ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––– KIỀU THỊ NHUNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60. 22. 01. 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Tôn Thảo Miên THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Người cam đoan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Kiều Thị Nhung
LỜI CẢM ƠN
Được sự giúp đỡ và chỉ bảo ân tình của cô hướng dẫn PGS – TS Tôn
Thảo Miên trong suốt quá trình tìm đọc tài liệu, thiết lập đề cương cũng như
tìm ra các phương pháp nghiên cứu, đến nay bản luận văn của em đã được hoàn
thành. Trước tiên, cho phép em được bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc
đến cô Tôn Thảo Miên (Viện Văn học).
Có được luận văn này, em cũng xin gửi tới những người thân, bạn bè,
đồng nghiệp gần xa lòng biết ơn vô hạn vì đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều
kiện và thắp lên ngọn lửa nhiệt tình để em có thể hoàn thành được luận văn.
Để hoàn thành luận văn này, em cũng xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo
khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Thái Nguyên cũng như Ban giám hiệu,
Ban chủ nhiệm khoa, phòng quản lí khoa sau đại học của trường lòng biết ơn
chân thành vì luôn tạo điều kiện để em có được kết quả như ngày hôm nay.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Kiều Thị Nhung
MỤC LỤC
Lời cam đoan ....................................................................................................... .i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi ......................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNGCHẢY TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
1.1. Khái quát tiểu thuyết Việt Nam đương đại ................................................... 9
1.1.1. Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam đương đại ................................................ 9
1.1.2. Đội ngũ nhà văn viết tiểu thuyết .............................................................. 15
1.1.3. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết đương đại ................................................. 18
1.2. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới ........................................................... 22
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn .......................... 22
1.2.2. Quan niệm sáng tác của Lê Lựu .............................................................. 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
1.2.3. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu ............................................ 29
CHƢƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG
TIỂU THUYẾT LÊ LỰU.
2.1. Khái niệm nhân vật văn học và tầm quan trọng của nhân vật trong tác
phẩm văn học ..................................................................................................... 33
2.2. Khái quát hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu ................... 35
2.3. Các kiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu .......................................... 37
2.3.1. Nhân vật nữ có số phận bi kịch và luôn khát khao được yêu thương ..... 37
2.3.1.1. Nhân vật nữ có số phận bất hạnh, luôn cam chịu trước hoàn cảnh ...... 37
2.3.1.2. Nhân vật nữ luôn khát khao yêu thương ............................................. 54
2.3.2. Nhân vật nữ thông minh, giàu bản lĩnh, luôn tìm cách khẳng định mình 57
2.3.3. Nhân vật nữ tha hoá ................................................................................. 65
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU.
3.1. Nghệ thuật tổ chức tình huống…………………………………………… 71
3.2. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật…………………………………………… 74
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình………………………………………… 74
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động………………………………………… 78
3.2.3. Nghệ thuật biểu hiện độc thoại tâm…………………………………… . 81
3.3. Ngôn ngữ nhân vật……………………………………………………… . 83
3.4. Giọng điệu miêu tả nhân vật………………………………………… ...... 86
3.4.1. Giọng điệu châm biếm, hài hước……………………………………… 86
3.4.2. Giọng điệu xót thương, day dứt ................... ……………………………88
KẾT LUẬN………………………………………………………………… . 91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………… ..... 94
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Nói đến văn học đương đại là nói đến văn học Việt Nam giai đoạn 1975
đến nay. Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự cách tân sáng tạo về cả nội dung
và hình thức ở nhiều thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết. Chiến thắng vĩ đại 1975 đã
ghi mốc quan trọng không chỉ trong lịch sử đất nước mà còn là mốc quan trọng
đánh dấu sự chuyển mình của văn học. Nếu như trước kia, văn học phục vụ
kháng chiến và phản ánh công cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc thì giờ đây văn
học đã có sự thay đổi cả về cảm hứng và đề tài sáng tác để phù hợp với tình
hình mới. Văn học giai đoạn này, đòi hỏi các nhà nghệ sĩ phải đi sâu khám phá
đời sống của con người đời thường nhân bản với tất cả những cái hay cái dở
vốn có trong đời sống hiện thực. Vì thế, các nhà nghệ sĩ phải tiếp cận đời sống
bằng cái nhìn mới, cách tiếp cận mới. Trong số những nhà văn có sự đổi mới
sáng tạo ấy, ta không thể không kể đến nhà văn Lê Lựu với một số tiểu thuyết
đặc sắc. Với sự miệt mài, nhiệt huyết, Lê Lựu đã sáng tác được một khối lượng
tác phẩm đáng trân trọng, đạt nhiều giải thưởng và đóng góp không nhỏ cho sự
phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi kì đổi mới.
Có thể thấy rằng, người phụ nữ là mạch nguồn tuôn chảy không bao giờ
cạn trong văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết đương đại nói riêng, trong
đó có sáng tác của Lê Lựu. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu đã để lại dấu
ấn sâu sắc đối với người đọc qua nhiều số phận, nhiều cảnh đời. Đó là hình ảnh
những người phụ nữ trong các tiểu thuyết: Thời xa vắng, Chuyện làng cuội,
Sóng ở đáy sông, Hai nhà, Thời loạn... Hình tượng người phụ nữ trong các
tiểu thuyết này là bước đột phá trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn.
Với tình cảm và hứng thú khi tiếp cận với hình tượng người phụ nữ trong
tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Lê Lựu cho luận văn thạc sĩ của mình. Qua đề tài này, một mặt chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tôi muốn khẳng định đóng góp của nhà văn Lê Lựu vào sự phát triển của văn
học Việt Nam đương đại, mặt khác muốn có thêm những phát hiện mới về cách
thể hiện hình ảnh người phụ nữ trong sáng tác của ông.
2. Lịch sử vấn đề
Qua quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều
bài viết, bài nghiên cứu về tác giả, các tác phẩm của Lê Lựu. Bên cạnh những
bài nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học còn
có nhiều bài viết được đăng tải trên các báo, nhiều khoá luận tốt nghiệp, các
luận văn tìm hiểu về tác giả, tác phẩm của Lê Lựu…Vốn là nhà văn có nhiều
tác phẩm xuất sắc trong văn học thời kỳ tiền đổi mới và đổi mới, sáng tác của
Lê Lựu đã thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng độc giả trong suốt một thời
gian dài. Có thể kể ra nhiều công trình, bài viết về tác giả, về tiểu thuyết Lê
Lựu nói chung, cũng như về từng tác phẩm cụ thể của ông như: Hỏi chuyện tác
giả, tìm hiểu tác phẩm Báo văn nghệ tháng 12-1986. Thời xa vắng - Một tâm
sự nóng bỏng của Lê Thành Nghị, Chuyện phiếm với anh Sài của Hồng Vân,
Nhu cầu nhận thức lại thực tại Thời xa vắng của Nguyễn văn Lưu, Đọc Thời
xa vắng của Lê Lựu của Hoàng Ngọc Hiến, Suy tư một thời xa vắng của
Nguyễn Hoà, Hình tượng nguời nông dân và nhà văn đô thị của Nguyễn Thu
Hằng, Tâm sự phim Sóng ở đáy sông của Hồng Thái, Quan niệm nghệ thuật về
con người trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới của Đoàn Thị Thuỷ, Vấn đề
con người và thời gian trong tiểu thuyết hậu chiến Việt Nam qua Thời xa vắng
của Lê Lựu và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh trong luận văn thạc sĩ của
Đinh Thi Huyền, Lê Lựu – chân dung văn học của Trần Đăng Khoa, Lê Lựu-
Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn, Nhà văn Lê Lựu đi đến tận cùng tính cách
nhân vật của Lê Hồng Lâm, Những đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Lê Lựu
trong chuyện làng cuội - Vũ Xuân Triệu, Nghĩ về một thời xa vắng của Thiếu
Mai…Trong những bài nghiên cứu này, có nhiều bài được chính Lê Lựu tập
hợp trong cuốn tạp văn của mình. Qua những bài viết, bài nghiên cứu đó, người
đọc không chỉ hình dung ra bức tranh xã hội muôn màu của đời sống hiện thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mà còn cảm nhận được sự chuyển biến sâu sắc, tinh tế trong đời sống tư tưởng,
tình cảm con người thời đại. Từ đó, ta thấy được những đóng góp to lớn của Lê
Lựu cho đời sống văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, làm cho đời sống văn học
nước nhà thêm sôi động. Đúng như nhà văn Đinh Quang Tốn nhận xét: “Lê
Lựu lớn lên giữa lúc dân có ruộng dập dìu hợp tác. Tất cả những niềm vui và
nỗi buồn của làng quê thời kỳ ấy anh đều chứng kiến. Bản chất là anh nông
dân mặc áo lính, anh luôn nghĩ về quê hương, chú ý đến những người nông dân
và nông thôn. Nông thôn và nông dân là cội nguồn, là quê hương văn học của
anh từ tác phẩm đầu tiên đến tác phẩm anh viết gần đây nhất, dẫu cả đời anh
gắn bó với quân đội, ăn lương quân đội và làm việc cho quân đội’’[35, tr. 656].
Từ đó, ông cũng khẳng định vị trí của Lê Lựu trong nền văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên hội nhà văn Việt Nam, cứ
mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số sáu
mươi nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy ba mươi tác
phẩm thì có mặt thời xa vắng. Nói thế để có thể thấy trong văn học Việt Nam
hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí đáng kể” [35, tr . 663].
Bên cạnh đó, còn có một số bài nghiên cứu, đánh giá về các tác phẩm
của Lê Lựu. Trần Đăng Khoa cũng đã thẳng thắn đánh giá về tác phẩm của Lê
Lựu “ đã cuốn hút người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những
chuyện xoàng xĩnh, người đọc vẫn thu lượm được cái gì đấy, có khi là một chi
tiết , một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật. Nghĩa là đọc
anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi lẽ Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận được
sự nhạt nhẽo tầm thường” [35, tr. 669]. Và riêng với “đứa con cưng” của Lê
Lựu thì Trần Đăng Khoa cũng dành lời lẽ sắc sảo “Với ba trăm trang sách, tiểu
thuyết Thời xa vắng đã ôm chứa một dung lượng lớn. Đấy là một chặng đường
lịch sử oai hùng. Chặng đường ba mươi năm, từ buổi lập nước đến lúc giải
phóng xong toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết” [35, tr .
676]. Qua những lời nhận xét ấy, ta có thể thấy “tiểu thuyết Thời xa vắng của
Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách
nhìn nhận đánh giá lại hiện thực. Sự phản ánh chân thực, sinh động tạo nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hoàn cảnh nhào nặn nên con người đó, sự nín nhịn nhẫn nhục và vùng vẫy
cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lý và hành động của anh ta đã được Lê
Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh người đọc, gợi ra những liên
tưởng có ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi người đang rất quan tâm... Thời xa
vắng phản ánh khá sâu sắc một giai đoạn tâm lý của nông dân, giai đoạn vùng
lên, hoà theo, nhập thân hoàn toàn vào đời sống của xã hội mới” [24, tr.588 -
589]. Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự
cuốn hút đặc biệt. Nhân vật hiện lên trên trang viết với số phận đầy bi kịch.
Những bi kịch do xã hội tạo ra và những bi kịch do chính họ tạo ra. Chúng ta
vừa giận lại vừa thương Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi trong Sóng ở
đáy sông và ngay cả sự tha hoá của Lưu Minh Hiếu trong Chuyện làng cuội…
Các tác phẩm của Lê Lựu ra đời vào lúc này đã làm cho đời sống văn học Việt
Nam thêm sôi động.
Ở một số bài viết như: Thời xa vắng – Một tâm sự nóng bỏng của Lê
Thành Nghị, Nghĩ về một thời xa vắng của Thiếu Mai, Nhận thức lại thực tại
qua một thời xa vắng của Nguyễn Văn Lưu, Suy tư từ một thời xa vắng của
Nguyễn Hoà...Ở những bài viết này, các tác giả đã đề cập đến những suy nghĩ
mới mẻ của Lê Lựu. Đó là những vấn đề nhận thức lại một thời xa vắng - Một
thời sống hộ, yêu hộ. Cũng đánh giá về vấn đề này, có bài viết Hình tượng
người nông dân và nhà văn đô thị của Nguyễn Thu Hằng. Tác giả đã nhận xét:
“Có thể họ chưa có tủ lạnh, nhưng họ đã có xe chở đá về, quán nào ở quê mà
chả đọc thấy Giải khát có đá! Còn xe máy à, có đấy nhưng họ khác dân thành
phố, anh thành phố thì cưỡi nghênh ngang cho oai. Anh nhà quê họ thực tế
hơn, họ đi Sim sơn, đi Minxcơ, hợp với đường quê, lại thồ được gà, được lợn.
Cái xe của họ thồ được bốn người, họ tính toán kỹ lắm chứ” [15, tr.652]. Cùng
những bài viết ấy, có bài viết Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu của Hoàng Ngọc
Hiến, bài Nhà văn Lựụ đi đến tận cùng tính cách nhân vật của Lê Hồng Lâm. Ở
bài viết này, ông nhận định, đánh giá về vị trí của Lê Lựu: “Ông Lê Lựu từ khi
được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó. Có cuốn
nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm tư,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi... tai tiếng như
Chuyện làng cuội, lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi
đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông’’ [22, tr. 708].
Cũng có bài viết lại đi sâu về sự nghiệp và hoàn cảnh sáng tác của Lê
Lựu như bài Lê Lựu –Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn. Trong bài Lê Lựu –
Chân dung văn học, Trần Đăng Khoa lại nhấn mạnh đến nghệ thuật trong Thời
xa vắng.
Đến với bài viết Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới của Đỗ Hải Ninh, tác
giả lại nêu ra những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ sau
1975, tuy nhiên tác giả không đi sâu vào phân tích cụ thể. Tiểu thuyết Lê Lựu
còn được nhìn ở góc độ khác. Tác giả Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai
thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu và khẳng định đến tính tích cực trong việc
đề cập đến hạnh phúc con người “Tiểu thuyết không ngần ngại miêu tả sắc dục,
tình yêu nhục thể là một lĩnh vực rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả nhưng con
người, khai thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh
nhân bản của văn học” (Hai nhà của Lê Lựu). Nguyễn Tường Lịch cũng
khẳng định thành công của Lê Lựu trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai
thác những xung đột của trái tim con người có thể khẳng định nét đổi mới ở
Thời xa vắng là tác giả không hướng ngòi bút của mình mô tả các sự kiện lịch
sử bên ngoài theo thời gian tự sự nơi chiến trường máu lửa như một số tác
phẩm cùng thời và trước đó mà đi sâu khai thác những xung đột đầy bi kịch của
trái tim con người trong bối cảnh từ giã chiến tranh về hậu phương thời hoà
bình.
Nhìn chung qua các bài nghiên cứu, ta có thể nhận thấy tiểu thuyết Lê
Lựu trong thời kì đổi mới được giới nghiên cứu phê bình quan tâm sâu sắc. Hầu
hết các nhà nghiên cứu đều trân trọng những thành công của nhà văn. Những
bài nghiên cứu đã mở ra cho chúng tôi hứng thú khi tìm hiểu về vấn đề này.
Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng các nhà nghiên cứu, phê bình, các luận văn,
luân án chủ yếu tập trung tìm hiểu tiểu thuyết Lê Lựu nói chung hoặc một số
nhân vật, tác phẩm quen thuộc gắn liền với tên tuổi nhà văn. Vì thế, chúng tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mạnh dạn đi tìm hiểu về năm cuốn tiểu thuyết tiêu biểu trong sáng tác của nhà
văn: Thời xa vắng, Chuyện làng cuội, Sóng ở đáy sông, Thời loạn, Hai nhà
để thấy được sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác qua nhân vật phụ nữ. Từ
đó, chúng tôi muốn chỉ ra những đóng góp của Lê Lựu trong hành trình tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc của nhân
vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu trên phương diện nội dung và hình thức nghệ
thuật với mục đích tìm kiếm, phát hiện những nét khác biệt và sự đổi mới trong
cách nhìn và cách thể hiện hình ảnh người phụ nữ của nhà văn. Qua đó, khẳng
định đóng góp, vị trí của nhà văn trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới.
Đối tượng nghiên cứu là nhân vật nữ trong một số tiểu thuyết Lê Lựu
thời kỳ đổi mới: Thời xa vắng (1986); Chuyện làng cuội (1993); Sóng ở đáy
sông (1994); Hai nhà (2000);Thời loạn (2010). Từ đó, khái quát về bức chân
dung người phụ nữ trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chủ yếu đi sâu tìm hiểu để chỉ
ra các kiểu nhân vật nữ, quan niệm nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo, nghệ thuật
xây dựng nhân vật qua một số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê
Lựu, luận văn làm rõ những vấn đề sau:
Xác định vị trí các tiểu thuyết: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở
đáy sông, Hai nhà, Thời loạn trong sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu và trong
tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Phân tích những đặc điểm nổi bật của các kiểu nhân vật nữ trong các tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thuyết Lê Lựu và những nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật như nghệ
thuật tạo tình huống, nghệ thuật khắc họa nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu nhân
vật... Từ đó, khẳng định sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác về đề tài người
phụ nữ của Lê Lựu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Để làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật khi xây
dựng hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không đi
sâu tìm hiểu, khám phá tác phẩm. Vì vậy, sử dụng phương pháp này, sẽ giúp
chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân
vật cũng như những trăn trở của nhà văn trên từng trang viết. Từ đó sẽ rút ra
được những mạch chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác về nhân vật nữ trong
tiểu thuyết cuả Lê Lựu.
5.2. Phương pháp so sánh
Văn học phản ánh hiện thực và chịu sự chi phối của hoàn cảnh xã hội. Sự
chuyển biến và đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động và biến đổi của
xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh giúp chúng tôi có điều kiện so sánh
sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ của Lê
Lựu trong thời kỳ đổi mới cũng như những điểm độc đáo, đặc sắc của tiểu
thuyết Lê Lựu so với tiểu thuyết của các tác giả cùng thời.
5.3. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm xem xét những bình
diện, những yếu tố và những mối quan hệ cơ bản tạo nên đặc điểm nổi bật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hình tượng người phụ nữ trong một số tiểu thuyết Lê Lựu.
6. Đóng góp của luận văn
Qua luận văn Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi muốn
chỉ ra sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tạo của Lê Lựu khi viết về người phụ
nữ. Từ đó, khẳng định vị trí cùng những đóng góp to lớn của Lê Lựu trong nền
văn học Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ
đổi mới.
Chương 2: Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật nữ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tiểu thuyết Lê Lựu.
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢYTIỂU THUYẾT VIỆT
NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1.Khái quát tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại
1.1.1. Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay có sự đổi mới rõ nét trên mọi bình
diện, ở nhiều cấp độ và trong mọi thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết. Tiểu thuyết là
một loại hình tự sự cỡ lớn đang có sự chuyển mình liên tục để đáp ứng yêu cầu
của thời đại, của đời sống văn học. Ở đó, các nhà văn đã thể hiện sự đổi mới về
tư duy nghệ thuật, cách tiếp cận hiện thực, quan niệm nghệ thuật về con người,
nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ...Càng về sau trong sự tiếp xúc giao lưu văn
học hiện đại phương Tây, các cây bút tiểu thuyết càng tích cực và tỏ ra nhạy
bén trong việc làm mới chính mình. Tác phẩm của họ đã làm nên diện mạo đa
dạng của tiểu thuyết đương đại. Tiểu thuyết thời kỳ này đã vượt qua một chặng
dài trên con đường đổi mới. Nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân
trong cách nhìn và lối viết. Vì thế, tiểu thuyết đã thực sự trở thành nhân vật
chính trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. Có thể kể đến những cây bút
khá thành công như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Xuân
Thiều, Lê Lựu...Tiếp đến là lớp nhà văn trưởng thành sau cuộc chiến như: Bảo
Ninh, Chu Lai, Hồ Anh Thái, Dương Hướng, Phan Thị Vàng Anh...Càng về
sau, trong sự tiếp xúc, giao lưu với các thành tựu văn học phương Tây và
những yêu cầu đổi mới của văn học, các cây bút tiểu thuyết càng tỏ ra nhạy bén
trong việc làm mới chính mình. Tác phẩm của họ tạo nên sự đa dạng của tiểu
thuyết Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, tạo nên dòng
chảy của văn học hậu hiện đại.
Trong thời kỳ đầu của tiến trình đổi mới, một loạt các tiểu thuyết đã gây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tiếng vang như những tín hiệu mở đầu trong sáng tạo và đổi mới của văn học
thời kỳ này. Từ Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Trong cơn gió lốc (Khuất
Quang Thuỵ)...đến Thời gian của người (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong
vườn (Ma Văn Kháng)... Vào thời điểm 1986 và những năm tiếp theo trong cao
trào đổi mới, tiểu thuyết đã thực sự bộc lộ ưu thế của mình. Đội ngũ viết tiểu
thuyết đã cố gắng đổi mới tư duy, tìm ra một hướng đi mới trong sáng tạo nghệ
thuật của mình. Họ mải miết trên cánh đồng văn chương để khai sinh ra những
đứa con tinh thần của mình. Có thể kể đến một số tác phẩm của các tác giả tiêu
biểu như: Thời xa vắng, Hai nhà ( Lê Lựu), Mảnh đất lắm người nhiều ma
(Nguyễn Khắc Trường), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng),
Luật đời và cha con (Nguyễn Bắc Sơn)...Tiểu thuyết thời kỳ này đã khẳng định
được vị trí của mình. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên mà người ta đã cảm nhận
thời bây giờ là “ thời của tiểu thuyết” ( Nguyễn Huy Thiệp ), thời của dân chủ
hoá trong sáng tạo và tiếp nhận. Những nhà văn lão thành như Nguyễn Xuân
Khánh đã từng thành công với tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn – Cuốn tiểu
thuyết vừa ráo mực đã được nhận giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Hà Nội
với số phiếu tuyệt đối; Nguyễn Khải với Thượng đế thì cười dường như muốn
khép lại một hành trình hơn nửa thế kỷ cầm bút để lại nhiều tiếng vang trong sự
nghiệp tác giả. Dù đã thuộc vào hàng cây cao bóng cả, Mạc Can vẫn không thôi
làm người đọc ngạc nhiên và cảm động với tiểu thuyết đầu tay Tấm ván phóng
dao. Qua nhiều năm tích luỹ kinh nghiêm và nếm trải, Bùi Ngọc Tấn làm nóng
dư luận với Chuyện kể năm 2000. Và không thể không nhắc đến một Ma văn
Kháng vẫn dồi dào bút lực trong Ngược dòng nước lũ. Cùng đồng hành với
những nhà văn lớp trước là hàng loạt các cây bút của các thế hệ kế tiếp luôn ý
thức về sự đổi mới sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, sáng tạo và chấp
nhận thử thách. Người đọc đã dần quen và nhớ tên hàng loạt tiểu thuyết Thoạt
kỳ thuỷ, Ngồi ( Nguyễn Bình Phương); Cõi người rung chuông tận thế ( Hồ
Anh Thái); Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)...Trong bối cảnh giao lưu và hội
nhập văn hoá quốc tế, sáng tác của các cây bút hải ngoại đã xuất hiện ở Việt
Nam và được giới thiệu tới bạn đọc ở trong nước: Sông Côn mùa lũ (Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Mộng Giác), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Và khi tro bụi (Đoàn Minh
Phượng)...Những tác phẩm của các cây bút ấy đã góp phần làm cho diện mạo
tiểu thuyết hậu hiện đại phong phú và đa dạng hơn.
Như vậy, tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã thực hiện khá thành
công nhu cầu đổi mới tư duy tiểu thuyết. Nhìn từ góc độ thể loại, ở thời kỳ này
tiểu thuyết có sự tìm tòi, cách tân trên nhiều phương diện: Đề tài, cốt truyện,
kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ...Ở phương diện đề tài, tiểu thuyết đã nhìn thẳng
vào sự thật, vào những mảnh vỡ, những bi kịch đời thường để mổ xẻ, phơi bày
nó bằng cái nhìn mới mẻ, trung thực. Văn học chính là tấm gương phản ánh
hiện thực cuộc sống muôn màu, muôn vẻ. Cuộc sống riêng tư với những tâm
tư, tình cảm và nguyện vọng cá nhân được các nhà văn đi sâu khai thác. Chủ đề
thế sự đời tư trở thành chủ đề xuyên suốt các sáng tác văn học thời kỳ này.
Cuộc sống với những trạng thái khác nhau: cao cả - thấp hèn, ánh sáng – bóng
tối, khát vọng – ham muốn được phơi bày, tạo nên diện mạo mới cho văn
học. Các nhà văn đã đi sâu khám phá những va đập của đời sống chiến
tranh đến cuộc sống của con người thời hậu chiến với nỗi đau, sự mất mát,
những bi kịch của cuộc sống đời thường. Vì thế, văn học đã gần với con
người và cuộc đời hơn.
Bên cạnh sự thay đổi đề tài là sự đổi mới, cách tân ở cốt truyện. Trong
một số tiểu thuyết trước đây người ta thường kể lại cốt truyện, chú ý nhiều đến
cốt truyện mà ít để ý đến cách viết của nhà văn. Nhưng từ sau 1975, nhất là
trong thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết đã phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự
do hơn ở cách thức dựng truyện. Bên cạnh những cốt truyện giàu kịch tính là
những cốt truyện giàu tâm trạng. Có những kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch
lạc, có mở đầu, có kết thúc; cũng có những tiểu thuyết có cấu trúc lỏng lẻo, lắp
ghép, kết thúc mở - kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên
đều nhằm phân tích, lý giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người,
cuộc sống đương đại. Cốt truyện tiểu thuyết từ những năm đổi mới đến nay,
một mặt kế thừa những đặc trưng của cốt truyện truyền thống mặt khác đã tiếp
cận một cách có chọn lọc những tinh hoa của tiểu thuyết hiện đại thế giới. Nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thuật đồng hiện, những độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, nghệ thuật
gián cách, đa giọng điệu... đã được tiểu thuyết thời kỳ này vận dụng một cách
linh hoạt. Nhiều tác giả đã đổi mới tư duy, tìm một hướng đi mới trong sáng tạo
thể loại: Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Dương Hướng, Hồ Anh Thái, Bảo
Ninh... Ở các tiểu thuyết Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng...tác giả đã sử dụng cấu
trúc đồng hiện trong tác phẩm. Ở đó, quá khứ và hiện tại được đan xen trong
cốt truyện. Tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi
pháp truyền thống. Có nhiều tiểu thuyết giai đoạn này được tạo dựng từ các
mảnh cốt truyện, các mảnh tâm trạng không theo trình tự thời gian mà theo ý
đồ sáng tạo của tác giả.
Làm nên tác phẩm không thể thiếu nhân vật. Nhân vật văn học thể hiện
quan niệm của nhà văn về con người. Tiểu thuyết ngoài khả năng tái hiện bức
tranh toàn cảnh xã hội còn đi sâu khám phá số phận con người. Nếu như văn
học giai đoạn 1945 -1975 nhìn con người dưới góc độ cộng đồng dám xả thân
vì nghĩa lớn, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong sự gắn bó với cộng đồng. Đến văn
học thời kỳ đổi mới lại là giai đoạn chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy
tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Vì thế,
tiểu thuyết quan tâm đến số phận con người trước những va đập của chiến
tranh. Nhiều cuốn tiểu thuyết đã hướng tới miêu tả số phận những con người
bình thường với những bi kịch của đời họ. Trong văn học đổi mới vấn đề con
người cá nhân được các nhà văn quan tâm hàng đầu. Đó không phải là con
người của chủ nghĩa cá nhân, của cái tôi cực đoan, không chịu sự tác động của
xã hội như trước kia. Mà ở đây, số phận cá nhân được giải quyết một cách thoả
đáng trong mối liên hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau mỗi cá thể là
những vấn đề mang ý nghĩa của thời đại. Tiểu thuyết thời kỳ này, đề cập đến
khát vọng sống, về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu đôi lứa. Các tác giả đã khai
thác con người tự nhiên trước nhu cầu của hạnh phúc đời thường, của cuộc
sống riêng tư. Khi con người trở về với cuộc sống đời thường, trong hàng loạt
tác phẩm của Lê Lựu, Chu Lai, Ma Văn Kháng, Dương Hướng, Nguyễn Khắc
Trường... các nhà văn đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hạnh phúc riêng, giữa con người cá nhân và con người xã hội. Các cây bút tiểu
thuyết ấy đã đi sâu khám phá thế giới nội tâm của con người. Ở đó, các tác giả
đã đi sâu vào thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức tạp của con người. Tiểu
thuyết từ sau đổi mới đã quan niệm con người cá nhân như một nhân cách kiểu
mới. Các nhà văn đã nhận diện con người đích thực với nhiều kiểu dáng nhân
vật, biểu hiện phong phú và đa dạng, có sự kết hợp hài hoà giữa con người tự
nhiên và con người xã hội.
Ngôn ngữ là phương tiện, chất liệu để xây dựng nên tác phẩm văn học.
Ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ gần với đời sống, ẩn chứa những đặc trưng
của thể loại: Tính văn xuôi, tính tổng hợp, tính đa thanh. Xoá bỏ khoảng cách
sử thi, tiểu thuyết miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần
thuật, với cách nhìn nhân vật như những con người bình thường. Do yêu cầu cá
thể hoá cao độ ngôn ngữ nhân vật nên tiểu thuyết thâu nạp các dạng thức khác
nhau của nhiều tầng lớp trong xã hội. Nhà văn được giải phóng khỏi sự lệ thuộc
vào một ngôn ngữ duy nhất mà có thể hoán vị ngôn ngữ của nhà văn và ngôn
ngữ nhân vật. Miêu tả cuộc đời như nó vốn có, ngôn ngữ tiểu thuyết không chỉ
được soi sáng bởi ngôn ngữ tác giả mà còn được soi sáng bởi ngôn ngữ nhân
vật. Tính đối thoại nội tại là một yếu tố cơ bản trong ngôn ngữ tiểu thuyết.
Ngôn ngữ tiểu thuyết không bao giờ thoả mãn với một ý thức, một tiếng nói mà
luôn mang tính đa thanh. Ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật tạo
nên giá trị nghệ thuât của tác phẩm qua đối thoại. Nhờ đối thoại mà các vấn đề
trong tác phẩm được xem xét, thể hiện dưới những điểm nhìn khác nhau. Ngôn
ngữ đối thoại trong tác phẩm thường tạo ra những tình huống bất ngờ và cảm
giác thực của đời sống qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Bên cạnh đối thoại,
độc thoại nội tâm trở thành một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình
tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế giới nội tâm bí ẩn của nhân vật. Bên cạnh
đó là bút pháp trào lộng, giễu nhại. Dường như càng về sau sự xuất hiện của
bút pháp này càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại. Có thể nói, Thời xa vắng
(Lê Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoà), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải)... là
những tác phẩm sử dụng bút pháp trào lộng, giễu nhại thành công. Góp phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
làm nên gương mặt của tiểu thuyết đương đại cũng phải kể đến bút pháp phúng
dụ, huyền thoại. Đây là bút pháp nghệ thuật được rất nhiều nhà tiểu thuyết thời
kỳ này sử dụng. Sự có mặt của bút pháp này vừa giúp nhà văn đi sâu hơn vào
thế giới hiện thực vừa tạo ra sự lạ hoá để thu hút người đọc đem đến cho họ
nhiều cảm xúc mới mẻ về một hiện thực đầy nghiệt ngã và phức tạp qua những
huyền thoại giàu chất tưởng tượng. Từ đó, người đọc có cái nhìn đa dạng, nhiều
chiều về đời sống hiện thực.
Nhìn từ góc độ khác, tiểu thuyết thời kỳ này đã tiếp cận vấn đề đạo đức
một cách tối đa. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống xã hội
biến đổi nhanh chóng, vấn đề đạo đức của con người đang bị xuống cấp. Với
thiên chức của mình – là ngọn nguồn nuôi dưỡng, là phương tiện giáo dục con
người, văn chương đã góp phần thức tỉnh lương tri, nâng đỡ tâm hồn, hướng
con người tới Chân – Thiện – Mỹ. Và lẽ dĩ nhiên, không thể dửng dưng đứng
ngoài cuộc, tiểu thuyết sau 1975 thâm nhập vào cuộc sống con người. Trên
hành trình tìm kiếm đạo đức, nhân cách mới cho con người hôm nay và mai sau
thì việc đặt con người trong các mối quan hệ đạo đức xã hội là điều cần thiết.
