®¹i häc quèc gia Hµ Néi

Tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n

ĐỖ THỊ HUYỀN

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

TRONG THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

Hà Nội – 2014

1

®¹i häc quèc gia Hµ Néi Tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n

ĐỖ THỊ HUYỀN

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

TRONG THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

MÃ SỐ: 60 22 01 21

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS TRẦN HẢI YẾN

Hà Nội – 2014

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Mọi ý tƣởng hay câu chữ của ngƣời khác nếu đƣợc sử dụng lại đều có chú thích cụ thể, rõ ràng.

Nếu có bất cứ vấn đề gì liên quan đến bản quyền xảy ra, tôi sẽ chịu trách

nhiệm hoàn toàn trƣớc pháp luật.

3

Đỗ Thị Huyền

LỜI CẢM ƠN

Xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Trần Hải Yến – ngƣời đã hết long

chỉ bảo, hƣớng dẫn em hoàn thành luận văn này.

Cảm ơn gia đình và những ngƣời bạn đã ở bên tôi những năm tháng nhọc

nhằn nhƣng dấu yêu này.

4

Đỗ Thị Huyền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 7

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 7

2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ củ a Nguyễn Đình Chiểu ........................... 8

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 13

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 13

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 13

6. Đó ng gó p củ a luâ ̣n văn ................................................................................ 14

7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 14

NỘI DUNG ............................................................................................................. 15

Chƣơng 1. KHUNG CẢNH VĂN HÓA, VĂN CHƢƠNG VÙNG ĐẤT MỚI

PHƢƠNG NAM THẾ KỶ XIX ............................................................................ 15

1.1. Vùng đất mới - khảo sát từ văn hóa cộng đồng cƣ dân ........................ 15

1.1.1. Cộng đồng dân cư ở Nam Kỳ ............................................................. 15

1.1.2. Đời sống của người dân Nam Kỳ ....................................................... 17

1.2. Những nội dung và hình thức chính của văn chƣơng của Nguyễn Đình

Chiểu.................................................................................................................... 25

1.2.1. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu .............................................................. 25

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu .................................... 26

Tiểu kết: ............................................................................................................... 29

Chƣơng 2. NHỮNG CÂU CHUYỆN BẰNG THƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH

CHIỂU .................................................................................................................... 30

2.1. Những câu chuyện của Nguyễn Đình Chiểu .......................................... 32

2.1.1. Câu chuyện tình yêu ........................................................................... 35

5

2.1.2. Chủ đề đạo nghĩa ................................................................................ 40

2.2. Các hình thức kể chuyện của Nguyễn Đình Chiểu ............................... 47

2.2.1. Phương thức kiến tạo cốt truyện ....................................................... 47

2.2.2. Xây dựng nhân vật .............................................................................. 50

2.2.3. Cách dẫn dắt chuyện .......................................................................... 53

2.2.4. Thế giới biểu tượng ............................................................................ 56

Tiểu kết: ............................................................................................................... 58

Chƣơng 3. CHUYỆN KỂ CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỀU TRONG GIAI

ĐOẠN HẬU KỲ TRUYỆN THƠ NÔM .............................................................. 59

3.1. Các hình thức kể chuyện ở vùng đấ t mớ i ................................................. 59

3.1.1. Kể chuyện bằng văn vần ........................................................................ 59

3.1.2. Kể chuyện bằng văn xuôi ...................................................................... 60

3.1.3. Kể chuyện bằng nghệ thuật trình diễn ................................................. 61

3.2. Những con đƣờng lƣu truyền truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu ....... 62

3.2.1. Các hình thức định bản hay công chúng đọc truyện thơ Nguyễn Đình

Chiểu................................................................................................................. 62

3.2.2. Các phiên bản nghệ thuật trình diễn hay công chúng nghe nhìn

“chuyện kể” của Nguyễn Đình Chiểu ............................................................ 69

Tiểu kết: ............................................................................................................... 77

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 79

6

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 81

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Truyện thơ Nôm là một trong những hình thức kể chuyện độc đáo của văn

học Việt Nam thời trung đại. Mở đầu với tác giả Nguyễn Hữu Hào (?-1713), thể

loại này đƣợc coi là kết thúc với Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888). Với ba truyện

Nôm Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca hay

còn đƣợc gọi là Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Nguyễn Đình Chiểu đƣơ ̣c coi là ngƣ ời

viết truyện Nôm quan trọng cuối cùng trƣớc khi lịch sử chuyển sang thời cận hiện

đại và văn tự dân tộc đƣợc thay thế bằng chữ quốc ngữ Latin hóa. Nói cách khác,

Nguyễn Đình Chiểu đã đem l ại những giá trị riêng cho thể loại này. Và bên c ạnh

việc kế thừa các yếu tố ổn định của thể loại, Nguyễn Đình Chiểu còn mang đến cho nó nhƣ̃ng nét mớ i.

Trƣớ c Nguyễn Đình Chiểu , truyê ̣n Nôm đã là mô ̣t hình thƣ́ c đi ̣nh hình cả về

nô ̣i dung và hình thƣ́ c ở Đàng ngoài , vớ i thành tƣ̣u đỉnh cao là Truyê ̣n Kiều. Đến Nguyễn Đình Chiểu lối kể chuyê ̣n bằng thơ chuyển vào mô ̣t đi ̣a bàn mớ i , mở rô ̣ng sƣ̣ lƣu truyền thể loa ̣i cả trong không gian và thờ i gian . Mă ̣t khác, việc một tác giả có hoàn cảnh đặc biệt: bị mù cả hai mắt mà có tới ba truyện thơ dài khiến độc giả

có thể nghĩ đến một hứng thú với hình thức này. Vậy sự lựa chọn, đeo đẳng đó có

quan hệ gì với hoàn cảnh xã hội khi đó, với không gian văn hóa mà nó đƣợc sinh

ra? Thông qua ba tác phẩm truyện thơ Nôm của ông, chúng tôi muốn đi tìm cách

trả lời cho câu hỏi trên.

Trong ba truyện thơ Nôm do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác, cho đến nay hầu

hết độc giả cũng nhƣ giới nghiên cứu thƣờng quan tâm chủ yếu đến Lục Vân Tiên

còn Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca mới chỉ đƣợc giới

thiệu về văn bản của tác phẩm cũng nhƣ hoàn cảnh ra đời chứ chƣa đi sâu vào tác

phẩm, trong khi thƣ̣c tế vấn đề đƣơ ̣c tác giả quan tâm ở ba câu chuyê ̣n là không

7

hoàn toàn nhƣ nhất . Vì vậy, với đề tài Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện

Nôm này, chúng tôi sẽ khảo sát cả “thế giới” truy ện Nôm củ a Nguyễn Đình Chiểu, để tìm hiểu ông muốn đem la ̣i nhƣ̃ng khả năng gì cho hình thƣ́ c thể loa ̣i này.

2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu

Kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng trong

bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, đã viết: “Trên

trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải

chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng” [60, tr.9]. Nguyễn

Đình Chiểu là tác giả lớn của nền văn học Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói

riêng. Trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ, Nguyễn Đình Chiểu viết Lục

Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, hai tác phẩm này đã đƣợc đông đảo quần chúng

đón nhận, đặc biệt là Lục Vân Tiên. Sau khi Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ, Nguyễn Đình

Chiểu đƣợc biết đến là một tác giả đứng đầu trong văn học yêu nƣớc với thể loại

văn tế. Cho đến nay, có thể coi cuốn Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm

(2003) do Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn là một công trình tổng hợp khá đầy đủ

những bài viết, những bài phê bình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu. Đặc biệt,

trong phần thứ II, tác giả đã tập hợp tƣơng đối đầy đủ những bài viết của các nhà

nghiên cứu, phê bình về các truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và

Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca. Phần viết củ a chú ng tôi sẽ dƣ̣a c hủ yếu trên công

trình mang tính tƣ liệu này.

- Về tác phẩm Lục Vân Tiên

Về nguồn gốc của tác phẩn Lục Vân Tiên, có hai luồng ý kiến trái chiều. Một

số nhà nghiên cứu cho rằng, Lục Vân Tiên đƣợc Nguyễn Đình Chiểu sáng tác dựa

vào một cốt truyện có sẵn, và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng tác phẩm là

do chính Nguyễn Đình Chiểu sáng tác. Ba nhà nghiên cứu tiêu biểu cho hai luồng

ý kiến đó là: Nhà nghiên cứu Dƣơng Quảng Hàm trong bài viết “Lục Vân

Tiên”của Nguyễn Đình Chiểu (1941) cho rằng: “Nhân đọc một cuốn tiểu thuyết

nhan là “Tây minh” (trước đèn đọc truyện Tây minh L.V.T.c.1) thấy vai chính

trong truyện là Lục Vân Tiên gặp cảnh ngộ thảm thương tựa thân thế mình, bèn

8

theo đấy mà thảo ra bản truyện Nôm” [50, tr.359]. Tuy đƣa ra nhận định đó, nhƣng

trong bài viết, Dƣơng Quảng Hàm chƣa đƣa ra đƣợc cuốn tiểu thuyết có tên Tây

minh của Trung Quốc. 22 năm sau, Trần Nghĩa viết bài Thử bàn về nguồn gốc

truyện “Lục Vân Tiên” (1963) đã đƣa ra những lập luận khoa học để giải thích

nguyên nhân và trình bày nguồn gốc của chữ “Tây minh” mà Nguyễn Đình Chiểu

đã sử dụng. Tác giả viết: “Tây minh trước hết không phải là một “cuốn truyện”

hay một cuốn “tiểu thuyết”. Tây minh rõ ràng là một cuốn sách thuộc phạm trù

đạo đức, triết học” [50, tr.363]. Năm 1978, Nguyễn Thạch Giang viết Nguyễn Đình

Chiểu – Thân thế và sự nghiệp đã chỉ ra Tây minh là một thiên trong cuốn Tính lý

tiết yếu của Trƣơng Tái. Trong Tây minh, Trƣờng Tái bàn về đạo lý, đặc biệt nhắc

đến “đồng bào”. Trƣơng Tái quan niệm rằng, đồng bào là những ngƣời sinh ra

trong cùng một bọc nên phải yêu thƣơng nhau, con ngƣời phải hiếu thảo với cha

mẹ, thuận hòa với anh em, bà con làng xóm. Với việc chỉ ra nguồn gốc và nội dung

của Tây minh, Nguyễn Thạch Giang viết: “Tư tưởng về “đồng bào” đó của Trương

Tái rất phù hợp với tư tưởng nhân nghĩa truyền thống của dân gắn với đức tính

truyền thống của Gia Định mà Nguyễn Đình Chiểu hấp thu được. Cho nên khi

sáng tác Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã thấm thía về tình nghĩa đối với dân,

đối với đồng bào. Do đó mà tác giả Lục Vân Tiên khi mở đầu tập thơ của mình đã

lấy Tây minh làm chuẩn mực triết lý – đạo đức” [50, tr.51]. Tác giả còn khẳng

định: “Ngoài Lục Vân Tiên ra, triết lý Tây minh còn ảnh hưởng đến Dương Từ -

Hà Mậu, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca và toàn bộ thơ, văn tế của ông” [50,

tr.51].

Nguyễn Tha ̣ch Theo chúng tôi, những tƣ liê ̣u và lâ ̣p luâ ̣n củ a Trần Nghĩa và

Giang là những căn cứ đủ thuyết phục để khẳng đi ̣nh Lục Vân Tiên là tác phẩm do

Nguyễn Đình Chiểu sáng tác.

Bàn về nô ̣i dung, tƣ tƣởng củ a tác phẩm, các nhà nghiên cứu tập trung vào tác phẩm Lục Vân Tiên ở góc độ xây dựng hệ thống nhân vật chính diện và phản diện

để giải thích vì sao tác phẩm lại đƣợc mến mộ, đặc biệt là nhân dân Nam Kỳ. Phạm

Văn Đồng với bài viết Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc

(1963) đã nhận định về tác phẩm Lục Vân Tiên nhƣ sau: “Đây là một bản trường

9

ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người

trung nghĩa” [60, tr.26]. Cũng trong năm đó Hoài Thanh viết Nguyễn Đình Chiểu,

một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt

Nam, tác giả cũng khẳng định: “Nhưng trong Lục Vân Tiên, không phải chỉ có

tiếng chửi, Lục Vân Tiên còn là lời ca, ca ngợi những con người hay thương người,

biết quên mình vì nghĩa” [60, tr.24]. Trần Văn Giàu trong Vì sao tôi thích đọc

Nguyễn Đình Chiểu (1963) viết: “Xét kỹ Lục Vân Tiên, chủ yếu không phải là

chuyện trung hiếu tiết hạnh, mà chủ yếu là chuyện nhân nghĩa, còn trung hiếu tiết

hạnh ở đây lại phụ thuộc vào nhân nghĩa…” [60, tr.55]. Nguyễn Thạch Giang

trong bài Nguyễn Đình Chiểu, thân thế và sự nghiệp (1998) đƣa ra nhận xét về tác

phẩm Lục Vân Tiên dƣới góc nhìn của tƣ tƣởng nhân nghĩa: “Những con người tốt

trong Lục Vân Tiên kế tục những truyền thống cao quý của dân tộc về nhân nghĩa,

đó là những con người trong sạch, bình thường, làm việc nghĩa như một nhu cầu

mà không hề nghĩ đến nợi danh, ân huệ” [50, tr.40].

Nhìn nhận Lục Vân Tiên dƣới góc nhìn văn hóa, văn học, các nhà nghiên cứu

cho rằng, truyện Lục Vân Tiên chịu ảnh hƣởng rất nhiều tƣ̀ văn hóa , văn học dân gian. Nguyễn Quang Vinh trong Truyện thơ “Lục Vân Tiên” với văn hóa dân gian

(1972), đã kh ẳng định: “Lục Vân Tiên để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa nghệ

thuật dân gian như kể vè, hò hát, diễn tích, trong tư duy hình tượng, trong tâm lý,

trong khẩu ngữ và trong cả hành vi đạo đức của nhân dân nữa” [50, tr.369]. Ca

Văn Thỉnh khi viết Truyền thống quật cường của Nam Bộ và Việt Nam với tinh

thần đấu tranh của Nguyễn Đình Chiểu (1972) nhấn mạnh: “Thơ Lục Vân Tiên

mang tính chất dân gian rõ rệt” [50, tr.159]. Cùng năm 1972, Cao Huy Đỉnh với

Đồ Chiểu với sự chuyển mình của văn hóa dân tộc viết: “Lục Vân Tiên kết tinh

Đạo Người vốn là của nhân dân, nên ngày càng bén rễ trong nhân dân và biến hóa

ra nhiều hình thức sinh hoạt dân gian phong phú” [50, tr.190]. Đặng Văn Lung

với Nguyễn Đình Chiểu và văn học dân gian (1982), đã khai thác chất dân gian

trong cốt truyện của ba tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và

Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Tác giả cho rằng: “Cốt truyện và nhân vật của Nguyễn

Đình Chiểu còn ở dạng mô hình (Mô típ văn học dân gian) hơn là những kết cấu

10

văn học, hình tượng văn học hoàn chỉnh” [50, tr.445]. Lâm Vinh trong Truyện

“Lục Vân Tiên” và vấn đề mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ (1982), bàn về

Lục Vân Tiên với quan hệ văn hóa dân gian: “Đây là một câu chuyện kể mang đậm

màu sắc dân gian đã được đồng bào miền Nam tiếp nhận hết sức nồng nhiệt và

ngay từ đầu đã được lưu truyền nhanh chóng, rộng khắp” [50, tr.382]. Ngô Huy

Khánh với Nguyễn Đình Chiểu, nhà văn hóa lớn (1998) đã viết: “Trong một thời

gian khá dài từ đầu thế kỷ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã trở thành một

nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình nói thơ, hò vè,…” [50, tr.319].

Nghiên cứu về ngôn ngữ, sự phổ biến của truyện Lục Vân Tiên, các tác giả

Trần Văn Giàu, Nguyễn Lộc có chung ý kiến với Hoài Thanh trong bài Nguyễn

Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân

tộc Việt Nam (1963): “Lục Vân Tiên là một loại truyện kể. Về lời thì còn có chỗ

vụng về, về tình tiết có chỗ không chặt, về nhân vật có khi chưa thật sự có một đời

sống riêng. Mặc dầu vậy, nhân vật ấy đã trở nên rất sống trong lòng quần chúng”

[50, tr.86].

- Về Dương Từ - Hà Mậu

Không đƣợc phổ biến rộng rãi nhƣ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu đƣợc

biết đến nhờ vào các công trình giới thiệu tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.

Trong cuốn Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1 và Nguyễn Đình Chiểu về tác gia

và tác phẩm, cũng nhƣ một số công trình nghiên cứu khác của các tác giả nhƣ

Nguyễn Lộc, Trần Đình Hƣợu,… tác phẩm đƣợc giới thiệu hoàn cảnh sáng tác, nội

dung chính và văn bản tác phẩm. Nguyễn Văn Hoàn, trong bài Từ “Lục Vân Tiên” đến “Dương Từ - Hà Mậu” (1972), chú ý đến sƣ̣ phát tri ển tƣ tƣởng của Nguyễn

Đình Chiểu từ khi viết Lục Vân Tiên đến Dương Từ - Hà Mậu: “Được sáng tác

tiếp sau Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu cùng với Lục Vân Tiên là những tiếng

nói kêu gọi bảo vệ đạo lý Khổng – Mạnh, thực chất là bảo vệ đạo đức, bảo vệ

chính nghĩa…” [50, tr.424].

- Về Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca

Năm 1963, Bùi Thanh Ba trong Qua “Ngư Tiều vấn đáp”, tìm hiểu thế giới

11

quan Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu nội dung tác phẩm và tập trung lý giải quan

niệm thế giới quan của Nguyễn Đình Chiểu. Tác giả cho rằng: “Viết Ngư Tiều vấn

đáp, Nguyễn Đình Chiểu đã để lộ một thế giới quan tiến bộ mà chúng ta không thể

tìm thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với ông. Theo quan niệm của ông, trong vũ

trụ có hai luồng hơi vận chuyển: hơi chính và hơi tà” [50, tr.416]. Vớ i mối quan tâm riêng về y ho ̣c , Lê Trần Đức khi biên soạn cuốn Nguyễn Đình Chiểu với Ngư

Tiều vấn đáp y thuật đƣợc nhà xuất bản Y học ấn hành năm 1983 đã đặc biệt chú

trọng đến nội dung y thuật của tác phẩm. Cũng nhƣ Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều

vấn đáp nho y diễn ca cũng chỉ đƣợc giới thiệu trong một số cuốn tuyển tập những

sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

Có thể thấy , những bài viết, công trình nghiên cứu về truyện thơ Nguyễn

Đình Chiểu thƣờng chỉ tập trung vào Lục Vân Tiên mà ít quan tâm t ới hai truyê ̣n

thơ còn la ̣i.

 Nghiên cứu chung về truyện thơ Nguyễn Đình Chiểu

Nghiên cứu về ngôn ngữ của truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu phải kể đến

các công trình của các tác giả nhƣ: Đào Thản – Nguyễn Thế Lịch trong Chữ “dân”

và chữ “nước” trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (1982) tập trung vào thống kê,

phân tính tần su ất cũng nhƣ cách sử dụng chữ “dân” và chữ “Nƣớc”. Tác giả nhận

định: “Cái đẹp của ngôn từ trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu …, mộc mạc và bình

dị, chân thực và hồn nhiên lạ thường. Đặc điểm này quán xuyến toàn bộ văn thơ

Nguyễn Đình Chiểu từ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn

đáp đến những bài văn thơ yêu nước” [50, tr.545]. Hoàng Tuệ, Phạm Văn Hảo, Lê

Văn Tƣờng trong Tiếng địa phương miền Nam trong tác phẩm của Nguyễn Đình

Chiểu (1984), Nguyễn Phong Nam trong Hình tượng thời gian trong các truyện

thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu (1992), đã nhận định: “Điều đáng chú ý đầu tiên

khi xét hình tượng thời gian trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu là chỗ rất ít khi ta

thấy nhà văn để cho nhân vật có điều kiện cảm nhận về thời gian” [50, tr.448];

“Nhìn chung, thời gian trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu là thời gian có

tính chất phiếm định” [50, tr.453]. Năm 1998, Trần Đình Hƣợu đã có bài viết Bàn

về Nguyễn Đình Chiểu – người nghệ sĩ từ và trong truyện Nôm. Trong bài viết này,

12

tác giả cho rằng Nguyễn Đình Chiểu hứng thú với thể loại truyện Nôm vì đó là

hình thức rất gần gũi, quen thuộc để gửi gắm tâm sự, ƣớc mơ, cách nhìn, quan

niệm về cuộc đời. Và nó thuận tiện cho nhu cầu nghe kể, diễn xƣớng để có thể

truyền bá rộng rãi trong nhân dân. Nhận định này tuy chỉ mới mang tính định đề

nhƣng lại có giá trị gợi dẫn quan trọng cho chúng tôi đi sâu tìm hiểu.

3. Mục đích nghiên cứu

Tiến hành tìm hiểu đề tài Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện Nôm,

chúng tôi sẽ làm rõ hơn đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện

Nôm đồng thời tìm hiểu nét riêng c ủa truyện thơ ở vùng đất mới, trong giai đoạn sau chót của hình thức văn học trung đại, qua ba tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu dƣới góc nhìn

thể loại.

Phạm vi tƣ liệu: Đề tài tập trung tìm hiểu thể loại truyện Nôm với ba truyện

thơ Nguyễn Đình Chiều. Đó là: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều

vấn đáp nho y diễn ca.

Phạm vi vấn đề: Luận văn không triển khai tìm hiểu từng tác phẩm cụ thể mà

tập trung vào nội dung, nghệ thuật và ý hƣớng của tác giả trong ba truyện Nôm

nhƣ một thể thức tiếp cận và phản ánh hiện thực. Bên canh đó, luận văn cũng chú ý

đến sự phổ biến đặc biệt của tác phẩm Lục Vân Tiên. Thông qua nghiên cứu tiếp

nhận, chúng tôi muốn làm rõ hơn ý nghĩa của hình thức văn chƣơng này.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luâ ̣n văn sẽ sƣ̉ du ̣ng cách tiếp câ ̣n văn ho ̣c sƣ̉ , kết hơ ̣p nghiên cứu loại hình

học thể loại để giải quyết những mục tiêu nghiên cƣ́ u đă ̣t ra.

Các phƣơng pháp tiếp cận nói trên sẽ đƣợc thể hiện bằng các thao tác cụ thể ,

13

nhƣ: thống kê , phân tích , so sánh để các vấn đề đƣơ ̣c sáng tỏ và có sƣ́ c thuyết phục.

6. Đó ng gó p củ a luâ ̣n văn

Trên cơ sở khả o sát truy ện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca về nô ̣i dung và phƣơng thức chuyển tải, luâ ̣n văn sẽ chỉ ra rằng Nguyễn Đình Chiểu viết truyê ̣n thơ vớ i nhƣ̃ng nô ̣i dung không giống ma ̣ch đi trƣớ c đó củ a thể loa ̣i (ông quan tâm đến luân thƣờ ng, đến đạo làm ngƣời, đến sự , thƣ̣c tiễn li ̣ch sƣ̉ lú c đó ). va cha ̣m củ a hê ̣ tƣ tƣở ng Nho giáo vớ i thƣ̣c tiễn xã hô ̣i Đồng thời, luâ ̣n văn cũng tìm cách lý giải : 1) Vì sao có sự chọn lựa đ ó ở Nguyễn

Đình Chiểu, bằng tiểu sƣ̉ tác giả , bằng thƣ̣c tế xã hô ̣i văn hóa văn chƣơng vù ng đất Nam Kỳ xung quanh thờ i điểm ông sáng tác truyê ̣n thơ ; 2) Cách viết truyện thơ nhƣ vâ ̣y có ý nghĩa gì trong li ̣ch sƣ̉ phát triển của thể loa ̣i.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung gồm

3 chƣơng:

Chương 1. Khung cảnh văn hóa, văn chương vùng đất mới phương Nam thế

kỷ XIX

Chương 2. Những câu chuyện bằng thơ của Nguyễn Đình Chiểu

Chương 3. Chuyện kể của Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn hậu kỳ truyện

14

thơ Nôm

NỘI DUNG

Chƣơng 1

KHUNG CẢNH VĂN HÓA, VĂN CHƢƠNG VÙNG ĐẤT MỚI

PHƢƠNG NAM THẾ KỶ XIX

1.1. Vùng đất mới - khảo sát từ văn hóa cộng đồng cƣ dân

1.1.1. Cộng đồng dân cư ở Nam Kỳ

Nam Kỳ đƣợc hình thành và phát triển trong thời kỳ diễn ra cuộc phân tranh

giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh nắm giữ quyền hành,

chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã mở rộng địa bàn vào Nam Kỳ để củng cố về tiềm

lực kinh tế và quân sự. Theo sử sách ghi lại, chúa Nguyễn chính thức xác lập về

mặt nhà nƣớc chủ quyền vào năm 1698. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh

Hoài Đức viết: “Mậu Dần Hiển Tông Hiếu minh hoàng đế thứ 8 (1698) (Lê Huy

Tông Chính Hòa năm thứ 19, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 37) mùa xuân, sai

Thống suất chưởng cơ là Lễ Thanh hầu họ Nguyễn kinh lược nước Cao Miên, lấy

đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt sứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng

dinh Trấn Biên” [6, tr.77]. Lúc này, dân lƣu tán từ Bố Chánh, Quảng Bình trở vào

đƣợc chiêu mộ đến sinh sống khai hoang. Lịch sử còn cho thấy, Gia Định xƣa có

ngƣời Cao Miên sống chung lẫn với lƣu dân của nƣớc ta. Chƣa hết, năm 1679,

Dƣơng Ngạn Địch và Trần Thắng Tài là hai tƣớng của Trung Hoa sống thời nhà

Minh không chịu làm tôi tớ nhà Thanh nên đã đƣa hơn 3000 quân lính và ngƣời

nhà đến Đà Nẵng xin hàng phục. Chúa Nguyễn cho nhóm di thần nhà Minh vào

Mỹ Tho và Đồng Nai khai hoang sinh sống. Năm 1680, Mạc Cửu, cũng giống nhƣ

15

Trần Thắng Tài và Dƣơng Ngạn Địch, không chịu theo nhà Thanh đã chiêu mộ dân

và sinh sống ở vùng Hà Tiên của nƣớc ta. Việc ngƣời Trung Hoa sinh sống ở đây

đã thúc đẩy buôn bán và Nam Kỳ dần hình thành xã hội thƣơng nghiệp.

