TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n quèc gia Khoa x· héi häc

LÊ THỊ LINH CHI

Nhận thức, hành vi của trẻ em đƣờng phố đối với những nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em (Qua khảo sát tại Huế và Hà Nội)

luËn v¨n th¹c sü Chuyªn ngµnh x· héi häc M· sè: 60 31 30

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NguyÔn Quý Thanh

Hµ néi, 2007

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

III. Nhận thức và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố đối với những nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục ........................................................................................... 50 1. Nhận thức của trẻ em đƣờng phố đối với những hành vi và nguy cơ bị xâm hại ....... 51 2. Hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố trƣớc nguy cơ bị xâm hại ......... 55 IV. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến nhận thức của trẻ em đƣờng phố trƣớc những nguy cơ và hành vi bị xâm hại tình dục. ................................................................................................ 58 1 Môi trƣờng sống của trẻ em đƣờng phố ....................................................................... 58 2 Môi trƣờng làm việc – Quá trình tiếp nhận thông tin ngoài xã hội ............................ 61 3 Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với trẻ em đƣờng phố ................................... 66

1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................... 5 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7 2.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 7 2.2 Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................... 7 3. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................................ 7 3.2. Khách thể nghiên cứu ................................................................................................ 7 3.3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................... 8 4. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết ........................................................................ 8 4.1. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................................ 8 4.2. Khung lý thuyết........................................................................................................ 10 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................................ 11 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................................ 13 6.1 Ý nghĩa lý luận .......................................................................................................... 13 6.2. Ý nghĩa thực tiễn ...................................................................................................... 13 7. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................................................ 14 7.1 Qu¸ trình tiếp cận đối tƣợng ..................................................................................... 14 7.2 Những khó khăn và giới hạn của nghiên cứu ........................................................... 15 CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........................................ 18 1. Lý thuyết tiếp cận............................................................................................................ 18 1.1 Lý thuyết xã hội hoá ................................................................................................. 18 1.2 Lý thuyết học hỏi x· héi ........................................................................................... 20 2. Tổng quan nghiên cứu .................................................................................................... 21 3. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu ....................................................................... 31 3.1 Trẻ em đƣờng phố ..................................................................................................... 31 3.2 Hành vi xâm hại tình dục trẻ em ............................................................................... 34 CHƢƠNG II. TRẺ EM ĐƢỜNG PHỐ VÀ VẤN ĐỀ XÂM HẠI ......................................... 36 TÌNH DỤC TRẺ EM. ............................................................................................................. 36 I. MÔ TẢ MẪU NGHIÊN CỨU ........................................................................................ 36 1 Lứa tuổi ........................................................................................................................ 36 2 Nơi ở hiện tại ............................................................................................................... 36 3 Trình độ học vấn .......................................................................................................... 38 4. Nguyên nhân của hiện tƣợng trẻ em đƣờng phố ......................................................... 40 II. Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố trong mẫu nghiên cứu tại thành phố Huế và Hà Nội. ........................................................................................................................... 42 1.Những hình thức XHTD trẻ em đƣờng phố phổ biến .................................................. 42 2. Xu hƣớng khác biệt về giới trong nguy cơ bị xâm hại tình dục ................................. 44

2

4. Hiệu quả của các chƣơng trình hành động phòng chống xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố ....................................................................................................................... 69 V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .................................................................................... 76 1. Kết luận ........................................................................................................................... 76 2. Khuyến nghị .................................................................................................................... 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 80

3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ Lao Động Thƣơng Binh Xã Hội Câu lạc bộ Công tác xã hội Lây truyền qua đƣờng tình dục Quan hệ tình dục Trẻ em đƣờng phố Thành phố Hồ Chí Minh Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em Ủy ban Nhân dân Xâm hại tình dục trẻ em

Bộ LĐTBXH CLB CTXH LTQĐTD QHTD TE§P TP HCM UB DSGTE UBND XHTDTE

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lạm dụng tình dục trẻ em là một vấn đề gây hậu quả nghiêm trọng đối

với trẻ em trên toàn thế giới nói chung trong đó có Việt Nam. Lạm dụng tình

dục trẻ em diễn ra ở tất cả mọi vùng miền nhƣng phổ biến hơn tại các thành phố

lớn – những nơi đang ngày ngày phải đối mặt với những thay đổi sâu sắc về

kinh tế, văn hoá và xã hội.

Trẻ em đƣờng phố có mặt trên khắp thế giới đặc biệt là những nƣớc thuộc

thế giới thứ 3. Chúng là nạn nhân của sự rạn nứt các mối quan hệ gia đình và xã

hội, là những đứa trẻ dễ bị tổn thƣơng nhất, dễ bị bóc lột dƣới nhiều hình thức.

Có thể nói, trẻ em đƣờng phố là nhóm trẻ em có nguy cơ bị lạm dụng tình dục

cao nhất đặc biệt là nhóm trẻ em gái.

Trẻ em đƣờng phố chiếm một bộ phận không nhỏ trên tổng số trẻ em

Việt Nam Theo ƣớc tính của Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội, hiện nay

Việt Nam có khoảng 13.000 trẻ em sống lang thang đƣờng phố. Trẻ em đƣờng

phố không chỉ bao gồm nhóm trẻ mồ côi, không nhà cửa, không gia đình mà

còn bao gồm cả nhóm trẻ em di cƣ một mình và di cƣ cùng gia đình (chiếm

khoảng 90%). Nhóm trẻ di cƣ này đến từ các vùng nông thôn nghèo thuộc các

tỉnh nhƣ: Thanh Hoá, Hƣng Yên, Hà Tây…lên các thành phố lớn để tìm kiếm

việc làm với hy vọng dành dụm gửi tiền về đỡ đần cho cha mẹ, gia đình hoặc

với mong muốn rời bỏ gia đình tự mình kiếm sống để có cuộc sống tốt hơn.

Hầu hết trẻ em đƣờng phố đều có trình độ văn hoá thấp. Trẻ em đƣờng phố

kiếm sống bằng các công việc nhƣ bán báo, đánh giầy, nhặt rác, bán vé số, ăn

xin….Chúng phải sống và lao động trên đƣờng phố hoặc sống tạm bợ cùng với

gia đình trong các khu nhà ổ chuột với giá 2000 đồng cho một chỗ ngủ trong

một đêm. Trẻ em đƣờng phố phải đối mặt với những nguy hiểm mỗi ngày với

nhận thức non nớt, với những cuộc vật lộn, mƣu sinh trên đƣờng phố, với sự

5

bóc lột, ngƣợc đãi từ ngƣời lớn, thậm chí từ những đứa trẻ đƣờng phố khác, khi

phải tiếp xúc với đủ loại ngƣời và tiếp nhận đủ các loại văn hoá không chọn lọc.

Thậm chí mối nguy hiểm có thể đến ngay cả khi chúng đã trở về các khu trọ rẻ

tiền, các khu nhà ổ chuột,

Lạm dụng tình dục trẻ em vi phạm nghiêm trọng quyền trẻ em đƣợc quy

định trong Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em. Trẻ em đã từng bị xâm hại tình

dục gặp rất nhiều khó khăn trong việc hồi phục do những tổn thƣơng về tâm lý,

tình cảm và thể chất gây nên. Không ít trẻ em đƣờng phố bị xâm hại tình dục đã

rơi vào con đƣờng mại dâm.

Các nghiên cứu về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố đã đƣợc

tiến hành thƣờng là các nghiên cứu thực trạng. Trong khi đó, còn rất nhiều khía

cạnh của vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em lang thang đƣờng phố nhƣ : động cơ

hành vi của thủ phạm, nghiên cứu tác động của các cơ chế hỗ trợ và bảo vệ trẻ

em lang thang, về những vấn nạn mới nảy sinh nhƣ du lịch tình dục trẻ em.

Nghiên cứu “Nhận thức và hành vi của trẻ em đường phố trước những nguy

cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em” đặt ra các câu hỏi: nhóm trẻ em đƣờng

phố nhận thức nhƣ thế nào về các nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục? Sự

nhận thức ấy có mối liên hệ nhƣ thế nào tới thái độ và hành vi tìm kiếm sự giúp

đỡ của các em trƣớc những tình huống bị xâm hại? Nghiên cứu này mong muốn

cung cấp cái nhìn sâu hơn cho các nhà quản lý, các cơ quan chức năng chuyên

trách vấn đề trẻ em đƣờng phố tại hai địa bàn nghiên cứu từ đó có thể xây dựng

hoặc điều chỉnh các chƣơng trình, chính sách, hoạt động phòng chống xâm hại

tình dục trẻ em đƣờng phố. Bên cạnh đó, trên cơ sở phân tích các kết quả

nghiên cứu, chúng tôi cũng hƣớng tới việc đề xuất một số giải pháp, khuyến

nghị tập trung vào lĩnh vực phòng chống xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố với

hy vọng những đề xuất, kiến nghị này sẽ là những gợi ý tốt cho các nhà hoạch

định chính sách.

6

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đƣợc tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu những yếu tố tác động đến

nhận thức và hành vi cuả trẻ em đƣờng phố đối với những nguy cơ và hành vi

xâm hại tình dục trẻ em. Trên cơ sở kết quả thu đƣợc, chúng tôi mong muốn sẽ

đề xuất đƣợc một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng xâm hại tình dục trẻ em

đƣờng phố.

2.2 Mục tiêu nghiên cứu

- Tìm hiểu các hình thức xâm hại tình dục mà trẻ em đƣờng phố đang phải đối

mặt.

- So sánh nguy cơ và hình thức xâm hại tình dục giữa trẻ em trai và trẻ em gái

lang thang đƣờng phố.

- Tìm hiểu nhận thức của trẻ em đƣờng phố đối với những hành vi xâm hại

tình dục trẻ em.

- Tìm hiểu hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố sau khi bị xâm

hại tình dục và nguyên nhân của hành vi này.

- Tìm hiểu những nguyên nhân tác động đến nhận thức và hành vi của trẻ em

đƣờng phố đối với những nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em.

- Đƣa ra một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em

đƣờng phố dựa trên việc phân tích các kết quả nghiên cứu thu thập đƣợc.

3. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Nhận thức và hành vi của trẻ em đƣờng phố trƣớc những nguy cơ và

hành vi lạm dụng tình dục trẻ em.

3.2. Khách thể nghiên cứu

7

- Trẻ em đƣờng phố dƣới 18 tuổi tại hai thành phố: Huế và Hà Nội.

- Các cán bộ thuộc các ngành chức năng có liên quan: chính quyền địa

phƣơng, công an, toà án, y tế, UB DSGĐTE cấp Quận/thành phố và cấp

phƣờng

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại thành phố Huế và Hà Nội. Đây là hai

trong những thành phố tập trung nhiều trẻ em lang thang đƣờng phố. Bên cạnh

đó là những đặc trƣng về văn hoá, kinh tế và sự biến đổi xã hội diễn ra sâu sắc

tại đây.

+ Thành phố Huế: Huế là một trong những thành phố du lịch của Việt Nam.

Huế đƣợc biết đến bởi các giá trị văn hoá, lịch sử lâu đời. Tuy nhiên, trong sự

phát triển chung của đất nƣớc, dƣới những tác động của nền kinh tế thị trƣờng

và sự phát triển về du lịch và dịch vụ, Huế cũng mang trong mình những biến

đổi về lối sống và các giá trị truyền thống.

+ Thành phố Hà Nội: là trung tâm của cả nƣớc, nơi tốc độ biến đổi xã hội diễn

ra nhanh và mạnh mẽ từ sau thời kỳ đổi mới đến nay.

Tại thành phố Huế, chúng tôi lựa chọn phƣờng Phú Hậu và tại thành phố Hà

Nội chúng tôi lựa chọn phƣờng Phúc Xá, Quận Ba Đình để thực hiện các phỏng

vấn sâu và thảo luận nhóm đối với lãnh đạo chính quyền địa phƣơng và các ban

ngành chức năng. Phƣờng Phúc Xá và phƣờng Phú Hậu là 2 phƣờng tập trung

nhiều trẻ em lang thang kiếm sống trên đƣờng phố.

Các địa bàn nghiên cứu đều đƣợc lựa chọn dựa trên sự thảo luận với các cán bộ

UBDSGĐTE của 2 thành phố sau khi cân nhắc các đặc điểm kinh tế xã hội của

địa bàn và những đặc điểm của nhóm trẻ em đƣờng phố tại địa bàn nghiên cứu

phù hợp với những tiêu chí lựa chọn mẫu ban đầu.

4. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết

4.1. Giả thuyết nghiên cứu

8

- Trẻ em đƣờng phố không nhận thức đầy đủ về hành vi và những nguy cơ

xâm hại tình dục trẻ em

- Hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố trƣớc những nguy cơ và

hành vi bị xâm hại tình dục phụ thuộc vào nhận thức của trẻ về những hành

vi xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố.

- Trẻ em đƣờng phố có xu hƣớng không tìm kiếm sự giúp đỡ, hỗ trợ sau khi bị

xâm hại tình dục.

9

4.2. Khung lý thuyết

§iÒu kiÖn kinh tÕ - v¨n ho¸ - x· héi

- Nh÷ng tr¶i nghiÖm vÒ hµnh vi XHTD

- Tr×nh ®é häc vÊn - Løa tuæi - Giíi tÝnh

- §iÒu kiÖn sèng - Sù gi¸o dôc cña cha mÑ - M«i tr êng lµm viÖc - C¸c chƣơng tr×nh truyÒn th«ng PCXHTDTEDP

NhËn thøc cña TE§P vÒ nguy c¬ vµ hµnh vi XHTDTE

Hµnh vi t×m kiÕm sù gióp ®ì cña TE§P ®èi víi c¸c t×nh huèng XHTDTE

NhËn thøc cña trÎ em ® êng phè tr íc nh÷ng nguy c¬ vµ hµnh vi x©m h¹i

t×nh dôc ® îc xem xÐt trong bèi c¶nh kinh tÕ, v¨n ho¸, x· héi x¸c ®Þnh vµ chÞu

sù ¶nh h ëng bëi bèi c¶nh ®ã.

Nh÷ng yÕu tè t¸c ®éng ¶nh h ëng ®Õn nhËn thøc cña trÎ em ® êng phè

tr íc nh÷ng nguy c¬ vµ hµnh vi x©m h¹i t×nh dôc trÎ em ® îc xem xÐt gåm:

®iÒu kiÖn sèng, c¸c quan hÖ giao tiÕp ngoµi x· héi, sù gi¸o dôc cña gia ®×nh,

hiÖu qu¶ ho¹t ®éng cña c¸c ch ¬ng tr×nh, chÝnh s¸ch phßng chèng XHTD dµnh

cho trÎ em ® êng phè, nh÷ng tr¶i nghiÖm vÒ hµnh vi XHTD.

NhËn thøc ® îc xem xÐt lµ yÕu tè ¶nh h ëng trùc tiÕp ®Õn hµnh vi t×m

kiÕm sù gióp ®ì cña trÎ em ® êng phè tr íc nh÷ng nguy c¬ bÞ XHTD.

10

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp phân tích tài liệu thứ cấp

Nghiªn cøu sö dông th«ng tin, số liệu tõ c¸c b¸o c¸o tình hình kinh tÕ - x·

héi, báo cáo về tình hình trẻ em lang thang của cña các địa bàn khảo sát, các

nghiên cứu cã liªn quan của các tác giả đã đƣợc thực hiện, mét sè bµi viÕt trªn

c¸c b¸o viÕt, website trong vµ ngoµi n íc, c¸c v¨n b¶n ph¸p luật cã liªn quan

nh : C«ng íc quèc tÕ vÒ quyÒn trÎ em, LuËt b¶o vÖ, ch¨m sãc vµ gi¸o dôc trÎ

em, ch­¬ng tr×nh hµnh ®éng v× trÎ em….

Nghiªn cøu sö dông mét sè sè liÖu ®Þnh l îng vµ ®Þnh tÝnh cña cuéc

nghiªn cøu vÒ “Thùc tr¹ng x©m h¹i t×nh dôc trÎ em t¹i thµnh phè HuÕ vµ Hµ

Néi” ®­îc thùc hiÖn n¨m 2006 bëi ViÖn Søc khoÎ Sinh s¶n vµ Gia ®×nh.1

C¸c th«ng tin ®Þnh tÝnh vµ ®Þnh l îng ® îc thu thËp trong cuéc nghiªn cøu nµy

b»ng mét sè ph ¬ng ph¸p sau:

Phƣơng pháp thu thập thông tin định lƣợng

Phƣơng pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi đối với 200 trẻ em đƣờng

phố lµ nh÷ng trÎ em kiÕm sèng trªn ® êng phè, d íi 18 tuæi vµ ®ang sèng cïng

gia ®×nh tại 2 thành phố (100 em/1 thành phố) nhằm mục đích tìm hiểu nhận

thức và thái độ của trẻ đối với những hành vi và nguy cơ xâm hại tình dục trẻ

em.

B¶ng hái còng ® îc sö dông víi môc ®Ých chọn läc ra một số em đã từng trải

qua một trong các cấp độ của hành vi xâm hại tình dục để thực hiện các cuộc

phỏng vấn sâu.

1 Các số liệu định tính và định lƣợng của cuộc nghiên cứu “Thùc tr¹ng x©m h¹i t×nh dôc trÎ em t¹i thµnh phè HuÕ vµ Hµ Néi” (2006) sử dụng trong luận văn này đã đƣợc sự đồng ý của Viện Sức khoẻ sinh sản và gia đình.

Phƣơng pháp phỏng vấn bán cấu trúc và thảo luận nhóm tập trung

11

T¹i mçi thµnh phè, c¸c cuéc thảo luận nhóm tập trung ® îc thùc hiÖn víi

nhãm trÎ em ® êng phè nam, trÎ em ® êng phè n÷ vµ l·nh ®¹o cÊp QuËn,

ph êng n¬i tËp trung nhiÒu trÎ em ® êng phè sinh sèng hoÆc lµm viÖc.

- Nhóm trẻ em đƣờng phố nam : 2 nhóm

- Nhóm trẻ em đƣờng phố nữ: 2 nhóm

Mỗi nhóm gồm 6 em. Tại mỗi thành phố thực hiện một cuộc thảo luận với

nhóm trẻ em đƣờng phố nam và một cuộc thảo luận với nhóm trẻ em đƣờng phố

nữ.

- Nhóm lãnh đạo địa phƣơng nơi tập trung nhiều trẻ em đƣờng phố gåm: ®ại

diện UBND, y tế, công an, cán bộ công tác xã hội (CTXH), cán bộ

UBDSGĐTE

20 cuộc phỏng vấn sâu đã đƣợc thực hiện tại hai thành phố (10 phỏng

vấn sâu/1 thành phố) với trẻ em đƣờng phố: gồm những trẻ em đã từng bị xâm

hại tình dục.

Những trẻ em này đƣợc lựa chọn từ sự giới thiệu của cán bộ ®éi c«ng t¸c x·

héi, cán bộ UBDSGĐTE, c¸n bé m¸i Êm 19-5 và từ các bảng phỏng vấn.

Phỏng vấn sâu cũng đƣợc thực hiện với 10 đại diện UBND, y tế, công an,

cán bộ UBDSGĐTE, cán bộ CTXH tại phƣờng Phú Hậu – thành phố Huế và

phƣờng Phúc Xá - Quận Ba Đình, Hà Nội.

Phƣơng pháp quan sát

Phƣơng pháp quan sát đƣợc sử dụng trong quá trình thực hiện các phỏng

vấn sâu và thảo luận nhóm cũng nhƣ điều tra thu thập thông tin định lƣợng tại

địa bàn nghiên cứu tỏ ra rất hữu ích.

§Æc biÖt mét sè quan sát kh«ng tham dù ®èi víi hành vi giao tiếp của các

em đối với khách hàng và phản ứng của trẻ em đƣòng phố trƣớc những tình

huống, hành vi quấy rối tình dục của khách hàng ®· ® îc tiÕn hµnh t¹i ®Þa bµn

lµm viÖc cña c¸c em. Các quan sát này không sử dụng bảng kiểm. Để tiến hành

c¸c quan sát này, nhãm nghiªn cøu đã trực tiếp đến các địa bàn tập trung nhiều

12

trẻ em đƣờng phố làm việc. Tại đây, qua quan sát, chúng tôi nhận thấy có sự

khác biệt liên quan đến yếu tố giới giữa nhóm trẻ em nam và trẻ em nữ trong

hành vi và thái độ giao tiếp của các em với khách hàng. Kết hợp quan sát và

phỏng vấn trực tiếp trẻ em đƣờng phố, chúng tôi cßn phÇn nµo tìm hiểu và phân

tích đƣợc những ý nghĩa sâu xa của những hành vi giao tiếp và sự chấp nhận

của các em trƣớc những tình huống, hành vi quấy rối tình dục của khách hàng.

Bªn c¹nh ®ã, chóng t«i còng tiÕn hµnh quan s¸t tham dù trong mét sè c¸c

buæi sinh ho¹t nhãm, sinh ho¹t ngo¹i kho¸ cña nhãm trÎ em ® êng phè t¹i m¸I

Êm 19-5 vµ líp häc t×nh th ¬ng An Cùu ®Ó t×m hiÓu vÒ møc ®é cung cÊp th«ng

tin, kiÕn thøc x· héi nãi chung vµ vÒ vÊn ®Ò XHTD TE§P nãi riªng. C¸c quan

s¸t tham dù t¹i c¸c buæi sinh ho¹t ngo¹i kho¸ nµy còng gãp phÇn gióp chóng t«i

nh×n nhËn ® îc thùc tr¹ng còng nh hiÖu qu¶ ho¹t ®éng cña mét trong c¸c chÝnh

s¸ch/ch ¬ng tr×nh phßng chèng XHTD TE§P ®· vµ ®ang ® îc thùc hiÖn – mét

trong c¸c yÕu tè ® îc xem xÐt lµ cã ¶nh h ëng t¸c ®éng ®Õn yÕu tè nhËn thøc

cña TE§P vÒ vÊn ®Ò XHTDTE.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1 Ý nghĩa lý luận

Nghiên cứu nµy góp phần làm sáng tỏ cách tiếp cận quyền trong các

nghiên cứu đặc biệt là các nghiên cứu về trẻ em, đây là một quan điểm tiếp cận

mới ở Việt Nam. Quan điểm tiếp cận dựa trên quyền đƣợc sử dụng trong nghiên

cứu coi nhóm trẻ em đƣờng phố cũng là một nhóm xã hội có đầy đủ quyền con

ngƣời, quyền trẻ em và bình đẳng với các nhóm xã hội khác.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Mục đích quan trọng của nghiên cứu đƣợc đặt ra là đề xuất các giải pháp

phòng chống xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố trên cơ sở phân tích các kết

quả nghiên cứu thực tế, góp phần bảo vệ quyền của các em.

13

7. Thiết kế nghiên cứu

7.1 Qu¸ trình tiếp cận đối tƣợng

Nghiên cứu đƣợc chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, một số cuộc phỏng

vấn thử đã đƣợc thực hiện tại phƣờng Phúc Xá, Quận Ba Đình, Hà Nội (5 bảng

hỏi, 1 thảo luận nhóm đối với nhóm lãnh đạo và 1 thảo luận nhóm với nhóm trẻ

em đƣờng phố). Các cuộc phỏng vấn đƣợc thực hiện ở giai đoạn 1 nhằm mục

đích kiểm tra thử nội dung của các câu hỏi trong bảng phỏng vấn và các bản

hƣớng dẫn phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cũng nhƣ phƣơng pháp/cách thức

thực hiện phỏng vấn trên cơ sở đó có sự điều chỉnh về nội dung câu hỏi, từ ngữ

sử dụng trong bảng hỏi và rút kinh nghiệm cho công việc điều tra thực địa chính

thức.

