ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------------
TRẦN THỊ BÍCH VÂN
NHÂN VẬT NỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN – 2009
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------
TRẦN THỊ BÍCH VÂN
NHÂN VẬT NỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
Chuyên ngành:VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 602234
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS.TRỊNH BÁ ĐĨNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2009
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------
TRẦN THỊ BÍCH VÂN
NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
Chuyên ngành:VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 602234
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN – 2009
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Công trình đƣợc hoàn thành tại: Trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.Trịnh Bá Đĩnh Phản biện 1: ……………VŨ TUẤN ANH Phản biện 2:…………...NGUYỄN BÍCH THU Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận văn họp tại: Trƣờng Đại học Sƣ phạm – ĐHTN Ngày 15 tháng 11 năm 2009 Có thể tìm hiểu luận văn tại thƣ viện Đại học Thái Nguyên
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
UNIVERSITY OF THAI NGUYEN COLLEGE OF TEACHER’S TRAINING ------------------------ TRAN THI BICH VAN THE FEMALE CHARACTER IN VO THI HAO’S WRITING MAJOR: LITERATURE OF VIET NAM Code :602234 ABSTRACT OF A THESIS FOR MASTER OF PHILOLOGICAL SCIENCE THAI NGUYEN - 2009
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
6
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không thể sánh nổi sự bí ẩn
của người phụ nữ ”.Thật vậy, ngƣời phụ nữ- một nửa của nhân loại, là biểu
tƣợng cho đạo đức và vẻ đẹp bền vững của nghệ thuật và của cuộc sống. Vì
thế, tìm hiểu về ngƣời phụ nữ, chính là khám phá vẻ đẹp của nghệ thuật và
sức sống của nhân loại. Đã có không biết bao nhiêu nhà văn nhà thơ từ cổ chí
kim trên khắp hành tinh này viết về ngƣời phụ nữ với tất cả tấm lòng yêu
thƣơng rộng mở và viết về ngƣời phụ nữ nhƣ là thƣớc đo của những giá trị mĩ
học nhân văn. Ở Việt Nam ngƣời phụ nữ đã đi từ cuộc sống vào văn học và
trở thành một hình tƣợng rất quan trọng của văn học Việt Nam, ở một số giai
đoạn nó là hình tƣợng nổi bật nhất (chẳng hạn văn học thế kỷ cuối 18 đầu
19).Theo dòng chảy đó văn học ngày nay viết về ngƣời phụ nữ là sự tiếp nối
truyền thống văn học dân tộc, góp phần hoàn thiện hơn chân dung ngƣời phụ
nữ Việt Nam, cũng là thể hiện sâu sắc hơn nhận thức về ngƣời phụ nữ nói
chung.
Từ khi đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội, đời
sống tƣ tƣởng có nhiều thay đổi, đặc biệt là nhà văn có sự thay đổi trong cách
nhìn về cuộc sống, thay đổi trong quan niệm nghệ thuật. Vì vậy mà nền văn
học dân tộc đã có những chuyển mình rõ rệt và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng
ghi nhận. Một trong những thành tựu đó phải kể đến là sự đóng góp lớn của
thể loại tự sự cụ thể là truyện ngắn và tiểu thuyết, trong việc thể hiện nhân vật
ngƣời phụ nữ, nhất là những tác phẩm do chính nhà văn nữ viết. Nhà nghiên
cứu Bùi Việt Thắng coi sự xuất hiện đầy ấn tƣợng của các cây bút nữ là một
hiện tƣợng đáng chú ý của văn xuôi đƣơng đại. Ông viết:“văn học đang mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
gương mặt nữ ngày càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh tế và đằm
7
thắm[55]”. Hay Vƣơng Trí Nhàn trong bài Phụ nữ và sáng tác văn chương
đã nhận xét:“hình như do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời
đại nhanh hơn nam giới [40]”. Phải chăng đây chính là nguyên nhân giúp cho
hàng loạt cây bút nữ trẻ đƣợc bạn đọc mến mộ trong những năm qua nhƣ: Lê
Minh Khuê,Võ Thị Hảo,Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh,Võ Thị Xuân Hà,Thuận…Một vấn đề hết sức nổi bật trong sáng
tác của các cây bút nữ, là sự xuất hiện đặc biệt đông đảo và chiếm ƣu thế của
các nhân vật nữ. Các nhà văn nữ với những cố gắng đã khẳng định đƣợc vị trí
của mình trên văn đàn. Nhƣ nhận định của Phạm Xuân Nguyên:“số lượng
nhiều các tác giả nữ lại tỏ ra khá chắc tay trong cái dàn chung, đem đến cho
văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng một sinh khí mới cần thiết để thể
hiện bề sâu của cuộc sống con người hôm nay [41]”. Điều này có cơ sở từ
thực tế xã hội hiện đại, cuộc sống xã hội mà ngày nay với sự phát triển nhƣ vũ
bão của kinh tế, khoa học kỹ thuật, con ngƣời trong khi bị những áp lực cạnh
tranh căng thẳng nên càng mong ƣớc đƣợc sống trong yên bình với những
cảm giác quý giá về hạnh phúc gia đình. Ngƣời phụ nữ hiện đại tuy rất năng
động nhƣng vẫn luôn cần có một cuộc sống tình cảm làm điểm tựa. Luôn khát
khao một tình yêu đẹp, đó không chỉ là nhu cầu tự thân mà còn là khao khát
tự khẳng định tƣ cách tồn tại của họ.Nhạy cảm với mặt trái của cuộc sống với
bao xô bồ hỗn độn, các giá trị về tình yêu- hạnh phúc- gia đình dễ có nguy cơ
bị đảo lộn, ngƣời phụ nữ với bản chất yếu đuối càng khát khao một bến bờ
hạnh phúc bình yên. Thông qua việc tìm hiểu nhân vật nữ trong sáng tác của
các nhà văn nữ, chúng tôi mong muốn tìm đến những“vùng sâu”trong tâm
hồn của một nửa nhân loại. Để việc tìm hiểu và nghiên cứu về nhân vật nữ
trong sáng tác của một nhà văn có hiệu quả nhất, chúng tôi nghĩ nên xuất phát
từ một nhà văn nữ cụ thể.Trong số các nhà văn nữ đƣơng đại,Võ Thị Hảo hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lên nhƣ một đại diện xuất sắc, giàu cá tính.Tác phẩm của chị ngày càng chiếm
8
đƣợc nhiều tình cảm của độc giả. Có thể nhận thấy rất rõ một điều, ở lĩnh vực
văn xuôi với bảy tập truyện ngắn và tiểu thuyết Giàn thiêu đã in,Võ Thị Hảo
đã thực sự chinh phục ngƣời đọc bằng ngòi bút sắc sảo mà tinh tế, mạnh mẽ
và tài hoa của mình. Chị là ngƣời luôn tin vào một giải thƣởng lớn đó là sự
sàng lọc của thời gian.Thời gian đã sàng lọc và thời gian cũng đã khẳng định
Võ Thị Hảo là một cây bút nổi bật trong đội ngũ các nhà văn nữ và gặt hái
đƣợc khá nhiều thành công với những giải thƣởng:
- Giải thƣởng cuộc thi tiểu thuyết và truyện ngắn với tập Biển cứu rỗi -
Nhà xuất bản Hà Nội - 1991.
- Giải thƣởng 5 năm văn học Hà Nội với Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị
Hảo - Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1995.
- Ngoài ra tiểu thuyết Giàn thiêu đƣợc trao giải thƣởng Hội nhà văn Hà
Nội năm 2004.
Võ Thị Hảo đƣợc thừa nhận là một trong vài cây bút nổi bật và giàu chất
nữ tính trong làng truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Đọc các sáng tác của chị,
ngƣời đọc dễ nhận thấy bên cạnh những khắc khoải về chiến tranh thì những
mảnh đời ngang trái, những đau đớn khôn nguôi của những con ngƣời bất
hạnh là sự thƣờng trực trong mỗi tác phẩm. Đồng thời đó còn là những cảm
thông, day dứt của một trái tim phụ nữ khi nói về những nỗi đau của ngƣời
đồng giới. Hơn nữa, vấn đề phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của sáng tác Võ
Thị Hảo hay của văn học Việt Nam mà là vấn đề chung của văn học thế giới
hiện nay. Chính vì thế mà những năm gần đây xu hƣớng nghiên cứu nữ quyền
đã thành một trào lƣu phê bình, mới, hấp dẫn gây đƣợc nhiều sự chú ý. Chúng
tôi chọn đề tài nghiên cứu:Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo, để
trƣớc hết có cái nhìn sâu hơn về ngƣời phụ nữ trong sáng tác của chị, sau đó
và từ đó đặt vấn đề bƣớc đầu nghiên cứu văn học từ góc nhìn giới tính tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cận một hƣớng nghiên cứu mới .
9
2. Lịch sử vấn đề.
Võ Thị Hảo đã từng làm thơ từ rất sớm và từng nghĩ mình sẽ trở thành
một nhà thơ, tuy nhiên chị lại bắt đầu xuất hiện chính thức và đều đặn vào
thập niên 90 ở lĩnh vực văn xuôi và lập tức gây đƣợc sự chú ý cũng nhƣ lấy
đƣợc cảm tình của bạn đọc.Vì có một quá trình sáng tác dài, nên có khá nhiều
bài viết, bài phỏng vấn hay nghiên cứu về các sáng tác của Võ Thị Hảo ở
những khía cạnh, những phƣơng diện và mức độ khác nhau sau:
2 .1.Những ý kiến tiêu biểu về sáng tác của Võ Thị Hảo
2.1.1. Đối với thể loại truyện ngắn
Trong bài giới thiệu tập truyện Biển cứu rỗi của Võ Thị Hảo, Đoàn
Minh Tuấn nhận định về đặc trƣng thể loại và nội dung:“Võ Thị Hảo đã tận
dụng được những đặc trưng lớn nhất, tiêu biểu nhất của thể loại nhỏ này. Mỗi
truyện của chị như một tia nắng chiếu vào tầm rộng và chiều sâu biển cả cuộc
đời”.Theo tác giả:có thể nói ở tập truyện ngắn này,chị tập trung ở hai cái
nhìn:“Cái nhìn thứ nhất vào mặt trái của vầng trăng chiến tranh. Cái nhìn
thứ hai vào những con người nhỏ bé(số đông nhân loại) tồn tại trong im
lặng”. Nhận định đó đánh giá chiều rộng, chiều sâu của phạm vi phản ánh
trong truyện ngắn Võ Thị Hảo, khái quát đƣợc đối tƣợng phản ánh trong
truyện ngắn của chị. Đồng thời tác giả bài viết còn nhận xét truyện ngắn Võ
Thị Hảo đã “bộc lộ cái nhìn dung dị, bẩm sinh của các cây bút nữ nhưng ở
chị còn sâu sắc hơn bởi khi chấm dứt câu chuyện,chị đã gióng lên trong lòng
người đọc âm vang của sự lo lắng. Những lo lắng mơ hồ về cuộc đời biển
cả”.Về nghệ thuật, Đoàn Minh Tuấn còn nhận xét về:“ lối viết trữ tình để đạt
hiệu quả nhận thức - một trong những đặc điểm của thể loại truyện ngắn hiện
đại”. Nét riêng của bút pháp truyện ngắn Võ Thị Hảo theo ông còn ở:“cốt
truyện vững chắc với xung đột được đẩy tới cao trào”[16]. Trong bài Võ Thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Hảo giữa những trang viết, trang đời, Lƣơng Thị Bích Ngọc nhận xét khá
10
toàn diện về truyện ngắn Võ Thị Hảo:“Truyện ngắn của Võ Thị Hảo phản
ánh hiện thực một cách nghiệt ngã nhưng người đọc lại không nhìn thấy sự
cay nghiệt của một người viết. Lan toả trên những trang viết, một tấm lòng
nhân ái của một người đàn bà cầm bút hết lòng yêu cuộc sống và con người.
Chị còn nhận xét:Trong truyện Võ Thị Hảo, cái tôi của tác giả dường như chỉ
thấp thoáng đâu đó, để rồi người đọc thấy cái tôi của hiện hữu” [14,tr.303-
304].
Nguyễn Lƣơng trong bài viết Gương mặt Võ Thị Hảo cũng nêu ấn
tƣợng tổng quát truyện ngắn củaVõ Thị Hảo:“Mỏng manh đến điệu đà, nhạy
cảm đến mức khắt khe, đó cảm giác ban đầu về nữ văn sĩ xứ Nghệ này khi
mới đọc, mới tiếp xúc với chị. Còn ẩn sâu đằng sau những câu chữ trau chuốt
là những tâm sự day dứt khôn nguôi về số phận con người, về cuộc đời và
nhân tình thế thái. Đọc truyện của Võ Thị Hảo, người ta thường buồn. Một
nỗi buồn có lẫn ngọt ngào và cay đắng” [12,tr.209-230].
2.1.2. Về tiểu thuyết Giàn thiêu
Trong bài giới thiệu tác phẩm Giàn thiêu, trên báo Ngƣời đại biểu nhân
dân số 3 năm 2005 một tác giả viết:“Giàn thiêu mặc dù hấp dẫn nhưng là
cuốn tiểu thuyết không dễ đọc. Cũng như những truyện ngắn của Võ Thị Hảo
cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu đang đi theo con đường riêng của nó, ngấm dần
vào trái tim người ta, và những tầng lớp ngữ nghĩa cũng như những tầng lớp
nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này thường trở đi trở lại và ám ảnh người đọc”
[15] .
Xuất hiện chƣa lâu trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam, Giàn thiêu một sự
bứt phá đầy ngoạn mục của nhà văn Võ Thị Hảo thực sự thu hút đƣợc sự chú
ý của độc giả, các nhà phê bình và nghiên cứu.Trong lời giới thiệu có tính
chất đề dẫn cho cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu- xứ sở của lối văn chƣơng mê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
hoặc và huyền bí, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết:“Văn Võ Thị Hảo
11
không chỉ là những dòng chữ, không chỉ là truyện ngắn hay tiểu thuyết. Văn
Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình tượng mà mỗi lần tiếp cận, người đọc lại ngạc
nhiên thấy mình khám phá ra một tầng lớp ngữ nghĩa khác ẩn mình sau
những câu chữ. Đó là lối văn đã được tác giả thổi linh hồn. Linh hồn đó tạo
lên những câu văn huyền ảo, mê hoặc thậm chí ma quái” [15]. Rõ ràng theo
Phạm Xuân Nguyên, chính lối văn chƣơng mê hoặc ấy là thanh nam châm thu
hút bạn đọc, nhƣng đồng thời cũng là một thách thức đòi hỏi bạn đọc phải có
bản lĩnh, thực sự tự tin khi bƣớc vào khám phá thế giới văn chƣơng huyền bí
của Võ Thị Hảo, phải tìm hiểu phát hiện ra những tầng hình tƣợng, lớp ngữ
nghĩa khác ẩn sau những câu chữ thì mới thấy hết đƣợc cái hay cái hấp dẫn
của tác phẩm và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
2.2.Những ý kiến tiêu biểu về nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị
Hảo
2.2.1.Về nhân vật nữ trong truyện ngắn
Đã có không ít những ý kiến nhận xét về nhân vật nữ trong truyện ngắn
của Võ Thị Hảo, ở đây chúng tôi dẫn ra một số nhận định tiêu biểu chẳng hạn:
Trong Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn
1975-1995 (luận án tiến sĩ )Lê Thị Hƣờng đã nhận xét về yếu tố kỳ ảo trong
truyện ngắn Võ Thị Hảo:“Bằng câu chuyện nhuốm màu huyền thoại Võ Thị
Hảo đã đề cập một vấn đề rất thực. Đó là số phận, nỗi đau của cả giới đàn
bà.Võ Thị Hảo hay xây dựng nhân vật ảo, song nhân vật ảo lại tượng trưng
cho số phận của những con người thực.Cái kì ảo ở đây không làm phương hại
tới hiện thực được phản ánh. Trái lại nó tô đậm, mở rộng, khơi sâu thêm hiện
thực, mang ẩn ý sâu, tầm khái quát cao” [22].
Trong bài phỏng vấn Võ Thị Hảo suốt đời chỉ mơ một giấc, Nguyễn
Hằng nhận định:“Chị được xếp vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tính. Những thân phận đàn bà, những con người nhỏ bé trước bão lũ cuộc
12
đời, những gì rất riêng tư mà chẳng riêng tư chút nào, là điều mà chị luôn
trăn trở trên các trang viết của mình” [13].
Qua Huyền thoại về tình yêu, Nguyễn Văn Lƣu đã chỉ ra những vấn đề
mà Võ Thị Hảo muốn gửi gắm ở những nhân vật nữ: “Tác giả giành cho trái
tim người phụ nữ, cho số phận người phụ nữ lòng yêu thương đau xót sâu sắc
nhất.Thân phận người phụ nữ trở thành tâm niệm thường xuyên, da diết trong
những trang viết của Võ Thị Hảo” [54].
Ở bài viết Đã đến lúc người đàn bà nổi loạn,Ngọc Anh nhận xét:“Trong
những truyện ngắn của Võ Thị Hảo, có những người đàn bà khổ vì yêu và khổ
vì bị ruồng bỏ” [1] .
2.2.2. Về nhân vật nữ trong tiểu thuyết Giàn thiêu
Trả lời câu hỏi: Thông điệp chính của chị gửi đến độc giả khi viết Giàn
thiêu là gì? Nhà văn Võ Thị Hảo cho biết: “Một trong những thông điệp của
Giàn thiêu: Dựng giàn thiêu người trên đảo Âm Hồn đốt sách, mổ bụng, moi
gan người dưới đoạn đầu đài, hay bất kì một cực hình nào cũng không thiêu
hủy được sự thật, khát vọng tự do và công lý”[18]. Quả thực “Giàn thiêu
mang đến cho người đọc cảm giác đang đứng trước một thế giới va đập bạo
liệt giữa thiện và ác, tốt và xấu, sự bi thảm đến mức trớ trêu của số phận con
người”…[15].
Trong một bài phỏng vấn khác, chị nói: “Rất nhiều thông điệp tôi gửi
vào Giàn thiêu, nhưng một trong những thông điệp quan trọng nhất: Khát
vọng tự do và tình yêu. Sự trường tồn, bất tử của sự thật trước bạo lực và
cường quyền…những lầm lạc thật dễ thương và đau đớn của kiếp người. Tôi
cũng gửi đến qua Giàn thiêu những người đàn bà đẹp, mong manh giữa cuộc
đời mà khuôn khổ tình yêu của họ không khớp với một cái khuôn khổ nào của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
hiện thực” [15,tr.559-560] .
13
Trong một buổi tọa đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo diễn ra vào ngày
19/10/2005 tại Viện Goethe (Hà Nội) nhân sự kiện công ty văn hóa truyền
thông Võ Thị vừa ấn hành bốn tập truyện ngắn, đồng thời tái bản tiểu thuyết
Giàn thiêu. Buổi tọa đàm có sự tham gia của đông đảo nhà văn, nhà phê bình,
nhà nghiên cứu văn học nhƣ Dƣơng Tƣờng, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Hòa,
Châu Diên, Nguyễn Thị Minh Thái...cùng đại diện nhiều tờ báo của Hà Nội
và Trung ƣơng đến dự. Đáng chú ý trong buổi toạ đàm là vấn đề nói về xu
hƣớng nữ quyền thể hiện qua ba nhân vật nữ tuyệt đẹp là Nhuệ Anh, Lê Thị
Đoan và Ngạn La, trong đó đặc biệt là Nhuệ Anh và Lê thị Đoan hầu nhƣ là
hiện thân cho lƣơng tri, tình yêu cao thƣợng và sự khoan dung. Có một điều
cũng đáng lƣu ý là khi trả lời câu hỏi về cái nhãn ngƣời ta gán cho mình là
nhà văn nữ quyền,Võ Thị Hảo đáp rằng khi viết chị không quan tâm đến
những chủ nghĩa, trƣờng phái chẳng hạn nhƣ nữ quyền, nếu có khuynh hƣớng
nữ quyền ấy là một cái gì nằm trong tự thân chị.
Trên đây là những ý kiến, nhận xét, đánh giá và bài viết tiêu biểu về một
số đặc điểm nghệ thuật nói chung và nhân vật nữ nói riêng trong sáng tác của
Võ Thị Hảo. Song đó mới là những ý kiến, đánh giá, hoặc nhận xét bƣớc đầu,
ở những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên đã phần nào thể hiện đƣợc sự cảm
nhận đúng đắn của các nhà nghiên cứu về nhà văn này. Đặc biệt chƣa có công
trình nghiên cứu nào riêng về nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo.
Những bài viết và nghiên cứu khác của ngƣời đi trƣớc sẽ là những gợi mở quý
báu cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1.Mục đích
Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu về nhân vật nữ trong sáng
tác của Võ Thị Hảo, ngƣời viết luận văn muốn cho thấy những vấn đề về sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
quan tâm của văn học đến ngƣời phụ nữ, cách thể hiện nhân vật nói chung,
14
nhân vật nữ nói riêng cùng các thủ pháp thể hiện nhân vật nữ trong sáng tác
của Võ Thị Hảo. Đồng thời qua đó để thấy đƣợc mối quan hệ giữa nhân vật
nữ với bản thân hình tƣợng tác giả …
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ khảo sát các tập truyện ngắn sau của Võ Thị Hảo.
- Hồn trinh nữ - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2005
- Goá phụ đen - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2005
-Người sót lại của rừng cười - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2006
-Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm - Nhà xuất bản Phụ nữ,
2007 và cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu - Nhà xuất bản Phụ nữ, 2005.
4.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp nghiên
cứu chính sau:
4.1.Phương pháp khảo sát - thống kê
Chúng tôi tiến hành khảo sát- thống kê nhân vật nữ trong sáng tác của
Võ Thị Hảo trên nhiều phƣơng diện, để từ đó phân loại nhân vật, tìm hiểu
thấu đáo hơn các đặc điểm của nhân vật nữ cũng nhƣ các thủ pháp thể hiện
nhân vật nữ.
4.2.Phương pháp hệ thống
Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh thể tác phẩm, nhân vật nữ
đƣợc xem xét trong mối tƣơng quan với cả hệ thống nhân vật, với cốt truyện,
với giọng điệu, với hệ thống các yếu tố nghệ thuật thể hiện ngoại hình, nội
tâm…Sử dụng phƣơng pháp này giúp cho việc tìm hiểu nhân vật nữ trong
sáng tác của Võ Thị Hảo đạt đến cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.
4.3.Phương pháp so sánh
Để thấy đƣợc cái chung cũng nhƣ nét riêng độc đáo của nhân vật nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong sáng tác của Võ Thị Hảo, luận văn cũng dùng phƣơng pháp so sánh,
15
so sánh bút pháp của chị với các nhà văn nữ khác.
4.4. Phương pháp phân tích- tổng hợp
Từ việc phân tích các dẫn chứng, các vấn đề cụ thể của nội dung và hình
thức tác phẩm, chúng tôi rút ra những vấn đề chung mang tính khái quát.
5.Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm các chƣơng sau:
Chương 1
NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN HỌC VI ỆT NAM
1.1 .Nhân vật nữ trong văn học truyền thống
1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kì đổi mới
1.2.1. Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ
1.2.2.Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn của Võ Thị Hảo
Chương 2 ÂM HƯỞNG NỮ QUYỀN QUA CÁC NHÂN VẬT NỮ CỦA VÕ THỊ HẢO
2.1. Về vấn đề nữ quyền
2.1.1.Vấn đề nữ quyền, một hiện tƣợng văn hoá xã hội của thời hiện đại
2.1.2. Nữ quyền –Ý thức về hạnh phúc của ngƣời phụ nữ
2.2. Bình diện xã hội- tƣ tƣởng, nhân văn của nhân vật nữ trong sáng tác Võ
Thị Hảo
2.2.1.Vấn đề số phận bi kịch của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
2.2.1.1.Bi kịch là nạn nhân của chiến tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
2.2.1.2.Bi kịch của cái nghèo
16
2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền
2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi
2.2.2.Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
2.2.3.Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
Chương 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC
CỦA VÕ THỊ HẢO
3.1.Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
3.2.Nghệ thuật miêu tả tâm lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại
17
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN HỌC VI ỆT NAM
1.1. Nhân vật nữ trong văn học truyền thống
“Văn học là nhân học”(M.Gorki), nhiệm vụ cơ bản và mục đích cao
nhất của văn học là khám phá, phát hiện, nhận thức về con ngƣời thông qua
những nhân vật văn học.Việc tìm hiểu và thể hiện nghệ thuật về con ngƣời
đƣợc bộc lộ chủ yếu trên phƣơng diện xây dựng nhân vật.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:“Nhân vật văn học chính là con
người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học”25. Nhân vật là hình
thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tƣợng. Chức năng của
nó là khái quát những quy luật phong phú của cuộc sống con ngƣời, từ đó bộc
lộ những hiểu biết, quan niệm và những trăn trở, ƣớc mơ của ngƣời nghệ sĩ.
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện những cá nhân và xã hội nhất
định, bày tỏ quan niệm riêng về các cá nhân, xã hội đó. Nhân vật là “công cụ
khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ
thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng” 33. Nhƣ vậy,
nhân vật đóng vai trò là yếu tố hàng đầu của tác phẩm, là phƣơng diện để nhà
văn truyền tải tƣ tƣởng, thể hiện cá tính sáng tạo của mình, đồng thời lại mang
quan niệm có tính nghệ thuật của nhà văn về thời đại, đặc biệt là trong các sáng
tác thuộc thể loại tự sự.
Phụ nữ là một nửa của nhân loại, là biểu tƣợng của cái đẹp, là hiện thân
của sự sinh tồn và luân chuyển sự sống. Trong dòng chảy văn học từ cổ chí
kim, hình tƣợng ngƣời phụ nữ luôn là một trong những đề tài quen thuộc nhất
và dƣờng nhƣ phụ nữ là một nguồn cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
vẫn chƣa khai thác hết.Văn học truyền thống Việt Nam đã nhiều lần quan
18
tâm, tập trung đến đề tài về ngƣời phụ nữ. Qua hình tƣợng này ngƣời đọc các
thế hệ sau thấy đƣợc giá trị của con ngƣời Việt Nam qua các thời đại, thấy cả
số phận của những “phận đàn bà”, của con ngƣời nhân loại.
Trong văn học dân gian, nhân vật nữ đại diện cho lý tƣởng thẩm mỹ của
nhân dân hiện lên trong các câu chuyện cổ tích thƣờng có số phận bi thảm
nhƣng luôn tỏa sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hy sinh,
giàu lòng nhân ái và cuối cùng chắc chắn sẽ đƣợc hƣởng hạnh phúc. Ngƣời
phụ nữ trong ca dao lại mang vẻ đẹp đằm thắm, ý nhị, dịu dàng và kín đáo
nhƣng đồng thời cũng là hiện thân cho những bi kịch, phải gánh chịu số phận
bất hạnh, không có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình.
Đến văn học Trung đại đã có biết bao tiếng nói xót xa, thƣơng cảm, cho
thân phận ngƣời phụ nữ bị chà đạp, vùi dập trong xã hội phong kiến. Nhƣ
trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là hình ảnh những ngƣời phụ nữ
đức hạnh, đẹp ngƣời, tốt nết luôn khát khao một cuộc sống bình yên, hạnh
phúc nhƣng bị những thế lực cƣờng quyền và cả lễ giáo phong kiến khắc
nghiệt, xô đẩy đến những cảnh ngộ éo le, ngang trái bất hạnh. Ở Cung oán
ngâm của Nguyễn Gia Thiều chúng ta thấy đó là câu chuyện kể về cuộc đời
của một nàng cung nữ xinh đẹp, khi mới vào cung đƣợc vua yêu chiều nhƣng
sau bị thất sủng. Từ trong thâm cung lạnh lẽo nàng hồi tƣởng lại quá khứ và
cất tiếng oán thán cho số phận bạc bẽo của mình. Cả tác phẩm là tiếng than
dài, là sự đau đớn, tấm tức và tâm trạng bế tắc của nàng cung nữ. Nguyễn Gia
Thiều là ngƣời thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho số phận bất hạnh của
nàng. Còn Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là tiếng kêu thƣơng đến đứt ruột,
tiếng kêu xé lòng cho thân phận chìm nổi lênh đênh trong kiếp đoạn trƣờng
của nàng Kiều và cho “phận đàn bà” nói chung. Tiếng nói mạnh bạo, dám bày
tỏ khát khao đƣợc yêu và sống hạnh phúc còn vang lên đầy mạnh mẽ, và đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
còn là sự kịch liệt phản đối chế độ năm thê bảy thiếp trong xã hội phong kiến
19
“chém cha cái kiếp lấy chồng chung” của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hƣơng.
Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - đầu XIX là thời kỳ rất đặc biệt bởi sự xuất
hiện các nữ sĩ nhƣ: Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan,
Ngọc Hân công chúa…Trong sáng tác văn chƣơng, nhân vật nữ là trung tâm,
là nơi gửi gắm, bày tỏ những tƣ tƣởng thẩm mĩ của nhà văn. Không có thời kì
nào trong lịch sử văn học Việt Nam lại rực rỡ, lộng lẫy nhƣ thời kì này với sự
biểu hiện nghệ thuật trong sự khám phá đời sống nội tâm nhiều cung bậc của
con ngƣời. Dƣờng nhƣ có mối liên quan giữa tinh thần nữ quyền và sự nở rộ
của sáng tác văn học.
Đến đầu thế kỷ XX, sáng tác của các nhà văn chí sĩ yêu nƣớc nhƣ Phan
Bội Châu đã dựng lên chân dung của những ngƣời phụ nữ, những ngƣời anh
hùng cứu nƣớc nhƣ bà Trƣng Trắc, Trƣng Nhị, nàng Liên Hoa trong vở tuồng
Trưng nữ vương hay hình ảnh cô Chí, Triệu, Tinh, Liên, Hạnh, Lực, trong
tiểu thuyết Trùng quang tâm sử.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 tiếp tục khai thác đề tài về
ngƣời phụ nữ. Sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng hình ảnh những
ngƣời phụ nữ mới, đòi quyền tự do yêu đƣơng vƣợt qua mọi lễ giáo phong
kiến nhƣ Nhung trong Lạnh lùng của Nhất Linh. Văn học hiện thực phê phán
giai đoạn này lại đi sâu tìm hiểu những bi kịch khác nhau trong cuộc đời
ngƣời phụ nữ. Đó là cuộc đời cơ cực lắm đắng cay của chị Dậu trong Tắt đèn
của Ngô Tất Tố, Tám Bính trong Bì vỏ của Nguyên Hồng, hay thân phận của
một“dị nữ” nhƣ Thị Nở trong tác phẩm Chí phèo của Nam Cao. Ngƣời phụ
nữ trong các tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn hiện thực hiện lên nhƣ
một biểu tƣợng trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp
ngƣời và cuộc đời họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc. Đến
văn học giai đoạn 1945 - 1975, nhân vật ngƣời phụ nữ tiếp tục đƣợc phản ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
và đƣợc làm nổi bật trong mối quan hệ với những vấn đề chung của thời
20
đại.Tắm mình trong bầu không khí hào hùng của dân tộc, ngƣời phụ nữ góp
phần không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang. Đó là Nguyệt trong
Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, chị Út tịch trong Người mẹ
cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn đất của Anh Đức. Có thể thấy
ngƣời phụ nữ trong giai đoạn này là con ngƣời của cộng đồng, của xã hội gắn
với cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, đƣợc soi dọi dƣới cái nhìn lý tƣởng mang
tính sử thi.
Sau năm 1975, văn học có xu hƣớng trở về với cái đời thƣờng muôn
mặt, cảm hứng sử thi nhạt dần, thay thế vào đó là cảm hứng thế sự- đời tƣ.
Vấn đề các nhà văn quan tâm không phải là cuộc sống, chiến đấu dũng cảm vì
dân vì nƣớc nữa mà là con ngƣời của cuộc sống đời thƣờng với những lo toan
rất nữ, ngƣời phụ nữ hiện lên với tƣ cách con ngƣời cá nhân, những mảnh đời
riêng lẻ. Nhân vật nữ xuất hiện đa dạng, phong phú và mỗi nhà văn tìm thấy
cho mình một hƣớng đi riêng khi khai thác đề tài này. Nhƣ Nguyễn Huy
Thiệp khai thác về thiên tính nữ qua một loạt những truyện ngắn Chảy đi
sông ơi, Con gái thủy thần, Nhà Bua. Còn Nguyễn Minh Châu lại tiếp tục
khai thác vẻ đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ nhƣng chú ý nhiều hơn đến
đời sống nội tâm của họ, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành,
Thai trong Cỏ lau. Họ là một thế giới đầy bí ẩn và cần đƣợc khám phá với rất
nhiều những khao khát về tình yêu, hạnh phúc. Biết bao cảnh đời khác nhau,
có hạnh phúc ngọt ngào, có bi kịch đắng cay, có tốt có xấu và có cả cao cả lẫn
thấp hèn.
Văn học Việt nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ đông đảo
các nhà văn nữ trẻ viết về ngƣời phụ nữ nhƣ một sự khám phá chính bản thân
mình nhƣ: Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh
Khuê, Võ Thị Hảo…Với cái nhìn mẫn cảm bản năng, các nhà văn nữ thƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
quan tâm nhiều đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn và khát vọng tình yêu hạnh phúc
21
của ngƣời phụ nữ. Tác giả Văn Tâm trong bài viết Phụ nữ và sáng tác văn
chương lại khẳng định niềm tin vào sáng tác của các cây bút nữ hiện nay, tin
ở sự đóng góp cho: “cái mảng khá bí ẩn là tâm hồn họ”.
Qua đây, chúng ta thấy hình tƣợng ngƣời phụ nữ là hình tƣợng xuyên
suốt và nổi bật trong nền văn học Việt nam, gắn liền với sự vận động trong
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời qua các giai đoạn văn học. Có một đặc
điểm là ngƣời phụ nữ luôn là hình ảnh tích cực, đƣợc nhà văn gửi gắm nhiều
ĐỘNG, đó dƣờng nhƣ là nét tiêu biểu của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam
tình cảm thƣơng yêu trân trọng NHẪN NẠI, ĐA CẢM, THUA THIỆT, CHỦ
ở mọi thời đại.
1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kì đổi mới
1.2.1 .Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ
Với lịch sử đấu tranh không phải chỉ cho việc giải phóng dân tộc, Việt
nam - một nƣớc chịu ảnh hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng phong kiến Trung Hoa
cũng mất nhiều năm cho cuộc đấu tranh về bình đẳng giới. Khi đất nƣớc bƣớc
vào thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội và tƣ tƣởng con ngƣời cũng đổi
thay tận gốc rễ. Bởi vậy trong cách nhìn về cuộc sống, con ngƣời và quan
niệm về nghệ thuật của các nhà văn…cũng tất yếu biến đổi. Trong bối cảnh
xã hội mới, vai trò, vị trí của ngƣời phụ nữ đã đƣợc thừa nhận, đề cao và
khẳng định. Họ tham gia ngày càng đông vào tất cả các lĩnh vực nhƣ kinh tế,
chính trị, y tế, thƣơng mại, xã hội…trong đó có sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt
là văn học, một trong những lĩnh vực nhạy cảm dễ bắt nhịp với những vấn đề
nóng hổi của đời sống mà lúc này cũng đã mở rộng cánh cửa của mình để
chào đón các cây bút nữ.
