ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

-----------------------------

TRẦN THỊ BÍCH VÂN

NHÂN VẬT NỮ

TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN – 2009

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

----------------------------

TRẦN THỊ BÍCH VÂN

NHÂN VẬT NỮ

TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO

Chuyên ngành:VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 602234

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC :

PGS.TS.TRỊNH BÁ ĐĨNH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2009

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

------------------------

TRẦN THỊ BÍCH VÂN

NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO

Chuyên ngành:VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 602234

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN – 2009

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Công trình đƣợc hoàn thành tại: Trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.Trịnh Bá Đĩnh Phản biện 1: ……………VŨ TUẤN ANH Phản biện 2:…………...NGUYỄN BÍCH THU Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận văn họp tại: Trƣờng Đại học Sƣ phạm – ĐHTN Ngày 15 tháng 11 năm 2009 Có thể tìm hiểu luận văn tại thƣ viện Đại học Thái Nguyên

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

UNIVERSITY OF THAI NGUYEN COLLEGE OF TEACHER’S TRAINING ------------------------ TRAN THI BICH VAN THE FEMALE CHARACTER IN VO THI HAO’S WRITING MAJOR: LITERATURE OF VIET NAM Code :602234 ABSTRACT OF A THESIS FOR MASTER OF PHILOLOGICAL SCIENCE THAI NGUYEN - 2009

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

6

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

“Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không thể sánh nổi sự bí ẩn

của người phụ nữ ”.Thật vậy, ngƣời phụ nữ- một nửa của nhân loại, là biểu

tƣợng cho đạo đức và vẻ đẹp bền vững của nghệ thuật và của cuộc sống. Vì

thế, tìm hiểu về ngƣời phụ nữ, chính là khám phá vẻ đẹp của nghệ thuật và

sức sống của nhân loại. Đã có không biết bao nhiêu nhà văn nhà thơ từ cổ chí

kim trên khắp hành tinh này viết về ngƣời phụ nữ với tất cả tấm lòng yêu

thƣơng rộng mở và viết về ngƣời phụ nữ nhƣ là thƣớc đo của những giá trị mĩ

học nhân văn. Ở Việt Nam ngƣời phụ nữ đã đi từ cuộc sống vào văn học và

trở thành một hình tƣợng rất quan trọng của văn học Việt Nam, ở một số giai

đoạn nó là hình tƣợng nổi bật nhất (chẳng hạn văn học thế kỷ cuối 18 đầu

19).Theo dòng chảy đó văn học ngày nay viết về ngƣời phụ nữ là sự tiếp nối

truyền thống văn học dân tộc, góp phần hoàn thiện hơn chân dung ngƣời phụ

nữ Việt Nam, cũng là thể hiện sâu sắc hơn nhận thức về ngƣời phụ nữ nói

chung.

Từ khi đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội, đời

sống tƣ tƣởng có nhiều thay đổi, đặc biệt là nhà văn có sự thay đổi trong cách

nhìn về cuộc sống, thay đổi trong quan niệm nghệ thuật. Vì vậy mà nền văn

học dân tộc đã có những chuyển mình rõ rệt và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng

ghi nhận. Một trong những thành tựu đó phải kể đến là sự đóng góp lớn của

thể loại tự sự cụ thể là truyện ngắn và tiểu thuyết, trong việc thể hiện nhân vật

ngƣời phụ nữ, nhất là những tác phẩm do chính nhà văn nữ viết. Nhà nghiên

cứu Bùi Việt Thắng coi sự xuất hiện đầy ấn tƣợng của các cây bút nữ là một

hiện tƣợng đáng chú ý của văn xuôi đƣơng đại. Ông viết:“văn học đang mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

gương mặt nữ ngày càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh tế và đằm

7

thắm[55]”. Hay Vƣơng Trí Nhàn trong bài Phụ nữ và sáng tác văn chương

đã nhận xét:“hình như do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời

đại nhanh hơn nam giới [40]”. Phải chăng đây chính là nguyên nhân giúp cho

hàng loạt cây bút nữ trẻ đƣợc bạn đọc mến mộ trong những năm qua nhƣ: Lê

Minh Khuê,Võ Thị Hảo,Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị

Vàng Anh,Võ Thị Xuân Hà,Thuận…Một vấn đề hết sức nổi bật trong sáng

tác của các cây bút nữ, là sự xuất hiện đặc biệt đông đảo và chiếm ƣu thế của

các nhân vật nữ. Các nhà văn nữ với những cố gắng đã khẳng định đƣợc vị trí

của mình trên văn đàn. Nhƣ nhận định của Phạm Xuân Nguyên:“số lượng

nhiều các tác giả nữ lại tỏ ra khá chắc tay trong cái dàn chung, đem đến cho

văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng một sinh khí mới cần thiết để thể

hiện bề sâu của cuộc sống con người hôm nay [41]”. Điều này có cơ sở từ

thực tế xã hội hiện đại, cuộc sống xã hội mà ngày nay với sự phát triển nhƣ vũ

bão của kinh tế, khoa học kỹ thuật, con ngƣời trong khi bị những áp lực cạnh

tranh căng thẳng nên càng mong ƣớc đƣợc sống trong yên bình với những

cảm giác quý giá về hạnh phúc gia đình. Ngƣời phụ nữ hiện đại tuy rất năng

động nhƣng vẫn luôn cần có một cuộc sống tình cảm làm điểm tựa. Luôn khát

khao một tình yêu đẹp, đó không chỉ là nhu cầu tự thân mà còn là khao khát

tự khẳng định tƣ cách tồn tại của họ.Nhạy cảm với mặt trái của cuộc sống với

bao xô bồ hỗn độn, các giá trị về tình yêu- hạnh phúc- gia đình dễ có nguy cơ

bị đảo lộn, ngƣời phụ nữ với bản chất yếu đuối càng khát khao một bến bờ

hạnh phúc bình yên. Thông qua việc tìm hiểu nhân vật nữ trong sáng tác của

các nhà văn nữ, chúng tôi mong muốn tìm đến những“vùng sâu”trong tâm

hồn của một nửa nhân loại. Để việc tìm hiểu và nghiên cứu về nhân vật nữ

trong sáng tác của một nhà văn có hiệu quả nhất, chúng tôi nghĩ nên xuất phát

từ một nhà văn nữ cụ thể.Trong số các nhà văn nữ đƣơng đại,Võ Thị Hảo hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

lên nhƣ một đại diện xuất sắc, giàu cá tính.Tác phẩm của chị ngày càng chiếm

8

đƣợc nhiều tình cảm của độc giả. Có thể nhận thấy rất rõ một điều, ở lĩnh vực

văn xuôi với bảy tập truyện ngắn và tiểu thuyết Giàn thiêu đã in,Võ Thị Hảo

đã thực sự chinh phục ngƣời đọc bằng ngòi bút sắc sảo mà tinh tế, mạnh mẽ

và tài hoa của mình. Chị là ngƣời luôn tin vào một giải thƣởng lớn đó là sự

sàng lọc của thời gian.Thời gian đã sàng lọc và thời gian cũng đã khẳng định

Võ Thị Hảo là một cây bút nổi bật trong đội ngũ các nhà văn nữ và gặt hái

đƣợc khá nhiều thành công với những giải thƣởng:

- Giải thƣởng cuộc thi tiểu thuyết và truyện ngắn với tập Biển cứu rỗi -

Nhà xuất bản Hà Nội - 1991.

- Giải thƣởng 5 năm văn học Hà Nội với Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị

Hảo - Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1995.

- Ngoài ra tiểu thuyết Giàn thiêu đƣợc trao giải thƣởng Hội nhà văn Hà

Nội năm 2004.

Võ Thị Hảo đƣợc thừa nhận là một trong vài cây bút nổi bật và giàu chất

nữ tính trong làng truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Đọc các sáng tác của chị,

ngƣời đọc dễ nhận thấy bên cạnh những khắc khoải về chiến tranh thì những

mảnh đời ngang trái, những đau đớn khôn nguôi của những con ngƣời bất

hạnh là sự thƣờng trực trong mỗi tác phẩm. Đồng thời đó còn là những cảm

thông, day dứt của một trái tim phụ nữ khi nói về những nỗi đau của ngƣời

đồng giới. Hơn nữa, vấn đề phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của sáng tác Võ

Thị Hảo hay của văn học Việt Nam mà là vấn đề chung của văn học thế giới

hiện nay. Chính vì thế mà những năm gần đây xu hƣớng nghiên cứu nữ quyền

đã thành một trào lƣu phê bình, mới, hấp dẫn gây đƣợc nhiều sự chú ý. Chúng

tôi chọn đề tài nghiên cứu:Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo, để

trƣớc hết có cái nhìn sâu hơn về ngƣời phụ nữ trong sáng tác của chị, sau đó

và từ đó đặt vấn đề bƣớc đầu nghiên cứu văn học từ góc nhìn giới tính tiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cận một hƣớng nghiên cứu mới .

9

2. Lịch sử vấn đề.

Võ Thị Hảo đã từng làm thơ từ rất sớm và từng nghĩ mình sẽ trở thành

một nhà thơ, tuy nhiên chị lại bắt đầu xuất hiện chính thức và đều đặn vào

thập niên 90 ở lĩnh vực văn xuôi và lập tức gây đƣợc sự chú ý cũng nhƣ lấy

đƣợc cảm tình của bạn đọc.Vì có một quá trình sáng tác dài, nên có khá nhiều

bài viết, bài phỏng vấn hay nghiên cứu về các sáng tác của Võ Thị Hảo ở

những khía cạnh, những phƣơng diện và mức độ khác nhau sau:

2 .1.Những ý kiến tiêu biểu về sáng tác của Võ Thị Hảo

2.1.1. Đối với thể loại truyện ngắn

Trong bài giới thiệu tập truyện Biển cứu rỗi của Võ Thị Hảo, Đoàn

Minh Tuấn nhận định về đặc trƣng thể loại và nội dung:“Võ Thị Hảo đã tận

dụng được những đặc trưng lớn nhất, tiêu biểu nhất của thể loại nhỏ này. Mỗi

truyện của chị như một tia nắng chiếu vào tầm rộng và chiều sâu biển cả cuộc

đời”.Theo tác giả:có thể nói ở tập truyện ngắn này,chị tập trung ở hai cái

nhìn:“Cái nhìn thứ nhất vào mặt trái của vầng trăng chiến tranh. Cái nhìn

thứ hai vào những con người nhỏ bé(số đông nhân loại) tồn tại trong im

lặng”. Nhận định đó đánh giá chiều rộng, chiều sâu của phạm vi phản ánh

trong truyện ngắn Võ Thị Hảo, khái quát đƣợc đối tƣợng phản ánh trong

truyện ngắn của chị. Đồng thời tác giả bài viết còn nhận xét truyện ngắn Võ

Thị Hảo đã “bộc lộ cái nhìn dung dị, bẩm sinh của các cây bút nữ nhưng ở

chị còn sâu sắc hơn bởi khi chấm dứt câu chuyện,chị đã gióng lên trong lòng

người đọc âm vang của sự lo lắng. Những lo lắng mơ hồ về cuộc đời biển

cả”.Về nghệ thuật, Đoàn Minh Tuấn còn nhận xét về:“ lối viết trữ tình để đạt

hiệu quả nhận thức - một trong những đặc điểm của thể loại truyện ngắn hiện

đại”. Nét riêng của bút pháp truyện ngắn Võ Thị Hảo theo ông còn ở:“cốt

truyện vững chắc với xung đột được đẩy tới cao trào”[16]. Trong bài Võ Thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Hảo giữa những trang viết, trang đời, Lƣơng Thị Bích Ngọc nhận xét khá

10

toàn diện về truyện ngắn Võ Thị Hảo:“Truyện ngắn của Võ Thị Hảo phản

ánh hiện thực một cách nghiệt ngã nhưng người đọc lại không nhìn thấy sự

cay nghiệt của một người viết. Lan toả trên những trang viết, một tấm lòng

nhân ái của một người đàn bà cầm bút hết lòng yêu cuộc sống và con người.

Chị còn nhận xét:Trong truyện Võ Thị Hảo, cái tôi của tác giả dường như chỉ

thấp thoáng đâu đó, để rồi người đọc thấy cái tôi của hiện hữu” [14,tr.303-

304].

Nguyễn Lƣơng trong bài viết Gương mặt Võ Thị Hảo cũng nêu ấn

tƣợng tổng quát truyện ngắn củaVõ Thị Hảo:“Mỏng manh đến điệu đà, nhạy

cảm đến mức khắt khe, đó cảm giác ban đầu về nữ văn sĩ xứ Nghệ này khi

mới đọc, mới tiếp xúc với chị. Còn ẩn sâu đằng sau những câu chữ trau chuốt

là những tâm sự day dứt khôn nguôi về số phận con người, về cuộc đời và

nhân tình thế thái. Đọc truyện của Võ Thị Hảo, người ta thường buồn. Một

nỗi buồn có lẫn ngọt ngào và cay đắng” [12,tr.209-230].

2.1.2. Về tiểu thuyết Giàn thiêu

Trong bài giới thiệu tác phẩm Giàn thiêu, trên báo Ngƣời đại biểu nhân

dân số 3 năm 2005 một tác giả viết:“Giàn thiêu mặc dù hấp dẫn nhưng là

cuốn tiểu thuyết không dễ đọc. Cũng như những truyện ngắn của Võ Thị Hảo

cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu đang đi theo con đường riêng của nó, ngấm dần

vào trái tim người ta, và những tầng lớp ngữ nghĩa cũng như những tầng lớp

nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này thường trở đi trở lại và ám ảnh người đọc”

[15] .

Xuất hiện chƣa lâu trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam, Giàn thiêu một sự

bứt phá đầy ngoạn mục của nhà văn Võ Thị Hảo thực sự thu hút đƣợc sự chú

ý của độc giả, các nhà phê bình và nghiên cứu.Trong lời giới thiệu có tính

chất đề dẫn cho cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu- xứ sở của lối văn chƣơng mê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

hoặc và huyền bí, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết:“Văn Võ Thị Hảo

11

không chỉ là những dòng chữ, không chỉ là truyện ngắn hay tiểu thuyết. Văn

Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình tượng mà mỗi lần tiếp cận, người đọc lại ngạc

nhiên thấy mình khám phá ra một tầng lớp ngữ nghĩa khác ẩn mình sau

những câu chữ. Đó là lối văn đã được tác giả thổi linh hồn. Linh hồn đó tạo

lên những câu văn huyền ảo, mê hoặc thậm chí ma quái” [15]. Rõ ràng theo

Phạm Xuân Nguyên, chính lối văn chƣơng mê hoặc ấy là thanh nam châm thu

hút bạn đọc, nhƣng đồng thời cũng là một thách thức đòi hỏi bạn đọc phải có

bản lĩnh, thực sự tự tin khi bƣớc vào khám phá thế giới văn chƣơng huyền bí

của Võ Thị Hảo, phải tìm hiểu phát hiện ra những tầng hình tƣợng, lớp ngữ

nghĩa khác ẩn sau những câu chữ thì mới thấy hết đƣợc cái hay cái hấp dẫn

của tác phẩm và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.

2.2.Những ý kiến tiêu biểu về nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị

Hảo

2.2.1.Về nhân vật nữ trong truyện ngắn

Đã có không ít những ý kiến nhận xét về nhân vật nữ trong truyện ngắn

của Võ Thị Hảo, ở đây chúng tôi dẫn ra một số nhận định tiêu biểu chẳng hạn:

Trong Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn

1975-1995 (luận án tiến sĩ )Lê Thị Hƣờng đã nhận xét về yếu tố kỳ ảo trong

truyện ngắn Võ Thị Hảo:“Bằng câu chuyện nhuốm màu huyền thoại Võ Thị

Hảo đã đề cập một vấn đề rất thực. Đó là số phận, nỗi đau của cả giới đàn

bà.Võ Thị Hảo hay xây dựng nhân vật ảo, song nhân vật ảo lại tượng trưng

cho số phận của những con người thực.Cái kì ảo ở đây không làm phương hại

tới hiện thực được phản ánh. Trái lại nó tô đậm, mở rộng, khơi sâu thêm hiện

thực, mang ẩn ý sâu, tầm khái quát cao” [22].

Trong bài phỏng vấn Võ Thị Hảo suốt đời chỉ mơ một giấc, Nguyễn

Hằng nhận định:“Chị được xếp vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tính. Những thân phận đàn bà, những con người nhỏ bé trước bão lũ cuộc

12

đời, những gì rất riêng tư mà chẳng riêng tư chút nào, là điều mà chị luôn

trăn trở trên các trang viết của mình” [13].

Qua Huyền thoại về tình yêu, Nguyễn Văn Lƣu đã chỉ ra những vấn đề

mà Võ Thị Hảo muốn gửi gắm ở những nhân vật nữ: “Tác giả giành cho trái

tim người phụ nữ, cho số phận người phụ nữ lòng yêu thương đau xót sâu sắc

nhất.Thân phận người phụ nữ trở thành tâm niệm thường xuyên, da diết trong

những trang viết của Võ Thị Hảo” [54].

Ở bài viết Đã đến lúc người đàn bà nổi loạn,Ngọc Anh nhận xét:“Trong

những truyện ngắn của Võ Thị Hảo, có những người đàn bà khổ vì yêu và khổ

vì bị ruồng bỏ” [1] .

2.2.2. Về nhân vật nữ trong tiểu thuyết Giàn thiêu

Trả lời câu hỏi: Thông điệp chính của chị gửi đến độc giả khi viết Giàn

thiêu là gì? Nhà văn Võ Thị Hảo cho biết: “Một trong những thông điệp của

Giàn thiêu: Dựng giàn thiêu người trên đảo Âm Hồn đốt sách, mổ bụng, moi

gan người dưới đoạn đầu đài, hay bất kì một cực hình nào cũng không thiêu

hủy được sự thật, khát vọng tự do và công lý”[18]. Quả thực “Giàn thiêu

mang đến cho người đọc cảm giác đang đứng trước một thế giới va đập bạo

liệt giữa thiện và ác, tốt và xấu, sự bi thảm đến mức trớ trêu của số phận con

người”…[15].

Trong một bài phỏng vấn khác, chị nói: “Rất nhiều thông điệp tôi gửi

vào Giàn thiêu, nhưng một trong những thông điệp quan trọng nhất: Khát

vọng tự do và tình yêu. Sự trường tồn, bất tử của sự thật trước bạo lực và

cường quyền…những lầm lạc thật dễ thương và đau đớn của kiếp người. Tôi

cũng gửi đến qua Giàn thiêu những người đàn bà đẹp, mong manh giữa cuộc

đời mà khuôn khổ tình yêu của họ không khớp với một cái khuôn khổ nào của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

hiện thực” [15,tr.559-560] .

13

Trong một buổi tọa đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo diễn ra vào ngày

19/10/2005 tại Viện Goethe (Hà Nội) nhân sự kiện công ty văn hóa truyền

thông Võ Thị vừa ấn hành bốn tập truyện ngắn, đồng thời tái bản tiểu thuyết

Giàn thiêu. Buổi tọa đàm có sự tham gia của đông đảo nhà văn, nhà phê bình,

nhà nghiên cứu văn học nhƣ Dƣơng Tƣờng, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Hòa,

Châu Diên, Nguyễn Thị Minh Thái...cùng đại diện nhiều tờ báo của Hà Nội

và Trung ƣơng đến dự. Đáng chú ý trong buổi toạ đàm là vấn đề nói về xu

hƣớng nữ quyền thể hiện qua ba nhân vật nữ tuyệt đẹp là Nhuệ Anh, Lê Thị

Đoan và Ngạn La, trong đó đặc biệt là Nhuệ Anh và Lê thị Đoan hầu nhƣ là

hiện thân cho lƣơng tri, tình yêu cao thƣợng và sự khoan dung. Có một điều

cũng đáng lƣu ý là khi trả lời câu hỏi về cái nhãn ngƣời ta gán cho mình là

nhà văn nữ quyền,Võ Thị Hảo đáp rằng khi viết chị không quan tâm đến

những chủ nghĩa, trƣờng phái chẳng hạn nhƣ nữ quyền, nếu có khuynh hƣớng

nữ quyền ấy là một cái gì nằm trong tự thân chị.

Trên đây là những ý kiến, nhận xét, đánh giá và bài viết tiêu biểu về một

số đặc điểm nghệ thuật nói chung và nhân vật nữ nói riêng trong sáng tác của

Võ Thị Hảo. Song đó mới là những ý kiến, đánh giá, hoặc nhận xét bƣớc đầu,

ở những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên đã phần nào thể hiện đƣợc sự cảm

nhận đúng đắn của các nhà nghiên cứu về nhà văn này. Đặc biệt chƣa có công

trình nghiên cứu nào riêng về nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo.

Những bài viết và nghiên cứu khác của ngƣời đi trƣớc sẽ là những gợi mở quý

báu cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu

3.1.Mục đích

Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu về nhân vật nữ trong sáng

tác của Võ Thị Hảo, ngƣời viết luận văn muốn cho thấy những vấn đề về sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

quan tâm của văn học đến ngƣời phụ nữ, cách thể hiện nhân vật nói chung,

14

nhân vật nữ nói riêng cùng các thủ pháp thể hiện nhân vật nữ trong sáng tác

của Võ Thị Hảo. Đồng thời qua đó để thấy đƣợc mối quan hệ giữa nhân vật

nữ với bản thân hình tƣợng tác giả …

3.2.Phạm vi nghiên cứu

Luận văn sẽ khảo sát các tập truyện ngắn sau của Võ Thị Hảo.

- Hồn trinh nữ - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2005

- Goá phụ đen - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2005

-Người sót lại của rừng cười - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2006

-Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm - Nhà xuất bản Phụ nữ,

2007 và cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2005.

4.Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp nghiên

cứu chính sau:

4.1.Phương pháp khảo sát - thống kê

Chúng tôi tiến hành khảo sát- thống kê nhân vật nữ trong sáng tác của

Võ Thị Hảo trên nhiều phƣơng diện, để từ đó phân loại nhân vật, tìm hiểu

thấu đáo hơn các đặc điểm của nhân vật nữ cũng nhƣ các thủ pháp thể hiện

nhân vật nữ.

4.2.Phương pháp hệ thống

Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh thể tác phẩm, nhân vật nữ

đƣợc xem xét trong mối tƣơng quan với cả hệ thống nhân vật, với cốt truyện,

với giọng điệu, với hệ thống các yếu tố nghệ thuật thể hiện ngoại hình, nội

tâm…Sử dụng phƣơng pháp này giúp cho việc tìm hiểu nhân vật nữ trong

sáng tác của Võ Thị Hảo đạt đến cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.

4.3.Phương pháp so sánh

Để thấy đƣợc cái chung cũng nhƣ nét riêng độc đáo của nhân vật nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

trong sáng tác của Võ Thị Hảo, luận văn cũng dùng phƣơng pháp so sánh,

15

so sánh bút pháp của chị với các nhà văn nữ khác.

4.4. Phương pháp phân tích- tổng hợp

Từ việc phân tích các dẫn chứng, các vấn đề cụ thể của nội dung và hình

thức tác phẩm, chúng tôi rút ra những vấn đề chung mang tính khái quát.

5.Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

gồm các chƣơng sau:

Chương 1

NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN HỌC VI ỆT NAM

1.1 .Nhân vật nữ trong văn học truyền thống

1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kì đổi mới

1.2.1. Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ

1.2.2.Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn của Võ Thị Hảo

Chương 2 ÂM HƯỞNG NỮ QUYỀN QUA CÁC NHÂN VẬT NỮ CỦA VÕ THỊ HẢO

2.1. Về vấn đề nữ quyền

2.1.1.Vấn đề nữ quyền, một hiện tƣợng văn hoá xã hội của thời hiện đại

2.1.2. Nữ quyền –Ý thức về hạnh phúc của ngƣời phụ nữ

2.2. Bình diện xã hội- tƣ tƣởng, nhân văn của nhân vật nữ trong sáng tác Võ

Thị Hảo

2.2.1.Vấn đề số phận bi kịch của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo

2.2.1.1.Bi kịch là nạn nhân của chiến tranh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

2.2.1.2.Bi kịch của cái nghèo

16

2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền

2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi

2.2.2.Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo

2.2.3.Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo

Chương 3

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC

CỦA VÕ THỊ HẢO

3.1.Nghệ thuật miêu tả ngoại hình

3.2.Nghệ thuật miêu tả tâm lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại

17

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN HỌC VI ỆT NAM

1.1. Nhân vật nữ trong văn học truyền thống

“Văn học là nhân học”(M.Gorki), nhiệm vụ cơ bản và mục đích cao

nhất của văn học là khám phá, phát hiện, nhận thức về con ngƣời thông qua

những nhân vật văn học.Việc tìm hiểu và thể hiện nghệ thuật về con ngƣời

đƣợc bộc lộ chủ yếu trên phƣơng diện xây dựng nhân vật.

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:“Nhân vật văn học chính là con

người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học”25. Nhân vật là hình

thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tƣợng. Chức năng của

nó là khái quát những quy luật phong phú của cuộc sống con ngƣời, từ đó bộc

lộ những hiểu biết, quan niệm và những trăn trở, ƣớc mơ của ngƣời nghệ sĩ.

Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện những cá nhân và xã hội nhất

định, bày tỏ quan niệm riêng về các cá nhân, xã hội đó. Nhân vật là “công cụ

khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ

thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng” 33. Nhƣ vậy,

nhân vật đóng vai trò là yếu tố hàng đầu của tác phẩm, là phƣơng diện để nhà

văn truyền tải tƣ tƣởng, thể hiện cá tính sáng tạo của mình, đồng thời lại mang

quan niệm có tính nghệ thuật của nhà văn về thời đại, đặc biệt là trong các sáng

tác thuộc thể loại tự sự.

Phụ nữ là một nửa của nhân loại, là biểu tƣợng của cái đẹp, là hiện thân

của sự sinh tồn và luân chuyển sự sống. Trong dòng chảy văn học từ cổ chí

kim, hình tƣợng ngƣời phụ nữ luôn là một trong những đề tài quen thuộc nhất

và dƣờng nhƣ phụ nữ là một nguồn cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

vẫn chƣa khai thác hết.Văn học truyền thống Việt Nam đã nhiều lần quan

18

tâm, tập trung đến đề tài về ngƣời phụ nữ. Qua hình tƣợng này ngƣời đọc các

thế hệ sau thấy đƣợc giá trị của con ngƣời Việt Nam qua các thời đại, thấy cả

số phận của những “phận đàn bà”, của con ngƣời nhân loại.

Trong văn học dân gian, nhân vật nữ đại diện cho lý tƣởng thẩm mỹ của

nhân dân hiện lên trong các câu chuyện cổ tích thƣờng có số phận bi thảm

nhƣng luôn tỏa sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hy sinh,

giàu lòng nhân ái và cuối cùng chắc chắn sẽ đƣợc hƣởng hạnh phúc. Ngƣời

phụ nữ trong ca dao lại mang vẻ đẹp đằm thắm, ý nhị, dịu dàng và kín đáo

nhƣng đồng thời cũng là hiện thân cho những bi kịch, phải gánh chịu số phận

bất hạnh, không có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình.

Đến văn học Trung đại đã có biết bao tiếng nói xót xa, thƣơng cảm, cho

thân phận ngƣời phụ nữ bị chà đạp, vùi dập trong xã hội phong kiến. Nhƣ

trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là hình ảnh những ngƣời phụ nữ

đức hạnh, đẹp ngƣời, tốt nết luôn khát khao một cuộc sống bình yên, hạnh

phúc nhƣng bị những thế lực cƣờng quyền và cả lễ giáo phong kiến khắc

nghiệt, xô đẩy đến những cảnh ngộ éo le, ngang trái bất hạnh. Ở Cung oán

ngâm của Nguyễn Gia Thiều chúng ta thấy đó là câu chuyện kể về cuộc đời

của một nàng cung nữ xinh đẹp, khi mới vào cung đƣợc vua yêu chiều nhƣng

sau bị thất sủng. Từ trong thâm cung lạnh lẽo nàng hồi tƣởng lại quá khứ và

cất tiếng oán thán cho số phận bạc bẽo của mình. Cả tác phẩm là tiếng than

dài, là sự đau đớn, tấm tức và tâm trạng bế tắc của nàng cung nữ. Nguyễn Gia

Thiều là ngƣời thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho số phận bất hạnh của

nàng. Còn Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là tiếng kêu thƣơng đến đứt ruột,

tiếng kêu xé lòng cho thân phận chìm nổi lênh đênh trong kiếp đoạn trƣờng

của nàng Kiều và cho “phận đàn bà” nói chung. Tiếng nói mạnh bạo, dám bày

tỏ khát khao đƣợc yêu và sống hạnh phúc còn vang lên đầy mạnh mẽ, và đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

còn là sự kịch liệt phản đối chế độ năm thê bảy thiếp trong xã hội phong kiến

19

“chém cha cái kiếp lấy chồng chung” của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hƣơng.

Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - đầu XIX là thời kỳ rất đặc biệt bởi sự xuất

hiện các nữ sĩ nhƣ: Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan,

Ngọc Hân công chúa…Trong sáng tác văn chƣơng, nhân vật nữ là trung tâm,

là nơi gửi gắm, bày tỏ những tƣ tƣởng thẩm mĩ của nhà văn. Không có thời kì

nào trong lịch sử văn học Việt Nam lại rực rỡ, lộng lẫy nhƣ thời kì này với sự

biểu hiện nghệ thuật trong sự khám phá đời sống nội tâm nhiều cung bậc của

con ngƣời. Dƣờng nhƣ có mối liên quan giữa tinh thần nữ quyền và sự nở rộ

của sáng tác văn học.

Đến đầu thế kỷ XX, sáng tác của các nhà văn chí sĩ yêu nƣớc nhƣ Phan

Bội Châu đã dựng lên chân dung của những ngƣời phụ nữ, những ngƣời anh

hùng cứu nƣớc nhƣ bà Trƣng Trắc, Trƣng Nhị, nàng Liên Hoa trong vở tuồng

Trưng nữ vương hay hình ảnh cô Chí, Triệu, Tinh, Liên, Hạnh, Lực, trong

tiểu thuyết Trùng quang tâm sử.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 tiếp tục khai thác đề tài về

ngƣời phụ nữ. Sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng hình ảnh những

ngƣời phụ nữ mới, đòi quyền tự do yêu đƣơng vƣợt qua mọi lễ giáo phong

kiến nhƣ Nhung trong Lạnh lùng của Nhất Linh. Văn học hiện thực phê phán

giai đoạn này lại đi sâu tìm hiểu những bi kịch khác nhau trong cuộc đời

ngƣời phụ nữ. Đó là cuộc đời cơ cực lắm đắng cay của chị Dậu trong Tắt đèn

của Ngô Tất Tố, Tám Bính trong Bì vỏ của Nguyên Hồng, hay thân phận của

một“dị nữ” nhƣ Thị Nở trong tác phẩm Chí phèo của Nam Cao. Ngƣời phụ

nữ trong các tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn hiện thực hiện lên nhƣ

một biểu tƣợng trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp

ngƣời và cuộc đời họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc. Đến

văn học giai đoạn 1945 - 1975, nhân vật ngƣời phụ nữ tiếp tục đƣợc phản ánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

và đƣợc làm nổi bật trong mối quan hệ với những vấn đề chung của thời

20

đại.Tắm mình trong bầu không khí hào hùng của dân tộc, ngƣời phụ nữ góp

phần không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang. Đó là Nguyệt trong

Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, chị Út tịch trong Người mẹ

cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn đất của Anh Đức. Có thể thấy

ngƣời phụ nữ trong giai đoạn này là con ngƣời của cộng đồng, của xã hội gắn

với cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, đƣợc soi dọi dƣới cái nhìn lý tƣởng mang

tính sử thi.

Sau năm 1975, văn học có xu hƣớng trở về với cái đời thƣờng muôn

mặt, cảm hứng sử thi nhạt dần, thay thế vào đó là cảm hứng thế sự- đời tƣ.

Vấn đề các nhà văn quan tâm không phải là cuộc sống, chiến đấu dũng cảm vì

dân vì nƣớc nữa mà là con ngƣời của cuộc sống đời thƣờng với những lo toan

rất nữ, ngƣời phụ nữ hiện lên với tƣ cách con ngƣời cá nhân, những mảnh đời

riêng lẻ. Nhân vật nữ xuất hiện đa dạng, phong phú và mỗi nhà văn tìm thấy

cho mình một hƣớng đi riêng khi khai thác đề tài này. Nhƣ Nguyễn Huy

Thiệp khai thác về thiên tính nữ qua một loạt những truyện ngắn Chảy đi

sông ơi, Con gái thủy thần, Nhà Bua. Còn Nguyễn Minh Châu lại tiếp tục

khai thác vẻ đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ nhƣng chú ý nhiều hơn đến

đời sống nội tâm của họ, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành,

Thai trong Cỏ lau. Họ là một thế giới đầy bí ẩn và cần đƣợc khám phá với rất

nhiều những khao khát về tình yêu, hạnh phúc. Biết bao cảnh đời khác nhau,

có hạnh phúc ngọt ngào, có bi kịch đắng cay, có tốt có xấu và có cả cao cả lẫn

thấp hèn.

Văn học Việt nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ đông đảo

các nhà văn nữ trẻ viết về ngƣời phụ nữ nhƣ một sự khám phá chính bản thân

mình nhƣ: Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh

Khuê, Võ Thị Hảo…Với cái nhìn mẫn cảm bản năng, các nhà văn nữ thƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

quan tâm nhiều đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn và khát vọng tình yêu hạnh phúc

21

của ngƣời phụ nữ. Tác giả Văn Tâm trong bài viết Phụ nữ và sáng tác văn

chương lại khẳng định niềm tin vào sáng tác của các cây bút nữ hiện nay, tin

ở sự đóng góp cho: “cái mảng khá bí ẩn là tâm hồn họ”.

Qua đây, chúng ta thấy hình tƣợng ngƣời phụ nữ là hình tƣợng xuyên

suốt và nổi bật trong nền văn học Việt nam, gắn liền với sự vận động trong

quan niệm nghệ thuật về con ngƣời qua các giai đoạn văn học. Có một đặc

điểm là ngƣời phụ nữ luôn là hình ảnh tích cực, đƣợc nhà văn gửi gắm nhiều

ĐỘNG, đó dƣờng nhƣ là nét tiêu biểu của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam

tình cảm thƣơng yêu trân trọng NHẪN NẠI, ĐA CẢM, THUA THIỆT, CHỦ

ở mọi thời đại.

1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kì đổi mới

1.2.1 .Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ

Với lịch sử đấu tranh không phải chỉ cho việc giải phóng dân tộc, Việt

nam - một nƣớc chịu ảnh hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng phong kiến Trung Hoa

cũng mất nhiều năm cho cuộc đấu tranh về bình đẳng giới. Khi đất nƣớc bƣớc

vào thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội và tƣ tƣởng con ngƣời cũng đổi

thay tận gốc rễ. Bởi vậy trong cách nhìn về cuộc sống, con ngƣời và quan

niệm về nghệ thuật của các nhà văn…cũng tất yếu biến đổi. Trong bối cảnh

xã hội mới, vai trò, vị trí của ngƣời phụ nữ đã đƣợc thừa nhận, đề cao và

khẳng định. Họ tham gia ngày càng đông vào tất cả các lĩnh vực nhƣ kinh tế,

chính trị, y tế, thƣơng mại, xã hội…trong đó có sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt

là văn học, một trong những lĩnh vực nhạy cảm dễ bắt nhịp với những vấn đề

nóng hổi của đời sống mà lúc này cũng đã mở rộng cánh cửa của mình để

chào đón các cây bút nữ.