Trong giai đoạn 2, tại thành phố Hà Nội, các cuộc phỏng vấn đã đƣợc

thực hiện với trẻ em đƣờng phố đang học tập tại mái ấm 19-5 của Quận Ba

Đình thuộc phƣờng Phúc Xá từ ngày 5 đến ngày 20 tháng 11 năm 2006. Đây là

thời gian diễn ra Hội nghị cấp cao APEC. Trẻ em đƣờng phố thuộc địa bàn

phƣờng Phúc Xá và Quận Ba Đình đều đƣợc thu gom về mái ấm. Trong thời

gian này, các em không đƣợc làm việc trên đƣờng phố nên các cuộc phỏng vấn

diễn ra tập trung tại 1 địa điểm và khá thuận lợi về mặt thời gian. Tại thành phố

Huế, chúng tôi đã lùa chän địa bàn thu thập thông tin ở một số tuyến đƣờng,

phố tập trung nhiều trẻ em đƣờng phố nhƣ: Lê Lợi, Hàn Thuyên, Lê Thánh Tôn,

Mai Thúc Loan...Các cuộc phỏng vấn bảng hỏi, phỏng vấn bán cấu trúc diễn ra

trên đƣờng phố, tại các quán cà phê, từ 7h sáng đến 10h tối là thời gian các em

làm việc. Các cuộc thảo luận nhóm với trẻ em đƣờng phố đƣợc thực hiện tại lớp

học tình thƣơng phƣờng An Cựu. Trẻ em đƣờng phố thƣờng làm việc trên một

phạm vi nhất định. Nhƣng để tránh trùng lặp đối tƣợng vì các em có thể di

chuyển giữa các địa bàn thu thập thông tin, chóng t«i gặp nhau 3 lần cố định

trong 1 ngày để thống kê số lƣợng và thông báo danh sách những đối tƣợng đã

đƣợc hỏi.

14

Từ các cuộc phỏng vấn đã thực hiện ở giai đoạn 1, chúng tôi đã rút ra

một số kinh nghiệm trong việc tiếp cận thu thập thông tin đối với nhóm trẻ em ở

giai đoạn 2.

 Tạo dựng sự thân thiện bằng cách làm quen và bắt đầu câu chuyện với sự

cởi mở và tinh thần chia sẻ với các em trƣớc khi đặt ra những câu hỏi.

 Sử dụng và diễn đạt các câu hỏi bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, đặc

biệt là chuyển thành các từ ngữ mà các em thƣờng sử dụng.

 Không sử dụng cũng nhƣ quá phụ thuộc vào bảng phỏng vấn hay bảng

hƣớng dẫn phỏng vấn trong quá trình thu thập thông tin. Đối với nhiều trẻ

em rụt rè, e ngại không đồng ý phỏng vấn nghiên cứu viên đã thực hiện

phỏng vấn nhƣ một cuộc nói chuyện thông thƣờng với tƣ cách là khách

hàng của các em cho đến khi các thông tin đã đƣợc thu thập đầy đủ. Trí

nhớ của nghiên cứu viên đƣợc sử dụng một cách tối đa để hồi tƣởng và

ghi lại vào phiếu hỏi sau mỗi cuộc phỏng vấn.

7.2 Những khó khăn và giới hạn của nghiên cứu

Những cuộc phỏng vấn trẻ diễn ra vào ban ngày thƣờng chỉ thực hiện

trong thời gian ngắn vì đây là thời gian trẻ đang làm việc và trẻ em đƣờng phố

không quen ngồi yên một chỗ lâu. Thậm chí có những cuộc phỏng vấn chƣa

thực hiện xong đã phải huỷ bỏ khi các em không muốn tiếp tục trả lời.

Những thuật ngữ nhƣ “quan hệ tình dục”, “xâm hại tình dục” tỏ ra khó

hiểu đối với các em hơn là những từ “lóng” ám chỉ hành động này mà trẻ

thƣờng sử dụng.

Giống nhƣ nhiều cuộc nghiên cứu khác, nghiên cứu này cũng mang những

hạn chế nhất định. Theo nhận định của chúng tôi, số liệu khảo sát chƣa phản

ánh hết thực trạng “xâm hại tình dục” trẻ em đƣờng phố. Có rất nhiều nguyên

nhân dẫn đến vấn đề này. Thứ nhất, về phía khách thể nghiên cứu, hàng ngày,

trẻ em đƣờng phố giao tiếp với rất nhiều ngƣời, nhƣng sự tiếp xúc này khác với

15

một cuộc phỏng vấn về vấn đề mang tính nhạy cảm nhƣ “xâm hại tình dục trẻ

em”. Trẻ em đƣờng phố tỏ ra e ngại hoặc cố tình giấu diếm hoàn cảnh thực tế

của bản thân khi đƣợc mời tham gia trả lời. Hơn nữa, trong quan niệm của

ngƣời Việt Nam thì đây là một vấn đề đƣợc coi là nhạy cảm nên cha mẹ các em

hoặc bản thân các em thƣờng có xu hƣớng giữ kín sự việc hoặc giải quyết sự

việc trong yên lặng bằng cách thoả thuận với thủ phạm. Đối với nhóm trẻ em,

khi gặp phải những hành vi ở mức độ quấy rối tình dục thì các em do không

nhận thức đƣợc đó là hành vi XHTD hoặc sợ bị đổ lỗi về mình hay do xấu

hổ…mà các em cũng thƣờng có xu hƣớng giữ kín những câu chuyện này.

Xuất phát từ những đặc trƣng văn hóa, xã hội, thành phố Huế là một

thành phố mà sự tồn tại và chi phối của các giá trị đạo đức truyền thống còn rất

mạnh mẽ trong quan niệm và hành vi của các cá nhân. Vấn đề xâm hại tình dục

trẻ em vẫn là một vấn đề nhạy cảm và chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi trong cộng

đồng. Bên cạnh đó, nhóm trẻ em đƣờng phố trong không có những cơ hội đƣợc

cung cấp những kiến thức về phòng chống XHTDTE nhƣ nhóm trẻ em đƣờng

phố tại Hà Nội khi tham gia vào các dự án và học tập tại Mái ấm 19-5. Chính vì

vậy, mức độ cởi mở của nhóm trẻ em đƣờng phố tại thành phố Huế trong việc

cung cấp thông tin về những trải nghiệm bị xâm hại tình dục không cao bằng

nhóm trẻ em đƣờng phố tại Hà Nội

Thứ 2, về phía chủ quan, cụ thể là do việc sử dụng phƣơng pháp phỏng

vấn bằng bảng hỏi cũng nhƣ địa điểm diễn ra các cuộc phỏng vấn là trên các

đƣờng phố nên không tránh khỏi những yếu tố gây nhiễu nhƣ: sự tò mò của

những ngƣời xung quanh, bạn bè đi cùng các em, tiếng ồn…nên có thể các em

không cung cấp những thông tin thật về vấn đề này.

Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tiếp cận với nhóm trẻ em đƣờng

phố sống cùng với cha mẹ, ngƣời thân, sống trong các mái ấm tình thƣơng hoặc

có sự bảo hộ mà chƣa tiếp cận với nhóm trẻ em đƣờng phố là những em lang

thang không nhà cửa, làm các công việc kiếm sống trên đƣờng phố để tồn tại.

16

Để tiếp cận với nhóm này, cần phải thiết kế phƣơng pháp cũng nhƣ bộ công cụ

phù hợp.

Mục đích nghiên cứu đặt ra ban đầu là nghiên cứu nhận thức của trẻ em

đƣờng phố nói chung. Trong quá trình nghiên cứu, việc chọn mẫu ban đầu cũng

nhƣ phân tích thông tin, số liệu cũng đi vào so sánh nhận thức cũng nhƣ hành vi

giữa nhóm trẻ em gái và nhóm trẻ em trai đƣờng phố. Tuy nhiên, những phân

tích về sự khác biệt giới trong báo cáo vẫn chƣa đƣợc rõ ràng và nổi bật nhƣ

mong muốn của tác giả.

Nghiên cứu này chú trọng vào tìm hiểu việc trẻ em đƣờng phố bị xâm hại

tình dục khi lang thang kiếm sống trên đƣờng phố. Tuy nhiên, trong quá trình

nghiên cứu, qua quan sát điều kiện ăn ở, sinh hoạt của một số mô hình mái ấm,

nhà mở và qua một số cuộc phỏng vấn đối với trẻ em đƣờng phố đã từng hoặc

đang sống tại đây, chúng tôi nhận thấy trẻ em đƣờng phố không chỉ có nguy cơ

bị xâm hại tình dục khi kiếm sống trên đƣờng phố mà còn có thể bị xâm hại tình

dục trong những mái ấm tình thƣơng, nhà mở bởi những đứa trẻ khác do thiếu

hiểu biết về giới tính, tâm lý tò mò, bắt chƣớc, do không đƣợc giáo dục, định

hƣớng hành vi đúng đắn và do môi trƣờng sống, sinh hoạt và tiếp xúc tập thể

giữa trẻ em trai và trẻ em gái.

Có thể nói, nghiên cứu về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố là

một công việc không dễ dàng bởi có rất nhiều khía cạnh của vấn đề đang tồn tại

và nảy sinh theo xu hƣớng phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Hiểu rõ bản chất

và tầm mức của vấn đề là điều kiện tiên quyết để có đƣợc những hành động can

thiệp hiệu quả. Cho đến nay, những số liệu thống kê về trẻ em đƣờng phố bị

xâm hại tình dục còn thiếu sự chính xác. Nhiều thông tin về các nghiên cứu, các

dự án can thiệp dành cho trẻ em đƣờng phố chƣa đƣợc phổ biến, chia sẻ giữa

các tổ chức xã hội với nhau. Và còn rất nhiều hƣớng nghiên cứu mở ra đối với

các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách về vấn đề xâm hại tình dục

trẻ em đƣờng phố.

17

CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1. Lý thuyết tiếp cận

1.1 Lý thuyết xã hội hoá

Fichter – nhà xã hội học ngƣời Mỹ cho rằng: “Xã hội hoá là một quá

trình tƣơng tác giữa ngƣời này và ngƣời khác, kết quả là một sự chấp nhận

những khuôn mẫu hành động và thích nghi với những khuôn mẫu hành động

đó”. Quá trình xã hội hoá diễn ra trong các môi trƣờng xã hội hoá, đó là nơi có

thể thực hiện thuận lợi các tƣơng tác xã hội của các cá nhân nhằm mục đích thu

nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội. Môi trƣờng xã hội hoá chính là vƣờn ƣơm

của nhân cách đồng thời là ngả đƣờng mở rộng để các kinh nghiệm xã hội có

thể đến với các cá nhân. Ba môi trƣờng xã hội hoá cá nhân chính là: gia đình, nhà trƣờng và xã hội2.

Thông thƣờng thì môi trƣờng gia đình và nhà trƣờng là hai môi trƣờng có

ảnh hƣởng lớn nhất trong việc hình thành nhân cách của trẻ. Tuy nhiên, với trẻ

em đƣờng phố thì môi trƣờng bên ngoài gia đình lại có tác động nhiều nhất bởi

phần lớn thời gian trong ngày của các em là trên đƣờng phố tiếp xúc với các

thành phần xã hội khác nhau. Bên cạnh đó, vì nhóm trẻ em đƣờng phố trong

mẫu nghiên cứu là nhóm trẻ vẫn đang sống cùng gia đình và tham gia học tập

tại một số mô hình giáo dục nhƣ: lớp học tình thƣơng, trƣờng học chính quy,

mái ấm tình thƣơng…nên môi trƣờng gia đình và nhà trƣờng cũng có ảnh

hƣởng nhất định đối với quá trình hình thành nhân cách và lối ứng xử của các

em.

Lý thuyết xã hội hoá cá nhân cho phép chúng ta giải thích sự ảnh hƣởng

của những đặc điểm đƣợc coi là các tác nhân quan trọng trong môi trƣờng xã

hội hoá của trẻ em đƣờng phố nhƣ hoàn cảnh gia đình, sự đa dạng của các thành

phần xã hội trong các quan hệ giao tiếp trên đƣờng phố, sự phức tạp của các 2 Ph¹m TÊt Dong, Lª Ngäc Hïng (§ång chñ biªn), X· héi häc, NXB §HQG Hµ Néi, 2001

18

vấn đề xã hội diễn ra hàng ngày, cách tiếp nhận thông tin của trẻ em đƣờng phố,

những trải nghiệm đối với hành vi xâm hại tình dục…đến quá trình nhận thức,

ứng xử và hành vi của trẻ em đƣờng phố nói chung và đặc biệt là đối với những

hành vi xâm hại tình dục trẻ em.

Một phần quan trọng trong hệ thống các lý thuyết xã hội hoá cá nhân có

thể vận dụng để lý giải cho sự khác biệt trong nguy cơ bị xâm hại tình dục,

trong hành vi ứng xử và nhận thức về nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ

em giữa trẻ em đƣờng phố nam và trẻ em đƣờng phố nữ đó là lý thuyết xã hội

hoá giới. Luận điểm quan trọng nhất trong lý thuyết xã hội hoá giới là: Trẻ em

trai và trẻ em gái ngay từ khi sinh ra đã đƣợc đối xử khác nhau và đƣợc đặt

trong những môi trƣờng giáo dục khác nhau đƣợc trao cho những cơ hội phát

triển khác nhau nên những nhu cầu, mong muốn cũng nhƣ các kỹ năng và tính

cách của trẻ em trai và trẻ em gái cũng khác nhau từ đó hình thành nên những

kiểu ngƣời khác nhau – nam giới, phụ nữ. Những điều này đã tạo nên những

hành vi, cách nhìn nhận khác nhau ở phụ nữ và nam giới và từ đó tạo thành những khuôn mẫu giới3 trong nhận thức và hành vi ứng xử.

Luận điểm trên giúp ta giải thích xu hƣớng khác biệt về giới trong nguy cơ bị

xâm hại tình dục giữa trẻ em đƣờng phố nam và trẻ em đƣờng phố nữ, cụ thể là

trẻ em đƣờng phố nữ phải đối mặt với nhiều hình thức xâm hại tình dục hơn

nhóm trẻ em đƣờng phố nam, bắt nguồn từ sự đối xử khác nhau giữa nam giới

và nữ giới trong đó nữ giới luôn bị đối xử bất bình đẳng. Hơn nữa, lý thuyết xã

hội hoá giới còn giúp chúng ta lý giải đƣợc tại sao giữa những trẻ em đƣờng

phố nam và trẻ em đƣờng phố nữ, phản ứng chấp nhận, im lặng, xấu hổ…lại thể

hiện đậm nét hơn. Điều đó có phải do số lần trải nghiệm nhiều hơn đối với các

loại hành vi xâm hại tình dục của đã làm chúng trở nên quen thuộc và dần dần

3 Early childhood gender socialization (R&C, ch ¬ng 4, Coltrane, ch ¬ng 5), http://www.studyworld.com/newsite/ReportEssay/Science/Social%5CGender_Socialization-32139.htm Truy cËp lÇn cuèi: 23 giê, 15/11/2007.

chấp nhận và coi đó là những khuôn mẫu ứng xử/cách ứng xử.

19

1.2 Lý thuyết học hỏi x· héi

Lý thuyết học hỏi xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc lý giải hành

vi của trẻ em đƣờng phố trƣớc những hành vi và nguy cơ xâm hại tình dục trẻ

em. Tuy nhiên, trƣớc khi tìm hiểu lý thuyết học hỏi xã hội, chúng ta sẽ đi vào

một số quan điểm về nhóm đồng đẳng và vai trò của nó đối với sự hình thành

và phát triển nhân cách của cá nhân và ở một phạm vi hẹp hơn, đối với sự hình

thành nhận thức và hành vi của cá nhân sẽ làm sáng tỏ hơn cho việc vận dụng lý

thuyết học hỏi xã hội sau này.

Nhóm đồng đẳng là một nhóm ngƣời có cùng chung một đặc điểm nào đó

nhƣ lứa tuổi, địa vị xã hội, sở thích hoặc nghề nghiệp...Nhóm đồng đẳng đóng

vai trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách của một cá nhân. Với một số

nhóm xã hội, nhóm đồng đẳng đóng vai trò quan trọng hơn cả so với vai trò của

gia đình hay nhà trƣờng hay các thể chế xã hội trong quá trình xã hội hoá cá

nhân. Nhóm đồng đẳng có vai trò quan trọng trong việc tạo áp lực nhóm đối với

mỗi hành vi của các thành viên. Việc một cá nhân hành động ngƣợc lại với nhóm đồng đẳng có thể khiến cá nhân ấy cảm thấy tách rời nhóm4. Với những

đặc thù về môi trƣờng gia đình, xã hội, môi trƣờng xã hội hoá đƣợc coi là có ý

nghĩa quan trọng nhất đối với trẻ em đƣờng phố là môi trƣờng xã hội, bởi phần

lớn thời gian trong ngày của các em dành cho đƣờng phố, nơi diễn ra rất nhiều

các tƣơng tác xã hội với chủ yếu với 2 nhóm: khách hàng và những đứa trẻ

đƣờng phố khác. Theo quan điểm trên thì nhóm đồng đẳng của trẻ em đƣờng

phố chính là nhóm bao gồm những đứa trẻ đƣờng phố có mối quan hệ với nhau

dựa trên một đặc điểm chung hay giống nhau nào đó bất kỳ. Và sự hình thành

cũng nhƣ phát triển nhận thức, hành vi của trẻ em đƣờng phố phụ thuộc, chịu

ảnh hƣởng rất nhiều từ những trẻ em đƣờng phố khác trong nhóm của chúng.

Lý thuyết học hỏi xã hội đƣợc áp dụng trong nhiều nghiên cứu về hành vi

đặc biệt là trong nghiên các cứu hành vi lệch chuẩn. Trong lĩnh vực tội phạm 4 Peer group, http://en.wikipedia.org/wiki/Peer_group Truy cËp lÇn cuèi: 23 giê, 15/11/2007

20

học, Ronald Aker và Robert Burgess đã vận dụng lý thuyết học hỏi xã hội để

giải thích sự lệch chuẩn bằng cách kết nối những yếu tố ủng hộ sự lệch chuẩn

(ví dụ nhƣ áp lực xã hội từ phía những ngƣời cùng lệch chuẩn (delinquent

peers) với những yếu tố không ủng hộ sự lệch chuẩn (ví dụ nhƣ trách nhiệm của

cha mẹ trong việc phát hiện sự lệch chuẩn của con cái). Một đại diện của lý

thuyết học hỏi xã hội, Gabriel Tarde cho rằng, sự học hỏi xã hội thể hiện qua 4

giai đoạn: (1) bắt đầu từ việc tiếp xúc với các mô hình hành vi, (2) bắt chƣớc

những ngƣời lớn hơn, (3) nắm bắt khái niệm/quan điểm của nhóm về mô hình hành vi đó, và cuối cùng là (4) thực hành theo mô hình hành vi đó5. Theo cách

lý giải này, nhận thức và hành vi của trẻ em đƣờng phố trƣớc những hành vi

xâm hại tình dục trẻ em cụ thể là việc trẻ em chấp nhận một số hành vi xâm hại

tình dục trẻ em hoặc coi đó là những hành vi bình thƣờng cũng hình thành, phát

triển theo 4 giai đoạn. Trƣớc hết, thông qua quan sát hành vi của một đứa trẻ

khác trong nhóm đã từng hoặc thậm chí là chƣa từng có trải nghiệm về xâm hại

tình dục trẻ em, một đứa trẻ có thể sẽ bắt chƣớc một cách chƣa có ý thức những

hành vi đó. Sau đó, những quan điểm khác nhau về một hành vi hay một cách

ứng xử đối với những hành vi xâm hại tình dục trẻ em sẽ hình thành, cụ thể là

có những trẻ em coi “đó là những chuyện bình thƣờng, chẳng có gì”, ngƣợc lại,

một số em khác nhận thức đƣợc rằng đó là những hành vi xâm hại và vi phạm

quyền của trẻ em. Các quan điểm ở dạng tích cực hay tiêu cực cuối cùng sẽ dẫn

đến việc định hƣớng hành vi ứng xử của trẻ em đƣờng phố, trở thành những

khuôn mẫu hành vi.

2. Tổng quan nghiên cứu

Cho đến nay, có khá nhiều cuộc nghiên cứu, khảo sát về trẻ em đƣờng

phố đƣợc thực hiện với những quy mô và mức độ khác nhau, với sự tham gia

5 Social learning theory, http://en.wikipedia.org/wiki/Social_learning_theory Truy cËp lÇn cuèi: 23 giê, 15/11/2007

của nhiều cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và tổ chức phi chính phủ. Các

21

nghiên cứu đã đƣa ra những phát hiện về trẻ em đƣờng phố tập trung vào các

khía cạnh nhƣ phân loại/nhóm trẻ em đƣờng phố, hoàn cảnh sống và nguyên

nhân hiện tƣợng trẻ em đƣờng phố, nguyên nhân khiến trẻ em đƣờng phố tham

gia vào tệ nạn xã hội v.v.

Phân loại nhóm trẻ em đƣờng phố

Trong nghiên cứu “Trẻ bụi đời tại thành phố Hồ Chí Minh” (1992) tác

giả Timothy.W.Bond đã phân loại nhóm trẻ em đƣờng phố để mô tả trẻ em

đƣờng phố tại địa bàn này. Theo đó, nhóm trẻ đƣờng phố đƣợc phân làm 3

nhóm dựa trên tiêu chí về nơi ở nhƣ sau:

- Nhóm A: gồm những trẻ em đã rời bỏ gia đình hoặc không có gia đình,

nhà cửa và ngủ ngoài phố

- Nhóm B: là những trẻ em ngủ ngoài đƣờng phố cùng gia đình hoặc ngƣời

bảo hộ.

- Nhóm C: là những trẻ em có gia đình hoặc ngƣời bảo hộ và thƣờng ngủ

trong nhà.

Cũng đi vào phân nhóm trẻ em đƣờng phố nhƣng trong nghiên cứu: “Tìm

hiểu các gia đình có hoàn cảnh khó khăn: Nghiên cứu tình huống một số gia

đình trẻ đƣờng phố tại thành phố Hồ Chí Minh” (1995) các tác giả Nguyễn

Xuân Nghĩa, Đỗ Văn Bình, Tống Thanh Vân lại phân nhóm dựa trên tiêu chí:

mối liên hệ giữa trẻ em và gia đình của chúng:

- Loại A1: Là trẻ của đƣờng phố và hầu nhƣ không còn liên hệ với gia đình

- Loại A2: Là trẻ của đƣờng phố nhƣng ít nhiều liên hệ với gia đình

- Loại A3: Là trẻ trên đƣờng phố vẫn còn sống, sinh hoạt và ngủ thƣờng

xuyên ở gia đình.

Trên cơ sở mục đích của hành động làm việc của trẻ em, tác giả Trần

Vân Anh trong nghiên cứu về “Một số vấn đề về sự gia tăng trẻ em đƣờng phố

22

tại Hà Nội” đăng trên tạp chí Xã Hội Học (trang 27-36, số 2-1994) chia trẻ em

đƣờng phố thành 2 nhóm:

- Nhóm kiếm tiền: Là những trẻ em đi kiếm tiền phụ thêm kinh tế gia đình,

công việc của trẻ có tính chất thời vụ, trẻ có mối liên lạc thƣờng xuyên

với gia đình

- Nhóm kiếm sống: Là những trẻ phải tự mình đi kiếm sống cho chính sự

tồn tại của bản thân mình.

