ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM LÊ DUNG NHẬT KÝ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS. Phong Lê
THÁI NGUYÊN-2011
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN!
Em xin cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn trường đại
học sư phạm Thái Nguyên, cùng các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy và hướng
dẫn nghiên cứu khoa học cho lớp Cao học K17 - Văn học Việt Nam; Sở giáo dục
và đào tạo Thái Nguyên, Ban giám hiệu và tập thể giáo viên trường trung học phổ
thông Bắc Sơn tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho em có cơ hội học tập và
nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới GS Phong Lê -
người thầy rất nghiêm khắc, tận tâm trong công việc đã truyền thụ nhiều kiến thức
quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học cho em trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu đề tài.
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 10 năm 2011
Tác giả
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phạm Lê Dung
LỜI CAM ĐOAN
Trong luận văn này, toàn bộ tài liệu tham khảo được đưa ra hoàn toàn có cơ
sở xác thực. Trước tôi chưa có công trình nghiên cứu nào cùng đề tài này được
công bố. Tôi xin đảm bảo luận văn này là kết quả nghiên cứu khoa học của riêng
cá nhân tôi.
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 10 năm 2011
Tác giả
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phạm Lê Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….............1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………...………..1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………………………..2
2.1. Về thể loại nhật ký………………………………………………………………………2
2.2. Về nhật ký chiến tranh Việt Nam……………………………………………….........4
2.2.1. Những công trình nghiên cứu và những bài viết về nhật ký chiến tranh Việt
Nam…………………………………………………………………………………...............6
2.2.2. Những bài viết đề cập đến một số phƣơng diện của nhật ký chiến
tranh…….....................................................................................................................7
2.2.2.1. Giới thiệu về nhật ký chiến tranh……………………………………….…….....7
2.2.2.2. Tìm hiểu về giá trị của những cuốn nhật ký……………………...………….....9
3. Phạm vi tư liệu khảo sát……………………………………………………………......11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………….………......12
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………...………..12
6. Cấu trúc luận văn ………………………………………………………….……………12
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT VỀ THỂ KÝ VÀ NHẬT KÝ………………….……..13
1.1. Giới thuyết về lý thuyết………………………………………………………………13
1.1.1. Khái niệm nhật ký…………………………………………………………………..13
1.1.2. Về dạng thức tồn tại của nhật ký……………….……………………………...….13
1.1.3. Đặc điểm nổi bật của thể loại nhật ký ………………………………………......18
1.2. Ký và nhật ký trong văn học Việt Nam thế kỷ XX……..……………………......22
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của thể ký………………………………………......22
1.2.2. Ký Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay…………………..……………………....24
1.2.2.1. Thể ký trong giai đoạn 1900 – 1930……………………….…………………..24
1.2.2.2. Thể ký trong giai đoạn 1930 – 1945……………………………………….......25
1.2.2.3. Thể ký
trong văn học giai đoạn
từ sau Cách mạng
tháng Tám năm
1945…………………………………………………………………………………………..28
1.2.3. Sự phân hoá thành nhiều thể loại…….…………………………………………..30
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chƣơng 2. NHẬT KÝ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM: TỪ NHẬT KÝ
TRONG GIAI ĐOẠN VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP ĐẾN NHẬT KÝ
TRONG
GIAI
ĐOẠN
VĂN
HỌC
KHÁNG
CHIẾN
CHỐNG
MỸ……………………………………………………………………..…………..38
2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội từ năm 1945 đến năm 1975………………………..…...38
2.1.1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954)…………………..…..38
2.1.2. Việt Nam trong thời kỳ xây dựng miền Bắc và đấu tranh để thống nhất đất nƣớc (1954 –
1975)……………………………………………………………………...…40
2.2. Nhật ký viết trong kháng chiến chống Pháp…………………………………….…42
2.2.1. Nhật ký của các nhà văn chuyên nghiệp………………………………………....42
2.2.2. Nhật ký của ngƣời viết không chuyên……………….....................……………………….…..53
2.3. Nhật ký viết trong kháng chiến chống Mỹ…………………………....................……………...55
Chƣơng 3. BA MƢƠI NĂM SAU KHI CHIẾN TRANH KẾT THÚC VÀ SỰ BÙNG
PHÁT CỦA NHẬT KÝ QUA HAI SỰ KIỆN NGUYỄN VĂN THẠC, ĐẶNG THÙY
TRÂM …………………………………………………………….……...............................................76
3.1. Chung quanh “Mãi mãi tuổi hai mươi”…………….……………………...................…..……..76
3.2. Chung quanh “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” ………….……...................……………………….78
3.3. Những giá trị mới được rút ra từ hai cuốn nhật ký gắn với thời điểm lịch sử
2005……………………………………………………...................……………………………………..82
3.3.1. Nhận thức lịch sử trong tính trung thực tối ƣu của nó………………....................………...86
3.3.1.1. “ Mãi mãi tuổi hai mƣơi” của Nguyễn Văn Thạc……....................….….………………..88
3.3.1.2. “ Nhật ký Đặng Thùy Trâm”………………...................…………………..………………..97
3.3.2. Giá
trị
nhân
văn
trong
cả
hai
chiều
-
chiều
rộng
và
chiều
sâu……………….........................................................................................................................102
3.3.3. Giá
trị kiểm chứng
tính chân
thực của đề
tài chiến
tranh
trong văn
học……………………………....................……………………………………………………….…….125
KẾT LUẬN……...................……………………………………………………...…………………..131
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Nói đến nhật ký, hầu như, người ta không mấy khi để ý đến, bởi đó là sản
phẩm mang tính chất riêng tư của một cá nhân. Nhật ký thường là những lời tâm
sự, những suy ngẫm “sống để dạ, chết mang theo” của cá nhân người viết mà
người khác dường như cũng nhận thức rõ về trách nhiệm không được xâm phạm
đến của bản thân mình. Nhưng, trên thực tế, vì những lý do đặc biệt khác nhau,
nhiều cuốn nhật ký đã được công bố rộng rãi trước công chúng và được công
chúng nồng nhiệt tiếp nhận với một thái độ trân trọng, thành tâm. Trong những
năm gần đây, nhật ký đã nhận được sự quan tâm của dư luận. Và sự quan tâm ấy
dường như có phần ưu đãi hơn đối với những cuốn nhật ký viết trong thời kỳ
chiến tranh. Từ những cuốn nhật ký chiến tranh, người đọc đã khám phá được
nhiều điều còn tiềm ẩn, đã vén lên được nhiều bức màn bí mật về cuộc chiến tranh
của nhân loại nói chung, cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam
nói riêng.
1.2. Nhật ký là một thể loại khá đặc biệt trong nền văn học Việt Nam. So với
nhiều thể loại văn học khác, thể loại nhật ký xuất hiện muộn hơn, thành tựu đạt
được của thể loại này cũng chưa thật sự đáng kể. Hơn nữa, số lượng nhật ký được
xuất bản ở nước ta hiện nay quá ít ỏi, nên chưa tạo ra được sự quan tâm của bạn
đọc và giới nghiên cứu. Vì vậy, lý thuyết thể loại về nhật ký trong văn học Việt
Nam hiện nay còn rất nhiều khoảng trống cần được bù đắp kịp thời để góp phần
làm phong phú thêm diện mạo nền văn học dân tộc. Tuy nhiên, trong một hoàn
cảnh lịch sử nhất định hay một hoàn cảnh đời sống đặc biệt của một cá nhân nào
đó, nhật ký có một vai trò đặc hiệu, mà không một thể loại văn học nào có thể thay
thế được. Vì lẽ ấy, nên nhật ký được rất nhiều người, nhiều nhà văn sử dụng để
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bộc lộ chân tình những tâm sự riêng tư, để ký thác những suy nghĩ khó giãi bày
được với người khác. Đó chính là những góc khuất chân thực nhất của đời sống
tâm hồn con người mà không một thể loại văn học nào hay không một loại hình
nào khác có thể diễn tả được.
1.3. Giá trị của nhật ký tưởng chừng như chỉ mang tính chất riêng tư đối với
mỗi cá nhân người viết, song đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, nhiều cuốn nhật ký
bỗng trở thành những kỷ vật vô giá không chỉ đối với đời sống tình cảm của con
người mà là những hiện vật vô giá trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Trong những
trường hợp như thế, nhật ký trở thành những chứng nhân đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng đối với cuộc đời con người, đối với lịch sử của một quốc gia. Có khi nhật ký
còn vượt ra khỏi khuôn khổ của một quốc gia, xứng đáng là chứng nhân lịch sử
quan trọng của nhân loại trong một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó. Tâm hồn
người viết, nhân cách người viết, những biến động của một thời đại lịch sử hiển
hiện qua rất nhiều trang nhật ký, nhiều cuốn nhật ký mà trong quá trình ghi chép,
người viết không hề nhận ra điều đó. Dù vô tình hay có ý thức, nhìn chung người
viết nhật ký đã mang đến cho thể loại nhật ký một phẩm chất thật đáng quý, thật
đáng trân trọng. Do đó, khi tiếp nhận nhật ký, chúng ta sẽ khám phá được nhiều
góc khuất chân thực của đời sống và tâm tư con người mà dường như ở các thể
loại văn học khác, ta không dễ gì bắt gặp.
Chọn nghiên cứu về Nhật ký chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại,
chúng tôi rất mong muốn được góp phần vào việc tìm hiểu một cách chuyên sâu
hơn chặng đường phát triển của nhật ký chiến tranh Việt Nam, đặc trưng của thể
loại nhật ký và vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của nền văn học
dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.1. Về thể loại nhật ký.
Trước năm 2005, số lượng tác phẩm nhật ký xuất hiện trong văn học Việt
Nam rất ít. Năm 2005, sau sự kiện “trở về” từ nước Mỹ của cuốn Nhật ký Đặng
Thuỳ Trâm, một loạt các cuốn nhật ký, thư từ thời chiến được xuất bản như là một
trào lưu, một “cơn sốt” trong văn học. Tuy nhiên, cho đến nay, số lượng tác phẩm
nhật ký vẫn là những con số rất khiêm tốn. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân, vì sao nhật ký chưa thật sự thu hút được sự quan tâm của nguời đọc. Và đó
cũng là lý do vì sao, việc nghiên cứu nhật ký dưới góc độ đặc trưng thể loại cũng
chưa được chú trọng. Hiện nay, việc nghiên cứu nhật ký như là nghiên cứu một
thể loại văn học mang tính quy mô như nhiều thể loại văn học khác cũng chưa có.
Thật ra, các nhà nghiên cứu văn học chưa có sự quan tâm nhiều đến vấn đề về thể
loại của nhật ký. Trong một số năm gần đây, khái niệm về nhật ký với tư cách như
là một thể loại văn học mới được đề cập đến trong các cuốn sách lý luận văn học,
song dung lượng nội dung nói về nhật ký trong các sách cũng chưa phải là nhiều.
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên), được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
xuất bản năm 1999 có thể coi là một trong những cuốn sách đầu tiên trong văn học
Việt Nam đã nhắc đến thể loại nhật ký với tư cách là: “Một thể loại thuộc loại
hình ký” [10, tr.200]. Trong Từ điển văn học (bộ mới), Lại Nguyên Ân cho rằng:
Nhật ký là “Loại văn ghi chép sinh hoạt thƣờng ngày. Trong văn học, nhật ký là
hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất số ít, dƣới dạng những ghi chép có đánh số
ngày tháng ... bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì nếm trải, thể
nghệm, nó ít hồi cố, đƣợc viết ra cho bản thân ngƣời ghi chứ không tính đến việc
công chúng tiếp nhận” [13, tr.1257]. Khi làm chủ biên cuốn Giáo trình thi pháp
học, giáo sư Trần Đình Sử lại đưa ra những ý kiến cụ thể hơn: “Nhật ký là thể loại
ghi chép sự việc, suy nghĩ cảm xúc hàng ngày của chính ngƣời viết, là những tƣ
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
liệu có giá trị về tiểu sử và thời đại của ngƣời viết (…). Giá trị quan trọng nhất
của nhật ký là tính chân thực do ghi chép sự việc đang xảy ra” [46, tr.261]. Trong
bài nghiên cứu khác, tác giả cho rằng: “Nhật ký là thể loại mang tính chất riêng
tƣ, đời thƣờng nhiều nhất. Nếu mục đích của bài viết là để giao lƣu với ngƣời
khác, thì nhật ký trái lại chỉ để giao lƣu với chính mình, mình viết để cho mình,
nói với mình. Riêng tƣ chính là lý do tồn tại của nhật ký. Tính riêng tƣ cũng là
điều hấp dẫn của nhật ký, vì nó liên quan đến bí mật của ngƣời khác, nhất là của
những nhân vật đƣợc xã hội quan tâm” [47, tr.379].
Bên cạnh đó, thể loại nhật ký còn được nhắc đến ở một số bài viết và các
công trình nghiên cứu khác. Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX, giáo sư
Phan Cự Đệ có quan điểm đồng nhất với giáo sư Trần Đình Sử khi nhắc đến thể
loại nhật ký với tư cách là một tiểu loại của loại hình ký: “Nhật ký ghi chép những
sự việc và cảm nghĩ về bản thân, về cuộc đời diễn biến theo ngày tháng. Nhật ký
thiên về tâm tình hơn là sự kiện. Một tập nhật ký có ý nghĩa văn học khi thể hiện
đƣợc một thế giới tâm hồn, qua sự việc và tâm trạng cá nhân toát lên những vấn
đề xã hội rộng lớn” [6, tr.432].
Hiện nay, nhật ký đã nhận được sự quan tâm của khá nhiều độc giả, nhiều
nhà nghiên cứu phê bình văn học. Vì lẽ ấy, nên việc nghiên cứu để làm phong phú
thêm những đặc điểm và đặc trưng về thể loại của nhật ký là điều vô cùng cần
thiết.
2.2. Về nhật ký chiến tranh trong văn học Việt Nam
Nhật ký chiến tranh ở Việt Nam xuất hiện trong những năm đầu cuộc kháng
chiến chống Pháp (1946 – 1954). Trong đó, có những cuốn đã được in thành sách
hoàn chỉnh hoặc trích in trên sách, báo, kịp thời đến với độc giả ngay sau khi tác
giả mới hoàn thành như: Nhật ký Ở rừng của Nam Cao, nhật ký của Bùi Hiển,
nhật ký Một tháng đi theo anh em pháo binh của Hoài Thanh, nhật ký của Thôi
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hữu,... Cũng có những cuốn nhật ký, sau rất nhiều năm viết mới được in. Đó là
Nhật ký Nguyễn Huy Tƣởng (3 tập) được viết từ năm 1953 đến 2006 mới được in
(Tính đến mốc thời gian cuối cùng tác giả ghi trong nhật ký).
Bên cạnh những trang nhật ký, những cuốn nhật ký của các nhà văn chuyên
nghiệp, ta còn thấy khá nhiều nhật ký của những người viết không chuyên. Họ chỉ
là những người lính Cụ Hồ hay những người tân binh, công binh trong hai cuộc
kháng chiến đó. Họ lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc, nhiệm vụ của họ là cầm
súng để chiến đấu với kẻ thù. Nhưng trong những khoảnh khắc yên bình ngắn ngủi
của cuộc chiến tranh, họ vẫn cố gắng trải lòng mình qua những trang nhật ký.
Những trang nhật ký này vốn được viết ra dưới chiến hào, trên đường hành quân,
khoảng thời gian đợi chờ giữa hai trận đánh hay được viết ngay trong những giờ
phút im lặng nhất của chiến trường đang trong những ngày “nổ lửa”. Chắc chắn,
khi đặt bút viết những dòng chữ này, người viết không bao giờ có ý định công bố
nhật ký của mình cho người khác biết và cũng không bao giờ nghĩ rằng những
trang nhật ký của cá nhân mình lại được in ra và đi vào đời sống của con người
sau này. Do đó, họ viết bằng cả tấm lòng chân thực nhất và nhiều cảm xúc cá nhân
nhất.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng đã để lại dấu ấn trong nhiều
trang nhật ký của một số nhà văn như: Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong,
Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Minh Châu,… và nhật ký của những người viết văn
không chuyên - người chiến sĩ - mà có lẽ phải đến mấy chục năm sau mới đến
được với bạn đọc vì nhiều lý do khác nhau như cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm,
Mãi mãi tuổi hai mƣơi (Nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc), Nhật ký Vũ Xuân,
Đƣờng về (Nhật ký của liệt sĩ Phạm Thiết Kế), Tài hoa ra trận (Nhật ký của liệt sĩ
Hoàng Thượng Lân), Những tấm ảnh trở về (Nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn
Giá),... Một điều rất đặc biệt là còn có cả cuốn Nhật ký bằng tranh của hoạ sĩ -
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến sĩ Lê Đức Tuấn,…
2.2.1. Những công trình nghiên cứu và những bài viết về nhật ký chiến tranh.
Xuất phát từ vấn đề nhật ký chưa được coi trọng như là một thể loại văn học
thực sự nên những công trình nghiên cứu với quy mô lớn về nhật ký hầu như
không có, việc đưa nhật ký vào chương trình học ở các cấp học, các bậc học cũng
chưa thấy được đề cập đến. Sau “cơn sốt” nhật ký chiến tranh năm 2005, trong đời
sống văn học Việt Nam đương đại, một số cuốn nhật ký và tên tuổi tác giả gắn liền
với nhật ký đó được nhiều trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông,
trường Trung cấp, trường Cao đẳng, trường Đại học, nhiều cơ quan, nhiều đơn vị
bộ đội, v.v… phát động phong trào học tập các tấm gương liệt sĩ – tác giả của
những cuốn nhật ký đã hy sinh.
Sự xuất hiện của một loạt các cuốn nhật ký trong khoảng ba năm (2005 –
2008) đã thu hút được sự quan tâm của số đông bạn đọc ở mọi lứa tuổi, mọi ngành
nghề khác nhau. Nhà thơ, nhà báo Đặng Vương Hưng, người sử dụng rất hiệu quả
tư liệu viết tay cá nhân cho những bài báo của mình cho biết: “Tôi nhận ra rằng
mỗi bức thƣ, trang nhật ký của những con ngƣời bình thƣờng là một kho tàng vô
giá của cuộc sống, đặc biệt đối với ngƣời làm báo, viết văn” [14].
Nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định:“Hiện tƣợng nhật ký chiến tranh
cũng cho thấy chúng ta chƣa quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo tồn ký ức, lâu
nay chúng ta rất quan tâm đến bảo tồn những di tích vật thể mà quên mất rằng ký
ức cũng là một di sản phi vật thể. Nhất là với thực tiễn lịch sử đất nƣớc ta, với
cuộc chiến tranh hào hùng nhƣ vậy, thì mỗi một con ngƣời đi vào cuộc chiến
tranh đó đều có thể là những pho sử liệu rất quý” [14].
Hiện nay, những công trình nghiên cứu và những bài viết về nhật ký chiến
tranh ở Việt Nam còn mang tính chất lẻ tẻ, rải rác trên một số trang báo phát hành
hoặc trên một số trang web ở báo điện tử,… Tuy vậy, tất cả các bài báo đó đều có
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự đánh giá cao về những đóng góp của nhật ký chiến tranh đối với tiến trình phát
triển văn học của dân tộc, đối với đời sống tinh thần của con người vào thời điểm
cuốn nhật ký đó được ra mắt công chúng. Đóng góp lớn nhất mà những cuốn nhật
ký được viết trong thời kỳ đất nước có chiến tranh mang lại cho nền văn học Việt
Nam - qua sự đánh giá của phần lớn các bài viết - chính là giá trị tư liệu nhiều mặt
về cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược của dân tộc Việt Nam liên tục trong suốt gần ba chục năm. Nhưng nếu
xét một cách toàn diện thì những bài viết này mới chỉ mang tính chất là những bài
viết thể hiện suy nghĩ, đánh giá, nhận xét ở mức độ cơ bản về từng cuốn nhật ký;
nếu là những đánh giá chung về nhật ký chiến tranh thì đó cũng mới chỉ là những
đánh giá mang tính tổng thể về giá trị của thể loại này trên phương diện lịch sử
hoặc trong lĩnh vực văn học. Đến nay, chưa có công trình nghiên cứu văn học nào
nghiên cứu chuyên sâu về thể loại nhật ký nói chung, về nhật ký chiến tranh nói
riêng trên cả hai phương diện: Hình thức nghệ thuật và giá trị nội dung. Mặc dù
giá trị nghệ thuật ở thể loại này thể hiện rất mờ nhạt song không phải là không có.
Thậm chí hình thức nghệ thuật của nhật ký biểu hiện rõ đến mức, người đọc,
người nghe có thể nhận diện ngay được khi tiếp xúc với văn bản.
2.2.2. Những bài viết đề cập đến một số phương diện của nhật ký chiến tranh.
2.2.2.1. Giới thiệu về nhật ký chiến tranh.
Thật ra, chúng ta cũng nhận thấy rằng, từ nhiều năm nay, trên báo chí đã
đăng rất nhiều các bức thư tình hoặc những trang nhật ký thời chiến. Đến năm
2005, hàng loạt cuốn nhật ký được xuất bản đã nhận được sự đồng tình ủng hộ và
sự đón nhận nhiệt thành của độc giả. Có một điều rất đặc biệt là, giới trẻ hiện nay
tỏ ra rất quan tâm đến cái thời mà cha anh họ đã trải qua. Các bạn trẻ đã tìm thấy
lý tưởng sống và lẽ sống chân thật của cha anh họ trong thời kỳ chiến tranh qua
những cuốn nhật ký mà các tác phẩm văn học dù muốn cũng không sao thể hiện
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được. Trên báo chí hoặc trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác nhau,
các bài viết về nhật ký chủ yếu tập trung vào vấn đề giới thiệu các cuốn nhật ký
khi mới được xuất bản, cách giới thiệu còn mang tính chất nhỏ lẻ, phần lớn là
nhằm mục đích quảng cáo sách.
Phó giáo sư - Tiến sĩ Xã hội học Mai Quỳnh Nam cho biết: “Nhật ký của anh
Thạc, chị Trâm và nhiều liệt sỹ trẻ vô danh khác đã nói lên tiếng nói của cả một
thế hệ. Việc xuất bản các cuốn hồi ký, nhật ký từ thời chiến tranh, cũng nhƣ việc
đăng tải các tác phẩm đó trên báo chí là rất cần thiết. Bởi nó làm cho ngƣời ta có
điều kiện sống lại lịch sử, khẳng định lại giá trị cơ bản của dân tộc. Việc làm đó
nên tiến hành thƣờng xuyên, có hệ thống, và đi vào thế tƣơng đối ổn định, gắn với
giáo dục truyền thống yêu nƣớc, nhân sinh quan, quan niệm lý tƣởng đối với
ngƣời trẻ, đặc biệt là nghĩa vụ của họ đối với đời sống xã hội và quan hệ cá nhân
của họ đối với cộng đồng. Điều này cần đặc biệt nhấn mạnh trong bối cảnh của
nền kinh tế thị trƣờng” [40].
Giới thiệu về Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, Tạp chí sông Hương (lời toà soạn) đã
thể hiện rất rõ quan điểm của tạp chí: “Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, “Nhật
ký Đặng Thuỳ Trâm” là cuốn sách duy nhất (có thể nói nhƣ vậy) gây đƣợc xúc
động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lƣợc và
chống xâm lƣợc nhờ tính chân thực của nó.” [33].
Trang giới thiệu sách của blogsach.com cũng đã khẳng định hiện tượng kỳ lạ
mà cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã mang đến cho văn hoá đọc hiện nay: “Giờ
đây có thể nói gì thêm về Nhật Ký Đặng Thuỳ Trâm? Rằng đó là một cuốn sách kỳ
lạ, phá kỷ lục xuất bản của Việt Nam, đã khiến ngƣời nữ tác giả đã mất cách đây
hơn ba mƣơi năm của nó trở thành anh hùng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng?
Rằng đó là cuốn sách đã khuấy động cả một xã hội đang mỗi lúc mỗi trở nên nhạy
cảm và dè chừng trƣớc mọi hình thức khuấy động? Rằng đó là tác phẩm đánh dấu
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cả một thời đại trong nghĩ và sống? Và chính vì lẽ ấy mà nó vẫn có nguyên giá trị
trong khi dòng đời đã đổi và lòng ngƣời đã khác? Rằng mỗi thế hệ, mỗi cá nhân
vẫn hoàn toàn có thể lật giở những ngày sống của Thuỳ với những nhìn nhận
riêng và vô cùng khác biệt? Rằng đó là tác phẩm của một thời song lại nhƣ hƣớng
đến một số phận toàn thể và vì thế phi thời?” [18].
Viết về nhật ký của Dương Thị Xuân Quý, tác giả Nguyễn Thị Việt Nga đã
giới thiệu: “Nhật ký của nhà văn liệt sĩ Dƣơng Thị Xuân Quý không nằm trong tủ
sách “nhật ký chiến trƣờng” ấy mà đƣợc in gộp cùng những tác phẩm của nhà
văn và những dòng kỷ niệm của ngƣời thân, bạn hữu, đồng đội về nhà văn - chiến
sĩ đã “nằm lại với đất lành Duy Xuyên” đƣợc Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành
năm 2007” [37].
Trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng trong ba năm 2005 – 2008,
việc giới thiệu sự xuất hiện của các cuốn nhật ký đã trở thành tâm điểm của nhiều
tờ báo, nhiều chương trình phát thanh và truyền hình. Điều này đã được công
chúng đặc biệt quan tâm và đón nhận.
2.2.2.2. Tìm hiểu về giá trị của những cuốn nhật ký.
Từ năm 2005 trở lại đây, nhật ký chiến tranh đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ
trong lòng bạn đọc, lý giải về điều này, nhà sử học Dương Trung Quốc cho
rằng:“Nhật ký chiến tranh đang gây cảm xúc mạnh mẽ với thế hệ @. Lý giải điều
này nhƣ thế nào? Thời đại đã thay đổi rất nhiều, và cuộc sống hiện tại thì “cuốn”
mọi ngƣời theo rất nhanh, sức “cuốn” đó tạo nên những khoảng trống làm cho
các bạn trẻ thấy hẫng hụt. Phải chăng các bạn trẻ đã tìm đƣợc trong những trang
nhật ký chiến tranh những điều thực sự rất gần gũi với mình và đã chấp nhận
ngay?” [40].
Trước hiện tượng nhật ký chiến tranh của Đặng Thuỳ Trâm và Nguyễn Văn
Thạc, tác giả Lê Minh Tiến đã bộc lộ rất chân thành suy nghĩ của anh về hiện
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tượng này: “Từ đây cũng làm nảy sinh một câu hỏi vì sao trong thời buổi bị phê
phán là thực dụng này mà “nhật ký chiến tranh” vẫn có một sức thu hút lớn đến
nhƣ vậy? Có thể là vì trong hai cuốn nhật ký ấy đều “có lửa”, chứa đựng những
giá trị nhân văn cao đẹp làm lay động lòng ngƣời, những thông điệp “từ trái
tim”… Nhƣng nếu lý giải nhƣ thế thì hóa ra trƣớc đây chúng ta chƣa có, chƣa đọc
đƣợc những cuốn nhật ký chiến tranh nhƣ thế sao?” [53]. Như vậy, nhật ký chiến
tranh, thực sự đã tạo được một sức hút đặc biệt trong giới trẻ hiện nay và đã được
đông đảo bạn đọc đón nhận. Tất nhiên, theo cách lý giải của tác giả Lê Minh Tiến
thì điều đó có cơ sở chứ không phải chỉ xuất phát từ những sở thích vu vơ của họ.
Tác giả Tôn Phương Lan trong bài viết Nguồn tƣ liệu đáng quý qua nhật ký
chiến tranh nhận định: “Cuộc chiến tranh đã đi qua hơn ba mƣơi năm. Nhiều bức
màn bí mật đã đƣợc vén lên cho thấy chiều kích cuộc chiến đấu một thời cụ thể
hơn. Vẫn biết những sáng tác văn chƣơng của ta chƣa thật xứng tầm với những hy
sinh của nhân dân ta và nhật ký chiến tranh của những ngƣời tham chiến, đặc biệt
là của các liệt sĩ là trí thức văn nghệ sĩ càng cho chúng ta thấy rõ hơn điều đó.
Đến bây giờ chắc chẳng ai còn ngủ trong hào quang chiến trận. Nhƣng hãy nhìn
vào những gì dân tộc đã trải qua để đốt lên trong lòng mỗi ngƣời ngọn lửa yêu
nƣớc, để đƣa dân tộc ta vƣợt qua đói nghèo là việc cần làm. Trên ý nghĩa đó, nhật
ký chiến tranh sẽ là cơ sở để cho hậu thế viết lại lịch sử bằng văn. Sâu xa hơn, có
thể đó là một bài học kinh nghiệm trong cuộc hội nhập hôm nay” [25]. Qua những
lời nhận định xác đáng, tác giả Phương Lan đồng thời cũng gióng lên một hồi
chuông cảnh tỉnh mỗi chúng ta hiện nay: Hãy có cái nhìn đúng đắn về quá khứ của
dân tộc ta bởi đó sẽ là nền tảng cho công cuộc phát triển đất nước trong hiện tại và
tương lai sau này.
Giáo sư Phong Lê đã phát hiện ra “sau khoảng lặng ba mươi năm”, nhật ký
chiến tranh của Đặng Thuỳ Trâm và Nguyễn Văn Thạc vẫn có một sức sống kỳ lạ
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bởi hai cuốn nhật ký này có một giá trị đặc biệt: “Ba mƣơi năm đã qua, tính từ 30
tháng Tƣ năm 1975, và trƣớc đó là ba mƣơi năm trong chiến tranh, chúng ta đã
có một nền văn học viết về chiến tranh của một đội ngũ ngƣời viết - dẫu chuyên
hoặc không chuyên, đều có chung một tâm nguyện là viết sao cho vừa chân thực,
vừa có đóng góp tích cực cho cuộc chiến đấu đòi hỏi tận cùng những nỗ lực và hy
sinh của toàn dân tộc. Và với hai cuốn nhật ký này, chúng ta lại có dịp thử nghiệm
lại tính chân thực của nền văn học ấy; một thử nghiệm cho thấy độ tin cậy cao
nhất về những gì đã đƣợc viết; cả độ tin cậy về sự đón nhận, sự bàn luận và đánh
giá của các thế hệ đến sau khi chiến tranh đã lùi vào lịch sử” [29].
Nhìn chung, đó mới chỉ là những ý kiến, những nhận định mang tính chất tản
mạn, chưa được tập hợp lại thành một hệ thống về thể loại nhật ký chiến tranh,
cũng chưa có bài viết nào nghiên cứu sâu về nhật ký chiến tranh. Nhằm mục đích
kế thừa và phát huy những đánh giá về nhật ký chiến tranh qua những bài viết đã
được tham khảo, chúng tôi mong muốn được góp phần vào việc làm rõ hơn những
giá trị của nhật ký chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giá trị
của hai cuốn nhật ký được viết trong những năm kháng chiến chống Mỹ: Nhật ký
Đặng Thuỳ Trâm của nữ liệt sĩ – bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và cuốn Mãi mãi tuổi hai
mƣơi - nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc.
3. Phạm vi tƣ liệu khảo sát
Một số tác phẩm nhật ký đã được xuất bản: Ở rừng (Nam Cao), Nhật ký
Nguyễn Huy Tƣởng, Nhật ký Chu Cẩm Phong, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, Mãi mãi
tuổi hai mƣơi (Nguyễn Văn Thạc), v.v… và nhiều trang nhật ký, cuốn nhật ký của
các tác giả khác được viết trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống sự phát triển của nhật ký
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến tranh trong văn họcViệt Nam hiện đại.
4.2. Bước đầu đưa ra được một số đặc điểm vể thể loại nhật ký và những
đóng góp của các tác phẩm nhật ký chiến tranh đối với nền văn học hiện đại Việt
Nam. Đặc biệt là đóng góp của hai cuốn nhật ký: Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm của
liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi - nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn
Thạc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng nhiều phương pháp:
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
được triển khai trong ba chương
Chương I: Giới thuyết về thể ký và nhật ký
Chương II: Nhật ký chiến tranh trong văn học Việt Nam: Từ nhật ký trong
giai đoạn văn học kháng chiến chống Pháp đến nhật ký trong giai đoạn văn học
kháng chiến chống Mỹ.
Chương III: Ba mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc và sự bùng phát của
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhật ký qua hai sự kiện Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm.
Chƣơng 1:
GIỚI THUYẾT VỀ THỂ KÝ VÀ NHẬT KÝ
1.1. Giới thuyết về lý thuyết
1.1.1. Về khái niệm Nhật ký:
Hiện nay, việc xác định vai trò, đặc điểm của nhật ký như một thể tài văn
học có ý nghĩa trong đời sống văn học vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, chưa thể
hiện được sự thống nhất. Theo Từ điển văn học (bộ mới): “Nhật ký đích thực là
một thể tài ngoài văn học”. Giáo sư Trần Đình Sử lại đánh giá khá cao về nhật ký
với tư cách là một tiểu loại của thể loại hình ký: “Nhật ký là thể loại ký mang tính
chất riêng tƣ, đời thƣờng nhiều nhất” [47, tr.379]. Trong Từ điển thuật ngữ văn
học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên), các tác giả đã
bước đầu so sánh nhật ký ngoài văn học với nhật ký văn học: “Cũng giống nhƣ
trong các nhật ký khác ngoài văn học (nhật ký riêng tƣ, nhật ký khoa học, nhật ký
công tác,…) những điều ghi chép và những cảm nghĩ trong nhật ký văn học
thƣờng có độ chân thực, cởi mở đáng tin cậy. Song đặc điểm khác nhau cơ bản là
ở chỗ nhật ký văn học thƣờng hƣớng về một tƣ tƣởng chủ đề nhất định và có sự ƣu
tiên chú ý đến nội tâm của tác giả hoặc nhân vật trƣớc những vấn đề, những sự
kiện có ý nghĩa xã hội nhân bản rộng lớn. Về mục đích sử dụng, các loại nhật ký
ngoài văn học đƣợc viết ra không nhằm để công bố rộng rãi” [10, tr.200]. Mặc
dù, hiện nay, nhật ký đã có được một chỗ đứng nhất định trong đời sống văn học
với tư cách là một thể loại văn học nhưng so với các thể loại văn học khác, nhật ký
vẫn chưa tìm được sự nhất quán trong quan niệm, quan điểm của các nhà nghiên
cứu, các độc giả về đặc trưng, đặc điểm của thể loại này.
1.1.2. Về dạng thức tồn tại của nhật ký:
Cũng giống như dạng thức tồn tại của một số thể loại văn học, dạng thức tồn
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tại của nhật ký rất đa dạng, giá trị của nhật ký đối với cá nhân và đối với đời sống
văn học có sự khác nhau. Sự khác biệt này rất dễ nhận biết do nội dung và mục
đích sử dụng của văn bản nhật ký quy định nên. Theo Từ điển thuật ngữ văn học
thì “Nhật ký vốn là thể loại độc thoại song lời độc thoại của tác giả hoặc nhân vật
lại có thể là cuộc đối thoại ngầm với ngƣời khác về con ngƣời và cuộc đời nói
chung và về chính bản thân mình nói riêng” [10, tr.200]. Tuy nhiên, sự khác nhau
của các loại nhật ký, về cơ bản vẫn phân biệt được: Nhật ký công tác, nhật ký
khoa học là những ghi chép của cá nhân về những sự việc, hiện tượng diễn ra hàng
ngày, hàng giờ, là lịch trình công việc ở các công sở, các đơn vị hành chính hoặc
trong nghiên cứu khoa học. Còn nhật ký cá nhân cũng là những ghi chép của cá
nhân nhưng đó lại là những ghi chép về các sự kiện đời tư, những suy nghĩ và trải
nghiệm của cá nhân người ghi trong cuộc sống hàng ngày. Nếu nhật ký công tác
và nhật ký khoa học có thể thông báo tức khắc, rộng rãi trước tập thể để mọi người
cùng biết hay cùng công nhận thì nhật ký cá nhân lại là hình thức giao lưu của cá
nhân đó đối với chính những suy nghĩ, chiêm nghiệm và tâm sự của họ, chứ không
hề có mục đích công bố cho người khác biết. Chính điều này đã làm nên tính chất
xác thực của nhật ký cá nhân. Qua nhật ký cá nhân, người ta không chỉ đọc được
những cảm xúc riêng tư bí mật của người viết về đời tư cá nhân mình, về cuộc
sống đời thường mà còn thấy được những dấu ấn của một sự kiện, một thời kỳ lịch
sử, một vùng miền nào đó trên từng trang nhật ký. Nhiều cuốn nhật ký cá nhân của
những nhân vật nổi tiếng, khi được công bố rộng rãi đã thu hút được sự chú ý, tò
mò của người đọc. Những cuốn nhật ký như thế đã có một sức hấp dẫn, lôi cuốn
ghê gớm đối với người đọc cho dù nhân vật đó nổi tiếng trong bất cứ lĩnh vực nào.
Dù sao cũng không thể phủ nhận được giá trị chân thực của nhiều cuốn nhật ký
trong việc cung cấp những tư liệu quý giá, lưu giữ kí ức của con người một thời
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Và vì vậy, nên xét trên một phương diện
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nào đó kí ức của một dân tộc cũng có thể được lưu giữ qua kí ức của cá nhân trong
nhật ký. Bên cạnh đó, qua nhiều cuốn nhật ký cá nhân, người đọc còn nhận thấy
trong đó có những bài học xử thế đáng khâm phục, đáng phải học tập. Cũng bởi vì
có những ưu điểm như vậy, nhật ký cá nhân đã được vận dụng vào lĩnh vực văn
học, lĩnh vực lịch sử như những tư liệu quý giá mà nhiều khi khó có thể tìm thấy
được trong kho tư liệu thuộc hai lĩnh vực này.
Những dấu hiệu trên đây của nhật ký cá nhân đã khiến cho loại nhật ký này
được vận dụng vào văn học và vô hình chung, nhật ký cá nhân đã trở thành một
thể loại văn học với những đặc điểm và giá trị riêng mà nhiều thể loại văn học
khác không thể nào có được. Ở nhiều nước trên thế giới, thể loại nhật ký đã phổ
biến từ rất lâu và thực sự nhật ký đã được coi là một thể loại văn học. Trong bài
Về lối văn nhật ký đăng trên báo Phụ Nữ tân văn, số 150, ra ngày 23/6/1932, Phan
Khôi cho biết là ở Trung Hoa, từ mấy trăm năm nay, việc viết nhật ký đã khá phổ
biến; riêng ở Nhật, nhật ký xuất hiện sớm hơn nữa: “Vào thời trung cổ của họ, từ
một ngàn năm nay, mà cũng đã có nhiều bản nhật ký truyền đạt đến bây giờ” [45].