Trên diễn đàn văn học, sự xuất hiện rầm rộ và đầy ấn tƣợng của các cây

bút nữ đã đem đến một diện mạo mới, một làn gió mới cho nền văn học dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tộc. Chính sự xuất hiện ngày càng đông đảo các gƣơng mặt nữ cùng với các

22

tập thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết của họ, đã thổi một luồng gió mới cho

văn học Việt nam sau1975, góp phần tô điểm cho diện mạo nền văn học và

lấy lại thế cân bằng trong sáng tác văn học giữa các tác giả nam và nữ.

Nếu nhƣ ở các giai đoạn trƣớc 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ƣu thế thuộc

về các nhà văn nam nhƣ Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải,

Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đƣơng đại phần đông gắn với

các tên tuổi nữ nhƣ: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Dạ

Ngân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Đoàn

Lê, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu…Nhƣ lời phát biểu của nhà văn Võ

Phiến: “Chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính”2. Những trang

viết của các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc

và quyền sống của ngƣời giới mình. Trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ

và cảm nhận của họ, ngƣời phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần đƣợc sẻ

chia và họ đã tìm thấy trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng một sức

mạnh để qua thế giới nhân vật nữ họ tìm đƣợc nơi để bày tỏ những tâm tƣ,

suy nghĩ uẩn khúc của lòng mình.Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tƣơng

ứng lúc đầu là một vài cây bút nữ viết, rồi những cây bút khác qua tác phẩm

của những ngƣời đi trƣớc tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để

giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó họ nhƣ đƣợc tự do phơi

mở cái tôi cá nhân của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức

riêng. Họ thẳng thắn đối thoại lại những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ

giới trƣớc đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị,

chỉ viết về những chuyện nhỏ nhặt, không có tầm tƣ tƣởng lớn. Mạnh dạn, họ

thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị

sống…của chính mình trên diễn đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu,

họ khám phá toàn diện về mọi mặt, mọi cung bậc, từ những dƣ vị ngọt ngào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đến những dƣ vị đắng chát, từ đớn đau đến xót xa, từ những nhẹ dạ cả tin đến

23

những mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải…tất cả đều là những bộc bạch

chân thực nhất của các cây bút nữ viết về giới mình. Hơn nữa khi nữ văn sĩ

viết về phái yếu, cũng có nghĩa là họ đã hƣớng ngòi bút vào chính mình, dù

tác giả viết về ngƣời phụ nữ khác thì cái nhìn của họ cũng sẽ có phần sâu sắc,

triệt để và thấu đáo hơn. Nhà văn nữ viết nhiều về phụ nữ vì theo đặc trƣng

tâm lý họ tồn tại với tình cảm hƣớng nội, luôn muốn tìm sự đồng cảm, khác

tâm lý đàn ông với lý trí hƣớng ngoại luôn luôn phân tích chiếm lĩnh. Bên

cạnh đó nhà văn nữ muốn thông qua nhân vật nữ để thể hiện tâm hồn mình,

bản thân mình, vì vậy mà những sáng tác của các tác giả nữ thƣờng mang

màu sắc tự truyện. Diện sống của phụ nữ nói chung không rộng bằng nam

giới, các tác giả nữ lại thƣờng viết tập trung vào những đề tài nhất định, do đó

đôi khi không tránh khỏi việc gây nên cảm giác đơn điệu cho ngƣời đọc, nhƣ

nhà văn Lê Minh Khuê nhận xét: “Nghĩ về những người viết cùng giới mình,

tôi thường bị chi phối bởi cảm giác nước đôi. Một mặt nhiều chị em bộc lộ

một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác sao vẫn cứ

cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung rồi mỗi người cũng thế thôi, không bao

giờ có sự gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả ”[27,tr.257-258].Và

nhà phê bình Đặng Anh Đào cũng khẳng định: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ

đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách…tuy nhiên phải nói thật là ở

mỗi người nguy cơ lặp lại chính mình, nguy cơ ấy khá rõ”[27].

Thế giới nhân vật nữ của các nhà văn nữ đƣợc xây dựng trên những

trang văn thấm đẫm tình cảm, cảm xúc nhƣ đang tuôn trào từ trái tim, tâm hồn

của họ với giọng điệu khi thì dịu dàng, ấm áp, khi thì xúc động nghẹn

ngào…và tình yêu luôn là đề tài trung tâm trong nhiều sáng tác của các cây

bút nữ. Đặc biệt ngƣời phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới hiện lên với khát

vọng yêu đƣơng mãnh liệt, luôn đòi hỏi đƣợc yêu thƣơng che chở, bộc lộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

những phẩm chất tốt trong tình yêu và thƣờng xuyên gặp ngang trái trong ái

24

tình. Nhân vật nữ của các nhà văn nữ thời kì đổi mới không phải là không có

những ngƣời hạnh phúc, những khoảnh khắc vui, song hầu hết trong số họ là

những ngƣời bất hạnh, cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động nữ văn sĩ

là ngƣời dễ nhận ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của ngƣời cùng giới hoặc

của chính mình. Qua những trang viết đó, các nhà văn nữ thể hiện sự quan

tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của ngƣời giới mình trong

cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ ngƣời phụ nữ vẫn còn

mang nhiều nỗi khổ cần đƣợc sẻ chia. Chính vì thế mấy mƣơi năm trở lại đây,

ngƣời đọc đã đƣợc thƣởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong cách

khác nhau của các cây bút nữ, trải nghiệm nhƣ Lê Minh Khuê, sắc sảo nhƣ

Phạm Thị Hoài, tinh tế nhƣ Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm nhƣ Nguyễn Thị

Thu Huệ, hồn hậu và đậm sắc màu văn hoá nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ ...Chƣa bao

giờ phái nữ lại dành đƣợc sự quan tâm nhiều của ngƣời cầm bút nhƣ hôm nay.

Khuynh hƣớng duy nữ đƣợc thể hiện không chỉ là sự xuất hiện nhiều nhà văn

nữ, nhiều nhân vật nữ trong các tác phẩm mà nó còn chi phối ngay cả cách đặt

tên tác phẩm nhƣ: Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh Thái, Bến không

chồng của Dƣơng Hƣớng, Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà

có ma lực của Y Ban, Hồn trinh nữ, Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, Thiếu

phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Xưa kia chị đẹp nhất làng của

Tạ Duy Anh…Mỗi tác giả đều cố gắng xác lập một tiếng nói riêng, một giọng

điệu của riêng mình. Dƣờng nhƣ với xu hƣớng duy nữ ngôn ngữ văn chƣơng

của nền văn học đã đổi thay, tinh tế hơn, chất nội cảm nhiều hơn, màu sắc

biểu tƣợng đa dạng hơn.

1.2.2 .Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn củaVõ Thị Hảo

Xem xét văn chƣơng của một nhà văn, phƣơng pháp tiểu sử trong một

chừng mực nào đó cũng có tác dụng, chỉ có điều không nên lấy tiểu sử nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

văn để giải thích toàn bộ các yếu tố văn chƣơng mà thôi, vì thế những nét sơ

25

qua về Võ Thị Hảo, cuộc sống và quá trình sáng tác cũng là hữu ích. Võ Thị

Hảo, tên khai sinh và đồng thời cũng là bút danh của chị, sinh ngày 12/4/1956

tại Diễn Bình - Diễn Châu - Nghệ An. Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất xứ Nghệ

khắc nghiệt nhƣng có lẽ cũng chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây đã

tạo nên tính cách con ngƣời chị - một tính cách chịu đựng bền bỉ và kiên

cƣờng.Vì thế khi nói về quê hƣơng mình chị thƣờng nói: “Tôi cảm ơn những

kỉ niệm, mà đau khổ nhiều hơn là hạnh phúc, vì chính chúng đã tạo ra

tôi”[7]…Chính tính cách đó giúp chị dù ở hoàn cảnh nào cũng có thể thích

nghi và tìm cách vƣợt qua những đoạn trƣờng chìm nổi của cuộc đời. Chị là

ngƣời có niềm ham mê đọc sách từ khi còn nhỏ, nhiều lúc phải đọc trộm gia

đình. Từ niềm đam mê ấy chị đã trở thành cô sinh viên Văn khoa trƣờng Đại

học Tổng hợp Hà Nội, với bao khát vọng và hoài bão văn chƣơng cùng giấc

mộng đẹp về tình yêu đã nuôi dƣỡng chị trong những năm tháng tuổi xuân

phơi phới ấy. Chị từng làm thơ từ rất sớm cũng từng nghĩ mình sẽ trở thành

một nhà thơ, thế nhƣng duyên số lại đƣa chị đến với nghề báo.Tốt nghiệp

khoa Ngữ Văn trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội, ra trƣờng chị về công tác ở

nhà xuất bản văn hoá dân tộc, nhập cƣ vào chốn thị thành cùng với tổ ấm yêu

thƣơng, gia đình bé nhỏ của mình. Có lẽ nghiệp văn mới là một sự an bài

trong số phận chị, cho nên từ đây những trang viết bắt đầu thao thức trong chị

và rồi luôn đồng hành với cuộc sống công chức của chị những năm 80-90 của

thế kỉ trƣớc, nhƣ một ngọn lửa cháy âm ỉ giữ cho tâm hồn chị luôn rực nóng

và đam mê. Vì là niềm đam mê nên Võ Thị Hảo hết mực trân trọng cái

khoảng riêng ấy cho dù khi đó văn chƣơng không đủ sức đem lại cho gia đình

một cuộc sống yên ổn, và hạnh phúc gia đình chị bắt đầu có dấu hiệu của sự

bất ổn từ đây. Chính chị đã để cái không khí văn chƣơng đó len lỏi quá sâu

vào đời sống gia đình lại vẫn bƣớng bỉnh, khƣ khƣ giữ lấy cho mình một góc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

riêng để thoả mãn niềm đam mê đó. Cuộc sống vật chất khó khăn của những

26

năm tháng đất nƣớc còn trong chế độ bao cấp, để vƣợt qua những năm tháng

ấy Võ Thị Hảo đã viết nhiều và bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn, đó chính là

thời gian chị viết văn mà không có đƣợc sự ủng hộ và đồng thuận của chồng.

Chị đã níu giữ đƣợc cuộc hôn nhân bất ổn trong hai mƣơi năm trời. Khi cuộc

hôn nhân không còn là cái đích đắm say của cả hai ngƣời, chị đã quyết định

giải thoát cho mình và cho ngƣời khác khỏi sự nặng nề của một cuộc hôn

nhân không hạnh phúc, tất cả những điều ấy đều để lại dấu ấn trong sáng tác

của chị. Trong cuộc sống Võ Thị Hảo rất hay có những cuộc ra đi, trong công

việc mƣu sinh, trong tình cảm cũng nhƣ trong sáng tạo văn chƣơng. Chị nói:

mình không phải là ngƣời thích phiêu lƣu hoặc thích thay đổi mà là ngƣời phụ

nữ viết văn, để giữ lòng tự trọng và một trái tim luôn đập cho những điều tốt

đẹp trong cuộc đời. Một trái tim quá ƣ là nhạy cảm bởi vậy rất dễ bị rƣớm

máu và tổn thƣơng nên bất cứ một sự bất tín hay cƣ xử quá đáng của bạn bè

đồng nghiệp hoặc những ngƣời xung quanh với mình đến độ cảm thấy mình

không thể chịu đựng nổi thì tốt hơn cả là rời bỏ để ra đi. Dẫu biết cuộc ra đi

nào cũng đầy bất trắc và lắm trông gai, ngƣời ngoài nhìn vào có thể cho là

mình điên rồ nhƣng đó là cách giải quyết của mình từ trƣớc đến nay.“Nó làm

cho mình cảm thấy thanh thản, giữ được cái tôi của mình trước xô bồ đời

sống quá nhiều cạm bẫy và thói xấu. Sự ra đi giúp cho tâm hồn của mình

không bị cằn cỗi tha hoá, để cố gắng dù cho trong hoàn cảnh nào thuận lợi

hay khó khăn, hạnh phúc hay bi đát thì nhân cách của mình cũng không bị tha

hoá. Mình sợ nếu mình ở lại, mình thoả hiệp và sống chung với những điều

mình cho là giả dối, căm ghét thì mình sẽ bị tha hoá đi lúc nào không hay.

Điều làm mình sợ nhất là khi mình không còn tin vào chính mình nữa thì sống

sao nổi, còn có thể tin được một ai khác” [57].

Về quan niệm nhân cách, nghĩa vụ của nhà văn và sáng tạo văn chƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Võ Thị Hảo cũng có những suy nghĩ nghiêm túc.Theo chị: “Thiên chức nhà

27

văn là tôn trọng tự nhiên. Tự nhiên nghĩa là sự thật. Như những con sóng

biển và gió vẫn đêm ngày cồn cào đến với đất liền. Khi nhà văn mà chối bỏ sự

thực viết dối trá và đứng ngoài nỗi đau, khát vọng cũng như khát vọng thật

sự của con người khi ấy, nhà văn đó trở nên nguy hiểm cho đồng loại” [7].

Dẫu viết văn hay viết báo thì chị vẫn là một cây bút có sức viết dồi dào nhƣ

một nhu cầu tự thân cần đƣợc nói ra những điều mình trăn trở và tâm huyết.

Chị cho rằng: “Tôi may mắn đƣợc làm đúng nghề mình đã chọn và nghiệp

không trái với nghề. Làm báo là nghề, viết văn là nghiệp. Hơn cả nghề,

nghiệp văn là cái thứ đeo bám,ám ảnh, thậm chí chi phối số phận”[14]. Chị

từng tâm sự: “Tôi có quá ít thời gian dành cho văn chương. Đó là sự thiếu

may mắn. Tôi chỉ còn ban đêm, lúc đi đường và ngày nghỉ cuối tuần là dành

cho văn chương. Nhưng thực sự, làm báo cũng giúp nghề văn. Nhiều khi đi

tìm tư liệu, khai thác sự kiện hay họp hành, ý tưởng chợt hiện. Tôi phác hoạ

chúng vào những mảnh giấy bất kỳ nào đó và đem về nhà ghim lại, chờ dịp

viết thành những truyện hoàn chỉnh”[11]. Với lĩnh vực văn chƣơng ta thấy

Võ Thị Hảo xuất hiện chính thức và đều đặn vào thập niên 90 và gây đƣợc sự

chú ý của ngƣời đọc kể từ truyện ngắn đầu tay Người gánh nước thuê in trên

báo năm1989.Tiếp đó là những truyện ngắn“lạ ”nhƣ: Hồn trinh nữ, Người

sót lại của Rừng Cười, Biển cứu rỗi …Cho đến nay chị đã có bảy tập truyện

ngắn và tiểu thuyết Giàn thiêu đã ấn hành, sắp tới sẽ là sự ra đời của cuốn

tiểu thuyết thứ hai Dạ tiệc quỷ. Các tác phẩm đã in của chị ngày càng chiếm

đƣợc nhiều tình cảm của độc giả và thực sự chinh phục đƣợc ngƣời đọc bằng

ngòi bút sắc sảo, tinh tế mạnh mẽ và tài hoa của mình. Khi đọc sáng tác của

Võ Thị Hảo ta“dễ nhận thấy trong văn chương chị có một cái nhìn ưu ái và

thiên vị đối với phái nữ. Một cô gái sa ngã (Vũ điệu địa ngục), một người

đàn bà nhẹ dạ (Người đàn ông duy nhất), và đến cả một con điếm hết thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

(Biển cứu rỗi) - bao giờ chị cũng tìm cách biện bạch để “bắt” người đọc

28

phải yêu và cứu mạng họ”[14]. Bởi vậy mà “chị được xếp vào hàng những

cây bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn bà, những con người

bé nhỏ trước bão lũ cuộc đời, “những gì rất riêng tư mà chẳng riêng tư chút

nào”…là điều mà chị luôn trăn trở trên các trang viết của mình”[13] .Hình

dung về Võ Thị Hảo, ngƣời đọc sẽ thấy một Ngƣời phụ nữ có số phận không

dễ dàng nhƣng đủ nghị lực để vƣợt qua mọi gian khó trên đƣờng đời, cùng ánh

mắt dƣờng nhƣ nhìn thấu cuộc sống nhân sinh và luôn khát khao thể hiện

những điều cảm nhận, suy ngẫm của mình bằng sự phong phú của ngôn từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nghệ thuật.

29

Chương 2

ÂM HƯỞNG NỮ QUYỀN QUA CÁC NHÂN VẬT NỮ

CỦA VÕ THỊ HẢO

2.1. Vài nét về vấn đề nữ quyền

2.1.1.Vấn đề nữ quyền, một hiện tượng văn hóa, xã hội của thời hiện đại

Những năm gần đây vấn đề nữ quyền (feminisme) đƣợc nói đến ở nhiều

lĩnh vực nhƣ: chính trị, xã hội, văn chƣơng, giải trí…Một cách hiểu thông

dụng nhất cho khái niệm nữ quyền là:“Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi

lĩnh vực kinh tế, xã hội và giáo dục. Khái niệm nữ quyền nếu hiểu ở cấp độ

rộng là quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương quan với quyền lợi

của nam giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp độ hẹp thì nữ

quyền có mối liên quan với các khái niệm như giới tính, phái tính trong văn

học. Nếu giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính giữa hai

phái (nam/nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục đích

của nó hướng tới là sự bình quyền của nam/nữ đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn

riêng của nữ giới” [55]. Thế kỷ XX, nhân loại đƣợc chứng kiến những phong

trào đấu tranh cho nữ quyền rầm rộ ở các nƣớc phƣơng Tây tiêu biểu là Đan

Mạch. Đây là nƣớc mà phong trào nữ quyền nổ ra sớm nhất từ năm1905, phụ

nữ đã đƣợc đi bầu Hội đồng hàng tỉnh và thị xã, năm1910 Hội phụ nữ Đan

Mạch KVINFO cùng viện Gocthe của Đức đã đánh dấu ngày 8-3 bằng Hội

nghị Copenhagen, đòi quyền bình đẳng nam- nữ trong chính trị và việc làm. Ở

bất cứ lĩnh vực nào ngƣời phụ nữ cũng luôn muốn chứng tỏ sự bình quyền

của mình trƣớc nam giới. Ngƣời phụ nữ Châu Mỹ cũng đấu tranh đòi quyền

bình đẳng với nam giới, họ đã dấn thân xuống đƣờng lập nghiệp đoàn, giơ cao

khẩu hiệu “đàn bà là tương lại nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà”[29].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Bên cạnh đó, là những nhân vật phụ nữ lỗi lạc, những ngƣời phụ nữ tiểu biểu

30

đã có những hoạt động nhằm khẳng định quyền của ngƣời phụ nữ nhƣ: Ganđi,

Thachơ, Marguerite Durand…

Marguerite Durand là một ngƣời phụ nữ Pháp hăng say tranh đấu dành

quyền bình đẳng cho nữ giới. Năm 1897, bà sáng lập và điều khiển tờ báo La

Fronde(sự nổi loạn).Trụ sở tờ báo nằm trên đƣờng Saint- Georges và tất cả

các việc trong tòa soạn từ quản lý, viết bài, đến in ấn và phát hành đều do phụ

nữ đảm nhận. Tờ báo đƣợc nhiều phụ nữ có uy tín làm trợ bút. Trong lúc đạo

luật năm 1892, cấm phụ nữ làm việc ban đêm thì họ bất chấp cả luật lệ, không

kể đếm gì đến các thanh tra lao động và liên hiệp các đoàn thể làm sách.

Trong các bài xã thuyết, tờ báo đòi hỏi phụ nữ phải đƣợc ghi tên vào danh

sách những ngƣời đƣợc chính phủ Pháp thƣởng Bắc Đẩu bội Tinh, phụ nữ

cũng phải có đƣợc quyền tham dự vào các cuộc tranh cãi tại quốc hội.

Marguerite Durand đã cố gắng tổ chức để đƣa phụ nữ ra tranh cử vào Quốc

hội Pháp trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1910, và cũng là ngƣời phụ nữ đầu

tiên tham dự vào nghiệp đoàn chủ nhân các nhật báo. Bà tích cực đòi hỏi các

quyền lợi của phụ nữ nhƣ: Quyền đƣợc tự do hành nghề, quyền đƣợc hƣởng

lƣơng bằng với nam nhân, làm cùng một công việc, quyền của ngƣời vợ đƣợc

giữ lƣơng do chính mình làm ra và quyền đƣợc bảo vệ trong các công việc

trong nhà…Trƣớc làn sóng đấu tranh mạnh mẽ nhƣ thế, nhiều hội nghị bàn về

vấn đề nữ quyền đã đƣợc triệu tập. Phê bình nữ quyền luận đƣợc hình thành,

trong môi trƣờng của những tiếng nói đòi quyền lợi cho ngƣời phụ nữ; các lý

thuyết về giới đƣợc nhiều ngƣời quan tâm từ đấy, trong đó có lí thuyết nữ

quyền trong văn học.

Ở Việt Nam, cùng với quá trình giao lƣu và hội nhập vào đầu những năm

90 của thế kỷ XX, bằng nhiều con đƣờng khác nhau, quan điểm giới nhanh

chóng đƣợc du nhập và truyền bá vào. Sự xuất hiện, cách tiếp cận giới chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

là bƣớc đột phá quyết định sự phát triển mạnh mẽ và ấn tƣợng của khoa học

31

nghiên cứu về phụ nữ. Cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng quan niệm,

thái độ, hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập bình đẳng giới trong mọi lĩnh

vực của xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nó không chỉ tồn tại nhƣ một hiện

tƣợng xã hội, mà nó còn đƣợc chú ý nhiều trong lĩnh vực văn hóa, văn học.

Xuất phát từ cơ chế dân chủ của xã hội, nhƣ nhà văn Võ Thị Hảo đã phát

biểu: Xã hội văn minh bao giờ cũng có thiên hƣớng nữ khuynh, ngƣời ta

nghiêng về phái yếu để càng thấy mình mạnh. Hơn nữa bản thân nữ giới dám

đứng lên đấu tranh để đòi quyền sống, quyền tự do dân chủ của mình bằng

thứ ngôn ngữ quyết liệt, mạnh mẽ thậm chí có ý thức gây “hấn” và “sốc” với

cách nhìn truyền thống. Đó là những phát ngôn gai góc đầy cá tính thể hiện

chính xác những trải nghiệm cá nhân ở nhiều mối quan hệ trong cuộc sống.

Họ dám công khai xem xét lại cả những chuẩn mực của lịch sử và của nghệ

thuật bằng cái nhìn chủ quan, công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc,

sự áp đặt trong văn chƣơng, dám xông vào các đề tài trƣớc kia bị xem là cấm

kỵ vốn là đặc quyền của nam giới. Thực ra thì trong văn chƣơng truyền thống

đã có những yếu tố của văn học nữ quyền. Ở văn chƣơng Việt Nam thời kỳ

trung đại ý thức nữ quyền đến Hồ Xuân Hƣơng đã trở nên gay gắt, nữ sĩ đã

dám nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền:“ Kẻ đắp chăn bông

kẻ lạnh lùng- chém cha cái kiếp lấy chồng chung”Làm lẽ. Có thể thấy những

năm gần đây, văn học Việt Nam đƣơng đại chịu ảnh hƣởng nhiều luồng văn

hóa mới trong quá trình hội nhập và gần với chúng ta nhất, Trung Quốc- một

đất nƣớc có bề dầy truyền thống đạo đức nho giáo mà nay văn học đã bùng

phát, nổi loạn với cách viết táo bạo của một số cây bút nữ trẻ trong dòng văn

học Linglei (lạc loài) nhƣ: Vệ Tuệ, Xuân Thụ ,Cửu Đan, Miên Miên, Lâm

Bạch…Dung lƣợng văn hóa sex chiếm vị trí không nhỏ trên nhiều mặt báo,

nhiều diễn đàn, nhiều Blog cá nhân. Điều đó cho thấy dần dà ngƣời ta đã có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cái nhìn cởi mở hơn về vấn đề tình dục. Các văn nữ Việt (cả trong và ngoài

32

nƣớc) viết về tình dục cũng thoải mái hơn, đặc biệt các văn nữ Việt Nam

đƣơng đại viết về vấn đề tình dục với nhiều cách thức khác nhau,“có viết

đậm, viết nặng, viết phóng khoáng, viết có pha chế. Vấn đề tình dục được khai

thác cặn kẽ mạnh bạo và “khiêu khích” hơn bao giờ hết”[55], đây chính là

một hiện tƣợng mới trên văn đàn. Ta bắt gặp lối viết “nhẹ nhàng, kín đáo

trong truyện Nguyễn Thị Thu Huệ, trực diện trần trụi trong truyện Y Ban

,mãnh liệt, nhẩn nha đầy thâm thúy và ẩn ý trong truyện Đỗ Hoàng

Diệu,“quê mùa”, “chất phác” nhưng đằm như trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.

“Cao tay” khéo léo đụng chạm đến ghetto sex cấm kỵ nhưng người đọc không

cảm thấy đụng chạm đến “taboo”tình dục như trong sáng tác Phạm Thị Hoài,

Mai Ninh. Còn Lê Thị Thấm Vân, Trần Sa v.v… lại nhầy nhụa trong những

đặc tả tỉ mẩn, chi tiết không một chút ngần ngại”[55]. Dù ở mức độ nào thì

họ cũng đã từng bƣớc khẳng định tiếng nói của nữ giới trong văn chƣơng.

Nếu nhƣ trƣớc đây nhà văn nữ chỉ dám khuôn trong những chuyện lặt vặt,

giản dị thì nay họ bung thoát, mổ xẻ cả những vấn đề tế nhị một cách thẳng

thừng. Thực ra nam giới viết về tình dục, giới tính nữ, nhiều khi vẫn áp cái

nhìn chủ quan của phái nam nên việc miêu tả tâm lý cũng nhƣ các vấn đề sinh

lý của nhân vật nữ vì thế không thể chính xác đƣợc bởi dù sao họ cũng là

ngƣời ngoài cuộc. Nhƣ vậy, xét về phƣơng diện khách quan cũng nhƣ chủ

quan đã có sự cởi trói, phá rào trong chính nội lực của các nhà văn nữ. Điều

đó chứng tỏ xu hƣớng dân chủ hóa trong văn chƣơng từ quan niệm thẩm mỹ

đến bình diện nội dung và cả lực lƣợng sáng tác. Đó chính là một dấu hiệu ý

thức nữ quyền rõ nét nhất. Vì một mặt viết trở thành hành động tự xác định,

trở thành phát ngôn viên chính thức của ngƣời phụ nữ, tiếng nói chính thức từ

tình dục, mặt khác thể hiện rõ sự quyết liệt đấu tranh, đòi bình quyền trong

tình cảm và khẳng định giới mình. Qua đây có thể thấy,vấn đề nữ quyền chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

là một hiện tƣợng văn hóa xã hội của thời hiện đại.

33

2.1.2. Nữ quyền - Ý thức về hạnh phúc của người phụ nữ

Nói đến ý thức về phái tính trong văn học Việt Nam, ta có thể thấy nếu ở

phƣơng Tây, ngự trị trên đỉnh Olempo là thần Zớt thì ở phƣơng Đông các vị

thần tối cao chủ yếu cũng gắn với đàn ông. Vị thế kẻ mạnh của đàn ông còn

thể hiện ở khâu sáng tạo và tiếp nhận văn học. Những cuộc thù tạc, đàm đạo

văn chƣơng chỉ diễn ra giữa những ngƣời đàn ông với nhau, nó không có chỗ

cho nữ nhi thƣờng tình…Văn hóa khổng giáo (tiêu biểu là Trung Hoa và Việt

Nam) cũng đặc biệt chú trọng đến vai trò áp chế của đàn ông so với đàn bà

“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.Tƣ tƣởng trọng nam

khinh nữ “ Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”…còn ảnh hƣởng đến tận ngày

nay khiến cho cấu trúc dân số bị nghiêng lệch trầm trọng ở một số nƣớc nhất

là các nƣớc phƣơng Đông. Vai trò thống trị của đàn ông ngoài sự ủng hộ tuyệt

đối của thiết chế xã hội còn trở thành một nét tâm lí phổ biến kéo dài từ thời

này qua thời khác. Trong dân gian ngƣời đàn ông Việt bao giờ cũng giữ tƣ

cách là kẻ chinh phục, khi ý nhị thì:“Bây giờ mận mới hỏi đào- vườn hồng đã

có lối vào hay chưa”?…Khi táo tợn thì:“Gặp đây anh nắm cổ tay- anh hỏi

câu này có lấy anh không”?...Nhƣ vậy, cho dù là tiếng nói hồn nhiên nhất, ít

bị áp chế bởi tính quy phạm nhất, văn học dân gian vẫn xác nhận vai trò kẻ

mạnh của đàn ông so với đàn bà. Trong văn học trung đại, về cơ bản giới cầm

bút vẫn thuộc về đàn ông. Thực ra, trong vòng cƣơng tỏa của tƣ tƣởng nam

quyền đã bắt đầu xuất hiện những tài năng văn học là nữ giới nhƣ: Đoàn Thị

Điểm, Bà Huyện Thanh Quan và đặc biệt là Hồ Xuân Hƣơng. Mặc dù giàu

tinh thần nổi loạn và phản kháng nhƣng những khúc tự tình của nữ sĩ họ Hồ

vẫn chủ yếu là những tiếng than thân trách phận. Đó chính là lí do khiến Bà

chúa thơ Nôm phải ao ƣớc:“Ví đây đổi phận làm trai được- thì sự anh hùng

há bấy nhiêu” Đề Đền Sầm Nghi Đống. Có thể nói ẩn chứa trong câu thơ đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

một trạng thái tâm lý không chỉ riêng của Hồ Xuân Hƣơng mà là của giới nữ

34

bởi muốn lên sự nghiệp, muốn có sự nghiệp thì ngƣời phụ nữ phải đổi thân

phận. Song thực tế đó chỉ là mong ƣớc và mong ƣớc kia một mặt cho thấy sự

đổi phận ấy dƣờng nhƣ là bất khả trong thực tế, mặt khác gián tiếp xác nhận

vị thế ƣu thắng của đàn ông. Phải bƣớc sang xã hội hiện đại khi trình độ dân

trí đƣợc nâng cao, ngƣời phụ nữ bắt đầu đƣợc đi học, đƣợc tự do bầu cử, tầng

lớp công chức đã có sự tham gia của phụ nữ thì cán cân công bằng về giới

mới bắt đầu đƣợc hiện thực hóa và ngƣời ta đã bắt đầu bàn đến vai trò của

ngƣời phụ nữ. Đặc biệt là giờ đây ngƣời phụ nữ có quyền li hôn chính đáng

và đƣợc pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên quá trình ấy không phải lúc nào cũng

diễn ra thuận lợi và nhanh chóng mà phải trải qua rất nhiều quanh co, sóng

gió.

Vai trò của ngƣời phụ nữ đặc biệt đƣợc đề cao trong chính thể mới sau

1945 với sự ra đời của Hội phụ nữ Việt Nam. Đó là tiền đề văn hóa và xã hội

thuận lợi để văn học nữ tính có cơ hội phát triển, so với trƣớc đây đội ngũ các

nhà văn nữ cầm bút đã đông hơn và tài năng của họ đƣợc thừa nhận rộng rãi

hơn. Nhiều tác phẩm của họ có ảnh hƣởng đến công chúng và đƣợc giảng dạy

trong nhà trƣờng từ phổ thông đến đại học. Những thay đổi trên đây trong lĩnh

vực văn học thể hiện sự thay đổi rất lớn về ý thức phái tính và thái độ đề cao

vai trò của nữ giới. Trong nhiều tác phẩm, ngƣời phụ nữ đƣợc hình dung nhƣ

những anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thời đại nhƣ Chị Sứ (Hòn đất của

Anh Đức), Chị út Tịch (Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi), Nguyệt

(Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu)…Tuy nhiên do yêu cầu của

phƣơng pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, đời sống tinh thần của nữ

giới mới đƣợc khai thác nhiều ở khía cạnh xã hội mà chƣa đƣợc chú ý nhiều

đến đặc trƣng về giới. Vấn đề âm hƣởng nữ quyền chủ yếu nằm trong hệ tƣ

tƣởng chung của thời đại chứ chƣa trở thành mối quan tâm thực sự của nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

văn với tƣ cách là ngƣời kiến tạo những tƣ tƣởng nghệ thuật riêng của chính

35

mình. Trong sự phát triển mạnh mẽ của đất nƣớc và những nỗ lực tạo nên sự

bình đẳng về giới kể từ 1986 đến nay đã tạo nên những tiền đề cơ bản để giúp

ngƣời đàn bà thoát khỏi sự áp chế của đàn ông, giúp họ có khả năng tồn tại

độc lập và có khả năng tự quyết số phận của mình. Ngƣời phụ nữ khi này

không còn quanh quẩn nơi xó bếp, góc nhà mà đã tham gia nhiều hơn vào các

hoạt động xã hội. Nhiều phụ nữ đƣợc cử giữ những chức vụ cao trong hệ

thống chính trị. Nhƣng quan trọng hơn ý thức về giới một cách tự giác đã ăn

sâu vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hƣởng nữ quyền trong

văn học. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ vốn xuất hiện từ rất lâu trong văn học,

nhƣng những phẩm chất, giá trị, cũng nhƣ đời sống tinh thần và thể xác của

họ luôn đƣợc nhìn bằng đôi mắt của ngƣời đàn ông. Chỉ khi những vấn đề

trên thoát khỏi hệ quy chiếu giá trị theo quan điểm nam quyền thì văn học nữ

tính mới xuất hiện đầy đủ với đúng nghĩa của nó. Nhƣ vậy văn học nữ tính chỉ

có thể xuất hiện trong điều kiện xã hội đạt đến một trình độ dân chủ nhất định.

Theo nhiều nhà nghiên cứu thì văn học nữ tính Trung Quốc bắt đầu từ phong

trào Ngũ Tứ và đặc biệt phát triển mạnh vào thập kỷ 90 của thế kỷ trƣớc. Ở

Việt Nam, văn học sau 1986 cũng chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn

học nữ tính và đến nay nó phát triển đến mức có ngƣời cho rằng nền văn học

đƣơng đại Việt Nam “Âm thịnh dương suy” với sự góp mặt của những cây bút

có thực tài nhƣ: Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị

Thu Huệ…và gần đây là Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ, Nguyễn Ngọc Tƣ…

những cây bút này đã đem đến cho văn đàn những tiếng nói mới mẻ, buộc các

nhà văn và các nhà phê bình nam giới phải thừa nhận tài năng của họ.

Trong bài viết Tản mạn về dục tính và nữ quyền Nguyễn Vy Khanh chỉ

ra: “ Nữ quyền có khuynh hướng đi với văn chương dục tính” [29]. Tuy nhiên,

ở đây ngƣời viết không có ý đồng nhất nữ quyền với khuynh hƣớng văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

chƣơng dục tính, mà chỉ nhìn nhận ở khía cạnh dục tính là một lĩnh vực để

36

ngƣời nữ thể hiện quyền của mình. Lý do: “ tính dục có vẻ là mặt trận duy

nhất mà phái nam có và chịu thua phái nữ. Thành trì bảo vệ cho phái nam

còn một góc hớ hênh là tính dục. Do đó không có gì lạ khi phái nữ cần nói lên

tiếng nói phản kháng hay nữ quyền thì họ dùng ngay lợi khí tính dục” [53].

