một cách cấp thiết.
Truyện “Báo hiếu: trả nghĩa cha” đặt vấn đề về một nghĩa cử cao đẹp của
con cái với cha mẹ. Nhan đề của truyện ngắn đối lập hoàn toàn với nội dung của tác
phẩm. Cấu trúc của câu chuyện giống như một vở kịch gồm hai cảnh:
Cảnh 1: Ngoài trời mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương, trong nhà
ông chủ hãng xe Con Cọp, tiệc tùng linh đình. Những lời chúc mừng chen lẫn tiếng
cười của khách tham dự. hình ảnh của ông chủ bệ vệ luôn nở nụ cười “thiệp mời
của nhà tư sản”.
Cảnh 2: Ngoài trời mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu xương. Hình ảnh một
bà lão cô đơn, rách rưới, lưng khoác áo tơi, đầu đội nón nghệ, trạc ngoài 60, quê
mùa, đần ngốc, xấu như con khỉ, hai mắt thì toét nhèm những nhử…cái quần ống
chỗ ướt chỗ khô… Trời rét khiến bà run chẳng được. hai lớp cảnh đối nhau. một
bên là nhà tư sản giàu có, một bên là người nông dân quê mùa đần ngốc. Giữa họ
tưởng không có mối quan hệ. Thế nhưng, chính người đàn bà góa ấy: “vì chót chiều
chồng mà tình cờ đẻ ra một đứa con trai…thằng con trai ấy tức là ông chủ”.
Ngày giỗ chồng, bà từ quê lần mò ra thành phố, tìm đến nhà con trai, nhưng
không ngờ bà lại là người khiến cho người con trai “hiếu thảo” ấy phải xấu hổ với
mọi người trong bữa tiệc „báo hiếu” cha. Ông chủ đón mẹ tại nơi đầy muỗi và hôi
thối. Ông trợn mắt mắng vào mặt bà: “Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà
60
cầm lấy! bà về đi! Mặc kệ bà”.
Thì ra ông chủ đã đem sĩ diện mà đổi lấy chữ hiếu. Hóa ra câu chuyện báo
hiếu trả nghĩa cho cha chỉ là một hành động lừa bịp, giả dối. Đó là cái vẻ bề ngoài
nhằm dấu đi bản chất vô lương tâm của một nhà tư sản. Đồng hào ván của đứa con
trai dúi vào tay người mẹ góa, rồi đuổi mẹ đi trong mưa gió thể hiện sự mất giá của
tình mẫu tử và sự lên ngôi của tờ giấy bạc trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Hạt nhân tiếng cười trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan bắt
nguồn từ nhận thức về sự trái ngược giữa bản chất và hiện tượng, giữa vẻ phô
trương bên ngoài và tình trạng thiếu sức sống bên trong. Bằng cách xây dựng những
tình huống khác nhau, ông tạo ra cái cười mang nhiều cung bậc. Từ khôi hài , mỉa
mai đến châm biếm, tố cáo. tiếng cười thành vũ khí chiến đấu. Sáng tác của Nguyễn
Công Hoan vì thế có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
3.1.2.3. Cây bút hiện thực Nguyễn Công Hoan.
Nghề dạy học đã giúp ông hiểu biết thêm về cuộc đời muôn hình muôn vẻ.
“Tôi hiểu nông thôn, với nhũng cơ cực của người nông dân vì đế quốc, phong kiến
và tôn giáo làm cho u mê, tăm tối nghèo khổ”…Người đời tin và sẵn sàng và sẵn
sàng bộc lộ những uẩn khúc tự đáy lòng với những sáng tác của ông “Thế là 20
năm trong giáo giới…tôi được học thêm ở cuốn sách thiên nhiên nhiều rất hay
trong những trang rộng lớn và vô tận” [26/98].
Vốn sống mà ông lượm lặt được một cách chăm chỉ và có suy nghĩ. Thời kì này
là tài liệu cho cả một giai đoạn dài trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan.
Bạn đọc không chỉ biết đến Nguyễn Công Hoan là một cây bút trào phúng
tiêu biểu những năm đầu thế kỉ XX, mà Nguyễn Công Hoan còn được biết đến với
một cây bút hiện thực xuất sắc. Tập truyện “Kép Tư Bền” (1935) được báo chí đánh
giá cao và Hải Triều gọi đó là “tác phẩm thuộc về cái trào lưu nghệ thuật vị nhân
sinh ở nước ta”.
Bên cạnh đề tài tố cáo bọn nhà giàu, vô lương tâm, số phận của người nghèo
trong xã hội được nhà văn đề cập trong nhiều tác phẩm. Ông chú ý khai thác những
61
cảnh đời éo le, cơ cực, vắt mũi không đủ đút miệng của bao kiếp người khốn khó.
Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên của phu xe với cô gái giang hồ cứ day dứt người
đọc. Nước mắt của người phu xe hòa lẫn những giọt nước mắt ngầm của nhà văn.
Họ khóc để rửa sạch cái vết ba đào của kiếp “Người ngựa và ngựa người”.
Ám ảnh người đọc còn là hình ảnh anh kép hát rong truyện ngắn “Kép Tư
Bền”vô tình bị người đời bắt diễn trò bông lơn giữa lúc cha hấp hối. Vì món nợ ông
chủ rạp Kịch trường, Tư Bền phải nhận lời đóng vai Ông huyện ba phải, mua vui
cho thiên hạ. Đời kép hát thật phũ phàng. Ông chủ rạp hát thì ác nghiệt bắt anh phải
quên đi sự nhàu gan nát ruột vì người cha hấp hối để mà bông mà đùa, mà pha trò
trên sân khấu cho khán giả hét lên mà cười “cười đến nỗi phải lăn cả ra đất”. Cái
cảnh thương tâm của anh Tư Bền đi đôi với bông lơn, cứ diễn ra mãi, mà mỗi chốc
lại càng thương tâm hơn.
Có thể nói, giai đoạn từ 1929 – 1935, Nguyễn Công Hoan thành công ở
truyện ngắn trào phúng. Truyện ngắn hiện thực cũng được gây tiếng vang. Tuy
nhiên phải đến thời kì mặt trận Dân chủ, ngòi bút hiện thực phê phán Nguyễn Công
Hoan mới đạt đến đỉnh cao. Hoài Thanh tin rằng: “một ngày kia nghệ thuật ông sẽ
hoàn toàn và tự khắc sẽ được công chúng hoan nghênh một cách hoàn toàn”.
Mỗi sáng tác của Nguyễn Công Hoan thường khai thác một vấn đề của cuộc
sống. Sự phân biệt bút pháp trào phúng và hiện thực ở nhà văn là điều không đơn
giản. Tác phẩm của ông luôn có sự hòa quyện của truyền thống và hiện đại. Ông
đến với hiện thực bằng con đường của các tác giả trào phúng giai đoạn trước. Ông
tạo mối căm ghét, phẫn nộ ở độc giả bằng sự kết hợp tài tình giữa cái hài và cái bi.
Bielinxki từng nói: “Kết hợp giữa cái bi và cái hài là biết thể hiện cuộc sống theo
đúng bản chất của nó”.
Nếu ở mảng truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan đã được những thành tựu đáng
kể thì trong lĩnh vực truyện dài, ông hầu như không gặt hái được gì ngoài tác phẩm
“Bước đường cùng” và “Cái thủ lợn”.
Gần chục truyện dài viết trong thời kì này không tạo được tiếng vang . Hầu
hết truyện nghiêng về khuynh hướng lãng mạn, trong đó có cả tích cực và tiêu cực.
“Tắt lửa lòng” (1933 – 1934), “Lá ngọc cành vàng” (1934)…là những cuốn tiểu
62
thuyết bi lụy về tình yêu. Yếu tố chống lễ giáo phong kiến khá mờ nhạt, dù đã miêu
tả đượcthủ đoạn thâm độc của tên quan tri phủ, sự hư hỏng và hợm mình của một cô
gái con quan, song nổi lên lại là mối thương tâm của độc giả về cuộc tình dang dở.
“Tấm lòng vàng”(1934) là câu chuyện có ý nghĩa giáo dục. truyện kể về tấm
lòng của người thầy giáo âm thầm giúp đỡ một học trò nghèo ham học. Khi thành
đạt, trò tìm cách trả nghĩa cho người thầy đáng kính ấy. Theo lời kể của Nguyễn
Công Hoan, đó là một câu chuyện có thật trong cuộc đời dạy học của nhà văn.
“Ông chủ” (1935) được xem là thành công hơn cả. truyện đề cập đến mâu
thuẫn giữa nông dân và địa chủ. Cốt truyện xoay quanh cảnh nghèo hèn của vợ
chồng Đĩ Nuôi. Vì nợ nần ông chủ, chị Nuôi phải bán dòng sữa, trở thành người vú
em trong gia đình ông chủ. Với bản chất háo sắc, dâm ô của một tên địa chủ, chị bị
hắn ve vãn và cuối cùng bị mang tiếng là kẻ phụ chồng. Kết thúc truyện là cái chết
của người chồng đáng thương ôm trong lòng mối hận vì nghĩ vợ thất tiết, là cái chết
của đứa con trai bé bỏng vì ốm đau bệnh tật. Cảnh nghèo hèn khiến gia đình Đĩ
Nuôi li tán. Câu chuyện thương tâm toát lên vấn đề về số phận bấp bênh của người
nông dân. Về bản chất dâm ô, gian sảo của bọn nhà giàu. tuy nhiên, nhận thức về
mâu thuẫn cơ bản khiến người nông dân đau khổ của nhà văn trong giai đoạn này
chưa thật sâu sắc. tính cách nhân vật chưa bộc lộ rõ. Phải đến năm 1938, với “Bước
đường cùng” Nguyễn Công Hoan mới đến được đỉnh cao của ngòi bút hiện thực
phê phán những năm 1930 – 1945.
3.1.3. Giai đoạn từ 1936 – 1939.
Đây là giai đoạn nở rộ những sáng tác hiện thực của Nguyễn Công Hoan.
Ngòi bút của nhà văn đã đi sâu vào những vấn đề bản chất xã hội.
Giai đoạn từ 1936 – 1939, cuộc đấu tranh chống phát xít lan rộng ra toàn thế
giới. Ở Việt Nam, làn sóng cách mạng dâng cao, phong trào đấu tranh của mọi tầng
lớp trong xã hội diễn ra sôi nổi. Nông dân chống sưu thuế, phu phen. Tầng lớp tiểu
tu sản đáu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, công nhân đò tự do nghiệp
đoàn…
Các phong trào chính trị đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học nước nhà. Đặc
biệt, tháng 01 năm 1937, chế độ kiểm duyệt bãi bỏ về hình thức, tạo điều kiện cho
63
văn học hiện thực phê phán phát triển. hàng loạt tác phẩm ra đời như “Tắt đèn” của
Ngô Tất Tố, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng,…có không ít nhà văn từ khuynh hướng
lãng mạn chuyển sang hiện thực như: Tam Lang, Nguyên Hồng…
Phong trào cách mạng và không khí văn học đã tác động đến tư tưởng của
Nguyễn Công Hoan, chi phối đến việc lựa chọn đề tài, chủ đề và việc xây dựng tính
cách nhân vật.
Tháng 09 năm 1936, Nguyễn Công Hoan từ Lào Cai chuyển về dạy học ở
Nam Định. Tại đây, ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều nhà chính trị cách
mạng …điều này có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của nhà văn.
Thời kì Mặt trận Dân chủ, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan được tung hoành
hơn trước. Nhiều tác phẩm mang màu sắc chính trị rõ nét. Ông nhìn rõ bọ mặt
phong kiến, đế quốc. Ngòi bút của ông đã xích lại gần với quần chúng nhân dân hơn.
Hàng loạt truyện ngắn, truyện dài trên “Tiểu thuyết thứ Bảy” vạch trần bọn quan lại
tham nhũng, công kích chế độ bất công , lột mặt nạ của bọn thực dân. Sở mật thám
coi ông là “một tay cộng sản nguy hiểm, cần phải tống sớm ra khỏi nơi tập trung
thợ thuyền này”.
Năm 1938, Nguyễn Công Hoan bị đày ra đảo Trà Cổ để dạy học. Biết đó là
hành động khéo léo của bọn thực dân, ông nán lại ở Nam Định một thời gian để
chống lại sự thuyên chuyển bất công ấy. trong vòng mười sáu ngày, ông hoàn thành
cuốn tiểu thuyết “Bước đường cùng” và lập tức cho in. Khi viết “Bước đường
cùng”, ông đoán trước sách in ra sẽ bị cấm , thậm chí tác giả của nó có thể bị truy tố
“nhưng có điều việc phải làm thì tôi cứ làm. Phải làm nghĩa là nên làm. Phải làm
nghĩa là nhân cái đà chính trị đương lên hồi bấy giờ, tôi phải đóng góp những điều
mà tôi biết về nông thôn và nông dân để tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến
quan lại địa chủ”.
Dù nhà văn bị theo dõi và các tác phẩm bị kiểm duyệt nghiêm ngặt, Nguyễn
Công Hoan vẫn viết. Ông quan niệm: “Mày bỏ tù ông thì mày nuôi. Ra tù ông lại
viết, cóc sợ”. Với Nguyễn Công Hoan “tự do sáng tác không phải là vấn đề, mà vấn
đề là ở người cầm bút có nhiệt tình và có sống hay không”
Số lượng truyện ngắn giai đoạn này khoảng hơn tám mươi truyện, gần mười
64
truyện dài trong đó nổi bật là “Bước đường cùng” (1938); “Cái thủ lợn”
(1939).Sáng tác giai đoạn này vẫn có sự đan xen giữa bút pháp trào phúng và hiện
thực. Tuy nhiên, như đã nói Nguyễn Công Hoan thành công ở mảng hiện thực hơn
trào phúng.
Nguyễn Công Hoan tiếp tục khai thác những đề tài trong giai đoạn trước,
song ngòi bút đi sâu vào việc phân tích, khám phá, phát hiện những hiện tượng
mang tính chất bản chất. Ông vạch trần bộ mặt giả dối, ti tiện của bọn địa chủ, quan
lại phong kiến (Thàng quýt, Thằng ăn cướp, Đồng hào có ma…). Nhà văn kết luận:
“Tất cả lũ ấy đều ăn tàn phá hại, đểu giả ngang nhau”(Cái thủ lợn). Ông nhận ra
nỗi cơ cực của người nông dân vì những tai ách chồng chéo khiến họ không ngóc
đầu lên được. Những cuộc đời cứ quằn quại, day dứt dưới ngòi bút Nguyễn Công
Hoan.
“Thằng ăn cướp” tố cáo tội cướp ngày của bọn quan lại, khiến bọn cướp
đêm phải bỏ nghề. “Đồng hào có ma” vạch trần tên quan huyện Hinh đê tiện, lợi
dụng sự vụng về, nhút nhát của người nông dân mà ăn cắp, khiến đồng hào biến mất
giữa ban ngày trước cửa chốn công đường vốn quanh minh chính đại.