Trên diễn đàn văn học, sự xuất hiện rầm rộ và đầy ấn tƣợng của các cây
bút nữ đã đem đến một diện mạo mới, một làn gió mới cho nền văn học dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tộc. Chính sự xuất hiện ngày càng đông đảo các gƣơng mặt nữ cùng với các
22
tập thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết của họ, đã thổi một luồng gió mới cho
văn học Việt nam sau1975, góp phần tô điểm cho diện mạo nền văn học và
lấy lại thế cân bằng trong sáng tác văn học giữa các tác giả nam và nữ.
Nếu nhƣ ở các giai đoạn trƣớc 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ƣu thế thuộc
về các nhà văn nam nhƣ Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải,
Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đƣơng đại phần đông gắn với
các tên tuổi nữ nhƣ: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Dạ
Ngân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Đoàn
Lê, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu…Nhƣ lời phát biểu của nhà văn Võ
Phiến: “Chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính”2. Những trang
viết của các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc
và quyền sống của ngƣời giới mình. Trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ
và cảm nhận của họ, ngƣời phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần đƣợc sẻ
chia và họ đã tìm thấy trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng một sức
mạnh để qua thế giới nhân vật nữ họ tìm đƣợc nơi để bày tỏ những tâm tƣ,
suy nghĩ uẩn khúc của lòng mình.Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tƣơng
ứng lúc đầu là một vài cây bút nữ viết, rồi những cây bút khác qua tác phẩm
của những ngƣời đi trƣớc tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để
giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó họ nhƣ đƣợc tự do phơi
mở cái tôi cá nhân của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức
riêng. Họ thẳng thắn đối thoại lại những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ
giới trƣớc đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị,
chỉ viết về những chuyện nhỏ nhặt, không có tầm tƣ tƣởng lớn. Mạnh dạn, họ
thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị
sống…của chính mình trên diễn đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu,
họ khám phá toàn diện về mọi mặt, mọi cung bậc, từ những dƣ vị ngọt ngào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đến những dƣ vị đắng chát, từ đớn đau đến xót xa, từ những nhẹ dạ cả tin đến
23
những mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải…tất cả đều là những bộc bạch
chân thực nhất của các cây bút nữ viết về giới mình. Hơn nữa khi nữ văn sĩ
viết về phái yếu, cũng có nghĩa là họ đã hƣớng ngòi bút vào chính mình, dù
tác giả viết về ngƣời phụ nữ khác thì cái nhìn của họ cũng sẽ có phần sâu sắc,
triệt để và thấu đáo hơn. Nhà văn nữ viết nhiều về phụ nữ vì theo đặc trƣng
tâm lý họ tồn tại với tình cảm hƣớng nội, luôn muốn tìm sự đồng cảm, khác
tâm lý đàn ông với lý trí hƣớng ngoại luôn luôn phân tích chiếm lĩnh. Bên
cạnh đó nhà văn nữ muốn thông qua nhân vật nữ để thể hiện tâm hồn mình,
bản thân mình, vì vậy mà những sáng tác của các tác giả nữ thƣờng mang
màu sắc tự truyện. Diện sống của phụ nữ nói chung không rộng bằng nam
giới, các tác giả nữ lại thƣờng viết tập trung vào những đề tài nhất định, do đó
đôi khi không tránh khỏi việc gây nên cảm giác đơn điệu cho ngƣời đọc, nhƣ
nhà văn Lê Minh Khuê nhận xét: “Nghĩ về những người viết cùng giới mình,
tôi thường bị chi phối bởi cảm giác nước đôi. Một mặt nhiều chị em bộc lộ
một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác sao vẫn cứ
cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung rồi mỗi người cũng thế thôi, không bao
giờ có sự gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả ”[27,tr.257-258].Và
nhà phê bình Đặng Anh Đào cũng khẳng định: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ
đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách…tuy nhiên phải nói thật là ở
mỗi người nguy cơ lặp lại chính mình, nguy cơ ấy khá rõ”[27].
Thế giới nhân vật nữ của các nhà văn nữ đƣợc xây dựng trên những
trang văn thấm đẫm tình cảm, cảm xúc nhƣ đang tuôn trào từ trái tim, tâm hồn
của họ với giọng điệu khi thì dịu dàng, ấm áp, khi thì xúc động nghẹn
ngào…và tình yêu luôn là đề tài trung tâm trong nhiều sáng tác của các cây
bút nữ. Đặc biệt ngƣời phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới hiện lên với khát
vọng yêu đƣơng mãnh liệt, luôn đòi hỏi đƣợc yêu thƣơng che chở, bộc lộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
những phẩm chất tốt trong tình yêu và thƣờng xuyên gặp ngang trái trong ái
24
tình. Nhân vật nữ của các nhà văn nữ thời kì đổi mới không phải là không có
những ngƣời hạnh phúc, những khoảnh khắc vui, song hầu hết trong số họ là
những ngƣời bất hạnh, cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động nữ văn sĩ
là ngƣời dễ nhận ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của ngƣời cùng giới hoặc
của chính mình. Qua những trang viết đó, các nhà văn nữ thể hiện sự quan
tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của ngƣời giới mình trong
cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ ngƣời phụ nữ vẫn còn
mang nhiều nỗi khổ cần đƣợc sẻ chia. Chính vì thế mấy mƣơi năm trở lại đây,
ngƣời đọc đã đƣợc thƣởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong cách
khác nhau của các cây bút nữ, trải nghiệm nhƣ Lê Minh Khuê, sắc sảo nhƣ
Phạm Thị Hoài, tinh tế nhƣ Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm nhƣ Nguyễn Thị
Thu Huệ, hồn hậu và đậm sắc màu văn hoá nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ ...Chƣa bao
giờ phái nữ lại dành đƣợc sự quan tâm nhiều của ngƣời cầm bút nhƣ hôm nay.
Khuynh hƣớng duy nữ đƣợc thể hiện không chỉ là sự xuất hiện nhiều nhà văn
nữ, nhiều nhân vật nữ trong các tác phẩm mà nó còn chi phối ngay cả cách đặt
tên tác phẩm nhƣ: Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh Thái, Bến không
chồng của Dƣơng Hƣớng, Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà
có ma lực của Y Ban, Hồn trinh nữ, Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, Thiếu
phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Xưa kia chị đẹp nhất làng của
Tạ Duy Anh…Mỗi tác giả đều cố gắng xác lập một tiếng nói riêng, một giọng
điệu của riêng mình. Dƣờng nhƣ với xu hƣớng duy nữ ngôn ngữ văn chƣơng
của nền văn học đã đổi thay, tinh tế hơn, chất nội cảm nhiều hơn, màu sắc
biểu tƣợng đa dạng hơn.
1.2.2 .Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn củaVõ Thị Hảo
Xem xét văn chƣơng của một nhà văn, phƣơng pháp tiểu sử trong một
chừng mực nào đó cũng có tác dụng, chỉ có điều không nên lấy tiểu sử nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
văn để giải thích toàn bộ các yếu tố văn chƣơng mà thôi, vì thế những nét sơ
25
qua về Võ Thị Hảo, cuộc sống và quá trình sáng tác cũng là hữu ích. Võ Thị
Hảo, tên khai sinh và đồng thời cũng là bút danh của chị, sinh ngày 12/4/1956
tại Diễn Bình - Diễn Châu - Nghệ An. Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất xứ Nghệ
khắc nghiệt nhƣng có lẽ cũng chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây đã
tạo nên tính cách con ngƣời chị - một tính cách chịu đựng bền bỉ và kiên
cƣờng.Vì thế khi nói về quê hƣơng mình chị thƣờng nói: “Tôi cảm ơn những
kỉ niệm, mà đau khổ nhiều hơn là hạnh phúc, vì chính chúng đã tạo ra
tôi”[7]…Chính tính cách đó giúp chị dù ở hoàn cảnh nào cũng có thể thích
nghi và tìm cách vƣợt qua những đoạn trƣờng chìm nổi của cuộc đời. Chị là
ngƣời có niềm ham mê đọc sách từ khi còn nhỏ, nhiều lúc phải đọc trộm gia
đình. Từ niềm đam mê ấy chị đã trở thành cô sinh viên Văn khoa trƣờng Đại
học Tổng hợp Hà Nội, với bao khát vọng và hoài bão văn chƣơng cùng giấc
mộng đẹp về tình yêu đã nuôi dƣỡng chị trong những năm tháng tuổi xuân
phơi phới ấy. Chị từng làm thơ từ rất sớm cũng từng nghĩ mình sẽ trở thành
một nhà thơ, thế nhƣng duyên số lại đƣa chị đến với nghề báo.Tốt nghiệp
khoa Ngữ Văn trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội, ra trƣờng chị về công tác ở
nhà xuất bản văn hoá dân tộc, nhập cƣ vào chốn thị thành cùng với tổ ấm yêu
thƣơng, gia đình bé nhỏ của mình. Có lẽ nghiệp văn mới là một sự an bài
trong số phận chị, cho nên từ đây những trang viết bắt đầu thao thức trong chị
và rồi luôn đồng hành với cuộc sống công chức của chị những năm 80-90 của
thế kỉ trƣớc, nhƣ một ngọn lửa cháy âm ỉ giữ cho tâm hồn chị luôn rực nóng
và đam mê. Vì là niềm đam mê nên Võ Thị Hảo hết mực trân trọng cái
khoảng riêng ấy cho dù khi đó văn chƣơng không đủ sức đem lại cho gia đình
một cuộc sống yên ổn, và hạnh phúc gia đình chị bắt đầu có dấu hiệu của sự
bất ổn từ đây. Chính chị đã để cái không khí văn chƣơng đó len lỏi quá sâu
vào đời sống gia đình lại vẫn bƣớng bỉnh, khƣ khƣ giữ lấy cho mình một góc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
riêng để thoả mãn niềm đam mê đó. Cuộc sống vật chất khó khăn của những
26
năm tháng đất nƣớc còn trong chế độ bao cấp, để vƣợt qua những năm tháng
ấy Võ Thị Hảo đã viết nhiều và bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn, đó chính là
thời gian chị viết văn mà không có đƣợc sự ủng hộ và đồng thuận của chồng.
Chị đã níu giữ đƣợc cuộc hôn nhân bất ổn trong hai mƣơi năm trời. Khi cuộc
hôn nhân không còn là cái đích đắm say của cả hai ngƣời, chị đã quyết định
giải thoát cho mình và cho ngƣời khác khỏi sự nặng nề của một cuộc hôn
nhân không hạnh phúc, tất cả những điều ấy đều để lại dấu ấn trong sáng tác
của chị. Trong cuộc sống Võ Thị Hảo rất hay có những cuộc ra đi, trong công
việc mƣu sinh, trong tình cảm cũng nhƣ trong sáng tạo văn chƣơng. Chị nói:
mình không phải là ngƣời thích phiêu lƣu hoặc thích thay đổi mà là ngƣời phụ
nữ viết văn, để giữ lòng tự trọng và một trái tim luôn đập cho những điều tốt
đẹp trong cuộc đời. Một trái tim quá ƣ là nhạy cảm bởi vậy rất dễ bị rƣớm
máu và tổn thƣơng nên bất cứ một sự bất tín hay cƣ xử quá đáng của bạn bè
đồng nghiệp hoặc những ngƣời xung quanh với mình đến độ cảm thấy mình
không thể chịu đựng nổi thì tốt hơn cả là rời bỏ để ra đi. Dẫu biết cuộc ra đi
nào cũng đầy bất trắc và lắm trông gai, ngƣời ngoài nhìn vào có thể cho là
mình điên rồ nhƣng đó là cách giải quyết của mình từ trƣớc đến nay.“Nó làm
cho mình cảm thấy thanh thản, giữ được cái tôi của mình trước xô bồ đời
sống quá nhiều cạm bẫy và thói xấu. Sự ra đi giúp cho tâm hồn của mình
không bị cằn cỗi tha hoá, để cố gắng dù cho trong hoàn cảnh nào thuận lợi
hay khó khăn, hạnh phúc hay bi đát thì nhân cách của mình cũng không bị tha
hoá. Mình sợ nếu mình ở lại, mình thoả hiệp và sống chung với những điều
mình cho là giả dối, căm ghét thì mình sẽ bị tha hoá đi lúc nào không hay.
Điều làm mình sợ nhất là khi mình không còn tin vào chính mình nữa thì sống
sao nổi, còn có thể tin được một ai khác” [57].
Về quan niệm nhân cách, nghĩa vụ của nhà văn và sáng tạo văn chƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Võ Thị Hảo cũng có những suy nghĩ nghiêm túc.Theo chị: “Thiên chức nhà
27
văn là tôn trọng tự nhiên. Tự nhiên nghĩa là sự thật. Như những con sóng
biển và gió vẫn đêm ngày cồn cào đến với đất liền. Khi nhà văn mà chối bỏ sự
thực viết dối trá và đứng ngoài nỗi đau, khát vọng cũng như khát vọng thật
sự của con người khi ấy, nhà văn đó trở nên nguy hiểm cho đồng loại” [7].
Dẫu viết văn hay viết báo thì chị vẫn là một cây bút có sức viết dồi dào nhƣ
một nhu cầu tự thân cần đƣợc nói ra những điều mình trăn trở và tâm huyết.
Chị cho rằng: “Tôi may mắn đƣợc làm đúng nghề mình đã chọn và nghiệp
không trái với nghề. Làm báo là nghề, viết văn là nghiệp. Hơn cả nghề,
nghiệp văn là cái thứ đeo bám,ám ảnh, thậm chí chi phối số phận”[14]. Chị
từng tâm sự: “Tôi có quá ít thời gian dành cho văn chương. Đó là sự thiếu
may mắn. Tôi chỉ còn ban đêm, lúc đi đường và ngày nghỉ cuối tuần là dành
cho văn chương. Nhưng thực sự, làm báo cũng giúp nghề văn. Nhiều khi đi
tìm tư liệu, khai thác sự kiện hay họp hành, ý tưởng chợt hiện. Tôi phác hoạ
chúng vào những mảnh giấy bất kỳ nào đó và đem về nhà ghim lại, chờ dịp
viết thành những truyện hoàn chỉnh”[11]. Với lĩnh vực văn chƣơng ta thấy
Võ Thị Hảo xuất hiện chính thức và đều đặn vào thập niên 90 và gây đƣợc sự
chú ý của ngƣời đọc kể từ truyện ngắn đầu tay Người gánh nước thuê in trên
báo năm1989.Tiếp đó là những truyện ngắn“lạ ”nhƣ: Hồn trinh nữ, Người
sót lại của Rừng Cười, Biển cứu rỗi …Cho đến nay chị đã có bảy tập truyện
ngắn và tiểu thuyết Giàn thiêu đã ấn hành, sắp tới sẽ là sự ra đời của cuốn
tiểu thuyết thứ hai Dạ tiệc quỷ. Các tác phẩm đã in của chị ngày càng chiếm
đƣợc nhiều tình cảm của độc giả và thực sự chinh phục đƣợc ngƣời đọc bằng
ngòi bút sắc sảo, tinh tế mạnh mẽ và tài hoa của mình. Khi đọc sáng tác của
Võ Thị Hảo ta“dễ nhận thấy trong văn chương chị có một cái nhìn ưu ái và
thiên vị đối với phái nữ. Một cô gái sa ngã (Vũ điệu địa ngục), một người
đàn bà nhẹ dạ (Người đàn ông duy nhất), và đến cả một con điếm hết thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
(Biển cứu rỗi) - bao giờ chị cũng tìm cách biện bạch để “bắt” người đọc
28
phải yêu và cứu mạng họ”[14]. Bởi vậy mà “chị được xếp vào hàng những
cây bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn bà, những con người
bé nhỏ trước bão lũ cuộc đời, “những gì rất riêng tư mà chẳng riêng tư chút
nào”…là điều mà chị luôn trăn trở trên các trang viết của mình”[13] .Hình
dung về Võ Thị Hảo, ngƣời đọc sẽ thấy một Ngƣời phụ nữ có số phận không
dễ dàng nhƣng đủ nghị lực để vƣợt qua mọi gian khó trên đƣờng đời, cùng ánh
mắt dƣờng nhƣ nhìn thấu cuộc sống nhân sinh và luôn khát khao thể hiện
những điều cảm nhận, suy ngẫm của mình bằng sự phong phú của ngôn từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nghệ thuật.
29
Chương 2
ÂM HƯỞNG NỮ QUYỀN QUA CÁC NHÂN VẬT NỮ
CỦA VÕ THỊ HẢO
2.1. Vài nét về vấn đề nữ quyền
2.1.1.Vấn đề nữ quyền, một hiện tượng văn hóa, xã hội của thời hiện đại
Những năm gần đây vấn đề nữ quyền (feminisme) đƣợc nói đến ở nhiều
lĩnh vực nhƣ: chính trị, xã hội, văn chƣơng, giải trí…Một cách hiểu thông
dụng nhất cho khái niệm nữ quyền là:“Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi
lĩnh vực kinh tế, xã hội và giáo dục. Khái niệm nữ quyền nếu hiểu ở cấp độ
rộng là quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương quan với quyền lợi
của nam giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp độ hẹp thì nữ
quyền có mối liên quan với các khái niệm như giới tính, phái tính trong văn
học. Nếu giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính giữa hai
phái (nam/nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục đích
của nó hướng tới là sự bình quyền của nam/nữ đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn
riêng của nữ giới” [55]. Thế kỷ XX, nhân loại đƣợc chứng kiến những phong
trào đấu tranh cho nữ quyền rầm rộ ở các nƣớc phƣơng Tây tiêu biểu là Đan
Mạch. Đây là nƣớc mà phong trào nữ quyền nổ ra sớm nhất từ năm1905, phụ
nữ đã đƣợc đi bầu Hội đồng hàng tỉnh và thị xã, năm1910 Hội phụ nữ Đan
Mạch KVINFO cùng viện Gocthe của Đức đã đánh dấu ngày 8-3 bằng Hội
nghị Copenhagen, đòi quyền bình đẳng nam- nữ trong chính trị và việc làm. Ở
bất cứ lĩnh vực nào ngƣời phụ nữ cũng luôn muốn chứng tỏ sự bình quyền
của mình trƣớc nam giới. Ngƣời phụ nữ Châu Mỹ cũng đấu tranh đòi quyền
bình đẳng với nam giới, họ đã dấn thân xuống đƣờng lập nghiệp đoàn, giơ cao
khẩu hiệu “đàn bà là tương lại nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà”[29].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Bên cạnh đó, là những nhân vật phụ nữ lỗi lạc, những ngƣời phụ nữ tiểu biểu
30
đã có những hoạt động nhằm khẳng định quyền của ngƣời phụ nữ nhƣ: Ganđi,
Thachơ, Marguerite Durand…
Marguerite Durand là một ngƣời phụ nữ Pháp hăng say tranh đấu dành
quyền bình đẳng cho nữ giới. Năm 1897, bà sáng lập và điều khiển tờ báo La
Fronde(sự nổi loạn).Trụ sở tờ báo nằm trên đƣờng Saint- Georges và tất cả
các việc trong tòa soạn từ quản lý, viết bài, đến in ấn và phát hành đều do phụ
nữ đảm nhận. Tờ báo đƣợc nhiều phụ nữ có uy tín làm trợ bút. Trong lúc đạo
luật năm 1892, cấm phụ nữ làm việc ban đêm thì họ bất chấp cả luật lệ, không
kể đếm gì đến các thanh tra lao động và liên hiệp các đoàn thể làm sách.
Trong các bài xã thuyết, tờ báo đòi hỏi phụ nữ phải đƣợc ghi tên vào danh
sách những ngƣời đƣợc chính phủ Pháp thƣởng Bắc Đẩu bội Tinh, phụ nữ
cũng phải có đƣợc quyền tham dự vào các cuộc tranh cãi tại quốc hội.
Marguerite Durand đã cố gắng tổ chức để đƣa phụ nữ ra tranh cử vào Quốc
hội Pháp trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1910, và cũng là ngƣời phụ nữ đầu
tiên tham dự vào nghiệp đoàn chủ nhân các nhật báo. Bà tích cực đòi hỏi các
quyền lợi của phụ nữ nhƣ: Quyền đƣợc tự do hành nghề, quyền đƣợc hƣởng
lƣơng bằng với nam nhân, làm cùng một công việc, quyền của ngƣời vợ đƣợc
giữ lƣơng do chính mình làm ra và quyền đƣợc bảo vệ trong các công việc
trong nhà…Trƣớc làn sóng đấu tranh mạnh mẽ nhƣ thế, nhiều hội nghị bàn về
vấn đề nữ quyền đã đƣợc triệu tập. Phê bình nữ quyền luận đƣợc hình thành,
trong môi trƣờng của những tiếng nói đòi quyền lợi cho ngƣời phụ nữ; các lý
thuyết về giới đƣợc nhiều ngƣời quan tâm từ đấy, trong đó có lí thuyết nữ
quyền trong văn học.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình giao lƣu và hội nhập vào đầu những năm
90 của thế kỷ XX, bằng nhiều con đƣờng khác nhau, quan điểm giới nhanh
chóng đƣợc du nhập và truyền bá vào. Sự xuất hiện, cách tiếp cận giới chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
là bƣớc đột phá quyết định sự phát triển mạnh mẽ và ấn tƣợng của khoa học
31
nghiên cứu về phụ nữ. Cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng quan niệm,
thái độ, hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập bình đẳng giới trong mọi lĩnh
vực của xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nó không chỉ tồn tại nhƣ một hiện
tƣợng xã hội, mà nó còn đƣợc chú ý nhiều trong lĩnh vực văn hóa, văn học.
Xuất phát từ cơ chế dân chủ của xã hội, nhƣ nhà văn Võ Thị Hảo đã phát
biểu: Xã hội văn minh bao giờ cũng có thiên hƣớng nữ khuynh, ngƣời ta
nghiêng về phái yếu để càng thấy mình mạnh. Hơn nữa bản thân nữ giới dám
đứng lên đấu tranh để đòi quyền sống, quyền tự do dân chủ của mình bằng
thứ ngôn ngữ quyết liệt, mạnh mẽ thậm chí có ý thức gây “hấn” và “sốc” với
cách nhìn truyền thống. Đó là những phát ngôn gai góc đầy cá tính thể hiện
chính xác những trải nghiệm cá nhân ở nhiều mối quan hệ trong cuộc sống.
Họ dám công khai xem xét lại cả những chuẩn mực của lịch sử và của nghệ
thuật bằng cái nhìn chủ quan, công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc,
sự áp đặt trong văn chƣơng, dám xông vào các đề tài trƣớc kia bị xem là cấm
kỵ vốn là đặc quyền của nam giới. Thực ra thì trong văn chƣơng truyền thống
đã có những yếu tố của văn học nữ quyền. Ở văn chƣơng Việt Nam thời kỳ
trung đại ý thức nữ quyền đến Hồ Xuân Hƣơng đã trở nên gay gắt, nữ sĩ đã
dám nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền:“ Kẻ đắp chăn bông
kẻ lạnh lùng- chém cha cái kiếp lấy chồng chung”Làm lẽ. Có thể thấy những
năm gần đây, văn học Việt Nam đƣơng đại chịu ảnh hƣởng nhiều luồng văn
hóa mới trong quá trình hội nhập và gần với chúng ta nhất, Trung Quốc- một
đất nƣớc có bề dầy truyền thống đạo đức nho giáo mà nay văn học đã bùng
phát, nổi loạn với cách viết táo bạo của một số cây bút nữ trẻ trong dòng văn
học Linglei (lạc loài) nhƣ: Vệ Tuệ, Xuân Thụ ,Cửu Đan, Miên Miên, Lâm
Bạch…Dung lƣợng văn hóa sex chiếm vị trí không nhỏ trên nhiều mặt báo,
nhiều diễn đàn, nhiều Blog cá nhân. Điều đó cho thấy dần dà ngƣời ta đã có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cái nhìn cởi mở hơn về vấn đề tình dục. Các văn nữ Việt (cả trong và ngoài
32
nƣớc) viết về tình dục cũng thoải mái hơn, đặc biệt các văn nữ Việt Nam
đƣơng đại viết về vấn đề tình dục với nhiều cách thức khác nhau,“có viết
đậm, viết nặng, viết phóng khoáng, viết có pha chế. Vấn đề tình dục được khai
thác cặn kẽ mạnh bạo và “khiêu khích” hơn bao giờ hết”[55], đây chính là
một hiện tƣợng mới trên văn đàn. Ta bắt gặp lối viết “nhẹ nhàng, kín đáo
trong truyện Nguyễn Thị Thu Huệ, trực diện trần trụi trong truyện Y Ban
,mãnh liệt, nhẩn nha đầy thâm thúy và ẩn ý trong truyện Đỗ Hoàng
Diệu,“quê mùa”, “chất phác” nhưng đằm như trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.
“Cao tay” khéo léo đụng chạm đến ghetto sex cấm kỵ nhưng người đọc không
cảm thấy đụng chạm đến “taboo”tình dục như trong sáng tác Phạm Thị Hoài,
Mai Ninh. Còn Lê Thị Thấm Vân, Trần Sa v.v… lại nhầy nhụa trong những
đặc tả tỉ mẩn, chi tiết không một chút ngần ngại”[55]. Dù ở mức độ nào thì
họ cũng đã từng bƣớc khẳng định tiếng nói của nữ giới trong văn chƣơng.
Nếu nhƣ trƣớc đây nhà văn nữ chỉ dám khuôn trong những chuyện lặt vặt,
giản dị thì nay họ bung thoát, mổ xẻ cả những vấn đề tế nhị một cách thẳng
thừng. Thực ra nam giới viết về tình dục, giới tính nữ, nhiều khi vẫn áp cái
nhìn chủ quan của phái nam nên việc miêu tả tâm lý cũng nhƣ các vấn đề sinh
lý của nhân vật nữ vì thế không thể chính xác đƣợc bởi dù sao họ cũng là
ngƣời ngoài cuộc. Nhƣ vậy, xét về phƣơng diện khách quan cũng nhƣ chủ
quan đã có sự cởi trói, phá rào trong chính nội lực của các nhà văn nữ. Điều
đó chứng tỏ xu hƣớng dân chủ hóa trong văn chƣơng từ quan niệm thẩm mỹ
đến bình diện nội dung và cả lực lƣợng sáng tác. Đó chính là một dấu hiệu ý
thức nữ quyền rõ nét nhất. Vì một mặt viết trở thành hành động tự xác định,
trở thành phát ngôn viên chính thức của ngƣời phụ nữ, tiếng nói chính thức từ
tình dục, mặt khác thể hiện rõ sự quyết liệt đấu tranh, đòi bình quyền trong
tình cảm và khẳng định giới mình. Qua đây có thể thấy,vấn đề nữ quyền chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
là một hiện tƣợng văn hóa xã hội của thời hiện đại.
33
2.1.2. Nữ quyền - Ý thức về hạnh phúc của người phụ nữ
Nói đến ý thức về phái tính trong văn học Việt Nam, ta có thể thấy nếu ở
phƣơng Tây, ngự trị trên đỉnh Olempo là thần Zớt thì ở phƣơng Đông các vị
thần tối cao chủ yếu cũng gắn với đàn ông. Vị thế kẻ mạnh của đàn ông còn
thể hiện ở khâu sáng tạo và tiếp nhận văn học. Những cuộc thù tạc, đàm đạo
văn chƣơng chỉ diễn ra giữa những ngƣời đàn ông với nhau, nó không có chỗ
cho nữ nhi thƣờng tình…Văn hóa khổng giáo (tiêu biểu là Trung Hoa và Việt
Nam) cũng đặc biệt chú trọng đến vai trò áp chế của đàn ông so với đàn bà
“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.Tƣ tƣởng trọng nam
khinh nữ “ Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”…còn ảnh hƣởng đến tận ngày
nay khiến cho cấu trúc dân số bị nghiêng lệch trầm trọng ở một số nƣớc nhất
là các nƣớc phƣơng Đông. Vai trò thống trị của đàn ông ngoài sự ủng hộ tuyệt
đối của thiết chế xã hội còn trở thành một nét tâm lí phổ biến kéo dài từ thời
này qua thời khác. Trong dân gian ngƣời đàn ông Việt bao giờ cũng giữ tƣ
cách là kẻ chinh phục, khi ý nhị thì:“Bây giờ mận mới hỏi đào- vườn hồng đã
có lối vào hay chưa”?…Khi táo tợn thì:“Gặp đây anh nắm cổ tay- anh hỏi
câu này có lấy anh không”?...Nhƣ vậy, cho dù là tiếng nói hồn nhiên nhất, ít
bị áp chế bởi tính quy phạm nhất, văn học dân gian vẫn xác nhận vai trò kẻ
mạnh của đàn ông so với đàn bà. Trong văn học trung đại, về cơ bản giới cầm
bút vẫn thuộc về đàn ông. Thực ra, trong vòng cƣơng tỏa của tƣ tƣởng nam
quyền đã bắt đầu xuất hiện những tài năng văn học là nữ giới nhƣ: Đoàn Thị
Điểm, Bà Huyện Thanh Quan và đặc biệt là Hồ Xuân Hƣơng. Mặc dù giàu
tinh thần nổi loạn và phản kháng nhƣng những khúc tự tình của nữ sĩ họ Hồ
vẫn chủ yếu là những tiếng than thân trách phận. Đó chính là lí do khiến Bà
chúa thơ Nôm phải ao ƣớc:“Ví đây đổi phận làm trai được- thì sự anh hùng
há bấy nhiêu” Đề Đền Sầm Nghi Đống. Có thể nói ẩn chứa trong câu thơ đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
một trạng thái tâm lý không chỉ riêng của Hồ Xuân Hƣơng mà là của giới nữ
34
bởi muốn lên sự nghiệp, muốn có sự nghiệp thì ngƣời phụ nữ phải đổi thân
phận. Song thực tế đó chỉ là mong ƣớc và mong ƣớc kia một mặt cho thấy sự
đổi phận ấy dƣờng nhƣ là bất khả trong thực tế, mặt khác gián tiếp xác nhận
vị thế ƣu thắng của đàn ông. Phải bƣớc sang xã hội hiện đại khi trình độ dân
trí đƣợc nâng cao, ngƣời phụ nữ bắt đầu đƣợc đi học, đƣợc tự do bầu cử, tầng
lớp công chức đã có sự tham gia của phụ nữ thì cán cân công bằng về giới
mới bắt đầu đƣợc hiện thực hóa và ngƣời ta đã bắt đầu bàn đến vai trò của
ngƣời phụ nữ. Đặc biệt là giờ đây ngƣời phụ nữ có quyền li hôn chính đáng
và đƣợc pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên quá trình ấy không phải lúc nào cũng
diễn ra thuận lợi và nhanh chóng mà phải trải qua rất nhiều quanh co, sóng
gió.
Vai trò của ngƣời phụ nữ đặc biệt đƣợc đề cao trong chính thể mới sau
1945 với sự ra đời của Hội phụ nữ Việt Nam. Đó là tiền đề văn hóa và xã hội
thuận lợi để văn học nữ tính có cơ hội phát triển, so với trƣớc đây đội ngũ các
nhà văn nữ cầm bút đã đông hơn và tài năng của họ đƣợc thừa nhận rộng rãi
hơn. Nhiều tác phẩm của họ có ảnh hƣởng đến công chúng và đƣợc giảng dạy
trong nhà trƣờng từ phổ thông đến đại học. Những thay đổi trên đây trong lĩnh
vực văn học thể hiện sự thay đổi rất lớn về ý thức phái tính và thái độ đề cao
vai trò của nữ giới. Trong nhiều tác phẩm, ngƣời phụ nữ đƣợc hình dung nhƣ
những anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thời đại nhƣ Chị Sứ (Hòn đất của
Anh Đức), Chị út Tịch (Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi), Nguyệt
(Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu)…Tuy nhiên do yêu cầu của
phƣơng pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, đời sống tinh thần của nữ
giới mới đƣợc khai thác nhiều ở khía cạnh xã hội mà chƣa đƣợc chú ý nhiều
đến đặc trƣng về giới. Vấn đề âm hƣởng nữ quyền chủ yếu nằm trong hệ tƣ
tƣởng chung của thời đại chứ chƣa trở thành mối quan tâm thực sự của nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
văn với tƣ cách là ngƣời kiến tạo những tƣ tƣởng nghệ thuật riêng của chính
35
mình. Trong sự phát triển mạnh mẽ của đất nƣớc và những nỗ lực tạo nên sự
bình đẳng về giới kể từ 1986 đến nay đã tạo nên những tiền đề cơ bản để giúp
ngƣời đàn bà thoát khỏi sự áp chế của đàn ông, giúp họ có khả năng tồn tại
độc lập và có khả năng tự quyết số phận của mình. Ngƣời phụ nữ khi này
không còn quanh quẩn nơi xó bếp, góc nhà mà đã tham gia nhiều hơn vào các
hoạt động xã hội. Nhiều phụ nữ đƣợc cử giữ những chức vụ cao trong hệ
thống chính trị. Nhƣng quan trọng hơn ý thức về giới một cách tự giác đã ăn
sâu vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hƣởng nữ quyền trong
văn học. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ vốn xuất hiện từ rất lâu trong văn học,
nhƣng những phẩm chất, giá trị, cũng nhƣ đời sống tinh thần và thể xác của
họ luôn đƣợc nhìn bằng đôi mắt của ngƣời đàn ông. Chỉ khi những vấn đề
trên thoát khỏi hệ quy chiếu giá trị theo quan điểm nam quyền thì văn học nữ
tính mới xuất hiện đầy đủ với đúng nghĩa của nó. Nhƣ vậy văn học nữ tính chỉ
có thể xuất hiện trong điều kiện xã hội đạt đến một trình độ dân chủ nhất định.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì văn học nữ tính Trung Quốc bắt đầu từ phong
trào Ngũ Tứ và đặc biệt phát triển mạnh vào thập kỷ 90 của thế kỷ trƣớc. Ở
Việt Nam, văn học sau 1986 cũng chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn
học nữ tính và đến nay nó phát triển đến mức có ngƣời cho rằng nền văn học
đƣơng đại Việt Nam “Âm thịnh dương suy” với sự góp mặt của những cây bút
có thực tài nhƣ: Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị
Thu Huệ…và gần đây là Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ, Nguyễn Ngọc Tƣ…
những cây bút này đã đem đến cho văn đàn những tiếng nói mới mẻ, buộc các
nhà văn và các nhà phê bình nam giới phải thừa nhận tài năng của họ.
Trong bài viết Tản mạn về dục tính và nữ quyền Nguyễn Vy Khanh chỉ
ra: “ Nữ quyền có khuynh hướng đi với văn chương dục tính” [29]. Tuy nhiên,
ở đây ngƣời viết không có ý đồng nhất nữ quyền với khuynh hƣớng văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
chƣơng dục tính, mà chỉ nhìn nhận ở khía cạnh dục tính là một lĩnh vực để
36
ngƣời nữ thể hiện quyền của mình. Lý do: “ tính dục có vẻ là mặt trận duy
nhất mà phái nam có và chịu thua phái nữ. Thành trì bảo vệ cho phái nam
còn một góc hớ hênh là tính dục. Do đó không có gì lạ khi phái nữ cần nói lên
tiếng nói phản kháng hay nữ quyền thì họ dùng ngay lợi khí tính dục” [53].