Phan Huyền Thƣ, một giọng thơ nữ trẻ trƣớc đây quan niệm: “Từ vô thức, tôi

không bao giờ dám nói về tính dục một cách trắng trợn. Về khía cạnh nào đó,

tôi vẫn dùng ý thức để kiềm nén, dùng cái khôn ngoan để lấp liếm nó đi”. Còn

bây giờ: “Tình dục là căn bản để nhận diện thơ trẻ. Thơ nói về tình yêu, chăn

gối thời nào cũng có nhưng để tình dục bước chân mạnh mẽ vào văn chương

thì phải tìm ở ngôn ngữ thơ ca hiện đại” [24]. Dục tính không có gì là xấu nó

nhƣ một giá trị ngƣời muôn thủa đi vào văn chƣơng, nó muốn vƣơn tới một

tiêu chí xác lập nhân văn, chống lại những tín niệm đạo đức lỗi thời bóp nghẹt

tự do của con ngƣời. Chủ đề tình dục trong văn chƣơng rất phổ biến ở văn học

phƣơng Tây nhƣng ở Việt Nam do ảnh hƣởng của đạo đức nho giáo và tinh

thần khắc kỷ của một thời chiến tranh nghiệt ngã, chủ đề này gần nhƣ một

vùng cấm trong văn chƣơng chính thống. Năm 2005 bạn đọc Châu Á phải

sững sờ trƣớc hiện tƣợng phái nữ "vùng lên" trong văn chƣơng, tiêu biểu là

Trung Quốc. Thế rồi, một loạt sách của các nhà văn nữ Trung Quốc đƣợc dịch

và giới thiệu tại Việt Nam gây sửng sốt cho ngƣời đọc. Tình dục trở thành chủ

đề trọng tâm khiến nhiều tác phẩm đƣợc bàn tán ồn ào, đƣợc xếp vào loại

"sốt" nhƣ: Điên cuồng như Vệ Tuệ, Quạ đen, Búp bê Bắc Kinh,…đại diện

cho các tác phẩm vừa kề là Búp bê Bắc Kinh của Xuân Thụ, một cô gái mƣời

bẩy tuổi. Cuốn sách này đã gây chấn động Trung Quốc vì mô tả một cách bộc

trực sự thức tỉnh về mặt tình dục của một cô gái trẻ .Qua đó nói lên khát vọng

làm chủ: Tôi là của tôi và tôi có quyền sử dụng tôi, bất chấp dƣ luận. Sự say

mê nhục cảm của Xuân Thụ, thái độ điềm nhiên khi nói về tình dục và phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cách viết vừa trữ tình, vừa thô ráp dƣờng nhƣ gây sốt cho giới trẻ Trung

37

Quốc. Cùng với Quạ Đen của Cửu Đan, Điên cuồng như Tệ Tuệ của Vệ

Tuệ, Búp bê Bắc Kinh nhƣ một cuộc đột phá về đạo đức, một thái độ thách

thức của giới trẻ đối với những chuẩn mực đạo đức đậm màu sắc của phong

kiến của Trung Quốc xƣa. Nó phô bày những đổi thay, rạn vỡ dữ dội của xã

hội hiện đại.

Ở Việt Nam, theo một nguồn tin trên trang www evan.com.vn ngày

25/01/2007 có ngƣời viết: “Cách đây khoảng 20 năm, một tác phẩm của nhà

văn Đào Hiếu từng bị dư luận tẩy chay, phê phán nặng nề. Chỉ vì trong đó,

tác giả viết nhân vật chính quá bản năng về tính dục, nhớ người yêu đến nỗi

phải ôm ấp, hít ngửi chiếc quần lót của nàng cho đỡ nhớ ”[32]. Tuy nhiên,

vài năm sau đó, cùng với làn sóng đổi mới mở cửa hội nhập, dƣ luận xã hội

dần tỏ ra cởi mở, dân chủ hơn trƣớc những nhu cầu đa dạng của cá nhân,

trong đó có nhu cầu tình dục. Tuy nhiên, phải có thời gian những động thái

của đời sống mới đƣợc biểt đạt trong văn học. Lúc đầu còn dè dặt có vẻ chỉ

giới hạn trong các cây bút nam. Những tác giả nữ động đến vấn đề này

thƣờng đƣợc xem là mạnh mẽ, táo bạo, thậm chí bị phê phán đi ngƣợc truyền

thống kín đáo, thùy mị của nữ giới. Thời gian gần đây, chính các cây bút nữ

đã gây xôn xao dƣ luận khi họ đề cập đến lĩnh vực nhạy cảm này. Bạn đọc, có

ngƣời khen họ là mới mẻ có ngƣời chê là quá trần trụi, nhƣng đó là một hiện

tƣợng có tính toàn cầu, nối tiếp những Cửu Đan, Vệ Tuệ, Sơn Táp…là Y Ban,

Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ…

Năm 2005, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc xem nhƣ một

bứt phá ngoạn mục so với cách viết thật thà, nhà quê trƣớc đó của cô. Cây bút

nữ đƣợc yêu mến bởi những tác phẩm viết về nông thôn Nam bộ, với những

nhân vật hiền nhƣ cá rô kho tộ, bỗng trở nên bạo liệt trong Cánh đồng bất

tận. Không ít ngƣời vốn yêu quý giọng văn Nguyễn Ngọc Tƣ trƣớc đây, phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

kêu lên ghê quá, khi tác phẩm này có những đoạn diễn tả con ngƣời bản năng

38

thật trần trụi, dữ dội. Ở tập truyện Bóng đè của nhà văn trẻ Đỗ Hoàng Diệu

cũng rất đậm màu sắc sex. Nhà văn Nguyên Ngọc, trong lời giới thiệu, đã

khen giọng văn của Diệu: “Thấm đẫm nữ tính, tỉnh táo nhiều khi đến tàn nhẫn

mà vẫn thật mê hoặc…”[32]. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận định:“

Gần như chủ yếu, Đỗ Hoàng Diệu viết về phụ nữ và dục tính. Cô dùng người

nữ và dục tính như một bộ mã để gửi đi một thông điệp của mình cho cuộc

sống này. Bóng đè là một truyện ngắn tiêu biểu, hay cả về nội dung và cách

viết…”[32]. Không phải ngẫu nhiên Bóng đè đƣợc một nhà văn lớn giới thiệu

một cách trân trọng, một nhà phê bình khen hết lời, ít nhất thì ngôn ngữ trong

truyện cũng lột tả cực kì chi tiết những pha bị cƣỡng hiếp nó đã gây sốc cho

nhiều ngƣời đọc, nhất là bạn đọc nữ. Cuối năm 2006, tập truyện ngắn I am

đàn bà của nhà văn nữ Y Ban khiến nhiều ngƣời từng yêu thích giọng văn của

chị phải sững sờ. Nếu Đỗ Hoàng Diệu mƣợn giấc mơ để mô tả chuyện tình

dục, thì ở I am đàn bà, Y Ban phô bày dục năng của nhân vật một cách trực

tiếp. Chị để nhân vật thổ lộ ham muốn tình dục một cách rất tự nhiên. Ngôn

ngữ giàu thi vị khi trƣớc đến tập truyện ngắn này hầu nhƣ không còn, nhƣờng

lại cho những ngôn ngữ mô tả kiểu dòng văn học “linglei” của Trung Quốc:

Tôi là của tôi và tôi có quyền sử dụng tôi. Trong lĩnh vực thơ ca, nơi đƣợc

xem là "thánh địa của ngôn từ" ý thức về nữ quyền càng bộc lộ rõ. Thơ Vi

Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ nói nhiều đến khát khao yêu và đƣợc dâng hiến.

Nhiều ngƣời nhận xét thơ họ viết về tình dục nhƣng Vi Thùy Linh trong bài:

Tôi sống cật lực như thế để ngày mai sẽ chết, lớn tiếng khẳng định:“Tôi

không viết về tình dục mà là viết về tình yêu. Đó là tình yêu đích thực hòa

quện cả thể xác lẫn tâm hồn”[30]. Từ ý thức về vẻ đẹp của thân thể thơ họ đã

trình ra những cách diễn đạt táo bạo, họ muốn đi tìm một thứ ngôn ngữ tải

những trạng thái cảm xúc bùng nổ tràn trề sức xuân, chất sống, họ chủ trƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

phải dám là mình đến tận cùng trang thơ. Vi Thùy Linh đã tâm sự “Dù không

39

còn ai làm thơ, tôi vẫn làm thơ. Chỉ có một độc giả, tôi vẫn làm thơ, mãnh liệt

và thành thật” [30]. Phan Huyền Thƣ đã táo bạo, công khai nói những điều

mà các thế hệ trƣớc hoặc không dám hoặc chỉ làm lén lút. Ngƣời đàn bà trong

thơ chị đầy nữ tính có chút hoang dại, vừa ra lệnh đồng thời vừa hạ mình, cất

giấu từ những dịu ngọt nhất cho tới liều độc dƣợc mạnh nhất. Cùng với những

cây bút mới nổi Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu, Y Ban…các sáng tác của

Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh mang một chiều sâu

suy nghĩ và những trải nghiệm cuộc sống. Họ viết nhiều, viết sâu về tình yêu,

một tình yêu với những đợi chờ, khao khát và ham muốn chẳng bao giờ nguôi

và chẳng bao giờ toại nguyện.Truyện của họ kể về rất nhiều mối tình dang dở,

chia lìa, tan vỡ mặc dù ngƣời trong cuộc tha thiết nâng niu, cũng vì thế mà

truyện nào cũng chan chứa hoài niệm về một tình yêu, một hạnh phúc trong

quá khứ, khát vọng tình yêu trở thành nỗi đau. Riêng Võ Thị Hảo lại luôn

dành cho trái tim ngƣời phụ nữ, cho số phận ngƣời phụ nữ lòng yêu thƣơng,

đau xót sâu sắc nhất, thân phận ngƣời phụ nữ trở thành tâm niệm thƣờng

xuyên da diết trong những trang viết của chị. Với quan niệm nghề văn là một

sự cứu rỗi,“sứ mệnh của nhà văn là chia sẻ niềm vui, nỗi đau và thức tỉnh

lương tri”[14],Võ Thị Hảo đã thực sự mang lại cho nhân vật văn học những

kinh nghiệm sống từ những trải nghiệm trong cuộc đời mình. Sáng tác của chị

đầy ắp những nỗi lo lắng mơ hồ về cuộc đời mênh mông bất tận, vừa nhƣ

thiên đƣờng vừa nhƣ địa ngục đối với con ngƣời, đặc biệt là đối với ngƣời

phụ nữ, trong khi “phụ nữ được tạo hoá sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp

quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: Người đàn ông”(Biển cứu rỗi)…vậy mà

cuộc đời lại đầy dẫy những cạm bẫy, những trái ngang khổ đau, bất hạnh. Đặc

biệt tính nữ quyền thể hiện rất rõ trong sáng tác của Võ Thị Hảo ở sự quyết

liệt đấu tranh dành giữ tình yêu, sự bình quyền trong tình cảm và khẳng định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

giới mình. Nhân vật trong sáng tác của chị có khi rất mực nhu mì, dịu dàng

40

cũng có khi rất mực nhẹ dạ và cuồng si nhƣng khi cần cũng quyết liệt đến

cứng cỏi. Ngƣời đọc thƣờng bắt gặp trong sáng tác của chị là “những người

đàn bà khổ vì yêu, rút hết gan, hết ruột để yêu và hy sinh cho tình yêu bất cần

những hệ lụy sau đó”[55]. Nhƣng nhìn sâu vào những mất mát, những đau

thƣơng ấy, ta thấy ngƣời phụ nữ không chỉ tội nghiệp mà còn đáng yêu, đáng

kính trọng vô cùng. Họ nhẹ dạ, cả tin khi yêu và cũng mạnh mẽ, quyết liệt đến

với tình yêu, họ yêu đến cháy bỏng và luôn mong muốn đem lại hạnh phúc

cho ngƣời mình yêu dẫu phải chuốc lấy bất hạnh, phải cô đơn lẻ loi suốt đời.

Nhân vật nữ trong sáng tác của chị sẽ là sự thể hiện rõ nhất điều này.

2.2. Bình diện xã hội- tư tưởng, nhân văn của nhân vật nữ trong sáng tác

Võ Thị Hảo

2.2.1.Vấn đề số phận bi kịch của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ

Thị Hảo

Võ Thị Hảo là nhà văn của ngƣời phụ nữ bởi vậy trong sáng tác của chị

thƣờng thấy đó là tiếng nói thƣơng cảm với ngƣời đồng giới vì theo đặc trƣng

tâm lý, phụ nữ tồn tại với tình cảm hƣớng nội nên luôn muốn tìm đƣợc sự

đồng cảm và viết về ngƣời phụ nữ cũng có nghĩa là họ hƣớng ngòi bút vào

chính mình.

Qua khảo sát 54 tác phẩm có 18 tác phẩm không viết về nhân vật nữ, còn

lại 36 tác phẩm là viết về nhân vật nữ. Trong tất cả nổi lên một đặc điểm,nhân

vật phụ nữ không còn là những cô thanh niên xung phong trong “môi trƣờng

vô trùng” nhƣ trong văn học trƣớc đây nữa mà là những con ngƣời của cuộc

sống đời thƣờng, với những lo toan và tình cảm rất đỗi đời thƣờng nhƣng hết

sức phức tạp. Những biến cố cuộc đời cô đọng lại thành những tấn bi kịch đè

nặng lên số phận nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo. Có rất nhiều bi

kịch: bi kịch là nạn nhân của chiến tranh nhƣ Thảo trong truyện Người sót lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của Rừng Cười, những ngƣời phụ nữ bất hạnh trong Trận gió màu xanh rêu,

41

nhân vật Nàng trong Hồn trinh nữ… bi kịch của cái nghèo: nhân vật bà Diễm

trong Người gánh nước thuê, nhân vật Ngần trong truyện Ngày không mút

tay, ả Tuynh trong truyện Dệt cỏ…bi kịch của những mảnh đời tật nguyền,

nhƣ nhân vật Hằng trong truyện Làn môi đồng trinh, Tâm trong truyện Máu

của lá…bi kịch tình yêu và hạnh phúc lứa đôi nhƣ nhân vật Hạnh trong Tiếng

vạc đêm, Thuận trong truyện Goá phụ đen, Trang trong Bàn tay lạnh, Sải

trong truyện Con dại của đá, nhân vật Nhuệ Anh trong tiểu thuyết Giàn thiêu

…Nhƣ ta đã biết, trong văn học trƣớc năm1975, hình ảnh ngƣời phụ nữ

thƣờng đƣợc đặt vào trong bối cảnh chính trị, xã hội, đó là con ngƣời của

cộng đồng, số đông và dù có nói đến những ngang trái, éo le thì cũng chỉ

đóng vai trò nhƣ là phƣơng tiện để tô đậm phẩm chất con ngƣời cộng đồng.

Còn văn học sau năm 1975, ngƣời phụ nữ nhƣ "trút bỏ bộ cánh cộng đồng xã

hội", đƣợc nhìn nhận ở khía cạnh đời tƣ, cá nhân đặt trong những tình huống

éo le, giằng xé phức tạp, nhƣ nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về truyện

ngắn thời kỳ đổi mới là cuộc hành trình đi thẳng vào những vấn đề thân phận

con ngƣời, thế giới bên trong của con ngƣời, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con

ngƣời ở đời sâu và sắc hơn.

Ngƣời phụ nữ lúc này đƣợc đặt trong cái phức tạp muôn mặt của cuộc

sống đời thƣờng, luôn chứa đầy những mâu thuẫn giữa hiện thực và khát

vọng, giữa quá khứ và hiện tại. Cũng nhƣ một số nhà văn nữ khác, Võ Thị

Hảo đã quan tâm sâu sắc đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn, đặc biệt là những bi

kịch hiện thân cho số phận của những ngƣời phụ nữ. Sau đây chúng tôi sẽ đi

sâu vào các kiểu bi kịch qua các nhân vật nữ.

2.2.1.1. Bi kịch là nạn nhân của chiến tranh

Sau năm1975, các nhà văn vẫn viết về chiến tranh nhƣng chiến tranh

không đƣợc nói tới với những chiến công bi tráng mà nó đƣợc nhìn nhận ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

khía cạnh là nguyên nhân dẫn đến những đau khổ của con ngƣời, nhất là

42

ngƣời phụ nữ. Chiến tranh qua đi nhƣng tàn tích của nó còn để dấu ấn trong

hiện tại. Điều này có ở sáng tác của nhiều nhà văn nữ thời gian gần đây,

những ngƣời cùng thời với Võ Thị Hảo nhƣ Nguyễn Thị Thu Huệ với Người

đi tìm giấc mơ, Y ban với Điều bây giờ mới hiểu, Lê Minh Khuê với Thị

trấn, Mong manh như là tia nắng… Trong sáng tác của mình nhà văn Võ

Thị Hảo có sự nhìn nhận lại chiến tranh bằng cái nhìn đa diện, đa chiều.

Chiến tranh là vinh quang, chiến thắng nhƣng cũng là đắng cay, khốc liệt, tổn

thất, mất mát và đặc biệt là nguyên nhân dẫn đến những bi kịch cho ngƣời

phụ nữ, những nạn nhân bé nhỏ, yếu đuối. Chính chiến tranh đã lấy đi tuổi

thanh xuân, ƣớc mơ và cơ hội hạnh phúc của ngƣời phụ nữ đẩy họ đến số

phận bi kịch. Thảo trong Người sót lại của Rừng Cười là ngƣời duy nhất

sống sót trong năm cô gái ở rừng Trƣờng Sơn. Chiến tranh đã cƣớp đi tuổi trẻ,

vẻ đẹp thanh xuân của những cô gái nơi chiến trƣờng: “Bốn cô gái trẻ măng

nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ xác”. Thảo nhập ngũ với mái tóc óng

mƣợt dài chấm gót nhƣng cũng bị dòng nƣớc khe màu xanh đen thớ lợ nơi

chiến trƣờng vặt trụi dần nhƣ các chị mình. Họ đã bị tổn thƣơng bởi cái cô

đơn đặc quánh và khắc nghiệt của chiến tranh. Họ ở đây qua ba mùa mƣa rầu

rĩ và đang ở giữa mùa khô thứ tƣ bỏng rát, chiến tranh đã để lại những phế

tích đáng thƣơng, những cô gái càng ngày càng trở nên tách biệt với đồng

loại, họ trở nên hoang dã và nhiều lúc họ nhƣng hoá điên: “Trên sàn chòi

khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc và xé quần áo.

Còn một cô khác trẻ hơn đang chạy tới chạy lui ôm đầu đầy tuyệt vọng”. Họ

là nỗi ám ảnh với anh lính: “Sau chín năm ở chiến trường, nay tôi đã nhìn

thấy ở Rừng cười, cái cười méo mó, man dại của chiến tranh…Tôi rùng mình

khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế,

giữa một khu rừng mênh mang nào đó…Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

lâm vào cảnh ấy”. Chiến tranh đã tàn phá họ không chỉ về nhan sắc mà còn cả

43

về tâm hồn. Thảo tuy may mắn sống sót và trở về từ Rừng cƣời- Trƣờng Sơn,

chốn giáp ranh giữa địa ngục và trần gian nhƣng giờ đây sự thảm khốc của

chiến tranh không buông tha mà vẫn in dấu lên cuộc sống hàng ngày, ám ảnh

trong những giấc mơ của cô, nó chi phối số phận của cô trong hiện tại và

tƣơng lai. Thoát khỏi nỗi cô đơn đặc quánh nơi rừng già thì Thảo lại rơi vào

nỗi cô đơn khác, nỗi cô đơn ngay giữa đồng loại của mình, vì biết mình thật là

quỷnh, thật khó nhập cuộc. Cô thƣờng nhăn mặt khi nhớ đến lần gặp lại đầu

tiên sau mấy năm xa cách ngƣời yêu: “Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, thân

hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng, qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ

xác…làm anh ngỡ ngàng đến không thốt nổi một lời”. Dẫu đã rất cố gắng

nhƣng Thảo không thể không so bì khi nhìn thấy bạn bè, những cô sinh viên

văn khoa cùng phòng đến cả trong giấc mơ họ cũng môi cƣời rất thanh thản,

mặt ửng hồng, trông đáng yêu làm sao. Còn Thảo thì thƣờng qua đêm với hai

loại giấc mơ, một là thời thơ bé mơ nhặt đƣợc cặp ba lá hay trứng vịt đẻ rơi,

hai là giấc mơ tuổi thanh xuân: “Cô chỉ thấy tóc rụng như trút, rụng đầy

khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm và từ trong đám tóc ấy nẩy ra hai

giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi không vỡ”. Sự

đối lập ngay cả trong giấc mơ đó, khiến Thảo thấy mình càng trở nên lạc lõng.

Nhất là khi thấy cô bạn gái học cùng lớp với Thành có đôi môi mòng mọng

nhƣ nũng nịu, với làn da trắng hồng, tƣơi mát, trẻ trung nhìn Thành bằng ánh

mắt say mê ngƣỡng mộ…cô biết là họ thầm yêu nhau, họ đẹp đôi quá và lại ở

gần nhau. Càng mặc cảm và tủi thân hơn, Thảo sống khép mình và dần xa

lánh Thành. Ngày còn ở Rừng Cƣời, tình yêu với Thành là một trong những

đốm lửa sáng nhất giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang dã chốn rừng

sâu. Cô đã khao khát đến cháy lòng đƣợc trở về và ngả vào vòng tay say đắm

của Thành, thì giờ đây cô lại đau đớn tự nguyện xa lánh Thành, để Thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đƣợc hạnh phúc bên ngƣời con gái khác. Bởi hơn ai hết Thảo hiểu rằng,Thành

44

gắn bó với cô chỉ bằng nghĩa chứ không có tình. Xót xa thay, Thảo không

điên nơi rừng già và chiến trƣờng khốc liệt thì nay cô gần nhƣ hoá điên khi tự

viết cho mình những lá thƣ vào mỗi tối thứ năm, để rồi lại nhận đƣợc nó vào

mỗi chiều thứ bảy và bị mọi ngƣời xa lánh, cả khoa chê trách, dè bỉu về tội

phụ tình…Đau đớn đến tột cùng khi cô vừa cƣời, vừa khóc trong một trạng

thái gần nhƣ vô thức. Thảo là ngƣời may mắn sống sót nơi rừng cƣời nhƣng

hạnh phúc chẳng còn sót lại nơi cô. Thảo là nạn nhân của chiến tranh, là

ngƣời bƣớc ra từ cuộc chiến khốc liệt đó nhƣng cũng có ngƣời không trực tiếp

tham gia chiến tranh mà hậu quả của nó lại không bỏ qua họ. Đó là những

ngƣời phụ nữ bất hạnh trong Trận gió màu xanh rêu. Chiến tranh đã phá huỷ

cuộc đời họ, nó phá huỷ không chỉ ở một thế hệ mà ở nhiều thế hệ nối tiếp

nhau. Nhân vật chính của truyện là hai mẹ con ngƣời phụ nữ có chồng là một

chiến sĩ đã hy sinh trong chiến tranh. Nỗi mất mát quá lớn, mất đi ngƣời

chồng, ngƣời cha của con gái mình khiến chị không muốn tin vào sự thật đó.

Để rồi lúc hoá điên bà vẫn tin, đài ngƣời ta báo nhầm đấy thôi. Làng trên chả

có hai ngƣời báo tử rồi lại lừng lững về là gì. Em biết anh còn sống mà. Bà bỏ

làng đi lang thang khắp nơi để tìm kiếm, khiến đứa con gái mới mƣời sáu,

mƣời bảy tuổi cũng phải bỏ học đi lang thang theo mẹ. Bƣớc chân tình cờ lại

đƣa bà dạt đến làng Đẽo- cái làng đa số là đàn bà đã luống tuổi và khô héo,

cái làng có chung nhau một ngày giỗ cho những ngƣời chết trận. Cuộc sống

thiếu vắng đàn ông đã biến những ngƣời phụ nữ trở thành lầm lũi, hàng ngày

còng lƣng đẽo đá và mong chờ một ngày giỗ chồng chung của làng. Có bao

nhiêu ngƣời chết trận và có bao nhiêu làng Đẽo mà ở đó có những ngƣời đàn

bà với đôi tay nổi bật vì nó to xù và sần sùi nhƣ tay đàn ông, cùng nhau chít

khăn trắng, đầu đội mâm cỗ kéo nhau tới bệ đá trƣớc tƣợng đài ở chân núi để

làm giỗ chung. Chiến tranh thực sự đã mang đến nỗi đau và sự mất mát quá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

lớn không gì có thể bù đắp đƣợc cho con ngƣời, chiến tranh toả ánh hào

45

quang là thế, nhƣng phải trả với giá quá đắt ở cuộc sống của những ngƣời

thiếu phụ chờ chồng. Nỗi đau không dễ gì mất đi, nhƣng “dám nhìn thẳng vào

mặt trái của triến tranh cũng là một cách thể hiện, một thái độ thẳng thắn

tiếng nói của chính giới mình” [55], để biết trân trọng hơn những chiến công,

để thấy đƣợc ý nghĩa của cuộc sống hoà bình. Mặc dù chiến tranh đã qua đi,

nhƣng đằng sau cái vẻ bình yên của cuộc sống hiện tại, lại có không biết bao

ngƣời đang bị giày vò trong những mất mát không gì có thể bù đắp nổi, nó đã

để lại vết sẹo hằn sâu nơi trái tim những ngƣời phụ nữ, để rồi mỗi khi nhắc

tới, họ lại dƣờng nhƣ không thể chịu nổi bởi sự gợi lại vết thƣơng lòng mà họ

đã cố đào sâu, chôn chặt. Bà đồng trong Dây neo trần gian từng chịu nỗi đau

mất một ngƣời yêu trong chiến tranh, để khi nghe nhắc đến chuyện cũ: “mắt

bà đồng bỗng long lên sòng sọc. Lúc này trông bà đích thực là một người

điên. Một người điên trẻ trung chỉ hơn nàng dăm tuổi. Đôi mắt có hàng mi

dài của bà vằn đỏ…và bộ ngực lép của bà vồng lên trong nhịp thở dồn”. Bà

đã từng an ủi tâm lý chiến tranh cho không biết bao ngƣời, vậy mà bà lại

không làm chủ đƣợc trƣớc nỗi đau của chính mình. Ngƣời con gái trong Hồn

trinh nữ bất hạnh vì cũng là nạn nhân của chiến tranh, Nàng đã hy sinh tuổi

thanh xuân để chờ đợi ngƣời yêu đi lính đến lỡ thì. Chiến tranh mang đi một

chàng trai bẽn lẽn, ngƣợng ngùng với lời hẹn ƣớc và sau mƣời bẩy năm trả về

cho nàng một ngƣời đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo nhƣ thép và mang theo lối

sống nơi chiến trƣờng. Từ vóc dáng, đến cử chỉ, hành động, lời nói của anh

hằn sâu sự khốc liệt của chiến tranh, đến nỗi trong tiệc cƣới anh “không biết

nói chuyện gì khác ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc sơn hào

hải vị và ngập máu trong triều đình, về cung cách người ta giết nhau trong

thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay

kiếm của anh”. Nghe những chuyện sặc mùi máu và chết chóc của chồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

trong đêm tân hôn, ngƣời trinh nữ lỡ thì kể từ đó luôn sống trong nỗi ám ảnh

46

và sợ hãi về tội ác mà chồng nàng đã làm có lúc nàng ôm mặt rú lên kinh hãi,

khi lại co rúm lại, quay mặt vào trong cố kìm tiếng khóc, chỉ bởi nàng trông

thấy những oan hồn và bóng ma về đòi chồng nàng trả mạng. Bi kịch đời

nàng là ở đây, sống trong mòn mỏi đợi chờ những mƣời bẩy năm trời, đến

quá lứa lỡ thì và ngày chàng trai trở về những tƣởng nàng sẽ đƣợc hƣởng

niềm hạnh phúc trọn vẹn, ai ngờ niềm hạnh phúc vừa đến thì đã mãi mãi là xa

vời với nàng. Chiến tranh không chỉ cƣớp đi của nàng một chàng trai bẽn lẽn,

ngƣợng ngùng, với lớp lông măng ngăm ngăm trên mép ngày nào, rồi trả về

cho nàng một ngƣời đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo nhƣ thép, đôi bàn tay nhuốm

máu và không biết đến nụ cƣời, mà còn cƣớp đi niềm khao khát hạnh phúc

của nàng ngay trong đêm tân hôn. Cái đêm mà với chồng nàng, đó là sự buồn

bã, đau đớn và tuyệt vọng để rồi gầm lên nhƣ một con thú vừa bị đâm một

nhát, “thế là hết, đêm tân hôn cũng là đêm vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng

cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương”, xách kiếm trên tay

anh bỏ đi biệt xứ. Còn với nàng đó là nỗi ám ảnh và sự sợ hãi đến hễ có tiếng

chân hay tiếng động mạnh là đƣa tay lên ôm mặt, trở thành tật không sao bỏ

đƣợc cho tới chết nàng vẫn là trinh nữ hai tay che mặt, và ngay cả khi đã hoá

thân thành loài trinh nữ mà mỗi bƣớc chân đi qua vẫn làm nàng giật thót

mình. Nhƣ vậy, có thể thấy bi kịch trong và sau chiến tranh đối với ngƣời phụ

nữ ở sáng tác của Võ Thị Hảo đã trở thành một vết hằn sâu: “Khi cuộc chiến

xảy ra thì họ lại chính là những người nhoi nhoai ra khỏi nó muộn nhất và

gần như không bao giờ họ nhoài ra được cái vũng đẫm máu ấy. Nỗi đau khổ

của đàn bà cũng như một sự cứu chuộc thế giới” Giọt buồn giáng sinh.

Võ Thị Hảo luôn nhìn những ngƣời phụ nữ với cái nhìn cảm thông trân

trọng ngay cả khi họ mắc lỗi lầm, nhƣ ngƣời vợ trong Biển cứu rỗi dẫu có

phụ bạc chồng, biến “ngôi nhà bên đường chiến tranh! Động mạch của chiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tranh!” thành nơi diễn ra “những cuộc giao hoan vội vã thoảng mùi chết chóc

47

trước khi đi vào họng tử thần” của những ngƣời lính và rồi để lại đằng sau

những đứa trẻ khác bố lít nhít trứng gà trứng vịt ... Chị không thể là ngƣời đàn

bà chờ đợi chồng đến bạc tóc cũng chỉ bởi: “Cả làng trắng đàn ông, chỉ còn

lại đây đó các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà vác cày, cầm súng,

đi lấp hố bom và bị buộc phải trở thành đàn ông. Trong khi đàn bà được tạo

hoá sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: Người

đàn ông”…Thấu hiểu đƣợc tâm trạng và nỗi lòng của những ngƣời phụ nữ

phải gánh chịu những đau thƣơng mất mát quá lớn ấy, nhà văn không chỉ

hƣớng ngòi bút vào việc lên án chiến tranh mà còn thể hiện sự cảm thông sẻ

chia và đó là tiếng nói tri âm của ngƣời đồng giới.

2.2.1.2.Bi kịch của cái nghèo

Võ Thị Hảo từng trăn trở: “Khi phải gánh quá nặng, đôi vai họ thường

sẽ vạm vỡ hơn. Nhưng đàn ông và một xã hội văn minh nên biết xét lại mình,

khi mà họ đã buộc cho đôi vai của người phụ nữ trở nên vạm vỡ!” [13].

Ngƣời phụ nữ trong cuộc sống đời thƣờng phải lo âu, suy nghĩ, dằn vặt, tính

toán để mƣu sinh, họ trở thành nạn nhân của cái nghèo. Với trái tim nhạy cảm

và lòng nhân hậu nhà văn Võ Thị Hảo luôn dành sự quan tâm đến những cuộc

đời bất hạnh, những cảnh ngộ éo le, họ hiện lên mỗi ngƣời một cảnh đời, một

số phận nhƣng có chung một bi kịch đó là do cái nghèo gây nên. Từ những

ngƣời có tuổi vất vả làm thuê kiếm tiền sinh sống, đến những ngƣời chăm chỉ

làm việc tần tảo sớm hôm mà vẫn cứ đói. Sự nghèo đói vây hãm và đeo bám

họ nhƣ một thứ nghiệp chƣớng và cũng từ cái nghèo lại kéo theo nhiều nỗi cơ

cực khác trong cuộc đời họ. Bà Diễm trong Người gánh nước thuê không gia

đình, không con cái, một ngƣời đàn bà bé loắt choắt, mặt nhăn nheo, “gầy

sạm chỉ còn hai con mắt, bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng, chiếc đòn gánh

không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thứ nghiệp chướng, nó và bà hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh”. Bà

48

sống bằng nghề gánh nƣớc thuê, những nhà có máu mặt thì thuê bà và hàng

ngày bà cứ phải gánh những thùng nƣớc trên đôi vai còm cõi vốn đã còng

xuống vì thời gian và sự vất vả khổ cực để nhận lấy những đồng tiền thuê ít ỏi

và thái độ khinh thị của mọi ngƣời. Đang sống trong sự đơn độc, lẻ loi, cảm

thông với ngƣời cùng cảnh ngộ, bà đã bảo ông Tiếu đến ở cùng, hai con ngƣời

già cả nghèo khổ, bất hạnh, nƣơng tựa vào nhau những ngày cuối đời. Nhƣng

ngƣời đời quá vô tâm và tàn nhẫn, xem đó là trò cƣời và mang ra trêu đùa,

chòng ghẹo đến độ ông Tiếu không chịu nổi sự xúc phạm đó, ông chết trong

sự tủi hờn và niềm u uất của ngƣời cha cả đời làm nghề gánh nƣớc thuê mong

mỏi tìm thấy đứa con bị mất tích trong chiến tranh mà bao năm qua vẫn bặt

vô âm tín. Bà Diễm vốn đã côi cút, nghèo khổ và bất hạnh, hai con ngƣời vừa

mới nƣơng tựa vào nhau để sống nốt quãng đời còn lại chƣa đƣợc bao lâu thì

sự ra đi đột ngột của ông Tiếu với lời trăng trối tìm lại đứa con giúp ông, làm

bà lại thêm gánh nặng trong nỗi khốn khổ, bất hạnh và càng côi cút, cô độc

hơn giữa cuộc đời và có lẽ với bà niềm hạnh phúc mãi là xa vời vợi. Nhân vật

Ngần trong Ngày không mút tay là một ngƣời phụ nữ còm cõi chịu thƣơng

chịu khó vất vả tối ngày với nghề bán ốc luộc để nuôi chồng (nghỉ mất sức lao

động) và một lũ con nheo nhóc. Nàng là chiếc ruột ốc èo uột phải cõng cả một

toà vỏ nặng lê đi, lê mãi không đƣợc ngƣng nghỉ dẫu làm việc cật lực tối ngày

nhƣng cái đói cái nghèo vẫn bám riết lấy gia đình chị. Trƣớc cảnh túng đói

quay quắt của gia đình, để chồng con có một ngày đƣợc ăn thịt (một ngày

không mút tay), chị đã phải ba tháng một lần, không bán ốc luộc ra đi rất sớm

và về rất muộn, với vẻ mặt bơ phờ, một xâu thịt trong tay và một nắm tiền.