Tiểu thuyết hôm nay đã hướng vào việc phản ánh mặt trái của những con người
phi nhân tính, đánh mất đạo lý... Thấp thoáng ở đó, người đọc tìm thấy những
mảnh đời, những số phận được tái tạo mang chiều sâu triết lý nhân sinh cụ thể
mà phổ quát. Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới hoà nhập để phản ánh chân thực, gần
gũi những vấn đề mà các nhà văn trăn trở. Ở đó, các tác giả đặt ra nhu cầu về ý
thức, trách nhiệm lương tri trước những biến động ghê gớm của các chuẩn mực
giá trị đạo đức, góp phần làm cuộc sống hoàn thiện, tốt đẹp hơn. Hàng loạt các
tác phẩm như: Thời xa vắng, Chuyện làng cuội, Hai nhà, Thời loạn của (Lê
Lựu); Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng); Mảnh đất lắm người nhiều
ma (Nguyễn Khắc Trường)... Cùng với đó là sự góp mặt của truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Huy Thiệp...Từ đó, giúp
người đọc nhận thấy đời sống xã hội không còn là một chiều, giản đơn, dễ hiểu
mà chúng luôn biến chuyển phức tạp, nhiều chiều. Bằng trách nhiệm của người
cầm bút, các nhà văn đã đưa ngòi bút của mình len lỏi tới những ngõ ngách của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đời sống xã hội để viết lên những mặt tiêu cực, những mảnh đời đau khổ,
những cảnh đời éo le, những tấn bi hài kịch của con người. Thực tế xã hội Việt
Nam những năm sau đổi mới có nhiều phức tạp, nhiều biến động. Con người bị
cuốn theo cuộc sống xô bồ, hỗn độn. Trong đó có một bộ phận không nhỏ bị
chi phối bởi sức mạnh của đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, gia đình, dòng tộc.
Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới thể hiện sự nhạy bén về tư duy nghệ thuật trong
việc nhận thức thực trạng suy thoái, sự băng hoại về đạo đức, nhân cách con
người. Nhờ vậy, tiểu thuyết đã đáp ứng được những yêu cầu của văn học giai
đoạn đổi mới.
Như vậy với những đổi mới, cách tân trên, ta có thể khẳng định rằng tiểu
thuyết đã thực sự trở thành nhân vật chính trên sân khấu văn học hiện đại.
Sở dĩ chúng tôi muốn luận giải một cách khái lược về tiểu thuyết Việt
Nam đương đại là bởi nhà văn Lê Lựu luôn nằm trong guồng quay hối hả đó.
Với sự miệt mài, dẻo dai cày xới trên cánh đồng văn chương, chữ nghĩa, ông đã
gặt hái được nhiều thành quả đáng kính phục. Đúng như lời nhận xét của nhà
phê bình Bùi Việt Thắng: “Nếu như nhà văn Nguyễn Minh Châu được tấn
phong là “người mở đường tinh anh” cho đổi mới văn học Việt Nam sau 1975
thì Lê Lựu tôi sẽ gọi ông là “người lính xung kích” trong trận đánh mở đường
ngoạn mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam. Người lính xung kích
thường hi sinh nhiều hơn đồng đội của mình. Lê Lựu là như thế!” (Lê Lựu,
người lính xung kích trong trận đánh mở đường ngoạn mục).
1.1.2. Đội ngũ nhà văn viết tiểu thuyết.
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới, ở thời kỳ này các nhà tiểu
thuyết đã ý thức được vai trò, sứ mệnh của mình nên họ ra sức sáng tạo để
khẳng định mình. Với nội lực riêng trong cá tính sáng tạo, các nhà văn đã và
đang chiêm nghiệm, vừa ở trong tư thế nhập cuộc vừa biết lùi xa và đứng trên
tầm cao của đất nước trong những năm có sự chuyển đổi về cách nhìn, cách
khám phá nghệ thuật của nhà văn. Hoà mình vào dòng chảy văn học thời kỳ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
này, các nhà tiểu thuyết đương đại ra sức sáng tạo để khẳng định mình. Điều đó
đã tạo nên một đội ngũ tiểu thuyết đông đảo có tên tuổi trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Có thể kể đến các cây bút như: Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Khắc Trường, Lê Lựu, Chu Lai, Dương Hướng,
Nguyễn Thị Thu Huệ… Họ quan tâm đến nhiều vấn đề của đời sống hiện thực.
Các nhà tiểu thuyết đã nhìn sâu hơn vào những mảnh vỡ, những bi kịch của con
người ở trong đời thường cũng như trong gia đình như: gia đình ông Bằng
(Mùa lá rụng trong vườn – Ma Văn Kháng), gia đình ông đồ Khang (Thời xa
vắng – Lê Lựu), gia đình lão Khổ (Lão khổ - Tạ Duy Anh), gia đình ông Phúc
(Mảnh đất lắm người nhiều ma – Nguyễn Khắc Trường), gia đình bà cả
Thuần (Dòng sông mía - Đào Thắng)…
Bằng trách nhiệm của người cầm bút, các nhà văn đã hoà nhập cùng với
sự phát triển mau lẹ của đời sống hiện thực. Từ đó, họ đưa ngòi bút của mình đi
sâu vào đời sống hiện thực xã hội với nhiều mặt vừa tích cực vừa tiêu cực. Từ
đó, họ nhận ra được những mảnh đời đầy éo le, những tấn bi kịch của đời sống
con người. Cũng xuất phát từ nhu cầu đổi mới văn học thời kỳ này mà các nhà
tiểu thuyết đương đại đã đổi mới tư duy nghệ thuật và quan niệm về con người,
thể loại. Vì thế mà kiểu nhân vật được mở rộng, đa dạng hoá sự đổi mới trong
nghệ thuật về con người nhằm tạo ra những đột phá trong văn học đương thời.
Chính điều đó đã khẳng định được bước tiến của tiểu thuyết cũng như các cây
bút tiểu thuyết thời kỳ này. Hoà chung vào không khí văn học giai đoạn này,
đội ngũ tiểu thuyết cũng vận hành trong cơ chế vận động và đổi mới của văn
xuôi đương đại. Những người cầm bút hoà mình vào cuộc sống hiện thực để cho ra
đời những tác phẩm có giá trị, thể hiện sự sáng tạo, những nỗ lực đổi mới của họ.
Đến với nhà văn của đồng bào các dân tộc miền núi - Ma Văn Kháng,
người đọc thấy được sự sáng tạo không nhỏ trong sự nghiệp của nhà văn. Ma
Văn Kháng được mọi người biết đến không chỉ bởi tác phẩm, nhân vật của
vùng núi cao mà hơn hết là sự nhập sâu ngòi bút của mình vào đời sống hiện
thực con người thời đổi mới. Các tiểu thuyết của ông đều mang theo một bài
học nhắc chúng ta về tình đời, tình người, tình yêu cuộc sống. Đúng như nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phê bình văn học Lưu Khánh Thơ kể lại: …Có thể nói tác phẩm đánh dấu sự
chuyển biến quan trọng của Ma Văn Kháng là tiểu thuyết “Mưa mùa hạ”. Tôi
còn rất nhớ khi tiểu thuyết ấy ra đời gặp rất nhiều sóng gió. Càng ngày càng
thấy rằng chỉ sau một thời gian ngắn thôi, tiểu thuyết Mưa mùa hạ ấy đặt ra
nhiều vấn đề của văn học đổi mới cũng như vai trò dự báo của tác phẩm văn
học đối với đời sống xã hội nói chung và trong văn học nói riêng. Trong những
năm đầu đổi mới, ngòi bút Ma Văn Kháng liên tục cho ra đời nhiều tác phẩm
gây được sự chú ý của bạn đọc. Đối với ông viết văn trước tiên là câu chuyện
về số phận con người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái cao đẹp, cái
thiện. Thấp thoáng trong những trang sách, người đọc có thể nhìn ra nỗi buồn,
nỗi đau đời, những ưu tư của ông trước nhân tình thế thái. Ông muốn dùng sức
mạnh trong ngòi bút của mình để thể hiện những vấn đề có ý nghĩa trong cuộc
đời. Ông là nhà văn luôn kiên trì lao động sáng tạo. Vì vậy mà tên tuổi của ông
được khẳng định trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. Đúng như lời nhận
xét của nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân: Có thể nói trong số những cây
bút cùng thời với anh, có những người đã bỏ nghề, cũng có những người viết
thưa đi…Thế nhưng Ma Văn Kháng vẫn cặm cụi, tìm tòi, kiên trì viết đều lên
rất đều đặn. Và thật lạ những tác phẩm của anh đều gây được sự chú ý. Thành
ra Ma Văn Kháng đã thu được một kết quả khả quan về mặt sáng tác.
Hoà mình trong dòng chảy văn học thời kỳ đổi mới, Tạ Duy Anh cũng
có những sáng tạo không nhỏ và để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong khoảng
hai mươi năm cầm bút, ông đã xuất bản sáu cuốn tiểu thuyết, hàng chục truyện
ngắn, tản văn, truyện thiếu nhi...Là nhà văn luôn đổi mới, tìm tòi và sáng tạo,
Tạ Duy Anh không lúc nào không nghĩ về sự thay đổi, thay đổi để tiếp tục sáng
tạo. Từ đó, mỗi tác phẩm, đặc biệt là cách viết mô tả cuộc sống với tất cả cái
xấu, cái ác và bóng tối đã làm nên sự thành công của ông qua một số tác phẩm
như: Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối, truyện ngắn Lãng du. Cũng trong
quãng thời gian cầm bút, Tạ Duy Anh vẫn luôn trăn trở tìm cách đổi mới tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
duy, quan niệm nghệ thuật, làm mới tác phẩm từ nội dung đến hình thức, từ
ngôn ngữ tới cấu trúc. Điều đó làm cho sự nghiệp và tên tuổi của ông được
đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước biết đến.
Góp mặt trong đội ngũ các nhà tiểu thuyết đương đại, chúng ta cũng phải
kể đến sự đóng góp của Nguyễn Bình Phương. Mặc dù nhìn bề ngoài giản dị,
hiền hoà, nhân hậu, ít nói nhưng con người bên trong của ông lại vô cùng mạnh
mẽ, sắc sảo, thẳng thắn. Ông luôn nhìn vào sự thật để viết. Vốn là một nhà văn
quân đội, nhờ thời gian trong quân ngũ “rèn luyện cho tôi nhiều về tính cách
biết kìm nén hơn. Tôi có nhiều thời gian dong duổi lang thang cuộc chiến bảo
vệ bờ cõi của các vùng đất ấy. Quân ngũ cho tôi cái cảm quan về tình đồng đội,
về sự sống chất giữa những người bạn lính với nhau. Quan trọng nhất là nó rèn
luyện bản lĩnh đơn phương độc mã cho tôi”. Vì thế mà ông không ngừng sáng
tạo và đổi mới trong sự nghiệp sáng tác để khẳng định chỗ đứng của mình trong
tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn đã mang đến cho bạn đọc
những cảm quan mới mẻ và phong phú. Ông luôn ý thức tiếp thu cái mới và
khai thác đề tài ở những vùng đất mới với những cách tân độc đáo cả về nội
dung và hình thức thể hiện. Đó là những đóng góp đáng ghi nhận của một nhà
văn luôn nỗ lực sáng tạo làm mới tiểu thuyết Việt Nam.
* * *
Như vậy có thể thấy, với những nỗ lực đổi mới, sáng tạo, các nhà tiểu thuyết
đương đại đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Cũng nhờ đó mà đội ngũ tiểu thuyết đương đại ngày càng đông đảo, đa dạng.
1.1.3. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết đương đại.
Đề tài người phụ nữ là mạch nguồn bất tận trong văn học từ xưa đến nay.
Từ các áng ca dao dân ca, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ bị ràng buộc bởi
những luật lệ, lễ giáo phong kiến hà khắc. Họ không làm chủ được số phận của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mình, không có quyền quyết định hạnh phúc của mình.
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. ( Ca dao)
Đến thời kỳ văn học trung đại, hình ảnh người phụ nữ xuất hiện với số
phận bất hạnh “ hồng nhan bạc mệnh”. Đó là nàng Vũ Nương nết na thuỳ mị,
chung thuỷ nhưng bị chồng nghi ngờ ngoại tình đến nỗi phải lấy cái chết để
minh oan (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ). Đó là nàng
Kiều xinh đẹp, tài hoa, hiếu hạnh nhưng số phận chìm nổi với mười lăm năm
lưu lạc (Truyện kiều – Nguyễn Du)… Họ đều là những người phụ nữ xinh đẹp,
mang những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam nhưng gặp nhau
ở số phận bất hạnh. Đến thời kỳ văn học cách mạng, ta lại gặp hình ảnh các chị,
các mẹ sẵn sàng đứng lên cầm súng chiến đấu như: chị Út Tịch (Người mẹ cầm
súng – Nguyễn Thi), chị Sứ (Hòn Đất – Anh Đức), Nguyệt (Mảnh trăng cuối
rừng – Nguyễn Minh Châu)...Ở họ hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ Việt Nam: Nhân hậu, thuỷ chung, đảm đang, dũng cảm, dám hi
sinh hết mình.
Chiến thắng vĩ đại 1975 đã khép lại 30 năm chiến tranh gian khổ, hào hùng và
mở ra một chặng đường mới. Đây cũng là dấu mốc ghi nhận sự đổi mới, chuyển
mình của văn học. Sự thay đổi trong quan niệm về con người đã ảnh hưởng đến cách
nhìn và cách thể hiện về người phụ nữ. Nếu trước kia nhân vật nữ là những người anh
hùng thì sau chiến tranh họ trở về với con người thực, cuộc đời thực và trong lòng
không khỏi day dứt với nỗi đau thời hậu chiến. Người phụ nữ trong văn học giai đoạn
này được nhìn nhận nghiêng về khía cạnh đời tư, với những suy tư, trăn trở về cuộc
đời, con người. Bước ra khỏi chiến tranh nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng lại, thậm
chí ám ảnh đến cuộc sống của con người thời hậu chiến. Các nhà tiểu thuyết đương
đại cũng nằm trong mạch nguồn sáng tạo ấy. Họ đã đi sâu khám phá cuộc sống hiện
thực của con người thời kỳ này. Vì thế, hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết
đương đại hiện lên với những gì như nó vốn có. Họ không điển hình cho mô típ
người được định trước mà hiện lên với cả mặt tốt và mặt xấu trong cuộc sống đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thường. Từ cái nhìn đầy rẫy những chấn thương nên thế giới nhân vật trong
tiểu thuyết thời kỳ này là những con người nạn nhân của những chấn động xã
hội. Trước cuộc sống hiện thực luôn xô bồ, khắc nghiệt; trước sự cám dỗ của
lối sống thực dụng đang hoành, con người trở nên chao đảo mất phương hướng
dẫn đến tình trạng tha hoá hoặc bị chìm vào những bi kịch không lối thoát. Đến
với Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, người đọc bắt gặp hình ảnh
cô Lý vừa ý nhị kín đáo vừa vô cùng tàn nhẫn. Lý là nhân vật được tác giả khắc
hoạ rất đậm nét. Cô là người vừa có cá tính vừa có đời sống nội tâm phong phú.
Có lúc cô chăm sóc gia đình chu đáo, khéo léo trong nội trợ, điều đó khiến cô
thật dễ thương. Nhưng cũng có lúc cô nanh nọc như một kẻ thất học lắm điều
với những thói đố kị ganh ghét. Lý vừa là đoá hoa bừng nở, ngào ngạt khoe
hương sắc vừa là kẻ cô độc lầm lũi như cái bóng “xam xám cái áo nhuộm pin
đèn, sùm sụp cái nón, xách cái cặp lồng cơm, lặng lẽ đi làm”. Lý chính là sản
phẩm của thời đại mới dễ thích ứng nhưng cũng dễ thay đổi trước những biến
động của môi trường. Mặc dù, cô mồ côi bố mẹ từ lúc nhỏ. Tuổi thơ không
được sống trong mái ấm gia đình, lớn lên không được cắp sách đến trường như
bao đứa trẻ khác nhưng cô lại sớm bị tiêm nhiễm lối sống xô bồ nơi thành thị.
Vì vậy, khi Đông xuất hiện trong bộ quân phục sĩ quan, sao vàng lấp lánh trên
mũ là Lý cảm mến và chẳng bao lâu đã yêu tha thiết anh đại uý quân đội nhân
dân Việt Nam nọ. Thế nhưng sau khi gắn cuộc đời mình với Đông, Lý không
bằng lòng với cuộc sống đơn giản, buồn tẻ, điều đó làm cho Lý hoàn toàn vỡ
mộng. Trong khi đó, bên cạnh chị không thiếu những kẻ cơ hội muốn lợi dụng
chị, luôn khen chị quá mức “ cô là con người năng động nhất” hay “chị ấy là
con dao phay của chúng tôi”. Từ đó, Lý rơi vào cái ảo tưởng mình có vai trò rất
quan trọng “chị ngây ngất vì vinh quang, lòng tràn ngập tràn ngập cái cảm giác
mình là nhân vật nổi trội nhất, tài năng nhất, có quyền hành cao nhất lúc này”.
Cũng từ đó, chị đã rơi vào chỗ buông xuôi bị trượt ngã trên đường đời. Cộng
với sự cô độc, trơ trọi trong gia đình, mọi người trong nhà không còn chở che,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nâng đỡ, vỗ về, an ủi chị nữa. Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu cay đắng, bao
nhiêu ấm ức bấy lâu chất chứa trong lòng chị tuôn ra. Vì thế, con người chị chỉ
còn là sự trâng tráo, vô liêm sỉ. Chị buông thả theo lối sống phóng túng, sa đoạ,
trác táng với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá biến chất. Chị đã không cưỡng
lại được sự cám dỗ vật chất, lối sống vị kỷ thực dụng, bản năng nên trượt dài
trên con đường hư hỏng. Trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Phương –
một người con gái Hà Nội vừa ngây thơ vừa già dặn vừa chung tình lại vừa bạc
bẽo. Hình ảnh của Phương gắn liền với mọi kỷ niệm của Kiên về Hà Nội. Kỷ
niệm lần đầu đi tàu điện ra ngoại ô thành phố, trong một toa tàu bỏ không hai
cánh tay trần của cô bé quàng lên cổ thằng bạn trai cùng tuổi mười ba và tới tấp
cô hôn lên má. Kỷ niệm buổi chiều mùa hạ 1965, sau sân trường Bưởi hai đứa
sóng đôi mỗi lúc một xa bờ. Phương đối với Kiên vừa là người bạn, vừa là
người yêu nhưng cũng vừa như là mẹ. Bên cạnh nhân vật Phương gần với hình
ảnh những người phụ nữ Việt Nam trong văn học nhường chỗ cho một Phương
hoàn toàn khác. Từ chối là một người đàn bà truyền thống nhút nhát, rụt rè,
cam chịu. Phương trong Nỗi buồn chiến tranh lại yêu và dám bày tỏ tình yêu
của mình. Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết đương đại hiện lên khá đa
dạng, phong phú. Sự đa dạng trong việc khắc hoạ chân dung người phụ nữ đã
cho người đọc thấy được một cái nhìn tổng quát về thế giới người phụ nữ trong
xã hội đương đại. Cũng từ đó, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc hơn với các
thân phận nữ thời hậu chiến trong cuộc sống bộn bề và phức tạp. Các nhà tiểu
thuyết đương đại đã khai thác thế giới nhân vật người phụ nữ không chỉ ở sự đa
chiều trong nội tâm mà còn ở tính cách đầy phức tạp. Mỗi tiểu thuyết trở thành
một khám phá cho những số phận, những bí ẩn trong chiều sâu tính cách và thế
giới tâm hồn con người. Đến với tiểu thuyết Bến không chồng của Dương
Hướng, người đọc thấy được nỗi đau, sự mất mát những bi kịch của các chị,
các mẹ sau chiến tranh. Đó là nỗi đau của những người gái nhỏ hậu phương
mỏi mắt ngóng trông những người con trai nơi tiền tuyến. Đó là cảnh ngộ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mẹ con Hạnh nói riêng và những người phụ nữ làng Đông nói chung, sau chiến
tranh không một người nào còn chồng, có chồng. Chiến tranh chính là nguyên
cớ lớn nhất và trực tiếp nhất làm cho họ rơi vào tấn bi kịch cuộc đời. Dù ở họ
mỗi người là một mảnh đời, một số phận khác nhau nhưng đều gặp nhau ở số
phận bi kịch. Đến với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường, ta lại bắt gặp số phận bi kịch của bà Son. Vốn là người phụ nữ luôn
biết hi sinh, chịu đựng, nhận phần thiệt thòi về bản thân, hi sinh cho người khác
mà không bao giờ tính toán thiệt hơn. Người phụ nữ đẹp như thế, nhân hậu như
thế nhưng số phận lại đầy bi kịch để rồi cuối cùng phải tìm đến cái chết thương
tâm. Bà chính là nạn nhân của những kẻ bất lương, nạn nhân của cái ác và sự
xảo trá.
Có thể thấy rằng, tiểu thuyết đương đại đã nhìn người phụ nữ trong cuộc
sống đời thường thời hậu chiến với nhiều mất mát đau thương. Các nhà tiểu
thuyết đã đi sâu khám phá bản chất tốt đẹp, cùng những va đập của đời sống
chiến tranh ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường ở họ. Vì thế, họ đã trở thành
nhân vật chính trong đời sống văn học thời kì này.
1.2. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới.
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại một vùng quê nghèo ở thôn
Mẫn Hòa, xã Tân Châu, Huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông sinh ra trong
một gia đình có truyền thống nho học đến bố ông là đời thứ năm dạy nho học,
thế nhưng đến đời ông thì không nối nghiệp cha được nữa. Là người con của
quê hương có truyền thống cách mạng nên cũng như bao thanh niên trai tráng
khác ông sớm xung phong lên đường nhập ngũ để trở thành anh bộ đội cụ Hồ.
Chính trong máu lửa chiến tranh, trong môi trường quân đội đã tạo nên một đại
tá, một nhà văn quân đội đầy nghị lực luôn tìm tòi và sáng tạo. Ông đã qua
trường bồi dưỡng viết văn (Hội nhà văn) thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nước, làm phóng viên báo quân khu ba sau chuyển về làm trưởng ban văn xuôi,
thư ký toà soạn Tạp chí văn nghệ quân đội. Sau từng ấy năm cống hiến cho
quân đội, cho nghệ thuật, Lê Lựu đã nghỉ hưu với quân hàm đại tá và để lại rất
nhiều tác phẩm có giá trị. Mặc dù đã nghỉ hưu nhưng với lòng yêu nghề và
niềm say mê công việc, ông đã chuyển sang làm giám đốc Trung tâm Văn hoá
doanh nhân để thực hiện tâm nguyện của mình.
Không phải ngẫu nhiên con người ta sinh ra đã là nhà văn, nhà thơ hay
nhà khoa học; cũng không phải ai cũng có thể trở thành nhà thơ, nhà văn. Bằng
sự học hỏi, nỗ lực của chính bản thân cộng thêm tài năng thiên phú, Lê Lựu đã
trở thành nhà văn có tên tuổi và được đông đảo bạn đọc yêu mến. Ước mơ
thành nhà báo đã trỗi dậy trong ông từ thời thơ ấu. Sau đó, ông đến với quân
đội với mong muốn trở thành người lính và cũng để biết nhiều, hiểu nhiều, tăng
thêm vốn sống thực tế để viết. Trong thời gian ở trong quân ngũ, ông tranh thủ
viết tin, từ tin ngắn dần đến các thể loại như phóng sự, bút ký. Năm 1963, quân
khu III mở trại viết văn ở Đồ Sơn, ông viết trận đánh cuối cùng thử nghiệm.
Đến Tết làng mụa – đứa con đầu lòng này được trại công nhận là khá nhất,
được đọc trước toàn quân và đăng trên báo văn nghệ quân đội. Sau đó, ông
được viết kinh nghiệm Tôi đã tập viết như thế nào đăng trên văn nghệ quân
đội. Bắt đầu từ đây, ông viết truyện ngắn. Năm 1965, ông tham gia viết văn ở
Hội nhà văn Quảng Bá nên có điều kiện học hỏi ở các thầy lão luyện như
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Kim Lân, Tô Hoài...Trở về, ông làm phóng viên
báo Quân khu III. Làm báo là chính, viết văn là phụ nên cứ phải vụng trộm
đêm tối, chui vào trong chăn mà viết, cứ viết, viết mãi để trở thành nhà văn.
Khởi đầu sự nghiệp viết văn từ những năm 60 của thế kỷ XX, Lê Lựu
thuộc số ít những nhà văn thế hệ chống Mỹ tiếp tục có những thành tựu nổi bật
trong lao động nghệ thuật từ sau 1975, nhất là công cuộc đổi mới văn học từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI tới nay. Con đường sự nghiệp của ông đã đi
được những chặng khá dài và cũng gặt hái được nhiều thành công. Với tâm
huyết của một nhà văn chân chính luôn mải miết tìm kiếm những điều mới mẻ,
luôn vượt lên hoàn cảnh để tự làm mới mình. Bởi vậy, cái tên Lê Lựu giờ đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
không còn xa lạ với bạn đọc. Ông thuộc lớp nhà văn trưởng thành trong thời kỳ
chống Mỹ cứu nước. Người đọc biết đến tên ông với tác phẩm trình làng Tết
làng mụa (1964). Sau đó là các truyện ngắn: Người cầm súng (1970), Phía
mặt trời (1972), Chuyện kể từ đêm trước...và đến Người về đồng cói thì ông
đã thực sự tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Đây cũng là tác phẩm đoạt giải
trong cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà văn và Bộ thương binh. Hơi
hướng tiểu thuyết đã xuất hiện trong những truyện ngắn của ông như dự báo
một thành công khẳng định vị thế của Lê Lựu. Sau hai tập truyện ngắn (Người
cầm súng và Tết làng Mụa) được nhiều người nhắc đến và tỏ rõ là một cây bút
quân đội xông xáo, cần mẫn, có những thành công đáng khuyến khích, Lê Lựu
chuyển sang viết tiểu thuyết. Không phụ lòng độc giả, cuốn tiểu thuyết đầu tiên
dày 500 trang với cái tên Mở rừng đã ra mắt bạn đọc (1977). Đây là tác phẩm
viết về đề tài chiến tranh có thể nói khá thành công. Tác giả viết về một binh
trạm ở Trường Sơn thông qua việc miêu tả một đại đội lái xe vận tải hàng ra
tiền tuyến. Ở đó, tác giả đã xây dựng hình ảnh một cuộc chiến oai hùng của các
chiến sĩ Trường Sơn bằng vốn liếng thực tế của mình trong những năm lăn lộn
cùng người lính nơi đây. Nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều tình huống là những
kỷ niệm của chính bản thân tác giả về bức tranh rộng lớn với nhiều bình diện,
nhiều màu sắc khác nhau. Vì thế, tác phẩm đã phần nào tạo được dấu ấn riêng,
mới mẻ. Đó là một cách nhìn nhận hiện thực có phần mạnh dạn của nhà văn so
với xu thế thời đại, là sự náo nức của lòng người trước chiến thắng vang dội
1975. Tuy nhiên để có được Lê Lựu trong lòng người đọc lúc bấy giờ và cho
đến mai sau thì phải nói đến Thời xa vắng (1986). Đứa con này đã đem đến
nét mới mẻ thực sự đã được nhen nhóm từ Mở rừng. Từ khi ra đời, tác phẩm
đã trở thành một sự kiện nổi bật. Ở đâu cũng nghe Thời xa vắng, ở đâu cũng
thấy Giang Minh Sài. Sự trình làng của tiểu thuyết Thời xa vắng vào năm 1986
đã làm khuấy động bầu không khí văn học nước nhà lúc bấy giờ. Tác phẩm đã
thực sự trở thành một hiện tượng văn học, làm tốn không ít giấy mực của giới
nghiên cứu phê bình văn học. Đây là tác phẩm có ý nghĩa bước ngoặt trong sự
nghiệp của Lê Lựu, nó giúp ông khẳng định được vị thế của mình trong hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngũ những nhà văn tiêu biểu thời kỳ đổi mới. Không những vậy, Thời xa vắng
còn có ý nghĩa như cột mốc quan trọng trong tiến trình vận động và phát triển
của văn xuôi nước nhà từ sau 1975.
Sau thành công của tác phẩm này, Lê Lựu không dừng lại mà vẫn đi tiếp
con đường văn nghiệp đầy chông gai của mình. Chiến tranh đã kết thúc nhưng
con người lại phải đối mặt với hiện thực cuộc sống đầy phức tạp đòi hỏi người
viết lách ngòi bút của mình vào mọi ngõ ngách của đời sống hiện tại. Vì vậy,
hàng loạt các tác phẩm ra đời như: Đại tá không biết đùa (1990), Chuyện làng
cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000), Thời loạn (2010), Gã
dở hơi (2012)...đã chứng minh sức bền bỉ, dẻo dai của ngòi bút Lê Lựu. Từ
truyện ngắn xuất hiện đầu tiên (1964), đến nay Lê Lựu viết liên tục gần một
nửa thế kỷ. Nhiều nhà văn chỉ nổi tiếng với một tập sách, thậm chí chỉ một
truyện ngắn. Nhưng Lê Lựu thì ít nhất là ba: Người về đồng cói, Thời xa vắng,
Chuyện làng cuội, trong đó Thời xa vắng là một đỉnh cao. Cho đến nay, nhà
văn đã sáng tác với một khối lượng tác phẩm đáng trân trọng thuộc nhiều thể
loại từ ký, truyện ngắn đến tiểu thuyết.
Bằng sự miệt mài, dẻo dai, nhiệt huyết, Lê Lựu đã đạt được nhiểu giải
thưởng văn học như: Giải nhì cuộc thi truyện ngắn báo văn nghệ năm 1967 -
1968 với tác phẩm Người cầm súng; Giải A Hội nhà văn Việt Nam 1990 với
tác phẩm Thời xa vắng; Giải nhất cuộc thi 1970 -1971 do Bộ lao động thương
binh xã hội – Bộ văn hoá – Hội nhà văn tổ chức với tác phẩm Người về đồng
cói; Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật đợt I năm 2001. Có thể nói,
Lê Lựu như một “lão nông tri điền”, một người làm vườn nghệ thuật kiên nhẫn,
nhiệt huyết và sống chết, vui buồn với nghề văn.
1.2.2. Quan niệm sáng tác của Lê Lựu.
Là một nhà văn chiến sĩ, trực tiếp đứng trong hàng ngũ anh bộ đội cụ Hồ,
Lê Lựu đã từng nếm trải những cay đắng nơi chiến trường khốc liệt nên các
sáng tác của ông in đậm dấu ấn chiến tranh, chất chứa những suy tư, trăn trở về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tình người, tình đời. Điều đó tạo nên một con người đầy nghị lực ở ông. Giờ
đây, mặc dù phải đối mặt với bệnh tật nhưng ông luôn đấu tranh với bệnh tật để
giành lại sự sống cho mình. Khi bạn bè đến thăm và khuyên ông giảm bớt công
việc để mau khỏe ông cảm ơn cười và bảo: "Vì sức khỏe mà phải ngừng làm
việc và viết lách thì không gì khổ bằng thà chết quách cho xong, giờ tôi già yếu
thật nhưng còn hơi thở còn phải viết, không viết được thì nhờ ngươi đánh máy,
đọc cho người ta viết. Đến khi nào mất hết phương tiện truyền đạt cho người
khác mới thôi không viết. Viết là nghiệp sống của mỗi nhà văn, dù bận đến
mấy hay ở hoàn cảnh nào cũng không ai dứt bỏ được nghề đã theo đuổi. Bởi
nhà văn cứ như con trâu cày. Cả cuốn tiểu thuyết hay cuốn sách nó cứ như cánh
đồng mênh mông không biết đâu là chân trời thì anh cày bao giờ cho hết. Cái
anh nhà văn như con trâu kéo cày ấy, nên vất vả lắm”. Những ý nghĩ, lời lẽ ấy
xuất phát từ một con người có tình yêu lớn với văn chương. Cũng xuất phát
tình yêu đó mà nhà văn trải lòng mình với những trăn trở, suy ngẫm về quan
niệm văn chương “ Văn chương phải đối thoại được với đời sống, viết thật lòng
không nói dối – nhờ cái thật mà đối thoại được với cuộc đời và với người đang
sống. Cái thật của văn chương bắt nguồn từ cái thật trong cuộc sống. Cuộc
sống ngày nay có nhiều biến chuyển to lớn, trong đó có sự thay đổi về quan
niệm kinh tế, cách làm ăn, từ đó có sự thay đổi về tư duy...Người viết văn phải
nắm được cái mạch đó của đời, trong cảm quan anh ta có sự tinh nhạy. Nhưng
anh ta phải can đảm, anh ta thấy không thể không viết. Can đảm và dũng cảm
như người lính xông vào một trận đánh gay go, khốc liệt mà không thể có chỗ
lùi...phải viết có đôi chút liều. Nhưng bao giờ cũng phải canh cánh cái trách
nhiệm của người cầm bút trước cuộc đời này [2, tr. 548]. Từ đó, nhà văn quan
niệm rất giản dị mà sâu sắc giữa sống và viết “ với tôi, hãy sống thật với chính
mình, hết lòng với chính mình, yêu ra yêu, ghét ra ghét, không nửa vời. Trong
đời sống anh có thể lừa hàng ngàn người, nhưng trong văn chương anh không
thể lừa dối được một ai. Văn thế nào thì người thế ấy. Nếu anh không sống
quyết liệt, không trung thực thì không thể có văn hay được. Nếu anh sống nhàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhạt sẽ ra thứ văn chương nhàn nhạt ngay” [22, tr. 715 - 716].