Nhiều nghiên cứu khác cũng đã phân loại trẻ em đƣờng phố theo những

cách tiếp cận riêng của mình nhƣ: trong “Báo cáo kết quả điều tra trẻ em lang

thang kiếm sống trên đƣờng phố năm 1995” Bộ LĐTBXH chia trẻ em đƣờng

phố thành 2 nhóm dựa trên tiêu chí nơi ở của trẻ. Hay các tác giả Nguyễn Văn

Buồm, Jonathan Caseley trong “Khảo sát thực trạng trẻ em đƣờng phố Hà Nội”

lại chia trẻ đƣờng phố thành 4 nhóm khi xem xét cả tiêu chí nơi ở và mối liên

hệ với gia đình.

Đây là những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu về trẻ em đƣờng

phố, giúp các nhà nghiên cứu sau này phân định rõ khái niệm trẻ em đƣờng phố

và tạo ra một hƣớng mở trong cách tiếp cận khái niệm trẻ em đƣờng phố.

Hoàn cảnh sống, nguyên nhân của hiện tƣợng trẻ em đƣờng phố

Cuộc điều tra trẻ em lang thang kiếm sống trên đƣờng phố do Bộ

LĐTBXH thực hiện vào tháng 9 năm 1995 ở 17 tỉnh thành trong cả nƣớc với

2345 em đƣợc phỏng vấn trong độ tuổi dƣới 16 đã chỉ ra rằng nguyên nhân thực

chất của việc trẻ em rời bỏ gia đình không phải bắt nguồn từ sự chối bỏ của gia

đình mà nguyên nhân lớn nhất bắt nguồn từ kinh tế gia đình khó khăn (66,5%

trẻ trở thành trẻ em đƣờng phố do gia đình nghèo, 8,6% do cha mẹ li dị, 4,6% là

do gia đình ghét bỏ, 6,4% do bạn bè rủ rê và 2,7% do học dốt). Sự rời bỏ gia

đình của các em chỉ là sự di cƣ tạm thời đến những nơi có điều kiện sống tốt

hơn và dễ kiếm tiền hơn. Nghiên cứu cũng cho rằng, nhóm trẻ em đƣờng phố

23

rất dễ thích nghi với cuộc sống mới và không muốn quay trở về quê nhà nữa.

Một phát hiện của nghiên cứu cũng rất đáng lƣu tâm đó là trẻ em đƣờng phố là

nhóm có nguy cơ phạm pháp cao, chúng dễ có những hành vi phạm pháp, kết

thành băng nhóm trộm cƣớp, nghiên hút, mại dâm v.v…

Một nghiên cứu khác về trẻ em đƣờng phố “Khảo sát trẻ lang thang

đƣờng phố ở TP HCM” do UNICEF tài trợ (1994) cũng đề cập đến lý do xa

nhà, xa gia đình sống lang thang của trẻ đƣờng phố. Kết quả nghiên cứu cho

thấy không chỉ do gia đình nghèo, muốn kiếm tiền phụ giúp gia đình mới khiến

cho trẻ em di cƣ ra thành phố mà còn vì hoàn cảnh gia đình tác động nhƣ: cha

mẹ li dị, mồ côi cha mẹ, hay do bạn bè rủ rê lôi kéo, muốn sống cuộc sống tự

lập…

Trong “Tìm hiểu về trẻ em đƣờng phố ở Hà Nội qua một cuộc khảo sát”

(1996) tác giả Phùng Tố Hạnh đƣa ra nhận định rằng nguyên nhân của hiện

tƣợng trẻ em đƣờng phố là do những biến đổi về kinh tế tác động đến lĩnh vực

an ninh xã hội mà điển hình là lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và giáo dục. Tác giả

cho rằng, những biến động của kinh tế thị trƣờng khiến ngân sách y tế bị cắt

giảm, chi phí khám chữa bệnh tăng thay cho bao cấp trƣớc đây đã làm cho các

gia đình nghèo không thể tiếp cận đƣợc với các dịch vụ y tế. Việc chăm sóc sức

khoẻ của bà mẹ mang thai bị ảnh hƣởng đã làm cho tỷ lệ suy dinh dƣỡng, chậm

phát triển, số trẻ em mồ côi tăng lên. Bên cạnh đó, Hệ thống giáo dục gặp nhiều

khó khăn, nhất là trẻ em vùng nông thôn phai bỏ học sớm do không có tiền đi

học. Nhiều bậc cha mẹ cho rằng con em họ chỉ cần biết đọc, biết viết là đủ. Một

nguyên nhân nữa dẫn đến hiện tƣợng trẻ em lang thang là tình trạng ngƣời lớn

di dân tự do ra các thành phố làm ăn sinh sống mang theo cả trẻ em dẫn đến sự

tăng nhanh số lƣợng trẻ em đƣờng phố.

Trong một cuộc điều tra về tình trạng di cƣ tiến hành năm 1992 bởi

Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ (nay là Viện Gia đình và Giới) phát

hiện ra rằng tín ngƣỡng cũng là một nguyên nhân di cƣ tập thể khi tiến hành

24

nghiên cứu tại Quảng Xƣơng, Thanh Hoá và Châu Giang, Hải Dƣơng có những

làng thờ thành hoàng là ngƣời ăn mày và họ tin rằng chỉ có đi ăn mày mới giúp

cho họ có cuộc sống tốt hơn. Nhiều gia đình đã đƣa vợ và cả con cái lên các

vùng đô thị để ăn xin theo mùa. Và những đứa trẻ trong các gia đình này cũng

trở thành những trẻ em đƣờng phố. Đây là nguyên nhân không mang tính đại

diện và phổ biến nhƣng cũng là một khía cạnh trong đời sống của những ngƣời

di cƣ và trẻ em lang thang đƣờng phố.

Hoạt động sinh hoạt tinh thần và tình cảm của trẻ em đƣờng phố

Các nghiên cứu về trẻ em đƣờng phố đều cho thấy, xét về trình độ học

vấn thì đa phần các em ở trình độ thấp, chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ biết đọc

biết viết. Công việc của trẻ em đƣờng phố thƣờng là ăn xin, bán báo, vé số, nhặt

rác, đánh giầy…thậm chí có những em đã hành nghề trộm cắp và bán dâm ở

những khu vực bến xe, nhà ga, các địa điểm du lịch. Tuy nhiên, theo kết luận

của một cuộc điều tra về trẻ em đƣờng phố (1996) của Viện Xã Hội Học thì

không phải trẻ em đƣờng phố nào cũng hƣ hỏng, trốn chạy khỏi gia đình, trộm

cắp, mại dâm mà có rất nhiều trẻ em biết dành dụm tiền phòng khi đau ốm và

gửi về cho cha mẹ. Các tác giả nhận định rằng ẩn sau vẻ rắn rỏi, cách ăn nói xấc

xƣợc ẩn chứa một tâm hồn non nớt đầy lo âu sợ hãi vì trẻ em đƣờng phố thƣờng

xuyên phải đối mặt với nguy cơ bị đánh đập, trấn lột, bị công an thu gom, sợ

không kiếm đƣợc tiền…

Bên cạnh đó, nhiều tài liệu nghiên cứu khác còn đề cập đến các hoạt

động sinh hoạt tinh thần của trẻ em đƣờng phố và cho rằng, các em rất thiếu

một sân chơi lành mạnh, các em chƣa đƣợc quan tâm, hỗ trợ về mặt tinh thần

chính vì vậy mà các em dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phạm pháp, tệ nạn

xã hội. Trẻ đƣờng phố cũng giống nhƣ bao đứa trẻ khác, chúng cần đƣợc bảo

bọc, che chở và dậy dỗ nhƣng chỉ khác là chúng lại không đƣợc hƣởng những

điều đó mà lại đƣợc xã hội dạy cho cách kiếm sống, cách tự vệ để tồn tại.

Những nguyên nhân khiến trẻ đƣờng phố sa vào các tệ nạn xã hội

25

Tác giả Nguyễn Văn Đoàn trong bài viết “Một số yếu tố tác động của tệ

nạn xã hội đến trẻ em đƣờng phố” (Tạp chí Xã hội học, số 1(73), 2001) cho

rằng trẻ đƣờng phố sa vào các tệ nạn xã hội trong đó có mại dâm là do ảnh

hƣởng của những yếu tố sau:

Điều kiện sống khó khăn buộc trẻ phải tự bƣơn chải kiếm sống trong một

môi trƣờng đô thị phức tạp mà không có sự che chở bảo vệ, uốn nắn kịp thời.

Trẻ đường phố thiếu nhận thức và kỹ năng sống. Nhiều em chƣa bao giờ

đƣợc tới trƣờng vì vậy các em thiếu những hiểu biết cần thiết. Các em không

biết mình có những quyền gì và càng không biết làm thế nào để bảo vệ quyền

của mình. Tác gỉa đƣa ra dẫn chứng từ một cuộc nghiên cứu vào tháng 7/1999,

trong 4.558 trẻ em đƣờng phố đƣợc hỏi thì có 52% các em chƣa nghe nói về

Luật Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em. Trong quá

trình kiếm sống, các em luôn phải đối mặt với những nguy cơ bị lạm dụng

nhƣng đa số đều phải chấp nhận. Những em lớn tuổi hơn và thời gian kiếm sống

lâu hơn thì có thể tích luỹ đƣợc một chút kinh nghiệm và kỹ năng để tự bảo vệ

mình khỏi những nguy cơ bị xâm hại. Tuy nhiên, các tệ nạn xã hội có sự ảnh

hƣởng rất ghê ghớm và tinh vi nên trẻ em đƣờng phố chƣa thể có khả năng nhận

thức, phán đoán để có thể tự bảo vệ mình và bạn bè cùng cảnh.

Thiếu sự quan tâm của gia đình, cộng đồng. Tác giả cho rằng, do kinh tế

gia đình khó khăn, do quan niệm lệch chuẩn rằng: ra thành phố để học khôn, để

bằng bạn bằng bè, ở nhà học cũng chẳng để làm gì mà nhiều gia đình đã cho

con em ra thành phố kiếm sống. Chính những suy nghĩ này mà các gia đình

không những không tỏ thái độ cƣơng quyết ngăn chặn con em mình ra thành

phố kiếm sống mà còn muốn thậm chí “đẩy” chúng ra đi để đỡ đần kinh tế gia

đình. Điều này đã làm mối quan hệ gia đình và các em trở nên lỏng lẻo, các em

sống thiếu tình cảm gia đình, thiếu đi sự dạy dỗ nên dễ nảy sinh tử tƣởng và

hành vi sai lệch.

26

Đối với cộng đồng, việc các gia đình để trẻ em ra thành phố kiếm sống cũng là

việc riêng của mỗi nhà. Thêm vào đó, họ nhìn thấy cái lợi trƣớc mắt là trẻ em

gửi tiền về nhà và giải quyết đƣợc phần nào khó khăn về kinh tế. Vì thế việc để

trẻ em ra thành phố kiếm sống dần trở nên bình thƣờng và không bị dƣ luận lên

án.

Những biện pháp can thiệp và hỗ trợ dành cho trẻ em lang thang

Tác giả Dƣơng Kim Hồng, Kenichi Ohono trong nghiên cứu gần đây

nhất về trẻ em lang thang “Trẻ đƣờng phố ViệtNam – Những nguyên nhân

truyền thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân

này trong nền kinh tế đang phát triển” tiến hành vào tháng 7 năm 2005 cho rằng

nguyên nhân khiến những trẻ còn đang trong độ tuổi đi học phải bỏ học kiếm

sống có thể đƣợcphân chia ra làm 3 nhóm chính sau đây: gia đình tan vỡ, nhận

thức sai lệch và di cƣ vì mục đích kinh tế. Theo tác giả, việc tìm hiểu nguyên

nhân để đƣa ra các tiêu chí phân loại trẻ và việc phân loại trẻ lang thang là rất

cần thiết cho việc xây dựng những biện pháp can thiệp, hỗ trợ cho trẻ lang

thang. Tác giả đã đƣa ra những yếu tố đƣợc coi là: điều kiện hiện tại, những rủi

ro không kiểm soát đƣợc và những yếu tố giúp trẻ tránh đƣợc những sự cố có

thể xảy ra:

- Sức khoẻ thể chất (bị thƣơng, ốm, thiếu ăn, nghiện ma tuý, bị nhiễm

HIV/AIDS, khuyết tật…)

- Sức khoẻ tinh thần (sợ hãi, thiếu tình thƣơng, tổn thƣơng tình cảm, thiếu

tập trung và tính kỷ luật, những bất thƣờng về tinh thần…)

- Rủi ro bị xâm hại (bị ức hiếp, đánh đập, tra tấn, cƣỡng hiếp, giam giữ, bị

bán….)

- Công việc nguy hiểm (tham gia vào các công việc có tính rủi ra cao)

- Những khủng hoảng tài chính (gia đình cần thuốc, bị lừa, bị ăn cắp tiền,

bị công an phạt…)

27

- Nơi ở (ngủ trong nhà hay bên ngoài)

- Sự bảo vệ và chỉ dẫn của ngƣời lớn (bố mẹ, ngƣời bảo hộ, các tổ chức xã

hội, tổ chức phi chính phủ…)

- Sự bảo vệ của nhóm (sống và làm việc theo nhóm hay một mình)

Tác giả cho rằng, ngoài việc đảm bảo cho những yếu tố kể trên thì việc đầu tƣ

cho tƣơng lai của trẻ cũng là một công việc không thể bỏ qua. Những yếu tố cần

thiết để đảm bảo sự an toàn của trẻ trong tƣơng lai đƣợc kể đến là: yếu tố giáo

dục và đào tạo cụ thể là trang bị kiến thức và kỹ năng sống, đào tạo nghề phù

hợp, tạo cơ hội học tập cho những trẻ có nhu cầu và có năng lực.

Những nghiên cứu về trẻ em có đề cập đến vấn đề lạm dụng tình dục

trẻ em

Năm 1997, khi nghiên cứu về trẻ em lang thang, trong cuốn “Trẻ em lang

thang” (Children of the dust), tác giả Ngô Kim Cúc và Mikel Flamm đã đƣa ra

nhận định rằng: “Một trong những vấn đề lớn mà các nƣớc trong thế giới thứ 3

phải dối phó là tỷ lệ trẻ em bị du khách ngoại quốc lạm dụng ngày càng nhiều

ngay từ khi các em mới 10 tuổi hoặc trẻ hơn.” Các tác giả cũng đƣa ra nguyên

nhân xuất phát từ sự thiếu tình thƣơng, thiếu tình cảm của ngƣời lớn mà trẻ em

đƣờng phố không bỏ lỡ cơ hội quen thân ai khi có dịp gần gũi và kết quả là

phần lớn, các em bị ngƣời ta dụ dỗ và bị rơi vào các tình huống không có hoặc

ít có khả năng chống cự cho đến khi đã quá muộn.

Nạn buôn bán trẻ em và kinh doanh mại dâm trẻ em cũng là một vấn đề

gây nhức nhối đối với nhiều quốc gia đang phát triển và có tiềm năng du lịch.

Tệ nạn này đặt trẻ em nói chung và trẻ đƣờng phố nói riêng trƣớc những nguy

cơ, hiểm hoạ bị xâm hại tình dục nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê có

khoảng 15.000 gái mại dâm ở Phnôngpênh trong đó ƣớc tính có khoảng 35% là

phụ nữ Trung Quốc và Việt Nam bị bắt đƣa sang đây qua các biên giới. Tháng

2-1992, Hiệp hội Phát triển Phụ nữ Campuchia (CWDA) đã tiến hành một cuộc

28

điều tra về tình hình mại dâm. Vào thời điểm báo cáo, độ tuổi trung bình của

các cô gái là 18. Vào tháng 4-1993, độ tuổi trung bình đã giảm xuống tuổi 15 và

vào tháng 2-1994, khi bản báo cáo bổ sung đƣợc công bố thì ngƣời ta phát hiện rằng 35% các cô gái mại dâm có tuổi dƣới 18.6 Tác giả Ngô Kim Cúc và Mikel

Flamm đã đƣa ra những câu chuyện có thật về những trẻ đƣờng phố bị lạm

dụng tình dục và trở thành thành ngƣời hành nghề mại dâm chuyên nghiệp để

minh chứng cho vấn nạn này trong cuốn sách của mình.

Năm 2003, UNICEF và UBDSGDTE sau cuộc nghiên cứu về lạm dụng

trẻ em Việt Nam với hơn 2000 mẫu đƣợc lựa chọn đã đƣa ra một kết luận bất

ngờ rằng phần lớn trẻ em Việt Nam đã từng bị lạm dụng. Tổ chức này cũng đề

cập đến một trong những hình thức lạm dụng tình dục trẻ em đƣờng phố mới

nảy sinh đó là du lịch tình dục trẻ em và đồng thời cũng chỉ ra rằng, trẻ em

đƣờng phố tại các thành phố lớn và các khu du lịch đƣợc coi là nhóm trẻ em có

nguy cơ bị lạm dụng tình dục cao nhất.

Mỗi một con ngƣời sinh ra đều có nhân quyền và trẻ em cũng đƣợc thừa

hƣởng nhân quyền ấy. Nhƣng trẻ em đặc biệt là trẻ em đƣờng phố luôn là nhóm

xã hội yếu thế bởi hoàn cảnh sống, những đặc điểm về thể chất, tâm lý, nhận

thức vì vậy có thể nói trẻ em đƣờng phố là nhóm xã hội dễ bị xâm phạm quyền

nhất.

Kể từ những nghiên cứu đầu tiên về trẻ em đƣờng phố vào năm 1989 tại

thành phố Hồ Chí Minh tính đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu về trẻ em

đƣờng phố đã đƣợc tiến hành. Những nghiên cứu kể trên đã đóng góp không

nhỏ trong việc mô tả nhóm trẻ em đƣờng phố, đƣa ra những phát hiện về

nguyên nhân của hiện tƣợng trẻ em đƣờng phố cũng nhƣ phác hoạ một bức

tranh về xã hội thu nhỏ của nhóm trẻ em này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển

6 Dẫn theo: Ngô Kim Cúc, Mikel Flamm, Trẻ em trong bóng tối - Children of dust, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, trang 119 -120

của xã hội, sự hội nhập kinh tế, giao lƣu văn hoá và thƣơng mại đã làm nảy sinh

29

nhiều vấn đề xã hội. Vấn đề trẻ em đƣờng phố không chỉ cần đƣợc nghiên cứu

nhƣ là một hiện tƣợng của thế giới thứ 3, một hệ quả tất yếu của sự biến đổi

kinh tế nữa mà còn rất nhiều khía cạnh nảy sinh cần đƣợc quan tâm nghiên cứu

và cần phải đƣợc nhìn nhận. Những nghiên cứu mô tả thực trạng và nguyên

nhân của trẻ em đƣờng phố sẽ là những nghiên cứu nền tảng cho các hƣớng

nghiên cứu cần thiết và một trong số đó là vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em.

Tuy nhiên, những nghiên cứu về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em đƣờng

phố hiện nay chƣa nhiều và thƣờng tập trung vào việc mô tả thực trạng và tìm

hiểu nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bị lạm dụng tình dục. Nghiên cứu vấn đề

lạm dụng tình dục trẻ em đƣờng phố dƣới góc độ nhận thức, thái độ và hành vi

của trẻ đƣờng phố trƣớc những nguy cơ và hành vi lạm dụng tình dục trẻ em là

một hƣớng nghiên cứu cần thiết bên cạnh các nghiên cứu đã đƣợc tiến hành.

Hƣớng tiếp cận mới của nghiên cứu

Kể từ những nghiên cứu đầu tiên về trẻ em đƣờng phố vào năm 1989 tại

thành phố Hồ Chí Minh tính đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu về trẻ em

đƣờng phố tại Việt nam đã đƣợc tiến hành. Những nghiên cứu kể trên đã đóng

góp không nhỏ trong việc mô tả nhóm trẻ em đƣờng phố, đƣa ra những phát

hiện về nguyên nhân của hiện tƣợng trẻ em đƣờng phố cũng nhƣ phác hoạ một

bức tranh về xã hội thu nhỏ của nhóm trẻ em này. Một số nghiên cứu về vấn đề

xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố đã đƣợc tiến hành, tuy nhiên, những nghiên

cứu này hầu hết là các nghiên cứu mô tả thực trạng và nguyên nhân của vấn đề

xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung

vào giải thích nguyên nhân dẫn đến nhận thức và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ

của các em trƣớc những tình huống xâm hại tình dục.

Bên cạnh đó, nếu nhƣ các nghiên cứu về xâm hại tình dục trẻ em đã đƣợc tiến

hành thƣờng tập trung các hành vi xâm hại tình dục ở mức độ cƣỡng hiếp thì

trong nghiên cứu này, khái niệm hành vi xâm hại tình dục trẻ em không chỉ

30

đƣợc nhìn nhận ở khía cạnh: cƣỡng hiếp hay sử dụng trẻ em làm mại dâm mà

còn bao gồm những hành vi quấy rối tình dục trẻ em bởi xâm hại tình dục trẻ

em bằng bất kỳ hình thức nào cũng đƣợc coi là xâm phạm một cách nghiêm

trọng tới quyền trẻ em. Khái niệm xâm hại tình dục đã đƣợc thao tác hoá một

cách cụ thể theo 6 cấp độ khác nhau. Việc phân chia thành các mức độ hành vi

cụ thể giúp trẻ em nhận diện đƣợc dễ dàng trong quá trình thu thập thông tin.

Hơn nữa, trong nghiên cứu này có sự tính toán trong việc lựa chọn mẫu cân

bằng giữa nhóm nam và nhóm nữ với mục đích nhìn nhận và phân tích những

khía cạnh giới trong vấn đề nhận thức và hành vi của trẻ em đƣờng phố trƣớc

những nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố.

Cách tiếp cận quyền xuyên suốt trong nghiên cứu cũng là một cách tiếp cận

mới:

- Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em, Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em là cơ sở

lý luận cho nghiên cứu.

- Nhìn nhận nhóm trẻ em đƣờng phố cũng là một nhóm xã hội có đầy đủ

các quyền đã đƣợc quy định nhƣ các nhóm xã hội khác.

- Thái độ tôn trọng và những nguyên tắc đạo đức trong quá trình tiếp xúc

thu thập thông tin đối với nhóm đối tƣợng luôn đƣợc đảm bảo bởi các

thành viên trong nhóm nghiên cứu.

3. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu

3.1 Trẻ em đƣờng phố

Theo Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em thì trẻ em là những ngƣời có độ

tuổi dƣới 18, còn theo quy định của luật pháp Việt Nam thì những ngƣời từ 16

tuổi trở xuống đƣợc coi là trẻ em. Tuy nhiên theo quan điểm của chúng tôi thì

những ngƣời từ 16-18 tuổi vẫn chƣa có sự hoàn thiện về tâm - sinh lý cũng nhƣ

khả năng nhận thức đầy đủ về các vấn đề xã hội cho nên có thể coi đây là nhóm

31

các cá nhân chƣa trƣởng thành. Bên cạnh đó, Luật Thanh niên ban hành năm

2006 cũng đã mở rộng giới hạn độ tuổi cuả trẻ em. Theo luật này những ngƣời

từ 18 tuổi trở xuống đƣợc coi là trẻ em. Do vậy khái niệm trẻ em trong nghiên

cứu này dựa trên quy định trong công ƣớc về quyền trẻ em và Luật Thanh niên

của Việt Nam.

“Trẻ em đƣờng phố” là một trong những thuật ngữ phổ biến nhất đƣợc

các tổ chức quốc tế và các cơ quan có liên quan sử dụng cho nhóm trẻ đƣợc đề

cập đến trong nghiên cứu này của chúng tôi. Thuật ngữ này cũng đƣợc chấp

nhận ở Việt Nam, trong các bộ và các cơ quan trực thuộc chính phủ. Trong

nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “trẻ em đƣờng phố” vì đây vẫn là

thuật ngữ đã và đang đƣợc dùng rộng rãi và phổ biến trên thế giới.