Bên cạnh cái nhìn đạo đức của nhà nho, ông vốn đặt vấn đề giai cấp và bước
đầu xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Sức tố cáo trong ngòi bút Nguyễn Công Hoan giai đoạn này mãnh liệt, ý
nghĩa khái quát hình tượng rộng lớn và sâu sắc hơn, ông đã đánh thẳng vào mặt bọn
những chính sách xảo quyệt (Chính sách thân dân). Bên cạnh hình ảnh người nông
dân, thằng ăn cắp, người hát xẩm… còn có hình ảnh người công nhân. Đây là đề tài
hoàn toàn mới và không nhiều trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Ông đã phát
hiện ra bản chất ngoan cường, bất khuất của chị phu mỏ, của anh pha.
“Sáng, chị phu mỏ” là câu chuyện kể về người công nhân biết vùng lên đấu
tranh đến cùng để giữ nhân cách, đồng thời tố cáo hành động đê tiện của ông chủ
Nhì, một tên thực dân dâm ô, gian ác. Vì cần tiền chạy chữa cho mẹ, chị Sáng phải
liều đến vay lương ông chủ. Nhưng không những không vay được được tiền, chị
còn bị ông chủ dở trò cưỡng bức. Chị lăn lộn quyết liệt với một tên “dâm thần” và
65
sẵn sàng hủy hoại thân mình để thoát nạn. trước sự chống trả của chị, ông chủ buộc
phải buông tha. Chị trở thành hình tượng một người công nhân duy nhất có sức
chiến đấu mãnh liệt nhất trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.
Giai đoạn 1936 – 1939, vấn đề người nông dân được nhà văn đặc biệt chú ý.
Ông nghĩ: “muốn gây thành dư luận…phải đưa anh nông dân vào trong truyện dài”.
Ý định đó được thực hiện ở “Bước đường cùng” và trở thành tác phẩm hiện thực
xuất sắc nhất của Nguyễn Công Hoan.
Lần đầu tiên, người nông dân dám vùng lên đánh địa chủ. Hành động của
anh Pha tuy là tự phát song vẫn mang một ý nghĩa hiện thực sâu sắc.
Có thể nói, giai đoạn 1936 – 1939 Nguyễn Công Hoan khẳng định chỗ đứng
của mình trong hàng ngũ nhà văn hiện thực phê phán. Mặc dù đôi lúc lập trường
sáng tác của nhà văn bị lung lay, song không thể phủ nhận những đóng góp của
Nguyễn Công Hoan cho chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam
trong những năm đầu thế kỉ XX.
3.1.4.Giai đoạn từ 1940 – 1945.
Thời lì Mặt trận Dân chủ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan được thỏa sức tung
hoành. Ông công kích quan lại phong kiến, chĩa mũi nhọn vào những chính sách
của bọn thực dân…Đây là thời kì nở rộ những sáng tác xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Sang đến những năm 40 của thế
kỉ XX, đó là thời kì nhà văn bị rơi vào tình trạng lúng túng, bế tắc về tư tưởng trong
sáng tác nghệ thuật. Giai đoạn từ 1940 đến 1945 là một bước lùi đáng tiếc, bản thân
ông coi đây là thời kì “tàn tạ”. Sự thụt lùi này bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan.
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phong trào dân chủ
bị đàn áp. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng phát xít Nhật, nhân dân ta chịu
một cổ hai tròng. Cuộc sống vốn đã nghèo đói, cực khổ nay lại cành cơ cực hơn.
Thực dân Pháp đưa ra những chính sách mị dân nhằm ru ngủ tinh thần đấu tranh
cách mạng của quần chúng nhân dân. Đó là phong trào thể dục, thể thao…
Trên lĩnh vực văn hoá, chúng ra sức truyền bá tư tưởng nô dịch, phản động ,
ngăn cản nền văn học công khai, tiến bộ… Tháng 9 năm 1939, chế độ kiểm duyệt
66
được tái thiết. Nhà văn mất quyền tự do ngôn luận, không ít người rơi vào tình trạng
hoang mang, bế tắc. Nhiều khuynh hướng văn học ra đời như: khuynh hướng phục
cổ, duy tâm, thần bí, khuynh hướng lãng mạn đồi trụy…Đời sống văn học tiêu điều.
Nhiều báo chí, nhà xuất bản bị đóng cửa. Đó là thời kì có nhiều biến cố quan trọng
trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử văn học Việt Nam nói riêng.
Với Nguyễn Công Hoan, ngoài khó khăn chung ấy còn có rất nhiều khó khăn
riêng, tác động không nhỏ tới quá trình sáng tác của nhà văn.
Gia đình Nguyễn Công Hoan thường xuyên bị khám xét. Em trai và con nhà
văn bị đế quốc bắt. Bản thân nhà văn bị tòa Nam án xét xử ba năm tù. Nhưng do
khai sinh ở Hà Nội, tòa Nam án không có thẩm quyền nên ông được tha. Đầu năm
1945, ông bị Nhật bắt và ở tù đến khi khởi nghĩa tháng Tám.
Trên lĩnh vực sáng tác, sau tiểu thuyết “Bước đường cùng”, “Cái thủ lợn”,
hàng loạt các truyện ngắn gây tinh thần phản chiến bị cấm (Chiến tranh, Thiếu hoa),
Nguyễn Công Hoan bị coi là tên cộng sản nguy hiểm. Các tác phẩm bị kiểm duyệt
nghiêm ngặt trước khi in. Các nhà in dường như cũng e ngại tác phẩm của nhà văn.
Ông chán ngán vì biết mình bị “treo giò”. Giai đoạn từ 1940 đến 1945, ông viết
khá thưa thớt. Năm 1940, tập truyện ngắn “Ông chủ báo” xuất bản, tuy nhiên hầu
hết các truyện được viết trước năm 1940 như “Ông chủ báo chẳng bàng
lòng”(1932), “Cái thú tổ tôm”(1934)…
Bên cạnh những mặt mạnh của ngòi bút tố cáo, giai đoạn này do những khó
khăn khách quan và chủ quan, Nguyễn Công Hoan vấp phải những hạn chế đáng
tiếc. Những truyện dài của nhà văn thời kì này hầu hết rơi vào khuynh hướng lãng
mạn tiêu cực.
Năm 1942, Nguyễn Công Hoan viết “Thanh đạm”, “Nghịch cảnh”, “Danh
tiết”, ca ngợi quan lại, ca ngợi đạo đức phong kiến.
Nhân vật chính trong tiểu thuyết “Thanh đạm” là quân huyện Lê Sĩ Cư
“Trong huyện Văn Lâm này, từ cụ Bảng Hoàng cho đến cụ Cử, Tú, ai cũng phục
ông là người hay chữ. Ông cai trị dân, lấy thanh, thận, cần làm phương châm. Ông
thương dân như con, vì vậy dân trọng ông như cha…” [39/292].
Nếu như trước đây, quan lại dưới con mắt Nguyễn Công Hoan là “một lũ bị
67
thịt”, chuyên ăn bẩn, thì Lê Sĩ Cư lại khác hẳn “người ông phương phi, nhưng là
cái đẫy đà, thanh tú của con người phúc hậu”. Đó là một ông quan thanh liêm, bao
giờ cũng nghĩ đến sự ấm no của thiên hạ “lấy hai chữ Thanh đạm làm quý”. Ông
quan niệm “Nghèo trong sạch còn hơn giàu mà dơ bẩn”. Vì thế, hơn mười năm làm
quan “vẫn chỉ có cái nhà gianh và mười mẫu ruộng của ông bà để lại”. Ông được
coi là “một hạng người thiêng liêng, một hạng người trên hẳn những người dân
phàm thường, chỉ kém bậc thần thánh một chút” [41/292].
Khi viết “Thanh đạm”, Nguyễn Công Hoan giải thích “tôi cần thay đổi
chiến thuật. Chiến thuật mới mà tôi cho là rất khôn khéo, thế nào kiểm duyệt cũng
mắc mưu là tôi không công kích quan trường một cách gián tiếp. Nêu lên một số
đức tính của quan trường xưa…khiến cho độc giả yêu quan trường xưa, thì sẽ so
sánh với quan trường ngày nay, họ sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói…”[25/217].
Mặt khác, hiện tượng giao thoa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực ở
Nguyễn Công Hoan được ông giải thích gián tiếp thông qua việc lí giải “Khối mâu
thuẫn của Tản Đà”. Ông cho rằng dưới thời Pháp thuộc, người cầm bút bị thực dân
nghi ngờ, theo dõi. Những bài phê bình của Tản Đà “không phải do thái độ chính
trị mà là do ông muốn sinh kế khỏi bị làm khó dễ thôi”. Ông nói “ sinh kế của nhà
văn cũng là yếu tố làm cho một trào lưu văn học nói chung và khuynh hướng của
một nhà văn nói riêng không thuần nhất”. Cuối cùng Nguyễn Công Hoan kết luận:
“Sở dĩ trào lưu văn học trong một thời kì, khuynh hướng, tư tưởng trong một nhà
văn không thuần nhất là do phần nhiều các nhà văn trước cách mạng viết lách vì
sinh kế. Cho nên mới vì một bữa rượu, vì tình đối với bạn, vì túng bài, vì được
người mách cho một chuyện, hoặc vì gì gì nữa…thì lập tức họ viết ngay”.
Lời giải thích như trên như sự giãi bày ccho nguyên nhân giao động trong
ngòi bút Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng Tám.
Có thể nói, thời kì 1940 – 1945 Nguyễn Công Hoan không tạo tiếng vang
như thời kì trước.
3.2. Sự vận động về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan.
68
3.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ.
Như ở chương I chúng tôi đã trình bày. Văn học Trung đại Việt Nam chịu
ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Điều này đã chi phối đến thế giới quan, quan điểm
thẩm mỹ của nhà văn. Quan điểm thẩm mỹ “Văn dĩ tải đạo – Thi dĩ ngôn chí” đã
thực sự chi phối quan điểm thẩm mỹ trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ trung
đại Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam biến động do sự xâm lược
của thực dân Pháp. Sự khai thác thuộc địa mạn mẽ của người Pháp đã thực sự làm
cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX bị phân hóa, một bộ phận không
nhỏ dân chúng chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa, văn học phương Tây. Điều này có
ảnh hưởng sâu sắc đến Văn học Việt Nam, bởi vậy văn học Việt Nam đã có những
bước chuyển biến quan trọng. Loại hình văn học nhà nho bị xuống giá, thay vào đó
là người nghệ sỹ của ngôn từ. Văn học nhà nho tìm cách thích ứng với xã hội hiện
hiện đại nhưng bất lực.
Văn học Việt Nam ra đời với một quan niệm văn học khắc trước. Hệ thống
thể loại và tiêu chuẩn cái đẹp đã khác xưa, tạo ra sự gián đoạn với truyền thống văn
học vùng Đông Á. Tuy nhiên trong văn học hiện đại vẫn có những yếu tố truyền
thống đang được phát huy tích cực.
Ở trong nền văn học Trung đại Việt Nam, người đọc có thể bắt gặp những
trang văn, trang thơ thể hiện sự phản kháng, phê phán mạnh mẽ xã hội thực dân nửa
phong kiến, phê phán giới quan trường trong buổi giao thời Á – Âu như trong thơ
văn của Nguyễn Khuyến; Tú Xương.
Bước sang thế kỉ XX, công cuộc ổn địnhtrật tự xã hội của người Pháp ở
Đông Dương đã tương đối ổn định, cái mới đã dần được thiết lập, dần thay thế
những cái cũ. Nguyễn Công Hoan nhập cuộc trong bối cảnh xã hội ấy – xã hội thực
dân nửa phong kiến mang trong mình những mâu thuẫn không thể điều hòa được.
Trong hoàn cảnh ấy, yếu tố hài đã nảy sinh- yếu tố hài không chỉ trong cái cũ mà
nằm ngay trong bản thân cái mới.
Nguyễn Công Hoan là người nhạy bén với thời cuộc, lại sẵn có khiếu hài
hước từ tuổi ấu thơ , ông phơi bày mặt trái xã hội thực dân nửa phong kiến bằng
69
ngòi bút trào phúng. Ông quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch, và trên sân
khấu ấy có sự góp mặt của mọi tầng lớp, từ quan lại, địa chủ đến người nông dân; từ
kẻ giàu cho đến người nghèo; từ nông thôn ra thành thị…tất cả cùng diễn kịch. Kẻ
giàu sang diễn “trò làm phúc”. Kẻ bất hiếu diễn trò “báo hiếu”. Kẻ thất tiết diễn
trò “tiết hạnh”. Người nghèo hèn diễn trò ăn cắp…Cả một thế giới làm trò. Con
người đeo mặt nạ để lừa bịp lẫn nhau. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan ví như
một “tấn trò đời với nhiều cung bậc khác nhau của tình cảm” (Phong Lê). Bằng sự
kết hợp giữa ngòi bút trào phúng và hiện thực, ông đem đến cho độc giả tiếng cười
với nhiều cung bậc. Đó là tiếng cười hả hê, khoái trá xen lẫn sự khinh bỉ, chua chát.
Đằng sau tiếng cười còn là nước mắt, là sự căm giận của nhà văn khóc thương cho
cảnh ba đào của xã hội An Nam.
Hạt nhân tiếng cười trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là sự nhận thức
những mâu thuẫn trái ngược của cuộc sống, sự đối lập giữa nội dung và hình thức;
giữa bản chất và hiện tượng; giữa tính chất giàu sức sống bề ngoài và tình trạng
thiếu sức sống bên trong. Hầu hết tác phẩm của ông được dẫn dắt bằng lý tưởng
thẩm mỹ của cái hài.
Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, dưới con mắt của nhà văn Nguyễn Công
Hoan toàn là những trò lừa bịp, đáng khôi hài. “Tôi bi quan, tôi hoài nghi, tôi khinh
ngạo tất cả. Bởi vì tôi sống dưới một chế độ xã hội không làm cho tôi vui vẻ, tin
tưởng và kính trọng một mảy may…Tôi bi quan, hoài nghi, khinh ngạo với cả những
việc mà họ cho là tốt. Tôi cho là cái tốt mà họ khoe chỉ là để lừa gạt che dấu cho
một cái xấu sắp hình thành. Cho nên, có thể nói rằng khả năng của tôi là viết về
những mặt xấu của xã hội cũ… về tư tưởng, sinh hoạt, tác phong của người giàu.
Tôi không tả nổi một người giàu đẹp dù người ấy là phụ nữ” [25/286].
Mặt mạnh của Nguyễn Công Hoan là miêu tả mặt trái của đời sống xã hội cũ,
đặc biệt là bọn quan lại. Ông bộc bạch: “Người viết văn chịu ảnh hưởng về mặt nào
nhiều nhất thì có khả năng sáng tác về mặt ấy nhiều nhất”[25/295].