Phan Huyền Thƣ, một giọng thơ nữ trẻ trƣớc đây quan niệm: “Từ vô thức, tôi
không bao giờ dám nói về tính dục một cách trắng trợn. Về khía cạnh nào đó,
tôi vẫn dùng ý thức để kiềm nén, dùng cái khôn ngoan để lấp liếm nó đi”. Còn
bây giờ: “Tình dục là căn bản để nhận diện thơ trẻ. Thơ nói về tình yêu, chăn
gối thời nào cũng có nhưng để tình dục bước chân mạnh mẽ vào văn chương
thì phải tìm ở ngôn ngữ thơ ca hiện đại” [24]. Dục tính không có gì là xấu nó
nhƣ một giá trị ngƣời muôn thủa đi vào văn chƣơng, nó muốn vƣơn tới một
tiêu chí xác lập nhân văn, chống lại những tín niệm đạo đức lỗi thời bóp nghẹt
tự do của con ngƣời. Chủ đề tình dục trong văn chƣơng rất phổ biến ở văn học
phƣơng Tây nhƣng ở Việt Nam do ảnh hƣởng của đạo đức nho giáo và tinh
thần khắc kỷ của một thời chiến tranh nghiệt ngã, chủ đề này gần nhƣ một
vùng cấm trong văn chƣơng chính thống. Năm 2005 bạn đọc Châu Á phải
sững sờ trƣớc hiện tƣợng phái nữ "vùng lên" trong văn chƣơng, tiêu biểu là
Trung Quốc. Thế rồi, một loạt sách của các nhà văn nữ Trung Quốc đƣợc dịch
và giới thiệu tại Việt Nam gây sửng sốt cho ngƣời đọc. Tình dục trở thành chủ
đề trọng tâm khiến nhiều tác phẩm đƣợc bàn tán ồn ào, đƣợc xếp vào loại
"sốt" nhƣ: Điên cuồng như Vệ Tuệ, Quạ đen, Búp bê Bắc Kinh,…đại diện
cho các tác phẩm vừa kề là Búp bê Bắc Kinh của Xuân Thụ, một cô gái mƣời
bẩy tuổi. Cuốn sách này đã gây chấn động Trung Quốc vì mô tả một cách bộc
trực sự thức tỉnh về mặt tình dục của một cô gái trẻ .Qua đó nói lên khát vọng
làm chủ: Tôi là của tôi và tôi có quyền sử dụng tôi, bất chấp dƣ luận. Sự say
mê nhục cảm của Xuân Thụ, thái độ điềm nhiên khi nói về tình dục và phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cách viết vừa trữ tình, vừa thô ráp dƣờng nhƣ gây sốt cho giới trẻ Trung
37
Quốc. Cùng với Quạ Đen của Cửu Đan, Điên cuồng như Tệ Tuệ của Vệ
Tuệ, Búp bê Bắc Kinh nhƣ một cuộc đột phá về đạo đức, một thái độ thách
thức của giới trẻ đối với những chuẩn mực đạo đức đậm màu sắc của phong
kiến của Trung Quốc xƣa. Nó phô bày những đổi thay, rạn vỡ dữ dội của xã
hội hiện đại.
Ở Việt Nam, theo một nguồn tin trên trang www evan.com.vn ngày
25/01/2007 có ngƣời viết: “Cách đây khoảng 20 năm, một tác phẩm của nhà
văn Đào Hiếu từng bị dư luận tẩy chay, phê phán nặng nề. Chỉ vì trong đó,
tác giả viết nhân vật chính quá bản năng về tính dục, nhớ người yêu đến nỗi
phải ôm ấp, hít ngửi chiếc quần lót của nàng cho đỡ nhớ ”[32]. Tuy nhiên,
vài năm sau đó, cùng với làn sóng đổi mới mở cửa hội nhập, dƣ luận xã hội
dần tỏ ra cởi mở, dân chủ hơn trƣớc những nhu cầu đa dạng của cá nhân,
trong đó có nhu cầu tình dục. Tuy nhiên, phải có thời gian những động thái
của đời sống mới đƣợc biểt đạt trong văn học. Lúc đầu còn dè dặt có vẻ chỉ
giới hạn trong các cây bút nam. Những tác giả nữ động đến vấn đề này
thƣờng đƣợc xem là mạnh mẽ, táo bạo, thậm chí bị phê phán đi ngƣợc truyền
thống kín đáo, thùy mị của nữ giới. Thời gian gần đây, chính các cây bút nữ
đã gây xôn xao dƣ luận khi họ đề cập đến lĩnh vực nhạy cảm này. Bạn đọc, có
ngƣời khen họ là mới mẻ có ngƣời chê là quá trần trụi, nhƣng đó là một hiện
tƣợng có tính toàn cầu, nối tiếp những Cửu Đan, Vệ Tuệ, Sơn Táp…là Y Ban,
Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ…
Năm 2005, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc xem nhƣ một
bứt phá ngoạn mục so với cách viết thật thà, nhà quê trƣớc đó của cô. Cây bút
nữ đƣợc yêu mến bởi những tác phẩm viết về nông thôn Nam bộ, với những
nhân vật hiền nhƣ cá rô kho tộ, bỗng trở nên bạo liệt trong Cánh đồng bất
tận. Không ít ngƣời vốn yêu quý giọng văn Nguyễn Ngọc Tƣ trƣớc đây, phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
kêu lên ghê quá, khi tác phẩm này có những đoạn diễn tả con ngƣời bản năng
38
thật trần trụi, dữ dội. Ở tập truyện Bóng đè của nhà văn trẻ Đỗ Hoàng Diệu
cũng rất đậm màu sắc sex. Nhà văn Nguyên Ngọc, trong lời giới thiệu, đã
khen giọng văn của Diệu: “Thấm đẫm nữ tính, tỉnh táo nhiều khi đến tàn nhẫn
mà vẫn thật mê hoặc…”[32]. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận định:“
Gần như chủ yếu, Đỗ Hoàng Diệu viết về phụ nữ và dục tính. Cô dùng người
nữ và dục tính như một bộ mã để gửi đi một thông điệp của mình cho cuộc
sống này. Bóng đè là một truyện ngắn tiêu biểu, hay cả về nội dung và cách
viết…”[32]. Không phải ngẫu nhiên Bóng đè đƣợc một nhà văn lớn giới thiệu
một cách trân trọng, một nhà phê bình khen hết lời, ít nhất thì ngôn ngữ trong
truyện cũng lột tả cực kì chi tiết những pha bị cƣỡng hiếp nó đã gây sốc cho
nhiều ngƣời đọc, nhất là bạn đọc nữ. Cuối năm 2006, tập truyện ngắn I am
đàn bà của nhà văn nữ Y Ban khiến nhiều ngƣời từng yêu thích giọng văn của
chị phải sững sờ. Nếu Đỗ Hoàng Diệu mƣợn giấc mơ để mô tả chuyện tình
dục, thì ở I am đàn bà, Y Ban phô bày dục năng của nhân vật một cách trực
tiếp. Chị để nhân vật thổ lộ ham muốn tình dục một cách rất tự nhiên. Ngôn
ngữ giàu thi vị khi trƣớc đến tập truyện ngắn này hầu nhƣ không còn, nhƣờng
lại cho những ngôn ngữ mô tả kiểu dòng văn học “linglei” của Trung Quốc:
Tôi là của tôi và tôi có quyền sử dụng tôi. Trong lĩnh vực thơ ca, nơi đƣợc
xem là "thánh địa của ngôn từ" ý thức về nữ quyền càng bộc lộ rõ. Thơ Vi
Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ nói nhiều đến khát khao yêu và đƣợc dâng hiến.
Nhiều ngƣời nhận xét thơ họ viết về tình dục nhƣng Vi Thùy Linh trong bài:
Tôi sống cật lực như thế để ngày mai sẽ chết, lớn tiếng khẳng định:“Tôi
không viết về tình dục mà là viết về tình yêu. Đó là tình yêu đích thực hòa
quện cả thể xác lẫn tâm hồn”[30]. Từ ý thức về vẻ đẹp của thân thể thơ họ đã
trình ra những cách diễn đạt táo bạo, họ muốn đi tìm một thứ ngôn ngữ tải
những trạng thái cảm xúc bùng nổ tràn trề sức xuân, chất sống, họ chủ trƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
phải dám là mình đến tận cùng trang thơ. Vi Thùy Linh đã tâm sự “Dù không
39
còn ai làm thơ, tôi vẫn làm thơ. Chỉ có một độc giả, tôi vẫn làm thơ, mãnh liệt
và thành thật” [30]. Phan Huyền Thƣ đã táo bạo, công khai nói những điều
mà các thế hệ trƣớc hoặc không dám hoặc chỉ làm lén lút. Ngƣời đàn bà trong
thơ chị đầy nữ tính có chút hoang dại, vừa ra lệnh đồng thời vừa hạ mình, cất
giấu từ những dịu ngọt nhất cho tới liều độc dƣợc mạnh nhất. Cùng với những
cây bút mới nổi Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu, Y Ban…các sáng tác của
Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh mang một chiều sâu
suy nghĩ và những trải nghiệm cuộc sống. Họ viết nhiều, viết sâu về tình yêu,
một tình yêu với những đợi chờ, khao khát và ham muốn chẳng bao giờ nguôi
và chẳng bao giờ toại nguyện.Truyện của họ kể về rất nhiều mối tình dang dở,
chia lìa, tan vỡ mặc dù ngƣời trong cuộc tha thiết nâng niu, cũng vì thế mà
truyện nào cũng chan chứa hoài niệm về một tình yêu, một hạnh phúc trong
quá khứ, khát vọng tình yêu trở thành nỗi đau. Riêng Võ Thị Hảo lại luôn
dành cho trái tim ngƣời phụ nữ, cho số phận ngƣời phụ nữ lòng yêu thƣơng,
đau xót sâu sắc nhất, thân phận ngƣời phụ nữ trở thành tâm niệm thƣờng
xuyên da diết trong những trang viết của chị. Với quan niệm nghề văn là một
sự cứu rỗi,“sứ mệnh của nhà văn là chia sẻ niềm vui, nỗi đau và thức tỉnh
lương tri”[14],Võ Thị Hảo đã thực sự mang lại cho nhân vật văn học những
kinh nghiệm sống từ những trải nghiệm trong cuộc đời mình. Sáng tác của chị
đầy ắp những nỗi lo lắng mơ hồ về cuộc đời mênh mông bất tận, vừa nhƣ
thiên đƣờng vừa nhƣ địa ngục đối với con ngƣời, đặc biệt là đối với ngƣời
phụ nữ, trong khi “phụ nữ được tạo hoá sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp
quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: Người đàn ông”(Biển cứu rỗi)…vậy mà
cuộc đời lại đầy dẫy những cạm bẫy, những trái ngang khổ đau, bất hạnh. Đặc
biệt tính nữ quyền thể hiện rất rõ trong sáng tác của Võ Thị Hảo ở sự quyết
liệt đấu tranh dành giữ tình yêu, sự bình quyền trong tình cảm và khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
giới mình. Nhân vật trong sáng tác của chị có khi rất mực nhu mì, dịu dàng
40
cũng có khi rất mực nhẹ dạ và cuồng si nhƣng khi cần cũng quyết liệt đến
cứng cỏi. Ngƣời đọc thƣờng bắt gặp trong sáng tác của chị là “những người
đàn bà khổ vì yêu, rút hết gan, hết ruột để yêu và hy sinh cho tình yêu bất cần
những hệ lụy sau đó”[55]. Nhƣng nhìn sâu vào những mất mát, những đau
thƣơng ấy, ta thấy ngƣời phụ nữ không chỉ tội nghiệp mà còn đáng yêu, đáng
kính trọng vô cùng. Họ nhẹ dạ, cả tin khi yêu và cũng mạnh mẽ, quyết liệt đến
với tình yêu, họ yêu đến cháy bỏng và luôn mong muốn đem lại hạnh phúc
cho ngƣời mình yêu dẫu phải chuốc lấy bất hạnh, phải cô đơn lẻ loi suốt đời.
Nhân vật nữ trong sáng tác của chị sẽ là sự thể hiện rõ nhất điều này.
2.2. Bình diện xã hội- tư tưởng, nhân văn của nhân vật nữ trong sáng tác
Võ Thị Hảo
2.2.1.Vấn đề số phận bi kịch của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ
Thị Hảo
Võ Thị Hảo là nhà văn của ngƣời phụ nữ bởi vậy trong sáng tác của chị
thƣờng thấy đó là tiếng nói thƣơng cảm với ngƣời đồng giới vì theo đặc trƣng
tâm lý, phụ nữ tồn tại với tình cảm hƣớng nội nên luôn muốn tìm đƣợc sự
đồng cảm và viết về ngƣời phụ nữ cũng có nghĩa là họ hƣớng ngòi bút vào
chính mình.
Qua khảo sát 54 tác phẩm có 18 tác phẩm không viết về nhân vật nữ, còn
lại 36 tác phẩm là viết về nhân vật nữ. Trong tất cả nổi lên một đặc điểm,nhân
vật phụ nữ không còn là những cô thanh niên xung phong trong “môi trƣờng
vô trùng” nhƣ trong văn học trƣớc đây nữa mà là những con ngƣời của cuộc
sống đời thƣờng, với những lo toan và tình cảm rất đỗi đời thƣờng nhƣng hết
sức phức tạp. Những biến cố cuộc đời cô đọng lại thành những tấn bi kịch đè
nặng lên số phận nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo. Có rất nhiều bi
kịch: bi kịch là nạn nhân của chiến tranh nhƣ Thảo trong truyện Người sót lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
của Rừng Cười, những ngƣời phụ nữ bất hạnh trong Trận gió màu xanh rêu,
41
nhân vật Nàng trong Hồn trinh nữ… bi kịch của cái nghèo: nhân vật bà Diễm
trong Người gánh nước thuê, nhân vật Ngần trong truyện Ngày không mút
tay, ả Tuynh trong truyện Dệt cỏ…bi kịch của những mảnh đời tật nguyền,
nhƣ nhân vật Hằng trong truyện Làn môi đồng trinh, Tâm trong truyện Máu
của lá…bi kịch tình yêu và hạnh phúc lứa đôi nhƣ nhân vật Hạnh trong Tiếng
vạc đêm, Thuận trong truyện Goá phụ đen, Trang trong Bàn tay lạnh, Sải
trong truyện Con dại của đá, nhân vật Nhuệ Anh trong tiểu thuyết Giàn thiêu
…Nhƣ ta đã biết, trong văn học trƣớc năm1975, hình ảnh ngƣời phụ nữ
thƣờng đƣợc đặt vào trong bối cảnh chính trị, xã hội, đó là con ngƣời của
cộng đồng, số đông và dù có nói đến những ngang trái, éo le thì cũng chỉ
đóng vai trò nhƣ là phƣơng tiện để tô đậm phẩm chất con ngƣời cộng đồng.
Còn văn học sau năm 1975, ngƣời phụ nữ nhƣ "trút bỏ bộ cánh cộng đồng xã
hội", đƣợc nhìn nhận ở khía cạnh đời tƣ, cá nhân đặt trong những tình huống
éo le, giằng xé phức tạp, nhƣ nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về truyện
ngắn thời kỳ đổi mới là cuộc hành trình đi thẳng vào những vấn đề thân phận
con ngƣời, thế giới bên trong của con ngƣời, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con
ngƣời ở đời sâu và sắc hơn.
Ngƣời phụ nữ lúc này đƣợc đặt trong cái phức tạp muôn mặt của cuộc
sống đời thƣờng, luôn chứa đầy những mâu thuẫn giữa hiện thực và khát
vọng, giữa quá khứ và hiện tại. Cũng nhƣ một số nhà văn nữ khác, Võ Thị
Hảo đã quan tâm sâu sắc đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn, đặc biệt là những bi
kịch hiện thân cho số phận của những ngƣời phụ nữ. Sau đây chúng tôi sẽ đi
sâu vào các kiểu bi kịch qua các nhân vật nữ.
2.2.1.1. Bi kịch là nạn nhân của chiến tranh
Sau năm1975, các nhà văn vẫn viết về chiến tranh nhƣng chiến tranh
không đƣợc nói tới với những chiến công bi tráng mà nó đƣợc nhìn nhận ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khía cạnh là nguyên nhân dẫn đến những đau khổ của con ngƣời, nhất là
42
ngƣời phụ nữ. Chiến tranh qua đi nhƣng tàn tích của nó còn để dấu ấn trong
hiện tại. Điều này có ở sáng tác của nhiều nhà văn nữ thời gian gần đây,
những ngƣời cùng thời với Võ Thị Hảo nhƣ Nguyễn Thị Thu Huệ với Người
đi tìm giấc mơ, Y ban với Điều bây giờ mới hiểu, Lê Minh Khuê với Thị
trấn, Mong manh như là tia nắng… Trong sáng tác của mình nhà văn Võ
Thị Hảo có sự nhìn nhận lại chiến tranh bằng cái nhìn đa diện, đa chiều.
Chiến tranh là vinh quang, chiến thắng nhƣng cũng là đắng cay, khốc liệt, tổn
thất, mất mát và đặc biệt là nguyên nhân dẫn đến những bi kịch cho ngƣời
phụ nữ, những nạn nhân bé nhỏ, yếu đuối. Chính chiến tranh đã lấy đi tuổi
thanh xuân, ƣớc mơ và cơ hội hạnh phúc của ngƣời phụ nữ đẩy họ đến số
phận bi kịch. Thảo trong Người sót lại của Rừng Cười là ngƣời duy nhất
sống sót trong năm cô gái ở rừng Trƣờng Sơn. Chiến tranh đã cƣớp đi tuổi trẻ,
vẻ đẹp thanh xuân của những cô gái nơi chiến trƣờng: “Bốn cô gái trẻ măng
nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ xác”. Thảo nhập ngũ với mái tóc óng
mƣợt dài chấm gót nhƣng cũng bị dòng nƣớc khe màu xanh đen thớ lợ nơi
chiến trƣờng vặt trụi dần nhƣ các chị mình. Họ đã bị tổn thƣơng bởi cái cô
đơn đặc quánh và khắc nghiệt của chiến tranh. Họ ở đây qua ba mùa mƣa rầu
rĩ và đang ở giữa mùa khô thứ tƣ bỏng rát, chiến tranh đã để lại những phế
tích đáng thƣơng, những cô gái càng ngày càng trở nên tách biệt với đồng
loại, họ trở nên hoang dã và nhiều lúc họ nhƣng hoá điên: “Trên sàn chòi
khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc và xé quần áo.
Còn một cô khác trẻ hơn đang chạy tới chạy lui ôm đầu đầy tuyệt vọng”. Họ
là nỗi ám ảnh với anh lính: “Sau chín năm ở chiến trường, nay tôi đã nhìn
thấy ở Rừng cười, cái cười méo mó, man dại của chiến tranh…Tôi rùng mình
khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế,
giữa một khu rừng mênh mang nào đó…Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lâm vào cảnh ấy”. Chiến tranh đã tàn phá họ không chỉ về nhan sắc mà còn cả
43
về tâm hồn. Thảo tuy may mắn sống sót và trở về từ Rừng cƣời- Trƣờng Sơn,
chốn giáp ranh giữa địa ngục và trần gian nhƣng giờ đây sự thảm khốc của
chiến tranh không buông tha mà vẫn in dấu lên cuộc sống hàng ngày, ám ảnh
trong những giấc mơ của cô, nó chi phối số phận của cô trong hiện tại và
tƣơng lai. Thoát khỏi nỗi cô đơn đặc quánh nơi rừng già thì Thảo lại rơi vào
nỗi cô đơn khác, nỗi cô đơn ngay giữa đồng loại của mình, vì biết mình thật là
quỷnh, thật khó nhập cuộc. Cô thƣờng nhăn mặt khi nhớ đến lần gặp lại đầu
tiên sau mấy năm xa cách ngƣời yêu: “Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, thân
hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng, qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ
xác…làm anh ngỡ ngàng đến không thốt nổi một lời”. Dẫu đã rất cố gắng
nhƣng Thảo không thể không so bì khi nhìn thấy bạn bè, những cô sinh viên
văn khoa cùng phòng đến cả trong giấc mơ họ cũng môi cƣời rất thanh thản,
mặt ửng hồng, trông đáng yêu làm sao. Còn Thảo thì thƣờng qua đêm với hai
loại giấc mơ, một là thời thơ bé mơ nhặt đƣợc cặp ba lá hay trứng vịt đẻ rơi,
hai là giấc mơ tuổi thanh xuân: “Cô chỉ thấy tóc rụng như trút, rụng đầy
khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm và từ trong đám tóc ấy nẩy ra hai
giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi không vỡ”. Sự
đối lập ngay cả trong giấc mơ đó, khiến Thảo thấy mình càng trở nên lạc lõng.
Nhất là khi thấy cô bạn gái học cùng lớp với Thành có đôi môi mòng mọng
nhƣ nũng nịu, với làn da trắng hồng, tƣơi mát, trẻ trung nhìn Thành bằng ánh
mắt say mê ngƣỡng mộ…cô biết là họ thầm yêu nhau, họ đẹp đôi quá và lại ở
gần nhau. Càng mặc cảm và tủi thân hơn, Thảo sống khép mình và dần xa
lánh Thành. Ngày còn ở Rừng Cƣời, tình yêu với Thành là một trong những
đốm lửa sáng nhất giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang dã chốn rừng
sâu. Cô đã khao khát đến cháy lòng đƣợc trở về và ngả vào vòng tay say đắm
của Thành, thì giờ đây cô lại đau đớn tự nguyện xa lánh Thành, để Thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đƣợc hạnh phúc bên ngƣời con gái khác. Bởi hơn ai hết Thảo hiểu rằng,Thành
44
gắn bó với cô chỉ bằng nghĩa chứ không có tình. Xót xa thay, Thảo không
điên nơi rừng già và chiến trƣờng khốc liệt thì nay cô gần nhƣ hoá điên khi tự
viết cho mình những lá thƣ vào mỗi tối thứ năm, để rồi lại nhận đƣợc nó vào
mỗi chiều thứ bảy và bị mọi ngƣời xa lánh, cả khoa chê trách, dè bỉu về tội
phụ tình…Đau đớn đến tột cùng khi cô vừa cƣời, vừa khóc trong một trạng
thái gần nhƣ vô thức. Thảo là ngƣời may mắn sống sót nơi rừng cƣời nhƣng
hạnh phúc chẳng còn sót lại nơi cô. Thảo là nạn nhân của chiến tranh, là
ngƣời bƣớc ra từ cuộc chiến khốc liệt đó nhƣng cũng có ngƣời không trực tiếp
tham gia chiến tranh mà hậu quả của nó lại không bỏ qua họ. Đó là những
ngƣời phụ nữ bất hạnh trong Trận gió màu xanh rêu. Chiến tranh đã phá huỷ
cuộc đời họ, nó phá huỷ không chỉ ở một thế hệ mà ở nhiều thế hệ nối tiếp
nhau. Nhân vật chính của truyện là hai mẹ con ngƣời phụ nữ có chồng là một
chiến sĩ đã hy sinh trong chiến tranh. Nỗi mất mát quá lớn, mất đi ngƣời
chồng, ngƣời cha của con gái mình khiến chị không muốn tin vào sự thật đó.
Để rồi lúc hoá điên bà vẫn tin, đài ngƣời ta báo nhầm đấy thôi. Làng trên chả
có hai ngƣời báo tử rồi lại lừng lững về là gì. Em biết anh còn sống mà. Bà bỏ
làng đi lang thang khắp nơi để tìm kiếm, khiến đứa con gái mới mƣời sáu,
mƣời bảy tuổi cũng phải bỏ học đi lang thang theo mẹ. Bƣớc chân tình cờ lại
đƣa bà dạt đến làng Đẽo- cái làng đa số là đàn bà đã luống tuổi và khô héo,
cái làng có chung nhau một ngày giỗ cho những ngƣời chết trận. Cuộc sống
thiếu vắng đàn ông đã biến những ngƣời phụ nữ trở thành lầm lũi, hàng ngày
còng lƣng đẽo đá và mong chờ một ngày giỗ chồng chung của làng. Có bao
nhiêu ngƣời chết trận và có bao nhiêu làng Đẽo mà ở đó có những ngƣời đàn
bà với đôi tay nổi bật vì nó to xù và sần sùi nhƣ tay đàn ông, cùng nhau chít
khăn trắng, đầu đội mâm cỗ kéo nhau tới bệ đá trƣớc tƣợng đài ở chân núi để
làm giỗ chung. Chiến tranh thực sự đã mang đến nỗi đau và sự mất mát quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lớn không gì có thể bù đắp đƣợc cho con ngƣời, chiến tranh toả ánh hào
45
quang là thế, nhƣng phải trả với giá quá đắt ở cuộc sống của những ngƣời
thiếu phụ chờ chồng. Nỗi đau không dễ gì mất đi, nhƣng “dám nhìn thẳng vào
mặt trái của triến tranh cũng là một cách thể hiện, một thái độ thẳng thắn
tiếng nói của chính giới mình” [55], để biết trân trọng hơn những chiến công,
để thấy đƣợc ý nghĩa của cuộc sống hoà bình. Mặc dù chiến tranh đã qua đi,
nhƣng đằng sau cái vẻ bình yên của cuộc sống hiện tại, lại có không biết bao
ngƣời đang bị giày vò trong những mất mát không gì có thể bù đắp nổi, nó đã
để lại vết sẹo hằn sâu nơi trái tim những ngƣời phụ nữ, để rồi mỗi khi nhắc
tới, họ lại dƣờng nhƣ không thể chịu nổi bởi sự gợi lại vết thƣơng lòng mà họ
đã cố đào sâu, chôn chặt. Bà đồng trong Dây neo trần gian từng chịu nỗi đau
mất một ngƣời yêu trong chiến tranh, để khi nghe nhắc đến chuyện cũ: “mắt
bà đồng bỗng long lên sòng sọc. Lúc này trông bà đích thực là một người
điên. Một người điên trẻ trung chỉ hơn nàng dăm tuổi. Đôi mắt có hàng mi
dài của bà vằn đỏ…và bộ ngực lép của bà vồng lên trong nhịp thở dồn”. Bà
đã từng an ủi tâm lý chiến tranh cho không biết bao ngƣời, vậy mà bà lại
không làm chủ đƣợc trƣớc nỗi đau của chính mình. Ngƣời con gái trong Hồn
trinh nữ bất hạnh vì cũng là nạn nhân của chiến tranh, Nàng đã hy sinh tuổi
thanh xuân để chờ đợi ngƣời yêu đi lính đến lỡ thì. Chiến tranh mang đi một
chàng trai bẽn lẽn, ngƣợng ngùng với lời hẹn ƣớc và sau mƣời bẩy năm trả về
cho nàng một ngƣời đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo nhƣ thép và mang theo lối
sống nơi chiến trƣờng. Từ vóc dáng, đến cử chỉ, hành động, lời nói của anh
hằn sâu sự khốc liệt của chiến tranh, đến nỗi trong tiệc cƣới anh “không biết
nói chuyện gì khác ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc sơn hào
hải vị và ngập máu trong triều đình, về cung cách người ta giết nhau trong
thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay
kiếm của anh”. Nghe những chuyện sặc mùi máu và chết chóc của chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong đêm tân hôn, ngƣời trinh nữ lỡ thì kể từ đó luôn sống trong nỗi ám ảnh
46
và sợ hãi về tội ác mà chồng nàng đã làm có lúc nàng ôm mặt rú lên kinh hãi,
khi lại co rúm lại, quay mặt vào trong cố kìm tiếng khóc, chỉ bởi nàng trông
thấy những oan hồn và bóng ma về đòi chồng nàng trả mạng. Bi kịch đời
nàng là ở đây, sống trong mòn mỏi đợi chờ những mƣời bẩy năm trời, đến
quá lứa lỡ thì và ngày chàng trai trở về những tƣởng nàng sẽ đƣợc hƣởng
niềm hạnh phúc trọn vẹn, ai ngờ niềm hạnh phúc vừa đến thì đã mãi mãi là xa
vời với nàng. Chiến tranh không chỉ cƣớp đi của nàng một chàng trai bẽn lẽn,
ngƣợng ngùng, với lớp lông măng ngăm ngăm trên mép ngày nào, rồi trả về
cho nàng một ngƣời đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo nhƣ thép, đôi bàn tay nhuốm
máu và không biết đến nụ cƣời, mà còn cƣớp đi niềm khao khát hạnh phúc
của nàng ngay trong đêm tân hôn. Cái đêm mà với chồng nàng, đó là sự buồn
bã, đau đớn và tuyệt vọng để rồi gầm lên nhƣ một con thú vừa bị đâm một
nhát, “thế là hết, đêm tân hôn cũng là đêm vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng
cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương”, xách kiếm trên tay
anh bỏ đi biệt xứ. Còn với nàng đó là nỗi ám ảnh và sự sợ hãi đến hễ có tiếng
chân hay tiếng động mạnh là đƣa tay lên ôm mặt, trở thành tật không sao bỏ
đƣợc cho tới chết nàng vẫn là trinh nữ hai tay che mặt, và ngay cả khi đã hoá
thân thành loài trinh nữ mà mỗi bƣớc chân đi qua vẫn làm nàng giật thót
mình. Nhƣ vậy, có thể thấy bi kịch trong và sau chiến tranh đối với ngƣời phụ
nữ ở sáng tác của Võ Thị Hảo đã trở thành một vết hằn sâu: “Khi cuộc chiến
xảy ra thì họ lại chính là những người nhoi nhoai ra khỏi nó muộn nhất và
gần như không bao giờ họ nhoài ra được cái vũng đẫm máu ấy. Nỗi đau khổ
của đàn bà cũng như một sự cứu chuộc thế giới” Giọt buồn giáng sinh.
Võ Thị Hảo luôn nhìn những ngƣời phụ nữ với cái nhìn cảm thông trân
trọng ngay cả khi họ mắc lỗi lầm, nhƣ ngƣời vợ trong Biển cứu rỗi dẫu có
phụ bạc chồng, biến “ngôi nhà bên đường chiến tranh! Động mạch của chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tranh!” thành nơi diễn ra “những cuộc giao hoan vội vã thoảng mùi chết chóc
47
trước khi đi vào họng tử thần” của những ngƣời lính và rồi để lại đằng sau
những đứa trẻ khác bố lít nhít trứng gà trứng vịt ... Chị không thể là ngƣời đàn
bà chờ đợi chồng đến bạc tóc cũng chỉ bởi: “Cả làng trắng đàn ông, chỉ còn
lại đây đó các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà vác cày, cầm súng,
đi lấp hố bom và bị buộc phải trở thành đàn ông. Trong khi đàn bà được tạo
hoá sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: Người
đàn ông”…Thấu hiểu đƣợc tâm trạng và nỗi lòng của những ngƣời phụ nữ
phải gánh chịu những đau thƣơng mất mát quá lớn ấy, nhà văn không chỉ
hƣớng ngòi bút vào việc lên án chiến tranh mà còn thể hiện sự cảm thông sẻ
chia và đó là tiếng nói tri âm của ngƣời đồng giới.
2.2.1.2.Bi kịch của cái nghèo
Võ Thị Hảo từng trăn trở: “Khi phải gánh quá nặng, đôi vai họ thường
sẽ vạm vỡ hơn. Nhưng đàn ông và một xã hội văn minh nên biết xét lại mình,
khi mà họ đã buộc cho đôi vai của người phụ nữ trở nên vạm vỡ!” [13].
Ngƣời phụ nữ trong cuộc sống đời thƣờng phải lo âu, suy nghĩ, dằn vặt, tính
toán để mƣu sinh, họ trở thành nạn nhân của cái nghèo. Với trái tim nhạy cảm
và lòng nhân hậu nhà văn Võ Thị Hảo luôn dành sự quan tâm đến những cuộc
đời bất hạnh, những cảnh ngộ éo le, họ hiện lên mỗi ngƣời một cảnh đời, một
số phận nhƣng có chung một bi kịch đó là do cái nghèo gây nên. Từ những
ngƣời có tuổi vất vả làm thuê kiếm tiền sinh sống, đến những ngƣời chăm chỉ
làm việc tần tảo sớm hôm mà vẫn cứ đói. Sự nghèo đói vây hãm và đeo bám
họ nhƣ một thứ nghiệp chƣớng và cũng từ cái nghèo lại kéo theo nhiều nỗi cơ
cực khác trong cuộc đời họ. Bà Diễm trong Người gánh nước thuê không gia
đình, không con cái, một ngƣời đàn bà bé loắt choắt, mặt nhăn nheo, “gầy
sạm chỉ còn hai con mắt, bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng, chiếc đòn gánh
không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thứ nghiệp chướng, nó và bà hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh”. Bà
48
sống bằng nghề gánh nƣớc thuê, những nhà có máu mặt thì thuê bà và hàng
ngày bà cứ phải gánh những thùng nƣớc trên đôi vai còm cõi vốn đã còng
xuống vì thời gian và sự vất vả khổ cực để nhận lấy những đồng tiền thuê ít ỏi
và thái độ khinh thị của mọi ngƣời. Đang sống trong sự đơn độc, lẻ loi, cảm
thông với ngƣời cùng cảnh ngộ, bà đã bảo ông Tiếu đến ở cùng, hai con ngƣời
già cả nghèo khổ, bất hạnh, nƣơng tựa vào nhau những ngày cuối đời. Nhƣng
ngƣời đời quá vô tâm và tàn nhẫn, xem đó là trò cƣời và mang ra trêu đùa,
chòng ghẹo đến độ ông Tiếu không chịu nổi sự xúc phạm đó, ông chết trong
sự tủi hờn và niềm u uất của ngƣời cha cả đời làm nghề gánh nƣớc thuê mong
mỏi tìm thấy đứa con bị mất tích trong chiến tranh mà bao năm qua vẫn bặt
vô âm tín. Bà Diễm vốn đã côi cút, nghèo khổ và bất hạnh, hai con ngƣời vừa
mới nƣơng tựa vào nhau để sống nốt quãng đời còn lại chƣa đƣợc bao lâu thì
sự ra đi đột ngột của ông Tiếu với lời trăng trối tìm lại đứa con giúp ông, làm
bà lại thêm gánh nặng trong nỗi khốn khổ, bất hạnh và càng côi cút, cô độc
hơn giữa cuộc đời và có lẽ với bà niềm hạnh phúc mãi là xa vời vợi. Nhân vật
Ngần trong Ngày không mút tay là một ngƣời phụ nữ còm cõi chịu thƣơng
chịu khó vất vả tối ngày với nghề bán ốc luộc để nuôi chồng (nghỉ mất sức lao
động) và một lũ con nheo nhóc. Nàng là chiếc ruột ốc èo uột phải cõng cả một
toà vỏ nặng lê đi, lê mãi không đƣợc ngƣng nghỉ dẫu làm việc cật lực tối ngày
nhƣng cái đói cái nghèo vẫn bám riết lấy gia đình chị. Trƣớc cảnh túng đói
quay quắt của gia đình, để chồng con có một ngày đƣợc ăn thịt (một ngày
không mút tay), chị đã phải ba tháng một lần, không bán ốc luộc ra đi rất sớm
và về rất muộn, với vẻ mặt bơ phờ, một xâu thịt trong tay và một nắm tiền.