Đó là những lần Ngần dấu chồng con đi bán dần máu chảy trong huyết quản

của mình để nuôi gia đình, dẫu bị chồng hiểu lầm nhƣng chị vẫn âm thầm

chịu đựng. Sự nghèo khổ vây hãm, đeo bám lấy gia đình chị nên lam lũ mấy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

vất vả mấy vẫn không đủ ăn, lại thêm một nỗi cơ cực khác đè tiếp lên đôi vai

49

chị đó là: “Thằng đầu trông hệt một củ nghệ lớn, bác sĩ bảo: Viêm gan cấp:

Bệnh này ngốn tiền như thần trùng”. Làm mấy vẫn không đủ ăn thì tiền đâu

ra mà chữa bệnh cho con, nƣớc mắt chẳng còn bao nhiêu nữa để mà khóc, chị

ngƣớc nhìn con, nhìn chồng với cái nhìn đầy tuyệt vọng. Số phận bất hạnh

đƣa đến cho chị đủ mọi nỗi thống khổ, bây giờ có lẽ Ngần chỉ còn biết bán

cho đến giọt máu cuối cùng để nuôi gia đình. Còn Ngâu chồng chị biết bệnh

tình của con, đắn đo mấy ngày và anh quyết đến viện 108 để bán máu. Bằng

mánh khoé anh đã chen qua đƣợc đám đông đang chầu bán, đang chuẩn bị lấy

ven thì có tiếng kêu to “Sắp xỉu rồi! Đưa ra giường ngay!…Chợt thấy chút

quen thuộc trong cái ngoẹo đầu nhẫn nhục của người đàn bà, hắn nhào tới đó

là Ngần!” chị đang sắp lả đi vì kiệt sức vậy mà vẫn gƣợng cƣời cho hắn an

lòng. Hiểu ra tất cả, thì ra lâu nay Ngần đã tới đây, cho bố con anh có đƣợc

một ngày không mút tay. Bi kịch của Ngần là bi kịch đói nghèo, bi kịch của

miếng cơm manh áo ghì sát đất không ngóc đầu lên đƣợc.Và cũng vẫn là bi

kịch đói nghèo, ả Tuynh trong Dệt cỏ có lẽ còn khốn khổ hơn cả Ngần. Là

ngƣời phụ nữ đã có tuổi hai má teo tóp nhƣ quả cà phơi nắng đôi mắt thì cum

cúp nhẫn nhịn, cả đời vất vả làm lụng luôn chân luôn tay mà vẫn cứ đói nghèo

rách nát. Có thể nói cuộc đời ả là sâu chuỗi những đói và bất hạnh. Sống trong

ba gian nhà ngói cũ nát, ánh mặt trời đua nhau chiếu qua các viên ngói vỡ rệu

rã, ả Tuynh lúc nào cũng tất bật với công việc, khi thì đồng áng, lúc là chăn

nuôi vậy mà “bữa ăn của gia đình ả thường là lấy phần lõi của cây đu đủ,

thái ra từng miếng vuông đem kho với nước cà xin ở nhà mẹ Thân và ăn với

cháo khoai khô nấu lẫn vài hạt gạo”, ả nhƣờng cho con ăn no rồi mới vét nồi

lấy vài lƣng bát, thế nên chƣa bao giờ ả no. Ăn không đủ no, còn áo mặc thì

mụn vải mới chồng lên mụn vải cũ nát. Ngày thằng con trai ả lên mƣời một

tuổi mà không đủ quần mặc, chỉ có chiếc áo nâu rách vạt cũn cỡn, ở truồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tồng ngồng …trông ả áo ngày một rách thêm, lƣng còng, tóc trụi nhƣ con gà

50

chọi già …Vật lộn với cuộc sống, vất vả tối ngày mà vẫn luôn bị cảnh đói

nghèo đeo bám và những nỗi bất hạnh thì cứ thay nhau trút lên ngƣời ả. Đầu

tiên là anh Lèn chồng ả một công nhân làm đƣờng nổ mìn phá đá chết từ

năm1956, tiếp sau là Thằng Phục con trai ả đi lính về với một mảnh đạn nhỏ

trong đầu, thỉnh thoảng lên cơn động kinh và phải vào trại tâm thần. Còn con

Quy thì làm vợ lẽ một ông chân khấp khểnh ở làng muối cũng quanh năm làm

không đủ ăn, mỗi năm chỉ dám cuốc bộ về thăm mẹ một lần vào dịp tết. Và

ngay cả khi ả chết sau này, nó cũng phải chạy bộ mƣời lăm cây số về vì chồng

không cho tiền đi xe ôm, mà để dành tiền mua thuốc cho con …Cuộc đời con

Quy có lẽ cũng là sự lặp lại số phận nghèo đói và bất hạnh nhƣ mẹ nó. Bản

thân ả Tuynh thì bị bệnh đƣờng ruột mãn, khốn khổ cho cuộc đời ả vì nghèo

đói, ốm đau bệnh tật và những bất hạnh cứ rình rập xung quanh. Cả đời ả lúc

còn sống cũng nhƣ khi đã chết trên giƣờng khô gây nhƣ con mắm, trong lòng

vẫn thầm mong món tiền trợ cấp thƣơng tật hàng tháng của thằng Phục. Còn

mƣời tám năm qua, ả đủ tỉnh táo để không “ngõm ngọi”về món tiền đền bù tai

nạn lao động của anh Lèn. Nhƣng ả thật khờ dại khi tin rằng: “Thân sẽ giúp ả

tìm lại được món tiền lang bạt, hư ảo như có như không, trôi dạt giữa muôn

ngàn ngón tay. Ả có biết đâu rằng mỗi ngón tay ngoan hiền là thế bỗng phút

chốc biến thành một con đỉa ngo ngoe rượt theo mùi tanh của máu người”.

Rút cục những món tiền đó cũng chỉ nằm trong những giấc mơ và rồi đến chết

ả vẫn chƣa quên nổi giấc mơ đó. Kiếp nghèo khổ sẽ không chỉ đeo bám ả ở

cuộc sống trần gian mà xuống âm phủ có lẽ cũng không có gì thay đổi bởi, lúc

sống ả mặc áo vá thì lúc chết ả không có nổi chiếc áo cỏ tƣơm tất cũng là lẽ

đƣơng nhiên. Không nằm ngoài bi kịch của cái nghèo, Thuỳ Châu trong Vũ

điệu địa ngục là một cô gái mạnh mẽ đến quyết liệt nhƣ lời cô nói trong lá

thƣ tuyệt mệnh: “Thế hệ của chúng con khác thế hệ e dè của mẹ, chúng con đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn”…Có lẽ là nhƣ vậy, tàn nhẫn đến độ cô

51

phải bán rẻ những giá trị thiêng liêng của ngƣời con gái, phải đánh đổi cả sự

trinh trắng chỉ vì muốn kiếm cho mình một công việc ổn định, muốn đƣợc

đàng hoàng nuôi mẹ…để rồi bị lừa gạt. Đau xót tủi hờn cho số phận bất hạnh,

Thuỳ Châu đã tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng. Qua đây ta thấy bi kịch

của ngƣời phụ nữ một phần cũng bởi họ là những con ngƣời biết khao khát,

họ khao khát hạnh phúc, khao khát vƣơn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nói

đến bi kịch nghèo đói, một mặt Võ Thị Hảo thể hiện sự cảm thông, thƣơng

xót, mặt khác nhà văn lên án xã hội bất công và sự nhẫn tâm của con ngƣời.

2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền

Xây dựng nhân vật nữ, những con ngƣời bất hạnh, hiện thân của những

bi kịch. Võ Thị Hảo còn quan tâm đến số phận của những con ngƣời không

may mắn mang nỗi mặc cảm về hình thức không hoàn thiện, những con ngƣời

phải gánh chịu nỗi đau khi sinh ra đã là kẻ tật nguyền. Đó là Hằng trong Làn

môi đồng trinh, Tâm trong Máu của lá .

Truyện Làn môi đồng trinh kể về cuộc đời của nhân vật Hằng, ngƣời

con gái bị mù bẩm sinh cả hai mắt. Chính Hằng cảm nhận rất sâu sắc nỗi đau,

sự bất hạnh là một kẻ tật nguyền khi“ một đứa con gái đã hai mươi chín tuổi

mà mỗi khi ra đường mẹ phải dắt. Ăn cơm cô gái hai mươi chín tuổi ấy còn

đưa nhầm thức ăn vào mũi và đã hai mươi chín tuổi mà chưa từng biết đến

một nụ hôn”. Số phận ngang trái và cũng là bi kịch đối với Hằng đó là tạo hoá

ban cho cô quyền đƣợc làm ngƣời, thế nhƣng từ những việc đơn giản nhất

nhƣ việc ăn, mặc, Hằng còn không chủ động làm đƣợc thì những điều thiêng

liêng nhƣ tình yêu đôi lứa làm sao cô có thể kiếm tìm đƣợc cho mình. Chính

vì bị mù cả hai mắt không thể nhìn và tự bảo vệ đƣợc mình mà đã có lần cô

suýt bị một ngƣời đàn ông làm nhục, để rồi sau này cô hình dung về những gã

“đàn ông là một cái gì đó bậm bịch, khen khét và thô bỉ”. Cho đến lần cô xem

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

phim ở nhà hàng xóm về, cô không còn sợ đàn ông nhƣ trƣớc nữa và cô thầm

52

ƣớc“ người đàn ông thiên thần ơi! Hãy mang em đi! Mang đi khỏi cuộc đời

này, để mẹ em đỡ khổ vì em. Hãy mang em đi, ban cho một lần hạnh phúc, rồi

đừng quẳng em bên vệ đường, mà hãy giết em, để em khỏi sống mù loà cả đời

và trở thành gánh nặng cho mẹ”. Đến cả những ƣớc mơ cũng hiện hình nỗi

đau, nỗi bất hạnh của Hằng, nỗi đau ấy của cô cũng là nỗi đau của cả kiếp

ngƣời bởi:“Bây giờ còn ai nữa không, dám cúi xuống bên một người tàn tật,

và mang đi trên đôi cánh tay hữu hạn của mình tình yêu cũng như nỗi đau

của một kiếp khác”? Viết về những mong ƣớc kì lạ của Hằng cũng chính là

cách Võ Thị Hảo bày tỏ niềm cảm thƣơng vô hạn đối với cô gái, ở đó có sự

chia sẻ và sự thấu hiểu đến tận cùng nỗi đau của cô. Cũng nhƣ Hằng, Tâm

trong truyện Máu của lá là một ngƣời bất hạnh và mang nỗi đau của một kẻ

tật nguyền ngay từ khi mới sinh ra đã không đƣợc lành lặn, toàn vẹn về dung

mạo, dáng hình. Tâm là “Cô gái nhỏ xíu chỉ cao khoảng hơn một mét. Ngực

lép,đôi mắt tròn mở rưng rưng. Làn môi trên hằn một vết sẹo trắng kéo miệng

hơi xếch về bên trái. Có lẽ đó là vết sẹo vá môi…môi dưới mọng đỏ hơi lõm

giữa như một lúm đồng tiền nhỏ xíu thoảng qua,chia thành đôi cánh hoa nũng

nịu… Dáng đi khập khiễng của cô khiến người ta nghĩ đến con chim sâu đang

nhẩy chon von trên đường, mỏ cắp một cành lá lệch người”. Cô cho rằng “tạo

hoá đã say rượu” khi nặn ra mình nên cô luôn mặc cảm, luôn có cảm giác

mình là ngƣời thừa, mỗi khi có khách đến nhà, Tâm luôn tìm cớ lánh mặt. Hồi

mƣời bốn tuổi cô suýt uống cạn bát nƣớc lá trúc đào, bởi đó là lần đầu tiên cô

nhìn thấy toàn thân mình hiện mồn một trong tấm gƣơng bố mới mua về. Trớ

trêu thay, trời đã sinh ra Tâm một kẻ tật nguyền, lại còn “thổi vào cái vỏ tật

nguyền đó một lương tri”. Thế nên cô cảm nhận sâu sắc và thấm thía nỗi đau,

nỗi bất hạnh của cuộc đời mình. Một con ngƣời tật nguyền nhƣng rất đỗi

thông minh:“Lúc thi vào đại học đạt điểm ưu nhưng không một trường nào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nhận vì lỗi hình thể”. Cô cầu cho mình hoá điên vì ngƣời điên còn sƣớng hơn

53

cô, họ không nhận ra chính mình, thế nhƣng cô không thể điên. Cô cầu để

đƣợc chết thì cũng không chết đƣợc, đau đớn chua chát và tủi cho số phận

mình, Tâm “ở nhà với nồi niêu, những con mèo và đám tiểu thuyết”, để đêm

đêm mơ những giấc mơ khác đời thƣờng. Tâm tự nuôi cho mình một ảo tƣởng

về một chàng trai khổng lồ cứu giúp cô, níu kéo cô với cuộc đời qua những

bức thƣ của anh Tuân, Huân và Hoàng. Cô khát khao ở phía chân trời kia sẽ

có một chú lùn đợi cô, sinh ra để cho cô. Thế nhƣng, nghiệt ngã thay “ngay cả

trong mơ trời cũng cắt xén của em. Trời không cho em hưởng trọn vẹn một

giấc mơ nào”.Trong những mảnh đời tật nguyền tội nghiệp ấy, Võ Thị Hảo

luôn tìm thấy những khát khao mãnh liệt mà đau thƣơng của họ. Những khát

khao nhỏ nhoi, tầm thƣờng, thậm chí kì dị cũng không dành cho họ, chỉ có nỗi

thƣơng xót vô hạn của nhà văn trong mỗi lời kể về cuộc đời họ.

Viết về nhân vật nữ tật nguyền, Võ Thị Hảo đã tìm thấy trong chiều sâu

tâm hồn của những con ngƣời bất hạnh đó một khát khao sống nhƣ những

ngƣời bình thƣờng, hơn thế nữa nhà văn luôn gắng tìm cho họ một giải pháp,

một điểm tựa để họ hy vọng. Dù truyện kết thúc nhƣng cuộc đời của họ vẫn

mở ra, vẫn tiếp diễn.

Cùng với số phận bi kịch của những ngƣời phụ nữ nghèo khổ,tật nguyền,

Võ Thị Hảo còn quan tâm đến một lớp ngƣời sống dƣới tầng đáy của xã hội

nhƣ “con tù” hay những cô cave, gái điếm, những ngƣời làm nghề bị coi là

“mạt hạng” bẩn thỉu. Nhƣ ngƣời phụ nữ làm nghề vớt giun ở các mƣơng nƣớc

bẩn thỉu, sống trong một túp lều bên sông Tô Lịch, trơ trọi một mình chỉ kiếm

tìm đƣợc hạnh phúc ngắn ngủi ở bên một ngƣời đàn ông cùng quẫn tuyệt

vọng trong Khăn choàng sương. Những con ngƣời này, mỗi ngƣời có một số

phận, một cảnh đời khác nhau nhƣng họ lại có chung những bi kịch, những

nỗi đau rất đỗi đời thƣờng. Nhƣ Phin trong truyện Phúc Lộc Thọ lên trời mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

mƣời chín tuổi đã đeo trên ngƣời cái ách ba năm tù,vì nhận tội đánh ghen thay

54

mẹ và “tội nặng hơn vì bà goá kia lại nằm trong hội đồng nhân dân xã”. Sau

ba năm, ngày nó ra tù đƣợc nhà văn khắc hoạ rất tinh tế, có cái hồn nhiên của

trẻ thơ khi nhớ lại những ký ức đẹp hồi mới lên trại, nó thấy “trại cải tạo đẹp

như một công viên lớn, và nghĩ cảnh này chắc cũng na ná thiên đường”,

trong lá thƣ đầu tiên viết về cho mẹ nó nói: “Nhà tù đẹp hơn nhà mình nhiều”

mẹ không phải lo nó khổ nữa. Và nhớ lại tết năm nó mƣời lăm tuổi, đƣợc một

cậu bé“nhà có cây sung đầu làng” tặng cho ba cái bánh chƣng nếp có nhân

thịt…chứ không phải bánh chƣng nhân cá rô (không nhân) nhƣ nhà

nó…Cùng cái hồn nhiên của trẻ thơ đó là sau ba năm nó đã có nét lo âu của

ngƣời già. Bởi nó sợ khi trở về làng “Có bao nhiều người thì có bấy nhiêu

người đều chửi thẳng vào mặt nó là "con tù" mà không xấu hổ”. Nó sợ cả

làng, cả xã hội sẽ khinh miệt và xa lánh nó và có lẽ không thể tránh khỏi, vì

nó thuộc tầng lớp dƣới đáy của xã hội, bị xã hội ruồng bỏ. Trong sáng tác của

mình nhà văn Võ Thị Hảo còn nói rất nhiều về số phận những ngƣời phụ nữ

nhƣ Phin. Đó là những cô cave trong khách sạn ở truyện Miền bọt, hay một

gái điếm đã thiu, bị liệng ra bãi thải, ốm nhách và vô phƣơng sinh sống trong

truyện Biển cứu rỗi. Hoặc nhân vật nàng trong Người đàn ông duy nhất là

con của một gái làng chơi có hạng chết trẻ. Nàng đƣợc thừa hƣởng sản nghiệp

kha khá của mẹ và thừa hƣởng luôn cả sự nhẹ dạ vì “đàn ông hót gì nàng

cũng tin. Những người đàn ông tử tế thì không bao giờ muốn lấy con của một

gái làng chơi”. Thế nên cả bốn lần lấy chồng thì nếu “không là kẻ đào mỏ thì

cũng thuộc hạng ba xu và cứ người chồng sau thì thấp cấp hơn người chồng

trước”. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nhƣng nàng cứ phải liên tiếp

lấy chồng để có ngƣời canh giữ, để tránh khỏi sự rình rập của cái bẫy lầu

xanh, nếu không nàng lại không thể tránh đƣợc con đƣờng mà mẹ nàng đã đi.

Đau đớn và tủi nhục khi bị chồng đuổi đánh, xỉ nhục, phơi bày giữa chợ, nàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

kêu cứu mà cộng đồng vẫn thờ ơ.“ Nàng chạy len lỏi qua những hàng rau,

55

hàng trứng, hàng bánh rán, đến gần một người đàn ông lực lưỡng đang dắt

một chiếc xe máy đỏ chót…nhưng người đàn ông đã né qua một bên. Nàng

khóc hụt hơi bốn phía không một cánh tay chìa ra thương xót”…Tất cả những

ngƣời phụ nữ bất hạnh này họ đã không đƣợc xã hội thừa nhận, họ luôn phải

chịu những lời lẽ cay nghiệt, thái độ thờ ơ và khinh bỉ của ngƣời đời. Nhƣng

không phải tất cả họ muốn nhƣ vậy, không phải những gì họ làm là xuất phát

từ bản năng mà tất cả vì nghèo đói, vì mƣu sinh, vì lẻ loi, đơn độc, vì đó là

con đƣờng duy nhất, khi họ không có một lối thoát nào khác. Họ là những

ngƣời tuy không bị tật nguyền, dị dạng về hình thể nhƣng cuộc đời họ là

những biến dạng, bất thƣờng.

2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi

Hầu hết nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo đều là những ngƣời

có khát vọng sống và khát khao yêu mãnh liệt. Họ hiện lên là những “người

đàn bà khổ vì yêu, rút hết gan, hết ruột để yêu và hi sinh cho tình yêu bất cần

những hệ luỵ sau đó”[55]. Xây dựng những nhân vật nữ mang bi kịch tình

yêu nhà văn Võ Thị Hảo đã để họ đƣợc nếm trải tất cả những dƣ vị khác nhau

của tình yêu. Từ những dƣ vị ngọt ngào đến những dƣ vị đắng chát, từ những

đớn đau đến xót xa…Họ hiện lên trong tình yêu với nhiều cung bậc khác nhau

từ nhẹ dạ cả tin đến mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải… Nhất là sự chủ

động, quyết liệt đấu tranh để giành giữ tình yêu, dám sống thật với chính

mình và dám đi đến tận cùng bản thể. Đây có thể xem là sự thể hiện rõ nhất

tính “nữ quyền” trong sáng tác của Võ Thị Hảo qua các nhân vật nữ.

Họ càng khao khát yêu và đƣợc yêu thƣơng bao nhiêu thì cũng vì thế mà

họ luôn phải gánh chịu đau khổ trong ái tình, để rồi chìm đắm không lối thoát

trong mê lộ đó. Tình yêu vốn là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý, không thể

thiếu với con ngƣời, đặc biệt với ngƣời phụ nữ. Mối quan tâm lớn nhất với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

ngƣời phụ nữ là tình yêu và tuổi trẻ, chính vì thế mà những bi kịch, những đổ

56

vỡ trong tình yêu- hạnh phúc lứa đôi đƣợc biểu hiện rõ nhất cũng thông qua

ngƣời phụ nữ.

Trong thế giới nhân vật nữ của Võ Thị Hảo ngƣời đọc sẽ bắt gặp từ

những ngƣời phụ nữ không đƣợc xã hội coi trọng, không đƣợc chấp nhận từ

những cô cave, gái điếm trong Miền bọt, Biển cứu rỗi, con của một gái làng

chơi có hạng trong Người đàn ông duy nhất, hay một cô gái vớt giun trong

Khăn choàng sương…đến những ngƣời phụ nữ thanh cao hơn tƣởng nhƣ sẽ

không bao giờ phải đau khổ nhƣ Trang trong Bàn tay lạnh, Thuận trong Goá

thụ đen, Hạnh trong Tiếng vạc đêm, Bích trong Khăn choàng sương, Sải

trong Con dại của đá, Hải trong Mắt miền tây, Thảo trong Người sót lại của

Rừng Cười, Nàng trong Dây neo trần gian, Phƣơng trong Phiên chợ người

cùi…Tình yêu có muôn hình vạn trạng và mang những màu vẻ khác nhau,

dƣới con mắt của các nhà văn nữ đặc biệt là Võ Thị Hảo, ta thấy có những

tình yêu rất trái khoáy và mơ hồ nhƣ Tình yêu mây trắng, có những tình yêu

thuần khiết, cao thƣợng nhƣ Làn môi đồng trinh, lại có những tình yêu đƣợc

dựng lên từ những cốt truyện cổ tích mang đậm màu sắc huyền thoại song lại

có ý nghĩa sâu sắc ở thời hiện tại nhƣ: Tim vỡ, Khát của muôn đời, Nàng tiên

xanh xao…Đặc biệt là sự góp mặt của những nhân vật nữ “không tì vết” nhƣ:

Nhuệ Anh và Ngạn La trong Giàn thiêu.

Bi kịch tình yêu ẩn trong từng cuộc đời, từng số phận của những ngƣời

phụ nữ mải miết kiếm tìm một tình yêu đích thực mà thất bại, yêu say mê, tha

thiết nhƣng rồi lại bị lừa dối, phụ bạc từ những vị thần, những nàng tiên đến

những con ngƣời trần thế, luôn khát yêu, luôn mong muốn đem lại niềm vui

và hạnh phúc cho ngƣời khác dẫu mình phải chuốc lấy thƣơng đau, bất hạnh.

Nàng H’Điêu trong Khát của muôn đời là một điển hình, luôn khát khao yêu

và sẵn sàng đi tìm ngƣời mình yêu thƣơng không ngại hy sinh bản thân mình,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

không quản cái chết. Nàng cho rằng: “Khi yêu, con người ta vừa như mới sinh

57

ra và người già cũng lập tức trở thành vụng dại như trẻ nhỏ”. Nàng đã

nguyện trở về kiếp trƣớc, biến thành cây chanh để cứu giúp những ngƣời sau

đó, những cô gái bị lỡ làng, bị phụ bạc “chính trái cây em đã làm nỗi đau

trong tim họ dịu lại. Và sau đó ai ăn trái chanh H’ Điêu người đó sẽ biết quên

mình và vậy là người đó biết yêu”. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không

có tình yêu. Nếu không có tình yêu: “thử hỏi thế gian này không còn ai biết

mình, không còn ai si mê, không còn tìm đâu ra một kẻ biết yêu…ở trong

ngực mọi người chỉ còn là băng giá, chẳng còn những H'Điêu không quản cái

chết đi tìm người yêu, thì liệu có đáng còn thế giới này chăng? Thật đáng sợ.

Nàng tiên xanh xao trong truyện Nàng tiên xanh xao là một ngƣời con gái

mồ côi, sống lẻ loi trong rừng sâu. Nàng đã cứu sống một chàng trai con nhà

quyền quý bị thƣơng nặng khi đi săn. Nàng cứu chàng trai bằng cách truyền

cho chàng một nửa máu đang chảy trong huyết quản của mình thông qua

chiếc kim kì diệu của thần Núi. Mất một nửa máu, da nàng trở nên xanh xao

đến chính nàng còn phải sợ“ hãi khi thấy mình quá xanh xao”.Cứu vớt cuộc

đời của một ngƣời con trai chƣa từng biết mặt, biết tên, để rồi gửi gắm cả tình

yêu và tính mệnh mình cho ngƣời ấy, bất chấp cả lời cảnh tỉnh của thần núi:“

Đàn bà muôn đời vẫn vậy,vẫn không thoát ra khỏi dây xích của sự nhẹ

dạ…Cứu chàng,rồi đây con sẽ khổ vì chàng”.Nàng vẫn tự nguyện đánh

đổi“màu hồng rạng ngời trên má” mình để cứu chàng trai. Đƣợc cứu sống

hai ngƣời đã yêu nhau và tổ chức đám cƣới. Nàng sẽ không phải gánh chịu bi

kịch một tình yêu, một số phận bất hạnh, nếu trong đêm tân hôn chàng trai

không bỏ rơi nàng để vui đùa với những cô gái trẻ đẹp má hồng khác, để nàng

một mình trong nỗi cô đơn. Cay đắng trƣớc tình yêu bị rẻ rúng khiến nàng

đau khổ, tuyệt vọng và trốn chạy thật xa. Khi nhớ đến và không thấy nàng

đâu, chàng đã ân hận và vội vã đi tìm nhƣng chỉ thấy một chiếc bóng lẻ loi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Chàng chạy tới ôm lấy và cầu xin nàng hãy ở lại, cầu xin sự tha thứ vì:“đàn

58

ông đôi khi vẫn thế”, nhƣng nàng cự tuyệt. Có thể nói đó là định mệnh, định

mệnh sui khiến họ gặp và yêu nhau, bắt cô gái phải chịu số phận bất hạnh,

phải nếm trải cảm giác cô đơn một mình bẽ bàng, hoang mang khi chứng kiến

những cuộc vui của tân lang. Cuộc sống khác biệt giữa hai ngƣời, nỗi cay

đắng trƣớc tình yêu bị rẻ rúng và càng không thể khoan nhƣợng, tha thứ với

lý do đàn ông đôi khi vẫn thế để rồi nếu tha thứ lần này biết đâu lần khác

nàng sẽ còn ân hận và đau xót hơn nhiều. Chính vì thế, dù chàng vẫn ôm và

níu giữ nàng nhƣng nàng thì luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi cánh tay đó cho

đến chết nàng vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn vô bờ. Nhà văn Võ Thị Hảo

khoác thêm cho nhân vật của mình màu sắc huyền thoại với kết thúc: Linh

hồn chàng trai hoá thành những cái gai bảo vệ hoa và cây lạ ấy sau này đƣợc

ngƣời ta đặt tên là cây bƣởi.Từ hình ảnh cây bƣởi gần gũi quen thuộc ngoài

đời nhà văn đã mang đến cho ngƣời đọc một sự tích đầy xúc động, một bi

kịch tình yêu đầy xót xa, một câu chuyện đầy nƣớc mắt mà đời thƣờng ta vẫn

bắt gặp đâu đó. Sự trốn chạy của nhân vật nàng không chỉ là sự trốn chạy tình

yêu mà còn là sự trốn chạy cảm giác cô đơn, lẻ loi bị bỏ rơi. Sau khi hoá kiếp,

linh hồn nàng biến thành những nụ hoa trắng muốt toả hƣơng thơm ngát, nó

tinh khiết và quá đỗi thanh cao nên bàn tay phàm tục của chàng trai mãi

không thể với tới. Còn nàng dù đã đổi kiếp nhƣng vẫn mãi phải lƣu đày trong

sự cô đơn và gánh chịu một bi kịch tình yêu cho số phận bất hạnh của mình.

Vẫn là bi kịch bị ngƣời yêu bỏ rơi, bị ngƣời yêu lừa dối, bạc bẽo. Nàng Sải

trong Con dại của đá, một ngƣời con gái đẹp, sống và yêu tự nhiên nhƣ cây

cỏ nơi núi rừng. Nàng đã vƣợt qua mọi ràng buộc, mọi tập tục của buôn làng,

gia đình để đến với tiếng gọi tình yêu. Với nàng, đó là tình yêu tự do tha thiết

và nồng cháy, tiếc rằng ngƣời nàng yêu - Cáo Tờ Quẩy lại là kẻ bạc bẽo, dối

lừa và xảo quyệt, mê hoặc và chiếm đoạt đƣợc nàng chƣa đủ, hắn còn xảo trá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

phụ bạc và rẻ rúng nàng. Trong đêm tân hôn với Hùng De, nàng vùng chạy

59

trốn để tìm đến Cáo Tờ Quẩy thì hắn lại ném nàng đến cho lũ bạn hắn làm

nhục nàng và còn định đem nàng bán sang Trung Quốc. Nhục nhã, tuyệt vọng

trƣớc sự tráo trở và bạc bẽo của ngƣời nàng yêu, Sải đã giết chết Cáo Tờ

Quẩy rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Bi kịch tình yêu của Sải là khi niềm hi

vọng biến thành thất vọng, khi nỗi đam mê, cuồng si biến thành sự phẫn uất

và lòng thù hận.

Nhân vật Trang trong Bàn tay lạnh, không trả giá cho tình yêu bằng

mạng sống của mình nhƣng chị sống mà có khác nào đã chết. Là một sinh

viên khoa văn xinh đẹp nhƣng số phận lại bạc bẽo với chị. Bởi “mẹ chị không

hạnh phúc, chị gái chị cũng đã không hạnh phúc, người hàng xóm của chị

cũng không hạnh phúc. Vì thế chị phải hạnh phúc, chị không được phép mắc

sai lầm”. Cuộc đời có vô vàn những biến cố và những điều bất trắc, không ai

có thể khẳng định đƣợc điều gì. Thế nên, dù Trang đã hết sức thận trọng khi

yêu cũng nhƣ chọn ngƣời yêu nhƣng số phận bất hạnh vẫn cứ bám lấy chị nhƣ

một sự di truyền. Đến với tình yêu đầu, Trang khao khát đƣợc thay đổi số

phận, chị đã yêu và gửi gắm biết bao hy vọng về sự gắn bó và che chở. Vậy

mà lại thất tình ngay trong đêm hò hẹn đầu tiên. Ngƣời mà chị yêu và đặt trọn

niềm tin lại là một kẻ sở khanh yêu đùa vì những lời thách đố của đám con

trai trong lớp không tán đƣợc Trang.Trò đùa quái ác của đám bạn trai trong

lớp đã mang đến bi kịch cho cuộc đời ngƣời phụ nữ quá đỗi nhạy cảm

này,“Trang như loài cây bị gục từ những giọt sương muối đầu tiên và không

bao giờ dậy được nữa”. Nỗi đau quá lớn khi niềm tin tan vỡ, bởi tình yêu đã

bị trao lầm cho một kẻ không xứng đáng và làm đóng băng trái tim Trang,

khiến chị trở thành “một người đàn bà cẩm thạch”. Tình yêu đầu là nỗi ám

ảnh suốt cuộc đời chị và là một dấu tích không thể xoá mờ, nó dập tắt mọi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

ƣớc mơ hạnh phúc đời chị. Xót xa hơn là làm băng giá trái tim và chôn vùi

60

ngƣời phụ nữ ấy trong cuộc sống cô đơn, bất hạnh và sự căm thù, ghê tởm

đàn ông.

Còn nhân vật Nàng trong Dây neo trần gian lại yêu đắm say một ngƣời

đàn ông đã có vợ. Anh bƣớc ra từ chiến tranh và luôn chán chƣờng tuyệt

vọng, chờ đợi cái chết đến với anh nhƣ những ngƣời đồng đội vì nghĩ rằng

mình bị nhiễm chất độc hoá học trong chiến tranh nên chẳng còn sống đƣợc

bao lâu nữa. Nàng đến với anh trong tình thƣơng yêu vô bờ cùng sự cảm

thông, chia sẻ sâu sắc, nàng làm đủ mọi cách để “gương mặt sầu thảm dìm

trong rượu của anh sáng lên được một chút”, để lấy nụ cƣời của anh, để níu

anh ở lại trần gian. Khi anh hoàn toàn khoẻ mạnh hạnh phúc nhất với kết quả

âm tính thì nàng lại giàn giụa nƣớc mắt“vợ chồng gì đâu! Anh ấy không thuộc

về tôi”. Dù anh cố gắng, dù anh không chết thì anh mãi không thuộc về nàng

bởi anh còn có gia đình của mình. Nàng dành cho anh một tình yêu say đắm,

vô bờ bến nhƣng thật bất hạnh với nàng vì đó là một tình yêu ngang trái, éo le

và tuyệt vọng.

Hải trong Mắt miền tây là ngƣời đàn bà bé nhỏ nhƣ một đứa trẻ lên

mƣời, đôi mắt đen thẫm và nụ cƣời khờ dại, đem lòng yêu Tuấn một gã đàn

ông điển trai, kém chị ba tuổi. Cùng nhau kiếm tiền nơi đất khách quê ngƣời,

trong lúc Hải phải ky cóp từng đồng để giúp đỡ đại gia đình ở trong nƣớc

với:“Hai mươi bẩy nhân mạng, già trẻ lớn bé…thì Tuấn một đồng một cắc

không gửi giúp bố mẹ, anh em”. Suốt ngày hết nằm ƣờn lại lê hết quán nọ

hàng kia ăn nhậu rồi cắm nợ, để chị phải thƣờng xuyên đem tiền trả nợ hộ

Tuấn, phải cho Tuấn "giật tạm" vài chục ngàn đô để tiêu vào việc gì đó không

biết. Hải yêu Tuấn và lo cho Tuấn nhƣ một ngƣời mẹ luôn dõi theo con, Hải

phục vụ anh nhƣ một kẻ nô lệ, còn Tuấn đã nhiều lần đánh đập Hải, có lần

đánh chị ngã từ cầu thang xuống và còn bị hắn đẩy ra đứng ngoài cửa lạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cóng suốt đêm. Sau khi đã bị đập phá tan tành bàn thờ của mẹ, biết là hắn

61

luôn nói dối “lúc cần, Tuấn bao giờ cũng biết nói dối một cách trơn tru

nhất”. Nhƣng chị vẫn tha thiết gắn bó với Tuấn vì yêu đƣơng là duyên số và

theo chị“Tuấn sẽ khác khi nhìn thấy người thân, Tuấn sẽ cảm động mà tu tỉnh

và Vì gia đình Tuấn chân thật đến thế kia mà”.

