ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN KIM ANH
NH N THỨC CỦA C N Ộ C N Ộ ÃNH ĐẠO
QUẢN VỀ NH M QUYỀN ĐƢ C ẢO VỆ
CỦA TR EM HIỆN NAY
(Nghiên cứu lớp Cao cấp lý luận và Cử nhân chính trị tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)
U N VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN KIM ANH
NH N THỨC CỦA C N Ộ C N Ộ ÃNH ĐẠO
QUẢN VỀ NH M QUYỀN ĐƢ C ẢO VỆ
CỦA TR EM HIỆN NAY
(Nghiên cứu lớp Cao cấp lý luận chính trị và Cử nhân chính trị tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)
U N VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Mã ngành: 60 31 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN THỊ THÙY INH
Hà Nội - 2015
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào trước đây.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả Luận văn của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả
Nguyễn Kim Anh
ỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập & rèn luyện tại khoa Xã hội học – Trường ĐH
Khoa học xã hội & Nhân văn. Với sự nỗ lực của bản thân, sự hướng dẫn, giúp
đỡ, động viên của thầy cô, gia đình, bạn bè, các cơ quan đoàn thể tại địa bàn
nghiên cứu.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS Nguyễn Thị Thùy
Linh, giảng viên Viện Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, định hướng chuyên môn và truyền đạt
những kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và làm
Luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới toàn thể các thầy cô giáo
trong khoa Xã hội học, Trường ĐH Khoa học xã hội & Nhân văn trong truyền
tải những kiến thức chuyên ngành và trong suốt quá trình học tập để tôi có
được nền tảng kiến thức vững chắc.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình, trách nhiệm và năng lực của mình, tuy không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả
Nguyễn Kim Anh
MỤC ỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6
1. ý do chọn đề tài ......................................................................................... 6
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. ................................................................... 8
3. nghĩa lý luận ý nghĩa thực tiễn ............................................................ 12
4. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 13
5. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu ......................................... 13
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ........................................ 14
7. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 14
8. Khung phân tích ........................................................................................ 16
NỘI DUNG CHÍNH ...................................................................................... 17
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ U N VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 17
1.1. Các khái niệm công cụ ........................................................................... 17
1.1.1. Khái niệm nhận thức ........................................................................... 17
1.1.2. Khái niệm trẻ em .................................................................................. 18
1.1.3. Khái niệm quyền trẻ em ....................................................................... 18
1.1.4. Khái niệm quyền được bảo vệ của trẻ em. .......................................... 19
1.1.5. Khái niệm cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý ...................................... 20
1.2. ý thuyết nghiên cứu ............................................................................. 23
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội ................................................................. 23
1.2.2. Lý thuyết xã hội hóa ............................................................................. 25
1.2.3. Tiếp cận quyền con người trong nghiên cứu quyền trẻ em ............... 27
1.4. Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về quyền trẻ em. ..... 28
1.4.1. Quan điểm của Đảng về quyền trẻ em ................................................ 28
1
1.4.2. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về quyền trẻ em ....................... 30
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NH N THỨC CỦA C N Ộ C N Ộ
ÃNH ĐẠO QUẢN VỀ NH M QUYỀN ĐƢ C ẢO VỆ CỦA
TR EM ......................................................................................................... 31
2.1. Mô tả mẫu điều tra ................................................................................. 31
2.2. Nhận thức của cán bộ cán bộ lãnh đạo, quản lý về Công ƣớc quốc tế
về quyền trẻ em và uật ảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em................. 34
2.2.1. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về Công ước quốc tế
về quyền trẻ em ............................................................................................... 34
2.2.2. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về nhóm quyền được
bảo vệ được quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em. ................. 42
2.2.3. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về quyền trẻ em theo
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam ............................. 51
2.2.4. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về nhóm quyền được
bảo vệ được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của
Việt Nam. ........................................................................................................ 52
2.2.5. Một số hình thức giáo dục con cái của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản
lý khi con mắc lỗi ........................................................................................... 62
CHƢƠNG 3. NHỮNG NHÂN TỐ T C ĐỘNG ĐẾN NH N THỨC CỦA
C N Ộ C N Ộ ÃNH ĐẠO QUẢN VỀ NH M QUYỀN ĐƢ C
ẢO VỆ CỦA TR EM HIỆN NAY .......................................................... 74
3.1. Nhóm yếu tố về văn hóa phong tục tập quán ở Việt Nam ................. 74
3.2. Nhóm yếu tố về pháp luật ...................................................................... 78
3.3. Nhóm yếu tố về xã hội ............................................................................ 82
KIẾN NGHỊ GIẢI PH P VÀ KẾT U N ............................................... 86
DANH MỤC TÀI IỆU THAM KHẢO ..................................................... 93
2
PHỤ ỤC ....................................................................................................... 97
DANH MỤC C C CHỮ VIẾT TẮT
BV, CS&GD : ảo vệ chăm sóc và giáo dục
Đ Q : ãnh đạo quản lý
TW : Trung ƣơng
XNK : Xuất nhập khẩu
3
QT : Quốc tế
DANH MỤC C C ẢNG
Bảng 2.1. Khối công tác, cấp làm việc của cán bộ, cán bộ LĐ, QL ............... 33
Bảng 2.2: Quan niệm của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về quyền trẻ em theo Công
ước QT ............................................................................................................. 39
Bảng 2.3: Tương quan tuổi của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về quyền trẻ em theo
Công ước QT ................................................................................................... 41
Bảng 2.4: Các quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em trong Công
ước QT ............................................................................................................. 43
Bảng 2.5: Tương quan giới tính của cán bộ, cán bộ LĐ, QL với nhóm quyền
được bảo vệ của trẻ em.................................................................................... 45
Bảng 2.6: Tương quan khối công tác của cán bộ, cán bộ LĐ, QL với nhóm
quyền được bảo vệ của trẻ em ......................................................................... 48
Bảng 2.7: Các quyền thuộc Luật BV,CS&GD trẻ em của việt Nam .............. 52
Bảng 2.8: Tương quan trình độ học vấn của cán bộ, cán bộ LĐ, QL với nhóm
quyền được bảo vệ .......................................................................................... 55
Bảng 2.9: Tương quan cấp làm việc của cán bộ, cán bộ LĐ, QL với nhóm
quyền được bảo vệ. ......................................................................................... 58
Bảng 2.10: Tương quan cấp làm việc của cán bộ, cán bộ LĐ, QL với quan
niệm bạo hành trẻ em ...................................................................................... 72
4
Bảng 3.1: Nhóm yếu tố pháp luật .................................................................. 81
DANH MỤC IỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Độ tuổi của cán bộ, cán bộ LĐ, QL ....................................................... 32
Biểu đồ 2.2: Cán bộ, cán bộ LĐ, QL biết đến Công ước QT về quyền trẻ em ........ 35
Biểu đồ 2.3: Nguồn thông tin cán bộ, cán bộ LĐ, QL biết đến Công ước QT ....... 36
Biểu đồ 2.5: Hình thức giáo dục của cán bộ, cán bộ LĐ, QL khi con mắc lỗi63
Biểu đồ 2.6: Trình độ học vấn của cán bộ, cán bộ LĐ, QL với hình thức giáo
dục khi con mắc lỗi ......................................................................................... 66
Biểu đồ 2.7: Quan niệm của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về bạo hành trẻ em ...... 69
Biểu đồ 3.1: Nhóm yếu tố văn hóa, phong tục tập quán ................................. 75
5
Biểu đồ 3.2. Nhóm yếu tố về xã hội ................................................................ 82
MỞ ĐẦU
1. ý do chọn đề tài
Từ ngày thành lập Đảng và Nhà nước cho đến nay, Đảng và Nhà nước
ta luôn nhất quán coi nhiệm vụ BV,CS&GD trẻ em là một nội dung cơ bản của
chiến lược con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bởi vì, trẻ em có vai trò hết sức quan trọng đối với gia đình và xã hội.
Năm 1990, Việt Nam đã ký Công ước QT về quyền trẻ em, trở thành
nước đầu tiên ở châu Á, nước thứ hai trên thế giới chính thức cam kết cùng cộng
đồng quốc tế ra sức BV,CS&GD trẻ em.
Qua hơn hai mươi năm thực hiện Công ước QT, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật đẩy mạnh công tác
BV,CS&GD trẻ em, đặc biệt là việc ban hành, bổ sung, sửa đổi Luật
BV,CS&GD trẻ em, đảm bảo việc thực hiện quyền trẻ em không chỉ mang ý
nghĩa đạo lý sâu sắc mà còn mang tính pháp lý chặt chẽ. Việc thực hiện quyền
trẻ em ở nước ta bước đầu đã đạt được những thành quả quan trọng, được nhân
dân trong nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, cũng còn nhiều
vấn đề cần phải quan tâm, giải quyết nhằm đảm bảo cho trẻ em có điều kiện tốt
nhất để phát triển toàn diện. Bởi lẽ, mỗi đứa trẻ sinh ra là kết quả tình yêu của
cha mẹ, là hạnh phúc, tương lai của mỗi gia đình và toàn thể xã hội. Một đứa
trẻ sẽ phát triển toàn diện khi được sống trong gia đình có sự yêu thương,
chăm sóc, đùm bọc và che chở của cha mẹ. Trẻ em ngày nay được chăm sóc
rất tốt, được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu để phát triển một cách toàn diện
nhất. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ những đứa trẻ đang phải
sống trong tình cảnh hết sức khó khăn, bị cha mẹ hành hạ, sử dụng bạo lực...
Vì thế, xã hội cần đặc biệt chú trọng đến các nhóm trẻ này, đặc biệt là nhóm
6
trẻ có hoàn cảnh khó khăn như: trẻ em thiệt thòi, trẻ em khuyết tật, trẻ em là
nạn nhân của bạo lực gia đình, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường đã đưa Việt Nam hội
nhập cùng Thế giới. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá dần phát triển
kéo theo mức sống của người dân ngày một ổn định hơn. Tuy nhiên, điều đó
cũng khiến cho khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng
chênh lệch. Khi nông thôn bước vào quá trình đô thị hoá đem lại nhiều cơ hội
lao động cho một bộ phận dân cư nhưng đồng thời kéo theo một lượng lớn
người dân có nguy cơ bị thất nghiệp cao, gia đình rơi vào khủng hoảng dẫn
đến những biến động lớn trên mọi mặt. Nhiều gia đình phải rời bỏ nông thôn
lên đô thị tìm kế sinh nhai nhưng cuộc sống của họ gặp rất nhiều trắc trở.
Chính vì thế mà xung đột gia đình xuất hiện cộng thêm sự khủng hoảng kinh
tế gia đình đã dẫn đến các cuộc bạo lực gia đình, tranh chấp tài sản, đánh đập
con cái hay ly hôn… Và hậu quả của những cuộc tranh cãi, ly hôn đó đã đẩy
những đứa trẻ ngây thơ, bé bỏng trở thành những trẻ em mồ côi lang thang
đường phố, không nơi nương tựa.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan trực thuộc Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực
tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Bên cạnh đó, Học viện còn
là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cán bộ LĐ, QL trung, cao
cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của hệ thống chính trị; trung tâm quốc
gia nghiên cứu khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị,
khoa học lãnh đạo, quản lý.
Đối tượng được đào tạo tại Học viện Trung tâm là cán bộ, cán bộ LĐ,
QL ở cấp TW; tỉnh, thành phố; quận, huyện, các Bộ, ban, ngành, đoàn thể,
7
các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, bao gồm: Vụ trưởng, phó vụ trưởng và
tương đương trở lên của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đảng ủy trực thuộc
Trung ương; tỉnh ủy viên, thành ủy viên, trưởng, phó các sở, ban, ngành, đoàn
thể tỉnh, thành phố trở lên; cán bộ chủ chốt cấp huyện (Bí thư, Phó Bí thư,
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân) và tương đương; cán
bộ được quy hoạch vào các chức danh này.
Đánh giá một cách đầy đủ và khoa học về nhận thức của cán bộ, cán bộ
LĐ, QL về vấn đề quyền được bảo vệ của trẻ em sẽ mang đến cái nhìn mới mẻ
và toàn diện hơn về vấn đề này. Họ có nhận thức như thế nào về quyền được
bảo vệ trẻ em? Họ cần phải làm gì để triển khai thực hiện quyền được bảo vệ
của trẻ em hiện nay với cương vị là những người cán bộ, cán bộ lãnh đạo đạo,
quản lý. Qua đó, đề tài "Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay" sẽ mang đến một góc nhìn mới
mẻ hơn về vấn đề này.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Trẻ em là nhóm đối tượng đặc biệt cần sự quan tâm rất lớn của Đảng,
Chính phủ và các tổ chức xã hội. Việt Nam là nước phê chuẩn Công ước QT
về quyền trẻ em từ năm 1990, trải qua 25 năm áp dụng trong thực tiễn cũng
như việc sửa đổi, bổ sung Luật BV,CS&GD trẻ em cho thấy công tác trẻ em
ngày càng được coi trọng nhằm đáp ứng đầy đủ các nhu cầu để trẻ phát triển
một cách toàn diện nhất.
Khái quát tình hình nghiên cứu về quyền trẻ em ở Việt Nam thời gian
qua, có thể nhận định rằng, đã có rất nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về các
vấn đề của trẻ em nói chung và quền trẻ em nói riêng được triển khai và đem
lại những giá trị, ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Báo cáo phân tích tình
hình trẻ em tại Việt Nam năm 2010 của tác giả Võ Kim Hương giới thiệu đã
mang lại cái nhìn mới. Dựa trên cách tiếp cận về quyền con người, báo cáo đã
8
có một phân tích tương đối toàn diện về tình hình của trẻ em dưới 18 tuổi hiện
đang sống ở Việt Nam và tập trung vào những đối tượng khó khăn nhất trong
việc tiếp cận như: trẻ em dân tộc thiểu số đang sống ở vùng nông thôn xa xôi;
trẻ có hoàn cảnh đặc biệt (trẻ lang thang, trẻ di cư, trẻ vi phạm pháp luật); và
các trẻ khác. Bên cạnh đó, báo cáo cũng lưu ý đặc biệt đến các hành vi và giá
trị có liên quan đến gia đình, truyền thống và văn hóa Việt Nam có ảnh hưởng
đến việc thực hiện quyền trẻ em. Phân tích tình hình trẻ em Việt Nam 2010 là
kết quả nghiên cứu của UNICER, được xây dựng với sự cộng tác chặt chẽ của
chính phủ Việt Nam. Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận dựa trên quyền
con người và có tính cập nhật và toàn diện cho các bên tham gia trong công
tác thúc đẩy an sinh cho trẻ em, cũng như hỗ trợ việc xây dựng và thực hiện
các chính sách và chiến lược nhằm thực hiện tốt hơn quyền của trẻ em Việt
Nam. Thông điệp quan trọng nhất của nghiên cứu này là kêu gọi giảm sự bất
bình đẳng về khả năng tiếp cận các dịch vụ đối với trẻ em. [13, tr.75].
Bàn về công tác nâng cao trách nhiệm của gia đình và xã hội trong
công tác BV,CS&GD trẻ em, PGS.TS Cao Duy Hạ nhấn mạnh trẻ em là niềm
hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc. Công tác BV,CS&GDTE là
trách nhiệm của Nhà nước, của toàn xã hội và của mọi gia đình. Việc quan
tâm, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ ở Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta
chú ý từ rất sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập tới vấn đề
này, trong đó đều thống nhất khẳng định đây là trách nhiệm to lớn của Đảng,
toàn dân, đồng thời thể hiện tính ưu việt của xã hội ta. Trên thực tế, từ khi đổi
mới tới nay, công tác BV,CS&GDTE đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hiện nay trong xã hội vẫn
còn xảy ra nhiều hiện tượng đau lòng khi bạo hành trẻ em diễn ra ở không ít
gia đình, ở một số nơi thuê mướn việc làm, thậm chí ngay cả trong lớp học và
cơ sở nuôi dạy trẻ. Một khảo sát vào tháng 3-2006 do Ủy ban Dân số, Gia
9
đình và trẻ em và tổ chức Plan tại Việt Nam thực hiện ở 5 địa điểm: Hà Nội,
Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên và Quảng Bình cho thấy có đến 58,3% số
trẻ em nói rằng, người lớn dùng các phương pháp quát mắng, chửi, sỉ nhục,
đánh tát, phạt úp mặt vào tường...để răn dạy các em mắc lỗi. [10, tr.62-63]
Trong những năm gần đây, các vụ hạo hành, xâm hại đối với trẻ em
được phát hiện và phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng, khiến
cho cộng đồng xã hội rất quan tâm và lo ngại. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng,
trong giai đoạn hiện nay, công tác BV,CS&GD trẻ em muốn đạt được kết quả
tốt cần phải thực hiện các biện pháp cơ bản sau đây. Một là, tăng cường sự
quan tâm lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện của các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể chính trị xã hội. Hai là, Nhà nước phải đầu tư thỏa đáng
cho một số hoạt động chính của công tác trẻ em. Ba là, các tổ chức xã hội, gia
đình và cá nhân phải thực hiện nghiêm túc các điều luật, chính sách và pháp
lệnh của Nhà nước về công tác BV,CS&GDTE. Bốn là, công tác trẻ em phải
được tổ chức thành phong trào quần chúng sâu rộng và thường xuyên[10, tr.18].
Bên cạnh đó, tình trạng trẻ em thất học, bị ngược đãi, không được chăm
sóc đầy đủ, lao động sớm, bị lạm dụng tình dục, bị bạo lực trong gia đình…
vẫn chưa được ngăn chặn, sự tham gia của trẻ em vào các quyết định liên
quan trực tiếp đến bản thân còn chưa được tôn trọng. Hai nguyên nhân chính
của các bất cập này là do điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung,
của các địa phương, cộng đồng và gia đình nói riêng còn thấp, chưa đủ để
thực hiện đầy đủ một số quyền trẻ em và do nhận thức của nhiều người lớn,
gia đình, cộng đồng, người làm công tác BV, CS&GD trẻ em về quyền trẻ em
còn nhiều hạn chế… [16].
Luận văn "Hoạt động của các câu lạc bộ trẻ em về quyền trẻ em ở tỉnh
Lào Cai hiện nay" của tác giả Đỗ Thị Thu Thủy đã cho thấy thực trạng của
các câu lạc bộ trẻ em về quyền trẻ em cũng như những tác động của câu lạc
10
bộ đến trẻ em và các đối tượng có liên quan. Theo kết quả khảo sát của đề tài
đã chỉ ra, tại Thành phố Lào Cai và huyện Bát Xát có 180 câu lạc bộ, định
hướng hoạt động của các câu lạc bộ nhằm nâng cao nhận thức của các em về
quyền trẻ em và tạo sân chân bổ ích cho các em tham gia sinh hoạt, học hỏi,
được rèn luyện nơi đông người đồng thời đề tài cũng chỉ ra nội dung các buổi
sinh hoạt của câu lạc bộ là tổ chức tập huấn, tuyên truyền về quyền trẻ em,
đưa ra các tình huống về vi phạm quyền trẻ em để các em cùng tham gia thảo
luận và giúp các em cách phòng tránh những nguy cơ bị xâm phạm. Nghiên
cứu cũng chỉ rõ, tác động của câu lạc bộ Quyền trẻ em đến các em trong quá
trình sinh hoạt câu lạc bộ được tiếp cận kiến thức về bảo vệ quyền trẻ em
cũng như vai trò của giáo viên, các bậc phụ huynh và chính quyền địa phương
trong việc tham gia các câu lạc bộ trẻ em tại địa phương[25].
Tác giả Đinh Thị Thoa với đề tài nghiên cứu "Người dân huyện Phú
Xuyên - Hà Nội và thực hiện nhóm quyền tham gia của trẻ em được quy định
trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc hiện nay" đã cho
thấy quyền được tham gia là một trong bốn nhóm quyền được quy định trong
Công ước. Trẻ em được tham gia vào các hoạt động xã hội theo khả năng, sở
thích, nguyện vọng và được nêu ý kiến của mình trong các cuộc họp về vấn
đề liên quan đến quyền trẻ em và sự phát triển. Tác giả cũng cho rằng đây là
các quyền cơ bản để trẻ em được rèn luyện đưa quyết định trước những vấn
đề của cuộc sống. Qua nghiên cứu, tác giả cho thấy vấn đề thực hiện quyền
tham gia của trẻ em trong các gia đình người dân huyện Phú Xuyên vẫn chỉ ở
giai đoạn bước đầu của sự tham gia do ông bà, cha mẹ chưa tạo điều kiện cho
trẻ em tham gia và các đoàn thể tổ chức ít các hoạt động dành cho trẻ em để
khuyến khích trẻ em tham gia [22].
Tiếp cận dưới góc độ tai nạn thương tích trẻ em: Thực trạng và vấn đề,
tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Hoa thuộc Viện Nghiên cứu Thanh niên đã chỉ ra
11
một số đặc điểm cơ bản của trẻ em bị tai nạn thương tích như đặc điểm giới
tính và lứa tuổi, hoàn cảnh gia đình cũng như nghề nghiệp của cha mẹ cũng
ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề tai nạn thương thích của trẻ em. Nếu cha mẹ
hoặc các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình có sự quan tâm đầy đủ đến
con em của họ thì việc đảm bảo an toàn cho trẻ sẽ rất cao. Ngược lại, cha mẹ
và người lớn vô tâm, thiếu trách nhiệm trong chăm sóc, quan tâm đến con trẻ
sẽ dễ dẫn đến hậu quả, trẻ có thể gặp tai nạn thương tích ở mọi nơi, mọi lúc và
mọi hoàn cảnh khác nhau. Kết luận của nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trẻ em bị
tai nạn thương tích chủ yếu ở lứa tuổi từ 12 đến 14. Ở lứa tuổi này, tâm lý của
các em thường hay tò mò, hiếu động, suy nghĩ của các em chưa chín chắn và
hành động còn rất nông nổi. Trong khi đó, nhiều bậc cha mẹ mải mê mưu
sinh, có rất ít thời gian hoặc chưa thực sự quan tâm chăm sóc đến các em. Tỷ
lệ tai nạn thương tích ở trẻ em có bố mẹ làm nghề nông, có hoàn cảnh kinh tế
nghèo hay trung bình cao hơn trẻ em có bố mẹ làm các nghề khác như: kinh
doanh, nghề thủ công, công chức hay gia đình có hoàn cảnh kinh tế khá
giả[11, tr.18].
Các nghiên cứu đề cập ở trên đã cung cấp cái nhìn đa chiều về tình hình
trẻ em cũng như quyền trẻ em. Nhưng vấn đề nhận thức của cán bộ, cán bộ
LĐ, QL về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em còn bỏ ngỏ. Do đó, đề tài
"Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về nhóm quyền được bảo vệ
của trẻ em hiện nay" sẽ cung cấp thêm cái nhìn mới về vấn đề này.
3. nghĩa lý luận ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu này được tiến hành thông qua việc vận dụng một số khái
niệm, lý thuyết xã hội học như lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết xã hội
hóa. Qua đó, sẽ gợi mở phần nào vấn đề nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL
12
về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu được thực hiện nhằm góp phần: Mô tả thực trạng nhận thức
của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về vấn đề quyền được bảo vệ của trẻ em qua đó
các tổ chức, cá nhân có thể hoạch định chính sách ở đơn vị, địa phương để
thực hiện tốt công tác này…; Lồng ghép vào giảng dạy tại Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh; Là tài liệu tham khảo cho học viên và giảng viên trong
và ngoài Học viện nghiên cứu về vấn đề này.
4. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL về nhóm
quyền được bảo vệ trẻ em và những nhân tố tác động tới nhận thức của họ.
Từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao nhận thức của cán
bộ, cán bộ LĐ,QL về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em và tạo cơ sở để
họ có nhận thức đúng đắn về vấn đề này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các khái niệm liên quan: nhận thức, trẻ em, quyền trẻ em,
quyền được bảo vệ của trẻ em, cán bộ, cán bộ LĐ,QL.
- Mô tả thực trạng nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL về nhóm quyền
được bảo vệ trẻ em hiện nay.
- Những nhân tố tác động tới nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL
trong việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức, thái
độ và trách nhiệm của cán bộ, cán bộ LĐ,QL trong việc đảm bảo thực hiện
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay.
5. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL về nhóm quyền được bảo vệ của
13
trẻ em hiện nay.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Cán bộ, cán bộ LĐ,QL đang theo học tại lớp Cao cấp lý luận chính trị
và Cử nhân chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
- Tại các lớp cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị học tại trung
tâm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2015 đến tháng 6/2015.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL về quyền trẻ em, nhóm quyền
được bảo vệ của trẻ em được quy định trong Công ước QT và Luật
BV,CS&GD trẻ em hiện nay là như thế nào?
- Những nhân tố nào tác động tới nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL
trong việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Đa số cán bộ đều có nhận thức tốt về Công ước QT về Quyền trẻ em,
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em và Luật BV,CS&GD trẻ em.
- Những yếu tố: trình độ học vấn, khối công tác, cấp làm việc ít nhiều
ảnh hưởng tới nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL về nhóm quyền được bảo
vệ của trẻ em hiện nay.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp nghiên cứu chung như: phương pháp tổng hợp,
phân tích, so sánh, thống kê … đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu định tính
14
- Phương pháp phân tích tài liệu:
Trước khi tiến hành khảo sát thực địa, áp dụng phương pháp phân tích
tài liệu để tìm hiểu về thực trạng nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL. Kết
quả phương pháp này là xác định được tổng quan của vấn đề nghiên cứu. Mặt
khác trên cơ sở phân tích tài liệu sẽ giúp cho việc chọn mẫu được tiến hành
một cách chính xác hơn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (5 cuộc): qua đó sẽ nghiên cứu sâu hơn
về những vấn đề cần khảo sát.
7.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
- Phương pháp này thu thập những thông tin định lượng để đo lường
thực trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ, cán bộ LĐ, QL về nhóm quyền được
bảo vệ trẻ em hiện nay. Toàn bộ cuộc khảo sát sẽ phát 285 phiếu trưng cầu ý
kiến cho các nhóm đối tượng là cán bộ các lớp cử nhân chính trị và cao cấp lý
15
luận chính trị tại Học viện trung tâm.
Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Điều kiện Chính trị, Kinh tế, Văn hóa, Xã hội
8. Khung phân tích
Đặc trƣng cá nhân cán bộ cán bộ Đ,QL Tuổi, giới tính Nghề nghiệp Học vấn Chức vụ hiện nay Đặc điểm của đơn vị công tác Khối công tác Cấp làm việc
Nhóm yếu tố văn hóa,
phong tục tập quán
Nhóm yếu tố pháp luật
Nhận thức, của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về Nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em
Nhóm yếu tố xã hội
Quyền theo trẻ em Công ước quốc tế, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam Nhóm quyền được bảo vệ theo Công ước quốc tế, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Việt Nam
16
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ U N VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm nhận thức
Theo các tác giả cuốn Từ điển hiện đại về Xã hội học: “Nhận thức là
quá trình trong đó cá nhân nhận biết và lý giải môi trường sống của mình.