Đó là những lần Ngần dấu chồng con đi bán dần máu chảy trong huyết quản
của mình để nuôi gia đình, dẫu bị chồng hiểu lầm nhƣng chị vẫn âm thầm
chịu đựng. Sự nghèo khổ vây hãm, đeo bám lấy gia đình chị nên lam lũ mấy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
vất vả mấy vẫn không đủ ăn, lại thêm một nỗi cơ cực khác đè tiếp lên đôi vai
49
chị đó là: “Thằng đầu trông hệt một củ nghệ lớn, bác sĩ bảo: Viêm gan cấp:
Bệnh này ngốn tiền như thần trùng”. Làm mấy vẫn không đủ ăn thì tiền đâu
ra mà chữa bệnh cho con, nƣớc mắt chẳng còn bao nhiêu nữa để mà khóc, chị
ngƣớc nhìn con, nhìn chồng với cái nhìn đầy tuyệt vọng. Số phận bất hạnh
đƣa đến cho chị đủ mọi nỗi thống khổ, bây giờ có lẽ Ngần chỉ còn biết bán
cho đến giọt máu cuối cùng để nuôi gia đình. Còn Ngâu chồng chị biết bệnh
tình của con, đắn đo mấy ngày và anh quyết đến viện 108 để bán máu. Bằng
mánh khoé anh đã chen qua đƣợc đám đông đang chầu bán, đang chuẩn bị lấy
ven thì có tiếng kêu to “Sắp xỉu rồi! Đưa ra giường ngay!…Chợt thấy chút
quen thuộc trong cái ngoẹo đầu nhẫn nhục của người đàn bà, hắn nhào tới đó
là Ngần!” chị đang sắp lả đi vì kiệt sức vậy mà vẫn gƣợng cƣời cho hắn an
lòng. Hiểu ra tất cả, thì ra lâu nay Ngần đã tới đây, cho bố con anh có đƣợc
một ngày không mút tay. Bi kịch của Ngần là bi kịch đói nghèo, bi kịch của
miếng cơm manh áo ghì sát đất không ngóc đầu lên đƣợc.Và cũng vẫn là bi
kịch đói nghèo, ả Tuynh trong Dệt cỏ có lẽ còn khốn khổ hơn cả Ngần. Là
ngƣời phụ nữ đã có tuổi hai má teo tóp nhƣ quả cà phơi nắng đôi mắt thì cum
cúp nhẫn nhịn, cả đời vất vả làm lụng luôn chân luôn tay mà vẫn cứ đói nghèo
rách nát. Có thể nói cuộc đời ả là sâu chuỗi những đói và bất hạnh. Sống trong
ba gian nhà ngói cũ nát, ánh mặt trời đua nhau chiếu qua các viên ngói vỡ rệu
rã, ả Tuynh lúc nào cũng tất bật với công việc, khi thì đồng áng, lúc là chăn
nuôi vậy mà “bữa ăn của gia đình ả thường là lấy phần lõi của cây đu đủ,
thái ra từng miếng vuông đem kho với nước cà xin ở nhà mẹ Thân và ăn với
cháo khoai khô nấu lẫn vài hạt gạo”, ả nhƣờng cho con ăn no rồi mới vét nồi
lấy vài lƣng bát, thế nên chƣa bao giờ ả no. Ăn không đủ no, còn áo mặc thì
mụn vải mới chồng lên mụn vải cũ nát. Ngày thằng con trai ả lên mƣời một
tuổi mà không đủ quần mặc, chỉ có chiếc áo nâu rách vạt cũn cỡn, ở truồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tồng ngồng …trông ả áo ngày một rách thêm, lƣng còng, tóc trụi nhƣ con gà
50
chọi già …Vật lộn với cuộc sống, vất vả tối ngày mà vẫn luôn bị cảnh đói
nghèo đeo bám và những nỗi bất hạnh thì cứ thay nhau trút lên ngƣời ả. Đầu
tiên là anh Lèn chồng ả một công nhân làm đƣờng nổ mìn phá đá chết từ
năm1956, tiếp sau là Thằng Phục con trai ả đi lính về với một mảnh đạn nhỏ
trong đầu, thỉnh thoảng lên cơn động kinh và phải vào trại tâm thần. Còn con
Quy thì làm vợ lẽ một ông chân khấp khểnh ở làng muối cũng quanh năm làm
không đủ ăn, mỗi năm chỉ dám cuốc bộ về thăm mẹ một lần vào dịp tết. Và
ngay cả khi ả chết sau này, nó cũng phải chạy bộ mƣời lăm cây số về vì chồng
không cho tiền đi xe ôm, mà để dành tiền mua thuốc cho con …Cuộc đời con
Quy có lẽ cũng là sự lặp lại số phận nghèo đói và bất hạnh nhƣ mẹ nó. Bản
thân ả Tuynh thì bị bệnh đƣờng ruột mãn, khốn khổ cho cuộc đời ả vì nghèo
đói, ốm đau bệnh tật và những bất hạnh cứ rình rập xung quanh. Cả đời ả lúc
còn sống cũng nhƣ khi đã chết trên giƣờng khô gây nhƣ con mắm, trong lòng
vẫn thầm mong món tiền trợ cấp thƣơng tật hàng tháng của thằng Phục. Còn
mƣời tám năm qua, ả đủ tỉnh táo để không “ngõm ngọi”về món tiền đền bù tai
nạn lao động của anh Lèn. Nhƣng ả thật khờ dại khi tin rằng: “Thân sẽ giúp ả
tìm lại được món tiền lang bạt, hư ảo như có như không, trôi dạt giữa muôn
ngàn ngón tay. Ả có biết đâu rằng mỗi ngón tay ngoan hiền là thế bỗng phút
chốc biến thành một con đỉa ngo ngoe rượt theo mùi tanh của máu người”.
Rút cục những món tiền đó cũng chỉ nằm trong những giấc mơ và rồi đến chết
ả vẫn chƣa quên nổi giấc mơ đó. Kiếp nghèo khổ sẽ không chỉ đeo bám ả ở
cuộc sống trần gian mà xuống âm phủ có lẽ cũng không có gì thay đổi bởi, lúc
sống ả mặc áo vá thì lúc chết ả không có nổi chiếc áo cỏ tƣơm tất cũng là lẽ
đƣơng nhiên. Không nằm ngoài bi kịch của cái nghèo, Thuỳ Châu trong Vũ
điệu địa ngục là một cô gái mạnh mẽ đến quyết liệt nhƣ lời cô nói trong lá
thƣ tuyệt mệnh: “Thế hệ của chúng con khác thế hệ e dè của mẹ, chúng con đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn”…Có lẽ là nhƣ vậy, tàn nhẫn đến độ cô
51
phải bán rẻ những giá trị thiêng liêng của ngƣời con gái, phải đánh đổi cả sự
trinh trắng chỉ vì muốn kiếm cho mình một công việc ổn định, muốn đƣợc
đàng hoàng nuôi mẹ…để rồi bị lừa gạt. Đau xót tủi hờn cho số phận bất hạnh,
Thuỳ Châu đã tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng. Qua đây ta thấy bi kịch
của ngƣời phụ nữ một phần cũng bởi họ là những con ngƣời biết khao khát,
họ khao khát hạnh phúc, khao khát vƣơn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nói
đến bi kịch nghèo đói, một mặt Võ Thị Hảo thể hiện sự cảm thông, thƣơng
xót, mặt khác nhà văn lên án xã hội bất công và sự nhẫn tâm của con ngƣời.
2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền
Xây dựng nhân vật nữ, những con ngƣời bất hạnh, hiện thân của những
bi kịch. Võ Thị Hảo còn quan tâm đến số phận của những con ngƣời không
may mắn mang nỗi mặc cảm về hình thức không hoàn thiện, những con ngƣời
phải gánh chịu nỗi đau khi sinh ra đã là kẻ tật nguyền. Đó là Hằng trong Làn
môi đồng trinh, Tâm trong Máu của lá .
Truyện Làn môi đồng trinh kể về cuộc đời của nhân vật Hằng, ngƣời
con gái bị mù bẩm sinh cả hai mắt. Chính Hằng cảm nhận rất sâu sắc nỗi đau,
sự bất hạnh là một kẻ tật nguyền khi“ một đứa con gái đã hai mươi chín tuổi
mà mỗi khi ra đường mẹ phải dắt. Ăn cơm cô gái hai mươi chín tuổi ấy còn
đưa nhầm thức ăn vào mũi và đã hai mươi chín tuổi mà chưa từng biết đến
một nụ hôn”. Số phận ngang trái và cũng là bi kịch đối với Hằng đó là tạo hoá
ban cho cô quyền đƣợc làm ngƣời, thế nhƣng từ những việc đơn giản nhất
nhƣ việc ăn, mặc, Hằng còn không chủ động làm đƣợc thì những điều thiêng
liêng nhƣ tình yêu đôi lứa làm sao cô có thể kiếm tìm đƣợc cho mình. Chính
vì bị mù cả hai mắt không thể nhìn và tự bảo vệ đƣợc mình mà đã có lần cô
suýt bị một ngƣời đàn ông làm nhục, để rồi sau này cô hình dung về những gã
“đàn ông là một cái gì đó bậm bịch, khen khét và thô bỉ”. Cho đến lần cô xem
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
phim ở nhà hàng xóm về, cô không còn sợ đàn ông nhƣ trƣớc nữa và cô thầm
52
ƣớc“ người đàn ông thiên thần ơi! Hãy mang em đi! Mang đi khỏi cuộc đời
này, để mẹ em đỡ khổ vì em. Hãy mang em đi, ban cho một lần hạnh phúc, rồi
đừng quẳng em bên vệ đường, mà hãy giết em, để em khỏi sống mù loà cả đời
và trở thành gánh nặng cho mẹ”. Đến cả những ƣớc mơ cũng hiện hình nỗi
đau, nỗi bất hạnh của Hằng, nỗi đau ấy của cô cũng là nỗi đau của cả kiếp
ngƣời bởi:“Bây giờ còn ai nữa không, dám cúi xuống bên một người tàn tật,
và mang đi trên đôi cánh tay hữu hạn của mình tình yêu cũng như nỗi đau
của một kiếp khác”? Viết về những mong ƣớc kì lạ của Hằng cũng chính là
cách Võ Thị Hảo bày tỏ niềm cảm thƣơng vô hạn đối với cô gái, ở đó có sự
chia sẻ và sự thấu hiểu đến tận cùng nỗi đau của cô. Cũng nhƣ Hằng, Tâm
trong truyện Máu của lá là một ngƣời bất hạnh và mang nỗi đau của một kẻ
tật nguyền ngay từ khi mới sinh ra đã không đƣợc lành lặn, toàn vẹn về dung
mạo, dáng hình. Tâm là “Cô gái nhỏ xíu chỉ cao khoảng hơn một mét. Ngực
lép,đôi mắt tròn mở rưng rưng. Làn môi trên hằn một vết sẹo trắng kéo miệng
hơi xếch về bên trái. Có lẽ đó là vết sẹo vá môi…môi dưới mọng đỏ hơi lõm
giữa như một lúm đồng tiền nhỏ xíu thoảng qua,chia thành đôi cánh hoa nũng
nịu… Dáng đi khập khiễng của cô khiến người ta nghĩ đến con chim sâu đang
nhẩy chon von trên đường, mỏ cắp một cành lá lệch người”. Cô cho rằng “tạo
hoá đã say rượu” khi nặn ra mình nên cô luôn mặc cảm, luôn có cảm giác
mình là ngƣời thừa, mỗi khi có khách đến nhà, Tâm luôn tìm cớ lánh mặt. Hồi
mƣời bốn tuổi cô suýt uống cạn bát nƣớc lá trúc đào, bởi đó là lần đầu tiên cô
nhìn thấy toàn thân mình hiện mồn một trong tấm gƣơng bố mới mua về. Trớ
trêu thay, trời đã sinh ra Tâm một kẻ tật nguyền, lại còn “thổi vào cái vỏ tật
nguyền đó một lương tri”. Thế nên cô cảm nhận sâu sắc và thấm thía nỗi đau,
nỗi bất hạnh của cuộc đời mình. Một con ngƣời tật nguyền nhƣng rất đỗi
thông minh:“Lúc thi vào đại học đạt điểm ưu nhưng không một trường nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhận vì lỗi hình thể”. Cô cầu cho mình hoá điên vì ngƣời điên còn sƣớng hơn
53
cô, họ không nhận ra chính mình, thế nhƣng cô không thể điên. Cô cầu để
đƣợc chết thì cũng không chết đƣợc, đau đớn chua chát và tủi cho số phận
mình, Tâm “ở nhà với nồi niêu, những con mèo và đám tiểu thuyết”, để đêm
đêm mơ những giấc mơ khác đời thƣờng. Tâm tự nuôi cho mình một ảo tƣởng
về một chàng trai khổng lồ cứu giúp cô, níu kéo cô với cuộc đời qua những
bức thƣ của anh Tuân, Huân và Hoàng. Cô khát khao ở phía chân trời kia sẽ
có một chú lùn đợi cô, sinh ra để cho cô. Thế nhƣng, nghiệt ngã thay “ngay cả
trong mơ trời cũng cắt xén của em. Trời không cho em hưởng trọn vẹn một
giấc mơ nào”.Trong những mảnh đời tật nguyền tội nghiệp ấy, Võ Thị Hảo
luôn tìm thấy những khát khao mãnh liệt mà đau thƣơng của họ. Những khát
khao nhỏ nhoi, tầm thƣờng, thậm chí kì dị cũng không dành cho họ, chỉ có nỗi
thƣơng xót vô hạn của nhà văn trong mỗi lời kể về cuộc đời họ.
Viết về nhân vật nữ tật nguyền, Võ Thị Hảo đã tìm thấy trong chiều sâu
tâm hồn của những con ngƣời bất hạnh đó một khát khao sống nhƣ những
ngƣời bình thƣờng, hơn thế nữa nhà văn luôn gắng tìm cho họ một giải pháp,
một điểm tựa để họ hy vọng. Dù truyện kết thúc nhƣng cuộc đời của họ vẫn
mở ra, vẫn tiếp diễn.
Cùng với số phận bi kịch của những ngƣời phụ nữ nghèo khổ,tật nguyền,
Võ Thị Hảo còn quan tâm đến một lớp ngƣời sống dƣới tầng đáy của xã hội
nhƣ “con tù” hay những cô cave, gái điếm, những ngƣời làm nghề bị coi là
“mạt hạng” bẩn thỉu. Nhƣ ngƣời phụ nữ làm nghề vớt giun ở các mƣơng nƣớc
bẩn thỉu, sống trong một túp lều bên sông Tô Lịch, trơ trọi một mình chỉ kiếm
tìm đƣợc hạnh phúc ngắn ngủi ở bên một ngƣời đàn ông cùng quẫn tuyệt
vọng trong Khăn choàng sương. Những con ngƣời này, mỗi ngƣời có một số
phận, một cảnh đời khác nhau nhƣng họ lại có chung những bi kịch, những
nỗi đau rất đỗi đời thƣờng. Nhƣ Phin trong truyện Phúc Lộc Thọ lên trời mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
mƣời chín tuổi đã đeo trên ngƣời cái ách ba năm tù,vì nhận tội đánh ghen thay
54
mẹ và “tội nặng hơn vì bà goá kia lại nằm trong hội đồng nhân dân xã”. Sau
ba năm, ngày nó ra tù đƣợc nhà văn khắc hoạ rất tinh tế, có cái hồn nhiên của
trẻ thơ khi nhớ lại những ký ức đẹp hồi mới lên trại, nó thấy “trại cải tạo đẹp
như một công viên lớn, và nghĩ cảnh này chắc cũng na ná thiên đường”,
trong lá thƣ đầu tiên viết về cho mẹ nó nói: “Nhà tù đẹp hơn nhà mình nhiều”
mẹ không phải lo nó khổ nữa. Và nhớ lại tết năm nó mƣời lăm tuổi, đƣợc một
cậu bé“nhà có cây sung đầu làng” tặng cho ba cái bánh chƣng nếp có nhân
thịt…chứ không phải bánh chƣng nhân cá rô (không nhân) nhƣ nhà
nó…Cùng cái hồn nhiên của trẻ thơ đó là sau ba năm nó đã có nét lo âu của
ngƣời già. Bởi nó sợ khi trở về làng “Có bao nhiều người thì có bấy nhiêu
người đều chửi thẳng vào mặt nó là "con tù" mà không xấu hổ”. Nó sợ cả
làng, cả xã hội sẽ khinh miệt và xa lánh nó và có lẽ không thể tránh khỏi, vì
nó thuộc tầng lớp dƣới đáy của xã hội, bị xã hội ruồng bỏ. Trong sáng tác của
mình nhà văn Võ Thị Hảo còn nói rất nhiều về số phận những ngƣời phụ nữ
nhƣ Phin. Đó là những cô cave trong khách sạn ở truyện Miền bọt, hay một
gái điếm đã thiu, bị liệng ra bãi thải, ốm nhách và vô phƣơng sinh sống trong
truyện Biển cứu rỗi. Hoặc nhân vật nàng trong Người đàn ông duy nhất là
con của một gái làng chơi có hạng chết trẻ. Nàng đƣợc thừa hƣởng sản nghiệp
kha khá của mẹ và thừa hƣởng luôn cả sự nhẹ dạ vì “đàn ông hót gì nàng
cũng tin. Những người đàn ông tử tế thì không bao giờ muốn lấy con của một
gái làng chơi”. Thế nên cả bốn lần lấy chồng thì nếu “không là kẻ đào mỏ thì
cũng thuộc hạng ba xu và cứ người chồng sau thì thấp cấp hơn người chồng
trước”. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nhƣng nàng cứ phải liên tiếp
lấy chồng để có ngƣời canh giữ, để tránh khỏi sự rình rập của cái bẫy lầu
xanh, nếu không nàng lại không thể tránh đƣợc con đƣờng mà mẹ nàng đã đi.
Đau đớn và tủi nhục khi bị chồng đuổi đánh, xỉ nhục, phơi bày giữa chợ, nàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
kêu cứu mà cộng đồng vẫn thờ ơ.“ Nàng chạy len lỏi qua những hàng rau,
55
hàng trứng, hàng bánh rán, đến gần một người đàn ông lực lưỡng đang dắt
một chiếc xe máy đỏ chót…nhưng người đàn ông đã né qua một bên. Nàng
khóc hụt hơi bốn phía không một cánh tay chìa ra thương xót”…Tất cả những
ngƣời phụ nữ bất hạnh này họ đã không đƣợc xã hội thừa nhận, họ luôn phải
chịu những lời lẽ cay nghiệt, thái độ thờ ơ và khinh bỉ của ngƣời đời. Nhƣng
không phải tất cả họ muốn nhƣ vậy, không phải những gì họ làm là xuất phát
từ bản năng mà tất cả vì nghèo đói, vì mƣu sinh, vì lẻ loi, đơn độc, vì đó là
con đƣờng duy nhất, khi họ không có một lối thoát nào khác. Họ là những
ngƣời tuy không bị tật nguyền, dị dạng về hình thể nhƣng cuộc đời họ là
những biến dạng, bất thƣờng.
2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi
Hầu hết nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo đều là những ngƣời
có khát vọng sống và khát khao yêu mãnh liệt. Họ hiện lên là những “người
đàn bà khổ vì yêu, rút hết gan, hết ruột để yêu và hi sinh cho tình yêu bất cần
những hệ luỵ sau đó”[55]. Xây dựng những nhân vật nữ mang bi kịch tình
yêu nhà văn Võ Thị Hảo đã để họ đƣợc nếm trải tất cả những dƣ vị khác nhau
của tình yêu. Từ những dƣ vị ngọt ngào đến những dƣ vị đắng chát, từ những
đớn đau đến xót xa…Họ hiện lên trong tình yêu với nhiều cung bậc khác nhau
từ nhẹ dạ cả tin đến mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải… Nhất là sự chủ
động, quyết liệt đấu tranh để giành giữ tình yêu, dám sống thật với chính
mình và dám đi đến tận cùng bản thể. Đây có thể xem là sự thể hiện rõ nhất
tính “nữ quyền” trong sáng tác của Võ Thị Hảo qua các nhân vật nữ.
Họ càng khao khát yêu và đƣợc yêu thƣơng bao nhiêu thì cũng vì thế mà
họ luôn phải gánh chịu đau khổ trong ái tình, để rồi chìm đắm không lối thoát
trong mê lộ đó. Tình yêu vốn là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý, không thể
thiếu với con ngƣời, đặc biệt với ngƣời phụ nữ. Mối quan tâm lớn nhất với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ngƣời phụ nữ là tình yêu và tuổi trẻ, chính vì thế mà những bi kịch, những đổ
56
vỡ trong tình yêu- hạnh phúc lứa đôi đƣợc biểu hiện rõ nhất cũng thông qua
ngƣời phụ nữ.
Trong thế giới nhân vật nữ của Võ Thị Hảo ngƣời đọc sẽ bắt gặp từ
những ngƣời phụ nữ không đƣợc xã hội coi trọng, không đƣợc chấp nhận từ
những cô cave, gái điếm trong Miền bọt, Biển cứu rỗi, con của một gái làng
chơi có hạng trong Người đàn ông duy nhất, hay một cô gái vớt giun trong
Khăn choàng sương…đến những ngƣời phụ nữ thanh cao hơn tƣởng nhƣ sẽ
không bao giờ phải đau khổ nhƣ Trang trong Bàn tay lạnh, Thuận trong Goá
thụ đen, Hạnh trong Tiếng vạc đêm, Bích trong Khăn choàng sương, Sải
trong Con dại của đá, Hải trong Mắt miền tây, Thảo trong Người sót lại của
Rừng Cười, Nàng trong Dây neo trần gian, Phƣơng trong Phiên chợ người
cùi…Tình yêu có muôn hình vạn trạng và mang những màu vẻ khác nhau,
dƣới con mắt của các nhà văn nữ đặc biệt là Võ Thị Hảo, ta thấy có những
tình yêu rất trái khoáy và mơ hồ nhƣ Tình yêu mây trắng, có những tình yêu
thuần khiết, cao thƣợng nhƣ Làn môi đồng trinh, lại có những tình yêu đƣợc
dựng lên từ những cốt truyện cổ tích mang đậm màu sắc huyền thoại song lại
có ý nghĩa sâu sắc ở thời hiện tại nhƣ: Tim vỡ, Khát của muôn đời, Nàng tiên
xanh xao…Đặc biệt là sự góp mặt của những nhân vật nữ “không tì vết” nhƣ:
Nhuệ Anh và Ngạn La trong Giàn thiêu.
Bi kịch tình yêu ẩn trong từng cuộc đời, từng số phận của những ngƣời
phụ nữ mải miết kiếm tìm một tình yêu đích thực mà thất bại, yêu say mê, tha
thiết nhƣng rồi lại bị lừa dối, phụ bạc từ những vị thần, những nàng tiên đến
những con ngƣời trần thế, luôn khát yêu, luôn mong muốn đem lại niềm vui
và hạnh phúc cho ngƣời khác dẫu mình phải chuốc lấy thƣơng đau, bất hạnh.
Nàng H’Điêu trong Khát của muôn đời là một điển hình, luôn khát khao yêu
và sẵn sàng đi tìm ngƣời mình yêu thƣơng không ngại hy sinh bản thân mình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
không quản cái chết. Nàng cho rằng: “Khi yêu, con người ta vừa như mới sinh
57
ra và người già cũng lập tức trở thành vụng dại như trẻ nhỏ”. Nàng đã
nguyện trở về kiếp trƣớc, biến thành cây chanh để cứu giúp những ngƣời sau
đó, những cô gái bị lỡ làng, bị phụ bạc “chính trái cây em đã làm nỗi đau
trong tim họ dịu lại. Và sau đó ai ăn trái chanh H’ Điêu người đó sẽ biết quên
mình và vậy là người đó biết yêu”. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không
có tình yêu. Nếu không có tình yêu: “thử hỏi thế gian này không còn ai biết
mình, không còn ai si mê, không còn tìm đâu ra một kẻ biết yêu…ở trong
ngực mọi người chỉ còn là băng giá, chẳng còn những H'Điêu không quản cái
chết đi tìm người yêu, thì liệu có đáng còn thế giới này chăng? Thật đáng sợ.
Nàng tiên xanh xao trong truyện Nàng tiên xanh xao là một ngƣời con gái
mồ côi, sống lẻ loi trong rừng sâu. Nàng đã cứu sống một chàng trai con nhà
quyền quý bị thƣơng nặng khi đi săn. Nàng cứu chàng trai bằng cách truyền
cho chàng một nửa máu đang chảy trong huyết quản của mình thông qua
chiếc kim kì diệu của thần Núi. Mất một nửa máu, da nàng trở nên xanh xao
đến chính nàng còn phải sợ“ hãi khi thấy mình quá xanh xao”.Cứu vớt cuộc
đời của một ngƣời con trai chƣa từng biết mặt, biết tên, để rồi gửi gắm cả tình
yêu và tính mệnh mình cho ngƣời ấy, bất chấp cả lời cảnh tỉnh của thần núi:“
Đàn bà muôn đời vẫn vậy,vẫn không thoát ra khỏi dây xích của sự nhẹ
dạ…Cứu chàng,rồi đây con sẽ khổ vì chàng”.Nàng vẫn tự nguyện đánh
đổi“màu hồng rạng ngời trên má” mình để cứu chàng trai. Đƣợc cứu sống
hai ngƣời đã yêu nhau và tổ chức đám cƣới. Nàng sẽ không phải gánh chịu bi
kịch một tình yêu, một số phận bất hạnh, nếu trong đêm tân hôn chàng trai
không bỏ rơi nàng để vui đùa với những cô gái trẻ đẹp má hồng khác, để nàng
một mình trong nỗi cô đơn. Cay đắng trƣớc tình yêu bị rẻ rúng khiến nàng
đau khổ, tuyệt vọng và trốn chạy thật xa. Khi nhớ đến và không thấy nàng
đâu, chàng đã ân hận và vội vã đi tìm nhƣng chỉ thấy một chiếc bóng lẻ loi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Chàng chạy tới ôm lấy và cầu xin nàng hãy ở lại, cầu xin sự tha thứ vì:“đàn
58
ông đôi khi vẫn thế”, nhƣng nàng cự tuyệt. Có thể nói đó là định mệnh, định
mệnh sui khiến họ gặp và yêu nhau, bắt cô gái phải chịu số phận bất hạnh,
phải nếm trải cảm giác cô đơn một mình bẽ bàng, hoang mang khi chứng kiến
những cuộc vui của tân lang. Cuộc sống khác biệt giữa hai ngƣời, nỗi cay
đắng trƣớc tình yêu bị rẻ rúng và càng không thể khoan nhƣợng, tha thứ với
lý do đàn ông đôi khi vẫn thế để rồi nếu tha thứ lần này biết đâu lần khác
nàng sẽ còn ân hận và đau xót hơn nhiều. Chính vì thế, dù chàng vẫn ôm và
níu giữ nàng nhƣng nàng thì luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi cánh tay đó cho
đến chết nàng vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn vô bờ. Nhà văn Võ Thị Hảo
khoác thêm cho nhân vật của mình màu sắc huyền thoại với kết thúc: Linh
hồn chàng trai hoá thành những cái gai bảo vệ hoa và cây lạ ấy sau này đƣợc
ngƣời ta đặt tên là cây bƣởi.Từ hình ảnh cây bƣởi gần gũi quen thuộc ngoài
đời nhà văn đã mang đến cho ngƣời đọc một sự tích đầy xúc động, một bi
kịch tình yêu đầy xót xa, một câu chuyện đầy nƣớc mắt mà đời thƣờng ta vẫn
bắt gặp đâu đó. Sự trốn chạy của nhân vật nàng không chỉ là sự trốn chạy tình
yêu mà còn là sự trốn chạy cảm giác cô đơn, lẻ loi bị bỏ rơi. Sau khi hoá kiếp,
linh hồn nàng biến thành những nụ hoa trắng muốt toả hƣơng thơm ngát, nó
tinh khiết và quá đỗi thanh cao nên bàn tay phàm tục của chàng trai mãi
không thể với tới. Còn nàng dù đã đổi kiếp nhƣng vẫn mãi phải lƣu đày trong
sự cô đơn và gánh chịu một bi kịch tình yêu cho số phận bất hạnh của mình.
Vẫn là bi kịch bị ngƣời yêu bỏ rơi, bị ngƣời yêu lừa dối, bạc bẽo. Nàng Sải
trong Con dại của đá, một ngƣời con gái đẹp, sống và yêu tự nhiên nhƣ cây
cỏ nơi núi rừng. Nàng đã vƣợt qua mọi ràng buộc, mọi tập tục của buôn làng,
gia đình để đến với tiếng gọi tình yêu. Với nàng, đó là tình yêu tự do tha thiết
và nồng cháy, tiếc rằng ngƣời nàng yêu - Cáo Tờ Quẩy lại là kẻ bạc bẽo, dối
lừa và xảo quyệt, mê hoặc và chiếm đoạt đƣợc nàng chƣa đủ, hắn còn xảo trá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
phụ bạc và rẻ rúng nàng. Trong đêm tân hôn với Hùng De, nàng vùng chạy
59
trốn để tìm đến Cáo Tờ Quẩy thì hắn lại ném nàng đến cho lũ bạn hắn làm
nhục nàng và còn định đem nàng bán sang Trung Quốc. Nhục nhã, tuyệt vọng
trƣớc sự tráo trở và bạc bẽo của ngƣời nàng yêu, Sải đã giết chết Cáo Tờ
Quẩy rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Bi kịch tình yêu của Sải là khi niềm hi
vọng biến thành thất vọng, khi nỗi đam mê, cuồng si biến thành sự phẫn uất
và lòng thù hận.
Nhân vật Trang trong Bàn tay lạnh, không trả giá cho tình yêu bằng
mạng sống của mình nhƣng chị sống mà có khác nào đã chết. Là một sinh
viên khoa văn xinh đẹp nhƣng số phận lại bạc bẽo với chị. Bởi “mẹ chị không
hạnh phúc, chị gái chị cũng đã không hạnh phúc, người hàng xóm của chị
cũng không hạnh phúc. Vì thế chị phải hạnh phúc, chị không được phép mắc
sai lầm”. Cuộc đời có vô vàn những biến cố và những điều bất trắc, không ai
có thể khẳng định đƣợc điều gì. Thế nên, dù Trang đã hết sức thận trọng khi
yêu cũng nhƣ chọn ngƣời yêu nhƣng số phận bất hạnh vẫn cứ bám lấy chị nhƣ
một sự di truyền. Đến với tình yêu đầu, Trang khao khát đƣợc thay đổi số
phận, chị đã yêu và gửi gắm biết bao hy vọng về sự gắn bó và che chở. Vậy
mà lại thất tình ngay trong đêm hò hẹn đầu tiên. Ngƣời mà chị yêu và đặt trọn
niềm tin lại là một kẻ sở khanh yêu đùa vì những lời thách đố của đám con
trai trong lớp không tán đƣợc Trang.Trò đùa quái ác của đám bạn trai trong
lớp đã mang đến bi kịch cho cuộc đời ngƣời phụ nữ quá đỗi nhạy cảm
này,“Trang như loài cây bị gục từ những giọt sương muối đầu tiên và không
bao giờ dậy được nữa”. Nỗi đau quá lớn khi niềm tin tan vỡ, bởi tình yêu đã
bị trao lầm cho một kẻ không xứng đáng và làm đóng băng trái tim Trang,
khiến chị trở thành “một người đàn bà cẩm thạch”. Tình yêu đầu là nỗi ám
ảnh suốt cuộc đời chị và là một dấu tích không thể xoá mờ, nó dập tắt mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ƣớc mơ hạnh phúc đời chị. Xót xa hơn là làm băng giá trái tim và chôn vùi
60
ngƣời phụ nữ ấy trong cuộc sống cô đơn, bất hạnh và sự căm thù, ghê tởm
đàn ông.
Còn nhân vật Nàng trong Dây neo trần gian lại yêu đắm say một ngƣời
đàn ông đã có vợ. Anh bƣớc ra từ chiến tranh và luôn chán chƣờng tuyệt
vọng, chờ đợi cái chết đến với anh nhƣ những ngƣời đồng đội vì nghĩ rằng
mình bị nhiễm chất độc hoá học trong chiến tranh nên chẳng còn sống đƣợc
bao lâu nữa. Nàng đến với anh trong tình thƣơng yêu vô bờ cùng sự cảm
thông, chia sẻ sâu sắc, nàng làm đủ mọi cách để “gương mặt sầu thảm dìm
trong rượu của anh sáng lên được một chút”, để lấy nụ cƣời của anh, để níu
anh ở lại trần gian. Khi anh hoàn toàn khoẻ mạnh hạnh phúc nhất với kết quả
âm tính thì nàng lại giàn giụa nƣớc mắt“vợ chồng gì đâu! Anh ấy không thuộc
về tôi”. Dù anh cố gắng, dù anh không chết thì anh mãi không thuộc về nàng
bởi anh còn có gia đình của mình. Nàng dành cho anh một tình yêu say đắm,
vô bờ bến nhƣng thật bất hạnh với nàng vì đó là một tình yêu ngang trái, éo le
và tuyệt vọng.
Hải trong Mắt miền tây là ngƣời đàn bà bé nhỏ nhƣ một đứa trẻ lên
mƣời, đôi mắt đen thẫm và nụ cƣời khờ dại, đem lòng yêu Tuấn một gã đàn
ông điển trai, kém chị ba tuổi. Cùng nhau kiếm tiền nơi đất khách quê ngƣời,
trong lúc Hải phải ky cóp từng đồng để giúp đỡ đại gia đình ở trong nƣớc
với:“Hai mươi bẩy nhân mạng, già trẻ lớn bé…thì Tuấn một đồng một cắc
không gửi giúp bố mẹ, anh em”. Suốt ngày hết nằm ƣờn lại lê hết quán nọ
hàng kia ăn nhậu rồi cắm nợ, để chị phải thƣờng xuyên đem tiền trả nợ hộ
Tuấn, phải cho Tuấn "giật tạm" vài chục ngàn đô để tiêu vào việc gì đó không
biết. Hải yêu Tuấn và lo cho Tuấn nhƣ một ngƣời mẹ luôn dõi theo con, Hải
phục vụ anh nhƣ một kẻ nô lệ, còn Tuấn đã nhiều lần đánh đập Hải, có lần
đánh chị ngã từ cầu thang xuống và còn bị hắn đẩy ra đứng ngoài cửa lạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cóng suốt đêm. Sau khi đã bị đập phá tan tành bàn thờ của mẹ, biết là hắn
61
luôn nói dối “lúc cần, Tuấn bao giờ cũng biết nói dối một cách trơn tru
nhất”. Nhƣng chị vẫn tha thiết gắn bó với Tuấn vì yêu đƣơng là duyên số và
theo chị“Tuấn sẽ khác khi nhìn thấy người thân, Tuấn sẽ cảm động mà tu tỉnh
và Vì gia đình Tuấn chân thật đến thế kia mà”.