Việc xác định một định nghĩa chuẩn về nhóm trẻ em đƣờng phố là không

dễ dàng bởi bản thân trong nhóm trẻ em này bao gồm rất nhiều đặc thù khác

nhau về nơi ở, sự gắn kết với gia đình, hoàn cảnh gia đình. Từ đó, mỗi một

nghiên cứu, mỗi một tổ chức lại đƣa ra những định nghĩa hay phân loại dựa trên

những tiêu chí khác nhau tuỳ theo phạm vi nghiên cứu và can thiệp của mình.

Có rất nhiều định nghĩa về trẻ em đƣờng phố cũng nhƣ nhiều nhóm trẻ

em đƣờng phố đƣợc phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.

Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Quốc hội nƣớc Cộng hòa Xã

hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua, kỳ họp lần thứ 5 thông qua ngày 15

tháng 6 năm 2004, trang 2 có định nghĩa: “trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia

đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cƣ trú không ổn định, hoặc là trẻ em

cùng với gia đình đi lang thang”.

Tác giả Judith Ennew trong nghiên cứu “Trẻ em đƣờng phố và trẻ em lao

động”, Đại học Mở Bán Công TPHCM, Khoa Phụ Nữ học (1996) đã đƣa ra

định nghĩa về trẻ em đƣờng phố nhƣ sau: “Trẻ em đƣờng phố là những trẻ em

mà đƣờng phố đã trở thành nhà thật sự của chúng trong một cảnh ngộ trong đó

không có sự bảo vệ, trông nom hoặc hƣớng dẫn của ngƣời lớn”

32

UNICEF định nghĩa trẻ em đƣờng phố là những trẻ dƣới 18 tuổi dành

phần lớn thời gian của mình trên đƣờng phố. Theo UNICEF, trẻ em đƣờng phố

có thể đƣợc chia làm 3 nhóm khác nhau

- Nhóm 1: Trẻ sống trên đƣờng phố. Đó là những trẻ đã mất mối liên hệ cùng

gia đình và phải sống một mình trên đƣờng phố.

- Nhóm 2: Trẻ lao động trên đƣờng phố. Đó là những trẻ dành toàn bộ hoặc

phần lớn thời gian trên đƣờng phố để lao động kiếm sống cho gia đình hoặc cho

bản thân trẻ (những trẻ này có thể vẫn còn gia đình và không thƣờng xuyên ngủ

qua đêm trên đƣờng phố).

- Nhóm 3: Trẻ lang thang sống cùng gia đình trên đƣờng phố. Đó là những trẻ

sinh sống cùng gia đình và lang thang kiếm sống trên đƣờng phố.

Dựa trên các kết quả phân loại của những nghiên cứu về trẻ em đƣờng

phố đã đƣợc thực hiện ở Việt Nam bởi nhiều tác giả, dựa trên các đặc điểm xã

hội của trẻ em đƣờng phố tại Việt Nam hiện nay, chúng tôi nhận thấy rằng để

phân biệt nhóm trẻ em đƣờng phố với nhóm trẻ bình thƣờng thì tiêu chí quan

trọng nhất phải đƣợc đề cập đến là: thực hiện các công việc kiếm tiền trên

đƣờng phố. Dƣới những tác động khác nhau của nền kinh tế, từ nhiều năm nay,

không ít trẻ em đã phải di cƣ một mình hoặc di cƣ cùng gia đình, ngƣời thân lên

các thành phố thuê nhà hoặc sống tạm bợ nay đây mai đó lang thang trên các

đƣờng phố để kiếm sống. Bên cạnh đó cũng không ít những gia đình tại các

thành phố lớn vì nhiều lý do đã “đẩy” những đứa trẻ ra đƣờng phố kiếm tiền

bằng nhiều công việc khác nhau để tăng thu nhập cho gia đình. Vì vậy, chúng

tôi đã đi đến thống nhất một định nghĩa trẻ em đƣờng phố sẽ đƣợc sử dụng

trong suốt nghiên cứu của mình là:

Trẻ em đường phố là những trẻ em dưới 18 tuổi sống cùng người thân,

gia đình tại các thành phố lớn hoặc di cư một mình, di cư cùng gia đình, nguời

thân từ các tỉnh khác đến các thành phố lớn, làm những công việc kiếm tiền

trên đường phố cả năm hay theo mùa vụ.

33

3.2 Hành vi xâm hại tình dục trẻ em

Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “xâm hại

tình dục trẻ em” hay “lạm dụng tình dục trẻ em”. Nhiều nghiên cứu đã thực

hiện tại Việt Nam sử dụng thuật ngữ “lạm dụng tình dục trẻ em”. Trong nghiên

cứu này chúng tôi sử dụng thuật ngữ “xâm hại tình dục trẻ em”. Chúng tôi

không khẳng định rằng việc sử dụng cụm từ này là chính xác nhất. Nhƣng theo

quan điểm của chúng tôi, trong tiếng việt, cụm từ “xâm hại tình dục” thể hiện

một cách rõ ràng rằng hành vi xâm hại tình dục trẻ em là một hành vi vi phạm

quyền trẻ em và làm tổn hại đến mọi mặt của sức khoẻ và đời sống của trẻ em.

Xâm hại tình dục trẻ em đƣợc định nghĩa nhƣ là “việc tiếp xúc hoặc tác

động qua lại giữa trẻ và một ngƣời lớn tuổi hơn trẻ, có hiểu biết hơn trẻ hoặc

giữa trẻ và một ngƣời lớn (ngƣời lạ, anh chị em hoặc ngƣời có địa vị quyền lực,

ví dụ nhƣ là bố mẹ ngƣời chăm sóc hoặc ngƣời nào khác) trong tình huống trẻ

bị sử dụng nhƣ một vật để thoả mãn nhu cầu tình dục của ngƣời lớn hoặc của trẻ”7. Những hành vi về xâm hại tình dục bao gồm: phô bày bộ phận sinh dục,

gọi điện thoại quấy rối, sờ mó, xem ngƣời khác thay quần áo, cố tình xâm

phạm, hãm hiếp, loạn luân, ấn phẩm khiêu dâm trẻ em và bóc lột tình dục trẻ

em vì mục đích thƣơng mại ví dụ nhƣ mại dâm trẻ em, buôn bán trẻ em vì các

mục đích tình dục và ấn phẩm khiêu dâm. Bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích

thƣơng mại là một thuật ngữ cũng đang đƣợc đề cập trên phạm vi rộng bao gồm

“xâm hại tình dục trẻ em bởi ngƣời lớn và trả công bằng tiền mặt hoặc bằng

hiện vật cho trẻ hay bên thứ ba hoặc ngƣời khác. Trẻ bị đối xử nhƣ là đối tƣợng

để thoả mãn tình dục và nhƣ là một đối tƣợng vì mục đích thƣơng mại. Bóc lột

7 SIDA,2000, Trang 11 8 Tuyên ngôn và Diễn đàn hành động của Hội nghị Stockholm

tình dục trẻ em vì mục đích thƣơng mai là một hình thức cƣỡng bức và bạo lực đối với trẻ em và giống nhƣ lao động cƣỡng bức và hình thức nô lệ tạm thời”8

34

Trong nghiên cứu “Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố tại

thành phố Huế và Hà Nội” (2006) của Viện Sức khoẻ sinh sản và gia đình, hành

vi xâm hại tình dục trẻ em đƣợc thao tác hoá thành 6 cấp độ khác nhau ngoài

việc làm cụ thể hoá khái niệm còn nhằm mục đích giúp trẻ em đƣờng phố trong

các cuộc phỏng vấn có thể dễ dàng nhận biết khái niệm nhạy cảm và khó hiểu

này. Theo đó, hành vi xâm hại tình dục trẻ em đƣợc chia thành 3 nhóm hành vi

nhƣ sau:

- Xâm hại tình dục trẻ em qua thính giác. Đó là hành vi nói với trẻ em

những lời lẽ thô tục ám chỉ về tình dục

- Xâm hại tình dục trẻ em qua thị giác. Đó là các hành vi: cho trẻ em xem

hình ảnh, sách báo khiêu dâm, phô bày bộ phận sinh dục cho trẻ em xem.

- Xâm hại tình dục qua hành vi. Đó là những hành vi: đụng chạm vào

những phần kín trên cơ thể của trẻ, bắt trẻ em chạm vào bộ phận sinh dục của

mình, bắt trẻ em phải quan hệ tình dục với mình

35

CHƢƠNG II. TRẺ EM ĐƢỜNG PHỐ VÀ VẤN ĐỀ XÂM HẠI

TÌNH DỤC TRẺ EM.

I. MÔ TẢ MẪU NGHIÊN CỨU

1 Lứa tuổi

Biểu 1: Độ tuổi của nhóm trẻ em đường phố tại Huế - Hà Nội trong khảo sát

Tiêu chí về độ tuổi của mẫu nghiên cứu là trẻ em đƣờng phố từ 10 đến

dƣới 18 tuổi. Nhóm trẻ em đƣờng phố trong mẫu nghiên cứu tại Hà Nội và Huế

chủ yếu tập trung trong độ tuổi từ 13 đến 15 tuổi. Tỷ lệ trẻ em đƣờng phố trong

độ tuổi 13-15 trong mẫu nghiên cứu tại Hà Nội là 47,0% và tại Huế là 62,2%.

2 Nơi ở hiện tại

Huế

Chỗ ở hiện tại

Hà Nội (%) %

N

%

N

1

1,0

1,0

1

3

4,0

0

0

Ngủ ngoài đƣờng

5,1

63

63,0

5

Thuê trọ một mình hoặc cùng cha mẹ, bạn bè theo ngày

24,5

18

18,0

24

Ở cùng gia đình trên thuyền

1,0

3

3,0

1

68,4

11

11,0

67

Sống cùng với họ hàng Ở nhà* với cha mẹ

98(**)

100,0

100 100,0

Thuê trọ một mình/cùng cha mẹ theo tháng

Tổng cộng

( * Nhà của gia đình các em) (** Không trả lời = 2)

Bảng 1: Nơi ở hiện tại của trẻ em đường phố trong khảo sát

36

Nhìn vào bảng 1 ta thấy có sự khác biệt về nơi ở giữa hai nhóm trẻ em

đƣờng phố tại hai địa bàn nghiên cứu. Nơi ở của nhóm trẻ em đƣờng phố tại

thành phố Huế cố định và ổn định hơn. Số liệu thu đƣợc cho thấy, nhóm trẻ em

đƣờng phố tại Hà Nội phần lớn là thuê chỗ trọ một mình hoặc cùng cha mẹ theo

tháng. Tỷ lệ này là 63,0%, cao nhất trong số trẻ đƣờng phố đƣợc hỏi tại Hà Nội.

Trong khi số trẻ em đƣờng phố tại Hà Nội sống tại nhà của gia đình các em chỉ

chiếm 11% thì ở Huế, tỷ lệ này chiếm 68,4% trong tổng số trẻ đƣợc hỏi. Bên

cạnh đó, trong số những em đƣợc hỏi tại Huế thì không có em nào phải thuê

chỗ trọ theo ngày nhƣng tại Hà Nội thì nhóm này chiếm 4%. Một số không ít

trẻ em đƣờng phố đang phải sống trên thuyền cùng với gia đình. Tại Huế có

24.5% TEĐP đang sống trên “nhà thuyền” và chủ yếu tập trung ở một khúc

sông Hƣơng thuộc địa bàn phƣờng Kim Long, còn tại Hà Nội có 18,5% em

sống trong các “nhà thuyền” trên sông Hồng thuộc địa bàn phƣờng Phúc Xá,

Quận Ba Đình.

Sở dĩ nơi ở của nhóm trẻ em đƣờng phố tại Huế ổn định và cố định hơn là

do phần lớn nhóm trẻ em đƣờng phố tại Hà Nội đều xuất thân từ những gia đình

có hoàn cảnh kinh tế nghèo khó tại các vùng quê nghèo di cƣ cùng cha mẹ lên

Hà Nội kiếm sống. Các em đến từ nhiều tỉnh khác nhau, chủ yếu là những tỉnh

lân cận Hà Nội nhƣ Thanh Hóa, Bắc Ninh, Hà Tây, Bắc Giang, và nhiều nhất là

Hƣng Yên. Lên thành phố, gia đình các em phải thuê những chỗ trọ theo ngày,

tháng để sinh sống hoặc sống trên thuyền ven sông Hồng. Một số ít em sống

cùng cha mẹ, họ hàng, ngƣời quen tại nhà là những em xuất thân từ những gia

đình sống ở Hà Nội nhƣng vì nhiều lý do khác nhau nhƣ làm ăn thất bại, cha mẹ

lâm vào hoàn cảnh nợ nần, kinh tế sa sút khiến cho các em phải bƣơn chải kiếm

sống trên đƣờng phố và trở thành trẻ em đƣờng phố. Nếu nhóm trẻ em đƣờng

phố Hà Nội xuất thân từ các vùng nông thôn và di cƣ cùng gia đình lên thành

phố lớn thì nhóm trẻ em đƣờng phố Huế phần lớn sinh sống tại thành phố Huế

hoặc một số xã ngoại thành. Các em sống trong căn nhà của gia đình và thƣờng

37

có đầy đủ bố mẹ, anh chị em, thậm chí nhiều gia đình rất đông ngƣời, từ 5 đến 8

ngƣời. Đây là lý do tạo nên sự khác biệt về nơi ở của hai nhóm TEĐP.

3 Trình độ học vấn

Việc di cƣ theo gia đình đến Hà Nội kiếm sống phần nào ảnh hƣởng đến

việc học của trẻ em đƣờng phố tại Hà Nội. Hầu hết các em không đƣợc tham

gia học trƣờng chính quy vì không có hộ khẩu thƣờng trú tại Hà Nội. Tuy

nhiên, nhóm trẻ đƣờng phố trong mẫu nghiên cứu ở Hà Nội đƣợc lựa chọn từ

các trẻ em đang học tập tại Mái Ấm 19-5 của quận Ba Đình nên hầu hết các em

đều đƣợc học qua trƣờng lớp. Trong mẫu nghiên cứu tại Hà Nội có 82% em có

trình độ học vấn tiểu học, 15% em có trình độ trung học cơ sở và 3% em đang

theo học chƣơng trình phổ thông tại trƣờng giáo dục dạy nghề cho trẻ em lang

thang trên địa bàn thành phố.

Trình độ học vấn

Huế (%)

Hà Nội ( %)

Chính quy

28.6

Tiểu học

Bổ túc

34.7

82.0

Chính quy

31.6

Trung học cơ

sở

Bổ túc

15.0

Trung học phổ thông

3.0

5.1

Không biết chữ/chƣa bao giờ đến trƣờng

100.0

100.0

Tổng cộng

Bảng 2: Trình độ học vấn của trẻ em đường phố trong khảo sát

Mái ấm 19/5 có mô hình giống nhƣ một trƣờng tiểu học thu nhỏ với các

lớp học từ lớp 1 đến lớp 5. Tham gia học tại Mái ấm các em không những tiếp

thu các kiến thức văn hoá-xã hội mà còn đƣợc tham gia các giờ học ngoại khoá

bổ ích nhƣ nói chuyện chuyên đề, tập huấn về kỹ năng sống, quyền trẻ em, sức

khoẻ sinh sản vị thành niên, học vẽ, hát nhạc. Mái ấm còn có khu vui chơi để

các em thƣ giãn sau những giờ học. Các em học hết cấp 1 tại Mái ấm sẽ đƣợc

38

thi tốt nghiệp cấp 1 và rất nhiều em đƣợc giới thiệu lên học tiếp cấp 2, cấp 3 tại

Trung tâm dạy nghề của Quận Ba Đình.

So với nhóm trẻ em đƣờng phố Hà Nội thì có nhiều trẻ em đƣờng phố

trong mẫu nghiên cứu tại thành phố Huế đã hoặc đang tham gia học tại trƣờng

chính quy hơn. Số liệu thu thập đƣợc cho thấy, có 28,6% em có trình độ học

vấn tiểu học hệ chính quy và 31,6% em có trình độ học vấn trung học cơ sở hệ

chính quy. Điều này xuất phát từ việc đa phần trẻ em đƣờng phố tại Huế có hộ

khẩu tại thành phố Huế nên việc theo học tại các trƣờng công lập thuận lợi hơn.

Có thể nói về trình độ học vấn các em có xuất phát điểm cao hơn nhóm trẻ em

đƣờng phố Hà Nội vì đƣợc học trong các trƣờng lớp chính quy. Tuy nhiên, với

34,7 % trẻ em đƣờng phố Huế đang theo học bổ túc tại các lớp học tình thƣơng

thì nguy cơ thất học hoặc cơ hội để các em tiếp tục bổ sung kiến thức sau khi đã

bỏ học giữa chừng là rất ít. Vì ở Huế không có mô hình trƣờng học miễn phí

cho các em nhƣ Mái ấm 19/5 ở Hà Nội.

Tuy nhiên, so với nhóm trẻ em đƣờng phố Hà Nội thì nhóm trẻ em đƣờng

phố tại Huế lại yếu hơn về các kiến thức xã hội. Bởi nhóm trẻ em đƣờng phố

Huế chƣa đƣợc trang bị các kỹ năng, kiến thức cần thiết nhƣ: kỹ năng sống,

quyền trẻ em, sức khỏe sinh sản, HIV/AIDS và các vấn đề xã hội nhƣ

XHTDTE. Môt số trẻ em đƣờng phố ở Huế cũng đƣợc tham gia học tại các lớp

học tình thƣơng do Đội công tác xã hội thành phố tổ chức. Tuy nhiên, các lớp

học tình thƣơng chỉ dừng lại ở việc phổ cập xoá mù chữ và dạy kiến thức cho

các em. Trong khi đó nhóm trẻ em đƣờng phố Hà Nội có điều kiện tham gia vào

một số khoá tập huấn về Quyền trẻ em, Sức khoẻ sinh sản vị thành niên, phòng

chống HIV/AIDS và các vấn đề xã hội khác do Viện Sức Khoẻ Sinh Sản và Gia

Đình tổ chức. Ngoài ra, các em đƣợc các cô giáo trong Mái ấm 19/5 tƣ vấn và

cung cấp nhiều kiến thức xã hội, kỹ năng sống trong các buổi sinh hoạt ngoại

khoá. Các kiến thức và kỹ năng sống mà các em đƣợc tiếp nhận trong quá trình

học tập đóng vai trò rất quan trọng đối với nhận thức và hành vi của trẻ em

đƣờng phố về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em.

39

4. Nguyên nhân của hiện tƣợng trẻ em đƣờng phố

Theo kết quả của một số đề tài nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến hiện

tƣợng trẻ em đƣờng phố nhƣ: nghèo đói, gia đình tan vỡ, bị cha mẹ ghét bỏ, bạn

bè lôi kéo, chán học. Kết quả thu đƣợc từ các cuộc phỏng vấn thực hiện tại Huế

và Hà Nội cũng cho những nhận định tƣơng tự tập trung chủ yếu vào 2 nguyên

nhân: kinh tế gia đình khó khăn và hoàn cảnh gia đình tan vỡ.

Nguyên nhân đƣợc nhóm trẻ em đƣờng phố Hà Nội nêu ra nhiều nhất

trong các cuộc phỏng vấn là vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Trong số

100 em đƣợc phỏng vấn có 23,1 % em cho rằng kinh tế gia đình khó khăn;

khiến các em trở thành trẻ em đƣờng phố; 70,3% em di cƣ lên thành phố kiếm

sống theo cha mẹ, ngƣời thân. Những em lựa chọn phƣơng án di cư theo cha

mẹ, người thân cũng xuất phát từ nguyên nhân liên quan đến kinh tế. Những trẻ

em này sống trong các gia đình thuần nông. Nghề nông nghiệp vất vả nhƣng thu

nhập từ nông nghiệp không đủ sống, không đủ chi trả các khoản học phí cho

các em nên gia đình các em phải di cƣ lên thành phố kiếm sống.

40

Việc di cƣ ra các thành phố lớn nhƣ Hà Nội đã trở thành sự lựa chọn của

nhiều gia đình nông thôn nghèo. Cha mẹ của các trẻ em này hy vọng đến Hà

Nội sẽ kiếm đƣợc nhiều tiền hơn. Nhƣng họ không lƣờng trƣớc những khó khăn

và bất lợi cho con cái họ nhƣ không có sự quan tâm giáo dục của gia đình, cuộc

sống không ổn định, thất học v.v.

“Vì nhà em ở quê nghèo qúa nên cả nhà em phải ra Hà Nội sinh sống. Em đang

học hết lớp 5 ở quê thì phải bỏ học vì phải đi làm giúp bố mẹ”

(Trẻ em đường phố nữ, 12 tuổi, Hà Nội)

“Em lên Hà Nội từ năm 4, 5 tuổi gì đó.Vì ở quê bố mẹ làm không đủ ăn nên nhà

em phải lên đây kiếm sống. Lên đây mãi đến 8 tuổi em mới được đi học.Năm 7

tuổi em cũng đi học một thời gian nhưng rồi phải nghỉ học để làm thêm vì nhà

không có tiền bây giờ em lại đi học tiếp”

(Trẻ em đường phố nữ, 16 tuổi, Hà Nội)

Nguyên nhân thứ hai khiến các em trở thành những đứa trẻ đƣờng phố là

vì gia đình bị phá sản. Gia đình một số em đã phá sản sau khi cháy chợ Đồng

Xuân và mất hết hàng hoá hay do thua lô đề và phải bán hết nhà cửa, tài sản.

Các em buộc phải thôi học và theo bố mẹ chuyển đến bãi Phúc Xá thuê nhà trọ

và lang thang trên hè phố kiếm sống phụ giúp gia đình.

Nguyên nhân thứ ba khiến các em trở thành trẻ em đƣờng phố là vì gia

đình tan vỡ. Một số em đến Hà Nội vì mẹ phải chạy trốn ngƣời cha nghiện ngập

và có hành vi bạo hành.

“Hoàn cảnh các em rất đa dạng. Các em thường không có đầy đủ bố mẹ hoặc

có đầy đủ bố mẹ nhưng không cùng bố đâu. Trong một gia đình nhưng nhiều

khi 3 em có 3 bố khác nhau. Hoàn cảnh rất khó khăn, mồ côi cha, mồ côi mẹ.

Bố nghiện rượu ở quê nên 3 mẹ con trốn đi, đưa nhau lên đây kiếm sống”

( Cán bộ UBDSGĐTE quận Ba Đình, Hà Nội)

Tuy không di cƣ cùng cha mẹ nhƣng cũng giống nhƣ nhóm trẻ em đƣờng

phố Hà Nội, nguyên nhân khiến nhóm trẻ em đƣờng phố tại thành phố Huế trở

41

thành trẻ em đƣờng phố do hoàn cảnh gia đình khó khăn. 77,3% em chọn

phƣơng án “kinh tế gia đình khó khăn” khiến các em phải kiếm tiền bằng nhiều

nghề khác nhau nhƣ bán báo, đánh giày, bán giấy dò, bán vé số v.v.

II. Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố trong mẫu nghiên

cứu tại thành phố Huế và Hà Nội.

1.Những hình thức XHTD trẻ em đƣờng phố phổ biến

Biểu đồ 3: Tỷ lệ trẻ em trong khảo sát bị XHTD bởi các hình thức khác nhau

Số liệu nghiên cứu cho thấy các hành vi XHTD trẻ em đƣờng phố phổ

biến nhất trong ba nhóm hành vi đƣa ra là:

- Xâm hại qua thính giác: Nói những lời lẽ khêu gợi về tình dục đối với trẻ

em

- Xâm hại qua thị giác: Bắt/cho trẻ em xem phim, tranh ảnh, sách báo

khiêu dâm, Phô bày bộ phận sinh dục cho trẻ em xem.