Ngoài ra, với tài nguyên thiên nhiên phong phú, địa bàn thuận lợi cho việc

giao lƣu buôn bán với các nƣớc lân cận nên Nam Kỳ còn tiếp nhận một số cƣ dân ở

các nƣớc quanh khu vực đến buôn bán và định cƣ. Thêm vào đó, việc chúa Nguyễn

liên tục mở mang bờ cõi, đi xâm chiếm hoặc chiêu mộ dân ở các nƣớc khác đến

khai hoang cũng làm cho cộng đồng dân cƣ ở Nam Kỳ phong phú hơn. Bởi vậy,

cộng đồng dân cƣ ở Nam Kỳ rất đa dạng, có ngƣời Việt ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có

ngƣời Cao Miên, có ngƣời Trung Hoa, ngƣời Xiêm, ngƣời Khmer…, họ cùng nhau

sinh sống và phát triển ở những vùng khác nhau. Với nguồn gốc dân cƣ đa dạng

nhƣ vậy nên văn hóa Nam Kỳ rất phong phú bởi với mỗi dân tộc đến sinh sống họ

đều mang trong mình những phong tục, tập quán, tín ngƣỡng riêng.

Đi theo chiều thời gian hình thành Nam Kỳ, chúng ta sẽ thấy đƣợc thành phần

dân cƣ của vùng đất mới này. Trong Tuyển Tập Nguyễn Văn Xuân phần Khi những

lưu dân trở lại, tác giả có viết: “Có lẽ tôi chẳng còn điều gì để nói trước khi đưa

bạn đọc theo đoàn dân miền Trung, đa số ban đầu là lưu dân, tội đồ, dân Minh

hương, dân nghèo đi tiên phong khai khẩn đất hoang rồi sau đó người Huế (làm

chức việc, làm quan) và nông dân Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định xách gươm

giáo, mang cuốc, mang cày, dẫn dắt trâu bò theo đường bộ, hay tính chuyện buôn

bán theo đường ghe, lần lượt rời bỏ quê hương để trở thành dân chính thức của

miền Nam” [65, tr.579 - 560]. Nguyễn Văn Xuân còn khẳng định: “Đây, hầu hết là

dân nghèo tù tội, hành khất, hạng lưu dân thoát vùng đất cũ với hy vọng của kẻ

đánh bạc chẵn lẻ” [65, tr.544]. Trƣớc khi chúa Nguyễn chính thức đặt chính quyền

ở vùng đất Nam Kỳ và chiêu mộ dân thì ở đó đã có những ngƣời dân đói khổ từ

Trung Kỳ vào khai hoang sinh sống, họ sống rải rác, lẻ tẻ không có tổ chức. Bởi

trong cuốn Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam có viết: “Rõ ràng là trước khi

chúa Nguyễn và các vua triều Nguyễn thiết lập những đơn vi hành chánh và cai trị,

khẳng định vai trò nhà nước chủ quyền trên mảnh đất phía Nam thì từ rất sớm,cư

16

dân Việt, vốn là những nông dân xiêu tán, thợ thủ công cùng khổ, những binh lính

lao dịch lưu đày… dưới sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ của phong kiến, của

chiến tranh địch họa, thiên tai đã buộc phải rời bỏ xóm làng vào Nam khẩn hoang

lập nghiệp” [25, tr.6]. Nhƣ vậy, thành phần dân cƣ ở Nam Kỳ hầu hết là tầng lớp

dƣới của xã hội.

1.1.2. Đời sống của người dân Nam Kỳ

Tính cách

Những biên khảo, nghiên cứu của Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Văn Xuân, Sơn

Nam… cho chúng ta thấy, ngƣời Nam Kỳ rất thật thà, ngay thẳng và hiếu học. Họ

ƣa chuộng những ngƣời có khí tiết, trọng nghĩa, khinh tài. Có lẽ, do xuất thân là

tầng lớp dân nghèo là chủ yếu, vì vậy, họ sống không toan tính, không vụ lợi.

Không am hiểu sách vở nên họ dễ cảm phục hành động hơn là lời nói, sống vì tình

vì nghĩa đối với nhau chứ không vì danh phận, địa vị. Nhu cầu kết bạn khi đến một nơi mới là một điều hiển nhiên, cộng thêm với nguồn thiên nhiên trù phú1, họ

không quá bận tâm đến chuyện kiếm sống, do đó họ có cơ hội giao lƣu, kết bạn để

khám phá phong tục tập quán của các dân tộc khác đồng thời giới thiệu phong tục

tập quán của dân tộc mình. Bên cạnh đó, đa phần họ là những ngƣời có trình độ

học vấn thấp trong xã hội, vì vậy việc hiếu học, coi trọng những ngƣời thông hiểu

sách vở là việc dễ hiểu. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức viết:

“Gia Định ở về phương Nam vị trí Dương Minh, người đủ tính trung dũng khí tiết,

trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ nữ cũng thế” [6, tr.180]. Trong cuốn Đại Nam nhất

thống chí khi Trịnh Hoài Đức viết về tỉnh Gia Định đã khẳng định ngƣời dân ở đó

Ngƣời dân thảnh thơi “vừa làm vừa chơi” cũng đủ ăn” [26, tr.79]. “Vùng Gia Định

nƣớc Việt ta đất rộng, thực vật phong phú, không lo đói rét, nên dân ít dự trữ, quen

thói xa hoa, phong cách kẻ sĩ thì hiên ngang, do ngƣời từ bốn phƣơng tụ lại nên mỗi

nhà đều có phong tục riêng” [6, tr.179]. “Ngƣời miền Nam làm việc trong những điều

kiện thuận lợi mà số thu hoạch có thể gấp mấy lần. Hơn thế nữa, chim trời, cá nƣớc

vốn không thiếu nên đời sống dễ dàng” [65, tr.579].

17

rất “chuộng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài. Học trò đọc sách, phần nhiều chú trọng 1 “So với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng ngƣời thƣa.

sáng tỏ nghĩa lí mà vụng về văn chương. Nhân dân đủ người bốn phương, mỗi nhà

mỗi tục. Dân nông thôn thì chất phác, dân thành thị thì hay chơi bời” [37, tr.200];

khi viết về tỉnh Vĩnh Long, Sơn Nam cũng nhấn mạnh: “Kẻ sĩ chăm học, dân thích

buôn bán, làm ruộng, đánh cá, đều nhằm mối lợi tự nhiên mà làm ăn, dùng sức ít

mà được lợi nhiều. Đất đai rộng, thức ăn nhiều không biết chứa cất. Quân tử thì

trọng trung nghĩa danh tiết, tiểu nhân thì chơi bời xa hoa, không biết kiêng sợ”

[37, tr.124]; về tỉnh Hà Tiên: “Tính người nhẹ nhõm, ham thích phong lưu. Không

ai gian tham, không ai trộm cướp, phần nhiều hào phóng và ưa chuộng xa hoa”

[37, tr.10]; về tỉnh Biên Hòa: “Kẻ sĩ chăm học, dân siêng canh cửi, thợ ở phố mà

làm việc; buôn bán tùy đất mà sinh nhai. Tính thích múa hát, tục chuộng thờ phật”

[37, tr.41].

Việc hình thành phát triển thƣơng nghiệp với xã hội thị dân cũng là một

nguyên nhân đáng kể trong việc định hình tính cách của con ngƣời Nam Kỳ. “Tinh

thần tôn trọng đạo nghĩa, coi nhẹ lợi ích riêng tư và lối sống phóng khoáng tự do

nhiều khi lấn át ý thức thượng tôn pháp luật như một hệ thống chuẩn mực phi

chính thống phổ biến trong con người Nam Kỳ trước Cách mạng Tháng Tám chính

là một trong những hệ quả nổi bật của kiểu thức cấu trúc làng xã lỏng lẻo kết hợp

với môi trường sinh hoạt thị dân này, và đáng nói là hệ quả ấy lại ít nhiều được

những người đại diện của bộ phận Nho giáo nhân dân hóa tán thành và quy chuẩn

hóa” [43, tr.413].

Có thể nói, đó là những tính cách điển hình của ngƣời Nam Kỳ. Từ những

tính cách điển hình này, họ hình thành quan niệm và thói quen về cuộc sống rất

riêng, khác hẳn với ngƣời Trung và ngƣời Bắc.

Thói quen

Về hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ ở Nam Kỳ có nhiều đặc điểm khác

so với Trung Kỳ và đặc biệt là Bắc Kỳ. Lƣu dân đến Nam Kỳ chọn hình thức ca

hát, kể chuyện, diễn xƣớng làm món ăn tinh thần. Khi nhận định về đối tƣợng và

18

hình thức tiếp nhận văn nghệ, văn chƣơng của ngƣời dân Nam Kỳ, Nguyễn Văn

Xuân viết: “Mà đối tượng này không cần đọc, ngẫm nghĩ bằng xem, nghe xúc

động, cười cợt, hoa chân múa tay trước những bộ môn trình diễn, những bài thơ,

vè, kể chuyện ca hát, ca kịch…, rất dễ hiểu, rất cụ thể vui ra vui, buồn ra buồn rõ

ràng. Để họ khỏe khoắn tinh thần, tìm thấy giấc ngủ ngon hòng nuôi sức lực dành

cho những tranh đấu, những biến cố trong vùng đất mới, khác hẳn cái vùng đã ổn

định từ nghìn năm họ vừa mới rời bỏ” [65, tr.549]. Hình thức ca hát, kể chuyện

truyền miệng, trình diễn cho ngƣời khác xem đã hình thành từ đó, và đƣợc ngƣời

Nam Kỳ rất ƣa chuộng. Nguyễn Văn Xuân viết: “Những buổi trình diễn khẩu chiến

dưới ánh trăng đã lôi kéo hàng trăm khán giả đêm này qua đêm khác, đã tạo cho

văn nghệ nông thôn có sinh khí lạ lùng và đã nâng cao nền văn nghệ đó lên tột

đỉnh với những diễn viên rất linh hoạt, thông minh mà tình tứ” [65, tr.555]. Với

điều kiện thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên, cuộc sống của những ngƣời dân nơi

đây an nhàn và dƣ giả, vì vậy, họ có thời gian, tiền bạc để đi xem hát, nghe hát,

ngồi nghe kể chuyện hoặc thuê gánh hát về biểu diễn. Do đó, hình thức diễn xƣớng

ở Nam Kỳ càng phát triển và mạnh mẽ hơn hẳn Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

Khi tiếp nhận một tác phẩm văn chƣơng, ngƣời Bắc Kỳ thƣờng nghiền ngẫm

cái hay cái đẹp ở cách dùng câu chữ. Tác phẩm phải đƣợc suy ngẫm kỹ càng mới

thấy hết cái hay, và ngƣời tiếp nhận thƣờng một mình tâm đắc với cái hay cái đẹp

đó. Nhƣ Nguyễn Văn Xuân đã khẳng định, văn chƣơng Bắc kỳ “bao giờ cũng lấy

đối tượng tri thức làm căn bản” và “phương pháp của văn chương miền Bắc nặng

về xem, tức là độc giả có thể cầm tác phẩm tự mình đọc để suy tư và cái hay chính

nằm trong lối xem và suy tư đó” [65, tr.551]. Ngƣợc lại, “văn chương miền Nam

nặng về nói và trình diễn, tức độc giả thường chỉ thấy hay trong lối đọc to để tự

mình nghe và để kẻ khác cùng nghe với mình và cái hay cũng nằm trong lối nghe

để dung cảm” [65, tr.551]. Có thể thấy ngƣời dân Nam Kỳ thiên về kiểu thƣởng

thức văn nghệ có diễn xƣớng, gắn với trình diễn.

Tƣ tƣởng – tín ngƣỡng

Cƣ dân Việt cộng cƣ cùng nhiều nhóm dân cƣ với nguồn gốc, văn hóa, lịch

19

sử, phong tục và tín ngƣỡng khác nhau nên rất khó tổ chức xã hội theo nguyên lý

và trật tự tôn giáo. Vì vậy, Nho giáo với thiết chế xã hội vô thần đã tổ chức xã hội

để nhất hòa nhiều tộc ngƣời ở địa phƣơng vào một cộng đồng Việt Nam thống

nhất. “...việc xây dựng một cộng đồng xã hội thống nhất trên cơ sở nhiều nhóm cư

dân và trong bối cảnh đa dân tộc như vậy rất khó có thể thực hiện với các mô hình

và phương thức tổ chức xã hội theo nguyên lý và trật tự tôn giáo. Chính ở đây, Nho

giáo với nhận thức luận – vũ trụ quan kiểu “vô thần” của nó đã nổi lên như thuyết

– phương án tối ưu trong việc liên kết, tổ chức và từng bước hợp nhất các nhóm cư

dân nông nghiệp...” [43, tr.408]; “Nho giáo nhờ vậy cũng có điều kiện để phát triển

đồng thời thực hiện thông suốt chức năng của nó, mà ở đây có thể kể tới việc góp

phần nhất hòa các nhóm dân tộc khác trong đó đặc biệt là người Hoa vào với cộng

đồng Việt Nam như một ví dụ điển hình”; “Tình hình nói trên đặt ra trước cả

Chính quyền Đàng Trong lẫn nhân dân địa phương một vấn đề phải giải quyết, đó

là việc hợp nhất tiến trình văn hóa với tiến trình xã hội, hay nói rõ hơn là xóa bỏ

những khoảng cách giữa các nhóm dân tộc, quy tụ tất cả vào một cộng đồng Việt

Nam thống nhất chung. Và ở đây, Nho giáo đã phát huy vai trò là một hệ thống

chuẩn mực xã hội của nó, mà kết quả đáng chú ý nhất là góp phần hoàn tất quá

trình Việt hóa trước hết về mặt chính trị của những người Hoa mang quốc tịch Việt

Nam” [43, tr.47]. Với những điểm mạnh trên, Nho giáo đƣợc nhà Nguyễn sử dụng

nhƣ một phƣơng án tối ƣu để thống nhất cộng đồng ở Nam Kỳ.

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, nhƣng về khía cạnh tôn giáo,

Nho giáo chủ trƣơng thờ Trời Đất, sông núi, thờ cha mẹ, tổ tiên. Tuy nhiên, với

Nho giáo, con ngƣời không tìm đƣợc câu trả lời cho câu hỏi loài ngƣời ở đâu trƣớc

khi sinh ra và về đâu sau khi chết đi. Do đó, mặc dù Nho giáo giữ vị trí đầu trong

việc điều chỉnh hành vi, đạo đức và định hƣớng chuẩn mực xã hội ở Việt Nam

cũng nhƣ Nam Kỳ nhƣng tại đây vẫn tồn tại các tôn giáo khác, điển hình và đạt

đƣợc dấu ấn mạnh trong xã hội là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Theo Cao Tự

Thanh: “Bên cạnh đề cao các chuẩn mực cương thường, lực lượng nòng cốt của

chính quyền Đàng Trong trong đó có các chúa Nguyễn đều là người sùng thượng

20

đạo Phật” [64, tr.318]; “Tín ngưỡng ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII, dễ nhận

thấy rằng mặc dù có hiện tượng suy thoái về mặt giáo lý, Phật giáo (chủ yếu là

Phật giáo đại thừa) vẫn chiếm một địa vị quan trọng đồng thời đóng vai trò đáng

kể trong sinh hoạt tinh thần của nhiều tầng lớp nhân dân” [43, tr.18]; “Nho giáo

không có một hệ thống thần linh nên họ phải thần thành hóa vương quyền bằng

Phật giáo, từ đó làm nảy sinh cơ cấu chính trị - tôn giáo cũng như một thiết chế

văn hóa – tư tưởng kiểu “Nho Thích song hành” [43, tr.28]. Thiên chúa giáo là một

tôn giáo nhƣng khi vào Nam Kỳ, nó mang ý nghĩa chính trị, bị giới cầm quyền

thực dân lợi dụng với mục đích thôn tính các nƣớc thuộc địa. Vì vậy, Thiên chúa

giáo đã phải trải qua những xung đột cả với thế quyền và thân quyền.

Trở lại với Nho giáo. Nhƣ nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, khi đƣợc sử

dụng ở Nam Kỳ, nơi đa phần là binh lính cùng những nông dân ít học thì những

yếu tố chính thống của Nho giáo đã phải thay đổi. Cao Tự Thanh nhận định: “Quá

trình dân tộc hóa đã khiến từ chiến tranh Lê Mạc trở đi Nho giáo ở Việt Nam dần

dần mang một nội dung khác hẳn lý thuyết Nho giáo chính thống, và riêng ở Đàng

Trong thì quá trình nhân dân hóa còn khiến nó trở thành một loại Nho giáo trong

đó các yếu tố nhân dân hóa dường như lấn át yếu tố quan phương” [43, tr.300]. Ở

Nam Kỳ, nho sĩ có đời sống gần gũi với tầng lớp bình dân: “Cần nói thêm rằng

trong lực lượng hạt nhân của tập đoàn phong kiến Đàng Trong thì số xuất thân từ

gia đình võ tướng nhiều hơn số xuất thân từ gia đình nho sĩ, vùng đất chỉ mới thực

sự có được một Tây Kinh từ chiến tranh Lê Mạc và chắc chắc là chưa “thấm

nhuần” Nho giáo bằng khu vực Thăng Long – Đông Đô. Việc tiếp nhận phổ biến,

nhận thức và thực hiện các nguyên tắc Nho giáo – trong ý nghĩa là một hệ thống

“chuẩn mực xã hội” nơi những người này do đó cũng bị “sai lệch” nhiều so với

quy tắc chính thống truyền thống, thậm chí ngay cả từ những ứng xử thường nhật”

[43, tr.18]; “Có thể nói chính lực lượng nông dân – tầng lớp bị trị người Việt đã

đem Nho giáo vào Nam bộ, và tại đây nó đã phát triển như một yếu tố nội tại, một

bộ phận cấu thành trong thiết chế văn hóa – tổ chức xã hội chính thức của cộng

đồng Việt Nam ở địa phương” [43, tr.410]. Theo học thuyết Nho giáo, quyền hành

21

luôn tập trung vào vua, sau đó là quan lại, và những nho sĩ thì đƣợc tuyển chọn kỹ

càng. Nhƣng ở Gia Định, tầng lớp tƣớng lĩnh cũng đƣợc trọng dụng và có thể đảm

nhiệm những chức vụ quan trọng từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Nhà Nguyễn ở

Đàng Trong phủ định tín nhiệm về thiên chức và vai trò của tầng lớp nhà nho.

Trƣớc khi chính quyền nhà Nguyễn chính thức xác lập chủ quyền ở Nam Kỳ thì

một bộ phân lƣu dân ở đây đã sử dụng Nho giáo để tự quản với nhiều yếu tố lệch

chuẩn so với chính thống.

Việc phát triển xã hội thị dân tại Nam Kỳ cũng là một yếu tố quan trọng trong

quá trình đẩy Nho giáo đi theo chiều hƣớng lệch chuẩn. “Xu thế sản xuất vật chất

còn tạo ra các động thái mới trong sinh hoạt xã hội mà đặc biệt là ở các khu vực

thương cảng hay đô thị và trước Hòa ước 1862 thì sự phát triển của xã hội thị dân

ở Nam Kỳ tự thân nó đã hàm chứa một nguy cơ tiềm ẩn đối với các quy phạm đạo

đức Nho giáo cũng như những nguyên lý trị đạo Nho gia” [43, tr.413].

Theo Cao Tự Thanh, sự phát triển của Nho giáo ở Nam Kỳ đƣợc chia ra làm

nhiều thời kỳ tƣơng ứng với từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội của Nam

Kỳ.

“Trước năm 1775, Nho giáo làm nhiệm vụ đồng nhất sự phát triển của nhiều

nhóm cư dân và tầng lớp xã hội khác nhau vào một định hướng văn hóa – xã hội

cộng đồng thống nhất” [43, tr.419]. Thời kỳ này về mặt lịch sử xã hội không có

nhiều biến động lớn, vì vậy, Nho giáo thực hiện rất tốt vai trò cố kết các cộng đồng

dân tộc ở Nam Kỳ và từ đó bám rễ chắc trong xã hội đầy biến động ở giai đoạn sau

này.

“Thời nội chiến Tây Sơn – Nguyễn rồi Tây Sơn – Nguyễn Ánh từ 1775 rồi từ

1778 đến 1802, đó là yêu cầu quy tụ lực lượng và thống nhất ý chí – nâng cao chất

lượng phát triển của xã hội nhằm kết thúc chiến tranh đồng thời xác định nội dung

phát triển của cộng đồng Việt Nam ở Nam Bộ trong cuộc đấu tranh thống nhất

quốc gia” [43, tr.419]. Đây là thời kỳ các lớp nhà nho sống gần gũi với nhân dân.

Họ là những trí thức của đời thƣờng, “một loại trí thức mà học vấn và tài năng

22

thường xuyên được kiểm nghiệm qua thực tiễn hoạt động và nhiều khi vì miếng

cơm manh áo trong đời sống thường nhật” [43, tr.72]. Trong giai đoạn này, dù

Phật giáo và Thiên chúa giáo đồng thời tồn tại, nhƣng Nho giáo vẫn không bị mất

đi vị trí của mình.

“Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, đó là yêu cầu tập hợp và tổ chức các lực

lượng, thực hiện và điều chỉnh các phương án phát triển kinh tế - xã hội toàn diện

hơn đồng thời tiếp tục góp phần thống nhất đất nước về mặt văn hóa và bảo vệ độc

lập quốc gia trước hết trong phạm vi địa phương” [43, tr.419]. Lúc này, đất nƣớc

ổn định sau chiến thắng của tập đoàn Nguyễn Ánh với Tây Sơn, đồng thời đƣợc

trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm và kiến thức từ nho sĩ và Nho học của các miền

trong cả nƣớc và Trung Quốc đã thúc đẩy Nho giáo ở Gia Định phát triển theo định

hƣớng học thuật – lý luận hoàn chỉnh hơn trƣớc, cũng trên cơ sở đó mở rộng và

điều chỉnh hệ thống chuẩn mực xã hội để phù hợp với nội dung phát triển và xu thế

lịch sử của đời sống Nam Kỳ. “Sau hàng trăm năm phát triển theo tiến trình lịch

sử ở địa phương, đến giữa thế kỷ XIX Nho giáo đã bám rễ sâu hơn vào đời sống

văn hóa – xã hội và trở nên quen thuộc với sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân

Gia Định. Nhiều chuẩn mực xã hội Nho giáo về đạo đức, nghi lễ, ứng xử, lối

sống… đã hội nhập vào đời sống tinh thần của quần chúng, góp phần đáng kể vào

việc củng cố tổ chức xã hội và xác lập diện mạo văn hóa cộng đồng Việt Nam tại

địa phương” [43, tr.183]. Điều đáng chú ý ở thế kỷ XIX là ở Nam Kỳ nho sĩ con

nhà thƣờng dân phổ biến hơn nho sĩ dòng dõi quan lại. “Đội ngũ nho sĩ bình dân ở

địa phương như vậy đã hiện diện như một nhóm xã hội ổn định và có số lượng

đông đảo, với sinh hoạt vật chất và tinh thần rất gần gũi với nhân dân” [43,

tr.185]. Điều này cho thấy, nhà nho ở Gia Định có đời sống rất gắn bó với nhân

dân lao động. Ngay từ đầu, Nho giáo đã phát triển không theo chuẩn lý thuyết, bên

cạnh đó, việc các nhà nho sống gần dân đã đƣa Nho giáo tại Nam Kỳ tiến tới một

hệ thống chuẩn mực xã hội Nho giáo khác, ở đó các nguyên tắc chế định đƣợc xây

dựng với nhiều yếu tố thu đƣợc từ tinh thần thực tiễn của nhân dân. “…Các nhà

nho Gia Định mà chủ yếu là bộ phận nho sĩ bình dân đã loại bỏ khá nhiều những

23

xác tín của mình, khiến cho lý thuyết chính trị Nho gia ở đây dần dần chỉ còn là lý

tưởng xã hội Nho giáo. Cái phong cách “Nho mà không Nho, không Nho mà Nho”

trong giới nho sĩ địa phương đã hình thành như thế đó” [43, tr.195].

Năm 1858 là một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội cũng

nhƣ Nho giáo ở Gia Định. Trong công cuộc chống trả thực dân xâm lƣợc, các nhà

nho yêu nƣớc đã đứng về phía nhân dân, ở vị trí lãnh đạo về tƣ tƣởng cho nhân dân

lao động khởi nghĩa. Sự căm ghét xâm lƣợc phƣơng Tây làm cho nhân dân càng

căm ghét đạo Thiên chúa. Chính vì vậy, Thiên chúa giáo bị nhân dân Nam Kỳ tẩy

chay mạnh mẽ vào nửa cuối thế kỷ XIX. Trên cả nƣớc, Nho giáo chính thống lạc

hậu cộng với sự bất lực của triều Nguyễn đã dẫn tới chỗ không đáp ứng đƣợc yêu

cầu thực tiễn. Trong khi đó, Nho giáo phi chính thống đã đứng về phía nhân dân,

phản ánh, cổ vũ, khích lệ tinh thần của nhân dân trong cuộc đấu tranh đó.