Phan Khôi ước mong là người Việt Nam hãy tập thói quen ghi chép nhật ký. Ông
còn khẳng định: “Nhật ký, không nói quá có lẽ nó là cái thƣớc để đo trình độ văn
minh của một dân tộc ” [45]. Ở Nhật, nhật ký được gọi là Nikki Bungaku, thể loại
này xuất hiện rất sớm trong giai đoạn đầu đời sống văn học trung đại. Hiện nay,
cuốn nhật ký cổ nhất còn được lưu giữ là cuốn Tosa Diary (Nhật ký Tosa) của
Kino Tsurayuki được viết vào khoảng năm 935; nhiều cuốn nhật ký nổi tiếng từ
thời trung cổ được dịch ra tiếng Anh: Sara Shina Nikki (Khi tôi băng qua chiếc
cầu của những giấc mơ) - viết vào khoảng thế kỷ XI, cuốn Nhật ký thơ Nhật Bản,
Nhật ký của ngƣời phụ nữ Nhật cao quý,… Nhật ký ở Nhật Bản ngày xưa được
chia thành hai loại. Loại đầu, viết bằng chữ Hán, toàn là nhật ký công vụ, chuyên
ghi chép những sự kiện xảy ra hàng ngày trong cung đình, chỉ có ý nghĩa sử liệu.
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Loại thứ hai, viết bằng chữ Nhật, chú trọng vào tâm tình và đời sống riêng tư, rất
có ý nghĩa văn học. Ở đây, nội dung và giá trị của các cuốn nhật ký rõ ràng là có
quan hệ mật thiết đến vấn đề văn tự. Ở phương Tây, thể tài nhật ký xuất hiện rất
sớm trong đời sống văn học và thực sự đã có nhiều đóng góp đáng kể cho văn học.
Tác giả Nguyễn Hưng Quốc cho rằng người Việt Nam lười viết: “Trƣớc hết là
lƣời viết hồi ký, nhật ký và thƣ từ. Hơn nữa, chúng ta lại không có thói quen bảo
quản tƣ liệu tốt: cái có đƣợc vốn đã ít, lại càng ít ỏi hơn nữa vì bị mất mát, bị rơi
rụng dần dần trong sự vô tâm hay cẩu thả của mọi ngƣời” và tác giả còn lý giải :
“Tinh thần thực dụng lên ngôi, trở thành một yếu tố thống trị trong ý thức thẩm
mỹ của ngƣời Việt Nam xƣa nay. Hậu quả đầu tiên và lâu dài là chúng ta thƣờng
không viết những gì quá riêng tƣ và không có lợi: nhật ký và thƣ từ là những thứ
nhƣ thế” [45].
Ngoài những lý do chung cùng thói quen ít viết nhật ký và thư từ, việc ít viết
hồi ký của các nhà văn Việt Nam chắc hẳn phải còn lý do khác nữa. Trong bài
Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ đăng trên báo Văn
Nghệ (Hà Nội) số 49 - 50 (Ra ngày 5/12/1987), nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:
“Có ngƣời cầm bút đến lúc sắp bƣớc sang thế giới bên kia vẫn chƣa dám thốt lên
một câu nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên luỵ đến đời
con cái” [45]. Trong lời phát biểu tại một buổi hội thảo kỷ niệm lần thứ 90 ngày
sinh của Hoài Thanh ở Hà Nội, sau đó lại được tường thuật trên Tạp chí Văn
Học (Hà Nội), số tháng 9 năm 1999, Từ Sơn - con trai của nhà phê bình văn học
Hoài Thanh đã trích dẫn một lá thư của cha ông gửi cho ông vào năm 1979, trong
đó có đoạn: “Về đề nghị viết hồi ký văn học cha cũng chƣa trả lời. Cha muốn suy
nghĩ thêm một tí rồi mới trả lời. Nhƣng hiện giờ, trong suy nghĩ của cha, nếu viết
để in thì cha không muốn viết. Vì sẽ có nhiều chuyện không nói đƣợc. Viết để
không in thì cha rất muốn viết. Với tƣ cách là một ngƣời viết báo, viết văn nhất là
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với tƣ cách một cán bộ Đảng tham gia lãnh đạo phong trào văn nghệ, văn học
trong mấy chục năm nay, cha biết khá nhiều chuyện trong đó có những chuyện có
thể nói là rất hay. Song những chuyện ấy dễ đến giữa thế kỷ 21 chƣa biết đã có
thể in ra chƣa…” [45]. Tất nhiên, đó chỉ là những lý do được đưa ra dù để giải
thích hay là để biện hộ cho một sự thật nào đó thì vẫn có thể lý giải được nguyên
nhân dẫn đến sự ra đời muộn mằn của thể loại nhật ký trong đời sống văn học Việt
Nam. Sự ra đời của thể loại nhật ký hiển nhiên là muộn so với các thể loại văn học
khác nhưng là một thể loại thuộc loại hình ký, nhật ký có khả năng bám sát mọi
vấn đề nóng hổi và cấp bách của hiện thực đời sống, phản ánh kịp thời những suy
nghĩ, nhận xét, đánh giá, ý tưởng của người viết trước hiện thực ấy. Thiết nghĩ,
nhật ký mang đậm dấu ấn chủ quan của cá nhân người viết nhưng vẫn có thể mang
lại những giá trị văn học không ngờ: “Một tập nhật ký có phẩm chất văn học khi
thể hiện đƣợc một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm tình của cá
nhân, tác giả giúp ngƣời đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội trọng đại. Hình tƣợng
tác giả trong nhật ký văn học là hình tƣợng mang tầm khái quát tƣ tƣởng - thẩm
mĩ lớn lao.” [47, tr.379]. Viết nhật ký, các nhà văn không chỉ gửi gắm vào đó
những suy nghĩ và cảm xúc cá nhân mình mà hơn ai hết, với vai trò là “ngƣời thƣ
ký trung thành của thời đại”, họ còn thể hiện những suy nghĩ và trải nghiệm của
thế hệ mình lên các trang nhật ký. Nhật ký, trong nhiều trường hợp còn là phương
tiện để các nhà văn thử bút, luyện nghề một cách thành thực nhất. Trong những
trang nhật ký, họ sống với chính mình, với cuộc đời mà không hề bị ràng buộc bởi
bất cứ thế lực nào. Chính vì vậy, nhà văn Tô Đồng của Trung Quốc cho rằng:
không thể quá đề cao công việc của nhà văn, nhà văn chỉ là “ngƣời viết thƣ cho
một ngƣời không quen biết”, “bạn nhận một bức thƣ, có thể không có ý nghĩa gì,
cũng có thể sau khi mở ra và đọc, phát hiện đó chính là cuộc sống” [16]. Do đó,
khi đọc nhật ký của nhà văn, người đọc cần có sự phân biệt rõ những trang nhật ký
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mà nhà văn viết cho bạn đọc và những trang nhật ký mà nhà văn viết cho chính
bản thân mình. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, dù những trang nhật ký đó có được
công bố hay không công bố thì tính chân thực của nhật ký vẫn không hề bị mất đi
mà sự thể hiện tính trung thực ở mức độ nào mới là điều đáng quan tâm. Bởi điều
đó có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định giá trị của nhật ký. Một số nhà văn
đã thể hiện ý tưởng sáng tạo nghệ thuật của mình qua các trang nhật ký. Có những
trang nhật ký viết một cách hồn nhiên (người viết không quan tâm đến mục đích
viết nhật ký nào khác ngoài mục đích để “nói chuyện với chính mình”) càng đạt
được nhiều giá trị, đặc biệt là giá trị văn học: Nhật ký Nguyễn Huy Tƣởng, Nhật ký
Chu Cẩm Phong, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, Mãi mãi tuổi hai mƣơi ,… Cũng có
tác phẩm văn học mượn hình thức của nhật ký để phản ánh đời sống nhưng lại
thuộc thể loại thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết: Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh),
Nhật ký ngƣời điên (Lỗ Tấn), Chàng ngốc (Đôtxtôiepxki),… Trong một thể loại
khác của loại hình ký là du ký, người viết cũng khai thác thể loại nhật ký để ghi
chép lại những hiện tượng, sự việc mà mình mắt thấy, tai nghe trên lộ trình du lịch
để ghi nhớ hoặc để kể lại cho người khác biết. Chẳng hạn, tác phẩm Nhật ký chìm
tàu của Nguyễn Ái Quốc (được viết vào khoảng nửa cuối năm 1930) ra đời sau
khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập nên có một giá trị lịch sử đặc
biệt: “Tác phẩm đã vẽ ra một viễn cảnh xã hội Việt Nam ngày mai huy hoàng, đã
đốt lên trong lòng ngƣời đọc một ngọn lửa chiến đấu không bao giờ tắt” [43,
tr.318].
1.1.3. Đặc điểm nổi bật của thể loại nhật ký:
Từ những dạng thức tồn tại nêu trên của nhật ký, xét một cách tổng thể, về
đặc trưng của thể loại nhật ký nói chung, nhật ký văn học nói riêng có những đặc
điểm cơ bản sau:
1.1.3.1. Đặc điểm đầu tiên và cũng là đặc điểm nổi bật nhất của nhật ký là
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khả năng ghi chép một cách cụ thể, tỉ mỉ, trung thực diễn biến của những sự việc,
hiện tượng xảy ra xung quanh người viết từ ngày này sang ngày khác. Nhật ký
thông thường khác nhật ký văn học ở chỗ: Trong nhật ký thông thường, người viết
có thể ghi chép tuỳ ý những điều mà mình muốn, mình thích; trong nhật ký văn
học lại khác: Người viết có ý thức lựa chọn những gì tiêu biểu nhất, có ý nghĩa
nhất đối với việc thể hiện tính nhiều mặt của hiện thực đời sống hoặc có tác động
mạnh mẽ đến cảm xúc, đến suy nghĩ của người viết để đưa vào trang viết. Những
gì được nhắc đến trong nhật ký văn học thường có tác động tức thì đến người viết,
khiến người viết không thể kiềm chế được nếu không kịp thời bày tỏ cảm xúc của
cá nhân mình mà cảm xúc đó lại không được cho người khác biết nên chỉ còn cách
nói cho chính mình nghe. Và hình thức viết nhật ký đã được vận dụng phù hợp
vào những trường hợp như thế.
1.1.3.2. Đặc điểm thứ hai của nhật ký - đặc điểm đã góp phần khẳng định vai
trò là một trong các thể loại văn học của nhật ký – đó là hình tượng cái “Tôi” tác
giả trong nhật ký. Không gì có thể phủ nhận được yếu tố tâm tình, trò chuyện là
yếu tố quan trọng nhất trong nhật ký. Hơn nữa, đó lại là những lời tâm sự, trò
chuyện của người viết với chính bản thân họ nên việc ai là đối tượng tiếp nhận
nhật ký không phải là vấn đề đáng quan tâm. Vì vậy, sức thu hút của một cuốn
nhật ký phụ thuộc rất nhiều vào cảm xúc sâu sắc của cái “Tôi” tác giả trước đời
sống, phụ thuộc vào khuynh hướng thẩm mỹ và phẩm chất đạo đức của người viết
nhật ký. Bởi vậy, độ dày giá trị của nhật ký do độ dày của đời sống nội tâm người
viết quyết định nên. Điều đó cũng tạo nên chiều sâu nhân văn của tác phẩm. Cái
“Tôi” trong nhật ký không ghi chép hoặc phản ánh một cách thụ động, máy móc
hiện thực về cuộc sống và con người mà phải tái tạo, biểu đạt một cách chủ động,
sáng tạo trước hình thức đó. Cái “Tôi” đó không chỉ đảm bảo tính xác thực của đối
tượng miêu tả mà còn phải bằng tiếng nói của cảm xúc bồi đắp cho hình tượng
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghệ thuật thêm phong phú, sống động. Sự tinh nhạy của người viết trong việc
chọn lựa chi tiết, sự việc, hiện tượng để đưa vào nhật ký sẽ quyết định thêm nhiều
giá trị khác nữa của nhật ký. Nhật ký là thể loại ký mang tính chất riêng tư, đời
thường nhiều nhất. Nếu mục đích của bài viết là để giao lưu với người khác thì
mục đích của người viết nhật ký là để giao lưu với chính mình, mình viết để cho
mình, nói với chính mình. Riêng tư chính là lý do tồn tại của nhật ký. Tính riêng
tư cũng là điều hấp dẫn của nhật ký, vì nó liên quan đến bí mật của người khác,
nhất là của những nhân vật được xã hội quan tâm. Vì mang đặc điểm này nên nhật
ký khó tránh khỏi việc có người làm giả nhật ký hoặc mượn hình thức nhật ký là
hình thức để viết tiểu thuyết, truyện ngắn, để sáng tác thơ ca: Tập thơ Ngục trung
nhật ký của Hồ Chí Minh, truyện ngắn Nhật ký ngƣời điên của Lỗ Tấn, tiểu thuyết
Nhật ký son môi của tác giả trẻ Vũ Phương Thanh với bút danh là Gào, tiểu thuyết
Nhật ký công chúa của tác giả người Anh – Meg. Thậm chí, có những lúc, nhật ký
không còn giữ nguyên được đặc trưng của thể loại về mặt nội dung nữa khi người
ta đã tổ chức cả cuộc thi viết nhật ký: Trên trang
http://forums.vinagames.org/showthread.php?t=23808, ngày 12/01/2010 có phát
động cuộc thi viết nhật ký với chủ đề Nhật ký đời tôi từ ngày 01/12/2010 đến hết
ngày 28/02/2011.
Về hình thức của thể loại nhật ký, cho đến nay, chúng tôi chưa thấy có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học: “Nhật ký là hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất đƣợc thực hiện dƣới dạng những
ghi chép hàng ngày theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời sống mà tác
giả hoặc nhân vật chính là ngƣời trực tiếp tham gia hay chứng kiến, khác với hồi
ký, nhật ký chỉ ghi lại những sự kiện, những cảm nghĩ “vừa mới xảy ra chƣa
lâu”” [10, tr.200]. Giáo sư Trần Đình Sử cũng có ý kiến: “Nhật ký ghi chép sự
việc, suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng, có thể liên tục nhƣng cũng có thể ngắt
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quãng. Đặc điểm lời văn của nhật ký là sự ngắn gọn, tự nhiên bởi đó là lời nói bên
trong, là tiếng nói nội tâm về những sự việc riêng tƣ, những tâm sự thầm kín, ý
nghĩ thành thực nên thƣờng kết hợp linh hoạt tự sự và trữ tình” [47, tr.379]. Tác
giả Đức Dũng lại cho rằng: “Nhật ký văn học có bút pháp sinh động, ngôn ngữ
giàu hình ảnh và có tính biểu cảm cao. Nó gắn với năng lực và cá tính sáng tạo
của mỗi nhà văn. Nó không chỉ tái hiện một cách sinh động những điều ghi nhận
đƣợc trong hoàn cảnh ấy mà còn thể hiện một cách sinh động và chân thành
những riêng tƣ đặc biệt là sự chuyển biến tƣ tƣởng và nhận thức của nhà văn”.
Ngoài những đặc điểm trên, khi tìm hiểu thể loại nhật ký cần lưu ý thêm một
số vấn đề khác: Hình thức kết cấu của nhật ký theo thời gian tuyến tính, theo trình
tự về ngày tháng năm và bao giờ khoảng thời gian ghi chép giữa các ngày cũng
được ghi rất rõ: Ngày… tháng… năm…(bằng số). Người viết nhật ký bao giờ
cũng tôn trọng trật tự biên niên của việc ghi chép nhật ký. Sự việc hay hiện tượng
được ghi lại trong nhật ký được sắp xếp theo đúng trình tự về thời gian mà người
viết lần lượt được chứng kiến hay tham gia. Yếu tố này có vai trò rất quan trong
trong việc thể hiện tính chân thực của nhật ký. Người viết nhật ký đã biết vận
dụng yếu tố này của nhật ký để ghi chép, phản ánh kịp thời những vấn đề thời sự
nóng hổi, những vấn đề cấp bách của xã hội. Do đó, nhật ký được coi là một trong
những thể loại văn học bám sát hiện thực đời sống một cách nhanh nhạy, kịp thời
và chính xác nhất. Khi tìm hiểu về thể loại nhật ký, điểm nhìn của người viết nhật
ký cũng cần được quan tâm và cần được xác định rõ điểm nhìn hướng nội hay
điểm nhìn hướng ngoại. Giọng điệu của tác giả trong các thời điểm viết nhật ký
thể hiện như thế nào do thái độ khi đó của người viết quyết định. Thông thường,
trong một cuốn nhật ký, giọng điệu rất đa dạng bởi thái độ, tình cảm và cảm xúc
của người viết trong chuỗi ngày viết nhật ký luôn có sự thay đổi. Song yếu tố đặc
biệt của cái tôi cá nhân vẫn giúp người đọc nhận ra đó là giọng điệu của một
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người.
Xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của thể loại nhật ký, chúng ta cần căn cứ
vào từng tác phẩm cụ thể để phát hiện ra nét độc đáo, nét đặc sắc của tác phẩm đó.
Đấy chính là những đóng góp của nhật ký cho nền văn học nói chung và cho nhiều
lĩnh vực khác nói riêng.
1.2. Ký và nhật ký trong văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của thể ký.
Ký là một loại hình văn học trung gian nằm giữa báo chí và văn học. Ở Việt
Nam, đây là một trong những loại hình văn xuôi nghệ thuật xuất hiện sớm nhất và
có vai trò quan trọng. Theo nghĩa gốc, “Ký” là ghi chép một sự việc gì đó để
không quên.
Ngay từ thế kỷ thứ X, mầm mống của những tác phẩm ký đầu tiên đã xuất
hiện qua các văn bản viết bằng dao và đục trên trên chất liệu rắn như văn bia và
chuông khánh hay còn gọi là văn khắc và tự bạt. Vào thời Lý - Trần, thể loại này
đang dần phát triển. Nội dung chủ yếu của các tác phẩm ký trong thời kỳ này là
phản ánh cuộc sống hiện tại và đời sống văn hoá tâm linh của người Việt lúc bấy
giờ: An Hoạch sơn Báo Ân tự bi của Chu Văn Thường, Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi
của Lý Thừa Ân, Sùng Nghiêm Diên Khánh tự bi minh của Hải Chiếu đại sư, Viên
Quang tự bi minh của Dĩnh Đạt, Đại Chu Ma Sơn áng Đại Quang Thánh nham bi
của Bồ Đề đại sư,… Đến thế kỷ XV, ký bắt đầu được thể hiện dưới dạng các văn
bản viết bằng chữ Hán. Song, ký vẫn chưa được coi là một thể loại văn học riêng
lẻ mà chỉ có mặt lẻ tẻ trong một số tập truyện ngắn như Nam Ông mộng lục của
Hồ Nguyên Trừng, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ,…Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, khi đời sống xã hội ngày càng
có nhiều biến động, con người đã bắt đầu ý thức được giá trị của cái tôi cá nhân
trước cuộc sống thường nhật thì loại hình ký mới thực sự ra đời. Hàng loạt tác
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm ký xuất hiện: Công dƣ tiệp ký của Vũ Phương Đề, Trần Khiêm Đƣờng niên
phả lục của Trần Tiến, Thƣợng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tuỳ bút của
Phạm Đình Hổ, Tây hành kiến văn kỷ lƣợc của Lý Văn Phức, Hoàng Lê nhất
thống chí của Ngô gia văn phái,… Trong số đó phải kể đến Thƣợng kinh ký sự của
Lê Hữu Trác. Tác phẩm được các nhà nghiên cứu đánh giá là đỉnh cao của thể ký
thời kỳ trung đại, là sự hoàn thiện của thể loại này trong văn học trung đại. Thực
ra, đây là một tập ký sự được viết bằng chữ Hán của nhà y học lỗi lạc Lê Hữu
Trác. Ông đã ghi lại chuyện mình được lên kinh đô để chữa bệnh cho thế tử Trịnh
Cán và chúa Trịnh Sâm vào mùa xuân năm 1781. Qua tác phẩm, người đọc nhận
thấy sự tài tình của tác giả khi kết hợp đồng thời nhiều loại hình ký như: Du ký,
nhật ký, hồi ký, ký phong cảnh, ký người, ký vật,… Hoàng Lê nhất thống chí
được viết bằng chữ Hán, ra đời vào đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm miêu tả bức tranh
rộng lớn của xã hội phong kiến Việt Nam khoảng ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII
và mấy năm đầu thế kỷ XIX. Đây được coi là tác phẩm cuối cùng khép lại giai
đoạn ký trong văn học Việt Nam trung đại. Mang hình thức của một cuốn tiểu
thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi nhưng chất ký rất đậm đặc trong tác phẩm:
“Đến “Hoàng Lê nhất thống chí” chất lƣợng nghệ thuật ký trung đại đã có những
bƣớc nhảy vọt” [6, tr.375]. Tuy nhiên, ở tác phẩm vẫn chưa có sự phân định rạch
ròi giữa tính lịch sử và tính văn học. Cảm hứng lịch sử đã chi phối sâu sắc ngòi
bút của các tác giả. Mặc dù với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng nhìn chung
ký trong văn học Việt Nam trung đại khá phong phú đa dạng về chủng loại, về nội
dung và hình thức nghệ thuật. Ít nhiều, ký đã có những đóng góp đáng kể cho
thành tựu văn xuôi chữ Hán trong thời kỳ văn học này.
Ký dần đi vào đời sống văn học một cách tự nhiên như là một loại hình văn
học không thể nào thiếu được và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong
văn đàn. Giáo sư Phương Lựu rất coi trọng tác phẩm ký văn học: “Nó chỉ trần
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuật ngƣời thật việc thật xảy ra, nếu không muốn nói thêm rằng là trần thuật một
cách xác thực (…). Xét từ gốc gác và bản chất, thì ký không nhằm thông tin thẩm
mỹ, mà là thông tin sự thật” [35, tr.424]. Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn
vai trò và vị trí là một trong những loại hình văn học của ký. Cùng với tiến trình
phát triển của văn học, ký cũng có những giai đoạn phát triển nhất định và cũng đã
đạt được những thành tựu đáng tự hào.
1.2.2. Ký Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay.
1.2.2.1. Thể ký trong giai đoạn 1900 – 1930.
Tác phẩm ký hiện đại đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện năm 1876 là
Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký. Tác phẩm đã đánh dấu sự
khác biệt của thể ký hiện đại so với thể ký trung đại. Tác giả đã kết hợp một cách
linh hoạt, tự nhiên giữa việc quan sát, ghi chép tư liệu với việc thể hiện cảm xúc
của mình về xã hội Bắc Kỳ những năm cuối thế kỷ XIX, nhân chuyến đi du ngoạn
vòng quanh Bắc Kỳ của chính tác giả.
Sự ra đời của nhiều tờ báo tiếng Việt đã tạo điều kiện cho thể loại ký phát
triển: Gia Định báo (1865), Nông cổ mín đàn (1901), Đại Việt công báo (1905),
Đông cổ tùng báo (1907), Đông Dƣơng tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí
(1917),… Bước đầu đã có nhiều tác phẩm ký ra đời, thu hút được sự quan tâm của
độc giả thời đó: Nhƣ Tây nhật trình (1888) của Trương Minh Ký, Hƣơng Sơn
hành trình ký (1914) của Nguyễn Văn Vĩnh, Mƣời ngày ở Huế (1918) và Một
tháng ở Nam Kỳ (1919) của Phạm Quỳnh. Từ cuối năm 1920, khi Nam phong tạp
chí khởi đăng Hạn mạn du ký (1920) của Nguyễn Bá Trác thì thể ký bắt đầu được
coi như một thể loại độc lập. Sau đó một loạt các tác phẩm ký của nhiều tác giả
khác được đăng trên báo. Có nhiều tác phẩm ký còn mang hơi hướng tuỳ bút, có
tác phẩm thiên về tính chất khảo cứu, biên khảo, ghi chép phong tục. Thành tựu
chủ yếu của thể ký giai đoạn này là cố gắng đẩy đến cùng khả năng cách tân thể
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
loại truyền thống để xác lập một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực với ký
thác tâm sự. Mặc dù, trong giai đoạn văn học này, thể ký chưa đạt được thành tựu
nổi bật nhưng khả năng cách tân thể loại ký trong văn học truyền thống đã tạo cho
ký một bước đệm vững chắc để tiếp tục chuyển sang giai đoạn văn học tiếp theo -
một giai đoạn ghi đậm dấu của thể ký trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.2.2.2. Thể ký trong giai đoạn 1930 – 1945.
Như ở trên đã nói, giai đoạn văn học này là giai đoạn thể ký phát triển với
một tốc độ chưa từng thấy cả về số lượng tác giả lẫn chất lượng tác phẩm. Không
những thế, đây còn là giai đoạn phát triển rực rỡ và vô cùng quan trọng của thể ký.
Ký được thể hiện dưới hai dạng: Phóng sự và tuỳ bút. Trong đó phải kể đến sự nổi
bật hơn cả của phóng sự. Từ chỗ là một dạng thể hiện của ký, phóng sự đã thật sự
trở thành một thể loại văn học chính. Những biến động lớn của đời sống xã hội và
văn học là động lực căn bản dẫn đến sự bứt phá của phóng sự ra khỏi thể ký và trở
thành một thể loại có chỗ đứng trong nền văn học hiện đại. Phóng sự là một thể
loại phản ánh cuộc sống với yêu cầu hàng đầu là tính thời sự trực tiếp và đáp ứng
một vấn đề cấp bách nào đó mà xã hội đang quan tâm. Phóng sự được coi là “con
đầu của nghề viết báo” (Vũ Ngọc Phan). Bởi, phần lớn phóng sự đến được với
bạn đọc là qua con đường báo chí. Con đường báo chí cũng là con đường nhanh
nhất để phóng sự đến được với công chúng, đồng thời cũng tạo ra được môi
trường dư luận xã hội rộng rãi và kịp thời mà không phải thể loại văn học nào
cũng có được. Phóng sự không chỉ dừng lại ở phạm vi là một chuyên mục trên báo
chí mà đã phát triển thành tác phẩm văn học có dung lượng tương đối lớn: Tôi kéo
xe của Tam Lang, Việc làng của Ngô Tất Tố, Cạm bẫy ngƣời của Vũ Trọng
Phụng, Làm dân của Trọng Lang,… trước khi được các nhà xuất bản phát hành
thành sách riêng đã được in dài kỳ trên nhiều tờ báo. Do đó, có thể khẳng định
được vai trò quan trọng của báo chí đối với phóng sự: “là một điều kiện khách
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan thuận lợi để phóng sự nở rộ và khẳng định vị trí trên văn đàn” [6, tr.380].
Nhiều thiên phóng sự đã thực sự trở thành những tác phẩm văn học chân chính. Ra
đời trong một thời kỳ lịch sử có nhiều biến động phức tạp, phóng sự phản ánh
trung thành thực trạng nhiều mặt của xã hội đương thời. Cho dù có viết về mảng
đề tài nào đi chăng nữa thì phần lớn các phóng sự đều tập trung mô tả một cách
khách quan thực trạng đen tối của xã hội đương thời. Vì thế, trong nội tại của các
tác phẩm có hàm chứa giá trị tố cáo cao. Bản thân mỗi phóng sự, để đạt được đến
khả năng thuyết phục và hấp dẫn người đọc phải phản ánh chân thực đến từng chi
tiết sự kiện, đối tượng miêu tả, đem đến cho người đọc cảm giác được sống “y như
thật”. Điều này đòi hỏi người viết phóng sự phải cùng một lúc thực hiện nhiều vai
trò: Vừa quan sát, vừa ghi chép, vừa kể chuyện, đồng thời phải là người chứng
kiến và tham gia vào các sự kiện. Không những thế, để đảm bảo tính xác thực của
các sự kiện, tác giả luôn luôn phải dùng các cứ liệu hoặc các con số cụ thể làm
minh chứng. Phóng sự là một thể loại văn học đặc biệt. Ở thể loại này, chúng ta
bắt gặp sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất báo chí và chất tiểu thuyết. Nhiều thiên
phóng sự mang dáng dấp của của cuốn tiểu thuyết từ dung lượng phản ánh, kết cấu
tác phẩm đến nghệ thuật miêu tả và dựng chân dung nhân vật. Có thể nói, phóng
sự là một trong những thể loại đã khẳng định được khả năng hấp dẫn, vị trí vững
vàng của thể loại trong đời sống văn học giai đoạn văn học 1930 – 1945.
Diện mạo của ký Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 còn được thể hiện qua tuỳ
bút. Tuỳ bút là một thể văn có lối viết tương đối phóng túng và tự do. Người viết
tuỳ bút có thể tuỳ theo ngòi bút mà đưa đẩy từ việc này sang việc khác, từ vấn đề
này sang vấn đề khác. Tuỳ bút có ưu điểm là giúp nhà văn có điều kiện bộc lộ
những cảm xúc chủ quan của mình về đối tượng được phản ánh. Song, không phải
vì tuỳ bút là một thể văn có lối viết phóng túng, tự do mà ai cũng có thể viết
được. Nếu so sánh với phóng sự thì số nhà văn Việt Nam viết tuỳ bút có chỗ đứng
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trên văn đàn không phải là nhiều. Trong giai đoạn văn học 1930 – 1945, có lẽ chỉ
có Nguyễn Tuân là nhà văn “chung thuỷ” với thể văn này nhất. Bởi, tuỳ bút đã
khiến cho ngòi bút của Nguyễn Tuân được thăng hoa và để lại dấu ấn cá tính trên
từng trang viết. Nguyễn Tuân đã có những đóng góp nổi bật cho thể loại này.
Chính nhu cầu giải phóng cái Tôi cá nhân trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam có
nhiều biến động dữ dội đã làm thức dậy khát vọng được sống, được thể hiện hết
mình của cá nhân con người trong xã hội ấy. Tuỳ bút Nguyễn Tuân là sự bộc lộ
đến cùng con người cá nhân của ông. Nguyễn Tuân đã đưa thể tuỳ bút trở thành
một thể văn xuôi có nhiều ưu thế: Vừa giàu chất hiện thực, vừa đậm đà chất trữ
tình thơ mộng và chất trí tuệ sắc sảo. Tuỳ bút của ông thể hiện rõ sự am hiểu kỹ
lưỡng vốn văn hoá Đông Tây, kim cổ, bởi sự cảm nhận lịch lãm và tinh tế của nhà
văn trong việc cảm nhận cái Đẹp: Chiếc lƣ đồng mắt cua, Tóc chị Hoài, Những
ngọn đèn xanh, Phong vị tỉnh xép, Đẹp lòng,… Ngoài tên tuổi Nguyễn Tuân,
chúng ta còn phải kể đến Thạch Lam. Qua Hà Nội băm sáu phố phƣờng, Thạch
Lam đã bộc lộ rõ một tâm hồn tinh tế trước nét đẹp văn hoá truyền thống của dân
tộc Việt: Từ vẻ đẹp cổ kính, rêu phong, thơ mộng của những con phố cổ, những
khu di tích lịch sử đến văn hoá ẩm thực của người Hà Nội,… đều được ông cảm
nhận bằng tấm lòng trân trọng, nâng niu của một tâm hồn nghệ sĩ.
Trong giai đoạn văn học này, ngoài phóng sự và tuỳ bút, phải kể đến một số
tiểu loại ký khác cũng bắt đầu phát triển như tạp văn, bút ký, tản văn,… Tuy
nhiên, tiểu loại nhật ký lại chưa có đất phát triển. Hiện tượng này, thật ra, cũng
không phải là điều khó lý giải. Giai đoạn 1930 – 1945 được đánh giá là giai đoạn
văn học phát triển rực rỡ nhất của văn học Việt Nam hiện đại “một năm của ta
bằng mấy mươi năm của người” (Vũ Ngọc Phan). Văn học trong giai đoạn này
phát triển đồng đều ở mọi thể loại cả về số lượng, chất lượng và tốc độ phát triển.
Nghề viết văn trở thành nghề chuyên nghiệp biểu hiện rõ nhất trong giai đoạn này.
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đây cũng là giai đoạn văn học mà nhu cầu và thị hiếu của công chúng đòi hỏi một
cách cấp bách tới mức chưa bao giờ thấy. Do đó, với đặc trưng “riêng tư cá nhân”
nên thể loại nhật ký thật sự không phù hợp với một thời đại văn chương như thế.
Bởi vậy cho nên, mặc dù cũng có nhà văn viết nhật ký nhưng nhật ký không thể
được công bố và nếu có công bố thì chưa chắc đã nhận được sự quan tâm của độc
giả. Vì vậy, nhật ký tự mình “khiêm nhường” rút lui, chờ đợi thời cơ thích hợp để
“bùng phát”. Phải đến hơn sáu mươi, bảy mươi năm sau đó, nhật ký mới có một vị
trí nhất định trong nền văn học. Chẳng hạn, như trường hợp của tác phẩm Nhật ký
Nguyễn Huy Tƣởng.
Phóng sự và tuỳ bút là hai tiểu loại ký tiêu biểu tạo nên thành tựu của loại
hình ký trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Bước sang giai đoạn lịch sử mới, từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chắc chắn ký sẽ có sự phát triển vượt bậc
cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện để có thể cùng với các thể loại văn học
khác làm nên bức tranh sinh động, nhiều mặt của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.2.2.3. Thể ký trong văn học giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm
1945.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ký vẫn bộc lộ rõ ưu thế của mình trong
nền văn học Việt Nam hiện đại. Tính xác thực của thời gian, không gian, của biến
cố, của sự kiện và của con người trong thể loại ký đã khiến ký giúp cho các nhà
văn hoàn thành được sứ mệnh cao cả của họ một cách thuận lợi nhất. Đó là sứ
mệnh của một “người thư ký trung thành của thời đại”. Trong lịch sử văn học, sự
phát triển của thể loại ký thường có sự gắn bó đặc biệt với những giai đoạn lịch sử
có nhiều biến động lớn lao. Thể loại ký có khả năng tái tạo những hiện tượng mới
xuất hiện trong đời sống xã hội và trong đời sống của con người một cách nhanh
nhạy nhất, nóng hổi nhất.
Đất nước ta bước vào thời kỳ ba mươi năm chiến tranh và cách mạng. Nhà
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn có mặt ở khắp các trận tuyến và ký cũng xuất hiện ở những trận tuyến nào có
sự xuất hiện của nhà văn. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã tạo nên
một bước phát triển mới của văn xuôi, trong đó có thể ký. Ký đã kịp thời phản ánh
hiện thực của cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm trường kỳ: Một lần tới thủ
đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, Trên những con đƣờng Việt Bắc, Ở rừng của
Nam Cao, Đƣờng vui của Nguyễn Tuân, Đƣờng vô nam của Tô Hoài, Ký sự Cao -
Lạng của Nguyễn Huy Tưởng,… Bước vào công cuộc chống Mỹ cứu nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, ký luôn có mặt hàng đầu và trở thành vũ khí xung
kích: Những ngày nổi giận (Chế Lan Viên), Họ sống và chiến đấu (Nguyễn Khải),
Đƣờng lớn (Bùi Hiển), Dải đất hẹp (Trần Mai Nam), Ngƣời mẹ cầm súng
(Nguyễn Đình Thi), Sống nhƣ anh (Trần Đình Vân), Bất khuất (Nguyễn Đức
Thuận), Bức thƣ Cà Mau (Anh Đức), Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ
Lân), Trên quê hƣơng những anh hùng Điện Ngọc (Nguyễn Trung Thành –
Nguyên Ngọc), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Nguyễn Tuân),…
Kết thúc giai đoạn chống Mỹ cứu nước là một loạt ký sự về mùa xuân năm
1975 đại thắng ghi lại thời điểm hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta trong công
cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược: Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Bắc
Hải Vân xuân 1975 (Xuân Thiều), Nhật ký chiến dịch (Nguyễn Thành Vân -
Nguyễn Trọng Oánh),…
Sau năm 1975, đặc biệt là khi đất nước ta bước vào thời kỳ Đổi mới, thể ký
tiếp tục thể hiện vai trò trong việc tiếp cận hiện thực cuộc sống đầy bức xúc của
thời kỳ hậu chiến một cách nhanh nhạy và sắc bén. Công cuộc Đổi mới đất nước
đòi hỏi con người phải có sự đổi mới về tư tưởng. Vấn đề nhận thức lại thực tại là
một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội lúc đó. Song song
với vấn đề này là thái độ chống tiêu cực, nhìn thẳng vào sự thật, đề cao tự phê
bình và phê bình. Ký đã kịp thời ghi lại tất cả những thay đổi đó của cuộc sống xã
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hội và con người. Ký mang hơi thở của cuộc sống và đã thu hút được sự chú ý của
công chúng: Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Chuyện ông vua lốp (Nhật
Linh), Ngƣời đàn bà quỳ (Trần Khắc), ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tạp văn
của Nguyễn Khải,… Đặc biệt xuất hiện một loạt các tác phẩm ký mang đậm yếu
tố tự truỵên: Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Một giọt nắng nhạt của Nguyễn Khải,
Hồi ký Đặng Thai Mai,… Những tác phẩm hồi ký này mang đậm dấu ấn cá nhân
cái “Tôi” của nhà văn. Những tác phẩm này thật sự có giá trị văn học, thu hút
được sự chú ý của đông đảo độc giả. Đây là một hiện tượng văn học nở rộ vào
những thập niên cuối của thế kỷ XX đã chứng tỏ thế mạnh riêng của thể ký trong
nền văn học dân tộc.
Rõ ràng, ký là một thể loại văn học đã phát huy một cách tích cực sức mạnh
đặc trưng của thể loại vào những giai đoạn lịch sử có nhiều vận động, nhiều bước
ngoặt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của công chúng và của văn học. “Ký đáp ứng
đƣợc yêu cầu nào đó của nghệ thuật và tự khẳng định ký không phải là thừa so với
truyện ngắn, cũng không phải là thiếu so với tiểu thuyết” [54, tr.166].
1.2.3. Sự phân hoá thành nhiều thể loại:
1.2.3.1. Du ký: Có thể nói du ký là thể loại xuất hiện sớm nhất của loại hình
ký. Du ký là thể loại ghi chép về vẻ kỳ thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời,
những cảm nhận, suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn, du lịch.
Du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ
của bản thân người du lịch về những điều mắt thấy tai nghe ở xứ sở xa lạ, những
nơi mọi người ít có dịp đi đến, chứng kiến.
Hình thức của du ký rất đa dạng: Ghi chép, ký sự, hồi ký, thư tín, hồi tưởng,
… Nhưng dù xuất hiện dưới hình thức nào thì yêu cầu của du ký vẫn là mang lại
thông tin, trí thức và cảm xúc tươi mới về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ
sở còn ít người biết đến. Qua nhiều tác phẩm, chúng ta còn nhận thấy rất rõ cảm
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan lịch sử và dấu ấn thời đại in đậm trong đó: Thƣợng Kinh ký sự của Lê Hữu
Trác, Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du,… Các tác giả du ký bộc lộ cảm xúc rất
hồn nhiên, thông thường đó là những cảm xúc say mê, khát khao được tìm kiếm,
khám phá những điều mới lạ, thú vị. Trong tác phẩm Thanh động ký sự, tác giả
Ngô Thì Sĩ đã tâm sự: “Khi công việc rảnh rỗi tôi thân đi xem xét hỏi han dân
tình, phong tục. Nhân có đƣợc thung dung giữa chốn núi khe, tìm chỗ sâu, trèo
chỗ hiểm, không nơi nào mới đến, mỏi mệt mới về” [47, tr.383].
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình xã hội Việt Nam có nhiều thay
đổi lớn. Văn học có sự chuyển đổi về diện mạo nhanh chóng theo mô hình phương
Tây. Báo chí đặc biệt phát triển. Bối cảnh này là mảnh đất màu mỡ thuận lợi cho
thể du ký được gieo trồng: Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký
được coi là tác phẩm du ký mở đầu cho du ký trong văn học Việt Nam hiện đại.