- Xâm hại qua hành vi: Đụng chạm vào những phần kín trên cơ thể trẻ em,

bắt trẻ em phải chạm vào bộ phận sinh dục, ép trẻ em quan hệ tình dục

42

Hành vi XHTD mà cả hai nhóm trẻ em đƣờng phố gặp phải nhiều nhất là

“Nói những lời lẽ thô tục, khêu gợi về tình dục” (Hà Nội: 55,0%, Huế 48,0%).

Địa điểm làm việc của trẻ em đƣờng phố là trên các đƣờng phố, chợ, bến xe,

nhà ga. Hàng ngày, các em tiếp xúc với rất nhiều loại ngƣời trong xã hội, phải

nghe thông tin một cách thụ động khi tiếp xúc với khách hàng. Chính vì vâỵ mà

tỷ lệ lựa chọn phƣơng án “Bản thân đã từng hoặc biết trƣờng hợp nào bị nghe

những lời lẽ thô tục, gợi ý về tình dục” là cao nhất trong 6 cấp độ hành vi đƣợc

đƣa ra.

Số liệu khảo sát cho thấy, tại Huế, tỷ lệ trẻ em bị bắt/cho xem phim, tranh

ảnh đồi truỵ khá cao (38,8%). Cũng tƣơng tự nhƣ với nguyên nhân đƣợc giải

thích ở trên, trong khi làm việc, trẻ em đƣờng phố luôn tiếp nhận thông tin một

cách bị động. Bên cạnh đó, với nhận thức non nớt, tò mò của trẻ em, các em dễ

dàng nghe theo những lời dụ dỗ đôi khi chỉ rất đơn giản nhƣ “xem cái này hay

lắm”.

Hành vi chạm vào những phần kín trên cơ thể của các em cũng khá phổ

biến. Ở Huế, có 26,5% em đƣợc hỏi lựa chọn phƣơng án này và con số này ở

Hà Nội là 16,0%.

Đặc biệt hành vi “ép trẻ em quan hệ tình dục”, con số thu đƣợc là thấp

nhất trong 6 cấp độ hành vi nhƣng xét về mức độ nghiêm trọng thì con số này

cũng không thể coi là thấp. Tại Huế, có 5,1% trẻ em đƣợc hỏi nói rằng bản thân

đã từng bị ép phải quan hệ tình dục với ngƣời khác hoặc biết có trƣờng hợp trẻ

em đƣờng phố khác bị cƣỡng ép QHTD. Ở Hà Nội, con số này là 3%.

Nhƣ vậy, căn cứ vào số liệu thu đƣợc từ các bảng phỏng vấn định lƣợng,

rõ ràng rằng trẻ em đƣờng phố đang phải đối mặt với nguy cơ bị xâm hại tình

dục.

43

2. Xu hƣớng khác biệt về giới trong nguy cơ bị xâm hại tình dục

So sánh số liệu khảo sát về hình thức xâm hại tình dục giữa hai nhóm trẻ

em đƣờng phố tại hai thành phố, ta không thấy có sự khác biệt lớn tuy nhiên

trong từng cấp độ hành vi xâm hại tình dục lại có sự chênh lệch khá lớn về giới

giữa hai nhóm trẻ em trai và trẻ em gái. Cụ thể là, trong hành vi “ Ép buộc xem

phim, ảnh, sách báo đồi truỵ” số liệu thu đƣợc cho thấy nhóm trẻ em đƣờng phố

nam gặp phải nhiều hơn nhóm TEĐP nữ nhƣng ngƣợc lại ở 5 cấp độ hành vi

đƣa ra thì tỷ lệ trẻ em gái đã từng gặp phải lại cao hơn nhóm trẻ em trai. Xu

hƣớng khác biệt giới hình thành rất rõ rệt và tƣơng đồng ở hai thành phố.

Em hoặc bạn nào trong nhóm đã bị ngƣời khác ép cho xem phim ảnh đồi truỵ chƣa?

Đã từng gặp

Chƣa bao giờ

Giới tính

Hà Nội

Huế

Hà Nội

Huế

25

33

27

20

Nam

86,2%

86,8%

38,0%

33.3%

4

5

44

40

Nữ

13,8%

13,2%

62,0%

66.7%

29

38

71

60

Tổng cộng

100,0%

100,0%

100.0%

100.0%

Hà Nội: Crammer’V = 0,438 P = 0,000 Huế: Crammer’V = 0,523 P = 0,000

Bảng 3: Giới tÝnh và hành vi ép/cho trẻ em xem phim ảnh đồi truỵ

Số liệu trong bảng 3 cho ta thấy rõ sự khác biệt giới trong hành vi “ép buộc xem

phim, tranh ảnh, sách báo đồi truỵ”. Víi møc ý nghÜa P=0,000 cho ta thấy giíi

tÝnh vµ sù tr¶i nghiÖm vÒ hµnh vi này cã mèi liªn hÖ víi nhau. Hệ số

Crammer’V = 0,438 vµ 0,523 trong b¶ng sè liÖu trªn giúp ta có thể khẳng định

đƣợc rằng mối liên hệ giữa hai biến số này khá chặt chẽ. Tỷ lệ các em nam trả

lời rằng bản thân hoặc bạn của mình đã từng gặp phải trƣờng hợp này cao hơn

44

các em nữ cụ thể là ở Hà Nội tỷ lệ các em nam lựa chọn phƣơng án này là

86,2% và ở Huế là 86,8 % trong tổng số mẫu đƣợc hỏi và lựa chọn phƣơng án

này. Trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm trẻ em nữ tƣơng ứng ở Hà Nôi và Huế là:

13,8% và 13,2 %.

Khi đƣợc hỏi, các em nói rằng chúng thƣờng bị khách hàng là nam giới

hoặc thanh niên lớn tuổi hơn cho xem phim khiêu dâm trên điện thoại di động

trong khi đi làm việc hoặc vào chat, chơi điện tử trong các cửa hàng internet. Lý

giải cho hiện tƣợng này, ta thấy cũng khá phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ

em trai là bạo dạn, thích tìm hiểu các máy móc, phƣơng tiện kỹ thuật nên các

em thƣờng lui tới cửa hàng internet để chơi điện tử nhiều hơn các em gái. Và

nhƣ vậy, khả năng tiếp cận với các nguồn văn hoá không lành mạnh sẽ cao hơn

và dễ bị ngƣời lớn lợi dụng cho xem phim, ảnh từ điện thoại di động hơn các

em gái.

Tuy nhiên, số liệu thu đƣợc từ những hành vi XHTD còn lại cho chúng ta

thấy một thực tế là trẻ em đƣờng phố nữ có nguy cơ bị xâm hại tình dục cao

hơn và các hành vi XHTD trẻ em gái có mức độ nguy hiểm cũng nhƣ gây ra các

hậu quả nặng nề hơn.

Trong 6 hành vi XHTD thì có tới 5 hành vi tỷ lệ trẻ em gái lựa chọn cao

hơn tỷ lệ trẻ em trai. Xu hƣớng này khá đồng nhất ở cả 2 nhóm trẻ em đƣờng

phố thành phố Huế và Hà Nội.

Xâm hại dưới hình thức trêu ghẹo, nói những lời lẽ thô tục gợi ý về tình

dục

Em hoặc bạn nào trong nhóm đã bị nghe những lời lẽ thô tục gợi ý tình dục chƣa?

Đã từng gặp

Chƣa bao giờ

Giới tính

Hà Nội

Huế

Hà Nội

Huế

27

25

16

37

Nam

41.5%

71.4%

34.0%

72.5%

45

38

10

31

14

Nữ

58.5%

28.6%

66.0%

27.5%

65

35

47

51

Tổng cộng

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

Hà Nội: Crammer’V = 0,225 P = 0,004

Huế: Crammer’V = 0,386 P = 0,000

Bảng 4: Giới tÝnh và hành vi nói những lời lẽ thô tục gợi ý tình dục – Hà Nội

Nhìn vào bảng 4 ta thấy, có sự chênh lệch giữa nhóm trẻ em nam và nhóm trẻ

em nữ trong hành vi “nói những lời lẽ thô tục gợi ý về tình dục”. Số liệu thu

® îc tõ nhãm TE§P t¹i Hà Nội với hệ số Crammer’V = 0,225 và møc ý nghÜa

P=0,004 cho thấy giữa giíi tÝnh vµ sù tr¶i nghiÖm vÒ hµnh vi này cã mèi liªn hÖ

với nhau tuy không chặt chẽ. Với số liệu thu đƣợc từ nhóm TEĐP tại Huế, hệ số

Crammer’V = 0,386 và mức ý nghĩa P = 0,000 cho ta thÊy mèi liªn hÖ gi÷a hai

biÕn sè nµy kh¸ chÆt chÏ. Ở Huế, trong số các trẻ em đã từng gặp phải hành vi

này thì có 71,7% là các em nữ, chỉ có 28,3% là các em nam. Tại Hà Nội, sự

chênh lệch này là không đáng kể nhƣng rõ ràng các em nữ vẫn chiếm tỷ lệ cao

hơn các em nam (Nữ 58,5%, nam 41,5%).

Hơn nửa số trẻ em đƣờng phố đƣợc hỏi trả lời rằng chúng thƣờng xuyên

phải nghe những lời lẽ, những câu chửi tục tĩu khi lang thang kiếm sống trên

đƣờng phố. Đặc biệt nhóm trẻ em đƣờng phố nữ thƣờng xuyên bị các khách

mua hàng, ngƣời qua đƣờng là nam giới trêu ghẹo, gợi ý quan hệ tình dục nhƣ:

“đi với anh không em”, “đi nhà nghỉ với anh”

“Có những người trêu em nói là em có “đi” với anh không, đi chơi với anh

không.Em gặp nhiều lần như thế này rồi chị ạ”

(Trẻ em đường phố nữ, Gia Lâm, Hà Nội)

Xâm hại dưới hình thức đụng chạm vào những phần kín trên cơ thể

Với hành vi này con số thu đƣợc có sự chênh lệch khá lớn giữa các em nam và

các em nữ.

46

Em hoặc bạn nào trong nhóm đã bị đụng chạm vào những phần kín trên cơ thể của mình chƣa?

Tổng cộng

Giới tính

Chƣa bao giờ

Đã từng gÆp ph¶i

49

52

3

Nam

11,5%

66,2%

100,0%

25

48

23

Nữ

88,5%

33,8%

100,0%

74

100

26

Tổng cộng

100,0%

100,0%

100,0%

Crammer’V = 0.480 P = 0,000

Bảng 5: Giới tÝnh và hành vi đụng chạm vào những phần kín trên cơ thể của trẻ - Hà Nội

Nhín vào bảng số 5, ta thấy có sự khác biệt về giới tính rất rõ rệt trong hành vi

“Đụng chạm vào các bộ phận kín trên cơ thể”. Møc ý nghÜa P = 0,000 cho thấy

giíi tÝnh vµ sù tr¶i nghiÖm vÒ hµnh vi này có mối liªn hÖ với nhau. Hệ số

Crammer’V = 0,480 càng khẳng định rằng giữa chúng có mối liên hệ khá chặt

chẽ. Trong số trẻ em đƣờng phố đƣợc hỏi trả lời rằng đã từng gặp phải hành vi

này thì hầu hết đều là các em nữ và chỉ có một số rất ít các em nam. Tại Hà Nội,

trong tổng số em đƣợc hỏi đã từng bị đụng chạm vào những phần kín trên cơ

thể thì các em nữ chiếm tỷ lệ 88,5% trong khi đó, các em trai chiếm tỷ lệ là

11,5%. Số liệu thu đƣợc tại thành phố Huế cũng tƣơng tự nhƣ vậy (nữ: 78,6%;

nam: 21,4%). Rất nhiều em gái khi đƣợc phỏng vấn đều nói rằng chúng thƣờng

xuyên bị những ngƣời khách hàng hoặc ngƣời nam giới lớn tuổi qua đƣờng,

thậm chí là cả những đứa trẻ đƣờng phố nam trêu chọc, đụng chạm vào ngực,

vào lƣng và cả những chỗ kín.

“Lúc bọn em đi bán hàng, các anh lớn và mấy chú người lớn hay trêu bonj em

và đập vào người bọn em.Các chú Êy đập vào lưng và vào đằng trước ngực.”

(Nhóm trẻ em đường phố nữ, Phúc Xá, Hà Nội)

47

Hình thức ép buộc quan hệ tình dục

Em hoặc bạn nào trong nhóm đã bị ép quan hệ tình dục chƣa?

Tổng cộng

Đã từng gặp phải

Chƣa bao giờ

Giới tính

51

52

1

Nam

12,5%

55,4%

52,0%

41

48

7

Nữ

87,5%

44,6%

48,0%

92

100

8

Tổng cộng

100,0%

100,0%

100,0%

Crammer’V = 0,233 P = 0,020

Bảng 6: Giới và hành vi ép trẻ em quan hệ tình dục – Hà Nội

Mức ý nghĩa P = 0,02 cho thấy mối liên hệ giữa hai biến số này. Hệ số

Crammer’V = 0,233 tuy chƣa cho thấy mối liên hệ này là chặt chẽ nhƣng cũng

là cơ sở để ta có thể khẳng định mối liên hệ này có ý nghĩa nhất định.

Hành vi “Ép buộc quan hệ tình dục” là một hành vi có tính nhạy cảm cao,

nhiều trẻ em đƣờng phố tỏ ra e ngại trƣớc câu hỏi nên số liệu thu đƣợc từ các

bảng hỏi không nhiều và không phản ánh hết đƣợc thực tế. Tuy nhiên, con số

8% trẻ em đƣờng phố đƣợc hỏi tại Hà Nội và 5% tại Huế trả lời bản thân đã

từng bị cƣỡng ép QHTD hoặc bạn của các em đã bị cƣỡng ép QHTD không

phải là nhỏ. Tất cả các trƣờng hợp đã từng bị cƣỡng ép quan hệ tình dục đƣợc

nói đến trong các phỏng vấn sâu, các bảng hỏi trong mẫu khảo sát tại Huế và

Hà Nội đều là nữ.

“Mẹ em đi làm, em ở nhà với chị. Chị em đang ở đằng sau nhà. Ông ý vào

trong nhà lên giường nằm, gọi em vào nằm cùng. Ông ý trùm chăm rồi đè em

ra. Em hét lên, chị em nghe thấy chạy đi gọi mọi người về đánh nó một trận rồi

bắt nó đi. Ông ý làm em đau ở ngực, đau ở dưới. Mẹ đưa em đi bệnh viện khâu

rồi em ngủ mãi mới dậy. Ông ý bắt nạt em”

(Trường hợp trẻ em đường phố bị cưỡng hiếp lúc 5 tuổi, Hà Nội)

48

Câu chuyện mà các em gái trong nhóm thảo luận tại lớp học tình thƣơng

An Cựu, thành phố Huế kể cho chúng tôi là trƣờng hợp của một em gái 16 tuổi

đi bán vé số kiếm tiền phụ giúp gia đình. Em bị ngay chính những bạn trai cùng

trang lứa với mình cƣỡng hiếp.

Một trƣờng hợp em gái bị cƣỡng hiếp khi mới 5 tuổi. Đó là một trẻ em đƣờng

phố sống tại Hà Nội. Khi chúng tôi phỏng vấn em, bản thân em cũng vẫn chƣa

hiểu thực chất chuyện gì đã xảy ra với mình. Khi chúng tôi hỏi em có biết ông

ta đã làm gì mình không thì em nói chỉ biết rằng ngƣời đàn ông đó làm đau và

“bắt nạt” em.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em đƣờng phố bị xâm

hại tình dục. Nhƣ đã phân tích ở trên, trẻ em đƣờng phố chỉ là những nạn nhân

vô tội của sự nghèo đói. Bởi nghèo đói là nguyên nhân khiến trẻ em trở thành

những đứa trẻ của đƣờng phố, là nguyên nhân khiến trẻ em bị thất học, bị chối

bỏ quyền đƣợc chăm sóc và giáo dục và cũng chính là nguyên nhân khiến trẻ

em sa vào các tệ nạn xã hội nhƣ: trộm cƣớp, ma túy, cờ bạc, mại dâm. Nhƣng

dƣới con mắt của cộng đồng, trẻ em đƣờng phố gắn liền với sự nghèo đói, thất

học, phạm tội và những tệ nạn xã hội...Và xã hội đã từng nhìn nhận trẻ em

đƣờng phố nhƣ một nhóm “ngoài lề xã hội”, một nhóm xã hội cần đƣợc giám

sát và quản lý chặt chẽ hơn là đƣợc bao bọc, che chở. Chính sự dán nhãn của xã

hội đã làm cho nhóm trẻ em đƣờng phố càng trở nên yếu thế hơn. Và sự thờ ơ

của cộng đồng đối với những vấn đề mà trẻ em đƣờng phố đang phải đối mặt đã

vô tình tiếp tay cho những kẻ xấu xa.

Trong quá trình thực hiện các cuộc phỏng vấn với những trẻ em đƣờng

phố bị xâm hại tình dục, chúng tôi đã đƣợc phỏng vấn trƣờng hợp một em gái

tên N, 16 tuổi làm nghề bán hàng nƣớc ở vỉa hè. Vài ngày trƣớc khi chúng tôi

nói chuyện với em, em đã lên báo công an về vụ việc em bị ép đƣa vào nhà nghỉ

và buộc quan hệ tình dục. Chúng tôi đã thuyết phục đƣợc em chia sẻ câu

chuyện của mình. Em kể với chúng tôi đúng những gì em đã khai báo với công

an. Tuy nhiên trong quá trình trao đổi giữa chúng tôi và một cán bộ có liên quan

49

thì ngƣời cán bộ này nói với chúng tôi rằng vụ việc vẫn đang trong quá trình

điều tra nhƣng họ cũng có những suy đoán theo chiều hƣớng rằng vì em gái này

cũng đã có những biểu hiện ăn chơi đua đòi, nên có thể thực chất em đã hành

nghề mại dâm và khi khách hàng trả tiền không đúng với đòi hỏi thì em đã lái

sự việc sang hƣớng khác. Họ cũng nói với chúng tôi rằng bây giờ những vụ việc

tƣơng tự nhƣ vậy xảy ra không ít. Trong quá trình chúng tôi tiến hành nghiên

cứu tại đây thì sự việc mới xảy ra và đang thời gian lập hồ sơ để điều tra. Tuy

nhiên, những suy luận của công an và một vài cán bộ có liên quan cũng phần

nào thể hiện sự dán nhãn của xã hội đối với nhóm trẻ em đƣờng phố, đặc biệt là

nhóm trẻ em gái.

Bối cảnh xã hội, văn hóa Việt Nam cụ thể là những tàn dƣ của tƣ tƣởng

phong kiến trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại cũng là một yếu tố làm cơ sở cho tệ nạn xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố phát triển9, đặc biệt là hiện tƣợng xâm

hại tình dục trẻ em đƣờng phố nữ. Tƣ tƣởng bất bình đẳng giới mà trong đó, địa

vị của phụ nữ, trẻ em gái luôn đƣợc xếp vào một vị trí thấp kém trong xã hội

khiến cho trẻ em đƣờng phố nữ vốn không có sức mạnh để chống đỡ nay lại

càng không đƣợc coi trọng nên chúng có thể bị xâm hại bởi không chỉ ngƣời

lớn tuổi mà thậm chí là cả những đứa trẻ đƣờng phố nam.

Nhƣ vậy, dựa vào số liệu thu thập đƣợc ta có thể kết luận rằng tuỳ theo

từng cấp độ hành vi xâm hại tình dục thì trẻ em gái và trẻ em trai có những

nguy cơ khác nhau. Xét trong tất cả các hành vi xâm hại tình dục thì trẻ em

đƣờng phố nữ đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ bị xâm hại tình dục cao hơn

nhóm trẻ em đƣờng phố nam.

III. Nhận thức và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố

9 Nguyễn Xuân Nghĩa và các tác giả khác, Trẻ em bị lạm dụng tình dục, ĐH Mở Bán công TPHCM, 1998, trang 34

đối với những nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục

50

1. Nhận thức của trẻ em đƣờng phố đối với những hành vi và nguy

cơ bị xâm hại

Các kết quả nghiên cứu về trẻ em đƣờng phố đã đƣợc thực hiện cũng nhƣ

trong nghiên cứu này cho thấy, xét về trình độ học vấn thì đa phần các em ở

trình độ thấp, chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ biết đọc, biết viết. Xuất phát từ

điều kiện kinh tế khó khăn mà nhiều trẻ em đƣờng phố chƣa bao giờ đƣợc tới

trƣờng. Bên cạnh đó, các em lại không đƣợc trang bị các kiến thức về kỹ năng

sống, về quyền trẻ em, phòng chống xâm hại tình dục trẻ em. Vì vậy các em

không có đƣợc những hiểu biết cần thiết. Các em không biết mình có những quyền gì và càng không biết làm thế nào để bảo vệ quyền của mình10.

Kết quả thu đƣợc từ các cuộc phỏng vấn cho thấy hầu hết trẻ em đƣờng

phố trong mẫu nghiên cứu đều không hiểu biết đầy đủ về vấn đề xâm hại tình

dục trẻ em. Đặc biệt là nhóm trẻ em đƣờng phố đƣợc hỏi trong các cuộc thảo

luận nhóm đang theo học tại mái ấm 19-5 của quận Ba Đình, câu trả lời cũng

chỉ là “em không biết” hoặc “em đƣợc học rồi nhƣng em không nhớ”. Khi đƣợc

hỏi “Theo các em thì hành vi xâm hại tình dục trẻ em là những hành vi nào?”

thì các em đều khẳng định rằng XHTDTE là hành vi “cƣỡng hiếp hoặc ép buộc

“Xâm hại tình dục trẻ em là mấy chú, mấy anh lớn “làm bậy” với mình. Em có

trẻ em quan hệ tình dục.”

đứa bạn bị mấy anh chặn đường rồi “đè” nó. (“đè”, “làm bậy” là những từ ám

chỉ hành vi cưỡng hiếp)

(Trích thảo luận nhóm trẻ em gái, TP Huế)

Tƣơng tự nhƣ vậy, trong cuộc thảo luận nhóm trẻ em đƣờng phố nữ tại Hà Nội,

các em cho biết là mình đã đƣợc nghe thông tin về vấn đề xâm hại tình dục trẻ

em trên đài, báo, trên sách (tờ rơi, tài liệu các em đƣợc phân phát trong các lớp

10 Nguyễn Văn Đoàn, Một số yếu tố tác động của tệ nạn xã hội đến trẻ đường phố, Tạp chí Xã hội học, số 1(73), 2001

học tập huấn), từ trạm y tế phƣờng…nhƣng các em cũng chỉ khẳng định hành vi

51

XHTD là hành vi “lừa đảo, rủ rê hoặc ép buộc trẻ em làm chuyện bậy với

mình”. Và khi chúng tôi đề nghị các em kể thêm một số hành vi khác thì các em

nói rằng “không biết” hoặc “không nhớ”.

Tuy trẻ em đƣờng phố sớm tiếp xúc với môi trƣờng xã hội do phải bƣơn

chải kiếm sống ngoài đƣờng phố nhƣng các em vẫn là những trẻ em với trình độ

nhận thức non nớt. Mặc dù chúng đƣợc chứng kiến, tiếp nhận rất nhiều thông

tin khi lang thang kiếm sống hàng ngày trên đƣờng phố nhƣng sự tiếp nhận đó

là thụ động, không có định hƣớng hoặc đơn giản chỉ là việc nhìn thấy, nghe

thấy mà không hề có ý thức, nhận thức về những điều đó.