Văn chương là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống. Bất
cứ điều gì từ cuộc sống cũng trở thành đề tài cho người sáng tác. Nên theo nhà
văn Lê Lựu , đề tài nào cũng được. Vì giá trị của tác phẩm không phải ở thước
đo về sự đồ sộ của vấn đề nói đến. Ông từng nói: “Tôi quan niệm đặt vấn đề
lớn ở đây không phải cái gì to tát về không gian, về bối cảnh bởi một hạt tấm
khi nói được mối quan hệ của nhân loại và được họ quan tâm thì nó còn lớn cái
đình. Cái lớn ở đây là tầm nhìn của anh bắt gặp được bao nhiêu độc giả.”[22,
tr. 707]. Các tiểu thuyết của Lê Lựu đã có sự thay đổi căn bản trong nghệ thuật
về con người, từ đó dẫn đến những thay đổi trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Xoá bỏ những nguyên tắc nhận thức cứng nhắc về con người, xoá bỏ cách
phân tuyến nhân vật rạch ròi như văn học giai đoạn trước. Lê Lựu đã xây dựng
số phận nhân vật phụ thuộc vào tính cách nhân vật. Tính cách nhân vật theo đó
mà sống khiến đôi lúc nhân vật chỉ huy cả tác giả. Trong tiểu thuyết Mở rừng,
nhà văn dự định là nhân vật chính uỷ sẽ chết ngay mà cuối cùng nhân vật Thú
lại thay thế. Ai cũng biết Lê Lựu khởi nghiệp bằng truyện ngắn nhưng tạo được
tiếng vang bằng tiểu thuyết. Ông quan niệm thể loại nào cũng quan trọng “cái
nào cũng thế thôi, vấn đề là ở chỗ nó hay hoặc dở. Không phải truyện ngắn có
thành tựu hơn tiểu thuyết, không phải đặt vấn đề lớn hơn tiểu thuyết, lại càng
không phải sâu xa hơn tiểu thuyết, chỉ có điều nếu cùng dở như nhau thì đọc
ngắn tốt hơn đọc dài” [22, tr.707]. Điều quan trọng là cái mình nói phải biến
vào da thịt. Nó được thể hiện bằng cách sống của nhân vật. Nó được thể hiện
bằng ba tác phẩm viết ở ba thời điểm khác nhau: Mở rừng – thời chiến tranh,
nhân vật sống vì người khác, cống hiến cho đất nước, cho gia đình, cho bạn bè.
Đến Thời xa vắng – thời hoà bình nhân vật tự nhận thức lại, phản đối lối sống
hộ, thay đổi quan niệm sống cho mình. Còn Thời loạn – thời hiện đại, nhân vật
sống hoàn toàn theo ý mình tách khỏi xã hội chưa chấp nhận lối sống loạn đạo,
loạn tình cảm...Thông qua những nhân vật đó, người đọc thấu hiểu được điều
mà nhà văn trăn trở về mối quan hệ của con người, về cuộc sống, về những gì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mà nhà văn mắt thấy tai nghe.
Khi nhận xét về tiểu thuyết của lớp trẻ ông chân tình chia sẻ “rất nhiều
người chưa hình thành tác giả đã làm mất đi bản sắc riêng, cá tính riêng của
ngòi bút. Tôi nghĩ có Là nhà văn sống vì nghiệp văn và luôn quan tâm đến thế
hệ kế cận nên lẽ họ chưa đau đáu, quằn quại với cái được, cái mất của những
người xung quanh, của dân tộc và của chính mình” [35, tr. 37]. Rồi bằng sự
đau đáu, quằn quại của mình với nghiệp văn, Lê Lựu tự lý giải cho câu hỏi của
mình “ Làm thế nào cho tiểu thuyết hay? Thứ nhất là ở nhà văn. Phải cố gắng
chiến đấu với chính mình để gạt bỏ những gì không phải là văn chương, lấy
trang viết, lấy văn chương làm mục đích. Nhà văn đã để văn chương của mình
trở thành một phương tiện thì tầm thường hơn bất cứ một sự tầm thường
nào...Dù thế nào thì nhà văn cũng phải bình tâm mà viết, viết thật hết mình. Tôi
rất tâm đắc với lời nhà văn Nguyễn Khải nói rằng: “Một người viết hãy nghĩ khi
viết xong quyển này mình chết mất rồi, không có điều kiện sửa chữa, làm lại
nên luôn luôn phải viết cho hết sức mình, viết cho chu tất” [35, tr. 41]. Hay “
tôi quan niệm tiểu thuyết của tôi là tiểu thuyết của tính cách, của số phận con
người. Có một loại tiểu thuyết sự việc; công việc, sự việc thu hút sự chú ý của
các nhà văn đó. Riêng tôi, tôi nghĩ công việc sẽ đi qua cùng với thời gian, chỉ
số phận và tính cách nhân vật là sẽ mãi mãi thu hút người đọc [2, tr. 548].
Vốn say mê văn chương từ nhỏ công với lượng kiến thức tự học, Lê Lựu
từng chia sẻ kinh nghiệm: Việc viết văn không giống với việc tạo ra sản phẩm
từ công nghệ mới, cứ cái sau thì tốt hơn cái trước. Viết văn là đòi hỏi từ nhu
cầu cá nhân và cả Trời cho nữa. Không phải lúc nào tác phẩm mình viết sau
cũng hay hơn tác phẩm trước. Nếu mình có một tác phẩm được đánh giá tốt
cũng là may mắn rồi. Nhưng không phải mình có tác phẩm nổi tiếng rồi thì
mình ngừng viết. Viết với tôi không thể ngừng, vì đó là nhu cầu, là cuộc trò
chuyện bất tận với chính mình và với độc giả. Và quả thật cho đến bây giờ,
mặc dù ông có thể hạ bút với những thành quả của mình trong hơn nửa thế
kỷ nhọc nhằn sáng tạo nhưng niềm đam mê cùng với dòng máu nhà văn
quân đội đã ngấm vào da thịt khiến ông không ngừng sáng tạo khi con tim
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vẫn còn thổn thức.
Có thể nói, Lê Lựu là một nhà văn có phong cách viết thật độc đáo. Từ
tác phẩm đầu tay đến tác phẩm gần đây nhất, ông đều viết theo một phương
châm có tính nguyên tắc “toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một
nguyên tắc là thật. Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật”. (Tự
bạch, sách nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhà văn, 2010). Đó chính là cốt
lõi phong cách nghệ thuật Lê Lựu và tác phẩm của nhà văn cũng đóng góp cho
lí luận văn học vấn đề “văn học phản ánh hiện thực”. Đọc tác phẩm Lê Lựu,
không ít người cho rằng, ông nhà văn này không tân kỳ. Nhưng ai cũng biết, Lê
Lựu viết theo truyền thống hiện thực chủ nghĩa của các nhà văn cổ điển Việt
Nam thời kỳ 1930 – 1945 như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan... Lê Lựu đã viết những trang văn bằng tất cả tình cảm chân thành của
mình. Có thể nói, cả đời văn Lê Lựu đi tìm cái thật và cái đẹp tâm hồn con
người giữa dòng chảy của lịch sử. Bởi vậy, tác phẩm của ông vẫn luôn có chỗ
đứng xứng đáng trên văn đàn văn học nước nhà.
Quả thật, khi đọc tác phẩm và tìm hiểu nghiệp văn, chúng ta thật sự kính
trọng và cảm tình với nhà văn Lê Lựu. Nếu được trò chuyện với ông chúng ta
sẽ càng tôn kính và khâm phục một con người tâm huyết với nghiệp văn,
nghiệp đời; một con người giàu nghị lực luôn vượt lên những khó khăn, bất
hạnh trong cuộc đời. Đó là phong cách và nhân cách của người cầm bút. Cũng
chính điều đó khiến nhà văn Lê Lựu luôn được độc giả yêu quý bằng tình cảm
chân thành nhất.
1.2.3. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu.
Trong một tác phẩm văn học, nhân vật là sự biểu hiện khả năng chiếm
lĩnh thế giới nghệ thuật cùng với tư tưởng nghệ thuật, lý tưởng thẩm mĩ của nhà
văn về con người. Do nhân vật có vai trò quan trọng như vậy nên nhiều nhà văn
đã rất coi trọng việc xây dựng nhân vật trong quá trình sáng tác của mình. Nhà
văn Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết tiểu
thuyết là miêu tả con người và con đường đi của họ trong xã hội. Người viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các nhân vật, xuất phát từ nhân
vật hơn là từ sự việc. Một cuốn tiểu thuyết đứng được hay không là ở chỗ có
tạo ra được những nhân vật làm cho bạn đọc nhớ được hay không” [tr.103]. Do
đó sự ra đời của các loại hình nhân vật tuỳ thuộc vào quan niệm sáng tác của
mỗi nhà văn. Trong quá trình nghiên cứu các tiểu thuyết của Lê Lựu, chúng tôi
nhận thấy nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu khá phong phú, đa dạng. Đó là
những con người cá nhân được nhìn nhận một cách đa diện, đa chiều, hiện lên
với tất cả những mặt tốt, mặt xấu. Trước những biến động của đời sống xã hội,
các giá trị đạo đức truyền thống của con người bị thay đổi, đó là lối sống vụ lợi,
thực dụng đã dẫn đến sự tha hoá của con người. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh xã
hội cuộc sống con người lâm vào bi kịch: bị vùi dập, bị chà đạp, bị rơi vào bế
tắc không lối thoát. Họ chính là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội. Trước cuộc
sống hiện thực luôn xô bồ, khắc nghiệt, trước sự cám dỗ khó cưỡng nổi của lối
sống thực dụng đang hoành hành, con người trở nên chao đảo, mất phương
hướng dẫn đến tình trạng tha hoá, bị nhấn chìm vào bi kịch không lối thoát.
Đến với các tiểu thuyết của Lê Lựu, chúng ta thấy rất rõ điều đó. Trong Thời
xa vắng, người đọc bắt gặp kiểu nhân vật cam chịu trước số phận, hoàn cảnh;
nhân vật có số phận bi kịch và không thể thoát ra khỏi những bi kịch ấy. Tác
phẩm như một cuộc thẩm định lại chân giá trị con người. Giang Minh Sài là
một con người không tìm thấy chính mình. Sài là nạn nhân của hoàn cảnh, nạn
nhân của sự yếu kém thiếu bản lĩnh. Sài từ nhỏ đã sống trong sự cương toả của
của gia đình mang nặng tư tưởng phong kiến. Đi học gặp Hương, yêu Hương
nhưng bị gia đình ngăn cấm. Trong trận lụt Sài ở với Hương trên sân thượng bị
bắt quả tang. Sài phải bỏ học vào bộ đội. Sài phấn đấu vào Đảng nhưng khi bị
phát hiện chê vợ, anh xin về phép, giả vờ sống hoà thuận với vợ để được kết
nạp. Nửa cuộc đời đầu Sài yêu cái mình không yêu, sống theo quy tắc ép buộc
trái ngược với chính mình. Sau giải phóng, Sài về một cơ quan công tác, bỏ vợ
cũ và theo đuổi một cô gái thành thị tên là Châu. Sài bị Châu lừa dối. Đứa con
trai đầu không phải là con của Sài. Sài đau đớn dứt bỏ người vợ này trở về tìm
cuộc sống đích thực ở quê nhà. Sài chính là nhân vật có số phận bi kịch, cuộc
sống bị nhấn chìm vào bi kịch của hoàn cảnh. Với nhân vật Giang Minh Sài, Lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lựu muốn đặt ra vấn đề cần lùi xa cái quá khứ để tìm lại chính mình và đi lên
bằng chính mình. Đến với Tuyết trong Thời xa vắng, người đọc có thể thấy
được một con người luôn cam chịu trước số phận và hoàn cảnh để rồi cuộc đời
chỉ là một chuỗi dài những đau khổ không lối thoát. Vốn là một cô gái hiền
lành, chăm chỉ, Tuyết nghe theo sự xếp đặt của cha mẹ để lấy Sài – một người
chồng kém mình khoảng ba tuổi. Nhưng cuộc sống gia đình không hạnh phúc
vì cô không được chồng yêu. Suốt ngày chỉ lùi lũi làm ăn mà không được
chồng chú ý hay hỏi han một lời. Chính vì cam chịu nhẫn nhục mà cuối cùng
cuộc đời cô chìm vào bi kịch không lối thoát. Trải qua nhiều năm chờ đợi, nuôi
con một mình, tưởng như hạnh phúc sẽ đến với cô khi chồng trở về nhưng cuộc
đời thật nghiệt ngã với cô, không cho cô niềm hạnh phúc dù là bé nhỏ nhất.
Chờ đợi đến nửa cuộc đời để rồi cô lại phải đau đớn ký vào lá đơn ly hôn kết
thúc cuộc sống vợ chồng với Sài.
Trong Chuyện làng cuội, số phận bà Đất còn có nhiều bất hạnh hơn. Cả
cuộc đời bà là một chuỗi dài những đau khổ, bi kịch. Từ khi còn là một cô gái
trẻ, xinh đẹp đến khi về già, cuộc sống của bà hầu như chỉ là nước mắt. Cũng
có những giây phút hạnh phúc nhưng chỉ thoáng qua để rồi cuộc đời bà lại chìm
vào những đau khổ triền miên không lối thoát và cuối cùng phải nhảy xuống
sông để kết liễu đời mình. Hay cuộc đời của Núi trong Sóng ở đáy sông cũng
có số phận đầy bất hạnh. Từ một người con ngoan, học giỏi; một người anh trai
luôn biết lo lắng cho các em nhưng vì hoàn cảnh anh đã bị tha hoá dẫn đến phải
ngồi tù. Vốn là một người con biết nghe lời nhưng khi mẹ chết người cha tuyên
bố cắt khẩu phần lương thực mà khi còn sống mẹ đã đong thêm cho các con và
đứa nào học đúp thì tự nuôi lấy thân. Từ đó, Núi phải một mình chăm lo cho
các em từ việc ăn ở đến việc học hành. Khi không có tiền để lo cho các em, Núi
phải dối cha để đi làm thuê. Đến khi người cha biết chuyện Núi bỏ học để kiếm
sống nơi bến tàu có liên quan đến những kẻ gian, ông lập tức từ mặt để hắn
không làm ô danh của ông. Cũng từ đây, cuộc đời của Núi rơi vào những đau
khổ, phải ăn cắp, cướp giật, móc túi để lấy tiền nuôi các em. Và khi gắn cuộc
đời với Mai thì cô lại bỏ đi theo một người đàn ông khác để lại cho anh một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đứa con khiến anh phải sống cảnh gà trống nuôi con. Vì thế, anh lại càng trượt
dài trên quãng đường tha hoá, phải tăng cường móc túi mới có tiền để lo cho
con. Từ một con người hiền lành Núi đã trở thành một kẻ tù tội. Mặc dù vậy, ở
họ vẫn luôn tiềm ẩn nghị lực sống... Họ cũng biết tìm cách vươn lên để khẳng
định mình. Đến với Hai nhà, người đọc lại thấy được những kiểu nhân vật bị
tha hoá trước hoàn cảnh, những việc làm trái với truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam qua hai nhân vật Linh Anh và bà Nhân. Càng đọc về cuối tác
phẩm, người đọc càng thấy được lối sống buông thả cùng những cuộc tình vụng
trộm của hai nhân vật này. Cuộc đời của họ cũng trượt dài trên con đường tha
hoá để rồi rơi vào bi kịch. Cũng thuộc kiểu nhân vật tha hoá, Xanh Dương Lẫm
Liệt trong Thời loạn cũng vậy, cô đã không làm chủ được mình trong thời hiện
đại. Để đạt được những tham vọng của bản thân, cô đã đánh mất phần bản chất
tốt đẹp của người phụ nữ. Từ một cô gái tỉnh lẻ trong trắng, xinh đẹp, bằng thủ
đoạn, bằng nhan sắc cô đã trở thành một nữ doanh nhân nổi tiếng và giàu có.
Nhưng để đạt được điều đó, cô đã phải trả giá bằng cả nhân phẩm của mình.
* * *
Có thể thấy, trong hầu hết những trang viết ở các tiểu thuyết của mình,
Lê Lựu đều quan tâm đến những kiểu nhân vật luôn cam chịu trước số phận
hoàn cảnh nhưng cũng giàu nghị lực, giàu bản lĩnh, biết tự khẳng định mình;
cùng với đó là những con người bị trượt dài trên quãng đường tha hoá; ông
luôn quan tâm sâu sắc đến số phận bi kịch của con người không chỉ do những
nguyên nhân khách quan mà còn do tính cách nhân vật. Với sự đồng cảm sâu
sắc, Lê Lựu đã nhìn thẳng vào những đau khổ, bất hạnh của con người, những
bi kịch đời thường đầy rẫy trong cuộc sống này. Qua đó, ông giúp người đọc ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thức hơn ý nghĩa cuộc sống và sống có trách nhiệm với chính mình.
CHƢƠNG 2
THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
2.1. Khái niệm nhân vật văn học và tầm quan trọng của nhân vật trong tác
phẩm văn học
Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học.
Nhân vật tạo nên linh hồn cho tác phẩm, là cầu nối để dẫn dắt người đọc tiếp
cận và khám phá thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Nhà văn Tô Hoài cho
rằng: “Nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng
tác”. Quả đúng như vậy, nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ đề tác
phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Thành bại
của một tác phẩm phụ thuộc vào việc xây dựng nhân vật. Nhận thức được tầm
quan trọng của nhân vật đối với tác phẩm nên mỗi nhà văn đều cố gắng tìm
kiếm cho mình một hình tượng đặc sắc để truyền tải nội dung, tư tưởng và chủ
đề của câu chuyện. Khái niệm nhân vật không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ mà
nên được hiểu theo nghĩa rộng. Đó có thể là những con người hay sự vật, loài
vật ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người. Nhân vật đôi khi là những
con người cụ thể có tên tuổi, nghề nghiệp; cũng có thể là những con người vô
danh; cũng có khi nhân vật là những con vật như: con cóc (Cóc kiện trời), Dế
Mèn (Dế Mèn phiêu lưu ký – Tô Hoài)...; thậm chí có cả những nhân vật là ma
quỷ, thần tiên. Thế giới nhân vật trong tác phẩm rất phong phú, đa dạng. Có
nhân vật hiện ra khá đầy đặn từ ngoại hình cho đến nội tâm, từ hành động cho
đến tiểu sử như trong tác phẩm tự sự. Có nhân vật lại chỉ được bộc lộ qua cảm
xúc, ý nghĩa như nhân vật trong tác phẩm trữ tình... Như vậy có thể thấy, nhân
vật hiện ra với muôn màu, muôn vẻ. Nhân vật trong tác phẩm văn học là nhân
vật của tưởng tượng, liên tưởng. Qua ngôn từ, người đọc có thể hình dung nhân
vật theo khả năng liên tưởng của mình. Chẳng hạn, qua văn Nam Cao, người
đọc có thể hình dung ra hình tượng người nông dân nghèo khổ như: Lão Hạc,
Lang Rận, Chí Phèo...; hình tượng người trí thức như : Thứ, Điền, Hộ... Hay
qua văn Nguyễn Tuân, người đọc có thể hình dung ra vẻ đẹp tài hoa, khí phách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
của Huấn Cao; tài nghệ điêu luyện của ông lái đò sông Đà... Xuất phát từ khả
năng và đặc điểm liên tưởng của mỗi nhà văn không giống nhau cho nên nhân
vật văn học được cảm nhận cũng không giống nhau. Mỗi nhà văn tạo ra cho
mình một gương mặt riêng. Nói một cách khái quát nhất: Nhân vật văn học là
hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ
mọi chi tiết biểu hiện mà chỉ là thể hiện con người qua những đặc điểm điển
hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách. Như vậy, nhân vật trong tác phẩm văn
học là những con người hay sự vật mang cốt cách con người được xây dựng
bằng các phương tiện của nghệ thuật ngôn từ.
Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm. Bởi lẽ nhân vật tạo nên
linh hồn cho tác phẩm và là công cụ để nhà văn truyền tải nội dung tư tưởng,
chủ đề tác phẩm. Vì thế trong hành trình sáng tạo của mình, mỗi nhà văn đều
cố gắng xây dựng mẫu hình nhân vật riêng mang đậm dấu ấn cá nhân để tạo
nên thành công của tác phẩm nói riêng và của nhà văn nói chung. Sáng tạo ra
nhân vật, nhà văn nhằm thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và các quan
niệm về các nhân vật đó trong các quan hệ xã hội. Mỗi nhân vật là là một tiếng
nói của nhà văn về con người, về cuộc đời. Đọc ý nghĩa cuộc đời đằng sau mỗi
số phận nhân vật đó. Chẳng hạn, đằng sau số phận của nàng Kiều là những
khẳng định về tài - mệnh, tài - tình trong xã hội lúc bấy giờ; đằng sau hình
tượng Xuân Tóc Đỏ là sự giả dối, cơ hội của xã hội thành thị thượng lưu tiểu tư
sản... Cho nên không thể đánh giá, phán xét nhân vật như những con người thật
ở ngoài đời mà phải đánh giá ở những khái quát nghệ thuật mà nó thể hiện. Sức
sống của một nhân vật ngoài tính sinh động của sự miêu tả còn chính là ý nghĩa
điển hình mà nó khái quát. Những nhân vật xây dựng thành công và có sức
sống lâu bền đều là những nhân vật có giá trị điển hình sâu sắc. Đó là những
nhân vật không chịu nằm yên trên trang sách mà bước từ trang sách ra giữa
cuộc đời. Đó là những nhân vật làm cho tên tuổi nhà văn trở nên bất tử.
Vì thế, một điều chắc chắn, chúng ta có thể khẳng định đó là: Nhân vật
đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong tác phẩm văn học. Vì nhân vật là
công cụ cho nên việc tìm ra nhân vật mới bao giờ cũng là chìa khoá để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mở rộng những mảng đề tài mới.
2.2. Khái quát hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu
Cuộc sống sẽ thật đơn điệu, nhàm chán nếu như thiếu vắng bóng dáng
người phụ nữ. Họ đã khẳng định vai trò to lớn của mình không chỉ trong gia
đình mà còn cả ngoài xã hội. Họ chính là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều
nhà văn, nhà thơ. Vẻ đẹp của họ không chỉ được thể hiện qua dung nhan bên
ngoài mà còn thể hiện qua tâm hồn bên trong. Vì thế mà hầu như nhà văn, nhà
thơ nào cũng để lại một vài trang, một vài tác phẩm thật hay, thật cảm động về
những người đàn bà đôn hậu, những người chị, người em đẹp người, đẹp nết...
trong mỗi gia đình. Và lẽ tất nhiên, nhà văn Lê Lựu cũng không phải là ngoại
lệ. Xuyên suốt trong những trang văn của Lê Lựu là hình ảnh người phụ nữ.
Đọc tác phẩm của “nhà văn văn nông dân” này, ta thấy thật ấn tượng với hình
ảnh các bà, các mẹ, các chị, các em...thuộc đủ tầng lớp đã bước ra từ trong
trang sách. Thông qua số phận, cuộc đời của họ, chúng ta thấy được bức tranh
toàn cảnh xã hội một thời đã qua và cả thời đang sống cũng như tài năng khám
phá chiều sâu tâm lý nhân vật của nhà văn.
Lê Lựu sinh ra ở một vùng quê nghèo và lớn lên giữa lúc “dân có ruộng
dập dìu hợp tác”. Tất cả những niềm vui và nỗi buồn của làng quê thời kỳ ấy
ông đều được chứng kiến khiến nhà văn rất nặng lòng với mảnh đất phù sa
châu thổ sông Hồng. Tác phẩm đầu tay của ông từ chiến trường gửi ra tuy chưa
lớn nhưng đã báo hiệu về một tài năng lớn. Ông xứng đáng là một gương mặt
văn xuôi tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ. Điều đó ai cũng biết. Nhưng làm nên
thành công ấy là sự góp mặt của hình tượng nguời phụ nữ mà ông đã dày công
tạo dựng. Ở những tác phẩm đầu tay của Lê Lựu, nhân vật phụ nữ xuất hiện
chưa nhiều. Phải đến tiểu thuyết Mở rừng, người đọc mới thấy được sự đa
dạng, phong phú về nhân vật nữ như Ngà, Bình Nguyên, Thanh Mơ hay cô Lý.
Ở đó, nhà văn đã nhập được vào nhân vật. Bằng việc miêu tả tâm trạng, những
bước chuyển khá tinh vi trong những đoạn đường đời của Ngà – một cô gái Hà
Nội đã từng là nghệ sĩ chơi kèn ô – boa, đã từng yêu và bị phản bội rồi phải đấu
tranh, dày vò để tìm lại niềm tin, lẽ sống, Lê Lựu đã bước đầu có những thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.
Sau tiểu thuyết đầu tay này, ngòi bút của Lê Lựu đã tỏ rõ sự già dặn hơn
trong nghệ thuật viết tiểu thuyết cũng như nghệ thuật xây dựng hình tượng
người phụ nữ. Cũng từ đây, thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết của ông ngày
càng phong phú, đa dạng. Chúng ta không thể quên khi đọc Thời xa vắng có
những người phụ nữ sống lùi lũi, khổ cực, cam chịu như bà đồ Khang, cô Tuyết
và những người nông dân quê mùa. Đối lập lại là những người phụ nữ trí thức
giàu lòng yêu thương như Hương, ích kỷ như Châu. Đến Chuyện làng cuội, ta
lại bắt gặp hình ảnh người phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” qua số phận chìm nổi
của bà Đất. Trong Sóng ở đáy sông, người đọc lại xúc động về tình người của
những người phụ nữ luôn sẵn sàng giúp đỡ cha con Núi, đặc biệt là những
người đàn bà đã đi qua trong đời Núi như: Hiền, Mai, Hồng...Tiếp đó, ta lại bắt
gặp những người phụ nữ được tác giả nhìn ở góc độ đi sâu vào mặt trái với
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam như Linh Anh, Nhân trong Hai nhà
hay kiểu phụ nữ khó chấp nhận như Xanh Dương Lẫm Liệt trong Thời loạn...
Như vậy, ta thấy thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Lê Lựu thật phong
phú, sinh động; mỗi người một vẻ nhưng hết sức chân thực, gần gũi khiến độc
giả không khỏi ngỡ ngàng hình như đã gặp đâu đó ở ngoài đời. Chính sự đa
dạng trong việc khắc hoạ chân dung như nhà văn khẳng định: Với tôi thì mỗi
nhân vật phải đi đến tận cùng tính cách và càng đi đến tận cùng tính cách thì
càng phải khai thác đến tận cùng tâm trạng của nó. Song dù thế nào thì nhân vật
phụ nữ của ông cũng sống phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội. Vì thế, nhân vật nữ
ở mỗi thời kỳ lại có đặc điểm khác biệt nhau. Chẳng hạn thời chiến tranh khi cả
nước một lòng ra trận thì người phụ nữ bình thường, yếu đuối cũng trở nên
dũng cảm, mạnh mẽ phi thường. Còn ở thời hiện đại, người phụ nữ bước ra
khỏi luỹ tre làng lên thành phố bỗng chốc mất gốc nhà quê, mất đi bản chất tốt
đẹp từ bao đời nay. Họ bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc đời và dễ dàng bị tha
hoá. Bởi thế, ta mới thấy một điều tưởng như là nghịch lý về hình tượng người
phụ nữ đại diện cho tiếng nói của nhà văn khi cảm nhận về cuộc sống và bản
chất con người: Mở rừng là thời bình của thời loạn, còn Thời loạn chính thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
là thời loạn trong thời bình là vì vậy.
* * *
Như vậy, ta có thể thấy trong tiểu thuyết của Lê Lựu, nhân vật nữ hiện
lên rất rõ nét. Có lẽ, phải là người rất thấu hiểu và đồng cảm về thân phận
người phụ nữ thì nhà văn mới có những trang viết đầy xúc động ấy.
2.3. Các kiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Lê Lựu
2.3.1. Nhân vật phụ nữ có số phận bi kịch và luôn khát khao được yêu thương.
2.3.1.1. Nhân vật nữ có số phận bất hạnh, luôn cam chịu trước hoàn cảnh.
Xuyên suốt trong lịch sử văn học dân tộc, người đọc không thể quên
được hình ảnh những người phụ nữ tài hoa bạc phận, những số phận, những
mảnh đời cơ cực lầm than của Kiều, của chị Dậu, của Mịch, của Mị... và rất
nhiều phụ nữ khác. Hình ảnh của họ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc
giả, làm rung động biết bao trái tim bạn đọc. Đến với nhà văn Lê Lựu, ta sẽ
thấy đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn thân phận đau khổ, bi kịch của người phụ nữ.
Điều đó được thể hiện rất rõ trong các tác phẩm như: Thời xa vắng, Chuyện
làng cuội, Sóng ở đáy sông.
Đọc Thời xa vắng, người đọc không thể quên được hình ảnh anh cu Sài
luôn phải gồng mình lên “ sống hộ ý định của người khác, cốt để cho đẹp mặt
mọi người, chứ không phải cho hạnh phúc của mình” để đến nỗi “nửa đời
người phải yêu cái người khác yêu, nửa đời còn lại đi yêu cái mình không
có...” [33, tr. 421]. Nhưng khi khép lại tác phẩm, chúng ta lại thấy xót xa thay
cho những người mẹ, người vợ, người chị phải chịu số phận đau khổ, bất hạnh
quanh năm “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” như: Bà đồ Khang, Tuyết, hay
các chị dâu của Sài. Lật từng trang sách, ta như lật từng số phận tủi hờn, bất
hạnh khác nhau của người phụ nữ. Trước tiên là hình ảnh bà đồ Khang. Tuy
được làm vợ ông đồ trong một gia đình nền nếp gia phong nên bà cũng có cái
vinh dự, tự hào so với các chị em cùng trang lứa. Tuy nhiên lớp vỏ bọc ngoài
đó lại chính là nơi ẩn chứa những nỗi khổ cả về vật chất lẫn tinh thần mà bà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phải gánh chịu. Mặc dù, không phải là nhân vật chính, xuất hiện với tần số
không nhiều, chủ yếu ở phần đầu của tiểu thuyết nhưng ta có thể thấy được số
phận đầy bi thương của bà. Bà đồ sinh hạ được tám người con, nhưng sa sảy
mất năm chỉ còn ba đứa là anh cả, anh Tính và Sài. Tất cả đều đã yên bề gia
thất bởi sự lo toan của một gia đình nề nếp. Ngay từ phần mở đầu của tác
phẩm, tác giả đã cho người đọc thấy được toàn bộ gia cảnh của nhà ông đồ
trong cảnh đói chung của làng, của nước: “Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có
hạt gì vào miệng, ông cứ xiết mãi sợi dải rút bện bằng đay tơ khiến cái bụng
nép kẹp thót mãi như dính ệp vào xương sống” [33, tr. 5]. Tất nhiên, cảnh này
chẳng có gì là lạ trên toàn đất nước ta trong những năm chiến tranh ác liệt. Vì
thế, hình ảnh vợ một ông đồ phải bươn trải, lo toan miếng cơm, manh áo cho
gia đình cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng khi đọc những trang văn ấy,
người đọc vẫn rưng rưng trước hình ảnh “bà ấy vác đoạn tre đi chợ, trở về, hai
chân đã run run” [33, tr. 8]; rồi “từ nửa đêm hôm qua bà đã phải đội đôi lọ lục
bình lên tận Đa Hoà mới cầm đổi được lưng thúng gạo về chống đói”. [33, tr.
16]; nhất là cảnh bà cùng đàn con dắt nhau đi làm thuê từ lúc nửa đêm để cùng
“cả đám người đêm nào cũng đằm mình trong sương muối ở mặt đê” [33, tr.34]
bị rẻ rúng khinh thường mà vẫn giành giật, mong mỏi được làm bất cứ việc gì
để kiếm miếng ăn. Đã vậy, bà phải bế theo cu Sài mới nhỉnh chục tuổi đi kiếm
ăn vào ban đêm nên “có hôm bà mẹ phải vì con mà ế theo” [33, tr. 34]. Có lúc,
miếng ăn tưởng kề đến miệng thì không thể mất song vì người ta không thuê
thằng Sài, hai mẹ con phải về tay trắng. Quả thật, cái đói, miếng ăn đã làm mất
đi cái danh giá của vợ một ông đồ. Thế nhưng, sống trong cảnh khốn khó như
vậy, bà đồ luôn tần tảo ngày đêm hi sinh cho gia đình mà không một lời ca
thán. Cuộc đời của bà chìm trong những tất bật, lo toan cho gia đình, chồng con
đến tận lúc chết. Bà là hiện thân cho người phụ nữ hết lòng vì chồng vì con.
Nhưng dù sao nỗi khổ của bà còn được chồng con biết đến, tiếng nói của
bà ít ra cũng xác định được vị thế của bà trong gia đình chứ không như Tuyết –
vợ Sài, cô có được ai biết đến? Một nàng dâu được bố mẹ chồng cưới xin hẳn
hoi, lại làm dâu trong một gia đình danh giá trong làng. Thế nhưng, số phận cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lại gặp nhiều bất hạnh, trớ trêu. Theo sự xếp đặt của gia đình, cô về làm vợ của
Sài - một người chồng kém cô ba tuổi nhưng chưa bao giờ cô được Sài coi như
một người vợ, trừ sự ràng buộc ở tờ đăng ký kết hôn cùng lề thói gia đình.