Viết về tình yêu, Võ Thị Hảo không quên khắc hoạ hình ảnh những

ngƣời phụ nữ yêu mà không hề toan tính nên thƣờng bị lợi dụng và bị dối lừa

nhƣ Hải trong Mắt miền tây. Cũng không nằm ngoài bi kịch tình yêu, bị lừa

dối nhƣ vậy ngƣời mẹ trong Chuông vọng cuối chiều thuỷ chung ở nhà nuôi

con chờ chồng trong những năm anh đi công tác xa. Ngƣời đàn ông đó lại nỡ

phụ tình và lừa dối vợ, với ba năm công tác ở Sa Thầy, đủ thời gian để anh

làm một ni cô phải phá giới và có với anh một đứa con. Nhƣng vƣợt lên trên

nỗi xót xa vì bị lừa dối, phụ bạc, ngƣời mẹ đó đã tha thứ cho chồng trƣớc khi

anh nhắm mắt xuôi tay và đành nhận lời chăm sóc cho hai mẹ con ngƣời đàn

bà bất hạnh hơn mình kia. “Người đàn bà đi tu chỉ vì không hy vọng tìm được

một chút hạnh phúc trần thế và sự xa vợ của ông là dịp may duy nhất trong

đời người đàn bà ấy”…Vì vậy mà ngƣời đàn bà ấy đã phá giới tu hành, chịu

đau khổ và đơn độc một thời khi phải bỏ quê sống trốn tránh và âm thầm chịu

đựng trong một ngôi chùa hoang. Chính vì nhận thấy số phận bất hạnh của

ngƣời đàn bà ấy. Bất hạnh vì yếu và xấu xí và không thể vƣợt lên đƣợc hoàn

cảnh của mình, mà ngƣời mẹ đã cứu giúp và nâng đỡ ngƣời đàn bà ấy bằng

tình thƣơng, bằng lòng bao dung độ lƣợng.

Phƣơng trong Phiên chợ người cùi là một ngƣời phụ nữ đẹp, sang trọng,

chuyên bận màu xám, ở trong một ngôi nhà kín cổng cao tƣờng, với một cô

con gái xinh đẹp và một ngƣời chồng danh giá. Chị đƣợc xem nhƣ "vật báu",

hễ đi đâu xa chồng đều tháp tùng,“ mắt ông loé lên vừa ghen tuông vừa hãnh

diện khi trông thấy bọn đàn ông trên đường cứ bị hút hồn theo chị”. Vậy mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

ông không thể vƣợt qua nổi định kiến khi biết chị mắc bệnh hủi. Ông xa lánh

62

hắt hủi, không cho chị gần con vì sợ “ảnh hưởng tới thanh danh gia đình, con

cái về sau này cũng khó lấy chồng”… Xót xa hơn khi tấm vé xuất viện của

chị không đủ thuyết phục gia đình, họ không thể quen đƣợc bàn tay cụt ngón

của Phƣơng, ai cũng xa lánh và ghẻ lạnh với chị. Gần nửa năm làm khách lạ

trong ngôi nhà của mình, chị đã lặng lẽ ra đi và sống cuộc đời những năm

cuối có ý nghĩa ở trại phong Quy Hoà cũng nhƣ gắng dự hết đời mình “những

phiên chợ người cùi”. Viết về những ngƣời nhƣ Phƣơng, nhà văn Võ Thị Hảo

đã gửi gắm sự cảm thông, chia sẻ, bênh vực sâu sắc cho những ngƣời phụ nữ

bất hạnh và đó là tiếng nói mang giá trị nhân bản cao cả và sâu sắc. Chính là

phụ nữ nên nhà văn Võ Thị Hảo luôn quan tâm đến cuộc đời, số phận, vị thế

cũng nhƣ quyền lợi của những ngƣời phụ nữ trong xã hội hiện nay. Ngƣời đàn

bà Âu lạc trong Hành trang người đàn bà Âu lạc luôn mang trên vai những

trách nhiệm nặng nề, hành trang mỗi ngày một thêm trĩu nặng bởi một bên

con, một bên chồng, một bên là những triết lí, tôn giáo đạo phu thê, công

dung ngôn hạnh…Sự mỏi mệt khiến nàng biết bao lần định dừng lại bên vệ

đƣờng để quẳng bớt đi một vài thứ trong gánh nặng mình mang và đến thể kỷ

giải phóng phụ nữ, túi hành trang của họ còn đƣợc chất thêm những mỹ từ của

thời đại mới, “mỗi mỹ từ lại óc ách đầy những giọt mồ hôi, nước mắt và cả

máu của người đàn bà, những sợi tóc bạc, những vết nhăn nheo trước tuổi”.

Có thể thấy, đặt ra trong tác phẩm là câu hỏi, đến bao giờ số phận ngƣời phụ

nữ mới bớt bị chi phối bởi quá nhiều các yếu tố, mà yếu tố nào cũng đều là

gánh nặng với họ?

Cùng với những bi kịch của nhân vật nữ trong các truyện ngắn, thì ở tiểu

thuyết Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã xây dựng những nhân vật nữ “không tì vết”

nhƣng cũng để họ phải chịu chung số phận bất hạnh nhƣ những ngƣời phụ nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

khác bởi:

63

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung

(TruyệnKiều - Nguyễn Du)

Dẫu Võ Thị Hảo đã ý thức và dành nhiều ƣu ái hơn với họ, để họ hiện

lên qua những sắc màu của huyền thoại nhƣng cuộc đời của những ngƣời phụ

nữ này vẫn không tránh khỏi hai chữ “bạc mệnh”và số phận bi kịch khi vƣớng

vào tình yêu. Trong Giàn thiêu tình yêu của những ngƣời phụ nữ này luôn

gắn với khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc.Thật vậy: “Chỉ khi nào con

người bước vào thế giới của tình yêu thì lúc đó con người mới thực sự được

sống với đúng nghĩa của nó” (Danh ngôn phương Tây).

Tình yêu trong tiểu thuyết lịch sử của Võ Thị Hảo không phải là thứ tình

yêu “thƣợng lƣu” của những tài tử- giai nhân, của vua chúa và mĩ nhân mà là

tình yêu đời thƣờng bởi vậy nó hiện lên với muôn mặt và dƣ vị riêng của nó.

Nhuệ Anh là cô gái bƣớc ra từ “vƣờn yêu” của Võ Thị Hảo, băng qua một đại

lộ có tên là lịch sử và ùa đến cuộc đời Từ Lộ - Thần Tông để làm một niềm

khát yêu cháy bỏng- nhƣng rồi chính mình lại bị thiêu đốt đau đớn trong ngọn

lửa thù hận và tham vọng của ngƣời tình. Bằng những nhạy cảm và mặc cảm

của thân phận ngƣời phụ nữ - yêu, Võ Thị Hảo đã để lại trong sáng tác của

mình một vƣờn yêu riêng cho những ngƣời phụ nữ. “Vƣờn yêu” đẹp nhƣng

không phải là địa đàng trong huyền thoại, những linh hồn yêu ở đó trinh

nguyên, thoát tục nhƣng không thoát đƣợc nỗi đau trần thế, cứ co ro quằn

quại giữa cơn khát tình yêu và nỗi lo sợ trong tiềm thức mà không dám đón

nhận tình yêu từ phía cuộc đời. Nhuệ Anh là cô gái thứ bao nhiêu trong khu

vƣờn địa giới ấy. Nàng chỉ khác với Thảo, với Trang với Thuận hay Phƣơng

… nhƣng không xa lạ với họ, vì với nàng cũng là tình yêu và nỗi đau…Cuộc

đời nàng cũng có thể nói đƣợc kể lại bằng hai chữ "lẽ ra". Lẽ ra nàng đã đƣợc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

hƣởng hạnh phúc. Tác giả đã rất có ý thức giữ gìn nâng niu hạnh phúc cho

64

một ngƣời con gái khi choàng lên nàng bầu không khí run rẩy rạo rực của tình

yêu trƣớc khi để nàng xuất hiện. Dung nhan nàng hiện lên trong nét bút ngập

tràn yêu thƣơng của Từ Lộ, cả “cái thần thái của đường mày màu khói nhạt

đa đoan đến não lòng”, cũng đƣợc cảm thấu và chuyển tải trên cây đèn lồng

mỹ nhân, chứng tỏ một sự trân trọng của ngƣời yêu và sự hoà quyện giữa hai

tâm hồn. Không gian yêu nồng nàn đầy hứa hẹn hạnh phúc của ngƣời con gái

đang đến gần…vậy mà lại ở rất xa. Cơn gia biến của nhà Từ Lộ ập đến, lòng

hận thù khiến chàng buộc phải hắt hủi tình yêu với Nhuệ Anh. Nhƣng Nhuệ

Anh lại rũ bỏ tất cả vàng bạc, sang giàu, cả sự yên ổn an phận để đi kiếm tìm

hạnh phúc của đời mình. Đây là nét riêng so với những ngƣời con gái khác vì

trong sáng tác của Võ Thị Hảo, rất ít ngƣời dám đi kiếm tìm tình yêu bởi đôi

khi ngay cả đến yêu họ cũng còn không dám. Kiếm tìm để hiến dâng, để oà

vào vòng tay ngƣời yêu mà thổn thức “Từ Lộ… em là vợ chàng! để thụ lãnh

và biết ơn người đã mang lại cho nàng niềm khoái lạc mênh mang và nỗi đau

đớn trần thế kỳ diệu” [15,tr.211-212 ]. Bản chất của sự chủ động mạnh mẽ,

dũng cảm này là một sự thụ động đầy nữ tính, đôi chân nàng để cho tình yêu

cuốn đi tất cả những con đƣờng Từ Lộ từng qua. Cũng chỉ có ngƣời con gái

mà sự cả tin đã trở thành một bản tính của giới, mới có thể tin vào trực cảm

của mình đến mức mãnh liệt để thả mình theo nó.“ Một linh cảm mơ hồ khiến

nàng hiểu rằng Từ Lộ sẽ đi qua những con đường này. Và nỗi bước nàng lại

cảm thấy như mình đang đặt chân lên dấu chân chàng vừa đi qua. Khi đến

bến Đá Sông Gâm, cảm giác đó lại cồn cào… nàng neo lại, đợi chờ một điều

gì đó còn mơ hồ nhưng bằng trái tim tội nghiệp đang thổn thức trong ngực,

nàng biết nó đang tới”….Nó là cái đêm đƣợc hƣởng thụ tình yêu, một đêm

hạnh phúc duy nhất phải trả giá bằng nỗi cô đơn của cả một cuộc đời và chỉ

có những ngƣời con gái yêu mới chấp nhận một cái giá quá đắt nhƣ thế, ở đây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Võ Thị Hảo đã có sự gặp gỡ với nhà thơ Xuân Quỳnh ở những câu thơ:

65

Anh tính nỗi đau, niềm vui bằng tháng bằng tuần lễ

Nhưng với em, em hiến cả một đời

(Thơ viết cho mình và những người con gái khác).

Với Nhuệ Anh cũng nhƣ những ngƣời con gái khác, tình yêu là có thực

song hạnh phúc chỉ là một giấc mơ. Khi Nhuệ Anh lao mình xuống dòng thác

Oán là khi nàng nhận ra tình yêu của mình quá bé nhỏ trƣớc lòng thù hận của

Từ Lộ, ta thƣơng xót Nhuệ Anh hơn bởi lại thêm một ngƣời con gái yêu và đổ

vỡ trong thế giới vƣờn yêu. Chỉ có điều ngƣời con gái này mang một tâm hồn

ngây thơ hơn những ngƣời khác, nên nàng dễ tha thứ hơn và nhân hậu hơn.

Mấy chục năm sau gặp lại, khi đối diện với ngƣời tình, bây giờ là một con hổ

nằm cào xé thân mình chờ chết, Nhuệ Anh lại lặn lội đi tìm đại sƣ Minh

Không để đem về cho ngƣời đã bóp nát cả đời mình sự sống. Cũng chỉ có tình

yêu mới dễ dàng tha thứ đến nhƣ thế và chỉ có bản năng của một ngƣời mẹ

mới có đƣợc “tình yêu vô điều kiện”trong suốt bao nhiêu năm nhƣ vậy. Mang

lòng yêu thánh thiện, Nhuệ Anh mang cả khả năng hoá giải nỗi đau kì diệu,

khả năng tái sinh niềm vui và hạnh phúc, nhƣ một bà mẹ với thiên chức duy

trì sự sống trƣờng cửu. Nàng xoa dịu nỗi đau đớn và sự thù hận trong Từ

Lộ:“Hình như cùng với niềm sướng vui thuỷ triều dồn dập trút vào thân thể

hoà vào da thịt nàng, bao nhiêu căm uất hận thù chứa chất trong lồng ngực,

bóp nghẹt trái tim chàng từng ấy ngày đêm cũng theo đó mà tan ra mất

dạng”[15] và nhất là những giọt nƣớc mắt đau đớn của nàng, ấy lại là thứ

nƣớc cam lộ của Bồ Tát đã hơn một lần cải tử hoàn sinh cho nhân gian:

“Những giọt nước mắt của bà tưới lên người đức vua…nước mắt chảy đến

đâu, những đám lông vằn vện tuột ra từng đám, rồi lột hết, lộ ra thân mình

của đức vua, với nước da trắng xanh, thư sinh nho nhã [15]. Hạn hán, cũng

chính lời ca nƣớc mặt gọi mƣa về, chứ không phải đàn tràng cầu mƣa của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Thần Tông:

66

“Mưa ơi! Mưa!

Không phải chúng tôi cầu mưa!

Chúng tôi đòi trời trả lại nước mắt”…[15].

Ngọn gió Nhuệ Anh thổi qua tất cả mọi ngƣời. Trƣớc một nỗi đau “bàn

tay bà dường như có phép linh diệu, khiến người đang đi khập khiễng bỗng đi

thẳng trở lại. Người nằm trên võng thôi rên rỉ”…[15]. Lời cầu nguyện giải

điên cho Lý Câu cũng là lời xin trả lại nỗi đau: “Lửa sẽ hoá thành khói, bay

lên trời, trả lại cho người đôi mắt và những dòng nước mắt” [15]…Nàng là

bà tiên đã biến đớn đau của tình yêu thành liều thuốc hoá giải cho những khổ

đau trần thế, oái oăm là đến lƣợt mình, nỗi đau của nàng lại không thể hoá

giải. Bởi Từ Lộ- Thần Tông đã quá ích kỉ để có thể đem mình hiến dâng cho

nỗi đau của nàng khỏi những khổ đau trần thế, nàng cay đắng khi nhận

ra:“trong mắt chàng đỏ đọc ngọn lửa báo thù thủa chàng còn là Từ Lộ, trong

mắt chàng không có ta. Khi chàng lôi tuột ta từ động Trầm về hậu cung đẫm

mùi son phấn và mưu đồ ác độc, chàng đã đầy đoạ ta thêm một lần nữa. Và

lần này mới ác độc làm sao. Chàng là một ông vua còn trai trẻ, được vây

quanh bởi lớp lớp cung tần mỹ nữ…thế mà ngọn lửa từ kiếp trước vẫn cháy

trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta [15]. Nàng biết là mình đã

chìm trong đoạ xứ cô đơn, lẻ loi, toàn những đổ vỡ, mất mát, trống trải không

cùng. Tuy cuối cùng tác giả đã để cho Nhuệ Anh hoá thành một ngọn gió thần

kì siêu thoát, thế nhƣng bà cũng không để cho độc giả quên rằng “Lịch sử của

nàng là lịch sử của một người đàn bà sống giữa cõi trần, có khả năng tuyệt

vời để làm vợ, làm mẹ nhưng lại không chồng, không con, không thân

thích”(Balzac-Ơgeni Grăng đê).

Dành trọn cuộc đời cho một tình yêu, để cuối cùng nhận ra rằng: “ Ta đã

tự huyễn hoặc, tự tô vẽ cho cái hình bóng của chàng độc tôn trong ta” [15] để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đến khi nhận ra: “Người đàn ông suốt đời không phản bội nàng”[15] cũng là

67

lúc chàng Cá Bơn trút hơi thở cuối cùng để nhận lấy niềm hạnh phúc đã đợi

chờ cả một đời ở bên kia thế giới. Và nhất là ở nàng, ngƣời phụ nữ trọn đời cô

quạnh ấy, luôn khắc khoải hình bóng một đứa con. Vì nàng có toàn quyền làm

mẹ nàng hi sinh, dâng hiến, xả thân, nàng dịu dàng, ngọt ngào trong trắng

thánh thiện, nàng có cả "sữa" có cả "mật" trong mình thế nên: “Dù đã gần

suốt đời gửi thân nơi cửa Phật, trong đáy cùng tâm trí, suốt đời Nhuệ Anh

vẫn ao ước không nguôi về một đứa con. Đôi lúc bà ngỡ như mình đã có một

đứa con gái đẹp như bà hồi còn là tiểu thư Nhuệ Anh” [15]. Khi lần đầu tiên

nhìn thấy Ngạn La, Nhuệ Anh mang mặc cảm ganh ghét của một tình nhân bị

bỏ rơi vì một ngƣời con gái khác, nhƣng cũng mang tình cảm thiết tha trìu

mến của một ngƣời mẹ âu yếm một đứa con. Chính tình mẹ bao dung khiến

cho Nhuệ Anh có thể hoà hợp với “tình địch” của mình và bi kịch lớn nhất

của Nhuệ Anh là nàng không thể có một đứa con. Ngƣời con gái lấy tình yêu

làm lẽ sống, là mục đích tối cao của cuộc đời, luôn hiện lên cùng với những

suy nghĩ về ngƣời yêu “đem cả một đời con gái đặt cược dưới chân người

nàng yêu”, cuối cùng cũng đành than lên “đời ta đã phí hoài vì ta quá lệ

thuộc chàng” [15.471]. Chỉ có điều, ngƣời đọc cứ tin rằng nếu có kiếp sau

của Nhuệ Anh, nếu nàng vẫn là một ngƣời con gái thì bất chấp những nỗi khổ

đau đoạ xứ kiếp trƣớc, nàng vẫn cứ lao vào vòng tay ngƣời yêu để dâng hiến

hết mình nhƣ tiểu thƣ Nhuệ Anh năm nào, đơn giản vì nàng là một ngƣời con

gái. Và vì ngƣời "sinh ra" nàng, ngƣời phụ nữ viết Võ Thị Hảo vẫn cứ tâm

niệm rằng nếu đƣợc làm lại từ đầu, có hai cách: Tốt nhất là không ra đời. Nếu

phải ra đời, lại là Võ Thị Hảo, nhƣng nên ngào thêm mật ong cho đời đỡ

đắng.

Không nhƣ Từ Lộ - Thần Tông! Ngạn La "Con mèo hoang" tự hát về mình:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

“Không quân không thần, trên đầu không trời Ta làm nhà giữa đám mây trôi

68

Hoa sen làm thuyền, cuống sen làm chèo Thuỷ nữ Dâm Đàm bơi theo”… [15]. Ngƣời con gái này, vừa nhƣ thần tiên lại vừa nhƣ ma quỷ, quyến rũ, mê

hoặc trần gian, bằng vẻ hoang lạ trong đôi mắt có con ngƣơi màu tím nhạt,

bằng chiếc rốn chu sa thơm nức hƣơng hoa đồng nội tinh khiết duyên dáng.“

Một trinh nữ mãi mãi ở tuổi mười ba” với tiếng cƣời lanh lảnh và dáng điệu

nhảy nhót múa hát nhƣ một chú chồn. Nàng là hiện thân của tự do, tự do trƣớc

tất cả: quân thần, vàng bạc, giàn thiêu và cả tình yêu. Nàng không ham chốn

cung đình không khép nép trƣớc nhà vua nhƣ những cung nữ khác. Giàn thiêu

là nỗi sợ và cũng là nỗi ám ảnh với nàng, nhƣng cả hai lần giàn thiêu đƣợc lập

lên: Một ở đầu và một lần ở cuối tác phẩm nhƣ hai đầu của một dải lụa điều

siết chặt lấy sự sống cũng là hai lần nàng giãy giụa chống trả, dứt mình ra

khỏi ngọn lửa của lòng ghen và sự đố kị. Nàng yêu Thần Tông nhƣng không

mãnh liệt đến mức huỷ hoại đời mình vì tình yêu nhƣ Nhuệ Anh. Ở nàng khát

vọng lớn nhất là khát vọng đƣợc sống giữa thiên nhiên nhƣ tuổi thơ của nàng.

Song tất cả vẻ đẹp siêu thoát ấy mới chỉ là một nửa của con ngƣời Ngạn La.

Võ Thị Hảo đã rất tinh tế và nhạy cảm đồng thời thấu hiểu những gì thuộc về

con ngƣời, đã phát hiện ra một khát vọng thầm kín đầy nữ tính ẩn sâu trong cô

bé hoang lạ này. Đó là khát vọng đƣợc làm một ngƣời phụ nữ. Mƣời ba tuổi

bị bắt vào cung để làm một món ăn lạ"cải thiện" cho một ông vua già sáu

mƣơi ba tuổi Lý Nhân Tông. Nhƣng kiệu hoa mới đi đƣợc hết nửa đƣờng đã

phải vội vã quay về vì đức vua đang cơn hấp hối. Vẫn là một đứa trẻ, lần lỡ

làng đầu tiên ấy với nàng chƣa trở thành nỗi ám ảnh. Lần lỡ làng thứ hai với

vị vua trẻ Lý Thần Tông, gƣơng mặt tiên đế trong chiếc rốn chu sa chỉ là một

sự lạ, chƣa trở thành nỗi ám ảnh. Nhƣng lần thứ ba, thứ tƣ…mƣời năm sau

mà cô cung nữ với sắc đẹp quyến rũ mê hồn ấy vẫn còn là một trinh nữ, dù

không bị bỏ rơi nhƣng cũng tự biết mình “không thuộc về ai”. Nàng cũng lỡ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thì nhƣ một trăm mƣời ba cô gái ở hồ Dâm Đàm, một cử chỉ “nàng căng mình

69

chờ đợi” khi Thần Tông “ghé môi tới gần chiếc rốn đang đỏ dậy lên trong

ráng chiều”, cái dáng dâng hiến đầy nữ tính của ngƣời con gái trong cuộc

truy hoan đủ cho ta hiểu cơn khát mƣời năm nơi ngƣời con gái không tuổi

này. Với nàng tự do là một điều hạnh phúc, song trong sâu thẳm tâm hồn

nàng cũng là một sự giày vò đau khổ. Cái cảm giác muốn mình hoàn toàn

thuộc về một ai đó, muốn đƣợc thụ lãnh tình yêu của một ai đó, để thấy mình

bớt bơ vơ, lỡ dở, để thấy mình toàn vẹn niềm vui, nỗi buồn của một ngƣời đàn

bà, cũng nhƣ cảm giác của ngƣời con gái trong ca dao, biết rằng:“Gái có

chồng như gông đeo cổ”, nhƣng cũng còn hơn là: “gái không chồng như phản

gỗ long đanh”. Cựu hoàng Nhân Tông đã giết chết tuổi thơ nơi đồng cỏ bên

mẹ hiền của nàng, và lại cái bóng ma lạnh lẽo, ích kỉ Nhân Tông đã giết chết

tuổi thiếu nữ và niềm hạnh phúc ân ái hòa hợp của nàng bên Thần Tông. Cơn

khát thèm dục tính ấy, là cơn khát của sức sống phồn thực trong giới nữ, là

cơn khát trần gian, khát đƣợc làm vợ, bởi vì trên tất cả là niềm khao khát

đƣợc yêu thƣơng, giao cảm và chia sẻ với một ngƣời. Thế giới yêu của Võ

Thị Hảo đã có một hồn trinh nữ, đến Ngạn La lại thêm một trinh nữ nữa cô

độc, mong manh giữa nhân gian, chơi vơi, lẻ loi đến tội nghiệp.

Nhƣ vậy, những ngƣời phụ nữ với bi kịch trong tình yêu ta gặp rất nhiều,

ở hàng loạt các tác phẩm nhƣ đã kể trên, nhƣng hạnh phúc đến với họ quá đỗi

mong manh và ít ỏi so với những khổ đau chồng chất. Trong các truyện của

mình, nhà văn Võ Thị Hảo còn xây dựng một nghịch cảnh, là niêm vui và

hạnh phúc vừa đến chƣa đƣợc bao lâu hay đúng hơn là nhân vật của chị mới

đƣợc nhìn thấy chứ chƣa đƣợc tận hƣởng nó thì nó đã vĩnh viễn tuột mất khỏi

tầm tay họ. Đó là các truyện: Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữ, Con dại

của đá…Họ bị đổ vỡ hạnh phúc ngay trong đêm tân hôn. Ngoài những bi

kịch kể trên, trong sáng tác của Võ Thị Hảo ngƣời đọc còn hay gặp một bi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

kịch khác của các nhân vật nữ. Đó là bi kịch của sự bạc mệnh, của số phận

70

ngắn ngủi. Trong thế giới nhân vật nữ này, có một phần không nhỏ là nhân

vật nữ chết yểu "đoản mệnh" nhƣ ở trong các truyện: Tim vỡ, Nàng tiên xanh

xao, Hồn trinh nữ, Khát của muôn đời, Vườn yêu, Vũ điệu địa ngục, Ngậm

cười, Con dại của đá, Người sót lại của Rừng Cười, Giọt buồn giáng sinh,

Phiên chợ người cùi…Ở Giàn thiêu là cái chết trẻ của bốn mƣơi tám cung

nữ bị thiêu sống, đi theo để hầu hạ đức Tiên hoàng ở cõi cực lạc. Hoặc cái

chết của bẩy mƣơi sáu cung nữ trong cung Thƣợng Dƣơng vì bị bức tử và đặc

biệt là cái chết của ba ngƣời hầu gái trẻ đẹp của Hoàng thái hậu Ỷ Lan trƣớc

khi qua đời đã trăng trối: “Nhất thiết phải chôn sống ba người hầu gái để đi

theo hầu hạ thái hậu”…[15].

Qua đây chúng ta thấy số phận của nhân vật nữ trong sáng tác của Võ

Thị Hảo hiện lên vô cùng đa dạng, phong phú và chân thực. Mỗi ngƣời là đại

diện cho một cảnh đời, một số phận, không ai giống ai. Họ nhƣ từ cuộc đời

thực bƣớc vào trang sách và những cuộc đời ấy đều thấm đẫm những giọt

nƣớc mắt, nƣớc mắt của chính họ và nƣớc mắt của những ngƣời ngoài cuộc.

Từ cô gái chƣa chồng đến những ngƣời phụ nữ có chồng, những ngƣời nhiều

tuổi, tất cả họ đều khóc. Giọt nƣớc mắt đã trở thành một nhân vật đi bên cạnh,

song hành với cuộc đời họ, đeo bám lấy họ, và thật xót xa, những cuộc đời ấy

đều kết thúc không có hậu. Ngƣời thì chết, ngƣời thì điên, ngƣời thì bỏ

đi…tuy nhiên điều mà nhà văn gửi gắm đến độc giả là sức sống mãnh liệt

trong những cuộc đời ấy. Đồng thời cũng là sự bày tỏ quan niệm. Cuộc đời

ngƣời phụ nữ là muôn vàn nỗi khổ, xã hội hay đúng hơn là những ngƣời đàn

ông hãy hiểu, hãy cảm thông và chia sẻ, đừng bao giờ đƣa đến cho họ thêm

những nối sầu đau. Tất nhiên cái nhìn của tác giả nhiều khi mang tính chủ

quan, thậm chí có lúc còn cực đoan, song trên tất cả đọng lại ở những trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

viết đó là giá trị nhân văn cao đẹp. Là bản lĩnh của nhà văn khi dám phơi bày

71

đến tận cùng nỗi đau, tố cáo sự bất công phi lý cũng nhƣ khẳng định những

khát vọng của ngƣời phụ nữ. Đó là tiếng nói nữ quyền.

2.2.2. Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo

Ngƣời phụ nữ luôn là biểu tƣợng cho những hình ảnh bền vững, cho sự

vĩnh hằng của cuộc sống. Những lời ca say đắm và lắng sâu nhất trên thế gian

này có lẽ là những lời ca dành để ngợi ca và tôn vinh nét đẹp của ngƣời phụ

nữ, mà vẻ đẹp đƣợc nhà văn Võ Thị Hảo phát hiện và ngợi ca không phải là

vẻ đẹp rực rỡ, lớn lao, phi thƣờng của một thời hào hùng mà đó là những vẻ

đẹp giản dị, đời thƣờng, nhỏ bé, khuất lấp gắn với từng cuộc đời, từng số

phận của từng con ngƣời. Vì vậy khi nói đến ngƣời phụ nữ ngƣời ta thƣờng

liên tƣởng tới vẻ đẹp trong tâm hồn mà nó đƣợc biểu hiện thông qua những

phẩm chất đạo đức tốt đẹp của ngƣời phụ nữ.

Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo hiện lên nổi bật nhất, khó

quên nhất với những bi kịch, và mục đích chính của tác giả có lẽ là hƣớng vào

việc thể hiện những nỗi khổ đau, bất hạnh của ngƣời phụ nữ. Nhƣng đằng sau

những bi kịch đau thƣơng ấy ngƣời phụ nữ đƣợc hiện lên với những phẩm

chất đạo đức đẹp và ngời sáng, có lẽ bởi vì theo quan niệm nghệ thuật của chị

những ngƣời phụ nữ càng có phẩm chất tốt đẹp, cao quý bao nhiêu thì bi kịch

càng đƣợc tô đậm thêm bấy nhiêu. Đáng lẽ con ngƣời có phẩm chất nhƣ vậy

phải đƣợc hƣởng một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc. Nhƣng ngƣợc lại, đặt

trong tƣơng quan với nỗi khổ đau, những nét đẹp tâm hồn của ngƣời phụ nữ

càng tỏa sáng, càng đáng trân trọng và ngợi ca.

Trong sáng tác của Võ Thị Hảo, những ngƣời phụ nữ thƣờng hiện lên

với tấm lòng vị tha bao dung, độ lƣợng, đầy tình yêu thƣơng nhân ái, với đức

hi sinh cao cả, và sự tần tảo, bền bỉ, chịu đƣng. Có thể nói đây là một đặc

trƣng cho phẩm chất đạo đức của ngƣời phụ nữ Việt Nam (truyền thống) và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

hình ảnh ngƣời phụ nữ trong sáng tác của nữ nhà văn này dƣờng nhƣ cũng

72

mang dáng hình chung của ngƣời phụ nữ Việt Nam muôn đời. Họ thƣờng

nhận nỗi đau, phần thiệt thòi về mình, họ hi sinh và làm tất cả vì ngƣời mình

yêu, vì niềm vui và hạnh phúc của ngƣời khác. Nhƣ nhân vật nàng trong Dây

neo trần gian yêu bằng cả trái tim chân thành, sẵn sàng làm tất cả chỉ mong

mang lại niềm vui và hạnh phúc cho ngƣời mình yêu và cứu sống anh- một

ngƣời mà cô biết sẽ không bao giờ thuộc về mình. Hay ngƣời mẹ trong

Chuông vọng cuối chiều yêu chung thủy và nuôi con chờ đợi chồng trong

những năm chồng đi công tác. Khi đối diện với sự phản bội của chồng, ngƣời

mẹ đó đã âm thầm chịu đựng sự đớn đau, giày vò về mặt tinh thần nhƣng

cũng rất bao dung độ lƣợng, sẵn sàng tha thứ cho lỗi lầm của chồng để cứu

vớt một ngƣời đàn bà khốn khổ, ngƣời đã làm tan vỡ hạnh phúc gia đình chị.

Bởi ngƣời mẹ đã nhận thấy số phận của ngƣời đàn bà kia còn bất hạnh hơn

mình, bà ta yếu và xấu xí… bà ta đi tu chỉ vì không hi vọng tìm đƣợc một

chút hạnh phúc nơi trần thế và…“Sự xa vợ của ông là dịp may duy nhất trong

đời người đàn bà ấy”…Với tấm lòng vị tha đầy tình yêu thƣơng nhân ái, ngƣời

mẹ đã chấp nhận nuôi và chăm sóc con của chồng với ngƣời đàn bà khác.

Bích trong Khăn choàng sương, với tấm lòng vị tha bao dung độ lƣợng

và đầy tình yêu thƣơng nhân ái, đã chiến thắng chính mình để vì cuộc sống

của mình cũng nhƣ những ngƣời xung quanh. Trƣớc sự phản bội của chồng,

chị chỉ còn biết âm thầm đau đớn và âm thầm tha thứ để cảm thông, chia sẻ

với những ngƣời đàn bà bất hạnh khác nỗi khổ cũng nhƣ bi kịch tình yêu với

chồng mình.

Thảo trong Người sót lại của Rừng Cười mặc dù rất yêu Thành, bởi với

cô ngày còn ở chiến trƣờng chính tình yêu với Thành và niềm khát khao hạnh

phúc đƣợc trở về, đƣợc đắm mình trong vòng tay ngƣời yêu chính là “một

trong những đốm lửa sáng nhất giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

dã chốn rừng sâu”. Thế nhƣng khi trở về bên cạnh ngƣời yêu, cô lại thật xót

73

xa khi nhận ra “Thành gắn bó với cô chỉ bằng nghĩa chứ không có tình”. Nhất

là khi thấy anh và cô bạn gái cùng lớp đang thầm yêu nhau, họ đẹp đôi và ở

gần nhau. Vậy mà nhiều lần Thảo bảo anh rời xa cô để yêu ngƣời khác thì anh

không chịu và rồi cô đã tự nguyện lùi bƣớc, nhƣờng Thành cho ngƣời con gái

đó. Vì nếu tiếp tục yêu cô, Thành sẽ không hạnh phúc, sẽ chịu nhiều thiệt

thòi. Vì yêu và mong ngƣời mình yêu đƣợc hạnh phúc mà cô đã tự nguyện hi

sinh tình yêu vô bờ của mình nhƣờng Thành cho ngƣời con gái khác và nhận

về mình những thiệt thòi, những đau đớn, xót xa. Truyện Nàng tiên xanh xao

lại là một ngƣời con gái giàu lòng nhân ái và đức hi sinh. Bởi cô đã tự nguyện

hiến một nửa máu chảy trong huyết quản của mình để cứu sống một tràng trai

xa lạ “chưa từng biết mặt, chưa từng biết tên”. Còn Khát của muôn đời ta lại

gặp một cô gái có tấm lòng bao dung độ lƣợng, vị tha, đầy lòng yêu thƣơng

nhân ái và đức hi sinh cao cả, bởi vì cô đã không ngại gian nan vất vả, không

quản cái chết, không quản hi sinh bản thân mình để đi tìm ngƣời yêu.Và

nguyện trở về kiếp trƣớc vẫn xin đƣợc làm linh hồn của cây chanh bên dòng

suối cạn, để cứu giúp những ngƣời sau đó. Những nhân vật nữ bị lỡ làng, bị

phụ bạc một phần bởi theo họ cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có

tình yêu: “Thử hỏi thế gian này không còn ai biết mình, không còn ai si mê,

không còn tìm đâu ra một kẻ biết yêu…ở trong ngực mọi người chỉ còn là

băng giá, chẳng còn những H'Điều không quản cái chết đi tìm người yêu thì

liệu có đáng còn thế giới này chăng?” Ở truyện Đường về trần ngƣời đọc

cũng sẽ gặp một ngƣời phụ nữ giàu đức hi sinh, bà đã hy sinh thân mình cả

đời vì chồng, vì con, để vun vén gia đình. Qua lời kể của bà ta thấy sự chịu

đựng cũng nhƣ đức hi sinh của ngƣời phụ nữ đó cho gia đình lớn lao thế nào.