Viết về tình yêu, Võ Thị Hảo không quên khắc hoạ hình ảnh những
ngƣời phụ nữ yêu mà không hề toan tính nên thƣờng bị lợi dụng và bị dối lừa
nhƣ Hải trong Mắt miền tây. Cũng không nằm ngoài bi kịch tình yêu, bị lừa
dối nhƣ vậy ngƣời mẹ trong Chuông vọng cuối chiều thuỷ chung ở nhà nuôi
con chờ chồng trong những năm anh đi công tác xa. Ngƣời đàn ông đó lại nỡ
phụ tình và lừa dối vợ, với ba năm công tác ở Sa Thầy, đủ thời gian để anh
làm một ni cô phải phá giới và có với anh một đứa con. Nhƣng vƣợt lên trên
nỗi xót xa vì bị lừa dối, phụ bạc, ngƣời mẹ đó đã tha thứ cho chồng trƣớc khi
anh nhắm mắt xuôi tay và đành nhận lời chăm sóc cho hai mẹ con ngƣời đàn
bà bất hạnh hơn mình kia. “Người đàn bà đi tu chỉ vì không hy vọng tìm được
một chút hạnh phúc trần thế và sự xa vợ của ông là dịp may duy nhất trong
đời người đàn bà ấy”…Vì vậy mà ngƣời đàn bà ấy đã phá giới tu hành, chịu
đau khổ và đơn độc một thời khi phải bỏ quê sống trốn tránh và âm thầm chịu
đựng trong một ngôi chùa hoang. Chính vì nhận thấy số phận bất hạnh của
ngƣời đàn bà ấy. Bất hạnh vì yếu và xấu xí và không thể vƣợt lên đƣợc hoàn
cảnh của mình, mà ngƣời mẹ đã cứu giúp và nâng đỡ ngƣời đàn bà ấy bằng
tình thƣơng, bằng lòng bao dung độ lƣợng.
Phƣơng trong Phiên chợ người cùi là một ngƣời phụ nữ đẹp, sang trọng,
chuyên bận màu xám, ở trong một ngôi nhà kín cổng cao tƣờng, với một cô
con gái xinh đẹp và một ngƣời chồng danh giá. Chị đƣợc xem nhƣ "vật báu",
hễ đi đâu xa chồng đều tháp tùng,“ mắt ông loé lên vừa ghen tuông vừa hãnh
diện khi trông thấy bọn đàn ông trên đường cứ bị hút hồn theo chị”. Vậy mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ông không thể vƣợt qua nổi định kiến khi biết chị mắc bệnh hủi. Ông xa lánh
62
hắt hủi, không cho chị gần con vì sợ “ảnh hưởng tới thanh danh gia đình, con
cái về sau này cũng khó lấy chồng”… Xót xa hơn khi tấm vé xuất viện của
chị không đủ thuyết phục gia đình, họ không thể quen đƣợc bàn tay cụt ngón
của Phƣơng, ai cũng xa lánh và ghẻ lạnh với chị. Gần nửa năm làm khách lạ
trong ngôi nhà của mình, chị đã lặng lẽ ra đi và sống cuộc đời những năm
cuối có ý nghĩa ở trại phong Quy Hoà cũng nhƣ gắng dự hết đời mình “những
phiên chợ người cùi”. Viết về những ngƣời nhƣ Phƣơng, nhà văn Võ Thị Hảo
đã gửi gắm sự cảm thông, chia sẻ, bênh vực sâu sắc cho những ngƣời phụ nữ
bất hạnh và đó là tiếng nói mang giá trị nhân bản cao cả và sâu sắc. Chính là
phụ nữ nên nhà văn Võ Thị Hảo luôn quan tâm đến cuộc đời, số phận, vị thế
cũng nhƣ quyền lợi của những ngƣời phụ nữ trong xã hội hiện nay. Ngƣời đàn
bà Âu lạc trong Hành trang người đàn bà Âu lạc luôn mang trên vai những
trách nhiệm nặng nề, hành trang mỗi ngày một thêm trĩu nặng bởi một bên
con, một bên chồng, một bên là những triết lí, tôn giáo đạo phu thê, công
dung ngôn hạnh…Sự mỏi mệt khiến nàng biết bao lần định dừng lại bên vệ
đƣờng để quẳng bớt đi một vài thứ trong gánh nặng mình mang và đến thể kỷ
giải phóng phụ nữ, túi hành trang của họ còn đƣợc chất thêm những mỹ từ của
thời đại mới, “mỗi mỹ từ lại óc ách đầy những giọt mồ hôi, nước mắt và cả
máu của người đàn bà, những sợi tóc bạc, những vết nhăn nheo trước tuổi”.
Có thể thấy, đặt ra trong tác phẩm là câu hỏi, đến bao giờ số phận ngƣời phụ
nữ mới bớt bị chi phối bởi quá nhiều các yếu tố, mà yếu tố nào cũng đều là
gánh nặng với họ?
Cùng với những bi kịch của nhân vật nữ trong các truyện ngắn, thì ở tiểu
thuyết Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã xây dựng những nhân vật nữ “không tì vết”
nhƣng cũng để họ phải chịu chung số phận bất hạnh nhƣ những ngƣời phụ nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khác bởi:
63
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung
(TruyệnKiều - Nguyễn Du)
Dẫu Võ Thị Hảo đã ý thức và dành nhiều ƣu ái hơn với họ, để họ hiện
lên qua những sắc màu của huyền thoại nhƣng cuộc đời của những ngƣời phụ
nữ này vẫn không tránh khỏi hai chữ “bạc mệnh”và số phận bi kịch khi vƣớng
vào tình yêu. Trong Giàn thiêu tình yêu của những ngƣời phụ nữ này luôn
gắn với khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc.Thật vậy: “Chỉ khi nào con
người bước vào thế giới của tình yêu thì lúc đó con người mới thực sự được
sống với đúng nghĩa của nó” (Danh ngôn phương Tây).
Tình yêu trong tiểu thuyết lịch sử của Võ Thị Hảo không phải là thứ tình
yêu “thƣợng lƣu” của những tài tử- giai nhân, của vua chúa và mĩ nhân mà là
tình yêu đời thƣờng bởi vậy nó hiện lên với muôn mặt và dƣ vị riêng của nó.
Nhuệ Anh là cô gái bƣớc ra từ “vƣờn yêu” của Võ Thị Hảo, băng qua một đại
lộ có tên là lịch sử và ùa đến cuộc đời Từ Lộ - Thần Tông để làm một niềm
khát yêu cháy bỏng- nhƣng rồi chính mình lại bị thiêu đốt đau đớn trong ngọn
lửa thù hận và tham vọng của ngƣời tình. Bằng những nhạy cảm và mặc cảm
của thân phận ngƣời phụ nữ - yêu, Võ Thị Hảo đã để lại trong sáng tác của
mình một vƣờn yêu riêng cho những ngƣời phụ nữ. “Vƣờn yêu” đẹp nhƣng
không phải là địa đàng trong huyền thoại, những linh hồn yêu ở đó trinh
nguyên, thoát tục nhƣng không thoát đƣợc nỗi đau trần thế, cứ co ro quằn
quại giữa cơn khát tình yêu và nỗi lo sợ trong tiềm thức mà không dám đón
nhận tình yêu từ phía cuộc đời. Nhuệ Anh là cô gái thứ bao nhiêu trong khu
vƣờn địa giới ấy. Nàng chỉ khác với Thảo, với Trang với Thuận hay Phƣơng
… nhƣng không xa lạ với họ, vì với nàng cũng là tình yêu và nỗi đau…Cuộc
đời nàng cũng có thể nói đƣợc kể lại bằng hai chữ "lẽ ra". Lẽ ra nàng đã đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
hƣởng hạnh phúc. Tác giả đã rất có ý thức giữ gìn nâng niu hạnh phúc cho
64
một ngƣời con gái khi choàng lên nàng bầu không khí run rẩy rạo rực của tình
yêu trƣớc khi để nàng xuất hiện. Dung nhan nàng hiện lên trong nét bút ngập
tràn yêu thƣơng của Từ Lộ, cả “cái thần thái của đường mày màu khói nhạt
đa đoan đến não lòng”, cũng đƣợc cảm thấu và chuyển tải trên cây đèn lồng
mỹ nhân, chứng tỏ một sự trân trọng của ngƣời yêu và sự hoà quyện giữa hai
tâm hồn. Không gian yêu nồng nàn đầy hứa hẹn hạnh phúc của ngƣời con gái
đang đến gần…vậy mà lại ở rất xa. Cơn gia biến của nhà Từ Lộ ập đến, lòng
hận thù khiến chàng buộc phải hắt hủi tình yêu với Nhuệ Anh. Nhƣng Nhuệ
Anh lại rũ bỏ tất cả vàng bạc, sang giàu, cả sự yên ổn an phận để đi kiếm tìm
hạnh phúc của đời mình. Đây là nét riêng so với những ngƣời con gái khác vì
trong sáng tác của Võ Thị Hảo, rất ít ngƣời dám đi kiếm tìm tình yêu bởi đôi
khi ngay cả đến yêu họ cũng còn không dám. Kiếm tìm để hiến dâng, để oà
vào vòng tay ngƣời yêu mà thổn thức “Từ Lộ… em là vợ chàng! để thụ lãnh
và biết ơn người đã mang lại cho nàng niềm khoái lạc mênh mang và nỗi đau
đớn trần thế kỳ diệu” [15,tr.211-212 ]. Bản chất của sự chủ động mạnh mẽ,
dũng cảm này là một sự thụ động đầy nữ tính, đôi chân nàng để cho tình yêu
cuốn đi tất cả những con đƣờng Từ Lộ từng qua. Cũng chỉ có ngƣời con gái
mà sự cả tin đã trở thành một bản tính của giới, mới có thể tin vào trực cảm
của mình đến mức mãnh liệt để thả mình theo nó.“ Một linh cảm mơ hồ khiến
nàng hiểu rằng Từ Lộ sẽ đi qua những con đường này. Và nỗi bước nàng lại
cảm thấy như mình đang đặt chân lên dấu chân chàng vừa đi qua. Khi đến
bến Đá Sông Gâm, cảm giác đó lại cồn cào… nàng neo lại, đợi chờ một điều
gì đó còn mơ hồ nhưng bằng trái tim tội nghiệp đang thổn thức trong ngực,
nàng biết nó đang tới”….Nó là cái đêm đƣợc hƣởng thụ tình yêu, một đêm
hạnh phúc duy nhất phải trả giá bằng nỗi cô đơn của cả một cuộc đời và chỉ
có những ngƣời con gái yêu mới chấp nhận một cái giá quá đắt nhƣ thế, ở đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Võ Thị Hảo đã có sự gặp gỡ với nhà thơ Xuân Quỳnh ở những câu thơ:
65
Anh tính nỗi đau, niềm vui bằng tháng bằng tuần lễ
Nhưng với em, em hiến cả một đời
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác).
Với Nhuệ Anh cũng nhƣ những ngƣời con gái khác, tình yêu là có thực
song hạnh phúc chỉ là một giấc mơ. Khi Nhuệ Anh lao mình xuống dòng thác
Oán là khi nàng nhận ra tình yêu của mình quá bé nhỏ trƣớc lòng thù hận của
Từ Lộ, ta thƣơng xót Nhuệ Anh hơn bởi lại thêm một ngƣời con gái yêu và đổ
vỡ trong thế giới vƣờn yêu. Chỉ có điều ngƣời con gái này mang một tâm hồn
ngây thơ hơn những ngƣời khác, nên nàng dễ tha thứ hơn và nhân hậu hơn.
Mấy chục năm sau gặp lại, khi đối diện với ngƣời tình, bây giờ là một con hổ
nằm cào xé thân mình chờ chết, Nhuệ Anh lại lặn lội đi tìm đại sƣ Minh
Không để đem về cho ngƣời đã bóp nát cả đời mình sự sống. Cũng chỉ có tình
yêu mới dễ dàng tha thứ đến nhƣ thế và chỉ có bản năng của một ngƣời mẹ
mới có đƣợc “tình yêu vô điều kiện”trong suốt bao nhiêu năm nhƣ vậy. Mang
lòng yêu thánh thiện, Nhuệ Anh mang cả khả năng hoá giải nỗi đau kì diệu,
khả năng tái sinh niềm vui và hạnh phúc, nhƣ một bà mẹ với thiên chức duy
trì sự sống trƣờng cửu. Nàng xoa dịu nỗi đau đớn và sự thù hận trong Từ
Lộ:“Hình như cùng với niềm sướng vui thuỷ triều dồn dập trút vào thân thể
hoà vào da thịt nàng, bao nhiêu căm uất hận thù chứa chất trong lồng ngực,
bóp nghẹt trái tim chàng từng ấy ngày đêm cũng theo đó mà tan ra mất
dạng”[15] và nhất là những giọt nƣớc mắt đau đớn của nàng, ấy lại là thứ
nƣớc cam lộ của Bồ Tát đã hơn một lần cải tử hoàn sinh cho nhân gian:
“Những giọt nước mắt của bà tưới lên người đức vua…nước mắt chảy đến
đâu, những đám lông vằn vện tuột ra từng đám, rồi lột hết, lộ ra thân mình
của đức vua, với nước da trắng xanh, thư sinh nho nhã [15]. Hạn hán, cũng
chính lời ca nƣớc mặt gọi mƣa về, chứ không phải đàn tràng cầu mƣa của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Thần Tông:
66
“Mưa ơi! Mưa!
Không phải chúng tôi cầu mưa!
Chúng tôi đòi trời trả lại nước mắt”…[15].
Ngọn gió Nhuệ Anh thổi qua tất cả mọi ngƣời. Trƣớc một nỗi đau “bàn
tay bà dường như có phép linh diệu, khiến người đang đi khập khiễng bỗng đi
thẳng trở lại. Người nằm trên võng thôi rên rỉ”…[15]. Lời cầu nguyện giải
điên cho Lý Câu cũng là lời xin trả lại nỗi đau: “Lửa sẽ hoá thành khói, bay
lên trời, trả lại cho người đôi mắt và những dòng nước mắt” [15]…Nàng là
bà tiên đã biến đớn đau của tình yêu thành liều thuốc hoá giải cho những khổ
đau trần thế, oái oăm là đến lƣợt mình, nỗi đau của nàng lại không thể hoá
giải. Bởi Từ Lộ- Thần Tông đã quá ích kỉ để có thể đem mình hiến dâng cho
nỗi đau của nàng khỏi những khổ đau trần thế, nàng cay đắng khi nhận
ra:“trong mắt chàng đỏ đọc ngọn lửa báo thù thủa chàng còn là Từ Lộ, trong
mắt chàng không có ta. Khi chàng lôi tuột ta từ động Trầm về hậu cung đẫm
mùi son phấn và mưu đồ ác độc, chàng đã đầy đoạ ta thêm một lần nữa. Và
lần này mới ác độc làm sao. Chàng là một ông vua còn trai trẻ, được vây
quanh bởi lớp lớp cung tần mỹ nữ…thế mà ngọn lửa từ kiếp trước vẫn cháy
trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta [15]. Nàng biết là mình đã
chìm trong đoạ xứ cô đơn, lẻ loi, toàn những đổ vỡ, mất mát, trống trải không
cùng. Tuy cuối cùng tác giả đã để cho Nhuệ Anh hoá thành một ngọn gió thần
kì siêu thoát, thế nhƣng bà cũng không để cho độc giả quên rằng “Lịch sử của
nàng là lịch sử của một người đàn bà sống giữa cõi trần, có khả năng tuyệt
vời để làm vợ, làm mẹ nhưng lại không chồng, không con, không thân
thích”(Balzac-Ơgeni Grăng đê).
Dành trọn cuộc đời cho một tình yêu, để cuối cùng nhận ra rằng: “ Ta đã
tự huyễn hoặc, tự tô vẽ cho cái hình bóng của chàng độc tôn trong ta” [15] để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đến khi nhận ra: “Người đàn ông suốt đời không phản bội nàng”[15] cũng là
67
lúc chàng Cá Bơn trút hơi thở cuối cùng để nhận lấy niềm hạnh phúc đã đợi
chờ cả một đời ở bên kia thế giới. Và nhất là ở nàng, ngƣời phụ nữ trọn đời cô
quạnh ấy, luôn khắc khoải hình bóng một đứa con. Vì nàng có toàn quyền làm
mẹ nàng hi sinh, dâng hiến, xả thân, nàng dịu dàng, ngọt ngào trong trắng
thánh thiện, nàng có cả "sữa" có cả "mật" trong mình thế nên: “Dù đã gần
suốt đời gửi thân nơi cửa Phật, trong đáy cùng tâm trí, suốt đời Nhuệ Anh
vẫn ao ước không nguôi về một đứa con. Đôi lúc bà ngỡ như mình đã có một
đứa con gái đẹp như bà hồi còn là tiểu thư Nhuệ Anh” [15]. Khi lần đầu tiên
nhìn thấy Ngạn La, Nhuệ Anh mang mặc cảm ganh ghét của một tình nhân bị
bỏ rơi vì một ngƣời con gái khác, nhƣng cũng mang tình cảm thiết tha trìu
mến của một ngƣời mẹ âu yếm một đứa con. Chính tình mẹ bao dung khiến
cho Nhuệ Anh có thể hoà hợp với “tình địch” của mình và bi kịch lớn nhất
của Nhuệ Anh là nàng không thể có một đứa con. Ngƣời con gái lấy tình yêu
làm lẽ sống, là mục đích tối cao của cuộc đời, luôn hiện lên cùng với những
suy nghĩ về ngƣời yêu “đem cả một đời con gái đặt cược dưới chân người
nàng yêu”, cuối cùng cũng đành than lên “đời ta đã phí hoài vì ta quá lệ
thuộc chàng” [15.471]. Chỉ có điều, ngƣời đọc cứ tin rằng nếu có kiếp sau
của Nhuệ Anh, nếu nàng vẫn là một ngƣời con gái thì bất chấp những nỗi khổ
đau đoạ xứ kiếp trƣớc, nàng vẫn cứ lao vào vòng tay ngƣời yêu để dâng hiến
hết mình nhƣ tiểu thƣ Nhuệ Anh năm nào, đơn giản vì nàng là một ngƣời con
gái. Và vì ngƣời "sinh ra" nàng, ngƣời phụ nữ viết Võ Thị Hảo vẫn cứ tâm
niệm rằng nếu đƣợc làm lại từ đầu, có hai cách: Tốt nhất là không ra đời. Nếu
phải ra đời, lại là Võ Thị Hảo, nhƣng nên ngào thêm mật ong cho đời đỡ
đắng.
Không nhƣ Từ Lộ - Thần Tông! Ngạn La "Con mèo hoang" tự hát về mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
“Không quân không thần, trên đầu không trời Ta làm nhà giữa đám mây trôi
68
Hoa sen làm thuyền, cuống sen làm chèo Thuỷ nữ Dâm Đàm bơi theo”… [15]. Ngƣời con gái này, vừa nhƣ thần tiên lại vừa nhƣ ma quỷ, quyến rũ, mê
hoặc trần gian, bằng vẻ hoang lạ trong đôi mắt có con ngƣơi màu tím nhạt,
bằng chiếc rốn chu sa thơm nức hƣơng hoa đồng nội tinh khiết duyên dáng.“
Một trinh nữ mãi mãi ở tuổi mười ba” với tiếng cƣời lanh lảnh và dáng điệu
nhảy nhót múa hát nhƣ một chú chồn. Nàng là hiện thân của tự do, tự do trƣớc
tất cả: quân thần, vàng bạc, giàn thiêu và cả tình yêu. Nàng không ham chốn
cung đình không khép nép trƣớc nhà vua nhƣ những cung nữ khác. Giàn thiêu
là nỗi sợ và cũng là nỗi ám ảnh với nàng, nhƣng cả hai lần giàn thiêu đƣợc lập
lên: Một ở đầu và một lần ở cuối tác phẩm nhƣ hai đầu của một dải lụa điều
siết chặt lấy sự sống cũng là hai lần nàng giãy giụa chống trả, dứt mình ra
khỏi ngọn lửa của lòng ghen và sự đố kị. Nàng yêu Thần Tông nhƣng không
mãnh liệt đến mức huỷ hoại đời mình vì tình yêu nhƣ Nhuệ Anh. Ở nàng khát
vọng lớn nhất là khát vọng đƣợc sống giữa thiên nhiên nhƣ tuổi thơ của nàng.
Song tất cả vẻ đẹp siêu thoát ấy mới chỉ là một nửa của con ngƣời Ngạn La.
Võ Thị Hảo đã rất tinh tế và nhạy cảm đồng thời thấu hiểu những gì thuộc về
con ngƣời, đã phát hiện ra một khát vọng thầm kín đầy nữ tính ẩn sâu trong cô
bé hoang lạ này. Đó là khát vọng đƣợc làm một ngƣời phụ nữ. Mƣời ba tuổi
bị bắt vào cung để làm một món ăn lạ"cải thiện" cho một ông vua già sáu
mƣơi ba tuổi Lý Nhân Tông. Nhƣng kiệu hoa mới đi đƣợc hết nửa đƣờng đã
phải vội vã quay về vì đức vua đang cơn hấp hối. Vẫn là một đứa trẻ, lần lỡ
làng đầu tiên ấy với nàng chƣa trở thành nỗi ám ảnh. Lần lỡ làng thứ hai với
vị vua trẻ Lý Thần Tông, gƣơng mặt tiên đế trong chiếc rốn chu sa chỉ là một
sự lạ, chƣa trở thành nỗi ám ảnh. Nhƣng lần thứ ba, thứ tƣ…mƣời năm sau
mà cô cung nữ với sắc đẹp quyến rũ mê hồn ấy vẫn còn là một trinh nữ, dù
không bị bỏ rơi nhƣng cũng tự biết mình “không thuộc về ai”. Nàng cũng lỡ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thì nhƣ một trăm mƣời ba cô gái ở hồ Dâm Đàm, một cử chỉ “nàng căng mình
69
chờ đợi” khi Thần Tông “ghé môi tới gần chiếc rốn đang đỏ dậy lên trong
ráng chiều”, cái dáng dâng hiến đầy nữ tính của ngƣời con gái trong cuộc
truy hoan đủ cho ta hiểu cơn khát mƣời năm nơi ngƣời con gái không tuổi
này. Với nàng tự do là một điều hạnh phúc, song trong sâu thẳm tâm hồn
nàng cũng là một sự giày vò đau khổ. Cái cảm giác muốn mình hoàn toàn
thuộc về một ai đó, muốn đƣợc thụ lãnh tình yêu của một ai đó, để thấy mình
bớt bơ vơ, lỡ dở, để thấy mình toàn vẹn niềm vui, nỗi buồn của một ngƣời đàn
bà, cũng nhƣ cảm giác của ngƣời con gái trong ca dao, biết rằng:“Gái có
chồng như gông đeo cổ”, nhƣng cũng còn hơn là: “gái không chồng như phản
gỗ long đanh”. Cựu hoàng Nhân Tông đã giết chết tuổi thơ nơi đồng cỏ bên
mẹ hiền của nàng, và lại cái bóng ma lạnh lẽo, ích kỉ Nhân Tông đã giết chết
tuổi thiếu nữ và niềm hạnh phúc ân ái hòa hợp của nàng bên Thần Tông. Cơn
khát thèm dục tính ấy, là cơn khát của sức sống phồn thực trong giới nữ, là
cơn khát trần gian, khát đƣợc làm vợ, bởi vì trên tất cả là niềm khao khát
đƣợc yêu thƣơng, giao cảm và chia sẻ với một ngƣời. Thế giới yêu của Võ
Thị Hảo đã có một hồn trinh nữ, đến Ngạn La lại thêm một trinh nữ nữa cô
độc, mong manh giữa nhân gian, chơi vơi, lẻ loi đến tội nghiệp.
Nhƣ vậy, những ngƣời phụ nữ với bi kịch trong tình yêu ta gặp rất nhiều,
ở hàng loạt các tác phẩm nhƣ đã kể trên, nhƣng hạnh phúc đến với họ quá đỗi
mong manh và ít ỏi so với những khổ đau chồng chất. Trong các truyện của
mình, nhà văn Võ Thị Hảo còn xây dựng một nghịch cảnh, là niêm vui và
hạnh phúc vừa đến chƣa đƣợc bao lâu hay đúng hơn là nhân vật của chị mới
đƣợc nhìn thấy chứ chƣa đƣợc tận hƣởng nó thì nó đã vĩnh viễn tuột mất khỏi
tầm tay họ. Đó là các truyện: Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữ, Con dại
của đá…Họ bị đổ vỡ hạnh phúc ngay trong đêm tân hôn. Ngoài những bi
kịch kể trên, trong sáng tác của Võ Thị Hảo ngƣời đọc còn hay gặp một bi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
kịch khác của các nhân vật nữ. Đó là bi kịch của sự bạc mệnh, của số phận
70
ngắn ngủi. Trong thế giới nhân vật nữ này, có một phần không nhỏ là nhân
vật nữ chết yểu "đoản mệnh" nhƣ ở trong các truyện: Tim vỡ, Nàng tiên xanh
xao, Hồn trinh nữ, Khát của muôn đời, Vườn yêu, Vũ điệu địa ngục, Ngậm
cười, Con dại của đá, Người sót lại của Rừng Cười, Giọt buồn giáng sinh,
Phiên chợ người cùi…Ở Giàn thiêu là cái chết trẻ của bốn mƣơi tám cung
nữ bị thiêu sống, đi theo để hầu hạ đức Tiên hoàng ở cõi cực lạc. Hoặc cái
chết của bẩy mƣơi sáu cung nữ trong cung Thƣợng Dƣơng vì bị bức tử và đặc
biệt là cái chết của ba ngƣời hầu gái trẻ đẹp của Hoàng thái hậu Ỷ Lan trƣớc
khi qua đời đã trăng trối: “Nhất thiết phải chôn sống ba người hầu gái để đi
theo hầu hạ thái hậu”…[15].
Qua đây chúng ta thấy số phận của nhân vật nữ trong sáng tác của Võ
Thị Hảo hiện lên vô cùng đa dạng, phong phú và chân thực. Mỗi ngƣời là đại
diện cho một cảnh đời, một số phận, không ai giống ai. Họ nhƣ từ cuộc đời
thực bƣớc vào trang sách và những cuộc đời ấy đều thấm đẫm những giọt
nƣớc mắt, nƣớc mắt của chính họ và nƣớc mắt của những ngƣời ngoài cuộc.
Từ cô gái chƣa chồng đến những ngƣời phụ nữ có chồng, những ngƣời nhiều
tuổi, tất cả họ đều khóc. Giọt nƣớc mắt đã trở thành một nhân vật đi bên cạnh,
song hành với cuộc đời họ, đeo bám lấy họ, và thật xót xa, những cuộc đời ấy
đều kết thúc không có hậu. Ngƣời thì chết, ngƣời thì điên, ngƣời thì bỏ
đi…tuy nhiên điều mà nhà văn gửi gắm đến độc giả là sức sống mãnh liệt
trong những cuộc đời ấy. Đồng thời cũng là sự bày tỏ quan niệm. Cuộc đời
ngƣời phụ nữ là muôn vàn nỗi khổ, xã hội hay đúng hơn là những ngƣời đàn
ông hãy hiểu, hãy cảm thông và chia sẻ, đừng bao giờ đƣa đến cho họ thêm
những nối sầu đau. Tất nhiên cái nhìn của tác giả nhiều khi mang tính chủ
quan, thậm chí có lúc còn cực đoan, song trên tất cả đọng lại ở những trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
viết đó là giá trị nhân văn cao đẹp. Là bản lĩnh của nhà văn khi dám phơi bày
71
đến tận cùng nỗi đau, tố cáo sự bất công phi lý cũng nhƣ khẳng định những
khát vọng của ngƣời phụ nữ. Đó là tiếng nói nữ quyền.
2.2.2. Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
Ngƣời phụ nữ luôn là biểu tƣợng cho những hình ảnh bền vững, cho sự
vĩnh hằng của cuộc sống. Những lời ca say đắm và lắng sâu nhất trên thế gian
này có lẽ là những lời ca dành để ngợi ca và tôn vinh nét đẹp của ngƣời phụ
nữ, mà vẻ đẹp đƣợc nhà văn Võ Thị Hảo phát hiện và ngợi ca không phải là
vẻ đẹp rực rỡ, lớn lao, phi thƣờng của một thời hào hùng mà đó là những vẻ
đẹp giản dị, đời thƣờng, nhỏ bé, khuất lấp gắn với từng cuộc đời, từng số
phận của từng con ngƣời. Vì vậy khi nói đến ngƣời phụ nữ ngƣời ta thƣờng
liên tƣởng tới vẻ đẹp trong tâm hồn mà nó đƣợc biểu hiện thông qua những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp của ngƣời phụ nữ.
Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo hiện lên nổi bật nhất, khó
quên nhất với những bi kịch, và mục đích chính của tác giả có lẽ là hƣớng vào
việc thể hiện những nỗi khổ đau, bất hạnh của ngƣời phụ nữ. Nhƣng đằng sau
những bi kịch đau thƣơng ấy ngƣời phụ nữ đƣợc hiện lên với những phẩm
chất đạo đức đẹp và ngời sáng, có lẽ bởi vì theo quan niệm nghệ thuật của chị
những ngƣời phụ nữ càng có phẩm chất tốt đẹp, cao quý bao nhiêu thì bi kịch
càng đƣợc tô đậm thêm bấy nhiêu. Đáng lẽ con ngƣời có phẩm chất nhƣ vậy
phải đƣợc hƣởng một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc. Nhƣng ngƣợc lại, đặt
trong tƣơng quan với nỗi khổ đau, những nét đẹp tâm hồn của ngƣời phụ nữ
càng tỏa sáng, càng đáng trân trọng và ngợi ca.
Trong sáng tác của Võ Thị Hảo, những ngƣời phụ nữ thƣờng hiện lên
với tấm lòng vị tha bao dung, độ lƣợng, đầy tình yêu thƣơng nhân ái, với đức
hi sinh cao cả, và sự tần tảo, bền bỉ, chịu đƣng. Có thể nói đây là một đặc
trƣng cho phẩm chất đạo đức của ngƣời phụ nữ Việt Nam (truyền thống) và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
hình ảnh ngƣời phụ nữ trong sáng tác của nữ nhà văn này dƣờng nhƣ cũng
72
mang dáng hình chung của ngƣời phụ nữ Việt Nam muôn đời. Họ thƣờng
nhận nỗi đau, phần thiệt thòi về mình, họ hi sinh và làm tất cả vì ngƣời mình
yêu, vì niềm vui và hạnh phúc của ngƣời khác. Nhƣ nhân vật nàng trong Dây
neo trần gian yêu bằng cả trái tim chân thành, sẵn sàng làm tất cả chỉ mong
mang lại niềm vui và hạnh phúc cho ngƣời mình yêu và cứu sống anh- một
ngƣời mà cô biết sẽ không bao giờ thuộc về mình. Hay ngƣời mẹ trong
Chuông vọng cuối chiều yêu chung thủy và nuôi con chờ đợi chồng trong
những năm chồng đi công tác. Khi đối diện với sự phản bội của chồng, ngƣời
mẹ đó đã âm thầm chịu đựng sự đớn đau, giày vò về mặt tinh thần nhƣng
cũng rất bao dung độ lƣợng, sẵn sàng tha thứ cho lỗi lầm của chồng để cứu
vớt một ngƣời đàn bà khốn khổ, ngƣời đã làm tan vỡ hạnh phúc gia đình chị.
Bởi ngƣời mẹ đã nhận thấy số phận của ngƣời đàn bà kia còn bất hạnh hơn
mình, bà ta yếu và xấu xí… bà ta đi tu chỉ vì không hi vọng tìm đƣợc một
chút hạnh phúc nơi trần thế và…“Sự xa vợ của ông là dịp may duy nhất trong
đời người đàn bà ấy”…Với tấm lòng vị tha đầy tình yêu thƣơng nhân ái, ngƣời
mẹ đã chấp nhận nuôi và chăm sóc con của chồng với ngƣời đàn bà khác.
Bích trong Khăn choàng sương, với tấm lòng vị tha bao dung độ lƣợng
và đầy tình yêu thƣơng nhân ái, đã chiến thắng chính mình để vì cuộc sống
của mình cũng nhƣ những ngƣời xung quanh. Trƣớc sự phản bội của chồng,
chị chỉ còn biết âm thầm đau đớn và âm thầm tha thứ để cảm thông, chia sẻ
với những ngƣời đàn bà bất hạnh khác nỗi khổ cũng nhƣ bi kịch tình yêu với
chồng mình.
Thảo trong Người sót lại của Rừng Cười mặc dù rất yêu Thành, bởi với
cô ngày còn ở chiến trƣờng chính tình yêu với Thành và niềm khát khao hạnh
phúc đƣợc trở về, đƣợc đắm mình trong vòng tay ngƣời yêu chính là “một
trong những đốm lửa sáng nhất giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
dã chốn rừng sâu”. Thế nhƣng khi trở về bên cạnh ngƣời yêu, cô lại thật xót
73
xa khi nhận ra “Thành gắn bó với cô chỉ bằng nghĩa chứ không có tình”. Nhất
là khi thấy anh và cô bạn gái cùng lớp đang thầm yêu nhau, họ đẹp đôi và ở
gần nhau. Vậy mà nhiều lần Thảo bảo anh rời xa cô để yêu ngƣời khác thì anh
không chịu và rồi cô đã tự nguyện lùi bƣớc, nhƣờng Thành cho ngƣời con gái
đó. Vì nếu tiếp tục yêu cô, Thành sẽ không hạnh phúc, sẽ chịu nhiều thiệt
thòi. Vì yêu và mong ngƣời mình yêu đƣợc hạnh phúc mà cô đã tự nguyện hi
sinh tình yêu vô bờ của mình nhƣờng Thành cho ngƣời con gái khác và nhận
về mình những thiệt thòi, những đau đớn, xót xa. Truyện Nàng tiên xanh xao
lại là một ngƣời con gái giàu lòng nhân ái và đức hi sinh. Bởi cô đã tự nguyện
hiến một nửa máu chảy trong huyết quản của mình để cứu sống một tràng trai
xa lạ “chưa từng biết mặt, chưa từng biết tên”. Còn Khát của muôn đời ta lại
gặp một cô gái có tấm lòng bao dung độ lƣợng, vị tha, đầy lòng yêu thƣơng
nhân ái và đức hi sinh cao cả, bởi vì cô đã không ngại gian nan vất vả, không
quản cái chết, không quản hi sinh bản thân mình để đi tìm ngƣời yêu.Và
nguyện trở về kiếp trƣớc vẫn xin đƣợc làm linh hồn của cây chanh bên dòng
suối cạn, để cứu giúp những ngƣời sau đó. Những nhân vật nữ bị lỡ làng, bị
phụ bạc một phần bởi theo họ cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có
tình yêu: “Thử hỏi thế gian này không còn ai biết mình, không còn ai si mê,
không còn tìm đâu ra một kẻ biết yêu…ở trong ngực mọi người chỉ còn là
băng giá, chẳng còn những H'Điều không quản cái chết đi tìm người yêu thì
liệu có đáng còn thế giới này chăng?” Ở truyện Đường về trần ngƣời đọc
cũng sẽ gặp một ngƣời phụ nữ giàu đức hi sinh, bà đã hy sinh thân mình cả
đời vì chồng, vì con, để vun vén gia đình. Qua lời kể của bà ta thấy sự chịu
đựng cũng nhƣ đức hi sinh của ngƣời phụ nữ đó cho gia đình lớn lao thế nào.