Chính vì vậy, đọc Thời xa vắng chúng ta không thể không thương cảm cho số
phận của nhân vật Tuyết. Bởi cuộc đời của cô chứa đựng một gánh nặng không
phải cơm áo gạo tiền nhưng thật xót xa cho cuộc đời một phụ nữ nông thôn bị
quan niệm, lề thói xã hội đánh cắp mất bản ngã của mình. Nỗi đau của Tuyết là
nỗi đau hoá đá, nỗi đau không thể nói nên lời. Tuyết vốn không phải là cô gái
xấu xí, ở cái tuổi mười bảy, mặc dù không có được vẻ đẹp khiến đàn ông phải
mê mẩn nhưng “trông chẳng đến nỗi nào”, lại là con nhà ông phó Cự thì ít ra
cũng có thể kiếm được một người chồng tử tế, thương yêu. Đằng này, việc
chồng con của Tuyết là do bố mẹ hai bên định sẵn, cô chỉ việc tuân theo mà
không hề phản kháng. Ở Tuyết, ta thấy có một phần hình bóng cô Mị năm xưa
khi phải làm con dâu gạt nợ. Chỉ có điều, nhà ông đồ Khang không phải nhà
thống lí, việc gả chồng của Tuyết không phải là để xoá đi món nợ truyền kiếp
nên thân phận Tuyết không phải là kiếp trâu, ngựa để mà bị đoạ đày, hắt hủi,
bóc lột như Mị. Trong gia đình cụ đồ, từ khi có thêm con dâu là có thêm khẩu
phần, có thêm một lao động chính để lo toan công việc gia đình. Vốn là một
phụ nữ nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, Tuyết không nề hà bất cứ việc gì kể cả các
việc nặng của người lớn như giã ngô bằng chày tay. Đây là công việc hằng
ngày Tuyết làm để tạo ra bữa cơm của gia đình nên nó đã thành thục, khéo léo
còn hơn cả người lớn. Vì thế, trong con mắt của ông bà đồ Khang Tuyết là cô
con dâu đảm đang, nết na, biết việc. Ai cũng biết thế “nhưng thằng Sài chỉ biết
có hai việc: đi đánh trận giả và học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ”,
có chăng sự “thích thú chỉ ở chỗ mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có
người quét sân và cái ngõ dài thăm thẳm”[33, tr. 6], còn lại chỉ là sự uất ức của
anh chồng mới hơn mười tuổi luôn thường trực dành cho cô vợ đáng tuổi chị
nó. Thế là xung đột xảy ra, Tuyết ấm ức xin về nhà đẻ. Nhưng giá như không
có sự bàn bạc của gia đình ông đồ đến xin con dâu và sự trở về của Tuyết vẫn
với vai trò một người vợ thì cuộc đời của cô sẽ như thế nào? Khổ hay sướng,
vui hay buồn, hạnh phúc hay bất hạnh? Có một điều chắc chắn rằng cô sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
không bị ruồng bỏ, khinh bỉ, xa lánh của người chồng chỉ trên danh nghĩa. Để
rồi cuộc đời Tuyết cứ trượt dài và chìm nghỉm trong nỗi đau có chồng mà cũng
như không. Có lẽ với Tuyết, nỗi khổ vì đói ăn, vì đầu tắt mặt tối lo công việc
nhà chồng, làm thuê làm mướn từ nửa đêm gà gáy chưa thấm thoát gì với nỗi
đau của một người vợ không được coi là vợ. Lúc đầu khi mới về nhà chồng
Tuyết cũng nghĩ như mọi người "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén", cứ đợi một
vài năm khi Sài lớn lên ý thức rằng mình đã có vợ thì vợ chồng sẽ ăn ở được
với nhau sẽ sinh con đẻ cái, sẽ là một gia đình...Thế là Tuyết cứ im lặng, chờ
đợi để được Sài chấp nhận mình như một người vợ. Nhưng oái oăm thay, thời
gian và sự nỗ lực của Tuyết không những làm cho khoảng cách ngắn lại mà
càng ngày càng đẩy họ ra xa hơn. Còn gì đau khổ hơn khi một người vợ được
cưới xin đàng hoàng mà chưa một lần được chồng đoái hoài đến dù chỉ là một
ánh mắt, một cử chỉ biểu thị tình yêu thương. Còn gì tủi hổ hơn khi một người
vợ “ đã sang tuổi mười bảy, cái tuổi dậy thì của một người con gái mỗi ngày
như trông thấy cái cơ thể dồi dào sức lực của mình cứ phổng lên, cái lớp da
mịn màng của mình cứ mát mẻ mà êm ái căng đầy lên, đã thấy khao khát đến
cháy khô đôi môi đỏ mọng trước những cái nhìn đăm đăm của người con trai,
đã thấy phập phồng chờ đợi mỗi đêm nghe thấy tiếng chân chồng chạy về nhà”.
[33, tr. 47] mà chồng luôn tìm mọi cách để tránh xa như tránh một con hủi. Ta
có thể cảm thông cho Sài ở khía cạnh và còn nhỏ chưa nhận thức được cuộc
sống vợ chồng, chưa hiểu thế nào là tình yêu, mà chưa có tình yêu thì khó có
thể hoà hợp giữa hai thể xác và tâm hồn nên mới như vậy. Nhưng chấp nhận
làm sao được cách cư xử của Sài với Tuyết: Ở đâu, lúc nào anh chồng cũng khó
chịu với sự hiện diện của cô vợ nên những lần đi với nhau thì Sài thường đi
trước hoặc tụt lại phía sau thật xa. Ở nhà, khi ăn cơm Sài cũng tìm cách ăn
trước hoăc ăn sau. Bất đắc dĩ phải ngồi cùng một lúc Sài cũng không ngồi cùng
phía, không ngồi đối diện, không nhờ xới cơm. Và bát tương nào mà Tuyết đã
chấm thì nhất định Sài phải tìm bát, rót tương khác, chấm riêng. Có nỗi đau nào
hơn khi bị chồng ghét bỏ như vậy!
Ở đời mọi sự chịu đựng đều có giới hạn “tức nước vỡ bờ”, sự chịu quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mức cũng như dây đàn căng quá phải đứt. Tuyết không thể cả đời có chồng mà
không có danh, không có phận mãi được. Vì thế, khi Sài đi bộ đội cả gia đình
bà đồ đã thu xếp cho cô con dâu lên thăm chồng với hi vọng Sài sẽ thay đổi.
Tuyết phải dò dẫm mới hỏi được địa chỉ của Sài. Cô đi thăm chồng với sự chải
chuốt ăn diện và niềm hi vọng. Người đọc không thể quên được cảnh cô săng
sái giúp đỡ mọi người ở đơn vị chồng, nói cười thoải mái và khi thấy chồng về
cô hết lòng quan tâm chăm sóc chồng. Thế mà kết quả cô nhận được là “ba
đêm ở chiêu đãi sở, cả ba đêm Sài thức trắng ngồi đọc sách”, không hề biết
đến sự có mặt của Tuyết. Có nỗi đau nào hơn nỗi đau mà Tuyết phải chịu đựng
ấy không? Đấy là những gì chứng tỏ mối quan hệ vợ chồng của Tuyết và Sài,
cũng là cái mà Tuyết nhận được trong chuyến đi thăm chồng. Để rồi trở về quê
cô lại tiếp tục bổn phận dâu con, tiếp tục chịu đựng, chờ đợi một ngày nào
đó...một ngày mà không bao giờ Sài muốn mà anh vẫn phải thực hiện. Cũng
thật khác thường việc kết nạp đảng phải có điều kiện là yêu vợ và đơn vị cử
người về không phải để điều tra lí lịch mà là để xem đồng đội của mình yêu vợ
như thế nào. Người đồng đội ấy cũng chỉ biết động viên cô vợ đáng thương
đang lấy vạt áo chấm nước mắt vì “anh ấy ngủ từ tối đến sáng” bằng một câu
vừa như là an ủi vừa như là lời hứa sẽ giúp đỡ: “Thôi được, cô cứ yên tâm”
[33, tr. 150]. Thật đáng buồn cho Tuyết! Xấu đến “ ma chê quỷ hờn” như Thị
Nở (Chí Phèo – Nam Cao) mà vẫn được Chí Phèo lăn xả vào yêu. Nói thế, hoá
ra Tuyết lại không hạnh phúc bằng Thị Nở? Chúng ta có thể thấy cuộc sống vợ
chồng của Chí Phèo – Thị Nở dù ngắn ngủi có mấy ngày thôi nhưng họ được
sống trong tình yêu thương, trong tiếng cười đùa, âu yếm tình tứ với nhau. Đặc
biệt là Thị Nở còn được hưởng niềm hạnh phúc của một người vợ. Như thế thì
ai hạnh phúc hơn ai? Người đọc cũng thấy nhẹ lòng hơn trước kết quả sau bao
ngày cố công tìm kiếm chờ đợi, Tuyết cũng có được thằng con trai "giống bố
như lột", đó là hạnh phúc mà Tuyết đã “vồ” được. Tưởng rằng từ đây cuộc đời
cô sẽ bước sang một trang mới, sẽ có được người chồng theo đúng nghĩa.
Nhưng không phải vậy, cuộc đời thật bất công chỉ cho Tuyết có một: Có con
mà không có chồng bởi Sài chưa bao giờ coi Tuyết là vợ kể cả khi buộc phải có
con với Tuyết. Vì thế, nỗi đau khổ của cô lại được nhân lên gấp bội. Một người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vợ thèm được nghe một câu chửi mắng, một quả đấm hay một cái tát tai của
chồng... liệu có dở hơi không? Ngẫm cho kĩ ta mới cảm nhận hết nỗi khổ của
những người phụ nữ và ta lại càng thấu hiểu vì sao người đàn bà hàng chài
trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu sống với một người
chồng vũ phu “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” mà vẫn một
mực xin toà đừng bắt bỏ chồng. Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn
bà thật lạ lùng “ không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách
chạy trốn”. Người phụ nữ ấy chấp nhận những trận đòn vô cớ là để cho gia
đình có người đàn ông làm trụ cột chèo lái con thuyền khi sóng gió, còn Tuyết
thèm khát những trận đòn đơn giản chỉ để xác nhận cô là một người có chồng
và chồng cô cũng biết rằng cô là một người vợ. Điều đơn giản như vậy thôi mà
Tuyết khao khát cả đời cũng không được.
Giá như Tuyết đừng im lặng, đừng chịu đựng và âm thầm chờ đợi sự
thay đổi ở Sài mà cô mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn thì sẽ không bị rơi vào cảnh
như vậy. Hạnh phúc với người phụ nữ không phải là cái gì cao sang, to lớn mà
thật giản dị, bình thường nhiều khi đến xót xa. Bị chồng chê là thế nhưng cô
vẫn hạnh phúc vì “ với hàng xóm cô vẫn có một người chồng vẫn đi với nhau”.
Cô hãnh diện với nó, sống với tất cả sự chấp nhặt của lòng tốt vun vào của mọi
người xung quanh, của sự mong mỏi của người thân và của cả chính mình. Vì
thế, chỉ cần nghe một câu tán tụng hay một sự gán ghép, một lời nhắc nhủ có
dính líu đến Sài và cô, đến “ nhà em” và “anh ấy” là cô nóng bừng khắp
người, nhân nha sự vui mừng đến hàng tuần, hàng tháng” [33, tr. 49]. Thật xót
xa, thật tội nghiệp cho Tuyết! Khổ là vậy, uất ức là vậy nhưng Tuyết vẫn không
một lời thở than. Nếu là nỗi khổ về vật chất thì mọi người có thể san sẻ được
cùng Tuyết cho vơi bớt phần nào đằng này nỗi đau ấy không cân đo, đong đếm
được, cũng chẳng thể chia sẻ cùng ai được nên Tuyết đành cố chịu đựng. Có lẽ,
chính sự âm thầm chịu cam chịu tất cả là một trong những nguyên nhân dẫn
đến cuộc đời đầy bi kịch của cô. Cũng có lúc trong cô bừng sáng tia hi vọng
thay đổi cuộc sống thực tại. “Nhưng Tuyết cũng như tất cả những cô gái ở quê
đang yêu chồng, yêu một tình yêu suốt ngày đêm hốt hoảng thì dù có ấm ức đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cổ cũng không bao giờ hé răng nói nửa lời có hại đến chồng mình khi nó chưa
có nguy cơ tan vỡ” [33, tr. 148]. Cái khao khát ấy Tuyết cứ âm thầm mang theo
rồi sau này khi gặp Hương, Tuyết mới thổ lộ: “ Chị ơi, em biết anh Sài khổ quá
mà em cũng có sung sướng gì. Em yêu anh ấy lắm, nhưng anh ấy không thể yêu
được em, em phải cắn răng vào mà chịu. Chị bảo, cả một thời con gái không
được chồng nhòm ngó đến một lần rồi nuôi con một mình. Cả chục năm trời,
những khi anh ấy chưa đi xa em cứ nằm mong tưởng được chồng hỏi đến. Chị
là phụ nữ chị biết thời con gái đang độ ăn không biết no, ngủ không biết chán
như em mà cứ phải ép mình xuống giường chịu cho qua hết đêm này đến đêm
khác còn có nỗi cơ cực nào hơn” [33, tr. 268]. Chẳng phải là phụ nữ mà bất cứ
ai khi nghe thấy những lời tâm sự ấy cũng đều ngậm ngùi, xót xa cho thân phận
Tuyết. Thế mà cô vẫn lặng lẽ nuôi con, sống trong cô đơn, buồn tủi suốt một
thời gian dài như vậy. Tuyết chịu đựng không phải vì cô không biết thoát khỏi
hoàn cảnh, không biết cách tìm hạnh phúc cho riêng mình mà có lẽ chính bản
tính cam chịu, nhẫn nhục đã ăn sâu vào tâm tính cô. Vì thế, cô cam chịu tất cả
để rồi sau bao nhiêu năm chờ đợi mà kết quả nhận được là cô phải ký vào lá
đơn ly hôn với Sài.
Đến với Chuyện làng cuội, người đọc còn bắt gặp số phận của bà Đất
còn nghiệt ngã hơn nhiều. Bà phải chịu nỗi khổ trăm đường từ khi sống đến khi
chết. Bà vốn là một cô gái nổi tiếng, xinh đẹp khiến bao người mê mẩn nhưng
tất cả đều chấm dứt sau cái giây phút hãi hùng bởi bàn tay ghì xiết của tổng Lỡi
là niềm hi vọng đến mù quáng về một tình yêu thương mà con cáo già đó ban
cho. Vốn là một cô bé mới lớn chưa hiểu rõ sự lừa lọc ở đời nên đã rơi vào tay
của lão tổng Lỡi để rồi một mình bụng mang dạ chửa phải một mình đến nơi
rừng rú ẩn náu để sinh con. Người đọc thật hãi hùng, thương xót trước cảnh
người mẹ trong quằn quại đau đớn quỳ xuống ôm lấy đứa con đỏ hỏn rồi ghé
răng cắn nhay mãi mới đứt được cuống dây rốn; cái cảnh vừa đẻ xong, chân tay
còn đau nhức, tê dại mà phải bò lết nhặt củi, xuống suối cõng nước mà trong
bụng không có hạt cơm; rồi cảnh cả tháng trời cô bị hậu sản tưởng là ma chứ
không phải là người nữa; hay cái cảnh cô đi kiếm củi bán về không thấy con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đâu “ chạy đi khắp nơi không thấy con, cô quay về định cầm con dao quắm tự
bổ vào đầu mình cho nó nhẹ nợ. Lúc quay ra lại thấy con nằm ở sườn dốc,
không một mảnh tã che người” [29, tr. 29] may mà chưa bị chó tha hay lăn
xuống suối; “rồi thì con được năm bảy ngày thì lên sởi rồi chạy hậu vào phổi.
Suốt ba tháng trời, mỗi ngày mẹ ăn một củ sắn lùi, ngồi ôm con...”. Tiếp đến
lại là cảnh con bị kiết lị, bị trúng gió lên sài giật tưởng chết; rồi phải bỏng; rồi
suýt chết đuối; rồi trèo cây ngã gãy tay và bị rắn độc cắn vào cổ chân...Có biết
bao nhiêu những vất vả, gian truân, bao nhiêu đau đớn, tủi nhục người mẹ nuốt
vào lòng để mong con thành người. Người phụ nữ chỉ cần có thế và cũng mong
có thế mà thôi. Cứ lầm lũi chịu đựng nuôi dưỡng cho cái mầm sống, mầm hi
vọng và coi đó là động lực sống của chính mình. Trải qua mười năm sóng gió,
chị dắt con trở về làng mong tìm nơi bến đỗ bình yên. Nhưng chính sự trở về
này lại bắt đầu chuỗi cuộc đời bi kịch của chị. Bắt đầu từ việc lấy Kiêm - một
thành viên trong tổ chức Việt Minh mà người thân của cô ra sức vun vén. Thế
nhưng, cuộc sống hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều. Cũng vì gắn kết cuộc
đời với đồng chí Việt Minh mà có khi được trân trọng, có lúc lại bị sỉ nhục vô
cùng đau đớn. Khi chị có thai với chồng - lúc anh bị bắt, trốn về gặp vợ trong
giây lát. Lúc chị cần sự chở che của dân làng nhất thì chị lại như một con mụ
chửa hoang đem bêu khắp làng trên tổng dưới. Bởi khi Kiêm bị bắt thì chị cũng
bị bắt và bị tra tấn, chúng buộc chị nhận có thai với chồng. Biết được âm mưu
thâm độc của chúng, chị một mực không chịu và phải chấp nhận chửa hoang để
không ai nghi ngờ chị đi lại liên lạc với Kiêm. Thế là thoát được bụi rậm này
chị lại phải quàng vào bụi rậm khác nhiều chông gai hơn cào xé nhân phẩm chị.
Còn gì khủng khiếp hơn cái cảnh: “Một người đàn bà chửa trần như nhộng bị
trói hai tay quặt về đằng sau, đầu cạo trọc bôi vôi trắng, cổ đeo một cái gông
và trên trán dán miếng giấy “tôi chửa hoang” do chính tay chị viết. Phía dưới,
nơi cần phải che một miếng vải thì chúng úp một miếng mo cau gài phía trong
dây thừng trói ngang người” [29, tr. 91]. Còn gì dã man hơn khi cả dân tộc
đang đồng sức đồng lòng chiến đấu gian khổ với kẻ thù xâm lược thì vợ Việt
Minh lại được trả ơn bằng sự sỉ nhục như thế! Còn gì đau đớn hơn, nhục nhã
hơn, bất hạnh hơn một người phụ nữ cũng có chồng như bao người khác mà lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mang tiếng là chửa hoang để cho quân bất nhân làm trò cười cho thiên hạ.
Trong hoàn cảnh ấy dù là người có lòng gan dạ, sắt đá cũng không thể cứng rắn
nổi huống chi là người hiền lành như chị Đất. Trong chặng đường đầy bi kịch
ấy, đến khi đã đi hết nửa cuộc đời, người đàn bà khốn khổ ấy mới được sum
vầy vợ chồng, con cái; mới có cảnh “ chưa bao giờ nhà bà Đất lại rộn rã tất
bật và tối mắt tối mũi suốt ngày đêm như thế. Cả nhà công tác... cái lúc bà
được làm người vài ba năm nay, tuy vẫn đói rách, chật vật nhưng cũng được
làm người, được sum họp vui vầy chồng vợ con cái” [29, tr. 93]. Chồng được
cử làm bí thư chi bộ huyện kiêm trưởng ban nông hội xã ngoại thượng. Ba
thằng con trai, riêng thằng Hiếu làm trưởng ban phụ trách thiếu nhi xã lấy vợ
đội trưởng thiếu nhi đã sinh cho ông bà một cô cháu gái kháu khỉnh. Bà vừa
trông cháu vừa hầu hạ ba chú cháu công tác, vui vầy, đầm ấm, bà không mong
muốn gì hơn nữa. Cuộc sống êm ấm ấy mới đang bắt đầu. Sóng gió sẽ qua đi để
lại cho bà một khoảng trời bình yên. Thế nhưng, cuộc đời như đang đùa giỡn
với bà, niềm hạnh phúc bé nhỏ ấy cũng chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian
ngắn. Hạnh phúc mà bà đang vồ vập ấy chỉ là bọt biển trên đại dương mênh
mông bị bão tố đánh tan. Đó là thời kỳ đấu tố giải phóng giai cấp, Kiêm bị bắt
và bị kết tội là tên địch nguy hiểm, kéo theo đó là Hiếu cũng bị bắt trói, bà lại
bị quản thúc không cho liên hệ với bên ngoài; nhà cửa thì tịch biên niêm phong,
mẹ con bà phải xuống ở thế chỗ con bò đã được bà con bần cố dắt đi. Không
những vậy, dân làng hoảng hốt sợ liên quan, dính dáng tới họ hàng anh em nhà
Đất nên đều tránh xa và hăng hái đi tố khổ, coi thị Đất là địa chủ độc ác, trực
tiếp bóc lột nhân dân. Thế là vừa mở mày mở mặt không lâu bà lại bị rơi vào
nỗi oan nghiệt ngã mà không biết kêu cùng ai. Từ đây, bà Đất lại phải gánh tội
thay chồng: phải quỳ suốt đêm ở miếu, đi mót khoai cũng phải xin phép, bị cái
thằng nhãi ranh bằng tuổi cháu mình đái vào mặt và bắt phải chào bằng “ ông
nông dân” trong tiếng cười ha hả của các ông du kích và bố mẹ “ ông nông
dân”...Đau đớn hơn là chị bị cắt lìa tình mẫu tử với con trai, con dâu cho chúng
tách khỏi gia đình ông Kiêm để hạ thành phần tiếp tục công tác. Phát súng
chấm dứt cuộc đời oan khuất của người chiến sĩ cách mạng nhưng chưa kết
thúc nỗi đau của người còn sống dù rằng đội sửa sai đã làm lễ truy điệu rất long
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trọng giải oan cho đồng chí Kiêm. Nỗi đơn độc lẻ loi của bà Đất lên tới đỉnh
điểm khi mà con trai và con dâu vì công vệc, danh vọng cũng sẵn sàng lìa khỏi
mẹ đẻ để đấu tranh giai cấp. Đứa con đứt ruột đẻ ra, đứa con mà không vì nó
thì bà không thiết sống ấy có biết rằng mẹ nó đang phải đón nhận một nỗi đau
mất mát vô bờ. Những đau thương mất mát dường như bám riết lấy bà, thằng
Mai học giỏi nhưng không được đi học đại học vì cái lí lịch, nó xung phong đi
bộ đội. Rồi từ đâu, tin sét đánh dội xuống đầu bà: thằng Mai phản bội tổ quốc.
“ Thật khốn khổ cho cái kiếp của bà. Sao bà lại sinh ra vào cái thời buổi lạ
lùng. Thoắt cái cả làng, cả tổng xô lại ai cũng như xé ruột xé gan cho bà.
Thoắt cái lại quay phắt mặt đi, nhất loạt lạnh lùng, nhất loại xa lánh. Ai cũng
đề phòng như bà là kẻ nguy hiểm chết người” [29, tr. 147]. Cùng lúc ấy Hiếu
lại đay nghiến mẹ vì chuyện thằng Mai, vì chuyện tha thứ cho vợ mình. Hiếu
buộc mẹ phải gây mâu thuẫn với vợ để có lí do bỏ vợ. Một người cả đời chỉ
biết có chân thật, giờ phải giả vờ cau có, dằn dỗi con dâu theo yêu cầu của con
trai sao mà trông tội nghiệp thế. Chỉ có đêm tối là đồng cảm che giấu cho
khuôn mặt hổ thẹn và tiếng khóc thầm vụng của bà. Rồi thằng Sau quyết tâm đi
bộ đội rửa nhục cho mẹ. Cái giấy khen đầu tiên như một liều thuốc cải tử hoàn
sinh lại làm cho bà Đất ngẩng mặt lên được. Bà lại được cuốn vào những công
việc phục vụ bộ đội làng và các tổ chức. Nỗi đau còn chưa nguôi ngoai thì cơn
sóng dữ dội lại ào tới khi bà nhận được giấy báo tử của hai đứa con đi bộ đội.
Tưởng không thể sống nổi nhưng bà vẫn còn vợ chồng con cái thằng Hiếu thì
chết làm sao được. Bà đành sống vì chúng. Nhưng bà đâu hiểu con trai bà nhất
tâm muốn bỏ vợ. Thế là, trong phiên toà, bà Đất phải diễn vai kịch do con trai
dàn dựng: Vu tội cho Xuyến một cách ấp úng của người không quen dối trá. Và
kết quả là Xuyến thắt cổ tự tử, cả làng xôn xao hỏi chuyện “mẹ chồng giết con
dâu”, con dâu chết oan uổng. Vì thế, bà lại trở thành kẻ gian ác “ thế là một lần
nữa mụ lại gục mặt xuống nghiêng cái nón lá che lấy mặt tránh những cái nhìn
khinh bỉ, oán trách, những lời lẽ độc địa, thì thầm...lại tách ra khỏi sự đùm bọc
của dân làng” [29, tr. 189]. Thế nhưng nỗi đau của bà chưa thể kết thúc. Sau
cái tai tiếng giết con dâu, bà Đất nuôi cháu gái cho bố nó đi chiến đấu. Không
chỉ là bà của nó, bà còn là bố, là mẹ nuôi nấng dạy bảo Huyền. Giờ đây, Huyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
là người duy nhất để bà trông cậy. Vì vậy, “ nó mà có sự gì thì y như một lưỡi
dao phay phạt ngang vào thân cây bà đang vịn, tựa, bấu víu ở đấy”[29,tr .190].
Khổ nỗi con Huyền lại bị lừa vì yêu thầy giáo dạy nó đã có vợ và hai con. Thật
xót xa nhưng biết làm sao! Bà chỉ còn biết răn dạy cháu điều hay lẽ phải ở đời.
Khi Hiếu đi B trở về được làm trưởng ti giao thông và lấy cô vợ ở thành phố,
bà Đất mừng cho con, bà rời quê lên bế con cho vợ chồng Hiếu. Nhưng thật
khốn khổ cho bà, cô con dâu có mác trí thức hẳn hoi lại là người thành phố mà
vô cùng nanh nọc, đối xử bất hiếu, vô đạo đức với mẹ chồng. Tuy không biết
tường tận sự việc của vợ chồng Hiếu nhưng bà hiểu được nỗi khổ của con trai,
lòng bà quặn lại “ Cũng phận đàn bà mà bà không thể ngờ đàn bà thời nay táo
tợn, trơ tráo, chả còn biết đến nhân tâm, luật lệ gì cả. Cũng là vì phải giữ cái
danh cho con, bà phải cắn răng chịu nhục suốt từ khi chị ấy về làm dâu nhà
này” [29, tr. 227]. Cái số kiếp của bà nó phải như thế bà biết phàn nàn, oán
giận ai! Chỉ còn biết âm thầm khóc thương cho số phận của con mình. Tất cả
những nỗi đau ấy bà cam chịu tất cả. Đã bao lần bà bị dân làng khinh bỉ, chửi
rủa là con chửa hoang, bị dân chúng hai bên đường đổ xô ra xem rồi nhiếc móc
mắng chửi, sỉ nhục, nhổ vào mặt. Nhưng bà vẫn chấp nhận tất cả “ hai hàm
răng chị cắn lại, đầu cúi xuống, nước mắt rơi lã chã trên đường”. Đọc những
dòng văn ấy, người đọc có thể thấu hiểu phần nào nỗi khổ của bà Đất. Chúng ta
cũng thấy khâm phục sự cam chịu, nhẫn nhục của bà. Không chỉ trong tình yêu
mà trong tình mẫu tử cũng vậy. Bà cam chịu tất cả để sống vì con. Ngay từ
bước gian truân đầu tiên, đã bao đêm nơi rừng hoang cô định chết nhưng vẫn
phải sống không phải để cho mình mà vì chính giọt máu người ta quyết vứt bỏ
đi. Bao nhiêu khổ đau, giành giật để có được mầm sống - thằng Hiếu, nó là tất
cả cuộc đời của bà. Rồi cả thằng Mai, thằng Sau – kết quả của hạnh phúc trong
nỗi khốn khổ. Tình yêu của người mẹ cứ lớn dần lên theo sự trưởng thành của
những đứa con. Chúng vừa là niềm hạnh phúc, vừa là nỗi đau đớn của bà. Bà
âm thầm chịu đựng tất cả cho đến khi không tìm được hướng đi tiếp trong cuộc
đời nữa, bà đã phải gieo mình xuông sống tự giải thoát cuộc đời mình. Thật xót
xa, tội nghiệp cho số phận của bà Đất – một người mẹ sống vì con mà chết
cũng vì con! Khép lại cuộc đời bà Đất, ta mới thấy hết được ý nghĩa những lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tâm huyết của tác giả lúc khai sinh ra Chuyện làng cuội được phỏng vấn:“ Tôi
muốn đặt vấn đề rất nghiêm chỉnh mà lại có ý nghĩa thời sự. Tôi muốn nói lên
rằng nhân dân có thể chịu đựng tất cả mọi sự chà đạp, lừa dối của đế quốc
phong kiến, chịu mọi hi sinh mất mát trong bước thăng trầm của đất nước và
chính cuộc đời họ. Nhưng đến khi bị chính người thân yêu ruột thịt chà đạp,
lừa dối thì họ không sống nổi. Xã hội ta hiện đang có mầm mống anh em ruột
thịt, thậm chí bố con chà đạp, lừa dối lẫn nhau. Đây là hiện tượng đáng báo
động, cần phải ngăn chặn và lên án. Nhân vật xuyên suốt tác phẩm là bà Bùi
Thị Đất – Đó là toàn bộ sự hi sinh, chịu dựng lớn lao của các bà mẹ Việt Nam
mà tôi vô cùng kính phục, đã đứng vững được khi hay tin những đứa con hi
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng bà đã không sống nổi khi có đứa
con phản bội” [29, tr. 650]. Đây chính là nhân vật điển hình cho số phận bi
kịch của người phụ nữ Việt Nam.
Đến với nhân vật Hương trong Thời xa vắng, người đọc cũng bắt gặp
hình ảnh người phụ nữ cam chịu, bất hạnh với nỗi đau khổ khi không được yêu
cho mình. Hương vốn là một cô gái xinh đẹp lại thông minh, học giỏi. Vì thế,
cô dễ dàng chọn cho mình một tình yêu như ý. Nhưng “không hiểu sao sáu bảy
năm nay từ khi mới mười lăm tuổi không biết đã có bao nhiêu người đủ các
loại xô vào Hương đều bị bật ra mà cô lại lao đầu vào Sài như một con thiêu
thân” [33, tr. 126]. Hương yêu Sài không phải một tình yêu bồng bột tuổi mới
lớn mà là một tình yêu chân thành, sâu sắc của người có bản lĩnh. Từ khi biết
yêu, Hương đã dành trọn tình cảm và con tim mình cho người yêu: “ cô không
lúc nào không nghĩ về anh, một con người vừa đáng kính trọng vừa thấy
thương hại tội nghiệp” [33, tr. 66]. Tình yêu của Hương xuất phát từ tình cảm
mến phục thành tích học tập của chàng trai con nhà nghèo. Tình yêu đó cứ lớn
dần lên đốt cháy khát khao của hai cô cậu học trò vừa bước qua tuổi mới lớn.
Biết rằng Sài cũng rất yêu mình mà không dám bày tỏ, Hương đã chủ động đến
gặp Sài. Giữa cảnh lụt lội, xơ xác của làng quê ngoại bốn mùa nước lũ đã nảy
sinh một chồi non tình yêu và hứa hẹn một mầm cây tươi tốt, đơm hoa kết trái.
Cảnh đêm trăng quê vằng vặc chứng kiến tình yêu của hai người quả là đẹp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chẳng khác nào đêm thề nguyền giữa Thuý Kiều và Kim Trọng năm xưa:
“ Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Và cũng giống như Kim - Kiều, Sài và Hương đâu có biết rằng những giây phút
thiêng liêng ấy chỉ đến với họ một lần duy nhất để rồi vĩnh viễn họ chỉ sống
trong khắc khoải, chờ mong mà không sao có được nhau. Xuyên suốt tác phẩm
và làm thành một mạch tình cảm đẹp nhất trong tác phẩm là tình yêu Sài –
Hương. Hương – nhân vật duy nhất trong tác phẩm được nhà văn nói đến bằng
lòng yêu mến, trân trọng. Hương say đắm, mãnh liệt trong tình yêu. Hương rất
yêu Sài nhưng tình yêu của họ gặp nhiều rào cản từ phía Sài vì anh đã có vợ.