Một ví dụ chứng minh cho điều này là trƣờng hợp một bé gái 8 tuổi, là trẻ em

đƣờng phố hiện đang sống tại phƣờng Phúc Xá. Em đã từng bị cƣỡng hiếp từ

khi mới 5 tuổi. Mặc dù em đang theo học tại mái ấm 19-5, qua tìm hiểu

chƣơng trình học ở đây chúng tôi đƣợc biết là em cũng đã đƣợc học về quyền

trẻ em cũng nhƣ phòng chống xâm hại tinh dục trẻ em trong các buổi sinh

hoạt ngoại khoá. Tuy nhiên, khi đƣợc hỏi “em đã bao giờ nghe nói đến quyền

trẻ em chƣa?” Và “em đã đƣợc học về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em

chƣa thì em trả lời rằng chƣa bao giờ nghe nói đến hai nội dung này. Nhƣ

vậy, với em gái này, tuy đã phải trải nghiệm về vấn đề xâm hại tình dục và

đã đƣợc học về phòng chống xâm hại tình dục nhƣng vì em còn quá nhỏ và

nhận thức chƣa đầy đủ nên em không thể hiểu, thậm chí là nhớ đƣợc những

kiến thức mà em đã đƣợc học.

(Phỏng vấn sâu trẻ em đường phố nữ, 8 tuổi, Hà Nội)

Số liệu nghiên cứu cũng cho thấy các em nhận thức đƣợc rằng hành vi ép

buộc trẻ em QHTD với mình là một hành vi xâm hại tình dục trẻ em, vi phạm

quyền trẻ em. Tỷ lệ các em lựa chọn phuơng án có trong câu hỏi này rất cao:

- Huế: 72% em cho rằng hành vi này là vi phạm quyền trẻ em.

- Hà Nội: 91% em cho rằng hành vi này là vi phạm quyền TE

52

Biểu đồ 4: Ép buộc trẻ em quan hệ tình dục với mình có vi phạm quyền trẻ em không

Biểu đồ 4 cho chúng ta thấy có sự chênh lệch trong tỷ lệ lựa chọn phƣơng án

“hành vi ép trẻ em quan hệ tình dục với mình là vi phạm quyền trẻ em” giữa

nhóm TEĐP tại Huế và Hà Nội. Sở dĩ có sự chênh lệch về tỷ lệ trong hai nhóm

trẻ em này là do ở Huế, các em chƣa đƣợc học về quyền trẻ em vì vậy mà các

em không hiểu thế nào là vi phạm quyền trẻ em. Trong khi đó, nhƣ đã phân tích

ở trên, đa số nhóm trẻ em đƣờng phố tại Hà Nội đã đƣợc học về phòng chống

XHTDTE trong các dự án của một số tổ chức phi chính phủ.

Tuy rằng đa số các em đƣợc hỏi đã nhận thức đƣợc hành vi “Ép buộc trẻ

em quan hệ tình dục với mình là vi phạm quyền trẻ em” nhƣng các em lại tỏ ra

băn khoăn đối với một số cấp độ hành vi XHTD khác hoặc cho rằng đó chƣa

phải là hành vi XHTDTE. Trong các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm,

khi đƣợc hỏi “Những hành vi nhƣ động chạm vào ngƣời có phải là XHTD

không?” thì phần lớn các em trả lời là “có”. Nhƣng với các hành vi nhƣ “trêu

ghẹo bằng những lời lẽ thô tục” hay “cho trẻ em xem phim, ảnh đồi truỵ” thì

các em lại trả lời “Không phải” và giải thích là “những hành vi đó chƣa gây hậu

quả gì”.

“Cho xem tranh ảnh bậy bạ chưa phải là xâm hại tình dục vì nó chưa gây hậu

quả gì nghiêm trọng”

(Trẻ em đường phố nữ, Hà Nội)

53

Điều này cũng thể hiện khá rõ ở nhóm trẻ em đƣờng phố đƣợc phỏng vấn

bằng bảng hỏi. Kết quả phân tích số liệu cho thấy tỷ lệ các em cho rằng 6 cấp

độ hành vi đƣợc liệt kê không phải là hành vi XHTDTE chiếm khá cao.

Kết quả thu đƣợc cũng cho thấy tỷ lệ trẻ em đƣờng phố tại Huế cho rằng

các hành vi này không vi phạm quyền trẻ em cũng cao hơn nhóm trẻ em ở Hà

Nội trong tất cả các cấp độ hành vi đƣợc đƣa ra. Lý giải đƣa ra cũng tƣơng tự

nhƣ trên, tỷ lệ các em trong nhóm TEĐP tại Huế đƣợc học về quyền trẻ em và

phòng chống xâm hại tình dục trẻ em rất thấp nên các em không có kiến thức về

hai vấn đề này.

Biểu đồ 5: Các hành vi này không vi phạm quyền trẻ em

Khi so sánh tƣơng quan giữa nhận thức về quyền trẻ em với nhận thức về hành

vi XHTDTE trong nhãm trÎ em ® êng phè ë HuÕ, trong sè 38 em ch a bao giê

nghe vÒ QuyÒn trÎ em th× tû lÖ lùa chän ph ¬ng ¸n c¸c hµnh vi XHTD TE ® îc

® a ra lµ kh«ng vi ph¹m quyÒn trÎ em kh¸ cao. (ThÊp nhÊt lµ 39,5% vµ cao nhÊt

lµ 63,2% cho c¸c cÊp ®é hµnh vi.

54

Biểu đồ 6: Nhận thức về quyền trẻ em và XHTD

Tuy møc ý nghÜa P vµ hÖ sè Crammer’sV kh«ng cho chóng t«i cã thÓ kh¼ng

®Þnh mèi liªn hÖ gi÷a hai biÕn sè nµy nh ng sè liÖu thu ® îc còng phÇn nµo thÓ

hiÖn r»ng cã mét xu h íng lµ khi kh«ng hiÓu biÕt về quyền trẻ em th× c¸c em

d êng nh còng kh«ng cã khả năng nhận biết những hành vi XHTD trẻ em

® îc ® a ra cã vi ph¹m quyÒn trÎ em hay kh«ng.

2. Hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố trƣớc nguy cơ

bị xâm hại

Nhƣ đã phân tích trong phần thực trạng xâm hại tình dục trẻ em trong

mẫu nghiên cứu cho thấy, hầu hết các em đều đã từng gặp phải một trong

những hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Số liệu thu đƣợc từ các em trong mẫu

điều tra tại Huế cho thấy, trong số những em đã từng gặp phải các tình huống

XHTD thì có 52,5% em chọn phƣơng án không kể với cha mẹ hay bất kỳ ai về

chuyện này. Việc các em không kể chuyện này với ai do 2 nguyên nhân.

Một là, trẻ em đặc biệt là trẻ em gái tỏ ra rất sợ hãi hoặc xấu hổ nên khi

gặp các tình huống này các em không dám kể chuyện với ai và chỉ im lặng.

55

“Mới đầu thì em thấy rất sợ và xấu hổ lắm, lúc đó em tức lắm chỉ muốn chửi,

em nghĩ em mà khoẻ thì em sẽ đánh những người đấy nhưng mà không làm

được vì chửi lại thì sợ họ đánh nên em chỉ bỏ đi thôi.”

(Trẻ em đường phố nữ, 16 tuổi, Hà Nội)

Hai là, các em không kể chuyện này với ai vì các em gặp nhiều và xem

những hành vi đó là bình thƣờng. Khi tiếp xúc nhiều lần với các hành vi quấy

rối tình dục sẽ hình thành nên trong quan niệm và hành vi của các em một sự

chấp nhận những khuôn mẫu hành động đó. Trƣớc tiên, dẫn đến quan niệm cho

rằng những hành vi quấy rối tình dục chƣa gây hậu quả trực tiếp nhƣ hành vi ép

buộc quan hệ tình dục nên đó chƣa phải là hành vi XHTD hoặc chỉ là những

hành vi trêu ghẹo thông thƣờng. Và từ quan điểm đó dần dần các em có xu

hƣớng trở nên thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó.

“Sau này em đi bán nhiều, gặp nhiều rồi thì lại không còn sợ như lúc đầu nữa

mà chỉ cảm thấy tức giận và xấu hổ thôi”

( Trẻ em đường phố nữ, 16 tuổi, Hà Nội)

Chính vì vậy mà có một số em, lần đầu tiên gặp các hành vi này các em

cũng đã đem chuyện này kể với ngƣời khác (kể với bạn bè nhiều hơn là kể với

cha mẹ, ngƣời thân trong gia đình). Còn trong các lần sau nếu gặp thì các em lại

có xu hƣớng giấu kín chuyện của mình.

Có sự khác biệt trong hành vi này giữa 2 nhóm TEĐP, tại Hà Nội có

78,0% em đã từng trải qua một trong các hành vi XHTD sẽ kể chuyện này cho

cha mẹ hay bất kỳ ai về chuyện này. Trong khi đó, tại Huế, trong tổng số em

trả lời câu hỏi này thì chỉ có 41,7% sẽ kể chuyện này cho ngƣời khác nghe.

Điều này xuất phát từ nguyên nhân nếu trẻ em đƣờng phố chƣa bao giờ đƣợc

trang bị kiến thức phòng chống XHTDTE thì nhóm trẻ em đƣờng phố trong

mẫu nghiên cứu tại Hà Nội đã đƣợc tham gia tập huấn hoặc các buổi sinh hoạt

ngoại khoá với nội dung này nên it nhiều các em cũng đã đƣợc tiếp cận với vấn

đề cũng nhƣ các kỹ năng phòng tránh XHTDTE.

56

Đối với nhóm trẻ em chƣa từng gặp phải các hành vi XHTDTE thì hành

vi của các em cũng có xu hƣớng giống nhau là né tránh trƣớc, hoặc bỏ chạy

hoặc không làm gì cả. Đa số các em lựa chọn cách giải quyết này là nữ. Một số

ít các em có phản ứng mạnh hơn nhƣ mắng, chửi lại hoặc tri hô kêu cứu. Đa số

các em chọn cách phản ứng này là nam. Sở dĩ có sự khác biệt trong cách phản

ứng này giữa nhóm trẻ em nam và nhóm trẻ em nữ là do đặc điểm tính cách

giới. Tính cách của các em nữ thƣờng xấu hổ, nhút nhát, sợ sệt hơn nên các em

nghĩ chuyện này là chuyện không hay và nếu kêu lên thì các em sẽ bị mọi ngƣời

đánh giá về nhân cách.

Trong các phƣơng án mà chúng tôi nêu ra thì cách giải quyết không tìm

đến trung tâm tƣ vấn dành cho trẻ em và không gọi điện thoại đến đƣờng dây

nóng có tỷ lệ lựa chọn thấp nhất. Đặc biệt là nhóm trẻ em đƣờng phố tại Huế, tỷ

lệ không lựa chọn hai hai hình thức hỗ trợ trẻ em này là 94,0% và 95,0% .

Biểu đồ 7: Hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ từ các trung tâm trợ giúp11 TE và đường dây nóng 12 - HuÕ

11 Trung tâm Tƣ vấn, Dịch vụ DS, GĐ và TE là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Uỷ ban DSGĐTE tỉnh có chức năng giúp Chủ nhiệm Uỷ ban DSGĐTE tỉnh tổ chức triển khai các hoạt động tƣ vấn, thực hiện các dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực dân số, gia đình và trẻ em trên địa bàn. Nội dung hoạt động của Trung tâm bao gồm hoạt động tƣ vấn và hoạt động dịch vụ, trong đó hoạt động tƣ vấn về lĩnh vực Dân số/KHSS/KHHGĐ, về lĩnh vực gia đình, về lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em

12 Số điện thoại miễn phí 18001567 đƣợc Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thiết lập cuối năm 2004 với sự tài trợ của tổ chức Plan. Số điện thoại miễn phí này phục vụ từ 7 đến 21 giờ các ngày trong tuần. Đây là một tổng đài trợ giúp những trẻ em đang gặp khó khăn về mọi phƣơng diện nhƣ trắc trở trong quan hệ với gia đình, bạn bè, nhà trƣờng, lo lắng về sức khỏe, tâm sinh lý, bị đe dọa, hành hạ về thể xác và tinh thần, bị lạc đƣờng... Các

57

Trong cuộc phỏng vấn với cán bộ dân số gia đình và trẻ em của phƣờng

Phú Hậu, một phƣờng có tỷ lệ trẻ em cao nhất của thành phố Huế, chúng tôi có

tìm hiểu về hoạt động của hai hình thức hỗ trợ trẻ em này thì đƣợc biết, hầu hết

các ca tƣ vấn hoặc hỗ trợ đã thực hiện bởi trung tâm tƣ vấn hoặc đƣờng dây

nóng thì đều liên quan đến các trẻ em trong gia đình. Các em có điều kiện đƣợc

tiếp cận với các thông tin về đƣờng dây nóng, có khả năng sử dụng điện thoại

hoặc đƣợc cha mẹ trực tiếp dẫn đến trung tâm xin tƣ vấn. Nếu nhƣ những điều

kiện về thông tin cũng nhƣ vật chất đối với trẻ em trong gia đình là thuận lợi thì

đối với nhóm trẻ em đƣờng phố thì những điều kiện này không hề dễ dàng.

Chính vì vậy mà trong suy nghĩ và hành động của các em không có hình ảnh về

một đƣờng dây nóng hay một trung tâm hỗ trợ trẻ em.

IV. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến nhận thức của trẻ em đƣờng phố

trƣớc những nguy cơ và hành vi bị xâm hại tình dục.

1 Môi trƣờng sống của trẻ em đƣờng phố

Môi trƣờng sống của trẻ em đƣờng phố trong nghiên cứu này đƣợc chúng

tôi xác định bao gồm các yếu tố nhƣ lối sống của các thành viên trong gia đình,

của cộng đồng xung quanh. Đây là một trong những môi trƣờng xã hội hoá

đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của trẻ em.

Nhóm trẻ em đƣờng phố mà chúng tôi lựa chọn để khảo sát không có

trƣờng hợp nào thuộc nhóm vô gia cƣ. Các em đều có một nơi cƣ trú sau một

ngày kiếm sống. Với những em di cƣ cùng gia đình (nhóm trẻ em đƣờng phố ở

Hà Nội), gia đình các em thƣờng thuê một chỗ trọ cố định theo tháng. Những

trẻ di cƣ một mình lên thành phố thƣờng tập trung với một bạn hay một nhóm

tƣ vấn viên (đều là cử nhân trở lên, thuộc các chuyên ngành luật, y, tâm lý học, xã hội học...) giúp đỡ trẻ trên 4 cấp độ can thiệp: cung cấp thông tin và hƣớng dẫn; liên hệ với gia đình và những ngƣời liên quan tới vấn đề của trẻ; kết nối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề của trẻ; kết nối khẩn cấp cùng lúc với nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn để kịp thời hành động.

bạn cùng thuê một chỗ nghỉ trọ. Tuy nhiên, bản thân cha mẹ cũng nhƣ các trẻ

58

em di cƣ một mình dƣờng nhƣ không mấy quan tâm đến điều kiện ăn ở, sinh

hoạt. Với họ, chỗ nghỉ trọ chỉ là nơi cất đồ đạc và ngủ đêm. Bởi vì hầu hết thời

gian trong ngày của cha mẹ và các em đều dành cho các công việc kiếm sống

trên đƣờng phố. Do vậy, dù phải sống trong một điều kiện ăn ở chật chội, ẩm

thấp vào mùa mƣa, nóng nực vào mùa hè, hay lênh đênh trên thuyền thì gia

đình và các em cũng không cho đó là điều đáng lo ngại. Bên cạnh đó, vì điều

kiện kinh tế eo hẹp nên trẻ em đƣòng phố phải thuê/hay sống cùng gia đình ở

những ngôi nhà/ chỗ trọ với những điều kiện sống rất kém. Nhiều em sống cùng

gia đình trong những phòng trọ tập thể với giá thuê là 2000-3000 đồng 1 ngƣời

cho một đêm. Hoặc có nhóm trẻ em đƣờng phố đang sống cùng gia đình trên

những con thuyền cũ nát không có cửa che chắn (nhóm trẻ em sống tại bãi sông

Hồng, phƣờng Phúc Xá, Hà Nội và nhóm trẻ em sống tại phƣờng Kim Long,

thành phố Huế).

Sống trong một điều kiện nhà ở không đảm bảo an toàn trong khi các em

còn quá nhỏ nên các em không nhận thức đƣợc rằng các em có thể đối mặt với

nguy cơ bị xâm hại tình dục ngay chính nơi ở của mình.

“Nhiều gia đình bố đi làm ăn xa ở trong Nam. Mẹ thì đi buôn bán hoa quả từ

tối đến sáng sớm mới về. Chỉ có mấy chị em gái ở trên thuyền không có cửa che

chắn nên nguy cơ các em bị xâm hại tình dục là rất cao”

(Cán bộ phường Phúc Xá, Hà Nội)

“Những trẻ em di cư sống trong các nhà trọ tập thể như thế thì có nguy cơ bị

chính những người cùng thuê trọ xâm hại tình dục”

(Cán bộ Mái ấm 19/5 quận Ba Đình, Hà Nội)

Không chỉ sống trong điều kiện vật chất nghèo nàn, các em còn phải sống

trong một môi trƣờng ô nhiễm và tập trung nhiều loại tệ nạn xã hội nhƣ cờ bạc,

nghiện hút, trộm cắp, mại dâm...

“Ở đây có bến xe, chợ Long Biên nhiều khách thập phương qua lại nên trẻ em

đường phố dễ nhiễm các tệ nạn xã hội, chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi

59

trường. Trẻ đường phố phần nhiều sống ở xóm trọ ven sông Hồng hoặc sống

trên thuyền. Môi trường sống không đảm bảo nên nhiều em bị ghẻ lở và các

bệnh khác. Khu vực này tình trạng tiêm chích xảy ra nhiều nên nguy cơ các em

nghiện ngập, nhiễm HIV/AIDS và bị xâm hại tình dục cao. Nhiều trẻ sống trên

thuyền bị mù chữ. Các em có rất nhiều cái khó khăn mà địa phương chưa hỗ trợ

được”.

(Cán bộ phường Phúc Xá, Hà Nội)

Mại dâm, ma tuý, trộm cắp, đánh bạc, nghiện rƣợu v.v là những loại tệ

nạn xã hội mà trẻ em đƣờng phố chứng kiến hàng ngày. Đôi khi nó không chỉ

xảy ra xung quanh các em mà còn xảy ra trong gia đình, nhóm bạn bè của trẻ.

Môi trƣờng sống trong đó lối sống của cộng đồng xung quanh là một môi

trƣờng xã hội hoá ảnh hƣởng rất lớn đến nhận thức và hình thành nên lối sống

của một đứa trẻ. Nếu hàng ngày, một đứa trẻ phải chứng kiến những hình ảnh,

những câu chuyện xung quanh việc mua bán dâm thì những hình ảnh, câu

chuyện ấy có xu hƣóng trở thành bình thƣờng và dễ chấp nhận đối với nó.

Không ít trẻ em sống trong môi trƣờng xã hội này đã bị lôi kéo, dụ dỗ sa chân

vào các tệ nạn xã hội.

“Bà con từ thôn quê ra đây lao động, từ chỗ khó khăn ra đây có tiền nên cũng

đua đòi chơi bời, sa vào tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, cướp giật, đủ các

kiểu”

(Chính quyền địa phương phường Phúc Xá, Hà Nội)

Ở thành phố Huế, ngoài một nhóm trẻ em đƣờng phố phải sống cùng gia

đình trên thuyền thì các em đƣợc sống trong điều kiện nhà ở đảm bảo an toàn

hơn. Vì phần lớn các em đƣợc sống trong chính ngôi nhà của gia đình mình.

Nhƣng điều đó cũng không có nghĩa là các em đƣợc sống trong một môi trƣờng

an toàn và có sự giáo dục tốt. Bởi hầu hết các em cũng xuất thân từ những gia

đình nghèo, cha mẹ có trình độ học vấn thấp. Mặc dù các em đƣợc sống trong

60

ngôi nhà của mình nhƣng cách sống của những ngƣời thân trong gia đình không

tạo cho các em một môi trƣờng sống trong sạch.

“Ở nhà anh em chửi bậy, xong rồi chửi mẹ em “Đ.mẹ mi” cứ uống rượu rồi về

mà chửi. Khi mô mà anh uống rượu say thì anh chửi em: “Đ.mẹ mi””

(Trẻ em đường phố thành phố Huế)

“Giỏ nhà ai, quai nhà nấy” - điều này khẳng định sự quan trọng của môi

trƣờng gia đình trong quá trình xã hội hoá hình thành và phát triển nhân cách

của mỗi cá nhân. Lối sống của cha mẹ, các thành viên trong gia đình phần nào

tạo nên lối sống của trẻ em.

Sống trong một môi trƣờng vật chất tạm bợ; một môi trƣờng gia đình,

cộng đồng xã hội không lành mạnh trẻ em đƣờng phố không những phải đối

mặt với nguy cơ bị xâm hại tình dục mà còn chịu những ảnh hƣởng xấu tới quá

trình hình thành và phát triển nhân cách cũng nhƣ nhận thức của trẻ em.

2 Môi trƣờng làm việc – Quá trình tiếp nhận thông tin ngoài xã hội

Trẻ em đƣờng phố gặp rất nhiều khó khăn trên bƣớc đƣờng kiếm sống.

Cuộc điều tra về trẻ em đƣờng phố (1996) của Viện Xã Hội Học đã đƣa ra nhận

định rằng đằng sau vẻ rắn rỏi, cách ăn nói xấc xƣợc của trẻ em đƣờng phố là

một tâm hồn non nớt đầy lo âu sợ hãi vì trẻ em đƣờng phố thƣờng xuyên phải

đối mặt với nguy cơ bị đánh đập, trấn lột, bị công an thu gom, sợ không kiếm

đƣợc tiền…

Thông tin thu đƣợc từ các cuộc phỏng vấn cho thấy những khó khăn mà

trẻ em đƣờng phố gặp phải nhiều nhất là: bị quỵt tiền, bị cƣớp tiền, bị đánh đập,

chửi mắng...bởi những ngƣời lớn, khách hàng.

Trƣờng hợp của em H. 10 tuổi sống tại phƣờng Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội.Em

làm nghề nhặt giấy rác để phụ giúp mẹ. Em kể với chúng tôi rằng buổi sáng

sớm em và mấy đứa bạn rủ nhau đi nhặt tôm từ 5,6 giờ sang ở chợ Long Biên

còn ban ngày thì em đi nhặt giấy, rác. .Trong lúc ngƣời ta đổ tôm từ chậu này

61

sang chậu kia, tôm nhảy ra ngoài thì các em xông vào nhặt rồi chạy, đƣợc bao

nhiêu thì mang đi bán. Nhiều khi chạy không kịp, các em bị những ngƣời bán

tôm đánh. Có lần ngƣời ta đạp vào bụng, có lần ngƣời ta dội cả chậu thau nƣớc

tôm vào ngƣời các em ƣớt từ trên đầu xuống chân

Trẻ em đƣờng phố không chỉ gặp những khó khăn đến từ những ngƣời

khách hàng, những ngƣời chủ thuê lao động mà chính sự bấp bênh, khó khăn

của cuộc sống đƣờng phố cũng khiến các em cũng phải cạnh tranh, giành giật

miếng cơm, manh áo của nhau.

“Em bị các anh đánh.Có lần các anh cướp của em và đánh em”

(TLN trẻ em đường phố nữ, Phúc Xá, Hà Nội)

Biểu đồ 8 Những khó khăn của TEĐP khi làm việc

Trẻ đƣờng phố thƣờng làm việc một mình, rất ít khi các em đi cùng nhóm

bạn vì công việc mang tính chất cạnh tranh. Chính vì vậy nên các em gái dễ rơi

vào tình huống nguy hiểm, dễ bị xâm hại tình dục.