Sống với một nguời chồng tai ngƣợc, quái ngở luôn hành hạ, giày vò bà cả về

thể xác lẫn tinh thần, ngày thì thiu thiu ngủ nhƣng khi đêm đến mẹ con bà lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

giƣờng đi ngủ thì ông “Sùng sục rít thuốc, đá thúng đụng nia và chửi rủa, chì

74

chiết”… Bà sống với chồng nhƣng trong nỗi đau khổ, sợ hãi và chán trƣờng

để nuôi dạy các con khôn lớn, trƣởng thành, để ngăn các con không đƣợc tự

tử chỉ vì không chịu nổi bố, để khuyên các con tu chí làm ăn… Còn bà Diễm

trong truyện Người gánh nước thuê là ngƣời trầm tính, ít nói, nhƣng ẩn sâu

trong dáng hình xấu xí, trái ngƣợc với cái tên Diễm là một con ngƣời đôn hậu,

giàu lòng nhân ái, biết yêu thƣơng, cảm thông và chia sẻ với những ngƣời cùng

cảnh ngộ…Nhuệ Anh trong Giàn thiêu, một tiểu thƣ xinh đẹp, một cành vàng

lá ngọc yêu Từ Lộ bằng một tình yêu trong sáng, thiết tha đƣợc dâng hiến

đƣợc hi sinh cho ngƣời mình yêu và chung thủy tuyệt đối. Nàng cũng nhƣ bao

ngƣời con gái khác ƣớc mong tình yêu kết trái chín hạnh phúc, đƣợc sống một

cuộc sống yên bình. Tình yêu khắc cốt ghi tâm, ghi lòng tạc dạ của Nhuệ Anh

đối với Tƣ Lộ đã trở thành mục đích sống duy nhất, lớn lao nhất của nàng. Vì

tình yêu chân chính và trong sáng ấy mà nàng đang tâm từ bỏ mẹ cha, gia

đình, tự nguyện dấn thân vào cuộc đời trầm luân khổ ải, đi theo tiếng gọi của

trái tim tha thiết yêu thƣơng. Thân gái dặm trƣờng nàng lặn lội cất công đi tìm

dấu vết của Từ Lộ ở khắp nơi với mong ƣớc, khát khao cùng chàng đồng cam

cộng khổ vƣợt qua kiếp nạn. Khát vọng tình yêu chân chính của Nhuệ Anh

với Từ Lộ không chỉ là khát khao đƣợc sẻ chia, ghánh vác, nguyện nhƣ chim

liền cánh, nhƣ cây liền cành mà còn là khát khao dâng hiến, hi sinh, sống hết

mình cho tình yêu và vì tình yêu.

Các nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo không chỉ hiện lên với

những phẩm chất tốt đẹp đó mà còn hiện lên là những ngƣời phụ nữ với trái

tim trong sáng, thánh thiện, thủy chung và cao thƣợng trong tình yêu. Ngƣời

con gái trong Hồn trinh nữ đã chờ đợi ngƣời yêu đi lính suốt mƣời bẩy năm

trời mà không có một chút tin tức của ngƣời yêu, đến quá lứa lỡ thì. Tình yêu

của nàng dành cho chàng trai lính chiến đó thật thuỷ chung son sắc, chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thành và mãnh liệt. Chính sức mạnh của tình yêu đó đã chiến thắng thời gian.

75

Còn Hải trong Mắt miền tây yêu Tuấn bằng một tình yêu trong sáng, thánh

thiện. Chị luôn quan tâm chăm sóc, lo lắng cho Tuấn, mặc dù bị Tuấn đối xử,

đánh đập, và hành hạ tệ bạc nhƣng chị vẫn tha thứ, vẫn hi vọng có thể làm

thay đổi con ngƣời Tuấn bằng những bức ảnh về gia đình anh. Đó là một

ngƣời phụ nữ thánh thiện và cao thƣợng…

Cùng những phẩm chất trên thì tính tự trọng cũng là một phẩm chất đạo

đức đáng quý mà ngƣời đọc bắt gặp ở một kiểu nhân vật nữ khác, những con

ngƣời tƣởng chừng nhƣ xấu xa, đáng khinh bỉ, những con ngƣời sống tầng lớp

dƣới đáy xã hội nhƣ cô gái điếm trong Biển cữu rỗi. Mặc dù là gái điếm, một

cô điếm “đã thiu, bị liệng ra bãi thải, ốm nhách và vô phương sinh sống”,

trƣớc cái nhìn đầy khinh miệt của ngƣời đàn ông đảo đèn thì cô gái điếm đó

“thấy nhục và quờ tay tìm cái nón che người”…Bƣớc đƣờng cùng nên cô mới

phải tìm đến với anh nơi đảo hoang, mong tìm đƣợc một chỗ dựa, một nơi để

bấu víu những ngày cuối đời nhƣng ƣớc mong bình dị đã bị sự ích kỷ của

ngƣời đàn ông đó dập tắt, không ngoài sự ghê tởm nhƣng khi ân ái với cô, anh

đã coi cô không khác gì một con bò. Một cô gái điếm nhƣng đâu phải không

có lòng tự trọng, anh đã không nhận ra“tận cùng nơi hình hài tã tượi kia vẫn

còn chút lòng tự tôn của giống người”. Cô thấy nhục nhã bởi“Trong đời hành

nghề của thị, thị chưa bao giờ cảm thấy đau đớn đến như thế trước sự hạ

nhục của trò chăn gối. Dường như thị đang bị cầm kìm rứt từng khúc ruột”.

Trong truyện Tim vỡ nhân vật nàng lại thất vọng ê chề vì những ngƣời đàn

ông “chỉ dừng lại nơi làn môi, khóe mắt và thân xác hứa hẹn đầy lạc thú” của

những ngƣời đàn bà, nhận ra sự thật phũ phàng đƣợc thốt ra từ chính miệng

ngƣời đàn ông mà nàng vẫn gọi là chồng kia, một mình nàng quằn quại với

nỗi đau và chết trong nỗi đau đó nỗi đau không chỉ của riêng nàng mà đó là

nỗi đau của cả thế giới đàn bà, vậy mà nó lại chất chứa nơi trái tim bé bỏng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tội nghiệp của nàng. Nhân vật Nàng trong truyện Người đàn ông duy nhất

76

chỉ vì là con của một gái làng chơi yểu mệnh, mà điều mong ƣớc đƣợc sống,

đƣợc yêu thƣơng, đƣợc có ngƣời bảo vệ và che chở cho nàng nhƣ những

ngƣời bình thƣờng khác mà không thể đƣợc. Bởi“những người đàn ông tử tế

không bao giờ muốn lấy con của một gái làng chơi” làm vợ, nên nàng cứ liên

tiếp lấy những ngƣời chồng không nhƣ ý muốn và ngƣời sau thì thấp cấp hơn

ngƣời trƣớc. Để rồi trƣớc sự đuổi đánh, xúc phạm của chồng nàng ở giữa chợ,

lòng tự trọng trong nàng dâng lên. Nàng thấy nhục nhã và quyết tâm rời bỏ

căn nhà "ma ám" mà mẹ nàng đã để lại cho nàng rồi ra đi…Nhƣ vậy nhân vật

phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo thực sự là những ngƣời có phẩm chất

đạo đức tốt đẹp. Họ đại diện cho những ngƣời phụ nữ có tâm hồn trong sáng,

thánh thiện, giàu lòng nhân ái, giàu đức hy sinh và hơn cả là đầy lòng tự

trọng. Đó là phẩm chất của ngƣời phụ nữ Á đông nói chung và của ngƣời phụ

nữ Việt Nam nói riêng, những con ngƣời giàu đức hi sinh và giàu lòng vị tha.

Trong văn học truyền thống chúng ta bắt gặp không ít những ngƣời phụ nữ tài

sắc đức hạnh nhƣng cuộc đời vẫn đầy oan trái nhƣ Vũ Thị Thiết trong truyện

Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Hay nàng Kiều trong Truyện

Kiều của Nguyễn Du…Dù có những đức tính quý giá ấy, dù nhận thức rõ sự

bất công hoặc ý thức rõ về quyền đƣợc hƣởng họ vẫn sống, vẫn có nó nhƣ bản

năng nhƣ phẩm chất sẵn có.Viết về những phẩm chất đáng quí của ngƣời phụ

nữ, Võ Thị Hảo không chỉ ca tụng mà chị còn khẳng định một sức mạnh tiềm

ẩn sâu sa và mạnh mẽ của họ. Sức mạnh ấy còn hơn một lời tố cáo, hơn một

sự khẳng định. Nó là chân lý, là thiên đƣờng.

2.2.3.Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo

“Giới tính luôn bị quy định bởi truyền thống văn hóa tập tục, giáo dục,

tôn giáo, chính trị…nghĩa là toàn bộ những gì ta cảm thấy qua cách nhìn

nhận của một cá nhân hay tập thể về tính cách nam- nữ. Và vấn đề giới tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thực chất là vấn đề thể hiện một hệ thống biểu trưng hay hệ thống ý nghĩa nối

77

liền các giống với những nội dung văn hoá tương ứng với những giá trị và

đẳng cấp xã hội tương ứng”[2]. Trƣớc kia do hoàn cảnh văn hoá xã hội, do

mô thức đạo đức phong kiến đã khống chế tƣ duy của ngƣời viết nữ Việt Nam

trong một thời gian dài, từ ảnh hƣởng của đạo Khổng, Mạnh và Phật giáo đến

tinh thần thanh giáo của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà vấn đề giới tính

cũng nhƣ đề tài tính dục ít đƣợc nói đến hay đúng hơn là bị cấm.

Trong thực tế, văn học Việt Nam trƣớc đây vấn đề giới tính hay vấn đề

tính dục luôn thuộc “khu vực đèn đỏ, vùng cấm địa” ngay cả phái nam cũng ít

khi dám công khai viết. Bởi thế khi các nhà văn nữ dám công khai viết về tính

dục thì đƣơng nhiên họ sẽ bị sức ép từ nhiều phía, nam giới có, dƣ luận có, và

ngay cả những ngƣời thân của chính họ nữa… Phẩm chất, nhân cách họ bị hạ

thấp thậm chí còn bị rè bỉu, khinh bỉ với các hệ từ không mấy thiện cảm nhƣ

“đĩ thõa, xấu xa, đồi trụy”…“Diễn trình giải phóng dục tính nữ trong lịch sử

là một quá trình mà ở đó, giới nữ đi từ khách thể dục tính đến chủ thể dục

tính. Tính dục của giới nữ đi từ quan niệm như là nghĩa vụ và thiên chức(làm

mẹ) chuyển sang như là đam mê và quyền lực (cái đẹp). Vai trò người đàn

ông cũng chuyển hóa từ kẻ thống trị và chiếm đọat, trở thành một đối

tác…[55]. Tuy nhiên không nên đồng nhất giải phóng tính dục với nữ quyền

mà tính dục chẳng qua chỉ là một công cụ để các nhà văn nữ “bung thoát” ra

khỏi vòng kim cô bất bình đẳng về giới trƣớc đây, để họ dám bày tỏ, cũng

nhƣ dám nói những điều mình mong muốn, những khát vọng bản năng thầm

kín, dám thật với cảm giác của mình.

Văn học sau 1975 nhìn nhận con ngƣời ở góc độ thế sự, đời tƣ đƣợc đặt

trong quan hệ với cuộc sống hàng ngày, với nhiều lo toan, nhiều va đập của

cuộc sống. Bởi vậy con ngƣời cũng đƣợc bộc lộ hết mình với nhiều mặt tính

cách và ngày càng trở nên bí ẩn hơn, phức tạp hơn. Trong mạch chảy chung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

ấy của văn học đƣơng đại, sáng tác của Võ Thị Hảo cũng khai thác con ngƣời

78

cá thể, ở đó các nhân vật đƣợc đặt trong nhiều khía cạnh khác nhau của đời

sống. Họ xuất hiện với tất cả các mặt tốt- xấu, cao cả- thấp hèn…với tƣ cách

con ngƣời trần thế của mình, dám nói những điều mình muốn, mình nghĩ…Vì

trong xã hội dân chủ mỗi ngƣời đƣợc tự do sống với niềm tin cá nhân của

mình, đƣợc quyền khẳng định vị thế, giá trị, nhân cách của mình và nó còn

đƣợc thể hiện ở “sự trỗi dậy của tình dục như một cách giải toả những ẩn ức

bị đè nén bấy lâu” [55], ở khát vọng tình yêu trần thế, ở sự chủ động trong

tình yêu trong hạnh phúc cá nhân, đó chính là sự biểu hiện một ý thức sâu sắc

về nữ quyền trƣớc vấn đề tình dục. Họ, những ngƣời phụ nữ luôn khát khao

yêu thƣơng, căng đầy sức sống phồn thực, sẵn sàng quẫy đạp để thoát ra khỏi

sự cầm tù của những khuôn khổ chật chội, của những định kiến xã hội, của

những tập tục hay mô thức đạo đức phong kiến. Nàng Sải trong Con dại của

đá và tiểu thƣ Nhuệ Anh trong Giàn thiêu là những ngƣời phụ nữ nhƣ thế.

Khát khao yêu thƣơng, họ yêu bằng một tình yêu thiết tha trong sáng, bằng

niềm đam mê mãnh liệt. Khi yêu họ không còn cái mặc cảm, e dè, sợ hãi,

không còn sợ sự trói buộc của gia đình, xã hội hay những tập tục, cũng nhƣ

giáo lý phong kiến ngăn cản. Họ sẵn sàng yêu và chấp nhận vƣợt qua tất cả để

đến với ngƣời mình yêu, họ dám sống thật với chính cảm xúc khát khao của

mình, dẫu biết rằng cái kết cục của những mối tính ấy không mấy tốt đẹp

nhƣng vẫn chủ động yêu, sẵn sàng làm tất cả để giành và giữ tình yêu ấy.

Nàng Sải trong Con dại của đá và Nhuệ Anh trong Giàn thiêu đều bỏ trốn

trong đêm tân hôn. Sải thì tìm đến nhà ngƣời yêu, đòi ngƣời yêu đƣa mình bỏ

trốn, thấy Sải hắn nói “Đến đấy làm gì? đêm nay phải ngủ với chồng mới chứ!

Hắn nói rồi ôm Sải. Đôi tay đã đặt trên ngực nàng, sờ sẫm”…Con dại của

đá. Còn Nhuệ Anh một tiểu thƣ xinh đẹp, một cành vàng lá ngọc, con quan

ngũ phẩm Tôn Trinh, đƣợc hứa hôn và yêu Từ Lộ bằng một tình yêu trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

sáng, thiết tha. Nàng khao khát đƣợc hiến dâng, hi sinh và thủy chung tuyệt

79

đối với ngƣời mình yêu. Vì tình yêu sâu nặng đó mà nàng dám bỏ Lý Câu-

công tử duy nhất của Diên Thành hầu Hoàng thân, trong đêm hợp cẩn của lễ

tiểu đăng khoa và đang tâm từ bỏ cả cha mẹ, gia đình để đi theo tiếng gọi con

tim. Để đƣợc hiến dâng, đƣợc thụ hƣởng niềm hạnh phúc tột cùng trong men

say tình yêu khi hai trái tim, hai tâm hồn, hai thể xác hòa quyện làm một. Đó

là dây phút thăng hoa tuyệt diệu nhất của tình yêu và cũng là niềm hạnh phúc

duy nhất có đƣợc trong đời nàng:“Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vùng

ngực nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, bạo

liệt như đá rừng rực tỏa hơi nóng dưới ánh nắng mặt trời pha lẫn hơi mưa

tươi tắn và trinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt lại như lạc

vào cõi phiêu bồng. "Từ Lộ… Em là vợ chàng!". Thân thể của Nhuệ Anh quằn

quại trong những tiếng lắp bắp đứt đoạn tắc nghẹn, theo những giọt máu đỏ

ứa ra từ trong tim…Một cảm giác nghẹn ngào lan tỏa cùng với nỗi lòng chan

chứa biết ơn người đã mang lại cho nàng niềm khoái lạc mêng mang và nỗi

đau đớn trần thế kỳ diệu”.[15,tr.211-212]. Sải và Nhuệ Anh là những ngƣời

phụ nữ dám sống thật với những cảm xúc khát khao của mình. Điều này cho

thấy ý thức cá nhân, yếu tố riêng đã "cựa quậy" để thoát ra khỏi những ràng

buộc cố hữu.“Đây không phải là điều dễ thấy trong hình ảnh những người

phụ nữ trước đây, khi mà gánh nặng“tam tòng”còn đè nặng lên vai. Từ đó đã

dần hé lộ ra những dấu hiệu ý thức“nữ quyền” một cách kín đáo nhưng

không kém phần quyết liệt”[55].

Tình yêu vốn rất đa dạng và phong phú, không chỉ ở lứa tuổi, ở tầng lớp

ngƣời yêu mà còn muôn hình vạn trạng, muôn vàn cung bậc khác nhau. Nếu

trƣớc đây ta chỉ quen nghe đến những tình yêu lý tƣởng, tình yêu cao thƣợng

hay tình yêu đau khổ, thì nay những hình dung từ đó đã trở nên “lỗi thời” và

ngƣời ta nghe thấy nhiều hơn những tình yêu phút chốc, tình yêu bản năng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tình yêu bồng bột, tình yêu tự do…Nhà văn Võ Thị Hảo cũng đã khám phá

80

tình yêu ở nhiều đối tƣợng, từ những cảm xúc của cô gái mới lớn trong Vườn

yêu đến tình yêu của một cô gái mù loà tƣởng nhƣ không thể có tình yêu

trong Làn môi đồng trinh. Đặc biệt nhà văn còn khám phá tình yêu ở một góc

độ trái với truyền thống trong Tình yêu mây trắng với thái đột trân trọng,

đồng cảm. Phải nói rằng, chƣa bao giờ trong văn học nói đến tình yêu lại đề

cập đến vấn đề dục vọng cá nhân nhiều nhƣ thế và vấn đề tính dục đƣợc khai

thác cặn kẽ, mạnh bạo khiêu khích hơn bao giờ hết. So với các cây bút nữ

cùng thời, trong sáng tác của Võ Thị Hảo vấn đề bản năng đƣợc đề cập và thể

hiện cũng khá táo bạo. Sống với bản năng của mình, lòng dục quá lớn, nên

nhân vật của chị dễ mắc phải lỗi lầm, những ngƣời phụ nữ đến với những tình

yêu chớp nhoáng, phút chốc, hay đổi chác hoặc ngoại tình…Nhƣ ngƣời vợ

anh lính gác đèn nơi đảo hoang trong Biển cứu rỗi chị tìm đến những mối

tình,“ những cuộc giao hoan vội vã” bởi chiến tranh “cả làng trắng đàn

ông”,bởi trong khi tạo hóa sinh ra đàn bà chỉ để làm chiếc dây leo đẹp quấn

yểu điệu quanh cây đại thụ- ngƣời đàn ông. Chị cũng có những khát khao bản

năng thầm kín, những ham muốn nhƣ bao ngƣời khác, chỉ có điều chị dám

sống thật với những cảm xúc những ham muốn đó, dám là chính mình, chấp

nhận khi hạnh phúc dở dang, gia đình tan vỡ. Khao khát một tình yêu đích

thực, đôi khi ngƣời phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo nhẹ dạ tới mức

ngây thơ và thậm chí ảo tƣởng nhƣ ngƣời Dì trong Vườn yêu, nàng Sải trong

Con dại của đá, ngƣời vợ Thanh trong Phúc Lộc Thọ lên trời… đã chạy theo

tiếng gọi của ái tình để rồi phải đón nhận những kết cục không mấy tốt đẹp:

tình yêu dang dở, hạnh phúc gia đình tan vỡ, thậm chí họ còn phải trả giá

bằng cả mạng sống của mình.

Những ham muốn bản năng trong sáng tác của Võ Thị Hảo, ta có thể bắt

gặp đâu đó trong cuộc sống đời thƣờng, đƣợc nhà văn nói đến với hai thái độ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

khác nhau, vừa trân trọng, vừa phê phán. Mỗi cá nhân có quyền đƣợc sống

81

theo những gì mình muốn theo những khát khao bản năng thầm kín của mình,

nhƣng nếu vƣợt quá giới hạn của nó sẽ thành xấu, thành ích kỷ. Có những lúc

nhà văn viết với niềm cảm thông sâu sắc, đó là khi thấy những “người con gái

hoàn toàn trần truồng tóc xoã, vẻ mặt bơ phờ, và đang ngửa cổ ra sau cười

khanh khách”Người sót lại của Rừng Cười. Cũng có khi nhà văn nói về tính

dục nhƣ một cõi thiêng đầy trân trọng, đó là khi nó là kết quả của tình yêu, là

sự kết hợp với tình yêu giữa Nhuệ Anh và Từ Lộ. Cũng có khi nhà văn viết

với một thái độ phê phán khi bản năng trở nên phi thánh thiện ở những cô gái

nhà hàng Hƣơng Đêm trong truyện Máu của lá, cô tiếp viên xinh đẹp ở nhà

hàng Queen trong Tiếng vạc đêm, ngƣời đàn bà góa nằm trong hội đồng nhân

dân xã trong truyện Phúc Lộc Thọ lên trời hoặc cô gái điếm nghiệp dƣ tên

Trầm trong Mắt miền tây…Cô gái điếm hết thời trong Biển cứu rỗi lại đƣợc

nhà văn bày tỏ niềm thƣơng xót khi cô tìm đến ngƣời lính gác đèn nơi đảo

hoang, một phần vừa để thỏa mãn những cơn khát thèm của ngƣời đàn ông

đó, một phần cô muốn tìm chỗ dựa, một cánh tay cứu vớt cô trong những

ngày cuối đời. Võ Thị Hảo thậm chí đã cảm nhận đƣợc lòng tự trọng của cô

gái tội nghiệp ấy khi cô biết nhục trƣớc ánh mắt sắc lạnh, khinh miệt của

ngƣời đàn ông.

Cùng với sự thể hiện những ham muốn mang tính bản năng của ngƣời

phụ nữ thì cái nhìn mang tính dục vọng của nhân vật có khi lại thấm đẫm vào

cảnh vật nhƣ trong Miền bọt, Đêm bướm ma,Vườn yêu, Lửa lạnh, Dã nhân,

Lãnh cung...

Võ Thị Hảo viết về những khao khát, ham muốn bản năng thầm kín,

không nhẹ nhàng, kín đáo và ủy mị nhƣ trong truyện Tân cảng, Phù thủy …

của Nguyễn Thị Thu Huệ và lại càng không quá táo bạo, mãnh liệt, nhẩm nha,

đầy thấm thía và ẩn ý nhƣ trong Bóng đè, Tình chuột…của Đỗ Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Diệu…Viết về tình dục, mỗi nhà văn viết với những cách thức khác nhau và

82

dù ở mức độ nào thì họ cũng đã từng bƣớc khẳng định tiếng nói của giới mình

trong văn chƣơng. Tuy nhiên trong quá trình khẳng định bản ngã của nữ giới,

nhà văn có thể miêu tả những khoái cảm tình dục nhƣng điều đó không đồng

nghĩa với việc coi giải pháp tình dục là con đƣờng duy nhất để giải phóng cá

nhân. Cần phải nhìn tình dục vừa nhƣ một họat động bản năng vừa có ý nghĩa

văn hóa. Bởi thế, trong văn học, tính dục phải hiện lên nhƣ một yếu tố văn

hóa và nhà văn có thể thông qua tính dục để biểu đạt những vấn đề nhân sinh

một cách có nghệ thuật. Một xã hội giải phóng cá nhân, giải phóng con ngƣời

với những khát khao sống thật là mình, xã hội ấy tiến bộ nhƣng khi quá đà nó

sẽ tạo một sự lố bịch, ảnh hƣởng đến văn hoá sống.Võ Thị Hảo đã xây dựng

những nhân vật dám sống thật là mình. Nhà văn vừa cất tiếng bênh vực, ca

tụng quyền thiêng liêng của con ngƣời đồng thời muốn áp chế thái độ bất

công của xã hội phƣơng Đông khi coi ngƣời phụ nữ chỉ là công cụ trong tay

những ngƣời khác phái.Võ Thị Hảo nói đến tính dục cũng nhƣ những nhà văn

nữ khác nói về tính dục, họ còn muốn khẳng định những giá trị của tính dục

trong nhận thức, trong khát vọng bản năng của nữ giới. Qua tính dục đòi hỏi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

một sự trân trọng triệt để đối với nữ giới.

83

Chương 3

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình

Trong quan niệm của Võ Thị Hảo ngƣời phụ nữ luôn là sự kết tinh mọi

vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết. Khi khắc họa ngoại hình ngƣời phụ nữ, nhà

văn luôn chú ý quan sát và tập trung miêu tả những chi tiết đặc trƣng cho nét

bên ngoài của họ nhƣ vóc dáng, khuôn mặt, đến mái tóc và ánh mắt…đó là

nơi phô ra bản thể của ngƣời phụ nữ mà ngƣời ta dễ nhận thấy nhất.

Võ Thị Hảo cũng tỏ ra là ngƣời có biệt tài trong việc khắc họa ngoại

hình nhân vật, bởi ngay từ diện mạo của nhân vật đã có thể gây một ấn tƣợng

đặc biệt, một sự ám ảnh hằn sâu trong tâm trí ngƣời đọc. Phần lớn các nhân

vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo cũng gây ấn tƣợng bên ngoài nhƣ vậy.

Họ là những con ngƣời có số phận đau khổ, hẩm hiu, quằn quại. Chính cái

quằn quại đau đớn đó của số phận đã phần nào thể hiện qua những nét nhăn

nhúm ở ngoại hình nhân vật, tiêu biểu nhƣ bà Diễm trong Người gánh nước

thuê. Bà hiện lên méo mó nhƣ chính số phận của bà vậy:“Dáng người bà

Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo gầy sạm chỉ còn hai con mắt, bà vừa đi

vừa lắc lư cái lưng còng”. Ngay đến cả cái đòn gánh của bà cũng tạo nên một

sự ám ảnh day dứt lớn đối với ngƣời đọc vì “Chiếc đòn gánh không bao giờ

rời khỏi đôi vai còm cõi của bà…nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã

nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó được đẽo gọt từ

một thân cây tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón

đợi đôi vai còm cõi của bà”. Thực sự nó và chủ nhân của nó hợp thành một

chỉnh thể của sự bất hạnh.

Hay nhân vật Ni cô trong Chuông vọng cuối chiều là một ngƣời đàn bà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

có số phận bất hạnh. Đi tu, phá giới, bị ngƣời đời coi khinh, phải sống tha

84

hƣơng trốn chui trốn lủi trong một ngôi chùa hoang và chết nơi đất khách quê

ngƣời, đƣợc tác giả miêu tả: “Khuôn mặt kỳ dị với chiếc đầu cạo trọc nham

nhở tuột ra khỏi tấm khăn nâu nhà chùa. Đôi má hốc hác với nước da óng

ánh vàng trong, rất mịn nơi hai gò má nhọn hoắt. Cái mũi gò lên như mũi phù

thuỷ”. Còn Ngần trong truyện Ngày không mút tay là ngƣời đàn bà khốn khổ

đƣợc khắc họa với:“Đôi mắt đen dài lúc nào cũng nhìn xuống. Cái nhìn lặng

lờ như mặt giếng…tấm lưng mỏng như lá lúa…gầy còn yếu ớt nhưng nàng là

chiếc ruột ốc èo uột phải cõng cả một tòa vỏ nặng lê đi, lê mãi không được

ngừng nghỉ”…Ả Tuynh trong Dệt cỏ là một ngƣời đàn bà bất hạnh đƣợc miêu

tả với “đôi mắt ả cum cúp nhẫn nhịn…và những ngón tay cong queo,đen

đúa”. Cả đời ả vất vả, lam lũ mà đói nghèo bệnh tật và bất hạnh cứ đeo bám

mãi không rời:“áo ngày một rách thêm, lưng còng, tóc trụi như con gà chọi

già, bị bệnh đường ruột mãn không có thuốc chữa. Rồi ả Tuynh chết trên

giường, khô gầy như con cá mắm”…Nhƣ vậy chỉ với vài chi tiết miêu tả

ngoại hình nhƣng Võ Thị Hảo đã cho ngƣời đọc thấy những nhân vật phụ nữ

đó hiện lên thật sống động đầy vất vả lam lũ khổ đau và bất hạnh nhƣ chính

số phận của họ. Nhƣng bên cạnh đó không phải không có những ngƣời phụ

nữ đƣợc Võ Thị Hảo khắc họa với vẻ đẹp tuyệt thế, nhà văn đã dùng những

ngôn từ đẹp nhất "đắt nhất" để gợi lên vẻ đẹp của họ, đó là tiểu thƣ Nhuệ

Anh. Võ Thị Hảo đã rất tinh tế khi để hình ảnh nhân vật Nhuệ Anh dần dần

đƣợc hiện ra qua con mắt của Từ Lộ, ngƣời yêu nàng say đắm và đặc biệt là

đƣợc thể hiện trên cây đèn lồng mỹ nhân: “đường viền đi qua cằm và hai

mang tai không mềm dịu”, các mỹ nhân đƣợc coi là tuyệt sắc đƣơng thời bao

giờ cũng phải có chiếc cằm tròn và gƣơng mặt nở nang nhƣ khuôn trăng

“nhƣng chiếc cằm có đường viền cứng cỏi của nàng lại hòa hợp kỳ lạ với đôi

mắt dài như hai nét bút bay bướm được phác qua bởi cơn thần hứng của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nhà thư họa biến thành đôi dòng sông thăm thẳm khôn dò. Nửa buồn, bửa vui

85

khóe mắt như nước đong. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực đôi mắt là đường mày

màu khó nhạt dường như hơi cau đa đoan đến não lòng. Nhưng đó lại là cái

nét cau cau quyễn rũ đến thiêu đốt lòng người của nàng”[15]. Sau cơn gia

biến của nhà Từ Lộ, chàng đã chọn ngôi miếu hoang làm nơi ẩn náu để tránh

mọi điều bất trắc, nuôi chí đợi cơ hội trả thù và ở đây hình ảnh Nhuệ Anh lại

một lần nữa đƣợc hiện lên qua con mắt ngắm nhìn của Từ Lộ:“Chiếc cằm

thanh tú hơi nặng ra vì khóc nhiều, những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước

trán, rủ thành lọn bên thái dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyễn

rũ”…[15]. Từ Lộ xót xa bội phần khi ngắm nhìn vị hôn thê và nếu cha chàng

không chết vì tay Đại Điên và Diên Thành hầu thì gƣơng mặt đẹp não lòng và

thân hình trời cho kia sẽ mãi mãi kề cận bên chàng và mãi mãi là của

chàng…Còn Ngạn La đƣợc hiện lên qua cái nhìn sững sờ khi: “thấy toàn thân

mình trần truồng trong gương…đôi mắt mèo màu sám nâu mở to hoàng hốt

dưới đôi mày mềm mại lượn cong vút lên như hai cánh én. Đôi môi mọng mầu

hoàng thổ sẫm kinh ngạc mở rộng làm hé lộ hàm răng đen láy. Mớ tóc dài

nuôi nấng qua mười hai năm tràn xuống nửa lưng ôm lấy một bờ vai mảnh

mai chảy xuôi màu nâu mịn mượt như lụa. Đôi vú mới nhú như nửa vầng

trăng với hai đầu vú nhỏ ương ngạnh và kiêu hãnh. Xa xôi dưới kia cũng

mượt mà và chảy chàn như lụa là cặp đùi và đôi chân thon dài với năm ngón

chân nhỏ nhắn hơi xoè ra, móng chân màu vàng”[15]…Nàng hiện lên cụ thể

với từng chi tiết, từng đƣờng nét. Qua cái nhìn của sƣ bà động Trầm, Ngạn La

hiện lên là: “một cung nhân tha thướt trong bộ xiêm áo màu hồng. Đôi mắt

sám mênh mang với con ngươi ánh nâu như mắt mèo hoang. Môi mọng mầu

hoàng thổ. Tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống bờ vai thon

mảnh. Thấp thoáng sau tấm sa mỏng, chiếc rốn màu tru sa ẩn hiện theo bước

đi kiêu hãnh của loài ngựa hoang” [15].“Dung nhan của cô ta đầy vẻ cô tịch,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

xa xăm quá trong thế giới này… con người này xuất hiện ở đâu muôn ngàn

86

người xung quanh cô ta cũng trở nên vô hình, vô dạng cũng như chính vẻ đẹp

mong manh và hư vô của bà, như sương khói, như tuyết ngưng cũng lại là một

mãnh lực làm nổi ba đào cho suốt cuộc đời bà” [15]. Không phải ngẫu nhiên

mà Võ Thị Hảo phác họa vẻ đẹp ngoại hình của hai nhân vật nữ này nhƣ có,

nhƣ không, vừa thực, vừa ảo, dƣờng nhƣ vẻ đẹp đó không thuộc về cuộc đời

trần thế, nó đẹp và quá đỗi mong manh nhƣ chính số phận của họ. Không chỉ

có Nhuệ Anh và Ngạn La đƣợc tác giả dành cho sự ƣu ái khi phác họa lên

hình ảnh của họ mà vẻ đẹp của những ngƣời con gái khác cũng đƣợc Võ Thị

Hảo rất chú ý đó là:“cô gái tuổi chừng đôi tám, thân dong dỏng, cặp vai xuôi

mượt hai gò má cao ánh một lớp măng tơ như làn sương phủ. Môi trầu đỏ

thắm. Hai mắt mở to trong veo như mắt bê con”[15]. Đó là cô con gái yêu của

vị tộc trƣởng làng Quỹ Vũ. Cô đẹp nhƣng vẻ đẹp đó cũng mỏng manh nhƣ

chính số phận cô. Thái hậu Ỷ Lan đƣợc miêu tả với khuôn “mặt tròn như

trăng rằm, mày tằm, mũi như trái mật treo, quyền cốt nổi rõ dù đám thị nữ đã

khéo che phủ bằng một lớp phấn màu hoa đào. Thái hậu đội mũ thêu Cửu

long chầu nguyệt, tóc búi cài đôi châm vàng có chữ Thọ kết bằng ngọc quý.