Nhận thức bao gồm tất cả các quá trình mà nhờ nó cá nhân tìm kiếm được tri
thức, bao gồm quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ghi nhớ, tìm tòi, tưởng
tượng, khái quát và phán xét” [2, pg.56].
Cùng với các quá trình nhận thức về cảm giác, tri giác, tư duy còn có
quá trình nhận thức về giá trị kiểu “thông hiểu” mà Weber đã phân tích kỹ.
Weber cho rằng con người có thể nhận biết hay có tri thức về người khác
bằng cách “nhập vai”, “đóng vai”, hay “đặt mình vào địa vị của người khác”
hoặc bằng cách đơn giản là tiếp xúc, giao tiếp, tương tác với họ. Khái niệm
“nhận thức” được dùng với nghĩa là quá trình mà cán bộ lãnh đạo, quản lý
hiểu biết những tri thức về trẻ em, về bạo hành trẻ em. Từ góc độ xã hội học,
khái niệm nhận thức nói đến quá trình nhận thức về xã hội.
Tóm lại, nhận thức là quá trình hiểu biết, quá trình nắm bắt những tri
thức nhất định hay đạt được những kiến thức nhất định về những sự vật, hiện
tượng nhất định. Để đánh giá được trình độ nhận thức cần phải dựa vào kết
quả của quá trình nhận thức tức là “kiến thức”, “hiểu biết”, “tri thức”. Nhưng
nếu xét kỹ hơn, mỗi một đơn vị tri thức hay kiến thức cũng phản ánh trình độ
nhận thức với tư cách là một quá trình nhận thức. Nói cách khác, việc phân
biệt nhận thức và kiến thức, tri thức là cần thiết nhưng không được tuyệt đối
hóa sự khác biệt giữa hai khái niệm này. Do vậy, đề tài đi nghiên cứu kiến
thức hay tri thức về trẻ em, bạo hành trẻ em của cán bộ, cán bộ LĐ, QL và
17
xem xét cả cách nhận thức, cách tiếp thu các kiến thức về trẻ em, về bạo hành
trẻ em. Với cách tiếp cận như vậy mới có thể giúp phát hiện ra nguyên nhân
và yếu tố tác động vào quá trình nhận thức để tạo ra những tri thức hay kiến
thức khoa học, đầy đủ và chính xác hơn về quyền trẻ em nói chung và nhóm
quyền được bảo vệ trẻ em nói riêng.
1.1.2. Khái niệm trẻ em
Khái niệm trẻ em đã được nhắc tới trong Tuyên bố Giơnevơ năm 1924
và tại Điều 1 phần 1 Công Ước QT về Quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có
nghĩa là người dưới mười tám tuổi”[28, tr.23], trừ trường hợp luật pháp áp
dụng đối với trẻ em quy định tuổi thành niên sớm hơn. Trong Luật
BV,CS&GD trẻ em có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005: “Trẻ
em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [31,
tr.4]. Căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống và hệ thống pháp luật
của mỗi quốc gia, độ tuổi tối đa của người được coi là trẻ em có thể khác
nhau, nhưng nhìn chung là không quá 18 tuổi. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt
động, lứa tuổi 16-18 vẫn cần được coi là trẻ em. Vì đây là lứa tuổi thuộc
nhóm vị thành niên mà công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần đặc
biệt quan tâm.
Trong đề tài này, trẻ em được hiểu là nhóm dưới 16 tuổi, chưa trưởng
thành về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ, chăm sóc đặc
biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.
Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên xã hội ngày càng có khả năng
hội nhập xã hội với tư cách là những chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng cũng
là đối tượng cần được gia đình và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
1.1.3. Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em là quyền con người của trẻ em. Quyền trẻ em là sự bảo đảm
18
và bảo vệ bằng pháp luật để trẻ em được sống, trưởng thành, phát triển toàn diện,
lành mạnh. Công ước QT về quyền trẻ em có hiệu lực quốc tế từ ngày 02/9/1990,
quy định bốn nhóm quyền cơ bản là:
1- Nhóm quyền được sống: trẻ em còn non nớt về cả thể chất và tinh
thầntrẻ em phải có quyền được sống và được hưởng nhiều nhất sự chăm sóc
về thể chất, được bảo vệ, phát triển đầy đủ về thể lực
2- Nhóm quyền được phát triển: trẻ em có quyền được giáo dục, đào
tạo ở các cấp bậc khác nhau, được tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển cả
về thể lực và trí lực.
3- Nhóm quyền được bảo vệ: trẻ em phải được bảo vệ cả trước và sau
khi sinh, được bảo vệ trong việc hưởng mọi quyền lợi..
4- Nhóm quyền được tham gia: trẻ em có quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý
kiến, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo, tự do kết giao và tự
do hội họp hoà bình, tự do tìm kiếm, nhận và phổ biến mọi loại thông tin và
tư tưởng, không kể biên giới dưới bất kỳ hình thức nào, phương diện nào.
Tóm lại, quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và
lớn lên một cách lành mạnh và an toàn.
1.1.4. Khái niệm quyền được bảo vệ của trẻ em.
Khái niệm bảo vệ trẻ em không dừng lại ở việc ngăn ngừa những sự
xâm hại về thể chất, tinh thần với trẻ mà còn bao gồm cả việc ngăn ngừa và
khắc phục những điều kiện bất lợi đối với cuộc sống của trẻ em. Theo Công
ước QT về quyền trẻ em, “nhóm quyền này bao gồm các quyền của trẻ em
được bảo vệ khỏi các hình thức bóc lột, lạm dụng, sao nhãng, bỏ mặc khỏi sự
phân biệt đối xử và bảo vệ trong các trường hợp đặc biệt như bị mất môi
trường gia đình, trong các hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai…” [23, tr.31].
Hay nói cách khác, Công ước QT về quyền trẻ em quan tâm đến việc
19
trẻ em được bảo vệ khỏi:
- Sự bỏ rơi: Bao gồm cả sự bỏ rơi của bố mẹ hoặc toàn xã hội mà có thể
tước đi sự nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
- Các tình huống nguy hiểm và chiến tranh: Bao gồm những đe dọa
khẩn cấp đối với sự sống còn và phát triển của trẻ em. Trẻ em tị nạn, trẻ em
sống trong bối cảnh xung đột vũ trang và trẻ em làm trái pháp luật là những
đối tượng thuộc nhóm này.
- Sự bạo lực, lạm dụng, ngược đãi và bóc lột: bao gồm tất cả các hình
thức xâm hại, đối xử gây tổn hại về mặt thể chất và tinh thần đối với trẻ em,
làm ảnh hưởng đến sự phát triển một cách toàn diện của các em. Khái niệm
bạo hành ngày nay không chỉ là dùng bạo lực làm tổn thương thân thể, gây
thương tích, tàn tật mà còn là sự lăng nhục về tinh thần, là sự xúc phạm danh
dự và nhân phẩm người khác đến mức có thể gây ra những “sang chấn tâm
lý” - tức là bạo hành bằng tinh thần cũng có thể cấu thành tội phạm hình sự.
Dù trẻ em bị lạm dụng ở bất kỳ hình thức nào kể trên đều để lại những vết sẹo
trong tâm hồn, và đôi khi những vết sẹo này để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời
- Sự phân biệt đối xử: Công ước QT quy định bảo vệ trẻ em gái, trẻ em
tàn tật, trẻ em bị nạn, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em bản xứ khỏi bất cứ hình
thức phân biệt đối xử nào. của các em [30, tr.23]
1.1.5. Khái niệm cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành rất nhiều tâm huyết cho công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo người, cán bộ “là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [7, tr.269]. Thực tế là mọi chủ trương,
đường lối của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu đề xuất, đồng
thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Đường lối của
20
Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành hay không đều phụ thuộc vào cán
bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân, mà hạt nhân
chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
chính là quan điểm về con người với tính cách vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng. Đó là biểu hiện cụ thể của quan điểm “lấy
dân làm gốc” của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng [6, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định
hướng về tư tưởng, sắp xếp về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ
thống xã hội nào đó. Hay có một định nghĩa khác về lãnh đạo: lãnh đạo là
việc khuyến khích, ảnh hưởng và thúc đẩy người khác đạt được mục tiêu nhất
định và người lãnh đạo là người có đặc điểm, phẩm chất và năng lực thực
hiện hoạt động lãnh đạo. Từ quan điểm trên cần trả lời câu hỏi xã hội học hiểu
như thế nào về lãnh đạo?
Từ góc độ xã hội học có thể định nghĩa: lãnh đạo là một kiểu quan hệ
giữa con người và xã hội trong đó diễn ra quá trình định hướng, tác động, ảnh
hưởng đến nhóm xã hội, cộng đồng xã hội, nhằm đạt được những mục tiêu
nhất định [12, tr.33].
“Cán bộ lãnh đạo” là những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức,
đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo có trách
nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, trước hết là những quyết định
có tính chất quan trọng nhất. “Cán bộ lãnh đạo” được phân làm nhiều cấp: cấp
vĩ mô toàn quốc, cấp ngành, cấp địa phương và cấp cơ sở. “Cán bộ lãnh đạo”
ở các cấp khác nhau thì tầm quan trọng có khác nhau. Yêu cầu của “cán bộ
lãnh đạo” về phẩm chất cá nhân là người có uy tín, là người đại diện cho số
đông, cho tập thể. “Cán bộ lãnh đạo” phải là người có khả năng thu phục nhân
21
tâm, nhân tài, có khả năng sử dụng “đúng người, đúng việc”; là người có tri
thức, có kinh nghiệm ở lĩnh vực phụ trách, có tầm nhìn, biết quy tụ “nhân tài,
vật lực”.
Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu
nhất định [6, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến
chức năng điều hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào
khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý đến những mục tiêu đã được xác
định trước.
Nhìn từ góc độ xã hội học có thể định nghĩa: quản lý là một kiểu quan
hệ giữa con người và xã hội trong đó diễn ra quá trình ra quyết định, tổ chức,
chỉ đạo, khuyến khích, động viên, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh nhằm giải
quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống xã hội của con người [12, tr.35].
Cán bộ quản lý là người mà hoạt động nghề nghiệp của họ hoàn toàn
hay chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng về quản lý; là người điều hành,
hướng dẫn, và tổ chức thực hiện những quyết định của cán bộ lãnh đạo. Họ
được trao quyền đánh giá một cách độc lập, chỉ đạo hoạt động, công việc của
người khác, hay của một đơn vị tổ chức, một khâu trong một quá trình nào đó.
Cán bộ quản lý được phân loại theo nghề nghiệp, theo năng lực, theo chức vụ.
Cán bộ quản lý vừa là người điều hành vừa là người quản lý đòi hỏi phải giỏi
chuyên môn, phải có năng lực phẩm chất điều khiển, phải có khả năng tổ chức
công việc và đoàn kết cộng đồng [17, tr.76-77]
Cả cán bộ QL và cán bộ LĐ đều đòi hỏi các nhóm phẩm chất sau:
phẩm chất chính trị, phẩm chất năng lực, và phẩm chất cá nhân. Tuy nhiên,
tùy từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, thứ tự yêu cầu về các loại phẩm chất có
22
thể khác nhau.
Còn khái niệm cán bộ LĐ, QL theo Luật Công chức ở Việt Nam là
những người giữ cương vị cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Đảng, chính
quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị hiện nay.
Trong đề tài này khái niệm cán bộ, cán bộ LĐ,QL được hiểu là những
người làm việc trong các cơ quan nhà nước có chức vụ, quyền hạn hoặc đang
được quy hoạch một chức vụ nào đó được xã hội gán cho nhằm thực hiện vai
trò, chức năng của mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Những cán bộ,
cán bộ LĐ,QL hiện đang học tại học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là
những trưởng phó phòng ban của tỉnh, là lãnh đạo chủ chốt hay quy hoạch
chức danh chủ chốt của một tỉnh nơi họ đang công tác. Do vậy, họ có ảnh
hưởng nhất định đến việc đưa ra các chủ trương, chính sách lãnh đạo ở các
tỉnh, và cũng là những người kiểm tra, giám sát việc thực hiện những chủ
trương chính sách ấy nhằm đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo sự phát triển
kinh tế - xã hội, trật tự an ninh… của địa phương nơi họ đang công tác.
1.2. ý thuyết nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội
M. Weber (1864 - 1920) là nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà xã hội học
bách khoa toàn thư người Đức, xây dựng thuyết hành động xã hội vào khoảng
đầu thế kỷ XX. Hành động xã hội được M. Weber định nghĩa là hành động
được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có tính
đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người khác trong
đường lối, quá trình của nó [5, tr.117]. Hành động xã hội đòi hỏi có động cơ
chủ quan của cá nhân (hay nhóm) và sự định hướng đến người khác.
Hành động xã hội được định hướng như thế nào? Câu trả lời được tìm
thấy trong cách Weber phân loại hành động xã hội với bốn mẫu sau đây:
Thứ nhất, một số hành động của con người được thúc đẩy do cảm xúc
23
hay còn gọi là hành động cảm tính: là hành động do các trạng thái xúc cảm
hoặc tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích
mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động.
Thứ hai, hành động mang tính truyền thống: là loại hành động tuân thủ
những thói quen, nghi lễ, phong tục, tập quán truyền thống được truyền từ đời
này qua đời khác.
Thứ ba, hành động hợp lý về giá trị (hành động duy lý giá trị) được
định hướng theo giá trị như là một sự cứu vớt linh hồn: là hành động được
thực hiện vì bản thân hành động, có giá trị nào đó quyết định hành động.
Hành động đó được thúc đẩy bởi ý thức của chủ thể về giá trị mà hành động
đó mang lại cho mình, có sự cân nhắc của chủ thể về giá trị của hành động.
Hành động cân nhắc đến giá trị thì đó là hành động tích cực, được đánh giá cao.
Hành động theo giá trị khác với hành động theo truyền thống. Những
hành động theo truyền thống không phải suy tính nhiều, hành động theo giá
trị thì phải suy nghĩ, cân nhắc, thậm chí diễn ra cả xung đột nội tâm.
Thứ tư, hành động duy lý công cụ hay hành động hợp lý công cụ: là
hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán lựa chọn công cụ,
phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Nó là loại hành động có
tính chủ động cao, động cơ thúc đẩy mạnh mẽ.
Cách chia hành động xã hội như trên chỉ là tương đối, có thể có hoạt
động vừa hướng tới mục đích, vừa hướng tới giá trị. Theo Weber, bốn hình
mẫu trên đây của hành động không tồn tại độc lập hoàn toàn với nhau mà
có sự tác động và thâm nhập vào nhau. Theo quan niệm của Weber, con
người khi hành động luôn luôn có nội dung, ý nghĩa chủ quan.
Vận dụng lý thuyết hành động vào trong nghiên cứu này nhằm tìm hiểu
nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL về quyền trẻ em nói chung và nhóm
24
quyền được bảo vệ của trẻ em nói riêng qua đó họ có sự tìm hiểu, cân nhắc,
kiểm chứng thông tin tạo nền tảng cơ sở cho cán bộ nói chung và cán bộ
LĐ,QL nói riêng đưa ra quyết định của mình trong từng hoàn cảnh cụ thể.
1.2.2. Lý thuyết xã hội hóa
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về xã hội hóa. Nhà khoa học người
Nga G.Andreeva cho rằng: “Xã hội hóa là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân
tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội,
vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ
động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào
các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”[18, tr. 258-259].
Quá trình xã hội hóa diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người. Có
nhiều nhân tố tác động vào quá trình xã hội hóa nhưng chủ yếu là ba nhân tố
sau: gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài ra còn một số nhân tố khác tác
động đến quá trình xã hội hóa cá nhân như: nhà nước, tôn giáo, dư luận xã
hội, nơi làm việc…nhưng trong phạm vi đề tài, tôi tập trung vào ba nhân tố
chính nêu trên:
Gia đình: gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên và quan trọng với
cá nhân. Đối với hầu hết các cá nhân, gia đình là môi trường đầu tiên dạy cho
trẻ em những kinh nghiệm xã hội, các giá trị, tiêu chuẩn văn hóa và dần dần
trẻ em kết hợp nó vào ý thức cá nhân. Theo đó, mỗi gia đình là một tiểu văn
hóa với những lối sống, truyền thống riêng…Mỗi cá nhân trong gia đình sẽ
tiếp nhận giá trị, cách cư xử từ ông bà, bố mẹ, các thành viên trong gia đình mình.
Nhà trường: Trường học là nơi học sinh được cung cấp những kiến
thức cơ bản về tự nhiên, xã hội, văn hóa làm nền tảng cho cuộc sống sau này
của mỗi cá nhân. Thời kỳ này giúp cá nhân hình thành những tương tác và
những mối quan hệ xã hội. Trong nhà trường mỗi cá nhân có mối quan hệ
giữa trò với trò, thầy với trò và thầy với thầy. Qua đó thể hiện tính đa dạng xã
25
hội ở nhà trường thường tạo ra nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong
cấu trúc xã hội đã hình thành trong quá trình xã hội hóa ở gia đình. Nhà
trường cũng giúp cá nhân định hướng lại những tác động từ nhóm bạn bè hay
những ảnh hưởng khác từ quá trình học hỏi phi chính thức. Trường học không
chỉ là một thiết chế xã hội hóa hay một thiết chế giáo dục mà còn là một cơ
chế sàng lọc, lựa chọn và định hướng cá nhân phát triển theo những con
đường phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân.
Theo đó, nhà trường của trẻ là một thiết chế xã hội hóa chính và ngày
càng trở nên quan trọng trong xã hội hiện đại. Trong quá trình tham gia học
tại nhà trường, trẻ em không những được học kiến thức mà còn được rèn
luyện kỹ năng sống, sự tự tin và sự hình thành con người.
Xã hội: ở môi trường này mỗi cá nhân sử dụng truyền thông đại chúng
như là một phương tiện cung cấp thông tin chủ yếu cho mình. Truyền thông
mang lại cho con người những kinh nghiệm xã hội, những mẫu văn hóa mang
tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ biến. Theo đó, các thành viên trong xã hội
đều chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau do những gì mà các phương tiện
thông tin đại chúng coi trọng hoặc xem nhẹ, đánh giá tích cực hay tiêu cực.
Nó cũng là một kênh quan trọng để phổ biến văn hóa, giúp cá nhân hiểu được
những mẫu văn hóa, phông văn hóa khác nhau. Ngoài ra trong mối quan hệ
với bạn bè, nhóm bạn cùng lứa tuổi là những người khá quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi cá nhân. Trong nhóm bạn, vai trò độc lập của cá nhân góp
phần hình thành các kinh nghiệm trong quan hệ xã hội cũng như ý thức về
bản thân khác với những gì có trong gia đình. Nhóm bạn cũng tạo ra cơ hội
cho các thành viên chia sẻ, thảo luận về các mối quan tâm mà trong đó có
những cái thường không làm được điều tương tự với bố mẹ hay các thầy cô
giáo. Vai trò của nhóm bạn quan trọng nhất ở lứa tuổi thiếu niên và thanh
26
niên, đặc biệt là khi các thành viên bắt đầu sống xa gia đình.
Thông qua cách tiếp cận này có thể nhận thấy, mỗi cá nhân tự chủ động
hay thụ động có được những hiểu biết về quyền trẻ em. Từ đó, có thể thấy
rằng mức độ tác động của truyền thông cụ thể là phương tiện thông tin đại
chúng đến cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của
họ trong việc nhìn nhận về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em. Như vậy,
thông qua các quá trình xã hội hóa kể trên có thể sẽ có những tác động, tuy ở
mức độ khác nhau, qua các kênh thông tin khác nhau đã phần nào chi phối
nhận thức về quyền trẻ em nói chung và nhóm quyền được bảo vệ nói riêng
và hoạt động của cán bộ, cán bộ LĐ, QL trong công việc cũng như trong mối
quan hệ với con cái trong gia đình.
1.2.3. Tiếp cận quyền con người trong nghiên cứu quyền trẻ em
Trước hết phải khẳng định rằng, quyền trẻ em là một bộ phận quan
trọng của quyền con người. Vì trẻ em cũng là một thực thể con người, là
thành viên của xã hội, có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội, tương lai của dân tộc và nhân loại. Không một xã hội nào có
thể phát triển được nếu không BV,CS&GD trẻ em. Trẻ em đồng thời là công
dân của một quốc gia, do đó sẽ có quyền công dân. Hơn nữa, đây lại là những
công dân còn non nớt về thể chất, chưa trưởng thành về tinh thần và trí tuệ,
cho nên quyền trẻ em cần được quan tâm hơn so với việc đảm bảo thực hiện
quyền của người lớn và cũng có những điểm khác với quyền của người lớn.
Những công dân đặc biệt này không thể tự thực hiện và bảo vệ các quyền của
mình, mà chủ yếu phụ thuộc vào gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội.
Ở Việt Nam, quan điểm truyền thống về trẻ em là xem trẻ em như một
đối tượng mà Nhà nước, gia đình và xã hội cần phải hỗ trợ và bảo vệ, chứ
không phải là chủ thể của quyền. Do đó, vai trò của Nhà nước, gia đình và xã
hội đối với trẻ em chủ yếu như là người cung cấp dịch vụ để đáp ứng những
27
nhu cầu của trẻ em và như là một thiết chế để trẻ em khỏi bị thiệt thòi, xâm
hại. Mặc dù bản thân điều này là tích cực, nhưng quan niệm đó lại không bao
gồm những khía cạnh quan trọng khác của quyền trẻ em như nguyên tắc phổ
biến, không thể chia cắt, tham gia, trao quyền hay sự chịu trách nhiệm của
Nhà nước. Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Những vấn đề xã hội mới phát sinh từ quá
trình chuyển đổi theo hướng một xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong việc
chăm sóc trẻ em sẽ không thể giải quyết được, nếu Nhà nước và xã hội tiếp tục
giải quyết những vấn đề đó theo cách tiếp cận truyền thống [24, tr.48].
Nét quan trọng của cách tiếp cận này là được thể hiện ở hai khía
cạnh. Thứ nhất, trẻ em là chủ thể của các quyền; Thứ hai, quyền trẻ em
được dựa trên mối quan hệ cơ bản giữa trẻ em, với tư cách là người được
hưởng quyền và có quyền yêu cầu với tất cả những người lớn trong bộ
máy Nhà nước, cộng đồng và gia đình có trách nhiệm thi hành pháp lý các
đòi hỏi đó. Cách tiếp cận này khẳng định trẻ em là chủ thể của các quyền,
có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ, giáo dục, chứ không đơn
giản chỉ là đối tượng của sự quan tâm chăm sóc.
Cách tiếp cận quyền con người trong nghiên cứu trẻ em là cơ sở đánh
giá kết quả thực hiện quyền trẻ em và tìm hiểu về nhận thức của cán bộ, cán
bộ LĐ,QL trong việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay.
1.4. Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về quyền trẻ em.
1.4.1. Quan điểm của Đảng về quyền trẻ em
Đảng và Nhà nước Việt Nam có các quan điểm và chính sách nhất quán
về quyền trẻ em; theo đó công tác BV,CS&GD trẻ em phải được coi là một
trong những nhiệm vụ trung tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ trung
ương xuống địa phương, là một vấn đề ưu tiên trong chiến lược và mọi chính
sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Ngay từ những năm
28
40 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến việc xóa đói, xóa
mù, bảo đảm các quyền cơ bản cho nhân dân nói chung và trẻ em nói riêng.
Bản Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam năm 1946 đã trịnh trọng ghi nhận
sự bảo vệ trẻ em (Điều 14,15). Quan điểm nhất quán về chăm lo và bảo đảm
quyền trẻ em được thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp 1959, 1980,
1992 (và sửa đổi năm 2001). Quan điểm của Đảng về BV,CS&GD trẻ em nói
chung và quyền trẻ em nói riêng được thể hiện đậm nét trong chỉ thị 55-
CT/TW của Bộ Chính trị, khóa VIII ngày 28/6/2000. Có thể tóm lược những
quan điểm chính sau đây:
Thứ nhất, chăm lo đến con người, phát triển toàn diện năng lực cá nhân
là bản chất của chế độ xã hội ta, là động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất
nước, là lớp người sẽ tiếp tục sự nghiệp của tổ tiên, gánh vác việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thực hiện quyền
trẻ em là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Thứ tư, quyền trẻ em là một bộ phận không thể tách rời của quyền con người.
Thứ năm, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, tôn trọng và bảo đảm
quyền trẻ em là trách nhiệm hàng đầu thuộc về gia đình, Nhà nước và toàn xã hội.
Thứ sáu, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần được coi là
nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài, là ưu tiên thường xuyên đối với các cấp
Đảng, chính quyền và có sự phối hợp hành động giữa các ngành, cũng như
toàn xã hội.
Thứ bảy, giáo dục là quốc sách hàng đầu, giáo dục thế hệ trẻ là một
mục tiêu trọng yếu của công tác chăm lo đến sự phát triển con người của toàn
29
Đảng và toàn dân. [23, tr.61]
1.4.2. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về quyền trẻ em
Thứ nhất, mọi trẻ em đều có quyền bảo vệ, chăm sóc và giáo dục với sự
quan tâm đặc biệt của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội.
Thứ hai, bình đẳng và không phân biệt đối xử đối với mọi trẻ em.
Thứ ba, Nhà nước quan tâm đặc biệt tới nhóm trẻ em thuộc đối tượng
chính sách, trẻ em khuyết tật, trẻ em nạn nhân chất độc da cam, trẻ mồ côi,
không nơi nương tựa…
Thứ tư, bình đẳng dân tộc và đại đoàn kết dân tộc. Chính sách này tạo
cho mọi trẻ em đều có quyền bình đẳng về cơ hội trong việc tiếp cận chăm
sóc, bảo vệ, giáo dục và phát triển.
Thứ năm, thực hiện chính sách nhân đạo, khoan dung và giáo dục, xử
30
lý chuyển hướng đối với trẻ em làm trái pháp luật. [23, tr.63]
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NH N THỨC CỦA C N Ộ
C N Ộ ÃNH ĐẠO QUẢN VỀ NH M QUYỀN ĐƢ C ẢO VỆ
CỦA TR EM
2.1. Mô tả mẫu điều tra
Năm học 2014 – 2015, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ
chức 13 lớp Cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung, học tại Trung tâm Học
viện, mỗi lớp có từ 30 – 35 học viên. Khi tiến hành nghiên cứu này, đề tài đã
khảo sát 6 lớp theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, đề tài
cũng tiến hành khảo sát 3 lớp Cử nhân chính trị, mỗi lớp từ 30 – 40 học viên,
bao gồm 02 lớp cử nhân tổ chức và 01 lớp cử nhân tôn giáo. Số phiếu phát ra 285
phiếu; Số phiếu thu về 285.