“Có trường hợp một em gái đi bán về khuya không thấy về nhà, sáng hôm sau

người ta tìm thấy em đó ở ngoài cánh đồng của một vùng ven thành phố trong

tình trạng quần áo rách hết. Em đó bị mấy thanh niên hãm hiếp.”

(Cán bộ UBĐSGĐTE phường Phú Hậu)

62

Thời điểm làm việc cũng là một yếu tố dẫn đến nguy cơ bị xâm hại tình

dục đối với trẻ em đƣờng phố nữ. Các em thƣờng bắt đầu làm việc từ 6h sáng

và trở về nhà lúc 10h tối. Một số công việc hay phải làm đến khuya nhƣ bán

hàng rong, nhặt giấy rác ở chợ, phục vụ cho các quán nhậu, quán cà phê, nhà

hàng v.v là các công việc mà các em gái thƣờng làm.

“Em đi bán hàng thường thì 8, 9h tối em mới về. Những lúc về khuya như

thế em cũng thấy nguy hiểm lắm chị ạ. Nhà em thuê nhà ở tận bên Gia Lâm. Có

nhiều khi đi về muộn, đi qua cầu Long Biên em hay bị người ta trêu ghẹo, đuổi

theo. Có hôm em còn gặp cả mấy thằng nghiện trấn lột tiền của em.”

(Trẻ em đường phố nữ, 16 tuổi, Gia Lâm, Hà Nội)

Trẻ em đƣờng phố làm việc trên đƣờng phố, trong các quán nhậu, tại các

chợ, bến tàu, bến xe v.v là nơi tập trung nhiều tệ nạn xã hội. Các em luôn phải

đối mặt với những nguy cơ bị xâm hại tình dục. Trong các cuộc thảo luận nhóm

hay phỏng vấn sâu với các trẻ em gái, chúng tôi nghe đƣợc nhiều câu chuyện về

những lần các em bị những “chú”, “anh” lớn, có cả những ngƣời không quen và

những ngƣời quen biết “đập vào lƣng, vào ngực” các em (Nhóm trẻ em đƣờng

phố phƣờng Phúc Xá, Hà Nội) hoặc buông ra những lời nói tục tĩu, hoặc “tán

tỉnh, trêu ghẹo, kể chuyện bậy bạ trước mặt em” (Trẻ em đƣờng phố nữ, Phúc

Xá, Hà Nội)

Trƣờng hợp em N, 16 tuổi, làm nghề bán hàng nƣớc ở vỉa hè. Em kể với

chúng tôi về cuộc sống khó khăn của mình. Hàng ngày em ngồi bán hàng nƣớc

ở gần cây xăng dốc Hàng Bún, nơi có bến xe bus, bến xe ô tô gần đó. Vì nhà

nghèo nên em phải sớm ra đƣờng kiếm sống phụ giúp mẹ nuôi sống gia đình và

nuôi các em. Trƣớc khi bán hàng nƣớc, em đã đi bán vé số dạo nhƣng tuổi của

em đã lớn nên việc bán vé số không còn kiếm đƣợc nhiều tiền nhƣ các em nhỏ

tuổi hơn. Cuộc sống mƣu sinh của em gặp rất nhiều khó khăn, vất vả. Vì bán

hàng ngoài hè đƣờng nên em đã bị công an gom đi 3 lần lên Ba Vì. Khách hàng

của em là những ngƣời lái xe bus, xe ôm và những ngƣời đi đƣờng. Hàng ngày

63

em đƣợc nghe rất nhiều các câu chuyện từ những ngƣời khách hàng. Họ thản

nhiên kể cho nhau nghe những câu chuyện bậy bạ, tục tỉu. Em còn thƣờng

xuyên bị những ngƣời khách trêu trọc, có ngƣời cầm tay em, có ngƣời trêu ghẹo

em, tán tỉnh em, sờ vào ngƣời em. Lúc đó em không thích nhƣng em chỉ rụt tay

lại hoặc cố gắng né tránh những hành động đó và không dám nói gì vì họ ngồi

uống nƣớc hàng ngày vì chính họ mang lại cho gia đình em một khoản thu

nhập. Em ngồi bán hàng nhƣ vậy, những chuyện đó đã trở thành những chuyện

diễn ra hàng ngày.

George Homans ®· ® a ra m« h×nh ”lùa chän hîp lý” cña hµnh vi c¸ nh©n

theo c¸c nguyªn t¾c c¬ b¶n ®ã lµ nÕu mét d¹ng hµnh vi ® îc th ëng hay cã lîi

th× hµnh vi ®ã cã xu h íng lÆp l¹i vµ hµnh vi ® îc th ëng hay ® îc lîi trong

hoµn c¶nh nµo th× c¸ nh©n cã xu h íng lÆp l¹i hµnh vi ®ã trong hoµn c¶nh t ¬ng

tù nh vËy. Những khó khăn trên bƣớc đƣờng kiếm sống, mục đích kiếm tiền

phụ giúp gia đình, duy trì cuộc sống cho gia đình và cho chính bản thân đƣợc

đặt lên hàng đầu trong c¸c ho¹t ®éng sèng cña c¸c em. Chính mục đích kinh tế

đã không chỉ tạo nên sức ép đối với trẻ đƣờng phố mà còn khiến các em bị dụ

dỗ, lôi kéo hoặc dễ dàng đi đến lựa chọn/chấp nhận c¸c hµnh vi quÊy rèi t×nh

dôc tõ phÝa nh÷ng ng êi kh¸ch hµng.

Trong lý thuyết trao ®æi xã hội của mình, George Homans cũng khẳng

định rằng ”NÕu nh phÇn th ëng hay mèi lîi ®ñ lín th× c¸ nh©n sÏ s½n sµng bá

ra nhiÒu “chi phÝ vËt chÊt vµ tinh thÇn ®Ó ®¹t ®­îc nã”. Trong nhiều trƣờng hợp,

sau các “cuộc trao đổi”, với những gì mà các em đạt đƣợc dƣờng nhƣ càng

khẳng định sự lựa chọn của các em là hợp lý, có giá trị. Dần dần, nó có thể trở

thành khuôn mẫu hành vi của các em.

“Một người đàn ông Đài Loan sang Việt nam làm ăn buôn bán. Mỗi tháng ông

ta hẹn cháu này đi đánh giầy ở một đường phố nhất định để ông ta gặp rồi đưa

đi chơi xa một tuần. Ông ta thuê phòng nhưng nhốt cháu bé đó trong phòng cho

nó ăn ngon, mặc đẹp rồi thực hiện các hành vi thoả mãn nhu cầu của ông ta.

64

Thực ra lúc đầu em này không chấp nhận nhưng mà vì nghèo khổ quá lại được

cho quần áo mới, cho tiền nên sau đó lại chấp nhận làm việc này.”

(Cán bộ UBDSGDTE thành phố Hà Nội)

Đặc biệt, nhiều trẻ em gái đang phải kiếm sống bằng nghề phục vụ tại các

quán nhậu, nhà hàng v.v. Các quán nhậu, quán cà phê, nhà hàng là nơi tập trung

nhiều nam giới. Các em gái bán hàng tại những địa điểm này thƣờng bị khách

hàng nam giới trêu ghẹo hoặc có những hành vi quấy rối tình dục nhƣ trêu chọc

gợi ý tình dục, nhìn/đụng chạm vào cơ thể.

“Các em thường đi bán tại các quán nhậu khách hàng hầu hết là nam giới, khi

uống rượu bia vào rồi thì có nhiều hành vi quá khích hoặc không tự chủ được

hành vi của mình”

(Cán bộ UBDS GĐTE phường Phú Hậu)

Nhƣng vì mục đích kiếm tiền nên nhiều khi các em phải chấp nhận

những hành vi này.

Phản ứng chấp nhận những hành vi xâm hại tình dục của trẻ em đƣờng

phố không chỉ là một dạng phản ứng có ý thức bắt nguồn từ mục đích kinh tế

mà còn là sự chấp nhận một cách không có ý thức. Đây cũng là một hệ quả bắt

nguồn từ nhận thức của trẻ em đƣờng phố đối với một số hành vi quấy rối tình

dục. Nhƣ đã phân tích trong phần nhận thức của trẻ em đƣờng phố về 6 cấp độ

hành vi xâm hại tình dục, tỷ lệ trẻ em trong khảo sát cho rằng những hành vi

nhƣ: nói những lời lẽ thô tục gợi ý tình dục, cho trẻ em xem tranh ảnh bậy bạ,

đụng chạm vào cơ thể của trẻ em, phô bày bộ phận sinh dục của mình cho trẻ

em xem…chƣa phải là hành vi xâm hại tình dục chiếm khá cao. Điều này xuất

phát từ môi trƣờng làm việc hàng ngày của trẻ em là trên đƣờng phố hay tại một

số địa điểm nhƣ chợ, công viên, quán bar, nhà hàng v.v nơi những hành vi quấy

rối tình dục diễn ra một cách phổ biến. Hàng ngày, các em phải nghe những câu

nói tục, chửi bậy nên chúng trở nên quen thuộc và thậm chí là chính các em

cũng có thể nói những câu, từ ấy. Các em có thể cảm thấy tức giận, hoặc xấu hổ

65

khi lần đầu tiên phải đối diện với những tình huống này. Nhƣng khi những hành

vi ấy lặp đi lặp lại hàng ngày trong khi lang thang kiếm sống thì nhiều em đặc

biệt là cả các em gái cũng trở nên chai sạn trƣớc những hành vi mà các em cho

là chƣa gây hậu quả nghiêm trọng nhƣ: đụng chạm vào cơ thể, nói những lời lẽ

“Các bạn em cũng hay bị trêu như vậy chị a. Nhưng em thấy nhiều bạn chẳng

thô tục ám chỉ tình dục, phô bày bộ phận sinh dục…

ngại những chuyện đó đâu. Người ta trêu ra nắm tay hoặc ôm thì các bạn ý vẫn

cười nói với người ta như thường thậm chí có bạn bạo hơn còn ôm lại cơ chị ạ.

Em nghĩ các bạn ý thấy chuyện đấy là bình thường nhưng em thấy không nên

làm vậy vì có thể sẽ dẫn đến những hậu quả không hay”

(Ttrẻ em đường phố nữ, 16 tuổi, Hà Nội)

Chúng tôi đã tiến hành quan sát một số trẻ em gái đƣờng phố khi chúng

tiếp xúc với những khách hàng là nam giới. Có những em gái khi bị khách hàng

trêu chọc, đụng chạm vào cơ thể vẫn tỏ thái độ bình thƣờng và kiên nhẫn mời

mua hàng. Một em gái khoảng 14 tuổi bán lạc rang thậm chí còn ngồi đối đáp

lại những lời trêu ghẹo của khách hàng là nam giới.

Những phân tích trên cho chúng ta thấy rõ, môi trƣờng làm việc cũng là

một trong những môi trƣờng xã hội hoá có ảnh hƣởng quan trọng đối với trẻ em

đƣờng phố. Hai phần ba thời gian trong ngày của trẻ đƣờng phố thuộc về đƣờng

phố với những mối quan hệ giao tiếp đƣợc thực hiện trong khi kiếm sống. Có

thể nói, các em tiếp nhận thông tin, tiếp nhận các sự kiện diễn ra xung quanh

mình một cách rất tự do, không định hƣớng, không chọn lọc. Trẻ em đƣờng phố

học hỏi và hình thành nhân cách phần lớn từ những mối quan hệ giao tiếp trên

đƣờng phố, từ những thông tin mà chúng thu nhận đƣợc trong các mối quan hệ

xã hội ấy.

3 Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với trẻ em đƣờng phố

66

Trẻ em đƣờng phố tại hai thành phố đều xuất thân từ những gia đình

nghèo hoặc những gia đình có hoàn cảnh rất phức tạp. Các em thƣờng không có

đủ bố, mẹ hoặc phải sống với bố dƣợng, mẹ ghẻ. Để tìm đƣợc một công việc ổn

định và có thu nhập đối với cha mẹ các em là hết sức khó khăn, vì vậy, cha mẹ

của các em thƣờng chỉ kiếm đƣợc các công việc lao động chân tay nhƣ: bán

nƣớc chè, xe ôm, bán hoa quả…Một đặc điểm nữa là công việc của cha mẹ các

em đòi hỏi phải có mặt cả ngày, cả tối ở ngoài đƣờng. Bản thân cha mẹ các em

là những ngƣời có trình độ học vấn thấp cộng với việc phải lăn lộn vất vả kiếm

sống vì vậy, họ không thể có đủ thời gian và điều kiện để chăm sóc cũng nhƣ

quan tâm đến các em.

“ Các em đều sinh trưởng trong các gia đình cha mẹ thiếu hiểu biết, trình độ

học vấn thấp, kinh tế khó khăn, chỉ mải mê lo chuyện cơm áo gạo tiền nên việc

giáo dục con cái cũng như quan tâm đến con cái là không có.”

(Cán bộ UBDSGDTE phường Phú Hậu, Huế)

Có thể nói, sự thiếu hiểu biết về quyền trẻ em, về giới tính và vấn đề xâm

hại tình dục là một trong những nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ bị

xâm hại tình dục của trẻ em đƣờng phố. Khi phỏng vấn những trƣờng hợp trẻ

em gái bị xâm hại tình dục thì thấy rằng, cha mẹ chƣa bao giờ nói chuyện với

các em về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em. Không ít cha mẹ các em có quan

niệm rằng “số nó (đứa trẻ) không may”, nghĩa là mỗi ngƣời sinh ra đều có một

số phận do ông trời quyết định, họ không thể thay đổi số phận, họ chỉ có thể

làm giảm bớt nỗi đau mà thôi.

Những kiến thức về giới tính, tình dục rất cần thiết đối với trẻ em đang

trong lứa tuổi dậy thì. Nắm bắt đƣợc những kiến thức này, các em có thể giải

thích và có cách ứng xử phù hợp với những thay đổi cơ bản đang diễn ra về mặt

tâm sinh lý và thể chất đồng thời có đủ nhận thức để xây dựng các mối quan hệ

lành mạnh, phòng tránh đƣợc những hậu quả do hành vi tình dục không an toàn

đem lại. Trẻ em đƣờng phố càng cần phải đƣợc trang bị những kiến thức này

67

bởi phần lớn trẻ đang phải sống cũng nhƣ làm việc trong một điều kiện và môi

trƣờng không an toàn. Do đặc điểm công việc, trẻ em đƣờng phố phải thiết lập

và chịu ảnh hƣởng bởi rất nhiều các mối quan hệ ngoài xã hội. Tuy nhiên, trẻ

em đƣờng phố lại không hề đƣợc chỉ bảo những kiến thức này trong gia đình

cũng nhƣ ở các trƣờng lớp mà các em đang theo học.

Mặc dù tại một số địa bàn khảo sát, Hội Phụ nữ phƣờng có tổ chức các

CLB cho cha mẹ và cung cấp những thông tin về cách chăm sóc và giáo dục

con cái nhƣng các mô hình này hoạt động chƣa hiệu quả, mới chỉ mang tính

chất phong trào và hoạt động hoàn toàn dựa trên kinh phí hỗ trợ của các dự án

can thiệp. Khi dự án kết thúc thì các hoạt động đó cũng không còn. Các bậc cha

mẹ lại trở về với những lo toan của cuộc sống thƣờng ngày. Việc hôm nay kiếm

đƣợc bao nhiêu tiền để mua thức ăn quan trọng hơn việc giáo dục cho con cái

biết thế nào là XHTDTE.

Cũng cần nói thêm rằng, xã hội cũng chƣa có nhận thức đúng về vai trò

giáo dục của cha mẹ đối với vấn đề XHTD TE. Biện pháp phòng chống XHTD

tốt nhất mà các ban ngành đoàn thể nêu ra là tuyên truyền, giáo dục cho cộng

đồng và cho trẻ em. Công việc này đƣợc xem nhƣ là nhiệm vụ của cán bộ tế,

các tổ chức nhƣ hội phụ nữ, đoàn thanh niên, thầy cô giáo, nhà trƣờng. Do vậy,

các bậc cha mẹ thƣờng trông chờ vào sự hỗ trợ của các ban ngành chức năng,

các tổ chức xã hội. Nhƣng theo những ngƣời trực tiếp giải quyết các vụ

XHTDTE thì chính sự thiếu quan tâm, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ cũng

là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc các em bị xâm hại

Nhƣ vậy, trong khi sự giáo dục của gia đình đóng vai trò hết sức quan

tình dục.

trọng trong sự hình thành nhận thức cũng nhƣ hành vi của trẻ em đƣờng phố

trƣớc những nguy cơ bị xâm hại tình dục thì trẻ em đƣờng phố lại hoàn toàn

thiếu đi mảng giáo dục này. Trẻ em đƣòng phố trong nhóm nghiên cứu thay vì

chịu ảnh hƣởng của gia đình thì lại chịu ảnh hƣởng lớn từ các mối quan hệ bạn

68

bè, các mối quan hệ trong môi trƣờng làm việc trên đƣờng phố. Thiếu hiểu biết

các em sẽ có cách xử lý và tiếp nhận thông tin một cách không chính xác.

Nghiêm trọng hơn nữa, các em sẽ hình thành nên những phản ứng, cách ứng xử

sai lệch trƣớc những nguy cơ bị xâm hại tình dục và cả hành vi tình dục của

mình.

4. Hiệu quả của các chƣơng trình hành động phòng chống xâm hại

tình dục trẻ em đƣờng phố

Một số yếu tố cũng không kém phần quan trọng ảnh hƣởng đến nhận

thức và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố đó là sự hoạt động

thiếu hiệu quả của một số chƣơng trình hành động hỗ trợ phòng chống xâm hại

tình dục trẻ em. Chúng tôi coi các chƣơng trình, chính sách hành động dành cho

trẻ em đƣờng phố đặc biệt là về vấn đề phòng chống xâm hại tình dục trẻ em và

hiệu quả tác động của nó cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến quá

trình xã hội hoá cá nhân của trẻ em đƣờng phố bởi trƣớc hết, đối tƣợng hƣớng

đích của các chƣơng trình này chính là nhóm trẻ đƣờng phố. Bên cạnh đó, mục

tiêu của các chƣơng trình này là nâng cao nhận thức cho trẻ em đƣờng phố về

vấn đề xâm hại tình dục trẻ em và hỗ trợ, can thiệp cho trẻ đƣờng phố trong

những tình huống khẩn cấp và sau khi bị xâm hại tình dục.

Trong nhiều năm qua, vấn đề trẻ em đƣờng phố đã đƣợc Đảng, Chính

phủ quan tâm và chú ý. Bằng việc tích cực xây dựng, điều chỉnh, bổ sung luật

pháp, chính sách có liên quan nhƣ quyết định 134/1999/QĐ-TTg về chƣơng

trình bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002 và quyết định

19/2004/QĐ-TTg về chƣơng trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em

lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong

điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010 đã tạo cơ sở để các bộ

ngành, đoàn thể, tổ chức và nhân dân cùng phối hợp giải quyết tình trạng xâm

hại, lạm dụng trẻ em. Tại các địa bàn nghiên cứu, nhiều chƣơng trình, hoạt động

69

dành cho trẻ em đƣờng phố đã đƣợc triển khai trong đó có cả các hoạt động hỗ

Quyết định 19/2004/QĐ – TTg về chƣơng trình ngăn ngừa và giải quyết tình

trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em phải lao động nặng

nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010 đã phân công

trách nhiệm bảo trợ trẻ em cho các cơ quan có liên quan cụ thể là:

- Công an: bắt giữ và xét xử

- Sở LĐTBXH: hỗ trợ đƣa các cháu vào trung tâm

- Y tế: tuyên truyền, vận động và thành lập các trung tâm tƣ vấn

trợ trẻ em đƣờng phố bị xâm hại tình dục.

Bên cạnh đó, các ban nghành, đoàn thể khác đều phải vào cuộc nhƣ ngành Giáo

dục, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh Niên, Mặt trận tổ quốc v.v.

Các hoạt động liên quan đến công tác tuyên truyền giáo dục đã đƣợc

UBDSGDTE quận Ba Đình thực hiện gồm có:

-

In ấn các tờ rơi về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em

- Tổ chức các lớp học tình thƣơng cho trẻ em đƣờng phố

- Tƣ vấn cho các em về kỹ năng phòng tránh LDTDTE

- Tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho các em trong mái ấm

- Giải quyết hỗ trợ các trƣờng hợp bị lạm dụng tình dục

(Phỏng vấn sâu cán bộ UBDSGDTE Quận Ba Đình, Hà Nội)

- UBDSGDTE các cấp từ TW đến cấp phƣờng

Các chƣơng trình này cũng mang lại những hiệu quả nhất định đối với

các vấn đề của trẻ em đƣờng phố. Tuy nhiên, cho đến nay, giải quyết vấn đề trẻ

em đƣờng phố nói chung và xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố nói riêng vẫn là

một thách thức lớn đối với các nhà quản lý. Thực tế, các chƣơng trình, hoạt

động này vẫn tồn tại một số hạn chế. Những hạn chế này đƣợc nhìn nhận là

không có tác động thúc đẩy quá trình đi đến nhận thức đúng đắn và cũng là rào

cản cho hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố khi các em bị xâm

hại tình dục.

70

Thứ nhất, một số cán bộ địa phƣơng hiểu biết chƣa đầy đủ, chính xác về

XHTD TE. Trong 6 cấp độ hành vi xâm hại tình dục trẻ em đƣợc đƣa ra trong

các cuộc phỏng vấn thì một số cán bộ cho rằng chỉ những hành vi cƣỡng hiếp

hay đụng chạm vào cơ thể của trẻ em mới là hành vi xâm hại tình dục căn cứ

trên tính xâm phạm và mức độ gây hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ em.

“Hành vi nói những lời lẽ thô tục gợi ý về tình dục chưa phải là hành vi xâm

hại tình dục trẻ em còn lại tất cả đều là xâm hại”

(Cán bộ y tế Quận… - Hà Nội)

Chính những hiểu biết chƣa đầy đủ về vấn đề xâm hại tình dục của các

cán bộ thuộc các cơ quan chức năng có liên quan cũng làm giảm đi sức mạnh

của cơ chế hỗ trợ và bảo vệ trẻ em đƣờng phố. Bởi khi những nhà chức trách

chƣa ý thức đƣợc hậu quả, mức độ nghiêm trọng và tính nguy cơ của các hành

vi quấy rối tình dục thì rõ ràng việc đƣa ra quyết định bảo vệ hay hỗ trợ các em

trong những tình huống cụ thể này sẽ chƣa đƣợc xếp ở mức độ cần thiết. Và khi

chƣa ý thức đƣợc mức độ nghiêm trọng của các trƣờng hợp quấy rối tình dục

này thì ngay cả sự quan tâm cũng không đƣợc tính đến.

Điều này cũng có thể lý giải theo cách nhìn rộng dựa trên lý thuyết hành

động xã hội của Marx Weber. Theo Marx Weber, hành động xã hội của một cá

nhân đƣợc định huớng, thúc đẩy bởi các động cơ. Động cơ hành động không

chỉ liên quan đến các nhu cầu vật chất, mà xét rộng ra là tất cả các giá trị, lợi ích, lý tƣởng trong xã hội đã đƣợc các chủ thể tiếp nhận13. Hiểu theo nghĩa

rộng, khi các cán bộ có thẩm quyền nhận thức hay đánh giá về các hành vi quấy

rối tình dục trẻ em đƣờng phố chính là họ đã định giá trị cho những hành vi này.