Mở đầu cho xu hƣớng chống đối quyết liệt đó là các nhà nho Nam Kỳ, “… đã

bước vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nửa sau thế kỷ XX chỉ với một

truyền thống chính trị duy nhất tôn phù triều đình Nguyễn và các chúa Nguyễn

Đàng Trong. Sự từ bỏ truyền thống này ở họ vì vậy cũng có ý nghĩa như một hành

động chống lại mình…” [43, tr.250]. Hòa theo phong trào đấu tranh vũ trang

“chống Pháp chẳng nghe Thiên tử chiếu” Nho giáo ở Nam Kỳ kết dính tinh thần

cũng nhƣ truyền thống yêu nƣớc, và nhờ vậy mà đã đƣợc đông đảo nhân dân địa

phƣơng tiếp nhận trong ý nghĩa là một truyền thống để chống lại ách thống trị và

bóc lột của thực dân. Tuy nhiên cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc thất bại đã đẩy

Nho giáo ra khỏi địa vị thống trị, nhƣờng chỗ cho những thiết chế mới.

“Từ năm 1888 đến 1945, đó là yêu cầu bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc,

đồng thời xây dựng một nền học thuật mới ở Việt Nam trong những điều kiện ngặt

nghèo của chế độ thuộc địa” [43, tr.419]. Trong khoảng thời gian này chữ quốc

ngữ phát triển, dẫn đến nhiều thay đổi cơ bản trong các hoạt động khoa học, giáo

dục và thông tin. Cho đến đầu thế kỷ XIX Nho giáo vẫn xuất hiện thƣờng xuyên

trong sáng tạo và thẩm định, tổng kết và bảo lƣu các giá trị tinh thần của xã hội,

đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Nho giáo ở Nam Kỳ giai đoạn này vẫn đƣợc vận

24

dụng nhƣ một phƣơng tiện nhận thức quan trọng bên cạnh ý nghĩa là một hệ thống

kinh nghiệm truyền thống, và vẫn đƣợc nhiều tầng lớp xã hội vận dụng nhƣ một hệ

thống chuẩn mực hành động cũng nhƣ ứng xử dù đã bị loại bỏ ở phƣơng diện thiết

chế xã hội.

1.2. Những nội dung và hình thức chính của văn chƣơng của Nguyễn

Đình Chiểu

1.2.1. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tục gọi Đồ Chiểu, sau khi bị mù ông lấy

hiệu là Hối Trai. Nguyễn Đình Chiểu sinh ra tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị

Thƣợng, huyện Bình Dƣơng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định và mất tại làng An Đức,

tổng Bảo An, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Quê của ông vốn ở xã Bồ Điền, huyện

Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Cha của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy, ngƣời xã Bồ Điền, huyện

Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cụ Nguyễn Đình Huy giữ chức thơ lại tại Văn

hàn ty Tả quân Lê Văn Duyệt. Năm 1802, cụ theo Tả quân Lê Văn Duyệt vào Gia

Định, và lấy vợ (Trƣơng Thị Thiệt) rồi sinh con đầu lòng là Nguyễn Đình Chiểu.

Từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu sống nề nếp bên cạnh mẹ. Ông thƣờng nghe mẹ

kể những câu truyện cổ dân gian và đƣợc đi xem hát, qua đó, ông đƣợc mẹ giáo

dục về những điều thiện ác, trung nịnh, chính tà, nhân nghĩa… Năm lên sáu, bảy

tuổi, Nguyễn Đình Chiểu đƣợc theo học một ông đồ trong làng. Việc nuôi dạy của

mẹ cùng sự giáo dục của ngƣời thầy đầu tiên này đã tác động rất lớn đến tƣ tƣởng

sau này của ông.

Năm 1832, Lê Văn Duyệt chết, cụ Nguyễn Đình Huy bị cách chức. Lúc này

Nguyễn Đình Chiểu khoảng mƣời một, mƣời hai tuổi, đƣợc cha đƣa ra Huế gửi vào

gia đình một quan Thái phó, hàng ngày Nguyễn Đình Chiểu vừa giúp việc vừa học

tập. Sau một thời gian học tập ở Huế, Nguyễn Đình Chiểu về Sài Gòn tham dự

khoa thi Quỹ mão (1843) và đỗ tú tài, lúc này ông 21 tuổi.

Năm 1847, ông lại trở ra Huế để chuẩn bị dự kì thi năm Kỷ dậu (1849),

25

trong khi miệt mài ôn tập chờ khoa thi, và ngày thi vừa đến thì Nguyễn Đình Chiều

nhận đƣợc tin mẹ ông đã qua đời tại Sài Gòn (1848). Ông bỏ thi về chịu tang mẹ,

giữa đƣờng vì buồn và khóc thƣơng mẹ nên mắc chứng đau mắt. Ông đã phải xin

trọ tại nhà của một ngƣời thầy thuốc thuộc dòng ngự y ở Quảng Nam để chữa

bệnh. Nhƣng vì bệnh quá nặng nên đôi mắt của ông từ ấy vĩnh viễn không còn nhìn

đƣợc nữa. Cũng chính trong thời gian ở đây ông đã học nghề thuốc. Đây cũng là

khoảng thời gian ông bị vị hôn thê bội ƣớc. Năm 1851, khi mãn tang mẹ, Nguyễn

Đình Chiểu mở trƣờng dạy học và làm thuốc. Khoảng năm 1854, ông lấy vợ. Từ

đó trong gần chục năm, ông vừa dạy học, làm thuốc, vừa sáng tác.

Năm 1859, quân Pháp sau khi đánh chiếm Đà Nẵng đã kéo vào Sài Gòn và

chiếm Gia Định. Từ đây ông bắt đầu sáng tác những tác phẩm gắn liền với từng sự

kiện chống giặc ngoại xâm của đất nƣớc.

Năm 1859, thành Gia Định thất thủ, Nguyễn Đình Chiểu dọn về ở tại quê vợ

thuộc Cần Giuộc. Lúc này ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu

nƣớc.

Sau hàng ƣớc 1862, triều đình Nguyễn giao ba tỉnh miền Đông cho giặc

Pháp, Nguyễn Đình Chiểu không thể sống trong vùng giặc chiếm đóng nên đã dọn

về ở tại Ba Tri, Bến Tre.

Năm 1888, khi nghe tin Hàm Nghi bị bắt, ông đau buồn vô hạn, lại vốn

mang bệnh, cơ thể hao mòn, ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3-7.

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả có sự nghiệp văn chƣơng gắn liền với những

biến cố của cuộc đời mình và biến cố của đất nƣớc, của Nam Kỳ

Giai đoạn đầu: Thời kỳ Pháp chƣa xâm lƣợc Nam Kỳ

Có thể nói Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu

trong thời kỳ trƣớc khi Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ. Đây là một tác phẩm có yếu tố tự

26

truyện nhƣng nó không phải để giải quyết bi kịch của cá nhân, hoặc gửi gắm tâm

sự riêng mà qua đây, Nguyễn Đình Chiểu muốn đề cao đạo đức trong đời sống xã

hội. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu phản ánh cuộc giao tranh giữa

cái thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa để ông khẳng định chắc chắn

rằng: cái thiện, cái chính nghĩa luôn luôn thắng cái ác, cái phi nghĩa. Theo Nguyễn

Đình Chiểu, đã là con ngƣời thì trung với vua, hiếu với cha mẹ, thầy trò phải sống

với nhau vì nghĩa, vợ chồng phải chung thủy, coi trọng bạn bè và hết lòng giúp dân

giúp nƣớc.

Trong giai đoạn này, Nguyễn Đình Chiểu còn sáng tác Dương Từ - Hà Mậu,

nhƣng khi thực dân Pháp vào xâm lƣợc Nam Kỳ, tác phẩm này đã đƣợc ông sửa lại

để phù hợp với thực tế mới.

Giai đoạn hai: Sau khi Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ

Nếu giai đoạn trƣớc Nguyễn Đình Chiểu nêu cao ngọn cờ bảo vệ đạo đức

của con ngƣời trong xã hội thì đến giai đoạn thứ hai này, ông tập trung vào thể hiện

tinh thần yêu nƣớc của nhân dân, đặc biệt là ngƣời nông dân và bên cạnh đó thì

vấn đề bảo vệ đạo đức vẫn đƣợc nêu lên.

Trần Văn Giàu viết: “Nguyễn Đình Chiểu chiếm đỉnh cao nhất trong lãnh

vực văn chương yêu nước, một loại văn chương cao quý mà chính Nguyễn Đình

Chiểu là vị khai sáng. Văn chương yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu được tiêu

biểu rực rỡ bởi các bài văn tế và hi ̣ch” [60, tr.48]. Nguyễn Đình Chiểu đã dùng thơ

văn làm vũ khí chiến đấu. Hai câu thơ trong Dương Từ - Hà Mậu nói lên ý chí,

lòng yêu nƣớc, sự căm phẫn của ông đối với giặc:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Ông kêu gọi đánh giặc, ông kêu gọi không hợp tác với giặc, ông tố cáo, vạch

trần tội ác của giặc. Ông phản ánh, ca ngợi những con ngƣời kiên cƣờng, bất khuất,

27

bền gan chiến đấu, hi sinh oanh liệt.

Để ca ngợi, ghi công các tƣớng lĩnh đã không tiếc mạng sống của mình mà

đứng về phía nhân dân chống giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã viết Văn điếu Trương

Định, Thơ điếu Phan Tòng để ca ngợi tấm gƣơng yêu nƣớc và sự hi sinh dũng cảm,

làm động lòng bao nhiêu thế hệ ngƣời dân. Chia sẻ, đồng cảm với những mất mát

đau thƣơng của những ngƣời dân nghèo khổ vô tội, ông đã viết Văn tế nghĩa sĩ Cần

Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ Lục tỉnh trận vong. Trong đó, ông miêu tả nỗi đau đơn của

những ngƣời dân vô tội khi bị đánh đập, tra khảo, bắn giết làm cho ngƣời đọc

không khỏi xót xa. Tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình

Chiểu là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca. Trƣớc nỗi đau mất nƣớc, nhân dân lầm

than, xã hội loạn lạc, ông viết tác phẩm cuối cùng để nhắn nhủ con ngƣời trong xã

hội phải biết yêu thƣơng, đùm bọc, giúp đỡ những ngƣời nghèo khổ. Và ông luôn

hi vọng, một ngày không xa, đất nƣớc sẽ thái bình để ngƣời dân đƣợc hƣởng ấm

no, hạnh phúc.

Toàn bộ thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu luôn chiến đấu cho chính nghĩa,

cho đạo đức, chống lại gian tà. Lý tƣởng chủ đạo của Nguyễn Đình Chiểu là trung

hiếu tiết nghĩa, yêu nƣớc thƣơng dân, “cho nên, ngày đưa linh cụ, một cánh đồng

Ba –tri rợp trắng những khăn tang; môn đệ, bệnh nhân, đồng bào vĩnh biệt một

con người mà cuộc đời trọn vẹn là tấm gương, chí công mài sắt, phục vụ không

điều kiện, phò đời cứu dân, tấm gương tiết nghĩa dũng cảm !” [60, tr.47].

Nguyễn Đình Chiểu viết khá nhiều thể loại, riêng truyện thơ Nôm ông để lại

ba tác phẩm truyện Nôm với dung lƣợng lớn, Lục Vân Tiên gồm 2080 câu thơ lục

bát, Dương Từ - Hà Mậu gồm 3456 câu thơ lục bát, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn

ca gồm có 1822 câu lục bát cộng với 11 bài thất ngôn bát cú, 11 bài thất ngôn tuyệt

cú, 1 bài phú, 1 bài tự truyện, 2 bài luận và 100 bài ca. Với dung lƣợng nhƣ vậy,

chắc hẳn Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm vào đó rất nhiều quan niệm, tƣ tƣởng,

28

tình cảm của mình.

Tiểu kết:

Qua chƣơng 1, chúng tôi tìm hiểu và đƣa ra những đặc điểm sơ bộ về vùng

đất Nam Kỳ từ khi mới hình thành với những đặc điểm về nguồn gốc dân cƣ, tập

quán, thói quen, tín ngƣỡng – tôn giáo bởi đó là những yếu tố quan trọng hình

thành nên truyền thống văn hóa, văn học ở vùng đất này. Việc ƣa chuộng chất dân

dã, thích nghệ thuật trình diễn, trọng khí tiết, chính nghĩa bắt nguồn từ đặc điểm về

văn hóa, lối sống của vùng miền.

Nguyễn Đình Chiểu có cuộc sống gắn bó với tầng lớp nhân dân lao động tại

Nam Kỳ. Những sáng tác của ông hƣớng đến là tầng lớp nhân dân lao động. Đồng

thời, là một nhà nho, lựa chọn sống và sáng tác văn chƣơng của Nguyễn Đình

Chiểu cũng đƣợc đặt trên nền tảng Nho giáo với những nét riêng vùng miền. Do

đó, việc khảo sát cộng đồng dân cƣ ở Nam Kỳ và đời sống tinh thần của họ giúp

chúng ta hiểu thêm quan niệm, tƣ tƣởng của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong

29

truyện thơ Nôm mà chúng tôi sẽ trình bày một cách kỹ lƣỡng ở chƣơng 2.

Chƣơng 2

NHỮNG CÂU CHUYỆN BẰNG THƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Truyện Nôm đƣợc hình thành và phát triển vào khoảng thời gian từ thế kỷ

XVII đến những năm đầu của thể kỷ XX. Theo Kiều Thu Hoạch: Về mặt lịch sử,

truyện Nôm vốn có cội nguồn sâu xa từ kho tàng folklore Việt Nam, từ truyện cổ

dân gian và từ thơ ca dân gian… Từ thế kỷ XVIII trở đi, cùng với sự thuần thục

của thể thơ lục bát, truyện Nôm bƣớc sang thời kỳ nở rộ với nội dung xã hội, và

phát triển liên tục cho đến tận những thập kỷ đầu của thế kỷ XX [15, tr.350].

Truyện Nôm đƣợc chia thành hai loại, truyện Nôm bác học và truyện Nôm

bình dân. Truyện Nôm bác học phần lớn có tên tác giả. Những tác giả này thuộc

tầng lớp trên của xã hội, đó là tầng lớp phong kiến quý tộc. Họ thƣờng lấy đề tài

dựa theo cốt truyện trong văn học cổ của Trung Quốc. Truyện Nôm bình dân là

những truyện hầu hết khuyết danh. Tác giả thuộc tầng lớp dƣới. “Họ là những nho

sĩ trí thức bình dân, phần lớn có lẽ là các ông đồ dạy học ở vùng nông thôn” [21,

tr.507], nên tác phẩm của họ hầu hết đƣợc viết dựa trên cốt truyện dân gian. Kiều

Thu Hoạch cho rằng: “Truyện Nôm bình dân phần nhiều do tầng lớp trí thức bình

dân sáng tác. Đó là những ông đồ quê, chữ nghĩa chỉ đủ để gõ đầu trẻ kiếm ăn. Đó

là những hàn sĩ lỡ dở đường công danh “văn chương chữ nghĩa chẳng hay…”. Đó

cũng có thể là những người nghệ nhân tuy chữ nghĩa chẳng có là bao, nhưng lại

có tài bẻ vè đặt chuyện. Nói chung họ đều là những người sống gần gũi với quần

chúng lao động, những người nông dân và những thợ thủ công. Vì vậy, ngôn ngữ

tác phẩm thường bình dị, mộc mạc, ít dùng điển cố và từ Hán, thảng hoặc có dùng

thì cũng là những điển, những từ đã được Việt hóa, hoặc đã quen thuộc trong thơ

30

ca dân gian” [15, tr.222].

Về đề tài, truyện Nôm thƣờng tập trung vào những vấn đề đạo lý, thể hiện

khát vọng tình yêu tự do vƣợt ra khỏi lễ giáo hà khắc. Tác giả của truyện Nôm bác

học khai thác cốt truyện của Trung Quốc và thể hiện các nhân vật theo kiểu tài tử -

giai nhân. Theo Trần Đình Hƣợu thì tài tử là nhân vật nam có tài văn võ, giỏi “cầm

kỳ thi họa”. Ngƣời tài tử không chỉ đẹp trai mà còn rất phong tình. Họ mơ ƣớc

công danh, nhƣng không để ra làm quan, giúp dân, giúp nƣớc mà là để thể hiện tài

năng và thị tình. Ngƣời tài tử luôn mong muốn có một tình yêu đẹp. Giai nhân là

nhân vật nữ có sắc đẹp và giỏi thơ, phú, đàn, họa và cũng có thể biết uống rƣợu

đồng thời cũng khao khát có đƣợc tình yêu. Ngƣợc lại, với truyện Nôm bình dân

xây dựng cặp trai anh hùng – gái thuyền quyên. Nhân vật nam thƣờng là những

chàng học trò nghèo nhƣng ham học và đạt đƣợc công danh để phò vua giúp nƣớc,

trong tình yêu họ rất mực chung thủy, không thay lòng đổi dạ cho dù khi đã trở nên

cao sang, vƣơng giả. Nhân vật nữ thƣờng là những ngƣời đẹp ngƣời lại đẹp nết,

trọng hiếu, trọng tiết, chung thủy, đảm đang, kiên trinh đợi chờ chồng [63].

Ngoài đề tài về tình yêu đôi lứa, truyện Nôm còn phản ánh những bất công

trong xã hội phong kiến cổ hủ lạc hậu, đề cao ngƣời phụ nữ và đặc biệt là tố cáo tội

ác man rợ, vạch trần những bộ mặt xấu xa, bỉ ổi của đám vua quan phong kiến.

Chƣa hết, những ngƣời dân nghèo, những ngƣời ăn xin, tầng lớp thấp nhất của xã

hội cũng là đối tƣợng mà truyện Nôm bình dân quan tâm.

Về cốt truyện, “mở đầu truyện bao giờ cũng là cảnh trai gái gặp gỡ và hẹn

ước; sau đó họ gặp những trắc trở làm cho hai người phải chia ly; rồi cuối cùng

họ lại được cùng nhau đoàn tụ trong hạnh phúc gia đình êm ấm” [15, tr.192]. Kết

thúc có hậu nhằm thỏa mãn mong muốn của những ngƣời dân nghèo trƣớc những

bất công trong xã hội.

Yếu tố thần kỳ là một thủ pháp nghệ thuật không thể thiếu đƣợc trong quá

trình sáng tác truyện Nôm. Yếu tố này xuất hiện nhằm trợ giúp cho nhân vật chính

diện vƣợt khỏi những khó khăn để đến với hạnh phúc, trong khi đó, với nhân vật

31

phản diện, yếu tố thần kỳ đƣợc sử dụng để trừng phạt.

Một đặc điểm quan trọng nữa của truyện Nôm là có câu mở đầu và những lời

kết thúc đều mang triết lý nhân sinh.

Cốt truyện và tính thuật sự là hai đặc điểm nổi trội ở thể loại truyện Nôm,

nhất là truyện Nôm bình dân. “Có thể nói, truyện Nôm bình dân sinh ra là để kể,

do đó mà ngôn ngữ tác phẩm cũng chủ yếu là ngôn ngữ kể chuyện. Truyện Nôm

bác học đương nhiên cũng lấy việc kể chuyện làm đầu: nhưng do tác giả thường là

người có trình độ tu dưỡng nghệ thuật cao, cho nên họ quan tâm hơn đến việc văn

chương, quan tâm hơn đến ngôn ngữ nghệ thuật” [15, tr.223]. Chính vì vậy, trong

truyện Nôm bình dân, ngôn ngữ nói đƣợc sử dụng nhiều hơn ngôn ngữ viết “…

khác với truyện Nôm bác học, truyện Nôm bình dân thường sử dụng một ngôn ngữ

giàu chất sống, mộc mạc, nôm na, có nhiều khẩu ngữ, nhiều thành ngữ, tục ngữ.

Đó là thứ ngôn ngữ hàng ngày, ít lối nói cách điệu hóa, ít điển cố và từ Hán Việt.

Tuy nhiên, trong truyện Nôm bình dân, ngôn ngữ thường chưa được trau chuốt,

chưa được gia công nghệ thuật nhiều” [15, tr.522].

Nhân vật trong truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm bình dân, không đƣợc

miêu tả kỹ về ngoại hình cũng nhƣ không đƣợc khắc họa rõ về mặt nội tâm. Các

nhân vật đƣợc nhận diện tốt hay xấu nhờ vào ngôn ngữ đối thoại hoặc độc thoại và

hành động. Vì vậy chúng ta thấy, ngôn ngữ độc thoại và đối thoại chiếm vị trí rất

quan trọng trong truyện Nôm, và đa phần nhân vật trong truyện Nôm đều chƣa có

tính cách rõ rêt.

2.1. Những câu chuyện của Nguyễn Đình Chiểu

Chúng ta đã biết, đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu

là thơ văn yêu nƣớc với những bài văn tế, thơ điếu đƣa ông trở thành nhà văn, nhà

thơ yêu nƣớc hàng đầu. Tuy nhiên, thành công trong sự nghiệp của Nguyễn Đình

Chiểu không chỉ có vậy, ông còn để lại dấu ấn của mình với thể loại truyện Nôm.

Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Trong tác phẩm

32

này, chúng ta thấy có yếu tố tự truyện.

Lục Vân Tiên là một học trò nghèo, có đức, có tài, văn võ song toàn. Trên

đƣờng đi thi chàng gặp bọn cƣớp bắt Kiều Nguyệt Nga nên đánh tan lũ cƣớp cứu

nàng. Cảm động trƣớc hành động dũng cảm, hào hiệp của Vân Tiên và vì Vân Tiên

“làm ơn há dễ trông người trả ơn”, Nguyệt Nga đã nguyện gắn bó cả đời với Lục

Vân Tiên. Từ đó, Nguyệt Nga nguyện coi Vân Tiên là chồng và sống trọn tình,

trọn nghĩa với Vân Tiên: nàng giúp đỡ Lục ông; khi phải đi cống Phiên, Nguyệt

Nga đã dùng cái chết để giữ trọn trinh tiết; trốn vào rừng khi bị cha con Bùi Kiệm

ép duyên…

Đối lập với Vân Tiên, Nguyệt Nga và những ngƣời bạn chính trực, tốt bụng

nhƣ Tử Trực, Hớn Minh; những tôi tớ hết lòng với chủ nhƣ Tiểu đồng, Kim Liên;

những ngƣời sống trọn đời vì lẽ phải, vì nhân nghĩa nhƣ ông Quán, ông Ngƣ là gia

đình nhà Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm... Gia đình Võ Công ham lợi mà bội ƣớc,

bất nhân đẩy Vân Tiên đến cái chết. Ngƣời đời sẽ nhớ mãi và hả hê vì Võ Công

chết trong nhục nhã, mẹ con Võ Thể Loan bị cọp tha. Trịnh Hâm đang tâm trói

Tiểu đồng trong rừng, đẩy Vân Tiên xuống sông thì cuối cùng cũng bị sóng vùi, cá

nuốt. Cha con Bùi Kiệm vì xấu hổ phải bỏ xứ mà đi...

Thông qua hành động của ông Ngƣ, ông Tiều, đặc biệt là lời nói của ông

Quán, Nguyễn Đình Chiểu nêu lên chân lý của cuộc sống ngàn đời “ở hiền gặp

lành, ác giả ác báo”. Ông “ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” những con ngƣời

sống không có tình ngƣời, không có trách nhiệm với xã hội, trong đó có cả những

vua quan hung bạo, không biết lo cho dân cho nƣớc.

Dương Từ - Hà Mậu đƣợc Nguyễn Đình Chiểu viết để bảo vệ Nho giáo trƣớc

sự xâm nhập của các tôn giáo khác, từ đó vạch trần âm mƣu xâm lƣợc của thực dân

Pháp và nêu cao trách nhiệm của con ngƣời đối với gia đình, xã hội. Tác phẩm

xoay quanh hai nhân vật chính là Dƣơng Từ và Hà Mậu. Dƣơng từ theo đạo Phật,

Hà Mậu theo Công giáo, nhƣng cả hai đều hoài nghi về tôn giáo của mình và muốn

33

đi tìm chính đạo.

Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu phản ánh ba tƣ tƣởng – tôn

giáo đó là Nho giáo, Thiên chúa giáo và Phật giáo. Ông để cho Dƣơng Từ và Hà

Mậu đi khắp năm tầng trời: Thanh thiên, Xích thiên, Bạch thiên, Hắc thiên, Trung

thiên nhƣng chỉ thấy Khổng Tử chứ không hề thấy cổ nhân của đạo mình. Họ tiếp

tục đi xuống Địa ngục. Ở đây, Dƣơng Từ, Hà Mậu chứng kiến cảnh trừng phạt ghê

rợn nhƣ bị bầy chó dữ nhai đầu ăn gan, mãng xà cắn thây…

Qua các ngục, họ thấy rất nhiều loại ngƣời bị hành tội: Bọn đồng bóng lừa

ngƣời, bọn lang băm và bà mụ dốt làm ngƣời chết oan, bọn loạn luân, bọn con bất

hiếu, bọn cho vay nặng lại, bọn trộm cƣớp giết ngƣời, bọn thơ lại và hoạn quan sâu

dân mọt nƣớc, bầy tội gian tà, bất trung. Khác với lúc lên Thiên đƣờng, ở đây

Dƣơng Từ, Hà Mậu lại gặp rất nhiều ngƣời quen: Châu Phan, chú ruột vị danh y

Châu Kỳ, vì cắt lầm thuốc, hại oan mạng ngƣời, bị cho hóa kiếp làm dê đã nhờ Hà

Mậu về nói với Châu Kỳ đốt kinh và trau dồi đạo Nho; hòa thƣợng Trần Kỷ bị ném

cho rắn ăn tƣơi rồi hóa làm trâu trong chín kiếp. Tại đây, Hà Mậu gặp ông nội của

mình là Hà Năng, trƣớc khi bị hành tội, Hà Năng không quên dặn Hà Mậu về nói

với họ hàng bỏ đạo Thiên chúa để theo đạo Nho.