Trong 285 phiếu phát ra thì nam giới với 191 phiếu, chiếm tỷ lệ 67%,
nữ giới chiếm 94 phiếu, chiếm tỷ lệ 33%. Điều này cho thấy, tỷ lệ cán bộ là
nữ đi học cử nhân chính trị và cao cấp lý luận chính trị ở Học viện còn tương
đối thấp, dù trong thời gian qua Học viện đã có những chính sách ưu tiên đối
với cán bộ là nữ.
Về độ tuổi của người được phỏng vấn được chia thành ba nhóm: độ
tuổi từ 25 đến 35 chiếm 52%, từ 36 đến 45 tuổi chiếm 44,5% và trên 46 tuổi
chiếm 4,5%. Kết quả cho thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL đa phần nằm trong độ
tuổi từ 25 đến 35 và độ tuổi tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất là cán bộ, cán bộ LĐ,
QL trên 46 tuổi. Điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới
31
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ.
iểu đồ 2.1: Độ tuổi của cán bộ cán bộ Đ Q
Đơn vị:%
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Về trình độ chuyên môn cho thấy: cán bộ, cán bộ LĐ, QL đang theo học
các hệ lớp được tiến hành khảo sát có trình độ cử nhân và thạc sĩ trở lên, cụ
thể: Cử nhân: 176 phiếu, chiếm 61,8%; Thạc sĩ trở lên: 109 phiếu, chiếm 38,2%
Về Khối công tác: kết quả nghiên cứu cho thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL
theo học tại các hệ lớp chủ yếu công tác tại 4 khối khác nhau trong đó cán bộ
công tác ở khối chính quyền chiếm tỷ lệ cao nhất với 35,1%, thấp nhất là cán
bộ khối doanh nghiệp với 10,9%...
Về cấp làm việc: kết quả khảo sát cho thấy, cán bộ tham gia học tập tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ yếu ở 3 cấp làm việc: Trung
ương; Tỉnh, Thành phố và Quận, huyện. Trong đó cán bộ công tác ở cấp tỉnh,
thành phố chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,6%; cấp quận, huyện với 40% và thấp
nhất là cấp TW với 15,4%. Phải nói thêm rằng, tùy thời điểm tổ chức lớp học
32
mà tỷ lệ cơ cấu ở các cấp này là khác nhau.
ảng 2.1. Khối công tác cấp làm việc của cán bộ cán bộ Đ Q
Khối công tác Cấp làm việc
Chính Đoàn Doanh Quận, Đảng TW Tỉnh, TP quyền thể nghiệp huyện
N % N % N % N % N % N % N %
87 30,5 100 35,1 67 23,5 31 10,9 44 15,4 127 44,6 114 40
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Chức vụ trước khi đi học: cán bộ tham gia học tập tại lớp cao cấp lý luận
chính trị và cử nhân chính trị có chức vụ khác nhau. Kết quả nghiên cứu thu
về cho thấy tỷ lệ như sau: Trưởng ngành tỉnh, thành phố: 18 phiếu, chiếm
6,3%; Phó trưởng ngành tỉnh, thành phố: 21 phiếu, chiếm 7,4%; Trưởng
ngành quận, huyện: 16 phiếu, chiếm 5,6%; Phó trưởng ngành quận, huyện: 28
phiếu, chiếm 9,8%; Trưởng phòng, ban: 55 phiếu, chiếm 19,3%; Phó trưởng
phòng, ban: 95 phiếu, chiếm 33,3%; Chuyên viên, nghiên cứu viên: 52 phiếu,
chiếm 18,3%.
Tình trạng hôn nhân của cán bộ, cán bộ LĐ, QL đang học tại Học viện
hầu hết đã kết hôn, tỷ lệ cán bộ chưa kết hôn, ly thân, ly hôn không đáng kể:
đã kết hôn: 269 phiếu, chiếm 94,4%, chưa kết hôn: 13 phiếu, 4,6%, ly hôn: 2
phiếu, chiếm 0,7%, ly thân: 1 phiếu, chiếm 0,4%.
Về số con: Kết quả nghiên cứu thu về cho thấy, hầu hết các cán bộ đã
có 2 con chiếm tỷ lệ rất cao, cụ thể: chưa có con: 13 phiếu, chiếm 4,6%, có 1
con: 100 phiếu, chiếm 35,1%, có 2 con: 163 phiếu, chiếm 57,2%, trên 2 con:
33
9 phiếu, chiếm 3,2%.
2.2. Nhận thức của cán bộ cán bộ lãnh đạo, quản lý về Công ƣớc
quốc tế về quyền trẻ em và uật ảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
2.2.1. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về Công ước
quốc tế về quyền trẻ em
Công ước QT ra đời là một bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi nhận thức
về địa vị của trẻ em từ “lĩnh vực tư” gia đình đã trở thành mối quan tâm của
cả xã hội và nhân loại. Trẻ em được khẳng định là chủ thể của quyền chứ
không phải là đối tượng của các chính sách xã hội. Mục tiêu của Liên hợp
quốc hướng đến là nhằm xác lập một khuôn khổ pháp lý quốc tế, tạo điều kiện
cho việc bảo vệ và phát triển toàn diện trẻ em [23, tr.18].
Để làm tốt công tác mà Công ước QT hướng đến thì nhận thức đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc cá nhân quyết định hành động của mình.
Theo đó, nhận thức thường gắn với một mục đích nhất định, nên nhận thức
của con người thường là một hoạt động. Đặc điểm nổi bật nhất của hoạt động
nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng…) và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan
(hình ảnh, biểu tượng, khái niệm…) [30, tr.37]. Nó là cách nhìn nhận, đánh
giá của con người trước những sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vì
thế ở đây, nếu những cán bộ, cán bộ LĐ, QL đồng thời cũng có vai trò làm
cha, làm mẹ nhận thức tốt về Công ước và Luật BV,CS&GD trẻ em sẽ giúp
cho họ có những hành động đúng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ và thực
hiện tốt nhóm quyền được bảo vệ của trẻ trong gia đình. Ngược lại, nếu họ
không biết hoặc không nhận thức đúng về các nhóm quyền của trẻ được quy
định trong Công ước thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo và tôn
trọng quyền của các em.
Thực tế cho thấy, điều này còn ảnh hưởng đến kết cấu gia đình, hạnh
34
phúc gia đình nếu như các em đã biết về quyền của mình thông qua môi
trường giáo dục được các thầy cô giảng trên lớp hay các phương tiện thông tin
đại chúng. Và điều tác động ngược trở lại là, khi về nhà các em có những
phản ứng lại người lớn, các em cho rằng mình có những quyền như vậy và
những quyền này đã được Công ước QT công nhận. Nhưng vấn đề đặt ra là,
cha mẹ các em có biết đến sự tồn tại của các quyền đó hay không, hay họ cho
rằng phản ứng đó là sự chống đối lại, là không nghe lời.
Kết quả khảo sát cho thấy: có 278 cán bộ cho biết họ đã từng được
nghe về Công ước QT về quyền trẻ em, chiếm tỷ lệ 97,5%. Bên cạnh đó, vẫn
còn 7 cán bộ tương đương với 2,5% cán bộ cho biết họ chưa nghe đến Công
ước QT về quyền trẻ em.
iểu đồ 2.2: Cán bộ cán bộ Đ Q biết đến Công ƣớc QT
về quyền trẻ em
Đơn vị:%
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Có thể thấy rằng, công ước QT về quyền trẻ em năm 1990 là điều ước
quốc tế đa phương phản ánh tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền trẻ em
cũng như sự quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ. Lần đầu tiên, Công
ước về quyền trẻ em đã khái quát được các khía cạnh về quyền trẻ em và xác
định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền của trẻ em và
35
mối quan hệ giữa quyền trẻ em với quyền con người nói chung, công tác nhân
quyền đặc biệt là quyền trẻ em được hết sức chú trọng. Lý giải cho hiện tượng
này có thể thấy, hành động duy lý truyền thống đã ít nhiều thay đổi, khi mà
trước đây trong xã hội Việt Nam, mọi hoạt động ứng xử đều đi theo khuôn
mẫu và chuẩn mực nhất định, con người trong xã hội ấy ít khi tự tìm hiểu và
khám phá những điều mới mà thường chấp nhận những khuôn mẫu ứng xử
cũ, những giá trị cũ chi phối trong hoạt động thường ngày. Việc chủ động tiếp
cận với những luồng thông tin mới mẻ trong xã hội, những thông tin, những
quy định được cộng đồng quốc tế thừa nhận và áp dụng ngày một rộng khắp
đã cho thấy sự thay đổi của tư tưởng này.
Khi được hỏi: “Đồng chí biết đến Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ
Nguồn thông tin cán bộ cán bộ Đ Q biết đến Công ƣớc QT
nguồn thông tin nào?”, Kết quả khảo sát cho thấy:
iểu đồ 2.3: Nguồn thông tin cán bộ cán bộ Đ Q biết đến
Công ƣớc QT
Đơn vị: %
36
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Số liệu nghiên cứu đã chỉ ra khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa các
kênh thông tin trong quá trình truyền tải thông tin. Nhận được sự lựa chọn cao
nhất với 76,8% số người được hỏi cho biết họ được biết đến Công ước QT về
quyền trẻ em qua đài truyền hình, thấp nhất là qua cán bộ dân số với 14%.
Điều này cho thấy, công tác thông tin tuyên truyền đã làm rất tốt vai trò của
mình trong việc phổ biến thông tin đến từng cá nhân, cho dù qua kênh trực
tiếp hay gián tiếp. Tỷ lệ cán bộ nhận thức về công ước QT về quyền trẻ em
chiếm tỷ lệ rất cao đã phản ánh điều đó. Qua các kênh khác nhau trong hệ
thống thông tin như: đài truyền hình, báo chí, đài truyền thanh… đã góp phần
không nhỏ trong công tác truyền tải thông tin, kiến thức, tuyên truyền quyền
trẻ em đến cán bộ, cán bộ LĐ, QL. Qua đó có thể thấy rằng, cách thức, chiến
lược truyền thông đã đạt được kết quả khả quan, đáng ghi nhận, vấn đề tôn
trọng nhân quyền nói chung và quyền trẻ em nói riêng trong bối cảnh Việt
Nam gia nhập WTO đã thu được những tín hiệu thành công bước đầu.
Mỗi cá nhân sử dụng truyền thông đại chúng như là một phương tiện
cung cấp thông tin chủ yếu cho mình. Truyền thông mang lại cho con người
những kinh nghiệm xã hội, những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới
cách nhìn phổ biến. Theo đó, các thành viên trong xã hội đều chịu ảnh hưởng
ở mức độ khác nhau do những gì mà các phương tiện thông tin đại chúng coi
trọng hoặc xem nhẹ, đánh giá tích cực hay tiêu cực. Nó cũng là một kênh
quan trọng để phổ biến văn hóa, giúp cá nhân hiểu được những mẫu văn hóa,
phông văn hóa khác nhau. Và tất nhiên mỗi kênh thông tin với những đặc
điểm đặc thù riêng biệt và không phải kênh thông tin nào cũng có độ phổ cập
như nhau. Để lý giải về sự chênh lệch qua các kênh thông tin đó, qua tìm hiểu
tại các lớp Cao cấp lý luận và Cử nhân chính trị cho thấy:
“Đợi cán bộ dân số họ phổ biến thì còn dài em, mỗi năm nhiều cũng
37
chỉ có 1 đợt, hơn nữa mình không phải nằm trong số cán bộ chuyên trách,
nên cũng không được tham gia tập huấn. Ngày nay, báo chí, truyền hình nở rộ
rộng khắp, vấn đề gì đang nóng, đang được quan tâm là báo nói ầm ầm ngay…”
(PVS, Nữ 36 tuổi, chuyên viên)
Hay như quan điểm:
“Nói thật là đến cơ quan, những lúc rảnh rỗi anh cũng lướt web, dạo gần đây
trẻ em bị bạo hành nhiều quá, thậm chí bị ngay cả bố mẹ đẻ ra mình đánh
đập. Nhiều em còn thương tích nặng, tử vong… Thế mới nói công tác bảo vệ
quyền trẻ em ở mình còn hạn chế…”
(PVS Nam, 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
Điều này cho thấy, với sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng
hiện đại như ngày nay, những gì chúng ta cần biết và muốn biết chỉ cần bằng
một số thao tác rất cơ bản là có thể hiện thị hàng ngàn kết quả, đáp ứng nhu
cầu thông tin trong và ngoài nước cho người dân nói chung và đội ngũ cán bộ
nói riêng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay cán bộ không chỉ đơn thuần
tìm hiểu thông tin một cách thụ động mà họ đã chủ động tìm hiểu thông tin
qua nhiều kênh khác nhau, do vậy việc lựa chọn hình thức biết được thông tin
qua cán bộ dân số hay tập huấn với cán bộ, cán bộ LĐ, QL là thấp nhất trong
các hình thức trên. Tuy nhiên, không vì lý do đó mà chúng ta coi nhẹ những
đóng góp lớn lao của cán bộ làm công tác dân số, vai trò của cán bộ dân số rất
quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách của Đảng, Nhà nước
đến từng thôn bản, từng hộ gia đình và người dân.
Nhận thức của cán bộ cán bộ Đ Q về quyền trẻ em theo Công
ƣớc QT
Sự hiểu biết về pháp luật nói chung và quyền trẻ em nói riêng của cán
bộ cấp TW cũng như cấp cơ sở có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi họ không
chỉ là người tiếp nhận và xử lý thông tin hàng ngày mà còn phổ biến thông tin
38
đó tới người khác. Song trên thực tế những hiểu biết mới chỉ dừng lại ở mức
chung chung, cho rằng trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, cần được
chăm sóc và giáo dục, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường và xã hội để giáo dục các em, hướng các em phát triển để trở thành
người có ích cho xã hội là chưa đủ, còn mang nặng tính hình thức. Điều có ý
nghĩa then chốt trong việc quyết định vấn đề là biến những hiểu biết mang
tính lý thuyết ấy thành những cái cụ thể, những chủ trương, chính sách thiết
thực trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi, cán bộ phải nắm bắt trẻ em muốn gì?
Các em có những quyền và bổn phận gì? Kết quả khảo sát tại các lớp cao cấp
lý luận chính trị và cử nhân chính trị cho thấy:
ảng 2.2: Quan niệm của cán bộ cán bộ Đ Q về quyền trẻ em theo
Công ƣớc QT
Quan niệm N %
Là một bộ phận của quyền con người 213 74,7
Là những gì các em được hưởng để có điều kiện phát 233 81,8
triển toàn diện
Là chủ thể của quyền và có những nghĩa vụ kèm theo 121 42,5
Được hưởng quyền và có quyền yêu cầu với tất cả những
người lớn trong bộ máy nhà nước, cộng động và gia đình 171 60
có trách nhiệm pháp lý thực hiện các đòi hỏi của trẻ em.
Phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 197 69,1
hiện nay
Không phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục 15 5,3
trẻ em hiện nay
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự chênh lệch đáng kể trong quan
niệm của các nhóm đối tượng được hỏi khi bày tỏ ý kiến của mình. Chiếm tỷ
39
lệ cao nhất với 81,8% số người trả lời cho biết quyền trẻ em là những gì các
em được hưởng để có điều kiện phát triển toàn diện và thấp nhất với 5,3%
quan niệm cho rằng quyền trẻ em không phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em hiện nay. Với số liệu này cho thấy, trải qua 25 năm kể từ
ngày Việt Nam ký Công ước QT về quyền trẻ em, công tác tuyên truyền đã
được chú trọng đẩy mạnh để mọi người nói chung và cán bộ, cán bộ LĐ, QL
nói riêng có nhận thức sâu hơn về vấn đề này. Thực tế cho thấy, cũng có một
bộ phận cán bộ, cán bộ LĐ, QL cho rằng quyền trẻ em không phù hợp với
việc BV,CS&GD trẻ em hiện nay, điều này phần nào phản ánh quan điểm
riêng trong suy nghĩ, nhận thức của cán bộ, tuy tỷ lệ này nhỏ nhưng cũng cho
thấy sự khác nhau trong nhận thức của cán bộ.
“Việt Nam đang trong quá trình hội nhập để phát triển, để có thể thoát
nghèo từ một nước nông nghiệp chuyển sang nước công nghiệp hiện đại cần rất
nhiều yếu tố từ cơ sở hạ tầng cũng như kiến trúc thượng tầng…phải nói là dân
mình còn nghèo, những quy định trong Công ước hay Luật pháp QT đa phần
được thưc thi ở các nước phát triển hiện đại, còn ở nước mình có vẻ còn xa về
khoảng cách lắm…”
40
(Nam, 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
ảng 2.3: Tƣơng quan tuổi của cán bộ cán bộ Đ Q với nhận thức về
quyền trẻ em theo Công ƣớc QT
Đơn vị:%
Quan niệm
Là một bộ phận của quyền con người 25 - 35 72,9 Nhóm tuổi 36 -45 74,6 Trên 46 93,3
80,6 86,5 53,3
39,6 40,5 86,7
61,8 56,3 73,3
66 70,6 86,7
8,3 2,4 0 Là những gì các em được hưởng để có điều kiện phát triển toàn diện Là chủ thể của quyền và có những nghĩa vụ kèm theo Được hưởng quyền và có quyền yêu cầu với nhà nước, cộng động và gia đình có trách nhiệm pháp lý thực hiện các đòi hỏi của trẻ em. Phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện nay Không phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện nay
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Từ số liệu trên cho thấy, có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi trong việc
lựa chọn phương án trả lời. Ở nhóm tuổi từ 25 đến 35 tuổi và nhóm tuổi từ 35
đến 45 lựa chọn phương án quyền trẻ em là những gì các em được hưởng để
có điều kiện phát triển toàn diện với tỷ lệ rất cao là 80,6% và 86%, trong khi
đó lựa chọn này ở những cán bộ từ 46 tuổi trở lên chỉ chiếm tỷ lệ 53,3%.
Ngược lại, cán bộ từ 46 tuổi trở lên lại có tỷ lệ cho rằng quyền trẻ em là một
bộ phận của quyền con người chiếm tỷ lệ 93,3%, trong khi đó con số này ở
nhóm cán bộ có độ tuổi từ 25 đến 35 là 72,9%. Điều này cho thấy, ở một góc
độ nào đó yếu tố độ tuổi có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức
của mỗi cá nhân, độ tuổi khác nhau cũng đưa đến những lựa chọn khác biệt
41
của các nhóm đối tượng. Quan điểm sau phần nào cho thấy rõ điều này:
“ Mỗi thời mỗi khác, người trẻ thời nay và người trẻ thời bao cấp khác
nhau trên nhiều phương diện. Hoàn cảnh sống, môi trường giáo dục, xã hội
ngày nay quá hiện đại so với những năm cuối thập niên 90. Cái đó là yếu tố
quyết định kỹ năng, năng lực của cá nhân… Đơn cử như về mặt công nghệ,
anh trẻ hơn được tiếp cận sớm hơn sẽ tốt hơn, giỏi hơn anh nhiều tuổi, khả
năng va chạm sẽ giảm dần…”
(Nam, 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Mặt khác cũng có quan niệm cho rằng:
“Không thể quy chụp cho anh trẻ tuổi sẽ thâm nhập vấn đề tốt hơn anh
nhiều tuổi hơn. Theo mình cha ông ta xưa đã có câu “gừng càng già càng
cay”, cái cay đó là vốn tích lũy qua thời gian dài với những thăng trầm lên
xuống trong cuộc sống. Mình không đồng nhất với quan niệm trẻ sẽ hơn già ,
cần coi trọng những người đi trước trên nhiều phương diện…”
(Nữ, 36 tuổi, chuyên viên)
2.2.2. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về nhóm
quyền được bảo vệ được quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Công ước QT về quyền trẻ em đã có những quy định rõ ràng về các
nhóm quyền mà trẻ em được hưởng. Bảo vệ trẻ em không chỉ dừng lại ở việc
ngăn ngừa những sự xâm hại về thể chất, tinh thần với trẻ mà còn bao gồm cả
việc ngăn ngừa và khắc phục những điều kiện bất lợi đối với cuộc sống của
các em. Thực tế cuộc sống hàng ngày cho thấy, nhiều trẻ em rơi vào hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn hoặc phải chịu đau khổ do tác động của môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội gây nên. Và bất cứ lúc nào các em cũng có thể rơi
vào tình huống rủi ro nguy hiểm, do đó mọi trẻ em đều phải được bảo vệ.
Theo đó, cũng như nhóm quyền được sống, nhóm quyền được phát triển
và nhóm quyền được tham gia, nhóm quyền được bảo vệ là một trong bốn
42
nhóm quyền được quy định trong Công ước QT về quyền trẻ em. Việc phân
chia 4 nhóm quyền này chỉ mang ý nghĩa tương đối, trên thực tế, các nhóm
quyền có liên hệ chặt chẽ, thống nhất không tách rời và đôi khi chuyển hóa
cho nhau. Chẳng hạn, có những quyền vừa thuộc nhóm quyền này vừa thuộc
nhóm quyền kia và việc thực hiện nhóm quyền này không thể thiếu vắng
nhóm quyền kia và ngược lại [23, tr.65-66]. Trong phạm vi nghiên cứu này,
đề tài xin đưa ra quan niệm về nhóm quyền được bảo vệ là bảo vệ trẻ em khỏi
mọi hình thức xâm hại, bóc lột, được bảo vệ và chăm sóc y tế…để các em có
điều kiện và cơ hội được sống, được phát triển một cách hoàn thiện nhất.
ảng 2.4: Các quyền thuộc nhóm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em trong
Công ƣớc QT
Có
Các nhóm quyền N %
Được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức khỏe 272 95,4
Được đoàn tụ gia đình 204 71,6
Được hưởng an toàn xã hội 221 77,5
235 82,5
Được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và các công việc nguy hiểm, độc hại Được có họ tên và quốc tịch 222 77,9
Được tự do kết giao và hội họp hòa bình 100 35,1
Được ngăn ngừa bắt cóc, buôn bán 234 82,1
Được tiếp xúc thông tin nhiều nguồn 94 33,0
Được bảo vệ đời tư 187 65,6
203 71,2
Được phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hòa nhập cộng đồng Được bảo vệ mọi hình thức bóc lột khác 245 86,0
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, với câu hỏi, theo đồng chí, các quyền
43
nào sau đây thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em trong Công ước QT về
quyền trẻ em? Trong số các phương án trả lời, chiếm tỷ lệ 95,4% số người
được hỏi cho rằng quyền được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức khỏe thuộc
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em, tiếp đến là quyền được bảo vệ khỏi mọi
hình thức bóc lột khác chiếm tỷ lệ 86%. Qua đó có thể thấy rằng, phần lớn
cán bộ, cán bộ LĐ, QL đã có nhận thức đúng về những quyền thuộc nhóm
quyền được bảo vệ của trẻ em, đó là một trong những quyền có vai trò thiết
yếu quyết định việc trẻ có được bảo vệ đúng nghĩa hay không, bởi việc bảo vệ
cũng như chăm sóc trẻ hợp lý có vai trò quan trọng trong tiến trình thực thi
quyền trẻ em. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít cán bộ chưa phân biệt
được nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em với những nhóm quyền khác. Có
đến 35,1% cán bộ cho rằng quyền được tự do kết giao và hội họp hòa bình và
33% cán bộ cho rằng quyền tiếp xúc thông tin nhiều nguồn là một trong
những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em mà trên thực tế,
những quyền này nằm trong nhóm quyền được tham gia và nhóm quyền được
phát triển được quy định trong Công ước QT.
“Theo tôi, trong những quyền được liệt kê nêu trên, có những quyền đã
rõ ràng mười mươi là quyền được bảo vệ rồi, nhưng cũng có những quyền
đang đánh đố mà mới nghe qua tưởng như cũng là quyền được bảo vệ mà
thực ra là không phải. Tất nhiên, phải am hiểu thì mới nắm rõ được…”
(PVS, Nam, 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có ý kiến cho thấy:
“ Nó cũng na ná giống nhau chứ có cụ thể rõ ràng đâu em, theo chị về
mặt hình thức thì có khác nhau nhưng xét về bản chất vấn đề thì cũng phiên
phiến thôi, không nên nặng nề…”
(PVS, Nữ 41 tuổi, phó phòng cơ quan TW)
Giới tính của cán bộ cán bộ Đ Q về các quyền thuộc nhóm
44
quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em.
Cán bộ, cán bộ LĐ, QL không phân biệt nam hay nữ họ luôn hướng tới
việc trau dồi kiến thức, hiểu biết của mình sao cho ngày một hoàn thiện hơn
trong công việc cũng như trong cuộc sống gia đình thường nhật. Với vai trò,
trọng trách to lớn trong việc giáo dục con cái, định hướng cho con về môi
trường sống xung quanh, về chuyện học hành, bạn bè… Điều đó cho thấy, dù
ít hay nhiều cán bộ đã bắt đầu tiếp cận với quyền trẻ em được quy định trong
Công ước QT nói chung và nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em nói riêng.
Kết quả nghiên cứu sau phần nào cho thầy điều đó:
ảng 2.5: Sự khác nhau về giới tính của cán bộ cán bộ Đ Q với nhận
thức về nhóm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em.
Giới tính
Các quyền Nam Nữ
N 187 159 169 163 (%) N 85 68,8 45 77,9 52 76,5 72 69,4 (%) 31,2 22,1 23,5 30,6
176 172 105 130 155 79,3 73,5 70,9 69,5 76,4 46 62 43 57 48 20,7 26,5 29,1 30,5 23,6
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức khỏe Được đoàn tụ gia đình Được hưởng an toàn xã hội Được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và các công việc nguy hiểm, độc hại Được có họ tên và quốc tịch Được ngăn ngừa bắt cóc, buôn bán. Được tiếp xúc thông tin nhiều nguồn Được bảo vệ đời tư Được phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hoà nhập cộng đồng Được tự do kết giao và hội họp hòa bình Được bảo vệ khỏi mọi hình thức bóc lột khác 79 169 79 69 21 76 21 31
Bảng tương quan trên cho thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL đã có nhận định
45
riêng về những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em. Và với giới
tính khác nhau, cũng cho thấy sự lựa chọn khác nhau của cán bộ các cấp. Cụ
thể, tỷ lệ cán bộ cho rằng quyền có họ tên, quốc tịch được cán bộ nam lựa
chọn chiếm tỷ lệ cao nhất với 79,3% trong khi đó tỷ lệ này ở cán bộ nữ chỉ là
20,7%. Mặt khác, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các phương án được lựa chọn với
31,2% cán bộ nữ cho rằng quyền được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức khỏe
là một trong những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em, tỷ lệ
này ở cán bộ nam là 68,8%.
“Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng nở rộ như hiện nay,
thì càng không phân biệt là nam hay nữ, đã là cán bộ mà nhất là lại làm cán
bộ cấp quản lý thì phải am hiểu pháp luật, những kiến thức cần cho công vụ.