Lý tưởng thẩm mĩ của cái hài luôn theo sát bước đường sáng tác của Nguyễn
Công Hoan. Cái hài của nhà văn luôn gắn với cái thực. Có khá nhiều cách cho nhà
văn chiếm lĩnh hiện thực. Nguyễn Công Hoan chiếm lĩnh cuộc sống trên phương
70
diện của cái hài. Bởi ông nhận ra sức mạnh của tiếng cười đúng như nhận xét của
Bakhtin: “Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười
lôi cuốn đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã
sờ mó từ khắp mọi phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ
ngoài để nhìn vào bên trong, hồ nghi, phân tích, chia cắt, bóc trần…tiếng cười là
nhân tố cơ bản nhất, tạo ra thái độ không biết sợ, mà không có tiền đề ấy thì không
thể chiếm lĩnh hiện thực” [11/50/51].
Nguyễn Công Hoan là người có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa
hiện thực Việt Nam và góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực với một khối
lượng tác phẩm đồ sộ. Những thành tựu sáng tác vẻ vang đó trước Cách mạng tháng
Tám đủ khẳng định ông là một nhà văn xuôi lớn của dân tộc.
3.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài.
Thế giới trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là một thế giới vô cùng
phức tạp như bản thân cuộc sống. Sự đa dạng và phức tạp được thể hiện rõ ở nhất ở
chủ đề, đề tài trong sáng tác của nhà văn trước cách mạng tháng tám năm 1945.
Vào những năm đầu của thề kỉ XX, trên văn đàn xuất hiện nhiều ngả đường
khác nhau, nhiều khuynh hướng văn học đối lập nhau, Nguyễn Công Hoan chọn
con đường tiếp nối truyền thống để nhóm lên một thế giới mới. Văn ông “không réo
rắt như một khúc đàn, không nhẹ nhàng như một bài thơ, không man mác như gió
thổi mặt nước”, “không bóng bẩy như cành hoa trong gương, văn ông có cái hay,
rõ ràng, sáng sủa, thiết thực…” và Trúc Hà gọi đó là một ngọn bút mới – ngọn bút
Nguyễn Công Hoan.
Nguyễn Công Hoan quan niệm: “nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống”, “Viết
văn tức là làm một cái gì có ích”. Suy nghĩ ấy đã giúp ông chuyển từ những đề tài
xa thực tế, từ bất cứ một câu chuyện gì làm ông rung cảm của buổi chập chững vào
nghề đến những đề tài nóng bỏng của cuộc sống. Xã hội thiên binh vạn trạng được
nhà văn phản ánh vào tác phẩm bằng bút pháp hiện thực đan xen trào phúng nhằm
lên án, tố cáo những bất công ngang trái của xã hội thực dân nửa phong kiến. Ông
tâm sự: “Chưa bao giờ tôi viết gì mà lại không đúng với thực tế”[25/201]. Tác phẩm
của nhà văn bắt nguồn từ cuộc sống đông đặc trước mắt, cảm xúc nảy sinh từ hiện
71
thực. Ông phản ánh trung thực, ngang tầm xã hội. Nghĩa là, cuộc sống thế nào thì văn
chương thế đó. Nhưng không phải nhà văn sao chép cuộc sống một cách thụ động.
Ông luôn đứng ở tư thế chủ động để phản ánh. mỗi tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
thường đặt một vấn đề cấp thiết của cuộc sống. Tác phẩm của ông giống như “một
bách khoa toàn thư về xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám…Đóng góp của
ông vào nền văn học thế giới là đề tài rút ra từ đời sống hiện thực ở Việt Nam, chứ
không bắt chước viết theo một nhà văn nào” (Lê Thị Đức Hạnh).
Thế giới trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là một thế giới thực – một
thế giới ở đó có sự hiện diện của người thật, việc thật. Ông nói “những nhân vật tả
trong truyện là những người tôi gặp nhiều lần. Từ dáng điệu, cử chỉ cho đến lời ăn
tiếng nói của họ được nhắc đi nhắc lại vào mắt, vào tai tôi, nên tôi thuộc lòng. Tôi
thuộc lòng đến nỗi thoạt gặp ai, tôi cũng đoán được bụng dạ họ”. Ông miêu tả khá
sinh động những cảnh huống, những cuộc đời, những kiếp người khác nhau trong
xã hội. Ông phơi bày cảnh nhố nhăng, lừa bịp, Nguyễn Công Hoan được đánh giá
“là người mở ra một kỉ nguyên mới cho cái tư triều văn nghệ tả thiệt và xã hội ở
nước ta” (Hải Triều).
Có thể nói, hệ thống chủ đề, đề tài trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là
vô cùng phong phú, đa dạng, thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng của nhà văn,
sự vận động của văn học nước nhà trong những năm đầu thế kỉ XX.
Để làm rõ được hệ thống chủ đề tài trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Công
Hoan, chúng tôi dựa vào sự phân chia của nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh.
Trong cuốn “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan chia nội dung truyện
thành ba loại:
Loại thứ nhất: Tố cáo tội ác của bọn nhà giàu, tức là quan lại, địa chủ, tư
sản dùng thế lực kinh tế hoặc chính trị để áp bức bóc lộc người nghèo lép vế.
Loại thứ hai: Tình bày nỗi thống khổ của người nghèo lép vế, tức là nông
dân, công nhân, người lao động bị bọn nhà giàu dùng kinh tế hoặc chính trị để áp
bức bóc lột.
Loại thứ ba: Giễu cợt cảnh thối tha nhơ nhuốc, những tâm lí giả dối, kệch
cỡm, những hành động nhố nhăng hoặc nực cười của tất cả các hạng người trong xã
72
hội tư sản và tiểu tư sản.
Sự phân chia này chưa thật cụ thể, bởi khi gọi tên chung “bọn nhà giàu”, ông
vấp phải một khái niệm khá mơ hồ. Chính điều này làm cho giai đoạn đầu của
Nguyễn Công Hoan đôi khi chệch hướng. Ông chủ yếu coi mâu thuẫn giàu nghèo là
mâu thuẫn cơ bản mà chưa nhìn ra mâu thuẫn giai cấp.
Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh trong cuốn “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan” , cũng chia nội dung sáng tác của Nguyễn Công Hoan giai đoạn 1929 –
1935 thành ba loại.
Một loại tố cáo, lên án bọn chuyên sống bằng cách áp bức, bóc lột những
người nghèo khổ. Chúng sống vô lương tâm, nhân cách rất đê tiện nhưng lại làm ra
mặt đạo đức như bọn quan lại và tay sai, cường hào, bọn địa chủ tư sản.
Một loại miêu tả những cảnh khổ cực của nông dân và của những người
nghèo khác như: Kép hát, đi ở, phu xe… cả những kẻ ăn cắp, ăn mày, gái
điếm…nhằm mục đích phê phán xã hội đương thời.
Một loại phê phán những hạng người tuy không phải là tư sản nhưng nhờ đế
quốc mà phong lưu, ảnh hưởng tới lối sống tư sản đồi trụy ở châu Âu. Đó là những
công chức có lương cao bổng hậu, một số ít tiểu tư sản, tiểu trí thức bám vào bọn
thống trị sống đê tiện,mất nhân cách…mô tả và phê phán mọi cái xấu xa, thối nát
của tầng lớp trên và trung lưu trong xã hội cũ.
Căn cứ vào sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan trước cách mạng, đồng
thời dựa vào cách phân chia của nhà văn, của nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh,
chúng tôi chia hệ thống chủ đề và đề tài thành bốn mảng chính, tạo cái nhìn khái
quát về sáng tác của nhà văn trước Cách mạng tháng Tám, trong sự vận động từ
quan điểm văn chương trào phúng nhà nho đến cốt cách văn phong Tây phương
hiện thực.
Nhìn lại quá trình sáng tác của nhà văn trong những năm đầu thế kỉ XX, giai
đoạn 1920 – 1923, giai đoạn này chủ đề,đề tài trong các sáng tác của nhà văn rất
gần với chủ đề của nhà nho. Từ năm 1929 – 1935 thì chủ đề, đề tài trong sáng tác
của ông có phong phú, đa dạng hơn. Ông quan tâm đến hầu hết đến mọi tầng lớp
trong xã hội. Tuy nhiên, phải đến thời kì Mặt trận Dân chủ, dưới ảnh hưởng của
73
Đảng, Nguyễn Công Hoan đã nhận thức được những vấn đề mang bản chất, sức tố
cáo mãnh liệt, ý nghĩa khái quát hình tượng rộng lớn và sâu sắc hơn. Đặc biệt giai
đoạn 1936 – 1939 xuất hiện đề tài khá mới. Ông viết về người công nhân, về đề tài
chính trị, phát hiện ra bản chất ngoan cường bất khuất của người lao động. Có tác
phẩm đã đặt vấn đề giai cấp mang chiều sâu về tầm khái quát, bước đầu xây dựng
được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
3.2.2.1. Hệ thống chủ đề, đề tài về quan lại, cường hào, địa chủ, tư sản…vô
lương tâm, giả đạo đức.
Đây là mảng đề tài chiếm tỉ lệ khá cao trong sáng tác của nhà văn Nguyễn
Công Hoan. Ông vạch mặt bọn quan lại tham ô, hống hách, bọn người mất nhân
cách. Đó chẳng qua chỉ là bọn ăn cướp.
Giai đoạn từ 1925 đến 1935, Nguyễn Công Hoan kế thừa mạch cảm hứng
trong thơ trào phúng thế kỉ XIX, đặc biệt là thơ Trần Tế Xương. Ông dựng lên
nhiều hình tượng mang tính hài, mức độ phản ánh hiện thực trong sáng tác của ông
khá sâu sắc.
Tuổi ấu thơ sống trong tri phủ, Nguyễn Công Hoan nghe đủ mọi chuyện,
chuyện quan Tây, quan Ta, chuyện quan nha tổng lý, chuyện hàng phố, chuyện dân
quê, chuyện dối trên lừa dưới, chuyện trai gái bịp bợm…Vì thế ngay từ buổi thanh
niên, Nguyễn Công Hoan đã mang tâm trạng căm ghét bọn thực dân tàn ác, bọn
quan lại tham nhũng dâm ô, bọn nhà giàu lừa đảo bất lương, bọn xu nịnh luồn cúi
hèn hạ. Ông nói: “Tôi xúc động nhất những tấn bi kịch, hài kịch diễn ra ở cửa
quyền. Tôi rất thích chú ý những cảnh thối tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn mưu mô
làm tội ác trong giới những người có thể lực, có địa vị” [25/281].Tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan luôn đầy ắp những hình ảnh thực, đậm chất sống của cuộc đời.
Ông phơi bày bản chất xấu xa, vô trách nhiệm của bọn quan lại bằng nghệ thuật trào
phúng khá đặc sắc.
Trong lĩnh vực truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan luôn chú ý tạo tình huống,
những biến cố gây cười. Ông tiếp thu nghệ thuật cường điệu, phóng đại trong văn
học dân gian. Vì vậy, tiếng cười trong sáng tác của nhà văn gần với cái cười của
74
nhân dân.
Viết về đề tài bọn quan lại, địa chủ, … ngòi bút của Nguyễn Công Hoan gần
với ngòi bút của nhà nho hơn cả. Ông lên án bọn người áp bức trên phương diện đạo
đức phong kiến, sự vô trách nhiệm của bọn người cầm cân nảy mực trong xã hội.
Trước Nguyễn Công Hoan, các bậc túc nho thường day dứt về vấn đề đạo đức
suy đồi, về nhân tình thế thái. Nối tiếp mạch cảm hứng ấy, Nguyễn Công Hoan đã
viết hàng loạt tác phẩm để phanh phui bộ mặt giả đạo đức, lối sống trụy lạc trong xã
hội cũ. “Báo hiếu: trả nghĩa cha”, “Báo hiếu” trả nghĩa mẹ”, “Thế là mợ nó đi Tây”,
“Đàn bà là giống yếu”, “Một tấm gương sáng”, … là những truyện ngắn viết vào
đầu những năm 30 và được in trên mục “An Nam nhị thập thế kỉ xã hội ba đào kí”.
Vấn đề về sự suy đồi của đạo đức, nhân cách được Nguyễn Công Hoan đặt ra
một cách ráo riết. Mỗi truyện là một vấn đề nhức nhối của thời đại. Bằng ngòi bút
hiện thực, ông vạch toạc những sự thật đau lòng của một xã hội mục nát, rởm hợm
đang được che đậy bởi vẻ hào nhoáng. Những câu chuyện thực được dẫn dắt bằng
lối kể hài hước đã đem đến chiều sâu cho tiếng cười phê phán. Đó là tiếng cười mặn,
lạt, chua, cay, có sức công phá hơn cả những lời kêu ca than vãn.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, người đọc không thể quên hình ảnh
một đám tang linh đình giữa phố. Đứa con trai “hiếu thảo” của người mẹ góa báo
hiếu bằng cách tổ chức đám tang uy vệ cho mẹ. Người con dâu khóc lóc thảm
thương thành ra ốm yếu. Nhưng ông trời độc địa chẳng cảm được nỗi đau của
những đứa con mất mẹ. Ai chứng kiến đám tang đó cũng phải “khen người hiếu chủ
đã khéo trả nghĩa mẹ. Mà nhất là trông thấy người ấy, ta lại càng khâm phục cái
bụng hiếu thảo, không bờ bến”.
Lời văn giễu nhại của Nguyễn Công Hoan đã lột cái vỏ hào nhoáng để trơ ra
cái giả dối, cái lố bịch, cái đáng cười. Bản chất vô lương tâm của một tên nhà giàu
được che đậy bằng tấm lòng hiếu nghĩa của hắn. Người mẹ đáng thương không phải
do thụ bệnh mà chết. Chỉ con vú và thắng Quýt mới biết bà vì: Uất lên mà chết?
Thắt cổ? Hay uống phải thuốc độc?
Nguyễn Công Hoan đã dụng công dựng lên một “thế giới lộn ngược” nhằm
75
mục đích chế giễu, phê phán xã hội thực dân phong kiến với quá nhiều nghịch cảnh,
quá nhiều sự đảo lộn trật tự và giá trị. Ông chú ý đến sự đối lập có tính bản chất để
tạo tiếng cười.
Hầu hết tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, cái thật được thể hiện thông qua
lăng kính của cái hài. Đây là đặc trưng của văn châm biếm. “Một mặt, văn châm
biếm muốn tái hiện thực tế, phát hiện môt cách hiện thực những thiếu sót và mâu
thuẫn của các hiện tượng trong cuộc sống, nhưng đồng thời sức mạnh của sự phản
kháng và sự bất bình lên cao tới mức nó dựng lại các hiện tượng đó, phá vỡ tỉ lệ,
chế giễu chúng, miêu tả chúng dưới hình thức hoạt kê, méo mó, lố bịch, kì quái để
nhấn mạnh tính chất không thể thừa nhận được của chúng” [49/209].
Như chính nhà văn tự nhận, sở trường của Nguyễn Công Hoan là viết về cái
xấu. Trong cuốn “Đời viết văn của tôi” ông bộc bạch: “Bởi vì tôi vốn bi quan nên
nhìn mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu dễ nhập tâm hơn
phía tốt. Cho nên tôi nhớ rất kĩ”. Viết về cái xấu trong xã hội không nhằm giễu cợt,
chê bai, không bẳng thái độ bàng quan của người ngoài cuộc. Nguyễn Công Hoan
viết bằng cả tấm lòng, bằng những giọt nước mắt. Hoài Thanh nhận xét: “Văn của
Nguyễn Công Hoan xem mệt mà có ích. Văn như thế xem khôn người ra” [18/265].
Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan luôn có tiếng cười xen lẫn nước mắt. Cái
cười được tạo ra bằng ngôn ngữ trào phúng, bằng sự đối lập giữa bản chất và hiện
tượng, giữa nội dung và hình thức. Nhà văn đã lật tẩy mặt trái của xã hội qua mảng
đề tài viết về bọn nhà giàu. Ngòi bút trào phúng kết hợp với phê phán tạo cho tác
phẩm giá trị hiện thực sâu sắc.
3.2.2.2. Chủ đề, đề tài về người nghèo trong xã hội.
Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm là giọt nước mắt cảm thông cho
những cảnh đời, những kiếp người thê thảm trong xã hội. Ông nói: “Tôi không thể
nào yên tâm trước những nỗi thống khổ của người nghèo, bị bọn nhà giàu dùng thế
lực, địa vị mà áp bức bóc lột. Người nghèo của tôi không cứ chỉ là nông dân mà là
76
bất cứ một hạng người nào không có tiền, bị lép vế trong xã hội” [25/281].
Ở mảng đề tài về người nghèo, tác giả đã đồng cảm với nhiều lớp người
trong xã hội, từ nông dân cho đến những người đi ở, từ những người kéo xe, kép hát
đến những kẻ ăn cắp, người hát xẩm, thậm chí cả gái điếm,…
“Hai thằng khốn nạn” không chỉ là sự khốn nạn về vật chất mà còn là sự
khốn nạn về tâm hồn của một tên nhà giàu vô lương tâm.
Gia đình bác Lan cũng như bao gia đình nông dân khác chịu cảnh bêu rếch,
khổ sở vì đê vỡ. Tai bay vạ gió ập đến khiến gia đình bác tan nát, chia li. “Cái cảnh
gà sống không còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng”. Tài sản duy nhất và có
giá trị nhất với bác lúc này là đứa con trai mới biết ngồi. Bác khóc cho sự nghèo đói
và túng quẫn. Cái dạ giày lép kẹp của hai cha con khiến buộc bác phải quảy đôi
quang, gánh thằng bé lang thang hết làng này sang làng khác để giao bán. Được
người ta mách đến nhà ông Nghị Trinh hiếm hoi may ra ông ấy mua cho.
Nhưng cảnh không như bác nghĩ. Cái giọng hách dịch và vô lương tâm của
hắn được bộc lộ qua hành động bớt tiền vì lưng thằng bé có nhiều nốt ruồi…
Nguyễn Công Hoan luôn đặt ra những tình huống đối lập nhau, tạo chiều sâu
cho tác phẩm. Người đọc cảm thông cho người nghèo khổ bao nhiêu thì căm ghét
bọn nhà giàu bất lương bấy nhiêu. Truyện được viết dưới hình thức tương phản
nhằm phơi bày bản chất xấu xa của tên địa chủ, đồng thời xót xa cho số phận của
người dân.
Nguyễn Khắc Hiếu nhận xét: “Lối văn chép chuyện thời ông ta được đến
những chỗ đau đớn của người đời, chuyện như bịa chơi mà trò đời thường có”.
Cảnh chìm nổi của những kiếp người trong xã hội ba đào thật đáng thương.
Nguyễn Công Hoan đã viết bằng cả tấm lòng, tình cảm. Qua sự cảm thông, chia sẻ,
thương xót, nhà văn còn lên tiếng tố cáo bọn người chuyên bóc lột, đục khoét.
Người nông dân được đưa vào tiểu thuyết và gây thanh dư luận đánh dấu sự
thành công của cây bút hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan.“Bước đường cùng”
là nỗi khổ của người nông dân bị địa chủ, quan lại bóc lột. Nguyên nhân nỗi khổ tuy
chưa được nhà văn nhìn nhận chính xác (tất cả do dốt mà ra), song ở họ đã có ý
77
thức đấu tranh chống áp bức theo quy luật tất yếu của cuộc sống.
Bên cạnh đề tài tố cáo bọn quan lại, nhà giàu, sự đồng cảm với người nghèo,
sáng tác của Nguyễn Công Hoan còn lên án lối sống rởm hợm của tầng lớp trung
lưu, những con người ảnh hưởng lối sống đồi trụy phương Tây.
3.2.2.3. Chủ đề, đề tài về tầng lớp trung lưu, những người chịu ảnh hưởng lối
sống phương Tây.
Hệ thống chủ đề, đề tài trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách
mạng khá đa dạng và phong phú.
“Oẳn tà roằn”, kể về một cô gái mười tám tuổi, tên Nguyệt. Vì ăn nằm với
nhiều người nên không biết ai là cha của đứa trẻ trong bụng. Cô đóng kịch với
Phong và Bắc, dọa tự tử, uống thuốc thôi thai. Được sự an ủi của hai người, cô giữ
lại cái thai và tưởng thế là yên chuyện. Nhưng điều bất ngờ, thú vị mà cả nhân vật
chính và người đọc không ngờ tới nằm ở phần kết. Nguyệt sang nhà hộ sinh ở Bắc
Ninh để che mắt thiên hạ. Đứa con thứ hai này được những “ông bố” lần lượt đến
thăm. Đầu tiên là hai chàng công tử, mặc áo Tây. Họ rúc rích nhìn nhau cười và đi
ra. Tiếp đến là Phong, rồi sau cùng là Bắc. Anh là người hồ hởi đón nhận đứa con
nhiều nhất, nhưng cuối cùng phải thở dài, thất vọng. Thì ra thằng bé “không phải là
con Rồng cháu Tiên. Nó là giống “oẳn tà roằn” không biết chống gậy”. Nguyễn
Công Hoan vạch trần lối sống trụy lạc, hư đốn của một hạng đàn bà trong xã hội
thực dân nửa phong kiến.
Nguyễn Công Hoan luôn chú ý đến cách kết truyện độc đáo. Tình huống bất
ngờ của truyện tạo tiếng cười cho độc giả, nhưng ngay sau tiếng cười thường kéo
theo những giọt nước mắt khóc cho nhân tình thế thái.
“Những cái đạo đức, luân lí, tình ái mà trước họ cho là thiêng liêng cao quý
lắm, thì ngày nay đã hóa ra một bức màn che đậy biết bao sự thối tha, hèn mạt ở
trong” (Hải Triều). Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan phơi bày toàn những chuyện
lố lăng, lừa bịp trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
“Thế là mợ nó đi Tây” được viết dưới hình thức những lá thư, bày tỏ nỗi
lòng người xa xứ, cảnh vợ xa chồng, mẹ xa con của nhân vật Tuyết Anh- người
đang du học tại Pháp. Tám bức thư đầu là những dòng cảm xúc đầy nước mắt.
78
Người đọc như đựơc chứng kiến sự “tan nát cõi lòng” của Tuyết Anh. “Nếu biết
trước rằng cảnh li biệt nó xé tan nát ruột gan tôi như thế này thà cứ chịu ở nhà dạy
học, đỡ cậu mỗi tháng ba bốn chục lương thì được gần gụi gia đình sớm tối vui thú
với cậu, với con, việc gì đòi xuất dương du học, đến nỗi bây giờ vất vả một mình,
thân gái dặm trường, khóc thầm với bóng!”. Mỗi bức thư nhân lên một niềm nhớ. Cô
thương chồng vất vả nuôi mình ăn học, cảm cái ơn trời bể vì chồng đã chu toàn việc
ma chay cho mẹ. Cô hứa sẽ “đem tiếng thơm về” để đền ơn trả nghĩa cho chồng. Và
“nếu kiếp luân hồi mà có thực, thì tôi xin cả kiếp sau cũng tìm được cậu để trả nghĩa
cho trọn cái ơn này”. Nhưng bức thư cuối cùng- bức thư thứ chín, sự việc xoay chiều,
đổi hướng. Đó là bức thư tạ tội của người vợ bạc bẽo, phản bội lại chồng khi công
thành danh toại. Cô bỏ chồng con để đi theo người bạn mới đậu y khoa.
Nhan đề của tác phẩm phần nào nói lên ý nghĩa truyện. Hai từ “thế là” tạo ra
nghĩa đen và nghĩa bóng cho việc “đi Tây” của nhân vật chính. Nghệ thuật viết
truyện của Nguyễn Công Hoan được ông ví như việc đánh cá bằng lờ. “Câu kết
truyện của tôi là cái lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột”. Văn Nguyễn Công
Hoan hấp dẫn người đọc bởi những biến cố, những tình huống bất ngờ. Qua việc
“đi Tây” của Tuyết Anh, ông vạch trần sự vô ơn bạc nghĩa của con người. Họ luôn
đeo mặt nạ để lừa bịp lẫn nhau.
Trong xã hội thực dân nửa phong kiến xuất hiện nhiều loại người với nhiều cách
làm ăn khác nhau. Bên cạnh loại người hư hỏng, ảnh hưởng lối sống phương Tây còn
có bọn công chức, lương cao bổng hậu, nhờ đế quốc mà ngoi lên. Ông tố cáo sự hiếu
danh mà ngu xuẩn của bọn có tiền, những cách thức làm ăn bịp bợm của bọn chủ báo
(“Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo”, “Ông chủ báo chẳng bằng lòng”).
Nguyễn Công Hoan chú ý đến hầu hết tầng lớp trong xã hội. Bên cạnh mảng
đề tài lên án, tố cáo bịn nhà giàu, phê phán tầng lớp trung lưu, cảm thông với người
nghèo khổ, Nguyễn Công Hoan còn lên tiếng phản đối chiến tranh, những chính
sách lừa bịp củ bọn thực dân.
3.2.2.4. Hệ thống chủ đề chống chính sách của bọn thực dân, chống chiến tranh
Hệ thống chủ đề, đề tài này mang tính chính trị, chỉ xuất hiện trong thời kì
79
Mặt trận Dân chủ (1936- 1939).
Dưới ảnh hưởng của Đảng, của phong trào đấu tranh cách mạng, Nguyễn
Công Hoan đã hướng ngòi bút vào vấn đề mới, có ý nghĩa lớn lao với toàn dân tộc.
Đó là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chống phát xít. Sáng tác của
Nguyễn Công Hoan mang đậm không khí cách mạng.
Ông thẳng tay tố cáo những chính sách bịp bợm, xảo quyệt, nhằm ru ngủ
quần chúng của bọn thực dân. Chính sách của chúng chẳng khác những trò hề trong
xã hội.
“Đào kép mới” viết bằng giọng giễu nhại tên vua bù nhìn nhằm phê phán bọn
vua quan phong kiến và thực dân. Gánh hát trương ra những dòng quảng cáo rầm rộ
về sự đổi mới của mình. Rạp đông hẳn bởi ai cũng muốn thử xem tài đào kép mới,
tích hát mới. Nhưng rồi người ta lắc đầu với nhau. Họ kéo về vì biết mình bị lừa. Vẫn
những con người ấy, chỉ khác họ bỏ râu ria đi và thay vị trí ngồi của mình.
Truyện tố cáo triều đình Bảo Đại. Đó thực chất chỉ là lũ đào kép bôi mặt lại,
đổi vai cho nhau.
“Chính sách thân dân” được khai thác trên cơ sở mâu thuẫn giữa lời nói và
việc làm, giữa bản chất và hiện tượng. Tờ sức với những lời lẽ ngọt ngào của tên
quan phụ mẫu Lê Thăng khiến cho dân chúng phải nghi ngờ. Họ chẳng dám tin vì
trước kia người ta đã chịu nhiều vố cay đắng vì những lời ngọt ngào như thế rồi.
Đúng như sự hoài nghi của dân chúng. Chính sách thân dân chỉ là cách moi
tiền mới của tên quan phụ mẫu. Mỗi khi có ai qua đời, phải báo tin cho quan phụ
mẫu để ngài viếng thăm. Nhưng tiền đi lại, đón rước, tiền chơi bời cũng đủ khổ cho
người dưới quyền, cho người dân nghèo trong xã hội.
Không ít những trò lố bịch diễn ra hàng ngày trong xã hội thời Nguyễn Công
Hoan. “Tinh thần thể dục” tố cáo phong trào vui vẻ chung của thực dân, bắt người
dân đi xem bóng như một cuộc truy lùng tội phạm khiến cho người dân bỗng dưng
lâm vào cảnh “trốn như trốn giặc”. Chúng lợi dụng phong trào thể thao để ru ngủ
quần chúng , làm họ lãng quên nhiệm vụ cứu nước.
Câu chuyện vẽ lên cảnh cực khổ của nông dân khi bị lí trưởng bắt đi xem
bóng đá. Người ta van xin, đút lót để được tha. Người ta đặt cành cau lên bàn xin
80
cho chồng ốm nghỉ. Người thì khấm ba hào để được ông lí cho phép thuê người đi
thay con trai. Nguyễn Công Hoan đã tố cáo trực tiếp chính sách bịp bợm của bọn
thực dân.
Bên cạnh chủ đề chống chính sách của bọn thực dân, thời kì Mặt trận dân
chủ, nhà văn còn quan tâm tới chủ đề chống chiến tranh phát xít.
Trong truyện “Chiến tranh”, Nguyễn Công Hoan tố cáo sự tàn ác đến lạnh
người của quân phát xít. Chúng sẵn sàng xả súng vào những binh sĩ bị thương,
những người dù được chữa trị khỏi nhưng không còn khả năng ra trận. Nét mặt bình
thản, dí súng vào thái dương những binh sĩ thể hiện sự vô lương tâm, vô nhân đạo
của bọn phát xít.
Nhìn chung, hệ thống chủ đề, đề tài trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
đầu những năm 30 phong phú, đa dạng, gần với mối quan tâm của nhà nho, đặc biệt
có sự gần gũi về đề tài trong thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
3.3. Hình tƣợng nhân vật.
Thế giới trong tác phẩm của ông là một thế giới thực- thế giới của người thực,
việc thực , với nhiều loại khác nhau như: quan lại, người nghèo...
Hình tượng nghệ thuật luôn giữ vị trí quan trọng và trở thành một trong
những vấn đề trung tâm của tác phẩm. Hình tượng là bóng dáng của hiện thực.
“Hình tượng nhân vật không phải là sự bừng sáng đột xuất trong tâm hồn
nhà văn. Nó không nảy sinh một cách bất ngờ, chớp nhoáng. Nó ra đời là do sự nỗ
lực hoạt động sáng tạo của nhà văn trong quá trình thâm nhập, phản ánh nội dung
khách quan của cuộc sống và biểu thị những suy nghĩ, tình cảm của mình về cuộc
sống đó” [16/287].
Hình tượng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng
thể hiện rõ sự đan xen, hòa quyện giữa bút pháp trào phúng và hiện thực.
3.3.1. Hình tượng nhân vật trào phúng.
Trong chuỗi cười dân gian có rất nhiều nhân vật trào phúng nhưng kết tinh
cao hơn cả là ở Trạng Quỳnh. Cái cười trong truyện “Trạng Quỳnh” được khai thác
ở phía cạnh phi lí, quá đáng của con người.