Hiểu được hoàn cảnh của Sài, Hương đã tìm cách tháo gỡ để giữ vững tình yêu,
sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để đến với Sài. Tiếc rằng, Sài lại không có được
cái dũng khí như cô để rồi cuối cùng tình yêu không thành và cả hai không đến
được với nhau nên rất đau khổ, nuối tiếc. Vì tự ái và tuyệt vọng, Hương đã đi
lấy chồng - một người mà cô không yêu, thậm chí chán ngay từ khi chưa cưới.
Thế nhưng cái quyết định vội vàng ấy không thể giết chết tình yêu của cô với
Sài nên nó cứ âm thầm được nuôi dưỡng trong góc khuất tâm hồn Hương. Dù
phải gắng thực hiện bổn phận của người vợ, người mẹ mẫu mực nhưng trong
sâu thẳm tâm hồn cô mối tình đầu hạnh phúc và đau đớn kia chẳng bao giờ
nguôi ngoai. Cùng chạy trốn tình yêu như Châu nhưng Hương biết cách xây
đắp cho tổ ấm, vẫn là người vợ đảm, người mẹ hiền, vẫn duy trì ngọn lửa gia
đình dù rằng sâu thẳm trong trái tim cô Sài vẫn mãi là tình yêu duy nhất. Rồi từ
lúc nào ở Hương hình thành hai con người trái ngược nhau: bên ngoài là người
phụ nữ hết lòng lo cho chồng con, gia đình; bên trong lại là người yêu thiết tha
một mối tình thiêng liêng nhưng vô vọng. Cùng một lúc chị lo cho cả hai nơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Một gia đình không có hạnh phúc nhưng không thể phá bỏ, một tình yêu tràn
đầy rạo rực mà không thể bước tới. Vì “ đã ba mươi tuổi đầu không đủ sức từ
bỏ những gì đã có, chị rất sợ sự tanh bành, đổ vỡ của gia đình. Ở chị thường
nảy sinh những mong muốn trái ngược nhau. Rất mong Sài lấy vợ để mình đỡ
day dứt nhưng lai sợ một người đàn bà nào đó làm khổ Sài thêm. Rất muốn Sài
vẫn chỉ là tình yêu của riêng mình, lại rất sợ gia đình bị phá vỡ” [33, tr. 262].
Con người giàu tình thương ấy dù có muốn cũng không thể ích kỷ để thoả mãn
tình yêu của mình. Dù rằng Hương có thể là người giả dối để đến với Sài như
Châu đến với Toàn, có thể bất chấp tất cả để chạy theo tiếng gọi của tình yêu.
Điều đó có thể xảy ra. Song Hương vốn là người chín chắn, luôn sống vì người
khác, lo cho người khác hơn bản thân nên cô không được yêu cho mình thì có
gì là lạ. Với Hương, tình yêu với Sài là duy nhất, là vĩnh viễn nhưng trước sự
lựa chọn là gia đình và tình yêu thì cô buộc lòng chấp nhận hi sinh tình yêu để
làm tròn bổn phận cho gia đình; chấp nhận từ bỏ hạnh phúc của mình để vun
vén hạnh phúc của người khác. Vì thế cho mãi đến sau này mặc dù tình yêu của
cô với Sài vẫn sâu đậm, cô quan tâm đến Sài vừa như người vợ quan tâm chồng
vừa như người bạn tri âm tri kỷ. Ở phần cuối truyện, tình cảm và cách xử sự
của hai người dành cho nhau thật đáng khâm phục.
Trong Sóng ở đáy sông, ta lại bắt gặp hình ảnh của Hiền. Vốn là một cô
giáo mầm non ở thôn quê, Hiền cũng có những đức tính tốt đẹp và niềm mơ
ước có một tình yêu như bao người con gái khác. Số phận run rủi đã cho cô găp
Núi thật tình cờ. Thế rồi hai người đã nảy sinh tình cảm yêu đương. Và rồi, một
tình yêu tuổi mới lớn đã chớm nở. Đó là một tình yêu đẹp, hai người cũng đã
có những buổi hẹn hò yêu đương với nhau. Trong một buổi hò hẹn đi xem xiếc
hai người đã không thể kiềm chế được cảm xúc và đã đi quá giới hạn. Sau hơn
nửa tháng, Hiền phát hiện mình đã có thai với Núi, cả hai người đã quyết định
sẽ làm đám cưới. Nhưng số phận thật trớ trêu, hạnh phúc đã không mỉm cười
với đôi uyên ương ấy. Bởi lúc này cả Núi và Hiền đều không đủ tuổi để đi đăng
kí kết hôn. Sống trong môi trường làng quê có nhiều hủ tục, Hiền đã phải băn
khoăn day dứt rất nhiều và không biết phải làm sao cho mọi việc được yên ổn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Sau nhiều ngày suy nghĩ, Hiền đã quyết định đem mọi chuyện nói với mẹ.
Tưởng rằng sau đó mọi chuyện sẽ được yên ổn. Thế nhưng, cuộc đời lại như
đang đùa giỡn với Hiền khi cô biết được mình và Núi lại là quan hệ họ hàng và
Hiền lại là cô của Núi. Mặc dù, quan hệ họ hàng đã cách xa đến bẩy, tám đời
nhưng những hủ tục cùng những định kiến và những lời đàm tếu của dân làng
khiến cô không thể sống được ở làng nữa. Vì quá đau buồn và xấu hổ nên Hiền
đã rất buồn bã nhảy xuống ao tự tử nhưng không chết. Gia đình đã quyết định
đưa cô lên chỗ cậu ruột ở miền Tây. Vậy là, từ đây cuộc đời cô đã rẽ sang một
đường khác không biết là vui hay buồn, hạnh phúc hay khổ đau nhưng vẫn phải
đi. Đến nơi đất khách quê người lại bụng mang dạ chửa, Hiền đã quyết định lấy
chồng để mong đứa con sinh ra được có cha. Thế nhưng cuộc sống vợ chồng
kéo dài chẳng được bao lâu đã phải ly hôn vì người chồng biết được đứa trẻ đó
không phải là con của mình. Hiền cũng như bao phụ nữ khác chỉ biết âm thầm,
cam chịu sống qua ngày mong cho con lớn khôn thành người.
Cũng trong Sóng ở đáy sông, người đọc còn bắt gặp số phận đầy đau
khổ, bất hạnh của mẹ Núi – vợ ông Đại. Bà trở thành vợ của ông cũng chẳng
phải do yêu đương mà thành, ngược lại do được ông chủ để mắt tới “ khi bà cả
đẻ cậu út đang phải kiêng cữ thì sự dư thừa trong cơ thể ông không thể kìm
hãm được trước con ở 19 tuổi có đôi mắt như đốt cháy người khác. Cả bộ ngực
như vút lên. Cả đôi môi đang thời bừng dậy rừng rực đốt hết sự lạnh lùng của
ông. Rồi đến khi “ nguy hiểm” đang dầy lên trong cơ thể của cô, ông cho cô 20
đồng để về quê. Bà cả sợ bẽ mặt, mất hết danh giá và nghĩ tội nghiệp cô. Bà
nhất quyết cưới cô làm vợ hai cho ông” [30, tr. 20 - 21]. Thế là bà trở thành vợ
hai của ông. Nói là vợ nhưng thực chất bà vẫn bị coi như một con ở. Ngay cả
khi bà sinh cho ông tới bẩy người con nhưng “ bốn sống, ba chết” thì bà vẫn
chỉ là một con ở. Bà và các con của bà vẫn được sống trong ngôi nhà khang
trang, đẹp đẽ nhưng lại bị phân biệt khá rạch ròi bởi bức tường ngăn cách là
tầng trên và tầng dưới. Cha và các anh con mẹ cả ở trên tầng hai, mỗi người
riêng một phòng. Người chơi ghi ta, người tập pianô, người vẽ tranh, người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đánh tenít...Anh nào cũng nói tiếng Tây xì xèo như rán mỡ và nhanh như gió.
Mấy mẹ con hắn ở tầng dưới nhưng vẫn có một nửa phía ngoài là nơi tiếp
khách. Ở cùng một nhà nhưng tầng trên và tầng dưới như hai nước khác nhau.
Người tầng trên đi về lặng lẽ như ma, lại chỉ thấy xì xèo như người ở bên Tây
mới sang. Còn tầng dưới tầng của nước “ta” thì cười đùa, khóc mếu, cãi cọ, cấu
véo nhau, chí choé suốt ngày. Thỉnh thoảng lại giật thót người khi nghe tầng
trên quát xuống: “có để cho ai yên không?” hoặc“ Cả lũ mất dạy”. “Không
còn biết thế nào là tự trọng” hoặc “Có định phá cái nhà này ra thì bảo?”
“Đúng là dân nhà quê”[30, tr. 7]. Ngay cả trong bữa ăn bà và các con của bà
cũng bị phân biệt đối xử, khi “ cậu và các anh ngồi vào mâm hai đứa trẻ nhà
dưới lại khoanh tay mời: “ Con mời cậu xơi cơm. Em mời các anh xơi cơm ạ”
[30, tr. 9]. Không những vậy, mỗi khi có người ở tầng trên về là mẹ và các con
tầng dưới đều phải kính cẩn mời chào. Nhưng không bao giờ được nghe một
tiếng nói, một cái phẩy tay hoặc một cái nhìn đáp lại. Thế nhưng nếu không
mời chào là sẽ bị phạt ngay, đã có những lần người mẹ ấy không thể ăn nổi mà
vẫn cứ phải chịu đựng, bà chỉ còn biết nuốt nó bằng nước mắt của mình. Cũng
có lúc nước mắt lại chảy ra ngoài , miếng cơm mắc ở cổ mẹ như nghẹn lại, lấy
vạt áo lau nước mắt. Một tiếng “rầm” xuống bàn cùng với tiếng quát: “ Còn
muốn bênh hả?”. Bát đũa trong mâm nẩy lên. Cả mấy mẹ con cũng nẩy lên,
run bần bật” [30, tr. 9]. Cũng được mang danh là vợ của một ông chủ giàu có,
cũng sinh cho ông đến mấy mặt con, vậy mà cả bà và những đứa con ấy đều bị
mọi người trong gia đình coi thường giống như kẻ hầu người hạ. Sau này, khi
đã được ở chung với “bố”, tưởng rằng cuộc sống của bà sẽ khác, hạnh phúc sẽ
đến với bà. Thế nhưng đâu phải vậy, trong mọi chuyện, đặc biệt là chuyện tình
cảm vợ chồng bà cũng chỉ được làm theo lệnh của chồng. Khi các con đã ngủ
“ông đi đến vỗ nhẹ hai cái vào chân người vợ rồi lặng lẽ quay ra, đi về phòng
mình. Thế là người vợ hiểu ý. Rất khẽ khàng, chị nâng dần tách người khỏi con,
lấy gối chèn vào bên cạnh để nó khỏi giật mình rồi vén màn chui ra, rón rén
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
như một tên ăn trộm sang phòng ông. Ông đã làm xong “mọi công tác chuẩn
bị”, nằm ngửa mặt chờ. Bấy giờ chị cũng mạnh dạn lấy tay cầm vào cái “ khí
thế” của ông đang vùng lên quyết liệt như là động tác “kiểm tra”, như là niềm
vinh hạnh lớn nhất của chị được bình đẳng âu yếm mà không sợ ông quở mắng.
Xong rồi, chị mới cởi quần áo. Bao giờ ông cũng ngấu nghiến, băm bổ khác
hẳn với tính điềm tĩnh khoan thai rất từ tốn của ông. Khi chị vừa mới chớm nở
thì ông đã nằm vật ra giường thở. Chị biết phận sự phải nhanh chóng ra khỏi
màn để ông được yên tĩnh” [30, tr. 22 - 23]. Thật tội nghiệp cho bà, được mang
danh là vợ của ông mà mà luôn phải sống trong sự áp đặt, sợ sệt; ngay cả
chuyện chăn gối cũng chỉ biết làm theo mệnh lệnh của ông. Mặc dù vậy, bà
cũng giống như bao phụ nữ khác luôn cam chịu, nhẫn nhục mọi khổ đau “cái
quý của chị là sự chịu đựng, nhẫn nhục, chờ đợi”. Ở bà cũng có nét giống
Tuyết trong Thời xa vắng, nhiều lúc “ chị rất thèm được chồng đánh. Được
chồng đánh, mắng như vợ chồng gã xích lô đầu đường và tay thợ khoá nhà bên
cạnh . Chị lại thấy thèm. Dù đau, dù bị hắt hủi, lại có tiếng là được chồng
đánh, được ầm ã cho cả phố biết là mình cũng được như mọi người: Có chồng.
[30, tr. 26 ]. Cuộc sống của chị luôn tất bật với mọi công việc trong nhà giống
như một người ở mà không hề biết đế cuộc sống bên ngoài ra sao. “ Hầu như
cả đời mẹ chỉ được nói ở chỗ quây lá chuối, chỗ “ buồng tắm” ấy. Từ lúc lôi
thằng cu con vào, cho đến khi gội cho ba “vị” xong và cũng “lấp” xong cái
công bằng ghét của chúng thì mới kết thúc “ bản ca nhạc cổ” để rồi lại tiếp tục
thu thập cả quần áo để xem cái nào hơi có mùi hôi? Cái nào cổ vò chưa kỹ?
Tất cả vứt vào nhậu với quần áo vừa thay để mẹ nó vò xà phòng, kín nước
giũ”[30, tr. 34 -35]. Cả cuộc đời chị, lúc nào cũng tất tả, nhục nhã, phải lạy lục,
cầu xin vẫn không được sung sướng. Khi con lớn không bị khinh miệt nữa thì
chị lại phải làm nhiều việc để kiếm thêm tiền đong gạo cho các con đang gửi
nhờ ở quê “ Tuần nào mẹ cũng rửa bát thêm được ba bốn giờ lấy tiền đong gạo
(mẹ không dám nói rằng có những ngày mẹ đi dồn các bát mì “ không người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lái” còn thừa thành xuất ăn của mình...) [30, tr. 38 ]. Chị luôn chạy vạy, lo lắng
cho chồng cho con , vậy mà cuối cùng chị đã bị chết trên bàn mổ cùng đứa con
của mình. Ở chị, người đọc cũng nhận thấy sự âm thầm chịu đựng, hi sinh vì
người khác. Trong muôn vàn những khó khăn, vất vả ấy, chị cũng không hề
kêu than một tiếng, luôn phải chịu những nỗi đau, sự bất hạnh cả về thể xác lẫn
tâm hồn.
* * *
Quả đúng là “ hạnh phúc thì ai cũng giống ai, nhưng bất hạnh không ai
giống ai” ( L.Tonstoi). Đi sâu vào các tiểu thuyết của Lê Lựu, ta thấy rất rõ
điều đó. Ta cũng hiểu rằng không thể lấy bất cứ thứ gì để bù đắp xứng đáng
cho người phụ nữ, bởi có ai bù đắp được những cuộc đời dang dở, đau khổ, bất
hạnh như thế!
2.3.1.2. Nhân vật nữ luôn khát khao yêu thương.
Không chỉ riêng bà đồ Khang, cô Tuyết, bà Đất, Hương, Hiền, mẹ Núi
phải chịu số phận nhiều đau khổ, bất hạnh mà còn nhiều nhân vật trong các tiểu
thuyết khác của Lê Lựu cũng có số phận tương tự. Chẳng hạn như các chị
Hồng, Mai – những người đàn bà đã đi qua đời Núi trong Sóng ở đáy sông,
cùng rất nhiều phụ nữ không tên, không tuổi khác. Mỗi người có thể có hoàn
cảnh, tính cách không giống nhau nhưng điểm tương đồng giữa họ mà Lê Lựu
muốn gửi gắm là dù trong hoàn cảnh nào thì họ vẫn luôn khao khát được sống
làm người, khát khao được yêu thương che chở. Trở lại với Thời xa vắng,
Chuyện làng cuội, ta sẽ thấy nghị lực tiềm ẩn trong mỗi hình tượng người phụ
nữ thật mạnh mẽ đáng khâm phục. Nếu như trong chiến trường, họ không ngần
ngại hi sinh cuộc sống của mình vì tổ quốc như Ngà, Lí, Bình Nguyên trong
Mở rừng thì ở hậu phương, lúc bình yên, họ lại khao khát sống làm người để
dược thương yêu, được là những người vợ, người mẹ đích thực. Điều tưởng
chừng rất đơn giản ấy nhưng lại thật khó với những người phụ nữ như Tuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trong Thời xa vắng hay bà Đất trong Chuyện làng cuội.
Quay trở lại với Thời xa vắng, ta thấy Tuyết vốn là một cô gái thôn quê
hiền lành, hình thức lại ưa nhìn chứ không phải vận kiếp “hồng nhan bạc phận”
như Thuý Kiều. Thế mà số phận của cô lại vô cùng bạc bẽo – có chồng mà
chưa một lần được chồng để ý đến. Lấy chồng từ thuở mười ba nhưng cô lại
không có được diễm phúc làm vợ như bao người phụ nữ khác bởi Sài – chồng
của Tuyết từ lúc còn là đứa trẻ con cho đến khi trưởng thành chưa bao giờ chấp
nhận hay coi cô là vợ. Chính điều đó càng nuôi đưỡng trong cô niềm khao khát
được yêu thương dù chỉ là âm thầm, vô vọng. Niềm khao khát ấy cứ lớn dần
theo thời gian. Lúc đầu sự khao khát mới chỉ là được người chồng kém mình
mấy tuổi, vẫn còn “ dở dở ương ương” biết nghe lời vợ, để cho vợ làm hộ
những công việc như quét sân, giã ngô..., biết ý thức rằng mình đã có vợ. Thế
nhưng càng về sau thì Sài càng lẩn tránh, thậm chí trốn chạy để đẩy Tuyết ra
khỏi cuộc đời mình. Khi ấy, niềm khao khát được yêu thương lại bùng cháy
trong Tuyết. Tuyết thèm vô cùng một cái nhìn của Sài cho dù là chưa được
thiện cảm, một hành động chưa được thân yêu hay chỉ là một ý nghĩ mơ hồ Sài
dành cho cô thôi. Một niềm mơ ước nho nhỏ ấy mà cô cũng không thể có được.
Niềm khao khát của Tuyết không phải là ích kỷ. Cô muốn được chăm sóc Sài
như người vợ chăm sóc chồng, muốn được sự đòi hỏi bất cứ điều gì của một
người chồng với một người vợ, đó cũng là lẽ thường. Thậm chí cô còn có niềm
khao khát rất khác thường là được chồng hắt hủi, chửi mắng, đánh đập... thế mà
đâu có được. Khi có một đứa con với Sài, biết rằng đó không phải là kết quả
tình yêu mà Sài ban phát nhưng cô đã sung sướng vồ lấy cái hạnh phúc duy
nhất ấy. Rồi lại sống trong sự chờ đợi, mong ngóng, hi vọng đứa con sẽ là cầu
nối tình yêu thương, gắn kết để xây tổ ấm gia đình. Nhưng niềm khao khát ấy
trong mơ Tuyết cũng không nắm bắt được.
Đến với Chuyện làng cuội, ta sẽ thấy cuộc đời bà Đất cũng là cả chặng
đường dài tìm kiếm tình yêu thương của con người. Từ khi bị tên tổng Lỡi độc
ác lừa gạt tình yêu tưởng không thể sống làm người, vậy mà cô vẫn mong
ngóng tình yêu thương của con người bội bạc dành cho hai mẹ con. Niềm khát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
khao đó được ghi lại trong cuốn sổ như điều bí mật chôn vùi tất cả “ Đêm qua
em nằm mơ thấy ông tổng lên với em, lên với đứa con của ông thì em mừng quá
vội vàng chạy vào nhà để ông phải vào đấy với em, để ông nghe thấy đứa con
ông nó đập thình thịch làm em phải đau đớn quằn quại thì ông quay ngựa đi
ông bảo ông không biết mày là ai, thế là em vội kêu lên rồi thì mắt em mở ra
em sợ quá” [29, tr. 27]. Ở nơi rừng rú thân cô thế cô nhưng cô vẫn nuôi hi vọng
được tổng Lỡi đến thăm và đón mẹ con cô về. Trớ trêu thay, khát khao chính
đáng đó không bao giờ cô có được. Tổng Lỡi đã toan tính đẩy cô đi sau khi
thoả mãn dục vọng vì trong con người hắn làm gì có cái gọi là tình yêu. Đến
khi hai mẹ con trở về quê hương tìm sự che chở của anh em làng xóm, những
tưởng sóng gió đã qua, cô sẽ được yên thân với người chồng Việt Minh. Nhưng
cũng từ đây sóng gió mới lại bắt đầu. Hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều,
gần gũi chẳng được bao lâu đã phải xa nhau mãi mãi. Vì khát khao yêu thương
mà mẹ con Đất phải chịu bao tai vạ, bao nhục nhã đớn hèn. Tủi nhục là thế mà
chị vẫn ao ước có sự cảm thương của mọi người. Chỉ cần họ không phỉ nhổ,
không xa lánh chị thì bao nhiêu tủi nhục, cay đắng chị cũng chịu được hết.
Trong tận đáy lòng người mẹ khốn khổ đó không lúc nào nguôi nỗi thèm khát
được làm người như bao người khác. Niềm khát khao nhỏ bé ấy ai mà chẳng có
nhưng sống như thế nào để giữ cho lương tâm, nhân phẩm của mình trong
sáng, cao đẹp mới là điều khó. Vì thế, bà luôn mong ước nhân phẩm của mình
không bị xúc phạm, Sống trong tủi nhục, bà vẫn luôn thèm khát được làm
người như bao người khác nhưng bà lại bị dân làng tách ra khỏi cộng đồng
người chẳng khác nào Chí Phèo. Chỉ có điều Chí là con quỷ dữ đã gây ra bao
tội lỗi với dân làng Vũ Đại khiến cho người dân hãi hùng, ghê sợ còn hậu quả
mà bà Đất phải gánh chịu không phải do tội lỗi bà gây ra mà chính là sự thiếu
hiểu biết, thiếu đồng cảm, thiếu tình người của dân làng. Bà muốn được ngẩng
đầu lên cũng không được, muốn là một công dân tốt thì họ lại đẩy bà ra khỏi
cộng đồng. Với các con của bà, bà cũng chỉ mong có được tình yêu thương từ
chúng dù chỉ ít thôi. Ít thôi nhưng xuất phát từ lòng hiếu thảo, từ lương tâm thì
có lẽ bà Đất ra đi cũng nhẹ nhàng, thanh thản hơn nhưng cũng đâu có được. Vì
thế, cả cuộc đời bà là sự chới với trong trong thèm khát được có tình yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thương. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại gắn cuộc đời bà Đất với sáu câu
chuyện tình. Người đọc đừng nhầm tưởng là tình yêu đôi lứa. Tình ở đây là tình
người, tình yêu thương mà bà Đất cả cuộc đời mơ tưởng, khao khát vẫn không
thể có được.
* * *
Đề cập đến số phận đầy éo le, bất hạnh của người phụ nữ trong và sau
khi chiến tranh không chỉ có Lê Lựu với cái tâm và tầm nhìn sâu rộng mà còn
có rất nhiều tác phẩm khác như: Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc
Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Dòng sông mía ( Đào Thắng)...
đều đi sâu vào số phận của từng cá nhân, từng gia đình với những bi kịch của
cuộc đời họ. Các nhà văn đã hướng tới cuộc đời, số phận của người phụ nữ với
nỗi đau, sự mất mát, những thiệt thòi và niềm mơ ước nhỏ bé đời thường nhưng
cũng không thể có được. Đến với các tiểu thuyết của Lê Lựu, người đọc không
chỉ cảm nhận mà còn thấy được nỗi đau đớn, sự thiệt thòi không gì có thể bù
đắp nổi cho họ. Dù trong hoàn cảnh nào những người phụ nữ ấy vẫn luôn giữ
được những phẩm chất cao đẹp: luôn cam chịu trước mọi khó khăn, thử thách;
ở họ luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, một khát khao yêu thương cháy
bỏng. Chính điều đó đã làm nên sức sống lâu bền của nhân vật, đồng thời
khẳng định được vị trí của Lê Lựu trong lòng bạn đọc cũng như trong nền văn
học Việt Nam hiện đại.
2.3.2. Nhân vật nữ thông minh, giàu bản lĩnh, luôn tìm cách khẳng định mình
Đọc các tiểu thuyết của Lê Lựu, ta không chỉ thấy hình ảnh những người
phụ nữ có số phận đau khổ, bất hạnh, luôn cam chịu trước số phận và hoàn
cảnh mà còn có những người phụ nữ giàu bản lĩnh luôn tự khẳng định mình
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Họ cũng là những người chị, người mẹ, người vợ
với những phẩm chất đáng quý trong truyền thống người phụ nữ Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Bên cạnh đó, ở họ còn là sự quyết đoán, không cam chịu trước số phận và hoàn
cảnh. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh những nhân nữ tiêu biểu như:
Hương, Châu trong Thời xa vắng hay Xanh Dương Lẫm Liệt trong Thời Loạn…
Nếu Tuyết gắn với sự trốn chạy tình yêu của Sài thì Hương lại gắn liền
với sự đuổi bắt tình yêu của Sài. Hương là nhân vật phụ nữ mà Lê Lựu xây
dựng có lẽ hoàn hảo nhất không chỉ trong Thời xa vắng mà trong nhiều tác
phẩm khác. Không chỉ có Sài ngưỡng mộ mà ngay cả người đọc cũng rất cảm
tình trước vẻ đẹp vừa dịu hiền vừa toát lên sự thông minh của Hương khi thấy
“ Hương lướt nhanh đôi mắt to, rất đẹp và thông minh khi nhìn Sài, hai má ửng
đỏ” [33, tr. 59]. Là một thiếu nữ mới lớn, lại xinh đẹp “ Hương ý thức được sắc
đẹp của mình”, lại luôn xếp vào loại học giỏi đứng đầu trường. Nói như các cụ
ngày xưa là “tài sắc vẹn toàn”. Sự giỏi giang thông minh của cô thấy rõ ở kết
quả học tập và qua các kì thi học sinh giỏi hay thi hết cấp. Con đường học hành
cũng như công danh, sự nghiệp sau này thật đáng khâm phục ở một người phụ
nữ giàu nghị lực. Từ một cô sinh viên xuất sắc của trường Bách Khoa thành
một người trí thức ai cũng vị nể, Hương đều vượt qua một cách nhẹ nhàng. Duy
chỉ có một cột mốc tưởng như rất nhỏ và đơn giản mà cả đời cô không thể vượt
qua được đó là tình yêu. Một tình yêu vừa bồng bột vừa chín chắn, sâu sắc cô
dành cho Sài thì sự thông minh và bản lĩnh của cô không thể chiến thắng khiến
cho bất kì ai khi đọc Thời xa vắng đều tiếc nuối, ngậm ngùi. Có thể khẳng
định, Hương là một phụ nữ đã chiếm được cảm tình của người đọc. Cũng sống
trong hoàn cảnh xã hội như Sài, cũng có những khó khăn trắc trở khi yêu một
người đã có vợ như Sài. Trong hoàn cảnh xã hội lúc ấy, điều đó không phải là
bình thường. Tuy vậy, Hương đã xử sự rất dũng cảm, có bản lĩnh để bảo vệ tình
yêu chân chính của mình. Dù rằng lúc ấy Hương cũng hiểu được trước mắt
mình có hàng loạt những vật cản và nặng nề nhất là búa rìu của dư luận. Nhưng
rồi chính sự đầu hàng của Sài đã khiến Hương đau đớn tuyệt vọng vì nghĩ rằng
Sài đã phản bội mình khi cô nhìn thấy“ Tuyết đang kiêu hãnh vác cái bụng
chửa như vác một quả bom đi đến đặt vào lồng ngực của Hương” [33, tr. 194].
Cô vô cùng chán nản, buông trôi cuộc đời theo hướng tiêu cực và quyết định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lấy ông thầy tiến sĩ đã bao năm theo đuổi, cung phụng cô. Có mấy ai có được
bản lĩnh như Hương, quyết định về quê viếng cụ đồ Khang sau khi đã lo toan
cơm nước cho chồng con. Cô là người phụ nữ thật đảm đang biết lo toan chu
đáo cho gia đình, với họ hàng hai bên, với bạn bè. Đọc đến đây, ta thấy tiếc cho
Sài thì ít mà trách anh Sài thì nhiều. Sao Sài lại có thể chạy trốn một tình yêu
đẹp như thế? Một người con gái dám chấp nhận tất cả rồi chờ đợi, rồi hi vọng.
Đến khi Sài đi bộ đội, cô còn gặp chú Hà đề nghị giúp đỡ để hai người có thể
đến được với nhau dù có phải mất tất cả. Vốn là người bản lĩnh, Hương đã hành
động dũng cảm vì cô dám chịu trách nhiệm về nhân cách, cuộc đời của mình.
Hương đã chủ động tìm mọi cách bảo vệ và khẳng định tình yêu của mình. Mặc
dù tình yêu không thành, không lấy được người mình yêu nhưng Hương vẫn có
cách ứng xử đẹp, vẫn giữ được lương tâm và đạo đức của mình. Sau này dù cho
Sài đã có vợ con thì Hương vẫn dõi theo, quan tâm đến Sài bằng tình cảm chân
thành vừa thương yêu vừa xót xa. Đến khi vợ chồng Sài ly hôn, cơ hội cho hai
người có thể nối lại tình xưa nhưng Hương đã không làm như vậy. Trong mọi
việc cô luôn chứng tỏ là người biết suy nghĩ trước sau. Vì thế, kết thúc truyện
hai người không đến được với nhau có thể để lại sự nuối tiếc cho người đọc
nhưng đó là cách lựa chọn rất đúng đắn của con người thông minh, bản lĩnh, tự
khẳng định được mình. Như vậy bằng sự san sẻ tình yêu thương với mọi người,
Hương đã được đón nhận từ mọi người tình cảm chân thành, quý mến, nể phục.
Cũng vì thế, Hương trở thành một người yêu thuỷ chung, một người vợ đảm
đang, một người mẹ rất mực thương yêu con và một người phụ nữ đáng được
tôn trọng. Hương là hình ảnh của một con người sống có nhân cách, có bản
lĩnh, luôn trung thực, thẳng thắn rất đáng quý trọng. Giản dị, chân thành và
hiền dịu, trong bất kì hoàn cảnh nào cô gái ấy cũng sống theo những nguyên tắc
đạo đức mà mình cho là đúng đắn. Vì lẽ đó, cô đã gây được thiện cảm và để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Nếu Hương là người bản lĩnh để không bị vấp ngã hay mắc phải những
sai lầm trong tình yêu thì Châu lại là người có bản lĩnh để giết chết tình yêu.
Châu luôn chủ động để có được tình yêu cho mình. Là con gái Hà thành, lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sinh ra trong gia đình quyền quý nên dù có không xinh đẹp, thành đạt thì cô vẫn
có thể có được một tấm chồng, một gia đình và một vị thế xứng đáng huống chi
cô lại được sở hữu cả tài lẫn sắc. Vì thế, ta cũng không hề ngạc nhiên là trước
khi Châu yêu Sài thì cô đã có rất nhiều mối tình. Trong đó, mối tình sâu nặng
nhất là với Toàn – công nhân điện, đẹp trai, biết đánh đàn ghi ta và hát rất hay.