Khi Dƣơng Từ và Hà Mậu trở về trần gian, Xuân Tuyết và Thu Băng, con gái

của Hà Mậu cùng Dƣơng Trân và Dƣơng Bửu, con trai của Dƣơng Từ đã kết hôn

với nhau và từ bỏ Phật giáo và Thiên chúa giáo để theo đạo Nho.

Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca kể về hai nhân vật là Mộng Thê Triền và Bào

Tử Phƣợc, vì đất U Yên bị chia cắt nên về làm ẩn sĩ. Mộng Thê Triền làm tiều phu,

Dƣơng Tử Phƣợc làm nghề chài lƣới. Vợ con ốm đau, chết chóc, nên họ đi tìm

Nhân Sƣ để học nghề thuốc. Nhân Sƣ là một danh y đồng thời cũng là một nhà yêu

nƣớc đã xông mù mắt để khỏi trông thấy cảnh nƣớc mất nhà tan, và để từ chối

chức ngự y mà quân xâm lƣợc sắp ban cho ông.

Để đi đến Đan Kỳ là nơi Nhân Sƣ ở, Ngƣ và Tiều đã trải qua nhiều chặng

đƣờng nhƣ ải Nhân Xu, truông Âm Chất, am Bảo Dƣỡng… Trên đƣờng đi, họ gặp

34

hai ngƣời bạn cũ của mình và cũng là đệ tử của Nhân Sƣ đó là Chu Đạo Dẫn và

Đƣờng Nhập Môn. Đạo Dẫn và Nhập Môn giảng giải cho Ngƣ và Tiều rất nhiều về

nghề thuốc và đức làm ngƣời.

Giữa đƣờng, Đạo Dẫn đi tu tiên, Ngƣ và Tiều theo Nhập Môn tiếp tục đến

Đan Kỳ tìm Nhân Sƣ. Đến Đan Kỳ, họ gặp lại Đạo Dẫn và đƣợc Đạo Dẫn cho biết

vì vua Liêu nghe tiếng Nhân Sƣ giỏi chữa bệnh nên đến mời Nhân Sƣ vào làm ngự

y, nhƣng Nhân Sƣ không để kẻ thù lợi dụng nên đã xông mù mắt, rồi lánh về ở

Thiên Thai. Tuy Ngƣ và Tiều không đƣợc gặp Nhân Sƣ, nhƣng Nhân Sƣ đã để lại

hai bài dạy phép dùng thuốc, họ nhận hai bài thuốc đó rồi trở về quê.

Trên đƣờng trở về Ngƣ, Tiều bị lạc trong rừng nên vào trong miếu ngủ và mơ

màng thấy một toán quân dẫn thầy pháp, lang băm,… đi xử án vì ham tiền, chữa

không đúng bệnh làm hại đến tính mạng của ngƣời dân. Tỉnh ra, Ngƣ, Tiều mới

biết đó là những lời răn, do đó khi về nhà, cả hai ra công học thuốc cho thật giỏi.

Ngƣ chữa bệnh nhi khoa, Tiều chữa bệnh phụ khoa. Họ đều trở thành những thầy

thuốc lành nghề và chân chính.

Ba tác phẩm với ba cốt truyện khác nhau, chuyển tải những nội dung riêng

nhƣng cùng chung một mục đích, Nguyễn Đình Chiểu muốn bảo vệ đạo đức truyền

thống, bảo vệ Nho giáo, bảo vệ đất nƣớc.

2.1.1. Câu chuyện tình yêu

Cũng nhƣ hầu hết các truyện Nôm trƣớc Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu

xây dựng tác phẩm của mình xung quanh tình yêu của đôi nam nữ. Tuy nhiên, tình

yêu giữa Lục Vân Tiên và Nguyệt Nga khác với tình yêu của Thúy Kiều – Kim

Trọng trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, khác với Lƣơng Sinh và Dao

Tiên trong tác phẩm Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, và cũng khác với Phạm Kim

và Quỳnh Thƣ trong tác phẩm Sơ kính tân trang của Phạm Thái – những cặp đôi

tài tử giai nhân của một loại truyện Nôm đặc biệt. Trong loại truyện Nôm này, cặp

trai tài gái sắc thƣờng đƣợc miêu tả trong tình yêu đôi lứa, họ khao khát đƣợc thể

35

hiện, đƣợc sống với tình yêu của mình. Họ yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên và tìm

mọi cách để đƣợc gặp nhau. Họ có thể vƣợt qua những cản trở của lễ giáo để thỏa

mãn cảm xúc yêu đƣơng.

Trong Sơ kính tân trang, Phạm Thái xây dựng mối tình giữa chàng Phạm

Kim và Quỳnh Thƣ với tình yêu vô cùng mãnh liệt. Không chỉ có Phạm Kim đi

tìm, săn đón tình yêu mà ngay cà nàng Quỳnh Thƣ cũng vô cùng sôi nổi và táo

bạo. Phạm Kim gửi cho Quỳnh Thƣ bức thƣ tình với những lời yêu thƣơng chứa

tran, ngọt ngào:

“Oanh yến véo von gọi khách,

Cỏ hoa hớn hở mừng ai,

Gió xuân hây hẩy giục đưa người,

Dễ khiến lòng thơ bối rối.

Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu,

Thung thăng phấn bướm dồi mai.”

Hay:

“Lửa ân dập mãi sao không tắt

Bể ái khơi mà cũng chẳng vơi…”

Nhận đƣợc thơ của Phạm Thái, Quỳnh Thƣ không e dè mà đáp lại:

“Im ỉm màn sương đợi khách

Thênh thang cửa nguyệt chờ ai.

Giai nhân tài tử mấy lăm người?

Trạnh tưởng tâm tình thêm rối…”

36

Nguyễn Du với cặp Kim Kiều cũng có một lối biểu tả nhƣ vậy.

Nhƣng khi xây dựng cuộc gặp gỡ giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga

Nguyễn Đình Chiểu không để cho họ sống trong tình cảm yêu đƣơng đôi lứa. Đặc

biệt đối với Lục Vân Tiên, trƣớc khi nghe cha kể về những việc làm của Nguyệt

Nga, không có đoạn nào Nguyễn Đình Chiểu để Vân Tiên nghĩ tới Nguyệt Nga.

Trong lần gặp gỡ đầu tiên, ngay cả việc nhìn Nguyệt Nga, Vân Tiên cũng không

làm và còn nhắc Nguyệt Nga:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái ta là phận trai.”

Từ giã Nguyệt Nga, Vân Tiên nghe theo cha mẹ nhận lời giao ƣớc với Võ

Thể Loan và rồi quyết chí thực thi con đƣờng công danh của mình. Không may gặp

nạn, Vân Tiên vẫn chỉ nhớ tới gia đình Võ Thể Loan, tới mối nhân duyên do cha

mẹ định. Đến khi biết tình nghĩa của Nguyệt Nga,Vân Tiên xúc động, cảm thƣơng,

tôn trọng Nguyệt Nga bởi cách cƣ xử trọng tình, trọng nghĩa, trọng hiếu, trọng

trung, chứ không phải vì xao xuyến vì vẻ đẹp của Nguyệt Nga.

Về phần Nguyệt Nga, sau khi đƣợc Vân Tiên cứu, vì cảm phục hành động

trƣợng nghĩa của Vân Tiên mà “vƣơng chữ tình” và vì thế, nàng nguyện gắn bó với

ân nhân của mình. Ở Nguyệt Nga, tình yêu gắn liền với nghĩa, đạo vợ chồng chứ

không phải là sự khao khát cảm xúc đôi lứa. Khi biết tin Vân Tiên chết, Nguyệt

Nga vì tình nghĩa vợ chồng mà về làm lễ cho Vân Tiên, và vì đạo làm con mà giúp

Lục ông. Chúng ta không khỏi bùi ngùi, thƣơng xót và cảm phục tấm lòng của

Nguyệt Nga:

“Ngày lành giờ Ngọ đăng đàn,

Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.”

“Bảy ngày rồi việc ma chay,

Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:

37

Trông chồng mà chẳng thấy chồng,

Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.

Rày vua gả thiếp về Phiên,

Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.

Chẳng chi cũng gọi con dâu,

Rộng lo nợ nước phải sau tình nhà.

Một ngày một bước một xa,

Của này để lại cho cha dưỡng già.”

Nguyệt Nga quyết thủ tiết với Vân Tiên nên đã tự tử trên đƣờng đi đến nƣớc

Ô Qua:

“Vân Tiên anh hỡi có hay,

Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng !

Than rồi lấy tượng vai mang,

Nhằm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.”

Nếu các cặp đôi khác của truyện Nôm đến với nhau bởi tình yêu thì Lục Vân

Tiên và Kiều Nguyệt Nga lại gắn kết với nhau bởi nghĩa. Vân Tiên cứu Nguyệt

Nga là một hành động rất tự nhiên nhƣ bản năng vốn có, nhƣng hành động trƣợng

nghĩa đó lại tạo đƣợc ấn tƣợng mạnh đối với Nguyệt Nga, và vì hành động đó mà

Nguyệt Nga đã nguyện làm vợ Vân Tiên. Sau này, cũng nhƣ Lục Vân Tiên,

Nguyệt Nga làm lễ cho Vân Tiên, giúp đỡ Lục ông cũng là những hành động vô

cùng tự nhiên và Vân Tiên cũng lại cảm phục Nguyệt Nga vì hành động mang đầy

nghĩa tình đó. Và nhờ nghĩa tình mà hai ngƣời có thể đến với nhau một cách toàn

vẹn. Dù nói đến cái tình, và câu chuyện xoay quanh hai nhân vật với mối tình

chung thủy, nhƣng ở đây, Nguyễn Đình Chiểu không đề cao khát khao yêu đƣơng

của cá nhân, mà là thể hiện con ngƣời ở mặt đạo đức, nhân nghĩa. Tình cảm nảy

38

sinh, duy trì, nuôi dƣỡng bởi cách sống có tính có nghĩa, vẹn đức vẹn tài.

Trong cả ba truyện Nôm của mình, Nguyễn Đình Chiểu đều có câu chuyện

tình yêu, tình cảm gia đình nhƣng trong đó chỉ có Lục Vân Tiên là truyện nói về

chủ đề tình yêu đôi lứa. Trong truyện Dương Từ - Hà Mậu, tác giả có nói về tình

yêu của Xuân Tuyết, Thu Băng và Dƣơng Trân, Dƣơng Bửu, nhƣng đây không

phải là nội dung chính mà chỉ xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm. Dương Từ - Hà

Mậu là tác phẩm chủ yếu nói việc chọn đạo, Nguyễn Đình Chiểu viết tác phẩm là

muốn con ngƣời hƣớng đến Nho giáo, bài bác đạo Phật và đạo Thiên chúa. Trong

tác phẩm Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, ngoài nội dung dạy nghề làm thuốc,

Nguyễn Đình Chiểu thông qua đó thể hiện lòng yêu nƣớc, thƣơng dân trong cảnh

loạn lạc, và muốn giáo dục những ngƣời thầy thuốc, giữ đúng đạo của mình để cứu

dân độ thế.

Ở hai tác phẩm đó, Nguyễn Đình Chiểu không cho nhân vật của mình thể

hiện tình yêu cá nhân, mà tình yêu này gắn liền với đạo đức xã hội. Tình yêu phải

gắn với Trung, Hiếu, Tiết Nghĩa. Nếu các tác giả thuộc tầng lớp quý tộc cảm thấy

chật chội, gò bó bởi luật lệ hủ tục của thời phong kiến suy tàn, thì Nguyễn Đình

Chiểu là nhà Nho có cuộc sống gần gũi với nhân dân, vì vậy đời sống không bị

ngột ngạt bởi luật lệ, hủ tục của phong kiến. Hơn nữa, đối với những ngƣời dân lao

động nghèo khổ, có lẽ, tình yêu không phải là thứ duy nhất mà họ quan tâm. Và

Nguyễn Đình Chiểu luôn ý thức “văn học có một nguồn gốc thiêng liêng, một chức

năng xã hội cao cả, tổ chức, hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội” [63, tr.36].

Vì thế, dù Lục Vân Tiên nói đến tình yêu đôi lứa, thì tình yêu này là để treo gƣơng

cho con ngƣời trong xã hội. Là tình yêu cá nhân nhƣng đồng thời đi song hành,

chịu ảnh hƣởng của các mối quan hệ trong xã hội. Với Nguyễn Đình Chiểu, hạnh

phúc lứa đôi viên mãn khi họ đã thực hiện đúng và đủ tránh nhiệm của mình đối

với ngƣời và với đời.

Theo Trần Ngọc Vƣơng: “Chủ đề quán xuyến toàn bộ sáng tác của Nguyễn

Đình Chiểu, vừa thể hiện lý tưởng chính trị xã hội của ông, vừa định hướng đam

mê của ông, hơn thế quy định hành vi đời sống của ông, là chủ đề bảo vệ và thực

39

hành Nho giáo” [35, tr.25]. Do đó, chúng ta thấy, không có một nhà nho khó tính

nào có thể bắt bẻ đƣợc Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu

đồng…. Bên cạnh đó, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca là

những tác phẩm đề cao cách hành xử theo chuẩn mực của Nho giáo. Nguyễn Đình

Chiểu dùng cả cuộc đời của mình để bảo vệ Nho giáo, vì vậy Lục Vân Tiên, Kiều

Nguyệt Nga của ông không lẫn với Kim Trọng, Thúy Kiều, Lƣơng Sinh, Đạo Tiên,

Phạm Thái, Quỳnh Thƣ.

Tình hình lịch sử - xã hội cuối thế kỷ XIX cũng là lý do tác động đến chủ đề

trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX

dùng để thể hiện tình yêu nƣớc, yêu dân tộc. Giai đoạn này Pháp xâm lƣợc nƣớc ta,

tầng lớp thống trị mục nát và làm tay sai cho giặc, nhân dân lâm vào cảnh nƣớc

mất nhà tan. Tình hình chính trị đòi hỏi những nhà nho yêu nƣớc đứng về phía

nhân dân để đấu tranh. Vì vậy, chủ đề yêu nƣớc trong văn học thời kỳ này phát

triển mạnh mẽ. Nếu cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX con ngƣời cá nhân

đƣợc đặc biệt quan tâm, thì đến cuối thế kỷ XIX, lại đề cao con ngƣời sống theo

bổn phận và nghĩa vụ, thủ tiêu cá nhân. Cuối thế kỷ XIX, con ngƣời không phải là

những giai nhân – tài tử hào hoa lịch thiệp, yêu đƣơng tự do, đối lập với quan niệm

khắt khe của Nho giáo, cũng không phải ngƣời anh hùng tung hoành ngang dọc mà

là những ngƣời yêu nƣớc chống Pháp, những anh hùng chân chính của nhân dân,

giúp dân giúp nƣớc chống giặc ngoại xâm và bảo vệ đất nƣớc.

Những luận điểm trên cho chúng ta cái nhìn bao quát quan niệm của Nguyễn

Đình Chiểu về tình yêu đôi lứa và cũng có thể cắt nghĩa đƣợc tại sao Dương Từ -

Hà Mậu, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca không tập trung thể hiện chủ đề tình yêu

đôi lứa.

2.1.2. Chủ đề đạo nghĩa

Là một nhà nho thấm nhuần tƣ tƣởng của Khổng Tử nên Nguyễn Đình Chiểu

muốn xã hội phát triển theo đƣờng hƣớng đức trị. Ba truyện Nôm của ông đƣợc

sáng tác ở những thời điểm khác nhau trong giai đoạn lịch sử - xã hội đầy biến

động. Vì thế, ở mỗi một tác phẩm, đạo nghĩa theo quan niệm của ông đƣợc nhấn

40

mạnh ở các phƣơng diện khác nhau.

Tác phẩm Lục Vân Tiên ra đời trong khoảng những năm năm mƣơi của thế kỷ

XIX. Xã hội thị dân ở Nam Kỳ phát triển, việc giao lƣu về kinh tế và văn hóa với

các nƣớc lân cận diễn ra mạnh mẽ nên tƣ tƣởng – tín ngƣỡng của ngƣời dân có

nhiều xáo trộn. Từ đó dẫn đến một bộ phận quần chúng bị tha hóa, không hành xử

đúng với giá trị đạo đức truyền thống. Trƣớc biến động đi xuống về mặt đạo đức

nhƣ vậy, Nguyễn Đình Chiểu đề cao những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Nhƣ đã

phân tích, Nho giáo ở Nam Kỳ đƣợc nhân dân hóa nên mang nhiều yếu tố đạo đức

của xã hội. Vì vậy, đạo nghĩa mà Nguyễn Đình Chiểu thể hiện là sự kết hợp nhuần

nhuyễn giữa tƣ tƣởng của Nho giáo và đạo trời, đạo ngƣời trong xã hội. Lấy dân

làm gốc, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện thái độ yêu ghét của mình đối với những con

ngƣời làm trái với đạo làm ngƣời, đạo của trời đất. Ông lên án những ông vua, ông

quan không làm đúng trách nhiệm của mình. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, ông

Quán thẳng thắn thể hiện thái độ yêu ghét đứng trên lập trƣờng của dân và vì lợi

ích của dân. Nguyễn Đình Chiểu phê phán những ông vua vô nhân đức:

“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U, Lệ đa đoan,

Để dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngũ Bá phân vân,

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời Thúc Quý phân bang,

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.”

Theo Nguyễn Đình Chiểu trung quân chỉ thể hiện với những ông vua biết lo

cho nƣớc cho dân. Và nếu “tấc đất ngọn rau ơn chúa” thì cha mẹ có công ơn sinh

thành, dƣỡng dục, vì vậy, Nguyễn Đình Chiểu mong muốn con ngƣời phải hiếu

41

thuận với cha mẹ. Lục Vân Tiên lập công danh để đền đáp công ơn của cha mẹ:

“Làm trai trong cõi người ta,

Trước là báo bổ sau là hiển vang.”

Trƣớc ngày thi, hay tin mẹ mất, Lục Vân Tiên đau xót vô cùng:

“Thương thay chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.”

Khi đến phần mộ của mẹ, Lục Vân Tiên nghẹn ngào:

“Tưởng bề nguồn nước cội cây,

Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng.”

Trong mối quan hệ gia đình, hiếu với cha mẹ thôi chƣa đủ, mà vợ chồng phải

chung thủy với nhau. Nguyệt Nga là hình mẫu của ngƣời vợ trọn tình trọn nghĩa

với chồng. Khi hay Vân Tiên chết, Nguyệt Nga đau xót và bộc bạch với cha:

“Thân con còn đứng giữa trời,

Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi.”

Tình cảm bạn bè đƣợc Nguyễn Đình Chiểu xây dựng qua mối quan hệ của Tử

Trực, Hớn Minh và Lục Vân Tiên. Trong tình cảm bạn bè cũng cần có sự chung

thủy, một ngày là bạn cả đời là bạn. Tình bạn trở thành tình nghĩa anh em, giúp đỡ

nhau lúc hoạn nạn. Hớn Minh coi Vân Tiên nhƣ ngƣời anh em của mình, nên quỳ

lạy ông Tiều vì đã cứu Vân Tiên:

“Hớn Minh quỳ gối lạy liền:

Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành.”

Khi nghe tin Vân Tiên chết, Tử Trực than khóc:

“Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,

42

Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.

Than rằng: Chạnh nhớ linh xưa,

Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.”

Và thẳng thắn, quyết liệt từ chối lấy Võ Thể Loan:

“Trực rằng: “Ngòi viết đĩa nghiên,

Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau

Vợ Tiên là Trực chị dâu,

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.”

Tình nghĩa thầy trò, chủ tớ đƣợc Nguyễn Đình Chiểu xây dựng thật cảm

động. Tình cảm của Tôn sƣ đối với Lục Vân Tiên thật đáng kính trọng. Biết tƣơng

lai của Lục Vân Tiên còn nhiều gian nan, Tôn sƣ lo lắng:

“Rày con xuống chốn phong trần,

Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.

Chẳng may mà gặp lúc nghèo,

Xuống sông cũng vững lên đào cũng an.”

Nói đến tình nghĩa giữa chủ và tớ, không thể không nhắc đến mối quan hệ

giữa Lục Vân Tiên và Tiểu đồng. Ở đây không còn khoảng cách giữa chủ và tớ,

Vân Tiên lo lắng cho Tiểu đồng còn hơn bản thân mình, Tiểu đồng đứng trƣớc cái

chết vẫn lo cho Vân Tiên:

“Phận mình đã mắc tai nàn,

Cảm thương họ Lục suối và bơ vơ.

Xiết bao những nỗi dật dờ,

43

Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.”

Tình chủ tớ giữa Nguyệt Nga và Kim Liên cũng bị xóa nhòa, Nguyệt Nga coi

Kim Liên nhƣ ngƣời em của mình, và trƣớc sự đau xót khi biết Nguyệt Nga đã

chết, Kim Liên còn lo cho cha của Nguyệt Nga nên đã thế chỗ đi cống Phiên. Hành

động của Kim Liên vƣợt qua giới hạn của mối quan hệ chủ tớ, cao hơn cả tình bạn,

đó là tình cảm gia đình.

Nguyễn Đình Chiểu khuyến khích con ngƣời trong xã hội làm việc nghĩa, biết

giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, không cần trả ơn. Vân Tiên không sợ nguy hiểm, quên

thân cứu Nguyệt Nga và coi việc cứu ngƣời là nhiệm vụ không cần báo đáp:

“Vân Tiên nghe nói liền cười:

Làm ơn há dễ trông người trả ơn.”

Trong Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, ngƣời thầy thuốc đem tất cả trách

nhiệm, tình thƣơng của mình để giúp ngƣời bệnh mà không cần công:

“Giúp người chẳng vụ tiếng danh,

Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghẻ tài.”

Những giá trị đạo đức trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời đƣợc

Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh trong tác phẩm Lục Vân Tiên vẫn còn đƣợc duy trì

và đề cao trong tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu. Tuy nhiên, đứng trƣớc sự xâm lƣợc

của thực dân Pháp, biết đƣợc mƣu đồ dùng Thiên chúa giáo để nhằm thống trị Nam

Kỳ, Nguyễn Đình Chiểu đã tập trung đề cao con ngƣời sống có trách nhiệm với

bản thân mình, với đất nƣớc mình, với nhân dân mình. Nguyễn Đình Chiểu lên án

những ngƣời theo đạo Phật, sống thiếu trách nhiệm với đất nƣớc, vi phạm những

đạo đức xã hội:

“Phán rằng: Mày thật ác tăng,

Bản rao tiếng Phật, kiếm ăn bày lời.

Đã không phương pháp giúp đời,

44

Lại làm ác nghiệp dối trời cao xa.”

Lời Hán Dũ hiển linh, mắng Dƣơng Từ đã tập trung vào điểm yếu của Phât

giáo với trách nhiệm của con ngƣời đối với gia đình và xã hội:

“Tổ tiên chút đã đền chi,

Vùa hương bát nước, nào khi phụng thờ ?

Áo cơm còn nợ sờ sờ;

Lá rau, con cá, ở nhờ đất vua.

Trốn xâu, trốn thuế, vô chùa,

Trong đời những sãi thời vua nhờ gì?

Vợ chồng sao bỏ nhau đi?

Lời nguyền dường ấy dám khi quỷ thần!”

Nguyễn Đình Chiểu cũng chỉ ra tác hại của Thiên chúa giáo tới đời sống của

con ngƣời. Việc theo đạo Thiên chúa là nƣớc mất nhà tan:

“Bao người theo đạo Tây phương,

Phước lành chưa thấy tai ương tới mình.

Trên thời nghiêng nước, nghiêng thành,

Dưới thời nhà cửa tan tành xiết bao”

Nguyễn Đình Chiểu phê phán Thiên chúa giáo, vạch rõ hiện thực hiển nhiên

đang diễn ra trƣớc măt là Pháp đã lợi dụng Thiên Chúa giáo, lợi dụng giáo dân để

cƣớp nƣớc ta:

“Dâm mà mê đạo Tây rồi,

Nước người muốn lấy mất hồi phòng lo.”

Với việc bảo vệ Nho giáo để nhằm phục vụ dân, phục vụ nƣớc, ngoài việc lên

án, phê phán đƣờng hƣớng sai lầm của đạo Phật, vạch trần âm mƣu cƣớp nƣớc ta

bằng việc sử dụng Thiên chúa giáo của thực dân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu dựa

vào đạo đức đời sống, ông cũng lên án những ngƣời lợi dụng Nho giáo vào việc bất

45

chính. Để đảm bảo sự trong sạch của đạo Nho cũng nhƣ từ đó phát huy hết chức

năng của nó Nguyễn Đình Chiểu thẳng thắng phê phán những nhà Nho đi lệch với

chuẩn mực của Nho giáo:

“Nhiều người theo đạo Nho ta,

Tiếng đồn hay chữ vậy mà làm nhăng!”

Ông còn khẳng định:

“Trời sinh có một đạo Nho,

Ngàn nghề muôn nghiệp đều lò ấy ra.”

Khi các cuộc khởi nghĩa của nhân dân thất bại, Pháp chiếm đƣợc Nam Kỳ,

Nguyễn Đình Chiểu đã phải mƣợn lối dụ ngôn để gửi gắm lý tƣởng không thay đổi

của mình. Trong tác phẩm Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, Kỳ Nhân Sƣ là ngƣời

thầy thuốc có tấm lòng nhân đạo, rộng lớn:

“Như vầy mới phải gọi thầy,

Giúp công hóa đức, giúp bầy dân đen.”