Sống với một nguời chồng tai ngƣợc, quái ngở luôn hành hạ, giày vò bà cả về
thể xác lẫn tinh thần, ngày thì thiu thiu ngủ nhƣng khi đêm đến mẹ con bà lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
giƣờng đi ngủ thì ông “Sùng sục rít thuốc, đá thúng đụng nia và chửi rủa, chì
74
chiết”… Bà sống với chồng nhƣng trong nỗi đau khổ, sợ hãi và chán trƣờng
để nuôi dạy các con khôn lớn, trƣởng thành, để ngăn các con không đƣợc tự
tử chỉ vì không chịu nổi bố, để khuyên các con tu chí làm ăn… Còn bà Diễm
trong truyện Người gánh nước thuê là ngƣời trầm tính, ít nói, nhƣng ẩn sâu
trong dáng hình xấu xí, trái ngƣợc với cái tên Diễm là một con ngƣời đôn hậu,
giàu lòng nhân ái, biết yêu thƣơng, cảm thông và chia sẻ với những ngƣời cùng
cảnh ngộ…Nhuệ Anh trong Giàn thiêu, một tiểu thƣ xinh đẹp, một cành vàng
lá ngọc yêu Từ Lộ bằng một tình yêu trong sáng, thiết tha đƣợc dâng hiến
đƣợc hi sinh cho ngƣời mình yêu và chung thủy tuyệt đối. Nàng cũng nhƣ bao
ngƣời con gái khác ƣớc mong tình yêu kết trái chín hạnh phúc, đƣợc sống một
cuộc sống yên bình. Tình yêu khắc cốt ghi tâm, ghi lòng tạc dạ của Nhuệ Anh
đối với Tƣ Lộ đã trở thành mục đích sống duy nhất, lớn lao nhất của nàng. Vì
tình yêu chân chính và trong sáng ấy mà nàng đang tâm từ bỏ mẹ cha, gia
đình, tự nguyện dấn thân vào cuộc đời trầm luân khổ ải, đi theo tiếng gọi của
trái tim tha thiết yêu thƣơng. Thân gái dặm trƣờng nàng lặn lội cất công đi tìm
dấu vết của Từ Lộ ở khắp nơi với mong ƣớc, khát khao cùng chàng đồng cam
cộng khổ vƣợt qua kiếp nạn. Khát vọng tình yêu chân chính của Nhuệ Anh
với Từ Lộ không chỉ là khát khao đƣợc sẻ chia, ghánh vác, nguyện nhƣ chim
liền cánh, nhƣ cây liền cành mà còn là khát khao dâng hiến, hi sinh, sống hết
mình cho tình yêu và vì tình yêu.
Các nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo không chỉ hiện lên với
những phẩm chất tốt đẹp đó mà còn hiện lên là những ngƣời phụ nữ với trái
tim trong sáng, thánh thiện, thủy chung và cao thƣợng trong tình yêu. Ngƣời
con gái trong Hồn trinh nữ đã chờ đợi ngƣời yêu đi lính suốt mƣời bẩy năm
trời mà không có một chút tin tức của ngƣời yêu, đến quá lứa lỡ thì. Tình yêu
của nàng dành cho chàng trai lính chiến đó thật thuỷ chung son sắc, chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thành và mãnh liệt. Chính sức mạnh của tình yêu đó đã chiến thắng thời gian.
75
Còn Hải trong Mắt miền tây yêu Tuấn bằng một tình yêu trong sáng, thánh
thiện. Chị luôn quan tâm chăm sóc, lo lắng cho Tuấn, mặc dù bị Tuấn đối xử,
đánh đập, và hành hạ tệ bạc nhƣng chị vẫn tha thứ, vẫn hi vọng có thể làm
thay đổi con ngƣời Tuấn bằng những bức ảnh về gia đình anh. Đó là một
ngƣời phụ nữ thánh thiện và cao thƣợng…
Cùng những phẩm chất trên thì tính tự trọng cũng là một phẩm chất đạo
đức đáng quý mà ngƣời đọc bắt gặp ở một kiểu nhân vật nữ khác, những con
ngƣời tƣởng chừng nhƣ xấu xa, đáng khinh bỉ, những con ngƣời sống tầng lớp
dƣới đáy xã hội nhƣ cô gái điếm trong Biển cữu rỗi. Mặc dù là gái điếm, một
cô điếm “đã thiu, bị liệng ra bãi thải, ốm nhách và vô phương sinh sống”,
trƣớc cái nhìn đầy khinh miệt của ngƣời đàn ông đảo đèn thì cô gái điếm đó
“thấy nhục và quờ tay tìm cái nón che người”…Bƣớc đƣờng cùng nên cô mới
phải tìm đến với anh nơi đảo hoang, mong tìm đƣợc một chỗ dựa, một nơi để
bấu víu những ngày cuối đời nhƣng ƣớc mong bình dị đã bị sự ích kỷ của
ngƣời đàn ông đó dập tắt, không ngoài sự ghê tởm nhƣng khi ân ái với cô, anh
đã coi cô không khác gì một con bò. Một cô gái điếm nhƣng đâu phải không
có lòng tự trọng, anh đã không nhận ra“tận cùng nơi hình hài tã tượi kia vẫn
còn chút lòng tự tôn của giống người”. Cô thấy nhục nhã bởi“Trong đời hành
nghề của thị, thị chưa bao giờ cảm thấy đau đớn đến như thế trước sự hạ
nhục của trò chăn gối. Dường như thị đang bị cầm kìm rứt từng khúc ruột”.
Trong truyện Tim vỡ nhân vật nàng lại thất vọng ê chề vì những ngƣời đàn
ông “chỉ dừng lại nơi làn môi, khóe mắt và thân xác hứa hẹn đầy lạc thú” của
những ngƣời đàn bà, nhận ra sự thật phũ phàng đƣợc thốt ra từ chính miệng
ngƣời đàn ông mà nàng vẫn gọi là chồng kia, một mình nàng quằn quại với
nỗi đau và chết trong nỗi đau đó nỗi đau không chỉ của riêng nàng mà đó là
nỗi đau của cả thế giới đàn bà, vậy mà nó lại chất chứa nơi trái tim bé bỏng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tội nghiệp của nàng. Nhân vật Nàng trong truyện Người đàn ông duy nhất
76
chỉ vì là con của một gái làng chơi yểu mệnh, mà điều mong ƣớc đƣợc sống,
đƣợc yêu thƣơng, đƣợc có ngƣời bảo vệ và che chở cho nàng nhƣ những
ngƣời bình thƣờng khác mà không thể đƣợc. Bởi“những người đàn ông tử tế
không bao giờ muốn lấy con của một gái làng chơi” làm vợ, nên nàng cứ liên
tiếp lấy những ngƣời chồng không nhƣ ý muốn và ngƣời sau thì thấp cấp hơn
ngƣời trƣớc. Để rồi trƣớc sự đuổi đánh, xúc phạm của chồng nàng ở giữa chợ,
lòng tự trọng trong nàng dâng lên. Nàng thấy nhục nhã và quyết tâm rời bỏ
căn nhà "ma ám" mà mẹ nàng đã để lại cho nàng rồi ra đi…Nhƣ vậy nhân vật
phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo thực sự là những ngƣời có phẩm chất
đạo đức tốt đẹp. Họ đại diện cho những ngƣời phụ nữ có tâm hồn trong sáng,
thánh thiện, giàu lòng nhân ái, giàu đức hy sinh và hơn cả là đầy lòng tự
trọng. Đó là phẩm chất của ngƣời phụ nữ Á đông nói chung và của ngƣời phụ
nữ Việt Nam nói riêng, những con ngƣời giàu đức hi sinh và giàu lòng vị tha.
Trong văn học truyền thống chúng ta bắt gặp không ít những ngƣời phụ nữ tài
sắc đức hạnh nhƣng cuộc đời vẫn đầy oan trái nhƣ Vũ Thị Thiết trong truyện
Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Hay nàng Kiều trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du…Dù có những đức tính quý giá ấy, dù nhận thức rõ sự
bất công hoặc ý thức rõ về quyền đƣợc hƣởng họ vẫn sống, vẫn có nó nhƣ bản
năng nhƣ phẩm chất sẵn có.Viết về những phẩm chất đáng quí của ngƣời phụ
nữ, Võ Thị Hảo không chỉ ca tụng mà chị còn khẳng định một sức mạnh tiềm
ẩn sâu sa và mạnh mẽ của họ. Sức mạnh ấy còn hơn một lời tố cáo, hơn một
sự khẳng định. Nó là chân lý, là thiên đƣờng.
2.2.3.Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
“Giới tính luôn bị quy định bởi truyền thống văn hóa tập tục, giáo dục,
tôn giáo, chính trị…nghĩa là toàn bộ những gì ta cảm thấy qua cách nhìn
nhận của một cá nhân hay tập thể về tính cách nam- nữ. Và vấn đề giới tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thực chất là vấn đề thể hiện một hệ thống biểu trưng hay hệ thống ý nghĩa nối
77
liền các giống với những nội dung văn hoá tương ứng với những giá trị và
đẳng cấp xã hội tương ứng”[2]. Trƣớc kia do hoàn cảnh văn hoá xã hội, do
mô thức đạo đức phong kiến đã khống chế tƣ duy của ngƣời viết nữ Việt Nam
trong một thời gian dài, từ ảnh hƣởng của đạo Khổng, Mạnh và Phật giáo đến
tinh thần thanh giáo của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà vấn đề giới tính
cũng nhƣ đề tài tính dục ít đƣợc nói đến hay đúng hơn là bị cấm.
Trong thực tế, văn học Việt Nam trƣớc đây vấn đề giới tính hay vấn đề
tính dục luôn thuộc “khu vực đèn đỏ, vùng cấm địa” ngay cả phái nam cũng ít
khi dám công khai viết. Bởi thế khi các nhà văn nữ dám công khai viết về tính
dục thì đƣơng nhiên họ sẽ bị sức ép từ nhiều phía, nam giới có, dƣ luận có, và
ngay cả những ngƣời thân của chính họ nữa… Phẩm chất, nhân cách họ bị hạ
thấp thậm chí còn bị rè bỉu, khinh bỉ với các hệ từ không mấy thiện cảm nhƣ
“đĩ thõa, xấu xa, đồi trụy”…“Diễn trình giải phóng dục tính nữ trong lịch sử
là một quá trình mà ở đó, giới nữ đi từ khách thể dục tính đến chủ thể dục
tính. Tính dục của giới nữ đi từ quan niệm như là nghĩa vụ và thiên chức(làm
mẹ) chuyển sang như là đam mê và quyền lực (cái đẹp). Vai trò người đàn
ông cũng chuyển hóa từ kẻ thống trị và chiếm đọat, trở thành một đối
tác…[55]. Tuy nhiên không nên đồng nhất giải phóng tính dục với nữ quyền
mà tính dục chẳng qua chỉ là một công cụ để các nhà văn nữ “bung thoát” ra
khỏi vòng kim cô bất bình đẳng về giới trƣớc đây, để họ dám bày tỏ, cũng
nhƣ dám nói những điều mình mong muốn, những khát vọng bản năng thầm
kín, dám thật với cảm giác của mình.
Văn học sau 1975 nhìn nhận con ngƣời ở góc độ thế sự, đời tƣ đƣợc đặt
trong quan hệ với cuộc sống hàng ngày, với nhiều lo toan, nhiều va đập của
cuộc sống. Bởi vậy con ngƣời cũng đƣợc bộc lộ hết mình với nhiều mặt tính
cách và ngày càng trở nên bí ẩn hơn, phức tạp hơn. Trong mạch chảy chung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ấy của văn học đƣơng đại, sáng tác của Võ Thị Hảo cũng khai thác con ngƣời
78
cá thể, ở đó các nhân vật đƣợc đặt trong nhiều khía cạnh khác nhau của đời
sống. Họ xuất hiện với tất cả các mặt tốt- xấu, cao cả- thấp hèn…với tƣ cách
con ngƣời trần thế của mình, dám nói những điều mình muốn, mình nghĩ…Vì
trong xã hội dân chủ mỗi ngƣời đƣợc tự do sống với niềm tin cá nhân của
mình, đƣợc quyền khẳng định vị thế, giá trị, nhân cách của mình và nó còn
đƣợc thể hiện ở “sự trỗi dậy của tình dục như một cách giải toả những ẩn ức
bị đè nén bấy lâu” [55], ở khát vọng tình yêu trần thế, ở sự chủ động trong
tình yêu trong hạnh phúc cá nhân, đó chính là sự biểu hiện một ý thức sâu sắc
về nữ quyền trƣớc vấn đề tình dục. Họ, những ngƣời phụ nữ luôn khát khao
yêu thƣơng, căng đầy sức sống phồn thực, sẵn sàng quẫy đạp để thoát ra khỏi
sự cầm tù của những khuôn khổ chật chội, của những định kiến xã hội, của
những tập tục hay mô thức đạo đức phong kiến. Nàng Sải trong Con dại của
đá và tiểu thƣ Nhuệ Anh trong Giàn thiêu là những ngƣời phụ nữ nhƣ thế.
Khát khao yêu thƣơng, họ yêu bằng một tình yêu thiết tha trong sáng, bằng
niềm đam mê mãnh liệt. Khi yêu họ không còn cái mặc cảm, e dè, sợ hãi,
không còn sợ sự trói buộc của gia đình, xã hội hay những tập tục, cũng nhƣ
giáo lý phong kiến ngăn cản. Họ sẵn sàng yêu và chấp nhận vƣợt qua tất cả để
đến với ngƣời mình yêu, họ dám sống thật với chính cảm xúc khát khao của
mình, dẫu biết rằng cái kết cục của những mối tính ấy không mấy tốt đẹp
nhƣng vẫn chủ động yêu, sẵn sàng làm tất cả để giành và giữ tình yêu ấy.
Nàng Sải trong Con dại của đá và Nhuệ Anh trong Giàn thiêu đều bỏ trốn
trong đêm tân hôn. Sải thì tìm đến nhà ngƣời yêu, đòi ngƣời yêu đƣa mình bỏ
trốn, thấy Sải hắn nói “Đến đấy làm gì? đêm nay phải ngủ với chồng mới chứ!
Hắn nói rồi ôm Sải. Đôi tay đã đặt trên ngực nàng, sờ sẫm”…Con dại của
đá. Còn Nhuệ Anh một tiểu thƣ xinh đẹp, một cành vàng lá ngọc, con quan
ngũ phẩm Tôn Trinh, đƣợc hứa hôn và yêu Từ Lộ bằng một tình yêu trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
sáng, thiết tha. Nàng khao khát đƣợc hiến dâng, hi sinh và thủy chung tuyệt
79
đối với ngƣời mình yêu. Vì tình yêu sâu nặng đó mà nàng dám bỏ Lý Câu-
công tử duy nhất của Diên Thành hầu Hoàng thân, trong đêm hợp cẩn của lễ
tiểu đăng khoa và đang tâm từ bỏ cả cha mẹ, gia đình để đi theo tiếng gọi con
tim. Để đƣợc hiến dâng, đƣợc thụ hƣởng niềm hạnh phúc tột cùng trong men
say tình yêu khi hai trái tim, hai tâm hồn, hai thể xác hòa quyện làm một. Đó
là dây phút thăng hoa tuyệt diệu nhất của tình yêu và cũng là niềm hạnh phúc
duy nhất có đƣợc trong đời nàng:“Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vùng
ngực nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, bạo
liệt như đá rừng rực tỏa hơi nóng dưới ánh nắng mặt trời pha lẫn hơi mưa
tươi tắn và trinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt lại như lạc
vào cõi phiêu bồng. "Từ Lộ… Em là vợ chàng!". Thân thể của Nhuệ Anh quằn
quại trong những tiếng lắp bắp đứt đoạn tắc nghẹn, theo những giọt máu đỏ
ứa ra từ trong tim…Một cảm giác nghẹn ngào lan tỏa cùng với nỗi lòng chan
chứa biết ơn người đã mang lại cho nàng niềm khoái lạc mêng mang và nỗi
đau đớn trần thế kỳ diệu”.[15,tr.211-212]. Sải và Nhuệ Anh là những ngƣời
phụ nữ dám sống thật với những cảm xúc khát khao của mình. Điều này cho
thấy ý thức cá nhân, yếu tố riêng đã "cựa quậy" để thoát ra khỏi những ràng
buộc cố hữu.“Đây không phải là điều dễ thấy trong hình ảnh những người
phụ nữ trước đây, khi mà gánh nặng“tam tòng”còn đè nặng lên vai. Từ đó đã
dần hé lộ ra những dấu hiệu ý thức“nữ quyền” một cách kín đáo nhưng
không kém phần quyết liệt”[55].
Tình yêu vốn rất đa dạng và phong phú, không chỉ ở lứa tuổi, ở tầng lớp
ngƣời yêu mà còn muôn hình vạn trạng, muôn vàn cung bậc khác nhau. Nếu
trƣớc đây ta chỉ quen nghe đến những tình yêu lý tƣởng, tình yêu cao thƣợng
hay tình yêu đau khổ, thì nay những hình dung từ đó đã trở nên “lỗi thời” và
ngƣời ta nghe thấy nhiều hơn những tình yêu phút chốc, tình yêu bản năng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tình yêu bồng bột, tình yêu tự do…Nhà văn Võ Thị Hảo cũng đã khám phá
80
tình yêu ở nhiều đối tƣợng, từ những cảm xúc của cô gái mới lớn trong Vườn
yêu đến tình yêu của một cô gái mù loà tƣởng nhƣ không thể có tình yêu
trong Làn môi đồng trinh. Đặc biệt nhà văn còn khám phá tình yêu ở một góc
độ trái với truyền thống trong Tình yêu mây trắng với thái đột trân trọng,
đồng cảm. Phải nói rằng, chƣa bao giờ trong văn học nói đến tình yêu lại đề
cập đến vấn đề dục vọng cá nhân nhiều nhƣ thế và vấn đề tính dục đƣợc khai
thác cặn kẽ, mạnh bạo khiêu khích hơn bao giờ hết. So với các cây bút nữ
cùng thời, trong sáng tác của Võ Thị Hảo vấn đề bản năng đƣợc đề cập và thể
hiện cũng khá táo bạo. Sống với bản năng của mình, lòng dục quá lớn, nên
nhân vật của chị dễ mắc phải lỗi lầm, những ngƣời phụ nữ đến với những tình
yêu chớp nhoáng, phút chốc, hay đổi chác hoặc ngoại tình…Nhƣ ngƣời vợ
anh lính gác đèn nơi đảo hoang trong Biển cứu rỗi chị tìm đến những mối
tình,“ những cuộc giao hoan vội vã” bởi chiến tranh “cả làng trắng đàn
ông”,bởi trong khi tạo hóa sinh ra đàn bà chỉ để làm chiếc dây leo đẹp quấn
yểu điệu quanh cây đại thụ- ngƣời đàn ông. Chị cũng có những khát khao bản
năng thầm kín, những ham muốn nhƣ bao ngƣời khác, chỉ có điều chị dám
sống thật với những cảm xúc những ham muốn đó, dám là chính mình, chấp
nhận khi hạnh phúc dở dang, gia đình tan vỡ. Khao khát một tình yêu đích
thực, đôi khi ngƣời phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo nhẹ dạ tới mức
ngây thơ và thậm chí ảo tƣởng nhƣ ngƣời Dì trong Vườn yêu, nàng Sải trong
Con dại của đá, ngƣời vợ Thanh trong Phúc Lộc Thọ lên trời… đã chạy theo
tiếng gọi của ái tình để rồi phải đón nhận những kết cục không mấy tốt đẹp:
tình yêu dang dở, hạnh phúc gia đình tan vỡ, thậm chí họ còn phải trả giá
bằng cả mạng sống của mình.
Những ham muốn bản năng trong sáng tác của Võ Thị Hảo, ta có thể bắt
gặp đâu đó trong cuộc sống đời thƣờng, đƣợc nhà văn nói đến với hai thái độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khác nhau, vừa trân trọng, vừa phê phán. Mỗi cá nhân có quyền đƣợc sống
81
theo những gì mình muốn theo những khát khao bản năng thầm kín của mình,
nhƣng nếu vƣợt quá giới hạn của nó sẽ thành xấu, thành ích kỷ. Có những lúc
nhà văn viết với niềm cảm thông sâu sắc, đó là khi thấy những “người con gái
hoàn toàn trần truồng tóc xoã, vẻ mặt bơ phờ, và đang ngửa cổ ra sau cười
khanh khách”Người sót lại của Rừng Cười. Cũng có khi nhà văn nói về tính
dục nhƣ một cõi thiêng đầy trân trọng, đó là khi nó là kết quả của tình yêu, là
sự kết hợp với tình yêu giữa Nhuệ Anh và Từ Lộ. Cũng có khi nhà văn viết
với một thái độ phê phán khi bản năng trở nên phi thánh thiện ở những cô gái
nhà hàng Hƣơng Đêm trong truyện Máu của lá, cô tiếp viên xinh đẹp ở nhà
hàng Queen trong Tiếng vạc đêm, ngƣời đàn bà góa nằm trong hội đồng nhân
dân xã trong truyện Phúc Lộc Thọ lên trời hoặc cô gái điếm nghiệp dƣ tên
Trầm trong Mắt miền tây…Cô gái điếm hết thời trong Biển cứu rỗi lại đƣợc
nhà văn bày tỏ niềm thƣơng xót khi cô tìm đến ngƣời lính gác đèn nơi đảo
hoang, một phần vừa để thỏa mãn những cơn khát thèm của ngƣời đàn ông
đó, một phần cô muốn tìm chỗ dựa, một cánh tay cứu vớt cô trong những
ngày cuối đời. Võ Thị Hảo thậm chí đã cảm nhận đƣợc lòng tự trọng của cô
gái tội nghiệp ấy khi cô biết nhục trƣớc ánh mắt sắc lạnh, khinh miệt của
ngƣời đàn ông.
Cùng với sự thể hiện những ham muốn mang tính bản năng của ngƣời
phụ nữ thì cái nhìn mang tính dục vọng của nhân vật có khi lại thấm đẫm vào
cảnh vật nhƣ trong Miền bọt, Đêm bướm ma,Vườn yêu, Lửa lạnh, Dã nhân,
Lãnh cung...
Võ Thị Hảo viết về những khao khát, ham muốn bản năng thầm kín,
không nhẹ nhàng, kín đáo và ủy mị nhƣ trong truyện Tân cảng, Phù thủy …
của Nguyễn Thị Thu Huệ và lại càng không quá táo bạo, mãnh liệt, nhẩm nha,
đầy thấm thía và ẩn ý nhƣ trong Bóng đè, Tình chuột…của Đỗ Hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Diệu…Viết về tình dục, mỗi nhà văn viết với những cách thức khác nhau và
82
dù ở mức độ nào thì họ cũng đã từng bƣớc khẳng định tiếng nói của giới mình
trong văn chƣơng. Tuy nhiên trong quá trình khẳng định bản ngã của nữ giới,
nhà văn có thể miêu tả những khoái cảm tình dục nhƣng điều đó không đồng
nghĩa với việc coi giải pháp tình dục là con đƣờng duy nhất để giải phóng cá
nhân. Cần phải nhìn tình dục vừa nhƣ một họat động bản năng vừa có ý nghĩa
văn hóa. Bởi thế, trong văn học, tính dục phải hiện lên nhƣ một yếu tố văn
hóa và nhà văn có thể thông qua tính dục để biểu đạt những vấn đề nhân sinh
một cách có nghệ thuật. Một xã hội giải phóng cá nhân, giải phóng con ngƣời
với những khát khao sống thật là mình, xã hội ấy tiến bộ nhƣng khi quá đà nó
sẽ tạo một sự lố bịch, ảnh hƣởng đến văn hoá sống.Võ Thị Hảo đã xây dựng
những nhân vật dám sống thật là mình. Nhà văn vừa cất tiếng bênh vực, ca
tụng quyền thiêng liêng của con ngƣời đồng thời muốn áp chế thái độ bất
công của xã hội phƣơng Đông khi coi ngƣời phụ nữ chỉ là công cụ trong tay
những ngƣời khác phái.Võ Thị Hảo nói đến tính dục cũng nhƣ những nhà văn
nữ khác nói về tính dục, họ còn muốn khẳng định những giá trị của tính dục
trong nhận thức, trong khát vọng bản năng của nữ giới. Qua tính dục đòi hỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
một sự trân trọng triệt để đối với nữ giới.
83
Chương 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Trong quan niệm của Võ Thị Hảo ngƣời phụ nữ luôn là sự kết tinh mọi
vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết. Khi khắc họa ngoại hình ngƣời phụ nữ, nhà
văn luôn chú ý quan sát và tập trung miêu tả những chi tiết đặc trƣng cho nét
bên ngoài của họ nhƣ vóc dáng, khuôn mặt, đến mái tóc và ánh mắt…đó là
nơi phô ra bản thể của ngƣời phụ nữ mà ngƣời ta dễ nhận thấy nhất.
Võ Thị Hảo cũng tỏ ra là ngƣời có biệt tài trong việc khắc họa ngoại
hình nhân vật, bởi ngay từ diện mạo của nhân vật đã có thể gây một ấn tƣợng
đặc biệt, một sự ám ảnh hằn sâu trong tâm trí ngƣời đọc. Phần lớn các nhân
vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo cũng gây ấn tƣợng bên ngoài nhƣ vậy.
Họ là những con ngƣời có số phận đau khổ, hẩm hiu, quằn quại. Chính cái
quằn quại đau đớn đó của số phận đã phần nào thể hiện qua những nét nhăn
nhúm ở ngoại hình nhân vật, tiêu biểu nhƣ bà Diễm trong Người gánh nước
thuê. Bà hiện lên méo mó nhƣ chính số phận của bà vậy:“Dáng người bà
Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo gầy sạm chỉ còn hai con mắt, bà vừa đi
vừa lắc lư cái lưng còng”. Ngay đến cả cái đòn gánh của bà cũng tạo nên một
sự ám ảnh day dứt lớn đối với ngƣời đọc vì “Chiếc đòn gánh không bao giờ
rời khỏi đôi vai còm cõi của bà…nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã
nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó được đẽo gọt từ
một thân cây tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón
đợi đôi vai còm cõi của bà”. Thực sự nó và chủ nhân của nó hợp thành một
chỉnh thể của sự bất hạnh.
Hay nhân vật Ni cô trong Chuông vọng cuối chiều là một ngƣời đàn bà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
có số phận bất hạnh. Đi tu, phá giới, bị ngƣời đời coi khinh, phải sống tha
84
hƣơng trốn chui trốn lủi trong một ngôi chùa hoang và chết nơi đất khách quê
ngƣời, đƣợc tác giả miêu tả: “Khuôn mặt kỳ dị với chiếc đầu cạo trọc nham
nhở tuột ra khỏi tấm khăn nâu nhà chùa. Đôi má hốc hác với nước da óng
ánh vàng trong, rất mịn nơi hai gò má nhọn hoắt. Cái mũi gò lên như mũi phù
thuỷ”. Còn Ngần trong truyện Ngày không mút tay là ngƣời đàn bà khốn khổ
đƣợc khắc họa với:“Đôi mắt đen dài lúc nào cũng nhìn xuống. Cái nhìn lặng
lờ như mặt giếng…tấm lưng mỏng như lá lúa…gầy còn yếu ớt nhưng nàng là
chiếc ruột ốc èo uột phải cõng cả một tòa vỏ nặng lê đi, lê mãi không được
ngừng nghỉ”…Ả Tuynh trong Dệt cỏ là một ngƣời đàn bà bất hạnh đƣợc miêu
tả với “đôi mắt ả cum cúp nhẫn nhịn…và những ngón tay cong queo,đen
đúa”. Cả đời ả vất vả, lam lũ mà đói nghèo bệnh tật và bất hạnh cứ đeo bám
mãi không rời:“áo ngày một rách thêm, lưng còng, tóc trụi như con gà chọi
già, bị bệnh đường ruột mãn không có thuốc chữa. Rồi ả Tuynh chết trên
giường, khô gầy như con cá mắm”…Nhƣ vậy chỉ với vài chi tiết miêu tả
ngoại hình nhƣng Võ Thị Hảo đã cho ngƣời đọc thấy những nhân vật phụ nữ
đó hiện lên thật sống động đầy vất vả lam lũ khổ đau và bất hạnh nhƣ chính
số phận của họ. Nhƣng bên cạnh đó không phải không có những ngƣời phụ
nữ đƣợc Võ Thị Hảo khắc họa với vẻ đẹp tuyệt thế, nhà văn đã dùng những
ngôn từ đẹp nhất "đắt nhất" để gợi lên vẻ đẹp của họ, đó là tiểu thƣ Nhuệ
Anh. Võ Thị Hảo đã rất tinh tế khi để hình ảnh nhân vật Nhuệ Anh dần dần
đƣợc hiện ra qua con mắt của Từ Lộ, ngƣời yêu nàng say đắm và đặc biệt là
đƣợc thể hiện trên cây đèn lồng mỹ nhân: “đường viền đi qua cằm và hai
mang tai không mềm dịu”, các mỹ nhân đƣợc coi là tuyệt sắc đƣơng thời bao
giờ cũng phải có chiếc cằm tròn và gƣơng mặt nở nang nhƣ khuôn trăng
“nhƣng chiếc cằm có đường viền cứng cỏi của nàng lại hòa hợp kỳ lạ với đôi
mắt dài như hai nét bút bay bướm được phác qua bởi cơn thần hứng của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhà thư họa biến thành đôi dòng sông thăm thẳm khôn dò. Nửa buồn, bửa vui
85
khóe mắt như nước đong. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực đôi mắt là đường mày
màu khó nhạt dường như hơi cau đa đoan đến não lòng. Nhưng đó lại là cái
nét cau cau quyễn rũ đến thiêu đốt lòng người của nàng”[15]. Sau cơn gia
biến của nhà Từ Lộ, chàng đã chọn ngôi miếu hoang làm nơi ẩn náu để tránh
mọi điều bất trắc, nuôi chí đợi cơ hội trả thù và ở đây hình ảnh Nhuệ Anh lại
một lần nữa đƣợc hiện lên qua con mắt ngắm nhìn của Từ Lộ:“Chiếc cằm
thanh tú hơi nặng ra vì khóc nhiều, những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước
trán, rủ thành lọn bên thái dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyễn
rũ”…[15]. Từ Lộ xót xa bội phần khi ngắm nhìn vị hôn thê và nếu cha chàng
không chết vì tay Đại Điên và Diên Thành hầu thì gƣơng mặt đẹp não lòng và
thân hình trời cho kia sẽ mãi mãi kề cận bên chàng và mãi mãi là của
chàng…Còn Ngạn La đƣợc hiện lên qua cái nhìn sững sờ khi: “thấy toàn thân
mình trần truồng trong gương…đôi mắt mèo màu sám nâu mở to hoàng hốt
dưới đôi mày mềm mại lượn cong vút lên như hai cánh én. Đôi môi mọng mầu
hoàng thổ sẫm kinh ngạc mở rộng làm hé lộ hàm răng đen láy. Mớ tóc dài
nuôi nấng qua mười hai năm tràn xuống nửa lưng ôm lấy một bờ vai mảnh
mai chảy xuôi màu nâu mịn mượt như lụa. Đôi vú mới nhú như nửa vầng
trăng với hai đầu vú nhỏ ương ngạnh và kiêu hãnh. Xa xôi dưới kia cũng
mượt mà và chảy chàn như lụa là cặp đùi và đôi chân thon dài với năm ngón
chân nhỏ nhắn hơi xoè ra, móng chân màu vàng”[15]…Nàng hiện lên cụ thể
với từng chi tiết, từng đƣờng nét. Qua cái nhìn của sƣ bà động Trầm, Ngạn La
hiện lên là: “một cung nhân tha thướt trong bộ xiêm áo màu hồng. Đôi mắt
sám mênh mang với con ngươi ánh nâu như mắt mèo hoang. Môi mọng mầu
hoàng thổ. Tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống bờ vai thon
mảnh. Thấp thoáng sau tấm sa mỏng, chiếc rốn màu tru sa ẩn hiện theo bước
đi kiêu hãnh của loài ngựa hoang” [15].“Dung nhan của cô ta đầy vẻ cô tịch,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
xa xăm quá trong thế giới này… con người này xuất hiện ở đâu muôn ngàn
86
người xung quanh cô ta cũng trở nên vô hình, vô dạng cũng như chính vẻ đẹp
mong manh và hư vô của bà, như sương khói, như tuyết ngưng cũng lại là một
mãnh lực làm nổi ba đào cho suốt cuộc đời bà” [15]. Không phải ngẫu nhiên
mà Võ Thị Hảo phác họa vẻ đẹp ngoại hình của hai nhân vật nữ này nhƣ có,
nhƣ không, vừa thực, vừa ảo, dƣờng nhƣ vẻ đẹp đó không thuộc về cuộc đời
trần thế, nó đẹp và quá đỗi mong manh nhƣ chính số phận của họ. Không chỉ
có Nhuệ Anh và Ngạn La đƣợc tác giả dành cho sự ƣu ái khi phác họa lên
hình ảnh của họ mà vẻ đẹp của những ngƣời con gái khác cũng đƣợc Võ Thị
Hảo rất chú ý đó là:“cô gái tuổi chừng đôi tám, thân dong dỏng, cặp vai xuôi
mượt hai gò má cao ánh một lớp măng tơ như làn sương phủ. Môi trầu đỏ
thắm. Hai mắt mở to trong veo như mắt bê con”[15]. Đó là cô con gái yêu của
vị tộc trƣởng làng Quỹ Vũ. Cô đẹp nhƣng vẻ đẹp đó cũng mỏng manh nhƣ
chính số phận cô. Thái hậu Ỷ Lan đƣợc miêu tả với khuôn “mặt tròn như
trăng rằm, mày tằm, mũi như trái mật treo, quyền cốt nổi rõ dù đám thị nữ đã
khéo che phủ bằng một lớp phấn màu hoa đào. Thái hậu đội mũ thêu Cửu
long chầu nguyệt, tóc búi cài đôi châm vàng có chữ Thọ kết bằng ngọc quý.