Kế tiếp theo đó là một loạt các tác phẩm khác ra đời: Nhƣ Tây nhật trình (1888)
của Trương Minh Ký, Hƣơng Sơn hành trình ký (1914) của Nguyễn Văn Vĩnh,
Mƣời ngày ở Huế (1918) và Một tháng ở Nam Kỳ (1919) của Phạm Quỳnh,… Mỗi
tác phẩm du ký bao giờ cũng là sự hội đủ các tri thức về địa dư và lịch sử, cùng
những cảm khái và suy ngẫm về thời thế. Trong du ký, việc kể, tả thường được
đan xen với những suy ngẫm về xưa và nay, về người và ta, qua đó gửi gắm khát
vọng thay đổi đất nước sao cho thoát khỏi sự lạc hậu và tăm tối để được bằng
người. Do đó, ngoài giá trị văn chương, du ký còn có nhiều giá trị khác mang tính
học thuật như giá trị sử học, xã hội học, dân tộc học, phong tục học, văn hoá học,
địa phương học,… Từ sau năm 1930, du ký đột ngột chững lại và mang một
gương mặt khác.
1.2.3.2. Phóng sự: Ghi chép kịp thời, cụ thể những vụ việc nhằm làm sáng tỏ
trước công luận một sự kiện, một vấn đề có ý nghĩa thời sự có liên quan đến hoạt
động và số phận của một hoặc nhiều người mà người viết muốn đề xuất và giải
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quyết đối với một địa phương hay toàn xã hội. Đặc trưng cơ bản của phóng sự là
phản ánh hiện thực một cách kịp thời, nhạy bén với cái nhìn trung thực vào bản
chất của sự việc, hiện tượng nhằm phô bày, kiến nghị với dự luận về những vấn đề
bức xúc, nhức nhối của xã hội. Phóng sự đã đạt được những thành tựu nổi bật
trong giai đoạn 1930 – 1945 và giai đoạn 1945 – 1975 của thế kỷ XX. Đến những
năm đất nước ta bước vào công cuộc Đổi mới, phóng sự lại xuất hiện trở lại trong
văn học, tác động mạnh mẽ đến các thể loại văn học khác. Trong giai đoạn này,
hàng loạt tác phẩm phóng sự ra đời với yêu cầu và trình độ mới, biểu hiện một thái
độ, một cách nhìn thẳng vào sự thật với tinh thần dân chủ, đổi mới văn học, đổi
mới xã hội, thức tỉnh dự luận: Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Ngƣời
đàn bà quỳ (Trần Khắc), Thủ tục làm ngƣời còn sống (Minh Chuyên), Đa thê
(Hoàng Minh Tường),…
1.2.3.3. Ký sự: Ghi chép lại một câu chuyện, một sự kiện tương đối hoàn
chỉnh. Ký sự nặng về tái hiện những sự việc có thật. Sau khi Cách mạng tháng
Tám năm 1945, hiện thực của cách mạng và kháng chiến, của công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đã tạo nên chất liệu cho ký sự phát triển. Từ những sự việc cụ
thể và sinh động toát lên chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Ký sự có quy mô tương
ứng với truyện ngắn hoặc truyện vừa: Ký sự Cao - Lạng (Nguyễn Huy Tưởng), Họ
sống và chiến đấu, Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Ký sự miền đất lửa
(Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân),… Qua các tác phẩm ký sự, những sự kiện của lịch
sử được sống dậy mang chất hiện thực tươi ròng, tạo được độ tin cậy cao từ phía
người đọc.
1.2.3.4. Truyện ký: Là một thể trung gian giữa truyện và ký. Truyện ký khắc
hoạ tính cách qua một cốt truyện rõ rệt nhưng vẫn tôn trọng tính xác thực của sự
việc, con người: Ngƣời mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Sống nhƣ anh (Trần Đình
Vân) ,… Thể loại này ra đời do yêu cầu cấp bách của việc làm báo mà phải in
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ghi chép khi cần thiết, phục vụ kịp thời cuộc sống và công chúng. Mục đích
của thể loại này chủ yếu là để nêu gương những nhân vật điển hình của thời đại
một cách chân thực, sống động.
1.2.3.5. Hồi ký: Còn gọi là hồi ức, ghi lại những sự việc, biến cố đã xảy ra
trong quá khứ. Hồi ký đòi hỏi phải hết sức tôn trọng tính chân thật của câu
chuyện; số liệu, sự việc, thời gian, địa điểm phải chính xác. Hồi ký gần với truyện
và nếu viết về những sự việc tiêu biểu, những nhân vật tiêu biểu, hồi ký lại gần với
sử. Hồi ký có thể là một câu chuyện mà tác giả là người tham dự và chứng kiến.
Người viết hồi ký có thể lấy chất liệu của mình làm đối tượng để khai thác và trở
thành nhân vật trung tâm: Bất khuất (Nguyễn Đức Thuận), Bốn mƣơi năm nói láo
(Vũ Bằng), Một giọt nắng nhạt (Nguyễn Khải), Cát bụi chân ai (Tô Hoài),...
Người viết hồi ký có thể lấy mình làm địa bàn chính, nhớ lại những sự việc đã
qua, kể lại cho người khác ghi: Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp kể, Hữu Mai ghi, hồi ký của các tướng lĩnh hoặc của các nhà văn,
các nghệ sĩ,...
Xuất phát từ nhu cầu thị hiếu của công chúng, hồi ký bỗng nở rộ trong đời
sống văn học những năm cuối của thế kỷ XX. Qua hồi ký, các tác giả không chỉ
xây dựng được diện mạo người cùng thời mà qua câu chuyện của mình, phác hoạ
được gương mặt của thời đại. Người viết hồi ký thường nhằm mục đích tổng kết
lại cuộc đời mình qua thời gian, qua các biến cố và sự kiện. Vì vậy, nhà thơ Huy
Cận cho rằng: “Viết hồi ký là sống lại một lần nữa cuộc đời mình, mà cũng là san
sẻ cho ngƣời trong thiên hạ vui buồn của mình, thân phận của mình và phần nào
những trải nghiệm dọc đời đã sống” [6, tr.428]. Hồi ký cũng là một hình thức văn
học riêng tư, mình nói về mình, một dạng tự truyện của chính tác giả. Hồi ký cung
cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện nói được. Tuy
nhiên, hồi ký cũng có những hạn chế nhất định: Do nhiều sự kiện đã bị lùi xa vào
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quá khứ nên có thể người viết nhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm chi tiết. Bởi thế,
hồi ký rất cần những người viết có trách nhiệm với xã hội, có thái độ trung thực.
Khi ấy, tác phẩm hồi ký mới thật sự trở thành tác phẩm có giá trị.
1.2.3.6. Bút ký: Là một thể của ký, thuộc loại trung gian giữa ký sự và tuỳ
bút. Bút ký ghi lại những con người và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên
cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó: Bức
thƣ Cà Mau (Anh Đức), Cửu Long cuộn sóng (Trần Hiếu Minh), Trong gió cát
(Bùi Hiển), Miếng ngon Hà Nội (Vũ Bằng),... Bút ký có thể thiên về khái quát các
hiện tượng đời sống có vấn đề hoặc thiên về chính luận. Sức hấp dẫn và thuyết
phục của bút ký tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khả năng
biểu đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm phát hiện ra những
khía cạnh nổi bật, những ý tưởng mới mẻ và sâu sắc trong các mối quan hệ giữa
tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Bởi vậy, giá trị hàng đầu của bút
ký là giá trị nhận thức.
1.2.3.7. Bút ký chính luận: Là thể bút ký trong đó thành phần nghị luận là
quan trọng, có khi là chủ yếu. Bút ký chính luận có thể luận bàn về nhiều lĩnh vực
như: Kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá,… Bút ký chính luận mang tính chiến
đấu rõ rệt, ứng chiến kịp thời, có tác dụng tuyên truyền, động viên trực tiếp. Cho
nên, giá trị của bút ký chính luận là ở tầm tư tưởng chủ đạo, ở lôgíc lập luận, ở sức
thuyết phục của những dẫn chứng. Bút ký chính luận là thể văn của báo chí, nó có
giá trị văn học khi ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, có khả năng tác động
đến tâm hồn người đọc : Tìm về dân tộc (Lý Chánh Trung), Đƣờng hay pháo đài
(Nguyễn Ngọc Lan),…
1.2.3.8. Tuỳ bút: Là một thể loại thuộc loại hình ký có lối viết phóng khoáng,
tự do và chủ quan nhất. Nếu như phóng sự nghiêng hẳn về tự sự thì tuỳ bút lại
nghiêng hẳn về trữ tình Qua ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực,
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác giả đặc biệt chủ ý đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và đánh giá của mình về con
người và cuộc sống. Cái tôi của nhà văn, phẩm chất riêng của nhà văn được thể
hiện gần như trong thơ trữ tình. So với các tiểu loại khác, tuỳ bút là thể loại giàu
chất trữ tình hơn cả. Ngôn ngữ tuỳ bút giàu hình ảnh và chất thơ. Yếu tố đóng vai
trò thống nhất tổ chức của tác phẩm, chi phối ấn tượng và sức tác động của tuỳ bút
là chất trữ tình, là yếu tố suy tưởng, triết lý, chính luận cất lên từ những cảnh,
những người, những việc được chọn lựa một cách điển hình. Điều đặc sắc ở tuỳ
bút là qua tác phẩm, người ta thấy hiện lên một nhân cách lớn, một hình tượng tác
giả uyên bác, sắc sảo, tài hoa, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, vốn trí tuệ phong phú,
dồi dào. Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường được đánh giá là hai cây bút có sở trường về tuỳ bút. Ngoài ra, còn phải kể
đến những cây bút khác như: Nguyễn Trung Thành – Nguyên Ngọc với tác phẩm
Đƣờng chúng ta đi, Băng Sơn với các tác phẩm Sức lửa mùa thu - Thấp thoáng
hồn xƣa, Thú ăn chơi ngƣời Hà Nội,…
1.2.3.9. Tạp văn: Là những áng văn tiểu phẩm, có nội dung chính trị, có tác
dụng chiến đấu mạnh mẽ. Đây là một thể văn vừa có tính chính luận sâu sắc vừa
có tính nghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội.
Nhà văn Lỗ Tấn cho rằng: “Bất kể thể văn gì, các thứ gộp lại với nhau, thế là
thành tạp văn”. Trong giai đoạn văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám,
nhiều nhà văn đồng thời cũng là nhà báo như: Ngô Tất Tố, Ngô Đức Kế, Huỳnh
Thúc Kháng,… đã viết tạp văn. Từ sau năm 1975, tạp văn rất phát triển, có thể kể
đến một số tác phẩm sau: Cuộc tìm kiếm mãi mãi, Nghề văn cũng lắm công phu
(Nguyễn Khải), Văn hoá thời mở cửa, Hội đền Đô (Hoàng Phủ Ngọc Tường),...
1.2.3.10. Tản văn: Tản văn là văn xuôi đối lập với vận văn (văn vần). Hiểu
theo nghĩa khác, tản văn là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, giàu khả năng
khơi gợi. Kết cấu của tản văn thường là sự kết hợp linh hoạt của tất cả các phương
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thức, phương tiện biểu hiện nghệ thuật. Cũng có thể người viết dựa hẳn vào một
một phương thức phản ánh đời sống, tuỳ hứng mà trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu
tả phong cảnh hay khắc hoạ nhân vật. Tản văn thường thể hiện đời sống theo kiểu
chấm phá, không đòi hỏi phải xây dựng cốt truyện phức tạp, xây dựng nhân vật
hoàn chỉnh. Nhưng qua tản văn, người cầm bút cần thể hiện rõ dấu ấn cá nhân của
mình. Do vậy, ở tản văn, bao giờ ta cũng bắt gặp một cách cảm, cách nghĩ rất
riêng: Tết rằm, Chuyện con chim, Hội làng (Tô Hoài), Nhàn đàm, Miền gái đẹp
(Hoàng Phủ Ngọc Tường), Bài thơ áo dài, Hoa ngƣời (Băng Sơn),…
1.2.3.11. Nhật ký: Ghi chép những sự việc và cảm nghĩ về bản thân, về cuộc
đời, diễn biến theo ngày tháng. Nhật ký thiên về tâm tình hơn là sự kiện. Một tập
nhật ký có ý nghĩa văn học khi thể hiện được một thế giới tâm hồn qua sự việc và
tâm trạng cá nhân toát lên những vấn đề xã hội rộng lớn: Qua Nhật ký Nguyễn
Ngọc Tấn - Nguyễn Thi (1953 – 1955), Nguyên Ngọc đã nhận định: “Một mảnh
nhỏ, một góc hẹp, một giọt nƣớc mong manh nhƣng qua đó có lẽ cũng có thể thấy
hiện lên sâu thẳm cả cuộc chiến tranh anh hùng và đau đớn mà dân tộc ta đa phải
cắn răng đi qua để có đƣợc hôm nay”. Có một điều rất đặc biệt là nhật ký phát
triển mạnh trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh (Giai đoạn 1945 – 1975). Sau
khi chiến tranh kết thúc, nhật ký hầu như không phát triển nữa. Qua nhật ký, người
viết đã tạo được sự tin tưởng gần như tuyệt đối từ phía người đọc. Bởi những gì
mà tác giả gửi gắm vào từng trang nhận ký là những gì chân thật nhất đã được tác
giả chứng kiến hoặc trải nghiệm. Điều đó đã làm nên giá trị lâu bền của nhật ký:
“Cho nên trong những trang nhật ký chân thật, chân thật đến ngay thời này, có
một cái gì đó là vĩnh cửu, mãi mãi cần cho mỗi chúng ta hôm nay và ngày mai”
[48, tr.10]. Ở nhật ký có một nét đặc biệt mà không hề thấy xuất hiện ở các thể
loại văn học khác. Đó là đội ngũ các tác giả chuyên nghiệp. Ở các thể loại văn học
khác, chúng ta có thể điểm qua được tên tuổi của một số nhà văn thành danh hoặc
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành công nhờ các tác phẩm thuộc một hay một vài thể loại văn học nhất định.
Chẳng hạn, trong văn học Việt Nam hiện đại, Vũ Trọng Phụng không phải ngẫu
nhiên mà được công chúng tôn vinh là “Ông vua phóng sự đất Bắc”, Nguyễn Tuân
đựơc mệnh danh là “ bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ” nhờ có thể loại tuỳ bút,
Xuân Diệu được coi là “Ông hoàng của thơ tình”, v.v… Với nhật ký, không có
nhà văn nào được coi là cây bút chuyên nghiệp. Thậm chí, nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đã để lại hơn bốn chục tập nhật ký to, nhỏ, dày, mỏng khác nhau nhưng
cũng không ai gọi ông là “nhà nhật ký” cả. Người đọc biết đến ông nhiều chủ yếu
qua các kịch bản và tiểu thuyết lịch sử.
Như vậy, nội tại của loại hình ký vô cùng phức tạp bởi ký có quá nhiều tiểu
loại, mỗi tiểu loại lại có đặc thù và lợi thế riêng trong phản ánh cũng như trong
biểu đạt. Yếu tố này làm nên tính nhạy bén, linh hoạt của loại hình ký, đồng thời
cũng tạo nên sự giao thoa, thâm nhập giữa ký với truyện. Quá trình này đã tạo nên
sự vận động phát triển của các thể loại trong tiến trình văn học. Có thể nói, ký là
một trong những loại hình năng động nhất trong các loại hình văn xuôi nghệ thuật.
Sự góp mặt của thể ký trong việc làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc là
không thể thiếu được. Trong tình hình đất nước hiện nay, sự có mặt của thể ký là
vô cùng cần thiết. Tất yếu, ký sẽ hoàn thành tốt sứ mệnh của thể loại đối với lịch
sử văn học, xứng đáng với những thành tựu mà ký đã đạt được trong suốt chặng
đường văn học đã qua.
Chƣơng 2 :
NHẬT KÝ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM:
TỪ NHẬT KÝ TRONG GIAI ĐOẠN VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP ĐẾN NHẬT KÝ TRONG GIAI ĐOẠN VĂN HỌC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ.
2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội từ năm 1945 đến năm 1975.
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.1.1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
Phản bội lại Hiệp định sơ bộ 6 – 3 – 1946 và Tạm ước 14 – 9 – 1946 với
Chính phủ Việt Nam, thực dân Pháp bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược
trên quy mô lớn và quyết liệt đối với miền Bắc Việt Nam bằng cuộc tấn công đánh
chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn vào ngày đầu hạ tuần tháng 11 năm 1946. Pháp coi
đây là màn diễn đầu tiên của một “Kịch bản của cuộc đảo chính” được trình diễn ở
thành phố cảng duy nhất và ở một thành phố của ngõ đường bộ quan trọng trên
miền Bắc Việt Nam. Ngay sau đó, thực dân Pháp tăng thêm quân, chiếm đóng trái
phép, liên tiếp gây ra nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở nhiều nơi khác. Trước tình
hình đó, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vẫn kiên nhẫn tìm cách duy
trì hoà bình, tránh để nổ ra một cuộc chiến tranh tiếp theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tuyên bố rõ lập trường của Việt Nam, khi trả lời báo Paris – Sài Gòn: “ Đồng
bào tôi và tôi thành thực muốn hoà bình… Chúng tôi không muốn chiến tranh…
Nƣớc Việt Nam cần kiến thiết, nƣớc Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng
bao nhiêu sinh mạng (…). Nƣớc Pháp có những phƣơng tiện ghê gớm và cuộc
chiến đấu sẽ khốc hại, nhƣng dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng chịu dựng tất cả, chứ
không chịu mất tự do” [11, tr.46]. Hồ Chí Minh cũng đã liên tiếp gửi thư cho
Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên gặp gỡ với những người
cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh đổ máu. Song mọi
sự cố gắng và nỗ lực của Việt Nam đều trở nên vô hiệu hoá. Thực dân Pháp càng
lấn tới, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn ở khắp mọi nơi. Tình thế vô cùng cấp bách
đã đòi hỏi Đảng, Nhà nước Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có một quyết
định chiến lược mang tính lịch sử để xoay chuyển vận nước đang lâm nguy. Sau
nhiều lần họp bàn, Ban thường vụ Trung ương Đảng của ta đã ra chỉ thị “Tất cả
hãy sẵn sàng”. Đúng 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, tín hiệu bắt đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp trong toàn quốc được phát ra, Lời kêu gọi toàn quốc
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi khắp cả nước. Nhân dân cả
nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ với một ý chí
quyết tâm cao độ. Quân và dân ta đã tích cực phát triển chiến tranh du kích ở khắp
nơi, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta. Đây là một cuộc đấu tranh
tổng hợp, kết hợp cả quân sự chính trị, kinh tế - một phương thức tiến công của
chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích của Việt Nam. Từ năm 1947 đến năm
1954, quân và dân ta liên tiếp mở các chiến dịch phản công và tấn công kẻ thù.
Đặc biệt phải kể đến cuộc tiến công chiến lược Đông xuân 1953 – 1954 với đỉnh
cao là trận quyết chiến Điện Biên Phủ đã khiến cho quân Pháp hồn xiêu, phách lạc
rút chạy khỏi Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm xoay chuyển cục diện
chiến tranh, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao thắng lợi ở Giơnevơ. Trải qua
chín năm chiến đấu gian khổ và hi sinh, chúng ta đã chấm dứt hẳn ách thống trị
của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng Việt Nam chuyển qua một giai
đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành độc lập dân tộc, dân
chủ và thống nhất đất nước.
Mặc dù, hoàn cảnh đất nước có chiến tranh nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn
chủ trương: Mọi hoạt động trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội
phải chuyển hướng theo hoàn cảnh thời chiến và phục vụ kháng chiến. Trong đó,
văn hoá - giáo dục là một lĩnh vực rất được coi trọng nhằm bồi dưỡng sức mạnh
tinh thần và trí tuệ của nhân dân ta trong cuộc đối đầu với kẻ thù xâm lược. Theo
lời kêu gọi của cuộc kháng chiến, nhiều nhà văn nổi danh trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đã lên đường phục vụ kháng chiến: Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn
Tuân, Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Kim Lân, Hoài Thanh,… Cuộc kháng chiến
chống Pháp đầy gian khổ và khó khăn là điều kiện để các nhà văn cải tạo tư tưởng,
là mảnh đất màu mỡ để văn học khám phá, các nhà văn càng có điều kiện để sáng
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tạo nghệ thuật. Đồng thời, hiện thực của cuộc kháng chiến chống Pháp đã sản sinh
một thế hệ các nhà văn mới trưởng thành trong kháng chiến với sức sáng tạo dồi
dào: Hồ Phương, Nguyễn Khải, Võ Huy Tâm, Đoàn Giỏi, Quang Dũng, Chính
Hữu, Hoàng Cầm,… Trong giai đoạn này, nhật ký chiến tranh xuất hiện khá
nhiều. Song chủ yếu vẫn là những trang nhật ký của người viết chuyên nghiệp.
Hoặc là của những nhà văn đang trong quá trình “nhận đường”, hoặc của những
cây bút mới đang hăm hở tham gia vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
2.1.2. Việt Nam trong thời kỳ xây dựng miền Bắc và đấu tranh để thống nhất
đất nước (1954 – 1975).
Trong khi miền Bắc Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng, đang bước vào thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, từng bước xây dựng, củng cố về mọi mặt, làm
cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thì nhân dân miền Nam Việt Nam
phải trực tiếp đối mặt với một đế quốc vào loại hung hãn, sừng sỏ, lớn mạnh nhất
trên thế giới. Song song với công cuộc xây dựng phát triển đất nước tiến lên theo
con đường xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhân dân Việt Nam phải tiếp tục đẩy
mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thực hiện
hoà bình thống nhất đất nước. Tháng 8 năm 1954, phong trào đấu tranh của nhân
dân miền Nam chống Mỹ - Diệm bắt đầu lan rộng khắp các tỉnh Nam bộ. Cuộc
đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam đã phát triển từ cuộc chiến tranh du
kích, toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống lại một kẻ địch hùng mạnh và tàn bạo
sang thế giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Quân giặc bị thua nhiều trận ở miền
Nam. Cay cú, Mỹ ra sức phá hoại, chuẩn bị đánh phá miền Bắc. Đế quốc Mỹ điên
cuồng tiến hành hàng loạt các chiến lược chiến tranh ở Việt Nam. Điều này, đã
khiến cho nhân dân Việt Nam càng nêu cao quyết tâm giành lại độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước từ tay đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Nhân dân miền Bắc không
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngừng chi viện sức người, sức của cho miền Nam ruột thịt.
Tính từ năm 1965 đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, miền Bắc đã đưa
vào miền Nam khoảng năm mươi vạn cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ
chiến đấu, tham gia xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng. Trong số
họ có hàng vạn học sinh, sinh viên, trí thức đang học tập, công tác tác tại miền
Bắc. Điều đặc biệt hơn nữa là phải có hàng trăm nhà văn được huy động vào miền
Nam với nhiệm vụ là những người chiến sĩ trực tiếp cầm súng để chiến đấu với kẻ
thù, đồng thời cũng phải cầm bút để ghi lại hiện thực của cuộc kháng chiến khốc
liệt nhưng vô cùng hào hùng và vĩ đại của dân tộc ta. Những nhà văn này thuộc
thế hệ các nhà văn đã trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hoặc
trưởng thành từ chính đội ngũ của những người lính Cụ Hồ. Họ không phải trải
qua quá trình cải tạo tư tưởng hay quá trình tìm đường như một bộ phận nhà văn
tham gia kháng chiến chống Pháp. Chiếc nôi hiện thực của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và sự tàn bạo của đế quốc Mỹ trong suốt hơn mười năm đầu
của kháng chiến chống Mỹ đã thôi thúc họ lên đường với một lý tưởng cách mạng
tiến bộ, với nhiệt huyết và quyết tâm sắt đá của tuổi trẻ. Trong họ vừa mang dòng
máu của một dân tộc anh hùng vừa mang sức trẻ mạnh mẽ của tuổi thanh niên.
Hiện thực của đất nước đã tác động rất lớn đến nhận thức của thế hệ nhà văn này.
Họ đã có sự phát triển về nhận thức và trình độ học vấn. Ý thức ghi lại hiện thực
của cuộc kháng chiến chống Mỹ xuất phát từ nhiều lý do khác nhau đã được hình
thành, cùng với những thay đổi trong tâm tư và suy nghĩ đã khiến cho nhiều chiến
sĩ mong muốn được bộc bạch những điều sâu kín trong tâm hồn mình. Vì vậy,
việc viết nhật ký khi tham gia chiến đấu dường như đã trở thành một trào lưu
trong đại đa số người lính lúc bấy giờ. Mặc dù, trong ý thức của nhiều người, việc
viết nhật ký không phải nhằm mục đích để công bố cho người khác biết. Nhưng
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mong muốn được lưu giữ lại những gì riêng tư nhất cho riêng mình đã khích lệ họ
viết và ghi lại những khoảnh khắc hiếm hoi của cuộc đời con người, ghi lại những
khoảnh khắc lịch sử không lặp lại của dân tộc.
2.2. Nhật ký viết trong kháng chiến chống Pháp:
2.2.1. Nhật ký của các nhà văn chuyên nghiệp.
Hiện thực của cuộc kháng chiến chống Pháp đã thôi thúc nhiều nhà văn thuộc
thế hệ trưởng thành và thành danh trong giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945 lên đường theo kháng chiến: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài
Thanh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận, … Vì thế, hầu hết các tác
phẩm nhật ký được viết trong giai đoạn này là của các nhà văn chuyên nghiệp. Họ
bước vào cuộc sống kháng chiến với một tâm trạng hăm hở, háo hức, đầy nhiệt
huyết. Những nhà văn này vẫn tiếp tục sáng tác. Đời sống kháng chiến, đối với họ
như là một môi trường để giúp họ “nhận đường”, “cải tạo tư tưởng”. Nên họ viết
một cách say mê, hăng hái, nhiệt tình. Lúc này, gánh nặng “cơm áo gạo tiền”
không còn là vấn đề khiến họ phải bận tâm nữa. Các nhà văn một lòng tin tưởng
vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Sự “lột xác” về tư tưởng đã khiến cho rất nhiều nhà văn viết nhật ký
để bộc bạch tâm sự sâu kín của họ về quá trình “nhận đường” và về những chuyển
biến đang diễn ra trong tư tuởng của họ: Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh, Nam
Cao,… Mặt khác, một thế hệ nhà văn mới bắt đầu xuất hiện và hiện thực của cuộc
kháng chiến chống Pháp là tiền đề để họ trưởng thành hơn trong nghiệp văn.
Trước một thế hệ các nhà văn đàn anh đã trưởng thành và dày dạn kinh nghiệm,
các nhà văn trẻ luôn khao khát được khẳng định mình. Khi bắt đầu bước vào lứa
tuổi thanh niên, các nhà văn này đã sớm được giác ngộ đường lối lãnh đạo đúng
đắn của Đảng, sớm có nhận thức về trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của
dân tộc. Nên, khác với các nhà văn đàn anh lớp trước, họ không phải trải qua quá
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trình chuyển biến trong tư tưởng cũng như không phải trải qua những trăn trở, suy
nghĩ để tự cải tạo bản thân. Họ bước vào cuộc kháng chiến với một bản lĩnh tự tin,
tự hào về chính mình. Ngay trong cách viết của họ, người đọc cũng không hề nhận
thấy dấu hiệu của sự e dè, băn khoăn trước những điều được họ viết ra. Trong khi
đó, các nhà văn thuộc thế hệ đàn anh luôn cố gắng “gò” ngòi bút của mình lại
trong một “khuôn khổ” nhất định nào đấy. Bởi vậy, qua các tác phẩm của họ, ta dễ
nhận thấy những điều gượng ép nhiều khi không đáng có đã làm giảm đi một phần
giá trị của chính tác phẩm đó. Chọn viết nhật ký chính là cách thích hợp nhất để
các nhà văn tự trang trải với lòng mình về những điều còn khúc mắc, về những
phấn khích trong tâm hồn mà đời sống kháng chiến đã mang đến cho họ. Cũng
như những con người bình thường, các nhà văn đều không hề có ý định công bố
nhật ký của mình ra trước công chúng. Song, vì một lý do nào đấy mà có những
tác phẩm nhật ký được in ngay sau khi tác giả mới hoàn thành: Nhật ký Ở rừng
(1948) của Nam Cao, Một tháng đi theo pháo binh (1948) của Hoài Thanh,…
Sau Cách mạng, Nam Cao nhiệt tình tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn
sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Qua
nhật ký Ở rừng, nhà văn đã thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và "góp sức
vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ
thuật cao hơn. Nếu tôi có đủ tài để viết cái tác phẩm lớn của đời tôi, nó sẽ đƣợc
hàng chục triệu ngƣời đọc chứ không phải chỉ vì vài ba nghìn ngƣời nhƣ trƣớc
nữa" [3, tr.814]. Trong tác phẩm, tác giả chủ yếu ghi lại quá trình những cán bộ
cách mạng, những nhà văn đi sâu vào đời sống của quần chúng nhân dân để tìm
hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ, tìm hiểu quá trình giác ngộ cách mạng và làm
cách mạng của những người dân ở miền núi. Nhà văn đã ghi lại rất tỉ mỉ trong nhật
ký của mình những điều nhỏ nhặt về cuộc sống thiếu thốn, khó khăn nhưng luôn
ấm áp tình người của những người dân Mán mà tác giả cho rằng, đó là “một thế
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giới hoàn toàn bí mật” [ 3, tr.783] – Con đường đến với họ không phải là điều đơn
giản: “Không có đƣờng đi. Cả đến lối mòn cũng gần nhƣ không có. Rất ít ngƣời
qua lại đây. Chúng tôi sẽ phải cố tìm ra những vết trên lá rơi, cỏ rậm mà đi.”
(Nhật ký ngày 19/10/1947) [3, tr.784]. Ngay cả nơi ở của họ cũng là điều rất kỳ lạ
đối với những người cán bộ cách mạng khi họ mới đặt chân đến lần đầu: “Chuồng
lợn, chuồng gà ở ngay trong nhà, lẫn với ngƣời. Nhƣng không có lợn gà. Chỉ có
phân với bọ hung” (Nhật ký ngày 19/10/1947) [3, tr.787]. Tuy nhiên, với những
người chỉ quen làm công tác văn hoá, văn nghệ như tác giả thì đó lại là một điều
vô cùng thích thú: “Cách mạng đã đổi hẳn óc mình. Kháng chiến chẳng những
làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia, còn thay đổi ngay chính thân thể mình,
một ngày kia khi trở về!” (Nhật ký ngày 21/10/1947) [3, tr.795]. Và còn xúc động
hơn khi, những người Mán nói tiếng Kinh chưa sõi, hiểu tiếng Kinh chưa rõ hết
nghĩa kia lại là những người sống hết lòng, hết dạ với cách mạng. Họ chỉ ăn cơm
với muối và ớt, những thức ăn ngon đều để dành thết đãi cán bộ cách mạng từ
dưới xuôi lên: “Những con ngƣời “ngây ngô” ấy đã ăn củ hàng tháng để nhƣờng
gạo cho những ngƣời cách mạng” (Nhật ký ngày 3/11/1947) [3, tr.799 - 800].
Chính tình cảm chân thật của đồng bào đã giúp cho những nhà văn, những người
nghệ sĩ làm công tác tuyên truyền viên cách mạng mới thấm thía hết được ân tình
cách mạng. Tất nhiên, những nhà văn, những người nghệ sĩ thuộc thế hệ Nam Cao
đã được “cải tạo tư tưởng”, thay đổi hẳn “bộ óc” của mình trước thực tại của cuộc
sống. Nhà văn cũng không hề giấu giếm sự “lột xác” của mình: “Tôi đã nghĩ đến
tôi nhiều quá. Sau cuộc Cách mạng tháng Tám, càng ngày tôi càng thấy rằng cái
“tôi” của mình thật ra chẳng nghĩa lý gì. Nó có một chút giá trị nào là khi nó biết
hoà hợp nó vào với những ngƣời chung quanh. Nhiều khi phải biết quên mình đi,
quên cái tên tuổi của mình, nếu muốn thành một ngƣời có ích (…). Bây giờ đây,
tôi thấy yên lòng về những bài cỏn con của tôi hơn. Nó chẳng nói đƣợc điều gì sâu
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sắc lắm đâu. Nhƣng nó làm cho ngƣời đọc hiểu biết hơn, tin tƣởng vào cuộc
kháng chiến của ta hơn; nó đẩy họ cũng hăng hái giúp ích cho cuộc kháng chiến
của toàn dân và gợi cho họ những việc họ có thể làm để giúp ích cho kháng chiến.
Tôi chỉ mong có thế” (Nhật ký ngày 2/3/1948) [3, tr.814 - 815]. Tham gia vào
cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của nhân dân, sống chung với những thiếu
thốn và vất vả của họ, thấu hiểu được tâm tư nguyện vọng của họ, nhà văn như
được “mở mang đầu óc”, như phát hiện thêm được nhiều điều mới mẻ từ cuộc
sống này. Và hơn thế nữa, Nam Cao còn thể hiện lòng ngưỡng mộ, sự cảm phục
của ông đối với những anh vệ quốc quân, những người chiến sĩ: “Các anh chiến sĩ
không tên! Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ,
chiến đấu không nghĩ gì đến tên mình, không nghĩ gì cả đến thân mình nữa. Các
anh hãy rọi vào lòng tôi ánh nắng rực rỡ trong đôi mắt và cõi lòng của các anh.
Lòng tôi vẫn còn u ám lắm. Những đám mây đen xƣa cũ vẫn còn lởn vởn. Các anh
hãy quét sạch nó hộ tôi. Quét sạch! Để cho tâm hồn quang quẻ và mới hẳn!”
(Nhật ký ngày 19/3/1948) [3, tr.819]. Vấn đề cải tạo tư tưởng, rõ ràng, không còn
là vấn đề mang tính chất tự phát nữa mà đã trở thành mong muốn cấp thiết của nhà
văn Nam Cao. Thực tế, trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Nam Cao chưa
phải là một người chiến sĩ cách mạng nhưng ông luôn đứng về phía nhân dân, cất
lên tiếng nói bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhân dân qua các sáng tác viết về
người nông dân và người trí thức. Vì vậy, khi cách mạng cần, ông đã hết lòng ủng
hộ cách mạng và kháng chiến. Bản thân nhà văn cũng luôn tìm cách để cải tạo tư
tưởng của mình nhờ ánh sáng của Đảng, của cách mạng. Được sống giữa quần
chúng nhân dân, làm việc cùng họ, nhà văn mới thật sự thấu hiểu hết tâm tư
nguyện vọng, năng lực cách mạng ở họ. Chính quần chúng đã giúp cho nhà văn
nhận ra con đường đúng đắn mà mình phải theo đuổi.
Ngay tiếp sau Ở rừng, Nam Cao vẫn tiếp tục ghi nhật ký. Những trang nhật
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ký trong những năm sau này bộc lộ rõ hơn tư tưởng kiên định của Nam Cao. Lúc
này, nhà văn đã thực sự chọn được con đường đi đúng đắn cho cuộc đời mình.
Thực tế của cuộc sống kháng chiến đã được nhà văn trải nghiệm với một thái độ
yêu thích và hào hứng. Nam Cao đã đứng từ trong cuộc sống ấy để mà cảm nhận
về sự đổi thay của đất nước, của con người. Đôi khi, trong những trang nhật ký,
nhà văn chỉ thống kê những con số liên quan đến thực phẩm ăn uống hàng ngày
của cơ quan để ghi nhớ. Nhưng điều đó cũng đủ để cho chúng ta thấy, những
người làm công tác văn nghệ như Nam Cao đã thực sự hoà mình vào cuộc sống
hiện tại của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy vậy, có những lúc, Nam Cao vẫn
tự vấn lương tâm mình, chưa cảm thấy hài lòng với chính mình. Lựa chọn con
đường sáng tạo nghệ thuật chân chính, Nam Cao không thể không băn khoăn khi
khả năng sáng tạo của những người nghệ sĩ như ông không được phát huy. Nên
ông đã từng nói thẳng nói thật với lòng mình về những điều khiến mình trăn trở:
“Viết theo đƣờng lối quá, mất sáng tạo, khô khan, lòng cũng khô theo. Sau này
còn viết nổi nữa không?” (Nhật ký ngày 19/1/1951) [2, tr.736]. Đây không phải là
lời tâm sự chân thật của riêng một mình Nam Cao mà là nỗi băn khoăn, sự lo lắng
chung của nhiều nhà văn khi ấy. Song vượt lên trên hết vẫn là thái độ nhìn nhận và
đánh giá đúng về con người mình, về con đường mà mình đã lựa chọn: “Không
muốn cứ nghĩ đến cá nhân mình mãi thế. Nghĩ đến những ngƣời đang hy sinh hơn
mình (...). Phải nghĩ đến sự nghiệp chung – Hoàn toàn vì Đảng ” (Nhật ký ngày
19/1/1951) [2, tr.736-737].
Còn Hoài Thanh - người phát ngôn tư tưởng cho phong trào Thơ Mới trước
Cách mạng - người đã phát hiện đưa Thơ Mới tới đỉnh cao của đài vinh quang -
người chủ trương “văn chƣơng trƣớc hết phải là văn chƣơng đã” cũng luôn mong
muốn dành tất cả tâm huyết của mình cho sự tìm tòi, phát hiện ra chân lý của cuộc sống.
Vì vậy, như nhiều nhà văn khác cùng thời, Hoài Thanh tình nguyện đi theo Cách mạng và
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kháng chiến “lăn xả” vào cuộc sống kháng chiến để sáng tác. Một tháng sống chung với
anh em pháo binh, Hoài Thanh đã cảm và thấm được hết nỗi vất vả mà những người lính
pháo binh phải trải qua nhưng họ vẫn phơi phới một niềm lạc quan, yêu đời. Trong thời
gian này, tác giả đã viết nhật ký Một tháng đi theo pháo binh. Bài ký đã ghi lại tỉ mỉ những
sự kiện, sự việc mà tác giả được tận mắt chứng kiến về cuộc sống, quá trình tập luyện và
chiến đấu của những người lính pháo binh. Cuộc sống kháng chiến và niềm yêu cuộc sống
kháng chiến của những người lính pháo binh đã truyền cho tác giả nhiệt huyết và lòng say
mê với cuộc sống hiện tại này. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đem lại cho
nhiều văn nghệ sĩ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 sự đổi thay về tư tưởng, về cách
nhìn đối với cuộc sống hiện tại. Vốn là một nhà văn lãng mạn, Hoài Thanh nhìn cuộc
kháng chiến gian khổ, thiếu thốn của dân tộc ta, nhìn con người kháng chiến bằng một đôi
mắt đầy thiện cảm: “Những con ngƣời ngơ ngẩn ấy chỉ vào bộ đội mấy tháng là biến
thành con ngƣời khác biết đọc, biết viết, biết bắn súng, biết đánh Tây, biết những điều cần
biết để góp phần vào việc xây dựng một nƣớc Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc” [50,
tr.731]. Cuộc sống ấy với những con người ấy đã đem lại cho tác giả niềm hạnh phúc ấm
lòng và lòng yêu cuộc sống tha thiết: “Một cụ già nhìn tôi tự nhiên cƣời, một cái cƣời hiền
lành, mà vui vô hạn. Tôi cảm động đến muốn khóc. Bao nhiêu ý nghĩ cực lòng về những
cái nhỏ nhen của ngƣời quanh mình, của chính mình tiêu tan hết. Đời đẹp lạ” [50, tr.751].