“Thấy người đau giống mình đau,

Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.

Đứa ăn mày cũng trời sanh,

Bệnh còn cứu đăng, thuốc đành cho không.”

Kỳ Nhân Sƣ cũng nhấn mạnh về việc giữ gìn truyền thống Nho gia để giữ

nƣớc:

“Dù đui mà giữ đạo nhà,

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.”

Nguyễn Đình Chiểu đề cao xã hội đức trị theo quan điểm của Nho giáo. Bởi

vậy, ông luôn muốn con ngƣời phải biết điều hòa các mối quan hệ, hành xử theo

đúng trách nhiệm của bản thân để duy trì các mối qua hệ vua tôi, cha con, anh em,

vợ chồng và từ những mối quan hệ gia đình đó ứng vào các mối quan hệ xã hội

46

khác nhƣ thầy trò, chủ tớ, bạn bè… Có nhƣ vậy xã hội mới yên bình thịnh trị.

2.2. Các hình thức kể chuyện của Nguyễn Đình Chiểu

2.2.1. Phương thức kiến tạo cốt truyện

Trong ba truyện Nôm của mình, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng cốt truyện

theo hai hình thức. Hình thức thứ nhất là truyện Lục Vân Tiên với số phận cặp nam

nữ có tình duyên với nhau của truyện Nôm bình dân. Hình thức thứ hai là nhân vật

đi du hành tìm đạo, tìm chân lý của cuộc sống, đó là truyện Dương Từ - Hà Mậu và

Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca. Khi xây dựng những hình thức biểu đạt này,

Nguyễn Đình Chiểu muốn thông qua đó để định hƣớng con ngƣời sống theo những

giá trị đạo đức.

Lục Vân Tiên không đƣợc Nguyễn Đình Chiểu cấu trúc theo kiểu nhân vật tài

tử - giai nhân mà theo kiểu nhân vật trai anh hùng - gái thuyền quyên để đề cao

trung hiếu, tiết nghĩa. Lục Vân Tiên là một điển hình anh hùng nghĩa hiệp, hiếu với

cha mẹ, trung với vua, trọn đạo với vợ, trọn nghĩa với ân nhân, bạn bè, tôi tớ và hết

lòng cứu dân. Cứu Nguyệt Nga khỏi đám cƣớp là việc nghĩa đầu tiên Lục Vân

Tiên. Tai biến của Lục Vân Tiên không do những nguyên nhân giống nhƣ Mai

Lƣơng Ngọc, Lƣơng Sinh ở khía cạnh tình yêu mà do lòng hiếu thảo đối với cha

mẹ.

Nguyệt Nga là ngƣời con gái chung thủy, nết na và chu đáo mọi bề. Nàng ứng

xử trọn đạo đối với Vân Tiên, đối với cha chồng, với nƣớc. Để cho Nguyệt Nga

đơn phƣơng ôm ấp hình ảnh Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao lòng chung

thủy của nàng. Nàng càng trung thành với lời thề nguyện gắn bó với Lục Vân Tiên

bao nhiêu thì phẩm hạnh càng sáng rực bấy nhiêu.

Lục Vân Tiên không phải là một câu chuyện tình ái, nó không thuộc hạng tài

tử - giai nhân dù các yếu tố của một tác phẩm diễm tình cũng đã hội đủ. Điều mà

Nguyễn Đình Chiểu quan tâm ở đây là các vấn đề đạo đức. Thông thƣờng, nhân

vật trong các truyện Nôm là cặp tài tử - giai nhân, đƣợc tác giả dồn sức chăm chút

cho cái tài, cái sắc ở mức cao nhất vì tài và sắc là nhân tố chi phối trực tiếp đến đời

sống nhân vật, là đầu mối của câu chuyện. Với một quan niệm nhƣ vậy, Nguyễn

Du, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Hữu Hào cũng nhƣ một số tác giả truyện Nôm khác

47

trong mạch truyện tài tử - giai nhân nhất định phải đề cao dung nhan tuyệt mỹ của

ngƣời phụ nữ và tài siêu việt phi thƣờng của ngƣời nam. Khác với thƣờng lệ đó,

Nguyễn Đình Chiểu không chú ý lắm đến tài sắc của nhân vật chính, mặc dù

Nguyệt Nga cũng là một bậc giai nhân và Vân Tiên cũng là một đấng anh hào. Ở

đây vai trò của tài sắc đối với sự phát triển của câu chuyện không đáng kể. Sự gặp

gỡ của hai nhân vật chính không phải do tài sắc mà nên. Nguyệt Nga cảm mến Vân

Tiên trƣớc hết bởi nghĩa khí, đức độ của chàng, còn Vân Tiên đến với Nguyệt Nga

cũng không phải do sắc đẹp mà vì tấm lòng thủy chung. Nếu nhƣ Thúy Kiều và

Kim Trọng ngay từ cái nhìn đầu tiên tình cảm đã hình thành: Người quốc sắc, kẻ

thiên tài/ Tình trong như đã mặt ngoài còn e, thì giữa Vân Tiên và Nguyệt Nga câu

đầu Vân Tiên đã hỏi: Hỏi ai than khóc ở trong xe này ?/ Tiểu thư con gái nhà ai ?/

Đi đâu đến nỗi mang tai bất kỳ ?/ Chẳng hay tên họ là chi ?/ Khuê môn phận gái

việc dì đến đây ? Đây là lời của bậc nghĩa hiệp. Ở Truyện Kiều, Kim – Kiều đã bắt

đầu nghĩ đến nhau, gặp nhau trong ý tƣởng với chữ tình, chữ duyên: Trăm năm biết

có duyên gì hay không/ Nghĩ duyên mình, nghĩ phận mình/ Ví chăng duyên nợ ba

sinh/ Ba sinh âu hẳn duyện trời chi đây. Còn Nguyệt Nga thì nghĩ đến Vân Tiên

bằng chữ ân nghĩa: Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây/ Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại

vương/ Còn lo hai chữ ân tình chưa xong/ Chữ ân để dạ, chữ duyên nhuốm sầu/

Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền…

Đối với Nguyễn Đình Chiểu, điều cốt lõi nhất trong quan niệm về con ngƣời

là vấn đề đạo đức. Nhân vật trong tác phẩm của ông gần nhƣ đƣợc đồng nhất với

khái niệm thuộc phạm trù đạo đức, là biểu tƣợng về đạo đức, phục vụ cho nhu cầu

truyền bá đạo đức. Điều này đƣợc thể hiện một cách nổi bật và nhất quán trong hai

câu thơ: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. Nhân

vật của ông là những tấm gƣơng sáng, những hình mẫu để con ngƣời soi vào, noi

theo, hoặc để răn mình, tránh xa. Có thể khái quát cuộc đời của Vân Tiên từ khi

xuất hiện cho đến cuối truyện là một cuộc hành trình khổ ải để bồi đắp đạo đức của

mình mỗi ngày một cao thêm.

Hình thức nhân vật đi du hành để tìm ra chính đạo, chân lý đƣợc Nguyễn

Đình Chiểu xây dựng trong tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp

48

nho y diễn ca. Để đạt đƣợc mục đích giáo huấn trong tác phẩm, Nguyễn Đình

Chiểu muốn truyền tới ngƣời nghe, ngƣời đọc cảm giác có căn cứ, có gốc tích điều

ông kể bằng cách viện dẫn và mô phỏng về không gian thời gian khác nhau để cho

nhân vật có thể trực tiếp chứng kiến, quan sát và rút ra kết luận.

Trong tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu, để hai nhân vật chính có thể nhận ra

đƣợc chính đạo – đạo Nho, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng ba thế giới đó là trần

gian, thiên đƣờng, địa ngục. Việc du hành ở Thiên đƣờng, Địa ngục giúp Dƣơng

Từ và Hà Mậu nhận ra đƣợc chính đạo. Đi khắp năm tầng trời Dƣơng Từ, Hà Mậu

không tìm đƣợc những ngƣời theo đạo của mình. Khi xuống đến Địa ngục, họ thấy

những ngƣời theo đạo của mình giãy giụa, đau khổ trƣớc hình phạt vì lỗi lầm đã

mắc phải. Ở đây Chúa không cứu nổi con chiên, Phật không cứu nổi phật tử và

chúng sinh thoát khỏi nghiệp chƣớng. Vì vậy, Dƣơng Từ đã khẳng định: Ta còn

phải đi tìm làm chi?/ Thấy vầy cũng biết thị phi/ Đã đành trót phận quy y lầm

đàng; còn Hà Mậu: Họ Hà thưa việc luôn hồi/ Rằng: Ta mới rõ đạo tôi tây tà. Từ

đó, Nguyễn Đình Chiểu để cho Tôn sƣ giải thích bình luận để giúp Dƣơng Từ, Hà

Mậu hiểu rõ hơn về đạo Thiên chúa, đạo Phật và đạo Nho. Nên: Dương Từ hai họ

liền quỳ/ Hỏi rằng: Nho đạo dám bì tiên chăng? Tôn sư thong thả đáp rằng: Đạo

Tiên cũng ở trong lòng đạo Nho. Bằng việc trình bày cụ thể, sinh động thế giới địa

ngục và thiên đƣờng với hình ảnh: Ngồi trong kiệu bạc tán vàng/ Một ông Khổng

Tử dung nhan hòa lành, thật không khó để Nguyễn Đình Chiểu đƣa ngƣời tiếp

nhận tác phẩm đến với đạo Nho.

Mộng Thê Triền và Bào Tử Phƣợc trong tác phẩm Ngư tiều vấn đáp nho y

diễn ca cũng có quá trình du hành để tìm chân lý của cuộc sống. Trong quá trình đi

tìm Kỳ Nhân Sƣ, Ngƣ và Tiều gặp đƣợc bạn cũ là Đƣờng Nhập Môn và Châu Đạo

Dẫn chỉ cho không riêng nghề thuốc mà còn đạo làm ngƣời nên cả hai quyết định

làm thầy thuốc để chữa bệnh cứu giúp những ngƣời dân nghèo.

Bằng những lời vấn đáp, Ngƣ và Tiều đƣợc chỉ cặn kẽ về nghề y, lại đƣợc

Đạo Dẫn kể về tấm gƣơng Thần Nông: Từ xưa có họ Thần Nông/ Thay trời trị vật

tấm lòng yên dân/ Trải đi nếm vị khố tân/ Một ngày hơn bảy mươi lần trúng

49

thương/ Thử rồi muôn vật âm dương/ Dọn làm bàn thảo để phương cứu đời. Bên

cạnh đó, Đƣờng Nhập Môn nhắc nhở: Xưa rằng: Thầy thuốc học thông/ Thể theo

trời đất một lòng hiếu sinh/ Giúp đời chẳng vụ tiếng danh/ Chẳng màng của lợi,

chẳng ganh ghẻ tài. Và đồng thời, Nhập Môn chỉ ra những việc làm vô bổ: Cúng

cho chùa miếu, nào ai chứng lòng/ Trong mình thảo thuận vốn không/ Gọi là làm

phước, phước trồng vào đâu? Hơn nữa, Ngƣ và Tiều biết đƣợc tấm lòng yêu nƣớc

thƣơng dân của Kỳ Nhân Sƣ nên cả hai quay về học nghề y để giúp dân nghèo.

Tiều rằng: Nay xin cối lốt lão tiều/ Làm ông thầy thuốc tiêu diêu cứu đời; Ngư

rằng: Ta bởi có ngươi/ Gắng công cũng đặng làm người tri y. Với hình thức du

hành để tìm ra chân lý của cuộc sống, giúp cho Ngƣ và Tiều không còn băn khoăn,

lấn cấn, nghi ngờ gì về sự lựa chọn của mình, bởi tận mắt thấy, tận tai nghe, đƣợc

chứng kiến, đƣợc trải nghiệm và rút ra đƣợc chân lý sống cho mình.

Nhƣ vậy, hành trình kiếm tìm chân lý, hành trình tu rèn đạo đức theo quan

niệm Nho giáo chính là nét riêng biệt của Nguyễn Đình Chiểu khi tạo ra những cốt

truyện thơ của mình.

2.2.2. Xây dựng nhân vật

Điều cốt lõi trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu là vấn đề đạo đức, vì vậy

các nhân vật trong tác phẩm của ông gần nhƣ đƣợc đồng nhất với phạm trù đạo đức

và là biểu tƣợng của đạo đức. Nhân vật của Nguyễn Đình Chiểu hoạt động xoay

quanh trục đạo lý.

Khi giới thiệu nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu không chú trọng về ngoại hình.

Một số nhân vật đƣợc tác giả miêu tả ngoại hình nhƣ Kiều Nguyệt Nga: Con ai vóc

ngọc mình vàng/ Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng; Lục Vân Tiên: Dân nghe

tiếng nói khoan thai/ Qua xem tương bậu thơ ngây đã đành/ Liếc coi tướng mạo

Vân Tiên/ Khá khen họ Lục phước sanh con hiền. Mày tằm mắt phượng môi son;

Hớn Minh: Xem ra mặt mũi đen sì/ Mình cao sồ sộ dị kỳ rất hung… giúp ngƣời đọc

hình dung đƣợc tính cách cũng nhƣ cuộc đời của họ. Nguyệt Nga “má đào mày

liễu” nhƣng “dung nhan lạnh lùng” cho chúng ta cảm giác nàng là một mỹ nhân có

chính kiến, mạnh mẽ, đó nhƣ là một thông tin để chúng ta có thể hiểu thêm về

50

những hành động tự chọn Vân Tiên làm chồng, thăm cha thờ chồng, trẫm mình

tuẫn tiết và kiên nghị trƣớc lời nói ngon ngọt của cha con Bùi Kiệm. Vì “dung

nhan lạnh lùng” nhƣ thế nên Nguyệt Nga đã giữ đƣợc phẩm giá đạo đức của mình.

Với Vân Tiên, ngoại hình nhƣ vậy sẽ là ngƣời có hậu về sau. Xây dựng ngƣời anh

hùng Hớn Minh bằng ngoại hình kỳ dị, và Nguyễn Đình Chiểu đã cho Vân Tiên

bộc lộ con ngƣời của Hớn Minh ngay tức thì: “Hễ người dị tướng ắt là tài cao”.

Những nhân vật còn lại trong hệ thống nhân vật truyện Nôm của Nguyễn Đình

Chiểu không đƣợc chú trọng khắc họa về mặt ngoại hình mà tập trung vào lời giới

thiệu. Họ Hà tên Mậu người khôn/ Thứ này đến thứ họ Dương/ Làm người chút

biết văn chương gọi là/ Có tên rằng Mộng Thê Triền/ Tên rằng Tử Phược họ Bào,

làm ngư… Thông qua lời giới thiệu và hành động, Nguyễn Đình Chiểu để cho

nhân vật của mình bộc lộ tính cách, đạo đức, tài năng. Qua việc đối đáp khi ứng

thơ đã thấy Tử Trực là một ngƣời có tài, có đức. Đối với Trịnh Hâm, tác giả giới

thiệu: Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn. Khi thi làm thơ phân tài cao thấp,

trong khi Vân Tiên và Tử Trực đã làm xong thì Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ/ Hâm

rằng lão quán nói nhăng/ Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm, lời nhận xét của

ông Quán: Kiệm Hâm là đứa so đo/ Trịnh Hâm lòng dạ gươm dao/ Bắt người đồng

tử trói vào gốc cây/ Trịnh Hâm khi ấy rất cay/ Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời/

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời… Những hành động, lời nói của các nhân vật cho

thấy đƣợc con ngƣời của Trịnh Hâm. Hớn Minh đƣợc mọi ngƣời cảm phục về nhân

nghĩa bằng hành động: Tôi bèn nổi giận một khi/ Vật chàng xuống đất bẻ đi một

giò. Con ngƣời Thể Loan hiện rõ thông qua hành động: Kể từ định chước hại

chàng/ Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui/ Thể Loan trong cửa bước ra/ Miệng

chào: Thầy cử tân khoa mới về/ Thiếp đà chẳng trọn lời thề/ Lỡ bề sửa trắp lỡ bề

nưng khan/ Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng/ Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy/

Chẳng ưng thời cũng làm khuây/ Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng…

Tập trung vào hành động để nhân vật thể hiện đạo đức nên Nguyễn Đình

Chiểu ít để cho nhân vật của mình đƣợc một mình suy tƣ, ngẫm nghĩ về nhân tình

thế thái, ông ít chú trọng đến sự vận động của thế giới nội tâm mà chỉ tập trung vào

hành động của nhân vật. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của Vân Tiên và Kiều Nguyệt

51

Nga, là một đoạn có thể giúp nhân vật thể hiện nhiều trạng thái cảm xúc, tâm lý

nhƣng Nguyễn Đình Chiểu không làm nhƣ vậy. Hành động cứu Kiều Nguyệt Nga

bắt đầu từ câu 123 cho đến khi hai ngƣời chia tay nhau ở câu 245, có tới 122 câu

thơ, nhƣng trong đó chỉ có 36 câu Nguyễn Đình Chiểu cho hai nhân vật biểu lộ

cảm xúc, còn lại 86 câu là miêu tả hành động của nhân vật. Với một đoạn thơ duy

nhất trong ba tác phẩm miêu tả về nhân duyên của trai tài gái sắc mà tỷ lệ những

câu biểu tả cảm xúc so với hành động ít nhƣ vậy, cho chúng ta thấy Nguyễn Đình

Chiểu không đặt nặng vấn đề cảm xúc tâm lý. Cùng trong cảnh ngộ tƣơng tƣ

nhƣng Thúy Kiều đƣợc Nguyễn Du dành 50 câu thơ để Kiểu bày tỏ nỗi phấp

phỏng, ngờ vực, ngổn ngang, khắc khoải trong lòng, nhƣng Nguyệt Nga chỉ đƣợc

phác vẽ qua sự quan sát từ xa, đƣợc giới thiệu về cử chỉ, hoạt động của nàng.

Nguyễn Đình Chiểu không cho ngƣời đọc biết đƣợc nỗi niềm thầm kín của Nguyệt

Nga một cách chi li mà để ngƣời đọc suy đoán thông qua hành động vẽ bức hình

Vân Tiên.

Một đặc điểm khác của nhân vật trong truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu là

trong cả ba truyện Nôm của mình, ông chia nhân vật thành hai tuyến riêng biệt:

nhân nghĩa và bất nghĩa.

Kiểu nhân vật thứ nhất đƣợc Nguyễn Đình Chiểu xây dựng là những nhân vật

chính diện, những nhân vật tốt xuất thân ở các tầng lớp khác nhau. Nhƣng dù ở

thành phần xã hội nào thì họ đều là những ngƣời biết nhân nghĩa, hiểu đạo lý làm

ngƣời: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt, Dƣơng Từ, Hà Mậu, Tử Phƣợc, Thê Triền, Kỳ

Nhân Sƣ, Lão Nhan, Chu Đạo Dẫn, Đƣờng Nhập Môn, Trần – Bửu, Tuyết –

Băng,… Những nhân vật chính diện điển hình cho đạo lý thực tiễn của nhân dân,

đồng thời là một cách phản ứng chống lại xã hội phong kiến mục nát và nạn ngoại

xâm phƣơng Tây. Họ luôn thƣơng dân yêu nƣớc, chống lại những bất công trong

xã hội và họ đã chiến thắng.

Kiểu nhân vật thứ hai là nhân vật phản diện, họ thƣờng là những thành phần

đƣợc sự giáo dục của chế độ phong kiến: Thái sƣ, cha con Võ Thể Loan, Bùi

Kiệm, Trịnh Hâm, thầy pháp, thầy bói, lang băm …

Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu còn xây dựng kiểu nhân vật thứ ba là những

52

nhân vật anh hùng, không thuộc dạng nghèo khổ, hèn hạ, cũng không thuộc dạng

quý tộc, giàu có. Đó có thể là võ sĩ hoặc là nho sĩ có tài: ông Quán, ông Ngƣ, ông

Tiều, Lão bà, nhân vật thần kỳ, con vật thần kỳ, giấc mơ thần kỳ, thế giới thần

kỳ,… tuy xuất hiện chỉ thoáng qua nhƣng đầy ý nghĩa. Chính những nhân vật này

đã biểu thị hành động, tỏ thái độ và phát ngôn thẳng thắn, chính xác, rõ ràng, quyết

liệt và có hiệu quả nhất cho những đạo lý sống của nhân dân. Kiểu nhân vật không

tên này xuất hiện càng làm phân định rõ ràng tuyến nhân vật chính diện và phản

diện. Họ đề cao, làm sáng nhân vật chính diện và lên án vạch trần tội ác của nhân

vật phản diện. Cách phân định các tuyến nhân vật rõ ràng và gần gũi trong đời

sống nhƣ vậy đã phát huy hết tác dụng để tiến đến mục đích giáo huấn của Nguyễn

Đình Chiểu.

Các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu luôn phải di chuyển,

trôi dạt từ nơi này đến nơi khác. Ở mỗi một hoàn cảnh khác nhau, tình huống khác

nhau, nhân vật lại hành động để bộc lộ tƣ cách đạo đức của mình. Ông cố ý để cho

nhân vật mình có điều kiện bộc lộ nội tâm bằng ngôn ngữ nên cho họ tiếp xúc với

thế giới rộng lớn, dữ dội, huyền bí và khắc nghiệt. Cả cuộc đời của Lục Vân Tiên

là những chuyến đi và hành động, ở đó Nguyễn Đình Chiểu để Vân Tiên thể hiện

con ngƣời của mình. Dƣơng Từ, Hà Mậu, Thê Triền, Tử Phƣợc cũng là nhân vật

luôn luôn di chuyển, du hành để gặp gỡ, kiểm nghiệm và thu nhận kiến thức. Các

nhân vật luôn đƣợc đặt trong tình huống đặc biệt để từ đó rút ra đƣợc bài học về

đạo đức sống.

2.2.3. Cách dẫn dắt chuyện

Mục đích răn đời, hƣớng đạo đã ảnh hƣởng trực tiếp đến việc tổ chức văn bản

của tác phẩm. Truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu là những trình bày, giảng giải,

luận bàn về đạo đức, vì vậy ngay từ câu mở đầu của tác phẩm, ông đã nhấn mạnh:

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe/ Dữ rằn việc trước lành dè thân sau/ Trai thời trung hiếu

làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình (Lục Vân Tiên); Coi rồi chuyện cũ

chư gia/ Lòng vì đạo học chép ra đề đời (Dương Từ - Hà Mậu). Cách mở đầu này

nhằm định hƣớng, dẫn dắt ngƣời đọc nhập vào mạch truyện. Ngay từ đầu tác

53

phẩm, lời kể đã đƣợc Nguyễn Đình Chiểu đƣa ra và những lời kể này còn đƣợc đan

xen vào từng đoạn, từng câu chuyện. Vì vậy, trong tác phẩm hình thành hệ thống

những lời chỉ dẫn, chú thích, lƣu ý có tác dụng định hƣớng của tác giả. Ở Lục Vân

Tiên là những lời khuyến cáo về đạo làm ngƣời: Làm trai ơn nước nợ nhà/ Thảo

cha ngay chúa mới là tài danh; Thấy vầy nên dửng dửng dưng/ Làm người ai nấy

thì đừng bất nhân/ Trời kia quả báo mấy hồi/ Làm người cho biết ngãi sâu/ Gặp

cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn/ Đừng đừng theo thói mẹ con/ Thác đà mất kiếp

tiếng còn bia danh…Ở Dương Từ - Hà Mậu là những lời động viên, giảng giải,

khích lệ mọi ngƣời theo chính đạo, đồng thời cảnh báo, răn đe, ngăn chặn những

kẻ lầm lối lạc đƣờng: Nhớ câu thiện ác đáo đầu/ Làm lành gặp phước sách đâu có

lầm; Cho hay đặng chữ hiếu trung/ Dẫu muôn năm cũng sắc phong miếu thờ; Hỡi

ôi mấy kẻ giàu sang/ Những tham vui sướng quên màng thân sau; Như vầy mới gọi

đạo trời; Cho hay dưới cõi u minh/ Rất nhiều âm tướng âm binh nhộn nhàng…

Những lời kể này không hề nằm ngoài diễn tiến của câu chuyện, nó đƣợc đúc rút

để củng cố những đạo đức đƣợc nhắc tới trong việc miêu tả hành động, sự việc.

Những lời giáo huấn này thƣờng đƣợc rút ra sau những biến cố và kết hợp với lời

tả để ngƣời đọc liên hệ đến nội dung sự việc trƣớc đó. Buộc ngƣời tiếp nhận phải

giữ lại trong trí nhớ những yếu tố đơn lẻ của biến cố. Nhờ vậy, Nguyễn Đình Chiểu

đã khắc sâu, tô đậm thêm mối liên hệ nhân quả giữa các phần, các tiết đoạn trong

tác phẩm. Giấc mơ của Ngƣ và Tiều trong cảnh tra án với những lời tả về cách

dùng thuốc gia truyền của thầy Đậu, của thầy châm cứu làm cho ngƣời tiếp nhận

kinh sợ và sau đó là những lời răn dạy: Làm chi mang tiếng bất nhân/ Để cho quỷ

giận thần hờn khắp nơi/ Làm chi ác nghiệp thấy đời/ Đạo y cũng mắc tiếng đời chê

bai. Trong Dương Từ - Hà Mậu, những tay thầy pháp, thầy phù thủy, thầy bói,

đồng cốt bất lƣơng, những thầy lang bịp… đều bị trừng phạt dƣới địa ngục với

những hình phạt đặc trƣng của nghề nghiệp trên dƣơng thế. Trong Ngư Tiều vấn

đáp nho y diễn ca, những bà đỡ, lão Đậu chữa bệnh cho trẻ em, lão Tam sao bán

thuốc… cũng bị xử theo nguyên tắc nhân quả. Trịnh Hâm bị cá nuốt ở Hàn Giang

để trả giá cho việc đẩy Vân Tiên. Gia Đình Võ Thể Loan bị cọp ăn ở hang Thƣợng

Tòng… Nguyễn Đình Chiểu cố ý đƣa ra trừng phạt bắt nguồn từ việc làm trong

54

quá khứ để nhấn mạnh tính tất yếu của sự báo ứng.