Đó chính là điều khiến Châu mê muội, liều lĩnh dấn thân cho dù biết Toàn đã
có vợ và hai con. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ
của mối tình đó và đưa cô đến với Sài. Bản lĩnh của Châu được thể hiện ở việc
Châu chủ động hẹn gặp Sài – một anh chàng nhà quê ngờ nghệch, dù rằng giờ
đây Sài đã là một giảng viên có bằng cấp, danh tiếng. Châu chủ động giãi bày
tâm sự với Sài về cuộc tình đau đớn, rồi chủ động luôn cả việc gửi gắm tấm
thân của mình cho Sài và giục giã Sài tổ chức đám cưới trước sự ngỡ ngàng,
bất ngờ của người thân, bạn bè và ngay cả Sài cũng “ cảm thấy hạnh phúc đến
với mình nó ào ạt, gấp rút... anh thấy như đang bơi mênh mang trong hạnh
phúc, trong niềm sung sướng đến ngạt thở” [33, tr. 270]. Liệu hạnh phúc ấy có
là thật không và anh chàng gốc nông dân quê mùa đó có xứng đáng với một nữ
trí thức thành thị? Lê Lựu đã cho ta câu trả lời ngay qua chi tiết: khi hai người
chưa cưới, Châu bị nghén, Sài mang đủ thứ thuốc đến cho cô nhưng đổi lại là
những lời nói cùng cử chỉ chứng tỏ hai con người này sẽ chẳng có hạnh phúc vì
sự vênh lệch quá lớn. Châu biết vậy mà vẫn cứ chọn Sài không phải để gửi gắm
tình yêu mà chính là chạy trốn khỏi nó, để hợp lí hoá cho đứa con trong bụng
cô đang ngày một lớn dần. Trong cuộc sống vợ chồng, Châu lặng lẽ thoắt vui
thoắt buồn, nhiều khi gắt gỏng, giận dỗi rất vô cớ. Trong khi đó, Sài lại rất cố
gắng cho khỏi “cọc cạch”. Song mọi cố gắng đều vô ích khi mà một người cứ
muốn xây mà người kia lại ra sức phá vì không theo ý mình. Và khi Sài “đầu
tắt mặt tối” lo toan mọi việc từ những việc nhỏ nhất chỉ dành cho phụ nữ như:
nấu cơm, rửa bát, quét nhà... để đỡ đần vợ, cũng mong để vợ có thể vừa lòng về
một người chồng nửa quê nửa tỉnh thì Châu lại tơ tưởng đến anh kĩ sư điện với
lòng oán hờn mà lại không thể dứt bỏ. Châu đã giấu chồng cho thằng con (thực
ra không phải là con của Sài) đến gặp bố đẻ của nó mà không hề nghĩ Sài sẽ
đau đớn như thế nào khi biết sự thật ấy. Châu vẫn hành động theo suy nghĩ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mình mà không biết rằng Sài đã nín nhịn quá nhiều, thậm chí lúc nào cũng thấy
hụt hơi vì phải chạy theo tâm tính của cô. Trong khi Sài về quê để lo việc ăn ở
cho con và liên hệ công việc thì Châu lại đến với Toàn. Rồi còn rất nhiều
chuyện khác tạo nên khoảng cách ngày càng sâu rộng đẩy hai người về hai
phía. Vì thế, cuộc hôn nhân ấy đổ vỡ là lẽ tất nhiên. Vốn là người bản lĩnh lại
có phần hơi ngang ngạnh Châu không dễ yếu lòng hay quỵ ngã như những phụ
nữ khác. Ngược lại, trong cô sự thách thức còn mạnh hơn cả sự nuối tiếc một
gia đình êm ấm. Bởi chưa nghĩ đến tình huống Sài chuẩn bị tất cả cho việc li
hôn, bằng lòng tin của mình, Châu đinh ninh Sài doạ cô nên “ không có chuyện
ấy” nếu người đề xướng không phải là cô. Đến khi toà có giấy gọi, cô mới ngớ
người ra, đỏ bừng mặt, xấu hổ với người xung quanh. Nhưng vẫn mỉm cười
như muốn nói với mọi người: “có một ông chồng hâm, động tí vác nhau ra toà
sung sướng thế đấy” [33, tr. 418]. Trước hôm ra toà hai ngày, cô còn ở trọn với
Toàn cả đêm. Không những vậy, khi toà xử li hôn cho Sài quyền nuôi thằng
Thuỳ, Châu đã không ngần ngại trả lời trước toà rằng: “ cháu Giang Minh Thuỳ
không phải là con của anh Sài”, cùng chứng cớ để khẳng định Sài không được
phép nuôi cháu Thuỳ. Trước những lời lẽ ấy, Sài như chết lặng người bởi anh
đã bao năm tin tưởng tuyệt đối ở cô. Cũng là con người có học, hiểu biết như
Hương nhưng Châu lại có cách ứng xử hoàn toàn khác. Vốn là một cô gái được
sinh ra trong một gia đình bề thế có chức quyền nên Châu không phải lo lắng
điều gì. Cuộc sống của cô là sự tìm kiếm của người khác. Vì thế, cô chỉ biết
hưởng thụ, chỉ biết nghĩ đến mình mà không hề nghĩ cho người khác. Hay nói
đúng hơn, Châu tự khẳng định mình bằng lòng ích kỷ. Tính ích kỷ của Châu
vốn có sẵn nhưng khi gắn kết với Sài thì nó càng có dịp bùng phát. Ban đầu
cuống cuồng yêu Châu, Sài chưa kịp nhận ra sự toan tính, ích kỷ của người
yêu. Chỉ vì muốn hợp pháp hoá đứa con của mình với người yêu cũ nên Châu
mới chủ động đến với Sài. Cô coi Sài như một cái cọc để cứu mình khỏi chết
đuối chứ thực chất cô không hề yêu Sài. Vì thế, trong thời gian ngắn ngủi
chuẩn bị đám cưới Châu đã thấy không hợp, hai nửa trái tim quá vênh lệch
nhau để có thể gắn kết. Châu dằn dỗi Sài vì những chuyện cỏn con, phiền toái,
xét nét, vụn vặt đến khó chịu. Trong mắt cô, Sài là người không biết cư xử lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sự theo đúng ý cô. Trong cuộc sống vợ chồng, Châu chỉ nghĩ tới bản thân, cô
luôn theo dõi xem chồng có làm đúng ý mình không. Lúc vừa ý thì Châu bằng
lòng vui vẻ, nũng nịu khiến không ai có đủ sức giận dỗi được nữa; còn khi
không vừa ý cô giận dữ, gắt gỏng rất vô cớ. Trong chừng ấy năm chung sống
chưa bao giờ cô dành chút ít thời gian để nghĩ đến chồng xem chồng muốn gì,
cần gì. Thật xót xa cho mong ước của Sài “ thèm cuộc sống của những nhà
xung quanh. Một đôi vợ chồng công nhân... lương hai người cộng lại chỉ bằng
lương của Sài mà họ sống rất vui vẻ tươi tỉnh. Chiều chiều chồng lai vợ ngồi
phía sau bế con... chồng bế con rong chơi hoặc sang hành xóm đánh cờ. Vợ
nấu nướng xong... mẹ con tắm giặt xong, sang mời anh về ăn cơm. Một kĩ sư
hoá chất, vợ thợ may... bao giờ chồng có khách cũng tự tay xách ấm đun nước,
pha trà rồi xin phép...”[33, tr. 353 - 354]. Châu chưa bao giờ làm được những
điều đó, ngược lại cô chỉ biết đòi hỏi, yêu cầu để thoả mãn lòng ích kỷ. Cô
không hề biết đến sự vất vả của Sài khi suốt ngày đêm anh quay cuồng với
công việc bếp núc, nhà cửa cho mẹ con đỡ vất vả, không lúc nào anh không
nghĩ đến việc chăm lo vợ con từng miếng ăn, giấc ngủ nhưng có hôm vì bận
việc cơ quan phải về muộn thì cô để phần anh “ một nồi cơm đóng chóc”, một
đĩa rau không ra đĩa rau, còn nước rau thì “ tưởng không về đổ cho lợn nó ăn
rồi”. Mà đây không phải là lần đầu cô đối xử với chồng như vậy cho nên Sài
không thể chịu đựng được nữa và quyết định ly hôn. Đó là kết quả của một con
người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình mà Lê Lựu muốn gửi đến bạn đọc.
Nếu Hương có đủ bản lĩnh để giữ vững một tình yêu, Châu đủ bản lĩnh
để giết chết một tình yêu thì Xanh Dương Lẫm Liệt trong Thời loạn lại có bản
lĩnh để tạo cho mình một cuộc sống không cần tình yêu. Một cô gái với cái tên
rất lạ lùng nhưng tác giả cũng giải thích ngay “ cái tên Xanh Dương Lẫm Liệt
hơi khó nghe nhưng có ý sau này cô sẽ trở thành người lẫm liệt nhất thiên hạ.
Quả thật có thế, giống như hiện giờ cô vừa làm chủ tịch hội đồng quản trị kiêm
Tổng giám đốc tập đoàn truyền thông dịch vụ doanh gia Việt Nam, lại là phó
thanh tra một cơ quan cấp vụ của một Bộ...” [34, tr. 6 ]. Quả đúng như cái tên,
ngay từ khi còn ấu thơ cô bé “ trắng mũm mĩm và lớn nhanh như thổi, nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngồi đâu cứ ì một chỗ, dứt khoát không cần theo ai, không cần chơi với ai. Cái
tính cao ngạo, bất cần của cô được hình thành như một thứ giời đã định sẵn...
đặc biệt là rất thông minh và nhớ rất dai...Cái cá tính độc đáo và sự thông
minh giời cho khiến cái gì Lẫm Liệt đã chơi là giỏi, kể từ đánh đáo, đánh
khăng, đánh cơ ca rô, tam cúc, tú lơ khơ, đánh bóng chuyền, tenis, đá bóng, đi
kheo. Lẫm Liệt thích cái gì là trở thành người đứng nhất nhì cái đó ngay…”
[34, tr. 18 – 20]. Vì thế cùng với bản lĩnh sẵn có và việc biết hớp lấy cơ hội,
Lẫm Liệt nhanh chóng lấy được tình yêu mến của mọi người. Cô trở thành một
học sinh xuất sắc, là cán bộ đoàn, là uỷ viên câu lạc bộ... cộng với vẻ bề ngoài
nghiêm túc, nói năng điềm tĩnh, dịu dàng và chan hoà với mọi người. Nhưng
càng đọc về cuối tác phẩm ta càng thấy Lẫm Liệt tự lột trần cái bản lĩnh của
con người bất chấp tất cả, không cần đến cả tình thương yêu để dành lấy chiến
tích trên con đường công danh sự nghiệp. Tự bản thân cô lên Hà Nội tìm kiếm
những mối quan hệ và không không khó khăn gì cô đã được thầy giúp đỡ ôn thi
với một bản hợp đồng được thoả thuận tại khách sạn “ việc thi đỗ của em là
việc của thầy, còn tình yêu của thầy là việc của em... Nhưng mà tình yêu của
thầy cũng chỉ dừng lại sau hai tháng [34, tr. 41- 42]. Khi đã đạt được mơ ước
bước chân vào trường đại học, tất cả những mối quan hệ đã tạo cho cô một
cuộc sống từng trải, kín đáo và những quỷ kế khôn lường cả trong học tập lẫn
chuyện yêu đương. Đọc tác phẩm, ta có thể thấy thực ra cô chẳng yêu ai, chỉ
cần anh nào thoả mãn cho mình việc gì đó là cô sẵn sàng đánh đổi trong một
môi trường thật an toàn và kín đáo: “ đêm ngủ với vài anh lái buôn, vài anh
sinh viên hoặc một thầy giáo nào đó, sáng ra vẫn là người nghiêm túc, đúng
đắn, mẫu mực” [34, tr. 42]. Quả thật, bản lĩnh của cô thật đáng ghê sợ! Nhưng
chưa hết, đọc phần “ Cưới hụt” ta mới thấy hết tính cách của cô gái đầy bản
lĩnh này. Cô làm quen với Thanh Vịnh – giám đốc trung tâm Luật và tình yêu
đến thật chóng vánh giữa “một anh cáo già Vịnh đã từng ăn ở với hàng chục cô
gái lại gặp một cô gái đã từng ăn ở với đàn ông gấp mấy lần số lượng của
anh” [34, tr. 47]. Lẫm Liệt đồng ý lấy Vịnh không phải vì tình yêu mà vì cái
thai trong bụng cô nhưng không phải của Vịnh và Vịnh giúp cô thắng vụ kiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
gần tỷ bạc. Đám cưới của cô đã được chuẩn bị sẵn sàng thì “ đột nhiên phiên
toà xử nhà cô thua kiện... lập tức cô có phương án khác ngay”. Tối hôm trước
ngày cưới, cô đã nói với chồng chưa cưới rằng: “Đứa con trong bụng của tôi
không phải là con của anh” [34, tr. 54]. Thế là nhà trai tuyên bố không có đám
cưới mặc cho nhà gái vẫn tấp nập người ra vào ăn uống ăn uống sôi nổi, linh
đình và Lẫm Liệt vẫn mặc áo cô dâu... “đến ba giờ sáng thì ô tô con của người
yêu cũ đến đón, Lẫm Liệt lặng lẽ lên xe đi với người yêu, cả nhà không hay biết
gì ngoài mẹ đẻ của cô... Sáng hôm sau lại nhạc... đến giờ đón dâu, bỗng nhiên
loa thông báo với mọi người rằng không may chú rể bị tai nạn phải đi cấp
cứu... vợ cháu phải đến chăm lo” [34, tr. 55- 56]. Có ai mà không thông cảm,
thương xót cho sự không may ấy? Trong khi đó, người yêu cũ và Lẫm Liệt tìm
mọi cách “ giải quyết xong cái thai đã quá lớn” rồi trở về thông báo với mọi
người chú rể vẫn đau chưa về được. Cái kịch bản cô dàn dựng lên nó hoàn hảo
đến mức không hề có sự dị nghị bàn tán gì. Và thế là, cô lại thành người
nghiêm túc, đứng đắn đi thi cao học của ba trường đại học đều đỗ mặc dù cô
chẳng phải bài vở gì hết. Rồi một năm học bốn trường đại học và làm ở ba cơ
quan mà cứ nhẹ như tơ hồng khiến tác giả phải khẳng định “cả thế giới duy
nhất chỉ có mình cô”. Nhưng có ai biết đó là kết quả mà cô quan hệ với ông
giáo sư, phó giáo sư. Cứ thế con đường công danh của cô cứ leo thang vun vút.
Là tiến sĩ, làm tổng giám đốc tập đoàn kinh doanh, cô lại càng ước vọng kiếm
thật nhiều tiền bằng hai thứ sẵn có là tình ái cộng với sự thông minh để lừa lọc
hàng chục công ty, cá nhân với hàng chục tỉ đồng, lừa gạt các đại gia một cách
dễ dàng, đi công tác nước ngoài như đi chợ. Như vậy, ta có thể thấy từ lúc ấu
thơ cho đến khi trở thành tỉ phú, Lẫm Liệt chẳng cần tình yêu thương sự giúp
đỡ của bố mẹ, anh chị em hay bất cứ ai. Cái thành quả cô có được đều do “vốn
tự có” mà cô biết cách khai thác nó mà thôi. Nên cũng dễ hiểu vì sao trong
cuộc sống, sự nghiệp của cô lại thiếu vắng bóng dáng những người thân. Liệu
có người con gái nào bản lĩnh hơn cô? Bên cạnh bản lĩnh ấy, ta còn thấy được ở
Lẫm Liệt – một con người luôn vươn lên khẳng định mình bằng sự tham vọng.
Tất nhiên tham vọng cũng có hai mặt của nó, có những tham vọng để đạt mục
đích chân chính, phù hợp với chuẩn mực đạo đức thì rất đáng khâm phục; còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngược lại thì thật đáng phê phán, lên án. Lẫm Liệt là một phụ nữ thông minh,
cá tính, nhanh nhạy nhưng đầy tham vọng. Điều đáng nói ở đây là sự tham
vọng ở cô đã đi quá ngưỡng của giới hạn. Cũng là mơ ước được cho và nhận
trong tình yêu nhưng cô lại không chọn và xây đắp cho mình một tình yêu thuỷ
chung bền vững mà lại thể hiện lòng ham muốn nhục dục ở tất cả đàn ông
không trừ già trẻ, sang hèn, cao thấp chỉ cần cô thích và để đạt được địa vị của
mình là được. Cũng là người có chí tiến thủ muốn thành đạt trên con đường
công danh sự nghiệp nhưng cô lại không nỗ lực, kiên trì bằng sự thông minh
vốn có mà lại tìm mọi cách mánh khoé, thậm chí đánh đổi cả thân xác để có
được điều đó. Cũng là người mong ước có nhiều tiền với một cuộc sống giàu
sang nhưng cô không tự kiếm bằng những nỗ lực của bản thân mà lại chỉ biết
hưởng thụ bằng mồ hôi, công sức của người khác. Lòng tham vọng của Lẫm
Liệt không thể lấy gì để đo được. Vì quá tham vọng cô sẵn sàng đánh đổi cả
thân xác, bất chấp tất cả: tình nghĩa, luật pháp, cả luân thường đạo lí để vươn
lên trong cuộc sống. Thế nhưng càng vươn lên cô càng không thấy điểm dừng
của mình. Sự khẳng định mình bằng sự tham vọng ấy đã dẫn đến kết cục cô đã
tự đánh mất chính mình. Đó chính là bi kịch của con người đã đặt của cải vật
chất lên trên tất cả, đã để lòng tham vọng của mình vượt lên quá giới hạn.
* * *
Đến đây, ta có thể thấy trong tiểu thuyết Lê Lựu thì kỳ đổi mới nhân vật
nữ rất đa dạng. Bên cạnh những người phụ nữ hiền lành, cam chịu mọi khổ đau
lại là những nhân vật nữ thông minh, giàu bản lĩnh, luôn vươn lên để tự khẳng
định mình trước cuộc sống nhiều bộn bề, phức tạp.
2.3.3. Nhân vật nữ tha hoá
Phụ nữ Việt Nam từ xa xưa đã được biết đến với bao điều tốt đẹp. Ở họ
luôn tiềm ẩn những phẩm chất cao đẹp “ công, dung, ngôn, hạnh”. Trong thời
kì chiến tranh, phụ nữ Việt Nam lại càng phát huy cao độ những phẩm chất tốt
đẹp của mình – “ phụ nữ Việt Nam giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Tên tuổi của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
họ còn vang mãi trong lịch sử dân tộc như: chị Võ Thị Sáu, chị Nguyễn Thị
Minh Khai, chị Nguyễn Thị Út…Thế nhưng, trong thời đại ngày nay khi nền
kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển thì sự xuống cấp, suy đồi về đạo
đức của con người lại gia tăng, trong đó có người phụ nữ. Điều đó đã được nhà
văn Lê Lựu cảm nhận sâu sắc và đưa vào các tác phẩm của mình. Ở đó, xuất
hiện nhiều nhân vật nữ luôn tìm cách để thoả mãn những dục vọng của bản
thân mà bất chấp tất cả.
Trong nhiều tiểu thuyết của Lê Lựu, ta bắt gặp hình ảnh những nhân vật
nữ đã đánh mất bản chất tốt đẹp của chính mình để chạy theo lối sống xô bồ
thời hiện đại. Quay trở lại với Chuyện làng cuội, ta thấy được lối sống buông
thả cùng sự giả dối của nhân vật Xuyến. Khi Hiếu đi họp không có nhà, cô đã
ăn nằm với tên đội Lăng ngay tại nhà mình. Điều đó khiến anh vô cùng bất ngờ
và đau đớn “ Anh thẫn thờ đi lại sát cửa đưa tay rờ rờ xem các then chỉ gài sơ
sài hay khoá cẩn thận. Bỗng anh rụt tay lại. Tiếng vợ anh rên rẩm phía trong:
Ôi ôi, ối đội ơi em chết mất!... không sao đâu, cứ cho em một chút nữa đi. Nữa
đi. Nữa đi anh đội.” [29, tr. 246]. Khi biết được điều đó, Hiếu tưởng mình như
bị nghẹt thở và đành im lặng rồi tìm cách chạy trốn. Không chỉ dừng lại ở đó,
Xuyến còn nghe theo lời của bọn đội lăng để vu oan cho đồng chí Kiêm - vốn
là cha dượng của chồng trong đêm xử phạt ở sân đình làng, đó là Kiêm đã cướp
đi đời con gái của chị. Cô đã làm một việc trái với đạo đức của một người con
khiến ai cũng phải phẫn nộ“ cả làng sôi sục chạy đuổi “ nhét cứt vào mồm con
Xuyến” khiến con bé xanh xám mặt mũi, cắt không còn hột máu” [29, tr.267].
Ngay bản thân Hiếu cũng không ngờ tới, anh đã biết được mọi việc cô làm nên
đã dắt cô đến trước mặt mẹ mình và nói ra tất cả tội lỗi của cô, cả việc cô đã
từng ăn nằm với tên đội Lăng tại nhà rồi việc “ ngay đêm hôm sau. Bắn oan bố
tôi xong…lúc về cô và thằng Lăng đi đến ngã ba đầm Cuội …chính cô kéo tay
thằng Lăng đi vào đầm rúi đầu nó xuống bảo: “ Anh cho em đi”. Thằng Lăng
bế cô đặt nằm trên cỏ bảo: Từ nay ta “chuyển bước” ra bờ đầm…” [29, tr.
269]. Đọc những trang văn ấy, người đọc thấy được sự tha hoá của Xuyến. Để
thoả mãn dục vọng của bản thân mà cô đã chà đạp lên nhân phẩm của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Cũng trong Chuyện làng cuội, ta bắt gặp hình ảnh của Hiền – người vợ thứ hai
của Hiếu. Bản chất của cô được bộc lộ rõ qua cách cư xử cùng những lời nói
của cô với chồng và mẹ chồng. Ngay cả việc cô và Hiếu lấy nhau cũng rất
nhanh chóng, bất chấp sự ngăn cấm của mẹ cô “ chỉ bốn tháng sau khi “ thủ
trưởng quan tâm” thì Hiền đã có mang và bắt anh phải cưới” [29, tr. 386]. Khi
sinh con, bà Đất đã phải ra bế con cho vợ chồng cô nhưng ở cương vị là một
người con dâu cô lại có những lời nói vô đạo đức với mẹ chồng “ tôi nói, tôi
đ.cần thằng nào con nào đến đây. Vừa tốn cơm, tốn của, vừa mang tiếng ác
vào thân” [29, tr. 384]. Biết được con dâu không thích bà ở lại, bà Đất vô cùng
đau buồn và đã có ý định về quê. Thế nhưng, khi bạn của Hiếu đến chơi thì bản
chất giả dối của Hiền lại càng được bộc lộ rõ khi cô nói: “Em xin báo cáo thật
với các anh, bao nhiêu đêm em nói như van lạy cụ: Cháu nó cứng cáp đi nhà
trẻ được rồi nhưng bà cứ ở lại đây với chúng con, với cháu. Cả đời cụ vất vả
rồi bây giờ được lúc con cháu nó chăm sóc, trông nom, tại sao cụ lại cứ khăng
khăng đòi về. Nhưng không tài nào lay chuyển được cụ. Chúng em đành chịu.
Mà thật lòng để cụ em về chúng em không thể nào yên tâm được” [29, tr. 388].
Không chỉ vậy, trong cuộc sống vợ chồng, Hiền đã đánh mất bản chất tốt đẹp
của người phụ nữ Việt Nam đó là sự thuỷ chung với chồng để chạy theo những
cuộc tình vụng trộm. Trước tiên, là cuộc tình của cô với Võ, đến khi bị chồng
bắt gặp cô vẫn một mực chối cãi. Hay trong mối quan hệ vụng trộm với Phiên
mà “ đã có lần qua cánh cửa khép vội anh bắt gặp Phiên ghì diệt lấy vợ anh ở
trong phòng làm việc. Khi anh gõ cửa bước vào, hai người mới chỉ kịp buông
tay ra, hai cơ thể cứng đờ đang sát lại và vành môi cô ấy còn hằn vệt răng đỏ
lựng…” [29, tr. 428]. Đỉnh điểm của sự tha hoá ở cô là khi chồng đi vắng, cô
đã đưa người tình về nhà ăn nằm với nhau mà không hề để ý gì đến sự có mặt
của mẹ chồng “ khoảng 10 giờ…nghe tiếng gõ cửa bà định ngồi dậy, chị ấy đã
bật đèn ra mở. Thấy hai người ngoài hiên thì thào cái gì đấy nên bà nằm yên.
Chừng nửa giờ. Hai người lặng lẽ vào nhà, đóng cửa, tắt đèn. Rồi tiếng chiếu
xô, giát giường chuyển răng rắc rồi tiếng thì thào của chị ấy” [29, tr. 458].
Đến đây, sự tha hoá trong con người cô đã bộc lộ rõ, cô đã chạy theo những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ham muốn dục vọng của bản thân mà đánh mất chính mình.
Đến với Hai nhà, sự tha hoá của nhân vật nữ được Lê Lựu thể hiện rõ
nét hơn qua hai nhân vật bà Nhân và Linh Anh. Nhân vật tự đánh mất chính
mình để chạy theo lối sống hiện đại, để thoã mãn dục vọng của bản thân cứ
hiện dần lên qua trang sách. Mở đầu tác phẩm, người đọc ấn tượng với cảnh hai
gia đình trí thức nhìn bề ngoài rất hạnh phúc nhưng thực chất bên trong lại tiềm
ẩn những nguy cơ của sự tan vỡ hạnh phúc. Càng đọc về cuối tác phẩm, ta càng
thấy được bản chất thật của hai nhân vật nữ này. Qua lời của chị tem phiếu tên
là Háo, Tâm đã phần nào hiểu thêm về bà Nhân “người đã xấu nết còn xấu gấp
trăm lần. Lẳng lơ, đĩ thoã từ năm 14, 15 đến khi lấy chồng, chồng đi vắng ở
nhà “ễnh” ra với thủ trưởng, may lừa được ông Địa ngốc nghếch” [32, tr. 65].
Vì thế mà người đọc không hề ngạc nhiên khi bà “ nhân tình với cả bố nuôi 70
tuổi, với cả em nuôi kém bà ấy hai chục tuổi. Thằng nào có tiền, có quyền, có
sức làm tình như trâu chọi là ngả ra cân tất…Ai cũng biết những đứa con của
bà ấy, bác Địa chỉ là anh “tráng men” không hơn không kém” [32, tr. 41]. Khi
nghe những lời ấy từ chị tem phiếu, Tâm thấy “gai hết cả người”. Chưa hết, có
lần bà còn “tuyên bố trước mặt hàng chục đứa con trai trong khu tập thể…:
“thằng đàn ông nào u muốn u cũng “tiêu diệt” ngay tại trận” [32, tr. 115].
Đọc những trang văn ấy, người đọc có thể cảm nhận được lối sống buông thả,
sự tha hoá của bà Nhân trước cuộc sống hiện đại đầy phức tạp. Lật từng trang
sách, bản chất thật của nhân vật càng được bộc lộ rõ. Vốn là người phụ nữ có
tính lẳng lơ từ thưở bé nên khi có gia đình thì việc ngoại tình của bà cũng
không khiến người đọc phải ngạc nhiên “đêm hôm kia bà ấy đi trực ở cơ quan,
mang thằng mặt búng ra sữa, vẫn u u con con đi trực cùng, rồi hai u con cởi
hết quần áo nằm lên nhau…U quằn quại kêu: “ Anh ơi, em sung sướng quá”
[32, tr.62- 63]. Đến đây, sự tha hoá của nhân vật đã được thể hiện đầy đủ, rõ
nét. Vì lối sống buông thả, chạy theo những dục vọng của bản thân mà bà Nhân
đã đánh mất đi bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cũng trong Hai
nhà, sự tha hoá của nhân vật Linh Anh còn được tác giả thể hiện rõ nét hơn. Ở
phần đầu của truyện, người đọc ấn tượng về cô với “ đôi mắt song sánh” và “
hai mi mắt dài, đen, ẩm ướt…cái lúm đồng tiền ở má bên trái…” [32, tr. 100].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Đó là vẻ đẹp trời cho nhưng lại là thứ vũ khí để cô có thể làm “tan nát rụng rời
bất cứ kẻ nào mon men đến trêu đùa, tán tỉnh”. Càng về cuối tác phẩm, sự tha
hoá ở cô càng thể hiện rõ nét. Những lời nói của cô trước khi về làm vợ Tâm đã
thể hiện sự giả dối của chính cô mà sau này Tâm mới biết: “ Ở nhà thằng mất
dạy ấy 21 ngày nhưng cô toàn ngủ với mẹ nó. Trước ngày đi đăng kí cô nghĩ
đến mai chính thức thành vợ chồng rồi nên mới “chiều” để nó trở thành người
đầu tiên phá đi sự trinh trắng của cô” [32, tr. 102]. Thế nhưng, thực chất lúc
này cô đã về nhà “thằng phó tiến sĩ ở Tây” mấy tháng rồi, vác cái bụng chửa
hơn hai tháng rồi. Vì thế, gặp Tâm cô như người “chết đuối vớ được cọc” và
hai người đã nhanh chóng trở thành vợ chồng. Ở với nhau gần chục năm trời
mà Tâm cũng chưa thể hiểu hết được vợ mình là người thế nào. Qua lời kể của
ông chú rể của vợ, Tâm mới biết được bản chất thật của vợ mình: “ Anh có ngờ
rằng ở ngay tại nhà tôi đây, nó với thằng lái xe tải ăn ngủ với nhau giữa ban
ngày ban mặt, không? Nó vội đến nỗi không kịp cài cửa, tôi ở cơ quan về ẩy
cửa vào, thấy hai đứa đang quằn quại rên xiết…” rồi “ ba lần vác cháu đi phá
thai” [32, tr. 102]. Chưa dừng lại ở đó, đến khi đã trở thành vợ của Tâm cô vẫn
chạy theo những cuộc tình vụng trộm để thoả mãn dục vọng của chính mình.
Mọi việc nhà, cô đều giao phó cho chồng còn cô “ thường đi ngủ với giai trong
giờ làm ở cơ quan. Có khi đi suốt “tám giờ vàng ngọc” [32, tr. 52]. Không
những vậy, đỉnh điểm của sự tha hoá trong con người cô được thể hiện ở cuối
tác phẩm. Khi Tâm đi công tác xa nhà, cô đã không làm chủ được bản thân,
đánh mất chính mình khi ăn nằm với bác Địa và dẫn đến cái chết thương tâm
của bé Hồng. Đến đây, bản chất thật của cô đã được lộ rõ.
Trở lại với Thời loạn, ta lại bắt gặp hình ảnh người phụ nữ bị cuốn vào
guồng quay rối loạn của cuộc sống nên không làm chủ được mình qua nhân vật
Xanh Dương Lẫm Liệt. Trước hết là trong tình yêu, chính xác hơn là trong
quan hệ nam nữ. Cô đã tự đánh mất tuổi thơ của mình ngay từ khi mười hai,
mười ba tuổi. Để rồi mới hơn chục tuổi đầu cô đã có thành tích “tiêu diệt” đàn
ông. Vì thế, bản thân cô cũng không nhớ nổi có bao nhiêu người đàn ông đã đi
qua đời mình. Cô dùng “vốn tự có” của mình để đạt được địa vị, danh vọng. Vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thế, ta không hề ngạc nhiên khi cô cùng một lúc ăn ở với hai anh em Mai Hu và
Mai Kỳ “cô gặp gỡ, ăn ở với ông anh Mai Hu sau đó lại ở với ông em ruột là
Mai Kỳ. Ngược lại với ông em xong lại ở với ông anh… Cái tình yêu của cô đối
với hai anh em ruột và thỉnh thoảng đối với người em thứ ba của gia đình họ
Mai” [34, tr. 6 - 7]. Rồi nhiều mối quan hệ của cô với thầy, với cả giáo
sư…Không những vậy, trong tình cảm gia đình cô còn là đứa con có văn hoá
mà xử sự lại vô văn hoá, vô đạo đức với chính người bố ruột của mình. Thật
ghê tởm cái cảnh Lẫm Liệt ngủ với ông giáo sư ở nhà mình, bị bố mẹ và em
trai bắt gặp cô không hề xấu hổ mà còn trơ trẽn “bình thản mặc quần áo…quát
giáo sư : “Mặc quần áo tử tế vào. Bình tĩnh, việc gì mà phải run như cầy sấy
thế” [34, tr. 68]. Một sự lăng loàn không thể chấp nhận nổi của đứa con có
nhiều tiền của danh vọng mà không có lương tâm. Đến đoạn kết của tác phẩm,
ta mới thấy hết được bản chất thật của Lẫm Liệt qua dòng thư: “Bố mẹ còn ở
với nhau không nếu không bảo ông ấy cút về quê mà ở, đừng có sống ở nơi phố
xá làm xấu cả mọi người. Nếu không mẹ bảo ông ấy tự uống một liều thuốc độc
mà chết đi để đừng dây bẩn đến người khác” [34, tr. 128]. Qua những dòng
chữ ấy, người đọc đã thấy được sự bất hiếu, tha hoá của Lẫm Liệt. Chính cô là
nguyên nhân gây ra cái chết thương tâm trong vũng bùn ở một góc bờ ruộng
của cha cô. Vì sự tham vọng, cô bất chấp tất cả - cả luân thường đạo lí, cả nhân
phẩm của chính mình.
* * *
Tóm lại, nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kì đổi mới
hiện lên thật đa dạng, sinh động. Từ những người phụ nữ hiền lành, luôn
nhẫn nhục, cam chịu số phận đầy đau khổ bi thương; đến những người phụ
nữ thông minh, bản lĩnh và tiếp đến là những nhân vật nữ tha hoá luôn chạy
theo lối sống xô bồ thời hiện đại dể thoả mãn dục vọng của mình. Ở họ,
mỗi người có một cách sống, cách suy nghĩ riêng. Tuy vậy, họ gặp nhau ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những bi kịch không giống nhau.
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
3.1. Nghệ thuật tổ chức tình huống
Nói đến cốt truyện, không thể không xem xét tình huống truyện. Tình
huống giúp cho những gì còn lại trong hình thức chưa phát triển nay bộc lộ và
hoạt động tích cực, là bước trung gian chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái
động. Tình huống chính là những sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn
sáng tạo theo lối lạ hoá. Đó là môi trường, hoàn cảnh để nhân vật xuất hiện,
tính cách phát triển và dụng ý nhà văn được bộc lộ sắc nét. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu từng cho rằng: “Tình huống truyện là lát cắt, là khúc cua đời sống
nhưng qua đó ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”. Vì thế, mỗi nhà văn
đều cố gắng tạo cho mình một tình huống đặc biệt khác nhau nhằm tạo nên sức
hấp dẫn cho những câu chuyện của mình.