Đi đánh giặc mà lòng người dậy lên phơi phới niềm vui và niềm tin chiến thắng. Tác giả
đã cảm nhận được cảnh đoàn quân ra trận với khí thế hào hùng mạnh mẽ: “Đƣờng dễ đi,
trông đoàn ngƣời phơi phới. Nhịp sống ở đây hình nhƣ không còn là nhịp lục bát (…).
Anh em bộ binh ngụy trang bằng lá cây lúc đi qua những quãng đƣờng nhiều hố phá hoại,
đƣờng ngoằn ngoèo và lên xuống trông chập chờn nhƣ trong một cuộc khiêu vũ. Sực nhớ
cuộc hành quân đời Nguyễn Huệ” [50, tr.752 - 753]. Hoài Thanh đã thực sự sống với
cuộc sống kháng chiến của toàn dân tộc ta. Đôi mắt của một nhà văn lãng mạn vẫn không
thôi hết thi vị khi chứng kiến sự vĩ đại của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Khi được trực tiếp tham gia vào trận đánh của anh em
pháo binh, Hoài Thanh cùng vui chung niềm vui hào hứng, phấn chấn của họ: “Đại bác
lên tiếng là súng địch câm hẳn. Tiếng nói của đại bác thật là có uy tín. Đêm tối không rõ
có trúng không nhƣng cứ nghĩ rằng chính nghĩa ở nƣớc ta bao năm lén lút âm thầm giờ
đây đã có thể nói bằng tiếng nói của đại bác, nghe cũng đã sƣớng tai” [50, tr.756]. Cho
đến những dòng cuối cùng của nhật ký, chúng ta đã nhận thấy rõ một Hoài Thanh đã thật
sự có nhiều biến chuyển về tư tưởng. Hiện thực của đất nước không cho phép những
người nghệ sĩ có trách nhiệm như ông đứng ngoài cuộc. Lòng yêu nước đã thúc giục họ
nhập cuộc với hiện thực gian khổ và khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp mà nhân
dân ta đang ngày đêm tham gia. Hoài Thanh đã rời bỏ cái “tháp ngà nghệ thuật” lộng lẫy
để “đón nhận những vang động ở đời” và ông cũng đã thật sự có được những rung cảm
mãnh liệt trước hiện thực mà chính mắt ông được chứng kiến, chính bản thân ông đang
sống trong đó: “Trong trí tôi hiện lên hình ảnh anh du kích nằm trên băng ca bằng tre đan
mình đẫm máu cùng với hình ảnh anh em pháo binh khiêng gánh súng đạn: đêm tối, trời
mƣa, đƣờng trơn. Trong lòng tôi có điều không yên, tôi thấy chúng tôi cần phải chịu kham
khổ nhiều hơn nữa.” [50, tr.761]
Cũng vì một lý do nào đó mà có nhiều cuốn nhật ký không được in ngay. Nhật ký
của Nguyễn Huy Tưởng là một trường hợp như thế. Có lẽ, không có nhà văn nào lại viết
nhật ký nhiều như Nguyễn Huy Tưởng đã viết (khoảng bốn mươi cuốn dày, mỏng khác
nhau bắt đầu từ ngày 02/11/1930 đến 21/06/1960). Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng rất coi
trọng việc viết nhật ký từ khi ông bước vào nghiệp văn chứ không phải hiện thực
của cuộc kháng chiến chống Pháp mới thôi thúc ông làm điều đó. Thậm chí, ngay
từ khi mới bắt đầu công việc trước tác này, ông đã quan niệm: “Phàm kẻ học trò
nên tập cách viết nhật ký. Nhật ký là cuốn sách chân thật hơn cả mọi các sách mà
cũng rộng rãi tự nhiên hơn các sách khác”. Xuyên suốt, và ngày càng đậm nét
trong những trang nhật ký này là một nỗi bất an, một sự hoài nghi, một trạng thái
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tinh thần đầy bức bối khó chịu khi người viết luôn phải tự đối chiếu giữa hai con
người: người nghệ sỹ và người cán bộ cách mạng của mình với những gì đang là
thực tế phổ biến trong đời sống và trong nghệ thuật. Vì vậy, ta luôn gặp một sự
thật mà có lẽ, so với các nhà văn cùng thời, chỉ có Nguyễn Huy Tưởng mới mạnh
dạn cất lên được thành lời qua những trang nhật ký. Phải chăng, bởi những lời tâm
sự nhật ký chân thực như thế nên mấy chục năm sau, nhật ký Nguyễn Huy Tưởng
mới được công bố rộng rãi?
Có thể nói, những trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng là những lời tâm sự
chân thật xuất phát từ đáy lòng tác giả. Cuộc sống của đất nước sau cách mạng
tháng Tám năm 1945 tuy cũng đã đem lại cho tác giả niềm vui, niềm tin tưởng vào
cuộc đời nhưng hiện thực mới chưa thể nào đáp ứng được kịp thời với nhu cầu
sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ chân chính. Vì vậy, nhiều lúc, Nguyễn Huy
Tưởng cảm thấy vô cùng đau khổ, đau khổ lên đến tột cùng. Có những sự thật nên
tránh nói đến thì Nguyễn Huy Tưởng đã không ngần ngại nhắc đến trong nhật ký
của ông như những điều tâm sự sâu kín mà dường như chỉ mình ông biết, chỉ mình
ông đau khổ, đau khổ đến mức tuyệt vọng, đến mức phải nghĩ đến một sự giải
thoát bằng cái chết:“24-5-1946 …Chán nản quá. Có tƣ tƣởng muốn chết, muốn tự
tử”, “14-6-1946. Nghĩ kịch không ra. Thấy mình kém. Có cái ý chán nản, muốn
chết.” [55]. Đôi khi, Nguyễn Huy Tưởng còn đọc được sự chế giễu, chê trách và
coi thường ông từ trong đôi mắt của các bạn văn khác. Điều ấy càng khiến cho
ông đau lòng hơn nữa: “25-5-1946. Học Phi đến. (...). Nói về kịch “Bắc Sơn”: có
ở Văn hoá cứu quốc, có thế lực thì in, chứ chó ai xem kịch. Ai ngƣời ta chơi” ,
“17-7-1946… Cảm thấy sự khinh bỉ ngấm ngầm trong những phe: Tuân, Thế Lữ,
Chu Ngọc” [55].
Song, không thể phủ nhận rằng, nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng đã mang lại
nhiều giá trị văn học bất ngờ. Qua nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta thấy hiện
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lên bức tranh về cách mạng Việt Nam với những phương diện khác nhau. Có lẽ,
hiếm thấy cuốn nhật ký nào lại có những phác thảo rất đẹp về hình ảnh lãnh tụ Hồ
Chí Minh như nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng. Hình ảnh Bác được tác giả miêu
tả với bao tình cảm kính yêu nhất nhưng không vì thế mà Nguyễn Huy Tưởng
thần thánh hóa hình ảnh một vị lãnh tụ của cách mạng Việt Nam. Tất cả những nét
tính cách giản dị, gần gũi, ân tình của Bác đều được Nguyễn Huy Tưởng cảm
nhận một cách chân thành nhất:
“15-10-1950. Chiều 15. (…) Cụ đến. Ăn mặc xuềnh xoàng, dép đứt quai sau.
Hỏi bộ đội có khoẻ không, có đói không?”,
“26-10-1950. Bác sang thăm thƣơng binh ở Thuỷ Khẩu. Vào vén màn từng
ngƣời xem. Anh em còn ngủ. Bác trở ra. Sau biết tin Cụ Hồ đến, chạy cả ra. Bác
nói, rồi ứa nƣớc mắt, ngoảnh mặt đi lâu lâu 5 phút, rồi mới tiếp tục nói chuyện.
Về nói: - Trông thấy các cháu có đứa 17,18 tuổi mà đã bị cƣa, cụt, không đành
lòng đƣợc” [55].
Hình ảnh quần chúng kháng chiến cũng hiện lên rất đẹp trong cảm nhận của
Nguyễn Huy Tưởng. Ông dành cho họ tình cảm yêu thương và sự thán phục bởi
chính họ mới là những người làm nên điều kỳ diệu của lịch sử dân tộc: “Ở trên đi
xuống những đoàn áo chàm mấy trăm ngƣời, phụ nữ, nam giới đủ. Họ đi nhiều
đƣờng, khi lẻ, khi tụ, đen ngòm, để vào nghỉ một cái bản gần đƣờng. Giữa cảnh
núi cao, họ hùng vĩ quá, đòn gánh liền nhau, chạm nhau (…). Họ cởi trần, nhƣ
những thiên thần bên đống lửa” (Nhật ký ngày 30/7/1950) [55]. Nguyễn Huy
Tưởng còn dành cho họ sự cảm thông sâu sắc khi ông được chứng kiến nỗi gian
khổ mà họ phải trải qua: “Dân công khổ quá. Chỉ cơm và muối. Không có nhà ở,
toàn ngủ ngoài đồng, trong núi. Lệnh hành quân, họ đang thổi cơm. Mƣa to nhƣ
trút (…). Nồi cơm đã có gạo nƣớc mƣa trên miệng nồi, lửa rụi. Chiến dịch khó
khăn, vất vả, lao lực quá. Thƣơng hại những ngƣời dân công (...). Lại cuộc đời
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không nhà, ngủ rừng, đêm mƣa vất vả. Thấy mệt, nhƣng vui. Tin tƣởng” (Nhật ký
ngày 21/9/1950) [55]. Sự cảm thông và ngưỡng mộ ấy bắt nguồn từ một trái tim
chứa chan tình yêu thương đối với những con người xuất thân từ cuộc sống vất vả,
lam lũ nhưng lại sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì độc lập, tự do của đất nước. Và
chính họ mới là những con người góp phần làm nên chiến thắng bởi những hành
động quả cảm lạ thường. Hình ảnh của những người dân công đã tiếp thêm cho tác
giả niềm vui, niềm tin tưởng vào cuộc sống.
Thực tế cho thấy, từ khi được trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến chống
Pháp, sức sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng dường như được phát huy một cách
mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ rằng, Nguyễn Huy Tưởng cũng đã trải qua quá trình
“cải tạo” về tư tưởng. Ông cũng rất nhiệt tình tham gia kháng chiến, đi sâu vào tìm
hiểu cuộc sống kháng chiến. Vì vậy, hầu hết các tác phẩm được ông sáng tác trong
giai đoạn này đều xoay quanh đề tài về cuộc kháng chiến. Trong đó, Nguyễn Huy
Tưởng rất chú ý đến việc xây dựng hình tượng nghệ thuật là những tấm gương con
người kháng chiến điển hình. Càng đi sâu vào cuộc kháng chiến, Nguyễn Huy
Tưởng đã thật sự có được thay đổi về tư tưởng: “Trông bộ đội mà thêm tin tƣởng.
Bộ đội đã có Cao Bắc Lạng. Văn nghệ nhất định cũng phải có Cao Bắc Lạng. Ta
nhất đinh phải có tác phẩm cho kháng chiến, cho chiến dịch” (Nhật ký ngày
7/11/1950) [55]. Nguyễn Huy Tưởng đã đem hết sức lực và tài năng của mình ra
để cống hiến cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
Rõ ràng, quá trình “nhận đường” và “tìm đường” của lớp nhà văn cũ là điều vô cùng
cần thiết trong giai đoạn lịch sử mới. Mặc dù, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp, vẫn còn một bộ phận nhà văn có tư tưởng dao động, hoài nghi trước cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Do đó, sự ra đời tức thì của những trang nhật ký đó là
điều vô cùng cần thiết, vừa mang tính chất “nêu gương”, vừa mang tính chất “cảnh tỉnh”
đối với những ai còn đang hoài nghi hoặc có cái nhìn chưa đúng đắn về hiện thực của một
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc sống mới. Việc những cuốn nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng không được in ngay
sau đó cũng là điều hợp lý bởi những gì mà ông ghi lại trong nhật ký của mình chân thật
tới mức quá chân thật. Tất cả những gì ông suy nghĩ, ông cảm nhận đều được ghi lại một
cách thành thật: Từ tâm trạng bi quan của cá nhân đến chuyện “cơm áo gạo tiền” của gia
đình, đến ngay cả những chuyện “yêu” vợ, thậm chí cả những lúc ông có tâm trạng phấn
chấn trước một cô gái “khêu gợi”,… Ai cũng biết, chân thật là đặc điểm nổi bật nhất của
thể loại nhật ký nhưng nếu xét về một mặt nào đó thuộc giá trị nội dung tư tưởng thì việc
công bố nhật ký Nguyễn Huy Tưởng ngay tại thời điểm các cuốn nhật ký ra đời là điều
không thể được. Hơn nữa, có thể bản thân Nguyễn Huy Tưởng lúc sinh thời và những
người thân của ông cũng không muốn cho công bố những cuốn nhật ký này. Song, không
phải vì thế mà chúng ta lại phủ nhận hoàn toàn những giá trị mà những cuốn nhật ký của
Nguyễn Huy Tưởng đã mang lại cho văn học, cho lịch sử. Nhìn nhận lại những giá trị của
Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng và khẳng định những giá trị đó là điều vô cùng cần thiết
trong thời điểm hiện nay – khi con người không còn những suy nghĩ khắt khe về vấn đề
“cải tạo” tư tưởng, về vấn đề “đôi mắt”, về “cái tôi” cá nhân. Do đó, chúng ta phải khẳng
định một điều: Hầu hết các nhà văn đi theo cuộc kháng chiến chống Pháp đều tự giác “cải
tạo” bản thân, tự giác trang bị cho mình một “đôi mắt” mới để nhìn nhận hiện thực. Họ
vẫn sáng tạo và trong quá trình sáng tạo ấy họ hiểu rõ trách nhiệm của những “người thư
ký thời đại” trước ngòi bút của mình.
Mặc dù có nhiều ưu thế hơn thế hệ nhà văn đàn anh trước vấn đề “nhận
đường” và “tìm đường” nhưng thế hệ các nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Pháp cũng viết nhật ký: Trần Đăng, Phan Tứ,…
2.2.2. Nhật ký của người viết không chuyên.
Bên cạnh nhật ký của những nhà văn chuyên nghiệp cũng có những trang
nhật ký của người viết không chuyên: Những anh vệ quốc, những người công
nông binh, người lính,… Nhật ký của họ được in trên những trang báo chiến
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trường hoặc được lưu giữ trong sổ tay của bạn bè, đồng đội. Đó là những trang
nhật ký hoàn toàn viết một cách hồn nhiên, nghĩ sao viết vậy, người viết không hề
có mục đích biến sản phẩm của cá nhân mình thành tác phẩm văn học. Tất nhiên,
giá trị văn học ở những trang nhật ký này không nhiều, thậm chí là không có
nhưng giá trị lịch sử mà trang nhật ký đó mang lại quả là vô giá.
Hiện nay, số lượng nhật ký của những người viết không chuyên trong giai
đoạn kháng chiến chống Pháp còn lại không nhiều. Nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng đó xuất phát từ nhiều yếu tố: Hoặc là do hoàn cảnh chiến tranh, hoặc là do ý
thức bảo quản chưa tốt của con người, hoặc là do nhận thức của con người thời đó
về nhật ký chiến tranh còn nhiều hạn chế, v.v… Tuy nhiên, với số lượng khiêm
tốn của một số trang còn lại cho đến nay, nhật ký của người viết không chuyên
trong kháng chiến chống Pháp vẫn đóng một vai trò khá quan trọng đối với tiến
trình phát triển của văn học cũng như đối với việc lưu giữ những tư liệu chiến
tranh thuộc lĩnh vực lịch sử. Mặc dù, có những nhật ký chỉ còn lại một “mẩu”
ngắn nhưng cũng đủ để cho người đọc cảm nhận được tâm trạng, cảm xúc của
người viết trong đó. Sự tồn tại tưởng như rất vô tình của những trang nhật ký
(ngoài ý tưởng của người viết) vẫn khiến cho một trận chiến đấu nhỏ, một mảng
hiện thực của cuộc sống kháng chiến được tái hiện trong hình dung của người đọc:
Những trang nhật ký của Phan Phú, chính trị viên đại đội một đơn vị chủ lực, hy
sinh trong trận Bản Trại, được lưu lại trong sổ tay của Tô Hoài ngày 29/02/1948:
“Chúng tôi cùng một tiểu đội trở vào bản (làng) đi sục sạo từng nhà một. Mỗi khi
bƣớc vào một nhà, lại hơi rợn rợn, không biết địch để lại cái gì trong nhà: Một tên
bị thƣơng liều lĩnh, một vài quả lựu đạn nổ chậm (…). Ánh sáng vẫn chiếu tƣng
bừng qua kẽ lá, qua mái nhà. Con gà vừa đẻ xuống vẫn cục tác vang lừng. Tôi
không lấy làm ngạc nhiên vì cảnh vật có vẻ thanh bình giữa trận ác liệt đang xảy
ra… Tôi lại quay trở lại chỗ đại đội I vẫn đƣơng đánh nhau với Pháp ở vƣờn đồi
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trƣớc mặt (…). Ngƣời dân, những ruộng lúa vàng, cứ điểm địch, và ngƣời vệ quốc
quân, những hình ảnh ấy hiện ra cùng một lúc bao hàm bao ý nghĩa” (Sổ tay viết
văn, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1977) hay những trang khác của Lê Nguyên -
Đại đội trưởng Đại đội 156, Sư đoàn 308, hy sinh ngày 20/03/1949, được gìn giữ
cẩn thận trong ba lô của Trần Đăng: “Kinh nghiệm trƣờng đời cho biết rằng
không nên giãi bày tâm sự của mình lên trang giấy, nhƣng từ khi vào bộ đội, mình
có những xúc động ghê gớm thấy cần phải ghi lại…”. Và một mẩu khác có tên là
Đôi mắt, vẫn do Lê Nguyên ghi lại: “Tiểu đội phó N. Đ . Thản có đôi mắt một mí
nhƣ Nhật vậy. Trời, sao mình yêu đôi mắt hiền từ và đẹp nhƣ thế! Trận B.T lúc ấy
mình chƣa cho lệnh bắn. Hắn sƣớng quá bắn luôn một tràng thompson, thế là lũ
giặc bắn nhƣ mƣa … Thản bị bắn xuyên óc, chết ngồi dựa lƣng vào vách đá. Hôm
sau địch chạy hết, mình vào chôn cất cho Thản. Đã có bao nhiêu đôi mắt nhƣ đôi
mắt của N.Đ. Thản đã nhắm ở chiến trƣờng mà không ngƣời vuốt” (Dân quân
Việt Bắc, số 18, ngày 15/05/1949) [30, tr.111-112]. Nếu không có các nhà văn như
Tô Hoài, Trần Đăng thì liệu những trang nhật ký như thế có thể được lưu giữ cho
đến ngày hôm nay? Vẫn biết rằng giữa cái ác liệt, tàn khốc của chiến tranh, người
lính không thể không đối diện với những mất mát, đau thương nhưng vẫn có nhiều
lúc, các anh lãng mạn và bay bổng như thế đấy! Cố gắng đẩy lùi hiện tại đau
thương, gian khổ để nghĩ về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp là phẩm chất đáng
quý của mọi người lính Cụ Hồ và đó cũng là phẩm chất quý báu được kế thừa và
phát huy của dân tộc Việt Nam ta từ ngàn đời nay.
2.3. Nhật ký viết trong kháng chiến chống Mỹ.
Nhật ký được viết trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cũng có nhiều điểm
tương đồng so với nhật ký được viết trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp:
cũng có nhật ký do nhà văn viết và có những cuốn nhật ký không phải của nhà
văn. Đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ thuộc
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thế hệ nhà văn - chiến sĩ. Họ không chỉ cầm bút sáng tác mà còn cầm súng trực
tiếp chiến đấu với quân thù: Nguyễn Thi - Nguyễn Ngọc Tấn, Chu Cẩm Phong,
Dương Thị Xuân Quý,… Bên cạnh những cảm xúc riêng tư, phần lớn những trang
nhật ký thiên về việc ghi chép những sự kiện thời sự nóng hổi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ với đầy đủ tính chân thật của nó: Có những lúc khó khăn, gian
khổ, có những lúc đau thương, mất mát lớn lao nhưng vượt lên trên tất cả là niềm
tin tưởng bất diệt, tuyệt đối vào sự toàn thắng của dân tộc trước một tên đế quốc
vào loại sừng sỏ nhất thế giới. Do vậy, dấu ấn cộng đồng dân tộc hiện lên rất đậm
nét qua nhiều trang nhật ký trong giai đoạn này.
Chu Cẩm Phong không chỉ là một nhà văn, nhà báo trực tiếp tham gia vào
cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù vì nhiệm vụ phải có cái gì đó để phục vụ cho văn
nghệ chống Mỹ mà anh còn một người lính đã nhiều lần cầm vũ khí chiến đấu trực
tiếp với kẻ thù. Tốt nghiệp đại học, anh được chọn đi học nghiên cứu sinh ở nước
ngoài, nhưng Chu Cẩm Phong đã xin về Nam chiến đấu vào cuối năm 1964. Thời
gian đầu, anh làm phóng viên Thông tấn xã Việt Nam, sau đó chuyển sang làm
phóng viên, biên tập viên tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ (khu V), bí
thư chi bộ tiểu ban văn nghệ Ban tuyên huấn Khu V. Trong thời gian anh về công
tác ở Duy Xuyên (Quảng Nam), ngày 1/5/1971, gặp một trận càn, anh xuống hầm
bí mật với mấy cán bộ du kích và bị địch khui hầm. Chu Cẩm Phong cùng các
đồng chí của anh đã chiến đấu anh dũng với kẻ thù nhưng vì vết thương quá nặng,
anh đã hy sinh. Cuốn nhật ký của Chu Cẩm Phong có một số phận khá kỳ lạ. Một
sĩ quan tác chiến phía thuộc bên kia thu được cuốn sổ nhật ký của anh, cuốn nhật
ký đã bị mảnh lựu đạn xuyên nát một góc. Anh ta đem về tặng một người bạn làm
ở bộ phận chiến tranh tâm lý và không hề có một lời giải thích về món quà đó.
Thay vì khai thác bí mật (có thể có) của đối phương, viên sĩ quan tâm lý đã xúc
động sâu sắc vì lần đầu tiếp cận ở một khoảng cách gần với một con người ở chiến
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tuyến bên kia. Và ngày Đà Nẵng giải phóng, biết nơi các bạn của Chu Cẩm Phong
ở, anh đã tới gửi lại cuốn nhật ký, sau khi đã kỳ công trang trí lại. Thế giới tinh
thần phong phú, tình cảm nhân ái và chân thành của người viết nhật ký, từng
trang, từng trang thấm mồ hôi, máu của biết bao con người chống chọi với đạn
bom khốc liệt, thiên tai bão lụt, để quyết giành một đất nước độc lập đã làm nên vẻ
đẹp vô song của tác phẩm văn học chưa trọn vẹn này.
Toàn bộ cuốn nhật ký (bắt đầu ghi từ thứ ba – ngày 11/7/1967 đến ngày cuối
cùng là thứ ba – ngày 27/4/1971) đã ghi lại những điều Chu Cẩm Phong được tận
mắt được chứng kiến, những điều anh cảm nhận, suy nghĩ trong suốt quá trình đi
công tác, thực hiện nhiêm vụ mà Đảng giao cho. Trong nhật ký của Chu Cẩm
Phong, chúng ta nhận thấy dấu ấn của cuộc chiến tranh khốc liệt hiện lên qua từng
trang giấy. Tất cả những sự kiện, sự việc, những con người, những hình ảnh đặc
trưng của từng mảnh đất đã trải qua quãng đời công tác của Chu Cẩm Phong đều
được anh ghi chép lại trong nhật ký của mình. Dường như, anh không bỏ qua một
chi tiết nào. Vì vậy, nhật ký của anh có thể coi như là một cuốn tư liệu quý giá về
hiện thực cuộc sống và chiến đấu của nhân dân khu V trong giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ. Những ngày công tác tại khu V là những ngày Cẩm Phong sống giữa
lòng dân, được nhân dân chở che, bao bọc. Với cương vị của một bí thư chi bộ
tiểu ban văn nghệ, Chu Cẩm Phong không cho phép những tình cảm riêng tư xen
lấn vào tình cảm mà anh dành cho Tổ quốc, cho Đảng, cho nhân dân. Khác với
nhiều người khác khi viết nhật ký, Chu Cẩm Phong rất ít khi bộc lộ những cảm
xúc cá nhân, tình cảm cá nhân trong nhật ký của mình. Tất cả tình thương mến, sự
cảm phục, anh đều dành cho những người dân đang sống xung quanh anh. Những
khi nhận được thư của bạn gái, nhận được thư nhà, Cẩm Phong không thể che giấu
được tâm trạng xúc động và nỗi nhớ nhà, nhớ người thân da diết. Nhưng ngay sau
đó, anh đã cố gắng dồn nén tình cảm riêng tư ấy trong lòng để vững vàng đấu
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đọc nhật ký của Chu Cẩm Phong, chúng ta
bắt gặp hàng trăm con người gắn với những tên thật, việc thật về họ trong cuộc
chiến đấu với kẻ thù. Phải chăng, Cẩm Phong muốn thực hiện được điều mà anh
luôn mong ước: “Qua hình tƣợng một ngƣời bình thƣờng, mình ngợi ca truyền
thống tốt đẹp của dân ta. Và mình muốn chứng minh rằng, một khi đã làm cách
mạng con ngƣời tìm thấy hạnh phúc lớn lao trong cuộc chiến đấu mới này.” (Nhật
ký ngày 16/11/1967). Nhưng chính những con người tưởng chừng như rất bình
thường đó lại làm nên được những điều vô cùng phi thường. Cẩm Phong luôn
dành cho họ những tình cảm yêu thương và cảm phục đặc biệt. Gặp chị Nhành,
một đại biểu trong Hội nghị tuyên huấn của Thị, tác giả không khỏi xúc động
trước nỗi đau và nghị lực phi thường ở chị: “Bọn giặc bắt chị, tra tấn dã man, chị
chỉ có chịu đau, không hề cung khai. Chị bị mất hết một cánh tay nên khi bị đánh
ngã rất nhiều lần, do không giữ thăng bằng đƣợc. Ngã nhiều lần quá thằng giặc
đâm chán, có lẽ vì mất cái đà của nắm đấm, đƣờng roi, chúng bắt đầu trói chị khi
chúng đánh. Hai cánh tay lệch, khi chúng trói, chúng lại riết dây quanh mình chị,
cố thít chặt, thít mãi. Cho đến bây giờ những trận đánh, những đòn tra tấn đó
cũng còn hoành hành chị, mỗi lần trời chuyển cánh tay và nửa thân chị nhức buốt.
Gia đình chị và bà con thân thuộc không còn một ai, chúng giết hết cả rồi (…).
Một điều nữa làm mình rất kinh ngạc là, một con ngƣời thƣơng tật và có nỗi đau
khổ riêng tƣ đó lại rất lạc quan yêu đời. Cuối cuộc họp, chị năn nỉ các anh đọc
cho chị chép một bài chòi và vừa chép chị vừa hát khẽ một mình” (Nhật ký ngày
10/4/1968). Hình ảnh một người nữ y tá tận tụy và dũng cảm cùng để lại trong
lòng Cẩm Phong ấn tượng sâu sắc: “Có một lần giặc càn, Hoa tình nguyện xin ở
lại để phục vụ cho số thƣơng binh nặng không di chuyển đƣợc. Đêm đêm, Hoa
cõng thƣơng binh lên, rửa vết thƣơng, thay băng, canh gác cho thƣơng binh ăn.
Đến 4 giờ sáng Hoa lại cõng anh em xuống công sự. Hoa hy sinh trong Tổng công
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kích tổng khởi nghĩa, một viên đạn đại liên cực nhanh xuyên qua bụng. Trƣớc khi
chết, Hoa nói với các đồng chí: “Tôi chết sớm quá, nhiệm vụ phục vụ Tổng công
kích tổng khởi nghĩa của tôi chƣa hoàn thành”” (Nhật ký ngày 13/4/1968). Trong
số 121 tấm gương anh hùng mà Cẩm Phong đã gặp và kể lại trong nhật ký của anh
thì có đến 84 người là phụ nữ. Dường như, Cẩm Phong có cảm tình đặc biệt đối
với những người phụ nữ anh hùng. Trong nhật ký của anh, hình ảnh những người
phụ nữ can trường, bất khuất luôn được anh khắc sâu vào trí nhớ: “Liễu tổ trƣởng
một tổ xung kích tấn công lô cốt Lăng Cô và nhà lao Hội An, nhận nhiệm vụ đƣa
tối hậu thƣ, đạn giặc bắn dày nhƣng ngƣời con gái 21 tuổi ấy xông lên nhƣ một
dũng tƣớng. Một viên đạn đâm thẳng vào thái dƣơng, máu phủ cả mặt nhƣ một lá
cờ: “Các đồng chí đừng lo cho tui, hãy xông lên”. Cô hy sinh” (Nhật ký ngày
20/4/1968). Tác giả còn ghi lại câu chuyện về một chị khác: “Chồng chị kháng
chiến trƣớc cũng là bộ đội thị, anh đi tập kết lúc chị có mang hai tháng. Ở nhà chị
vừa đẻ đƣợc một tháng thì chúng bắt hai mẹ con chị ra phơi nắng suốt ngày nọ
sang ngày kia, bắt chị li dị với ngƣời chồng tập kết. Chị bồng con ngồi giữa nắng
tháng sáu, chiếc áo bà ba đen nóng rực nhƣ một miếng sắt nung đỏ áp vào da thịt
chị, lƣng chị phồng lên dộp ra. Chị ôm con vào lòng, cúi gập ngƣời cố lấy thân
hình che nắng cho con, đứa bé đỏ hỏn vẫn nhắm nghiền cặp mắt khóc thét đến tắt
cả tiếng. Chị không khóc mà nƣớc mắt cứ trào ra vì căm hận và xót thƣơng hòn
máu của chồng để lại. Nƣớc mắt chị nhỏ xuống mặt con, chị không lau chùi mong
nƣớc mắt mình, nƣớc mắt của ngƣời mẹ sẽ làm dịu bớt cơn nóng thiêu đốt nhƣng
thực ra nƣớc mắt chị cũng nóng bỏng. Những ngày sau nƣớc mắt chị cũng khô.
Chị cứ ngồi vậy, cúi gập ngƣời xoã tóc che chở cho con, quyết không ký giấy ly dị.
Chị hiểu chị không thể nào xa rời ngƣời chồng gắn bó bằng cả máu xƣơng trong
chiến đấu, chị chịu ly dị tức là ly khai lý tƣởng của chồng, của chị. Vào mùa đó
bắt đầu có những trận mƣa giông, mƣa xuống, ngƣời chị bốc hơi ngùn ngụt còn
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nóng hơn cả lúc nắng. Những vết phồng trên lƣng vỡ ra lột từng lớp da, chiếc áo
bà ba đen dính vào lƣng dát bỏng. Bọn giặc không làm gì đƣợc chị, chúng đem
giam hai mẹ con chị ở cầu Phƣớc Trạch, nằm trên cát bọ chét cắn dữ quá, đứa
con đỏ hỏn hoá ghẻ khắp ngƣời. Đứa bé cứ teo dần, teo dần. Thật lạ, tuy bị hành
hạ, bị đoạ đày nhƣ vậy đứa bé vẫn không chết. Đứa bé đã sống bằng ý chí cƣơng
quyết, bất khuất của ngƣời mẹ. Đứa bé đó và cuộc sống của nó không những có ý
nghĩa tƣợng trƣng rất sâu sắc mà còn là một sự biểu hiện sinh động, cảm động
của lòng trung thành, thuỷ chung” (Nhật ký ngày 7/5/1968). Và còn biết bao
nhiêu con người khác nữa cũng có phẩm chất anh hùng giống như các chị mà anh
đã gặp hoặc đã được nghe kể lại, anh đều “chụp” lại hình ảnh của họ trong nhật ký
của anh. Cẩm Phong dành cho những người phụ nữ này lòng ngưỡng mộ chân thật
xuất phát từ đáy lòng anh. Anh cẩn thận ghi lại từng tấm gương anh hùng vào nhật
ký của mình làm thành những thước phim tư liệu quý giá về từng mảnh đời, từng
tấm gương anh hùng chống Mỹ. Như vậy, truyền thống “Giặc đến nhà, đàn bà
cũng đánh” của nhân dân ta từ ngàn xưa vẫn được phát huy một cách cao độ. Lòng
yêu nước, tinh thần đánh giặc bảo vệ Tổ quốc và sức sống mãnh liệt của nhân dân
Việt Nam luôn luôn thường trực trong từng con người cụ thể mà không bom đạn
nào có thể dập tắt được. Cũng như bao thanh niên thời đó, tình yêu của Chu Cẩm
Phong không tách rời lý tưởng sống và chiến đấu của anh. Tình yêu đã chắp thêm
cho anh sức mạnh để chiến đấu và chắp thêm cho anh đôi cánh nghệ thuật để tiếp
tục sáng tác: “Tình yêu chỉ có thể làm mình dũng cảm hơn lên trƣớc những thử
thách của chiến tranh. Mình không bao giờ muốn mình và Em là ngƣời bình
thƣờng, mình không bao giờ muốn tình yêu của mình là tình yêu thấp kém. Yêu
Em, anh sẽ lao vào các chiến trƣờng, xông xáo hơn, anh sẽ viết tốt hơn. Em, Em
hãy tin rằng hạnh phúc của chúng ta sẽ đƣợc trọn vẹn” (Nhật ký ngày 24/3/1971).
Trong số những nhà văn xung phong vào Nam để trải nghiệm thực tế sống và
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến đấu của nhân dân ta những năm đánh Mỹ còn có Dương Thị Xuân Quý. Tuy
là một nhà văn nữ nhưng trong những trang nhật ký của chị, tình cảm riêng tư luôn
bị đẩy lùi để rồi vượt lên trên tất cả là lý tưởng sống, lý tưởng sẵn sàng hi sinh bản
thân vì độc lập, tự do của dân tộc. Có người mẹ nào mà lại không thương đứa con
mình dứt ruột đẻ ra nhưng tình yêu đối với Tổ quốc, đối với nhân dân còn lớn hơn
tình thương yêu con ở một người phụ nữ. Xuân Quý hiểu điều đó, những giờ phút
ngắn ngủi được ở bên con là những lúc chị cảm thấy hạnh phúc nhất: “Thích quá.
Buổi chiều Ly chỉ gọi mẹ khi nào mẹ bảo: “Gọi mẹ đi” thì Ly nũng nịu:
“Mi…ẹ…ẹ”. Ôi, mình không sao quên đƣợc cái giọng thƣơng yêu ấy của con (…).
Gió lộng, mình thủng thẳng dắt Ly di dạo trên đê. Những phút ấy sao mà êm đềm
và hạnh phúc thế” (Nhật ký ngày 10/4/1968). Nhưng Xuân Quý phải lên đường
theo tiếng gọi của Tổ quốc và với chị đó cũng là một niềm hạnh phúc vô cùng lớn
lao: “Thế là cuộc hành quân vĩ đại của mình thực sự bắt đầu, sau những ngày
chuẩn bị ráo riết. Nếu không thực sự khoác ba lô thì mình không thể thấm thía
một cách sâu sắc những trang bị đầy đủ của Đảng đối với từng ngƣời, mà những
ngƣời nhƣ mình thì có là cái gì đâu. Một hạt cát, một giọt nƣớc… Tất cả những
trang bị cho cuộc đời “xê dịch” đó gây cho mình một cảm giác thú vị. Mình cảm
thấy cuộc đời mình đang mở ra một giai đoạn mới. Vì vậy, giây phút lên đƣờng
chính là giây phút mình phấn khởi nhất” (Nhật ký ngày 12/4/1968). Xuân Quý
cũng biết, sự hy sinh của chị là điều vô cùng nhỏ bé giữa sự hy sinh của cả dân tộc
ta khi ấy nên chị đã ra đi một cách thanh thản mà không để cho điều gì khiến chị
phải day dứt hay quyến luyến. Bởi chị hiểu, sự xa rời con gái lúc này chính là
mang lại cho con niềm hạnh phúc mãi mãi:“Thôi chào miền Bắc thân thƣơng.
Chào Ly yêu dấu và nhiều hy sinh của mẹ. Hãy tha thứ cho mẹ con nhé. Mẹ sẽ
đem hạnh phúc tới cho con” (Nhật ký ngày 30/4/1968). Chính bé Ly đã trở thành
nguồn động viên lớn nhất đối với Xuân Quý, càng thương nhớ con bao nhiêu, chị
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
càng thấy mình phải phấn đấu và nỗ lực bấy nhiêu. Nhiều trang nhật ký chị đã
mượn lời tâm sự, trò chuyện với con để trang trải lòng mình. Có lúc, chị cũng cảm
thấy dao động trong tư tưởng vì nỗi nhớ con da diết nhưng ngay sau đó, chị lại
vững niềm tin vào con đường mà mình đã lựa chọn: “Ly ơi. Đêm qua mẹ nhớ Ly
vô hạn. Ở nhà, ai cắt móng tay cho con? Ai ngoáy tai cho con? Không ai lo tỉ mỉ
cho con gái mẹ bằng mẹ đâu. Trời ơi. Đêm qua mẹ suy nghĩ lại tất cả, và Ly ạ, lần
đầu tiên, lần đầu tiên trong chuyến đi này mẹ hối hận. Mẹ nghĩ biết thế ráng chịu
đựng mà ở lại với con… Mẹ đã có 7 năm kinh nghiệm ở báo PN rồi. Ừ, có thể nhƣ
vậy, nhƣng con ạ, mẹ sẽ bỏ lỡ một thời cơ hiếm có là đƣợc đi vào chiến trƣờng,
đƣợc tham gia và chứng kiến một sự kiện lịch sử vĩ đại mà mẹ và bố hằng ƣớc mơ.
Rồi đây, nếu nhƣ mẹ làm đƣợc việc, mẹ có một vài cuốn sách tốt chẳng hạn, thì
ngày trở ra với con, với Hà Nội, với miền Bắc yêu thƣơng của mẹ không phải là
khó. Ly ơi, mẹ hứa với con nhé, mẹ sẽ làm việc không mệt mỏi để chóng đƣợc trở
về với con. Dù thế nào mẹ cũng không bỏ viết đâu vì mẹ phải hy sinh những ngày
hạnh phúc bên con vì nghệ thuật, điều đó chính là sức mạnh phi thƣờng của mẹ,
cổ vũ mẹ mạnh mẽ đi lên” (Nhật ký ngày 8/5/1968).