Mặc áo bào dệt bằng tơ đậu tám sợi thêu rồng. Xiêm cũng dệt bằng tơ đậu
tám sợi màu trắng thêu chim phượng”…“Đó là người đàn bà tuệ mẫn sáng
láng lại quyền biến trong những năm chấp chính trị nước thay đức Thánh
Tông đi đánh giặc bình định đất phương nam” [15]. Có thể thấy đó là một
ngƣời đàn bà không những xinh đẹp mà còn rất thông minh và tài giỏi, là một
nhân vật lịch sử đặc biệt đƣợc dân gian tôn thành thần thánh bởi những công
lao to lớn của bà đối với dân tộc. Nhƣng trong tiểu thuyết Giàn thiêu nhân vật
lịch sử này đã đi qua một lớp sƣơng huyền thoại trở thành một con ngƣời bình
thƣờng thậm chí tầm thƣờng với một dục vọng quyền lực mạnh mẽ đến tột
cùng. Dục vọng đó không chỉ là nỗi đam mê mà còn là nỗi khát thèm bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
năng của bà:“Ta muốn duy ngã độc tôn trong thiên hạ. Ta đã khiến đức Thánh
87
Tông phải mê đắm, nể trọng nhất nhất nghe lời. Ta luôn muốn sai khiến được
người duy nhất nắm giữ thiên hạ trong tay”…[15].Vì tham vọng đó mà bà sử
dụng mọi âm mƣu, thủ đoạn thâm độc, tàn ác, trừ bỏ, tiêu diệt hết những kẻ
ngáng đƣờng, cản chân dẫu là vô tình…Chính vì những việc làm độc ác để
đạt đƣợc dục vọng đó mà suốt những năm tháng cuối đời không lúc nào bà
đƣợc sống yên ổn và ngay cả lúc chết cũng không thể nhắm đƣợc mắt. Nhƣ
vậy, dẫu là ngƣời đàn bà xinh đẹp tài ba và quyền biến nhất thiên hạ thì Ỷ Lan
cũng không tránh đƣợc số phận bất hạnh bởi chính những tham vọng tột cùng
của mình, bị dục vọng lôi kéo vào những hành vi độc ác, mất hết nhân tính.
Nhân vật nữ của Võ Thị Hảo không chỉ gây đƣợc ấn tƣợng với ngƣời
đọc bởi ngoại hình khắc khổ, tƣợng trƣng cho số phận khổ đau bất hạnh của
họ mà còn hiện lên với vẻ đẹp rất riêng của ngƣời phụ nữ và ngƣời ta dễ nhận
thấy nhất đó là hình ảnh mái tóc. Có thể nói mái tóc của ngƣời phụ nữ là biểu
hiện của sự dịu dàng, thƣớt tha, mềm mại và đầy nữ tính, nó là tƣợng trƣng
cho vẻ đẹp xuân thì. Khi miêu tả một vẻ đẹp nữ tính là khi nhà văn ý thức sâu
sắc về vẻ đẹp và khẳng định vẻ đẹp của giới nữ. Chính vì vậy mà: “Nói đến
đàn bà là nói đến tóc. Nói mãi về tóc đàn bà mà vẫn không nhàm”. Khi viết
về sự tàn phai trên mái tóc cũng là cách thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh,
sự trôi chẩy của thời gian: “Mỗi sợi tóc là một sợi phiền não… Tóc bạc rồi mà
bà còn tiếc !”. Vậy nên nàng càng “Xót xa nhìn mớ tóc mình đang sóng sánh
tỏa xuống cái cổ ba ngấn và tuôn tràn xuống vai” Dây neo trần gian, những
sợi tóc li ti óng ánh, vậy mà vì yêu anh nàng đã phải dứt từng sợi tóc để kết
lại và quấn quanh tấm ảnh của anh mong sẽ níu giữ đƣợc anh lại trốn trần
gian…
Chính vì mái tóc tƣợng trƣng cho vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ, nên khi phác
họa sự tàn phai nhan sắc, nhà văn cũng chú ý miêu tả, khắc họa ở mái tóc qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhân vật nàng trong truyện Tim vỡ với “mái tóc mượt mà đôi mắt long lanh
88
huyền bí, làn môi thắm đỏ và thân hình nảy nở đầy hấp dẫn”… nhƣng chỉ
trong giây lát từ một ngƣời con gái xinh đẹp, nàng đã tự hủy hoại mình đến
nỗi: “mái tóc dài trút xuống chỉ còn cái đầu trọc nham nhở và khuôn mặt đầy
nhựa cây đen nhẻm”. Khi khắc họa vẻ đẹp dịu dàng nữ tính của ngƣời phụ nữ
vì "mái tóc là góc con người" nên Võ Thị Hảo hết mực nâng niu, trân trọng
những mái tóc đẹp, đó là “tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống
bờ vai thon mảnh” của cung nữ Ngạn La, là “tóc đen dài vấn vít quấn cao
trên đầu, cài bằng châm vàng, châm bạc hoặc cành thoa có gắn hoa sen còn
hàm tiếu thơm ngào ngạt”, của các mỹ nữ tuyển từ phƣơng Bắc. Và những
“mái tóc dầy rung rung” của hai hàng cung nữ đang quỳ bất động trên điện
ngọc và “những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước trán, rủ thành lọn bên thái
dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyễn rũ”, của tiểu thƣ Nhuệ
Anh…Bên cạnh đó sự khốc liệt của chiến tranh cũng đƣợc thể hiện qua việc
miêu tả mái tóc. Chiến tranh khốc liệt không chỉ cƣớp đi vẻ đẹp ngoại hình từ
nơi mái tóc của “bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ
xác và dần dà đã vặt trụi tóc họ”, mà còn cƣớp đi ở họ tuổi thanh xuân, niềm
ƣớc mơ và khát khao hạnh phúc của họ. Thảo là cô gái thứ năm cùng sống
dƣới tán cây rừng Trƣờng Sơn, nhập ngũ với “mái tóc óng mượt dài chấm
gót” ,vậy mà chỉ sau hai tháng “dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ” nơi
rừng Trƣờng Sơn đã làm cho “tóc Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng mảnh,
xơ xác”…Thảo là ngƣời duy nhất sống sót khi đã trải qua chiến tranh, trải qua
nỗi cô đơn đặc quánh nơi rừng già, trải qua chốn giáp ranh giữa địa ngục và
trần gian trở về cuộc sống đời thƣờng Thảo hiện lên với “thân hình gầy gò
trong bộ quân phục lạc lõng qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác”, làm
Thành - ngƣời yêu của cô không thốt nổi một lời khi trông thấy. Mặc dù đã cố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
gắng hết sức để hòa nhập vào với cuộc sống cộng đồng nhƣng Thảo không
89
thể chỉ vì biết “mình thật là quỷnh, thật khó nhập cuộc”…Người sót lại của
rừng cười.
Với những chi tiết miêu tả ngoại hình mà chủ yếu tập chung ở mái tóc
Võ Thị Hảo đã cho ngƣời đọc thấy sự trôi chảy của thời gian, sự khốc liệt của
chiến tranh đã tàn phá vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ .
Cùng với việc miêu tả ngoại hình mà chủ yếu tập chung gây ấn tƣợng ở
mái tóc, bên cạnh đó ánh mắt cũng đƣợc nhà văn rất chú trọng trong việc
miêu tả, khắc họa qua những cái nhìn của nhân vật. Ngƣời ta vẫn nói đôi mắt
là "cửa sổ tâm hồn" bởi nơi đó ngƣời ta dễ nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn cũng
nhƣ những tâm sự, những tâm trạng phức tạp trong tâm hồn ngƣời phụ nữ.
Đọc truyện Dây neo trần gian mấy ai quên đƣợc ánh mắt của bà đồng “mắt
bà đồng bỗng long lên song sọc…Đôi mắt có hàng mi dài của bà vằn đỏ”.
Đôi mắt ấy cho thấy những ám ảnh, những day dứt khôn nguôi về một vết
thƣơng lòng sau chiến tranh mà khó thể hàn gắn đƣợc và nó lại quặn đau mỗi
khi nghe nhắc tới. Đó còn là “đôi mắt màu biển tối của nàng mở to đến lạc
tròng để cầu khẩn sự che chở” của nhân vật nàng trong Người đàn ông duy
nhất. Sự cầu khẩn một cánh tay che chở vậy mà không một cánh tay, không
một con ngƣời nào dám đứng ra cứu giúp nàng. Điều đó cũng cho thấy con
ngƣời đang dần bị tha hóa, bị vô cảm trƣớc nỗi đau nỗi khổ của đồng loại.
Hay “đôi mắt hình hạnh nhân với đuôi mắt trĩu xuống che bớt những tia rực
rỡ không ngừng chớp rạng dưới hàng mi biêng biếc tím…cái nhìn bạch cốt”
của ngƣời đàn bà tinh quái rắp đem sóng tình khuấy động cửa thiền trong Lửa
lạnh. Đó còn là “cặp mắt mèo hoang làm bàng hoàng, rụng rời người ngắm”
của cung nữ Ngạn La [15]… Nhà Văn Võ Thị Hảo thƣờng không miêu tả hết
ngoại hình mà tùy từng nhân vật trong những hoàn cảnh cụ thể, chọn lấy
những chi tiết "biết nói" để phác họa hình ảnh nhân vật. Để vẽ lên cái thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thái, vẻ đẹp cũng nhƣ để phác họa sâu đậm nỗi bất hạnh của nhân vật. Cùng
90
với sự mô tả ánh mắt thì ta còn thấy sự lặp đi lặp lại nhƣ không bao giờ nguôi
những tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt, đó là: Những giọt nƣớc mắt rơi giàn
giụa,“Ôi! Con của mẹ! Mẹ lại có con rồi! sung sướng quá”…của Phƣơng
trong Phiên chợ người cùi vui mừng, sung sƣớng vì sau khoảng hai năm ở
trại phong Quy Hòa để điều trị bệnh thì nay chị đã có giấy xuất viện, đã đƣợc
về bên con gái yêu của mình và sẽ không phải xa con nữa. Còn nhân vật nàng
trong Hồn trinh nữ sau mƣời bẩy năm chờ đợi ngƣời yêu mà vẫn không tin
tức thế rồi, có một buổi chiều, có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm, chàng trai
trở về, trong niềm vui và hạnh phúc nhất là khi ngƣời đàn ông ấy gọi tên nàng
bằng giọng nói thân thuộc thì nàng khóc: “Tiếng khóc nghe như ngàn mảnh
thủy tinh rơi”…Nhƣng đa phần sự miêu tả tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt
của các nhân vật nữ nhằm biểu hiện cho nỗi xót xa, đau khổ. Đó là tiếng
“khóc oà” của Trang trong truyện Bàn tay lạnh khi biết bị Thẩm lừa dối, đó
là những giọt nƣớc mắt đau khổ vì không thể vƣợt qua đƣợc số phận, chị vẫn
là ngƣời đàn bà bất hạnh thứ ba trong gia đình. Bởi vậy khi nhắc đến truyện
xƣa, chị đã không cầm đƣợc những giọt nƣớc mắt “Những giọt nước mắt của
chị rơi xuống cốc ca cao đang cầm trên tay”. Nhà văn Võ Thị Hảo đã tỏ ra là
ngƣời khá tinh tế khi miêu tả những tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt, chính
vì thế mà những tiếng khóc, những giọt nƣớc mắt ở các nhân vật nữ của chị
không một ai giống ai. Mỗi con ngƣời một số phận thế nên những giọt nƣớc
mắt đó cũng tƣợng trƣng cho những khổ đau bất hạnh trong số phận của họ.
Từ những nhân vật nữ trẻ tuổi đến những nhân vật có tuổi, từ những ngƣời
bình thƣờng đến những ngƣời xấu xí, tật nguyền về hình thức, từ những ngƣời
thuộc tầng lớp dƣới đáy của xã hội đến những ngƣời cao sang quyền
quý…dƣờng nhƣ tất cả họ đều khóc. Đó là tiếng “khóc nức nở” của một cô
gái mới lớn trong Vườn yêu khi đến với tình yêu đầu. Hay tiếng “òa lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khóc” của cô bé Lâm San khi đi lấy chồng, tiếng khóc nhƣ là sự chấm dứt
91
một tuổi thơ bé bỏng, vô tƣ, một tình yêu trong sáng hồn nhiên đầu đời với
cháu lớn cồ để bƣớc chân vào cuộc sống mới với những thăng trầm, những
bất trắc mà không thể lƣờng trƣớc. Có khi là những tiếng khóc của ngƣời con
gái lỡ dở trong tình yêu nhƣ Sải trong Con dại của đá. Khi giết chết kẻ bạc
tình là Cáo Tờ Quẩy nàng đã “ngục đầu xuống hắn mà khóc” rồi về tự thú với
vợ của hắn là Giàng Gau, thì bà cũng “Rũ xuống khóc"… để rồi đêm ấy “Núi
đá nuôi tiếng khóc của hai người đàn bà”. Có lúc lại là tiếng khóc của những
ngƣời phụ nữ có tuổi nhƣ ngƣời mẹ của Cháu-lớn- cồ mỗi khi nhắc đến dì
Lâm San bà thƣờng “Gạt nước mắt đi” vì thƣơng Lâm San. Đó tiếng “òa
khóc” của ngƣời vợ trong Trận gió màu xanh rêu…Đó còn là những giọt
nƣớc mắt của nhân vật nàng trong Tim vỡ khi “Nước mắt nàng rơi lã chã trên
gò má” là “những giọt nước mắt viền quanh bờ mi” của nữ hoàng Pháp Luật
trong Nữ hoàng cô đơn. Hay “Dòng nước mắt lặng lẽ tuôn ra” của Thuận
trong Góa phụ đen. Và nhất là tiếng khóc đớn đau của những ngƣời phụ nữ
trong truyện Người sót lại của Rừng Cười khi thì: “Cả bốn cô gái ôm nhau
khóc cay đắng” rồi cả những “tiếng khóc không ra tiếng”. Bên cạnh tiếng
khóc của những con ngƣời bình thƣờng thì tiếng khóc của những ngƣời tật
nguyền quả thực còn xót xa hơn vì họ “khóc không ra nước mắt” và ngƣời
mù thì “nước mắt chỉ chui trở vào nghèn nghẹn trong ngực” trong tác phẩm
Làn môi đồng trinh. Hay “tiếng khóc ngở như gai” của cô gái điếm trong
Biển cứu rỗi…Tƣởng rằng chỉ có những con ngƣời bình thƣờng, ngƣời nghèo
khổ, tật nguyền, những ngƣời sống dƣới tầng đáy xã hội mới khóc. Nhƣng
không ngờ tiếng khóc còn đƣợc bật ra từ những ngƣời có quyền uy, danh
tiếng lẫy lừng thiên hạ nhƣ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan:“Canh ba là Thái Hậu bật
dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như người bị đuổi bắt, rồi quấn
hàng trục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thét”[15] và “thỉnh thoảng khóc gọi tên Dương Thái hậu rồi nghiến răng kèn
92
kẹt”[15], hay “tiếng khóc giẫy cào cấu đòi về với mẹ” [15] của cô cung nữ bé
bỏng Ngạn La và tiếng “khóc lóc vật vã kêu cứu” của Ngạn La khi bị giam
trong lãnh cung [15]. Rồi tiếng khóc của tiểu thƣ Nhuệ Anh một mực đòi trả
trầu cau cho nhà Lý Câu: “Nhuệ Anh lăn lộn khóc lóc một mực xăm xăm đòi
trả trầu cau [15] ,trong đêm tân hôn với công tử Lý Câu, nàng đã bỏ trốn để
đi tìm Từ Lộ, khi nhận ra mình đã chạy ra xa bờ Sông Tô “Nhuệ Anh ngồi
thụp xuống bưng mặt khóc nức nở” [15]cho đến khi tìm đƣợc Từ Lộ và trao
thân cho chàng, Nhuệ Anh xin đi theo nhƣng Từ Lộ không đồng ý nàng cố
níu chân Từ Lộ và “gương mặt ngước lên đầm đìa nước mắt” [15]. Ngay cả
khi đã là sƣ bà ở động Trầm rồi mà những giọt nƣớc mắt vì ngƣời nàng yêu,
ngƣời đã làm lỡ dở cả cuộc đời nàng, vậy mà những tiếng khóc, những giọt
nƣớc mắt vẫn không ngừng tuôn rơi:“Sư bà run rẩy như cố ghìm tiếng nấc
[15], “sư bà cố kìm những giọt nước mắt”[15]…và “Trước mắt ta nay đã
không còn Đạo Hạnh, không Thần Tông. Chỉ có thân xác một Từ Lộ đã
chết… cả đời ta có khóc là khóc cho người đó”…[15].
Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Võ Thị Hảo có những miêu tả rất riêng
của một nhà văn nữ, có cảm giác chị đứng trƣớc gƣơng vẽ lại chân dung một
ai đó mà đối tƣợng không thể ai khác là một ngƣời phụ nữ. Đó là một mái tóc,
một ánh mắt, những giọt nƣớc mắt …Tất cả nhƣ thuộc về ngƣời phụ nữ, nhƣ
những hình ảnh biểu tƣợng rõ nhất về vẻ đẹp nét riêng biệt và nỗi đau của
riêng họ- cái mà ta không thể thấy khi miêu tả những ngƣời đàn ông. Nhƣ vậy
từ việc đi sâu vào miêu tả và khắc họa những nét cơ bản ở ngoại hình nhân
vật nữ không chỉ ở dáng vẻ, ở mái tóc hay ánh mắt mà ở cả những tiếng khóc,
những giọt nƣớc mắt. Võ Thị Hảo đã cho ngƣời đọc thấy những hình ảnh đó
có tác dụng rất lớn trong việc khắc họa nhân vật. Đặc biệt tiếng khóc và
những giọt nƣớc mắt cùng với sự lặp đi lặp lại nhƣ không bao giờ ngƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong hầu hết các tác phẩm và sự tăng cƣờng tập trung miêu tả những âm
93
thanh, những hình ảnh đó ở nhân vật không chỉ là biểu hiện thái độ đau xót và
đồng cảm của nhà văn mà còn thể hiện một vốn ngôn ngữ về miêu tả tiếng
khóc, những giọt nƣớc mắt vô cùng phong phú của tác giả. Hình ảnh đó còn là
nỗi ám ảnh, là biểu tƣợng cho sự bất hạnh và nỗi khổ đau của nhân vật.
Không phải ngẫu nhiên mà Võ Thị Hảo rất chú ý đến việc miêu tả những
biểu hiện bên ngoài nhân vật dù đó là nạn nhân của chiến tranh, hay những
con ngƣời xấu xí tật nguyền, những con ngƣời bình thƣờng hay những nhân
vật đẹp mang tính huyền thoại- những nhân vật đƣợc nhà văn lý tƣởng hoá để
thể hiện những khát vọng vƣơn tới sự hoàn thiện hoàn mĩ, nhƣng tất cả đều là
những số phận khổ đau, với những kết cục bi đát. Có lẽ bởi một phần do
những yếu tố thuộc cá tính của tác giả, một phần là do cảm nhận về thời đại
của nhà văn: Một thời đại đầy dẫy những cạm bẫy, những bất an…luôn luôn
rình rập con ngƣời, mà chính xác hơn đó là một thời đại với những“va đập
bạo liệt giữa thiện và ác, tốt và xấu và sự bi thảm đến mức trớ trêu của số
phận con người” [15]. Chính vì thế, khi đọc các sáng tác của Võ Thị Hảo
ngƣời đọc nhƣ có cảm giác mỗi câu chuyện lại thấm đầy nƣớc mắt và cuộc
đời của nhân vật thì cứ chảy theo những dòng nƣớc mắt đó.
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý
Trong sáng tác của các nhà văn nữ nói chung và của Võ Thị Hảo nói
riêng, điều mà ngƣời đọc dễ nhận thấy nhất đó là cốt truyện thƣờng ít tình tiết
và sự kiện, trong khi đó các suy nghĩ của con ngƣời trƣớc sự kiện đó thì lại rất
đƣợc chú ý. Cuộc sống hiện thực không mấy khi đƣợc miêu tả trực tiếp khách
quan mà nó đƣợc khúc xạ, đƣợc cảm nhận thông qua suy nghĩ của nhân vật và
thế giới nội tâm với những diễn biến tâm lý phức tạp, bí ẩn.Thế giới tinh thần
nhân vật là đối tƣợng chính để nhà văn đi sâu khám phá. Điều này cho thấy
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời phức tạp, bí ẩn, con ngƣời tự nhận thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
của các tác giả nữ là khá thống nhất trong văn học giai đoạn này. Cũng nhƣ
94
một số cây bút nữ khác, Võ Thị Hảo cũng tỏ ra là ngƣời rất tinh tế và có nhiều
biện pháp nghệ thuật khi miêu tả những trạng thái cảm xúc, những biến
chuyển trong tâm lý của mỗi cá nhân- con ngƣời. Lúc thì tác giả sử dụng độc
thoại nội tâm trực tiếp thể hiện tâm lý nhân vật: “Một kẻ có dăm ba chữ trong
đầu mà lại đi nghe lời một con mụ điên ấy ư ? Thế thì mình cũng điên rồ nốt
!”…Lúc lại miêu tả gián tiếp: “Nàng bỗng nức lên khóc và ôm choàng lấy mái
đầu anh, như cách một người mẹ đang vòng tay che chở cho đứa con
trai…Nàng ru khuôn mặt ấy trong lòng và cảm thấy tim như muốn vỡ ra vì
thương xót”…Dây neo trần gian. Khi đi sâu miêu tả tâm lý của những con
ngƣời tật nguyền ,nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng những con ngƣời ấy tuy tật
nguyền nhƣng họ cũng vẫn ƣớc mơ, vui, buồn ,cảm nhận cuộc sống ,biết hạnh
phúc và cũng biết thấm thía nỗi đau vô bờ .Nên họ cũng ao ƣớc đƣợc yêu bởi
một tình yêu trong sáng, diệu kì: “Mỗi lần mưa nàng lại bước ra ngoài trời,
mong mỏi một chút chạn nhẹ nơi làn môi, để có cảm giác là mình cũng được
hôn, những cái hôn của nửa kia ngọt ngào”, Làn môi đồng trinh. Giống nhƣ
Hằng, Tâm trong Máu của lá cũng thấm thía và nhận biết nỗi đau là một kẻ
tật nguyền bởi: “Tạo hoá đã say rượu khi nặn ra em” và mỗi “khi khách đến
nhà em thường kiếm cớ lánh mặt …Lúc thi vào đại học đạt điểm ưu nhưng
không một trường nào nhận vì lỗi hình thể, em đã cầu cho mình hoá
điên…cầu cho mình được chết. Khi nhận được giấy báo tử của anh Tuân-
người yêu quí em nhất trên đời này, em dường như sắp chết còn mẹ thì bị xuất
huyết não liệt giường. Cả ngày mẹ nằm mở mắt chong chong, thảng thốt nhìn
em cười như nhìn một vật lạ”…Nhƣng thật trớ trêu, tại sao trời nỡ thổi vào
cái vỏ tật nguyền đó một tâm hồn có khả năng nhận biết nỗi đau của mình .
“Mắt con bé rưng rưng nó cần những lời yêu ngọt ngào như cần nước”…Vì
thế mà Tâm tự nuôi cho mình ảo tƣởng về một chàng trai khổng lồ cứu giúp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cô, níu kéo cô với cuộc đời qua những bức thƣ của Tuân, Huân và Hoàng cho
95
đến khi cô nhận ra “đã đến lúc phải trở thành một người đàn bà”…và phải
trở về với thế giới của chính mình.Vì “thế giới của các anh quá rộng lớn. Còn
thế giới của em thì nhỏ bé. Em phải trở về thế giới của chính mình. Phía
chân trời có thể có một chú lùn. Nếu có, chú sinh ra là để cho em. Chú sẽ
đến, cười bằng cái miệng rộng: Cô bé xấu xí đợi anh lâu lắm rồi phải không
?” Những rung cảm, những mong ƣớc,và yêu thƣơng nhƣ thế là biểu hiện của
những tâm hồn trong sáng, thánh thiện.Thể hiện những nhân vật biết suy nghĩ,
dằn vặt và biết thấm thía nỗi buồn đau. Võ Thị Hảo đã tìm thấy trong chiều
sâu tâm hồn họ là khát khao sống nhƣ những ngƣời bình thƣờng.
Trong sáng tác của mình, nhà văn đã xây dựng các nhân vật nữ và phần
lớn họ đều đƣợc nếm trải những thăng trầm cũng nhƣ thấm thía những đớn
đau trong cuộc sống. Trƣớc “cái nhìn như chôn sống”của ngƣời lính gác đèn
nơi đảo hoang với cái nhìn đầy vẻ khinh miệt, ngƣời đàn bà “thấy nhục và
quờ tay tìm cái nón, che người”…Và rồi khi anh cố xua đuổi ngƣời đàn bà đi
để dẫn đến cái chết của thị anh đã ân hận và cũng nhất thiết rằng: “Nữ Thần
Biển, nếu có cũng sẽ không mang khuôn mặt nào khác, mà mang chính khuôn
mặt đau đớn, tuyệt vọng và kiêu hãnh của Nữ Thần Trôi Dạt bởi vì Nữ Thần
Biển cũng là đàn bà Biển cứu rỗi.
Trong sáng tác của Võ Thị Hảo rất nhiều những nhân vật nữ đƣợc miêu
tả trong trạng thái giằng xé, đấu tranh, đắn đo trong tình yêu cũng bởi một lẽ
họ không có lòng tin vì đã một lần thất bại nên họ sợ không dám yêu, không
dám đi đến tận cùng của tình yêu. Để khi tình yêu tuột khỏi tầm tay họ mới
dằn vặt, tiếc nuối nhƣ Hạnh trong Tiếng vạc đêm, Thuận trong Goá phụ đen.
Hạnh trong Tiếng vạc đêm, sống với ám ảnh một số phận bất hạnh truyền
kiếp và bản mệnh cô lại có cô thần nên trong lòng lúc nào cũng cô đơn, lạnh
lẽo. Hơn thế mang nặng mặc cảm đàn ông là những kẻ dối lừa, phụ bạc Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
sợ không dám yêu bởi nàng có“trái tim tật nguyền” và dòng họ nàng thì
96
có“người đàn bà chửa thắt cổ chết vì đàn ông”. Thế nên sau một lần đổ vỡ
hạnh phúc, cô không tin sẽ có đƣợc một hạnh phúc đích thực của cuộc đời.
Bởi vậy, Hạnh đã có những suy tƣ vừa day dứt vừa tiếc nuối trong tình yêu
với Thụ, thể hiện ở đoạn độc thoại nội tâm: “Ừ- tại sao nhỉ ? Tại sao? Đáng
lẽ chờ đợi thì ta lại chạy trốn. Sao ta không thử thêm một lần.Ta cũng cần
được an ủi, được che chở. Tại sao ta cứ làm khổ mình?… Sao ta lại bỏ trốn?
sao ta hèn nhát? Sao không vứt bộ mặt lạnh này đi. Sao không gục đầu vào
ngực anh, nói rằng em mỏi mệt, rằng em muốn khóc, để nước mắt em làm ướt
ngực anh…rằng…dù ngày mai có ra sao thì anh vẫn là người đàn ông mà em
cần” …Thế nhƣng thật mâu thuẫn khi Hạnh lại chỉ muốn “yêu thế thôi! Giữ
cho gần như giữ một ảo ảnh đẹp”. Bởi Hạnh sợ cuộc đời sẽ làm tầm thƣờng,
thô bỉ nó. Đây là tâm trạng thƣờng thấy ở những ngƣời phụ nữ tinh tế, nhạy
cảm trong tình yêu, luôn giữ khoảng cách với ngƣời mình yêu, không cho xa,
không cho gần để rồi rơi vào cô đơn và “nếm trải cảm giác của một con chim
xa xứ dù mùa đông chưa tới song hơi lạnh đã nhấm nhẩm da thịt”. Thuận
trong Goá phụ đen cũng vậy. Cô đã từng trải qua nhiều mối tình, từng đau
khổ vì đàn ông và cũng làm không ít đàn ông phải khổ vì mình.Trái tim yêu
thƣơng bé nhỏ của cô tƣởng đã tật nguyền khi thấy: “mẹ nàng đã lấy phải một
người chồng ti tiện, em gái nàng mang bầu với một gã sở khanh. Người đàn
bà hàng xóm đầu tắt mặt tối nuôi chồng mà vẫn bị chồng đánh đập”.Thế nên
để trả thù cho những ngƣời đàn bà bất hạnh đó: “Nàng chỉ thích nếm lại cảm
giác vờn một đấng nam nhi để đến khi anh ta bị thôi miên rồi thì lại ngẩng
cao đầu nhón gót bỏ đi không nhìn lại. Vậy mà trƣớc Đang, Thuận lại bối rối,
e thẹn, và thấy hạnh phúc- niềm hạnh phúc của một nàng goá phụ đã cố khép
lòng mình mà không thể. Mặc dù đã từng luyện cho mình thói quen sống
không có đàn ông, vậy mà một tháng vắng Đang, Thuận thấy cuộc đời thật vô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nghĩa, trống vắng, và nhạt nhẽo vô cùng. Hai ngƣời họ đã gắn bó với nhau
97
bằng một tình yêu gần nhƣ đau đớn, mối tình dự cảm nhiều xót xa ấy vẫn là
ngọn lửa sƣởi ấm cuộc sống độc thân lạnh lẽo của họ. Thuận đến bờ vai Đang
trong giây phút mệt mỏi, nhƣ tìm đến một sự sẻ chia nỗi buồn, nàng ngả đầu
vào vai anh: “Tôi mệt mỏi quá!cho tôi tựa đầu vào đây, được không? Đêm
nay nàng buồn”…Thuận đã rất dè dặt và cẩn trọng bƣớc từng bƣớc một trong
tình yêu với Đang nhƣng “hình như những người đàn ông yêu nàng đều
không gặp may mắn”. Để rồi nàng nức nở vỡ oà trong đau đớn khi biết chính
xác tin về chiếc máy bay trở Đang và hành khách đi Phần Lan gặp tai nạn.
Nàng đã tự trấn tĩnh mình bằng niềm tin: “Làm sao người đàn ông nàng yêu
có thể chết được!...Dù anh rơi xuống biển hay sa mạc- chúa của anh sẽ giữ
gìn anh cho nàng”.Và ngày mai nàng sẽ thuê một chiếc ca nô nhỏ lên xem lại
dòng chữ mà hai ngƣời đã khắc ở động Thuỷ Tiên kia,“nếu nước lũ và bùn
đất làm mờ nó, nàng sẽ khắc lại. Nếu người ta đã đem nung vôi nó, nàng sẽ
khắc dòng chữ khác. Ngày kia nàng sẽ may chiếc áo ngủ màu hồng chờ anh”.
Đó là niềm tin bền vững về hạnh phúc mà Thuận xây đắp vào ngày Đang trở
lại .
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Võ Thị Hảo thƣờng đƣợc biểu
hiện rất rõ ở những lời độc thoại bởi khi đó nhân vật đối diện với chính lòng
mình, họ tự bộc bạch những suy nghĩ, những dằn vặt, những trăn trở và những
trạng thái cảm xúc thật nhất của mình. Không chỉ ở truyện ngắn mà trong tiểu
thuyết Giàn thiêu ta cũng thấy điều đó rất rõ. Trong tình yêu quằn quại, đau
đớn với Từ Lộ, Nhuệ Anh đã hi sinh tất cả, từ bỏ tất cả để đi tìm và dâng hiến
cho chàng một tình yêu thuỷ chung trọn vẹn và mong đƣợc đồng cam cộng
khổ với chàng. Vậy mà vì lòng hận thù quá lớn, Từ Lộ đã xua đuổi Nhuệ Anh
để nàng phải nhảy xuống dòng thác Oán sông Gâm tự vẫn. Đƣợc cứu sống,
nàng đã mong muốn trốn tránh hiện tại khổ đau, bất hạnh và quyết tâm dứt áo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đi tu rồi trở thành sƣ bà động Trầm, thế nhƣng trên con đƣờng tu tâm, diệt dục
98
mong đạt đến cõi Niết Bàn, thoát khỏi kiếp khổ đau trần thế, chƣa khi nào
trong lòng Nhuệ Anh nguôi quên Từ Lộ, nguôi quên quá khứ của mình. Hình
ảnh quá khứ và ngƣời yêu vẫn luôn luôn hàng ngày hàng đêm thƣờng trực tận
sâu thẳm trái tim nàng, trở thành nỗi xót xa, niềm đau đớn âm ỉ nhƣng mãnh
liệt. Ấy là nghiệp chƣớng mà nàng không thể nào dứt bỏ đƣợc ở kiếp này. Lần
đầu tiên gặp Ngạn La- cô cung nữ mèo hoang thần bí trải qua hai đời vua mà
vẫn trong trắng, vẹn nguyên là một trinh nữ mƣời ba tuổi, Nhuệ Anh có cảm
giác trào lên một niềm xót thƣơng thật kỳ lạ. “Dung nhan của cô ta đầy vẻ cô
tịch. Xa xăm quá trong thế giới này. Một người tưởng đã dứt lòng trần như sư
bà mà thoạt đầu mới gặp Ngạn La cũng đã giật mình. Biết, con người này
xuất hiện ở đâu ,muôn ngàn người xung quanh cô ta cũng trở nên vô hình vô
dạng. Cũng như chính vẻ đẹp mong manh và hư vô của bà, như sương khói
như tuyết ngưng ,cũng lại là một mãnh lực làm nổi ba đào cho suốt cuộc đời
bà, ngay cả đến khi xuống tóc vào chùa đi tu vẫn không được yên ổn” [15].
Không hiểu sao trong lòng sƣ bà Nhuệ Anh lại đƣợc khơi gợi một thứ tình
cảm uỷ mị tựa hồ tình mẫu tử thiêng liêng với Ngạn La. Nhuệ Anh hiểu rằng
cuộc đời của bà đã bị cƣớp đoạt bị vùi dập và không đƣợc sống cuộc đời một
ngƣời đàn bà bình thƣờng nhƣ bao ngƣời khác, bởi chính ngƣời mình yêu, bởi
chính những dục vọng ham mê tầm thƣờng cháy bỏng của chàng không chỉ ở
kiếp Từ Lộ mà cả ở kiếp Thần Tông. “Mấy chục năm nay, ta đã ẩn náu, đã cố
tình xa lánh. Như một ngọn gió đơn độc thổi ngoài bãi hoang. Mà trong lòng
vẫn nhói đau trước những thăng trầm thất thường của con người ấy. Con
người bập bỗng ấy, mỗi bước đi đều làm nhói tim ta. Trong khi ta chưa trả nợ
xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta bằng những
nỗi đau khổ của chàng ,bằng những bước đi thập thững và dại dột của
chàng”[15]. Nhuệ Anh càng đau xót hơn khi nhận ra: “Trong mắt chàng đỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đọc ngọn lửa báo thù thủa chàng còn là Từ Lộ, trong mắt chàng không có ta.