Đến văn học nhà nho, hầu như hình tượng nhân vật trào phúng không xuất hiện.
81
Ngay cả thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến nhân vật trào phúng khá mờ nhạt.
Trong chuỗi cười cay độc của Trần Tế Xương có sự xuất hiện hàng loạt chân
dung trào phúng đặc sắc. Đó là hình tượng của bà đầm, ông cử, … Tuy nhiên, do hạn
chế về thể loại, về lập trường và về hệ quy chiếu, nhân vật trào phúng của Trần Tế
Xương chưa có sự khái quát cao độ như các nhân vật trào phúng trong văn xuôi, đặc
biệt trong chuyện ngắn trào phúng và tiểu thuyết hoạt kê những năm 30 của thế kỉ XX.
Hình tượng nhân vật trào phúng trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan kết
tinh chủ yếu ở nhân vật phản diện, mà chủ yếu là ở quan lại, địa chủ, tư sản tàn ác.
Hình tượng nhân vật trào phúng được dựng lên thông qua việc miêu tả ngoại
hình. Đó là bọn nhà giàu, béo phị. Béo vì đó là bọn người chuyên ăn bẩn.
“Hai thằng khốn nạn”: hình tượng nhân vật Nghị Trinh được miêu tả: “Một
người mặt mũi phương phi, cổ dụt, bụng phệ, môi trễ mà không râu”.
Trong truyện “Báo hiếu: Trả nghĩa cha”, hình tượng nhân vật vợ chồng tên
tư sản được khắc họa bằng ngòi bút trào phúng: “Hai ông bà cùng béo tốt đẹp đẽ,
nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái
hộp, tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với
bộ ria sửa khéo như vẽ”.
Nguyễn Công Hoan có ác cảm với bọn quan lại, bọn nhà giàu từ tấm bé. Khi
miêu tả chúng, ông sử dụng biện pháp cường điệu, phóng đại thường thấy trong văn
học trào phúng nhằm tô đậm bản chất xấu xa, độc ác của bọn nhà giàu. Chúng xấu
cả về ngoại hình lẫn tâm hồn. Từ quan ông đến quan bà.
Nhân vật phản diện trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan luôn có sự tương
đồng giữa nội dung và hình thức. Một bản chất xấu luôn đi kèm với một gương mặt
xấu. Đây là khuôn mặt bà Phủ trong truyện ngắn “Đàn bà là giống yếu”- “Người ta
tưởng đó là chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và ngay đầu
quả chuối nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp
với cặp mắt híp…”.
Ấn tượng xấu về bọn nhà giàu theo ông suốt chặng đường dài sáng tác. Thậm
chí cả khi Nguyễn Công Hoan đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Ở “Bước đường cùng” khi tả quan phụ mẫu, bút pháp trào phúng in khá đậm:
82
“Ngài cúi mặt xuống cả tấm thịt chèn lên quai hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó
vẽ lên một nét răn chia má làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phính và nung núc
những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi giá chỉ mũi kim nhỏ lỡ đụng vào là có
thể làm chảy ra hàng lít nước nhờn mà ta quen gọi là mỡ”.
Nguyễn Công Hoan dựng lên hình trượng trào phúng sinh động, nhằm tố cảo
bọn quan lại ăn bẩn.Có thể nói hình tượng nhân vật trào phúng chiếm tỉ lệ khá cao
trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng.
Hình tượng nhân vật trào phúng của Nguyễn Công Hoan luôn được dựng lên
bằng thủ pháp cường điệu, phóng đại. Về hình thức, đứa nào cũng béo chụt chịt. Về
phẩm chất và nhân cách, chúng đều là một bọn tàn nhẫn, vụ lợi, dâm ô. Nhà văn tô
đậm nét xấu xí, kì quái của nhân vật nhằm thể hiện sự tương xứng với bản chất bỉ ổi,
xấu xa của bọn người lòng lang dạ thú. Ở chúng “cái gì cũng cong cong, từ cái
sống mũi đến cái lương tâm, từ cái lương tâm đến cách xử kiện. Chúng hết sức
trâng tráo”. Những người cầm cân nảy mực trong xã hội thời Nguyễn Công Hoan
quan niệm: “Đi kiện thầy không nên cậy có lẽ phải. Lý thì làm gì. Một ông quan xử
kiện mà phải dựa vào luật là một ông quan kém” (Cái thủ lợn).
Bên cạnh việc xây dựng hình tượng nhân vật trào phúng bằng cách tô đậm
ngoại hình xấu xí, kì quái, Nguyễn Công Hoan còn chú ý tới lời ăn, tiếng nói, cử chỉ
và hành động đê tiện của bọn quan lại, địa chủ, tư sản.
Lời lẽ của bọn quan lại bao giờ cũng hách dịch, sặc mùi tiền bạc.
Bản chất của tên quan phụ mẫu được thể hiện đầy đủ ở cả anh Pha trước
công đường trong “Bước đường cùng”.Sau khi đọc thư của Nghị Lại, quan hỏi:
Đâu? Anh Pha chẳng hiểu gì.
Quan cau mặt.
Vào quan không có lối nói bằng nước rãi …
Quan quắc mắt:
Nghèo thì bước! Xét cái con mẹ mày, làm mất thì giờ của ông …
Từ ngoại hình đến tâm địa, bọn quan lại đều xấu xa, tàn ác.
Vốn hiểu biết nhiều người trong xã hội, ông nhìn thấu tâm can chúng. Nhờ
vậy, dù sử dụng nhiều thủ pháp phóng đại nhưng tác phẩm của ông vẫn rất hiện
83
thực, mang hơi thở của cuộc sống, của thời đại.
3.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình.
Bên cạnh thành công của nhân vật trào phúng, Nguyễn Công Hoan còn xây
dựng được nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, vươn tới sự thành công
của ngòi bút hiện thực phê phán 1930- 1945.
Năm 1935, Nguyễn Công Hoan viết truyện dài “Bà chủ”. Tác phẩm như
hồi chuông phản tỉnh con người về sự băng hoại đạo đức, đồng thời ít nhiều thể hiện
được sự vận động của tính cách nhân vật và sự tác động của hoàn cảnh trong việc
hình thành tính cách.
Phần đầu truyện viết về “công việc của ban chấn hưng đạo đức”.
Những tưởng đó là một vấn đề trang nghiêm nhưng thực chất lại “chấn
hưng” tình yêu trai gái, thứ tình cảm tất yếu của con người.
Nhân vật Thanh, vốn là con nhà mõ. Chị bị bắt vì chót tâm sự với người yêu
trong đêm tối. Chị được bà trưởng ban dạy dỗ, chỉ bảo để khỏi bị mang tiếng xấu.
Cuộc đối thoại của bà trưởng ban và Thanh thể hiện rõ tính chất trào phúng.
Bà đưa ra câu hỏi hết sức vô lý (Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, hầu hết
những cuộc đối thoại đều mang yếu tố trào phúng).
“Chị yêu anh ấy, Tại làm sao chị lại yêu anh ấy?
Bẩm bà tại anh ấy yêu con.
Không được, thế đời này chị quý nhất cái gì?
Bẩm con quý nhất anh ấy. Ồ, Chị này mê muội quá. Đàn bà con gái gì quý bằng
chữ trinh chữ tiết. Người ta bảo chữ trinh đáng giá nghìn vàng, chị có nghe thấy
câu ấy không? …”
Bà trưởng ban Chấn hưng đạo đức dạy chị phải giữ cho được hai chữ “trinh
tiết”. Nhưng thực chất bà lại là người leo lên chức trưởng ban bằng việc bán rẻ
nhân cách cho cụ Chánh hội.
Thanh nhận ra rằng: “Sở dĩ bà ấy là trưởng ban đạo đức chẳng qua chỉ tại
bà ấy nhân tình với cụ chánh hội …”. “Thì ra ban ngày bà ấy giảng đạo đức trinh
tiết cho cháu nghe, mà đến tối thì cụ Chánh hội lại đến với bà ấy”.
Công việc chấn hưng của bà chỉ là cái vỏ che đậy cho hành động xấu xa, bỉ
84
ổi. Vì thế bà càng cố gắng “trau dồi đạo đức” cho Thanh thì càng ngày Thanh càng
xa đọa: “Cô coi việc mỗi tối đến nhà bà trưởng ban nghe thuyết trình là một cơ hội
tốt để gặp người yêu”.
“Việc bà nói để lấy tiền thì bà cứ nói, mà việc nghe để lấy tiếng thì em cứ
nghe”. Tất cả chỉ là trò dối trá, lừa bịp để che đi những hành động đê tiện …”.
Thanh hiểu rằng: “Ở đời này cứ thật thà mãi sao được”.
Từ môt cô gái thôn quê với tình yêu đích thực, cô đánh mất mình, trở thành
một người đàn bà sa đọa về đạo đức, xói lở về tâm hồn, tình cảm.
Cuộc đời khiến cho Thanh hiểu hết những mánh khóe. Thanh leo lên bậc
thang xã hội một cách nhanh chóng nhờ vào sự hư hỏng của bản thân. Thanh trở
thành bà lớn. “Thanh ngẫm nghĩ lại cái đoạn đời bé con ở nhà quê sao nó buồn tẻ,
hủ lậu thế. Giá Thanh không hư một dạo thì làm gì có lúc này được sung sướng,
danh giá, văn minh”.
Từng ăn nằm với anh bếp, rồi trở thành người yêu của một cậu sinh viên
trường luật, Thanh ngang nhiên bước vào xã hội thượng lưu. Cô học nhảy đầm,
đóng kịch. Bây giờ Thanh không còn là con bé quê mùa. Người ta gọi Thanh là bà
thượng lưu khuê các, bà Bạch Tuyết. Thanh trở nên danh giá. Cô sẵn sàng bỏ sinh
viên trường luật vì lý do “Trăm hai một tháng làm sao đủ tiêu được, … mà hắn có
mẹ già, mình thích tự do, chịu sao nổi”.
Thanh dùng mọi cách để tiếp xúc với chú bá chín Sềnh - một người Trung
Hoa giàu có. Đối với Thanh ái tình chẳng có nghĩa lý gì mà cái quan trọng hơn cả là
tiền!
Thanh và Cát gặp nhau, hai người có bản chất khá giống nhau: “Tôi cũng
như anh, ta chỉ lăm le dùng ngọn lưỡi để lừa phường ngu dại …”
Hoàn cảnh xã hội đã xua đẩy con người đến những bến bờ không lường
trước được, từ cô bé quê mùa chất phác với tình yêu trong trắng ngây thơ Thanh trở
thành gái giang hồ, thành chủ tư bản nhờ những mánh khóe lừa lọc.
Thanh tâm sự với một nhà văn: “Trái tim của em đã bị em mang đi cho
người ta nhiều lần bây giờ nó thành chai ra rồi chỉ có vàng bạc mới vạch cho nó
85
thành vết được”.
Xã hội đã nhào nặn ra Thanh- cô thành điển hình cho một loại người trong
xã hội thực dân nửa phong kiến.
Thanh vốn con nhà mõ, vì chửa hoang bị làng đuổi đi. Nhưng bây giờ cô trở
nên giàu có. Cô về làng được “người ta quý, người ta trọng, người ta kính. Người
ta tin Thanh gọi Thanh là bà chủ”. Thanh được dân làng trọng vọng, cung kính và
trở thành một bà chủ đứng đắn, nghiêm trang.
Kết thúc tác phẩm, Nguyễn Công Hoan viết: “Phải, chính bà chủ đã thắng
trận trên một chiến địa kim tiền”.
Đồng tiền tha hóa con người, đồng tiền len lỏi vào
“Bước đường cùng” được coi là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Tác
phẩm lần đầu tiên dựng lên được hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh
điển hình.
Nằm trong mạch tố cáo quan lại, bọn địa chủ, nhà giàu, “Bước đường cùng”
đã xây dựng được nhân vật phản diện mang tính điển hình, đó là hình tượng nhân
vật Nghị Lại- một hình tượng nhân vật địa chủ khá thành công.
Từ ngoại hình đến đời sống nội tâm của Nghị Lại được miêu tả cụ thể: nước
da xanh mét và cặp môi thâm sịt của dân nghiện … lão chẳng có mấy chữ nghĩa và
rấ keo bẩn.
Trong tác phẩm, Nguyễn Công Hoan đã xoáy sâu vào tội ác cướp đoạt
ruộng đất của giai cấp địa chủ. Chúng chiếm đoạt ruộng đất của nông dân bằng mọi
cách. Đặc biệt, đến đây bọn địa chủ đã biết kết hợp với thực dân để đàn áp dân
nghèo. Nguyễn Công Hoan đã phơi trần bản chất chính trị phản động của chúng
bằng ngòi bút hiện thực.
Bên cạnh việc tố cáo địa chủ, vấn đề số phận của người nông dân được đặt
ra một cách cấp thiết. Nhân vật anh Pha đại diện cho người nông dân trong xã hội
cũ, bị tước đoạt hết ruộng đất, bị dồn đến bước đường cùng. Không lối thoát, họ
phải vùng dậy đấu tranh đòi công lí. Hành động phản kháng của anh Pha thể hiệ cho
quy luật “có áp bức có đấu tranh” trong cuộc sống. Anh trở thành hình tượng nhân
vật chính diện thành công duy nhất trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước
86
Cách mạng.
Tính cách nhân vật Pha có sự vận động phát triển. Mở đầu tác phẩm là hình
ảnh của một người nông dân khúm núm, sợ sệt. Kết thúc truyện là một con người
mạnh mẽ, dám vùng lên chống lại quan Nghị Lại.
Tâm lý và hành động nhân vật luôn có sự vận động theo các tình huống truyện.
Lần đầu ở công đường, đứng trước quan phụ mẫu, anh run rẩy, nói lắp ba
lắp bắp. Khi đến nhà Nghị Lại, bao căm hờn uất ức đều tan biến. Anh lại sợ quan
như thường. Nghị Lại ngày một tàn ác hơn khiến anh Pha và nhiều người nông dân
khác phải khổ cực. Pha không còn nhút nhát như trước. Anh thề sẽ chống lại đến
cùng. Trước lời dọa nạt của Phát, người làm thuê cho Nghị Lại, Pha nói: “Anh trình
quan giời tôi cũng không cần”. Tính cách nhân vật đến đây có sự chuyển biến rõ rệt.
Đỉnh cao của sự phát triển tính cách tập trung ở đoạn Nghị Lại dẫn lính đến ruộng
lúa nhà Pha. Pha run bắn người lên không phải vì sợ như những lần đối diện với
quan, mà vì sự căm giận, sự uất ức. “Anh vớ được chiếc đòn càn xông vào Nghị Lại
phang một cáu thật mạnh vào đầu- Đồ ăn cướp!”.