So với cách ghi nhật ký của nhiều người khác, nhật ký của Dương Thị Xuân
Quý có một điều khá đặc biệt: Chị thường ghi rõ địa danh nơi chị đang dừng chân
ngay sau ngày ghi nhật ký, thậm chí có lúc chị còn ghi rõ từng giờ, phút mà chị
ghi nhật ký. Điều ấy chứng tỏ, Xuân Qúy rất coi trọng công việc ghi chép nhật ký
hàng ngày. Do đó, chúng ta có thể dễ dàng dõi theo từng bước chân của chị trong
cuộc hành trình đi công tác đây đó: “12 – 4 - 1968, Lạc Sơn, Hoà Bình, 10g30
sáng”, “14 – 4 – 1968, Nhƣ Xuân, Thanh Hoá, 3g chiều”, “19 - 4 – 1968, xã
Hƣơng Xuân, Hƣơng Khê, Hà Tĩnh, 9g45 sáng”,… Vì rất coi trọng việc viết nhật
ký như vậy cho nên, những điều được Xuân Quý ghi chép lại trong nhật ký của chị
đều có tính trung thực cao, đảm bảo chính xác những điều đã xảy ra trong đời
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống thực tế mà chị được trải nghiệm: “Sáng nay đơn vị bộ đội đi trƣớc mình cũng
có một cậu ngƣời Hải Dƣơng đào ngũ (…). Đơn vị tìm mãi, loay hoay mãi, sau
phải cử 7 đồng chí ở lại tìm nên mới xuất phát chậm và mới xảy ra thƣơng vong.
Nếu đơn vị ấy không có kẻ chạy trốn thì thƣơng vong sẽ đến với đoàn của trƣờng
105 mình. Lác đác đơn vị nào cũng có ngƣời đào ngũ” (Nhật ký ngày 29/4/1968).
Xuân Quý cũng thể hiện rõ thái độ khinh thường những kẻ hèn nhát, những kẻ
ham sống sợ chết như thế: “Lên Ban chỉ huy trạm, gặp 3 lính đào ngũ (…). Cả ba
là đảng viên, trong đó có một lão là thƣợng sĩ. Cuộc sống đúng là một sự sàng lọc
ghê gớm. Chặng nào cũng thấy lính đào ngũ. Họ sợ chết, sợ gian khổ nhƣng họ
không nghĩ rằng khi rời bỏ hàng ngũ tức là họ đã đi vào chỗ chết” (Nhật ký ngày
30/4/1968). Cũng có thể, chị không phải là lớp người “nhận đường”, “tìm đường”,
cũng có thể chị không phải là Đảng viên nên chị mới dám mạnh bạo ghi lại những
hiện thực không đáng xảy ra như thế.
Chiến tranh đâu chỉ mang đến sự tàn phá, chiến tranh còn mang đến cho sự
sống của con người biết bao khó khăn và thiếu thốn. Trong cái khó khăn ấy, con
người còn đánh mất cả tính trung thực, đánh mất cả nhân cách: “Đến lúc khó
khăn, các bộ phận trở nên lừa đảo lẫn nhau. Ban phân phối cho GD 100kg gạo,
Văn Nghệ 100kg gạo. Nhƣng GD lờ đi, lấy tất cả 200kg mà không cho Văn Nghệ.
Rồi cƣời cƣời: “Nghe không rõ… Nghe nhầm…”. Làng Kinh (Ban Kinh Tế Khu –
BMQ) lại mới phân cho toàn Liên gia 17 (Ban Tuyên Huấn Khu – BMQ) 700kg
phiếu gạo nhƣng bên văn phòng giữ lại cả, Tiểu Ban Văn Nghệ chẳng có” (Nhật
ký ngày 3/8/1968). Càng đi sâu vào thực tế cuộc sống chiến tranh, Xuân Qúy càng
phát hiện được thêm nhiều sự thực. Có những sự thực khiến con người ta phải khổ
tâm và đau lòng vô cùng. Chị nói đến những cái chết đáng tiếc đã xảy ra đối với
những con người đã sẵn sàng đón nhận sự hy sinh mà lại không được công nhận
như một sự hy sinh thoả đáng. Đó là những con người cũng tình nguyện ra trận,
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đối mặt với kẻ thù, với bom đạn nhưng họ không chết vì bom đạn mà vô tình chết
vì bệnh tật, vì đau ốm. Không có cái gì chứng nhận rằng họ đã hy sinh cuộc đời
mình vì độc lập, tự do của đất nước, chỉ có bạn bè và đồng nghiệp thừa nhận sự hy
sinh của họ trong tiếc thương và đau buồn: “Anh Điều đi sau bị ngất và chết.
Thằng Tạo (ở văn phòng Ban) đi từ A7 sang đây thấy một ngƣời đeo ba lô đội mũ
ngồi bệt, hai chân ngâm dƣới suối (nƣớc tới đầu gối). Tạo lật mũ lên nhận ra ông
Điều đã chết. Kinh khủng quá. Giá có ngƣời xoa bóp ngay thì anh ấy không chết.
Anh Tiến đã có lần bị vậy mà cứu đƣợc. Chỉ tại đi một mình (…). Ở miền Nam
không phải chỉ chết vì bom đạn mà còn chết vì bênh tật. Anh Quý (quản lý Ban
mình) cũng mới chết vì một thứ cầu trùng gậm nhấm trong những cơn sốt rét vặt.
Mƣa, nƣớc to, không kịp đƣa đi cấp cứu, thế là chết” (Nhật ký ngày 4/11/1968).
Thế nhưng, Xuân Quý lại cảm thấy yêu thương mảnh đất mà chị đang ngày
đêm được chứng kiến sự tàn khốc của bom đạn dội xuống không ngớt: “Thế đấy,
mảnh đất mà mình đang sống nó giống hệt nhƣ con ngƣời mình: vất vả, cực nhọc.
Mình sung sƣớng đƣợc có mặt ở đây đúng vào giai đoạn gay go quyết liệt nhất
của cuộc chiến đấu. Mình sung sƣớng đƣợc chịu đựng và vƣợt qua tất cả gian khổ
vì đã gặp một mảnh đất đồng điệu với tâm hồn mình” (Nhật ký ngày 30/7/1968).
Trên mảnh đất ấy, Xuân Quý đã được gặp lại người chồng (nhà thơ Bùi Minh
Quốc) thân yêu sau hơn một năm xa cách; trên mảnh đất ấy, chị đã được sống giữa
tình yêu thương và che chở của những người đồng chí, đồng nghiệp; trên mảnh đất
ấy, chị đã thực hiện được mơ ước của mình “là ngƣời lính chính thức của Tiểu
Ban Văn Nghệ. Hôm nay, ngày thứ nhất của cuộc đời mới” (Nhật ký ngày
9/8/1968). Được sống trên mảnh đất đau thương ấy, chị mới thật sự quên đi mọi
nỗi dày vò, quên đi mọi sự khó khăn, gian khổ: “Thật kỳ lạ quá đỗi. Những lúc
này mình thấy yêu đời quá và sự ra đi của mình nó lý thú quá. Dù sự ra đi ấy mình
có phải trả một giá rất đắt, thậm chí phải hy sinh, phải đau đớn” (Nhật ký ngày
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27/8/1968). Niềm tin tưởng vào sự sống đang dần dần trỗi dậy giữa sự tàn phá và
cái chết đã tiếp thêm sức mạnh, tiếp thêm nghị lực cho Xuân Quý: “Đáng sợ nhất
là lòng ta nguội lạnh, chính ta tự huỷ nhựa sống trong ta. Còn nếu ta vẫn nguyên
vẹn nhiệt tình và sức sống thì không một thế lực nào, một sự tàn phá nào, một khó
khăn nào khiến ta chùn bƣớc, khiến ta gục ngã” (Nhật ký ngày 4/11/1968). Đành
rằng Xuân Quý là một người phụ nữ có nhiều lúc yếu đuối trước tình mẫu tử sâu
nặng nhưng đối với chị, cái lớn lao hơn cả là tình yêu đối với Tổ quốc, đối với
nhân dân. Điều đó đã giúp cho chị vượt qua được tất cả mọi khúc mắc trong tâm
hồn:“Sống giữa không khí mặt trận đầy nguy hiểm nhƣng cảm giác của mình là
say mê và thú vị. Lạ thế. Biết là nguy hiểm lắm nhƣng sẵn sàng lao vào, dù có hi
sinh. Đời ngƣời ai chả chết. Dĩ nhiên mình có nghĩ đến đau khổ của anh và Ly
(…). Nhƣng mình quyết tâm và mình nghĩ thế này: Dù có chết thì cũng nhƣ bao
ngƣời đã chết thôi. Nghĩ vậy, không thấy sợ nữa” (Nhật ký ngày 15/12/1968). Đâu
phải chỉ riêng Xuân Quý mới có những suy nghĩ như thế, bên cạnh chị còn có biết
bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam khác cùng chung suy nghĩ và hành động giống
như chị. Dường như, các chị sống để mà sẵn sàng đón nhận sự hy sinh vì một lý
tưởng cao cả và thiêng liêng hơn thế. Đó là khát vọng giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Nguyễn Minh Châu thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến
chống Pháp. Nhưng phải đến những năm kháng chiến chống Mỹ, ông mới thật sự
khẳng định được tên tuổi và tài năng của mình. Bản thân Nguyễn Minh Châu tham
dự vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với hai tư cách: Tư cách một người lính và tư
cách của một nhà văn. Trong số những nhà văn viết nhật ký thì có lẽ ghi chép của
Nguyễn Minh Châu được coi là cẩn thận và tỉ mỉ nhất. Dường như Nguyễn Minh
Châu cóp nhặt tất cả những sự kiện, sự việc của hiện thực mà ông được chứng
kiến và tham gia sau đó lưu giữ lại làm tư liệu cho các sáng tác văn học của ông.
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Có nhiều đoạn là những ghi chép tản mạn không đề ngày tháng nhưng chúng ta
cũng nhận thấy rất rõ những ghi chép đó đã phôi thai cho một tác phẩm của ông ra
đời: “Sự độ lƣợng mà ngƣời trên đối với kẻ dƣới cũng là quý nhƣng không quý
bằng lòng độ lƣợng của một kẻ dƣới đối với ngƣời trên. Đây là sự độ lƣợng của
một ngƣời bình thƣờng nhất. Anh là chiến sĩ số 6 của một khẩu đội pháo. Bị
thƣơng, nằm ở quân y ngƣời ta định đƣa anh về tuyến sau. May có chính uỷ E
cũng nằm ở đấy. Chính uỷ viết giấy cho bác sĩ đề nghị cho anh về an dƣỡng ở đơn
vị. Kể chuyện C2, cái đơn vị của mình, với tất cả sự trân trọng và ý tứ cho một nhà
báo. Rất yêu mẹ, muốn gửi về cho mẹ một cái ảnh mà không chụp đƣợc. Tôi định
vẽ anh ta. Anh ta đến chơi với chúng tôi ở lán bác sĩ đến tận khuya, rụt rè muốn
nhờ hoạ sĩ vẽ nhƣng không dám. Hôm sau vô tình hoạ sĩ nhờ anh ta đứng làm mẫu
và vẽ một cái sau đó cất đi và đem đi…” [4, tr.66]. Đây chính là những tư liệu quý
giá để sau này truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu đến được với bạn
đọc và được bạn đọc rất yêu thích. Nguyễn Minh Châu trực tiếp tham gia vào
nhiều trận đánh bởi ông là một người lính và còn bởi ông muốn sưu tầm tư liệu
cho tác phẩm của mình. Trong ghi chép ngày 24/2/1968, tác giả đã ghi chép tỉ mỉ
những trận đánh mà ông được nghe kể lại:
“1 giờ sáng gặp địch. Trời rét. Thấy vết lƣớt cỏ, bò lên cách địch 5m thấy
chúng đang ăn cơm. Trời rét địch đội mũ cụp tai nên chúng không biết. Lệ nổ
súng, tiêu diệt sáu Mỹ.
Diệt hai máy bay ở Tà Cơn: năm ngƣời, Lƣ phụ trách, 7 giờ tiến đến hàng
rào. Địch đón quân tập trung ở sân bay rất đông. Toàn tổ vào hàng rào. Một
thằng địch xồng xộc ra nhƣng không phát hiện đƣợc ta. Đặt năm quả mìn địch
hƣớng vào năm máy bay. Diệt hai chiếc.
Đồi 832: bắt tù binh. Trinh sát đang nằm trong hầm, sƣớng. Thấy hai trinh
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sát đi xác định kết quả bắn hom trƣớc, quay về báo có Mỹ lên 832. Diệt 64 Mỹ.
Đánh làng Vây: Biệt kích nguỵ do căn cứ Đà Nẵng chỉ huy. Định ngày 13
nhƣng trăng sáng quá đặc công khó vào. Điện xin lùi lại 10 ngày, cả ngày ăn cơm
nắm uống nƣớc bi đông. 7 giờ tối vƣợt qua sông Xêpôn đến chân hàng rào 11 giờ.
Quyết đinh nổ súng chậm lại một tiếng: 2 giờ sáng. Đến chân hàng rào địch báo
động, các loại súng bắn thẳng bắn ran lên: Địch tập. Ta nổ súng địch bị động
hoàn toàn. Mũi phía Tây có hai thằng Quảng Nam gác trên lôcốt. Khi ta nổ súng
nó nằm im, chỉ huy bảo: Khải, mày lên phá khẩu trung liên trên chòi. Khải vừa lên
thì nó nhảy ra xin hàng. Bắt hai thằng về…” [4, tr.99 - 100].
Toàn bộ những ghi chép tưởng chừng như rất tản mạn của Nguyễn Minh
Châu lại là những tư liệu văn học quý giá không chỉ đối với bản thân ông mà còn
có ý nghĩa đối với những ai nghiên cứu về văn học chiến tranh nói chung.
Người viết nhật ký không chuyên trong giai đoạn này xuất hiện nhiều hơn
trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Bởi lực lượng chủ đạo trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ không chỉ có quần chúng nhân dân lao động mà có cả
một lực lượng trí thức đông đảo: Học sinh, sinh viên, bác sĩ, giáo viên, hoạ sĩ,
nhạc sĩ,… Nên nhật ký của họ rất gần với nhật ký của các cây bút chuyên nghiệp,
có điều vẫn có phần “hồn nhiên” hơn, cảm xúc cá nhân đậm nét hơn so với nhật
ký của các nhà văn chuyên nghiệp: Nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm, nhật ký của
Nguyễn Văn Thạc, nhật ký của Hoàng Thượng Lân, nhật ký của Vũ Xuân, nhật ký
của Phạm Thiết Kế, nhật ký của Nguyễn Văn Giá,…
Cuốn nhật ký Đƣờng về của liệt sĩ sỹ quan đặc công Phạm Thiết Kế được viết
từ ngày 29/8/1967 đến ngày 22/12/1969. Phạm Thiết Kế vốn là một người lính
trong kháng chiến chống Pháp. Anh vào bộ đội năm 1953 đến năm 1954 tập kết ra
Bắc. Sau đó anh học trường Sỹ quan Lục quân và được phong quân hàm thiếu uý
vào năm 1963. Ngày 29/8/1967, anh từ biệt vợ con lên đường vào Nam chiến đấu.
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Anh hy sinh tại mặt trận Tây Nguyên vào ngày 6/6/1970. Những dòng chữ trong
cuốn nhật ký là tất cả tâm tư và suy nghĩ của Thiết Kế gửi vào trong đó. Là một
Chính trị viên phó Tiểu đoàn Ba thuộc Quân đoàn Ba, Phạm Thiết Kế là một
người lính rất gương mẫu: Hai lần anh được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, hai
lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt cơ giới, một lần được tặng danh hiệu Chiến
sĩ thi đua của Tiểu đoàn Ba. Xuyên suốt cuốn nhật ký là lòng tin tưởng tuyệt đối
của Thiết Kế vào con đường mà anh đã lựa chọn - Sẵn sàng hy sinh bản thân mình
vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì mục tiêu thống nhất đất nước. Đọc từ những
dòng chữ đầu tiên của cuốn nhật ký Đƣờng về cho đến khi khép cuốn nhật ký lại,
ấn tượng tốt đẹp nhất mà Phạm Thiết Kế để lại trong lòng người đọc có lẽ là hình
ảnh của một người lính chưa bao biết lùi bước trước kẻ thù, trước mọi khó khăn
gian khổ. Trong nhật ký của anh, chúng ta thấy, chưa một lần Thiết Kế tỏ thái độ
bi quan chán nản hay buồn bã về điều gì. Lúc nào anh cũng khẳng định dứt khoát
tinh thần phải tấn công của một người lính trước kẻ thù. Tình thương yêu của
Phạm Thiết Kế đối với những người thân trong gia đình luôn gắn liền với tình yêu
đất nước, tình thương đối với đồng đội:
“29-8-1967 Xuất phát
17h30 hôm nay đoàn mình bắt đầu xuất phát từ đất Bắc XHCN. Trời nắng
chói chang nhƣng lòng mọi ngƣời rất phấn khởi tin tƣởng (…). Nói chung những
ngƣời lính Cụ Hồ ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng, của Bác là nhƣ vậy.
Lòng họ mang nặng thù nhà nợ nƣớc, họ ra đi với lý tƣởng cao cả của mình – Vì
sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc ”,
“2-10-1967. Tiếp tục hành quân bộ 25km
… Đƣờng sá thật là nguy hiểm, toàn đá tai mèo, có chỗ chúng mình phải đi 4
chân đấy, nom bộ đội đi mà mình vừa buồn cƣời vừa thƣơng hại pha lẫn tự hào
nữa. Không tự hào sao đƣợc chứ, có thể nói rằng chỉ có những chiến sỹ cán bộ
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quân đội nhân dân chân đồng vai sắt mới đặt những bƣớc chân tự hào đến nơi
đây. Những bƣớc chân quyết thắng để bắt sông phải nhƣờng bƣớc, bắt núi phải
cúi đầu. Đến hôm nay ta có thể nói rằng chân ta đã dẻo vai ta đã bền, ý chí ta
càng cứng rắn hơn. Giôn-xơn và bè lũ tay sai hiểu làm sao nổi cái sức mạnh tiềm
tàng dời non lấp biển này. Chính vì chúng không hiểu nổi điều đó nên chúng đã
thua và nhất định sẽ thua hoàn toàn”.
“Cây Lim giữa rừng Trƣờng Sơn bất khuất” – Anh tự ví mình như vậy - luôn
luôn tự hào về những gì anh, đồng đội của anh và cả dân tộc Việt Nam đã làm nên
trước một tên đế quốc sừng sỏ nhất: “Tự hào biết bao khi một lần nữa dân tộc Việt
Nam ta đã thắng một tên hung bạo của thế kỷ 20” (Nhật ký ngày 3/11/1968). Có
lẽ, chúng ta ít thấy một người chồng, một người cha nào lại mượn lời tâm sự với
người vợ, với con trai để nói lên suy nghĩ của mình như Phạm Thiết Kế: “4-5-
1968… Dung và Hồng Sơn thân Yêu!”, “22-12-1968 Hồng Sơn yêu quý của ba”, ,
“8-8-1969… Dung em và hai con thƣơng yêu!”,… Phạm Thiết Kế đã coi nhật ký
như một người bạn đồng hành thân thiết để anh chia sẻ, trò chuyện nên những điều
anh tâm sự với nhật ký là những điều xuất phát từ tấm lòng chân thành của anh, từ
tình yêu tha thiết của anh đối với đất nước. Ngay đến cả những dòng chữ cuối
cùng của cuốn nhật ký, Thiết Kế vẫn luôn nêu cao quyết tâm chiến đấu đến cùng
với giặc Mỹ xâm lược: “Mình định tâm sự nhiều với “Nhật ký” nhƣng bây giờ
mình bận quá, công việc cứ rối bù lên, vậy cậu thông cảm cho mình nhé. Cậu hãy
tin ở Thiết Kế này sẽ không bao giờ phản bội cậu. Thiết Kế sẽ mãi mãi xứng đáng
là đứa con xứ Quảng Nam “trung dũng kiên cƣờng – đi đầu diệt Mỹ”, xứng đáng
là một cán bộ của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng./.
Hẹn gặp lại cậu ngày chiến thắng” (Nhật ký ngày 22/12/1969)
Khép những trang nhật ký của Phạm Thiết Kế lại, chúng ta không biết nói gì
hơn nữa bởi Phó giáo sư - Tiến sĩ Đào Huy Quát đã giúp chúng ta thể hiện lòng
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm phục và ngưỡng mộ đối với anh rồi: “Phạm Thiết Kế là hình ảnh của một lớp
cán bộ sĩ quan quân đội mang trái tim nóng bỏng tình yêu Tổ quốc, quê hƣơng,
gia đình. Ngồn ngộn trên những trang viết của anh là ý thức trách nhiệm lớn lao
của một ngƣời cán bộ chính trị đối với sự sống còn của đồng đội và vận mệnh của
Tổ quốc” [21.tr.8].
Nhà văn Chu Lai có cảm tình đặc biệt với một liệt sỹ mà ông cho rằng: “Anh
là một trong những giai điệu làm nên bản tổng phổ hoành tráng về cuộc chiến
tranh vệ quốc thần thánh vĩ đại nhất thế kỷ hai mƣơi đó” [8, tr.6]. Người liệt sỹ đó
chính là phóng viên quay phim Nguyễn Văn Giá. Di sản Nguyễn Văn Giá để lại
trước lúc anh hy sinh không phải chỉ có nhật ký mà còn có cả thư từ, một số bài
báo, những thước phim về chiến trường và hai cuộn phim chụp đã có hình về
người dân ở thôn Nga Mân - Đức Phổ - Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị
giặc bắn thủng vào đúng lúc chúng bắn anh hy sinh. Những cuộn phim đó của anh
đã được các nhiếp ảnh người Mỹ rửa tráng để nhận dạng người của ta đang ở
trong thôn Nga Mân. Sau này chiếc máy ảnh Canon cùng với năm mươi tấm hình
trong ảnh đã được Fredric Whitehurst - một sĩ quan quân báo Mỹ lúc đó mang về
Mỹ cùng với hai cuốn nhật ký của liệt sỹ Đặng Thuỳ Trâm. Những trang nhật ký
của Nguyễn Văn Giá có nội dung rất vắn tắt. Nhật ký của anh thiên về việc bày tỏ
những suy nghĩ của anh đối với công việc quay phim mà anh đang làm hơn là thể
hiện những tình cảm riêng tư trong đó. Dường như, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào
anh cũng nghĩ đến công việc: “Đêm trằn trọc suy nghĩ miên man không tài nào
ngủ đƣợc. Trong khi đó mọi ngƣời đều thở nhẹ và đi vào cõi tiên. Tự nhiên bật
đƣợc vấn đề thế là dậy viết cho xong, sáng mai chỉ còn viết lại” (Nhật ký ngày
17/3/1970). Sau nhiều năm có mặt liên tục ở các chiến trường ác liệt nhất, sức
khoẻ của anh bị giảm sút, cấp trên cho anh ra Bắc để chữa bệnh nhưng anh xin ở
lại vì anh thấy mình chưa quay được bộ phim nào ưng ý. Anh xung phong vào
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến trường Quảng Ngãi với mong ước: “Bộ phim xứng đáng phải có những
thƣớc phim đối mặt với quân thù. Muốn vậy phải xuống đồng bằng, nơi chiến
trƣờng đang diễn ra ác liệt” [8, tr.8]. Và anh đã xin được xuống Phổ Cường thuộc
huyện Đức Phổ. Tại đây, anh đã được chứng kiến cảnh lính Mỹ giết hại những
người dân vô tội một cách vô cùng dã man, tàn ác: “Trƣa nay lại có tiếng súng và
bom ở cách đây không xa. Tụi Mỹ nó bảo nó văn minh mà thực ra thì ngu đần. Nó
quá man rợ. Tàn ác hơn cả bọn Hítle và man rợ hơn loài hổ báo. Ngoài việc bắn
giết còn nhiều trò man rợ đến bầm gan tím ruột, đến hờn căm. Mình mong quay
đƣợc hình ảnh đó. Hình ảnh một phụ nữ Quảng Nam cho con bú, bốn thằng Mỹ
bâu lại, giằng con chị ra, rồi bốn thằng thay nhau bú dòng sữa đó, dòng sữa mẹ
chỉ dành cho đứa con yêu quý thế mà nó cƣớp mất rồi hãm hiếp ngƣời mẹ cho đến
chết… Thật là quân đểu cáng, tàn bạo hơn cả loài vật” (Nhật ký ngày 5/4/1970).
Nếu không bám sát hiện thực thì làm sao Nguyễn Văn Giá được tận mắt chứng
kiến cảnh tượng hãi hùng như thế, một cảnh tượng mà có lẽ không ai có thể hình
dung ra nổi. Mặc dù, Nguyễn Văn Giá không trực tiếp quay được cảnh tượng này
nhưng những dòng nhật ký trung thực của anh chính là những thước phim sống
động và chân thực nhất đã tái hiện tội ác dã man của lính Mỹ khi đó. Trang nhật
ký góp phần vào bản cáo trạng tố cáo tội ác mà quân đội Mỹ đã gây ra cho nhân
dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Trong số những cuốn nhật ký chiến tranh được xuất bản có một cuốn nhật ký
của liệt sỹ Vũ Xuân - một trong số những người con ưu tú của quê hương Thái
Nguyên những năm chống Mỹ cứu nước. Vũ Xuân sinh năm 1946, lên đường
nhập ngũ năm 1963, anh được kết nạp vào Đảng năm 1964. Viết nhật ký cũng là
mong muốn của Vũ Xuân bởi anh cho rằng: “Lật trang đầu cho một cuốn nhật ký
mới. Ghi tiếp vào đây những chặng đƣờng của cuộc sống. Lƣu lại trong đây
những tâm tình và những nghĩ suy có sức nặng, có chiều sâu để mỗi ngày sống
75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mỗi tốt hơn. Có ý nghĩa hơn” (Nhật ký ngày 20/4/1969). Vậy là Vũ Xuân coi nhật
ký như một chiếc gương để hàng ngày anh soi mình vào đó mà tự nhìn nhận và
đánh giá về con người mình, kiểm điểm lại những gì mà bản thân mình đã làm.
Được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng, Vũ Xuân hiểu rõ trách nhiệm của
thế hệ mình đối với vận mệnh của đất nước, đối với các thế hệ sau này: “Bàn giao
nguyên vẹn cái cơ đồ cái giang sơn Việt Nam cho thế hệ tƣơng lai chính là trách
nhiệm của chúng mình, của thế hệ những thanh niên đang sống và chiến đấu
chống Mỹ này. Không thể kéo dài và dây dƣa đến bao giờ nữa. “Máu chúng ta đã
đổ nhiều rồi chúng ta không thể nào ngồi yên”” (Nhật ký ngày 1/5/1969). Do đó,
anh luôn xác định một cách nghiêm túc trách nhiệm của người Đảng viên trong
việc ổn định tư tưởng và phương hướng hành động cho những người lính mới vào
mặt trận. Xác định đúng đắn điều đó nên đọc nhật ký của Vũ Xuân, chúng ta ít
thấy những phút giây anh nản lòng hay dao động bởi điều gì. Lúc nào, anh cũng
vững vàng tư tưởng, sẵn sàng chiến đấu với kẻ thù. Đối với anh, được trực tiếp
chiến đấu với kẻ thù là niềm vui sướng nhất trong cuộc đời của người lính: “Đời
anh bộ đội là thế, lấy giết giặc làm sinh thú của đời mình, khoái làm sao khi đƣợc
thấy trong chớp loé của viên đạn đại bác chúng tay mình giật có nổ tung bay lên
những xác giặc ngổn ngang, rồi những chiếc trực thăng phành phạch hạ xuống
chở xác đồng bọn. Khoái làm sao và hả dạ làm sao khi chính mình chứ không
phải ai khác đƣợc chút bão lửa xuống đồn thù” (Nhật ký ngày 25/5/1969). Vũ
Xuân còn coi việc đánh giặc là lẽ sống của đời anh: “Giờ đây còn giặc thì đánh là
lẽ sống của đời ta vì dân trao cho ta khẩu súng và xếp đặt ta trong đội ngũ vũ
trang, điều đó quá rõ ràng.” (Nhật ký ngày 12/11/1972). Anh đã nguyện hiến
dâng cả cuộc đời mình cho quê hương đất nước mà không gì có thể khiến anh băn
khoăn hay day dứt: “Tất cả đời ta, tất cả sức ta đã nguyện hiến dâng cho sự
nghiệp này, cho dải đất này. Một đời ngƣời bình dị nhƣ bao cuộc đời khác, khi
76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cần thiết ta cũng sẽ nằm xuống bồi đắp cho mảnh đất này thêm màu mỡ” (Nhật ký
ngày 19/9/1972). Bởi anh luôn tâm niệm: “Tôi chỉ muốn một câu nói đƣợc vang
lên bên tai những thế hệ sau là “đừng làm hoen ố máu của những ngƣời đi trƣớc –
hãy giữ lấy mảnh đất vô giá này”” (Nhật ký ngày 3/9/1972). Đây cũng chính là
bức thông điệp mà Vũ Xuân đã thay mặt thế hệ các anh gửi tới thế hệ trẻ ngày
nay.
Có một cuốn nhật ký đã để lại trong lòng người đọc nhiều xúc động bởi tấm
gương anh dũng của tác giả cuốn nhật ký đáng để cho các thế hệ trẻ sau này noi
theo. Cuộc đời anh là “một cuộc đời huyền thoại” và anh được coi là “một người
lính tài hoa” (Đặng Vương Hưng). Anh là liệt sỹ Hoàng Thượng Lân. Hoàng
Thượng Lân là một người tài hoa, anh chơi thành thạo nhiều loại nhạc cụ: ghi ta,
sáo, kèn acmônica,… đã từng đoạt nhiều giải thưởng trong cuộc thi vẽ tranh quốc
tế được tổ chức tại Ấn Độ và Ba Lan. Trước khi xung phong vào bộ đội tháng 7
năm 1967, anh là sinh viên Trường Mỹ thuật Hà Nội. Hoàng Thượng Lân rất coi
trọng việc ghi nhật ký bởi anh tôn trọng sự thật và anh muốn sự thật phải được lưu
giữ lại đúng như nó đã diễn ra: “Mình không có chủ ý phóng đại tô màu nhƣng sự
thật là nhƣ thế. Sự thật ở đây, mình vẫn còn chƣa đủ lời để diễn tả cho ngƣời ta
hiểu đƣợc cái khốc liệt, cái dũng cảm quyết tử của mỗi con ngƣời sống bám lấy
mảnh đất chiến đấu này! Mình tôn trọng sự thật. Giả dụ là một nhà văn có nhiều
khả năng hƣ cấu thì đến đây, anh ta cũng khó lòng mà hƣ cấu đƣợc hơn nữa. Bởi
vì thực tế đã thần kỳ, đã vĩ đại quá rồi!” (Nhật ký ngày 5/2/1968). Vì vậy, chọn
lựa ghi nhật ký là cách tốt nhất để Hoàng Thượng Lân lưu giữ hiện thực. Không
chỉ có vậy, Thượng Lân viết nhật ký còn vì một lý do khác nữa như anh đã tâm sự
với cha mẹ mình: “Cái chết đến nhanh và bất ngờ vô cùng, không làm sao mà có
thể biết nó sẽ đến lúc nào cả. Ở đây, những ngày căng thẳng nhất, con đã viết
nhật ký vào một tập pôluya gấp nhỏ. Con muốn kể lại những gì con đã thấy,
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những cảm nghĩ và lòng quyết tâm chiến đấu của con đến hơi thở cuối cùng. Cũng
là bản “di chúc” dặn dò, nếu nhỡ con có hy sinh, ngƣời ta sẽ gửi ra cho ba mẹ”
(Nhật ký ngày 22/4/1968). Thượng Lân ghi chép vào mọi lúc, mọi nơi mà anh có
thể ghi chép được: “Ghi nhật ký có thể bất cứ lúc nào: sáng sớm khi mới dậy,
tranh thủ khi trời sắp tối, một giờ chờ đợi qua đò. Đêm viết qua ánh đèn pin giấu
trong vạt áo… Có nhƣ vậy, nhật ký mới duy trì đƣợc. Đây là sự chịu khó kiên
nhẫn của mình. Nếu không, nó dễ bị bỏ bê” (Nhật ký ngày 21/1/1968). Qua những
lời tâm sự của Hoàng Thượng Lân, chúng ta hiểu rằng, anh không đã bỏ qua một
sự thật nào mà anh được chứng kiến, tất cả đều được anh ghi lại trong nhật ký của
mình. Lần đầu tiên anh ra trận, anh sợ nhìn thấy cái chết của đồng đội, sợ máu
chảy, sợ tiếng đạn, tiếng pháo như thế nào, anh cũng ghi lại cho cha mẹ biết: “Ba
mẹ ạ. Thú thật, ngày đầu con đã hoảng sợ một cách ghê gớm khi thấy đồng chí Du
nằm chết, đầu óc vỡ toang” (Nhật ký ngày 22/4/1968), “Làm sao quên đƣợc nỗi
hoảng sợ của con khi buổi đầu nghe ca nông trên đầu bắn tới, pháo từ các cao
điểm dội về, xoèn xoẹt bay tới, nổ trƣớc mặt, mảnh bay véo qua tai (…). Làm sao
mà quên đƣợc cái ngày chính tự tay con đi lấy xác đồng đội. Đồng chí đó bị một
quả pháo rót trúng ngay vào hầm, bị vùi lấp hết, còn hở hai cái chân. Máu của
ngƣời chết dính cả vào quần áo con, một mùi tanh không bao giờ quên vị nó đƣợc.
Chiều đó, nghĩ đến lúc đào tử sĩ, con không nuốt nổi cơm, ngƣời run nhƣ sốt rét”
(Nhật ký ngày 1/5/1968). Trong trận đánh ngày 5/3/1968, anh đã bị mất một ngón
tay nhưng anh vẫn kiên trì rèn luyện để có thể cầm được bút viết và vẽ tranh. Đầu
năm 1970, Hoàng Thượng Lân được phép ra Bắc an dưỡng, lúc này anh được
nhiều cơ quan đón nhận anh đến công tác nhưng anh đều từ chối. Tháng 4 năm
1971, Hoàng Thượng Lân đã khiến cho mọi người phải bất ngờ và ngạc nhiên bởi
anh quyết định vượt Trường Sơn vào chiến trường Nam bộ một lần nữa. Lần đi
này, anh đã ghi chép được nhiều và có thời gian sáng tác văn học. Tháng 10 năm
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1971, trong một lần vượt sông Xê Băng Hiên đi làm nhiệm vụ, Hoàng Thượng
Lân đã bị một loạt bom B52 của kẻ thù trút vào người, anh hy sinh, tập bản thảo
anh định gửi ra Hà Nội cũng đã bị đánh tan lẫn vào dòng nước. Tấm gương sống,
chiến đấu và hy sinh của Hoàng Thượng Lân đã để lại trong lòng người đọc nhiều
điều xúc động xen lẫn niềm cảm phục sâu sắc.
Chúng ta vừa điểm qua một số tập nhật ký của cây bút chuyên nghiệp và của
cả những người viết không chuyên. Mỗi cuốn nhật ký đều có một số phận riêng,
đều có những đặc điểm riêng. Dường như, chúng ta không thấy sự lặp lại ở cuốn
nhật ký nào. Nhưng có điều chắc chắn mà ai cũng phải thừa nhận sau khi đọc
xong những cuốn nhật ký này, đó là sự thật mà những cuốn nhật ký đã ghi lại một
cách trung thực đã từng xảy ra và tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhiều đau
thương nhưng vô cùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có quyền tự hào về
dân tộc mình, về những người con ưu tú đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho Tổ
quốc mãi quang vinh. Mỗi cuốn nhật ký ấy đều là những nguồn tư liệu quý giá về
lịch sử của dân tộc ta trong công cuộc chống quân xâm lược. Thế hệ trẻ ngày nay
cần nâng niu và bảo tồn những tư liệu quý giá này như gìn giữ những báu vật mà
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lịch sử đã ban tặng cho loài người.
Chƣơng 3:
BA MƢƠI NĂM SAU KHI CHIẾN TRANH KẾT THÚC
VÀ SỰ BÙNG PHÁT CỦA NHẬT KÝ QUA HAI SỰ KIỆN
NGUYỄN VĂN THẠC, ĐẶNG THUỲ TRÂM.
3.1. Chung quanh Mãi mãi tuổi hai mươi
Mãi mãi tuổi hai mƣơi là cuốn nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc mang tên
Chuyện đời, gồm 240 trang chép tay. Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng
Bưởi, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công với nghề dệt áo len và áo sợi. Trong
kháng chiến chống Mỹ, gia đình Thạc sơ tán về quê tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ
Liêm, Hà Nội. Từ khi chuyển về quê, do bố mẹ Thạc không có việc làm, lại đông
con nên gia đình Thạc sống trong cảnh nghèo khó. Mặc dù sống trong hoàn cảnh
gia đình như vậy nhưng Nguyễn Văn Thạc lại học rất giỏi. Thạc là người thông
minh, anh học giỏi đều tất cả các môn và có năng khiếu đặc biệt về môn Văn.
Năm học lớp 7, Nguyễn Văn Thạc là người đoạt giải Nhì (không có giải Nhất)
trong cuộc thi học sinh giỏi Văn thành phố Hà Nội; năm lớp 10 đoạt giải Nhất
cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc năm học 1969 – 1970. Với những thành
tích nổi bật như vậy về học tập, Nguyễn Văn Thạc được xếp vào diện đi đào tạo ở
Liên Xô. Nhưng theo chủ trương chung thời đó, phần lớn nam thanh niên ở diện
này phải ở lại đất nước để tham gia quân đội. Trong khi chờ giấy gọi nhập ngũ,
Nguyễn Văn Thạc đã thi đỗ vào Khoa Toán – Cơ, trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội với số điểm xuất sắc. Đang học năm học thứ nhất, Thạc vừa tự học để hoàn
thiện chương trình của năm học thứ hai và được nhà trường xét đặc cách học tiếp
năm thứ ba thì ngày 6 tháng 9 năm 1971, Nguyễn Văn Thạc lên đường nhập ngũ
80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội. Năm 1972, Nguyễn Văn Thạc hy
sinh tại chiến trường Quảng Trị khi chưa đầy mười tháng tuổi quân và hai mươi
tuổi đời.
Trước khi cuốn nhật ký được xuất bản, nhà thơ Đặng Vương Hưng - người
sưu tầm và giới thiệu cuốn nhật ký đã đề nghị với gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn
Thạc cho phép đổi tên cuốn nhật ký thành Mãi mãi tuổi hai mƣơi. Cuốn nhật ký
được công bố, xuất bản vào năm 2005, tức là sau ba mươi ba năm khi cuốn nhật
ký được viết (tính đến ngày cuối cùng Nguyễn Văn Thạc ghi trong nhật ký của
anh “Một ngày cuối tháng 5/72”) nhưng đã nhận được sự đón tiếp chân thành và
nồng hậu từ phía độc giả với đủ mọi lứa tuổi khác nhau, đặc biệt là của giới trẻ.
Sự xuất hiện của cuốn nhật ký đã tạo nên một hiện tượng hi hữu trên thị
trường sách Việt Nam. Ngay tại thời điểm xuất bản cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai
mƣơi (tính đến ngày 16/08/2005), theo thống kê đã bán được 100.001 cuốn.
Không phải ngẫu nhiên mà cuốn nhật ký lại tạo được sức hút mạnh mẽ như thế
đối với bạn đọc, nhất là khi, bạn đọc ngày nay là những người “khó tính” trong
việc chọn lựa sách. Điều gì từ cuốn sách đã hấp dẫn người đọc đến vậy?