Sự định giá này là động cơ thúc đẩy việc họ có quan tâm đến các hành vi này

hay không, họ có xếp những hành vi này vào mức độ nguy hiểm đê đƣa ra

13 TS Nguyễn Quý Thanh, Hành động xã hội và tương tác xã hội, tr 136, Chƣơng IV, Xã Hội Học, NXB ĐHQGHN

quyết định về hành động bảo vệ và hỗ trợ trong các tình huống cụ thể.

71

Thứ hai, thông tin về các dịch vụ tƣ vấn cho trẻ em đƣờng phố khi gặp

nạn nhƣ trung tâm tƣ vấn, đƣờng dây nóng tuy đã đƣợc công bố nhƣng chƣa

thực sự đến với nhóm đối tƣợng đích là những trẻ em đƣờng phố.

Rất ít trẻ em đƣờng phố tiếp cận với các trung tâm tƣ vấn, các đƣờng dây

điện thoại nóng. Nhiều em không biết về các trung tâm dịch vụ tƣ vấn/đƣờng

dây điện thoại nóng hỗ trợ trẻ em. Ví dụ, ở Huế, chỉ có 2 trong số 100 trẻ em

đƣờng phố đƣợc hỏi trả lời là đã từng nghe nói đến đƣờng dây điện thoại dành

cho trẻ em và 18 em trả lời đã từng nghe nói đến trung tâm hỗ trợ dành cho trẻ

em.

Qua so sánh, thấy tỷ lệ trẻ em đƣa ra đƣợc tên một trung tâm, hay một số

điện thoại hỗ trợ ở Hà nội cao hơn ở Huế. Khi đƣợc yêu cầu nêu địa chỉ của một

trung tâm tƣ vấn thì nhóm trẻ em đƣờng phố ở Hà Nội có thể kể tên Mái ấm 19-

5 bởi các em đang đƣợc học tại đây. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều em không

biết đến trung tâm hỗ trợ hay đƣờng dây điện thoại nóng dành cho trẻ em. Đó là

trƣờng hợp một trẻ em đƣờng phố nữ khi đƣợc hỏi: “Em có biết có trung tâm

nào hỗ trợ cho trẻ em dƣờng phố nếu gặp phải những khó khăn hoặc bị XH TD

không?” thì em trả lời “không biết” và khi chúng tôi hỏi em về một số điện

thoại nào mà em biết nếu cần tƣ vấn điều gì thì em cũng nói rằng em “có nghe

nói nhưng không biết số đấy” (PVS, trẻ em đƣờng phố nữ, Gia Lâm, Hà Nội)

Có thể nói, khả năng tiếp cận đƣợc với các trung tâm, các đƣờng dây tƣ

vấn, trợ giúp của trẻ em đƣờng phố là rất thấp do những hạn chế trong sự quảng

bá và phổ biến thông tin về những địa chỉ này cho các em. Bên cạnh đó, bản

thân trẻ em đƣờng phố cũng không có hiểu biết về vấn đề XHTD, không đƣợc

trang bị kiến thức về kỹ năng tự phòng vệ trƣớc những nguy cơ bị XHTD nên

các em không hề có khái niệm về hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ đối với các địa

chỉ trợ giúp này. Mặt khác, việc sử dụng điện thoại đối với trẻ em đƣờng phố

dƣờng nhƣ là biện pháp không mấy hiệu quả vì các em đều xuất thân từ những

72

gia đình nghèo, không có điện thoại cũng nhƣ không quen với việc sử dụng

điện thoại.

Cũng tƣơng tự nhƣ những dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp dành cho trẻ em đƣòng

phố nhƣ dịch vụ tƣ vấn, đƣờng dây điện thoại nóng; các chƣơng trình giáo dục

về quyền trẻ em, kỹ năng sống đã đƣợc thực hiện đối với nhóm trẻ em đƣờng

phố trong mẫu nghiên cứu cũng tỏ ra không mấy hiệu quả trong việc nâng cao

nhận thức cho các em.

Nhóm trẻ em đƣờng phố trong mẫu nghiên cứu tại Hà Nội có thuận lợi là

đƣợc học tập trong “mái ấm tình thƣơng”, đƣợc tham gia vào một số chƣơng

trình tập huấn nâng cao nhận thức cho TEĐP về quyền TE vì vậy hầu hết các

em đều khẳng định đã đƣợc nghe Luật và Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em.

Tuy nhiên, khi chúng tôi yêu cầu kể tên một số quyền trẻ em thì chỉ có một vài

em có thể kể tên đƣợc nhiều nhất 3 quyền đó là: quyền đƣợc học tập, quyền

đƣợc vui chơi và quyền đƣợc sống.

Kết quả thu đƣợc từ 100 phỏng vấn với nhóm trẻ em đƣờng phố ở Huế

cho thấy, trong số các em đƣợc hỏi có tới 39,2% em trả lời “Chƣa từng nghe nói

đến Luật bảo vệ trẻ em hay Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em”, có 25,5% em

trả lời “đã đƣợc nghe nói đến nhƣng không nhớ nội dung”, còn lại là các em

khẳng định đã đƣợc nghe nói đến Luật và Công ƣớc về quyền trẻ em.

Biểu đồ 9 Sự tiếp cận của trẻ em đường phố với thông tin về quyền trẻ em

73

Sở dĩ tỷ lệ trẻ em đƣờng phố tại Huế không hiểu biết về Luật bảo vệ trẻ

em và Quyền trẻ em vì các em chƣa bao giờ đƣợc tham gia vào hoạt động giáo

dục về những nội dung này hay nói cách khác là tại địa bàn thành phố chƣa có

chƣơng trình giáo dục về những nội dung này dành riêng cho trẻ em đƣờng phố.

Khi đƣợc hỏi về các chƣơng trình tuyên truyền về quyền trẻ em dành cho trẻ em

đƣờng phố, các cán bộ lãnh đạo chính quyền phƣờng Phú Hậu - thành phố Huế

cho chúng tôi biết một số chƣơng trình tuyên truyền đã đƣợc thực hiện. Tuy

nhiên đây chỉ là những chƣơng trình tuyên truyền trên loa phóng thanh có tính

chất nâng cao nhận thức chung cho cộng đồng hoặc đƣợc triển khai trong các

trƣờng học đối tƣợng đích chƣa phải là nhóm trẻ em lang thang kiếm sống trên

đƣờng phố.

“Các cháu đã được tuyên truyền về quyền trẻ em qua loa phóng thanh, trong

nhà trường rồi nhưng nói thật là để nói lại hoặc hiểu về nội dung thì chưa thể

hiểu sâu sắc được”

(TLN cán bộ lãnh đạo phường Phú Hậu, thành phố Huế)

Bên cạnh đó, nhiều địa phƣơng điển hình nhƣ phƣờng Phú Hậu - một

phƣờng tập trung nhiều trẻ em đƣờng phố nhất trên địa bàn thành phố Huế

nhƣng vẫn chƣa có các hoạt động hỗ trợ cho trẻ em đƣờng phố, đặc biệt về các

vấn đề XHTD. Các hoạt động dành cho trẻ em đƣờng phố mới chỉ dừng lại ở

việc tặng quà cho các em nhân dịp các ngày nhƣ Quốc tế thiếu nhi, tết trung

thu…trẻ em đƣờng phố tại đây chƣa đƣợc học về kỹ năng sống cũng nhƣ nội

dung phòng chống XHTD trẻ em.

“Đã có một dự án về trẻ em đường phố đã được triển khai nhưng mới chỉ tổ

chức các lớp học tình thương và hỗ trợ vật chất cho các em chứ chưa có những

hoạt động sinh hoạt ngoại khoá, dạy những kiến thức về phòng chống xâm hại

tình dục trẻ em và các kỹ năng sống. Các em cũng khó tham gia vào các hoạt

động của dự án vì còn bận đi kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.”

74

“Đoàn thanh niên có tham gia công tác trẻ em nhưng không có kinh phí nên chỉ

tổ chức liên hoan phát quà cho các em vào những dịp lễ tết như: quốc tế thiếu

nhi, trung thu mà vào những dịp lễ tết đó cũng là ngày các em kiếm được tiền

hơn những ngày khác nên nếu chỉ tổ chức vui chơi phát quà thì các em lao động

sớm cũng không tham gia”

(Thảo luận nhóm chính quyền địa phương, phường Phú Hậu, Huế)

Nhƣ vậy, qua các số liệu thu thập đƣợc từ các bảng hỏi cũng nhƣ các

phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung chúng ta có thể thấy trẻ em đƣờng

phố không có hiểu biết cũng nhƣ nhận thức đầy đủ về quyền của chính mình.

Các chính sách, chƣơng trình hành động dành cho nhóm TEĐP cũng là một

trong những kênh cung cấp thông tin, giáo dục chính thống quan trọng giúp các

em có đƣợc nhận thức về quyền cũng nhƣ phòng tránh đƣợc nguy cơ xâm hại

tình dục trẻ em. Tuy nhiên, trên thực tế, các chƣơng trình này lại chƣa đạt đƣợc

mục tiêu cung cấp kiến thức cũng nhƣ hỗ trợ kịp thời cho trẻ em đƣờng phố.

Trẻ em đƣờng phố thiếu thông tin giáo dục từ các môi trƣờng xã hội hoá chính

thống là gia đình, các cơ quan chức năng có liên quan. Trẻ em đƣờng phố

không có thông tin về những dịch vụ trợ giúp khi cần thiết. Những hạn chế

trong các chƣơng trình, chính sách phòng chống xâm hại tình dục trẻ em cũng

làm hạn chế nhận thức của trẻ em đƣờng phố về vấn đề này đồng thời cũng dẫn

đến việc các em khó có thể tìm thấy đƣợc sự trợ giúp của chính quyền, các cơ

quan chức năng. Vì vậy mà hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em đƣờng phố

sau khi bị xâm hại tình dục gần nhƣ không tồn tại.

Có thể nói, sự hoạt động kém hiệu quả của các chƣơng trình, chính sách

này đã không thúc đẩy cả quá trình nhận thức đúng đắn của trẻ em đƣờng phố

về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em lẫn hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ trong các

tình huống nguy cơ.

75

V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Bằng việc vận dụng một số lý thuyết xã hội học, nghiên cứu đã cã nh÷ng lý gi¶i

cô thÓ cho 3 giả thuyết đƣa ra ban đầu là: (1) trÎ em ® êng phè kh«ng nhËn thøc

®Çy ®ñ vÒ hµnh vi vµ nh÷ng nguy c¬ x©m h¹i t×nh dôc trÎ em; (2) hµnh vi tìm

kiếm sự giúp đỡ cña trÎ em ® êng phè trƣớc nh÷ng nguy c¬ vµ hµnh vi bÞ x©m

h¹i t×nh dôc phô thuéc vµo nhËn thøc cña trÎ vÒ nh÷ng hµnh vi x©m h¹i t×nh dôc

trÎ em ® êng phè; (3) trÎ em ® êng phè cã xu h íng kh«ng t×m kiÕm sù gióp

®ì, hç trî sau khi bÞ x©m h¹i t×nh dôc.

- Chúng ta có thể khẳng định rằng trẻ em đƣờng phố đặc biệt là trẻ em đƣờng

phố nữ có nguy cơ bị xâm hại tình dục cao khi phải làm việc trên đƣờng phố,

trong các quán nhậu, nhà hàng, ga tầu, bến xe, khi hàng ngày các em phải

tiếp xúc với rất nhiều loại ngƣời, tiếp nhận rất nhiều thông tin một cách thụ

động, không có chọn lọc.

- Sự bất bình đẳng giới mà trong đó phụ nữ và trẻ em gái luôn bị đặt vào một

vị trí thấp kém vẫn tồn tại một cách dai dẳng trong xã hội lại một lần nữa

khẳng định sức mạnh của nó khi các em gái luôn phải đối mặt với các nguy

cơ bị xâm hại tình dục, từ trong gia đình, đến ngoài xã hội, từ những ngƣời

lớn và đến cả những trẻ em đƣờng phố nam cùng trang lứa.

- Chúng tôi có đƣa ra giả thuyết ban đầu là cã sù kh¸c biÖt vÒ giíi trong nhËn

thøc cña trÎ ® êng phè tr íc nguy c¬ vµ hµnh vi x©m h¹i t×nh dôc. Tuy

nhiên, kết quả nghiên cứu thu đƣợc lại cho thấy, không có sự khác biệt trong

nhận thức của TEĐP mà thực tế là cả hai nhóm trẻ em đƣờng phố nữ và nam

đều không có đƣợc hiểu biết đầy đủ về những nguy cơ và hành vi xâm hại

tình dục trẻ em.

- TrÎ em ® êng phè d êng nh kh«ng t×m kiÕm sù gióp ®ì, hç trî sau khi bÞ

x©m h¹i t×nh dôc do kh«ng t×m thÊy sù ®ång c¶m cña céng ®ång. Kết quả thu

đƣợc cũng đã khẳng định giả thuyết mà chúng tôi đƣa ra là hµnh vi nói

76

chung và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ cña trÎ em ® êng phè ®èi víi nh÷ng

nguy c¬ vµ hµnh vi bÞ x©m h¹i t×nh dôc phô thuéc vµo nhËn thøc cña trÎ vÒ

nh÷ng hµnh vi x©m h¹i t×nh dôc trÎ em ® êng phè. Nếu trẻ em nhận thức

đƣợc hành vi nào là hành vi XHTD TE thì các em sẽ có những biểu hiện né

tránh hoặc tìm sự giúp đỡ. Trên thực tế, trong 6 cấp độ hành vi đƣợc đƣa ra

thì đối với 5 hành vi quấy rối tình dục, các em tỏ ra băn khoăn và tỷ lệ trẻ

em không cho đó là hành vi XHTD khá cao nên tỷ lệ các em chọn phƣơng

án không kể chuyện mà các em gặp phải cũng khá cao. Sau những trải

nghiệm xâm hại tình dục, trẻ em đặc biệt là các em gái có xu hƣớng giấu

kín, không chia sẻ với ai hoặc không tìm sự giúp đỡ nào cho đến khi gặp

phải những hậu quả nặng nề.

- Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến nhận thức và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ

của TEĐP khi bị xâm hại tình dục là: điều kiện, chất lƣợng sống thấp; thiếu

sự quan tâm chăm sóc của gia đình; môi trƣờng sống, môi trƣờng làm việc

không an toàn,

Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng ảnh hƣởng đến nhận thức và

hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của trẻ em chính là các chính sách, chƣơng

trình hoạt động và sự hiệu quả của chúng đối với trẻ em đƣờng phố nói

chung và trẻ em đƣờng phố bị xâm hại tình dục nói riêng. Tuy nhiên, những

chính sách, chƣơng trình hoạt động hỗ trợ hiện thời đối với trẻ em đƣờng

phố vẫn chƣa thực sự đầy đủ, phù hợp và chính những hạn chế của nó đã ảnh

hƣởng đến quá trình nhận thức đúng đắn của trẻ em đƣờng phố về vấn đề

xâm hại tình dục trẻ em cũng nhƣ hạn chế hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của

các em.

2. Khuyến nghị

Dựa vào các kết luận rút ra từ nghiên cứu và những đề xuất của nhóm trẻ

em đƣờng phố cũng nhƣ chính quyền địa phƣơng, chúng tôi đề xuất một số

kiến nghị sau:

77

- Trƣớc hết, cần phải hạn chế sự gia tăng tình trạng trẻ em lang thang hiện nay

tại các thành phố lớn. Biện pháp này đã đƣợc thực hiện thông qua chính sách

hồi gia - đƣa trẻ em lang thang về quê hƣơng. Tuy nhiên, nhiều gia đình,

nhiều trẻ em lang thang đã quay trở lại thành phố ngay sau khi hồi gia. Vì

nguyên nhân gốc rễ của hiện tƣợng di cƣ tự do và tình trạng trẻ em lang

thang là sự nghèo đói vẫn chƣa đƣợc giải quyết triệt để.

Do đó, chính phủ cần giải quyết tận gốc vấn đề này bằng cách đẩy mạnh

việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, cho vay vốn tín dụng tại các

vùng nông thôn. Bên cạnh đó, các dự án cho vay vốn tín dụng cũng cần phải

đƣợc xây dựng và thực hiện một cách bài bản từ khâu cho vay vốn đến các

hoạt động hỗ trợ sử dụng vốn vay hiệu quả, hỗ trợ đầu ra cho ngƣời dân...

- Việc tuyên truyền, giáo dục những giá trị đạo đức cao đẹp của xã hội, nâng

cao nhận thức về quyền trẻ em, về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em đƣờng

phố cho cộng đồng cũng rất cần thiết bởi khi cộng đồng thực sự hiểu biết thì

mỗi ngƣời dân trong cộng đồng sẽ nâng cao ý thức và trách nhiệm bảo vệ trẻ

em và phát huy sức mạnh của cộng đồng trong việc lên án và trừng trị những

kẻ xấu xa.

- Một mặt tiếp tục phát huy tính hiệu quả của những chính sách, chƣơng trình

hành động hỗ trợ hiện thời dành cho trẻ em đƣờng phố nói chung mặt khác

cần phải xây dựng những chính sách, chƣơng trình hành động cụ thể với

những biện pháp hỗ trợ và can thiệp đầy đủ, phù hợp nhằm tập trung giải

quyết vấn đề xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố.

- Việc đƣa vấn đề phòng chống HIV dành cho trẻ em đƣờng phố cũng nhƣ hỗ

trợ thử HIV, theo dõi khám và chữa bệnh LTQĐTD cho trẻ em đƣờng phố

nữ bị xâm hại tình dục là rất cần thiết bởi các em có nguy cơ bị lây nhiễm

cao từ hành vi xâm hại tình dục trẻ em.

Những chƣơng trình hoạt động, những biện pháp hỗ trợ can thiệp cần phải

chú ý đến phƣơng pháp tiếp cận đối với trẻ em đƣờng phố và lôi kéo đƣợc sự

tham gia của cộng đồng.

78

Các chính sách cần chú trọng đặc biệt vào nhóm trẻ em đƣờng phố nữ để bảo vệ

quyền lợi cũng nhƣ sự bình đẳng giới cho nhóm trẻ em này.

- Nâng cao nhận thức cho trẻ em đƣờng phố về quyền trẻ em, về kỹ năng

sống, những kiến thức về giới tính, tình dục, về vấn đề xâm hại tình dục trẻ

em để trẻ em có thể hiểu biết và biết cách tự phòng vệ.

- Cùng với việc nâng cao hiểu biết cho trẻ em đƣờng phố, việc nâng cao hiểu

biết cho cha mẹ, ngƣời thân của những trẻ em đƣờng phố về quyền trẻ em,

những nguy cơ bị xâm hại tình dục của trẻ em đƣờng phố cũng rất cần thiết

để cha mẹ và ngƣời thân của các em ý thức hơn về vai trò trách nhiệm bảo

vệ và dạy dỗ cũng nhƣ sự quan tâm của họ đối với trẻ em đƣờng phố.

- Đối với nhóm trẻ em đƣờng phố từ 16 tuổi trở lên, việc trang bị cho các em

một nghề nghiệp là rất cần thiết. ở tuổi này, các công việc trên đƣờng phố

không còn mang lại thu nhập cao cho các em, mặt khác các em lại không có

đủ kiến thức cũng nhƣ điều kiện kinh tế để tiếp tục theo học. Nếu nhƣ không

có một nghề nghiệp, các em sẽ không có cơ hội tìm đƣợc một việc làm có

thu nhập ổn định. Nguy cơ rơi vào các tệ nạn xã hội, bị XHTD, rơi vào con

đƣờng mại dâm đối với các em gái là điều hoàn toàn có thể xẩy ra.

- Cuối cùng, cần phải tạo ra một hành lang pháp lý thật sự bằng cách xử lý

nghiêm minh các trƣờng hợp xâm hại tình dục trẻ em đƣờng phố để tuyên

truyền, cảnh báo cũng nhƣ ngăn chặn các hành vi xâm hại tình dục trẻ em.

79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “Phân tích tình hình phụ nữ trẻ em” Hà Nội, 4/1994, trang 135-153

2. Bộ LĐTBXH – Unicef, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu giải pháp giải quyết tình

trạng trẻ em lang thang tại 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ

Chí Minh, 12/2000

3. Bộ LDTBXH, Báo cáo kết quả điều tra trẻ em lang thang kiếm sống trên

đường phố năm 1995, Hà Nội, 1995

4. Bộ LĐTBXH, Báo cáo kết quả điều tra trẻ em lang thang kiếm sống trên

đường phố năm 1995, Hà Nội, 1995

5. Dƣơng Kim Hồng, Kenichi Ohono, Tóm tắt: Trẻ đường phố Việt Nam -

Những nguyên nhân truyền thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ

giữa các nguyên nhân này trong nền kinh tế đang phát triển, tháng 7-2005,

http://www.vdf.org.vn/pdf01/DP6VIE.pdf

6. Hoàng Bá Thịnh, Bóc lột tình dục trẻ em, NXB Thế Giới, Hà Nội, 1999

7. Ngô Kim Cúc, Mikel Flamm, Trẻ em trong bóng tối - Children of dust, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, trang 96

8. Nguyễn Thị Vân Anh, Một số vấn đề về sự gia tăng trẻ em đường phố tại Hà

Nội,Tạp chí XHH, số 2-1994, tr ang 27-36

9. Nguyễn Văn Buồm, Jonathan Caseley, Khảo sát thực trạng trẻ em đường

phố tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Thanh niên, 1996

10. Nguyễn Văn Đoàn, Một số yếu tố tác động của tệ nạn xã hội đến trẻ đường

phố, Tạp chí Xã hội học, số 1(73), 2001

11. Nguyễn Xuân Nghĩa và một số tác giả, Trẻ em bị xâm hại tình dục, ĐH Mở

Bán công TP HCM, 1998

12. Nguyễn Xuân Nghĩa, Đỗ Văn Bình, Tống Thanh Vân, Tìm hiểu các gia đình

có hoàn cảnh khó khăn: Nghiên cứu tình huống một số gia đình trẻ đường

phố tại TP HCM, ĐH Mở Bán Công, Khoa PN học, 1995

80

13. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên), Xã hội học, NXB ĐHQG

Hà Nội, 2001

14. Phùng Tố Hạnh. “Tìm hiểu về trẻ em đường phố ở Hà Nội qua một cuộc

khảo sát”, 1996

15. TimothyW.Bond, Trẻ bụi đời tại thành phố Hồ Chí Minh, Terre des

hommes, 1992

16. TS. Vũ Quang Hà, Các lý thuyết xã hội học, tập 1, NXB Đại học quốc gia

Hà Nội, 2001

17. Early childhood gender socialization (R&C, ch ¬ng 4, Coltrane, ch ¬ng 5),

http://www.studyworld.com/newsite/ReportEssay/Science/Social%5CGende

r_Socialization-32139.htm

18. Peer group

http://en.wikipedia.org/wiki/Peer_group

19. Social learning theory

http://en.wikipedia.org/wiki/Social_learning_theory

20. Child physical and sexual abuse: Guidelines for treament, 2003,

http://www.musc.edu/cvc/

21. Culture and attitude play a key role in child sexual abuse

www.mkombozi.org

22. Sexual trafficking and forced prostituion of children,

http://www.walnet.org/csis/papers/saunders-childpro.html

23. Sexually transmitted diseases and child sexual abuse,

http://ncjrs.gov/txtfiles/stdandab.txt

24. 7 steps to protecting our children

http://www.darkness2light.org

25. Child sexual abuse I: An overview

http://www.advocatesforyouth.org/publications/factsheet/fsabuse1 (1/31/07)

26. Child sexual abuse II: A risk factor for HIV/STDs and teen pregnancy

http://www.advocatesforyouth.org/publications/factsheet/fsabuse2 (1/31/07)

81