Hơn nữa, trẻ em là một trong những nhóm yếu thế cần được quan tâm thì vai
trò của người cán bộ là không phủ nhận…”
(Nữ, 36 tuổi, chuyên viên)
Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng, cán bộ, cán bộ LĐ, QL
vẫn chưa xác định rõ trong việc phân biệt quyền thuộc nhóm quyền được bảo
vệ với những nhóm quyền khác. Cụ thể như: quyền được tiếp xúc thông tin
nhiều nguồn, quyền được tự do kết giao hội họp hòa bình… là quyền nằm
trong nhóm quyền được tham gia và nhóm quyền được phát triển chứ không
phải nhóm quyền được bảo vệ nhưng vẫn nhận được sự lựa chọn khá cao từ
cán bộ, cán bộ LĐ, QL. Điều này cho thấy, cán bộ nói chung và cán bộ LĐ,
QL nói riêng một mặt đã được tiếp cận với thông tin về luật, văn bản, quy
định liên quan nhưng dường như mới ở mức khái quát, chung chung, chưa đi
sâu vào từng vấn đề, trường hợp cụ thể, chi tiết. Mặt khác, họ còn có sự
không rõ ràng trong việc phân biệt rạch ròi giữa các quyền hay nói cách khác
là trong nhiều trường hợp vẫn còn mang tính chất lơ mơ, phiên phiến giữa các
quyền. Ý kiến sau sẽ làm rõ hơn nhận định này:
“Cái này phải can thiệp vào bản chất vấn đề, tư duy của anh ở đâu,
anh giải quyết vấn đề ra sao là then chốt, cốt lõi, anh cứ nói, cứ triển khai
nhưng anh không hiểu bản chất thì đúng là không ăn nhập. Cái khác biệt nằm
46
ở đó, Quyền của quốc tế đưa vào thực tế triển khai ở Việt Nam, đã là cán bộ
kể cả nam và nữ tất yếu cần quá trình thâm nhập, học hỏi, chứ nói thật râu
ông nọ cắm cằm bà kia thì rất gay…”
(Nam, 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Thực tế cho thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về trẻ em nói
chung và quyền trẻ em nói riêng đem lại những kết quả khả thi: Báo cáo quốc
gia về Việt Nam thực hiện văn kiện “Một thế giới phù hợp với trẻ em” tại Hà
Nội tổng kết cho thấy, sau 15 năm thực hiện Công ước QT về Quyền trẻ em,
5 năm thực hiện văn kiện và Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt
Nam giai đoạn 2001-2010, công tác bảo vệ trẻ em được tăng cường theo
hướng đảm bảo ngày càng đầy đủ hơn các quyền cơ bản và nhu cầu của trẻ
em, tạo môi trường bình đẳng cho mọi trẻ em; việc tạo điều kiện giáo dục, vui
chơi giải trí cho trẻ em, các quyền của trẻ em được đảm bảo tốt hơn; nhiều trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, trẻ em dưới 6 tuổi được khám bệnh,
chữa bệnh miễn phí. Theo đánh giá của Trưởng đại diện UNICEF Jesper
Morch, những ưu tiên của Chính phủ Việt Nam xây dựng một xã hội công
bằng và giảm thiểu sự phân hóa đang thực hiện có hiệu quả mà cụ thể bằng
việc giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, trẻ em và bà mẹ; tỷ lệ trẻ nhập học, tiếp
tục học tại trường, tốt nghiệp và chuyển cấp đều tăng; cuộc sống trẻ em và
thanh niên được cải thiện rõ rệt [4].
Với mục tiêu chung cùng chung tay bảo vệ, hướng tới xây dựng một xã
hội ổn định, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của trẻ em. Đội ngũ cán bộ
công tác trong Khối Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp
đã nhận thức được trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ trẻ em của mình tuy còn ở
nhiều cấp độ khác nhau:
Khối công tác của cán bộ cán bộ Đ Q với nhóm quyền đƣợc
bảo vệ của trẻ em
Tiến hành khảo sát các lớp Cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính
trị tại Trung tâm Học viện cho thấy, cán bộ làm việc chủ yếu trong bốn khối,
cụ thể: khối Đảng, khối Chính quyền, khối Đoàn thể và khối Doanh nghiệp.
47
Mỗi khối làm việc đều có những đặc trưng riêng với chính sách, mục tiêu cụ
thể… Trên thực tế, khi đi sâu tìm hiểu sự ảnh hưởng của khối công tác đến
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em được quy định trong Công ước QT, đề
tài thu được kết quả sau:
ảng 2.6: Tƣơng quan khối công tác của cán bộ cán bộ Đ Q
với nhận thức về nhóm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em
Khối công tác
Các quyền
Chính
Doanh
Đảng
Đoàn thể
quyền
nghiệp
Đơn vị: %
96,6 99 87,1 92,5
Được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức khỏe Được đoàn tụ gia đình 78,2 81 71,6 62,7
Được hưởng an toàn xã hội 81,6 88 77,5 70,1
85,1 84 77,6 80,6
Được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và các công việc nguy hiểm, độc hại Được có họ tên và quốc tịch 82,8 90 45,2 68,7
79,3 91 67,7 79,1
46 62 51,6 44,8
Được ngăn ngừa bắt cóc, buôn bán. Được tiếp xúc thông tin nhiều nguồn Được bảo vệ đời tư 60,9 76 61,3 58,2
75,9 80 38,7 67,2
35,6 42 34,3 12,9
82,8 94 76,1 90,3 Được phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hoà nhập cộng đồng Được tự do kết giao và hội họp hòa bình Được bảo vệ khỏi mọi hình thức bóc lột khác
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Số liệu trên cho thấy, đối với những quyền nằm trong nhóm quyền được
bảo vệ nhận được sự lựa chọn rất cao, cụ thể với 96,6% cán bộ khối Chính
quyền cho rằng quyền được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức khỏe thuộc nhóm
48
quyền được bảo vệ của trẻ em, thấp nhất là khối doanh nghiệp với 87,1%.
Quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và các công việc nguy hiểm, độc hại
chiếm tỷ lệ cao nhất ở khối Đảng là 85,1%, thấp nhất là khối đoàn thể với
77,6%. Bên cạnh đó, trong những quyền được liệt kê nêu trên, cán bộ giữa
các khối vẫn chưa phân biệt được quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ với
những quyền thuộc nhóm quyền khác, như quyền được tiếp xúc thông tin
nhiều nguồn, được tự do kết giao và hội họp hòa bình… kết quả khảo sát cũng
cho thấy có sự khác biệt về nhận thức của cán bộ làm việc trong các khối
công tác khác nhau về những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ quy định
trong Công ước QT về quyền trẻ em. Cán bộ khối chính quyền với tỷ lệ là
42% cho rằng quyền tự do kết giao và hội họp hòa bình là một trong những
quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ được quy định trong Công ước QT về
quyền trẻ em trong khi đó con số này ở khối doanh nghiệp chỉ là 12,9%. Sở dĩ
có sự khác biệt giữa các khối là do cán bộ làm việc trong khối Đảng, khối
chính quyền, khối đoàn thể và khối doanh nghiệp do đặc thù công việc cách
tiếp cận về từng quyền cụ thể là khác nhau.
“Nói chung là đáp ứng được yêu cầu công việc. Cán bộ chuyên trách
các ban hầu như đều nắm, nếu không cũng gọi là sơ các mảng đầu công việc.
Cán bộ phụ trách ban Thương binh xã hội, đảng đoàn thể thì tùy từng mảng
họ được phân công. Nhưng nói chung tình hình là đáp ứng được yêu cầu đặt
ra của cấp trên. Mức độ đáp ứng khác nhau còn tùy từng cán bộ”
(PVS, Nữ, 40 tuổi, phó phòng cơ quan TW)
Cán bộ làm việc trong khối doanh nghiệp họ cũng có những lý do
riêng, đặc thù của khối công tác:
“ Làm việc trong khối kinh doanh thì khác đơn vị hành chính sự nghiệp
chứ, tính chất, mục tiêu hoạch định khác nhau. Một bên thì mải miết chạy
theo doanh thu, với các bên đối tác kinh doanh, thặng dư tháng sau mà ít hơn
tháng trước là cũng cần phải xem lại. Nghề nghiệp nó thế rồi, mình có muốn
theo đoàn nọ đoàn kia làm công tác này công tác khác ngoài xã hội cũng khó lắm...”
49
( PVS, Nam 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
Qua đó có thể thấy rằng, khối công tác do tính chất, đặc thù công việc
đã có tác động không nhỏ đến việc nhận thức của cán bộ về các quyền trong
nhóm quyền được bảo vệ được quy định trong công ước QT.
Cấp làm việc của cán bộ cán bộ Đ Q với nhóm quyền đƣợc bảo
vệ của trẻ em trong Công ƣớc QT
Xuất phát điểm từ những khác biệt của cán bộ, cán bộ LĐ, QL làm việc
trong những khối công tác khác nhau trong việc xác định quyền thuộc nhóm
quyền được bảo vệ của trẻ em. Đề tài muốn tiến hành làm rõ mức độ tác động
của cấp làm việc trong việc lựa chọn của cán bộ các cấp là như thế nào? Liệu
cấp làm việc có là nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,
QL các cấp hay không?
Theo kết quả điều tra, khi được hỏi “ Theo đồng chí, các quyền nào sau
đây thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em trong Công ước quốc tế về
quyền trẻ em? Kết quả cho thấy, có sự khác biệt trong việc lựa chọn phương
án trả lời của cán bộ các cấp. Nhận được sự lựa chọn cao nhất với 96,7% cán
bộ, cán bộ LĐ, QL làm việc ở cấp Tỉnh, huyện cho rằng quyền được bảo vệ,
chăm sóc và điều trị sức khỏe là quyền thuộc nhóm quyền bảo vệ của trẻ em,
trong khi đó con số này ở cấp TW là 76,2% và cấp quận, huyện là 73,5%.
Điều này cho thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL các cấp đã hiểu rõ một trong
những quyền cơ bản về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em.
Bên cạnh đó, số liệu điều tra cho thấy những quyền không thuộc nhóm
quyền này nhưng vẫn nhận được sự lựa chọn khác nhau từ phía cán bộ các
cấp, tuy nhiên tỷ lệ này khá thấp so với các phương án còn lại. Cụ thể là
quyền tự do kết giao và hội họp hòa bình với 36,4% cán bộ cơ quan TW lựa
chọn, trong khi đó tỷ lệ này ở cấp Tỉnh, thành phố là 37,7% và cấp Quận,
huyện là 33,3%. Về bản chất, đây là quyền thuộc nhóm quyền được tham gia
50
của trẻ em được quy định trong Công ước QT. Điều này phần nào nói lên, cấp
làm việc không phải là yếu tố mang tính quyết định đối với nhận thức của cán
bộ, cán bộ LĐ, QL. Không phải cứ cấp làm việc to là chứng tỏ khả năng nhận
thức vấn đề tốt hơn cấp làm việc tuyến dưới và ngược lại.
2.2.3. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về quyền trẻ
em theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam
Luật BV,CS&GD trẻ em được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2005, nhằm đáp ứng những yêu cầu của xã hội thời kỳ hội nhập cũng như để
cụ thể hóa Công ước QT về quyền trẻ em được phù hợp hơn với điều kiện của
nước ta. Luật BV,CS&GD trẻ em ra đời đã mở rộng hơn về cơ cấu cho phù
hợp với đối tượng điều chỉnh nhằm tạo hành lang pháp lý trong công tác chăm
sóc và giáo dục trẻ em ngày một tốt hơn. Xuất phát từ bốn nguyên tắc của
Công ước QT về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Trên cơ
sở đó, Luật là cụ thể hóa những chuẩn mực pháp lý trong việc ứng xử đối với
trẻ em, từ đó giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác định đúng
hành vi trái pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các em.
Trẻ em là đối tượng còn non nớt về thể chất và tinh thần, thường dễ bị
tổn thương và bị xâm hại về các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Công
tác tôn trọng và bảo đảm các quyền của trẻ em chính là nhằm tạo lập sự tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người cơ bản và là điều kiện tiên quyết để
các em được sống, phát triển và trở thành những người chủ xứng đáng của xã
hội. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn dành sự quan
tâm đặc biệt cho công tác BV,CS&GD trẻ em.
Kết quả khảo sát cho thấy, khi được hỏi theo đồng chí quyền nào sau
đây được quy định trong Luật BV,CS&GD trẻ em của Việt Nam, đề tài thu
51
được kết quả sau:
Có
Các quyền
ảng 2.7: Các quyền thuộc uật V CS&GD trẻ em của việt Nam
Quyền được khai sinh và có quốc tịch N 275 % 96,5
Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng 262 91,9
Quyền sống chung với cha mẹ 255 89,5
Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng 257 90,2
Quyền được chăm sóc sức khỏe 261 91,6
Quyền được học tập 261 91,6
Quyền vui chơi, giải trí 251 88,1
Quyền phát triển năng khiếu 227 79,6
Quyền có tài sản 149 52,3
Quyền được tiếp cận thông tin, bảy tỏ ý kiến 193 67,7
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Kết quả khảo sát trên cho thấy đã có sự phân hóa trong việc lựa chọn
giữa các nhóm quyền của cán bộ, cán bộ LĐ, QL. Đa số cán bộ được hỏi đều
cho rằng Luật BV,CS&GD trẻ em của Việt Nam đều quy định về những
quyền được đề cập trong các phương án trả lời. Theo đó, chiếm tỷ lệ cao nhất
là phương án quyền được khai sinh và có quốc tịch với 96,5%. Thấp nhất với
52,3% số cán bộ cho rằng quyền có tài sản là một trong những quyền được quy định
trong Luật.
2.2.4. Nhận thức của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý về nhóm
quyền được bảo vệ được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em của Việt Nam.
Luật BV,CS&GD trẻ em của Việt Nam là một trong những văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành nhằm tạo hành lang pháp lý, đảm bảo điều
kiện cho trẻ có môi trường sống tốt nhất, ổn định nhất. Trong hệ thống các
văn bản pháp luật đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
52
Nam ban hành có nhiều văn bản cùng quy định đối tượng áp dụng là giống
nhau trong một vài trường hợp đặc thù. Điển hình là trẻ em bởi trẻ em là đối
tượng còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, là nhóm yếu thế trong xã hội
cần được bảo vệ bởi hành lang pháp lý an toàn với sự cụ thể hóa của hệ thống
văn bản pháp luật và những quy định đặc thù. Với câu hỏi: Theo đồng chí,
những luật nào trong các bộ luật dưới đây ở Việt Nam đề cập đến nhóm
quyền được bảo vệ của trẻ em? Đề tài thu được kết quả sau:
iểu đồ 2.4: uật đề cập đến nhóm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em
Đơn vị: %
Ghi chú:
S1: Luật phòng chống bạo lực gia đình
S2: Luật hôn nhân và gia đình
S3: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
S4: Luật hình sự
S5: Luật dân sự
53
S6: Hiến pháp
Biểu đồ trên cho thấy, với tỷ lệ 93% Luật BV,CS&GD trẻ em được đánh
giá rất cao trong công tác thực hiện vai trò của mình để bảo vệ trẻ em. Trải
qua hơn 10 năm đưa Luật BV,CS&GD trẻ em vào hoạt động thực tiễn cho
thấy, đã có nhiều cơ quan địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật, tạo sự chuyển biến về nhận thức của cộng đồng, gia
đình về công tác BV,CS&GD trẻ em.
Tuy nhiên, khi tiến hành khảo sát với câu hỏi: Theo đồng chí, trong
những quyền này, quyền nào thuộc nhóm quyền được bảo vệ? Kết quả nghiên
cứu cho thấy, nhận được sự lựa chọn cao nhất với 89,1% đó là: quyền được
tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thấp nhất là quyền có tài sản với 30,5%. Điều
này cho thấy, trong một vài trường hợp cán bộ đã có nhận thức tương đối rõ
về những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em. Luật đã quy định:
Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, nhân
phẩm và danh dự [23, tr.187]. Nhưng cũng có những quyền cán bộ nhận thức
chưa được đầy đủ, bởi lẽ có những quyền không thuộc nhóm quyền được bảo
vệ được quy định trong Công ước QT về quyền trẻ em nhưng lại nhận được
sự tán đồng khá cao, điển hình như quyền được học tập với 61,4%, quyền vui
chơi giải trí với 53,7%... Có thể thấy rằng, cán bộ, cán bộ LĐ, QL khi tiếp cận
với những quyền cụ thể họ vẫn có sự nhầm lẫn khi đưa ra quyết định lựa chọn
54
quyền thuộc nhóm quyền này mà không thuộc nhóm quyền khác.
Trình độ học vấn của cán bộ cán bộ Đ Q với nhóm quyền đƣợc
bảo vệ của trẻ em
ảng 2.8: Tƣơng quan trình độ học vấn của cán bộ cán bộ Đ Q với
nhận thức về nhóm quyền đƣợc bảo vệ
Trình độ học vấn
Các quyền ĐH Trên ĐH Tổng
% N % % N
Quyền được khai sinh và có quốc tịch 144 62,1 88 37,9 100
Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng 145 62 89 38 100
Quyền sống chung với cha mẹ 139 64,6 76 35,4 100
Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng 162 63,8 92 36,2 100
Quyền được chăm sóc sức khỏe 136 63,6 78 36,4 100
Quyền được học tập 115 65,7 60 34,3 100
Quyền vui chơi, giải trí 101 66 52 34 100
Quyền phát triển năng khiếu 86 65,6 45 34,4 100
Quyền có tài sản 59 67,8 28 32,2 100
67 55,4 54 44,6 100
Quyền được tiếp cận thông tin, bảy tỏ ý kiến
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Bảng số liệu cho thấy, cán bộ có trình độ học vấn khác nhau đưa ra cho
mình những lựa chọn riêng. Cán bộ có trình độ ĐH cho rằng quyền được bảo
vệ tính mạng là một trong những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ với tỷ
lệ 63,8% trong khi đó tỷ lệ này ở cán bộ có trình độ trên ĐH là 36,2%. Điều
đó cho thấy, tính mạng trẻ em bao giờ cũng cần được tôn trọng và bảo vệ và
đó là một trong những điều kiện đầu tiên và tiên quyết để thực hiện quyền trẻ
em một cách thiết thực nhất. Có thể thấy rằng, những cán bộ cũng là những
55
bậc làm cha làm mẹ trong gia đình, mà những đứa trẻ luôn cần bàn tay chăm
sóc, động viên, giáo dục từ bố mẹ để thành người có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có sự khác biệt trong
việc xác định quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em của cán bộ,
cán bộ LĐ, QL. Với 66% cán bộ có trình độ ĐH cho rằng quyền vui chơi, giải
trí và 65,6% cho rằng quyền phát triển năng khiếu là những quyền thuộc
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em mà theo quy định những quyền này
thuộc nhóm quyền tham gia và quyền phát triển được quy định trong Công
ước QT. Cũng với đó, trong số những cán bộ có trình độ trên ĐH, chiếm tỷ lệ
cao nhất với 44,6% cán bộ cho rằng quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý
kiến là quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ. Thực chất, đây lại là quyền
nằm trong nhóm quyền được tham gia của trẻ em. Sự nhầm lẫn này cho thấy
về mặt thực tế, không phải cán bộ có trình độ càng cao thì càng nắm rõ về các
quyền. Điều này cho thấy, ranh giới nhận biết giữa các quyền không phải lúc
nào cũng rõ ràng, bởi có những quyền vừa thuộc nhóm quyền này vừa thuộc
nhóm quyền kia và việc thực hiện nhóm quyền này không thể vắng bóng
nhóm quyền kia và ngược lại.
Câu hỏi đặt ra là, liệu sự khác biệt về trình độ có cản trở quá trình nhận
thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hay
không? Như trên đã đề cập trong từng hoàn cảnh nhất định trình độ học vấn
không phải là yếu tố quyết định đến nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về
quyền trẻ em. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, những cán bộ có trình độ
thấp, lại học không liên tục, chắp vá, thiếu hệ thống đã ảnh hưởng không ít
đến năng lực tiếp thu và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết vào cơ
sở. Báo cáo, tổng kết chỉ dừng lại ở việc rút kinh nghiệm chung chung, chưa
mang tính khái quát khoa học.
“ Không phải tôi quy chụp cho trình độ hết thảy, nhưng thực tế những
56
người được đào tạo bài bản, có học vấn cao, được tiếp xúc thực tế, nâng cao
trình độ và kỹ năng kinh nghiệm cá nhân sẽ có hướng đi đúng trong việc giải
quyết vấn đề….”
(Nam, 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Bên cạnh đó, cũng có quan điểm cho rằng:
“Nghĩa là, không phải cán bộ có trình độ học vấn càng cao thì càng
nhận thức tốt về quyền trẻ em. Tương tự, cán bộ có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và lý luận chính trị cao có khả năng nhận thức về quyền trẻ em tốt
hơn so với cán bộ có trình độ thấp, nhưng trình độ càng cao, càng nhận thức
đúng về quyền trẻ em thì không nhất quán trong mọi trường hợp. Có trường
hợp anh cán sự, cao đẳng còn nắm rõ tình hình hơn anh cao cấp. Như vậy,
chỉ riêng trình độ chưa phải là yếu tố quyết định đến nhận thức của cán bộ về
quyền trẻ em, nói như vậy chưa mang tính khái quát khoa học”.
(Nữ, 36 tuổi, chuyên viên)
“Yếu tố trình độ cần được gắn với tần suất, mức độ tiếp cận và thẩm
thấu, phân tích các nguồn thông tin. Hay nói cách khác, việc tiếp cận các
nguồn thông tin tuyên truyền quyền trẻ em có ảnh hưởng rất lớn đến nhận
thức của cán bộ về quyền trẻ em. Cho nên, trong quá trình tuyên truyền quyền
trẻ em cần sử dụng kết hợp nhiều hình thức khác nhau với nội dung đa dạng
và phong phú”.
(Nam, 32 tuổi, phó phòng huyện)
Hay như quan điểm:
“Trình độ của cán bộ ở các cấp là khác nhau, ở cấp cơ sở như cấp
huyện, xã, hầu như chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hoá, trình độ, đại học,
trên ĐH không nhiều, bằng chắp vá, lắp ghép còn nhiều. Tuyến cơ sở rất
nhiều việc trên giao, cần có hiểu biết và kinh nghiệm bám sát thực tế. Năng
lực hạn chế thì khó hoàn thành được tốt lắm”.
57
(Nam, 32 tuổi, phó phòng huyện)
Qua đó có thể thấy rằng, yếu tố trình độ học vấn luôn đóng vai trò quan
trọng trong hoàn cảnh thực tế, nhưng không phải là yếu tố quyết định quá
trình nhận thức, giải quyết vấn đề của cán bộ, cán bộ LĐ, QL.
Cấp làm việc của cán bộ cán bộ Đ Q với nhóm quyền đƣợc bảo
vệ của trẻ em đƣợc quy định trong uật V CS&GD trẻ em.
Cán bộ tham gia học tập tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
nói chung, các lớp Cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị nói riêng chủ
yếu làm việc ở 3 cấp: Trung ương; Tỉnh, Thành phố và Quận, huyện. Vấn đề
đặt ra là liệu cấp làm việc có là nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức của cán bộ,
cán bộ LĐ, QL hay không. Bảng số liệu sau cho thấy:
ảng 2.9: Mối liên hệ giữa cấp làm việc của cán bộ cán bộ Đ Q với
nhận thức về nhóm quyền đƣợc bảo vệ.
Đơn vị: %
Cấp làm việc
Các quyền Cơ quan Tỉnh, TP
Quận, huyện
Quyền được khai sinh và có quốc tịch TW 84,1 82,8 78,9
Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng 84,1 82,8 79,8
Quyền sống chung với cha mẹ 72,7 75,4 75,4
Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng 84,1 87,7 92,1
Quyền được chăm sóc sức khỏe 63,6 77 76,3
Quyền được học tập 47,7 64,8 61,4
Quyền vui chơi, giải trí 52,3 50,8 55,3
Quyền phát triển năng khiếu 38,6 50,8 43,9
Quyền có tài sản 27,3 28,7 33,3
52,3 43,4 36,8 Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến
58
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Bảng tương quan trên cho thấy, có sự khác biệt giữa những cán bộ có
cấp làm việc khác nhau với việc lựa chọn những quyền thuộc nhóm quyền
được bảo vệ.
Theo đó, với những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ như quyền
được bảo vệ tính mạng, quyền được chăm sóc và nuôi dưỡng nhận được sự
lựa chọn rất cao từ cán bộ các cấp. Cụ thể là ở cấp quận, huyện với 92,1%,
cấp tỉnh, thành phố là 87,7% và cấp Trung ương là 84,1%. Kết quả nghiên
cứu cũng cho thấy, vẫn có sự nhầm lẫn trong việc xác định quyền thuộc nhóm
quyền được bảo vệ với những quyền thuộc những nhóm quyền khác. Có tới
50,8% cán bộ làm việc ở cấp Tỉnh, thành phố, 43,9% cán bộ làm việc ở cấp
quận, huyện và 38,6% cán bộ cấp TW cho rằng, quyền phát triển năng khiếu
là quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ nhưng trên thực tế đây lại là quyền
thuộc nhóm quyền được phát triển. Và cũng có những quyền không thuộc
nhóm quyền được bảo vệ nhận được những lựa chọn, tuy nhiên tỷ lệ thấp hơn
đáng kể. Cụ thể là quyền có tài sản ở cán bộ làm việc cấp Trung ương là
27,3%, cán bộ cấp tỉnh, thành phố là 28,7% và cán bộ cấp quận, huyện với 33,3%.
Kết quả này cho thấy, cấp làm việc là một trong những nhân tố tác
động đến nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL. Phải thừa nhận rằng, cán bộ
ba cấp nêu trên đã nhận thức được về nội dung của các quyền. Tuy nhiên, có
những quyền cán bộ cấp Trung ương có nhận thức tốt hơn cán bộ tuyến tỉnh
và tuyến huyện, nhưng cũng có những quyền cán bộ tuyến dưới lại sát hơn
cán bộ cấp Trung ương. Có thể nêu ra ví dụ điển hình là tỷ lệ 92,1% của cán
bộ tuyến quận, huyện so với 84,1% của cán bộ cấp TW. Điều này cho thấy,
không phải cấp làm việc càng cao thì cán bộ có nhận thức tốt về cùng một vấn
đề và ngược lại, cấp làm việc thấp hơn không hẳn chứng minh khả năng nhận
59
thức vấn đề của cán bộ là kém hơn.