Mặc áo bào dệt bằng tơ đậu tám sợi thêu rồng. Xiêm cũng dệt bằng tơ đậu

tám sợi màu trắng thêu chim phượng”…“Đó là người đàn bà tuệ mẫn sáng

láng lại quyền biến trong những năm chấp chính trị nước thay đức Thánh

Tông đi đánh giặc bình định đất phương nam” [15]. Có thể thấy đó là một

ngƣời đàn bà không những xinh đẹp mà còn rất thông minh và tài giỏi, là một

nhân vật lịch sử đặc biệt đƣợc dân gian tôn thành thần thánh bởi những công

lao to lớn của bà đối với dân tộc. Nhƣng trong tiểu thuyết Giàn thiêu nhân vật

lịch sử này đã đi qua một lớp sƣơng huyền thoại trở thành một con ngƣời bình

thƣờng thậm chí tầm thƣờng với một dục vọng quyền lực mạnh mẽ đến tột

cùng. Dục vọng đó không chỉ là nỗi đam mê mà còn là nỗi khát thèm bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

năng của bà:“Ta muốn duy ngã độc tôn trong thiên hạ. Ta đã khiến đức Thánh

87

Tông phải mê đắm, nể trọng nhất nhất nghe lời. Ta luôn muốn sai khiến được

người duy nhất nắm giữ thiên hạ trong tay”…[15].Vì tham vọng đó mà bà sử

dụng mọi âm mƣu, thủ đoạn thâm độc, tàn ác, trừ bỏ, tiêu diệt hết những kẻ

ngáng đƣờng, cản chân dẫu là vô tình…Chính vì những việc làm độc ác để

đạt đƣợc dục vọng đó mà suốt những năm tháng cuối đời không lúc nào bà

đƣợc sống yên ổn và ngay cả lúc chết cũng không thể nhắm đƣợc mắt. Nhƣ

vậy, dẫu là ngƣời đàn bà xinh đẹp tài ba và quyền biến nhất thiên hạ thì Ỷ Lan

cũng không tránh đƣợc số phận bất hạnh bởi chính những tham vọng tột cùng

của mình, bị dục vọng lôi kéo vào những hành vi độc ác, mất hết nhân tính.

Nhân vật nữ của Võ Thị Hảo không chỉ gây đƣợc ấn tƣợng với ngƣời

đọc bởi ngoại hình khắc khổ, tƣợng trƣng cho số phận khổ đau bất hạnh của

họ mà còn hiện lên với vẻ đẹp rất riêng của ngƣời phụ nữ và ngƣời ta dễ nhận

thấy nhất đó là hình ảnh mái tóc. Có thể nói mái tóc của ngƣời phụ nữ là biểu

hiện của sự dịu dàng, thƣớt tha, mềm mại và đầy nữ tính, nó là tƣợng trƣng

cho vẻ đẹp xuân thì. Khi miêu tả một vẻ đẹp nữ tính là khi nhà văn ý thức sâu

sắc về vẻ đẹp và khẳng định vẻ đẹp của giới nữ. Chính vì vậy mà: “Nói đến

đàn bà là nói đến tóc. Nói mãi về tóc đàn bà mà vẫn không nhàm”. Khi viết

về sự tàn phai trên mái tóc cũng là cách thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh,

sự trôi chẩy của thời gian: “Mỗi sợi tóc là một sợi phiền não… Tóc bạc rồi mà

bà còn tiếc !”. Vậy nên nàng càng “Xót xa nhìn mớ tóc mình đang sóng sánh

tỏa xuống cái cổ ba ngấn và tuôn tràn xuống vai” Dây neo trần gian, những

sợi tóc li ti óng ánh, vậy mà vì yêu anh nàng đã phải dứt từng sợi tóc để kết

lại và quấn quanh tấm ảnh của anh mong sẽ níu giữ đƣợc anh lại trốn trần

gian…

Chính vì mái tóc tƣợng trƣng cho vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ, nên khi phác

họa sự tàn phai nhan sắc, nhà văn cũng chú ý miêu tả, khắc họa ở mái tóc qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nhân vật nàng trong truyện Tim vỡ với “mái tóc mượt mà đôi mắt long lanh

88

huyền bí, làn môi thắm đỏ và thân hình nảy nở đầy hấp dẫn”… nhƣng chỉ

trong giây lát từ một ngƣời con gái xinh đẹp, nàng đã tự hủy hoại mình đến

nỗi: “mái tóc dài trút xuống chỉ còn cái đầu trọc nham nhở và khuôn mặt đầy

nhựa cây đen nhẻm”. Khi khắc họa vẻ đẹp dịu dàng nữ tính của ngƣời phụ nữ

vì "mái tóc là góc con người" nên Võ Thị Hảo hết mực nâng niu, trân trọng

những mái tóc đẹp, đó là “tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống

bờ vai thon mảnh” của cung nữ Ngạn La, là “tóc đen dài vấn vít quấn cao

trên đầu, cài bằng châm vàng, châm bạc hoặc cành thoa có gắn hoa sen còn

hàm tiếu thơm ngào ngạt”, của các mỹ nữ tuyển từ phƣơng Bắc. Và những

“mái tóc dầy rung rung” của hai hàng cung nữ đang quỳ bất động trên điện

ngọc và “những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước trán, rủ thành lọn bên thái

dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyễn rũ”, của tiểu thƣ Nhuệ

Anh…Bên cạnh đó sự khốc liệt của chiến tranh cũng đƣợc thể hiện qua việc

miêu tả mái tóc. Chiến tranh khốc liệt không chỉ cƣớp đi vẻ đẹp ngoại hình từ

nơi mái tóc của “bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ

xác và dần dà đã vặt trụi tóc họ”, mà còn cƣớp đi ở họ tuổi thanh xuân, niềm

ƣớc mơ và khát khao hạnh phúc của họ. Thảo là cô gái thứ năm cùng sống

dƣới tán cây rừng Trƣờng Sơn, nhập ngũ với “mái tóc óng mượt dài chấm

gót” ,vậy mà chỉ sau hai tháng “dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ” nơi

rừng Trƣờng Sơn đã làm cho “tóc Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng mảnh,

xơ xác”…Thảo là ngƣời duy nhất sống sót khi đã trải qua chiến tranh, trải qua

nỗi cô đơn đặc quánh nơi rừng già, trải qua chốn giáp ranh giữa địa ngục và

trần gian trở về cuộc sống đời thƣờng Thảo hiện lên với “thân hình gầy gò

trong bộ quân phục lạc lõng qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác”, làm

Thành - ngƣời yêu của cô không thốt nổi một lời khi trông thấy. Mặc dù đã cố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

gắng hết sức để hòa nhập vào với cuộc sống cộng đồng nhƣng Thảo không

89

thể chỉ vì biết “mình thật là quỷnh, thật khó nhập cuộc”…Người sót lại của

rừng cười.

Với những chi tiết miêu tả ngoại hình mà chủ yếu tập chung ở mái tóc

Võ Thị Hảo đã cho ngƣời đọc thấy sự trôi chảy của thời gian, sự khốc liệt của

chiến tranh đã tàn phá vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ .

Cùng với việc miêu tả ngoại hình mà chủ yếu tập chung gây ấn tƣợng ở

mái tóc, bên cạnh đó ánh mắt cũng đƣợc nhà văn rất chú trọng trong việc

miêu tả, khắc họa qua những cái nhìn của nhân vật. Ngƣời ta vẫn nói đôi mắt

là "cửa sổ tâm hồn" bởi nơi đó ngƣời ta dễ nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn cũng

nhƣ những tâm sự, những tâm trạng phức tạp trong tâm hồn ngƣời phụ nữ.

Đọc truyện Dây neo trần gian mấy ai quên đƣợc ánh mắt của bà đồng “mắt

bà đồng bỗng long lên song sọc…Đôi mắt có hàng mi dài của bà vằn đỏ”.

Đôi mắt ấy cho thấy những ám ảnh, những day dứt khôn nguôi về một vết

thƣơng lòng sau chiến tranh mà khó thể hàn gắn đƣợc và nó lại quặn đau mỗi

khi nghe nhắc tới. Đó còn là “đôi mắt màu biển tối của nàng mở to đến lạc

tròng để cầu khẩn sự che chở” của nhân vật nàng trong Người đàn ông duy

nhất. Sự cầu khẩn một cánh tay che chở vậy mà không một cánh tay, không

một con ngƣời nào dám đứng ra cứu giúp nàng. Điều đó cũng cho thấy con

ngƣời đang dần bị tha hóa, bị vô cảm trƣớc nỗi đau nỗi khổ của đồng loại.

Hay “đôi mắt hình hạnh nhân với đuôi mắt trĩu xuống che bớt những tia rực

rỡ không ngừng chớp rạng dưới hàng mi biêng biếc tím…cái nhìn bạch cốt”

của ngƣời đàn bà tinh quái rắp đem sóng tình khuấy động cửa thiền trong Lửa

lạnh. Đó còn là “cặp mắt mèo hoang làm bàng hoàng, rụng rời người ngắm”

của cung nữ Ngạn La [15]… Nhà Văn Võ Thị Hảo thƣờng không miêu tả hết

ngoại hình mà tùy từng nhân vật trong những hoàn cảnh cụ thể, chọn lấy

những chi tiết "biết nói" để phác họa hình ảnh nhân vật. Để vẽ lên cái thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thái, vẻ đẹp cũng nhƣ để phác họa sâu đậm nỗi bất hạnh của nhân vật. Cùng

90

với sự mô tả ánh mắt thì ta còn thấy sự lặp đi lặp lại nhƣ không bao giờ nguôi

những tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt, đó là: Những giọt nƣớc mắt rơi giàn

giụa,“Ôi! Con của mẹ! Mẹ lại có con rồi! sung sướng quá”…của Phƣơng

trong Phiên chợ người cùi vui mừng, sung sƣớng vì sau khoảng hai năm ở

trại phong Quy Hòa để điều trị bệnh thì nay chị đã có giấy xuất viện, đã đƣợc

về bên con gái yêu của mình và sẽ không phải xa con nữa. Còn nhân vật nàng

trong Hồn trinh nữ sau mƣời bẩy năm chờ đợi ngƣời yêu mà vẫn không tin

tức thế rồi, có một buổi chiều, có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm, chàng trai

trở về, trong niềm vui và hạnh phúc nhất là khi ngƣời đàn ông ấy gọi tên nàng

bằng giọng nói thân thuộc thì nàng khóc: “Tiếng khóc nghe như ngàn mảnh

thủy tinh rơi”…Nhƣng đa phần sự miêu tả tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt

của các nhân vật nữ nhằm biểu hiện cho nỗi xót xa, đau khổ. Đó là tiếng

“khóc oà” của Trang trong truyện Bàn tay lạnh khi biết bị Thẩm lừa dối, đó

là những giọt nƣớc mắt đau khổ vì không thể vƣợt qua đƣợc số phận, chị vẫn

là ngƣời đàn bà bất hạnh thứ ba trong gia đình. Bởi vậy khi nhắc đến truyện

xƣa, chị đã không cầm đƣợc những giọt nƣớc mắt “Những giọt nước mắt của

chị rơi xuống cốc ca cao đang cầm trên tay”. Nhà văn Võ Thị Hảo đã tỏ ra là

ngƣời khá tinh tế khi miêu tả những tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt, chính

vì thế mà những tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt ở các nhân vật nữ của chị

không một ai giống ai. Mỗi con ngƣời một số phận thế nên những giọt nƣớc

mắt đó cũng tƣợng trƣng cho những khổ đau bất hạnh trong số phận của họ.

Từ những nhân vật nữ trẻ tuổi đến những nhân vật có tuổi, từ những ngƣời

bình thƣờng đến những ngƣời xấu xí, tật nguyền về hình thức, từ những ngƣời

thuộc tầng lớp dƣới đáy của xã hội đến những ngƣời cao sang quyền

quý…dƣờng nhƣ tất cả họ đều khóc. Đó là tiếng “khóc nức nở” của một cô

gái mới lớn trong Vườn yêu khi đến với tình yêu đầu. Hay tiếng “òa lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

khóc” của cô bé Lâm San khi đi lấy chồng, tiếng khóc nhƣ là sự chấm dứt

91

một tuổi thơ bé bỏng, vô tƣ, một tình yêu trong sáng hồn nhiên đầu đời với

cháu lớn cồ để bƣớc chân vào cuộc sống mới với những thăng trầm, những

bất trắc mà không thể lƣờng trƣớc. Có khi là những tiếng khóc của ngƣời con

gái lỡ dở trong tình yêu nhƣ Sải trong Con dại của đá. Khi giết chết kẻ bạc

tình là Cáo Tờ Quẩy nàng đã “ngục đầu xuống hắn mà khóc” rồi về tự thú với

vợ của hắn là Giàng Gau, thì bà cũng “Rũ xuống khóc"… để rồi đêm ấy “Núi

đá nuôi tiếng khóc của hai người đàn bà”. Có lúc lại là tiếng khóc của những

ngƣời phụ nữ có tuổi nhƣ ngƣời mẹ của Cháu-lớn- cồ mỗi khi nhắc đến dì

Lâm San bà thƣờng “Gạt nước mắt đi” vì thƣơng Lâm San. Đó tiếng “òa

khóc” của ngƣời vợ trong Trận gió màu xanh rêu…Đó còn là những giọt

nƣớc mắt của nhân vật nàng trong Tim vỡ khi “Nước mắt nàng rơi lã chã trên

gò má” là “những giọt nước mắt viền quanh bờ mi” của nữ hoàng Pháp Luật

trong Nữ hoàng cô đơn. Hay “Dòng nước mắt lặng lẽ tuôn ra” của Thuận

trong Góa phụ đen. Và nhất là tiếng khóc đớn đau của những ngƣời phụ nữ

trong truyện Người sót lại của Rừng Cười khi thì: “Cả bốn cô gái ôm nhau

khóc cay đắng” rồi cả những “tiếng khóc không ra tiếng”. Bên cạnh tiếng

khóc của những con ngƣời bình thƣờng thì tiếng khóc của những ngƣời tật

nguyền quả thực còn xót xa hơn vì họ “khóc không ra nước mắt” và ngƣời

mù thì “nước mắt chỉ chui trở vào nghèn nghẹn trong ngực” trong tác phẩm

Làn môi đồng trinh. Hay “tiếng khóc ngở như gai” của cô gái điếm trong

Biển cứu rỗi…Tƣởng rằng chỉ có những con ngƣời bình thƣờng, ngƣời nghèo

khổ, tật nguyền, những ngƣời sống dƣới tầng đáy xã hội mới khóc. Nhƣng

không ngờ tiếng khóc còn đƣợc bật ra từ những ngƣời có quyền uy, danh

tiếng lẫy lừng thiên hạ nhƣ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan:“Canh ba là Thái Hậu bật

dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như người bị đuổi bắt, rồi quấn

hàng trục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thét”[15] và “thỉnh thoảng khóc gọi tên Dương Thái hậu rồi nghiến răng kèn

92

kẹt”[15], hay “tiếng khóc giẫy cào cấu đòi về với mẹ” [15] của cô cung nữ bé

bỏng Ngạn La và tiếng “khóc lóc vật vã kêu cứu” của Ngạn La khi bị giam

trong lãnh cung [15]. Rồi tiếng khóc của tiểu thƣ Nhuệ Anh một mực đòi trả

trầu cau cho nhà Lý Câu: “Nhuệ Anh lăn lộn khóc lóc một mực xăm xăm đòi

trả trầu cau [15] ,trong đêm tân hôn với công tử Lý Câu, nàng đã bỏ trốn để

đi tìm Từ Lộ, khi nhận ra mình đã chạy ra xa bờ Sông Tô “Nhuệ Anh ngồi

thụp xuống bưng mặt khóc nức nở” [15]cho đến khi tìm đƣợc Từ Lộ và trao

thân cho chàng, Nhuệ Anh xin đi theo nhƣng Từ Lộ không đồng ý nàng cố

níu chân Từ Lộ và “gương mặt ngước lên đầm đìa nước mắt” [15]. Ngay cả

khi đã là sƣ bà ở động Trầm rồi mà những giọt nƣớc mắt vì ngƣời nàng yêu,

ngƣời đã làm lỡ dở cả cuộc đời nàng, vậy mà những tiếng khóc, những giọt

nƣớc mắt vẫn không ngừng tuôn rơi:“Sư bà run rẩy như cố ghìm tiếng nấc

[15], “sư bà cố kìm những giọt nước mắt”[15]…và “Trước mắt ta nay đã

không còn Đạo Hạnh, không Thần Tông. Chỉ có thân xác một Từ Lộ đã

chết… cả đời ta có khóc là khóc cho người đó”…[15].

Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Võ Thị Hảo có những miêu tả rất riêng

của một nhà văn nữ, có cảm giác chị đứng trƣớc gƣơng vẽ lại chân dung một

ai đó mà đối tƣợng không thể ai khác là một ngƣời phụ nữ. Đó là một mái tóc,

một ánh mắt, những giọt nƣớc mắt …Tất cả nhƣ thuộc về ngƣời phụ nữ, nhƣ

những hình ảnh biểu tƣợng rõ nhất về vẻ đẹp nét riêng biệt và nỗi đau của

riêng họ- cái mà ta không thể thấy khi miêu tả những ngƣời đàn ông. Nhƣ vậy

từ việc đi sâu vào miêu tả và khắc họa những nét cơ bản ở ngoại hình nhân

vật nữ không chỉ ở dáng vẻ, ở mái tóc hay ánh mắt mà ở cả những tiếng khóc,

những giọt nƣớc mắt. Võ Thị Hảo đã cho ngƣời đọc thấy những hình ảnh đó

có tác dụng rất lớn trong việc khắc họa nhân vật. Đặc biệt tiếng khóc và

những giọt nƣớc mắt cùng với sự lặp đi lặp lại nhƣ không bao giờ ngƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

trong hầu hết các tác phẩm và sự tăng cƣờng tập trung miêu tả những âm

93

thanh, những hình ảnh đó ở nhân vật không chỉ là biểu hiện thái độ đau xót và

đồng cảm của nhà văn mà còn thể hiện một vốn ngôn ngữ về miêu tả tiếng

khóc, những giọt nƣớc mắt vô cùng phong phú của tác giả. Hình ảnh đó còn là

nỗi ám ảnh, là biểu tƣợng cho sự bất hạnh và nỗi khổ đau của nhân vật.

Không phải ngẫu nhiên mà Võ Thị Hảo rất chú ý đến việc miêu tả những

biểu hiện bên ngoài nhân vật dù đó là nạn nhân của chiến tranh, hay những

con ngƣời xấu xí tật nguyền, những con ngƣời bình thƣờng hay những nhân

vật đẹp mang tính huyền thoại- những nhân vật đƣợc nhà văn lý tƣởng hoá để

thể hiện những khát vọng vƣơn tới sự hoàn thiện hoàn mĩ, nhƣng tất cả đều là

những số phận khổ đau, với những kết cục bi đát. Có lẽ bởi một phần do

những yếu tố thuộc cá tính của tác giả, một phần là do cảm nhận về thời đại

của nhà văn: Một thời đại đầy dẫy những cạm bẫy, những bất an…luôn luôn

rình rập con ngƣời, mà chính xác hơn đó là một thời đại với những“va đập

bạo liệt giữa thiện và ác, tốt và xấu và sự bi thảm đến mức trớ trêu của số

phận con người” [15]. Chính vì thế, khi đọc các sáng tác của Võ Thị Hảo

ngƣời đọc nhƣ có cảm giác mỗi câu chuyện lại thấm đầy nƣớc mắt và cuộc

đời của nhân vật thì cứ chảy theo những dòng nƣớc mắt đó.

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý

Trong sáng tác của các nhà văn nữ nói chung và của Võ Thị Hảo nói

riêng, điều mà ngƣời đọc dễ nhận thấy nhất đó là cốt truyện thƣờng ít tình tiết

và sự kiện, trong khi đó các suy nghĩ của con ngƣời trƣớc sự kiện đó thì lại rất

đƣợc chú ý. Cuộc sống hiện thực không mấy khi đƣợc miêu tả trực tiếp khách

quan mà nó đƣợc khúc xạ, đƣợc cảm nhận thông qua suy nghĩ của nhân vật và

thế giới nội tâm với những diễn biến tâm lý phức tạp, bí ẩn.Thế giới tinh thần

nhân vật là đối tƣợng chính để nhà văn đi sâu khám phá. Điều này cho thấy

quan niệm nghệ thuật về con ngƣời phức tạp, bí ẩn, con ngƣời tự nhận thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của các tác giả nữ là khá thống nhất trong văn học giai đoạn này. Cũng nhƣ

94

một số cây bút nữ khác, Võ Thị Hảo cũng tỏ ra là ngƣời rất tinh tế và có nhiều

biện pháp nghệ thuật khi miêu tả những trạng thái cảm xúc, những biến

chuyển trong tâm lý của mỗi cá nhân- con ngƣời. Lúc thì tác giả sử dụng độc

thoại nội tâm trực tiếp thể hiện tâm lý nhân vật: “Một kẻ có dăm ba chữ trong

đầu mà lại đi nghe lời một con mụ điên ấy ư ? Thế thì mình cũng điên rồ nốt

!”…Lúc lại miêu tả gián tiếp: “Nàng bỗng nức lên khóc và ôm choàng lấy mái

đầu anh, như cách một người mẹ đang vòng tay che chở cho đứa con

trai…Nàng ru khuôn mặt ấy trong lòng và cảm thấy tim như muốn vỡ ra vì

thương xót”…Dây neo trần gian. Khi đi sâu miêu tả tâm lý của những con

ngƣời tật nguyền ,nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng những con ngƣời ấy tuy tật

nguyền nhƣng họ cũng vẫn ƣớc mơ, vui, buồn ,cảm nhận cuộc sống ,biết hạnh

phúc và cũng biết thấm thía nỗi đau vô bờ .Nên họ cũng ao ƣớc đƣợc yêu bởi

một tình yêu trong sáng, diệu kì: “Mỗi lần mưa nàng lại bước ra ngoài trời,

mong mỏi một chút chạn nhẹ nơi làn môi, để có cảm giác là mình cũng được

hôn, những cái hôn của nửa kia ngọt ngào”, Làn môi đồng trinh. Giống nhƣ

Hằng, Tâm trong Máu của lá cũng thấm thía và nhận biết nỗi đau là một kẻ

tật nguyền bởi: “Tạo hoá đã say rượu khi nặn ra em” và mỗi “khi khách đến

nhà em thường kiếm cớ lánh mặt …Lúc thi vào đại học đạt điểm ưu nhưng

không một trường nào nhận vì lỗi hình thể, em đã cầu cho mình hoá

điên…cầu cho mình được chết. Khi nhận được giấy báo tử của anh Tuân-

người yêu quí em nhất trên đời này, em dường như sắp chết còn mẹ thì bị xuất

huyết não liệt giường. Cả ngày mẹ nằm mở mắt chong chong, thảng thốt nhìn

em cười như nhìn một vật lạ”…Nhƣng thật trớ trêu, tại sao trời nỡ thổi vào

cái vỏ tật nguyền đó một tâm hồn có khả năng nhận biết nỗi đau của mình .

“Mắt con bé rưng rưng nó cần những lời yêu ngọt ngào như cần nước”…Vì

thế mà Tâm tự nuôi cho mình ảo tƣởng về một chàng trai khổng lồ cứu giúp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cô, níu kéo cô với cuộc đời qua những bức thƣ của Tuân, Huân và Hoàng cho

95

đến khi cô nhận ra “đã đến lúc phải trở thành một người đàn bà”…và phải

trở về với thế giới của chính mình.Vì “thế giới của các anh quá rộng lớn. Còn

thế giới của em thì nhỏ bé. Em phải trở về thế giới của chính mình. Phía

chân trời có thể có một chú lùn. Nếu có, chú sinh ra là để cho em. Chú sẽ

đến, cười bằng cái miệng rộng: Cô bé xấu xí đợi anh lâu lắm rồi phải không

?” Những rung cảm, những mong ƣớc,và yêu thƣơng nhƣ thế là biểu hiện của

những tâm hồn trong sáng, thánh thiện.Thể hiện những nhân vật biết suy nghĩ,

dằn vặt và biết thấm thía nỗi buồn đau. Võ Thị Hảo đã tìm thấy trong chiều

sâu tâm hồn họ là khát khao sống nhƣ những ngƣời bình thƣờng.

Trong sáng tác của mình, nhà văn đã xây dựng các nhân vật nữ và phần

lớn họ đều đƣợc nếm trải những thăng trầm cũng nhƣ thấm thía những đớn

đau trong cuộc sống. Trƣớc “cái nhìn như chôn sống”của ngƣời lính gác đèn

nơi đảo hoang với cái nhìn đầy vẻ khinh miệt, ngƣời đàn bà “thấy nhục và

quờ tay tìm cái nón, che người”…Và rồi khi anh cố xua đuổi ngƣời đàn bà đi

để dẫn đến cái chết của thị anh đã ân hận và cũng nhất thiết rằng: “Nữ Thần

Biển, nếu có cũng sẽ không mang khuôn mặt nào khác, mà mang chính khuôn

mặt đau đớn, tuyệt vọng và kiêu hãnh của Nữ Thần Trôi Dạt bởi vì Nữ Thần

Biển cũng là đàn bà Biển cứu rỗi.

Trong sáng tác của Võ Thị Hảo rất nhiều những nhân vật nữ đƣợc miêu

tả trong trạng thái giằng xé, đấu tranh, đắn đo trong tình yêu cũng bởi một lẽ

họ không có lòng tin vì đã một lần thất bại nên họ sợ không dám yêu, không

dám đi đến tận cùng của tình yêu. Để khi tình yêu tuột khỏi tầm tay họ mới

dằn vặt, tiếc nuối nhƣ Hạnh trong Tiếng vạc đêm, Thuận trong Goá phụ đen.

Hạnh trong Tiếng vạc đêm, sống với ám ảnh một số phận bất hạnh truyền

kiếp và bản mệnh cô lại có cô thần nên trong lòng lúc nào cũng cô đơn, lạnh

lẽo. Hơn thế mang nặng mặc cảm đàn ông là những kẻ dối lừa, phụ bạc Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

sợ không dám yêu bởi nàng có“trái tim tật nguyền” và dòng họ nàng thì

96

có“người đàn bà chửa thắt cổ chết vì đàn ông”. Thế nên sau một lần đổ vỡ

hạnh phúc, cô không tin sẽ có đƣợc một hạnh phúc đích thực của cuộc đời.

Bởi vậy, Hạnh đã có những suy tƣ vừa day dứt vừa tiếc nuối trong tình yêu

với Thụ, thể hiện ở đoạn độc thoại nội tâm: “Ừ- tại sao nhỉ ? Tại sao? Đáng

lẽ chờ đợi thì ta lại chạy trốn. Sao ta không thử thêm một lần.Ta cũng cần

được an ủi, được che chở. Tại sao ta cứ làm khổ mình?… Sao ta lại bỏ trốn?

sao ta hèn nhát? Sao không vứt bộ mặt lạnh này đi. Sao không gục đầu vào

ngực anh, nói rằng em mỏi mệt, rằng em muốn khóc, để nước mắt em làm ướt

ngực anh…rằng…dù ngày mai có ra sao thì anh vẫn là người đàn ông mà em

cần” …Thế nhƣng thật mâu thuẫn khi Hạnh lại chỉ muốn “yêu thế thôi! Giữ

cho gần như giữ một ảo ảnh đẹp”. Bởi Hạnh sợ cuộc đời sẽ làm tầm thƣờng,

thô bỉ nó. Đây là tâm trạng thƣờng thấy ở những ngƣời phụ nữ tinh tế, nhạy

cảm trong tình yêu, luôn giữ khoảng cách với ngƣời mình yêu, không cho xa,

không cho gần để rồi rơi vào cô đơn và “nếm trải cảm giác của một con chim

xa xứ dù mùa đông chưa tới song hơi lạnh đã nhấm nhẩm da thịt”. Thuận

trong Goá phụ đen cũng vậy. Cô đã từng trải qua nhiều mối tình, từng đau

khổ vì đàn ông và cũng làm không ít đàn ông phải khổ vì mình.Trái tim yêu

thƣơng bé nhỏ của cô tƣởng đã tật nguyền khi thấy: “mẹ nàng đã lấy phải một

người chồng ti tiện, em gái nàng mang bầu với một gã sở khanh. Người đàn

bà hàng xóm đầu tắt mặt tối nuôi chồng mà vẫn bị chồng đánh đập”.Thế nên

để trả thù cho những ngƣời đàn bà bất hạnh đó: “Nàng chỉ thích nếm lại cảm

giác vờn một đấng nam nhi để đến khi anh ta bị thôi miên rồi thì lại ngẩng

cao đầu nhón gót bỏ đi không nhìn lại. Vậy mà trƣớc Đang, Thuận lại bối rối,

e thẹn, và thấy hạnh phúc- niềm hạnh phúc của một nàng goá phụ đã cố khép

lòng mình mà không thể. Mặc dù đã từng luyện cho mình thói quen sống

không có đàn ông, vậy mà một tháng vắng Đang, Thuận thấy cuộc đời thật vô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nghĩa, trống vắng, và nhạt nhẽo vô cùng. Hai ngƣời họ đã gắn bó với nhau

97

bằng một tình yêu gần nhƣ đau đớn, mối tình dự cảm nhiều xót xa ấy vẫn là

ngọn lửa sƣởi ấm cuộc sống độc thân lạnh lẽo của họ. Thuận đến bờ vai Đang

trong giây phút mệt mỏi, nhƣ tìm đến một sự sẻ chia nỗi buồn, nàng ngả đầu

vào vai anh: “Tôi mệt mỏi quá!cho tôi tựa đầu vào đây, được không? Đêm

nay nàng buồn”…Thuận đã rất dè dặt và cẩn trọng bƣớc từng bƣớc một trong

tình yêu với Đang nhƣng “hình như những người đàn ông yêu nàng đều

không gặp may mắn”. Để rồi nàng nức nở vỡ oà trong đau đớn khi biết chính

xác tin về chiếc máy bay trở Đang và hành khách đi Phần Lan gặp tai nạn.

Nàng đã tự trấn tĩnh mình bằng niềm tin: “Làm sao người đàn ông nàng yêu

có thể chết được!...Dù anh rơi xuống biển hay sa mạc- chúa của anh sẽ giữ

gìn anh cho nàng”.Và ngày mai nàng sẽ thuê một chiếc ca nô nhỏ lên xem lại

dòng chữ mà hai ngƣời đã khắc ở động Thuỷ Tiên kia,“nếu nước lũ và bùn

đất làm mờ nó, nàng sẽ khắc lại. Nếu người ta đã đem nung vôi nó, nàng sẽ

khắc dòng chữ khác. Ngày kia nàng sẽ may chiếc áo ngủ màu hồng chờ anh”.

Đó là niềm tin bền vững về hạnh phúc mà Thuận xây đắp vào ngày Đang trở

lại .

Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Võ Thị Hảo thƣờng đƣợc biểu

hiện rất rõ ở những lời độc thoại bởi khi đó nhân vật đối diện với chính lòng

mình, họ tự bộc bạch những suy nghĩ, những dằn vặt, những trăn trở và những

trạng thái cảm xúc thật nhất của mình. Không chỉ ở truyện ngắn mà trong tiểu

thuyết Giàn thiêu ta cũng thấy điều đó rất rõ. Trong tình yêu quằn quại, đau

đớn với Từ Lộ, Nhuệ Anh đã hi sinh tất cả, từ bỏ tất cả để đi tìm và dâng hiến

cho chàng một tình yêu thuỷ chung trọn vẹn và mong đƣợc đồng cam cộng

khổ với chàng. Vậy mà vì lòng hận thù quá lớn, Từ Lộ đã xua đuổi Nhuệ Anh

để nàng phải nhảy xuống dòng thác Oán sông Gâm tự vẫn. Đƣợc cứu sống,

nàng đã mong muốn trốn tránh hiện tại khổ đau, bất hạnh và quyết tâm dứt áo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đi tu rồi trở thành sƣ bà động Trầm, thế nhƣng trên con đƣờng tu tâm, diệt dục

98

mong đạt đến cõi Niết Bàn, thoát khỏi kiếp khổ đau trần thế, chƣa khi nào

trong lòng Nhuệ Anh nguôi quên Từ Lộ, nguôi quên quá khứ của mình. Hình

ảnh quá khứ và ngƣời yêu vẫn luôn luôn hàng ngày hàng đêm thƣờng trực tận

sâu thẳm trái tim nàng, trở thành nỗi xót xa, niềm đau đớn âm ỉ nhƣng mãnh

liệt. Ấy là nghiệp chƣớng mà nàng không thể nào dứt bỏ đƣợc ở kiếp này. Lần

đầu tiên gặp Ngạn La- cô cung nữ mèo hoang thần bí trải qua hai đời vua mà

vẫn trong trắng, vẹn nguyên là một trinh nữ mƣời ba tuổi, Nhuệ Anh có cảm

giác trào lên một niềm xót thƣơng thật kỳ lạ. “Dung nhan của cô ta đầy vẻ cô

tịch. Xa xăm quá trong thế giới này. Một người tưởng đã dứt lòng trần như sư

bà mà thoạt đầu mới gặp Ngạn La cũng đã giật mình. Biết, con người này

xuất hiện ở đâu ,muôn ngàn người xung quanh cô ta cũng trở nên vô hình vô

dạng. Cũng như chính vẻ đẹp mong manh và hư vô của bà, như sương khói

như tuyết ngưng ,cũng lại là một mãnh lực làm nổi ba đào cho suốt cuộc đời

bà, ngay cả đến khi xuống tóc vào chùa đi tu vẫn không được yên ổn” [15].

Không hiểu sao trong lòng sƣ bà Nhuệ Anh lại đƣợc khơi gợi một thứ tình

cảm uỷ mị tựa hồ tình mẫu tử thiêng liêng với Ngạn La. Nhuệ Anh hiểu rằng

cuộc đời của bà đã bị cƣớp đoạt bị vùi dập và không đƣợc sống cuộc đời một

ngƣời đàn bà bình thƣờng nhƣ bao ngƣời khác, bởi chính ngƣời mình yêu, bởi

chính những dục vọng ham mê tầm thƣờng cháy bỏng của chàng không chỉ ở

kiếp Từ Lộ mà cả ở kiếp Thần Tông. “Mấy chục năm nay, ta đã ẩn náu, đã cố

tình xa lánh. Như một ngọn gió đơn độc thổi ngoài bãi hoang. Mà trong lòng

vẫn nhói đau trước những thăng trầm thất thường của con người ấy. Con

người bập bỗng ấy, mỗi bước đi đều làm nhói tim ta. Trong khi ta chưa trả nợ

xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta bằng những

nỗi đau khổ của chàng ,bằng những bước đi thập thững và dại dột của

chàng”[15]. Nhuệ Anh càng đau xót hơn khi nhận ra: “Trong mắt chàng đỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đọc ngọn lửa báo thù thủa chàng còn là Từ Lộ, trong mắt chàng không có ta.