Tiểu thuyết của Lê Lựu hấp dẫn người đọc ở sự dồn đẩy tình huống
truyện, khi thì kéo căng khi lại nhẩn nha kích thích xúc cảm yêu ghét của độc
giả. Đến với Thời xa vắng, người đọc thấy được những xung đột liên tiếp giữa
khát vọng của cá nhân với ý chí của số đông thông qua những mâu thuẫn dai
dẳng trải dài suốt một đời người. Nhiều tình huống bất ngờ và kịch tính, chẳng
hạn khi chuyện tình yêu của Sài và Hương bị phát hiện, ông chú của Sài chỉ
bằng một thao tác nhà nghề đã lật ngược tình thế, vô hiệu hoá mọi lời đồn thổi.
Hay tình huống Tuyết háo hức sung sướng lên đơn vị chồng để mong được một
chút hạnh phúc sau bao ngày mòn mỏi, chờ đợi thì thái độ, hành động của Sài
như một gáo nước lạnh hắt vào mặt Tuyết khiến hụt hẫng, tủi hờn và ra về
trong buồn rầu, cay đắng mà không dám bày tỏ cùng ai. Nút thắt của câu
chuyện được đẩy đến cao độ khi Sài cố “yêu vợ” để được kết nạp Đảng nhưng
cuối cùng không được kết nạp vì lí lịch gia đình vợ có vấn đề. Trong Thời xa
vắng, người đọc bắt gặp tình huống giàu kịch tính khi Sài đưa đơn li hôn, Châu
kí ngay vì tưởng Sài chỉ doạ cô, không ngờ sự thật lại bi đát hơn cô tưởng bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sự nhận thức trong Sài đã thay đổi... Thông qua những tình huống ấy, người
đọc thấy rõ tính cách của nhân vật cũng như bức tranh xã hội của một thời
đã qua.
Lật lại những trang viết trong Chuyện làng cuội, ta lại thấy cuộc đời đau
đớn, tủi nhục của bà Đất được vén lên dần qua những tình huống đầy bi kịch.
Chẳng hạn như bắt đầu cho quãng đời bất hạnh của bà Đất là sự lừa lọc của lão
tổng Lỡi để rồi cô phải một mình đến nơi rừng rú ẩn náu sinh con. Trải qua
mười năm bươn trải, bà tìm về quê hương trong sự ngạc nhiên, mừng rỡ của
mọi người. Những tưởng yên thân nhưng tác giả lại đặt số phận của bà liên tiếp
vào những tình huống đầy bi kịch để làm nổi bật tính cách cũng như phẩm chất
của người phụ nữ ấy. Ai đã từng đọc tác phẩm sẽ không thể quên được tình
huống bà Đất có con với chồng mà phải tự nhận là chửa hoang để dân làng bêu
riếu, sỉ nhục. Trong nỗi đau không nói lên lời đó, bà phải nuốt nước mắt vào
trong, cắn răng chịu đựng. Một sự chịu đựng bỏ qua cả nhân phẩm và danh dự
của chính bản thân mình. Hay tình huống bà Đất bị mất cả hai đứa con trai –
một sự mất mát lớn lao không gì đo đếm được. Rất nhiều tình huống mà bà Đất
phải trải qua cứ dồn dập, liên tiếp và đẩy lên đến đỉnh điểm là tình huống người
mẹ đã hi sinh tất cả vì con, nhất là Hiếu. Vì sự nghiệp của con, bà sẵn sàng để
con tách khỏi mẹ đẻ, hạ thành phần để tiếp tục công tác. Dù đơn độc, tủi hổ
nhưng bà cũng mừng cho con. Biết chồng bị oan sẽ được tha nếu bà nói rõ
nguồn gốc của thằng Hiếu, song người mẹ rất mực thương con ấy đã hi sinh
hạnh phúc của mình cho hạnh phúc của con dù có phải đau đớn, day dứt vì phải
chọn giữa con và chồng. Mọi việc làm của bà đều theo mong muốn của Hiếu để
anh trở thành vị lãnh đạo nổi tiếng của huyện, của tỉnh. Thế nhưng, Hiếu lại
báo hiếu mẹ bằng cách luôn đay nghiến mẹ vì tha thứ cho tội lỗi của vợ mình,
anh còn buộc bà phải gây mâu thuẫn với vợ để có cớ li hôn. Và cuối cùng cũng
chính vì Hiếu mà bà đã phải tìm đến cái chết đầy ai oán thương tâm. Phải
chăng đó là hình ảnh người phụ nữ suốt đời không được sống cho mình, không
được là mình. Tất cả điều đó toát lên tính cách của một người phụ nữ hiền lành,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhẫn nhục, cuộc sống chất chồng những bất hạnh.
Đến với Thời loạn, ta thấy nhân vật cũng được đặt vào những tình huống
đầy bất ngờ. Đó là cảnh một cô bé mới lớn đã từng trải qua chuyện của người
lớn mà trước một người đàn ông từng trải vẫn giả vờ ngây ngô để người đọc
nhận ra chân tướng lừa lọc của Lẫm Liệt ngay từ bước đường đời đầu tiên ấy.
Không những vậy, tác giả còn đặt cô vào tình huống cùng một lúc yêu cả hai
anh em Mai Hu, Mai Kỳ mà vẫn êm xuôi. Đỉnh điểm cho sự mất nhân cách ấy
là cảnh cô cùng ông giáo sư đang làm tình bị bố bắt gặp thì ngay lập tức cô sỉ
vả bố như chính ông là người có tội. Để kết thúc cho hàng chuỗi những lấm
lem nhân phẩm của cô là cảnh vào lúc cả làng nô nức “ đi dự khai trương một
nhà máy lớn có vốn hàng chục tỷ đô la do bà Lẫm Liệt - Việt Kiều liên doanh
vốn nước ngoài về làm chủ tịch hội đồng quản trị” [34, tr. 130] thì ông bố kêu
to “ nó là con lừa đảo đấy, con dâm ô đấy…” rồi ngã gục xuống dưới đám bùn
để không bao giờ phải nhìn thấy đứa con gái mà ông vừa yêu thương vừa sợ hãi
ấy nữa. Qua tình huống này, người đọc có thể thấy được sự bất hiếu, vô đạo
đức, mất nhân phẩm của Lẫm Liệt.
Trong Sóng ở đáy sông, Lê Lựu cũng đặt nhân vật của mình trong những
tình huống đầy thử thách. Chẳng hạn, mẹ của Núi khi đã lọt vào “mắt xanh”
của ông chủ khi bà cả đang ở cữ. Tưởng rằng được làm vợ một ông chủ nhà
giàu lại có quyền thế thì cuộc đời bà sẽ đổi khác. Thế nhưng làm vợ ông mà cả
mấy mẹ con bà lại bị phân biệt đối xử, bị khinh miệt, ăn ở tách biệt với các con
của bà cả. Hay nhân vật Hiền cũng vậy, vốn là cô gái thôn quê hiền lành khi
đem lòng yêu Núi và biết mình có thai thì cả cô và Núi đều quyết tâm sẽ cưới
nhau. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu vì cả hai đều chưa đủ tuổi để đăng kí kết
hôn, đau lòng hơn khi cô biết sự thật là giữa cô và Núi có quan hệ họ hàng và
mình là cô của Núi. Không chịu được tiếng tăm, dư luận cô đã phải tìm đến
một vùng đất xa lạ để sinh sống rồi quyết định làm vợ một người đàn ông ở đó
để mong cho đứa con có cha nhưng cuộc sống cũng không được hạnh phúc. Họ
chính là những người phụ nữ hiền lành, cam chịu nhưng lại gặp nhiều bất công,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
oan trái.
Những tình huống bất ngờ, giàu kịch tính cũng được Lê Lựu thể hiện khá rõ
nét trong Hai nhà. Có thể kể đến tình huống khi Linh Anh vẫn ngày ngày qua
lại, ăn ngủ với Thiệt trong giờ hành chính của các ngày khi cô đi làm thì cô
được biết đến tin là bà Nhân ngủ với Thiệt bị bắt quả tang và cô đã đem dao và
axit định giết bà Nhân nhưng mọi người đã can ngăn kịp thời, rồi cả hai người
đều bị bắt vào đồn cảnh sát. Tưởng rằng sau đó họ sẽ trở thành kẻ thù không
đội trời chung nữa nhưng khi trở về nhà cả hai lại là những người hàng xóm
láng giềng của nhau. Hay tình huống gây bất ngờ khi Tâm phải đi công tác vào
Sài Gòn trong một thời gian dài và nhờ bác Địa – người hàng xóm thân thiết
nhất ở nhà giúp đỡ vợ mình. Nhưng điều anh không thể ngờ tới và chưa bao giờ
nghĩ tới là vợ mình lại ngủ với bác Địa để bị mẹ con bà Nhân đánh ghen nên đã
dẫn đến cái chết thương tâm của cháu Hồng. Đến khi nghe tin cháu Hồng mất,
Tâm trở về và được một người bạn kể cho nghe nên mới biết được mọi
chuyện… Như vậy, ta có thể thấy cả Linh Anh và bà Nhân đều là những người
phụ nữ đang trượt dài trên quãng đường tha hoá thời hiện đại.
Đặt nhân vật vào trong các tính huống cụ thể, kịch tính ấy, nhà văn giúp
người đọc hình dung rõ hơn về bản chất từng con người trong mỗi tác phẩm, ở
mỗi hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời, tác giả còn cho người đọc thấy được một
cái nhìn vừa khách quan vừa sâu sắc về người phụ nữ trong xã hội xưa và nay.
3.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Ngoại hình là một trong những yếu tố đầu tiên giúp bạn đọc tiếp cận với
thế giới nhân vật của tác phẩm. “ Ngoại hình là một khái niệm để chỉ hình
dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ, tác phong… Tóm lại, là toàn bộ những
biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của nhân vật” [10, tr. 134]. Nhà văn có
thể khắc hoạ ngoại hình nhân vật thông qua ngôn ngữ người kể chuyện hoặc
gián tiếp khắc hoạ qua ngôn ngữ hoặc cái nhìn của nhân vật khác trong tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phẩm. Điều đó làm đa dạng phong phú cách thức miêu tả ngoại hình nhân vật
của các nhà văn trong tác phẩm văn học. Thông qua diện mạo bên ngoài, người
đọc dễ dàng nhận biết được phần nào về tính cách, thành phần xuất thân và số
phận nhân vật. Chỉ với vài nét đơn sơ qua ngôn ngữ, tác giả đã khắc hoạ nên
các chân dung nhân vật khác nhau ở mỗi tác phẩm. Đây là hình ảnh một nữ
sinh tên Hương qua sự ngưỡng mộ của Sài – anh chàng quê mùa làng Hạ Vị
trong Thời xa vắng: “ Cái gáy nõn nà của cô do hai hàng tóc rẽ ra cặp gọn
ghẽ thành hai mảng đen mướt trùm xuống hai bờ vai” [33, tr.60]. Chỉ thế thôi,
người đọc đã hình dung ra một nữ sinh xinh đẹp, duyên dáng khiến bao chàng
trai mê mẩn. Cách xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình không phải
là mới. Thủ pháp này được thể hiện khá rõ nét từ thời kì văn học trung đại
nhưng có nét khác biệt. Nếu như văn học trung đại miêu tả ngoại hình nhân vật
qua những chi tiết mang tính ước lệ tượng trưng thì trong tiểu thuyết hiện đại
nói chung và tiểu thuyết Lê Lựu nói riêng lại hoàn toàn khác biệt. Các chi tiết
bình thường nhỏ nhặt làm nên hình hài và tính cách nhân vật được nhà văn chú
trọng. Nhân vật được nhà văn miêu tả từ những chi tiết rất nhỏ qua: mái tóc, nụ
cười, ánh mắt, trang phục… Người đọc sẽ không thể quên được hình ảnh của
Tuyết trong Thời xa vắng qua chi tiết : “ Người ngoài khen cô Tuyết càng lớn
càng xinh ra, mặt mũi cứ tròn vành vạnh như mặt trăng…khoẻ mạnh, chắc
chắn, làm ăn đâu ra đấy…hiếm người hiền lành như cô Tuyết…” [33, tr. 50].
Đọc những trang văn ấy, người đọc có thể hình dung ra một người phụ nữ đâu
đến nỗi lại chăm chỉ. Thế mà lại bị chồng chê, cả đời không được hưởng hạnh
phúc của một người vợ. Hay khi Tuyết đi thăm chồng tác giả lại tái hiện chân
dung một cô gái nhà quê làng Hạ Vị với “một cái áo sơ mi nõn chuối, một cái
áo lót đông xuân màu hồng mặc phía trong”. Tiếp đến là “đầu chải bê xăng tin
nhếnh nháng lật ngược và được đè ập xuống bởi vòng khăn vấn bằng vải toan
nhuộm màu nâu non còn mới trông nó chặt chằng như một cái đai. Chiếc quần
súng sính dài quét gót nhưng lại xắn vận vào cạp, kéo ống lên ngang cổ chân
để lộ đôi bàn chân to bè bè, chi chít từng vệt gai cào. Nó căng lên nứt nẻ bởi
những quai dép cao su chằng cả phía trước và phía sau… rồi cả áo trong, áo
ngoài kéo lên để lộ từng mảng lưng đen lằn từng múi thịt” [33, tr. 113]. Qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những chi tiết ấy, tác giả đã cho người đọc thấy được hình dáng của một cô gái
nhà quê không biết cách “ đỏm dáng”, cùng sự vất vả của người phụ nữ nông
thôn chân lấm tay bùn.
Đến với Chuyện làng cuội, ngay từ mở đầu tác phẩm, người đọc đã bắt
gặp hình ảnh “ cái xác trôi lênh phênh của bà Đất”, “xác bà lão được vớt lên từ
trưa hôm qua. Một cái xác trương phềnh. Cả mặt và hai cánh tay xước tướp
táp, không hiểu do cá rỉa hay mắc mớ vào đâu mà không còn một mảng da nào
nguyên… mặc quần đen, áo nái vàng, tóc xoã như là ma nhoài lên nằm
nghiêng ở bờ cát một tay dang ra như là cố bám lấy cát để khỏi trụt xuống”
[29, tr. 2]. Những hình ảnh ấy như báo trước cho người đọc thấy được một số
phận bất hạnh của bà Đất. Từ hình ảnh cái xác thê thảm ấy, tác giả quay trở về
tuổi trẻ của nhân vật khi “ Đất mới bước sang tuổi mười tám. Cái cơ thể cứ rực
rỡ như lửa cháy có thể đốt thành tro bất cứ một thằng đàn ông trai trẻ nào”
[29, tr. 18]. Chẳng cần phải tả từng chi tiết nhưng người đọc vần thấy được vẻ
đẹp cùng sự quyến rũ của cô gái ấy. Nhưng chính vẻ đẹp ấy lại đem đến cho bà
Đất một số phận đầy bất hạnh với nỗi đau khổ chất chồng từ khi còn trẻ đến khi
về già.
Trong Sóng ở đáy sông, người đọc có thể thấy được ngoại hình của
người đàn bà là mẹ của Núi qua chi tiết “con ở 19 tuổi có đôi mắt như đốt cháy
người khác. Cả bộ ngực như vút lên. Cả đôi môi đang thời bừng dậy rừng rực
đốt hết sự lạnh lùng của ông” [30, tr. 20]. Qua những chi tiết đó, ta có thể thấy
được sự quyến rũ ở người phụ nữ ấy. Chính vẻ đẹp đó đã đưa số phận của bà
bước sang một trang mới từ khi được ông chủ để ý. Từ một con ở bà đã trở
thành vợ bé của ông chủ để rồi lần lượt những đứa con được ra đời. Thế
nhưng, mặc dù đã sinh cho ông đến bảy người con “ 4 sống, 3 chết”
nhưng bà vẫn không được sung sướng, vẫn bị phân biệt, vẫn phải làm
nhiều việc giống như kẻ ở. Những đứa con được bà sinh ra cũng là con
của ông chủ nhưng ông lại coi chúng là những đứa con loại hai. Bà cũng
như rất nhiều phụ nữ khác luôn cam chịu số phận khô ng một lời kêu ca,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phàn nàn, sẵn sàng làm tất cả vì con.
Đến với Hai Nhà, qua cách miêu tả ngoại hình hai nhân vật Linh Anh
và bà Nhân người đọc đã phần nào cảm nhận được tính cách của những người
phụ nữ này.Chẳng hạn ngoại hình của bà Nhân được hiện lên khá đậm nét
“màu da của bác gái vàng uôm, hơi ngả màu đen hằn lên nần nẫn từng múi
thịt… môi của bác gái dày lúc nào cũng cười… Có lẽ bác gái hấp dẫn ở sự táo
tợn có duyên và bộ ngực của người đàn bà đã gần 40 tuổi, chẳng biết có bơm
độn gì không mà thấy đầy lên nứt nở dưới làn áo trắng mỏng như là mời chào,
như là sự thách thức rất căng thẳng với những gã đàn ông si tình, bất kể là già
hay trẻ” [32, tr. 22]. Hay “… Lẳng lơ, đĩ thoã từ năm 14, 15 đến khi lấy chồng,
chồng đi vắng ở nhà “ ễnh” ra với thủ trưởng may lừa được ông Địa ngốc
nghếch…” [32, tr. 65]. Chỉ với những chi tiết miêu tả ngoại hình đó, bản chất,
sự lẳng lơ của bà đã được bộc lộ khá rõ nét. Đặc biệt khi miêu tả ngoại hình của
nhân vật Linh Anh, tác giả đã độc tả khuôn mặt cô: “Đôi mắt sóng ánh của cô
bất kể lúc nào cũng có thể thành giông bão, làm chao lật những gã đàn ông si
tình như những chiếc thuyền nan lênh đênh chìm nổi giữa khơi xa mù mịt. Hai
mi mắt dài, đen, ẩm ướt của đôi mắt sóng sánh ấy, chỉ cần một cái lướt rất nhẹ
cũng làm tan nát rụng rời bất cứ kẻ nào mon men đến trêu đùa, tán tỉnh…Cái
lúm đồng tiền ở má bên trái, cách khoé miệng chừng một ly chếch lên phía
trên. Khi cô cười tủm tỉm hay thành tiếng, thậm chí chỉ hơi nhếch mép một chút
thì cái lúm đồng tiền đã xoáy tròn lại, nói không ngoa, nó như cái xoáy nước ở
sông Cái, tạo nên những húm rất sâu, có thể hút hàng trăm người chìm nghỉm
cùng một lúc” [32, tr. 100]. Ở cô cũng có nét giống như Lẫm Liệt nên với
ngoại hình ấy, người đọc đã phần nào đoán định được tính cách của cô. Vì thế,
càng về cuối tác phẩm bản chất của cô càng được bộc lộ rõ và việc cô ngoại
tình cũng không khiến người đọc phải ngạc nhiên.
Còn trong Thời loạn, ngoại hình của Lẫm Liệt được tác giả miêu tả khá
chi tiết. Trước hết là ở đôi mắt, nó như một uy lực để chinh phục đàn ông.
Ngay từ khi học cấp hai, cấp ba, cái sức mạnh ấy là ở đôi mắt. Đôi mắt một mí
không những đẹp mà còn là nỗi ác cảm của nhiều người. Bảo rằng cái mắt của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
loại người này là “trai thì trộm cướp gái buôn chồng người”. Nhưng khi cái
miệng vốn nghiêm nghị hơi mở ra, đôi mắt của Lẫm Liệt đã ngước lên nhìn
thẳng vào ai đó không chớp mắt thì như bảo rằng: “Anh có muốn không?” Nó
như ngọn lửa nóng bừng đốt cháy ruột gan người đang bị đôi mắt ấy nhìn thẳng
vào mắt mình. Chỉ với việc miêu tả đôi mắt của Lẫm Liệt, tác giả đã lột trần
được bản chất của người phụ nữ ấy. Chẳng hạn khi cô muốn chinh phục Vịnh
ta thấy rất rõ sức mạnh của đôi mắt: “Lẫm Liệt đưa mắt một mí nhìn thẳng vào
mắt Vịnh, Vịnh cảm thấy như có một luồng điện chạy qua mình, khắp người
nóng lên dần dật” [34, tr. 46 ]; đến ông thầy người Anh cũng phải “ khen cô
thông minh sáng sủa nhất là đôi mắt một mí, cái miệng cười xinh xắn như mời
chào” [34, tr. 60] khiến thầy không thể cưỡng nổi… Chỉ cần như vậy là Lê Lựu
đã cho người đọc thấy được người phụ nữ nanh nọc, sẵn sàng đánh đổi mọi thứ,
kể cả thân xác để đạt được những mong muốn của mình.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động
“Hành động của nhân vật không chỉ là yếu tố cần thiết để bộc lộ tính
cách mà còn là yếu tố không thể thiếu thúc đẩy sự diễn biến của cốt truyện
trong tác phẩm” [10, tr.134]. Chính vì vậy, khi miêu tả nhân vật, bên cạnh yếu
tố ngoại hình, các nhà văn thường cho nhân vật của mình thể hiện những hành
động khác nhau nhằm tạo nên sự đa dạng trong cách thể hiện đồng thời khắc
hoạ rõ nét hơn tính cách nhân vật.
Trở lại với Thời xa vắng, ta nhận thấy tác giả đã dành khá nhiều trang
văn để miêu tả hành động của nhân vật, đặc biệt là nhân vật Tuyết. Khi lao
động “ con bé ấy đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng cối vừa
mạnh mẽ vừa như hút xoáy những hạt ngô trơn truội khỏi chao vọt ra ngoài”
[33, tr.7]. Qua hành động đó của Tuyết, người đọc thấy được những động tác
rất thành thục, nhanh nhẹn, khoẻ khoắn, biết lo toan công việc gia đình của cô.
Đến khi bị chồng đánh thì “con bé không lùi, không giơ tay đỡ, cứ đứng trân
trân hứng chịu những câu xỉ vả của thằng Sài” [33, tr. 8]. Đó là sự cam chịu,
nhẫn nhục ở người phụ nữ. Nhưng rồi “tức nước phải vỡ bờ”, khi nỗi ấm ức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
bùng lên thì không thể chịu đựng được nữa thì cô giàn giụa nước mắt, cắp gói
quần áo: “ con xin thầy mẹ, con về nhà con” rồi cô nhất quyết ra đi mặc cho sự
can ngăn của bố mẹ chồng. Hành động ấy là sự phản kháng rất tự nhiên của
tuối mới lớn vẫn còn nông nổi chưa suy nghĩ kĩ. Trong cuộc sống vợ chồng, khi
Sài nhất quyết không ngủ cùng vợ cô đã “ chạy xuống bếp khóc và xin nằm với
mẹ để anh Sài lên giường kẻo cả năm đêm vừa rồi anh ấy nằm dưới đất”
[33,tr.48]. Hành động đó của Tuyết vừa cho ta thấy được nỗi đau khổ cùng tình
thương mà cô dành cho chồng, mặc dù cô biết rằng người chồng ấy không có
chút tình cảm nào với mình…Chỉ với một vài hành động ấy của Tuyết, tác giả
đã cho người đọc thấy được phần nào tính cách của nhân vật cùng cuộc sống vợ
chồng giữa cô và Sài.
Ở Chuyện làng cuội, cuộc đời của bà Đất là sự chất chồng những đau
khổ. Kết hợp với việc miêu tả hành động, tính cách, phẩm chất của bà càng
được thể hiện rõ hơn. Ngòi bút tả thực của tác giả khiến ta thật hãi hùng khi
chứng kiến cảnh một mình bà Đất “ vượt cạn” nơi rừng rú: “ Ôm bụng vừa đi
vừa bò…cô đang bám vào cột quằn người lên la tưởng đứt ruột chết ngay…cô
vội vàng cúi xuống bế con…đặt nó đấy, đi chôn rau rồi mới về bế cháu” [29, tr.
27 – 28]. Và rất ấn tượng với cảnh tượng chị Đất “ chồm dậy cầm con dao bầu
ở mặt hòm quay ra…Tôi hỏi ông, đứa nào đã đánh con tôi sưng cả mặt mũi thế
này?” [29, tr. 86]. Đó là hành động phản kháng tất nhiên của người mẹ bảo vệ
con đến cùng. Thế mà có lúc “bà Đất khóc âm thầm từ lúc nào, bấy giờ chạy
đến quỳ trước mặt con dâu van lạy thề thốt: lạy giời có bóng điện chứng giám,
không đời nào mẹ lại đi nói chuyện nhà mình với ai. Thôi mẹ lạy con. Tha cho
chồng con nó nóng nảy. Mẹ xin, mẹ xin…” [29, tr. 197]. Câu nói của một bà lão
suốt đời long đong, lận đận vì con cái như sát muối vào lòng người đọc trước
sự xuống cấp của đạo đức, nề nếp gia phong trong gia đình thời hiện đại. Bà
Đất xin phép vợ chồng con trai về quê trước lời nói giả tạo của con dâu :
“không biết bà cảm động quá hay nghĩ đến lúc đau đớn, xót xa mà nước
mắt bà ướt đầm má đứa cháu bà đang bế trong tay. Bà vội vàng lấy vạt áo
lau. Rồi nhớ ra điều gì bà lại vội vàng tìm cái khăn riêng của cháu, nhúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nước sôi lau lại cho cháu. Bà cười mà khuôn mặt như méo đi, như đang cố
kìm tiếng khóc bật ra” [29, tr.199]. Hành động ấy của bà đã làm cho người
đọc hiểu và cảm thông cho một bà lão có số phận chất chồng những đau
khổ, bất hạnh.
Trong Sóng ở đáy sông, ta lại bắt gắp hành động của mẹ Núi khi phải
chứng kiến cảnh những đứa con của mình bị phạt “ Mỗi lần có kẻ phạm tội, mẹ
nhai cơm trông như nhai rác trong miệng… Cũng có lúc nước mắt lại chảy ra
ngoài, miếng cơm mắc ở cổ như nghẹn lại, lấy vạt áo lau nước mắt” [30, tr. 9].
Với hành động ấy, ta có thể thấy được tình cảm lớn lao mà bà dành cho các con
của mình. Hơn nữa khi bà trở thành vợ lẽ của ông chủ thì sau khi sống với nhau
một thời gian, ông cảm thấy nó cách biệt quá bởi “ húp nước canh thì thùm
thùm như lội nước. Chân rửa chưa khô đã xéo lên chăn đệm. Tay nấu bếp chưa
rửa sạch đã vạch áo cho con bú…” [30, tr.21]. Qua những hành động ấy, ta có
thể nhận ra sự vụng về của người phụ nữ ấy, cũng vì thế mà ta hiểu tại sao ông
chủ lại không thể hoà hợp được với bà.
Đến Thời loạn, nhân vật Xanh Dương Lẫm Liệt lại được tác giả xây
dựng chủ yếu qua hành động. Bản chất của cô đều do hành động điều khiển để
rồi cứ lộ dần ra qua lời kể của tác giả. Từ thuở thơ ấu, cái tính cách cao ngạo,
bất cần của cô đã được hình thành khi cô bé nhất định không ăn thức ăn ở lớp,
không chơi với các bạn, không thèm đến lớp. Lớn lên một chút, Lẫm Liệt tự
chấm dứt tuổi thơ bằng những hành động mà lẽ ra hơn chục năm sau mới nên
có. Tác giả đã miêu tả một cô bé mới hơn mười tuổi mà rất thành thục trong
tình yêu qua hành động “ ôm chầm lấy cổ anh hôn da diết” [34, tr. 7]; rồi “ cô
đều hôn chụt lên má… tự giật tung chiếc áo nhỏ của mình ra, mở thêm một cúc
ngực…ôm xiết lấy anh và giục giã” [34, tr. 10]; tiếp đến lại là hành động “ôm
chầm lấy anh…hôn tới tấp và cầm tay đặt vào ngực mình” [34, tr. 22]. Đến lúc
trưởng thành nhân cách, phẩm chất của Lẫm Liệt cứ mất dần theo những việc
làm, hành động vô liêm sỉ của cô. Đó là hành động đóng kịch của Lẫm Liệt
trong cảnh cưới hụt khiến không ai có thể dị nghị hay nghi ngờ được; hay lúc bị
em rồi cả bố bắt quả tang cô ngủ với ông giáo sư thì “cô đứng thẳng dậy trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mặt bố nói như ra lệnh “ bố lên đây làm gì, đi ra đóng cửa lại” [34, tr. 65].
Lê Lựu không dừng lại ở đó, nếu dõi theo đến hết tác phẩm ta còn thấy nhiều
hành động đáng lên án của một con người tự đánh mất mình bằng sự tham
không có điểm dừng. Chỉ từng ấy thôi, người đọc đã phần nào thấy được sự suy
đồi về nhân cách của một con người luôn chạy theo lối sống xô bồ thời hiện đại
để thỏa mãn dục vọng của chính mình.
3.2.3 Nghệ thuật biểu hiện độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là một thủ pháp nghệ thuật giúp nhà văn thâm nhập
vào chiều sâu bên trong của nhân vật, từ đó giúp người đọc thấy được bản chất,
thế giới tâm hồn, trí tuệ và những diễn biến tâm lí nhân vật không biểu lộ ra
ngoài. Qua những lời độc thoại nội tâm, nhân vật có dịp bộc lộ những góc
khuất thầm kín của đời sống tâm hồn mình. Và để diễn tả thế giới nội tâm đầy
chắc ẩn của nhân vật, không có biện pháp nào hữu hiệu hơn là sử dụng lời độc
thoại. Lời độc thoại là “ Lời phát ngôn của nhân vật nối với chính mình, thể
hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ
của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [13, tr. 160]. Vì thế, việc
dùng thủ pháp độc thoại là một trong những phương thức hữu hiệu để khắc hoạ
tính cách nhân vật.
Khảo sát tiểu thuyết của Lê Lựu, ta nhận thấy mỗi khi thủ pháp này xuất
hiện nó đều tỏ rõ giá trị trong việc phản ánh thế giới nội tâm hết sức phong phú
và phức tạp của con người. Trong quá trình khắc hoạ tính cách và số phận nhân
vật, Lê Lựu hết sức quan tâm tới những dằn vặt, suy nghĩ, trải nghiệm của nó
trước cuộc sống, tức là chú ý đến quá trình tự ý thức và đời sống nội tâm nhân
vật. Qua độc thoại nội tâm, thế giới bên trong của nhân vật hiện lên hết sức
chân thực. Chẳng hạn, trong cuộc sống vợ chồng giữa Sài và Tuyết, Tuyết cũng
nhận ra sự chạy trốn của Sài nên nhiều luc cô tự hỏi: “Làm sao lại không yêu
nhau để cô chăm chút cho mà học hành và có vợ có chồng đầm ấm vui vẻ, việc
gì mà phải khổ sở như thế. Bạn bè cùng tuổi với cô ở làng này bao nhiêu đứa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
có con, có đứa sắp hai con rồi?” [33, tr. 51]. Qua những lời độc thoại ấy,
người đọc nhận ra rằng sâu xa trong ý nghĩ của Tuyết, cô luôn mong muốn
được yêu thương, được chia sẻ, thậm chí sẵn sàng hi sinh cho hạnh phúc gia
đình. Đọc những trang nhật kí của Hương, ta cũng thấy được thế giới nội tâm
khá phong phú của nhân vật. Khi Hương vì tự ái nên đã quyết định lấy chồng,
bên ngoài cô tỏ ra hạnh phúc với chồng nhưng bên trong lại chất chưa bao tuyệt
vọng vì đó là cuộc hôn nhân không có tình yêu. Từ đáy sâu tâm hồn cô cất lên
lời nói thiết tha chỉ mình mình biết: “ Em vẫn ở bên anh, một người đàn bà có
chồng và sắp có hai mặt con không thể nào bỏ chồng bỏ con để trở về với anh,
nhưng em vẫn là tình yêu suốt đời của anh, cũng như anh mãi mãi là tình yêu
duy nhất của đời em. Đừng khóc khi trở về thấy em âu yếm chồng con mà câm
lặng, lẩn tránh em. Anh bé bỏng của em ơi. Nhưng…anh ơi…Nhưng đến bao
giờ em mới có thể để anh hiểu nổi lòng em, để anh bớt đau đớn, tủi hận. Bao
giờ, đến bao giờ, hở anh!” [33, tr. 224]. Với những lời độc thoại ấy, người đọc
thấy được một tình yêu chân thành mà sâu sắc của Hương dành cho Sài.
Trong Chuyện làng cuội, nhân vật bà Đất – một con người sống nội tâm,
một người mẹ cả đời luôn âm thầm hi sinh tất cả vì con cũng nhiều lần tự nói
với mình: “con ơi, đã bao nhiêu đêm mẹ khô nước mắt vì nỗi day dứt giằng xé
lòng mẹ, mẹ thèm khát cả chồng và con mà giời bắt mẹ chỉ được chọn lấy một.
Mẹ muốn chết trước khi người ta nhục hình chú Kiêm nhưng giời lại bắt mẹ
không được để các con mẹ bơ vơ” [29, tr. 125]. Hay có lần bà tự đặt câu hỏi:
“Từ mai phải làm thế nào để vừa trông con, vừa kiếm củi bán, đong gạo cho
con ăn?” [29, tr. 29]. Đó là một người mẹ sống vì con nhưng cũng chết vì con.