“ Ở trên họ đưa chỉ thị, nghị quyết và cơ sở triển khai thực hiện. Cấp
dưới như tụi mình thì trên bảo dưới nghe thôi. Trên thực tế thì việc áp dụng
luật pháp thì thường có 4 bước: Tuân thủ, thi hành, xử lý và thực thi pháp
luật. Mỗi bước này đều có những cái quy định có cái chủ thể khác nhau của
nó. Trong thực tế thì việc áp dụng luật pháp có thẩm quyền Nhà nước thì làm
cái này chưa tốt. Chính quyền cơ sở có nhận thức đúng vấn đề hay không còn
tùy thuộc vào chỉ đạo của cấp trên, và cái này có quá trình thực hiện ngay tại
cộng đồng dân cư….”
(PVS, Nam 32 tuổi, phó phòng huyện)
Hay quan điểm cho rằng,
“ Theo tôi, vấn đề nhận thức không nằm ở chỗ anh làm việc ở cấp to
hay cấp bé, mà quan trọng là anh có cọ sát thực tế không. Đó mới là cái chủ
yếu và quyết định vấn đề. Nếu anh ở cấp to mà chỉ hời hợt với giấy tờ, bàn
giấy thì độ trải nghiệm của anh không thể bằng anh cấp dưới bám sát thực
tiễn được…”
(PVS, Nam 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
Thực tế cho thấy, cán bộ tuyến dưới mà cụ thể là cấp tỉnh, thành phố và
cấp quận, huyện với đặc thù công việc bám sát cơ sở, tuyến dưới. Trên cơ sở
yêu cầu thực tế nắm bắt địa bàn, nắm bắt nội dung công việc, họ đã có những
cách tiếp cận sát với nhiệm vụ của mình hơn.
Chức vụ của cán bộ cán bộ Đ Q
Như phần trên đã đề cập, cán bộ tham gia học tập tại lớp Cao cấp lý
luận chính trị và cử nhân chính trị có chức vụ khác nhau. Dựa trên kết quả
nghiên cứu thu về cho thấy cán bộ được xếp vào những chức danh sau đây:
trưởng ngành tỉnh, thành phố; phó trưởng ngành tỉnh, thành phố; trưởng
ngành quận, huyện; phó trưởng ngành quận, huyện; trưởng phòng, ban; phó
60
trưởng phòng, ban và chuyên viên, nghiên cứu viên. Ở mỗi chức vụ công tác,
cán bộ, cán bộ LĐ,QL có quá trình tiếp cận, thâm nhập thực tế là khác nhau,
đó là một trong những yếu tố dẫn đến việc đưa ra quan điểm, ý kiến khác
nhau của cán bộ, cán bộ LĐ,QL. Khi được hỏi: Theo đồng chí, trong những
quyền này, quyền nào thuộc nhóm quyền được bảo vệ? Số liệu thu về cho
thấy, Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng nhận được tỷ lệ lựa chọn cao nhất
từ cán bộ giữ chức vụ phó trưởng ngành huyện với 96,4%, trong khi đó con
số này ở nhóm cán bộ giữa chức vụ trưởng ngành tỉnh là 83,3%, trưởng
phòng, ban là 87,3% và nhóm cán bộ chuyên viên, nghiên cứu viên là 90,9%.
Kết quả này cho thấy sự chênh lệch không đáng kể trong việc lựa chọn
quyền của cán bộ, thực tế đây là một trong những quyền có vai trò quan trọng
trong công tác bảo vệ trẻ em. Mặt khác, ở những quyền không thuộc nhóm
quyền được bảo vệ như nhóm quyền được tham gia hay nhóm quyền được
phát triển đã cho thấy sự khác biệt rất lớn trong việc lựa chọn của cán bộ, cán
bộ LĐ,QL. Theo đó, với ý kiến cho rằng quyền vui chơi, giải trí thuộc nhóm
quyền được bảo vệ của trẻ em nhận được tỷ lệ cao nhất với 68,8% từ nhóm
cán bộ giữ chức trưởng ngành tỉnh, thành phố và thấp nhất với tỷ lệ 5,6% ở
nhóm cán bộ giữ chức trưởng ngành quận, huyện, trong khi đó tỷ lệ này ở
nhóm cán bộ giữ chức trưởng phòng, ban là 60%, chuyên viên, nghiên cứu
viên là 56,8%. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có sự chênh lệch rất lớn giữa tỷ lệ
của cán bộ công tác ở tuyến quận, huyện với cán bộ ở tuyến tỉnh, thành phố
cũng như lãnh đạo các phòng, ban. Ý kiến sau phần nào lý giải điều này:
“Việc của tỉnh hàng năm phân bổ cho huyện rất nhiều, mỗi huyện có
đặc điểm kinh tế - xã hội, địa lý, dân sinh là khác nhau. Lãnh đạo phải đọc,
phải hiểu, phải ngẫm rồi mới đem kiến thức đi truyền đạt, phổ biến cho sát
sườn là cấp dưới, rồi mới văn bản nọ kia áp dụng cho các nhóm đối tượng
trong địa bàn phụ trách.”
61
(Nam, 36 tuổi, phó phòng huyện)
Như vậy, trong từng trường hợp cụ thể chức vụ là một trong những yếu
tố ảnh hưởng đến nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL, không phải trong
trường hợp nào lãnh đạo tuyến trên cũng tốt hơn tuyến dưới. Trong nghiên
cứu này, cán bộ LĐ, QL ở cấp cơ sở do đặc thù bám sát thực tế mà họ nắm
vấn đề có tính khả thi hơn.
2.2.5. Một số hình thức giáo dục con cái của cán bộ, cán bộ lãnh đạo,
quản lý khi con mắc lỗi
Ở Việt Nam việc triển khai thực hiện quyền trẻ em, trong quá trình đưa
quyền vào hoạt động thực tiễn cũng đặt ra nhiều rào cản, thách thức. Trên cơ
sở đó, dựa trên nhiều luồng ý kiến, nhiều quan niệm khác nhau và khi đi vào
thực tiễn ngay trong việc giáo dục con cái của các bậc phụ huynh ta cũng thấy
đâu đó một vào trường hợp vi phạm Công ước và quyền theo Luật
BV,CS&GD trẻ em ở Việt Nam. Có thể thấy rằng, giáo dục đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành nhân cách của một đứa trẻ. Thực tế cho thấy,
không phải gia đình nào cũng có cách giáo dục giống nhau và ngược lại,
không phải đứa trẻ nào cũng có thái độ phản ứng lại là như nhau. Xuất phát từ
văn hoá Việt Nam nên trong nghiên cứu này tác giả đi sâu vào tìm hiểu hình
thức giáo dục con cái và thái độ của trẻ em đối với cách giáo dục đó của đội
ngũ cán bộ, cán bộ LĐ, QL.
Kết quả khảo sát cho thấy, các bậc cha mẹ hiện nay nói chung và đội ngũ
cán bộ, cán bộ LĐ, QL nói riêng có sự lựa chọn khác nhau khi con cái trong
gia đình mắc lỗi. Chiếm tỷ lệ cao nhất là hoạt động phân tích, chỉ lỗi cho con
hiểu với 73%, sau đó là đến các hình thức như phạt, quát, mắng. Điều này
chứng tỏ rằng, đội ngũ cán bộ hiện nay đã có những biến chuyển nhất định
trong nhận thức của mình. Trên cơ sở đó góp phần quan trọng vào công tác
62
chăm sóc và bảo vệ trẻ em hiện nay. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy,
công tác BV,CS&GD trẻ em cũng như Công ước QT về quyền trẻ em bước
đầu tạo cơ sở để định hướng cách nuôi dạy con trẻ của các bậc cha mẹ.
iểu đồ 2.5: Hình thức giáo dục của cán bộ cán bộ Đ Q khi
con mắc lỗi
Đơn vị: %
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Các hình thức bạo lực thân thể như đánh con được cán bộ lựa chọn
chiếm tỷ lệ rất thấp với chỉ 3,5%. Trong trường hợp này có thể thấy, việc sử
dụng biện pháp mạnh như roi, vọt chiếm tỷ lệ rất ít, đây có thể coi là tín hiệu
đáng mừng trong công tác thực thi quyền trẻ em nói chung và nhóm quyền
được bảo vệ của trẻ em nói riêng. Bên cạnh việc đánh con, những hình thức
khác như việc cha mẹ phạt hay quát, mắng con cũng chiếm một tỷ lệ nhất
định với 30,9% và 8,8%. Điều này cho thấy, trong gia đình với vai trò của các
bậc làm cha, làm mẹ, cán bộ đã nhận thức được hậu quả khó lường của việc
dùng những biện pháp mạnh với con như đánh con mà thay vào đó là những
63
hình thức khác nhẹ nhàng hơn về mặt thể xác để giáo dục trẻ khi mắc lỗi như
mắng, phạt con. Bởi lẽ khi con mắc lỗi, với tư cách của người làm cha, làm
mẹ họ không thể đứng yên nhìn con vi phạm mà bỏ qua, mà thay vào đó, có
những gia đình họ sẽ dùng biện pháp khác nhau.
“Con tôi cũng đã là thanh niên cấp 2 rồi, nên cách dạy dỗ con cũng
khác đi. Giờ không thể bắt con nằm úp mà lấy roi đánh vào mông như lúc
nhỏ, mà khi bực lắm cũng chỉ quát, mắng nó thôi, nhiều khi tức quá là phạt
không cho ăn tối vì tội nói dối mẹ trốn học đi chơi…”
( PVS, nam 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Và khi được hỏi nguyên nhân đồng chí có những cư xử trên với con là
gì? Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các phương án được lựa chọn, cao
nhất với tỷ lệ 80,7% cán bộ cho rằng nguyên nhân là do con không nghe lời,
thứ hai là chơi điện tử với 22,8% và thấp nhất là bị điểm kém với 13,7%.
Phải thừa nhận rằng, xã hội hiện đại ngày nay có những biến chuyển
mới so với xã hội truyền thống. Trong gia đình truyền thống, trẻ em phải tuyệt
đối vâng lời cha mẹ và người lớn tuổi. Với việc công nhận, phổ biến và thực
thi quyền trẻ em ngày càng sâu rộng như hiện nay đã làm thay đổi một cách
căn bản những chuẩn mực giữa cha mẹ và con cái đã hình thành rất lâu đời
trong xã hội truyền thống. Trước đây, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
dựa trên nguyên tắc: quyền của cha mẹ và bổn phận của trẻ em, thì trong xã
hội hiện đại nguyên tắc đó được đảo ngược là: quyền của trẻ em và bổn phận
của cha mẹ. Cha mẹ từ chỗ là người có quyền uy tuyệt đối với trẻ em trở
thành người có trách nhiệm chủ yếu trong việc thực hiện quyền trẻ em. Trẻ
em từ chỗ có bổn phận tuyệt đối phục tùng quyền uy của cha mẹ trở thành
người có quyền được cha mẹ nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc, trẻ có quyền
được học hành, vui chơi, quyền không phải làm những công việc nặng nhọc,
64
quyền được bảo vệ…
Thực tế cho thấy, quyền trẻ em chính là quyền con người, cha mẹ
không thể ứng xử với trẻ theo những chuẩn mực truyền thống, không được áp
dụng các biện pháp truyền thống để kiểm soát và bắt trẻ vâng lời như: đánh
đập, chửi bới, xâm phạm thân thể, xúc phạm nhân phẩm, vi phạm quyền riêng
tư của trẻ, thậm chí bỏ rơi, buôn bán trẻ em… Và thay vào đó là, những chuẩn
mực gia đình truyền thống ít nhiều đã thay đổi trong cách giáo dục, bảo vệ trẻ
em của các bậc cha mẹ.
“Nhiều cha mẹ cho rằng phải kiểm tra thư từ, nhật ký, điện thoại của
con để giáo dục, ngăn chặn kịp thời, không để con đua đòi, hư hỏng, không
chăm học hành. Cứ lãng cái là bọn nhỏ mải chơi mấy trò vi tính, điện thoại,
ngăn cũng không chặn được”
(PVS, nữ, 36 tuổi, chuyên viên)
Người Việt Nam từ xưa vẫn luôn coi việc giáo dục con cái bằng những
biện pháp mạnh như mắng, chửi.... là những hình thức gây ít hậu quả nghiêm
trọng. Hơn nữa, các bậc cha mẹ luôn coi mình có quyền được đánh mắng con
cái và tự coi đó là hình thức giáo dục chúng. Ngày nay, đã có những thay đổi
không nhỏ trong suy nghĩ, nhận thức của các bậc cha mẹ, bởi cách thức giáo
dục này không mang lại nhiều hiệu quả như mong muốn mà đôi khi còn phản
tác dụng ngược trở lại, trẻ có thể không nghe lời, không hiểu yêu cầu của cha
mẹ mà ngày càng ương bướng, tỏ ra khó chịu, bất mãn hơn... và hệ quả của
điều này là trẻ sẽ dễ bị sa ngã, đua đòi theo bạn bè mà bỏ bê học hành, mắc tệ
nạn xã hội... Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ đã phải thừa nhận rằng, trong
nhiều trường hợp đây được coi như một thói quen khó có thể thay đổi một
sớm một chiều và dù có những lúc không muốn mà họ vẫn sử dụng đến cách
65
thức này.
Học vấn của cán bộ cán bộ Đ Q với hình thức giáo dục khi con
mắc lỗi
Được đánh giá là một trong những tiêu chí quan trọng trong quá trình
hình thành nhân cách, trong mối quan hệ xã hội cũng như giữa các thành viên
trong gia đình. Nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về học vấn của cán bộ, cán bộ LĐ,
QL với hình thức giáo dục khi con mắc lỗi. Kết quả khảo sát thu về như sau:
Biểu đồ 2.6: Sự khác nhau về trình độ học vấn của cán bộ cán bộ Đ
Q với nhận thức về hình thức giáo dục khi con mắc lỗi
Đơn vị: %
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác nhau trong việc sử dụng hình
thức giáo dục của cán bộ có trình độ ĐH và cán bộ có trình độ trên ĐH. Trong
từng trường hợp cụ thể, cán bộ sẽ áp dụng những hình thức có thể coi là mang
tính răn đe đối với con cái trong gia đình. Cụ thể, với phương án quát, mắng
khi con mắc lỗi ở cán bộ có trình độ ĐH tỷ lệ này là 59,9%, trong khi đó con
số này ở nhóm cán bộ có trình độ trên ĐH là 32,1%. Điều này cho thấy, có sự
chênh lệch đáng kể giữa cán bộ hai khối. Mặt khác, việc sử dụng hình thức là
66
phạt con ở nhóm cán bộ có trình độ trên ĐH là 40,4% trong khi đó tỷ lệ này ở
cán bộ có trình độ ĐH là 24,9%. Câu hỏi đặt ra là: liệu có phải học vấn càng
cao thì cán bộ sẽ càng ít sử dụng những biện pháp mạnh trong việc giáo dục
con cái hay không? Ý kiến sau cho thấy:
“Suy cho cùng trình độ chỉ là một yếu tố trong việc đưa ra hành động,
phán xét, cho dù đó là yếu tố cơ bản và quan trọng. Xét dưới góc độ giáo dục,
khi con phạm lỗi, cho dù là lỗi to hay nhỏ, nặng hay nhẹ thì bố mẹ đều có
quyền can thiệp và xử lý. Tất nhiên biện pháp tiếp theo như thế nào và ở mức
độ ra sao còn tùy vào từng gia đình....”
(Nữ, 40 tuổi, phó phòng cơ quan TW)
Hay như quan điểm cho rằng:
“Không nên áp đặt rằng người học cao là người không sử dụng biện
pháp mạnh với con, người học thấp hơn lại hay đánh đập con hơn, tùy từng
trường hợp mới dùng đến roi vọt, quan trọng là sự tỉnh táo, không nên để tác
giận điều khiến. Nếu đánh, mắng con mà chúng sợ, nó ngoan lên và hiểu
được tại sao bố mẹ lại làm như thế thì khuyến khích nên làm, còn nếu nó
ương bướng không sợ đánh, sợ phạt, nó nhờn nhơn hay cãi lại, bất mãn thì
cũng nên tìm hiểu những biện pháp khác mềm dẻo hơn”
(Nam, 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
Như vậy có thể thấy rằng, không phải lúc nào việc áp dụng những biện
pháp mạnh cũng có tác dụng và cán bộ có trình độ khác nhau sẽ lựa chọn cho
mình những phương pháp tối ưu nhất. Tuy nhiên, xét cho cùng, trong một vài
trường hợp yếu tố trình độ không phải lúc nào cũng phát huy vai trò của mình
và không phải cán bộ có trình độ càng cao sẽ không sử dụng roi, vọt với con
và ngược lại.
Tìm hiểu về thái độ, phản ứng của các con khi bị cha mẹ phạt, cha ông
ta xưa có câu “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” đã cho thấy những khác
67
biệt trong hoàn cảnh gia đình là yếu tố quan trọng quyết định quá trình hình
thành nhân cách đối với mỗi đứa trẻ. Phải thừa nhận rằng, trẻ em với tư cách
là thành viên trong gia đình được sinh sống, được giáo dục với hoàn cảnh,
điều kiện và đặc biệt là cách thức giáo dục của các bậc cha mẹ trong những
gia đình khác nhau sẽ tạo nên sự khác biệt.
Khi được hỏi, phản ứng của các con như thế nào khi bị phạt? Đa số các
cán bộ đều cho rằng, con sẽ khóc khi bị phạt với 50,9%, tiếp đến là ăn năn tỏ
ra biết lỗi với 48,8%, các loại hình phản ứng khác của các con như sợ hãi, im
lặng, bỏ chạy, chống đối cũng chiếm tỷ lệ nhất định. Điều này cho thấy, trẻ
em là đối tượng rất dễ bị tổn thương, biểu hiện của các em rất khác nhau khi
bị cha mẹ sử dụng hình phạt… Điều này làm cho các em dễ bị tổn thương về
mặt tinh thần, trẻ sẽ nghĩ mình không có giá trị, không có tiếng nói trong gia
đình... Tất nhiên, hầu như cha mẹ không cố ý đánh, mắng con cái của mình,
nhưng có những lúc lỗi do các con mắc quá nặng hoặc do trong phút chốc
không kiềm chế được sự nóng giận của mình, nhất là trong bối cảnh hiện nay,
khi cha mẹ là những cán bộ, cán bộ LĐ, QL, họ phải chịu rất nhiều áp lực từ
môi trường bên ngoài, từ công việc ở cơ quan, các mối quan hệ khác... sẽ tạo
sức ép hơn rất nhiều. Và chính điều đó, khiến cho trẻ vô hình chung trở thành
một trong những “giải tỏa” căng thẳng của phụ huynh.
Quan niệm của cán bộ cán bộ Đ Q về bạo hành trẻ em
Nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước QT về quyền trẻ em quy
định trẻ em phải được bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác, tinh thần,
bị tổn thương hay lạm dụng, bị ngược đãi hoặc bóc lột, kể cả sự xâm hại về
tình dục trong khi trẻ em vẫn nằm trong sự chăm sóc của cha mẹ, của người
giám hộ pháp lý. Trẻ em không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần, địa vị xã hội... đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các
quyền theo quy định của pháp luật [23, tr.68]
Để hiểu rõ hơn về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em, đề tài tiến hành
khảo sát quan niệm của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về bạo hành trẻ em và đã thu
68
được kết quả như sau:
iểu đồ 2.7: Quan niệm của cán bộ cán bộ Đ Q về bạo hành trẻ em
Đơn vị: %
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Ghi chú:
S1: Bị cha mẹ bỏ rơi, người giám hộ bỏ rơi
S2: Lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ trẻ mua, bán, vận chuyển ma túy, cờ bạc
S3: Lợi dụng, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm, xâm hại tình dục
S4: Hành hạ, ngược đãi, dùng nhục hình với trẻ
S5: Lạm dụng lao động trẻ em vào những công việc có tính chất độc hại,
nguy hiểm, trái pháp luật
S6: Đặt cơ sở hóa chất độc hại, dễ cháy nổ gần cơ sở nuôi dưỡng, văn
hóa, giáo dục trẻ
Khi được hỏi: Đồng chí quan niệm như thế nào về bạo hành trẻ em. Kết
quả cho thấy: Trong số những phương án được nêu ra, có tới 90,5% cán bộ
cho rằng hành vi hành hạ, ngược đãi, dùng nhục hình với trẻ là bạo hành đối
với trẻ em. Thấp nhất với 34,4% cán bộ cho rằng việc đặt cơ sở hóa chất độc
hại, dễ cháy nổ gần cơ sở nuôi dưỡng, văn hóa, giáo dục trẻ là bạo hành trẻ
69
em. Điều này cho thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL đã nhìn nhận vấn đề bạo hành
trẻ em theo hướng chỉ ra những nội dung liên quan trực tiếp đến tính mạng, sự
an nguy của trẻ. Nhưng xét cho cùng vấn đề đặt cơ sở hóa chất độc hại, dễ
cháy nổ gần cơ sở nuôi dưỡng, văn hóa, giáo dục trẻ không trực tiếp bộc lộ là
tác nhân bạo hành trẻ em nhưng xét trên phương diện nào đó, nó là yếu tố rất
nguy hiểm, có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến các em sau này,
đó là mối nguy hiểm rình rập cận kề đối với các em dù hiện tại đó là mối
nguy tiềm ẩn.
Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong những năm gần đây, tình trạng
bạo lực, xâm hại trẻ em đã và đang trở thành một hiện tượng, một vấn đề
được dư luận xã hội quan tâm bởi sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng của
một nhóm người trong xã hội. Đặc biệt, hiện tượng bạo hành trẻ em đang có
xu hướng gia tăng nhanh chóng về số vụ cũng như mức độ nguy hại của hiện
tượng đối với bản thân trẻ, gia đình và xã hội, trở thành chủ đề nghiên cứu
dưới nhiều cách tiếp cận: luật học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học...
“Liên quan đến bạo hành trẻ em: bảo là bố mẹ sinh con ra muốn làm
gì con cũng được thì không thể như thế. Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai;
trẻ em còn có quyền trẻ em theo Công ước quốc tế ta đã ký kết cam kết với
cộng đồng quốc tế rồi. Đã có ngày lễ, đã có ngày kỷ niệm có liên quan tới tôn
vinh những gương bảo vệ Quyền trẻ em…”
( PVS, Nam 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Và có ý kiến cho rằng, bạo hành cũng khác biệt theo giới:
“Trẻ em trai thường gây bạo hành nhiều hơn là đối với trẻ em gái; có
những gia đình sinh con một bề 4-5 con gái không có con trai thì ông bố mới
hay bức xúc mới hay gây ra bạo hành với các con. Gia đình nào ít hay không
có quan tâm tới con thì đối tượng xã hội đen nó sẽ tràn vào thì sẽ có nhiều
70
khó khăn cho trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình hay bị bạo hành nó xâm
nhập, nó cũng lợi dụng cả trẻ em để đi làm những việc không tốt nay có nhiều
người đã còn biến trẻ em thành công cụ đi ăn xin… làm những gì có lợi”.
( PVS, Nam 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Kinh nghiệm ở cơ sở cho thấy:
“ Ở địa phương là có tờ rơi phát cho các gia đình ở địa phương.
Những việc cao siêu thì người dân không quan tâm lắm đâu nhưng mà những
việc thiết thực của từng gia đình hàng ngày thì họ quan tâm. Ngay cả người
cán bộ cũng thế thì nếu mà không đụng đến công việc thì không mấy khi quan
tâm……”
(Nữ, 36 tuổi, chuyên viên)
Bạo hành trẻ em, suy cho cùng có nguồn gốc từ môi trường xã hội, cần
phải được lý giải từ những biểu hiện bạo hành nhỏ như “thượng cẳng chân hạ
cẳng tay”, đến biểu hiện bạo hành lớn gây hại cho cộng đồng. Khi “chân lý
luôn thuộc về kẻ mạnh” thì lúc đó bạo lực sẽ hoành hành trên khắp xã hội.
Bởi lẽ, từ cái ác nhỏ không được ngăn chặn sẽ dẫn đến cái ác lớn. Rồi từ
những cái ác lớn không được chỉnh đốn dẫn đến hàng loạt những cái ác nhỏ
bắt chước làm theo. Trẻ em, là nhóm yếu thế trong xã hội lại cũng chính là
đối tượng luôn nhận được những hệ lụy nặng nề nhất từ các hành vi bạo lực
và sử dụng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề. Điều này rất cần đến sự chung
tay, góp sức từ các cấp, các ngành trong việc nắm được hành vi là bạo hành
71
trẻ em.
Bảng 2.10: Tƣơng quan cấp làm việc của cán bộ cán bộ Đ Q
với nhận thức về quan niệm bạo hành trẻ em
Đơn vị: %
Cấp làm việc
Các quyền Cơ quan Tỉnh, TP Quận,
TW huyện
58,8 Bị cha mẹ bỏ rơi, người giám hộ bỏ rơi 62,8 55,7
Lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ trẻ mua, bán, 79,5 72,1 69,3 vận chuyển ma túy, cờ bạc
Lợi dụng, ép buộc trẻ em hoạt động 75 81,1 79,8 mại dâm, xâm hại tình dục
Hành hạ, ngược đãi, dùng nhục hình 90,8 97 82,1 với trẻ
Lạm dụng lao động trẻ em vào những
công việc có tính chất độc hại, nguy 86,4 86,9 85,1
hiểm, trái pháp luật
Đặt cơ sở hóa chất độc hại, dễ cháy nổ
gần cơ sở nuôi dưỡng, văn hóa, giáo 40,2 44 25,4
dục trẻ
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Bảng số liệu trên cho thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL công tác ở cấp tỉnh,
thành phố cho rằng hành vi hành hạ, ngược đãi, dùng nhục hình với trẻ là bạo
hành trẻ em với tỷ lệ 97%, trong khi đó ở cấp quận, huyện con số này là
82,1%. Trên thực tế, việc đánh đập, hành hạ trẻ em trong xã hội ngày một
tăng về quy mô cũng như mức độ ngày càng nghiêm trọng. Bạo hành trẻ em
diễn ra không chỉ ở những vùng sâu, vùng xa - những nơi điều kiện kinh tế và
72
dân trí còn thấp mà diễn ra ngay cả ở các đô thị trong thành phố lớn - nơi
được xem là văn minh nhưng vẫn tồn tại những thực trạng đau lòng. Hoàn
cảnh sống khác nhau cũng “quy định” những mảng trẻ bị bạo hành
khác nhau. Trong nhiều trường hợp, trẻ em bị chính cha mẹ, người thân, thầy
cô giáo, người sử dụng lao động và những người có trách nhiệm nuôi dưỡng
chăm sóc bạo hành. Mặt khác, chiếm tỷ lệ thấp nhất với 25,4% cán bộ tuyến
quận, huyện cho biết việc đặt cơ sở hóa chất độc hại, dễ cháy nổ gần cơ sở
nuôi dưỡng, văn hóa, giáo dục trẻ là hành vi bạo hành trẻ em, con số này ở
cán bộ cấp TW là 40,2% và cán bộ cấp Tỉnh, thành phố là 44%. Việc đặt hóa
chất độc hại này rất nguy hiểm cho sự an nguy của trẻ khi mà các em đang
trong độ tuổi hiếu động, tò mò... muốn tìm hiểu về thế giới xung quanh thì
nguy cơ của tai nạn thương tích do hóa chất độc hại gây ra là không tránh
khỏi. Như vậy có thể thấy, tuy có sự khác biệt trong quan niệm của cán bộ,
cán bộ LĐ, QL các cấp song công tác bảo vệ trẻ em luôn được chú trọng. Do
đó, rất cần có sự chung tay phối kết hợp giữa các ban, ngành trong việc xây
dựng môi trường trong sạch, lành mạnh cho trẻ được sống, được phát triển,
góp phần không nhỏ vào công cuộc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ của
73
trẻ em hiện nay.