99

Khi ta hiến dâng cho chàng ,trẫm mình xuống vực sâu, trong mắt chàng

không có ta. Khi chàng lôi tuột ta từ động Trầm về hậu cung đẫm mùi son

phấn và mưu đồ ác độc, chàng đã đầy đoạ ta thêm một lần nữa Và lần này

mới ác độc làm sao. Chàng là một ông vua còn trai trẻ, được vây quanh bởi

lớp lớp cung tần mỹ nữ lại đang si mê một cung nữ nửa người nửa phù thuỷ

có thể mê hoặc được cả Niết Bàn lẫn địa ngục. Thế mà ngọn lửa từ kiếp trước

vẫn cháy trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta”…[15]. Đau xót

hơn cả đó là khi Nhuệ Anh nhận ra “nàng không là một chấm nhỏ nào trong

mục đích tối thượng của Từ Lộ,cái mục đích đã thiêu đốt cả hai kiếp

người”[15]. Nỗi đau khổ dày vò trái tim Nhuệ Anh khiến cho nàng luôn sống

trong niềm tự vấn khôn nguôi: “Ôi! Đoạ xứ mà chàng đã dìm ta vào! một

ngày chàng tự vấn hàng trăm lần không biết nên gọi ta là sư bà ,là mẹ hay là

một người tình?” [15] …Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật còn thấy rất rõ ở

những dằn vặt, những ám ảnh, mộng mị qua nhân vật Ỷ Lan .Những năm

tháng cuối đời, dù ngự trên đỉnh cao của quyền lực nhƣng Thái hậu Ỷ Lan đã

phải sống trong những day dứt khôn nguôi của lƣơng tâm. Những ám ảnh

khủng khiếp về tội ác mà mình gây ra, cho đến chết mà không thể nhắm

mắt.Vì tội bức tử Dƣơng Thái hậu và bẩy mƣơi sáu cung nữ trong cung

Thƣợng Dƣơng năm nào mà cả đời bà bị ám ảnh và dày vò lƣơng tâm “tiếc

thay suốt đời ta không đánh lừa được lương tâm mình” [15]. Bà đã chịu sự

phán xét của lƣơng tâm, sự trả thù ở cõi âm, bị đàn chuột cắn xé da thịt hằng

đêm, những oan hồn ngƣời phụ nữ đòi trả mạng …Chính vì vậy mà Thái hậu

Ỷ Lan thƣờng nằm mơ thấy Dƣơng Thái hậu và oan hồn của bẩy mƣơi sáu

cung nữ, đêm đêm không ngủ yên: “Ruột như có ai bào. Canh ba là Thái hậu

bật dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như bị người đuổi bắt, rồi

cuốn hàng chục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thét”[15], đó là nỗi sợ hãi khiếp đảm và ám ảnh do những hành vi tội ác của

100

bà và còn trở thành những cơn mê sảng mỗi lúc một bấn loạn trong những

ngày cuối cùng ở thế gian của Ỷ Lan: “Gương mặt đẹp đẽ thường ngày bắt

đầu biến dạng, nằm trên giường thỉnh thoảng lại đứng phắt dậy, kêu rú lên,

luôn miệng thét đuổi chuột,chân giẫy đành đạch, tay hoảng loạn đưa qua đưa

lại quanh mình như cố sức rứt một vật gì ra khỏi ra thịt… thỉnh thoảng khóc

gọi tên Dương Thái hậu rồi nghiến răng kèn kẹt”[15] .Thái hậu Ỷ Lan phải

sống trong những giấc mơ hãi hùng đó đến tận lúc chết mà không nhắm mắt

đƣợc, chỉ khi vua Nhân Tông khấn tên Dƣơng Thái hậu lần thứ ba đôi mắt ấy

mới tự khép lại nhƣ đƣợc sự chấp thuận của Dƣơng Thái hậu khi Ỷ Lan bƣớc

vào thế giới cõi âm. Qua đây chúng ta thấy nhà văn Võ Thị Hảo đã kín đáo

thể hiện quan niệm về luật nhân- quả, kẻ gieo gió ắt gặt bão, những ngƣời

sống và làm trái với lƣơng tâm, trƣớc sau cũng sẽ chịu sự phán xét của lƣơng

tâm.

Nhƣ vậy cùng với nghệ thuật riêng biệt trong việc miêu tả ngoại hình và

nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, Võ Thị Hảo nhằm khắc hoạ sâu đậm và

rõ nét hơn về ngoại hình, tính cách cũng nhƣ cuộc đời và số phận bất hạnh

của các nhân vật nữ.

3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại

Những năm gần đây, văn học có xu hƣớng chối bỏ hiện thực đơn điệu

cùng phƣơng thức phản ánh hiện thực đơn giản, một chiều. Các nhà văn tìm

đến huyền thoại để thoát khỏi giới hạn chật hẹp của quan niệm hiện thực

truyền thống. Huyền thoại ở đây không phải là lối tự sự dân gian cổ xƣa rất

gây thơ, ấu trĩ, mà chính là “sự ý thức về huyện thoại, là sự khai thác huyền

thoại thành một phương thức nghệ thuật, chứa đựng cả quan niệm của nhà

văn về đời sống lẫn khát vọng kiếm tìm những hình thức tự sự mới lạ cho

nghệ thuật văn xuôi” [18] …Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Khánh… đều có xu hƣớng tráng cho tác phẩm của mình một lớp men huyền

101

thoại, hoặc là lấy huyền thoại làm thành chất liệu chủ yếu. Ở các tiểu thuyết

lịch sử, khoảng cách hoặc quá xa về thời gian sẽ làm sự kiện ít nhiều mơ hồ

đi, rất thuận lợi cho việc sử dụng huyền thoại, không nằm ngoài dòng chảy

chung của văn học, Võ Thị Hảo cũng nhuộm lên Giàn thiêu màn sƣơng khói

huyền thoại khá dày. Nhƣng trƣớc khi viết Giàn thiêu Võ Thị Hảo đã từng

viết khá nhiều truyện ngắn“giả cổ tích” đậm chất trữ tình ngƣời đọc cảm nhận

một chất thơ thơm tho trong sáng bay lên từ những trang văn lấp lánh huyền

thoại nhƣ: Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao, Khát của muôn đời, Hồn trinh nữ,

Nữ hoàng cô đơn, Hành trang của người đàn bà Âu Lạc…Ở truyện ngắn

của Võ Thị Hảo, chất huyền thoại thể hiện rất rõ không chỉ ở loại truyện “giả

cổ tích” mà còn thể hiện ở những cốt truyện kỳ ảo. Loại cốt truyện kỳ ảo là

đặt trong sự đối sánh với cốt truyện hiện thực, ở đó chất liệu để nhà văn khai

thác, biểu hiện là một yếu tố kỳ ảo.Yếu tố kỳ ảo thậm chí có khi bao trùm

toàn bộ cốt truyện nhƣ trong Vườn yêu, Lửa lạnh, Giọt buồn giáng sinh,

Biển cứu rỗi, Đêm vu lan, Lãnh cung, Đường về trần…Đọc truyện Vườn

yêu ngƣời đọc nhiều lúc tự hỏi đây là câu chuyện hoang đƣờng hay có thực.

Cô gái xuất hiện ngay từ đầu: “Tôi nhón chân trên đôi giầy thiếu nữ đi vào

vườn yêu”. Trang phục của cô là “một thứ quần áo bằng giấy không sột sọat,

lóng lánh và nhẹ bỗng”…Trong Vƣờn yêu cô đƣợc chứng kiến sự nhẹ dạ của

những cô gái nhƣ cô. Cô nghe thấy tiếng thì thào của những linh hồn, những

chàng trai tự tử vì thất tình. Họ chết nhƣng vẫn khát yêu và theo lũ con gái

mới lớn… yếu tố kỳ ảo phát triển ở mức cao hơn khi cô gái gặp: “người đàn

bà da trắng, răng đen nhánh và mắt sáng ngời đang tiến đến, cặp đùi thon nở

nang được quấn chặt trong một lần váy thâm ướt… trông chị ta thật quyễn rũ,

mặc dù đang hết sức nhợt nhạt” Vườn yêu. Đó là ngƣời dì đã khuất của cô.

Ngƣời dì cũng có những cử chỉ, hành động nhƣ ngƣời bình thƣờng làm cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

câu chuyện trở nên li kỳ hơn …Yếu tố kỳ ảo có khi xuất hiện rất ít trong

102

truyện song lại có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện nhƣ ở: Dây

neo trần gian, Tiếng vạc đêm, Góa phụ đen…Ngƣời phụ nữ trong Dây neo

trần gian vì muốn giữ ngƣời yêu của mình lại chốn trần gian mà cô đã làm đủ

mọi cách. Cô tìm đến bà đồng, tìm đến thế giới tâm linh huyền bí, đã là nƣớc

cùng. Cô tin vào lời bà đồng: “vào ban đêm hãy nhớ tóc của chính cô. Bện

chín sợi một thành từng bím rồi nối chúng lại với nhau, quấn chung quanh

tấm ảnh này rồi đặt lên bàn thờ khấn. Xong đâu đó mang tất cả đến cho anh

ta. Anh ta sẽ lưu lại trần gian”. Tình yêu của cô đã cho anh sức mạnh để anh

đến bệnh viện thử máu, kỳ diệu hơn với kết quả âm tính, cô đã níu lại anh ở

đƣợc chốn trần gian bằng tình yêu của mình. Cốt truyện kỳ ảo đặc biệt đƣợc

thể hiện ở loại truyện “giả cổ tích” chị là ngƣời viết truyện cổ tích hiện đại,

với những trang văn đầy chất huyền ảo, thơ mộng của cổ tích nhƣng lại trĩu

nặng những vấn đề của xã hội.

Những câu truyện cổ tích giải thích về nguồn gốc các loài cây nhƣ hoa

Ti gôn trong Tim vỡ, cây bƣởi trong Nàng tiên xanh xao, cây tranh trong

Khát của muôn đời, cây hoa trinh nữ trong Hồn trinh nữ. Điểm chung của

những câu chuyện này là kể về bi kịch tình yêu tan vỡ. Mỗi loại cây là linh

hồn của những ngƣời phụ nữ sau bi kịch ấy. Truyện Hồn trinh nữ thể hiện rõ

nhất tài năng viết truyện cổ tích hiện đại của nhà văn. Cũng nhƣ những kiếp

đàn bà trong gia đình mình chờ đợi chồng đi lính, thì cô gái là kiếp thứ ba chờ

đợi ngƣời yêu đi lính, thủy chung chờ đợi ngƣời yêu những mƣời bẩy năm

trời đến quá lứa lỡ thì. Nhƣng khi chàng trở về lại mang theo một khuôn mặt

lạnh, bàn tay đẫm máu và không còn biết đến nụ cƣời. Trong đêm tân hôn

nàng trông thấy vợ ngƣời bạn của chồng nàng hiện về đòi trả chồng, trả cha

cho con chị. Nàng sợ hãi ôm mặt rú lên. Nàng sống trong nỗi sợ hãi và

chết.Trên mộ nàng mọc lên một “loài cây thấp lòe xòe màu xanh bàng bạc và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nở ra những nụ hoa tròn trên màu tím buồn mang mác”, khi có bƣớc chân

103

qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá của nó cụp lại nhƣ hình ảnh cô gái

năm xƣa che mặt. Đó là cây hoa trinh nữ.

Trong truyện ngắn Võ Thị Hảo loại truyện “giả cổ tích” có khi sử dụng

để giải thích nguồn gốc của loài ngƣời, của các thần nhƣ Hành trang của

người đàn bà Âu Lạc, Nữ hoàng cô đơn.. Tất cả các thần trên thế gian nhƣ

thần tài, thần quyền, thần tình ái… đều do cha trời tạo ra. Nữ hoàng pháp luật

cũng vậy, nàng ra đời để giữ cho thế gian yên bình. Nhƣng để giữ cho cán cân

công lý thăng bằng, nàng mãi cô đơn không thể thuộc về ai. Chính vì thế pháp

luật ngày nay không là của riêng nàng mà của tất cả. Nàng mang sắc đẹp hấp

dẫn, quyễn rũ và mãi cô đơn nhƣ nhan đề truyện là Nữ hoàng cô đơn. Tính

chất “giả cổ tích” của cốt truyện còn thể hiện ở những cốt truyện xoay quanh

những lời nguyền, những niềm tin vô hình. Hƣơng trong Ngậm cười sinh ra

trong một đêm trời giông quần quật đến sáng. Cả làng ai cũng bảo cô có phúc

thần ẩn trong ngƣời, ai gặp Hƣơng cũng đều gặp may, chính điều đó là tai họa

cho Hƣơng. Cô phải bội bạc với chàng Cam để trao thân cho Tả tƣớng Trịnh

Tùng và bị lão Tiệm cùng mụ đồng Thạo ám hại xúi dân làng phải dìm

Hƣơng xuống biển, trƣớc khi bị dìm cô khấn trời phật, khuấn Long vƣơng nếu

cô bị oan thì sau này Tả tƣớng Trịnh Tùng sẽ quay về giải oan cho cô. Khi

Trịnh Tùng đã lên ngôi chúa biết nỗi oan của cô đã về trừng trị kẻ ác và giải

oan cho cô, linh hồn cô đƣợc siêu thoát, ngƣời ta bảo cô Hƣơng đang ngậm cƣời

ở nơi thủy cung. Những câu chuyện cổ tích khi xƣa đều kết thúc có hậu, cái thiện

chiến thắng cái ác, nhƣng xây dựng trên nền hiện đại, “truyện cổ tích” của Võ

Thị Hảo đi ngƣợc với những kết thúc ấy. Xuyên suốt những câu chuyện là

những bi kịch và kết thúc truyện, bi kịch vẫn chƣa đƣợc giải quyết triệt để. Song

từ trong sâu xa Võ Thị Hảo không hề nhấn mạnh những đau khổ của nhân loại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

mà chị muốn khẳng định những khát vọng nhân bản của con ngƣời. Xây dựng

104

những “truyện cổ tích” mới cũng là cách nhà văn thể hiện hi vọng những câu

chuyện cổ tích sẽ đến, chia xẻ cuộc đời với mỗi con ngƣời trên thế gian.

Xây dựng những cốt truyện kỳ ảo, Võ Thị Hảo giúp ngƣời đọc khám phá

nhiều khía cạnh của cuộc sống con ngƣời trong xã hội. Loại cốt truyện này

thể hiện vốn sống và trí tƣởng tƣợng phong phú của nữ văn sĩ đầy tài năng,

đồng thời cốt truyện kỳ ảo là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự

hấp dẫn cho truyện ngắn của chị. Đến tiểu thuyết Giàn thiêu tác giả lại một

lần nữa tƣới đẫm chất thơ của huyền thoại lên những nhân vật không tì vết

nhƣ Nhuệ Anh, Ngạn La mẹ Dã Nhân. Họ là những nhân vật lý tƣởng của

một khuynh hƣớng lãng mạn trong huyền thoại, những nhật vật đẹp đẽ, hoàn

hảo, màu nhiệm. Nhuệ Anh đẹp nhƣ phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát. Nàng

trong trắng, mảnh mai, và sức mạnh của tình yêu cùng lòng vị tha đã giúp

nàng đắc đạo. Ở Từ Lộ, phép thuật làm nên điều kỳ lạ, còn ở Nhuệ Anh nó

biến thành điều kỳ diệu để cải hóa và cứu vớt nhân sinh. Giọt nƣớc mắt đau

khổ chƣa bao giờ tự ý thức đƣợc về sức mạnh của mình lại chính là giọt nƣớc

cam lồ gột sạch hình hài, lông lá của Thần Tông khi hóa hổ “nước mắt chảy

đến đâu, những đám lông vằn vện tuột ra từng đám, rồi lột hết, lột ra thân

mình của đức Vua với nước da trắng xanh, thư sinh nho nhã”[15]. Cũng trái

tim yêu thƣơng của bà, chứ không phải đài cầu mƣa khổng lồ của Thần Tông

đem mƣa về hồi sinh cho cây cỏ, con ngƣời. Chỉ có điều không ai biết mƣa tới

từ Nhuệ Anh. Nàng hóa gió:“Những bước chân đưa bà đi không còn sức

nặng. Không ngày không tháng không năm. Trên mặt bà, ẩn dấu một nụ cười

rạng rỡ. Một tia hào quang đâm xuyên từ gáy ra đôi mắt.”[15]. Sự hóa thân

thần thánh chính là sự thăng hoa kỳ diệu của tình yêu, từ đây bà sống cuộc

sống của phật bà cứu nhân độ thế. Nếu Nhuệ Anh là hình ảnh kỳ diệu của tình

yêu thì Ngạn La lại là hiện thân của thiên nhiên tinh khiết bí hiểm. Chiếc rốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

xinh xinh của nàng mang màu chu sa của dấu chấm tròn trên cuốn sách da dê,

105

nồng nàn hƣơng thơm đồng nội nhƣng lại bị "canh giữ" bởi hồn ma Nhân

Tông. Đôi mắt mèo hoang của nàng nhƣ chiếc cửa sổ mở ra một tâm hồn ban

sơ nguyên thủy. Giây phút cuối cùng của đời nàng cũng vừa giống vừa khác

với sự hóa kiếp của Tƣ Lộ- Từ Đạo Hạnh. Cả hai đều không đi vào cõi chết,

nhƣng một ngƣời bay lên cao để nhập vào nơi tiên giới, một ngƣời là là dƣới

không trung để đợi sa vào một vòng trần khác. Ở Ngạn La, đó là sự siêu

thăng, trong khi Từ Đạo Hạnh với tất cả phép thần thông của mình, chỉ là sự

thoát xác thƣờng tình. Tâm hồn ngƣời con gái bắt cua- Ngạn La thuộc về

vùng thanh tịnh, Còn Từ Lộ lại tự trói hồn mình vào trốn tục lụy. Cuộc sống

và cái chết của nàng khiến ta nghĩ tới những gì thanh tao. Nàng nhƣ Ngọc Nữ

trên thiên đình chịu tội bị đày xuống trần gian rồi mãn hạn lại trở lại trốn linh

thiêng cùng sống với Tiên Đồng của thanh thản, thuần khiết. Dã Nhân- ân

nhân cứu mạng Từ Lộ, là huyền thoại về một lòng vị tha vô bờ bến. Là nhân

vật chƣa thành ngƣời. Dã nhân chỉ có “đôi núm vú đen sẫm và một khuôn

ngực lông lá, đôi tay rậm rịt đầy lông hung hung…Cặp mắt tròn lớn màu hoe

nâu, không lông mày, một cái mũi tẹt dán sát cái miệng bẹt đầy lông lá của

loài dã nhân” [15,tr.358-359]. Sự dị dạng ấy trở thành huyền thoại, bởi nó

mang trong mình nhân tính cao đẹp, hồn hậu hy sinh, nó vắt sữa nuôi Từ Lộ

nhƣ một ngƣời mẹ nuôi con. Sự tƣởng tƣợng của con ngƣời không bờ bến,

nhƣng bao giờ nó cũng cho ta biết ít nhiều về hiện thực. Và cái hiện thực sau

cùng mà chúng ta nhận đƣợc, đó là khát vọng yêu thƣơng của con ngƣời, ở

nhà văn Võ Thị Hảo. Bà đã giúp ta cảm nhận đƣợc nỗi đau trần thế qua những

nhân vật thánh thiện nhƣ thiên thần.

Viết về đề tài lịch sử nên Võ Thị Hảo đã chọn một kiểu nhân vật đặc biệt

đó là: nhân vật bị khát vọng quyền lực, danh vọng hành hạ. Trƣớc tình trạng

con ngƣời đang tha hóa, bị dục vọng lôi kéo vào những hành vi độc ác, những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

toan tính lạnh lùng, dửng dƣng khiến con ngƣời ngày càng cạn kiệt nhân tính,

106

tác giả đã không ngần ngại “cầu viện” đến tiếng nói của tâm linh, những sự

báo oán, trả thù hay hiện hồn kỳ dị là sự cảnh báo nghiêm khắc. Võ Thị Hảo

đã sử dụng nghệ thuật huyền thoại hóa, dùng cái kỳ ảo, dùng những mơ tƣởng

và mộng mị, những hồi ức đứt nối, chập chờn để diễn đạt trạng thái mất thăng

bằng của con ngƣời, dập tắt vầng hào quang của nhân vật danh tiếng nhƣ Ỷ

Lan,…đồng thời làm nổi bật trạng thái phi lý, đáng thất vọng của một hiện

thực không phải nhƣ ta mong ƣớc, việc “bắt trƣớc” thi hành điểm lệ thiêu

ngƣời sống man rợ của Vua Tần Thủy Hoàng, Nguyên Phi Ỷ Lan xúi vua Lý

Nhân Tông giam Dƣơng Thái Hậu và bẩy mƣơi sáu cung nữ trong cung

Thƣợng Dƣơng rồi bức tử chết… Việc làm tàn ác này đã khiến cả quãng đời

còn lại của Thái hậu Ỷ Lan luôn sống trong những giấc mơ khủng khiếp, ám

ảnh về những oan hồn hiện về tra vấn, đòi mạng, những con chuột khổng lồ

cắn xé, tâm thần bất ổn… Nó giống nhƣ cuộc chất vấn, day dứt, đay nghiến

của lƣơng tâm thức tỉnh trong con ngƣời. Những ám ảnh ấy rõ ràng có tác

dụng cảnh tỉnh con ngƣời trƣớc điều xấu, điều ác bởi nó khúc xạ những dự

cảm, những nung nấu, những khát vọng mơ hồ hoặc cháy bỏng… theo một

cách nào đấy. Nó thuộc về cái vô thức, siêu thức, vƣợt ngoài lý trí con ngƣời.

Dẫu là kẻ lạnh lung, tàn nhẫn, quyền uy tột bậc song cái vòng u tối trong tâm

linh Ỷ Lan cũng khiến bà sợ hãi, biết hối cải. Cả cuộc đời phải cố gắng làm

điều thiện, thực ra chỉ để che lấp cho hành vi tội ác của mình, để sám hối,

lƣơng tâm đƣợc thanh thản. Huyền thoại là viền nổi "phần tối" của tâm hồn, Ỷ

Lan thái hậu hóa ra cũng là con ngƣời với tất cả những đa đoan, hệ lụy thƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tình và dữ dội.

107

C. PHẦN KẾT LUẬN

Sau khi khảo sát nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo, luận văn đi

đến những kết luận sau.

1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ là hình tƣợng quen thuộc, xuyên suốt và là

nguồn cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời vẫn chƣa khai thác hết.Tƣơng

ứng với những thời kì lịch sử là mỗi thời kì văn học, và ở mỗi thời kì khác

nhau thì văn học khai thác đề tài về ngƣời phụ nữ cũng khác nhau. Nhƣng

chƣa bao giờ ngƣời đọc đƣợc chứng kiến trên diễn đàn văn học, sự xuất hiện

rầm rộ và đầy ấn tƣợng của các cây bút nữ nhƣ những năm gần đây và đã đem

đến một diện mạo mới cho nền văn học dân tộc. Chỉ mấy mƣơi năm trở lại

đây ngƣời đọc đã đƣợc thƣởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong

cách khác nhau của các cây bút nữ. Trải nghiệm nhƣ Lê Minh Khuê, sắc sảo

nhƣ Phạm Thị Hoài, tinh tế nhƣ Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm nhƣ Nguyễn

Thị Thu Huệ, hồn hậu và đậm sắc màu văn hoá nhƣ Nguyễn Ngọc

Tƣ…Nhƣng trong số các nhà văn nữ đƣơng đại,Võ Thị Hảo hiện lên nhƣ một

đại diện xuất sắc, giàu cá tính. Đọc các sáng tác của chị, ngƣời đọc dễ nhận

thấy bên cạnh những khắc khoải về chiến tranh thì những mảnh đời ngang

trái, những đau đớn khôn nguôi của số phận những con ngƣời bất hạnh, là sự

thƣờng trực trong mỗi tác phẩm. Đồng thời đó còn là những cảm thông, day

dứt của một trái tim phụ nữ khi nói về những nỗi đau của ngƣời đồng giới.

2. Thế kỉ XX nhân loại đƣợc chứng kiến những phong trào đấu tranh cho

nữ quyền rầm rộ ở nhiều nƣớc trên thế giới, nhằm lên tiếng đòi quyền bình

đẳng cũng nhƣ đòi quyền lợi cho ngƣời phụ nữ. Ở Việt Nam cùng với quá

trình giao lƣu, hội nhập vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX, quan điểm giới

nhanh chóng đƣợc du nhập và truyền bá vào cùng với nó là sự biến đổi nhanh

chóng quan niệm, thái độ, hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập bình đẳng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

giới trong mọi lĩnh vực của xã hội Việt Nam thời kì đổi mới. Vấn đề nữ

108

quyền đã trở thành một hiện tƣợng văn hoá xã hội của thời hiện đại.Và nữ

quyền- ý thức về hạnh phúc của ngƣời phụ nữ đƣợc khẳng định.Trong sáng

tác của Võ Thị Hảo tính nữ quyền thể hiện rất rõ ở sự quyết liệt đấu tranh

dành giữ tình yêu, sự bình quyền trong tình cảm và khẳng định giới mình.

Những nhân vật nữ trong sáng tác của chị có khi rất mực nhu mì, dịu dàng,

cũng có khi rất mực nhẹ dạ và cuồng si nhƣng khi cần cũng quyết liệt đến

cứng cỏi nhƣng rồi cuộc đời vẫn đầy bất hạnh. Họ là hiện thân của những số

phận bi kịch: bi kịch là nạn nhân của chiến tranh, bi kịch của cái nghèo, bi

kịch của những mảnh đời tật nguyền, bi kịch tình yêu và hạnh phúc lứa đôi…

Trong sáng tác của Võ Thị Hảo có không ít ngƣời phụ nữ có những phẩm chất

đạo đức tốt đẹp, họ yêu và sống hết mình cho những khát khao hạnh phúc,

khát khao vƣơn tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống nhƣng cũng chính

những khát khao ấy đã đẩy họ đến những bi kịch trong cuộc đời khi nó chỉ là

mơ ƣớc mà không thể thực hiện.

Viết về vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác của mình, Võ

Thị Hảo đã đề cập đến con ngƣời bản năng, vấn đề giới tính, những nhân vật

dám sống thật với những khao khát của mình.Nhà văn thể hiện sự trân trọng,

ngợi ca khát vọng tình yêu chân chính đƣợc đẩy tới cùng của sự hoà hợp giữa

thể xác và tâm hồn và coi đó là điều thiêng liêng cao quý nhất.

3. Để xây dựng thành công nhân vật nữ trong sáng tác của mình, nhà văn

Võ Thị Hảo đã kết hợp sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó tập trung

ở nghệ thuật miêu tả ngoại hình, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, và nghệ

thuật tạo màu sắc huyền thoại, nhằm khắc hoạ sống động và rõ nét về cuộc

đời, tính cách, và số phận của nhân vật.

4. Nhân vật là con đẻ của nhà văn, đặc biệt đối với các nhà văn nữ thì các

nhân vật nữ lại là nơi để họ gửi gắm những suy nghĩ, nỗi niềm, quan niệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của họ về giới mình. Qua nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo, chúng ta có

109

cái nhìn sâu hơn về giới nữ, hiểu hơn về thế giới và thêm cảm phục, tin yêu

nhà văn. Những trải nghiệm của chị trên mỗi trang viết thấm đẫm nỗi suy tƣ

và những khắc khoải không phải của riêng chị.Võ Thị Hảo và những nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của chị không ở bên cạnh mà trong mỗi chúng ta.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngọc Anh (2003), Đã đến lúc những người đàn bà nổi loạn, Báo Nông

thôn ngày nay.

2. Nguyễn NgọcThuỳ Anh (2007), Phái tính trong thơ nữ sau 1975, Luận

văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

3. Diễn Chi (2005),“Tôi là người nô lệ cho gia đình”,Báo phụ nữ chủ nhật

số 6

4. Trƣơng Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu

thuyết Tự lực văn đoàn, Tạp chí văn học số 5.

5. Đông Dƣơng (2005), Hiện tượng sex trong tác phẩm văn học:ưu thế

thuộc về các cây nữ, Tien phong online.

6. Đặng Anh Đào(1991), Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện

hiện nay,Tạp chí văn học số 6.

7. Minh Đức(2005),“Tôi không định mê hoặc …”Báo ngƣời đại biểu nhân

dân số 3.

8. Nguyễn Đăng Điệp, Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn

học Việt Nam đương đại.

9. Nguyễn Hoàng Đức(2000), Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ, Nhà xuất

bản Văn học Dân tộc.

10. Võ Thị Hảo(2005), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nhà

xuất bản Phụ nữ.

11. Võ Thị Hảo(2005), Hồn trinh nữ, Nhà xuất bản Phụ nữ.

12. Võ Thị Hảo(2005), Goá phụ đen, Nhà xuất bản Phụ nữ.

13. Võ Thị Hảo(2006), Người sót lại của rừng cười, Nhà xuất bản Phụ nữ.

14. Võ Thị Hảo(2007), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nhà xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

bản Phụ nữ.

111

15. Võ Thị Hảo(2005), Tiểu thuyết“Giàn thiêu”, Nhà xuất bản Phụ nữ.

16. Võ Thị Hảo(1995), Biển cứu rỗi, Nhà xuất bản Hội nhà văn.

17. Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo,“Trách nhiệm người viết là không né

tránh sự thật”, Nguồn:Xem sách.com.vn

18. Đỗ Thu Hƣơng(2001), Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện đời

sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau1975, Luận văn thạc sĩ Ngữ

văn, Hà Nội.

19. Minh Hà(2002),“Tôi vốn là người đàn bà thích được che chở”, Báo lao

động.

20. Nguyên Hằng(1996), Suốt đời chỉ mơ một giấc (trò chuyện với Võ Thị

Hảo), Tuần báo Công nghiệp Việt Nam số 6.

21. Hoàng Hoa(2001), Tôi ngồi bệt trên đất mà viết, Tạp chí nghề báo số1.

22. Lê Thị Hƣờng(1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam

giai đoạn 1975-1995, Luận án phó tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.

23. Võ Thị Hảo(2004),“Nhà văn mà nhẵn nhụi thì mất duyên”,VN Epress.

24. Hiện tƣợng Sex trong tác phẩm văn học(13/9/2005), Ưu thế thuộc về các

cây bút nữ, trang Tienphong online.

25. Nhiều tác giả(2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Giáo dục

(Tái bản lần 2).

26. Nhiều tác giả(2002),Lý luận văn học tập1,Nhà xuất bản Đại học Sƣ

phạm.

27. Nhiều tác giả(1997), Việt Nam nửa thế kỉ văn học, Nhà xuất bản Hội nhà

văn.

28. Châm Khanh(2000), Phụ nữ và văn chương, Tạp chí Việt, Tienve Org.

29. Nguyễn Vi Khanh(2002), Bài viết “Tản mạn về dục tính và nữ quyền”.

30. Vi Thuỳ Linh(7/10/2005), Những cơn bão tuổi 25 và sự thay đổi, Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Vietnamnet.

112

31. Nguyễn Trƣờng Lịch(1997), Huyền thoại và sức sống của huyền thoại

trong văn chương xưa và nay, Tạp chí văn học số 5.

32. Phạm Thị Ngọc Liên(25/1/2007), Nhục cảm trong văn chương, Trang

Web www evan.com.vn.

33. Phƣơng Lựu chủ biên(2003), Lý luận văn học, Nhà xuất bảnGiáo dục.

34. Nguyễn Văn Long(2003),Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nhà xuất

bản Giáo dục.

35. Nguyễn Đăng Mạnh(1995), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nhà xuất bản Giáodục.

36. Nguyễn Thị Mận(2006), Báo cáo khoa học:Tình yêu, tình dục và vấn đề

phái tính trong tập thơ “Rỗng ngực” của Phan Huyền Thư, trƣờng Đại

học Sƣ phạm Hà Nội.

37. Thụ Nhân, Toạ đàm về sáng tác Võ Thị Hảo, Vietnamnet.

38. Hoài Nam phỏng vấn Tuý Hồng, Phụ nữ và văn chương, Tienve Org.

39. Vƣơng Trí Nhàn Văn học Sex, Chấp nhận để tìm cách đổi khác,

Vietnamnet.

40. Vƣơng Trí Nhàn(1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn học

số 6.

41. Phạm Xuân Nguyên(1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí

văn học số 2.

42. Phạm Xuân Nguyên(1991), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết, Tạp chí

văn học số 2.

43. Nghĩ về truyện ngắn(1994), Phỏng vấn các nhà văn,Văn nghệ quân đội

số2.

44. Khánh Phƣơng(2003), Là hạt muối tôi phải mặn (trò chuyệnvới Võ Thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Hảo), Báo thể thao văn hoá số 53.

113

45. Trần Đình Sử(2001), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học

Việt Nam thế kỉ XX, Tạp chí văn học số 8.

46. Vnexpress, Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo “Tôi biết mình không được

phép quay đầu”.

47. Vnexpress, Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo “Làm phong ba trên văn đàn

cần tri âm”.

48. Vnexpress, Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo “Tôi khòng thích lối mòn”.

49. Bùi Việt Thắng(1991), Quan niệm về con người trong văn xuôi hiện nay,

Tạp chí văn học số 6.

50. Bùi Việt Thắng(2001), Tuyển chọn giới thiệu, Truyện ngắn bốn cây bút

nữ Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nhà

xuất bản Văn học.

51. Bùi Việt Thắng(1993), Khi ngƣời ta trẻ, tản mạn về truyện ngắn của

những cây bút nữ trẻ, Báo văn nghệ số 43.

52. Nguyễn Thị Thành Thắng(2004), Phác thảo vài nét về diện mạo truyện

ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ, Tạp chí Văn thành

phố Hồ Chí Minh số 7.

53. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua

hệ thống mô típ chủ đề. Tạp chí văn học 4.

54. Đinh Thị Thu (2007), Báo cáo khoa học: Cảm thức cô đơn trong tập

truyện ngắn Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà

Nội.

55. Bùi Thị Thuỷ, Dấu hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam đương đại.

56. Đoàn Minh Tuấn(1993), Lời giới thiệu “Biển cứu rỗi”(Võ Thị Hảo), Nhà

xuất bản Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

57. Còn điều chi em mải miết đi tìm(6/2005), Báo An ninh Thế giới.

114

58. Blog cá nhân của Trần Văn Toàn, Những diễn ngôn về tính dục trong

văn xuôi hư cấu Việt Nam(từ đầu thế kỉ XX đến 1945).

59. Nguyễn Thị Nhƣ Tƣơi(2007), Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Luận văn thạc

sĩ Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

60. Đỗ Phƣơng Thảo(2006), Nhân vật nữ trong tác phẩm văn xuôi của Ma

Văn Kháng, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số7.

61. Dƣơng Quỳnh Trang(1994), Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi

của một cây bút nữ. Văn nghệ quân đội số 6.

62. Bùi Thanh Truyền(2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học .

63. Trần Thị Vƣợng(1986), Nhân vật phụ nữ trong sáng tác Nguyễn Minh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Châu, Luận văn thạc sĩ khoa học, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

115

MỤC LỤC

A - PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 4

3. Mục đích phạm vi nghiên cứu ................................................................ 8

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 9

5. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 10

B - PHẦN NỘI DUNG ................................................................................ 12

Chương 1: Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam ………………………...12

1.1. Nhân vật nữ trong văn học truyền thống ................................................. 12

1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kỳ đổi mới ............................................. 16

1.2.1. Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ.......................................... 16

1.2.2. Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn của Võ Thị Hảo ............... 19

Chương 2: Âm hưởng nữ quyền qua các nhân vật nữ của Võ Thị Hảo.... 24

2.1. Về vấn đề nữ quyền................................................................................ 24

2.1.1. Vấn đề nữ quyền, một hiện tƣợng văn hóa, xã hội của thời hiện đại 24

2.1.2. Nữ quyền - ý thức về hạnh phúc của ngƣời phụ nữ ......................... 28

2.2. Bình diện xã hội- tƣ tƣởng, nhân văn của nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị

Hảo ....................................................................................................................... 35

2.2.1.Vấn đề số phận bi kịch của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Hảo ................................................................................................................. .35

116

2.2.1.1.Bi kịch là nạn nhân của chiến tranh ........................................ 36

2.2.1.2.Bi kịch của cái nghèo............................................................. 42

2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền ................................. 46

2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi .............................. 50

2.2.2. Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo ...... 66

2.2.3. Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo ..... 71

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của

Võ Thị Hảo ............................................................................... 78

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ................................................................ 78

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý ...................................................................... 88

3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại ....................................................... 95

C - PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................. 102

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 105

A - PHẦN MỞ ĐẦU

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

117