Anh Pha không còn là người nông dân cam chịu. Anh nhận ra rằng nguyên
nhân cái khổ là do dốt (đó là điểm hạn chế của Nguyễn Công Hoan). Quá trình
chuyển biến tư tưởng của nhân vật anh Pha từ con người nhút nhát cả tin, sợ và con
Nghị Lại như một ân nhân đến một con người có suy nghĩ mạnh bạo, thù ghét và
đánh Nghị Lại. Quá trình ấy tuy ngắn ngủi nhưng là một quá trình tất yếu. Anh đại
diện cho người nông dân bước đầu có ý thức về sự nghèo khổ của mình. Họ đã biết
đoàn kết nhau để chống lại bọn địa chủ cường hào.
Với việc xây dựng được những nhân vật điển hình tuy chưa được sâu sắc
nhưng phần nào đã đánh dấu được sự thành công của ngòi bút hiện thực phê phán
Nguyễn Công Hoan.
3.4. Hệ thống ngôn ngữ- thể loại.
3.4.1. Ngôn ngữ.
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki) và là một trong những
tiêu chí để định giá tác phẩm. Ngôn ngữ cũng thuộc phạm trù lịch sử và vận động
87
mang tính quy luật.
Trong văn học nhà nho, ngôn ngữ mang đậm yếu tố ước lệ tượng trưng. Đến
thời đại của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, ngôn ngữ thuộc phạm trù cái bi, cái
hài lấn át ngôn ngữ phạm trù cái cao cả. Cái hài gắn với sự nhận thức và đánh giá
hiện thực thông qua cái cười. Ngôn ngữ trào phúng xuất phát từ cái nhìn và thái độ
đối với cuộc sống. Đỉnh cao trong thơ trào phúng là Trần Tế Xương. Ông được coi là
người nghệ sĩ có tài quan sát thế giới bên ngoài, nắm bắt được cái thần của nó để tái
hiện cuộc sống bằng những hình tượng sinh động dưới biệt tài sử dụng ngôn ngữ.
Đến những năm hai mươi của thế kỉ trước, với sự xuất hiện các thể loại mới
trong văn học, đặc biệt là kịch, tiểu thuyết và truyện ngắn, ngôn ngữ đã đem đến
những thành tựu mới cho văn học Việt Nam hiện đại. Kế thừa cách nói gần gũi,
giản dị trong văn học dân gian và lối nói thẳng, sắc trong thơ trào phúng của Trần
Tế Xương, văn học hiện đại ra mắt công chúng với một lối nói mới, gần với lời ăn
tiếng nói của người dân.
Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu của giai đoạn đầu
thế kỉ XX có công trong việc đưa văn học trở về với cuộc sống đời thường bằng
cách phản ánh hiện thực thông qua ngôn ngữ bình dân, suồng sã. Với ông, một
trong những điều quan trọng khi sáng tác là phải “viết làm sao cho câu văn giản dị,
sáng sủa, dễ hiểu cho lỗ tai bình thường của người Việt Nam. Nghĩa là làm thế nào
đặt câu văn như lời nói chuyện, và phải cố làm thế dù đó là một khó khăn cho
người cầm bút mang cố tật ăn nói bằng văn chương”.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, độc giả được tiếp xúc với ngôn ngữ
dân tộc, mà một trong những ấn tượng đầu tiên là: giản dị, trong sáng. Chính điều
này làm cho tác phẩm của ông trở nên sinh động. Nguyễn Công Hoan đặc biệt thành
công trong việc đưa ngôn ngữ bình dân vào ngôn ngữ tiểu thuyết, không ít khi nhà
văn đưa những khẩu ngữ dân gian vào truyện ngắn như: “vắt mũi không đủ đút
miệng”, “đau như hoạn”, …
Với một ngôn ngữ bình dân, suồng sã, nhân vật trong sáng tác của ông mang
lời ăn tiếng nói giống hệt ngoài đời. Nhiều khi ông đưa ngôn ngữ thông tục (“tức
như bò đá”) vào văn chương. Ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
88
dường là thứ ngôn ngữ muốn san bằng tất cả.
Ngoài việc dùng lối diễn đạt dễ hiểu, ấn tượng của độc giả khi tiếp xúc với
tác phẩm của Nguyễn Công Hoan còn là ngôn ngữ trào phúng. Ông thường dùng lối
giễu nhại ngôn ngữ nhân vật để tạo tiếng cười cho người đọc. Ông đưa hình ảnh so
sánh ví von khiến độc giả có những liên tưởng thú vị. Truyện “Đàn bà là giống
yếu”, ông viết: “Quan ông vừa nói tiếp, vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà:
Một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột”. Hay khi tả khuôn mặt bà Phủ, ông
viết: “Người ta tưởng chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và
ngay đầu quả chuối nằm dài hai múi cà chua …”.
Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan giàu hình ảnh, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ
hiện đại và mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
Trong cuốn “Đời viết văn của tôi”, Nguyễn Công Hoan tâm sự: “Tôi nghiệm
thấy rằng khi văn chương mà viết đúng như tiếng nói và lối nói của dân tộc thì nó
hay, nó đứng vững mãi. Bởi vì ngôn ngữ của dân tộc là một thứ ngôn ngữ trường
cửu, ít thay đổi về thời thế. Đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam là văn vẻ giản dị, là
chững chạc nhưng sinh động. Đó là một bài học cho tôi mà do tình cờ, không định,
tôi đã theo ngay từ ngày mới vỡ lòng” [25/121].
Nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thường có ngôn ngữ riêng,
từ bọn lính lệ cho đến quan phụ mẫu, từ nông dân cho tới địa chủ, từ thằng ăn cắp
cho đến người hát xẩm, … tất cả đều được nói bằng ngôn ngữ của chính mình. Điều
này là một trong những yếu tố tạo nên tính khách quan cho tác phẩm. Chẳng hạn,
ngôn ngữ của tên lính lệ trong tiểu thuyết “Bước đường cùng” thể hiện rõ tính hách
dịch của chúng:
Mày định kêu cho cụ tổ mày nghe phải không? Bố mày đánh thì mày phải
câm kia mà!
Bố mày bảo thế nghĩa là bố mày bảo liệu hồn … Quân ngu như lợn …
Bản chất của mỗi hạng người trong xã hội luôn được thể hiện qua lời ăn,
tiếng nói của họ. Bọn quan lại, cường hào, lí trưởng trong tác phẩm của Nguyễn
Công Hoan thường nói bằng ngôn ngữ hống hách như chính bản chất chúng vậy.
Ngôn ngữ của tên Lý Trưởng trong truyện ngắn “Tinh thần thể dục” tiêu
89
biểu cho sự bất nhân của bọn có thế lực trong xã hội thực dân nửa phong kiến: “Hễ
đứa nào láo cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố chúng nó! Việc
quan thế này có chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây
cho ông!”.
Biểu hiện cho sự lép vế của những người nghèo trong xã hội, nhân vật của
Nguyễn Công Hoan thường nói bằng ngôn ngữ riêng của hạng người cùng khổ, bị lệ
thuộc: “Lạy thày, nhà con chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám
đến kêu. Lạy thày, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà
con đi xem bóng đá vội”.
Có thể nói, hệ thống ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sự
kế thừa ngôn ngữ trong văn chương truyền thống, đặc biệt trong văn học dân gian
và thơ trào phúng, đồng thời đã đánh dấu sự trưởng thành của ngôn ngữ trong văn
xuôi hiện đại. Đó là ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, một ngôn ngữ
giản dị và trong sáng.
Dấu ấn truyền thống và hiện đại in đậm trong sáng tác của Nguyễn Công
Hoan trước Cách mạng không chỉ thể hiện ở lí tưởng thẩm mĩ, chủ đề, đề tài, hình
tượng nhân vật mà còn được biểu hiện khá rõ ở hệ thống thể loại.
3.4.2. Thể loại:
Trước Nguyễn Công Hoan, thể loại chủ yếu trong văn học là thơ. Nếu
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương đến với trào phúng bằng vần thơ chế giễu,đả
kích sâu cay những mặt trái của xã hội thực dân nửa phong kiến thì Nguyễn Công
Hoan lại đem tiếng cười phê phán vào tác phẩm bẳng một thể loại mới, đó là truyện
ngắn và tiểu thuyết.
Mỗi thể loại có một lợi thế riêng trong việc phản ánh hiện thực. Truyện ngắn
là thể loại tự sự cỡ nhỏ, có khả năng phản ánh hiện thực sau tiểu thuyết. Tuy nhiên,
ở thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương cũng đạt được những
thành tựu nhất định, riêng có của thể loại thơ trào phúng.
Là nhà văn của giai đoạn chuyển tiếp giữa dòng văn học trào phúng và trào
lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945, Nguyễn Công Hoan thành
90
công nhiều ở truyện ngắn trào phúng. Ông đưa ra những lí luận về chuyện ngắn khá
cụ thể. Trên lĩnh vực truyện dài, như đã nói, Nguyễn Công Hoan không tạo được
tiếng vang như ở truyện ngắn.
Với nhà văn, “truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây
dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu, dùng
tiếng có cân nhắc”. Ông được xem như bậc thầy của truyện ngắn trào phúng. Mỗi
tác phẩm là một vấn đề của cuộc sống, vì thế, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
thường cô đúc, ngắn gọn. Ông luôn tâm niệm: “mỗi truyện cần một ý, một ý thôi, ý
ấy là ý chính của truyện”. Quan niệm về truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gần
với quan niệm của K.Pautốpxki: “Tôi biết rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn
gọn, trong đó cái bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường và cái gì
không bình thường hiện ra như một cái bình thường”.
Nếu tiểu thuyết phản ánh cuộc sống trong tính toàn vẹn của nó thì truyện
ngắn nói chung và tác phẩm của Nguyễn Công Hoan nói riêng phản ánh một lát cắt
của cuộc sống, một khoảnh khắc, thậm chí là một ánh chớp lóe bất ngờ trong cuộc
đời nhân vật.
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng thành của truyện
ngắn hiện đại ở lối kết cấu bất ngờ. Mỗi tác phẩm của ông giống như một màn kịch
với những xung đột mang tính bản chất nhất. Theo nhà văn: “Viết truyện cũng như
đánh trận. Nếu đánh trận là đánh vào đồn thì viết truyện là đánh vào tình cảm của
người đọc. Nhằm vào mặt tình cảm nào của độc giả làm đích để gợi, tác giả phải
định trước đi. Tác giả phải chọn chi tiết đầy đủ để nắm lấy tình cảm của độc giả …
Chi tiết mà lỏng lẻo, chống chếnh, thì tình cảm của độc giả sểnh lọt đến chỗ khác
mất. Một đôi khi, nếu muốn, tác giả cũng có thể hãm tình cảm của độc giả đi chậm
lại, hoặc đưa chậm nó đi một tí. Đó là nghi binh, để làm cái đà cho nó nhảy vọt đến
ý định của mình, tức là đến cái kết cục đột ngột, bất ngờ của truyện” [56/749].
Trong truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan thường sử dụng thủ pháp đối lập giữa bản
chất và hiện tượng, giữa thật và giả, vì thế thường ở mỗi tác phẩm gợi lên hai sắc
thái thẩm mĩ ở người đọc là: cảm thương và ghê tởm.
Điểm cách tân cơ bản trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thể hiên ở việc
91
xây dựng các biến cố, tình huống truyện tạo kịch tính. Mỗi truyện ngắn của ông là
một vở kịch ngắn với diễn biến thường có lớp lang trình tự, thắt nút, mở nút dẫn đến
một kết cục bất ngờ như: “Ngựa người và người ngựa”. Tác động tới người đọc
chính là ở yếu tố bất thường, ngạc nhiên và hấp dẫn trong tác phẩm Nguyễn Công
Hoan trước Cách mạng. Ông chịu ảnh hưởng khá ro những chuyện kể dân gian,
nhất là lối kết thúc bất ngờ của truyện tiếu lâm (Oằn tà roằn).
Tuy đạt được những thành công như đã nói, Nguyễn Công Hoan còn có
những hạn chế khó tránh khỏi của thế hệ nhà văn những năm đầu thế kỉ XX.
Kết cấu truyện đơn tuyến. Tác phẩm của nhà văn mang đậm yếu tố kể. Ông
quan tâm đến cốt truyện sự kiện nhiều hơn là cốt truyện tâm lí. Vì đề cao cốt truyện
sự kiện, Nguyễn Công Hoan không quan tâm nhiều đến việc xây dựng tính cách
nhân vật trong khi xu hướng của truyện ngắn hiện đại thường lược bỏ những sự kiện
quan trọng để dành cho sự hồi tưởng, suy luận, (Tuyết trên đỉnh Kilimanjarrô của E.
Hemingway).
Mặt khác, trong những năm đầu, khi mới bước chân vào làng văn, Nguyễn
Công Hoan còn chịu ảnh hưởng của lối chép truyện truyền thống, đặc biệt khi viết
cho mục “An Nam nhị thập thế kỉ xã hội ba đào kí” trên An Nam tạp chí. Truyện
ngắn trên An Nam tạp chí không ít truyện được ghi chép theo sự kiện, với diễn
biến theo thời gian tuyến, một số được kết cấu theo kết cấu truyện dân gian: nguyên
nhân- kết quả (Thằng ăn cắp).
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường là những truyện kể có kết cấu đơn
tuyến, thậm chí đến mức đơn giản. Bù lại, Nguyễn Công Hoan rất giỏi nhận ra và
khai thác sự độc đáo của các chi tiết.
Từng bước, từng bước, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng
thành của truyện ngắn hiện đại.
3.5. Cốt truyện – Tình huống.
3.5.1. Cốt truyện:
Cốt truyện là chỉ cái phần lõi của truyện, cái phần có thể tóm tắt, thuật lại
hay mượn để sáng tạo ra tác phẩm khác. Nói cách khác, cốt truyện thường được
hiểu là hệ thống các sự kiện chính, chi tiết cơ bản dùng để biểu hiện tính cách và
92
phản ánh mâu thuẫn, xung đột xã hội.
Cốt truyện của Nguyễn Công Hoan được khái quát từ chính hiện thực đời
sống. Những cảnh vật xảy ra xung quanh ông là nguồn tài liệu phong phú và đa
dạng để ông khai thác và sáng tạo. Nhiều khi những gợi ý cho nhà văn chỉ là “một
câu nói, một hình ảnh, một câu thì thào từ miệng người nọ qua người kia”[25/363].
Truyện ngắn “Sáu mạng người” là do tác giả biết có một tên quan quát hỏi
thẻ của sáu người đi buôn chè sớm. Vì không có thẻ, họ sợ hãi bỏ chạy, hắn đã sai
lính bắn chết. Vậy mà hắn được thăng chức án sát vì báo cáo lếu láo là tiêu diệt
được toán cướp rừng. Cứ như vậy ta có thể dẫn chứng hàng loạt những trường hợp
mà Nguyễn Công Hoan đã lấy truyện thật trong cuộc đời để xây dựng ý cho các
truyện ngắn của mình.