CHƢƠNG 3. NHỮNG NHÂN TỐ T C ĐỘNG ĐẾN NH N THỨC CỦA
C N Ộ C N Ộ ÃNH ĐẠO QUẢN VỀ NH M QUYỀN ĐƢ C
ẢO VỆ CỦA TR EM HIỆN NAY
3.1. Nhóm yếu tố về văn hóa phong tục tập quán ở Việt Nam
Trước đây trong gia đình Việt Nam truyền thống vốn chịu ảnh hưởng
của hương ước, lệ làng nhiều hơn pháp luật, “phép vua thua lệ làng”, chính vì
thế mọi ứng xử trong gia đình cũng chịu ảnh hưởng nhất định từ những thói
quen tồn tại trong làng xã và được mọi người chấp nhận và coi đó như chuẩn
mực. Trong gia đình, việc coi trọng các mối quan hệ theo chiều dọc được thể
hiện trước tiên ở quyền lực chi phối của cha mẹ đối với con cái và sự phục
tùng của con cái đối với cha mẹ. Các mối quan hệ của con cái đều do cha mẹ
quyết định, ví dụ như trong hôn nhân: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, hay cha
mẹ cũng quyết định nghề nghiệp và phân chia tài sản cho con cái... Cha mẹ có
quyền lực tối thượng đối với con cái trong gia đình, cha mẹ có quyền chỉ bảo,
dạy dỗ thậm chí là phạt, đánh con cái khi con mắc lỗi. Đó được coi là một
hành động rất bình thường trong mỗi gia đình, trong cộng đồng, là cách dạy
con của các bậc cha mẹ, điều đó cho thấy, cách ứng xử, dạy dỗ con cái của
các bậc cha mẹ vẫn phần nào mang dấu ấn của phong tục, tập quán từ ngàn
xưa. Người Việt Nam xưa vốn chịu ảnh hưởng của những hương ước, lệ làng
hơn là pháp luật, bởi lẽ “phép vua thua lệ làng”, chính vì thế mọi ứng xử
trong gia đình cũng chịu những ảnh hưởng nhất định từ những thói quen tồn
tại trong làng xã và được mọi người chấp nhận và coi đó như một chuẩn mực,
khuôn mẫu.
Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng: trong giáo dục con cái ở Việt
Nam quan niệm “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” là khá phổ
74
biến. Kết quả khảo sát cho thấy:
iểu đồ 3.1: Nhóm yếu tố văn hóa phong tục tập quán
Đơn vị: %
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Ghi chú:
S1: Do yếu tố văn hoá ″Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi″
S2: Cha mẹ cho rằng mình có quyền làm gì con cũng được vì mình sinh
ra chúng
S3: Quan niệm con cái không có quyền tham gia và phát biểu ý kiến
trong gia đình
S4: Cho con phát biểu ý kiến nhưng không phải lúc nào cũng tán thành
quan điểm của trẻ.
Với câu hỏi: nguyên nhân nào ảnh hưởng đến nhóm quyền được bảo vệ
của trẻ em, kết quả nghiên cứu cho thấy, có tới 70,9% cán bộ cho rằng do yếu
tố văn hóa “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, thấp nhất với
40% cán bộ cho rằng trong gia đình họ hiện nay có cho con phát biểu ý kiến
nhưng không phải lúc nào cũng tán thành quan điểm của trẻ. Điều này cho
75
thấy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL với vai trò là những bậc làm cha, làm mẹ họ luôn
tâm niệm có yêu con, có thương con thì mới phải dùng đến những biện pháp
mạnh để “uốn” con. Và biện pháp mạnh được lựa chọn ở đây chính là roi, là
vọt, được sử dụng như những công cụ để dạy con em mình của cán bộ. Với
tâm lý “cá không ăn muối cá ươn”, thì việc cha mẹ có sử dụng roi, vọt với con
cái trong quá trình giáo dục trẻ cũng là điều hết sức bình thường, không hề vi
phạm quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy, có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau xoay quanh vấn
đề này, những người theo quan điểm truyền thống cho rằng:
“ Nhà tôi trước đây, hồi anh em tôi còn là con nít, ba mẹ, nội, chú hai,
chú ba... đánh, mắng là điều bình thường. Bữa tôi leo cây hái trộm trái, đi
chơi cùng tụi hàng xóm không học bài....là bị la mắng quá trời, ba tôi còn
đánh nhiều nữa nghe. Đánh vì cái tội không nghe lời người lớn”.
(PVS, Nữ, 40 tuổi, phó phòng cơ quan TW)
Và quan điểm cho rằng:
“Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh, bố mẹ có thương con thì mới
mắng, mới dạy, em bé nhà chị mới có học lớp 1 mà cũng cần dạy bảo suốt.
Ngoài giờ đến trường về, bé về nhà gặp người lớn không chào, hay quấy khóc
dòi hỏi mè nheo, đòi quà, đồ chơi...là chị sẽ dạy bảo bé, nếu vẫn tiếp tục
không nghe lời là sẽ bị vụt roi vào mông. Dạy con từ thuở còn thơ mà em. Giờ
mình không uốn, lớn lên sẽ khó nắn”
( PVS, Nữ, 36 tuổi, Chuyên viên)
Mặt khác, có những ý kiến không đồng nhất với quan niệm truyền
thống. Những người theo quan điểm hiện đại thì cho rằng, trong xã hội ngày
nay, mỗi hành động đánh mắng con cái dù ở mức độ nào đi nữa cũng đang ở
mức nào đó vi phạm quy định của pháp luât, đụng đến nhóm quyền được bảo
76
vệ của trẻ em, cho dù đó là con mình.
“Nói về cái này cũng khó, cũng tùy từng hoàn cảnh mới phải dùng đến
roi đến vọt. Quan trọng là bố mẹ phải tỉnh táo để dạy dỗ trẻ, chứ không để
bức xúc, tức giận cá nhân điều khiển hành động của mình. Ông bà nói “Liệu
cơm gắp mắm”, mình phải xem dùng roi vọt có đạt hiệu quả thì mới làm, còn
không rất dễ phản tác dụng, nó sẽ ươn và bạo lực hơn...”
(Nam 41 tuổi, trưởng phòng XNK)
Bên cạnh đó, khi tiến hành tìm hiểu sâu về vấn đề này, đã tồn tại qua
niệm theo hướng trung gian giữa những cán bộ dạy con bằng phương pháp
truyền thống và phương pháp hiện đại. Họ kết hợp cả hai hình thức trong từng
hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn áp dụng hình thức này hay hình thức khác,
quan điểm sau đây sẽ cho thấy rõ điều này:
“Thương cho roi cho vọt, nhưng mức độ roi vọt đó còn đến đâu mới là
cốt lõi... Nhiều người cứ tự cho có quyền đánh mắng con, đến lúc mạnh tay
quá rồi, con thâm tím mặt mày, ngất xỉu ra đấy thì mới ân hận, khóc lóc. Xã
hội giờ đang chuyển giao nên cái gì cũng phải biết chừng mực, điểm
dừng....đừng hễ việc gì là đánh, đánh nhiều ảnh hưởng đến tâm lý của các
cháu nhiều...”
(PVS, Nam, 46 tuổi, phó trưởng ngành tỉnh)
Thật vậy, cán bộ, cán bộ LĐ, QL cũng đồng thời là những bậc làm cha
làm mẹ trong môi trường gia đình, họ được đặt rất nhiều trọng trách trong
việc giáo dục, nuôi dạy con cái cũng như trách nhiệm đảm đang công việc mà
Đảng và Nhà nước giao phó. Họ luôn đứng trước rất nhiều vấn đề thuận lợi
cũng như khó khăn đặt ra của thời kỳ hội nhập. Những nguyên tắc và tuyên
ngôn về nhân quyền nói chung và quyền trẻ em nói riêng được thế giới công
nhận là cơ sở nền tảng cho mỗi quốc gia xác lập các nguyên tắc tôn trọng
quyền con người trong mọi mặt của đời sống xã hội và trong mọi mối quan hệ
77
giữa con người với con người. Đó là tiền đề, là cơ sở để các bậc phụ huynh
tuân theo trong quá trình nuôi dạy con cũng như thực thi quyền bảo vệ của
các con.
3.2. Nhóm yếu tố về pháp luật
Hiên nay, trên thế giới, ở nhiều quốc gia việc đánh đập hay đối xử tàn
tệ với con cái sẽ bị chính quyền nghiêm khắc can thiệp và xử lý. Ở những
quốc gia phát triển họ có những chương trình, chính sách an sinh xã hội đối
với phụ nữ và trẻ em rất tốt và toàn diện về nhiều mặt. Tất nhiên, đó được coi
là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng sống, là thước đo mức sống
trong xã hội hiện đại. Điển hình như ở Mỹ, họ có chính sách bảo trợ trẻ em có
thể gọi là rất tuyệt vời, những trường hợp vi phạm quyền được bảo vệ của trẻ
em cho dù ở mức độ nào cũng bị xử lý nghiêm khắc trước pháp luật tùy mức
độ nghiêm trọng, ví dụ cho điều này là hiện tượng cha mẹ của một cậu bé 11
tuổi đã bị bắt tạm giam và đối mặt với án phạt vì để cho cậu con trai của mình
chơi đùa ngoài sân trong 90 phút. Hai vợ chồng cũng có thể đối mặt với án
phạt từ tòa án vì cáo buộc “cẩu thả khi chăm sóc con nhỏ”. Và lý do bởi họ có
việc phải ra ngoài và khi trở về gặp phải thời tiết xấu và tình trạng tắc đường
nên không thể về nhà đúng giờ [26]. Đã có không ít gia đình người Việt Nam
sống tại Mỹ đã bị các cơ quan bảo trợ xã hội của Mỹ áp dụng hình phạt vì
hành vi đánh, phạt con... Trẻ em nước ngoài khi bị cha mẹ đánh đập, chúng có
quyền điện thoại gọi cho cảnh sát ngay lập tức và cha mẹ sẽ phải chịu hình
phạt cho hành vi của mình gây ra.
Điều đó cho thấy, truyền thống là nhân tố nền tảng rất quan trọng, tuy
là gốc rễ để phát huy hiện đại, nhưng với những quy định ngày càng chặt chẽ
của pháp luật như ngày nay thì những hành vi vi phạm pháp luật, hiện tương
đánh đập con cái ngày càng diễn ra một cách tràn lan và tăng lên thì tất yếu
đòi hỏi pháp luật phải được hoàn thiện và củng cố sao cho phù hợp với bối
78
cảnh xã hôi, đảm bảo đủ sức răn đe, những đối tượng vi phạm cần phải được
xử lý một cách nghiêm minh. Ở Việt Nam, ngoài việc phê chuẩn Công ước
QT về quyền trẻ em, những cam kết thực hiện các văn bản pháp luật như
“Giới và công ước xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
trong mối quan hệ với trẻ em”[30,tr.76]. Hoạt động đưa Luật BV,CS&GD trẻ
em đưa vào thực tiễn đã đánh dấu bước tiến mới trong việc tạo lập hành lang
pháp lý đảm bảo môi trường cho trẻ được sống, được phát triển, được tham
gia cũng như được bảo vệ.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều văn bản pháp
luật, chỉ thị, nghị quyết, nghị định… để từng bước thực hiện tốt quyền trẻ em.
Đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành liên quan đến vấn đề này. Theo
khoản 2, Điều 110 Bộ luật Hình sự về tội hành hạ người khác, người nào đối
xử tàn ác với người lệ thuộc mình là trẻ em thì bị phạt tù từ 1 - 3 năm. Tại
khoản 4 Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ
về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội quy định: trẻ em tàn tật
phải không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, thuộc
gia đình hộ nghèo thì được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng.
Theo Điều 6, Luật BV, CS&GD trẻ em, trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa
bệnh miễn phí tại cơ sở y tế Nhà nước và Luật phổ cập giáo dục tiểu học quy
định học sinh tiểu học không phải đóng học phí… Nhưng trên thực tế các gia
đình đều phải đóng nhiều khoản khi chữa bệnh và cho con đi học.
Theo quy định tại Điều 17, Nghị định 114/2006/NĐ-CP ngày
3/10/2006 quy định xử phạt hành chính về dân số và trẻ em: Phạt tiền từ
2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập hoặc xâm phạm
thân thể trẻ em làm cho trẻ em đau đớn về thể xác và tinh thần. Mức phạt này
quá thấp so với mức độ thiệt hại mà trẻ em phải gánh chịu, nên cũng không có
79
tác dụng răn đe.
Tuy nhiên cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, hệ thống văn bản pháp
luật nói chung còn nhiều kẽ hở, nhiều điểm mâu thuẫn. Cơ chế giám sát thi
hành luật còn lỏng lẻo. Các hình thức xử phạt còn nhẹ, chưa nghiêm minh,
còn có hiện tượng lách luật, cho nên không có tác dụng răn đe, ngăn ngừa,
giáo dục nhân dân thực hiện tốt quyền trẻ em, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào cán bộ, vào Đảng và Nhà nước. Thực tế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quyền trẻ em của cán bộ, cán bộ LĐ, QL.
Trong thời gian qua, với sự gia tăng đến chóng mặt của các vụ bạo
hành trẻ em, thì pháp luật cần vào cuộc nhanh và mạnh để răn đe và thực thi
rộng rãi. Đã có rất nhiều vụ việc đau lòng xảy ra, cả người bị hại lẫn bên tra
tấn, đánh đập đều phải chịu những hậu quả đáng tiếc như vụ chính bố đẻ đã
dùng điếu cày đập vào đầu con trai 8 tuổi khiến bé bị chấn thương sọ não và
qua đời ngay sau đó. Hay như trường hợp của cháu bé Đỗ Kim Ngân, 4 tuổi
(Bình Dương) bị mẹ và bố dượng đánh đến chấn thương sọ não rồi bỏ mặc,
được hàng xóm đưa đi cấp cứu trong tình trạng nguy kịch [14]. Phải thừa
nhận rằng, những quy định của pháp luật Việt Nam cần được đưa vào triển
khai và thực hiện chặt chẽ hơn, để tránh những vụ việc đáng tiếc có thể xảy ra.
Khi được hỏi, yếu tố nào ảnh hưởng đến nhóm quyền được bảo vệ của
80
trẻ em. Kết quả cho thấy:
ảng 3.1: Nhóm yếu tố pháp luật
Yếu tố N %
Do pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe những người có 177 62,1
hành vi bạo lực
Do pháp luật về bảo vệ trẻ em còn nhiều khoảng trống: chưa 190 66,7
có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng
Chưa có quy định đặc biệt trong trường hợp nhận tố giác từ 158 55,4
trẻ em
Do việc thực hiện các văn bản pháp pháp Luật về phòng 187 65,6
chống bạo hành trẻ em chưa thực sự nghiêm túc
Cha mẹ chưa hiểu rõ các quy định về quyền trẻ em theo Luật 214 75,1
pháp quốc tế và Luật pháp Việt Nam
Bản thân trẻ em chưa biết hết mình có quyền được bảo vệ 167 58,6
theo Luật pháp quốc tế và Việt Nam
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Bảng số liệu trên cho thấy, chiếm tỷ lệ cao nhất có tới 75,1% số cán bộ,
cán bộ LĐ, QL được hỏi cho rằng do cha mẹ chưa hiểu rõ các quy định về
quyền trẻ em theo Luật pháp quốc tế và Luật pháp Việt Nam, tiếp đến với tỷ
lệ 66,7% cán bộ cho rằng do pháp luật về bảo vệ trẻ em còn nhiều khoảng
trống: chưa có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng,
chiếm tỷ lệ thấp nhất với 55,4% số cán bộ được hỏi cho rằng, do pháp luật
chưa có quy định đặc biệt trong trường hợp nhận tố giác từ trẻ em.
Phải thừa nhận rằng, trong công tác thực hiện quyền trẻ em nói chung
và nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em nói riêng, rất cần những quy định chặt
chẽ từ pháp luật, để chủ thể, các đối tượng có liên quan có thể thực thi pháp
luật một cách tốt hơn và phù hợp hơn. Bởi lẽ, luật pháp là cơ sở pháp lý để
81
buộc cá nhân làm theo, thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật. Chính
vì vậy bạo hành trẻ em cũng đã có quy định theo luật song trong luật áp dụng
các hình phạt bạo hành trẻ em còn thấp, mới chỉ mang tính răn đe do vậy yếu
tố về luật pháp là một nhóm nguyên nhân của bạo hành trẻ em hiện nay. Các
bậc cha mẹ không nắm rõ những nội dung theo quy định của pháp luật, thậm
chí rất nhiều bậc cha mẹ không hề biết đến những quy định này... và đó là một
trong những nguyên nhân dẫn đến những vụ việc vi phạm nhóm quyền được
bảo vệ của trẻ em hiện nay.
3.3. Nhóm yếu tố về xã hội
Trong quá trình xã hội hóa một đứa trẻ chủ yếu diễn ra qua ba môi
trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, nhóm yếu tố xã hội đóng
vai trò hết sức quan trọng trong quá trình cá nhân học hỏi, tiếp thu để “hòa
nhập” vào môi trường sống xung quanh một cách hài hòa, hợp lý nhất. Song
trên thực tế, việc thực hiện quyền trẻ em nói chung và nhóm quyền được bảo
vệ của trẻ em nói riêng còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Kết quả nghiên cứu
dưới đây phần nào phản ánh điều đó:
iểu đồ 3.2. Nhóm yếu tố về xã hội
Đơn vị:%
82
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Ghi chú:
S1: Do tiếng nói bảo vệ trẻ em chưa đủ mạnh
S2: Cách xử lý của chính quyền về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em
còn yếu
S3: Thái độ thờ ơ, vô cảm của cộng đồng
S4: Cha mẹ đánh, mắng con là đang giáo dục trẻ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cao nhất với 76,1% cán bộ cho rằng do
cách xử lý của chính quyền địa phương về quyền được bảo vệ còn yếu và thấp
nhất với 65,3% cán bộ cho rằng do tiếng nói bảo vệ trẻ em chưa đủ mạnh.
Thực tế cho thấy, trách nhiệm của những người lãnh đạo, của những người
làm công tác bảo vệ trẻ em và chính quyền là rất lớn. Trách nhiệm này đã
được chính phủ quy định rõ: Nếu địa phương nào để xảy ra tình trạng bạo lực
trẻ em, thì người đứng đầu chính quyền đó phải chịu trách nhiệm.
Trên cơ sở đó, trước hết phải nhanh chóng xây dựng và phát triển mạng
lưới bảo vệ trẻ em trong toàn thể cộng đồng, từ cấp xã, cấp huyện đến cấp
tỉnh một cách đồng bộ. Đồng thời cũng phải xây dựng đội ngũ cán bộ có trình
độ, năng lực và kỹ năng phù hợp. Ngoài ra, phải có sự phối hợp và can thiệp
kịp thời giữa các ban ngành đoàn thể và kể cả là người dân để ngăn ngừa
những hành động bạo lực đối với trẻ em, chứ ko thể đợi đến khi sự việc xảy ra
rồi, lúc đó các cơ quan chính quyền mới được phản ánh.
Công tác bảo vệ trẻ em phải làm đúng như khẩu hiệu chúng ta thường
hay nói là: "Hãy dành những gì tốt nhất cho trẻ em"…Vì thế phải có sự phối
kết hợp ở các cấp chính quyền với khẩu hiệu đối với trẻ em, để cho trẻ em
được sống một cách an toàn và lành mạnh.
Bên cạnh đó, tâm lý “việc gia đình là việc riêng của nhà người ta” phần
nào là tư duy ăn sâu vào các cấp đoàn thể, chính quyền, tổ dân phố, cụm dân
83
cư. Ngoài ra, sự phối hợp của các ngành, các cấp từng lúc, từng nơi chưa
đồng bộ, thiếu kịp thời. Cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở
phường, xã biến động nhiều và chưa được đào tạo bài bản, chưa được hưởng
các chế độ xứng với công việc được giao phó.
“ Ở địa phương tôi, nhắc đến bạo hành trẻ em thì cũng có , nhưng hầu
hết nhà nào cũng thấy không nghiêm trọng dữ. Con hư thì đánh, cán bộ ở
phường người ta cũng không can thiệp. Chuyện cơm bữa mà. Chỉ có vụ nào
ồn ào lắm thì mới đến nắm bắt tình hình, giải thích cho gia đình …”
(PVS, Nữ 40 tuổi, phó phòng cơ quan TW)
Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay rất nhiều vụ bạo hành trẻ em xảy ra
trên cả nước nhưng chưa hề có một lãnh đạo của địa phương bị kỷ luật hay
khiển trách. Mặt khác, hệ thống bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng đã được gây
dựng từ lâu nay trên khắp toàn quốc, với sự phối hợp và phân định trách
nhiệm cụ thể của các cơ quan được quy định cụ thể trong Luật Phòng chống
bạo lực gia đình như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên;
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội; Công an; Tòa án, Viện Kiểm sát… nhưng có vẻ như
tính hiệu quả cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan kể trên vẫn chưa đem lại
hiệu quả như mong muốn.
“Chúng tôi lồng những quy định trong Công ước, trong Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em vào các buổi tuyên truyền pháp luật để tập huấn.
Mở riêng thì không có kinh phí. Lãnh đạo cấp trên hầu như chỉ dự hoặc tham
gia buổi khai mạc và bế giảng chứ còn các buổi học huyên sâu thì hầu như là
không có…”
(PVS, Nam, 32 tuổi, phó phòng huyện).
Bên cạnh đó, ngoài trách nhiệm của chính quyền địa phương, thì một
điều cũng phải lên án đó chính là sự vô cảm, thiếu sự quan tâm của hàng xóm
84
láng giềng. Nhiều trường hợp trẻ em bị bạo hành không chỉ diễn ra tức thời
mà nó đã diễn ra trong thời gian dài nhưng không được ngăn chặn, không có
sự sẻ chia từ thôn làng, tổ dân phố… Nếu có sự sẻ chia, quan tâm của cộng
đồng, hàng xóm thì vụ án mạng đau lòng này có lẽ sẽ không xảy ra.
Bởi lẽ trách nhiệm bảo vệ trẻ em không chỉ là trách nhiệm của một vài
cá nhân mà còn là trách nhiệm của chính quyền, cộng đồng và toàn xã hội. Để
tránh xảy ra những vụ việc đáng tiếc tương tự, cơ quan chức năng cần tăng
cường tuyên truyền các quy định của pháp luật về bảo vệ và chăm sóc trẻ em
đến người dân đồng thời xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi hành hạ,
ngược đãi trẻ em để có tác dụng răn đe, giáo dục. Ngoài ra, việc đấu tranh,
phòng ngừa, kịp thời phát hiện ngăn chặn và xử lý tội phạm là trách nhiệm
không phải của riêng cơ quan tố tụng mà là của toàn xã hội mà trực tiếp là của
85
chính quyền địa phương.
KIẾN NGHỊ GIẢI PH P VÀ KẾT U N
1. Khuyến nghị
Đối với Học viện:
Chỉ đạo các đơn vị có liên quan như: trung tâm Khảo thí, Viện Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý, Vụ Quản lý đào tạo, Vụ Quản lý khoa
học... cần sớm đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về công tác trẻ em
trên cơ sở xây dựng chương trình ứng dụng phù hợp và đảm bảo chất lượng
cho học viên. Chỉ đạo Vụ hợp tác quốc tế, Viện quan hệ quốc tế... đẩy mạnh
hoạt động hợp tác trong và ngoài nước nhằm thu hút, tận dụng nguồn nhân
lực và tài lực các tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề này.
Học viện cần xây dựng cơ chế, chính sách, thực hiện lồng ghép công
tác giáo dục về nhân quyền, quyền của trẻ em vào trong chương trình, kế
hoạch giáo dục định kỳ và thường xuyên của các đơn vị trong hệ thống Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng như các trường chính trị tỉnh,
thành phố trong việc lên kế hoạch, triển khai các chương trình đào tạo. Tập
trung làm rõ các nguyên tắc và quy trình của việc lồng ghép, đồng thời chỉ rõ
khả năng lồng ghép nội dung về quyền trẻ em trong các chuyên đề giảng dạy
tại các trường Chính trị Tỉnh, thành phố.
Triển khai các chương trình luân chuyển, biệt phái cán bộ định kỳ, với
phương châm đưa cán bộ bám sát thực tế trên cơ sở nắm bắt tình hình, địa bàn
nghiên cứu để tiến hành kết hợp nhận thức với vận động xã hội để huy động
tốt nhất nguồn lực tham gia của cộng đồng trong công tác BV,CS&GD trẻ
em.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cán bộ
LĐ, QL theo chức danh, trong đó cần chú ý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng,
86
nghiệp vụ, cập nhật những chủ trương, chính sách mới và kinh nghiệm thực tế
trong việc giải quyết những tình huống cụ thể để nâng cao năng lực tổ chức
thực tiễn cho cán bộ.
Tiếp tục đổi mới, bổ sung, hoàn thiện giáo trình, tài liệu bồi dưỡng cán
bộ cho sát với chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng. Kết hợp giữa đào tạo
chính quy với bồi dưỡng tại chức, từ xa; giữa nâng cao kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ với xây dựng bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống, tác phong cho
cán bộ, cán bộ LĐ, QL.
Thực hiện đổi mới chương trình giáo dục theo hàng năm, mở các lớp tập
huấn về quyền trẻ em nói chung và nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em nói
riêng cho đội ngũ cán bộ, cán bộ LĐ, QL. Trên cơ sở đó, đội ngũ cán bộ phải
được bồi dưỡng tập trung để cập nhật kiến thức, kinh nghiệm mới ở trong và
ngoài nước.
Quan tâm tạo nguồn cán bộ cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, làm tốt công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cử cán bộ về hỗ trợ cơ sở.
Đối với các Vụ, Viện chuyên ngành:
Mỗi vụ, viện chuyên ngành cần lập kế hoạch lồng ghép, đưa vấn đề thực
hiện quyền trẻ em vào trong các bài giảng của mình đến các đối tượng học
viên, qua đó, góp phần đem Luật gắn liền hơn với đời sống thực tế, bám sát
thực tế.