Có thể nói rằng, cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi đã tạo được một ấn
tượng vô cùng tốt đẹp tới bạn đọc trong cả nước. Cuốn nhật ký thực sự đã có
những ảnh hưởng khá lớn đến đời sống tinh thần của công chúng trong một
khoảng thời gian nhất định. Mãi mãi tuổi hai mƣơi đã khiến cho những người
thuộc lứa tuổi từ trung niên trở nên có dịp được nhìn nhận lại chính bản thân mình,
đối chiếu mình qua chiếc gương quá khứ. Còn đối với các bạn trẻ ngày nay, lần
đầu tiên họ được biết một sự thật - một sự thật một trăm phần trăm về thế hệ cha
anh của họ, họ mới hiểu được cha anh mình đã sống và cống hiến như thế nào cho
đất nước, khái niệm “lý tưởng sống” mới thật sự được hiểu một cách sâu sắc và
đầy đủ nhất. Hai mươi tuổi, đối với những người thuộc thế hệ của Nguyễn Văn
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thạc dường như có độ chín hơn rất nhiều so với các bạn trẻ ngày nay. Sống trọn
vẹn trong sự kế tiếp của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế
quốc Mỹ, hơn bao giờ hết, bản thân Nguyễn Văn Thạc và những người trẻ tuổi
cùng thời với anh hiểu rõ họ phải làm gì trước sự sống còn của dân tộc. Ý thức về
trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của dân tộc hình thành một cách tự giác
trong con người họ. Khát vọng được hy sinh vì Tổ quốc đã trở thành lẽ sống và lý
tưởng sống của thế hệ thanh niên thời ấy. Hoàn cảnh chiến tranh đã tôi luyện họ,
thử thách họ để họ có được độ chín chắn và trăn trở trước những biến động lớn
của cuộc đời và của lòng người.
3.2. Chung quanh Nhật ký Đặng Thùy Trâm
So với những cuốn nhật ký chiến tranh khác, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là
một cuốn nhật ký có số phận kỳ lạ nhất trong số những cuốn nhật ký đã được công
bố. Sau một trận càn quét của quân đội Mỹ vào một bệnh viện nhỏ ở vùng quê
Đức Phổ năm 1970, Frederic Whitehurst (Fred) - nguyên là một sĩ quan quân báo
Mỹ tham gia ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1967 đến năm 1971 -
có nhiệm vụ thu thập các thông tin, tài liệu có giá trị quân sự để phân tích tình
hình, truy tìm dấu tích quân giải phóng, định hướng tập kích hay càn quét. Nhiệm
vụ đó đã khiến cho Fred có thể nhìn cận cảnh cuộc chiến tranh và chứng kiến tận
mắt những mất mát khủng khiếp - cả đối với phía Việt Nam lẫn phía Mỹ. Theo
quy định của quân đội Mỹ, mọi tài liệu thu được trên chiến trường phải chuyển lại
cho bộ phận quân báo nghiên cứu. Những lần đó, sau khi thu nhặt tài liệu, Frederic
Whitehurst chỉ giữ lại những tài liệu cần thiết, số còn lại đều đốt. Trong lúc
Frederic Whitehurst đang đốt những tài liệu loại bỏ thì thượng sĩ Nguyễn Trung
Hiếu - thông dịch viên của đơn vị - cầm một cuốn sổ nhỏ đến bên anh và nói:
“Frederic, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi”. Frederic chưa
hiểu đó là cuốn sổ gì, nhưng vẻ xúc động của Hiếu và việc Hiếu có thể kính trọng
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cả đối phương tác động rất mạnh đến ông nên Frederic Whitehurst liền bỏ cuốn sổ
vào túi. Nhiều đêm sau đó, với sự giúp đỡ phiên dịch của Nguyễn Trung Hiếu,
Fred đã cùng Trung Hiếu đã đọc hết cuốn sổ. Đó là cuốn nhật ký của một nữ Việt
Cộng – bác sĩ đứng đầu bệnh viện nhỏ ở Đức Phổ. Và như một định mệnh đã được
sắp đặt sẵn, mấy tháng sau Fred lại nhận được một cuốn sổ nhật ký nhỏ cũng của
người nữ bác sĩ đó - do Nguyễn Trung Hiếu mang về. Fred vô cùng xúc động khi
nghe Nguyễn Trung Hiếu dịch vội cuốn nhật ký. Ồng nhận thấy đằng sau những
dòng chữ mềm mại, đầy nữ tính kia chất chứa lòng căm thù cao độ đối với quân
Mỹ nhưng đằng sau những dòng chữ đó còn chất chứa lòng yêu thương, niềm hy
vọng về một ngày mai tươi sáng của dân tộc Việt Nam. Cũng từ đó, cuốn Nhật ký
Đặng Thùy Trâm mới được Fred nâng niu, gìn giữ lại và đã được “sống lại” như
ngày hôm nay. Năm 1972, rời Việt Nam, Fred trở về Mỹ, trong hành lý của ông,
ngoài những đồ tư trang cá nhân, còn có những kỷ vật nặng trĩu của chiến tranh:
Hai cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, hơn 50 tấm ảnh chụp những người
dân Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị bắn thủng lấy được trên xác một
phóng viên Việt Cộng - liệt sĩ Nguyễn Văn Giá, một chiếc đục nhỏ rơi trên xác
một người thợ mộc già bị giết hại. Những kỷ vật này luôn khiến cho Fred day dứt
một nỗi ám ảnh về Việt Nam. Fred đã nhiều lần tìm gia đình nữ bác sĩ Đặng Thuỳ
Trâm, qua những địa chỉ, tên tuổi người thân mà chị nhắc đến trong nhật ký nhưng
không thành. Được sự giúp đỡ tận tình và sự động viên chân thành của người anh
trai là Robert Whitehurst (Rob) – cũng là một cựu chiến binh ở chiến trường Việt
Nam, Fred đã đến dự hội thảo thường niên về chiến tranh Việt Nam ở trường Đại
học Tổng hợp Texas và nói về cuốn nhật ký của nữ bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Trong
niềm xúc động sâu sắc, Fred và Rob đã đưa cho nhiều người đĩa CD có chứa bản
sao cuốn nhật ký với mong muốn cuốn nhật ký sẽ tìm được về với quê hương, về
với gia đình người nữ bác sĩ mà họ ngưỡng mộ như một anh hùng. Và rồi, như
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một câu chuyện cổ tích đẹp, qua một người bạn ở Hà Nội, Ted Engelmann - một
trong số những người tham dự cuộc hội thảo và được nhận một chiếc đĩa CD bản
sao cuốn nhật ký Đặng Thuỳ Trâm - đã tìm được gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê
– cha của liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm và trao cho gia đình chiếc đĩa CD chứa đựng
tâm huyết của người viết nhật ký, cũng là người thân vô cùng yêu dấu của họ. Từ
đó, gia đình bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và anh em Fred thường xuyên viết thư cho
nhau để trao đổi thông tin và thể hiện những tình cảm chân thành của những con
người vốn trước kia thuộc hai giới tuyến đối địch. Hai cuốn nhật ký đã được anh
em Fred trao tặng cho Viện lưu trữ về Việt Nam Lubbock tại trường Đại học Tổng
hợp Texas – kho tài liệu cá nhân về chiến tranh Việt Nam duy nhất tại Mỹ, để hai
cuốn nhật ký có thể được giữ gìn và chăm sóc tốt nhất. Anh em Fred luôn mong
muốn in hai cuốn nhật ký đó thành sách để cả thế giới được biết về một nữ bác sĩ
Cộng sản người Hà Nội sống và chết ra sao. Họ mong rằng, từ cuốn sách đó, sự
nghiệp y tế của Thuỳ Trâm sẽ được tiếp nối.
Ngày 15/8/2005, được sự nhất trí của gia đình bà Doãn Ngọc Trâm - mẹ của
liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam đã xin
giấy phép xuất bản cuốn nhật ký, đồng thời được chấp thuận con số 100.000 cuốn
Nhật ký Đặng Thùy Trâm được xuất bản. Cuốn nhật ký được coi là cơn chấn động
của ngành xuất bản Việt Nam trong khoảng chục năm qua (Bán được năm triệu
bản trong hai năm). Cuốn sách đã đoạt giải Giải đặc biệt Giải thưởng sách Việt
Nam năm 2006. Hiện nay Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã được dịch ra 16 thứ tiếng
và được xuất bản tại 22 nước trên thế giới. Tại Lào có tổ chức cuộc thi đọc Nhật
ký Đặng Thuỳ Trâm bằng tiếng Lào. Xoay quanh Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã có
sự ra đời của một số cuốn sách khác: 35 năm và 7 ngày (Nhiều tác giả), 7 ngày và
35 năm (Nhiều tác giả), Bí mật cuộc đời ngƣời Mỹ làm “sống lại” Đặng Thuỳ
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trâm (Frederic Whitehurrst và nhóm tác giả),…
Cũng giống như sự kiện sau khi cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của liệt
sĩ Nguyễn Văn Thạc được xuất bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã có tác động khá
lớn đến đời sống văn hoá – xã hội của nước ta ngay sau khi cuốn nhật ký được ra
mắt công chúng. Một loạt các công trình, phong trào mang tên Đặng Thuỳ Trâm
hoặc gắn với tên tuổi Đặng Thuỳ Trâm được xuất hiện: Bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm
được xây dựng tại thôn Nga Mân - xã Phổ Cường - huyện Đức Phổ - tỉnh Quảng
Ngãi, Bệnh viện đa khoa Đặng Thuỳ Trâm được xây dựng tại thị trấn Đức Phổ -
huyện Đức Phổ - tỉnh Quảng Ngãi, Trường Cao đẳng y tế thuộc tỉnh Quảng Ngãi
được mang tên Đặng Thùy Trâm, tua du lịch Đặng Thuỳ Trâm được khánh thành
ở Quảng Ngãi, quỹ Đặng Thuỳ Trâm được phát động ở Khánh Hoà, ngành y tế
phát động phong trào học tập tấm gương Đặng Thuỳ Trâm,…
Dựa vào cuốn nhật ký của nữ bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, đạo diễn Đặng Nhật
Minh dựng thành bộ phim nhựa Đừng đốt. Bộ phim đã đạt nhiều giải cao trong
các liên hoan phim: Giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ
XVI, giải Cánh diều vàng năm 2009, giải Nhất tại Liên hoan phim Fukuoka lần
thứ XIX tổ chức tại Nhật Bản (tháng 9/2009).
Hơn thế nữa, sau khi hai cuốn nhật ký được xuất bản và nhận được sự yêu
quý của công chúng thì ở khắp mọi nơi trên toàn quốc đã dấy lên phong trào “Tiếp
lửa truyền thống – “ Mãi mãi tuổi hai mươi”” do Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh phát động. Phong trào đã được Đoàn viên, thanh niên
trong cả nước hưởng ứng mạnh mẽ bằng nhiều hình thức khác nhau: Phong trào
quyên góp xây dựng quỹ Mãi mãi tuổi hai mƣơi, cuộc thi Viết tiếp hành trình tuổi
hai mƣơi - sống đẹp, sống có ích, cuộc thi Khát vọng tuổi hai mƣơi được tổ chức,
đêm giao lưu ca nhạc Sức sống tuổi hai mƣơi diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh,
báo Tuổi trẻ tổ chức diễn đàn Tuổi hai mƣơi của chúng ta,… Khi dự chương trình
85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mãi mãi tuổi hai mƣơi tại Nhà văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, nhạc sĩ Phạm
Đăng Khương đã sáng tác ca khúc Mãi mãi tuổi hai mƣơi. Bài hát nhanh chóng
được phổ biến rộng rãi trong học sinh, sinh viên khắp cả nước bởi những giai điệu
xúc động và hào hùng về tuổi trẻ Việt Nam anh hùng. Không dừng lại ở đó, Mãi
mãi tuổi hai mƣơi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm còn nhận được sự quan tâm đặc
biệt của những người làm nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật thứ bảy. Đạo diễn
Doãn Hoàng Giang và Nhà hát kịch Quân đội đã cho công diễn vở kịch Những
linh hồn thức, kịch bản của vở kịch được xây dựng từ hai cuốn nhật ký đặc biệt
này. Nhà biên kịch Hoàng Nhuận Cầm và nghệ sĩ ưu tú Hữu Mười đã chính thức
khởi quay bộ phim Mùi cỏ cháy vào ngày 25/12/2010. Bộ phim được xây dựng
dựa trên tinh thần các cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc,
Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm. Có một chi
tiết rất thú vị mà chúng ta đã bắt gặp trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của liệt
sĩ Nguyễn Văn Thạc, đó là: trong số 300 sinh viên của trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội cùng nhập ngũ một đợt với anh Thạc có nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm và
Hoàng Nhuận Cầm đã được Nguyễn Văn Thạc nhắc đến nhiều lần trong cuốn nhật
ký của anh. Song có lẽ, không phải vì thế mà nhà biên kịch Hoàng Nhuận Cầm
mới viết kịch bản cho bộ phim này. Sức hút của cuốn nhật ký quá lớn đối với độc
giả cũng là yếu tố thôi thúc Nhuận Cầm làm được một việc có ý nghĩa như thế.
Rất mong sự xuất hiện của bộ phim sẽ khiến người xem thêm một lần nữa nhận
thức được giá trị quý giá từ cuốn nhật ký.
3.3. Những giá trị mới đƣợc rút ra từ hai cuốn nhật ký gắn với thời điểm lịch
sử 2005.
Những cuốn nhật ký chiến tranh đã khiến cho tất cả chúng ta ngày nay hiểu
thêm nhiều điều vô cùng sâu sắc. Đặc biệt, những cuốn nhật ký ấy đã giúp những
người chưa bao giờ biết đến chiến tranh, chưa bao giờ được sống trong khói lửa
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến tranh nhận ra nhiều sự thật mà trong cuộc sống thời bình không thể nào có
được. Nhưng điều sâu sắc hơn cả mà thế hệ trẻ ngày nay cần thấy được từ những
cuốn nhật ký, đó là con người thời bấy giờ đã bước vào cuộc chiến với một tình
yêu lý tưởng, cao đẹp, với một ý chí và nghị lực phi thường. Nối tiếp truyền thống
anh hùng của thế hệ cha anh đi trước, trong kháng chiến chống Mỹ, hàng chục vạn
thanh niên xung phong lại tiếp tục mở đường ra tiền tuyến, trí lực tuổi hai mươi lại
đương đầu với bom đạn của đế quốc Mỹ… Có biết bao nhiêu tấm gương hy sinh
anh dũng, biết bao thanh niên xung phong đã hoá thân thành con đường bất khuất
để đi tới chiến trường. Họ đã anh dũng góp phần làm nên Đại thắng mùa xuân
năm 1975, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Câu hỏi đặt ra là: Vì sao những trí thức ở độ tuổi hai
mươi này lại xung phong tình nguyện vào Nam chiến đấu để lại sau lưng mình
một tương lai hạnh phúc, sáng lạn? Phải chăng truyền thống 4000 năm dựng nước
và giữ nước, truyền thống yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí
kiên cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã bắt gặp những làn sóng Cách
mạng trên thế giới như: Cách mạng vô sản Pháp, ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê
nin và Cách mạng tháng Mười Nga, vì vậy mới hun đúc nên những con người như
thế? Rồi những ảnh hưởng của nền văn học Cách mạng tháng Mười Nga đã soi rọi
vào tư tưởng yêu nước vốn có của những người thanh niên yêu nước Việt Nam
hình thành trong họ những thần tượng, những hình mẫu lý tưởng của Chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Đó là hình ảnh những người thanh niên Nga chiến đấu hy
sinh vì lý tưởng Cách mạng, hình ảnh Pa-ven trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy
của Nhicalai Axtơrôpxki, hình ảnh của Ruồi Trâu (Áctơ Bơntơn) và trong tác
phẩm Ruồi trâu của nữ văn sĩ Mỹ Ethel Lilian Voynich,… Qua những chặng
đường lịch sử của truyền thống dân tộc, chúng ta mới hiểu thêm được về lý tưởng,
về lẽ sống của những người thanh niên như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ
87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trâm,… Lý tưởng, lẽ sống cao cả của họ đã được Đảng, nhân dân Việt Nam cổ
vũ, tiếp thêm cho họ sức mạnh. Họ đã mang theo cả sức mạnh của chính nghĩa,
sức mạnh của niềm tin chiến thắng và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng vào
cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược. Năm tháng chiến đấu ở chiến trường, được
đồng đội, bạn bè, đồng bào cổ vũ, khích lệ, họ đã căm giận trút đạn vào quân thù,
chiến đấu anh dũng, không quản hy sinh.
Không phải ngẫu nhiên mà hôm nay chúng ta mới được đón nhận hai cuốn
nhật ký ấy, đặc biệt là cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã được một cựu chiến binh
Mỹ nâng niu, gìn giữ suốt ba mươi lăm năm qua với cả sự dằn vặt, ngưỡng mộ và
kính phục. Giờ đây hơn nửa vòng trái đất cuốn nhật ký ấy lại trở về với cội nguồn,
bởi đó là hiện thân của một sự thật lịch sử mà không ai có thể phủ nhận được. Sức
sống mãnh liệt và sự rung động đến nghẹt thở của hai cuốn nhật ký có được chính
là nhờ vào sự chân thực tối ưu của hai cuốn nhật ký đó. Đọc nhật ký của anh Thạc
và chị Trâm, chúng ta cảm thấy như đang được xem những thước phim tài liệu tái
hiện và lột tả một cách chân thực, sinh động, đầy đủ cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước vô cùng gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc ta.
Với lời văn chân chất, mộc mạc như trò chuyện tâm tình, ghi chép lại những
sự kiện chính xảy ra hằng ngày, hằng giờ, nhật ký của Nguyễn Văn Thạc và nhật
ký của Đặng Thuỳ Trâm đã khái quát một cách chuẩn xác hình ảnh người lính Cụ
Hồ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với bao điều bình dị nhưng rất cao
đẹp. Nhật ký của các anh, các chị còn ghi lại những dòng suy nghĩ, tâm tư, những
trăn trở, những cảm xúc rất đời thường của con người như cứ cuốn hút chúng ta
mãi, bởi tất cả các mối quan hệ xã hội kể cả tình mẫu tử đều được xếp sau khát
vọng sống, đó là: Sự dâng hiến bản thân, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân.
Nguyễn Văn Thạc bộc bạch: "Trên mũ là ngôi sao… bây giờ ta đọc trong ngôi sao
ấy có ánh lửa cầu vồng của trận công đồn, màu đỏ của lửa, của máu. Ta nhƣ thấy
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong màu kỳ diệu ấy có cả hồng cầu của trái tim ta" (Nhật ký ngày 2/10/1971).
Đặng Thuỳ Trâm tâm sự với mẹ "Con sống chiến đấu và nghĩ rằng con sẽ ngã
xuống vì ngày mai của dân tộc, ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có
con đâu, con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc… nhƣng hàng triệu
ngƣời nhƣ con đã ngã xuống mà chƣa hề đƣợc hƣởng một ngày hạnh phúc. Cho
nên con có ân hận gì đâu.” (Nhật ký ngày 14/7/1969). Chúng ta cảm nhận ở các
anh, các chị cái khát vọng đến cháy bỏng là được cống hiến, được hy sinh nhưng
rất nhẹ nhàng, rất thanh thản. Giá trị văn hoá, tinh thần nhân văn, sức sống, sức
thuyết phục của hai cuốn nhật ký chính là ở điểm này. Sự cống hiến của những
người như Nguyễn Văn Thạc, như Đặng Thùy Trâm đã vuợt xa cái nghĩa thông
thường của lòng quả cảm, của sự hy sinh, chịu đựng, mà là những biểu tượng sáng
ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ thanh niên Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của những chiến công hiển hách, những thắng lợi
huy hoàng của dân tộc. Nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm và nhật ký của Nguyễn Văn
Thạc đã cho chúng ta một hoài bão lớn, một lý tưởng lớn đó là: Sự cống hiến hy
sinh ngày càng nhiều sức lực, trí tuệ của mình cho đất nước, cho nhân dân.
Một câu hỏi lớn luôn khiến chúng ta phải ám ảnh, phải băn khoăn khi đọc
những cuốn nhật ký chiến tranh: Tại sao, trong nhật ký của các nhà văn chuyên
nghiệp không có những sự thật được ghi lại giống như trong nhật ký của những
người lính bình thường? Có một sự thật hiển nhiên mà ai cũng phải nhận thấy là
nhà văn nào cũng có trách nhiệm với ngòi bút của mình ngay cả khi viết nhật ký.
Hầu hết những trang nhật ký trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp còn được
lưu giữ cho đến bây giờ là của những nhà văn chuyên nghiệp. Mặc dù, phần lớn
trong số họ không phải trực tiếp cầm súng chiến đấu với kẻ thù nhưng lý tưởng vì
độc lập, tự do của dân tộc vẫn là lẽ sống mà các nhà văn theo đuổi. Các nhà văn
chuyên nghiệp trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chủ yếu vào chiến trường
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với hai nhiệm vụ song song, không thể tách biệt. Đó là, vừa cầm súng giết giặc,
vừa ghi chép lấy hiện thực chiến tranh làm chất liệu cho việc sáng tạo tác phẩm
văn học. Nhiều nhà văn thời ấy cũng đã để lại những trang nhật ký với những tâm
sự rất riêng tư về ước mơ hạnh phúc bình dị, về những tâm tư rất đỗi đời thường:
Nhật ký của Nguyễn Ngọc Tấn, nhật ký của Chu Cẩm Phong, nhật ký của Dương
Thị Xuân Quý,… Nhưng trong vai trò và trách nhiệm của một nhà văn, nhật ký
của họ, ngoài tính chất riêng tư còn mang phẩm chất văn học rõ nét. Tuy nhiên,
dường như các nhà văn chuyên nghiệp vẫn còn điều gì đó dè dặt nên ngay cả trong
nhật ký của họ, nhiều góc khuất của hiện thực cuộc sống chiến tranh ít được đề
cập đến hoặc nếu có nói đến thì cũng chỉ nói một cách chung chung. Trong khi đó,
độ chân thực ở nhật ký của những người viết không chuyên bao trùm đủ mọi góc
cạnh của cuộc chiến tranh, len lỏi đến tận ngõ ngách của cuộc sống con người,
chân thực đến từng chi tiết, từng sự việc mà nhiều người tham gia cuộc chiến đều
phải thừa nhận. Nhiều tác phẩm nhật ký chiến tranh của nhà văn được in rất sớm –
sau khi nhà văn viết xong một thời gian ngắn, cũng có những nhật ký được xuất
bản sau khi hoà bình lặp lại.
Sự xuất hiện của hai cuốn nhật ký Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi
hai mƣơi từ năm 2005 mới là sự kiện gây nhiều chấn động lớn trong dư luận bạn
đọc, bởi những giá trị bất ngờ mà hai cuốn nhật ký đã đem lại hơn hẳn rất nhiều
cuốn nhật ký của các nhà văn chuyên nghiệp.
3.3.1. Nhận thức lịch sử trong tính trung trung thực tối ưu của nó.
Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta kéo dài suốt
ba mươi năm đã đặt ra nhiều vấn đề lớn không chỉ đối với dân tộc ta mà còn đối
với cả cuộc sống của mỗi con người. Dân tộc ta đang đứng trước ranh giới của sự
tồn - vong, mỗi cá nhân con người lại đang đứng trước ranh giới của sự sống và
cái chết. Vì vậy, bước vào cuộc chiến tranh ấy, không có ai không trăn trở và suy
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tư. Chính những khoảnh khắc yên bình vô cùng ngắn ngủi giữa chiến trường lại
không phải là những giây phút để họ nghỉ ngơi hay thư giãn mà đó mới chính là
những lúc mối trăn trở và suy tư quặn lên không dứt trong tâm hồn họ. Những
trang nhật ký cất lên được tiếng nói của nó trong những khoảnh khắc hiếm hoi như
thế. Những sự kiện riêng tư trong đời sống cá nhân, những tình huống đặc biệt của
xã hội mà người viết được trải qua cứ theo dòng cảm xúc của người viết mà tuôn
chảy trên trang giấy. Cũng có những lúc, mạch cảm xúc đột ngột bị ngắt lại chỉ vì
những khoảnh khắc yên bình không thể yên bình được nữa, tiếng bom đạn lại dội
lên, người viết phải gạt bỏ những cảm xúc riêng tư để hoà mình vào tâm trạng, vào
hành động của cả dân tộc ta khi ấy.
Vẫn biết rằng, chẳng có gì chân thực hơn lịch sử. Những trang sử của dân tộc
liên tiếp được ghi chép lại từ thời đại này đến thời đại khác mà không hề có sự đứt
quãng. Nhưng vẫn có những sự thật mà lịch sử không lưu lại. Có thể đó là những
sự kiện đơn lẻ hoặc đó là những sự việc mà khi đưa vào những trang sử của dân
tộc chỉ làm hoen ố đi sự hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta trong suốt mấy ngàn
năm dựng nước và giữ nước. Con người vẫn luôn có những nhận thức một chiều
như vậy về lịch sử nước nhà. Bởi bất cứ ai, bằng trách nhiện và nghĩa vụ của một
người công dân cũng luôn có quyền tự hào về lịch sử của dân tộc mình. Nguyễn
Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm không phải là những cá nhân ngoại lệ trong số đó.
Song, xuất phát từ những cảm nhận rất chân thực về hiện thực đất nước trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ mà cả Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm là những
người trong cuộc, xuất phát từ suy nghĩ viết nhật ký không phải là để công bố hay
cho người khác đọc nên có rất nhiều điều chân thực nhất, những điều mắt thấy tai
nghe đều được họ đưa vào trang nhật ký của mình mà không hề do dự. Vì vậy, qua
những trang nhật ký của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm, một số phương
diện nào đó của lịch sử dân tộc vẫn được nhận thức một cách tối ưu nhất.
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.3.1.1. “Mãi mãi tuổi hai mươi” của Nguyễn Văn Thạc.
Thực tế Nguyễn Văn Thạc hy sinh khi anh chưa kịp vào đến chiến trường,
chưa được chứng kiến nhiều sự ác liệt của cuộc chiến tranh và cũng chưa được dù
chỉ một lần cầm súng nã vào kẻ thù nhưng lòng yêu nước, niềm tin chiến thắng,
tinh thần lạc quan và lòng yêu cuộc sống luôn sáng mãi qua những trang nhật ký
của anh. Đó là lý tưởng sống của cả một thế hệ thanh niên trong thời đại ấy. Khi
viết nhật ký, Nguyễn Văn Thạc đã tâm sự ngay trong chính những trang nhật ký
của anh: “Mình đã đọc Nhật ký của nhiều ngƣời. Mình cảm thấy rằng: Nếu nhƣ
ngƣời viết Nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình đọc thì cuốn nhật ký đó sẽ
chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất. Ngƣời ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy
những suy nghĩ tồi tệ nhất mà mà thực sự họ có. Nhƣng nếu Nhật ký mà có thể có
ngƣời xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều. Họ không dám nói thật, nói đúng bản
chất sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy
nở và thai nghén trong lòng họ. Mà đó chính là điều tối kỵ khi viết Nhật ký – Nó sẽ
dạy cho ngƣời viết tự lừa dối ngòi bút của mình, tự lừa dối lƣơng tâm của mình.
Ngƣời ta viết Nhật ký có rất nhiều phƣơng pháp. Và mỗi ngƣời tuỳ theo ý thích và
sự quen thuộc của mình mà ghi chép. Có ngƣời chỉ thích viết ý nghĩ, có ngƣời
hoàn toàn ghi những sự kiện nhỏ nhặt hàng ngày. Còn mình, mình không biết thế
nào, có lẽ vừa ghi những sự kiện, vừa ghi những suy nghĩ - Nhiều lúc cũng khó mà
phân biệt đâu là suy nghĩ, đâu là sự kiện. Và sự trộn lẫn ấy là một điều rất quý
(…). Nghĩ đi nghĩ lại thì vấn đề chủ yếu vẫn là anh viết Nhật ký để làm gì? Anh có
lấy Nhật ký làm ngƣời bạn đƣờng nghiêm khắc và tốt bụng để đƣa đƣờng cho anh.
Hay là anh lấy Nhật ký làm đồ trang sức, làm một cái gì đó để khoe khoang. Hay
tệ hơn, làm một cái bồ để chút vào đó những lời than thở, những suy nghĩ giả tạo,
sống rất tồi, rất nghèo nàn mà cứ tƣởng mình phong phú và bận rộn lắm với công
việc hàng ngày ” (Nhật ký ngày 18/4/1972). Qua những lời tâm sự này của
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Văn Thạc, chúng ta thấy rằng, Nguyễn Văn Thạc viết nhật ký không
nhằm mục đích công bố, không nhằm mục đích cho người khác đọc. Anh chỉ
muốn viết cho riêng mình và anh luôn coi nhật ký như là một kỷ vật thiêng liêng,
một “ngƣời bạn đƣờng nghiêm khắc và tốt bụng”. Do đó, những trang nhật ký của
Nguyễn Văn Thạc là những trang viết hồn nhiên nhất, vô tư nhất, chân thực nhất.
Tất cả những sự kiện, suy nghĩ, cảm xúc và tình cảm được anh giãi bày trên trang
nhật ký là những điều có thật, được giãi bày một cách rất tự nhiên theo dòng cảm
nghĩ chứ không hề được sắp xếp theo một trình tự nào cả. Điều này đã khiến cho
các thế hệ đi sau hiểu được rõ hơn, đúng hơn, thật hơn về thế hệ cha anh mình, về
những điều tưởng như không bao giờ có thật trong cuộc đời. Có lẽ vì vậy, nên tính
tư liệu lịch sử của tác phẩm càng trở nên chân thực hơn bao giờ hết.
Đọc Mãi mãi tuổi hai mƣơi, nhiều người trong số chúng ta vẫn không khỏi
ngỡ ngàng và bất ngờ bởi thế hệ cha anh của chúng ta sống bằng một lý tưởng và
lẽ sống vô cùng cao đẹp: Sẵn sàng hy sinh tình cảm cá nhân, lợi ích cá nhân vì lợi
ích độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Họ chỉ biết cống hiến thậm chí là dâng
hiến cả tuổi thanh xuân, cả cuộc đời mình cho Tổ quốc mà không hề đòi hỏi một
sự đền đáp nào cho dù là nhỏ nhất: Nguyễn Văn Thạc là một sinh viên xuất sắc,
được cử đi học tập tại Liên Xô nhưng anh đã lên đường ra trận theo tiếng gọi của
Tổ quốc. Ngay từ ngày đầu đầu tiên ghi nhật ký, Nguyễn Văn Thạc đã không thể
kìm nén được nỗi xúc động khi con đường thực hiện lý tưởng, khi lẽ sống của anh
bắt đầu được mở ra: “Cuộc đời bộ đội đâu phải dễ dàng nhƣ thế. Mình đã khóc,
nƣớc mắt giàn giụa, khi các bạn tiễn mình đi, khi buổi lễ kết thúc, khi bài Quốc ca
rung bầu không khí trong lành trên trƣờng Tổng hợp. Bản nhạc này đây, bao lần
mình đã nghe, đã cúi đầu suy nghĩ. Nhƣng hôm nay mới thật sự hiểu, thực cảm
một điều thật giản dị: Bài Quốc ca của ta, của ta! Khóc, không phải vì hèn yếu,
không phải vì buồn bã, mà vì xúc động. Vì buổi chia tay này thiêng liêng quá (…).
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh
xuân của mình” (Nhật ký ngày 2/10/1971). Niềm tự hào và lý tưởng cách mạng
dường như không bao giờ tắt trong tiềm thức của Nguyễn Văn Thạc. Lý tưởng
được sống và cống hiến cho Tổ quốc thẫm đẫm qua từng trang nhật ký của anh.
Có lúc, trong con người Thạc cháy bỏng khát vọng được lên đường theo tiếng gọi
của Tổ quốc: “Ta đi theo tiếng gọi của miền Nam, và cả sự thôi thúc của miền Bắc
đang khôi phục” (Nhật ký ngày 10/4/1972). Nguyễn Văn Thạc đã có những mơ
ước thật bình dị mà cao cả: “Kể ra, mình có mơ ƣớc gì cao xa đâu. Bọn nó cứ nghĩ
rằng mình muốn thành nhà văn, nhà thơ nào đó. Không đâu, mình chỉ muốn sống
trong nỗi lo toan của dân tộc” (Nhật ký ngày 4/12/1971). Đối với anh, chàng
thanh niên Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của nhà văn
Nga Nhicalai Axtơrôpxki đã trở thành thần tượng lý tưởng bởi phương châm sống
của Paven cũng đã trở thành phương châm sống của nhiều thế hệ thanh niên Nga
và của nhiều thế hệ Việt Nam trong chiến tranh: "Cái quý nhất của con ngƣời ta là
sự sống. Đời ngƣời chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì
những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn
đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức
ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải
phóng loài ngƣời...” [22, tr.393-394]. Trong nhật ký ngày 24/12/1971, Nguyễn
Văn Thạc đã thể hiện rõ những mong muốn của anh: “Mình thèm khát đƣợc sống
nhƣ thế. Sống trọn vẹn cuộc đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng
trƣớc những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”. Hai từ “Đảng
viên” luôn khiến cho Thạc phải suy nghĩ, băn khoăn và mong ước: “Chao ôi, bao
nhiêu lần mình ao ƣớc có đƣợc hạnh phúc xa vời ấy, đƣợc Đảng tin và trao cho
những nhiệm vụ nặng nề.” (Nhật ký ngày 7/5/1972). Nguyễn Văn Thạc đã gắn
liền hạnh phúc của đời anh với vận mệnh của đất nước nên anh quan niệm về hạnh
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phúc một cách rất giản dị: “Đã vào đến Hà Tĩnh là ít nhất cũng sẽ đƣợc nhìn thấy
chiến trƣờng. Ít nhất cũng phải đƣợc một lần nắm lấy hòn đất còn đƣợm hơi lửa
napan mà suy nghĩ đến những điều lớn lao của cuộc sống. Suy nghĩ đến tƣơng lai,
đến chân lý của thời đại. Lúc đó sẽ hạnh phúc biết bao” (Nhật ký ngày
10/4/1972). Cũng giống như anh chàng Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin, Nguyễn Văn Thạc
đã ý thức rõ về trách nhiệm của bản thân mình khi đất nước có chiến tranh. Điều
mơ ước của Thạc tuy thật giản dị nhưng lại trở nên cao đẹp hơn khi mơ ước đó
được nảy sinh từ ý thức trách nhiệm của một người con có tấm lòng yêu nước,
thương nhân dân sâu sắc, từ lòng căm thù quân cướp nước một cách cao độ. Bởi
vậy, sau ba tháng nhập ngũ mà không được ra trận, lòng mong mỏi được trực tiếp
cầm súng nã vào kẻ thù đã khiến cho Nguyễn Văn Thạc bắt đầu cảm thấy chán
ghét sự chờ đợi và đồng thời mơ ước được ra trận lại càng thôi thúc anh: “Bao giờ
mình mới thoát khỏi sự chờ đợi đáng ghét nhƣ hôm nay? Đi chiến đấu chắc say
sƣa và hào hứng hơn chăng?(…). Nhanh nhanh mà đi B chứ không thì hết địch
đến nơi” (Nhật ký ngày 3/12/1971). Mỗi lần đơn vị chuyển quân là thêm một lần
Thạc phấn chấn, hăng hái như sắp được chút mọi sự căm hận lên đầu quân thù.
Chắc hẳn, đó không phải chỉ là tâm trạng của riêng cá nhân Thạc. Bên cạnh anh,
còn có biết bao đồng đội cũng mang tâm trạng ấy:“Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời
ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt trong ta là khi nào
đƣợc vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn - xọc lê vào thỏi tim đen đủi của quân thù
(…). Ta biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu áo, khi Trƣờng Sơn không
có dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta chƣa có cái niềm vui mãnh liệt của ngƣời
chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả đất nƣớc thân yêu” (Nhật ký ngày
15/11/1971)
Nhưng vượt lên trên tất cả những suy nghĩ có lúc tưởng chừng như đã khiến
Thạc gục ngã vẫn là niềm tin vào con đường phía trước của dân tộc. Đứng giữa
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ranh giới của tuổi mười chín đôi mươi, Nguyễn Văn Thạc cũng tự vấn lương tâm
và trách nhiệm của bản thân trước sự nghiệp đấu tranh chung của cả dân tộc Việt
Nam. Đối với Thạc, thêm một tuổi có nghĩa là con người ta đã trưởng thành lên rất
nhiều. Mười chín tuổi chưa phải là đã chín chắn nhưng hai mươi tuổi thì phải khác
– con người ta đã có sự trưởng thành vượt bậc rồi: “Con đƣờng mình chọn, con
đƣờng mình đi là hoàn toàn đúng đắn. Không còn phải đắn đo gì nữa, Thạc cứ đi
theo con đƣờng này thôi, con đƣờng không đòi hỏi đề bù lại điều gì và trọn đời
cống hiến cho đất nƣớc. Mình không muốn dành cuộc sống của mình cho một sở
thích cá nhân. Mình muốn làm theo yêu cầu của Tổ quốc” (Nhật ký ngày
31/12/1971). Nguyễn Văn Thạc còn bộc bạch: “Ta lớn dần lên với tuổi, với cuộc
chiến đấu này. Bao giờ để ta hoàn toàn có thể xoa tay mà hài lòng với cuộc sống
của mình?” (Nhật ký ngày7/1/1972). Không ai muốn đặt ra sự so sánh nhưng quả
thật nếu lấy tiêu chí của tuổi hai mươi ra để mà so sánh Nguyễn Văn Thạc với
những thanh niên thuộc thế hệ tuổi hai mươi ngày nay thì mới thấy hết được vẻ
đẹp trong tâm hồn, trong suy nghĩ và ở hành động của Nguyễn Văn Thạc cũng
như các anh, các chị cùng trang lứa với Nguyễn Văn Thạc khi ấy đã có được. Qua
những điều tâm sự của Nguyễn Văn Thạc trong nhật ký, chúng ta càng hiểu hơn
về thế hệ của cha anh mình. Thật ra, nếu đặt suy nghĩ của Nguyễn Văn Thạc và
nhiều thanh niên khác cùng thế hệ với anh vào hoàn cảnh đất nước lúc đó, ta mới
nhận thấy đó là điều tất yếu, khó tránh khỏi. Trong không khí hào hùng của cả dân
tộc những năm đánh Mỹ, mọi sự tầm thường, nhỏ nhen đều bị đẩy đẩy lùi trước
cái cao cả, vĩ đại. Thế hệ cha anh thời đó luôn giữ vững một niềm tin, một lòng
kiên định vào sự chiến thắng của dân tộc trong cuộc chiến tranh không cân sức
này. Nhật ký ngày 12/1/1972, Nguyễn Văn Thạc đã thể hiện rất rõ điều đó: “Ta
không còn là ngƣời mở đƣờng nữa - Chỉ là ngƣời tiếp bƣớc thôi. Cha anh cầm
súng chống ngoại xâm suốt hàng thế kỷ nay. Sức đã kiệt! Phải dốc ra cái vốn quý
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đội ngũ trí thức! Ai dám bảo ta còn sung sức lắm! Không, dân tộc ta đã hy sinh
nhiều rồi, và còn hy sinh nữa! Nhƣng độc lập, tự do thì không thể nào mất. Lúc
này ta đƣợc đi và phải đi bộ đội! Tổ quốc đƣa vào tay ta khẩu súng. Đừng trốn
tránh!”. Sự sống – còn của dân tộc, ý thức tự tôn và tự cường dân tộc luôn chảy
mãi trong dòng máu của những người con như Nguyễn Văn Thạc. Trước vận
mệnh của dân tộc, họ không thể nghĩ và hành động khác được! Đó là lý do vì sao,
Nguyễn Văn Thạc căm ghét những kẻ hèn nhát, những kẻ đã tìm cách trốn tránh
trách nhiệm và nghĩa vụ của một người con đối với Tổ quốc khi Tổ quốc lâm
nguy.