Hệ thống lời dự báo cũng đƣợc Nguyễn Đình Chiểu sử dụng một cách có hiệu

quả trong quá trình dẫn dắt chuyện. Đây là những phát ngôn trực tiếp của tác giả để

ngƣời nghe có thể đoán định tƣơng đối chính xác nội dung chính và những diễn

biến quan trọng. Lời của Tôn sƣ là một tiên đoán về số mệnh của Vân Tiên, đây là

một thông tin mở để ngƣời tiếp nhận có thể mƣờng tƣợng về cuộc đời của chàng:

Số con hai chữ khoa kì/ Khôi tinh đã rạng tử vi thêm lòa/ Hiềm vi ngựa chạy đàng

xa/ Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan/ Bao giờ cho tới bắc phang/ Gặp chuột giữa

đàng con mới nên danh.

Thêm vào đó, việc sử dụng những câu chuyển ý để liên kết các đoạn cũng là

cách mà Nguyễn Đình Chiểu muốn dẫn dắt ngƣời đọc tiếp cận tác phẩm: Chuyện

nàng sau hãy còn lâu/ Chuyện chàng xin nối thứ đầu chép ra (Lục Vân Tiên); Họ

Hà chuyện vẫn còn dài/ Xin nối đầu bài nói chuyện họ Dương (Dương Từ - Hà

Mậu).

Truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu là truyện để kể, vì vậy đƣợc chia thành

những câu chuyện nhỏ theo trình tự từ trƣớc đến sau của thời gian sự kiện. Cách

phân chia thành những câu chuyện nhỏ vừa trình bày đƣợc sự kiện một cách trọn

vẹn, vừa đảm bảo tính liên tục và nhất quán, mạch lạc của truyện. Những câu

chuyện này không dừng ở chỗ gay cấn nhất mà đƣợc tác giả giải quyết rồi mới

chuyển sang chuyện khác. Vì vậy, để ngƣời tiếp nhận khái quát câu chuyện, tác giả

đƣa ra những lời luận để có thể khép lại câu chuyện đồng thời nhấn mạnh, khắc rõ

đƣợc đạo lý đƣợc đƣa ra. Sau mỗi câu chuyện, tác giả thƣờng nhấn mạnh, bình

luận bằng cách thƣờng xuyên nhắc ngƣời nghe về trạng thái đã qua của sự việc:

Tôn sư khi ấy luận bàn/ Trịnh Hâm khi ấy rất cay/ Ngư ông khi ấy hỏi han/ Vân

Tiên khi ấy an long/ Vân Tiên khi ấy hãi hùng/ Lục ông khi ấy mới hay/ Nguyệt

Nga khi ấy khóc òa như mưa/ Hớn Minh khi ấy dừng binh… Nhƣ vậy, ngƣời tiếp

nhận không những đƣợc tiếp xúc với hệ thống hình tƣợng mà còn tiếp xúc với

những lời bàn luận để khắc sâu triết lý hơn. Nguyễn Đình Chiểu dễ dàng thực hiện

mục đích giáo huấn của mình: Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên; Nhớ câu bình

thủy tương phùng/ Anh hùng lại gặp anh hùng một khi/ Ôi thôi con mắt đã mang

55

lấy sầu/ Thực ông Khổng Tử đạo tài thánh vương/ Kiệm Hâm là đứa so đo…

2.2.4. Thế giới biểu tượng

Trong hai tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca,

Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng thế giới biểu tƣợng nhằm viện chứng cho những

lập của mình. Thiên đƣờng, Địa ngục trong Dương Từ - Hà Mậu, và thế giới y

thuật trong Ngư Tiều Vấn đáp nho y diễn ca là những biểu tƣợng nghệ thuật rất

thành công để phục vụ mục đích hƣớng đạo của ông.

Mộng Thê Triền, Bào Tử Phƣợc, Kỳ Nhân Sƣ, Chu Đạo Dẫn, Đƣờng Nhập

Môn, Ảnh Minh Nguyệt, ải Nhân xu,… đây không phải thuần túy là tên của nhân

vật hay địa danh mà là những ẩn dụ về số phận và phẩm cách của con ngƣời. Mộng

Thê Triền, Bào Tử Phƣợc là hai ẩn dụ về “nỗi vợ bìu con ríu”, biểu tƣợng này tạo

đƣợc ấn tƣợng đối với cuộc sống của nhân vật. Bên cạnh đó, nghề nghiệp của họ

lại trở thành tên gọi. Ngƣ, Tiều là danh từ chỉ những ngƣời yêu nƣớc nhƣng không

gặp thời thế đành phải tạm thời ôm tài, giấu tiếng về ở ẩn. Chu Đạo Dẫn nghĩa là

dẫn đƣờng cho đạo nhà Chu, Đƣờng Nhập Môn là vào cửa vua Nghiêu (vua

Nghiêu họ Đƣờng). Khi nói tên Kỳ Nhân Sƣ, Tiều rằng: Chữ gọi Nhân Sư/ Tiên

hay là Phật, bậc gì công phu? Nguyễn Đình Chiểu đã dùng tên nhân vật bằng các

biểu tƣợng và qua đó cho phép ta hình dung đƣợc cuộc sống, nhân phẩm của họ.

Tín đồ Thiên chúa giáo, Phật giáo có niềm tin rằng có thiên đƣờng và địa

ngục, ở đó có những phép màu, sự bao dung, lòng độ lƣợng của Phật và Chúa. Để

lay đổ niềm tin đó, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng thế giới địa ngục đã phủ nhận

hoàn những điều hoang tƣởng mà Phật giáo và Thiên chúa giáo đã tạo ra. Trên

thiên đƣờng, không có tôn giáo nào khác ngoài ngƣời đại diện cho Nho giáo là

Khổng Tử. Trong khi đó tại địa phủ, các bậc tiền bối của Dƣơng Từ và Hà Mậu

đang phải nhận những hình phạt đau khổ. Địa ngục đƣợc bày ra với suối vàng, chó

dữ, rắn độc,... để trừng phạt những kẻ bất nhân, bất nghĩa. Hình phạt đƣợc sắp xếp

tầng tầng, lớp lớp vòng vo không dứt: Giết đi hoàn lại lòng thòng/ Ngục này hết

phép lại vòng ngục kia... khiến chúng phải khiếp sợ. Tội nhân tại đây phải trải qua

56

những kiếp trừng phạt luân hồi, phải qua tất cả các cửa. Kẻ phạm tội không phải bị

trừng phạt một lần mà trải qua hết mọi nhục hình rồi lại lộn lên trần thế, đầu thai

làm súc vật để tiếp tục chịu hình phạt.

Cõi âm theo miêu tả của Nguyễn Đình Chiểu là một đại pháp trƣờng. Đây là

một thế giới tối tăm, ngột ngạt: Mờ mờ một cõi âm san/ Mây sầu gió thảm chàng

ràng trêu ngươi. Ở đó, các số phận giãy giụa, đau khổ chịu hình phạt mà không thể

nhờ cậy đến Chúa, đến Phật. Vì vậy, theo Nguyễn Đình Chiểu phải có một chính

đạo dẫn dắt ngƣời dân tránh gây ra những tội danh để không phải trừng phạt. Đó

chính là Đạo nho – Đạo làm ngƣời.

Ở Ngư Tiều Vấn đáp nho y diễn ca, các địa điểm ở đây là một biểu tƣợng,

đƣợc xây dựng bằng trí trƣởng tƣợng của Nguyễn Đình Chiểu: ải Nhân xu, am Bảo

dƣỡng, Truông âm chất, bến Ngũ hành, ải Thiên can, non Ngũ vận... đây là những

tên, những khái niệm mang ý nghĩa triết học, tƣợng trƣng cho con đƣờng tu dƣỡng

của ngƣời thầy thuốc, hay thế giới nhân thể của con ngƣời cũng chính là thế giới

của con ngƣời đang sống. Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo kết hợp, pha trộn hai

nội dung đó là những kiến thức y học rất cụ thể, chi tiết và câu chuyện về lẽ “tầm

sƣ học đạo” để cứu mình cứu đời của Ngƣ và Tiều. Không gian trong tác phẩm

mang đậm tính chất tƣởng tƣợng hoang đƣờng, đầy vẻ ẩn dụ, nhƣng đây là những

ẩn dụ sống động phản ánh cuộc sống đƣơng thời của ngƣời dân Nam Kỳ. Câu

chuyện xảy ra đƣợc tác giả xác định vào thời xa xƣa bên Trung Quốc. Nhƣng thực

ra thì việc Thạch Tân ở ngôi, cắt đất hai châu cho giặc ngoại xâm, dân tình khốn

đốn phải tìm phƣơng xa lánh… chính là chỉ triều Nguyễn đớn hèn, cắt Nam Kỳ

cho Pháp sau hàng ƣớc 1874, dẫn đến cảnh dân Lục tỉnh tị nạn.

Thế giới biểu tƣợng mà Nguyễn Đình Chiểu nhào nặn, xây đắp vừa hƣ lại vừa

thực, vừa trừu tƣợng lại vô cùng cụ thể. Với thế giới biểu tƣợng này, không chỉ

Dƣơng Từ - Hà Mậu, Ngƣ, Tiều mà còn cho cả những ngƣời tiếp nhận tác phẩm

với các tín ngƣỡng khác nhau đều có thể tìm thấy đƣợc lời giải đáp về sự hoài nghi

và tìm đƣợc chính đạo của mình. Đây là một biện pháp nghệ thuật thành công của

57

Nguyễn Đình Chiểu.

Tiểu kết:

Sáng tác truyện thơ ở một vùng đất mới, trong một thời điểm lịch sử cũng

khác trƣớc, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra những nét mới cho thể loại này. Dựa theo

một mô hình sẵn có, cốt truyện, nhân vật cũng nhƣ hình thức kể chuyện ở truyện

thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã tập trung vào việc phản ánh thực tại và tâm thức của

ngƣời Nam Kỳ những năm cuối thế kỷ XIX: Các giá trị của Nho giáo trƣớc sự xâm

lƣợc của phƣơng Tây.

Tiếp tục tính chất bình dân, phá chấp của Nho giáo Đàng Trong, Nguyễn

Đình Chiểu đã dùng truyện Nôm để bảo vệ Nho giáo trong phạm vi đạo làm ngƣời,

bao gồm con ngƣời xã hội và gia đình. Đặt sang bên đời sống con ngƣời cá nhân,

các câu chuyện của Nguyễn Đình Chiểu đều hƣớng đến việc làm sáng tỏ đạo đức,

sống theo chuẩn mực đạo lý truyền thống.

Tƣơng ứng với nội dung đó, Nguyễn Đình Chiểu cũng tạo ra một phƣơng

thức kể chuyện riêng: Ông tự tạo ra các cốt truyện bằng chuyện đời mình, bằng trí

tƣởng tƣợng về những không gian sống thể hiện chủ đích viết. Những câu chuyện

của Nguyễn Đình Chiểu đều diễn biến xoay quanh các phạm trù đạo đức, nhân vật

của ông cũng đƣợc miêu tả thành những giá trị luân lý. Vì vậy, bên cạnh những cặp

nam – nữ, truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu còn đƣợc dẫn dắt theo những hành

58

trình đạo lý. Đó là nét đặc biệt mà chúng tôi đã chỉ ra ở chƣơng này.

Chƣơng 3

CHUYỆN KỂ CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỀU TRONG GIAI ĐOẠN

HẬU KỲ TRUYỆN THƠ NÔM

3.1. Các hình thức kể chuyện ở vùng đất mới

3.1.1. Kể chuyện bằng văn vần

Thói quen sử dụng những câu hò, câu hát trong lao động sản xuất hay lúc

thảnh thơi của ngƣời Nam Kỳ đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hình thức văn

vần. Những câu chuyện có tình tiết, có nội dung, có nhân vật đƣợc truyền tải bằng

thể thơ của dân tộc.

Hình thức kể chuyện bằng văn vần này đƣợc đánh dấu nổi bật với thể loại

truyện Nôm. Trong đó, tại Nam Kỳ, hình thức kể chuyện bằng văn vần dùng ngôn

ngữ bình dân đƣợc phổ biến rất rộng rãi bằng việc nói thơ. Hình thức này đƣợc một

ngƣời dùng để nói, kể cho nhiều ngƣời cùng nghe, và họ có thể tự do thêm thắt,

sửa chữa hay sao chép nội dung.

Nội dung xuyên suốt của câu chuyện đƣợc kể bằng văn vần thƣờng xoay

quanh việc “khuyến thiện trừng gian, tin vào tội phước và kính phục trời đất quỷ

thần. Ở hiền gặp lành còn làm ác thì trước sau gì chắc chắn cũng không khỏi bị

quả báo do bàn tay trừng phạt của các đấng vô hình” [13, tr.425]. Do đó, đây là

hình thức đã đáp ứng đƣợc nhu cầu của những ngƣời dân nghèo không quyền thế,

luôn mong muốn có một xã hội công bằng.

Tại Nam Kỳ, ngoài Lục Vân Tiên, rất nhiều tác phẩm có hình thức truyện thơ

lấy cốt truyện từ tác phẩm văn học dân gian hay truyện Tàu. Điển hình nhƣ: Nàng

Út, Thạch Sanh Lý Thông, Phạm Công Cúc Hoa, Sáu Trọng Hai Đầu, Chàng Nhái

Kiểng Tiên, Con Tấm Con Cám, Lang Châu, Thầy Thông Chánh, Tiết Giao đoạt

59

ngọc, La Thành tróc Ngũ Vương…

3.1.2. Kể chuyện bằng văn xuôi

Tại Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khoảng năm 1865 đến

1930, phát triển mạnh mẽ hình thức dịch và xuất bản văn học bằng chữ quốc ngữ

với một số tên tuổi tiêu biểu nhƣ Trƣơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trƣơng Minh

Ký…

Từ những năm đầu thế kỷ XX, các trƣờng dạy học chữ quốc ngữ đƣợc lập

khắp các làng và chỉ sau năm năm ngôn ngữ này đã phổ biến sâu rộng trong dân

gian. Đến năm 1906, tại Sài Gòn, hoạt động dịch truyện Tàu và thơ chữ Nôm ra

quốc ngữ để in bán hoạt động sôi nổi. Ngƣời dân từ thành thị đến nông thôn đua

nhau mua đọc. Trong thời điểm này, những truyện đƣợc viết và dich theo chữ quốc

ngữ diễn tiến theo ba xu hƣớng: dịch truyện Tàu ra chữ quốc ngữ; dịch những sáng

tác của tác giả Việt với ảnh hƣởng truyện Tàu và tiểu thuyết phƣơng Tây và những

sáng tác ảnh hƣởng cả về nội dung và hình thức của tiểu thuyết phƣơng Tây.

Cùng với đó, tại Nam Kỳ, chính quyền thực dân không kiểm soát gắt gao việc

phổ biến sách báo xuất bản của tƣ nhân, nhiều sách báo đƣợc công khai in ấn tại

Nam Kỳ trong khi Bắc Kỳ bị cấm. Hơn nữa, nhà in là một trong những nhu cầu

cần thiết ƣu tiên hàng đầu mà ngƣời Pháp thiết lập. Trong Lục Châu học, Nguyễn

Văn Trung Viết: “Theo thống kê của nhà cầm quyền Pháp năm 1901, Nam Kỳ có

2.551.986 người. Riêng Sài Gòn 3.000 Pháp kiều, 24.640 người Annam gốc Nam

Kỳ, 723 gốc Trung Bắc, Chợ Lớn 124 Pháp Kiều, 33.932 người Annam gốc Nam

kỳ, 352 gốc Trung Bắc (Xem Etat de la Cochinchine Francaise 1903) nghĩa là Sài

Gòn, Chợ Lớn trên 5 vạn người mà có trên dưới 20 nhà in cho phép chúng ta nghĩ

rằng nghề in phải là một nghề kinh doanh có lời và phát đạt. Do đó nghề in ở miền

Nam kể là có rất sớm và một đội ngũ tay nghề thợ được đào tạo trong các nhà in

của người Pháp đã ra một truyền thống vẫn còn thấy ảnh hưởng cho đến nay”

[58].

Nhƣ vậy, từ cuối thế kỷ XIX, bên cạnh hình thức kể chuyện bằng văn vần

truyền thống du nhập từ Đàng Ngoài, tại Nam Kỳ đã lần đầu tiên chứng kiến sự ra

60

đời và phát triển mạnh mẽ của hình thức kể truyện bằng văn xuôi.

3.1.3. Kể chuyện bằng nghệ thuật trình diễn

Ở vùng đất Nam Kỳ, lƣu dân từ nhiều vùng miền đã mang văn hóa truyền

thống trong đó có âm nhạc góp phần tạo ra ở nơi đây những điệu hát mới mà sau

này phát triển thành sân khấu cải lƣơng.

Mặc dù cũng phản ánh những câu chuyện với nội dung ở hiền gặp lành, ác giả

ác báo nhƣ sân khấu chèo, nhƣng thay vì chỉ sử dụng trống là chủ yếu nhƣ chèo,

sân khấu cải lƣơng đã sử dụng rất nhiều nhạc cụ. Âm nhạc là linh hồn của sân khấu

cải lƣơng. Tính chất chữ tình của âm nhạc giúp nhân vật thể hiện hỉ nộ ái ố và giúp

ngƣời xem cảm nhận đƣợc tình cảm buồn, vui, thƣơng, ghét… Chính vì vậy mà cải

lƣơng đã thu phục đƣợc tình cảm của công chúng và đã phát triển trên khắp cả

nƣớc. Bên cạnh đó, nghệ thuật cải lƣơng mang tính giải phóng của ngƣời nông dân

bị áp bức và mất nƣớc, phải vùng lên để chiến đấu cho sự sống còn.

Theo nhiều nhà nghiên cứu về nghệ thuật cải lƣơng thì vở Lục Vân Tiên của

soạn giả Trƣơng Duy Toản đƣợc xem là vở cải lƣơng đầu tiên ra mắt công chúng,

đánh dấu bằng bản Tứ đại oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga. Và ở thời kỳ phát triển đầu

tiên của cải lƣơng, hầu hết các vở đƣợc dựng lên đều dựa theo cốt truyện của

truyện thơ Việt Nam nhƣ Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều Truyện, Nhị Độ Mai…

Ngoài hình thức kể chuyện bằng nghệ thuật cải lƣơng thì trƣớc đó, những câu

chuyện đƣợc tái hiện, trình diễn bằng các hình thức nghệ thuật dân gian khác nhƣ

hát bội (tuồng).

Khi những lƣu dân mới vào Nam Kỳ, họ sống với những câu hát hò, những

bài vè trong đồng ruộng, trên sông rạch hay những lúc nhàn rỗi bên cánh võng.

Đây là tiền đề đầu tiên của sân khấu biểu diễn cải lƣơng. Hình thức truyền tải

thuộc về nghệ thuật biểu diễn dân gian tiếp sau những câu hát, điệu hò bất chợt

chính là ca nhạc tài tử rồi đến ca ra bộ và hát bội. Trong đó hát bội là một hình

thức kể chuyện bằng nghệ thuật biểu diễn đƣợc ngƣời dân Nam Kỳ ƣa chuộng

61

không kém cải lƣơng.

Hát bội (tuồng) đƣợc lƣu dân Bắc Kỳ mang theo và phát triển tại Nam Kỳ với

những đề tài đề cao trung hiếu tiết nghĩa đƣợc diễn xuất tại các dinh quan hay sinh

hoạt văn hóa tại các đình làng. Ngƣời Nam Kỳ yêu thích nghệ thuật sân khấu hát

bội, bằng chứng là rất nhiều vở tuồng đƣợc viết bằng chữ Nôm và phổ biến rộng

rãi, nhƣ Sơn Hậu hay Kim Thạch kỳ duyên.

Nói đến hình thức kể chuyện bằng nghệ thuật trình diễn tại Nam Kỳ không

thể không nhắc đến hình thức thoại bản. Tại đây, hình ảnh những ngƣời mù lòa, tàn

tật kể chuyện hành khất đã trở thành nét văn hóa. Với giọng nói thơ của ngƣời

cùng cây đàn độc huyền chan hòa vào nhau trong sự tán thƣởng của ngƣời nghe

ngồi xung quanh là hình ảnh thƣờng thấy trên hè phố hay bến đò. Ngƣời nghe đau

xót đến rơi lệ với cảnh chia ly của cặp trai gái, thán phục hành động của ngƣời anh

hùng hay ghét cay ghét đắng những con ngƣời phản bội. Tất cả những cảm xúc này

đƣợc truyền từ giọng của ngƣời kể.

Với nét đặc biệt của văn hóa vùng miền, đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời

dân Nam Kỳ gắn chặt với các hình thức nghệ thuật biểu diễn. Do đó, đây là hình

thức kể chuyện đƣợc đại bộ phận ngƣời dân yêu thích. Vì vậy, rất nhiều gánh hát

đƣợc thành lập để trình diễn. Nhiều tác phẩm văn học, trong đó chủ yếu là truyện

thơ đƣợc khai thác, cải biến để đƣa lên sân khấu.

3.2. Những con đƣờng lƣu truyền truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu

3.2.1. Các hình thức định bản hay công chúng đọc truyện thơ Nguyễn Đình

Chiểu

Qua việc tìm hiểu về truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu, chúng tôi thấy Lục

Vân Tiên là tác phẩm đƣợc lƣu truyền rộng rãi nhất trong đời sống. Vì vậy, ở đây

chúng tôi chỉ chủ yếu nói đến sự ảnh hƣởng cũng nhƣ lƣu truyền của Lục Vân Tiên.

Định bản Nôm

Lục Vân Tiên không có nguyên tác bởi tác phẩm đƣợc lƣu truyền trong dân

gian trƣớc rồi mới sƣu tầm thành văn bản. Vì vậy, tác phẩm có nhiều dị bản khác

62

nhau. Theo khảo cứu của các nhà nghiên cứu, bản đầu tiên của tác phẩm đƣợc Duy

Minh Thị in ở Trung Quốc. Bản này nhầm lẫn rất nhiều chữ Nôm và có cách viết

lạ, không thống nhất dù cùng một chữ. Khi tiếp tục đƣợc in tại Sài Gòn đã có đính

chính những nhầm lẫn trong bản in trƣớc đó. Đặc biệt, trong bản này có thêm 86

câu thơ kể về việc Lục Vân Tiên đi cảm ơn thầy dạy học, ông Quán và phần Sở

Vƣơng nhƣờng ngôi mà ở những bản sau đó không có.

1. Trƣớc năm 1864, bản Duy Minh Thị đƣợc in đầu tiên ở Trung Quốc

và đƣợc in lại tại Việt Đồng Thuất trấn (Trung Quốc) năm 1874.

2. Năm 1865, bản Duy Minh Thị in tại Chợ Lớn do hiệu sách Quảng

Thạch Nam xuất bản.

3. Năm 1897, Vân Tiên cổ tích tân truyện của hiệu khắc ván Tụ văn

đƣờng phố Hàng Gai.

4. Năm 1921, Vân Tiên cổ tích tân truyện của hiệu khắc ván Liễu văn

đƣờng.

5. Năm 1994, Lục Vân Tiên: Bản nôm mang niên đại cổ nhất mới sưu

tầm ở Paris: Trần Nghĩa/ Vũ Thanh Hằng phiên âm, khảo đính, chú thích, giới

thiệu. NXB Khoa học xã hội.

6. Nhà Bửu Hoa Các xuất bản bổn khắc Nôm tại Quảng Đông do Thiền

Phƣớc Lộc (không rõ năm nào).

Dịch tiếng Pháp

Do tiếng tăm của Nguyễn Đình Chiểu và sự ngƣỡng mộ đặc biệt của dân

chúng với Lục Vân Tiên, nên ngay khi vừa đặt chân đến Nam Kỳ, ngƣời Pháp đã

chú ý đến tác phẩm này.

1. Năm 1864, Gabriel Aubaret – Lãnh sự Pháp ở TháiLan, lần đầu tiên

dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp, và in lần 2 vào năm 1864.

2. Năm 1866, Eugène Bajot dịch Lục Vân Tiên ra thơ Pháp theo thể thập

nhị âm. Bản dịch này tuy không lột tả hết tinh thần của nguyên tác nhƣng cũng đã

chuyển tải đƣợc nội dung.

63

3. Năm 1887, Eugène Bajot dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp.

4. Năm 1927, Nghiêm Liễu dịch Lục Vân Tiên: Poème annamite song

ngữ Pháp Việt, NXB.Lê Văn Tân.

5. Năm 1944, Dƣơng Quảng Hàm dịch Lục Vân Tiên sang tiếng Pháp,

NXB. Ed. Alexandre de Rhodes. Tác phẩm gồm hai thứ tiếng Việt – Pháp.

6. Năm 1997, Lục Vân Tiên, Lê Trọng Bổng, dịch Song ngữ Pháp -

Việt,NXB. Thế giới.