Cần nắm vững đặc điểm, tâm tư, nguyện vọng của từng đối tượng học
viên thuộc diện là cán bộ, cán bộ LĐ, QL sao cho phát huy khả năng sáng tạo,
vai trò trong việc thực hiện quyền trẻ em góp phần nâng cao tinh thần, trách
nhiệm tham gia ngày càng sâu rộng trong nhận thức và hoạt động bảo vệ trẻ
em tại đơn vị công tác.
Cấp ủy và lãnh đạo các Vụ, Viện nghiên cứu, giảng dạy cần cụ thể hoá
các văn bản chỉ đạo của Trung ương thành các chỉ thị, nghị quyết, quyết định,
các đề án, dự án, các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện...; phát huy
87
năng lực trong việc lồng ghép thực hiện quyền trẻ em vào các bài giảng,
chuyên đề thực hiện quyền trẻ em và phát huy vai trò của cán bộ, cán bộ LĐ,
QL trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em ở đơn vị.
Nâng cao chất lượng giảng dạy của các Viện chuyên ngành, nâng cao
trình độ của giảng viên, có các chương trình giảng dạy công tác BV, CS&GD
trẻ em cần gắn với thực tiễn để thu hút và nâng cao hiệu quả nhận thức cho
học viên.
2. Giải pháp
Trên cơ sở đưa ra những phân tích về thực trạng về nhận thức, những
nhân tố tác động đến nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về quyền trẻ em
nói chung và nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em nói riêng, nhằm từng bước
hạn chế tình trạng bạo lực trẻ em, nghiên cứu xin đưa ra một vài những giải
pháp sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm và năng
lực của gia đình, nhà trường, cộng đồng trong việc chủ động phòng ngừa có
hiệu quả các hành vi bạo lực, xâm hại đối với trẻ em. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của việc thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục, phổ biến
kiến thức, pháp luật, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho cha
mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên, cộng đồng và bản thân trẻ em.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vệ bảo vệ trẻ em.Được
thể hiện dưới góc độ sau: Sửa đổi, bổ sung Luật BV,CS&GD trẻ em có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2005, trong đó xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm
và vai trò của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình
và các cá nhân trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em, đáp ứng các nhu cầu chăm
sóc và bảo vệ an toàn cho mọi trẻ em; bổ sung một chương riêng về bảo vệ trẻ
em nhằm tăng khả năng phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ xâm hại, bạo lực
trẻ em; bổ sung những quy định, chế tài cụ thể về các hành vi xâm hại, bạo
88
lực đối với trẻ em; quy định rõ các thủ tục và quy trình phòng ngừa, trợ giúp
và giải quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại, bạo lực, trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình và các cá nhân
phòng ngừa các hành vi xâm hại, bạo lực đối với trẻ em.
Ba là, tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã
hội. Theo đó, nhà trường trong việc quản lý giáo dục trẻ em, cần phải thực
hiện tốt công tác tư vấn, tham vấn học đường và phát huy vai trò của công tác
Đoàn, Đội. Môi trường gia đình có tác động tích cực đến việc hình thành nhân
cách, do đó cha mẹ phải là tấm gương tốt để con cái noi theo. Chính quyền
địa phương phải quan tâm, chăm lo cho trẻ em. Cộng đồng không vô cảm
trước những nguy cơ trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
Bốn là, xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho mọi trẻ em,
nhằm phòng ngừa có hiệu quả các hành vi xâm hại bạo lực đối với trẻ em;
ngăn ngừa trẻ em vi phạm pháp luật, trên cơ sở thực hiện có hiệu quả việc xây
dựng xã phường phù hợp với trẻ em theo Quyết định số 37/2010/QĐ-TTg
ngày 22/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn xã,
phường phù hợp với trẻ em. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “ Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát
động.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động xử lý pháp luật thật nghiêm minh đối với
thủ phạm vi phạm quyền trẻ em nói chung và nhóm quyền đợc bảo vệ nói
riêng. Công tác này cho thấy tầm quan trọng của luật pháp trong việc phòng
ngừa, răn đe… đối với những hành vi vi phạm pháp luật, tra tấn trẻ em. Đặc
biệt, yếu tố quan trọng cốt lõi của vấn đề là nâng cao nhận thức của cha mẹ
trong việc giúp trẻ bị bạo hành vượt qua khủng hoảng và nâng cao các kỹ
năng ứng phó trong cuộc sống sau này.
Sáu là, bảo đảm sự an toàn cho các em bị bạo hành bằng cách tạm lánh
89
tại nhà hàng xóm, bạn bè, các trung tâm dịch vụ hỗ trợ chống bạo hành. Cần
tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
BV,CS&GD trẻ em từ TW đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành
trong đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ chức trong việc thực
hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phát triển đội ngũ CB xã hội, cộng tác
viên, tình nguyện viên đến tận thôn, bản, khu, ấp…
Bảy là, nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc giúp trẻ bị bạo
hành vượt qua khủng hoàng, từ công tác chăm sóc y tế, nâng đỡ y tế, can
thiệp khủng hoảng…. Từ đó giúp các em nâng cao các kỹ năng ứng phó với
cuộc sống sau này. Theo đó, cần tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng
hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em, bao gồm: Dịch vụ bảo vệ trẻ em trong gia
đình (dịch vụ tư vấn, tham vấn gia đình và trẻ em; các trung tâm, điểm công
tác xã hội trẻ em …); Dịch vụ bảo vệ trẻ em ngoài môi trường gia đình (cơ sở
bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em, trường giáo dưỡng..); Dịch vụ hỗ trợ
khẩn cấp dành cho trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
3. Kết luận
Hiện nay, đã có rất nhiều những nghiên cứu về tình hình trẻ em nói
chung và quyền trẻ em nói riêng nhưng nghiên cứu mang tính sâu rộng, toàn
diện về vấn đề này chưa nhiều. Đề tài này cũng chỉ là một nghiên cứu nhỏ với
phạm vi về đối tượng, nội dung, địa bàn còn bó hẹp. Trong quá trình nghiên
cứu, với những kết quả thu được, chúng tôi đã cố gắng làm sáng tỏ những giả
thuyết đã nêu và khẳng định các giả thuyết đặt ra. Luận văn đã tập trung phát
hiện và phân tích một số nội dung sau:
Đa số cán bộ, cán bộ LĐ, QL đều biết đến Công ước QT về quyền trẻ
em và Luật BV,CS&GD trẻ em. Kênh thông tin họ biết chủ yếu qua Đài
truyền hình, phát thanh chứ không phải qua cán bộ dân số hay công tác tập
90
huấn. Điều này chứng tỏ trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, truyền
thông đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá tri thức đến các đối
tượng tiếp cận thông tin.
Nghiên cứu cho thấy về cơ bản cán bộ, cán bộ LĐ, QL đã nắm được
những quyền có vai trò then chốt trong nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em
theo Công ước QT và Luật BV,CS&GD trẻ em. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu cũng chỉ ra sự khác biệt trong nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL trong
việc phân biệt giữa các nhóm quyền. Theo đó, đã có không ít cán bộ nhầm lẫn
những quyền thuộc nhóm quyền được bảo vệ với những nhóm quyền khác
như nhóm quyền được tham gia hay nhóm quyền được phát triển.
Nghiên cứu cho thấy cán bộ, cán bộ LĐ, QL tùy trình độ học vấn, khối
công tác, cấp làm việc, chức vụ, độ tuổi, giới tính khác nhau có những quan
điểm mang tính khác biệt trong nhận thức của mình. Theo đó, không phải cán
bộ làm việc ở cấp TW sẽ nhận thức tốt hơn cán bộ ở tuyến cơ sở và ngược lại
không phải cán bộ tuyến dưới sẽ kém hơn cán bộ tuyến trên. Cán bộ công tác
trong khối Đảng, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp với những đặc trưng
nghề nghiệp đặc thù nên có quan điểm mang tính chất khác biệt.
Cán bộ, cán bộ LĐ, QL đồng thời cũng là những bậc làm cha làm mẹ
có những hình thức ứng xử khác nhau khi con cái mắc lỗi, và chủ yếu là hình
thức phân tích, chỉ lỗi cho con hiểu. Bên cạnh đó, cũng có không ít cán bộ,
cán bộ LĐ, QL cho rằng việc đánh mắng con chính là thể hiện quan niệm
truyền thống “Thương cho roi cho vọt”, là cách giáo dục để con nên người.
Tuy nhiên, phản ứng của các con với những hình thức đó là khác nhau, từ
khóc cho đến ăn năn biết lỗi hay bỏ chạy….
Nghiên cứu cũng bước đầu chỉ ra những nhân tố tác động đến nhóm
quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay bao gồm: nhóm yếu tố về văn hóa,
phong tục tập quán; nhóm yếu tố về pháp luật; nhóm yếu tố xã hội… Theo đó,
91
do ảnh hưởng của quan điểm truyền thống, một tỷ lệ không nhỏ cán bộ cho
rằng mình sinh con ra thì có quyền “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho
bùi”, và mình có quyền đó với con trẻ. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy, các quan điểm truyền thống đang dần thay đổi, bởi sự thay đổi trong
nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL và cho đó là không phù hợp với sự biến
đổi của xã hội ngày nay và dần dần chúng sẽ bị phá bỏ và thay thế bằng
những hình thức dạy dỗ, giáo dục con cái theo cách phù hợp, nhân đạo hơn,
tiến bộ hơn.
Đứng trước thực trạng nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ,QL và đặt
trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, nghiên cứu đã bước đầu phác họa về
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em nhằm mang đến những hiểu biết nhất
định, tách biệt, không nhầm lẫn giữa nhóm quyền này với những nhóm quyền
khác được quy định trong Công ước và trong Luật.
Trên đây là những kết quả ban đầu trên cơ sở nghiên cứu trường hợp tại
các lớp cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh với phạm vi, đồi tượng nghiên cứu được giới hạn. Vì
vậy, việc nhận định khái quát hơn, tổng hợp hơn và kết luận mang tính chính
xác hơn về nhận thức của cán bộ, cán bộ LĐ, QL về nhóm quyền được bảo vệ
của trẻ em hiện nay cần có những nghiên cứu tiếp theo với quy mô rộng hơn
92
và mang tính toàn diện hơn.
DANH MỤC TÀI IỆU THAM KHẢO
TÀI IỆU TIẾNG VIỆT
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết
Hội nghị lần thứ ba (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị 55-CT/TW ngày 28/6/2000 về “tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác BV, CS&GD trẻ
em”.
3. Bộ Lao động - thương binh và xã hội (2002), BV,CS&GD có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn - chính sách, kinh nghiệm và mô hình thực tiễn, Nxb
Lao động xã hội.
4. Báo cáo quốc gia về Việt Nam thực hiện văn kiện "Một thế giới phù hợp
với trẻ em", http://daibieunhandan.vn/, ngày 31/3/2007
5. Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng (2005), Lịch sử xã hội học, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
6. Giáo trình sơ thảo Nhà nước và pháp quyền Việt Nam (1986), Thời đại
trước phong kiến và thời đại phong kiến, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2005), Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
8. Hòa Bình (2005), “Sự hiểu biết giữa gia đình và trẻ em về vấn đề quyền trẻ
em”, Tạp chí Xã hội học, số 4.
9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Trung tâm Xã hội học (2004),
Xã Hội học trong Lãnh đạo, quản lý, Nxb Lý luận Chính trị
10. Cao Duy Hạ (2008), Nâng cao trách nhiệm của gia đình và xã hội bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em, Tạp chí Tuyên giáo, số 8.
11. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2006), Tai nạn thương tích trẻ em vấn đề và
93
thực trạng, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 3.
12. Lê Ngọc Hùng (Chủ biên) và các cộng sự (2010), Xã hội học về lãnh đạo,
quản lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
13. Võ Kim Hương (2011), Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 4.
14. Tuấn Kiệt, Tình trạng bạo hành con cái hiện nay,
http://www.doisongphapluat.com, ngày 17/03/2014
15. Nguyễn Hữu Minh và Đặng Bích Thủy (2007), “Nghiên cứu việc thực
hiện quyền trẻ em ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp
chí Xã hội học, số 4.
16. Nguyễn Hữu Minh, Đặng Bích Thủy (2009), Báo cáo kết quả đề tài:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về việc thực hiện quyền trẻ em ở
Việt Nam trong giai đoạn phát triển 1997 - 2020, Hà Nội.
17. Vũ Hữu Ngoạn (chủ biên) và các cộng sự (2001), Tìm hiểu một số khái
niệm trong Văn kiện đại hội của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia.
18. Nxb Chính trị Quốc gia & Ủy ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam
(1997), Hồ Chí Minh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
19. Nguyễn Đình Tấn và cộng sự (2006), Thực hiện quyền trẻ em ở các tỉnh
miền núi phía Bắc - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ.
20. Nguyễn Đình Tấn và cộng sự (2007), Năng lực thực hiện quyền phụ nữ
của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
21. Nguyễn Hồng Thái, Phạm Đỗ Nhật Thắng (2005), Chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng những cơ sở xã hội và
thách thức, Tạp chí Xã hội học, số 4.
22. Đinh Thị Thoa (2012), Người dân huyện Phú xuyên – TP Hà Nội với việc
nhận thức và thực hiện nhóm quyền tham gia của trẻ em được quy định
trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc hiện nay.
23. Nguyễn Đức Thùy chủ biên (2010), Quyền trẻ em, Tài liệu tập huấn cho
giảng viên trường chính trị Tỉnh, thành phố, Viện Nghiên cứu Quyền con
94
người thuộc Học viện chính trị Quốc gia HCM, NXB Tư pháp.
24. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Đỗ Thu Thủy (2013); Hoạt động của các câu lạc bộ trẻ em về quyền trẻ
em ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
26. T.Thủy, Cha mẹ bị bắt vì để con trai... chơi một mình ngoài sân,
http://dantri.com.vn/, ngày 18/6/2015
27. Nguyễn Minh Phương (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.
28. UN (2002), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người Công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em, công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội.
30. Lê Thị Vân (2008), Tìm hiểu việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ
trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em của các gia đình người dân thành
phố Hà Nội hiện nay.
31. Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và
UB Bảo vệ & chăm sóc trẻ em Việt Nam (1999), Trẻ em trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
32. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Xã Hội Học (2005), Điều tra cơ
bản về kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng
95
chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006 – 2010.
TIẾNG NƢỚC NGOÀI
1. Festinger, L (1957), A theory of cognitive dissonanc, Evanston, Ill: Row
Peterson
2. George A. Theodorson and Achilles G. Theodorson (1969). A Modern
96
Dictionary of Sociology. New York: Thomas Y. Crowell Company
PHỤ ỤC
Một số hình ảnh về nhóm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em
97
Nguồn: Internet
98
Nguồn: Internet
ẢNG HỎI
Số phiếu:……………
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHIẾU TRƢNG CẦU KIẾN
(Dành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý)
Kính thưa đồng chí!
Để có cơ sở thực tiễn đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, trân trọng đề nghị các đồng chí cho biết ý kiến
của mình về công tác thực hiện nhóm quyền được bảo vệ của quyền trẻ em ở
Việt Nam hiện nay. Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác của đồng chí.
Những thông tin mà đồng chí cung cấp được thống kê khuyết danh và chỉ sử
dụng cho mục đích nghiên cứu và đề xuất chính sách.
Xin đồng chí vui lòng giúp chúng tôi bằng cách đọc kỹ và khoanh
tròn và tích vào phương án trả lời mà đồng chí lựa chọn.
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của đồng chí!
A. THÔNG TIN CHUNG
1. Tuổi....... 2. Giới tính....... 3. Dân tộc……….
4. Trình độ học vấn:……..
5. Trình độ chuyên môn cao nhất:
1. Trung cấp, cao đẳng 2. Cử nhân 3. Thạc sĩ
3. Tiến sĩ
6. Hiện nay, đồng chí đang đảm nhận công việc ở khối nào?
99
1. Khối Đảng 2. Khối chính quyền 3. Khối đoàn thể 4. Khối doanh nghiệp
7. Hiện nay, Đồng chí đang làm việc ở cấp nào?
1. Cơ quan Trung ương 2. Tỉnh, Thành phố
3. Quận, Huyện 4. Xã, Phường
8. Chức vụ của đồng chí trước khi đi học? (ghi cụ thể) …………………
1. Trưởng ngành tỉnh 2. Phó trưởng ngành tỉnh
3. Trưởng ngành huyện 4. Phó trưởng ngành huyện
5. Trưởng phòng (Ban) 6. Phó trưởng phòng (Ban)
7. Khác(ghi rõ)………………………………………………………………
9. Tình trạng hôn nhân
2. Chưa kết hôn 1. Đã kết hôn
4. Ly thân 3. Ly hôn
5. Goá
10. Số con đồng chí hiện có
100
1. Chưa có con 2. 1 con 3. 2 con 4. Trên 2 con
. NỘI DUNG
Câu 1. Đồng chí có nghe đến Công ước quốc tế về quyền trẻ em chưa?
1. Đã nghe 2. Chưa nghe
Câu 2. Đồng chí được biết Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ nguồn
thông tin nào? (Có thể chọn nhiều phương án trả lời)
1. Đài truyền hình 2. Báo 3. Tập huấn
4. Đài truyền thanh, đài 5. Cán bộ dân số - gia 6. Khác (ghi rõ)…
tiếng nói đình và trẻ em
Câu 3. Đồng chí quan niệm thế nào về quyền trẻ em trong “Công ước Quốc tế về
quyền trẻ em”? (Có thể chọn nhiều phương án trả lời)
1. Quyền trẻ em là một bộ phận của quyền con người.
2. Quyền trẻ em là những gì các em được hưởng để có điều kiện phát
triển toàn diện.
3. Trẻ em là chủ thể của quyền và có những nghĩa vụ kèm theo.
4. Quyền trẻ em được dựa trên mối quan hệ cơ bản giữa trẻ em - người
được hưởng quyền và có quyền yêu cầu với tất cả những người lớn trong bộ
máy nhà nước, cộng đồng và gia đình có trách nhiệm pháp lý thực hiện các
ðòi hỏi của trẻ em.
5. Quyền trẻ em phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
hiện nay.
6. Quyền trẻ em không phù hợp với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em hiện nay.
Câu 4. Theo đồng chí, các quyền nào sau đây thuộc nhóm quyền được bảo
vệ của trẻ em trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em? (Có thể chọn nhiều
101
phương án trả lời)
1. Được bảo vệ, chăm sóc và điều trị sức 6. Được ngăn ngừa bắt cóc, buôn
khỏe bán.
2. Được đoàn tụ gia đình 7. Được tiếp xúc thông tin nhiều
nguồn
3. Được hưởng an toàn xã hội 8. Được bảo vệ đời tư
4. Được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế 9. Được phục hồi về thể chất, tâm lý
và các công việc nguy hiểm, độc hại và tái hoà nhập cộng đồng
5. Được có họ tên và quốc tịch
10. Được tự do kết giao và hội họp hòa bình
11.Được bảo vệ khỏi mọi hình thức bóc lột khác Câu 5: Theo đồng chí, Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em của Việt Nam
gồm những quyền gì? (có thể chọn nhiều phương án trả lời)
1. Quyền được khai sinh và có quốc tịch 2. Quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng
3. Quyền sống chung với cha mẹ 4. Quyền được tôn trọng, bảo vệ
tính mạng
5. Quyền được chăm sóc sức khỏe 6. Quyền được học tập
7. Quyền vui chơi, giải trí 8. Quyền phát triển năng khiếu
9. Quyền có tài sản 10. Quyền được tiếp cận thông
tin, bảy tỏ ý kiến
Câu 6. Theo đồng chí, trong những quyền này, quyền nào thuộc nhóm
quyền được bảo vệ? (có thể chọn nhiều phương án trả lời)
1. Quyền được khai sinh và có quốc tịch 2. Quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng
3. Quyền sống chung với cha mẹ 4. Quyền được tôn trọng, bảo vệ
tính mạng
102
5. Quyền được chăm sóc sức khỏe 6. Quyền được học tập
7. Quyền vui chơi, giải trí 8. Quyền phát triển năng khiếu
9. Quyền có tài sản 10. Quyền được tiếp cận thông
tin, bảy tỏ ý kiến
Câu 7: Theo đồng chí, những luật nào trong các bộ luật dưới đây ở Việt
Nam đề cập đến nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em? (có thể chọn nhiều
phƣơng án trả lời)
1. Luật phòng chống bạo lực gia đình 2. Luật hôn nhân và gia đình
3. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục 4. Luật hình sự
trẻ em
5. Luật dân sự 6. Hiến pháp
7. Khác (ghi cụ thể) ……………………………………………………
Câu 8: Đồng chí quan niệm như thế nào về bạo hành đối với trẻ em? (có
thể chọn nhiều phƣơng án trả lời)
1. Bị cha mẹ bỏ rơi, người giám hộ bỏ rơi
2. Lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ trẻ mua, bán, vận chuyển ma túy, cờ bạc
3. Lợi dụng, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm, xâm hại tình dục
4. Hành hạ, ngược đãi, dùng nhục hình với trẻ
5. Lạm dụng lao động trẻ em vào những công việc có tính chất độc hại, nguy
hiểm, trái pháp luật
6. Đặt cơ sở hóa chất độc hại, dễ cháy nổ gần cơ sở nuôi dưỡng, văn hóa,
giáo dục trẻ
Câu 9: Đồng chí thường cư xử thế nào khi con mắc lỗi?
1. Quát, mắng 4. Phân tích, chỉ lỗi cho con hiểu
2. Đánh 5. Im lặng
3. Phạt Khác (ghi rõ)…………………………………
Câu 10: Nguyên nhân đồng chí thường quát, mắng con cái là gì?
103
1. Bị điểm kém 4. Chơi điện tử, cờ bạc
2. Không nghe lời 5. Cãi lại
3. Trốn đi chơi
6. Khác(ghi rõ):……………………………………………………………………
Câu 11. Phản ứng của các em (con) thế nào khi đồng chí có hình phạt?
1. Khóc 3. Bỏ chạy
2. Chống đối 4. Im lặng
5. Ăn năn tỏ ra biết lỗi 6. Sợ hãi
7. Khác (ghi rõ)………………………………………………………………
Câu 12. Theo đồng chí, những nguyên nhân nào ảnh hưởng đến quyền
được bảo vệ cuả trẻ em? (có thể chọn nhiều phƣơng án trả lời)
a/ Nguyên nhân do yếu tố về văn hóa, phong tục tập quán ở Việt Nam:
1. Do yếu tố văn hoá ″Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi″
2. Cha mẹ cho rằng mình có quyền làm gì con cũng được vì mình sinh ra
chúng
3. Quan niệm con cái không có quyền tham gia và phát biểu ý kiến trong
gia đình
4. Cho con phát biểu ý kiến nhưng không phải lúc nào cũng tán thành
quan điểm của trẻ
5. Khác (ghi cụ thể)………………………………………………………
b/ Nhóm yếu tố về pháp luật:
1. Do pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe những người có hành vi
bạo lực
2. Do pháp luật về bảo vệ trẻ em còn nhiều khoảng trống: chưa có quy
định cụ thể về bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng
3. Chưa có quy định đặc biệt trong trường hợp nhận tố giác từ trẻ em
4. Do việc thực hiện các văn bản pháp pháp Luật về phòng chống bạo
104
hành trẻ em chưa thực sự nghiêm túc
5. Cha mẹ chưa hiểu rõ các quy định về quyền trẻ em theo công ước quốc
tế và Luật pháp Việt Nam
6. Bản thân trẻ em chưa biết hết mình có quyền được bảo vệ theo Công
ước quốc tế và Luật phápViệt Nam
7. Khác (ghi cụ thể)………………………………………………………
c/ Nhóm yếu tố về xã hội:
1. Do tiếng nói bảo vệ trẻ em chưa đủ mạnh
2. Cách xử lý của chính quyền về quyền bảo vệ trẻ em còn yếu.
3. Do thái độ thờ ơ, vô cảm của cộng đồng
4. Do cộng đồng thấy việc cha mẹ đánh, mắng trẻ là đang giáo dục trẻ
d/ Yếu tố khác (ghi rõ)……………………………………………………
Câu 13: Trong lĩnh vực công tác của đồng chí, đồng chí đã làm những gì
để bảo vệ trẻ em?(có thể chọn nhiều phương án trả lời)
1. Báo cáo với cơ quan có thẩm quyền (khi không thuộc lĩnh vực mình
quản lý)
2. Trực tiếp xử lý khi phát hiện ra trẻ em bị bạo hành
3. Phân tích với cha mẹ, ông bà khi thấy trẻ em bị đánh, mắng
4. Bảo vệ trẻ trước các hành vi bạo hành
5. Tuyên truyền về các quyền mà trẻ em được hưởng
6. Xây dựng các chương trình hành động để bảo vệ trẻ em
7. Đưa mục tiêu chống bạo hành trẻ em vào chiến lược phát triển chung
của cơ quan, đơn vị
8. Đánh giá các giai đoạn thực hiện các chương trình, kế hoạch, chiến lược
của địa phương về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em
Câu 14: Đồng chí cho rằng cần phải có những giải pháp nào để hạn chế vi
phạm quyền được bảo vệ của trẻ em ở nước ta hiện nay? (có thể chọn
105
nhiều phƣơng án trả lời)
1. Nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm và năng lực
của gia đình
2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em
3. Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội
trong việc quản lý giáo dục trẻ em
4. Xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho mọi trẻ em
5. Xử lý pháp luật nghiêm minh đối với thủ phạm
6. Bảo đảm sự an toàn cho các em bị bạo hành bằng cách tạm lánh tại nhà
hàng xóm, bạn bè, cha mẹ, hoặc tại các trung tâm dịch vụ hỗ trợ chống bạo
hành
7. Nâng cao nhận thức của cha mẹ trong việc giúp trẻ em bị bạo hành:
chăm sóc y tế, nâng đỡ tâm lý, vượt qua khủng hoảng và nâng cao các kỹ
năng ứng phó cho cuộc sống sau này.
106
Xin chân thành cám ơn đồng chí !
PHỤ ỤC PHỎNG VẤN SÂU
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 01
Họ và tên: Nguyễn Trần Phƣơng M
Tuổi: 36
Thời gian: 8h35 ngày 22/3/2015
Chức vụ: Chuyên viên
1. Chị có thể cho biết, chị đã nghe về Công ước quốc tế về quyền trẻ
em, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa ạ?
Chị đã từng nghe rồi.
2. Chị nghe hoặc biết qua phương tiện thông tin đại chúng hay qua
kênh thông tin nào khác ạ?
Chị nghe qua đài, báo, nói chung những cái đó họ hay quảng bá nên
cũng không khó để biết.
3. Vậy còn cán bộ làm công tác dân số họ có thường xuyên tuyên
truyền về chương trình này không thưa chị?
Đợi cán bộ dân số họ phổ biến thì còn dài em, mỗi năm nhiều cũng chỉ
có 1 đợt, hơn nữa mình không phải nằm trong số cán bộ chuyên trách, nên
cũng không được tham gia tập huấn. Ngày nay, báo chí, truyền hình nở rộ
rộng khắp, vấn đề gì đang nóng, đang được quan tâm là báo nói ầm ầm
ngay…
4. Theo chị, những kiến thức này có cần thiết phải tuyên truyền rộng
rãi không ạ?