99
Khi ta hiến dâng cho chàng ,trẫm mình xuống vực sâu, trong mắt chàng
không có ta. Khi chàng lôi tuột ta từ động Trầm về hậu cung đẫm mùi son
phấn và mưu đồ ác độc, chàng đã đầy đoạ ta thêm một lần nữa Và lần này
mới ác độc làm sao. Chàng là một ông vua còn trai trẻ, được vây quanh bởi
lớp lớp cung tần mỹ nữ lại đang si mê một cung nữ nửa người nửa phù thuỷ
có thể mê hoặc được cả Niết Bàn lẫn địa ngục. Thế mà ngọn lửa từ kiếp trước
vẫn cháy trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta”…[15]. Đau xót
hơn cả đó là khi Nhuệ Anh nhận ra “nàng không là một chấm nhỏ nào trong
mục đích tối thượng của Từ Lộ,cái mục đích đã thiêu đốt cả hai kiếp
người”[15]. Nỗi đau khổ dày vò trái tim Nhuệ Anh khiến cho nàng luôn sống
trong niềm tự vấn khôn nguôi: “Ôi! Đoạ xứ mà chàng đã dìm ta vào! một
ngày chàng tự vấn hàng trăm lần không biết nên gọi ta là sư bà ,là mẹ hay là
một người tình?” [15] …Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật còn thấy rất rõ ở
những dằn vặt, những ám ảnh, mộng mị qua nhân vật Ỷ Lan .Những năm
tháng cuối đời, dù ngự trên đỉnh cao của quyền lực nhƣng Thái hậu Ỷ Lan đã
phải sống trong những day dứt khôn nguôi của lƣơng tâm. Những ám ảnh
khủng khiếp về tội ác mà mình gây ra, cho đến chết mà không thể nhắm
mắt.Vì tội bức tử Dƣơng Thái hậu và bẩy mƣơi sáu cung nữ trong cung
Thƣợng Dƣơng năm nào mà cả đời bà bị ám ảnh và dày vò lƣơng tâm “tiếc
thay suốt đời ta không đánh lừa được lương tâm mình” [15]. Bà đã chịu sự
phán xét của lƣơng tâm, sự trả thù ở cõi âm, bị đàn chuột cắn xé da thịt hằng
đêm, những oan hồn ngƣời phụ nữ đòi trả mạng …Chính vì vậy mà Thái hậu
Ỷ Lan thƣờng nằm mơ thấy Dƣơng Thái hậu và oan hồn của bẩy mƣơi sáu
cung nữ, đêm đêm không ngủ yên: “Ruột như có ai bào. Canh ba là Thái hậu
bật dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như bị người đuổi bắt, rồi
cuốn hàng chục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thét”[15], đó là nỗi sợ hãi khiếp đảm và ám ảnh do những hành vi tội ác của
100
bà và còn trở thành những cơn mê sảng mỗi lúc một bấn loạn trong những
ngày cuối cùng ở thế gian của Ỷ Lan: “Gương mặt đẹp đẽ thường ngày bắt
đầu biến dạng, nằm trên giường thỉnh thoảng lại đứng phắt dậy, kêu rú lên,
luôn miệng thét đuổi chuột,chân giẫy đành đạch, tay hoảng loạn đưa qua đưa
lại quanh mình như cố sức rứt một vật gì ra khỏi ra thịt… thỉnh thoảng khóc
gọi tên Dương Thái hậu rồi nghiến răng kèn kẹt”[15] .Thái hậu Ỷ Lan phải
sống trong những giấc mơ hãi hùng đó đến tận lúc chết mà không nhắm mắt
đƣợc, chỉ khi vua Nhân Tông khấn tên Dƣơng Thái hậu lần thứ ba đôi mắt ấy
mới tự khép lại nhƣ đƣợc sự chấp thuận của Dƣơng Thái hậu khi Ỷ Lan bƣớc
vào thế giới cõi âm. Qua đây chúng ta thấy nhà văn Võ Thị Hảo đã kín đáo
thể hiện quan niệm về luật nhân- quả, kẻ gieo gió ắt gặt bão, những ngƣời
sống và làm trái với lƣơng tâm, trƣớc sau cũng sẽ chịu sự phán xét của lƣơng
tâm.
Nhƣ vậy cùng với nghệ thuật riêng biệt trong việc miêu tả ngoại hình và
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, Võ Thị Hảo nhằm khắc hoạ sâu đậm và
rõ nét hơn về ngoại hình, tính cách cũng nhƣ cuộc đời và số phận bất hạnh
của các nhân vật nữ.
3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại
Những năm gần đây, văn học có xu hƣớng chối bỏ hiện thực đơn điệu
cùng phƣơng thức phản ánh hiện thực đơn giản, một chiều. Các nhà văn tìm
đến huyền thoại để thoát khỏi giới hạn chật hẹp của quan niệm hiện thực
truyền thống. Huyền thoại ở đây không phải là lối tự sự dân gian cổ xƣa rất
gây thơ, ấu trĩ, mà chính là “sự ý thức về huyện thoại, là sự khai thác huyền
thoại thành một phương thức nghệ thuật, chứa đựng cả quan niệm của nhà
văn về đời sống lẫn khát vọng kiếm tìm những hình thức tự sự mới lạ cho
nghệ thuật văn xuôi” [18] …Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Khánh… đều có xu hƣớng tráng cho tác phẩm của mình một lớp men huyền
101
thoại, hoặc là lấy huyền thoại làm thành chất liệu chủ yếu. Ở các tiểu thuyết
lịch sử, khoảng cách hoặc quá xa về thời gian sẽ làm sự kiện ít nhiều mơ hồ
đi, rất thuận lợi cho việc sử dụng huyền thoại, không nằm ngoài dòng chảy
chung của văn học, Võ Thị Hảo cũng nhuộm lên Giàn thiêu màn sƣơng khói
huyền thoại khá dày. Nhƣng trƣớc khi viết Giàn thiêu Võ Thị Hảo đã từng
viết khá nhiều truyện ngắn“giả cổ tích” đậm chất trữ tình ngƣời đọc cảm nhận
một chất thơ thơm tho trong sáng bay lên từ những trang văn lấp lánh huyền
thoại nhƣ: Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao, Khát của muôn đời, Hồn trinh nữ,
Nữ hoàng cô đơn, Hành trang của người đàn bà Âu Lạc…Ở truyện ngắn
của Võ Thị Hảo, chất huyền thoại thể hiện rất rõ không chỉ ở loại truyện “giả
cổ tích” mà còn thể hiện ở những cốt truyện kỳ ảo. Loại cốt truyện kỳ ảo là
đặt trong sự đối sánh với cốt truyện hiện thực, ở đó chất liệu để nhà văn khai
thác, biểu hiện là một yếu tố kỳ ảo.Yếu tố kỳ ảo thậm chí có khi bao trùm
toàn bộ cốt truyện nhƣ trong Vườn yêu, Lửa lạnh, Giọt buồn giáng sinh,
Biển cứu rỗi, Đêm vu lan, Lãnh cung, Đường về trần…Đọc truyện Vườn
yêu ngƣời đọc nhiều lúc tự hỏi đây là câu chuyện hoang đƣờng hay có thực.
Cô gái xuất hiện ngay từ đầu: “Tôi nhón chân trên đôi giầy thiếu nữ đi vào
vườn yêu”. Trang phục của cô là “một thứ quần áo bằng giấy không sột sọat,
lóng lánh và nhẹ bỗng”…Trong Vƣờn yêu cô đƣợc chứng kiến sự nhẹ dạ của
những cô gái nhƣ cô. Cô nghe thấy tiếng thì thào của những linh hồn, những
chàng trai tự tử vì thất tình. Họ chết nhƣng vẫn khát yêu và theo lũ con gái
mới lớn… yếu tố kỳ ảo phát triển ở mức cao hơn khi cô gái gặp: “người đàn
bà da trắng, răng đen nhánh và mắt sáng ngời đang tiến đến, cặp đùi thon nở
nang được quấn chặt trong một lần váy thâm ướt… trông chị ta thật quyễn rũ,
mặc dù đang hết sức nhợt nhạt” Vườn yêu. Đó là ngƣời dì đã khuất của cô.
Ngƣời dì cũng có những cử chỉ, hành động nhƣ ngƣời bình thƣờng làm cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
câu chuyện trở nên li kỳ hơn …Yếu tố kỳ ảo có khi xuất hiện rất ít trong
102
truyện song lại có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện nhƣ ở: Dây
neo trần gian, Tiếng vạc đêm, Góa phụ đen…Ngƣời phụ nữ trong Dây neo
trần gian vì muốn giữ ngƣời yêu của mình lại chốn trần gian mà cô đã làm đủ
mọi cách. Cô tìm đến bà đồng, tìm đến thế giới tâm linh huyền bí, đã là nƣớc
cùng. Cô tin vào lời bà đồng: “vào ban đêm hãy nhớ tóc của chính cô. Bện
chín sợi một thành từng bím rồi nối chúng lại với nhau, quấn chung quanh
tấm ảnh này rồi đặt lên bàn thờ khấn. Xong đâu đó mang tất cả đến cho anh
ta. Anh ta sẽ lưu lại trần gian”. Tình yêu của cô đã cho anh sức mạnh để anh
đến bệnh viện thử máu, kỳ diệu hơn với kết quả âm tính, cô đã níu lại anh ở
đƣợc chốn trần gian bằng tình yêu của mình. Cốt truyện kỳ ảo đặc biệt đƣợc
thể hiện ở loại truyện “giả cổ tích” chị là ngƣời viết truyện cổ tích hiện đại,
với những trang văn đầy chất huyền ảo, thơ mộng của cổ tích nhƣng lại trĩu
nặng những vấn đề của xã hội.
Những câu truyện cổ tích giải thích về nguồn gốc các loài cây nhƣ hoa
Ti gôn trong Tim vỡ, cây bƣởi trong Nàng tiên xanh xao, cây tranh trong
Khát của muôn đời, cây hoa trinh nữ trong Hồn trinh nữ. Điểm chung của
những câu chuyện này là kể về bi kịch tình yêu tan vỡ. Mỗi loại cây là linh
hồn của những ngƣời phụ nữ sau bi kịch ấy. Truyện Hồn trinh nữ thể hiện rõ
nhất tài năng viết truyện cổ tích hiện đại của nhà văn. Cũng nhƣ những kiếp
đàn bà trong gia đình mình chờ đợi chồng đi lính, thì cô gái là kiếp thứ ba chờ
đợi ngƣời yêu đi lính, thủy chung chờ đợi ngƣời yêu những mƣời bẩy năm
trời đến quá lứa lỡ thì. Nhƣng khi chàng trở về lại mang theo một khuôn mặt
lạnh, bàn tay đẫm máu và không còn biết đến nụ cƣời. Trong đêm tân hôn
nàng trông thấy vợ ngƣời bạn của chồng nàng hiện về đòi trả chồng, trả cha
cho con chị. Nàng sợ hãi ôm mặt rú lên. Nàng sống trong nỗi sợ hãi và
chết.Trên mộ nàng mọc lên một “loài cây thấp lòe xòe màu xanh bàng bạc và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nở ra những nụ hoa tròn trên màu tím buồn mang mác”, khi có bƣớc chân
103
qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá của nó cụp lại nhƣ hình ảnh cô gái
năm xƣa che mặt. Đó là cây hoa trinh nữ.
Trong truyện ngắn Võ Thị Hảo loại truyện “giả cổ tích” có khi sử dụng
để giải thích nguồn gốc của loài ngƣời, của các thần nhƣ Hành trang của
người đàn bà Âu Lạc, Nữ hoàng cô đơn.. Tất cả các thần trên thế gian nhƣ
thần tài, thần quyền, thần tình ái… đều do cha trời tạo ra. Nữ hoàng pháp luật
cũng vậy, nàng ra đời để giữ cho thế gian yên bình. Nhƣng để giữ cho cán cân
công lý thăng bằng, nàng mãi cô đơn không thể thuộc về ai. Chính vì thế pháp
luật ngày nay không là của riêng nàng mà của tất cả. Nàng mang sắc đẹp hấp
dẫn, quyễn rũ và mãi cô đơn nhƣ nhan đề truyện là Nữ hoàng cô đơn. Tính
chất “giả cổ tích” của cốt truyện còn thể hiện ở những cốt truyện xoay quanh
những lời nguyền, những niềm tin vô hình. Hƣơng trong Ngậm cười sinh ra
trong một đêm trời giông quần quật đến sáng. Cả làng ai cũng bảo cô có phúc
thần ẩn trong ngƣời, ai gặp Hƣơng cũng đều gặp may, chính điều đó là tai họa
cho Hƣơng. Cô phải bội bạc với chàng Cam để trao thân cho Tả tƣớng Trịnh
Tùng và bị lão Tiệm cùng mụ đồng Thạo ám hại xúi dân làng phải dìm
Hƣơng xuống biển, trƣớc khi bị dìm cô khấn trời phật, khuấn Long vƣơng nếu
cô bị oan thì sau này Tả tƣớng Trịnh Tùng sẽ quay về giải oan cho cô. Khi
Trịnh Tùng đã lên ngôi chúa biết nỗi oan của cô đã về trừng trị kẻ ác và giải
oan cho cô, linh hồn cô đƣợc siêu thoát, ngƣời ta bảo cô Hƣơng đang ngậm cƣời
ở nơi thủy cung. Những câu chuyện cổ tích khi xƣa đều kết thúc có hậu, cái thiện
chiến thắng cái ác, nhƣng xây dựng trên nền hiện đại, “truyện cổ tích” của Võ
Thị Hảo đi ngƣợc với những kết thúc ấy. Xuyên suốt những câu chuyện là
những bi kịch và kết thúc truyện, bi kịch vẫn chƣa đƣợc giải quyết triệt để. Song
từ trong sâu xa Võ Thị Hảo không hề nhấn mạnh những đau khổ của nhân loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
mà chị muốn khẳng định những khát vọng nhân bản của con ngƣời. Xây dựng
104
những “truyện cổ tích” mới cũng là cách nhà văn thể hiện hi vọng những câu
chuyện cổ tích sẽ đến, chia xẻ cuộc đời với mỗi con ngƣời trên thế gian.
Xây dựng những cốt truyện kỳ ảo, Võ Thị Hảo giúp ngƣời đọc khám phá
nhiều khía cạnh của cuộc sống con ngƣời trong xã hội. Loại cốt truyện này
thể hiện vốn sống và trí tƣởng tƣợng phong phú của nữ văn sĩ đầy tài năng,
đồng thời cốt truyện kỳ ảo là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự
hấp dẫn cho truyện ngắn của chị. Đến tiểu thuyết Giàn thiêu tác giả lại một
lần nữa tƣới đẫm chất thơ của huyền thoại lên những nhân vật không tì vết
nhƣ Nhuệ Anh, Ngạn La mẹ Dã Nhân. Họ là những nhân vật lý tƣởng của
một khuynh hƣớng lãng mạn trong huyền thoại, những nhật vật đẹp đẽ, hoàn
hảo, màu nhiệm. Nhuệ Anh đẹp nhƣ phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát. Nàng
trong trắng, mảnh mai, và sức mạnh của tình yêu cùng lòng vị tha đã giúp
nàng đắc đạo. Ở Từ Lộ, phép thuật làm nên điều kỳ lạ, còn ở Nhuệ Anh nó
biến thành điều kỳ diệu để cải hóa và cứu vớt nhân sinh. Giọt nƣớc mắt đau
khổ chƣa bao giờ tự ý thức đƣợc về sức mạnh của mình lại chính là giọt nƣớc
cam lồ gột sạch hình hài, lông lá của Thần Tông khi hóa hổ “nước mắt chảy
đến đâu, những đám lông vằn vện tuột ra từng đám, rồi lột hết, lột ra thân
mình của đức Vua với nước da trắng xanh, thư sinh nho nhã”[15]. Cũng trái
tim yêu thƣơng của bà, chứ không phải đài cầu mƣa khổng lồ của Thần Tông
đem mƣa về hồi sinh cho cây cỏ, con ngƣời. Chỉ có điều không ai biết mƣa tới
từ Nhuệ Anh. Nàng hóa gió:“Những bước chân đưa bà đi không còn sức
nặng. Không ngày không tháng không năm. Trên mặt bà, ẩn dấu một nụ cười
rạng rỡ. Một tia hào quang đâm xuyên từ gáy ra đôi mắt.”[15]. Sự hóa thân
thần thánh chính là sự thăng hoa kỳ diệu của tình yêu, từ đây bà sống cuộc
sống của phật bà cứu nhân độ thế. Nếu Nhuệ Anh là hình ảnh kỳ diệu của tình
yêu thì Ngạn La lại là hiện thân của thiên nhiên tinh khiết bí hiểm. Chiếc rốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
xinh xinh của nàng mang màu chu sa của dấu chấm tròn trên cuốn sách da dê,
105
nồng nàn hƣơng thơm đồng nội nhƣng lại bị "canh giữ" bởi hồn ma Nhân
Tông. Đôi mắt mèo hoang của nàng nhƣ chiếc cửa sổ mở ra một tâm hồn ban
sơ nguyên thủy. Giây phút cuối cùng của đời nàng cũng vừa giống vừa khác
với sự hóa kiếp của Tƣ Lộ- Từ Đạo Hạnh. Cả hai đều không đi vào cõi chết,
nhƣng một ngƣời bay lên cao để nhập vào nơi tiên giới, một ngƣời là là dƣới
không trung để đợi sa vào một vòng trần khác. Ở Ngạn La, đó là sự siêu
thăng, trong khi Từ Đạo Hạnh với tất cả phép thần thông của mình, chỉ là sự
thoát xác thƣờng tình. Tâm hồn ngƣời con gái bắt cua- Ngạn La thuộc về
vùng thanh tịnh, Còn Từ Lộ lại tự trói hồn mình vào trốn tục lụy. Cuộc sống
và cái chết của nàng khiến ta nghĩ tới những gì thanh tao. Nàng nhƣ Ngọc Nữ
trên thiên đình chịu tội bị đày xuống trần gian rồi mãn hạn lại trở lại trốn linh
thiêng cùng sống với Tiên Đồng của thanh thản, thuần khiết. Dã Nhân- ân
nhân cứu mạng Từ Lộ, là huyền thoại về một lòng vị tha vô bờ bến. Là nhân
vật chƣa thành ngƣời. Dã nhân chỉ có “đôi núm vú đen sẫm và một khuôn
ngực lông lá, đôi tay rậm rịt đầy lông hung hung…Cặp mắt tròn lớn màu hoe
nâu, không lông mày, một cái mũi tẹt dán sát cái miệng bẹt đầy lông lá của
loài dã nhân” [15,tr.358-359]. Sự dị dạng ấy trở thành huyền thoại, bởi nó
mang trong mình nhân tính cao đẹp, hồn hậu hy sinh, nó vắt sữa nuôi Từ Lộ
nhƣ một ngƣời mẹ nuôi con. Sự tƣởng tƣợng của con ngƣời không bờ bến,
nhƣng bao giờ nó cũng cho ta biết ít nhiều về hiện thực. Và cái hiện thực sau
cùng mà chúng ta nhận đƣợc, đó là khát vọng yêu thƣơng của con ngƣời, ở
nhà văn Võ Thị Hảo. Bà đã giúp ta cảm nhận đƣợc nỗi đau trần thế qua những
nhân vật thánh thiện nhƣ thiên thần.
Viết về đề tài lịch sử nên Võ Thị Hảo đã chọn một kiểu nhân vật đặc biệt
đó là: nhân vật bị khát vọng quyền lực, danh vọng hành hạ. Trƣớc tình trạng
con ngƣời đang tha hóa, bị dục vọng lôi kéo vào những hành vi độc ác, những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
toan tính lạnh lùng, dửng dƣng khiến con ngƣời ngày càng cạn kiệt nhân tính,
106
tác giả đã không ngần ngại “cầu viện” đến tiếng nói của tâm linh, những sự
báo oán, trả thù hay hiện hồn kỳ dị là sự cảnh báo nghiêm khắc. Võ Thị Hảo
đã sử dụng nghệ thuật huyền thoại hóa, dùng cái kỳ ảo, dùng những mơ tƣởng
và mộng mị, những hồi ức đứt nối, chập chờn để diễn đạt trạng thái mất thăng
bằng của con ngƣời, dập tắt vầng hào quang của nhân vật danh tiếng nhƣ Ỷ
Lan,…đồng thời làm nổi bật trạng thái phi lý, đáng thất vọng của một hiện
thực không phải nhƣ ta mong ƣớc, việc “bắt trƣớc” thi hành điểm lệ thiêu
ngƣời sống man rợ của Vua Tần Thủy Hoàng, Nguyên Phi Ỷ Lan xúi vua Lý
Nhân Tông giam Dƣơng Thái Hậu và bẩy mƣơi sáu cung nữ trong cung
Thƣợng Dƣơng rồi bức tử chết… Việc làm tàn ác này đã khiến cả quãng đời
còn lại của Thái hậu Ỷ Lan luôn sống trong những giấc mơ khủng khiếp, ám
ảnh về những oan hồn hiện về tra vấn, đòi mạng, những con chuột khổng lồ
cắn xé, tâm thần bất ổn… Nó giống nhƣ cuộc chất vấn, day dứt, đay nghiến
của lƣơng tâm thức tỉnh trong con ngƣời. Những ám ảnh ấy rõ ràng có tác
dụng cảnh tỉnh con ngƣời trƣớc điều xấu, điều ác bởi nó khúc xạ những dự
cảm, những nung nấu, những khát vọng mơ hồ hoặc cháy bỏng… theo một
cách nào đấy. Nó thuộc về cái vô thức, siêu thức, vƣợt ngoài lý trí con ngƣời.
Dẫu là kẻ lạnh lung, tàn nhẫn, quyền uy tột bậc song cái vòng u tối trong tâm
linh Ỷ Lan cũng khiến bà sợ hãi, biết hối cải. Cả cuộc đời phải cố gắng làm
điều thiện, thực ra chỉ để che lấp cho hành vi tội ác của mình, để sám hối,
lƣơng tâm đƣợc thanh thản. Huyền thoại là viền nổi "phần tối" của tâm hồn, Ỷ
Lan thái hậu hóa ra cũng là con ngƣời với tất cả những đa đoan, hệ lụy thƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tình và dữ dội.
107
C. PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi khảo sát nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo, luận văn đi
đến những kết luận sau.
1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ là hình tƣợng quen thuộc, xuyên suốt và là
nguồn cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời vẫn chƣa khai thác hết.Tƣơng
ứng với những thời kì lịch sử là mỗi thời kì văn học, và ở mỗi thời kì khác
nhau thì văn học khai thác đề tài về ngƣời phụ nữ cũng khác nhau. Nhƣng
chƣa bao giờ ngƣời đọc đƣợc chứng kiến trên diễn đàn văn học, sự xuất hiện
rầm rộ và đầy ấn tƣợng của các cây bút nữ nhƣ những năm gần đây và đã đem
đến một diện mạo mới cho nền văn học dân tộc. Chỉ mấy mƣơi năm trở lại
đây ngƣời đọc đã đƣợc thƣởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong
cách khác nhau của các cây bút nữ. Trải nghiệm nhƣ Lê Minh Khuê, sắc sảo
nhƣ Phạm Thị Hoài, tinh tế nhƣ Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm nhƣ Nguyễn
Thị Thu Huệ, hồn hậu và đậm sắc màu văn hoá nhƣ Nguyễn Ngọc
Tƣ…Nhƣng trong số các nhà văn nữ đƣơng đại,Võ Thị Hảo hiện lên nhƣ một
đại diện xuất sắc, giàu cá tính. Đọc các sáng tác của chị, ngƣời đọc dễ nhận
thấy bên cạnh những khắc khoải về chiến tranh thì những mảnh đời ngang
trái, những đau đớn khôn nguôi của số phận những con ngƣời bất hạnh, là sự
thƣờng trực trong mỗi tác phẩm. Đồng thời đó còn là những cảm thông, day
dứt của một trái tim phụ nữ khi nói về những nỗi đau của ngƣời đồng giới.
2. Thế kỉ XX nhân loại đƣợc chứng kiến những phong trào đấu tranh cho
nữ quyền rầm rộ ở nhiều nƣớc trên thế giới, nhằm lên tiếng đòi quyền bình
đẳng cũng nhƣ đòi quyền lợi cho ngƣời phụ nữ. Ở Việt Nam cùng với quá
trình giao lƣu, hội nhập vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX, quan điểm giới
nhanh chóng đƣợc du nhập và truyền bá vào cùng với nó là sự biến đổi nhanh
chóng quan niệm, thái độ, hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập bình đẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
giới trong mọi lĩnh vực của xã hội Việt Nam thời kì đổi mới. Vấn đề nữ
108
quyền đã trở thành một hiện tƣợng văn hoá xã hội của thời hiện đại.Và nữ
quyền- ý thức về hạnh phúc của ngƣời phụ nữ đƣợc khẳng định.Trong sáng
tác của Võ Thị Hảo tính nữ quyền thể hiện rất rõ ở sự quyết liệt đấu tranh
dành giữ tình yêu, sự bình quyền trong tình cảm và khẳng định giới mình.
Những nhân vật nữ trong sáng tác của chị có khi rất mực nhu mì, dịu dàng,
cũng có khi rất mực nhẹ dạ và cuồng si nhƣng khi cần cũng quyết liệt đến
cứng cỏi nhƣng rồi cuộc đời vẫn đầy bất hạnh. Họ là hiện thân của những số
phận bi kịch: bi kịch là nạn nhân của chiến tranh, bi kịch của cái nghèo, bi
kịch của những mảnh đời tật nguyền, bi kịch tình yêu và hạnh phúc lứa đôi…
Trong sáng tác của Võ Thị Hảo có không ít ngƣời phụ nữ có những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp, họ yêu và sống hết mình cho những khát khao hạnh phúc,
khát khao vƣơn tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống nhƣng cũng chính
những khát khao ấy đã đẩy họ đến những bi kịch trong cuộc đời khi nó chỉ là
mơ ƣớc mà không thể thực hiện.
Viết về vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác của mình, Võ
Thị Hảo đã đề cập đến con ngƣời bản năng, vấn đề giới tính, những nhân vật
dám sống thật với những khao khát của mình.Nhà văn thể hiện sự trân trọng,
ngợi ca khát vọng tình yêu chân chính đƣợc đẩy tới cùng của sự hoà hợp giữa
thể xác và tâm hồn và coi đó là điều thiêng liêng cao quý nhất.
3. Để xây dựng thành công nhân vật nữ trong sáng tác của mình, nhà văn
Võ Thị Hảo đã kết hợp sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó tập trung
ở nghệ thuật miêu tả ngoại hình, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, và nghệ
thuật tạo màu sắc huyền thoại, nhằm khắc hoạ sống động và rõ nét về cuộc
đời, tính cách, và số phận của nhân vật.
4. Nhân vật là con đẻ của nhà văn, đặc biệt đối với các nhà văn nữ thì các
nhân vật nữ lại là nơi để họ gửi gắm những suy nghĩ, nỗi niềm, quan niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
của họ về giới mình. Qua nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo, chúng ta có
109
cái nhìn sâu hơn về giới nữ, hiểu hơn về thế giới và thêm cảm phục, tin yêu
nhà văn. Những trải nghiệm của chị trên mỗi trang viết thấm đẫm nỗi suy tƣ
và những khắc khoải không phải của riêng chị.Võ Thị Hảo và những nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
của chị không ở bên cạnh mà trong mỗi chúng ta.
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọc Anh (2003), Đã đến lúc những người đàn bà nổi loạn, Báo Nông
thôn ngày nay.
2. Nguyễn NgọcThuỳ Anh (2007), Phái tính trong thơ nữ sau 1975, Luận
văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
3. Diễn Chi (2005),“Tôi là người nô lệ cho gia đình”,Báo phụ nữ chủ nhật
số 6
4. Trƣơng Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn, Tạp chí văn học số 5.
5. Đông Dƣơng (2005), Hiện tượng sex trong tác phẩm văn học:ưu thế
thuộc về các cây nữ, Tien phong online.
6. Đặng Anh Đào(1991), Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện
hiện nay,Tạp chí văn học số 6.
7. Minh Đức(2005),“Tôi không định mê hoặc …”Báo ngƣời đại biểu nhân
dân số 3.
8. Nguyễn Đăng Điệp, Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn
học Việt Nam đương đại.
9. Nguyễn Hoàng Đức(2000), Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ, Nhà xuất
bản Văn học Dân tộc.
10. Võ Thị Hảo(2005), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nhà
xuất bản Phụ nữ.
11. Võ Thị Hảo(2005), Hồn trinh nữ, Nhà xuất bản Phụ nữ.
12. Võ Thị Hảo(2005), Goá phụ đen, Nhà xuất bản Phụ nữ.
13. Võ Thị Hảo(2006), Người sót lại của rừng cười, Nhà xuất bản Phụ nữ.
14. Võ Thị Hảo(2007), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nhà xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
bản Phụ nữ.
111
15. Võ Thị Hảo(2005), Tiểu thuyết“Giàn thiêu”, Nhà xuất bản Phụ nữ.
16. Võ Thị Hảo(1995), Biển cứu rỗi, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
17. Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo,“Trách nhiệm người viết là không né
tránh sự thật”, Nguồn:Xem sách.com.vn
18. Đỗ Thu Hƣơng(2001), Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện đời
sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau1975, Luận văn thạc sĩ Ngữ
văn, Hà Nội.
19. Minh Hà(2002),“Tôi vốn là người đàn bà thích được che chở”, Báo lao
động.
20. Nguyên Hằng(1996), Suốt đời chỉ mơ một giấc (trò chuyện với Võ Thị
Hảo), Tuần báo Công nghiệp Việt Nam số 6.
21. Hoàng Hoa(2001), Tôi ngồi bệt trên đất mà viết, Tạp chí nghề báo số1.
22. Lê Thị Hƣờng(1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975-1995, Luận án phó tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
23. Võ Thị Hảo(2004),“Nhà văn mà nhẵn nhụi thì mất duyên”,VN Epress.
24. Hiện tƣợng Sex trong tác phẩm văn học(13/9/2005), Ưu thế thuộc về các
cây bút nữ, trang Tienphong online.
25. Nhiều tác giả(2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Giáo dục
(Tái bản lần 2).
26. Nhiều tác giả(2002),Lý luận văn học tập1,Nhà xuất bản Đại học Sƣ
phạm.
27. Nhiều tác giả(1997), Việt Nam nửa thế kỉ văn học, Nhà xuất bản Hội nhà
văn.
28. Châm Khanh(2000), Phụ nữ và văn chương, Tạp chí Việt, Tienve Org.
29. Nguyễn Vi Khanh(2002), Bài viết “Tản mạn về dục tính và nữ quyền”.
30. Vi Thuỳ Linh(7/10/2005), Những cơn bão tuổi 25 và sự thay đổi, Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Vietnamnet.
112
31. Nguyễn Trƣờng Lịch(1997), Huyền thoại và sức sống của huyền thoại
trong văn chương xưa và nay, Tạp chí văn học số 5.
32. Phạm Thị Ngọc Liên(25/1/2007), Nhục cảm trong văn chương, Trang
Web www evan.com.vn.
33. Phƣơng Lựu chủ biên(2003), Lý luận văn học, Nhà xuất bảnGiáo dục.
34. Nguyễn Văn Long(2003),Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nhà xuất
bản Giáo dục.
35. Nguyễn Đăng Mạnh(1995), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nhà xuất bản Giáodục.
36. Nguyễn Thị Mận(2006), Báo cáo khoa học:Tình yêu, tình dục và vấn đề
phái tính trong tập thơ “Rỗng ngực” của Phan Huyền Thư, trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội.
37. Thụ Nhân, Toạ đàm về sáng tác Võ Thị Hảo, Vietnamnet.
38. Hoài Nam phỏng vấn Tuý Hồng, Phụ nữ và văn chương, Tienve Org.
39. Vƣơng Trí Nhàn Văn học Sex, Chấp nhận để tìm cách đổi khác,
Vietnamnet.
40. Vƣơng Trí Nhàn(1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn học
số 6.
41. Phạm Xuân Nguyên(1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí
văn học số 2.
42. Phạm Xuân Nguyên(1991), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết, Tạp chí
văn học số 2.
43. Nghĩ về truyện ngắn(1994), Phỏng vấn các nhà văn,Văn nghệ quân đội
số2.
44. Khánh Phƣơng(2003), Là hạt muối tôi phải mặn (trò chuyệnvới Võ Thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Hảo), Báo thể thao văn hoá số 53.
113
45. Trần Đình Sử(2001), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học
Việt Nam thế kỉ XX, Tạp chí văn học số 8.
46. Vnexpress, Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo “Tôi biết mình không được
phép quay đầu”.
47. Vnexpress, Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo “Làm phong ba trên văn đàn
cần tri âm”.
48. Vnexpress, Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo “Tôi khòng thích lối mòn”.
49. Bùi Việt Thắng(1991), Quan niệm về con người trong văn xuôi hiện nay,
Tạp chí văn học số 6.
50. Bùi Việt Thắng(2001), Tuyển chọn giới thiệu, Truyện ngắn bốn cây bút
nữ Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nhà
xuất bản Văn học.
51. Bùi Việt Thắng(1993), Khi ngƣời ta trẻ, tản mạn về truyện ngắn của
những cây bút nữ trẻ, Báo văn nghệ số 43.
52. Nguyễn Thị Thành Thắng(2004), Phác thảo vài nét về diện mạo truyện
ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ, Tạp chí Văn thành
phố Hồ Chí Minh số 7.
53. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua
hệ thống mô típ chủ đề. Tạp chí văn học 4.
54. Đinh Thị Thu (2007), Báo cáo khoa học: Cảm thức cô đơn trong tập
truyện ngắn Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội.
55. Bùi Thị Thuỷ, Dấu hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam đương đại.
56. Đoàn Minh Tuấn(1993), Lời giới thiệu “Biển cứu rỗi”(Võ Thị Hảo), Nhà
xuất bản Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
57. Còn điều chi em mải miết đi tìm(6/2005), Báo An ninh Thế giới.
114
58. Blog cá nhân của Trần Văn Toàn, Những diễn ngôn về tính dục trong
văn xuôi hư cấu Việt Nam(từ đầu thế kỉ XX đến 1945).
59. Nguyễn Thị Nhƣ Tƣơi(2007), Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Luận văn thạc
sĩ Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
60. Đỗ Phƣơng Thảo(2006), Nhân vật nữ trong tác phẩm văn xuôi của Ma
Văn Kháng, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số7.
61. Dƣơng Quỳnh Trang(1994), Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi
của một cây bút nữ. Văn nghệ quân đội số 6.
62. Bùi Thanh Truyền(2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học .
63. Trần Thị Vƣợng(1986), Nhân vật phụ nữ trong sáng tác Nguyễn Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Châu, Luận văn thạc sĩ khoa học, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
115
MỤC LỤC
A - PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 4
3. Mục đích phạm vi nghiên cứu ................................................................ 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 9
5. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 10
B - PHẦN NỘI DUNG ................................................................................ 12
Chương 1: Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam ………………………...12
1.1. Nhân vật nữ trong văn học truyền thống ................................................. 12
1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kỳ đổi mới ............................................. 16
1.2.1. Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ.......................................... 16
1.2.2. Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn của Võ Thị Hảo ............... 19
Chương 2: Âm hưởng nữ quyền qua các nhân vật nữ của Võ Thị Hảo.... 24
2.1. Về vấn đề nữ quyền................................................................................ 24
2.1.1. Vấn đề nữ quyền, một hiện tƣợng văn hóa, xã hội của thời hiện đại 24
2.1.2. Nữ quyền - ý thức về hạnh phúc của ngƣời phụ nữ ......................... 28
2.2. Bình diện xã hội- tƣ tƣởng, nhân văn của nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị
Hảo ....................................................................................................................... 35
2.2.1.Vấn đề số phận bi kịch của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Hảo ................................................................................................................. .35
116
2.2.1.1.Bi kịch là nạn nhân của chiến tranh ........................................ 36
2.2.1.2.Bi kịch của cái nghèo............................................................. 42
2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền ................................. 46
2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi .............................. 50
2.2.2. Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo ...... 66
2.2.3. Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo ..... 71
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của
Võ Thị Hảo ............................................................................... 78
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ................................................................ 78
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý ...................................................................... 88
3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại ....................................................... 95
C - PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................. 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 105
A - PHẦN MỞ ĐẦU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
117