Bản quốc ngữ

Nắm bắt đƣợc tâm lý ƣa chuộng Lục Vân Tiên của đông đảo quần chúng,

nhiều nhà in đã sƣu tầm hoặc tạo ra các dị bản mới để kinh doanh kiếm lời. Và

không chỉ phổ biến tại Nam Kỳ, những ấn phẩm này hay hình thức in ấn này cũng

2. Bao gồm:

1. Năm 1867, bản quốc ngữ đầu tiên của Jannô xuất bản và đƣợc phổ biến sâu rộng ở Nam Kỳ.

2. Năm 1873, Jeanareau hợp tác với nhà Challamel Paris ấn hành bản quốc ngữ có chú thích tiếng Pháp.

3. Năm 1883, Lục Vân Tiên của Anben de Misen in gồm ba phần: văn bản chữ Nôm và quốc ngữ, phần dịch chữ Pháp.

4. Lục Vân Tiên, Phúc văn đƣờng, 91 Hàng Gai Hà Nội (chƣa rõ năm xuất bản).

5. Năm 1889, bản Trƣơng Vĩnh Ký, xuất bản ở Sài Gòn.

6. Năm 1919, Lục Vân Tiên, Đặng Lễ Nghi, Đinh Thái Sơn, NXB De I”Union. Ng. V. Cua.

7. Năm 1922, Lục Vân Tiên, NXB Phú Văn.

8. Năm 1923, Lục Vân Tiên, NXB Nguyễn Văn Viết, in lần thứ 3.

9. Năm 1924, Lục Vân Tiên truyện, NXB Văn Minh, Hải Phòng.

10. Năm 1927, Lục Vân Tiên truyện, NXB Kim Khuê, có hình minh họa.

11. Năm 1928, Lục Vân Tiên, NXB Phạm Văn Thình, in lần 3 năm 1929.

12. Năm 1928, Lục Vân Tiên, NXB Phạm Văn Thơm.

13. Năm 1928, Lục Vân Tiên: Thơ và có hát nam khách: Bổn cũ soạn lại, NXB. Impr. Bảo tồn.

14. Năm 1928, Lục Vân Tiên, NXB Đinh Thái Sơn, in lần thứ 6.

15.Năm 1928, Lục Vân Tiên diễn ca, Trần Phong Sắc, NXB Nguyễn Văn Viết, có hình.

64

đã đƣợc đƣa ra Bắc Kỳ và thu hút sự quan tâm của đông đảo quần chúng. Đây là hình thức lƣu truyền văn bản tác phẩm rộng rãi nhất với số lƣợng bản in lớn2.

Bản quốc ngữ đầu tiên xuất hiện tại Nam Kỳ là của Jannô. Theo các nhà

nghiên cứu, mặc dù bản này còn nhiều chữ sai vì có thể tác giả đã dịch ra từ bản

gốc chƣa chuẩn, nhƣng nó đƣợc phổ biến sâu rộng và góp phần bƣớc đầu ổn định

văn bản.

Không nhƣ bản Nôm, bản quốc ngữ đƣợc phổ biến rộng rãi tại Bắc Kỳ. Bản

17. Năm 1929, Lục Vân Tiên: Truyện, NXB “Đông Tháp” Nguyễn Kim Đình, có hình.

18. Năm 1929, Lục Vân Tiên, tại Nhà in Xƣa nay, in 7 lần.

19. Năm 1929, Lục Vân Tiên thơ, NXB.Tín Đức, in lần 3 năm 1931.

20. Năm 1932, bản Phạm Văn Thình in lần đầu, cho đến năm 1942, tập truyện đã tái bản 13 lần.

21. Năm 1933, Lục Vân Tiên, Khấu võ Nghi, NXB Nguyễn Thới Quan, có hình minh họa.

22. Năm 1937, Lục Vân Tiên, Khấu Võ Nghi, NXB Nguyễn Hảo Vĩnh, có hình vẽ.

23. Năm 1941, Lục Vân Tiên, Đinh Xuân Hội dẫn giải, NXB Tân Dân, Hà Nội.

24. Năm 1943, Lục Vân Tiên diễn giải của Đinh Xuân Hội.

25.Năm 1951, Lục Vân Tiên in tại Tân Việt, Sài Gòn, do Nguyễn Thanh Tâm chú thích.

26. Năm 1951, Lục Vân Tiên, Nhà xuất bản Á châu Sài Gòn, do Hoàng Văn Hà chú thích.

27. Năm 1957, Lục Vân Tiên, Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Vũ Đinh Liên, NXB. Bộ Giáo dục.

28. Năm 1957, Lục Vân Tiên do Nhà xuất bản Phổ thông, Bình dân (1958), Văn hóa (1959) xuất bản.

29. Năm 1964, Lục Vân Tiên: cổ văn, NXB Phổ thông, Hà Nội.

30. Năm 1973, bản hiệu đính quốc ngữ có kèm Nôm do Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa Sài Gòn xuất bản.

31. Năm 1975, Lục Vân Tiên, Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, NXB Đại học. Tập sách với số lƣơng phát hành gần 50.000 bản.

32. Năm 1988, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga: Truyện tranh: Dựa theo truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu, NXB Sân Khấu do Bùi Quang Ngọc vẽ tranh, Đào Anh Vân soạn lời, Minh Thùy trình bày.

33. Năm 1992, Lục Vân Tiên: Chữ Nôm và quốc ngữ đối chiếu, Lạc Thiên biên khảo, NXB Tp. Hồ Chí Minh.

34. Năm 1999, Dị bản mới truyện Lục Vân Tiên, Trƣơng Thành, NXB Giáo dục, in 2000 bản.

35. Năm 2006, Lục Vân Tiên, NXB Đồng Nai.

36. Năm 2009, Truyện Lục Vân Tiên bằng tranh, NXB. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

65

Lục Vân Tiên truyện in tại nhà in Văn Minh, Hải Phòng là bản tiêu biểu của Bắc 16. Năm 1929, Lục Vân Tiên: Có hình, Nhà in Tín Đức thƣ xã in lần 1, in lần thứ 3 năm 1931, có hình minh họa.

Kỳ. Và nếu so sánh với bản của Trƣơng Vĩnh Kỹ - bản tiêu biểu của Nam Kỳ thì

đây là bản có nhiều chữ đƣợc phổ thông hóa và phƣơng ngữ Bắc Kỳ đã xuất hiện.

Đặc biệt, bản Văn Minh có thêm 56 câu kể về việc Lục Vân Tiên đi tạ ơn và một số

chi tiết mới tại mỗi đoạn.

Ngoài ra, vào đầu thế kỷ XX, một vài nhà in đã cho xuất bản Lục Vân Tiên

có kèm hình minh họa. Trong đó, câu lục và câu bát đều đƣợc in chung trong một

dòng và có hình ảnh minh họa tại mỗi cảnh trong truyện. Đây đƣợc xem là một

hình thức làm mới hình thức văn bản tác phẩm của một số nhà in nhằm thu hút

ngƣời mua.

Các hậu tập của truyện thơ Lục Vân Tiên

Do sức nóng của tác phẩm, nhận thấy niềm yêu thích của nhân dân, các soạn

giả nhìn thấy đƣợc lợi nhuận mang lại từ việc kinh doanh tác phẩm bằng việc in ấn.

Do đó, đã có không ít soạn giả sáng tác tiếp nối tác phẩm Lục Vân Tiên tạo ra các

bản hậu với nhiều biến đổi khác nhau. Các tập Hậu Vân Tiên diễn ca, Vân Tiên cờ

3 Theo khảo sát của chúng tôi tại Thƣ viện Quốc gia, hậu tập của Lục Vân Tiên có: 1. Hậu Vân Tiên diễn ca, có tranh vẽ (chƣa rõ năm xuất bản). 2. Năm 1925, Hậu Vân Tiên diễn ca, NXB. Nguyễn Văn Viết. 3. Năm 1928, Hậu Vân Tiên diễn ca: Có hình, Trần Phong Sắc, NXB Nguyễn Văn Viết. 4. Năm 1932, Hậu Vân Tiên có hình, Nguyễn Bá Thời, NXB Xƣa nay, in lần 1, có hình minh họa. 5. Năm 1932, Lục Vân Tiên cờ bạc,Nguyễn Văn Khỏe soạn, NXB Nhà in xƣa nay. 6. Năm 1932, Hậu Vân Tiên diễn ca, NXB Nguyễn Văn Viết. 7. Năm 1933, Hậu Vân Tiên,Nguyễn Bá thời, NXB Phạm Văn Thình, in lần 2, có hình minh họa. 8. Năm 1933, Hậu Vân Tiên: Tiếp theo Thơ Lục Vân Tiên, Cử Hoành Sơn, NXB Nguyễn Quới Loan, in lần thứ 4, có hình minh họa. 9. Năm 1933, Vân Tiên cờ bạc, Nguyễn Văn Khỏe, in lần thứ 2, NXB Phạm Văn Thình, in lần 3 năm 1935. 10. Hậu Vân Tiên diễn ca, NXB. Knxb (chƣa biết năm xuất bản 11. Năm 1932, Hậu Vân Tiên có hình: Thơ, Nguyễn Bá Thời, NXB Xƣa nay. 12. Năm 1932, Lục Vân Tiên Cờ bạc, Nguyễn Văn Khỏe, NXB Nhà in xƣa nay. 13. Năm 1933, Hậu Vân Tiên diễn ca, Cử Hoành Sơn, NXB Nguyễn Quới Loan. 14. Năm 1933, Hậu Vân Tiên, Nguyễn Bá Thời, NXB Phạm Văn Thình, in lần 2. 15. Năm 1933, Vân Tiên cờ bạc, Nguyễn Văn Khỏe, NXB Phạm Văn Thình, in lần 2. 16. Năm 1937, Hậu Vân Tiên: có hình, Cử Hoành Sơn, NXB Nhà in Xƣa nay, in lần 3. 17. Năm 1935, Vân Tiên cờ bạc, Nguyễn Văn Khỏe, NXB Phạm Văn Thình. 18. Năm 1939, Hậu Vân Tiên, Cử Hoành Sơn, NXB Xƣa nay. 19. Năm 1939, Hậu Vân Tiên: có hình, Cử Hoành Sơn, NXB Nguyễn Háo Vĩnh.

66

bạc… đƣợc nhiều nhà in xuất bản và bán lấy lời. Và vì yêu mến Lục Vân Tiên nên những tác phẩm liên quan đến nó cũng đƣợc nhân dân hào hứng đón nhận3.

Những tập Hậu Vân Tiên của Trần Phong Sắc (1928), Hậu Vân Tiên của

Nguyễn Bá Thời (1932)… đều là những truyện có phần nối tiếp, phát triển cốt

truyện của Lục Vân Tiên. Các tác phẩm này đƣợc viết thêm phần kết cho tác phẩm

chính, đó là giai đoạn cuộc đời của Vân Tiên và các nhân vật khác sau này khi họ

có con cái. Trong đó, đáng chú ý là tác phẩm Hậu Vân Tiên của Cử Hoành Sơn.

Nhân vật chính trong truyện vẫn là Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh,

Tử Trực và những nhân vật đối lập nhƣ Tạ Mãng, Phiên Vƣơng… Hoành Sơn đã

phân hai tuyến nhân vật đối lập nhau: Phong Lôi, Phong Điền (con của giặc Phong

Lai) về phe của Thái Sƣ đầu Phiên chống lại nƣớc Sở (Lục Vân Tiên). Thế Hà (con

gái Kim Liên) sau khi mẹ bị phát hiện đã lừa vua Phiên bị trừng phạt đi đày, đã

trốn đi tìm mẹ sau đó quyết đem quân đi đánh nƣớc Sở để rửa nhục cho Phiên

Bang. Nhƣng vì gặp Lục Lang (con Vân Tiên), hai ngƣời đem lòng yêu nhau mà

bỏ qua chuyện cũ để trở thành vợ chồng. Đây đƣợc coi là tác phẩm trội hơn những

phiên bản hậu Vân Tiên khác bởi cách viết chặt chẽ, bố cục rõ ràng nên đón nhận

lƣợng quan tâm lớn, điều này cũng lý giải vì sao Hậu Vân Tiên diễn ca đƣợc in đến

lần thứ 4.

Ngoài ra, Lục Vân Tiên còn đến với đông đảo công chúng bằng hình thức

khác, đó là những bài phú, ca cổ, vè… Đây là những bài ca ứng với những tình

huống trong diễn biến của câu chuyện nhƣ: Thơ Bùi Kiệm dặm, Đơn Bùi Kiệm kiện

Võ Phi Loan, Bài ca Bùi Kiệm thi rớt, Bùi Kiệm kim thời, Khen anh Tử Trực, Lão

quán ca, Vân Tiên mù… Bài ca Bùi Kiệm thi rớt là một bản Tứ đại oán nổi tiếng đã

đƣợc nhiều nghệ sĩ thành danh lúc bấy trờ trình diễn, vừa ca vừa làm điệu bộ.

Nhiều ngƣời khẳng định, lời ca bản này có duyên, lời thơ, điệu thơ phảng phất tinh

thần những bài thơ mới đầu tiên, lại mang thêm tính kịch. Bài ca bùi Kiệm thi rớt

có vinh là bài ca đầu tiên trong phong trào ca ra bộ, một hình thức diễn xƣớng tiền

thân của kịch cải lƣơng. Huỳnh Ngọc Trảng trong bài nghiên cứu Văn hóa truyền

thống trong truyện Lục Vân Tiên và cuộc sống của tác phẩm đƣa ra điều tra thực

tế: “Ngoài con đường trực tiếp, việc điều tra thực tế cho thấy truyện Lục Vân Tiên

67

còn đóng vai trò là một cốt truyện, để từ đó các nghệ sĩ dân gian dựa vào đó sáng

tác – chủ yếu là ứng tác. Các nhân vật trong truyện Lục Vân Tiên đã trở thành

hình tượng tốt xấu trong suy nghĩ của nhân dân và được tái hiện trong các nội

dung diễn xướng, và đến với công chúng bằng con đường gián tiếp, dưới dạng một

sáng tác mới” [50, tr.116].

Không chỉ dừng lại ở việc thêm bớt chi tiết hoặc sáng tác tiếp nối, Lục Vân

Tiên còn có dị bản giễu nhại, điển hình là Lục Vân Tiên cờ bạc của Nguyễn Văn

Khỏe xuất bản năm 1932. Trong dị bản này, diễn biến của câu chuyện không thay

đổi nhƣng nội dung của tác phẩm bị xuyên tạc hoàn toàn chỉ giữ lại tên của nhân

vật. Trong đó Lục ông mở nhà chứa, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Kim Liên,

Tiểu Đồng, Tử Trực, Hớn Minh, cha con Võ Thể Loan, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm…

đều ham mê cờ bạc. Các tình tiết của câu chuyện xoay quanh việc đánh bài và cũng

vì bài bạc mà xuýt nữa bị mất nƣớc. Mặc dù với nội dung xuyên tạc hoàn toàn và

đi theo hƣớng tiêu cực, tuy nhiên về phần cuối tác phẩm, tác giả cũng đƣa ra đƣợc

bài học cho ngƣời đọc và cho thấy tác hại của cờ bạc. Do vậy, đây cũng là một tác

phẩm với nội dung giáo dục ý thức của ngƣời dân. Với nội dung mới lạ, ngôn ngữ

đời thƣờng và phần nào phản ánh đƣợc một bộ phận dân chúng trong xã hội đƣơng

thời, tác phẩm cũng thu hút đƣợc sự quan tâm của quần chúng.

Trong những năm đầu thế kỷ XX (từ 1922 – 1933), hoạt động lấy cốt truyện

Lục Vân Tiên làm đề tài để sáng tác ra những tập hậu trở thành một phong trào sôi

nổi trong sinh hoạt văn hóa ở Nam Kỳ. Bằng chứng là tần xuất các nhà in và bản

thảo của các tập Hậu Vân Tiên xuất hiện liên tục vào khoảng thời gian trên. Việc

lấy các nhân vật là hình mẫu của tƣ tƣởng Nho giáo ra để bôi nhọ, giễu nhại cũng

chỉ xuất hiện tại Nam Kỳ chứ hoàn toàn không xuất hiện tại Bắc Kỳ. Điều này cho

thấy tinh thần phóng khoáng của ngƣời dân Nam Kỳ.

Nhìn vào số lƣợng các văn bản của tác phẩm Lục Vân Tiên còn lại cho đến

bây giờ mà chúng tôi thống kê đƣợc ở trên, mặc dù chƣa hoàn toàn đầy đủ, cũng

thấy đƣợc sức sống lớn mạnh của tác phẩm và sự yêu thích của nhân dân. Đây là

một hiện tƣợng không nhiều trong văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ đƣợc in

68

bởi một nhà in, không đƣợc phổ biến tại một vùng mà nó phổ biến khắp Nam Kỳ

và Bắc Kỳ. Bên cạnh đó, nó còn có sức sống mạnh mẽ trong dân gian bằng hình

thức truyền miệng.

3.2.2. Các phiên bản nghệ thuật trình diễn hay công chúng nghe nhìn

“chuyện kể” của Nguyễn Đình Chiểu

Nhƣ trên đã nói, một hình thức nghệ thuật trình diễn đƣợc quần chúng nhân

dân Nam Kỳ đặc biệt ƣa chuộng đó là nghệ thuật cải lƣơng. Bởi đây là hình thức

phát triển từ hoạt động trình diễn của dân gian, đồng thời đây là hình thức giúp con

ngƣời có thể nhập tâm và thể hiện đƣợc những cung bậc cảm xúc hỉ nộ ái ố. Để

nghệ thuật cải lƣơng có thể tiếp cận với công chúng, các soạn giả đã chuyển thể rất

nhiều tác phẩm văn học cả trong nƣớc và nƣớc ngoài. Trong đó, truyện Nôm đƣợc

xem là bƣớc dẫn đƣờng cho sân khấu cải lƣơng. Và cùng với Truyện Kiều, Lục

Vân Tiên đƣợc đƣa lên sân khấu trình diễn thu hút đông đảo quần chúng, và nó trở

thành cái hồn của sân khấu cải lƣơng bởi phản ánh xã hội và đề cao đạo lý. Tiêu

biểu nhƣ: tuồng Lục Vân Tiên của Hồ Biểu Chánh, vở cải lƣơng Lục Vân Tiên của

Mạnh Tự Trƣơng Duy Toản, vở cải lƣơng Lục Vân Tiên của Thái Thụy Phong, vở

cải lƣơng Kiều Nguyệt Nga cả Chi Lãng và Hoàng Việt…

Để phù hợp với đặc điểm trình diễn của sân khấu cải lƣơng, những kịch bản

này đã thêm bớt một vài chi tiết tuy nhiên cũng không đi ra ngoài so với cốt truyện

và chủ đề của Lục Vân Tiên. Khi tái hiện tác phẩm trên sân khấu, có kịch bản theo

sát cốt truyện từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc (Lục Vân Tiên tuồng của V.C, vở

cải lƣơng Lục Vân Tiên của Thái Thụy Phong); có vở thì chỉ chọn một tình huống,

bố cục kịch bản theo sát trình tự của mạch truyện (vở cải lƣơng Kiều Nguyệt Nga

của Chi Lăng và Hoàng Việt); có kịch bản bắt đầu từ lúc Vân Tiên thi đỗ, cầm

quân đánh giặc Ô Qua ( vở cải lƣơng Lục Vân Tiên của Cao Hoài Sang); hoặc là

kịch bản đƣợc dựng từ lúc Thái Sƣ tâu với Sở Vƣơng đề nghị đƣa Nguyệt Nga đi

cống Hồ ( tuồng Lục Vân Tiên của Đỗ Văn Rỡ); hay chỉ là một đoạn khi sứ giả

truyền chiếu chỉ của Sở Vƣơng buộc Kiều Công đƣa Nguyệt Nga đi cống Hồ

69

(tuồng Nguyệt Nga cống Hồ của Hồ Biểu Chánh)... [55].

Ngoài Hậu Vân Tiên và kịch bản sân khấu cải lƣơng nói trên, các vở hát bội

Lục Vân Tiên cũng quần chúng nhân dân đón nhận. Các tập Hậu Lục Vân Tiên diễn

ca, có hình của Cử Hoành Sơn, Nguyễn Bá Thời, Đặng Lễ Nghi... đƣợc xuất bản

với nội dung giữ nguyên nhƣng có kèm theo những lời hát nam, hát khác, nói lối,

xƣớng đọc văn tế kèm với những điệu bộ sinh động.

Đơn cử, chúng ta đi vào quan sát tác phẩm Lục Vân Tiên của Đặng Lễ Nghi

đƣợc xuất bản năm 1919 ở nhà in Sài Gòn: Impr. De 1’’Union. Ng.V Của. Với tƣ

liệu hiện tại, chúng tôi chƣa thống kê đƣợc chính xác lƣợng bản in. Đến năm 1928,

chín năm sau, Đặng Lễ Nghi soạn lại bản này lấy tên Lục Vân Tiên: Thơ và có hát

nam khách in tại nhà in S.: Impr. Bảo Tồn, và cho đến năm này, tác phẩm đã in tới

lần thứ sáu. Trong tác phẩm này, ngoài những câu thơ của Lục Vân Tiên, ứng với

một số đoạn lại gắn vào những câu hát, lời nói lối của các nhân vật.

Từ đoạn Lục Vân Tiên từ giã thầy mình xuống núi, thầy trò bịn rịn nhau, biến

thể của Lục Vân Tiên này đã có thêm những câu hát:

“Vân Tiên nói lối. – Tạ Tôn – sư an tại động tiền, cho đồ - đệ kinh thành ứng

thí.

Hát Nam. - Ứng thí công danh một hội, đừng làm người giữ mối giềng ba.

Tôn – sư nói lối. – Nay con xuống Trường – an ứng thí, khá nhớ câu tam tỉnh

kỳ thân, hể4 làm người sanh ở trong trần, chí quan tử nhục vinh hằng hữu.

Hát nam. – Hằng hữu nhục vinh bĩ thới, khỗ tận rồi thời tới cam la.

Vân – tiên nói – Mấy thu chẳng theo thầy học đạo, nay cách phân sư – đẹ hai

phang, nghĩa thầy trò sánh tợ Nam- san, công giáo huấn ví tàu Bắc – hải.

Hái nam. – Bắc-hải ơn thầy ghi dạ, (thầy ôi) lụy sang hàng lả chả tuôn rơi.

Tôn- sư hát nam. – Dứt tình thiên các hai phang, động trung thầy lại Tràng-

4 Một số chữ viết sai nguyên tắc chính tả do đƣợc trích nguyên văn từ văn bản.

70

an con dời.

Vân – Tiên hát Nam. – Nhìn theo sư phụ lui hà, trông chừng kinh địa dăm dài

vơi vơi.

Vân Tiên nói lối. – Tạ Tôn – sư an tại động tiền, cho đồ - đệ kinh thành ứng

thí

Hát Nam. - Ứng thí công danh một hội, đừng làm người giữ mối giềng ba.

Tôn – sư nói lối. – Nay con xuống Trường – an ứng thí, khá nhớ câu tam tỉnh

kỳ thân, hể làm người sanh ở trong trần, chí quan tử nhục vinh hằng hữu.

Hát nam. – Hằng hữu nhục vinh bĩ thới, khỗ tận rồi thời tới cam la.

Vân – tiên nói – Mấy thu chẳng theo thầy học đạo, nay cách phân sư – đẹ hai

phang, nghĩa thầy trò sánh tợ Nam- san, công giáo huấn ví tàu Bắc – hải.

Hái nam. – Bắc-hải ơn thầy ghi dạ, (thầy ôi) lụy sang hàng lả chả tuôn rơi.

Tôn- sư hát nam. – Dứt tình thiên các hai phang, động trung thầy lại Tràng-

an con dời.

Vân – Tiên hát Nam. – Nhìn theo sư phụ lui hà, trông chừng kinh địa dăm dài

vơi vơi.

Khi Nguyệt Nga đƣợc Lục Vân Tiên cứu, nàng đã làm thơ để tạ ân nhân:

Vân – Tiên thị nhứt thủ:/ Bình xa thiên lý nhứt kinh/ Giục thĩnh ân nhân qui

cố lý/ Hồi trình phụ mẫu đắt tàn minh/ Diễn ra nôm:/ Một mình xe giá tách băn

ngàn/ Gặp lủ hung hoang đón giữa đàn/ Muốn rước người ân về bổn cản/ Thư

cùng cha mẹ rõ cơ quang/ Vân – Tiên họa nguyên vận:/ Tạ tủ sư-trưởng bộ khinh

khinh/ Phúng đảng cường gian cãn thượng trình/ Nhứt ngữ tri ân hưu tiếp túc/

Hậu lai nguyên thấy đắt tâm minh/ Diễn ra nôm:/ Lạy thầu dời gói cảnh xa ngàn/

Thấy lũ gian manh chận tại đàng/ Ân hậu một lời theo rất nhọc/ Ngày sau cha mẹ

71

cũng minh quang.

Vân- Tiên nói lối. – Nơi lộ thượng trừ an cường đạo, giải nạn nguy nhị vị đà

an, (vậy thời) biệt từ đây lại tràng an, Hà-khe đó yết lại nguyên thất.

Hát nam. – Nguyên thất Hà-khê đó tới, lước dặm ngằn đây lại trường an.

Nguyệt-Nga nói. – Nhờ quân tữ lộ trung cứu nạn, chẳng chi là mắc phải tai

ương, ơn ngãi người muôn thuở ghi xương, trăm năm nguyện chữ tình để dạ.

Hát nam. – Để dạ ơn như sơn hãi, biết ngày nào đền ngãi báo ân.

Vân-Tiên nói. – (Uã hay) vốn tiểu sự tâm hà ưu lụ, (có phãi à) sự dĩ hườn bất

khả tư lương, nay rẽ phân thiên các nhứt phương, hậu nhựt ắt có ngày tái ngộ.

Hát nam. – Tái ngộ đó đây minh bạch, non nước còn người cách sao an.

Nguyệt – Nga hát nam. – (Bớ ân nhân) nhìn theo quân tử lên đàng, xót xa

lòng thiếp én nhạn lẻ đôi.