Nói về có nên hay không thì cái này chị không chắc chắn, nhưng theo
chị những cái có ích cho cộng đồng thì mình nên phổ biến. Bởi lẽ, phổ biến có
lợi cho cả mình, cả cộng đồng thì tại sao lại không nhỉ? Thực tế hiện nay,
107
những quy định của pháp luật không phải ai cũng nắm được, kể cả đó là cán
bộ, cán bộ lãnh đạo…nhất lại là những vấn đề liên quan đến trẻ em – nhóm
yếu thế trong xã hội cần được bảo vệ.
5. Theo chị, cán bộ có vai trò như thế nào trong việc đưa quyền vào
thực hiện trong cuộc sống?
Tất nhiên là có vai trò quan trọng em ạ. Trong xu thế hội nhập và toàn
cầu hóa ngày càng nở rộ như hiện nay thì càng không phân biệt là nam hay
nữ, đã là cán bộ mà nhất là lại làm cán bộ cấp quản lý thì phải am hiểu pháp
luật, những kiến thức cần cho công vụ. Hơn nữa, trẻ em là một trong những
nhóm yếu thế cần được quan tâm thì vai trò của người cán bộ là không phủ
nhận. Nhưng không phải người cán bộ nào cũng có vai trò như nhau
6. Chị có nghĩ cán bộ có trình độ càng cao thì càng làm tốt công việc
của mình không?
Cũng tùy
7. Là sao thưa chị?
Nghĩa là, không phải cán bộ có trình độ học vấn càng cao thì càng nhận
thức tốt về quyền trẻ em. Tương tự, cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và lý luận chính trị cao có khả năng nhận thức về quyền trẻ em tốt hơn so với
cán bộ có trình độ thấp, nhưng trình độ càng cao, càng nhận thức đúng về
quyền trẻ em thì không nhất quán trong mọi trường hợp. Có trường hợp anh
cán sự, cao đẳng còn nắm rõ tình hình hơn anh cao cấp. Như vậy, chỉ riêng
trình độ chưa phải là yếu tố quyết định đến nhận thức của cán bộ về quyền trẻ
em, nói như vậy chưa mang tính khái quát khoa học.
8. Chị có cho rằng, yếu tố tuổi tác sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của cán
bộ, cán bộ LĐ, QL không?
Không thể quy chụp cho anh trẻ tuổi sẽ thâm nhập vấn đề tốt hơn anh
nhiều tuổi hơn. Theo mình cha ông ta xưa đã có câu “gừng càng già càng
108
cay”, cái cay đó là vốn tích lũy qua thời gian dài với những thăng trầm lên
xuống trong cuộc sống. Mình không đồng nhất với quan niệm trẻ sẽ hơn già ,
cần coi trọng những người đi trước trên nhiều phương diện…
9. Chị đã từng tìm hiểu về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em chưa
ạ?
Nói thật là chị mới chỉ tiếp xúc thông tin qua thôi, chứ để gọi là tìm
hiểu kỹ càng thì chưa em ạ.
10. Vậy trong cuộc sống hàng ngày, chị đã làm những gì để bảo vệ con
mình?
Thực ra, nói là làm gì thì chị cho rằng làm nhiều chứ em, nhưng có phải
gia đình nào cũng giống nhau đâu. Nhiều cha mẹ cho rằng phải kiểm tra thư
từ, nhật ký, điện thoại của con để giáo dục, ngăn chặn kịp thời, không để con
đua đòi, hư hỏng, không chăm học hành. Cứ lãng cái là bọn nhỏ mải chơi mấy
trò vi tính, điện thoại, ngăn cũng không chặn được”
11. Chị nghĩ sao về quan niệm “ thương cho roi cho vọt ạ”?
Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh, bố mẹ có thương con thì mới
mắng, mới dạy, em bé nhà chị mới có học lớp 1 mà cũng cần dạy bảo suốt.
Ngoài giờ đến trường về, bé về nhà gặp người lớn không chào, hay quấy khóc
dòi hỏi mè nheo, đòi quà, đồ chơi...là chị sẽ dạy bảo bé, nếu vẫn tiếp tục
không nghe lời là sẽ bị vụt roi vào mông. Dạy con từ thuở còn thơ mà em.
Giờ mình không uốn, lớn lên sẽ khó nắn
12. Vậy kinh nghiệm chị thấy những cán bộ đã làm gì với vấn đề này ạ?
Kinh nghiệm thì cũng không dám, nhưng ở địa phương là có tờ rơi phát
cho các gia đình ở địa phương. Những việc cao siêu thì người dân không quan
tâm lắm đâu nhưng mà những việc thiết thực của từng gia đình hàng ngày thì
họ quan tâm. Ngay cả người cán bộ cũng thế thì nếu mà không đụng đến
109
công việc thì không mấy khi quan tâm…
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2
Họ và tên: Ngô Tuấn N
Tuổi: 32
Thời gian: 9h ngày 18/3/2015
Chức vụ: Phó phòng huyện
1. Xin anh cho biết, anh đã từng biết tới Quyền trẻ em chưa ạ?
Tôi đã từng nghe rồi
2. Anh làm việc trong lĩnh vực nào ạ
Tôi làm về Công tác đoàn thể ở huyện
3. Vâng ạ. Vậy công việc của anh có liên quan đến vấn đề trẻ em nói chung
không ạ?
Có chứ, công tác đoàn thể ở huyện cán bộ được phân công phụ trách các
mảng việc khác nhau, đây là một trong những nội dung chủ chốt mà cần bám
sát và thường xuyên.
4. Vậy chắc là anh đã từng nghe về Công ước quốc tế về quyền trẻ em và
Luật bào vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đúng không ạ?
Theo các nghị định và điều lệ pháp luật có liên quan thì hiện nay theo tôi
tạm gọi là hai văn bản mà bạn vừa đề cập được coi là sách gối đầu giường đối
với cán bộ làm công tác dân số nói chung và trẻ em nói riêng.
5. Vậy sự chỉ đạo từ tuyến cấp trên đối với cấp cơ sở mà cụ thể là cán bộ
tuyến huyện là như thế nào thưa anh?
Ở trên họ đưa chỉ thị, nghị quyết và cơ sở triển khai thực hiện. Cấp dưới
như tụi mình thì trên bảo dưới nghe thôi. Trên thực tế thì việc áp dụng luật
pháp thì thường có 4 bước: Tuân thủ, thi hành, xử lý và thực thi pháp luật.
Mỗi bước này đều có những cái quy định có cái chủ thể khác nhau của nó.
Trong thực tế thì việc áp dụng luật pháp có thẩm quyền Nhà nước thì làm cái
110
này chưa tốt. Chính quyền cơ sở có nhận thức đúng vấn đề hay không còn tùy
thuộc vào chỉ đạo của cấp trên, và cái này có quá trình thực hiện ngay tại cộng
đồng dân cư….
6. Vậy vai trò của người lãnh đạo tuyến cơ sở là thế nào ạ?
Vai trò song hành với trách nhiệm và nghĩa vụ. Ở cơ sở vấn đề này cũng
cần được coi trọng. Việc của tỉnh hàng năm phân bổ cho huyện rất nhiều, mỗi
huyện có đặc điểm kinh tế - xã hội, địa lý, dân sinh là khác nhau. Lãnh đạo
phải đọc, phải hiểu, phải ngẫm rồi mới đem kiến thức đi truyền đạt, phổ biến
cho sát sườn là cấp dưới, rồi mới văn bản nọ kia áp dụng cho các nhóm đối
tượng trong địa bàn phụ trách.
7.Vậy ở cơ quan anh, các buổi tập huấn, phổ biến về quyền trẻ em diễn ra
như thế nào ạ? Và lãnh đạo có thường xuyên bám sát vấn đề này không?
Chúng tôi lồng những quy định trong Công ước, trong Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em vào các buổi tuyên truyền pháp luật để tập huấn. Mở
riêng thì không có kinh phí. Lãnh đạo cấp trên hầu như chỉ dự hoặc tham gia
buổi khai mạc và bế giảng chứ còn các buổi học huyên sâu thì hầu như là
không có…
8. Bản thân anh là người trực tiếp làm công tác dân số và theo em tạm gọi
là hiểu biết về các văn bản pháp luật kèm theo, anh nhận xét về việc cá nhân
anh thực hiện quyền trẻ em nói chung và nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em
nói riêng hiện nay?
Cái này thực ra đánh giá dưới góc độ của cán bộ chuyên trách như mình
thì cũng còn nhiều vấn đề bất cập. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng việc đánh
mắng con cái là điều khó tránh khỏi vì trẻ nhỏ nó như cành măng vậy, nó
cong thì mình phải uốn, phải nắn vào quy củ… Nhất là hiện nay, ngoài việc
học ở trường thì còn biết bao cám dỗ bên ngoài xã hội mà bản thân cha mẹ
không nắn con thì không được. Nhiều lúc con hư là mình cũng nóng, bực lên
111
là con cũng ăn đòn ngay.
9. Vậy là cũng “đụng chạm” đến quyền trẻ em rồi, thưa anh?
Trong hoàn cảnh mình không giữ được bình tĩnh vì sự nóng giận thì tất
nhiên để nghĩ là mình vi phạm cái này, cái kia cũng hơi khó nói. Nhưng
khách quan nhất, bản thân tôi là người tôn trọng ý kiến của con cái, trong mọi
vấn đề từ ăn mặc cho đến học hành thì hai vợ chồng cũng có sự trao đổi cho
hợp lý với con.
10. Theo anh yếu tố nào là quan trọng đối với cán bộ chuyên trách về
công tác này?
Yếu tố trình độ cần được gắn với tần suất, mức độ tiếp cận và thẩm thấu,
phân tích các nguồn thông tin. Hay nói cách khác, việc tiếp cận các nguồn
thông tin tuyên truyền quyền trẻ em có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của
cán bộ về quyền trẻ em. Cho nên, trong quá trình tuyên truyền quyền trẻ em
cần sử dụng kết hợp nhiều hình thức khác nhau với nội dung đa dạng và
phong phú.
Trình độ của cán bộ ở các cấp là khác nhau, ở cấp cơ sở như cấp huyện,
xã, hầu như chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hoá, trình độ, đại học, trên ĐH
không nhiều, bằng chắp vá, lắp ghép còn nhiều. Tuyến cơ sở rất nhiều việc
trên giao, cần có hiểu biết và kinh nghiệm bám sát thực tế. Năng lực hạn chế
thì khó hoàn thành được tốt lắm.
11. Từ những vấn đề vừa trao đổi, anh có nghĩ rằng trong hoạt động các
các tổ chức đoàn thể ở cả tuyến trên và tuyến dưới nên đưa nội dung lồng
ghép vào và coi đó như một đợt tập huấn về quyền trẻ em không ạ?
Có chứ. Nhưng đấy là suy nghĩ của cá nhân tôi, vai trò quyết định lại là
cấp trên phụ trách mảng này. Thực ra, công tác tuyên truyền càng được mở
rộng thì cũng tác động rất lớn đến nhận thức của cán bộ, họ có nắm, có hiểu
112
được vấn đề thì mới có cái gọi là tri thức mà đi phổ biến, tuyên truyền được.
Phải bám sát các Hội, đoàn mà cụ thể là Hội phụ nữ, đoàn thanh niên… để
113
làm sao họ chính là nhịp cầu đưa pháp luật thực thi vào trong cuộc sống.
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3
Họ và tên: Trần Minh V
Tuổi: 41
Thời gian: 14h ngày 16/3/2015
Chức vụ: Trƣởng phòng xuất nhập khẩu
1. Chào anh, anh đã từng nghe về quyền trẻ em chưa ạ?
Anh cũng có biết đến, nhưng cũng chỉ là biết sơ sơ, chứ không phải là
hiểu sâu về quyền này lắm.
2. Theo anh, những quyền mà anh vừa trả lời trong bảng hỏi, có khó để
nhận biết đó là quyền được bảo vệ của trẻ em không?
Trong những quyền được liệt kê nêu trên, có những quyền đã rõ ràng
mười mươi là quyền được bảo vệ rồi, nhưng cũng có những quyền đang đánh
đố mà mới nghe qua tưởng như cũng là quyền được bảo vệ mà thực ra là
không phải. Tất nhiên, phải am hiểu thì mới nắm rõ được.
3. Anh thấy, Công ước QT về quyền trẻ em có phù hợp khi đưa vào thực
tiễn ở nước ta không ạ?
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập để phát triển, để có thể thoát nghèo
từ một nước nông nghiệp chuyển sang nước công nghiệp hiện đại cần rất nhiều
yếu tố từ cơ sở hạ tầng cũng như kiến trúc thượng tầng…phải nói là dân mình còn
nghèo, những quy định trong Công ước hay Luật pháp QT đa phần được thưc thi
ở các nước phát triển hiện đại, còn ở nước mình có vẻ còn xa về khoảng cách
lắm…
4. Anh thấy vấn đề về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em hiện nay như
thế nào ạ?
Trẻ em thì chắc luôn cần được bảo vệ rồi em nhỉ (cười). Nhiều đứa trẻ
chưa được bảo vệ đúng mức… Nói thật là đến cơ quan, những lúc rảnh rỗi
114
anh cũng lướt web, dạo gần đây trẻ em bị bạo hành nhiều quá, thậm chí bị
ngay cả bố mẹ đẻ ra mình đánh đập. Nhiều em còn thương tích nặng, tử vong.
Thế mới nói công tác bảo vệ quyền trẻ em ở mình còn hạn chế…
5. Khối làm việc của anh liệu có khác các khối làm việc khác trong vấn
đề tiếp cận các quyền này không thưa anh?
Chắc chắn là có. Anh thấy khác về tất cả các mặt. Làm việc trong khối
kinh doanh thì khác đơn vị hành chính sự nghiệp chứ, tính chất, mục tiêu
hoạch định khác nhau. Một bên thì mải miết chạy theo doanh thu, với các bên
đối tác kinh doanh, thặng dư tháng sau mà ít hơn tháng trước là cũng cần phải
xem lại. Nghề nghiệp nó thế rồi, mình có muốn theo đoàn nọ đoàn kia làm
công tác này công tác khác ngoài xã hội cũng khó lắm….
6. Theo anh, cán bộ làm việc ở cấp khác nhau hay nói cách khác là cấp
trên và cấp dưới thì có sự khác biệt trong nhận thức về vấn đề này không ạ?
Theo tôi, vấn đề nhận thức không nằm ở chỗ anh làm việc ở cấp to hay
cấp bé, mà quan trọng là anh có cọ sát thực tế không. Đó mới là cái chủ yếu
và quyết định vấn đề. Nếu anh ở cấp to mà chỉ hời hợt với giấy tờ, bàn giấy
thì độ trải nghiệm của anh không thể bằng anh cấp dưới bám sát thực tiễn
được…
7. Theo anh, trình độ học vấn có là yếu tố quyết định đến việc sử dụng
biện pháp mạnh với con không?
Không nên áp đặt rằng người học cao là người không sử dụng biện pháp
mạnh với con, người học thấp hơn lại hay đánh đập con hơn, tùy từng trường
hợp mới dùng đến roi vọt, quan trọng là sự tỉnh táo, không nên để tức giận
điều khiến. Nếu đánh, mắng con mà chúng sợ, nó ngoan lên và hiểu được tại
sao bố mẹ lại làm như thế thì khuyến khích nên làm, còn nếu nó ương bướng
không sợ đánh, sợ phạt, nó nhờn nhơn hay cãi lại, bất mãn thì cũng nên tìm
115
hiểu những biện pháp khác mềm dẻo hơn
8. Trong gia đình anh có hay dùng đến roi vọt trong việc giáo dục các
cháu không ạ?
Nói về cái này cũng khó, cũng tùy từng hoàn cảnh mới phải dùng đến
roi đến vọt. Quan trọng là bố mẹ phải tỉnh táo để dạy dỗ trẻ, chứ không để
bức xúc, tức giận cá nhân điều khiển hành động của mình. Ông bà nói “Liệu
cơm gắp mắm”, mình phải xem dùng roi vọt có đạt hiệu quả thì mới làm, còn
116
không rất dễ phản tác dụng, nó sẽ ươn và bạo lực hơn...
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4
Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng
Tuổi: 40
Thời gian: 9h ngày 24/3/2015
Chức vụ: Phó phòng cơ quan TW
1. Chị có thể cho biết, chị đã nghe về Nhóm quyền được bảo vệ của trẻ
em chưa ạ?
Chị cũng có nghe sơ qua.
2. Theo chị, nhóm quyền này có khác gì so với các nhóm quyền khác
không ạ?
Nói chung cái này cũng không dễ, nó cũng na ná giống nhau thôi à, theo
chị về mặt hình thức thì có khác nhau nhưng xét về bản chất vấn đề thì cũng
phiên phiến thôi, không nên nặng nề làm chi.
3. Theo chị, cán bộ hiện nay họ có nắm rõ những vấn đề liên quan đến
nhóm quyền này không ạ?
Nắm rõ thì chị cũng không chắc. Còn tùy xem họ công tác về lãnh vực
nào nữa
4. Chị có thấy sự thay đổi trong việc giáo dục con cái thời nay so với
trước đây không?
Khác nhiều dữ chứ em. Nhà chị trước đây, hồi anh em tôi còn là con nít,
ba mẹ, nội, chú hai, chú ba... đánh, mắng là điều bình thường. Bữa anh hai leo
cây hái trộm trái, đi chơi cùng tụi hàng xóm không học bài....là bị la mắng
quá trời, ba còn đánh nhiều nữa nghe. Đánh vì cái tội không nghe lời người
lớn.
5. Chị cho rằng trình độ hiện nay của cán bộ đã đáp ứng được yêu cầu
117
công việc không ạ?
Nói chung là đáp ứng được yêu cầu công việc. Cán bộ chuyên trách các
ban hầu như đều nắm, nếu không cũng gọi là sơ các mảng đầu công việc. Cán
bộ phụ trách ban Thương binh xã hội, đảng đoàn thể thì tùy từng mảng họ
được phân công. Nhưng nói chung tình hình là đáp ứng được yêu cầu đặt ra
của cấp trên. Mức độ đáp ứng khác nhau còn tùy từng cán bộ…
6. Vậy có phải trình độ càng cao thì nhận thức càng tốt có đúng không
chị?
Không hẳn, cái gì cũng có hai mặt đó em.
7. Là sao, thưa chị?
Nghĩa là, không phải cán bộ có trình độ học vấn càng cao thì càng nhận
thức tốt về quyền trẻ em. Tương tự, cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và lý luận chính trị cao có khả năng nhận thức về quyền trẻ em tốt hơn so với
cán bộ có trình độ thấp, nhưng trình độ càng cao, càng nhận thức đúng về
quyền trẻ em thì không nhất quán trong mọi trường hợp. Có trường hợp anh
cán sự, cao đẳng còn nắm rõ tình hình hơn anh cao cấp. Như vậy, chỉ riêng
trình độ chưa phải là yếu tố quyết định đến nhận thức của cán bộ về quyền trẻ
em, nói như vậy chưa mang tính khái quát khoa học .
Suy cho cùng trình độ chỉ là một yếu tố trong việc đưa ra hành động,
phán xét, cho dù đó là yếu tố cơ bản và quan trọng. Xét dưới góc độ giáo dục,
khi con phạm lỗi, cho dù là lỗi to hay nhỏ, nặng hay nhẹ thì bố mẹ đều có
quyền can thiệp và xử lý. Tất nhiên biện pháp tiếp theo như thế nào và ở mức
độ ra sao còn tùy vào từng gia đình....
8. Ở địa phương chị, vấn đề này diễn ra thế nào ạ?
Ở địa phương tôi, nhắc đến bạo hành trẻ em thì cũng có , nhưng hầu hết
nhà nào cũng thấy không nghiêm trọng dữ. Con hư thì đánh, cán bộ ở phường
người ta cũng không can thiệp. Chuyện cơm bữa mà. Chỉ có vụ nào ồn ào lắm
118
thì mới đến nắm bắt tình hình, giải thích cho gia đình …
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 5
Họ và tên: ò Văn T
Tuổi: 46
Thời gian: 17h ngày 28/3/2015
Chức vụ: Phó trƣởng ngành Tỉnh
1. Chú công tác tại đơn vị hành chính tuyến tỉnh, vậy theo chú vấn đề
quyền trẻ em hiện nay có được phổ biến rộng rãi không ạ?
Cũng tương đối.
2. Tương đối có nghĩa là ở mức nào thưa chú?
Tạm gọi là khá phổ biến
3. Chú có đánh giá như thế nào về cách nuôi dạy con cái của mình ạ?
Tự đánh giá thì bản thân nhận thấy mình đã làm những gì trong khả
năng của mình, từ việc đáp ứng nhu cầu về vật chất trong giới hạn cho phép
đến việc đầu tư học hành, tạo môi trường cho con.
Cần phải thẳng thắn mà nói, việc dạy trẻ em ngày nay không hề đơn
giản, công nghệ ngày càng phát triển thì nhu cầu tiếp xúc của các em ngày
càng lớn, tivi, mạng xã hội, điện thoại... nói chung là mấy cái này cần quản lý
tốt.
4. Theo chú Công ước quốc tế về quyền trẻ em áp dụng ở Việt Nam có
điểm gì bất cập không ạ?
Tôi nghĩ cũng ở mức trung bình. Công ước quốc tế họ dựa trên đặc điểm
phát triển của các khu vực trên thế giới, mà ảnh hưởng mạnh là những nước
phát triển... còn những quốc gia trong TOP đang phát triển thì cũng chỉ tạm ở
mức gọi là bước đầu đáp ứng.
5. Vậy theo chú, những quy định được quy định trong Luật bảo vệ, chăm
119
sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam như thế nào ạ?
Cái này là của ta xây dựng, nên dựa trên những điều kiện phát sinh, thực
tế của đất nước trong giai đoạn mới nên chắc chắc sẽ phù hợp với đặc thù của
Việt Nam.
6. Chú thấy trình độ của cán bộ hiện nay trong việc đưa quyền vào đời
sống có đáp ứng được yêu cầu đặt ra không ạ?
Cũng chỉ tương đối, bởi cán bộ không phải ai cũng đồng đều về khả
năng và chuyên môn...Không phải tôi quy chụp cho trình độ hết thảy, nhưng
thực tế những người được đào tạo bài bản, có học vấn cao, được tiếp xúc thực
tế, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh nghiệm cá nhân sẽ có hướng đi đúng
trong việc giải quyết vấn đề….
7. Việc xác định rõ ràng giữa các nhóm quyền hiện nay theo chú là như
thế nào ạ?
Cái này phải can thiệp vào bản chất vấn đề, tư duy của anh ở đâu, anh
giải quyết vấn đề ra sao là then chốt, cốt lõi, anh cứ nói, cứ triển khai nhưng
anh không hiểu bản chất thì đúng là không ăn nhập. Cái khác biệt nằm ở đó,
Quyền của quốc tế đưa vào thực tế triển khai ở Việt Nam, đã là cán bộ kể cả
nam và nữ tất yếu cần quá trình thâm nhập, học hỏi, chứ nói thật râu ông nọ
cắm cằm bà kia thì rất gay…
8. Cán bộ làm việc ở những cấp khác nhau, chú có thể cho biết yếu tố
nào quyết định nhận thức của cán bộ ạ?
Theo tôi, vấn đề nhận thức không nằm ở chỗ anh làm việc ở cấp to hay
cấp bé, mà quan trọng là anh có cọ sát thực tế không. Đó mới là cái chủ yếu
và quyết định vấn đề. Nếu anh ở cấp to mà chỉ hời hợt với giấy tờ, bàn giấy
thì độ trải nghiệm của anh không thể bằng anh cấp dưới bám sát thực tiễn
được…
9. Theo chú, tuổi tác có là nhân tố quyết định vấn đề trong công tác tiếp
120
cận thông tin nói chung và quyền trẻ em nói riêng không ạ?
Mỗi thời mỗi khác, người trẻ thời nay và người trẻ thời bao cấp khác
nhau trên nhiều phương diện. Hoàn cảnh sống, môi trường giáo dục, xã hội
ngày nay quá hiện đại so với những năm cuối thập niên 90. Cái đó là yếu tố
quyết định kỹ năng, năng lực của cá nhân… Đơn cử như về mặt công nghệ,
anh trẻ hơn được tiếp cận sớm hơn sẽ tốt hơn, giỏi hơn anh nhiều tuổi, khả
năng va chạm sẽ giảm dần…
10. Vậy khi con mắc lỗi chú thường thể hiện như thế nào ạ?
Tùy từng việc. Con tôi cũng đã là thanh niên cấp II rồi, nên cách dạy dỗ
con cũng khác đi. Giờ không thể bắt con nằm úp mà lấy roi đánh vào mông
như lúc nhỏ, mà khi bực lắm cũng chỉ quát, mắng nó thôi, nhiều khi tức quá là
phạt không cho ăn tối vì tội nói dối trốn học đi chơi…
11. Chú thấy vấn đề bạo hành trẻ em hiện nay như thế nào ạ?
Ngày càng gia tăng, trẻ em trai thường gây bạo hành nhiều hơn là đối với
trẻ em gái; có những gia đình sinh con một bề 4-5 con gái không có con trai
thì ông bố mới hay bức xúc mới hay gây ra bạo hành với các con. Gia ðình
nào ít hay không có quan tâm tới con thì đối tượng xã hội đen nó sẽ tràn vào
thì sẽ có nhiều khó khăn cho trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình hay bị
bạo hành nó xâm nhập, nó cũng lợi dụng cả trẻ em để đi làm những việc
không tốt nay có nhiều người đã còn biến trẻ em thành công cụ đi ăn xin…
làm những gì có lợi.
12. Chú thấy quan niệm “thương cho roi cho vọt” hiện nay như thế nào
ạ?
Thương cho roi cho vọt, nhưng mức độ roi vọt đó còn đến đâu mới là cốt
lõi... Nhiều người cứ tự cho có quyền đánh mắng con, đến lúc mạnh tay quá
rồi, con thâm tím mặt mày, ngất xỉu ra đấy thì mới ân hận, khóc lóc. Xã hội
giờ đang chuyển giao nên cái gì cũng phải biết chừng mực, điểm dừng....đừng
121
hễ việc gì là đánh, đánh nhiều ảnh hưởng đến tâm lý của các cháu nhiều...
Liên quan đến Bạo hành trẻ em: bảo là bố mẹ sinh con ra muốn làm gì
con cũng được thì không thể như thế. Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai; trẻ
em còn có Quyền trẻ em theo Công ước quốc tế ta đã ký kết cam kết với cộng
đồng quốc tế rồi. Đã có ngày lễ, đã có ngày kỷ niệm có liên quan tới tôn vinh
122
những gương bảo vệ Quyền trẻ em.