Khi viết truyện “Báo hiếu” tác giả dựa vào một sự kiện có thật về một tên tri
huyện Thanh Hà: Nguyễn Ngọc Chung rất bất hiếu với mẹ, ngày giỗ bố nó, bà mẹ
từ quê ra, thấy mẹ rách rưới quê mùa, hắn đuổi mẹ về, vứt cho hai hào và ra lệnh
cấm xe ở phố không cho ai kéo bà cụ. Với tất cả các sự kiện đó, ông có thể hư cấu
thêm: Vì uất ức với đứa con, bà cụ tự tử để tạo thành một truyện ngắn. Nhưng ông
không làm vậy, ông tách ra làm hai truyện “vì hai ý lồng vào một truyện thế nào
cũng có ý kém nổi bật. Tôi mới ăn dè, cắn ra làm hai để viết ra thành hai truyện
riêng”[25/236].
Có truyện chỉ dựa vào một câu nói, một tấm ảnh sau đó nhà văn tưởng tượng
viết nên truyện. Vào năm lũ lụt, nhà văn đọc trên báo thoáng thấy hình ảnh chiếc
quan tài bị kẹt trên cây khi nước lũ lên, Nguyễn Công Hoan tưởng tượng ra cảnh
chôn chiếc quan tài đó và truyện “Chiếc quan tài ra đời”.
Có truyện dùng một hiện tượng nào đó làm thân truyện rồi thêm cốt truyện
như viết “Hai thằng khốn nạn” là do Nguyễn Công Hoan trông thấy người gánh
con đi bán năm đói, ông liền lấy đó làm thân truyện rồi thêm vào cái kết truyện.
Hoặc có truyện, việc thật có nội dung này lại được lật ngược lại để lập ý khác.
Chẳng hạn viết “Xuất giá tòng phu” là do tác giả trông thấy người ta đánh vợ vì
ngoại tình. Nhưng ông thấy truyện này chẳng có gì đáng viết, trong khi ông biết có
những tên phủ này hiến vợ cho công sứ, tên huyện kia đưa vợ vào hầu quan tổng
93
đốc, nên nhà văn mới viết thành truyện chồng đánh vợ vì vợ không chịu hiến thân
cho “ông chủ của chồng”… Từ những sự việc trong cuộc sống, tác giả dùng nhiều
hình thức xây dựng cốt truyện sao cho thích hợp với ngòi bút trào phúng của mình,
đồng thời có ý nghĩa sâu cay với xã hội đương thời.
Nhưng dù dựa vào những truyện có thật hay hư cấu, thì những sáng tác của ông
mang một dấu ấn rõ nét. Đó là sự vận động về quan điểm sáng tác của nhà văn, từ
những truyện ngắn mang nặng quan điểm của một nhà Nho “Ôn nhu đôn hậu” như
“Lá ngọc cành vàng”…đến những sáng tác thể hiện những cảm xúc chân thực mang
tính thời sự qua những cảnh, những người, những việc tập trung tiêu biểu cho thực tế
cuộc sống chứ không phải là những bản sao chép cuộc sống một cách tầm thường.
Nguyễn Công Hoan có lối xây dựng cốt truyện rất đặc sắc thông qua chi tiết:
“Cấu tạo nên truyện là do những chi tiết nhặt nhạnh ở đây đó, làm sao cho gọn ghẽ,
chặt chẽ để làm nổi lên ý chính” [25/361]. Ví dụ, trong truyện “Oẳn tà roằn” cô ả
có đến một trăm tình nhân, không biết ngủ với anh nào mà bụng ễnh, nên hết gạ lấy
anh này lại gạ lấy anh nọ, và với anh nào chị ta cũng đổ là đã làm cho chị ta có
mang. Rốt cuộc là có mấy anh hứa là sẽ nhận đứa bé làm con sau khi chị đẻ xong và
sễ cưới chị làm vợ. Đến khi chị ta ở cữ tại nhà thương, hết anh nhân tình nọ lễ mễ
đem quà vào thăm, đến anh nhân tình khác ôm đồm các thứ khác lại cho đứa bé.
Nhưng rốt cuộc anh nào cũng chuồn cả vì đứa con mà chị ta đẻ ra là một thằng
bé…tóc quăn như bún và da đen như than. Tác giả đã xâu chuỗi một loạt các chi tiết
lại với nhau để tạo nên một tấn hài kịch rất ngộ nghĩnh làm cho người đọc khoái tra
vô cùng.
3.5.2. Tình huống truyện:
Là người có trí tuệ sắc sảo, bản thân lại có năng khiếu hài bẩm sinh. Nguyễn
Công Hoan rất nhạy cảm trong việc nhận ra những mâu thuẫn trái tự nhiên vốn đầy
rẫy trong xã hội đương thời. Dưới con mắt nhà văn, con người luôn tồn tại dưới
dạng tương phản tốt – xấu, chân thật – giả dối, đạo đức và vô đạo đức, tử tế và đểu
giả, có lương tâm và bất lương, công lý và bất công...Đối với nhà văn, con người
luôn được nhìn nhận ở hai bình diện xung khắc nhau: con và người, bản năng và trí
tuệ, nói và làm. Tác phẩm của ông là sự nắm bắt con người ở xung đột giữa thuyết
94
giáo và lối sống thực tại, giữa sự giao giảng đạo đức và hành động thực tiễn xấu xa ,
giữa lời nói trống giỗng và việc làm bậy bạ…Do vậy, trong truyện ngắn của mình
Nguyễn Công Hoan chú trọng xây dựng tình huống chứa đầy mâu thuẫn, xung đột.
Và tiếng cười thường bật ra khi bản chất diễn trò bộc lộ qua hai phương chiếu bất
khả dung hợp này. Truyện cười bao giờ cũng phải tạo ra được một tình huống gây
cười. Tình huống này phải là tình huống bất ngờ mang tính nghịch lý, phi lý,oái
oăm. Để gây cười, tác giả truyện cười phải dẫn dắt tình tiết sao cho cốt truyện lên
tới đỉnh điểm, căng thẳng, đầy kịch tính, tạo nên sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.
Tình huống gây cười trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan cũng không
nằm ngoài thông lệ ấy. Có thể chia thành ba nhóm tình huống sau:
3.5.2.1. Tình huống nghịch lý, phi lý.
- Nghịch lý, phi lý về đạo đức: Như trên đã nói, Nguyễn Công Hoan rất quan
tâm đến vấn đề con người. Con người trong sáng tác của ông là con người mất đạo
đức, vô lương tâm, giả dối, thấp hèn…nhưng nhiều khi lại mang một màu sắc hào
nhoáng giả tạo. Tiếng cười của nhà văn đã phanh phui, lột trần lớp vỏ bề ngoài ấy
để trơ ra cái xấu xa ghê tởm ở bên trong.
Đúng như M.Bakhtin đã nhận xét về giá trị và chức năng của tiếng cười.
“Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi cuốn
đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể xuồng xã sờ mó từ
khắp mọi phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ ngoài để
nhìn vào bên trong, hồ nghi, phân tích, chia cắt, bóc trần nghiên cứu và thử nghiệm
một cách tự do. Tiếng cười là nhân tố cơ bản nhất tạo ra thái độ không biết sợ, mà
không biết có tiền đề ấy thì không thể chiếm lĩnh thế giới hiện thực” [2/51].
Để tạo nên tiếng cười, Nguyễn Công Hoan lôi cuốn đối tượng vào những
tình huống nghịch lý, phi lý về đạo đức.
Ông chủ hãng ô tô Con Cọp là một nhà tư sản giàu có, nhân giỗ cha ông mời
rất đông khách nhưng lại đuổi mẹ ra ngoài đường trời mưa giá rét sau khi bố thí cho
hai hào ván (Báo hiếu: trả nghĩa cha). Cũng ông chủ hãng ô tô Con Cọp cùng vộ giết
mẹ đẻ rồi lại làm đám ma hết sức to tát để che mắt thiên hạ. Nhưng đám ma càng to
95
bao nhiêu, người đọc càng nhìn rõ thực chất bất hiếu của vợ chồng hắn bấy nhiêu.
Hoặc một trường hợp khác, một nhà tư sản sẵn sàng đè chết người ăn mày vì
người này đánh gãy hai chiếc răng con chó của hắn rồi đền mạng “bất quá ba chục
bạc là cùng”. Một mạng người không bằng hai cái răng con chó, không bằng ba
chục bạc. Tiếng cười ở đây chĩa vào sự mất nhân tính của tên tư sản nọ, đồng thời
cũng là tiếng cười xót xa cho thân phận con người yếu hèn trong xã hội vô nhân ấy
(Răng con chó của nhà tư sản). Thằng ăn cắp ăn quỵt bát bún riêu hai xu, lấy trộm
củ khoai lang mà bị (Bữa no…đòn) của đám đông “hàng chục…hàng trăm người”.
Đành rằng ăn cắp là xấu, là đáng khinh nhưng chỉ vì “bát bún riêu”, “củ khoai lang”
mà bị trận đòn nhừ tử gần chết thì cũng là một nghịch lý, xót xa cho số kiếp con
người nhân phẩm bị vùi dập. Tiếng cười ở đây chĩa vào đám đông vô hồn, chĩa vào
tình trạng mất nhân tính của con người trong xã hội phi nhân tính (Thằng ăn cắp,
Bữa no …đòn).
Quan huyện tư pháp đi khám người chết đuối lại đòi khấn “70 đồng” mới
cho chôn. Thật là một sự vô lý quá mức thông thường về tư cách quan tư pháp (Thịt
người chết). Quan đi bắt thàng ăn cướp nhưng lại “cướp lại” những thứ thằng ăn
cướp cướp được. Quan còn cao tay hơn kẻ cướp, đến nỗi nó phải bỏ nghề (Thằng ăn
cướp). Một ông phán nuôi kẻ hầu người hạ trong nhà nhưng lại giở trò “mất ví”
đuổi khéo người cậu vì nhớ cháu mà ra thăm “vì tốn kém lắm” cũng là nghịch lý
đáng khinh, đáng cười.
Con người trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thường sống trái hẳn
với đạo lý. Đạo làm vợ phải theo chữ “tam tòng”. Trong đó tòng phu là thủ tiết với
chồng, nhưng ở đây “tòng phu” là vâng lời chồng đi ngủ với quan trên, vợ phản đối
thì chồng còn quát tháo “Luân lý để đi đâu?”; “Giáo dục để đâu?”(Xuất giá tòng
phu). Đạo làm con gái phải tiết trinh, nhưng cô Nguyệt lại đi ngược lại đạo lý ấy
đến mức khó tin(Oẳn tà roằn). Truyện ngắn “Thế là mợ nó đi Tây” lại có hai tình
huống nghịch lý: chồng ho lao lại ra sức làm để nuôi vợ đi Tây, lại còn chăm nom
cả gia đình bên vợ. Vợ đi Tây viết thư về với bao nỗi yêu thương chồng, nhưng
trong bụng thì đã “vĩnh quyết” từ khi bước chân xuống tàu.Vợ quan phủ ngủ với
96
thằng cung văn ngay trong phòng quan phủ, quan phủ bắt được nhưng vợ quan phủ
lại lên lớp cho chồng, bắt chồng phải cung đốn thêm cho mình những thứ sang
trong hơn(Đàn bà là giống yếu).
- Nghịch lý về hoàn cảnh: Nhà văn đưa nhân vật vào trong những hoàn cảnh
mang tính chất nghịch lý để làm nổi bật thân phận, số kiếp của họ. Ở đây lại thường
là những nhân vật dưới đáy xã hội, muốn sống họ phải làm trái lẽ phải thông thường.
Thằng ăn mày vì lành lặn nên không xin ăn được. Để kiếm sống, nó phải
kiếm “vốn sinh nhai” bằng cách tự làm thương tật mình. Nó phải què cụt để có
miếng ăn (Cái vốn để sinh nhai)
Anh Tiêu ốm nặng đến nỗi phải ho ra máu mà vẫn phải đi kéo xe giờ. Bởi vì
không kéo thì không có tiền, anh đói, vợ con anh đói và không có tiền trả thuê xe
(Được chuyến khách).
Đêm ba mươi tết, anh phu phải kéo xe cô gái điếm để mong kiếm được một
hai hào về ăn tết, cuối cùng còn bị lỗ, mất công, mất tiền(ngựa người và người ngựa).
Người ta chết thì được chôn dưới đất, nhưng anh Cu chết không có đất mà
chôn phải chôn dưới nước vì lũ đã ngập hết đất đai (Chiếc quan tài).
Anh Xích bị chết đuối mà vẫn chưa được vớt lên đưa ma vì quan nghi ngờ có
chuyện “bức tử”. Ông bà Cửu đứt từng khúc ruột khi xác con trương phềnh dưới
nước làm mồi cho cá rỉa (Thịt người chết).
Kép Tư Bền lại phải cười mua vui cho thiên hạ trong hoàn cảnh đáng khóc vì
nghe tin cha ở nhà sắp gần đất xa trời(Kép Tư Bền).
Một người hoàn cảnh sắp chết vì đói. Một kẻ lại phát ốm lên vì quá béo va
ăn quá no (Hai cái bụng)…
Tạo dựng ra những tình huống nghịch lý, phi lý trong truyện ngắn là nói tới
sự thật mâu thuẫn, phi lý, xung đột trong xã hội, nhà văn đã phản ánh thực trạng tồi
tệ của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
3.5.2.2.Tình huống ngẫu nhiên.
Truyện cười phải sử dụng cái ngẫu nhiên. Dùng cái ngẫu nhiên cho các yếu
tố được gặp nhau để hình thành nên cốt truyện.
Trong truyện (Đồng hào có ma) thì chi tiết ngẫu nhiên này choa hành động
97
ăn cắp của quan, từ đó bật ra tiếng cười và chủ đề truyện.
Để lôi cuốn sự chú ý của độc giả, nhà văn để cho nhân vật Samandji ngẫu
nhiên nói câu “Anh không tốt” với nhân vật “Tôi”. Câu nói này lại đánh trúng vào
hoàn cảnh “bi đát” của nhân vật “Tôi”. Người đọc chăm chú theo dõi, cuối cùng té
ra sự hiểu lầm “của tôi” và của độc giả (Samadji). Một việc tày đình tưởng xảy ra
mà lại không xảy ra, vì nhân vật …ngớ ngẩn!
Anh phu xe ngẫu nhiên gặp cô gái điếm. Nếu là gặp người khác thì không có
chuyện (Người ngựa và ngựa người). Sự hiểu lầm ở đây tăng thêm chất bi hài kịch
cho số phận mỗi người.
Bác phó lý ngẫu nhiên trúng xổ số, và phải bác phó lý trúng xổ số thì tính
cách đểu giả của quan cũng như cái vận hạn mới được bộc lộ rõ, bởi vì bác nghèo,
lại thuộc hạ quan(Cái nạn ô tô). Được xe tưởng là sướng hóa ra khốn nạn. Nhân vật
“tôi” được chứng kiến Trinh nói gì trúng nấy (Ngẫu nhiên). Đi tìm bắt kẻ giết người,
ngẫu nhiên gặp cái lò gạch trong có người (Cái lò gạch bí mật). Thật là chó ngáp
phải ruồi.