Vân Tiên và Tiểu đồng từ giã song thân để đến nhà Võ Công và đi thi:

Vân – Tiên nói lối. – Lạy song thân an tại gia đàng, cho con trẻ trường an

ứng thí.

Lục-ông nói lối. – Nay con xuống trường an ứng thí, (có nghĩa à) dặm xa xuôi

thiên lý ngàn trùng, cấp tiểu-đòng một gã theo cùng, phòng nương đỡ lộ đồ viễn

vọng, (nghe cha dặn) Hàn-giang quận con tua tới đó, trình tâm thơ ra mắt Vỏ

Công, người cùng cha xưa có nguyện đồng, vầy lưởng tánh tương phùng dai ngẩu.

Vân-Tiên nói. – (Dạ), nhục tử cúi vâng lời dạy, quận Hàng chỉ dặm băng

ngàn, (tiểu-đồng) tiểu-đồng mau sắm sửa thát nang, theo cùng cậu Kinh-kỳ thượng

lộ.

Vân –Tiên hát nam.- Thượng lộ trường an đi bộ, cúi đầu từ nguyện thất an

cư.

Lục-ông hát nam.- Dặn lòn con chớ đơn sai, ơn nhà nọ nước làm trai lâm

72

đền.

Vân –Tiên nói. – Phụ thân đà trở lại gia đàng, (vậy thời) tớ thầy kiếp Hàng-

giang trực khứ.

Vân – Tiên hát nam. – Trực khứ Hàng-giang ta tới, ngỏ cho tàn áo lới dường

bao. Đoái nhìn non nước lao xao, xuống nơi bực thẳm lên cao đá dừng.

Vân Tiên từ giã Võ Thể Loan đi thi:

Võ-phi-Loan nói. – Nay quân-tử trường an ứng thí, dặm xa xôi thiên lý quan

san, thiếp nguyền dung đôi chữ bình an, danh hầu toại tấm tình chớ đỗi.

Hát nam. – Chớ đỗi lời nguyền vàng đá, đứng làm người xử thóa trượng phụ.

Vân-Tiên nói. – Trai quân tử tam cam ghi dạ, gái thiền quyên vẹn chữ tam

tùng, một lời phân xin trọn thỉ chung, sơn thủy cách tâm tình như nhứt.

Hát nam. – Như nhứt trọn niềm nhơn ngãi, phân hai đàng kẻ lại người đi.

Võ-phi-Loan hát nam. - (Bớ tình nhân) nhìn theo quân tử bôn ba, nhứt phan

thiên các xót xa lòng vàng.

Lục Vân Tiên chia tay bạn quay về quê chịu tang mẹ:

Tữ Trực nói. – Thiên do hữu phong vân mạc trắc nhơn khởi vô họa phước

nan tương câu tữ qui sanh ký lẻ thường, xin hiền hữu giảm cơn phiền muộn.

Trịnh-Hâm nói. – Đường sanh tử như tên bay trước mặt, người ở đời hết hiệp

rồi tan, xin hiền huynh an thữa lòng vàng, ngõ trở lại lo bề hiếu sự.

Bùi-Kiện nói. – Cỏi trần thế mấy ai miễn tữ, người ở đời như cữa ngựa qua,

hiền huynh tua yểm lụy hồi gia, lo báo hiếu trọn niềm sanh cụ.

Vân-Tiên nói. – (Như ta) hệ chẳng qua thiên sữ, khiến cho nên từ mẫu suối

vàng, chữ công danh vội khiến lấp đàng, trọm trách bấy đảo điên thời vận.

73

Hát nam. – Thời vận khiến xui dễ nại, nguyện công thành danh toại ba ngươi.

Tữ -Trực, Trịnh-Hâm, Bùi-Kiệm nói.- (Thưa) lô thượng ba em từ tạ, đưa hiền

huynh trở lại gia đàng, nay tuy là lở hội hoa tràng, xin an dạ lai niên ứng thí.

Hát nam. - Ứng thí công danh hai chữ, đứng làm người hiếu sự phãi âu, khôn

cùng anh thảm em sầu, xót lòng như cắt thâm bâu lụy tràng.

Nguyệt Nga từ giã cha đi cống Phiên:

Nguyệt-Nga nói. – Đầu cúi lạy phị thân ba lạy, ngỏ đền ơn cúc dục sanh

thành, (cha ôi như phân con là:) quyết làm ma Phiên-quấc đã đành, thương thân

phụ tuỗi cao đầu bạc.

Hát nam. – Đầu bạc tuỗi cao quạnh quẻ, lẻ mất còn thân trẻ nài bao.

Kiều-Công nói. – Thời, hưởng lộc nước lo cơn bác loạn, chịu ơn vua ngay

thão lúc nguy, đau lòng cha thương bấy ấu nhi, đàng diệu viển Phiên thành cách

biệt.

Hát nam. – Cách biệt phân tình cốt nhục, (con ôi) thắt ruột tằm mấy khúc lụy

rơi.

Nguyệt Nga nói. – (Cha ôi) tam như dao cắt cứ, nhìn phụ thân hột lụy làm ly,

biết bao chừ thân trẻ hồi quy, đà đành dạ làm ma Phiên-quốc.

Hát nam. – Phiên-quốc làm ma nào sợ. (cha ôi) nghĩa sinh thành ngàn thuở

cách xa.

Sau khi ở cùng Hớn Minh trong chùa, đƣợc thuốc tiên làm sáng mắt lại, Vân

Tiên nói với Hớn Minh:

Vân-Tiên nói. – Kể từ thuở khoa kỳ lở hội, thời vận xuôi lưởng nhản nan

minh, gian nam thay còn mất linh đinh, vì số mạng vận thời điên đảo. Thời nhờ

hiền hữu Hớn-Minh tâm bão, nơi am-vân bão dưỡng mọi đàng, ơn phật trời phù hộ

bình an, cho song nhãn quang minh hoan hủy. Thương cha mẹ tuổi cao niên xĩ,

cách mấy đông lành dữ nào tàn. Vậy thời tạ từ hiền hữu lên đàng, Đông-thành

74

quận mau mau trở lại.

Hớn-Minh nói. – Nay yên tính bổn bang trở lại, em nguyền dưng đôi chữ bình

an, nghĩ kim bằng tạc dạ keo san, niềm lương hữu thỉ chung như nhứt.

Hát nam. – Như nhứt gằn ghi mật ngãi, cúi đầu từ anh lại cựu bang.

Vân-Tiên nói. – Hiền đệ khá am-vân ẫn tích, để cho yên trở lại Đông-thành,

anh may dầu gặp hội công danh, niềm huynh đẹ có ngày hội ngộ.

Hát nam. – Hội ngộ tương phùng hoan lại, nghĩa kim bằng sống thác nào

phai.

Hớn-Minh nói. – Như em là, vì hữu sự tiền, niên mác áo, lẽ dám đâu bày mặt

ra thí, chữ công danh đà chẵng trông chi, đành một lẽ am-vân ẫn mặt.

Hát nam. - Ẫn mặt am-vân trí tữ, phủi tay rồi hai chữ công danh.

Vân-Tiên nói. – Ơn hiền hữu ơn kia ghi dạ, nghĩa kim bằng sanh tữ giữ đồng,

ta ví dầu gặp hội mây rồng, xin tiển cữ nhứt tràng vinh hiển.

Vân-Tiên hát nam. – Vinh hiển nhứt tràng ngư thủy, mặt giã từ kẻ ở người đi.

Hớn-Minh hát nam. – Nhìn theo hiền hữu tách vời, am-vân trở lại lòng thời

thiết tha.

Vân Tiên biết việc nghĩa Nguyệt Nga đã làm nên xin phép cha đến thăm Kiều

Công:

Vân-Tiên nói. – Kiếp sữa sang đến quận Tây-xuyên, cho minh bạch sạ tình

chung thĩ.

Hát nam. – Minh bạc sạ tình chung thĩ, đứng làm người xử kỷ vi tiên.

Vân-Tiên nói. – Tôi nhớ lại, thời tiền nhựt hữu lộ trung cứu nạn, ra sức ta

bán điểm giãi nàn, khen cho ai giữ dạ đá vàng, chút ơn mọn gây nên tình ngãi.

Hát nam. – Tình ngãi ôm lòng chờ đợi, biết bao chừ nhơn ngãi đoàn viên, trải

75

qua phong cảnh các miền, Tây-xuyên lố thấy cảnh thiền vội trông.

Hớn Minh đƣợc truyền tha tội:

“Hớn-Minh nói lối. – Dạ dạ, long-đình bồ bạc cát hạn cung thân, nãi Hớn-

Minh chỉ thị phạm thần, chúc Thánh-thượng tuế tăng thiên tuế, thiên thiên tuế.

Sở-vương nói. – Trẩm xuống đức nhiêu dung tiền sạ, người hết lòng đoái tội

lập công, sắc phong ngươi Phó tướng hiệp đồng, cùng Tân-trạng bình nhung nam-

bắc.

Hớn-Minh nói. – Phỉ bất như mã phùng bạc lạc, toại thay dường bàn điểu

ngộ phong, trên đã nấy thữa ấn rồng, dưới nguyện ra tài oai hổ, huy kím kích na từ

hiểm lộ, đạp vân đề mạt nạt trường đồ, (phen nây) tróc mang di chẳng khác rung

khô, trừ nhung trặc dường như bẻ héo, (quân) dợn dợn nghiêm bày khí giái, nhơn

nhơn tua chỉnh mã an, ó nhứt lịnh huy hoàng, chỉ Đồng-quang tấn phát.

Quân bài viết. – Sanh kỳ phiến diệu phiến diệu, kim kích huy hoàng huy

hoàng, dương xích xí nguyện cầm nhung tặc, phấn kim thương thệ diệt mang di.

Tiên, Minh đồng hát khách. – Trống lãnh tiền xu chiếm mã cường, hoành

hoành dỏng lực chúng nan đương.

Vân Tiên qua Đông Thành rƣớc Nguyệt Nga:

“Vân-Tiên nói. – Quân, quân nhơn vững ngã lịnh, mau tới chốn Ô-sào, tương

kim ngân báo đáp ơn cao, rước Quân-chúa Đông-thành trở lại.

Quân nói. – Dạ, trên đà nấy mặt, dưới đâu dám đơn sai, mau chỉnh tề kiệ tán

bài khai, khiếp chỉ dặm Ô-sào thẳng tới.

Quân hát nam. – Thẳng tới Ô-sào nào nại, cúi đầu từ an tại bỗ-gia.

Vân-Tiên nói. – Đàng ngàn dặm sơn xuyên hiểm trợ, đạo vi thần tưa khá cần

ưu.

Vân-Tiên hát nam. – Dặn lòng mưa chớ đơn sai, lao thân chơ sạn chông gai

76

chớ từ.

Quân-nói. – Bôn quan đà an tại dinh trung, âu ta kiếp Ô-sào lước dặm.

Hát nam. – Lước dạm gian nan đề nại, đạo vi thần sơn hải sá bao; đoái nhìn

non núi thấp cao, kinh thành xa cách Ô-sào trông tin”

Có thể thấy, ở mỗi một câu chuyện, chuyển cảnh, tác giả đều thêm những câu

hát nam, hát khách hoặc nói lối. Những lời hát bộc bạch cảm xúc này giúp ngƣời

nghe thể hiện hỉ nộ ái ố cùng với nhân vật trên sân khấu. Câu chuyện vốn qua một

ngƣời kể (Nguyễn Đình Chiểu) và bằng lối thơ lục bát đã trở thành một hình thức

đối thoại, ca kịch.

Từ việc đƣợc truyền miệng trong dân gian tới việc đƣợc xuất bản thành văn

bản bởi định bản Nôm, quốc ngữ hay dịch ra tiếng Pháp là một quá trình dài cho

thấy sức sống mãnh liệt của Lục Vân Tiên. Tuy nhiên, chƣa dừng lại ở đó, công

chúng yêu mến Lục Vân Tiên lại tiếp tục tạo ra sức sống trƣờng tồn của tác phẩm

khi đặc biệt hào hứng đón tiếp tác phẩm dƣới hình thức trình diễn cải lƣơng nói

riêng và nghệ thuật dân gian nói chung. Không chỉ là những dị bản bám sát vào tƣ

tƣởng của tác phẩm, mà các dị bản với nội dung, tƣ tƣởng khác hẳn cũng đƣợc tạo

ra để nhằm kinh doanh kiếm lời. Nguyễn Văn Xuân viết: “Các rạp cải lương người

ta chen nhau mua vé dù giá rất đắt, đắt không thể tưởng tượng được đối với túi

tiền của người miền Trung” [65, tr.538 - 539].

Tiểu kết:

Việc chỉ ra văn bản và hình thức kể chuyện bằng văn xuôi, văn vần, nghệ

thuật biểu diễn cho phép chúng ta khẳng định sức lan tỏa vừa sâu vừa rộng của Lục

Vân Tiên. Đặt tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong hệ thống thể loại cũng nhƣ

cách thức tiếp nhận văn học của đông đảo quần chúng có thể thấy giá trị to lớn của

truyện Nôm Nguyễn Đình Chiểu. Ngay từ ban đầu khi sáng tác, Nguyễn Đình

Chiểu đã sử dụng nhiều yếu tố văn học dân gian vào trong tác phẩm, giúp nó trở

nên gần gũi với đời sống nhân dân, đƣợc nhân dân đón nhận. Song bên cạnh đó,

tác phẩm của ông sau một thời gian sống trong nhân dân lại ảnh hƣởng ngƣợc lại

77

vào đời sống dân gian, trong những hoạt động văn hóa văn nghệ. Chúng ta có thể

khẳng định rằng, truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần tạo dựng sức

sống cho loại hình nghệ thuật sân khấu bởi những vở diễn này đƣợc quần chúng

nhân dân đón nhận nồng nhiệt.

Truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt là Lục Vân Tiên lƣu truyền từ

Nam ra Bắc, nhƣng Nam Kỳ là nơi đón nhận tác phẩm hào hứng hơn hẳn. Và cũng

đáng chú ý là các hình thức tục biên, phỏng tác, giễu nhại Lục Vân Tiên, hay trình

diễn bằng các hình thức diễn xƣớng sân khấu… căn bản và chủ yếu diễn ra ở vùng

văn hóa này. Điều này cho thấy sự phóng khoáng trong tính cách, thói quen, văn

78

hóa của con ngƣời tại Nam Kỳ.

KẾT LUẬN

Kế thừa thành quả của những ngƣời đi trƣớc, luận văn của chúng tôi đi vào

tìm hiểu truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu trong hệ thống thể loại và sự tiếp

nhận của công chúng, sơ bộ có thể kết luận:

1.Truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu xuất hiện ở vùng văn hóa

phƣơng Nam có nhiều khác biệt so với vùng đất phƣơng Bắc. Đồng thời, công

cuộc chống xâm lƣợc mới cũng là một tác nhân thay đổi quan trọng. Trong hoàn

cảnh nhƣ vậy, truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu ra đời với chủ đích nêu gƣơng,

bảo vệ đạo đức truyền thống với tâm thế chống xâm lƣợc bảo vệ đất nƣớc.

2. Và vì muốn truyền tải luân thƣờng, đạo làm ngƣời nên Nguyễn Đình

Chiểu đã xây dựng truyện Nôm của mình với nội dung và nghệ thuật có nét khác

biệt so với hình thức đã có ở Đàng Ngoài trƣớc đó. Không nhằm đề cao tình yêu

đôi lứa thuần tuý, hạnh phúc cá nhân nhƣ trƣớc, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng tác

phẩm của mình theo hai hình thức: số phận cặp nam nữ có tình duyên với nhau của

truyện Nôm bình dân và du hành đi tìm chân lý. Với việc xây dựng hình thức du

hành đi tìm chân lý, Nguyễn Đình Chiểu cho nhân vật chính của mình có những

cuộc du hành thực tế bằng việc xây dựng những thế giới biểu tƣợng sinh động, ấn

tƣợng để nhân vật cũng nhƣ ngƣời tiếp nhận có thể tự mình trải qua, kiểm chứng

và rút ra những bài học cần thiết. Tuy nhiên, khảo sát việc lƣu truyền tác phẩm, có

thể thấy phạm vi lƣu truyền của Lục Vân Tiên hơn hẳn Dương Từ - Hà Mậu và

Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca. Điều đó dƣờng nhƣ cũng cho thấy mô hình

chuyện kể bằng thơ vẫn thành công hơn ở chủ đề tình yêu nam nữ.

Giữa các hình thức kể chuyện ở thời kỳ đó (văn vần, văn xuôi), Nguyễn Đình

Chiểu chọn hình thức văn vần. Bởi nó phù hợp với hoàn cảnh sáng tác của tác già

(mù, không biết chữ quốc ngữ, chủ trƣơng chống “tà đạo”…). Với ngòi bút của

Nguyễn Đình Chiểu, văn vần có thể kể chuyện, có thể diễn giảng (đạo lý). Có lẽ,

79

đó là lý do để thi sĩ mù hào hứng với hình thức này.

Hơn nữa, sự lƣu biến rộng rãi và đa dạng của truyện thơ Lục Vân Tiên (và đây

có lẽ là tác phẩm có phổ màu đa sắc nhất trong các truyện thơ Nôm nói chung) chỉ

trong vùng đất Nam Kỳ cũng chứng tỏ văn hoá và tính cách con ngƣời ở đây là

một căn rễ địa vùng có bản sắc riêng.

3. Trong khi tìm hiểu đề tài Nguyễn Đình Chiểu và thể loại truyện Nôm,

chúng tôi nhận thấy truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu, kể cả Ngư Tiều vấn đáp

nho y diễn ca, hoàn toàn vắng bóng những chi tiết của lịch sử, xã hội Việt Nam

cuối thế kỷ XIX trong khi thơ và văn tế của ông lại mang tính thời sự cập nhật.

Điều đó có nghĩa, với Nguyễn Đình Chiểu, truyện thơ vẫn tuân thủ tính biểu trƣng

80

của thể loại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Ánh (giới thiệu và tuyển chọn, 2009), Nguyễn Đình Chiểu

tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục, Hà Nội.

2. Thái Bạch (1957), Nguyễn Đình Chiểu 1822-1888, NXB Sống mới,

Sài Gòn.

3. Lâm Văn Bé (2006), “Nguyễn Đình Chiểu qua lăng kính của người

Pháp và người cộng sản”, www.namkyluctinh.org

4. Đỗ Dũng (2003), Sân khấu cải lương Nam Bộ, NXB Trẻ, Tp.Hồ Chí

Minh.

5. Lê Trần Đức (1983), Nguyễn Đình Chiểu với Ngư Tiều vấn đáp y

thuật, NXB Y học, Hà Nội.

6. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

7. Bảo Định Giang (1973), Thơ văn yêu nước Nam Bộ (nửa sau thế kỷ

XIX), NXB Văn học, Hà Nội.

8. Nguyễn Thạch Giang (1982), Nguyễn Đình Chiểu – Truyện Lục Vân

Tiên, NXB Văn học, Hà Nội.

9. Đoàn Lê Giang (2001), Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn

nghệ dân tộc, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

10. Tuấn Giang (1997), Ca nhạc và sân khấu cải lương, NXB Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

11. Hà Huy Giáp, Nguyễn Thạch Giang (1975), Nguyễn Đình Chiểu,

truyện Lục Vân Tiên, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nô ̣i.

12. Trần Văn Giàu (1976), Hợp tuyển văn thơ yêu nước – Thơ văn yêu

nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1900), NXB Văn học, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Hầu, Văn học miền Nam lục tỉnh (3 tập), NXB Trẻ, Tp.

81

Hồ Chí Minh.

14. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học - bộ mới, NXB Thế

giới, Hà Nội.

15. Kiều Thu Hoạch (2011), Truyện Nôm lịch sử hình thành và bản chất

thể loại, NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Khỏe (1935), Vân Tiên cờ bạc, NXB Phạm Văn Thìn,

Sài Gòn.

17. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam , Quyển ha ̣ – Ba

thế hê ̣ củ a nền văn ho ̣c mớ i (1862-1945), NXB Trình bày, Sài Gòn.

18. Li Tana (1999), Xứ Đàng trong, lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam thế

kỉ XVII và XVIII, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

19. Vũ Đình Liên (1958), Nguyễn Đình Chiểu (1822- 1888), NXB Văn

hóa, Hà Nội.

20. Vũ Đình Liên, Nguyễn Sỹ Lâm (1997), Lục Vân Tiên, NXB Văn

học, Hà Nội.

21. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII – hết

thế kỷ XIX), NXB Giáo dục, Hà Nội.

22. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ,

NXB Tp. Hồ Chí Minh.

23. Đào Lê Na (2011), Kịch bản cải lương Nam Bộ trước 1945, Luận văn

Thạc sỹ, chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí

Minh - Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 24.

Sơn Nam (1997), Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, NXB Tp. Hồ Chí 25.

Minh.

26. Sơn Nam (2005), Nói Về Miền Nam, Cá Tính Miền Nam, Thuần

Phong Mỹ Tục Việt Nam, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

27. Phong Nam (1997), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học,

82

NXB Giáo dục, Hà Nội.

28. Nhiều tác giả (1971), Kỷ yếu Lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu, Phủ

Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn.

29. Nhiều tác giả (1982), Kỷ yếu Hội nghị khoa học về Nguyễn Đình

Chiểu nhân kỷ niệm lần thứ 160 ngày sinh của nhà thơ (1822 – 1982), tổ chức tại

Bến Tre từ ngày 29-30/6/1982.

30. Nhiều tác giả (1973), Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao

động nghệ thuật, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Nhiều tác giả (1971), Sưu tập những bài báo về Nguyễn Đình Chiểu,

Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn.

32. Nhiều tác giả (1982), Thư mục về Nguyễn Đình Chiểu, NXB Ty Văn

hóa và Thông tin tỉnh Long An.

33. Nguyễn Thị Minh Ngọc - Đỗ Hƣơng (2007), Sân khấu cải lương ở

Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

34. Phạm Thế Ngũ (1972), Viê ̣t Nam văn học sử giản ướ c tân biên , (tâ ̣p

II, III), Quốc ho ̣c tù ng thƣ, Sài Gòn.

35. Nhà xuất bản văn học (2006), Tác giả trong nhà trường Nguyễn Đình

Chiểu, NXB Văn học, Hà Nội.

36. Thạch Phƣơng (chủ biên) (1982), Nguyễn Đình Chiểu trong cuộc đời,

NXB Ty Văn hóa và thông tin Bến Tre.

37. Quốc sử triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

38. Vƣơng Hồng Sển (1968), Hồi ký 50 năm mê hát, Cơ sở xuất bản

Phạm Quang Khai, Sài Gòn.

39. Cử Hoành Sơn (1933), Hậu Vân Tiên diễn ca, NXB Nguyễn Quới

Loan, Sài Gòn.

40. Trần Đình Sử (2010), “Cần có tiêu chí khoa học để phân biệt người

đọc cổ điển và hiện đại”, Văn nghệ, số 28 ngày 10-7-2010.

41. Thái Bá Tân (2012), Lục Vân Tiên diễn nghĩa, http://thaibatan.com,

83

Hà Nội, 10/2/2012.

42. Nguyễn Khuê - Cao Tự Thanh (2011), Văn học Hán Nôm ở Gia Định

- Sài Gòn, NXB Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

43. Cao Tự Thanh (2001), Nho giáo ở Gia Định, NXB Văn hóa, Sài

Gòn.

44. Trƣơng Thành (1999), Dị bản mới truyện Lục Vân Tiên, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

45. Cao Tự Thanh, Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Nguyễn Đình Chiểu với

văn hóa Việt Nam, NXB ở Văn hóa và Thông tin Long An.

46. Tuấn Thành – Anh Vũ (tuyển chọn) (2002), Nguyễn Đình Chiểu tác

phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội.

47. Tuấn Thành – Anh Vũ (Tuyển chọn 2007), Nguyễn Đình Chiểu tác

phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội.

48. Nguyễn Bá Thế (1957), Nguyễn Đình Chiểu thân thế và thi văn, Tân

Việt xuất bản, Sài Gòn.

49. Lạc Thiên (1992), Lục Vân Tiên: Chữ Nôm và quốc ngữ đối chiếu,

NXB Tp. Hồ Chí Minh.

50. Nguyễn Ngọc Thiện (2003), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác

phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn

văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội, Hà Nội.

52. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX, NXB Giáo dục, TP. Đà Nẵng.

53. Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang (Biên khảo và

chú giải) (1997), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (2 tập), NXB Văn học, Hà Nội.

54. Nguyễn Bá Thời (1933), Hậu Vân Tiên, NXB. Phạm Văn Thình, Sài

Gòn.

55. Đoàn Trần Ái Thy (2005), Nghiên cứu sự tiếp nhận sáng tác của

Nguyễn Đình Chiểu, Luận văn Thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Thành phố Hồ Chí

84

Minh.

56. Thƣ viện quốc gia, http://nlv.gov.vn

57. Bùi Văn Tiếng (2004), Minh oan cho Bùi Kiệm, in trong Nghĩ dọc

sông Hàn, NXB Đà Nẵng.

58. Nguyễn Văn Trung, Hồ sơ lục châu học, http://namkyluctinh.org.

59. Viện Sử học và Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1971), Đại –

Nam nhất thống chí, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Viện Văn học và Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1969), Mấy vấn

đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Lê Trí Viễn (1993), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 17, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

62. Thái Vũ (2000), Tuổi xanh Nguyễn Đình Chiểu, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí

Minh.

63. Trần Ngọc Vƣơng (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Trần Đình

Hượu Tuyển tập (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.

64. Trần Ngọc Vƣơng (2005), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế

kỉ XIX – Những vấn đề lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.

65. Nguyễn Văn Xuân (2002), Khi những lưu dân trở lại, NXB Đà

85

Nẵng.