Nhiều lúc, hiện thực đã được Nguyễn Văn Thạc ghi lại với bao cung bậc tâm
trạng và cảm xúc khác nhau: Vừa căm thù, vừa xót xa đau đớn:“Thằng Mỹ, nó là
cái gì mà mơ hồ nhƣ thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông lung trong việc nhìn
nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra ở trên đồi. Và cảnh xóm làng tiêu điều, bị tàn
phá ngày 29 – 2 – 1968, ta đâu có quên. Mặt mũi thằng Mỹ thế nào. Hẳn đó cũng
là khuôn mặt ngƣời bị bóp méo xộc xệch. Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm trƣớc ánh
mặt trời. Đêm ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung
tung. Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trƣớc ngõ là một bát
hƣơng hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân tay, nằm trong chiếc quan
tài đỏ, ngọn đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc cộc… Sao giống “chiếc
quan tài” nhƣ thế. Không, suốt đời ta không quên, ta không quên cảnh em bé miền
Nam đập tay trên vũng máu. Dƣới tay em lẽ ra là chậu nƣớc trong mát – cái biển
mênh mông của tuổi thơ hồn nhiên, nhí nhảnh” (Nhật ký ngày 15/11/1971). Như
thế có phải là sự khốc liệt của chiến tranh? Nguyễn Văn Thạc không phải là nhà
hoạ sĩ, nhà nhiếp ảnh hay là nhà quay phim nhưng đọc nhật ký của anh ta thấy,
từng bức tranh, từng thước phim nhỏ về sự tàn khốc và đau thương của cuộc chiến
tranh mà đế quốc Mỹ đã gây ra cho dân tộc ta lần lượt được hiện lên, chân thực
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đến từng chi tiết. Trong nhật ký ngày 5/5/1972, Nguyễn Văn Thạc đã miêu tả rất
rõ sự tàn khốc của cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ đã gây ra cho dân tộc ta: “Có
mùi tanh tanh và khét lẹt. Hầm sập – 5 em nhỏ đã bị chết và 1 số bị thƣơng”. Đọc
nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, nhiều lúc, ta có cảm giác như đó không phải là
nhật ký cá nhân nữa mà là cuốn nhật ký ghi lại nhiều sự kiện lịch sử của cả dân tộc
ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đâu chỉ có hiện thực của cuộc chiến tranh mới được tái hiện qua từng trang
nhật ký của Nguyễn Văn Thạc. Chiến tranh đã gieo rắc bao đau khổ cho nhân dân
ta, cuộc sống ngày càng trở nên khó khăn và gian nan hơn khi nhân dân Việt Nam
vừa phải lo đương đầu với kẻ thù xâm lược lại vừa phải lo chống chọi với thiên
tai, dịch bệnh. Dường như ít thấy tác phẩm văn học nào phản ánh được toàn diện
bức tranh hiện thực của đời sống trong hoàn cảnh chiến tranh như những trang
nhật ký của Nguyễn Văn Thạc:“Phố bên kia già nua và cũ kỹ lắm rồi. Dƣờng nhƣ
nó lật áo cho bộ đội xem vết thƣơng của chiến tranh. Than đen đầy trên bến, lam
lũ lắm. Bụi than bám đen cả mặt mũi, cả trên vai và ba lô. Vùng này bị lụt, nƣớc
sông Hồng dâng cao, ngày 31.8.1971, nƣớc ngập quá mặt đê 30cm (…). Dẫu rằng
đất này vừa bị lụt, đồng còn nâu bạc, cỏ cũng úa vàng, và ngƣời làm đồng thì
thƣa thớt, rơm rạ còn mắc đầy trên dây điện và bốn bề có mùi cá tanh tanh (…).
Nhà cửa đổ sụp sau lần bị lụt đƣợc tạm bợ dựng lên, tƣờng còn vô vàn lỗ thủng
cho gió lùa vào (…). Nƣớc ngập hết lên tƣờng, ngập lƣng thân cây mía. Thóc lúa
bị tàn phá nặng” (Nhật ký ngày 26/11/1971). Qua Mãi mãi tuổi hai mƣơi, chúng
ta mới thấy thấm thía hơn cái gian khổ của cuộc chiến tranh mà dân tộc ta buộc
phải tham gia để bảo vệ nền tự do, độc lập. Đôi khi, Nguyễn Văn Thạc rất thành
thật bộc lộ suy nghĩ của mình về những hiện tượng mà anh nghĩ không nên có
trong hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng” của đất nước như thế. Thạc rất ghét sự giả
tạo, thói bon chen nhưng tình yêu cuộc sống đã giúp cho Thạc vượt qua được
98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những nghi ngờ về cuộc sống hiện tại: “Những tính xấu không thể tha thứ đƣợc -
ở ngƣời này là sự hợm mình - ở ngƣời khác là lòng đố kị, ghen ghét - ở ngƣời kia
là cái giọng nói cố ra vẻ hùng hồn - Tất cả những cái đó khiến mình cảm thấy con
ngƣời có vẻ gì giả tạo – Nghi ngờ và nghi ngờ mãi (…). Cuộc sống còn biết bao
nhiêu điều phức tạp và trần trụi. Ngƣời ta cần phải sống với nhau trong cái gồ
ghề, góc cạnh ấy và không thể nào khác thế. Ngƣời ta phải đau khổ, phải vui
sƣớng với cuộc đời thực. Chứ không phải cuộc sống trong mơ.” (Nhật ký ngày
5/5/1972). Những tưởng, khi không còn chiến tranh, con người ta mới bon chen và
ích kỷ để tự tô hồng ánh hào quang lên cuộc đời mình nhưng giữa khi cả nước
đang sôi sục khí thế đánh giặc, giữa lúc có biết bao con người đã phải hy sinh,
phải đổ máu xương vì lợi ích chung của cả dân tộc thì vẫn có những kẻ hèn nhát,
vẫn có những kẻ tìm đủ mọi cách để tư lợi cá nhân. Và còn có cả những sự thật
đau lòng hơn thế. Đó là sự mất lòng tin của nhân dân vào anh bộ đội Cụ Hồ: “Vào
nhà nào họ cũng đuổi. Lắm lý do đến thế, nào là: Đợi ông ấy về… Tệ hơn, có gia
đình không thèm tiếp và trả lời: Gia đình tôi chƣa có ai đi bộ đội, nên không biết
đối xử với các chú nhƣ thế nào” (Nhật ký ngày 29/11/1971). Chiến tranh không
chỉ mang đến những đau thương mất mát cho con người về vật chất và tinh thần,
chiến tranh còn khiến cho tâm sinh lý của con người bị tổn thương một cách sâu
sắc. Nếu không có chiến tranh, nếu những người đàn ông không phải ra trận mà
trở thành trụ cột vững chắc của gia đình, trở thành chỗ dựa cho những người vợ và
những đứa con thơ trong một gia đình hạnh phúc thì niềm khát khao hạnh phúc
của những người phụ nữ dẫu có cháy bỏng và da diết đến mấy cũng đâu đến nỗi
khiến cho nhiều chàng trai trẻ phải hoảng sợ đến mức “kinh khủng” (từ của
Nguyễn Văn Thạc dùng trong nhật ký) như thế: “Các cô cứ đòi “tự do” ở trong
rừng và thật đáng sợ khi 1 trong các cô gái đã trả lời bộ đội khi Q bảo các cô dẫn
tới chỗ có cỏ gianh. Cô ấy bảo: Khu 4 có “tục lệ” vào rừng mà có 2 ngƣời con
99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trai và con gái thì phải cởi hết áo quần (!). Thật kinh khủng quá! Mình cảm thấy
nửa ghê ghê, nửa lại thƣơng hại các cô. Ở đây rừng vắng, và ở những chỗ vắng ấy
nên ngƣời ta mới điên nhƣ vậy hay sao?” (Nhật ký ngày 17/4/1972). Đấy là sự
thật! Một sự thật lẽ ra sẽ không nên có. Nhưng chiến tranh đã gây ra biết bao
nhiêu điều không nên có trên đời này. Những biểu hiện của ba cô gái là triệu
chứng của căn bệnh hysteria hay còn gọi một cách nôm na là bệnh thiếu hơi đàn
ông (hoặc gọi là bệnh rối loạn phân ly). Đây là căn bệnh thường gặp ở các nữ
thanh niên xung phong Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Gieo mầm
cho căn bệnh này phát triển là một trong những tội ác mà đế quốc Mỹ đã gây ra ở
Việt Nam.
Càng dấn thân vào cuộc chiến tranh, Nguyễn Văn Thạc càng hiểu rõ hơn từng
mảng hiện thực của cuộc chiến đó. Tất nhiên, bên cạnh những cái hào hùng, vĩ đại
không thể tránh khỏi sự xuất hiện của những cái nhỏ nhen, ti tiện hoặc ích kỷ
nhưng những cái không tốt đó chỉ là một góc nhỏ đã bị cái vĩ đại che khuất.
Nguyễn Văn Thạc là người hiểu rất rõ quy luật ấy. Bên cạnh những điều còn băn
khoăn, hoài nghi, Thạc vẫn luôn say sưa sống với lý tưởng mà anh đang theo đuổi.
Trong nhật ký ngày 6/5/1972, Thạc đã thể hiện rất rõ điều này: “Mình bƣớc nhƣ
say trên đƣờng, qua khe suối, qua bụi cây mua… Đêm nay đây, bao nhiêu ngƣời
bƣớc chân trên Trƣờng Sơn?(…). Mình đã ao ƣớc từ lâu, đƣợc ngắt một chùm lá
săng lẻ, đƣợc đi dƣới rừng khợp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết
ngƣời đi trƣớc. Mình cũng hiểu rằng, những cái đó đều phải trả bằng mồ hôi và
cả máu nữa - Phải trả một giá khá đắt. Nhƣng có hề gì, không dám hi sinh làm gì
có hạnh phúc, niềm vui?”. Cho đến trang cuối cùng của cuốn nhật ký, chúng ta
vẫn được sống cùng tâm trạng say mê, háo hức ấy của anh.
3.3.1.2. “ Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm”.
Khác với Nguyễn Văn Thạc, Thuỳ Trâm là một trí thức thực sự chín chắn ở
100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tuổi gần ba mươi, nên đứng trước hiện thực đất nước lúc đó, chị không thể tránh
khỏi những điều băn khoăn, trăn trở. Trâm luôn đặt ra câu hỏi: Vì sao trong hoàn
cảnh chiến tranh ác liệt, ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như thế mà
con người vẫn có những toan tính nhỏ nhen và ích kỷ đến vậy? Trâm đau khổ và
xót xa vô cùng trước điều đó. Song bằng nghị lực phi thường, vốn có ở người phụ
nữ Việt Nam, chị vẫn vượt qua tất cả bằng niềm tin vào Đảng, vào sự thắng lợi
của dân tộc ta: Chị luôn tìm niềm vui, sự an ủi trong công việc chăm sóc thương
binh hàng ngày. Lý tưởng của tuổi hai mươi vẫn được hun đúc trong con người
chị. Đó là phải biết sống và hy sinh cho Tổ quốc: “Hãy chuẩn bị tinh thần bƣớc
vào một đợt chiến đấu quyết liệt cuối cùng rồi sau đó ai còn ai mất hãy hay. Dù
còn dù mất cũng là những ngày vui bất tận khi hoà bình chân chính trở lại trên
đất nƣớc chúng ta. Hơn hai mƣơi năm rồi khói lửa đau thƣơng vẫn trùm lên dải
đất hiền lành. Nƣớc mắt chúng ta chảy nhiều rồi, xƣơng máu cũng đổ nhiều rồi.
Chúng ta có tiếc gì đâu để đổi lấy độc lập tự do” (Nhật ký ngày 12/5/1968). Đến
việc đón một cái Tết dân tộc trong cảnh thanh bình mà nhân dân ta cũng không
được thoả nguyện. Bọn giặc khát máu đó không cho chúng ta một phút bình yên.
Nhân dân ta vừa chuẩn bị đón Tết vừa sẵn sàng đánh giặc: “Giao thừa của những
ngày đau thƣơng khói lửa với những ngày hoà bình hạnh phúc. Đất nƣớc âm thầm
lặnh lẽ nhƣng sôi sục trong sự chuẩn bị. Đó phải chăng là sự mang nặng đẻ đau
của một ngƣời mẹ sinh một đứa con to khoẻ mập mạp” (Nhật ký ngày 15/2/1969).
Không chỉ có Đặng Thùy Trâm mà tất cả các đồng chí của chị, những người dân
trên mảnh đất Đức Phổ vẫn luôn luôn chuẩn bị sẵn cho mình một tinh thần như
vậy nên cái chết đến với họ qúa ư là nhẹ nhàng và hoàn toàn thanh thản. Đọc Nhật
ký Đặng Thuỳ Trâm, ta mới có thể thật sự thấy hết được sự khốc liệt của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Trong khoảng thời gian ấy (theo nhật ký của
Đặng Thuỳ Trâm), trên mảnh đất Đức Phổ có bao nhiêu chiến sĩ của ta hy sinh,
101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bao nhiêu người dân vô tội phải chết oan uổng, bao nhiêu người bị thương,…
Thùy Trâm hiểu rất rõ điều ấy: “Chiến tranh còn tiếp diễn, chết chóc vẫn diễn ra
hàng ngày, từng giờ từng phút dễ nhƣ trở bàn tay vậy” (Nhật ký ngày 17/5/1968)
nhưng chị vẫn không khỏi đau buồn khi hiện thực về sự tàn khốc của cuộc chiến
tranh vẫn ngày đêm diễn ra trước mắt chị: Nhật ký ngày 1/6/1968, chị viết: “Chiến
tranh là mất mát. Trên mảnh đất miền Nam nóng bỏng lửa khói này, hầu nhƣ
100% các gia đình đều có tang tóc. Chết chóc đau thƣơng đang đè nặng lên đầu
mỗi ngƣời dân. Nhƣng càng đau xót, họ càng căm thù, càng thêm sức chiến đấu”.
Có lúc, lòng căm thù quân giặc tưởng chừng như đã lên dến đỉnh điểm: “Còn
quân khát máu đó thì chúng ta còn đau khổ. Không có con đƣờng nào hơn là dánh
cho giập đầu quân chó đểu đó” (Nhật ký ngày 9/1/1969). Sự tàn ác của đế quốc
Mỹ đối với nhân dân ta không thể kể xiết. Có lẽ, Thùy Trâm cũng không bao giờ
muốn kể, không bao giờ muốn nhắc tới những đau thương, mất mát lớn lao trong
nhật ký của chị nhưng sự thật cứ bày ra trước mắt. Hình ảnh mỗi người dân Đức
Phổ, mỗi đồng chí của chị phải đổ máu, phải hy sinh càng khiến cho chị muốn
được viết, viết nhiều hơn nữa để ghi lại tội ác của kẻ thù. Đó là lời nhắc nhở, lời
khắc sâu mối thù trong chị và trong những người còn sống. Lòng căm thù càng
tiếp thêm cho chị sức mạnh để sống tiếp, sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, mọi sóng gió của cuộc đời. Cũng giống như những trang Chuyện đời của
chàng trai hai mươi tuổi Nguyễn Văn Thạc, Nhật ký Đặng Thùy Trâm lại góp thêm
cho lịch sử dân tộc ta những bức tranh chân thực về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước hào hùng, vĩ đại song cũng không kém phần đau thương mà nhân dân ta
đã trải qua. Đọc nhật ký của Thùy Trâm, chúng ta có thể thống kê được những con
số về các đồng chí bị thương, các đồng chí đã hy sinh trên mảnh đất Đức Phổ
những năm 1968 – 1970. Mỗi một đồng chí của ta hy sinh đều để lại trong lòng
Thùy Trâm nỗi đau đớn, xót xa. Cái chết nào cũng được nhắc đến trong nhật ký
102
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của chị qua những cái tên cụ thể: Hường, Thìn, Sơn, Dũng, Khiêm, Bốn, Lực,
Vân, Giàu, Liễn, Liên, Nhiều, Tám, Vinh, Thành,… Và với chị những cái tên đó
mãi mãi bất tử trong trái tim những người còn sống, những cái tên đã hun đúc lên
lòng căm thù nung nấu trong chị. Có những cái chết đã được Thùy Trâm ghi lại
khá tỉ mỉ: “Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất
trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy
đƣợc một đoạn nhƣng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo
Khiêm và đến băm nát ngƣời Khiêm” (Nhật ký ngày 14/8/1968).
Sự khốc liệt của chiến tranh đã được Thùy Trâm cảm nhận rất rõ bởi chị là
người trực tiếp chứng kiến, trực tiếp sống giữa sự khốc liệt ấy. Sự tàn ác của đế
quốc Mỹ đã gieo rắc lên khắp dải đất Việt Nam. Sử sách nào có thể ghi cho hết
được tội ác của chúng đối với dân tộc ta? Thùy Trâm đã truyền vào lòng người
đọc lòng căm hận quân thù sâu sắc khi chị miêu tả lại sự tàn khốc của chiến tranh
qua trang nhật ký ngày 29/7/1969: “Chiến tranh thật tàn khốc hết mức. Sáng nay
ngƣời ta đem đến cho mình một thƣơng binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy. Đến
với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên
ngƣời nạn nhân. Đó là một cậu bé hai mƣơi tuổi (…). Đôi mắt đen vui cƣời hôm
nay chỉ còn là hai hốc nhỏ mi mắt đã chín vàng, khói lân tinh vẫn còn bốc lên khét
lẹt. Trông cậu ta giống nhƣ đem thui vàng từ trong lò ra (…), từng mảng da bong
ra, cong lên nhƣ miếng bánh tráng” và nhật ký ngày 25/8/1969 cũng miêu tả rõ
tội ác của giặc: “Thằng bé con chị bụ bẫm và xinh xắn nhƣ một đứa trẻ Tây Âu
sáng nay bị hai mảnh cối xuyên vào ngực đúng vùng tim không hiểu có sống nổi
không. Chiến tranh là nhƣ vậy đó, nó không từ trẻ nhỏ, không từ một bà già và
đáng ghê tởm vô cùng là bọn Mỹ khát máu”.
Xung phong ra tiền tuyến, chắc chắn, Đặng Thùy Trâm không bao giờ có thể
ngờ được rằng, giữa nơi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt nhất vẫn
103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
còn những cái tiêu cực của cuộc sống đời thường tồn tại. Bên cạnh những người tự
nguyện hiến dâng bản thân mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, vẫn
còn những con sâu, con mọt tìm đủ mọi cách để gây trở ngại cho tập thể, gây khó
khăn cho những người dám hy sinh bản thân họ vì mục tiêu cao cả của dân tộc.
Đọc cuốn nhật ký, ta mới hiểu được, trong hoàn cảnh chiến tranh con người ta có
những phẩm chất thật phi thường, nhưng cũng có những điều nhỏ nhen, ích kỷ vô
cùng. Qua lời tâm sự của Đặng Thùy Trâm, chúng ta càng hiểu thêm về muôn mặt
của cuộc sống thời đó. Hoàn cảnh chiến tranh càng khiến cho người ta yêu thương
nhau hơn, chia sẻ với nhau nhiều hơn. Nhưng cho dù là cuộc sống đang bình lặng
hay giông tố đang nổi lên thì đâu đó vẫn còn có những kẻ đố kị với người khác,
sẵn sàng tìm đủ mọi cách để ghìm chân người đó lại để tự nâng cao giá trị của bản
thân mình. Ở ngay giữa mảnh đất Đức Phổ mang nhiều vết thương đau nhất của
Tổ quốc ta bởi bom đạn tàn bạo của đế quốc Mỹ, không ngờ, vẫn còn những kẻ
ham sống sợ chết, những kẻ tham quyền cố vị, sống bon chen để đạt được mục
đích của cá nhân mình. Trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm cũng đã đề cập đến hạng
người này:“Những sự thiếu công bằng vẫn còn trong xã hội, vẫn diễn ra hàng
ngày; vẫn còn những con sâu, con mọt đang gặm dần danh dự của Đảng, những
con sâu mọt ấy nếu không bị diệt nó đi nó sẽ đục khoét dần lòng tin yêu với
Đảng.” (Nhật ký ngày 25/5/1968). Là “một người con gái XHCN” – Thùy Trâm
đã tự nhận thức về mình như vậy, Đặng Thùy Trâm thấy xót xa vô cùng nhưng chị
không bao giờ chịu đầu hàng trước mọi khó khăn, thử thách mà chị luôn xác định
một cách đúng đắn, cương quyết thái độ và hành động của bản thân. Trước sau
như một, Thùy Trâm vẫn quyết tâm đấu tranh cho lẽ phải với quan điểm của một
người chiến sĩ Cộng sản. Nên ngay sau đó, chị cũng bộc lộ rõ thái độ của
chị :“Cuộc đấu tranh ấy đâu phải giữa một cá nhân này với một nhóm ngƣời khác
mà đó là cuộc đấu tranh giữa hai luồng tƣ tƣởng lạc hậu và tiến bộ ”(Nhật ký
104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày 2/6/1968). Đặng Thùy Trâm khao khát được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Niềm mong mỏi được vào Đảng cùng với những sự thực về những “con sâu”,
“con mọt” đang làm hoen ố danh dự của Đảng đã khiến cho Thùy Trâm giảm bớt
đi niềm vui khi chị bắt đầu và khi chị được chính thức đứng trong hàng ngũ tiên
phong ấy: “Mình nhƣ một đứa con không gia đình lâu ngày tìm về mẹ nhƣng
ngƣời mẹ ghẻ còn bận nâng niu những đứa con riêng nên thờ ơ lạnh nhạt với đứa
con chồng. Muôn ngƣời đã tạo nên một ngƣời mẹ hiền vĩ đại là Đảng, nhƣng
trong muôn ngƣời mẹ ấy có một ngƣời mẹ (và chắc không phải một ngƣời đâu) y
hệt một bà mẹ ghẻ trong câu chuyện cổ tích!” (Nhật ký ngày 20/8/1968). Ngày
được kết nạp vào Đảng lẽ ra phải là ngày đánh dấu một mốc son quan trọng trong
cuộc đời Thùy Trâm nhưng chị đã không còn giữ được niềm háo hức vì đợi chờ,
niềm vui đã trở nên quá nhỏ bé so với ý nghĩa của ngày vui: “27.9.1968. Kết nạp
Đảng. Cảm giác rõ nét nhất của ngày hôm nay là: Phải phấn đấu để sống xứng
đáng với cái tên: “một ngƣời cộng sản”. Còn niềm vui, sao nhỏ quá so với ý nghĩa
của ngày vui. Vì sao vậy hở Thùy? Phải chăng nhƣ hôm nào Thùy đã nói: nhƣ một
đứa con khát sữa mẹ khóc đã mệt rồi, miếng sữa nuốt vào không còn nguyên
hƣơng vị thơm ngon và cái thú vị của nó nữa”. Liệu có ai – trong hoàn cảnh lúc
đó, lại dám mạnh dạn bộc bạch những tâm tư và suy nghĩ thành thật như Thùy
Trâm không? Và liệu Thùy Trâm có dám mạnh dạn bộc lộ những suy nghĩ ấy của
mình cho người khác biết hay không? Chỉ có nhật ký mới là người bạn trung
thành, đáng tin cậy nhất của chị lúc ấy. Nhật ký sẽ đón nhận và chia sẻ với chị tất
cả những suy nghĩ chân thật nhất. Sự im lặng của nhật ký sẽ giúp cho chị có thể
kiểm chứng lại chính bản thân mình những khi cần thiết. Điều cốt yếu nhất mà
Đặng Thùy Trâm luôn giữ vững và tâm niệm trong cuộc đời mình là: “Một phút
sống phải là một phút vinh dự” (Nhật ký ngày 12/1/1970), “Một phút sống là một
phút chiến đấu phục vụ cách mạng” (Nhật ký ngày 2/2/1970). Và dù còn phải trải
105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
qua nhiều mất mát, nhiều đau thương hơn thế nữa, điều tâm niệm ấy không bao
giờ phai nhạt trong chị: “Còn sống ngày nào phải xứng đáng đó nghe Th.. Danh
dự là viên ngọc vô giá đừng để cho ai chà đạp lên đó cả, dù ngƣời đó có là ai, dù
họ có quyền lực đến mức nào đi chăng nữa” (Nhật ký ngày 22/2/1970). Bởi vậy,
cho dù có những lúc xao lòng trước sự thật đang hiện ra trước mắt nhưng chị vẫn
kiên định phẩm chất của một người Cộng sản.
Trong cuộc chiến tranh ấy, biết bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc ta đã
anh dũng hy sinh như Nguyễn Văn Thạc, như Đặng Thùy Trâm. Đất nước ta đã
mất đi biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, biết bao nhiêu kỹ sư, bác sĩ,… chỉ vì một
cuộc chiến tranh phi nghĩa mà đế quốc Mỹ đã gây ra. Đó là còn chưa kể đến
những di chứng đáng buồn mà cuộc chiến tranh ấy đã để lại cho dân tộc ta sau
này.
3.3.2. Giá trị nhân văn trong cả hai chiều - chiều rộng và chiều sâu.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, có lẽ cái quý giá nhất của con người là khát
vọng sống, là lý tưởng được dâng hiến bản thân mình vì độc lập, tự do của dân
tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Mãi mãi tuổi hai mƣơi và Nhật ký Đặng Thùy
Trâm là những trang nhật ký được viết được viết giữa lúc đất nước đang có chiến
tranh nên cả hai cuốn nhật ký đã bộc lộ giá trị nhân văn sâu sắc trong cả chiều
rộng và chiều sâu của nó. Nguyễn Văn Thạc mới chỉ là một chàng trai mười chín,
đôi mươi, lứa tuổi đang tràn trề sức sống nhất, lứa tuổi đang có nhiều ước mơ và
hoài bão nhất. Niềm yêu sống vẫn là những điều thôi thúc anh cống hiến tuổi trẻ
của mình cho Tổ quốc với khát vọng cao đẹp: “Mình sẽ đi bộ đội cho đến khi nào
hết giặc. Sẽ theo Bôrít Pôlêvôi, thu thập thật nhiều vốn sống, và sẽ viết văn, sẽ làm
thơ ca ngợi những con ngƣời đã hy sinh những cái quý giá nhất của riêng mình
cho giai cấp, cho dân tộc.” (Nhật ký ngày 24/1/2011). Mơ ước của Nguyễn Văn
Thạc không có gì cao siêu, tất cả đều được nảy sinh từ niềm lạc quan, yêu cuộc
106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống và từ một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước mọi cái đẹp đã đi qua tâm hồn con
người. Một khát vọng như thế, một ước mơ như thế chẳng phải là quá bình dị và
rất đỗi chân thành hay sao? Nếu một con người không có trái tim đa cảm thì làm
sao có được những khát vọng như vậy? Nguyễn Văn Thạc chưa phải là một nhà
văn nhưng trong anh luôn mang ý thức, trách nhiệm, lương tâm của một người
cầm bút trước hiện thực của đất nước: “Ta ghi tất cả, ta nghe tất cả, thu lƣợm tất
cả, làm thành những gì gọi là kỷ niệm, gọi là vốn sống. Sự phong phú, sầm uất,
ngổn ngang những cảnh đời những kinh nghiệm sống là điều không chỉ quan
trọng đối với một ngƣời, đối với cuộc sống của một con ngƣời, mà quan trọng
nhiều hơn là đối với một ngƣời viết văn. Mình sẽ làm thơ và viết văn. Đấy là mơ
ƣớc thầm kín từ rất lâu rồi (…). Mình không dám nói điều mơ ƣớc ấy với ai, kể cả
những ngƣời thân thích. Lỡ đâu không viết đƣợc thì xấu hổ chừng nào. Song giờ
đây, giờ đây, mình hiểu rằng cây bút đã nằm gọn trong tay mình. Phải viết, phải
viết - Viết say sƣa và bằng tất cả trái tim mình. Hãy cống hiến chút ít gì năng lực
và tất cả nghị lực cho thơ, cho văn. Hay dũng cảm nhận lấy trách nhiệm mà lƣơng
tâm mình trao cho. Viết bằng sự say mê của bản thân và viết bằng cả sự thôi thúc
của những sự kiện nóng hổi mà đất nƣớc và dân tộc tặng cho ta (…). Hiện thực
rực rỡ và huy hoàng quá. Hãy táo bạo, mạnh dạn ghi chép và viết. Hãy cống hiến
cho đời bằng dòng máu và dòng thơ…” (Nhật ký ngày 7/2/1972). Ở một trang
nhật ký khác, Nguyễn Văn Thạc bộc bạch: “Liệu mình có thể làm đƣợc gì, đóng
góp đƣợc gì cho văn học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con
đƣờng nào ?” (Nhật ký ngày 21/2/1972). Mỗi trang nhật ký của Nguyễn Văn Thạc
lại là những cảm xúc, những tâm trạng khác nhau của một chàng trai trẻ đang khát
khao được thực hiện lý tưởng. Dường như, trong suy nghĩ của Thạc, ta đọc được
quan niệm “Sống đã rồi hãy viết” của nhà văn Nam Cao: “Làm sao có thể có
tƣơng lai đẹp đẽ khi không có những ngƣời hôm nay đang cầm súng, đang gian
107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khổ đánh giặc. Riêng mình, hình nhƣ đây là một phần thƣởng. Đi bộ đội, với mình
không chỉ là đánh giặc. Đƣợc sống những ngày oanh liệt và vẻ vang nhất của đất
nƣớc, khi mà dân tộc ta đang thắng lớn và bƣớc nhanh đến ngày thắng lợi hoàn
toàn, mình phải viết. Phải viết với tất cả năng lực của mình có đƣợc. Phải viết với
sự say mê, cố gắng hết sức của bản thân. Viết với bao nhiêu gửi gắm và tin tƣởng
của bạn bè đối với mình. Mình rất khổ tâm và đau đớn vì chẳng viết đƣợc cái gì
có hồn cả” (Nhật ký ngày 15/4/1972). Nỗi băn khoăn và trăn trở của Nguyễn Văn
Thạc chẳng khác nào những điều mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã trăn trở và
day dứt trước đó hai mươi sáu năm: “Đau đớn không sáng tác đƣợc gì. Kịch
không xong, tiểu thuyết không làm, truyện ngắn không có” [52,tr.19]. Những suy
nghĩ của Nguyễn Văn Thạc về chuyện sáng tác văn thơ giống như là những suy
nghĩ của một nhà văn thực thụ có tâm huyết với nghề đang đau khổ bởi đứa con
tinh thần của mình đã được thai nghén bấy lâu mà cơn “vượt cạn” còn gặp nhiều
trắc trở nên đứa con ấy chưa thể sinh ra. Trong mạch máu của chàng trai trẻ
Nguyễn Văn Thạc đang ngày đêm cháy bỏng khát vọng được cống hiến sức lực
của bản thân mình cho đất nước, cho dân tộc. Anh đã nguyện dâng hiến hết mình
cho Tổ quốc cả cuộc đời và tâm hồn mà anh đang có, không mảy may một chút so
đo hay tính toán thiệt hơn. Mang nặng trong lòng những suy nghĩ và trăn trở của
một nhà văn, Nguyễn Văn Thạc cũng đã trở thành một nhà phê bình văn học. Vẫn
trong nhật ký ngày 7/2/1972, anh đã nêu lên những cảm nhận của mình về nhà thơ
trẻ Hoàng Nhuận Cầm và Phạm Tiến Duật: “Không thể nào tin đƣợc Hoàng
Nhuận Cầm lại có thể viết tốt hơn thế đƣợc (…). Hãy đến với văn học chật vật nhƣ
Phạm Tiến Duật, dò dẫm hàng năm trời không mỏi mệt, chỉ để đạt đƣợc mục đích
đem đến cho thơ một tiếng nói mới, độc đáo và riêng biệt…; chỉ để tìm đƣợc ở mỗi
ngƣời đọc, mọi ngƣời đọc một con đƣờng đi vào tận đáy sâu tâm hồn họ…”.
Trong vai trò của một nhà phê bình văn học chân chính, Nguyễn Văn Thạc cũng
108
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đã thầm kín gửi gắm vào đó khát vọng được trở thành nhà thơ. Và biết đâu đấy,
anh sẽ trở thành một nhà thơ có tên tuổi, hay một nhà phê bình văn học được
nhiều bạn đọc biết đến nếu như anh không hy sinh, nếu như anh vẫn sống cho tới
ngày hôm nay. Và còn biết bao nhiêu điều biết đâu, bao nhiêu điều giá như nữa
hiện lên trong trí tuởng tượng, trong hình dung của bạn đọc khi họ đang cầm trên
tay cuốn nhật ký của anh… Đọc thơ Trần Đăng Khoa, Nguyễn Văn Thạc cùng
không khỏi xúc động trước một tâm hồn trẻ thơ nhỏ dại mà lại có sức lay động
lòng người đọc một cách lạ lùng: “Thế mà những âm rung nhỏ xíu nhất của em lại
có sức vang động lạ lùng. Ngƣời ta thuộc thơ em, và hơn cả, thơ em làm lớn dậy
tâm hồn và trái tim biết bao ngƣời. Hạnh phúc biết mấy Khoa ơi!” (Nhật ký ngày
20/2/1972). Khát vọng được trở thành nhà thơ dường như luôn ám ảnh và thường
trực trong suy nghĩ của Nguyễn Văn Thạc. Đối với anh, được sáng tác là điều
hạnh phúc nhất mà anh hằng mong đợi: “Chao ôi, hạnh phúc biết bao nhiêu khi
chính mình đƣợc đi trên những nẻo đƣờng thấm máu đồng đội, trên những nẻo
đƣờng mang tên ngƣời con gái Lào xinh đẹp. Các anh, sung sƣớng quá! Biết bao
lần mình mơ ƣớc đƣợc đi nhƣ Phạm Tiến Duật, nằm trong mái lán Trƣờng Sơn
mà cảm hiểu cuộc sống nƣớc sôi lửa bỏng của dân tộc. Mà viết và ca ngợi” (Nhật
ký ngày 22/2/1972). Như thế, không phải là đã hết ước mơ và hoài bão, Nguyễn
Văn Thạc còn chợt nhận ra niềm hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc lớn lao mà anh
đang được hưởng: “Càng ngày, mình càng hiểu sâu sắc hạnh phúc lớn lao mà
hôm nay mình đang đƣợc hƣởng. Một nửa là nghĩa vụ và một nửa là vinh dự.
Không hiểu ai đó đã nói: Giải thƣởng lớn nhất đối với ngƣời viết văn là đƣợc
sống trong hàng ngũ quân đội. Ở đó, anh sẽ thấu hiếu tất cả nỗi nhọc nhằn, đau
khổ và những niềm vui bất tận của con ngƣời” (Nhật ký ngày 8/4/1972). Niềm
mong mỏi được tiếp nối con đường mà nhà thơ Phạm Tiến Duật đã đi, được gặp
nhà thơ “ thần tượng” của mình trên chính tuyến đường Trường Sơn khói lửa là
109
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
điều Nguyễn Văn Thạc luôn thầm ao ước. Hành động của anh luôn luôn xuất phát
từ những suy nghĩ cao đẹp về tình người: “Bất kỳ một thứ tình cảm nào, bất kỳ
mối quan hệ kỳ lạ và thiêng liêng nào nếu nhƣ không biết gắn cái riêng của mình
vào sợi dây vô hình mà bền chắc vô cùng của công việc trên đƣờng thực hiện lý
tƣởng của mình, thì tình cảm ấy không thể gọi là đẹp đẽ, không thể tồn tại lâu dài,
không thể vƣợt qua đƣợc những thử thách gay go và ác liệt của cuộc đời” (Nhật
ký ngày 24/5/1972). Con người ấy không chỉ có những suy nghĩ và hoài bão tốt
đẹp mà còn có cả tấm lòng nhân hậu sâu sắc. Trong sống hiện tại, ta rất ít gặp một
chàng trai trẻ nào lại giàu tình cảm như Nguyễn Văn Thạc. Nỗi nhớ của một người
con xa nhà, cái lạnh của những ngày giá rét cũng với nỗi trống trải vì nhớ thương
trong tâm hồn người khác được anh thấu hiểu và cảm thông như là chính bản thân
anh đang mang tâm trạng đó vậy: “Ôi, những ngày gió nổi. Bao nhiêu ngƣời mẹ
ngồi nhà nhớ đứa con đi xa đang nằm sƣơng gối đất. Chiến tranh! Không còn là
một khái niệm trừu tƣợng, xa vời. Không còn là sự gắn liền với những danh từ cao
quý nhƣng thiết thực. Ở đây là sự nhớ thƣơng – Lo cho đứa con mình bị lạnh,
thƣơng con tết liệu có bánh chƣng xanh, có đƣợc ngồi ấm cúng trong nhà khi trời
đất chuyển mình sang năm mới… Tiếng khóc nấc lên của bà mẹ, thật quý, nhƣng
cũng đáng sợ biết bao. Không ai tránh đƣợc dòng nƣớc mắt nhớ thƣơng ấy. Bên
cạnh lòng yêu nƣớc, yêu Tổ quốc, ngƣời mẹ Việt Nam còn có tình mẫu tử. Ngƣời
mẹ nào chẳng thƣơng đứa con đẻ của mình – Núm ruột dứt ra” (Nhật ký ngày
8/2/1972). Nguyễn Văn Thạc còn dành tình thương cho cả những vật vô tri, vô
giác nhưng đối với anh đó là những vật gần gũi với con người và con người phải
dành cho chúng những tình cảm chân thành nhất. Ngày 4/5/1972, trở lại nơi đã
từng hành quân qua, Thạc phát hiện ra bị mất mấy quyển sách vì phải hành quân
gấp, không thể mang theo được, anh ngẩn ngơ, thương tiếc những cuốn sách đó
110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
như mình vừa đánh mất những người bạn thân thiết, gần gũi nhất vậy: “Thƣơng
biết bao cuốn sách mình yêu quý - Những bài thơ khiến mình xúc động - Thế là
vĩnh viễn không còn gặp đƣợc nữa”.
Tuổi đời và tuổi quân càng tăng, Nguyễn Văn Thạc như trưởng thành lên
từng ngày. Anh đã nhận thức được rất rõ những nhiệm vụ khác nhau của người
lính Cụ Hồ, cho dù là lính bộ binh, lính xe tăng, lính không quân hay là lính thông
tin thì đều là những người lính góp sức mình vào bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy,
Nguyễn Văn Thạc cũng bớt dần tâm trạng nôn nóng, sốt ruột khi anh không trở
thành một người lính bộ binh. Là một người lính, Nguyễn Văn Thạc càng hiểu
thấu nỗi vất vả mà những người lính phải chịu đựng trên các chặng đường hành
quân gian khổ: “Trở lại với những chặng đƣờng hành quân, nghĩ đến những
khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi, đỏ bừng và nặng nhọc cất bƣớc. Trong lòng bỗng dội
lên một niềm thông cảm sâu sắc. Cuộc đời bộ đội gian khổ thật, thật gian khổ (và
đây chƣa nói đến sự hy sinh). Không gian khổ và khó khăn thì tại sao, toàn những
ngƣời con trai khoẻ mạnh, trẻ, sung sức và hăng hái mà phải chịu ngã xuống dọc
đƣờng mà thở (…). Những lúc hành quân nặng nhọc nhất chính là lúc ngƣời ta
hay gắt gỏng với nhau nhất và cũng chính là lúc ngƣời ta thƣơng nhau nhất.