* * *
Như vậy, ta có thể thấy thế giới nội tâm nhân vật được Lê Lựu khai thác
và thể hiện rất đa dạng. Từ đó những day dứt, dằn vặt cùng niềm khát khao
cháy bỏng yêu thương của nhân vật được bộc lộ rõ. Chính điều đó đã làm cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thế giới nhân vật trong các tiểu thuyết của ông hiện lên rất đa dạng, phong phú.
3.3. Ngôn ngữ nhân vật.
Mỗi loại hình nghệ thuật đều có một đặc trưng riêng: Hình ảnh là yếu tố
cần thiết của điện ảnh, ca từ và giai điệu là phần quyết định trong âm
nhạc…còn ngôn ngữ lại đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học. Theo
nhà văn M.Gorki: “ Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu
của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của
văn học” [10, tr.148]. Nguồn gốc tạo thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học
chính là ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày. Điều quan trọng là nhà văn phải
biết chắt lọc và nâng nó lên hàng nghệ thuật. Mỗi nhà văn, khi tiếp cận hoặc
khám phá một vấn đề của hiện thực cuộc sống đều cố gắng xây dựng cho mình
một thứ ngôn ngữ riêng. Điều đó góp phần tạo nên màu sắc phong phú cho kho
tàng ngôn ngữ văn học Việt Nam. Tìm hiểu về ngôn ngữ trong các tiểu thuyết
của nhà văn Lê Lựu, ta thấy nổi bật lên là kiểu ngôn ngữ đối thoại. Mật độ
ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của ông rất lớn khiến cho câu văn giàu nhạc
tính, diễn biến câu chuyện nhiều kịch tính, bất ngờ. Từ đó tạo nên những thành
công của tiểu thuyết Lê Lựu trong việc khắc hoạ chân dung nhân vật từ thôn
quê đến thành thị. Thế giới nhân vật trong các tiểu thuyết của ông rất đa dạng
với những kiểu đối thoại khác nhau. Qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật,
người đọc có thể thấy được trình độ, thành phần xuất thân, tính cách của nhân
vật. Trong Thời xa vắng, có rất nhiều những đoạn đối thoại giữa các nhân vật.
Qua đó, tính cách nhân vật được bộc lộ rõ. Chẳng hạn, qua cuộc đối thoại của
Tuyết với Sài, ta thấy được sự lạnh lùng, vô cảm của Sài dành cho Tuyết:
“Người ta bảo trong kia đẹp lắm, mai vào xem đi” – “ Cô thích cứ đi, tôi đang
bận học”; “ Ngày mai mua ít cua bể về ăn, nghe bảo bổ lắm, có tiền thầy mẹ
cả hai nhà cho đây” – “ Tôi không thích loại đó”; “ Thế anh thích tôm he
không?” – “ Tôi lạy cô, để im cho tôi nhờ một tí” [33, tr. 117]. Còn qua lời đối
thoại của Châu với Sài, ta lại thấy có phần bất chấp, nhất là khi hai vợ chồng
cãi nhau: “ Chuyện gì thì với trẻ con cũng không thể trị nó kiểu Pôn Pốt được –
Nuông chiều con như em, rồi cũng có ngày mất xác – Đừng độc mồm. Con tôi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tôi đẻ ra, tôi không khiến ai phải xót hộ”... [33, tr. 359]. Những mẩu đối thoại
ấy đã cho người đọc thấy được cách cư xử của Châu với Sài cùng cuộc sống vợ
chồng luôn chứa đựng mâu thuẫn nên việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình là lẽ
đương nhiên.
Trong Chuyện làng cuội, tác giả lại vạch rõ chân tướng tên tổng Lỡi lừa
đảo một cô gái ngây thơ qua lời đối thoại: “ Ông có yêu em thật không? – Lại
chả! – Liệu ông có cho em về quê thành vợ thành chồng với ông được không? –
Không thì đã làm gì?” [29, tr. 18]. Chính câu trả lời nửa chừng đó mà cuộc đời
bà Đất phải “ ba chìm bẩy nổi”. Vốn là người hiền lành, thật thà nên khi phải
nói dối bà rất ngượng ngùng. Ta có thể thấy điều đó qua cuộc đối thoại của bà
Đất với toà: “ Bà vô ý ngã hay có ai xô đẩy? – Dạ...Dạ...thưa toà...Hôm ấy tôi
đi gánh phân xuống cái dốc trơn tự nhiên thấy nó...- Vâng vâng. Thưa toà.
Nó... nó đẩy tôi. A vâng, nó nó là...chị Xuyến lấy tay đẩy tôi ngã lăn xuống gốc
tre xuýt nữa chết ạ...”[29, tr. 357- 358]. Đó là những lời nói mà Hiếu buộc bà
phải nói trước toà để anh có cớ bỏ vợ.
Trong Sóng ở đáy sông, ta bắt gặp cuộc đối thoại giữa Núi và Hiền :
“Có yêu em thật không hở anh?- Em vẫn sợ anh đánh lừa em? –Không. Nhưng
em sợ mai kia anh về thành phố.- Em về thành phố với anh.” [30, tr. 56]. Đó là
cuộc đối thoại khi hai người mới gặp và tán tỉnh nhau để rồi dẫn đến kết quả
Hiền đã có thai và phải bỏ làng ra đi. Phải đến khoảng 25 năm sau, khi hai
người gặp nhau, những lời nói của họ đã thể hiện sự chín chắn trong suy nghĩ:
“– Cho anh nói một câu thôi. Có lẽ em nghĩ anh là thằng bạc bội. Hay vì anh
quá nhiều tội lỗi. - Nếu nghĩ thế, em đã không bao giờ cho con nhận anh.- Thế
sao chúng mình lại không trò chuyện về với nhau.- Chúng mình đã trở đi đâu
mà trở về…” [30, tr. 324]. Qua cuộc đối thoại ấy, ta có thể thấy được sự kín
đáo tế nhị cùng sự chín chắn trong suy nghĩ của nhân vật.
Đến với Hai nhà, qua lời đối thoại của hai cặp vợ chồng trí thức, tính
cách nhân vật được bộc lộ rõ. Chẳng hạn, khi bà Nhân đi làm về thấy hết nước
bà đã nói chồng: “ Đọc đạch cho lắm vào, để nước chảy không biết.- Còn vài
hột nước này tắm táp gì hả giời. – Chịu khó đêm nay hứng. – Chịu khó để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
người đem làm mắm hả. Ông có chịu khó nhịn đến mai được không?”
[32,tr.55]. Hay qua cuộc đối thoại của bác Địa với Tâm, người đọc thấy rõ
được tính cách, sự lẳng lơ của bà Nhân và Linh Anh: “Nhân đây anh cũng
chẳng giấu gì chú. Cả ba đứa con của anh có đứa nào là của anh đâu. Chú chỉ
bắt được vợ chú cắm sừng trong nhật kí. Còn vợ anh, lần nào ngủ với trai cũng
đếu có người bắt quả tang…Em không thể về được - Quyền ở chú. Tôi chả dám
bảo chú phải thế này, phải thế kia. - Em rất biết ơn tấm lòng của bác…Nhưng
cái này, em không khác được, mong bác thông cảm” [32, tr. 190-191]. Hoặc là
cuộc đối thoại của hai vợ chồng Tâm khi anh mang thức ăn xuống đồn công an
tiếp tế cho vợ mình: “ Anh đổ mẹ nó đi. Tôi đ. Cần cái lòng tốt của anh. – Em
nói gì thế nhỉ? – Tôi bảo anh không phải giả vờ nữa…- Em gửi con ở đâu?-
Trả rồi. – Trả ai?- Bố của nó.- Bố của nó là ai?- Không cần biết. – Thế tôi là gì
của nó?- Chỉ cần biết nó không phải là con anh” [32, tr. 121-122]. Qua những
lời đối thoại ấy, bản chất, tính cách nhân vật được bộc lộ rõ.
Trong Thời Loạn, bản chất của Lẫm Liệt được bộc lộ rõ qua các cuộc
đối thoại. Có thể kể đên một số cuộc đối thoại như: Đối thoại giữa Lẫm Liệt và
cậu bạn “ – Cậu về nhà tớ đi. – Làm gì? – Tớ thấy thích cậu… Cậu cho tớ ôm
một cái được không? – Thích thì ôm. Làm gì phải xin phép tớ một cách nghiêm
trọng thế. Nhưng cậu phải đóng cửa vào đã” [34, tr. 21]; Đối thoại giữa ông bố
đưa đứa con gái đi thi: “Mệt sao không ở nhà? Tự đi một mình, cần gì bố. Làm
với ăn, bắt người ta chờ hàng tiếng đồng hồ, tưởng đâu vào đấy rồi chứ” [34,
tr.28]; Đối thoại giữa Lẫm Liệt với giáo sư: “ Thôi chấm dứt từ nay đừng có sư
với sãi gì nữa nhé. – Nghĩa là em bỏ anh? – Làm gì còn em và anh nữa, nó chỉ
là sự bố thí, cho tí nào được tí đó,anh em gì? – Không cần ông tôi cũng đỗ”
[34, tr.76]… Qua những lời đối thoại ấy, ta thấy được bộ mặt thật của đứa con
vô đạo, sự trơ trẽn cùng lối sông buông thả, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phẩm mà không chút đắn đo.
3.4. Giọng điệu miêu tả nhân vật
3.4.1. Giọng điệu châm biếm, hài hước
Nếu như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan thường châm biếm, đả kích
nhân vật một cách quyết liệt thì Lê Lựu lại hài hước, châm biếm nhẹ nhàng để
sau đó lại cảm thông, xót xa cho nhân vật. Thấp thoáng đằng sau những câu
chữ trong Thời xa vắng là một Lê Lựu khá hóm hỉnh và sắc sảo. Khi miêu tả
chân dung của Tuyết đến thăm chồng, tác giả đã thể hiện khá chi tiết từ diện
mạo, trang phục, hành động, cử chỉ, lời nói… rất cụ thể. Đó là chân dung cô gái
quê Hạ Vị với “một cái áo sơ mi nõn chuối, một cái áo lót đông xuân màu
hồng mặc phía trong…đầu chải bêxăngtin nhếnh nháng lật ngược và được đè
ập xuống bởi vòng khăn vấn bằng vải toan nhuộm màu nâu còn mới trông nó
chặt chằng như một cái đai” [33, tr. 113]. Với lối so sánh ví von độc đáo khiến
người đọc bật cười trước sự tương phản cực mạnh giữa tỉnh – quê, mốt – lạc
hậu… Để bức chân dung ấy được hoàn chỉnh, Lê Lựu còn đưa ra những nét vẽ
về nhân vật với “ chiếc quần xúng xính dài quét gót nhưng lại xắn vận vào cạp,
kéo ống lên ngang cổ chân để lộ đôi bàn chân to bè bè, chi chít những vệt gai
cào”…rồi “ cả áo trong, áo ngoài kéo lên để lộ từng mảng lưng đen lằn từng
múi thịt” [33, tr.113 - 114]. Miêu tả bức chân dung ấy, Lê Lựu đã khiến người
đọc thấy được sự vô duyên đến nực cười của Tuyết. Ẩn đằng sau tiếng cười ấy
là sự xót thương, chua chát của tác giả dành cho người phụ nữ có số phận bất
hạnh đó.
Trong Hai nhà, giọng châm biếm, mỉa mai cũng được tác giả thể hiện
rõ, đặc biệt là đoạn văn khi miêu tả về nhân vật Linh Anh: “ Lúc ngẩng lên đã
thấy anh đứng nhìn tôi, vẫn cái nhìn lặng sâu thẳm như lửa táp khiến khắp
người tôi nóng lên rần rật. Nhưng lần này tôi không lẩn tránh cái nhìn ấy. Anh
nhào người ôm chầm lấy tôi. Bằng thói quen của đứa đàn bà lúc nào cũng khao
khát đàn ông, bằng nỗi tấm tức với chồng…Và bằng cả sự tò mò tìm sự mới lạ,
khác với sự hùng hục hành hạ của thằng chồng mình, lại cả sự tĩnh lặng này,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
giây phút trống trải này, hai sức lực tràn trề bị kìm nén này…tôi không những
không cưỡng lại dù là hai bàn tay vẫn đẩy anh ra…nhưng toàn bộ tư thế đều
tạo ra sự dễ dãi đến mức một thằng đàn ông chưa hề nếm trải cũng có thể tiến
tới sự hoà nhập sung sướng, không hề khó khăn trở ngại gì” [32, tr. 148 – 149].
Qua những trang văn ấy, người đọc thấy được sự mỉa mai, châm biếm của tác
giả dành cho nhân vật. Chính vì chạy theo những dục vọng của bản thân mà cô
đã đánh mất chính mình, đã làm những việc trái với truyền thống đạo đức tốt
đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Giọng châm biếm, hài hước cũng được thể hiện khá rõ nét trong Thời
loạn, đặc biệt là qua nhân vật Xanh Dương Lẫm Liệt. Thật hài hước mà cũng
hết sức châm biếm qua cách kiếm tiền và kiếm tình của Lẫm Liệt: “ Đã học
giỏi, nhà giàu dư dật mà đêm nào cô cũng “đi dạy thêm” để tự củng cố kiến
thức cho mình. Cả trường không ai hay biết rằng mấy năm trời cô đều “dạy
thêm” bốn thằng đàn ông, tối nay một anh, tối mai một anh, gặp nhau ở bờ bụi,
gốc cây. Hết giờ “dạy thêm” vài ba lần rồi người tình lai về gần kí túc xá, cô
lại lững thững đi bộ để nhận lấy lời khen của tất cả mọi người: Bạn ấy thật
tuyệt vời, không đêm nào không đi bộ dăm cây số để dạy thêm” [34, tr. 13].
Không chỉ vậy, người đọc còn ấn tượng hơn về Lẫm Liệt qua giọng văn
“Chuyện tày đình ấy nó còn kín đáo, còn êm nhẹ, lặng lẽ gấp hàng trăm lần so
với cảnh hai xe máy va vào nhau và cô lại nghiễm nhiên trở thành người
nghiêm túc, đứng đắn…kết quả được vào hạng ưu của cô là cái “vốn tự có” cô
đã sử dụng suốt mấy chục năm nay thì bây giờ nó lại cộng với tài ba, sự thông
minh, khéo léo của cô thì có việc gì mà không trôi chảy, trót lọt” [34, tr. 57].
Hỏi rằng đã có ai đủ bản lĩnh để làm như vậy chưa trong khi việc đó đối với
Lẫm Liệt chỉ là việc cỏn con? Hầu như trong từng lời kể ấy, nhà văn đếu ẩn
chứa giọng mỉa mai, châm biếm ở nhân vật này.
3.4.2. Giọng điệu xót thương, day dứt.
Giọng điệu này xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm của Lê Lựu. Nhà văn
thường di chuyển, mở rộng điểm nhìn để bày tỏ quan niệm, thái độ của mình về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhân vật. Ở Thời xa vắng, ngòi bút của Lê Lựu dường như mở rộng để san sẻ
với tất cả mọi người. Chính điểm nhìn bên trong đã giúp nhà văn thấu hiểu nỗi
cô đơn, niềm khát khao của cô gái tuổi mười bảy: “Cái tuổi dậy thì…đã thấy
khao khát đến cháy đôi môi…đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng
chạy về”. Nhà văn như nhập thân vào nhân vật để nhìn thấu nỗi cơ cực của
người đàn bà “cả một thời con gái không được chồng nhòm ngó đến một lần
rồi nuôi con một mình…”; để rồi “đêm nào cũng phải nghĩ một mình, ôm con
khóc mà nghĩ” [33, tr. 268]. Những dòng văn như ngậm ngùi cho số phận tủi
cực và cam chịu của Tuyết. Không những vậy, Lê Lựu còn cảm thông với sự
thèm thuồng tội nghiệp của Tuyết: “ từ câu quát mắng, thèm một quả đấm, một
cái tát, bởi những ai đấy tục tằn, thô lỗ vẫn được tiếng là có chồng, chồng
đánh, chồng chửi, chồng giận, chồng hắt hủi…”. Những trang văn ấy như thấm
đẫm nước mắt của tác giả dành cho số phận hẩm hiu của nhân vật Tuyết. Nếu
như Tuyết sống trong chờ đợi và hi vọng thì Hương lại sống trong da diết và
ngóng trông. Và giọng điệu khắc khoải, da diết giúp nhà văn thâm nhập vào thế
giới tình cảm sâu kín của nhân vật để bày tỏ tâm tư, cảm xúc. Tình yêu của
Hương với Sài đã chấm dứt sau trận nước lụt trắng xoá ở làng Hạ Vị để rồi cô
chỉ biết sống và yêu trong thầm lặng, chỉ biết gửi tình cảm của mình vào những
trang thư. Đây là nơi cô ký thác niềm vui, nỗi buồn cùng sự khát khao chờ đợi.
Đó là những háo hức mong chờ “liệu ở nhà anh biết tin này chưa?... Em chỉ
cần có một mình anh yêu em, anh ở bên em” [ 33, tr. 81]; là những băn khoăn
cực độ “Anh thân yêu ơi! Những ngày qua bố mẹ, anh Tính và họ hàng làng
xóm có đay nghiến sỉ vả anh nhiều không?”. Những câu hỏi liên tiếp dồn dập
chứng tỏ con sóng tình yêu trong cô không phút nào yên. Chính vì con thuyền
tình không cập được bến của hạnh phúc lứa đôi mà trong cô luôn nảy sinh lòng
khắc khoải, chờ mong. Điều này thể hiện khá rõ trong đoạn văn miêu tả tâm
trạng của Hương khi đọc bài báo viết về chiến công của Sài: “Đừng khóc khi
trở về thấy em âu yếm, vỗ về chồng con mà câm lặng, lẩn tránh em. Anh bé
bỏng của em ơi. Nhưng…anh ơi…đến bao giờ mới có thể để anh hiểu nỗi lòng
em, để anh bớt đau đớn tủi hận. Bao giờ! Đến bao giờ hở anh!!!” [33, tr. 195].
Giọng điệu khắc khoải, da diết mong chờ không chỉ bộc lộ ở ngôn từ mà còn
nằm trong những dấu chấm lửng, chấm than, trong những câu hỏi cứ lặp đi lặp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lại trong trái tim của Hương. Viết về mối tình tha thiết, mãnh liệt ấy, Lê lựu đã
bày tỏ niềm cảm thông, trân trọng những khát vọng hạnh phúc cá nhân của con
người. Đó cũng chính là chiều sâu nhân bản trong tác phẩm.
Đến Chuyện làng cuội, giọng điệu ngậm ngùi, xót thương được tác giả
sử dụng triệt để khi kể về số phận, cuộc đời bất hạnh của bà Đất xuyên suốt từ
đầu cho đến cuối tác phẩm: “ Từ cái đêm rời nhà đi biệt tăm hàng chục năm
trời đến nay tất cả mọi thăng trầm, tất cả mọi lần đi và về quyết định đời bà
đều diễn ra vào ban đêm…Với bà được run rẩy yêu thương hay bị cào xé hành
hạ, được ngẩng mặt tươi cười nhìn chúng bạn hay cứ cắn hai hàm răng lại
nuốt nước mắt vào lòng, cho đến lúc này đều vô nghĩa. Khi bà cần sự cưu
mang cứu vớt thì chả thấy ai, cứ lầm lũi một mình chịu đựng [29, tr. 14]. Sau
lời khái quát cuộc đời của con người đáng thương ấy, tác giả đã có nhiều trang
văn dành tình cảm ưu ái cho bà Đất. Đó là tình cảm của người bà “một bà già
ngây ngô nhưng mà thật lòng, suốt đời đau khổ và tấm long thành thật của
mình” [29, tr. 194]. Đó là nỗi khổ của người mẹ chồng có cô con dâu vô đạo:
“Mỗi lần chị ấy đẻ, con cái ốm đau quặt quẹo bà lại được đưa lên tỉnh bốc cứt,
bốc đái, giặt giũ, hầu hạ con dâu, nâng giấc ôm ấp các cháu. Khi con dâu hết
kiêng cữ, đi lại cứng cáp, các cháu chơi đùa khoẻ mạnh, bà lại như thừa ra,
vướng víu, như cái của nợ, như con hủi trong nhà. Chị ấy nói cạnh khoé, đá
thúng đụng nia nhưng chưa được con trai cho về bà vẫn phải ở lại chịu đựng”
[29, tr. 227]. Cuộc đời bà Đất chồng chất những đau đớn, bất hạnh triền miên
nên dường như khi viết về nỗi khổ của bà giọng văn của tác giả cũng như trùng
xuống, nghẹn ngào cũng đớn đau của người phụ nữ hiền lành, cam chịu, nhẫn
nhục ấy.
* * *
Tóm lại, thế giới nhân vật nữ trong các tiểu thuyết của Lê Lựu nói trên
có sự vận động theo quỹ đạo hiện đại hoá của tiểu thuyết: từ con người sử thi
mang vẻ đẹp cộng đồng dân tộc trong văn học trước 1975 chuyển sang miêu tả
con người trong cuộc sống hiện thực đời thường bằng lối tả thực của văn học
hiện đại. Tâm lí nhân vật được nhà văn chú ý nhiều hơn. Nhân vật được soi
chiếu ở nhiều khía cạnh từ ngoại hình, hành động đến chiều sâu thế giới nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tâm. Vì thế mà nhân vật trở nên thật hơn, gần với cuộc đời hơn.
KẾT LUẬN
1. Trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Lê Lựu đã có những đóng
góp đáng kể. Với niềm đam mê hết mình với nghề cùng sự trải nghiệm, thấu
hiểu đến tận cùng số phận của những người phụ nữ và tài năng thiên phú, tác
giả đã thể hiện thành công hình ảnh người phụ nữ thời hiện đại. Có thể nói
trong văn học thời kì này, Lê Lựu là một trong những người đi đầu nhìn nhận
lại hiện thực xã hội một cách tỉnh táo và khách quan. Ta có thể thấy, thế giới
nhân vật nữ trong các tiểu thuyết của ông hiện lên thật đa dạng, phong phú như
chính cuộc sống thời hiện đại. Để cắt nghĩa, lí giải hiện thực, nhà văn đi sâu
vào đời sống tinh thần của con người, chỉ ra những tồn tại trong ý thức hệ tư
tưởng. Các tiểu thuyết của ông cho thấy sự phản ứng đối với quan niệm duy ý
chí một thời, cái thời mà lối tư duy bảo thủ và thói vị kỉ, những kẻ nhân danh
gia đình và đoàn thể có thể áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác. Lê Lựu
nhận thức rất rõ điều đó qua việc tái hiện mâu thuẫn giữa các thế hệ mà người
phụ nữ là tâm điểm.
2. Với một trái tim đầy trân trọng và yêu thương, Lê Lựu đã khắc hoạ
khá trọn vẹn hình tượng người phụ nữ Việt Nam từ hình ảnh những người thiếu
nữ mang bình yên cho cuộc đời đến những người vợ, người mẹ có tình thương
bao la và cả những người phụ nữ trái với đạo đức truyền thống. Chính sự đa
dạng trong cách thể hiện hình ảnh người phụ nữ đã chứng tỏ sự tâm huyết, lao
động không ngừng nghỉ của nhà văn. Cũng từ đó, tác giả đã có những đóng góp
không nhỏ cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới khi viết về người phụ nữ.
3. Để làm nên những thành công trong các tiểu thuyết của mình, Lê Lựu
đã xoáy sâu vào những bi kịch tự thân của con người, khai thác những mâu
thuẫn, xung đột của nhân vật. Có thể coi đây là thành công nghệ thuật trong
tiểu thuyết của Lê Lựu. Trong năm tiểu thuyết trên, nhà văn đã tạo được sự hấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
dẫn người đọc ở sự dồn đẩy tình huống truyện. Cùng với đó là nghệ thuật khắc
hoạ nhân vật qua miêu tả ngoại hình, miêu tả hành động, diễn tả đời sống nội
tâm và ngôn ngữ nhân vật. Từ đó, các nhân vật nữ trong tác phẩm của ông như
những con người thật từ trang sách bước ra ngoài đời.
4. Sự trăn trở của nhà văn xuất phát từ “những điều trông thấy mà đau
đớn lòng”, cùng với sự trải nghiệm của nhà văn và tấm lòng ưu ái với người
phụ nữ, Lê Lựu đã xây dựng hình tượng những người phụ nữ từ cuộc đời bước
vào trong trang sách. Ban đầu trong Thời xa vắng, Chuyện làng cuội hay Sóng
ở đáy sông, người đọc bắt gặp hình tượng những người phụ nữ hiền lành, chịu
thương, chịu khó, sẵn sàng cam chịu mọi nhẫn nhục như Tuyết, bà Đất hay mẹ
Núi, đối nhân xử thế đúng mực như Hương. Càng về sau, cùng với sự phát triển
của xã hội thì nhân cách con người cũng bị thay đổi, họ sống buông thả và
chạy theo những dục vọng của bản thân như: Châu trong Thời xa vắng; Xuyến,
Hiền trong Chuyện làng cuội đến Linh Anh, bà Nhân trong Hai nhà rồi Xanh
Dương Lẫm Liệt trong Thời loạn. Đó là những người phụ nữ ích kỉ, không giữ
được mình trước lối sống xô bồ thời hiện đại, làm mất đi vẻ đẹp thuần khiết của
người phụ nữ từ bao đời nay. Những nhân vật nữ ấy là bức thông điệp về sự đổi
thay của con người mà Lê Lựu muốn gửi đến người đọc về sự xuống cấp đạo
đức của con người trong thời hiện đại. Có lẽ phải là người rất am hiểu về người
phụ nữ thì Lê Lựu mới nhìn thấy không chỉ những mặt tốt, mặt sáng ở họ mà
còn đi sâu vào những chỗ khuất lấp ở góc tối của tâm hồn họ để đưa ra ánh
sáng giúp con người hoàn thiện mình hơn, sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Với
cái nhìn đa chiều của cuộc sống hiện thực, cùng với cái tâm sâu nặng với đời,
Lê Lựu đã giúp người đọc thấy được hình tượng người phụ nữ trong các tiểu
thuyết của mình gần với những con người đời thường. Vì thế mà tên tuổi cùng
những trang văn của Lê Lựu còn in đậm mãi trong lòng người đọc. Cũng từ
đây, Lê Lựu đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hiện đại nói riêng và trong nền văn học Việt Nam nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢ0
1. Lại Nguyên Ân ( 2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
2. Báo văn nghệ (12- 1986), “Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm”, in trong
Lê Lựu tạp văn, 2002, Nxb văn hoá thông tin.
3. Báo văn nghệ ( 12- 1986), “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách
của mình” –, in trong Lê Lựu tạp văn, 2002 – Nxb văn hoá thông tin.
4. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ
bản, Nxb giáo dục Hà Nội.
5. Lê Tất Cứ, Lê Lựu và ranh giới, in trong Lê Lựu tạp văn, 2002 – Nxb văn
hoá thông tin.
6. Đào Thị Cúc ( 2010), Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Lê Lựu thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ, Đại học KHXH Và NV, Đại học quốc
gia Hà Nội.
7. Phạm Bắc Cường,(2002), Tôi sợ điện ảnh nước mình không đủ tiền và cũng
không đủ kiên nhẫn… in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
8.Việt Dũng – Bùi Hải Hà,(2002), Còn 30 năm nữa để có những tác phẩm văn
học xứng đáng, in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
9. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb giáo dục.
10. Phan Cự Đệ ( 2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb giáo dục Hà Nội.
11. Hà Minh Đức ( chủ biên) ( 2003). Lí luận văn học. Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( đồng chủ biên) (1997), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
13. Đỗ Quang Hạnh, Không có sách, chúng tôi làm ra sách. Chúng tôi làm thơ
ghi lấy cuộc đời mình… in trong Lê Lựu tạp văn, 2002, Nxb văn hoá thông tin.
14. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương (1999), Lí luận văn học – vấn đề
và suy nghĩ, Nxb giáo dục Hà Nội.
15. Nguyễn Thu Hằng, (2002), Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
16. Võ Thị Thuý Hằng ( 2007). Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn
của một số nhà văn nữ thời kì đổi mới. Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
17. Hoàng Ngọc Hiến,(2002), Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu, in trong Lê Lựu
tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
18. Đào Huy Hiệp ( 2008). Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại. Nxb giáo dục
Hà Nội.
19. Nguyễn Hoà,(2002), Suy tư từ một thời xa vắng, in trong Lê Lựu tạp văn,
Nxb văn hoá thông tin.
20. Nguyễn Kim Hoàn ( 2010), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học khoa học xã hội và
nhân văn.
21. Trần Bảo Hưng, Chuyện làng cuội, cách nghĩ và tầm nhìn của nhà văn,
Văn nghệ quân đội số 11, 1993.
22. Lê Hông Lâm, Lê Lựu “ đi đến tận cùng tính cách nhân vật”,(2002), in
trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
23. Nguyễn Văn Long ( 2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy
trong nhà trường, Nxb giáo dục Việt Nam.
24. Nguyễn Văn Long (2002), Thử xác định những đặc điểm cơ bản của văn
học Việt Nam sau 1975, Tạp chí cộng sản số 8.
25. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn ( đồng chủ biên), 2006, Văn học Việt
Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu vá giảng dạy, Nxb giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Long ( 2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb giáo
dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết ( 2007), Nguyễn Minh Châu và công
cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb ĐHSP Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Lưu (1987), Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một thời xa
vắng – Lê Lựu, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 5, 1987.
29. Lê Lựu (2006), Chuyện làng cuội, Nxb văn học Hà Nội.
30. Lê Lựu (2011), Sóng ở đáy sông, Nxb văn hoá thông tin.
31. Lê Lựu (2010), Mở rừng, Nxb hội nhà văn Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
32. Lê Lựu (2010), Hai nhà, Nxb thời đại.
33. Lê Lựu (2008), Thời xa vắng, Nxb hội nhà văn Hà Nội.
34. Lê Lựu (2009), Thời loạn Nxb hội nhà văn Hà Nội.
35. Lê Lựu (2002), Tạp văn, Nxb văn hoá thông tin Hà Nội.
36. Lê Lựu (2011), Đại tá không biết đùa, Nxb Hải Phòng.
37. Lê Lựu (2012), Gã dở hơi, Nxb hội nhà văn Hà Nội.
38. Phương Lựu (2003). Lí luận văn học, Nxb giáo dục Hà Nội.
39. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm (đồng chủ biên) (2006). Văn học Việt Nam
sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb giáo dục Hà Nội.
40. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà ( 1987), Lí luận văn học, Nxb
giáo dục Hà Nội.
41. Mã Giang Lân( 2005). Văn học Việt Nam hiện đại – Vấn đề - tác giả. Nxb
giáo dục Hà Nội.
42. Thiếu Mai, (2002), Nghĩ về một thời xa vắng chưa xa, in trong Lê Lựu tạp
văn, Nxb văn hoá thông tin.
43. Nguyễn Trà My ( 2009). Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn học
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Luận văn thạc sĩ Hà Nội.
44. Lê Thị Mến (2002), Thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi
mới, Luận văn thạc sĩ, Đại học KHXH và nhân văn Hà Nội.
45. Vương Trí Nhàn,(2002), Một đóng góp vào việc nhận diện con người Việt
Nam hôm nay, in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
46. Bảo Ninh: Hiệu ứng thời xa vắng, Báo văn nghệ trẻ, số 47, 2005.
47. Đỗ Hải Ninh (2006), Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới, Tạp chí nghiên
cứu văn học số 7 - 2006.
48. Đỗ Hải Ninh, http: Tôn vinh văn hoá đọc, Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới.
49. Lê Thành Nghị, (2002), Thời xa vắng – một tâm sự nóng bỏng, in trong Lê
Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
50. Mai Hải Oanh, Nguồn http //www văn chương việt, Sự đa dạng về bút pháp
nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,
51. Bùi Việt Sĩ, (2002), Văn chương cũng như vợ con – nhiều lúc chán lắm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhưng không bỏ được, in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
52. Nguyễn Khắc Sính (2008), Đi tìm phong cách chung của văn học, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 2 – 2008.
53. Nguyễn Hữu Sơn, (2002), Một giờ với nhà văn Lê Lựu, in trong Lê Lựu tạp
văn, Nxb văn hoá thông tin.
54. Hồ Sĩ Tá, (2002), Mẩu chuyện viết về đời văn của Lê Lựu, in trong Lê Lựu
tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
55. Chu Thị Thanh Tâm (1989), Đối thoại nghệ thuật trong Thời xa vắng của
Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.
56. Hồng Thái ( 2011), Nhà văn Lê Lựu, Chấp nhận nghề văn thì không kêu ca,
Tạp chí hội nhà văn Việt Nam.
57. Hồng Thái,(2002) Tâm sự phim Sóng ở đáy sông, in trong Lê Lựu tạp văn,
Nxb văn hoá thông tin.
58. Nguyễn Ngọc Thiện,(2002), Khuynh hướng triết lí trong tiểu thuyết –
những tìm tòi và thể nghiệm, in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb văn hoá thông tin.
59. Bích Thu ( số 3 – 1980), Sáng tác của Lê Lựu, Tạp chí văn học.
60. Hà Thị Thuý ( 2002), Hình tượng nhân vật nữ trong sáng tác của Thạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lam, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.