Nếu “tôi” gặp người nhà ông chủ, người này nói luôn là “mèo đẻ” thì không
có truyện. Người viết truyện phải sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên. Một người nói cộc
lốc: “Ồ! Thôi!”. Một người nói: “Đi nhà thương. Đương gắt như mắm đấy!”. Một
người nói “Đẻ”. Một người nói: “Bông, băng, cồn”…Những chi tiết ngẫu nhiên
kéo độc giả đi theo mạch nghi ngờ của “Tôi”. Cả nhân vật trong truyện, cả độc giả
đều phán đoán (Lại chuyện con mèo), thì ra chuyện con mèo đẻ mà ông chủ làm
rùm beng như chuyện con người.
3.5.2.3.Tình huống nhân vật dùng mẹo.
Đây là những tình huống do nhân vật tạo dựng ra bằng cách dùng mẹo, lập
mưu vì một mục đích đê tiện để lừa dối, chuộc lợi. Người lập mưu thì đê tiện, còn
kẻ mắc mưu thì đáng thương.
Ông Phán muốn đuổi cậu nên mới lập mẹo mất cái ví (Mất cái ví). Cụ Chánh
Bá muốn có đôi giày mới nên cùng thằng đầy tớ lập mẹo mất giày(Cụ Chánh Bá mấ
giày). Cụ lớn tuần lập mưu nhờ bà Chánh đong thóc hộ để chuộc lợi 500 đồng
(Hé!Hé! Hé!). Một ông quan vì vô trách nhiệm để vỡ đê nhưng khôn khéo lập mưu
98
“tự tử” để tránh tội. Kết quả không những thoát tội mà được tiếng là thương dân
(Tôi tự tử). Một vị quan ra lệnh cấm chợ rồi quên. Dân tình khổ sở điêu đứng. Quan
nghĩ ra cách “làm ra cách khó khăn, đổ lệnh cho trên và mình làm ơn cố xin hộ để
được tiếng là nhân quan” (Cấm chợ). vì nhầm lẫn đám chọi gà là “biểu tình”, để
tránh lỗi với quan trên ông huyện phải tạo ra biểu tình giả bằng cách cho lính đón
lõng hai đầu làng, dồn người vào giữa làng (Biểu tình).
Nhìn chung, nhờ việc xây dựng các tình huống truyện khéo léo, giàu kịch
tính, xung đột, phi lý, ngẫu nhiên…Nguyễn Công Hoan đã tạo ra tiếng cười trào
phúng rất hiệu quả.
TIỂU KẾT CHƢƠNNG 3
Ở mỗi chặng đường sáng tác của Nguyễn Công Hoan, chúng ta nhận thấy rõ
nét của sự vận động về quan điểm nghệ thuật sáng tác của nhà văn. Từ lí tưởng
thẩm mĩ đến hệ thống chủ đề, đề tài, ngôn ngữ cho đến hình tượng nhân vật trung
tâm đều có sự vận động dịch chuyển từ quan điểm cầm bút của một nhà nho vận
động đến cái nhìn hiện thực mang đậm phong cách phương Tây. Nhưng có một điều
là ở Nguyễn Công Hoan không có sự phân chia rạch ròi giữa trào phúng và hiện
thực. Mỗi tác phẩm đều được đan quyện bởi hai bút pháp nói trên. Điều này là đặc
trưng riêng của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam. Hầu hết các
nhà văn hiện thực chủ nghĩa đều mang dấu ấn trào phúng. tuy nhiên, mức độ đậm
nhạt ở mỗi tác giả khác nhau. Nguyễn Công Hoan là “Người khai sơn, phá thạch
cho truyện ngắn trào phúng”, đồng thời cũng là người mở đầu cho chủ nghĩa hiện
thực phê phán, là người “thuộc về cái triều lưu nghệ thuật vị nhân sinh ở nước ta”
(Hải Triều).
Tác phẩm của ông phản ánh cuộc sống đa chiều, đa diện. Ông dựng
lên một thế giới bị lộn trái bằng ngòi bút trào phúng kết hợp với hiện thực. Nguyễn
Công Hoan thựcsự là một nhà văn tiêu biểu cho giai đoạn văn học giao thời từ
99
truyền thống đến hiện đại.
PHẦN KẾT LUẬN
Sự vận động của văn học Việt nam từ truyền thống đến hiện đại, trải qua
những biến cố thăng trầm của lịch sử. Và qua mỗi chặng đường lịch sử ấy sáng tác
của nhà văn Nguyễn Công Hoan thể hiện quá trình nhận thức của ông về cuộc sống.
Sự nghiệp sáng tác trước cách mạng tháng Tám của nhà văn, thực sự đã chứng minh
cho sự vân động của văn học Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại.
Cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm lược của thực dân Pháp kéo theo sự thay đổi
trong đời sống xã hội, sự thay đổi trong văn chương. Văn học trào phúng ra đời đem
theo luồng sinh khí mới cho văn học. Lấy hiện thực làm đối tượng phản ánh, văn
chương trào phúng mở ra một thừi đại mới, tạo tiền đề cho sự ra đời trào lưu hiện
thực phê phán 1930 1945.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học việt Nam ra đời hoàn toàn tuân
theo quy luật của chủ nghĩa hiện thực phê phán trên thế giới mà trước hết tuân thủ
quy luật vận động của xã hội Việt Nam và quán tính lịch sử của văn học dân tộc. Đó
là sự tiếp nối truyền thống văn học trong quá khứ, mà chủ yếu là dòng văn học trào
phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Trong toàn bộ những chương trên, chúng tôi đã trình bày những nguồn ảnh
hưởng tới phong cách sáng tác Nguyễn Công Hoan đến sự vận động từ dòng văn
học trào phúng sang trào lưu hiện thực phê phán 1930 – 1945 thông qua sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng.
Bước vào nền văn học hiện đại, dấu ấn truyền thống in đậm trong sáng tác
của các nhà văn hiện thực phê phán thời kì đầu. Nguyễn Công Hoan là người thể
hiện rõ nhất sự ảnh hưởng ấy. Sáng tác của nhà văn là sự minh chứng cho quy luật
vận động của văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
Nguyễn Công Hoan được đánh giá là người viết truyện ngắn trào phúng
thành công nhất đầu thế kỉ XX, đồng thời, ông cũng được coi là người đặt những
viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.
Mỗi một chặng đường sáng tác của Nguyễn Công Hoan thể hiện sự vận động
của văn học nói chung, đồng thời thể hiện quá trình chuyển biến trong tư tưởng của
100
nhà văn nói riêng. Tiếp thu kinh nghiệm và thủ pháp nghệ thuật của văn chương
trào phúng, Nguyễn Công Hoan nhìn cuộc đời qua lăng kính của cái hài. Ông phơi
bày mặt trái của xã hội thực dân bằng nhiều cung bậc khác nhau của tiếng cười.
Trong quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Công Hoan có sự
đan xen, hòa quyện giữa cái hài và cái thực. Ông đến với hiện thực bằng cảm hứng
trào phúng. Sự kết tinh nhuần nhuyễn này thể hiện khá thành công trong việc tạo
dựng hình tượng nhân vật trung tâm trong sáng tác của nhà văn trước cách mạng.
Nhiều nhân vật mang tính khái quát cho một lớp người cụ thể trong xã hội thực dân
nửa phong kiến.
Nguyễn Công Hoan là tác giả tiêu biểu cho giai đoạn giao thời của văn học.
Sáng tác của ông thể hiện rõ sự vận động trong quan niêm nghệ thuật của nhà văn
- từ dòng văn học trào phúng đến văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.
Từ truyền thống đến hiện đại, văn học Việt Nam đã trải qua trải qua một quá
trình vận động đầy khó khăn. Điều đó thể hiện một nỗ lực không mệt mỏi của nhà
văn trong trong quá trình tiếp cận hiện thực để sáng tạo nghệ thuật.
Trước Nguyễn Công Hoan, một Tản Đà sâu sắc và tài hoa đã mạnh dạn thử
bút ở mọi thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn và đã góp phần đẩy văn chương vào
quỹ đạo hiện đại. “Nhưng dù cái bóng của Tản Đà đã ít nhiều đỏ qua ranh giới
hiện đại thì bước chân ông vẫn còn dừng lại trước lằn ranh khắc nghiệt của thời
đại” (Vũ Anh Tuấn). Cuối cùng, ông chỉ đóng vai người “dạo những bản đàn mở
đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa” (Hoài Thanh).
Cùng với Nguyễn Công Hoan, người được xem là bước chuyển giữa truyền
thống và hiện đại có Ngô tất Tố - một điển hình đẹp và sáng của mẫu hình văn hóa,
văn học ở chặng đường chuyển tiếp từ truyền thống sang hiện đại. Là một cây bút
chịu ảnh hưởng sâu sác của Nho giáo, nhưng Ngô Tất Tố đã chuyển mình một cách
mạnh mẽ trong môi trường văn chương báo chí những năm đầu thế kỉ XX, chặng
đang hoàn tất của quá trình hiện đại hóa.
Với việc nghiên cứu sự chuyển biến trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
trước cách mạng tháng Tám, mục tiêu của luận văn nhằm vạch ra những “bằng
101
chứng” sự vận động đúng quy luật của văn học sử ở một bộ phận văn học mà từ
trước tới nay giới nghiên cứu chưa quan tâm nhiều lắm nhưng theo chúng tôi là
quan trọng.
Chúng tôi hi vọng luận văn sẽ mở ra hướng nghiên cứu tiếp tục cho các tác
giả giai đoạn giao thời, để bạn đọc cảm nhận được sâu sắc quá trình vận động của
102
văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh(2004), Từ điển Hán Việt, NXB Khoa học xã hội Hà Nội.
2. Bakhtin.M(1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, người dịch Phạm Vĩnh Cư,
Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
3. Borep. IU (1964), Những phạm trù mỹ học cơ bản, NXB chính trị Matxcơva.
4. Trương Chính, Phong Châu (2004), Tiếng cười dân gian Việt Nam, NXB khoa
học chính trị, Hà Nội.
5. Xuân Diệu (1979),Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học Hà Nội.
6. Đỗ Đức Dục (1971), “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học (số 4), tr 5 – 8.
7. Đỗ Đức Dục (1982), “Trở lại vấn đề xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 1), tr 3 – 6.
8. Đỗ Đức Dục (1964), “Tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực phê phán”, Tạp chí văn học
( số 2), tr 11 – 16.
9. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam,
NXB khoa học xã hội.
10. Phan Cự Đệ(2000) Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo Dục Việt Nam.
11. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu (2000), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB
Giáo Dục Việt Nam.
12. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo Dục Việt Nam.
13. Phan Cự Đệ (2000), tuyển tập (1,3) NXB Giáo Dục Việt Nam.
14. Học Đình (1935) Phê bình Kép Tư Bền, NXB Văn học.
15. Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang (2000), Lý luận văn học, NXB Giáo dục Việt
Nam.
16. Guranich.U (1962), cái cười vũ khí người mạnh, NXB văn học.
17. Lê Bá Hán, Phương Lựu (1980), Cơ sở lý luận văn học (tập 1) NXB Đại học và
THCN.
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học
103
Quốc gia.
19. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, NXB
Khoa học xã hội.
20. Lê Thị Đức Hạnh (1970), “Ảnh hưởng của Đảng đối với sáng tác của Nguyễn
Công Hoan trước cách mạng”, Tạp chí văn học (số 6), tr 15 – 19.
21. Lê Thị Đức Hạnh(2002), Nguyễn Công Hoan tác gia, tác phẩm, NXB Giáo duc
Việt Nam.
22. Heghe (1999), Mỹ học (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội.
23. Đỗ Đức Hiển (1982), Từ điển văn học, NXB Thế giới.
24. Trần Văn Hiếu(2000), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam
(1930 – 1945) Nguyễn Công Hoan – Vũ Trọng Phụng – Nam Cao, NXB Văn
học Hà Nội.
25. Nguyễn Công Hoan(1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn học.
26. Nguyễn Công Hoan (1957 – 1958), Truyện ngắn chọn lọc (tập 1,2), NXB Hội
nhà văn.
27. Nguyễn Công Hoan (1973 -1974), Truyện ngắn chọn loc (tập 1,2), NXB Văn
học Hà Nội.
28. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học Hà Nội.
29. Nguyễn Công Hoan (1998), Nhớ gì ghi nấy, NXB Hội nhà văn.
30. Nguyễn Văn Huyền (1992), Nguyễn Khuyến tác phẩm, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh.
31. Mai Hương (2000), Tú Xương, Thơ, lời bình và giai thoại, NXB văn hóa thông
tin Hà Nội.
32. Trần Đình Hượu(1995), Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại, NXB
văn hóa thông tin Hà Nội.
33. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hóa Thông
tin Hà Nội.
34. Trần Đình Hượu – Lê Trí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930, NXB Đại học và THCN, Hà Nội.
104
35. Konrat. N (1992), Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục Việt Nam.
36. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, NXB
khoa học.
37. Vũ Ngọc Khánh (2003), Thơ văn trào phúng Việt Nam, NXB văn học thế giới.
38. Vũ Ngọc Khánh (1996), Hành trình vào xứ sở cười, NXB Giáo dục Việt Nam.
39. Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại – Lịch sử và lý luận, NXB khoa
học xã hội.
40. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1988), Lý luận văn học (tập 3), NXB Giáo
dục Việt Nam.
41. Trần Thanh Mại toàn tập (tập 2), Thời và thơ Tú Xương, NXB văn hóa.
42. Lê Minh (1991), Nguyễn Công Hoan toàn tập (tập 1,2,3,4,5), NXB Văn học.
43. Lê Minh (1992), Chân dung văn học, Trường viết văn Nguyễn Du Hà Nội.
44. Lê Minh (2003), Nguyễn Công Hoan với nghề văn, NXb Thanh Niên.
45. Lê Minh (1993), Nguyễn Công Hoan nhà văn hiện thực lớn, NXB Hội nhà Văn.
46. Petơrốp (1980), Chủ nghĩa hiện thực phê phán, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp.
47. Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
48. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam
1930 – 1945, NXB Văn học.
49. Nguyễn Thanh Sơn (2000) “An Nam tạp chí và những truyện ngắn xã hội ba
đào ký”, Tạp chí văn học (số 2), tr 08 - 12.
50. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào phúng
Nguyễn Công Hoan, NXB Đại học Quốc gia.
51. Văn Tân (1958), Văn học trào phúng Việt Nam, NXB sử địa Hà Nội.
52. Timofeep (1962), Nguyên lý lý luận văn học (tập 2), NXB Văn hóa.
53. Phạm Xuân Thạch (2014), Sự khởi sinh của tính hiện đại – Trần thuật việt Nam
trong ba thập niên đầu thế kỉ XX, NXB Giáo Dục Việt Nam.
54. Bùi Việt Thắng (1997), “Nguyễn Công Hoan văn và đời” trong các nhà văn
được giải thưởng HCM, NXB Hội nhà văn.
55. Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
105
NXB Giáo Dục Việt Nam.
56. Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học Nhà Nho tài tử và văn
học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia.
57. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
NXB Đại học Quốc gia.
58. Trần Ngọc Vương – Trần Hải Yến – Phạm Xuân Thạch (2010), Giáo trình văn
học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX, NXB Đại học Quốc gia Hà nội.
59. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các góc độ chữ, NXB Tri thức.
106
60. Xuskop.B (1982), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, NXB tác phẩm mới.