Ngƣời ta thƣơng nhau và san sẻ cho nhau chút nƣớc trong bi đông, đeo hộ nhau
một phần nặng nhọc. Không thể nào nói hết đƣợc, vì cái gì cũng rất tế nhị và mới
đáng yêu làm sao. Dành cho đồng đội một chỗ nghỉ tốt, một mảnh chăn, một tấm
tăng lành. Dành cho bạn một chiếc hầm đào dở, dành cho bạn một khoảng thoáng
khi đến chỗ tạm dừng chân - Trời ơi, tất cả những điều đó, trong khung cảnh đó
mới đáng yêu, đáng quý làm sao - Nhất là nỗi lo lắng, dáng tất tƣởi khi có ngƣời
rớt lại phía sau, cần phải đi tìm… chỉ có trong hàng ngũ quân đội mới có đƣợc
những điều tốt đẹp đó chăng?” (Nhật ký ngày 18/4/1972). Cũng giống như người
lính trong bài thơ “ Đồng chí” của Chính Hữu, Nguyễn Văn Thạc đã hiểu rõ ý
111
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghĩa thiêng liêng của tình đồng đội, tình đồng chí - một thứ tình cảm được bắt
đầu từ sự đồng cảm, sẻ chia và cao hơn thế là tình cảm của những người cùng
chung chí hướng, cùng chung lý tưởng vì mục tiêu chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.
Mấy ai có thể ngờ được rằng, một chàng trai trẻ như Nguyễn Văn Thạc lại có
nhiều lúc để cho tâm hồn mình xao động trước những vẻ đẹp của phong cảnh thiên
nhiên, trước những vẻ đẹp của cuộc sống đến như vậy: “Đi đến Thạch Hà vào
chập tối – làng xóm ở đây thật đẹp, nhất là vào đêm trăng sáng nhƣ hôm nay. Em
nhỏ nhắc vó tôm ngoài con mƣơng lừ đừ dọc đƣờng đất rộng – Và khi vừa mƣa
chớm đặt chân vào xóm, từ sau luỹ tre ƣớt át ánh trăng bỗng thon thả tiếng hát
của ngƣời con gái. Tiếng hát bỗng trở nên gần gũi và quen thuộc khi ngó vào một
ngôi nhà ngỏ cửa, vẫn thắp ngọn đèn con với trang vở học trò.” (Nhật ký ngày
19/4/1972). Tình thương của Thạc dường như được xuất phát từ một trái tim đa
cảm nhưng lại không hề mềm yếu. Và còn rất nhiều trang nhật ký thấm đẫm
những cảm xúc như thế về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và cuộc sống con
người mà trong những khoảnh khắc yên bình ngắn ngủi Nguyễn Văn Thạc đã
nhanh mắt như một nhiếp ảnh gia chớp lấy được vào những thước phim của mình.
Sau hơn tám tháng đứng trong hàng ngũ của quân đội, Nguyễn Văn Thạc cũng đã
nhận thức được một cách nghiêm túc sự trưởng thành của chính bản thân anh. Một
con người không biết được thế nào là tình thương yêu thì không bao giờ thể hiện
được tình thương yêu với người khác. Chúng ta hãy lắng nghe Nguyễn Văn Thạc
tâm sự: “Bây giờ lớn rồi – Mình đã hiểu nhiều hơn, đậm đà hơn lòng ngƣời. Mình
hiểu đƣợc thế nào là lòng nhân đạo cao cả của lòng ngƣời - Ngƣời ta có thể hy
sinh tất cả - Hy sinh là hết thảy những gì của riêng mình cho ngƣời khác. Mà sự
hy sinh ấy là cần thiết, là đúng đắn, chứ không phải sự hy sinh một cái gì gò bó .
Một sự hy sinh hò hét và không cần thiết. Lòng tin tƣởng ở con ngƣời cũng chính
là một nét riêng rất độc đáo của lòng nhân đạo (…). Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ
112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhƣng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho
cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả - Biết yêu và biết ghét - Biết lăn lộn
trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi.
Biết sống cao thƣợng, vƣơn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và
cằn cỗi. Phải, mình phải sống nhƣ vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn
nhƣ thế - Đây là mơ ƣớc, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình
phải làm. Phải làm (…). Thạc sẽ chỉ là một con ngƣời bình thƣờng nhất, nếu chiến
tranh không cƣớp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…” (Nhật ký ngày
24/5/1972).
Khép lại những trang nhật ký Chuyện đời của Nguyễn Văn Thạc, có lẽ chúng
ta không thể nào quên được những lời nhắn nhủ chân thành của anh: “Kẻ thù
không cho tôi ở lại - Phải đi – Tôi sẽ gửi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi
nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn
Nhật ký thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu nhƣ tôi không trở lại – Ai sẽ thay
tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ƣớc rằng, ngày mai, những trang
giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để bí ẩn và
trống trải nhƣ những trang giấy này” (Nhật ký ngày 25/5/1972). Đó là tất cả
những gì mà Nguyễn Văn Thạc muốn gửi gắm tới những người may mắn hơn anh
- những người vẫn còn tiếp tục được sống sau cuộc chiến tranh đầy mất mát và
đau thương ấy. Đằng sau đó còn là lời nhắn nhủ tới thế hệ những người được sống
trong cuộc sống thanh bình của đất nước. Lời trăng trối đó của anh cũng đã để lại
cho chúng ta biết bao suy nghĩ về Chuyện đời còn dang dở mà anh chưa kịp viết
tiếp.
Khi mà dư âm của Mãi mãi tuổi hai mƣơi vẫn còn chưa hết ngân rung bởi
những điều được viết nên trong cuốn nhật ký đều đã được sàng lọc qua suy nghĩ
và tâm hồn trong sáng của một chàng trai mới bước vào ngưỡng cửa của tuổi hai
113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mươi đầy ước mơ và hoài bão với lý tưởng sống cao đẹp, mạnh mẽ thì cuốn nhật
ký của nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm lại là nơi gửi gắm những suy nghĩ chín chắn
của một người phụ nữ đã trải qua gần hết những năm hai mươi của tuổi đời, đã
được sống trọn vẹn với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta, đã
được trải qua và chứng kiến vận mệnh của đất nước ta trong những ngày tháng
sinh tử nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trước lúc hy sinh, chị đã để lại hai
cuốn nhật ký, trong đó có một cuốn còn đang viết dở và chính chị cũng như chúng
ta hôm nay không bao giờ có thể hình dung ra nổi số phận kỳ lạ của những cuốn
nhật ký này. Sự hy sinh của Đặng Thùy Trâm đã để lại lòng ngưỡng mộ và sự cảm
phục không phải chỉ đối với chúng ta mà ngay cả với những người ngược chiến
tuyến với ta hồi đó. Nếu Thùy Trâm hy sinh trong một hoàn cảnh hết sức kỳ lạ thì
hai cuốn nhật ký của chị lại trở về với gia đình chị, với chúng ta hôm nay cũng hết
sức lạ kỳ. Người đầu tiên phát hiện ra giá trị của Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm lại là
người thuộc phe đối nghịch với ta, sự phát hiện này xuất hiện ngay từ lúc cuộc
chiến tranh vẫn chưa kết thúc, ngay trong lúc cuộc chiến giữa ta và địch vẫn đang
diễn ra vô cùng ác liệt. Tại sao, một điều tưởng chừng như rất phi lý ấy lại xảy ra
đúng như nó đã xảy ra?
Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu là người phiên dịch tiếng Anh cho đơn vị
Tình báo quân sự số 635 của quân đội Mỹ biên chế bên cạnh Lữ đoàn bộ binh số
11, Sư đoàn bộ binh 23, cũng chính là người đã truyền “lửa” từ cuốn nhật ký của
nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm đến Frederic Whitehurst – sĩ quan quân báo Mỹ - kẻ
thù không đội trời chung của nhân dân ta, khi Fred định thiêu huỷ cuốn sổ nhỏ với
thông điệp: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi”. Điều
ấy là sự trùng lặp ngẫu nhiên hay là chính Trung Hiếu đã bị “lửa” từ cuốn nhật ký
ấy thiêu đốt?
Trong cả hai cuốn nhật ký của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm , ta đều
114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm nhận đựơc lòng tin vĩ đại của con người thời ấy. Nếu như, những trang nhật
ký của Nguyễn Văn Thạc hừng hực khí thế ra trận của tuổi trẻ Việt Nam những
năm chống Mỹ thì những trang nhật ký của Đặng Thùy Trâm lại thấm đượm chất
nhân văn. Phải chăng, lương tâm của một bác sĩ đã thôi thúc chị có những hành
động, việc làm và ngay cả những suy nghĩ chan chứa tình thương đối với bệnh
nhân, đối với nhân dân như vậy?
Trong suốt 35 năm, cuốn nhật ký đã được Frederic Whitehurst lưu giữ cẩn
thận như một món bảo vật vô giá. Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã xoá bỏ ranh giới ta
- địch giữa con người Việt Nam hiện nay với nước Mỹ. Từ tình dân tộc hữu nghị
giữa hai đất nước, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã khiến những người thân của
Frederic Whitehurst và những người thân yêu của chị xích lại gần hơn như những
người thân trong một gia đình. Anh em Fred và Rob đã trở lại Việt Nam tìm đến
gia đình liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm, thăm lại chiến trường xưa. Và họ đã thật sự được
sống trong không khí ấm cúng, thân mật của một gia đình. Rồi những người thân
yêu nhất của Đặng Thùy Trâm được mời sang thăm Viện lưu trữ Việt Nam, thuộc
Trung tâm Việt Nam, trường đại học Texas Tech – nơi đặt hai cuốn nhật ký của
Đặng Thùy Trâm. Hai cuốn nhật ký của Thùy Trâm được đặt trang trọng trong
một chiếc hộp nhỏ, ảnh của Thùy Trâm được lồng trong một chiếc khung bạc. Từ
cử chỉ, hành động cho đến lời nói, cách xưng hô của mọi người, không hề có một
biểu hiện nhỏ nào của ranh giới giữa chủ và khách, giữa người Việt Nam với
người nước ngoài, giữa ta và địch,... Mọi người đều dành cho nhau những cái nhìn
trìu mến, những hành động gần gũi, những mọi lời nói thân mật. Chị Đặng Kim
Trâm – em gái của Đặng Thuỳ Trâm đã ghi lại không khí trang trọng, thiêng liêng
khi chị cùng gia đình sang Mỹ để đến thăm nơi trưng bày những kỷ vật của Thùy
Trâm: “Anh quàng tay ôm lấy mẹ tôi, mắt rƣng rƣng. Ba mƣơi năm trƣớc anh là
ngƣời của phía bên kia chiến tuyến. Lúc này, tôi nhìn thấy nƣớc mắt trên má anh,
115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và nƣớc mắt những ngƣời đang đứng trong căn phòng này” [42, tr.13]. Khi mẹ và
các chị em gái của Thùy Trâm đến thăm gia đình Fred tại Mỹ, có một điều vô
cùng xúc động đã xảy ra giữa hai bà mẹ của hai đứa con từng là kẻ thù không đội
trời chung của nhau: Fred và Thùy Trâm: “Mẹ tôi và bà Kay - mẹ của Fred. Hai
ngƣời mẹ ngồi bên nhau, họ ôm nhau khóc và bùi ngùi nhắc lại những năm tháng
đau buồn - những năm tháng mẹ tôi phải chôn chặt trong tim hình ảnh đứa con
gái yêu nằm lại nơi chiến trƣờng, còn bà Kay thì phải thắt ruột nhìn con trai mình
đêm đêm la hét trong những cơn ác mộng và bị dày vò bởi ký ức khủng khiếp về
chiến tranh” [39,tr.36]. Còn Fred, không biết bao nhiêu lần anh đã khóc mỗi khi
đọc lại cuốn nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm và anh đã khóc một cách thổn thức khi
lần đầu tiên đến viếng mộ Thùy Trâm: “Tôi đã tìm đƣợc chị. Mẹ của chị là mẹ của
tôi. Các em của chị là em của tôi. Thùy ơi, tôi yêu chị. Tại sao tôi lại ngồi đây?
Tại sao chị lại nằm đây? Tại sao lại xảy ra tất cả những chuyện đó? Tại sao? Tại
sao?” [342, tr. 37]. Có bao nhiêu điều kỳ lạ nữa xảy ra mà sau ba mươi lăm năm
chúng ta mới được biết đến: Thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu - Người đã can
ngăn Fred đốt cuốn nhật ký của Đặng Thùy Trâm - hiện đang sống một cuộc sống
bình dị tại thành phố San Jose của nước Mỹ. Trước khi cuốn nhật ký của Đặng
Thuý Trâm được mọi người biết đến, Trung Hiếu phải sống một cuộc sống khép
kín, có rất ít người giao du với anh nhưng khi cuốn nhật ký đó được công bố thì
mọi người lại tìm đến anh với một tình cảm thân thiện. Thậm chí, kể từ khi bà
Doãn Ngọc Trâm tặng cho anh bản in cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm thì cuốn
sách chưa bao giờ nằm trọn trong nhà anh được một ngày bởi nó luôn được mọi
người mựơn truyền đọc. Trung Hiếu rất tự hào vì cuốn sách đã lần lượt đến được
với tâm hồn những người con xa xứ đúng như những điều mà Thùy Trâm từng
tâm niệm:
“Và ai có biết chăng ai
116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tình thƣơng đã chắp cánh dài cho ta”
(Thơ của Đặng Thuỳ Trâm - Nhật ký ngày 7/1/1970)
Cả thế giới đã từng biết đến một dân tộc Việt Nam nhỏ bé mà bất khuất, kiên
cường qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày nay, họ còn
được biết một cách tường tận về những con người có thật đã sống, chiến đấu và hy
sinh như thế nào trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Có một điều
thật ngẫu nhiên là bản dịch Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm được dịch ra tiếng Anh
trước tiên bởi chính Robert Whitehurrst và người vợ của anh là Ngọc Cơ, sau đó
là được dịch ra tiếng Pháp, rồi mới đến các thứ tiếng khác. Người Mỹ và người
Pháp nghĩ gì về cuốn nhật ký nhỏ bé này? Nhưng lại có một điều chắc chắn là
không xuất phát từ sự ngẫu nhiên: Đó là đã có rất nhiều các phong trào học tập
tấm gương của các liệt sĩ được phát động rộng khắp trong phạm vi cả nước, thậm
chí đã lan rộng ra một số nước lân cận.
Đặng Thuỳ Trâm, Nguyễn Văn Thạc chỉ là hai người con trong hàng vạn
người con ưu tú nhất của dân tộc ta đã hy sinh: Nguyễn Văn Thạc là sinh viên học
giỏi văn lại luôn có mơ ước được trở thành nhà thơ như Phạm Tiến Duật, như
Hoàng Nhuận Cầm, Đặng Thùy Trâm là bác sĩ. Họ có thể tiến xa hơn nữa trên con
đường học vấn trong hoàn cảnh đất nước hoà bình nhưng trước sự sinh tử của Tổ
quốc, họ không thể làm ngơ, không thể là những người ngoài cuộc. Nguyễn Văn
Thạc bỏ lỡ con đường học hành để lên đường đánh giặc và anh đã hy sinh khi bao
mơ ước còn dang dở, còn chưa thực hiện được. Trong đó có cả mơ ước được “xọc
lê vào thỏi tim đen đủi của quân thù”. Khác với Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy
Trâm xung phong vào chiến trường B và được phân công làm bác sĩ phụ trách
bệnh viện huyện Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi – nơi xảy ra sự giao tranh ác liệt
nhất giữa ta và địch – nơi không bao giờ ngớt tiếng súng khi ấy. Những trang nhật
ký của chị được viết nên trong những khoảnh khắc hết sức đặc biệt mà có lẽ không
117
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một cuốn nhật ký nào có được: “Giữa trận càn, bom pháo tới tấp xung quanh,
ngồi giữa kẽ đá, mình cũng vẫn ghi nhật ký và viết thƣ – Bây giờ giữa lúc công
việc bề bộn mình vẫn là mình với cả tâm tình thiết tha cháy bỏng đối với cuộc
đời” (Nhật ký ngày 26/2/1969).
Hai mươi lăm tuổi, Đặng Thùy Trâm vào chiến trường, chị đã là một bác sĩ
chuyên khoa giỏi và cũng là một người phụ nữ chín chắn trong suy nghĩ, trong
hành động. Cũng giống như Nguyễn Văn Thạc, ngay từ trang nhật ký đầu tiên, chị
đã nêu cao tinh thần của chàng thanh niên Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin trong tác phẩm
Thép đã tôi thế đấy của Nhicalai Axtơrôpxki. Thùy Trâm luôn luôn khao khát
được sống trong một xã hội chỉ có tình thương, lòng nhân ái và sự trung thực:
“Bao giờ để con ngƣời sống với nhau hoàn toàn bằng lòng ƣu ái, bằng tâm hồn
trong sáng nhƣ mình mong ƣớc” (Nhật ký ngày 17/4/1969). Tuy nhiên, Thùy
Trâm không phải là người dễ để cho tình thương chi phối tất cả mọi hành động,
mọi việc làm. Lúc nào chị cũng giữ vững lập trường và quan điểm một cách kiên
định: “Đừng để tình cảm chỉ đạo cuộc sống. Phải nhƣ Paven, nhƣ Ruồi Trâu, hay
nhƣ M của mình đó. Nhất định phải nhƣ vậy nghe Th.!” (Nhật ký ngày 8/3/1970).
Là một bác sĩ, điều day dứt và ám ảnh chị nhiều nhất chính là làm sao chữa khỏi
bệnh, chữa lành vết thương cho con người đặc biệt là những con người đêm ngày
phải đối diện trực tiếp với kẻ thù, đối diện trực tiếp với tính mạng của chính họ.
Bởi vậy, lương tâm nghề nghiệp của một bác sĩ là điều được nhắc đến nhiều nhất
trong cuốn nhật ký. Lật giở từng trang nhật ký, chúng ta đều cảm nhận được nỗi
niềm ấy của chị. Ngày đầu tiên, Thùy Trâm viết nhật ký, chị đã không thể nào che
giấu được nỗi niềm trăn trở của chị: “Nỗi băn khoăn của một ngƣời thầy thuốc +
nỗi thƣơng xót mến phục ngƣời thƣơng binh ấy làm mình không thể yên bụng.
Vuốt nhẹ mái tóc anh, mình muốn nói với anh rằng: với những ngƣời nhƣ anh mà
tôi không cứu chữa đƣợc thì đó là điều đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời
118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phục vụ của một ngƣời thầy thuốc” (Nhật ký ngày 8/4/1968).
Dường như, tất cả tấm lòng yêu thương đối với quê hương đất nước đều được
chị dồn nén vào tình thương yêu đối với những người thương binh, đối với những
đồng chí của chị và những người dân chất phác nhưng kiên cường trên mảnh đất
Đức Phổ. Với bất kỳ một người thương binh nào, chị cũng dành cho họ một tình
thương đặc biệt: “Ơi ngƣời thƣơng binh trẻ tuổi dũng cảm kia ơi, tôi thƣơng anh
bằng một tình thƣơng rộng rãi nhƣng rất sâu xa: tình thƣơng của một ngƣời thầy
thuốc trƣớc bệnh nhân, tình thƣơng của một ngƣời chị đối với đứa em đau ốm và
tình thƣơng ấy đặc biệt hơn đối với mọi ngƣời vì cộng thêm cả lòng mến phục”
(Nhật ký ngày 10/4/1968). Chính tình thương đối với những người thương binh đã
thôi thúc chị phải cố gắng hết sức mình trong công việc. Nhìn biết bao nhiêu bệnh
nhân phải chết do điều kiện thiếu thốn của bệnh xá trong hoàn cảnh chiến tranh,
Thuỳ Trâm đau xót như mất đi những người thân yêu nhất của chị. Lương tâm và
trách nhiệm của một người bác sĩ càng khiến chị đau lòng hơn: “Buồn vô cùng!
Sao một cas tử vong không đáng tử vong lại không rút ra đƣợc bài học gì đích
đáng cả” (Nhật ký ngày 5/10/1968), “không thể làm gì đƣợc hơn đành đóng ổ
bụng lại và đau xót nhìn ngƣời bệnh nhân đi dần đến cái chết. Chiều nay đứng
bên giƣờng bệnh anh, lòng mình đau nhƣ cắt” (Nhật ký ngày 24/10/1968), “mới
hôm qua đó một thanh niên hai mốt tuổi thƣơng tích đầy mình. Anh ta gọi tên
mình mong đƣợc cứu chữa, nhƣng mình cũng đành rơi nƣớc mắt nhìn anh chết
trong đôi tay bất lực” (Nhật ký ngày 1/11/1968). Còn gì đau đớn hơn khi đồng chí
của mình ngã xuống trên chính đôi tay của mình, còn gì đau đớn hơn khi nhìn thấy
cái chết đang cận kề người đồng chí mà mình lại bất lực. Người bác sĩ nào mà lại
không muốn cứu sống bệnh nhân của mình? Huống chi, bệnh nhân đó lại là người
đồng chí, đồng đội của mình nhưng vết thương do địch để lại trên cơ thể các anh
quá lớn nên một người bác sĩ tận tâm như Thùy Trâm cũng không thể nào giành
119
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giật được sự sống cho các anh từ tay thần chết. Nỗi đau vì sự bất lực cùng với tình
thương yêu sâu sắc trỗi dậy trong lòng người nữ bác sĩ trẻ: “Cuối cùng anh đã chết
– cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu
kiên quyết của mình chăng? Rất có thể là nhƣ vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra
100% thì hy vọng sống của anh cũng có thể là 10%” (Nhật ký ngày 13/3/1969).
Như vậy, tình thương của Thùy Trâm đối với những người thương binh không chỉ
xuất phát từ tình thương của một người bác sĩ đối với bệnh nhân mà còn xuất phát
từ tấm lòng cảm phục đối với những con người đã sẵn sàng hy sinh bản thân mình
cho đất nước và còn xuất phát từ tình thương yêu đối với những người mẹ, người
cha đã sinh ra những người con anh hùng ấy. Chị đau xót vô cùng khi chứng kiến
cảnh một người mẹ đau đớn vì đứa con trai duy nhất của mẹ bị địch bắt, không
biết sống chết ra sao, Thùy Trâm càng đau xót hơn: “Biết bao nhiêu bà mẹ nhƣ mẹ
Đƣờng sẽ còn đau khổ khóc than đến cạn dòng nƣớc mắt. Ôi nếu mình ngã xuống,
má mình cũng sẽ nhƣ bà mẹ ấy thôi, cũng sẽ là một bà mẹ suốt đời hy sinh vì con
để rồi mãi mãi đau xót vì con mình đã ngã xuống nơi chiến trƣờng khói lửa. Mẹ
ơi! Con biết nói sao khi lòng con thƣơng mẹ trăm nghìn triệu mà cũng đành xa mẹ
ra đi. Quân thù đang còn đó, bao nhiêu bà mẹ còn mất con, bao nhiêu ngƣời vợ
mất chồng. Đau xót vô cùng” (Nhật ký ngày 23/4/1968). Trái tim nhân hậu của
Thùy Trâm luôn ngân lên những nhịp đập của lòng thương cảm sâu sắc, chứa chan
nghĩa tình giữa con người với con người. Trái tim ấy không thể nào lau khô được
những giọt nước mắt của tình thương yêu mà chị dành cho mọi người. Dường như,
trái tim đồng cảm của Thùy Trâm cùng chung nhịp đập với trái tim tràn đầy tình
thương yêu của những người cha, người mẹ mất con:“Khiêm chết rồi, đầu giập
nát, chân tay bay mất một bên. Khiêm nằm phơi trên bãi cát quê hƣơng. Cha
Khiêm hai tay bị trói chặt, vai ròng ròng máu vì vết thƣơngg. Khi nhìn thấy xác
Khiêm dòng nƣớc mắt ông tuôn trào, trong đôi mắt rực lửa căm thù và đau xót ấy
120
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời ta đã thấy tình thƣơng vĩ đại của ngƣời cha. Khiêm chết rồi, mẹ Khiêm
đứng trƣớc xác con mà không biết gì nữa, cho đến hôm nay bà vẫn chƣa hồi phục
lại. Những lúc tỉnh táo là những lúc bà khóc thƣơng con” (Nhật ký ngày
17/9/1968).
Trong hoàn cảnh cận kề với cái chết, chỉ có tình thương là bất tử bởi tình
thương mới có thể làm bền vững được tinh thần lạc quan, lòng yêu đời của con
người. Hoàn cảnh chiến tranh đã làm nảy sinh một thứ tình cảm vô cùng thiêng
liêng và cao đẹp, đó là tình đồng chí. Đọc nhật ký của Đặng Thùy Trâm, chúng ta
lại có thêm một phát hiện mới về tình đồng chí. Tình đồng chí không chỉ là tình
cảm của những người cùng chung chí hướng, cùng chung chiến hào trong cùng
một hoàn cảnh mà đó còn là một thứ tình cảm giống như tình cảm anh em ruột thịt
pha lẫn tình bạn bè thân thiết mà chỉ có những ai được sống trong tình cảm ấy mới
cảm nhận hết được: “Chia tay anh Kỳ và chị Phƣợng (…). Anh ôm mình trong đôi
tay mảnh khảnh, hành động đó rất bình thƣờng với anh nhƣng hôm nay sao làm
mình cảm động (…). Và buổi cuối cùng nằm trong cánh tay của chị Phƣợng, nghe
những lời dặn lại mình lặng yên không nói, những giọt nƣớc mắt âm ấm chảy trên
mặt mình và rơi sang mặt chị” (Nhật ký ngày 17/4/1968). Có lẽ chỉ trong hoàn
cảnh chiến tranh, con người ta mới giữ được những tình cảm chân thành mà hồn
nhiên, trong sáng đến như vậy. Đành rằng, có lúc, Thùy Trâm lo lắng sự gần gũi
của tình đồng chí giữa chị với những đồng chí khác có thể khiến nhiều người hiểu
lầm sang một thứ tình cảm khác nhưng tình đồng chí thiêng liêng và cao cả vẫn
sáng ngời trong chị: “Những giây phút đáng ghi nhớ trong cuộc đời của một
ngƣời đi làm cách mạng. Mình lặng yên nghe hơi thở của ngƣời đồng chí thân
thƣơng ấm trên mái tóc của mình (…). Mối tình “sâu đậm, trong ngần, thiết tha”
ngày càng xanh tƣơi trong tâm hồn mình. Mình trân trọng nâng niu bảo vệ nó, dù
trong hoàn cảnh nào cũng quyết giữ gìn nó trọn vẹn. Ơi ngƣời đồng chí thƣơng
121
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yêu, có phải vì cuộc sống quanh mình đang diễn ra sôi nổi và nóng bỏng căm thù
nên tình thân của những ngƣời chung đội ngũ chiến đấu đã gắn chặt chúng ta
trong mối tình thiêng liêng ấy. Ta đến với nhau bằng con đƣờng của những ngƣời
chung lý tƣởng, mối tình hoàn toàn khác hẳn với tình yêu của những ngƣời con
trai với những ngƣời con gái nhƣng nó cũng có một sức mạnh diệu kỳ. Sức mạnh
đó cho ta niềm vui, hy vọng, giúp ta quên đi những đau xót đang diễn ra quanh
mình và nó đã là ngọn lửa sƣởi ấm trái tim mình, một trái tim sôi nổi cần đƣợc
nuôi dƣỡng bằng những tình cảm trong sạch và chân chính” (Nhật ký ngày
26/3/1970).
Tình yêu đất nước, tình yêu thương đồng đội đã khiến cho Thuỳ Trâm càng
căm thù quân giặc cao độ. Mỗi khi nghe tin một đồng chí của chị hy sinh là chị
vừa xót xa, đau đớn như mất đi một người thân yêu nhất vừa căm phẫn quân thù
tàn ác. Ngày 22/4/1968, nghe tin Hường - một người đồng chí đã anh dũng hy
sinh, Thùy Trâm đã không thể nào kìm nén được cảm xúc của chị: “Mình nghe tin
mà bàng hoàng nhƣ trong cơn ác mộng. Bao giờ cho hết những đau xót này – nay
một ngƣời ngã xuống, mai lại một ngƣời ngã xuống. Xƣơng máu đã chất cao nhƣ
ngọn núi căm thù sừng sững trƣớc mặt chúng ta. Bao giờ! Bao giờ và bao giờ hỡi
các đồng chí? Bao giờ mới đuổi hết lũ quân uống máu ngƣời không tanh ấy ra
khỏi đất nƣớc chúng ta”. Tình thương đồng chí, đồng đội, thương nhân dân trong
Đặng Thùy Trâm luôn gắn liền với lòng căm thù quân giặc: “ Em ơi! Nếu em có
làm sao thì chị biết nói gì nữa hở em? Chị sẽ khóc ròng bao đêm vắng hay là nƣớc
mắt khô lại thành ngọn lửa thù rực cháy trong tim chị?” (Nhật ký ngày
23/4/1968). Nhìn những người lính ngay cả khi bị thương rồi mà vẫn không được
nghỉ ngơi, vẫn phải chạy giặc, Thùy Trâm rất đau xót: “Không hiểu sao lòng mình
thấy tha thiết thƣơng những đồng chí thƣơng binh, vết thƣơng chƣa lành đã bò
từng bƣớc, leo hết núi này qua núi nọ trốn địch. Các đồng chí không đƣợc yên khi
122
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đang nằm điều trị vết thƣơng còn đau nhức. Còn giặc Mỹ, còn khổ đau – có cái gì
khác hơn đâu!” (Nhật ký ngày 2/4/1969). Thùy Trâm là một cô gái nhạy cảm, hay
xúc động và mau nước mắt. Tình thương yêu đồng chí, đồng đội và nỗi đau khi
đồng chí của chị hy sinh đã chất cao thành ngọn lửa căm thù sục sôi trong chị:
“Đau buồn bây giờ không thể biểu hiện bằng nƣớc mắt mà hãy bằng ý chí trả thù,
bằng sự nghiến răng lại ngẩng đầu mà bƣớc tiếp chặng đƣờng gian khổ” (Nhật ký
ngày 27/4/1970). Ngọn lửa căm thù ấy đang bùng cháy trong tâm can chị và Thùy
Trâm quyết biến ngọn lửa ấy thành những hành động cụ thể mà chị cùng các đồng
chí, cùng nhân dân Phổ Cường phải thực hiện: “Ôi! Căm thù đến bầm gan tím
ruột. Tại sao cũng là con ngƣời mà lại có những con ngƣời độc ác tàn tệ muốn lấy
máu đồng bào để làm nƣớc tƣới cho gốc cây vàng của nó vậy” (Nhật ký ngày
5/5/1970).
Hoà bình là mong ước của cả dân tộc Việt Nam trong những năm chiến tranh.
Một người con đã quyết tâm hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ nền hòa
bình ấy như Đặng Thùy Trâm càng khao khát hoà bình hơn nữa. Ngay cả trong
giấc mơ, chị cũng mơ thấy hoà bình: “Đêm qua mơ thấy hoà bình lập lại, mình trở
về gặp lại mọi ngƣời. Ôi, giấc mơ Hoà bình Độc lập đã cháy bỏng trong lòng cả
ba mƣơi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền Hoà bình Độc lập ấy mà chúng ta đã
hy sinh tất cả. Biết bao ngƣời đã tình nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình vì bốn
chữ Độc lập Tự do. Cả mình nữa, mình cũng đã hy sinh cho cuộc sống riêng mình
vì sự nghiệp vĩ đại ấy” (Nhật ký ngày 2/6/1968). Trong nhiều trang nhật ký khác,
chị lại viết về một giấc mơ như thế. Sau gần bốn năm ra trận, đối diện với bom
đạn của chiến tranh, đối diện với những mất mát đau thương, Thùy Trâm cũng có
những giây phút chạnh lòng nhưng trong chị vẫn trỗi dậy những ước mơ về độc
lập, tự do: “Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cƣớp
mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Nhƣng… tuổi hai mƣơi của thời đại này
123
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đã phải dẹp lại những ƣớc mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có… Ƣớc mơ bây giờ
là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nƣớc. Mình cũng nhƣ những
thanh niên khác đã lên đƣờng ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi
đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đƣợm mồ hôi, nƣớc mắt, máu xƣơng của
những ngƣời đang sống và những ngƣời đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp
trong thử thách gian lao của chiến trƣờng, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì
ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt” (Nhật ký ngày 1/1/1970).
Cũng như bao người con ưu tú của dân tộc ta, Đặng Thùy Trâm luôn nêu cao
tinh thần tự hào, tự tôn về đất nước mình, dân tộc mình: “Có nơi đâu nhƣ mảnh
đất này không? Có nơi đâu mà mỗi ngƣời dân là một dũng sĩ diệt Mỹ, mảnh đất
thấm máu kẻ thù, mỗi gia đình đều mang nặng khăn tang mà vẫn kiên cƣờng chiến
đấu với niềm lạc quan kỳ lạ” (Nhật ký ngày 3/7/1968). Tình yêu của chị đối với
đất nước như tình yêu thương đối với những người thân yêu nhất của chị. Nhìn đất
nước đau thương chìm trong khói lửa chiến tranh , lòng chị đau như cắt từng khúc
ruột: “Vậy mà mƣời sáu năm qua đất nƣớc vẫn chƣa ngừng xƣơng rơi máu chảy.
Miền Nam đã hai lăm năm trong lửa đạn chiến tranh. Đất nƣớc ơi! Hai lăm năm
trong lửa đạn vẫn kiên cƣờng gan góc, vẫn ngẩng cao đầu trong thế tiến công.
Mỗi bƣớc đi máu thấm đỏ trên chặng đƣờng chiến đấu! Cả thế giới này có nơi
nào chịu nhiều khổ đau nhƣ đất nƣớc ta chăng?” (Nhật ký ngày 7/5/1970).
Đọc những dòng chữ của Đặng Thùy Trâm trong nhật ký, chúng ta như được
sống trong khí thế hào hùng của cả dân tộc ta những năm đánh Mỹ. Mỗi dòng chữ
của chị khi viết về quê hương đất nước đều chắc nịch những suy nghĩ chín chắn
của một cô gái từng trải qua nhiều bước đường của cuộc chiến tranh ái quốc. Thùy
Trâm tin tưởng tuỵêt đối vào con đường mà dân tộc ta đã lựa chọn với một niềm
tự hào, kiêu hãnh. Dường như, Đặng Thùy Trâm đang viết nên bản anh hùng ca về
đất nước Việt Nam, về con người Việt Nam anh dũng, kiên cường trong lửa đạn
124
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với một thái độ đầy ngưỡng mộ và cảm phục: “Miền Bắc thân yêu vẫn khoẻ mạnh
vƣơn lên trong bom rơi lửa đạn. Chiến tranh không hề làm chậm bƣớc đi của đất
nƣớc ta trên đƣờng chiến thắng. Đất nƣớc nhƣ một chàng trai đầy nghị lực, dù vết
thƣơng đau nhƣng chàng trai vẫn đi, nụ cƣời trên môi và niềm tin trong đôi mắt.
Mình đã gặp biết bao chàng trai nhƣ vậy trên đất miền Nam anh hùng này và hôm
nay, qua những lá thƣ miền Bắc, hình ảnh chàng trai ấy lại hiện lên vĩ đại và sinh
động” (Nhật ký ngày 18/7/1968). Thùy Trâm đã dành trọn tình cảm cho mảnh đất
miền Nam đau thương. Ở đó, ngày đêm, máu vẫn đang chảy, nước mắt vẫn rơi
nhưng tấm lòng đối với quê hương miền Bắc vẫn không nguôi ngoai trong chị.
Nỗi nhớ những người thân, nhớ bạn bè và nhớ cả từng con đường, góc phố gắn
với những kỷ niệm vui buồn càng tiếp thêm ý chí chiến đấu, tinh thần làm việc
đầy trách nhiệm cho Thùy Trâm. Bất kỳ một thông tin nào về miền Bắc cũng làm
con tim chị rung lên những xúc cảm đặc biệt: “Có tai nạn gì không hở miền Bắc
thân yêu? Bão ngoài đó mà lòng mình cũng bão. Lo âu, thƣơng nhớ. Miền Bắc ơi,
hãy vững vàng nhé, hãy hiên ngang nhƣ những ngày chiến thắng” (Nhật ký ngày
8/9/1968)
Những lúc thanh thản, Thùy Trâm cũng mở rộng tâm hồn mình ra để đón
nhận từng khoảnh khắc yên bình nhất giữa cuộc chiến tranh này. Vẻ đẹp của
phong cảnh thiên nhiên đất nước đã giúp cho chị quên đi những mệt mỏi, quên đi
những đau buồn. Là một người con gái “tiểu tư sản” – chị vẫn thường gọi mình
như thế - Thùy Trâm thả tâm hồn lãng mạn, bay bổng của chị vào từng tia nắng
đầu thu để mà tận hưởng trọn vẹn cái đẹp của quê hương mình: “Nắng đầu thu
tƣơi vàng óng ả tràn ngập cả khu rừng. Nắng đầu thu với những cơn gió se môi và
se cả lòng ngƣời. Lại nhớ… nhớ mênh mông sâu thẳm nhƣ lòng đại dƣơng đang
ôm tròn thân mình dải đất Việt Nam” (Nhật ký ngày 8/10/1968).
Phẩm chất nổi bất nhất ở người con gái thủ đô ấy là tấm lòng thương yêu
125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chân tình mà chị dành cho mọi người. Tình thương đó đã có sức mạnh kỳ diệu tạo
nên nghị lực sống mạnh mẽ ở chị. Trước khi làm nên được những điều phi thường,
Thùy Trâm cũng là một phụ nữ rất bình thường như bao người phụ nữ khác. Ngay
cả khi đã là một người bác sĩ - chiến sĩ, trong con người chị vẫn luôn có những
điều rất bình thường ấy. Thùy Trâm là một cô gái dễ nhạy cảm và hay xúc động.
Tình yêu của chị với một người con trai tên là M tan vỡ sau tám năm ròng chị cố
gắng gìn giữ, cho dù là do bất kỳ nguyên nhân gì thì chị cũng không thể không
đau khổ. Mỗi lần có ai đó nhắc đến anh hay mỗi lần nghĩ đến anh, chị đều cảm
thấy trái tim mình rớm máu: “Ta thực sự xa nhau rồi đó ƣ anh? Sao em vẫn cảm
thấy con tim mình rỉ máu, vết thƣơng trái tim sao khó lành quá hở anh?” (Nhật ký
ngày 9/3/1969). Nhưng những đau khổ trong tình yêu lại không hề khiến cho
Thùy Trâm chán nản hay buồn bã. Mỗi khi nỗi đau khổ trong tình yêu xuất hiện,
Thùy Trâm lại cố gắng gượng dậy bằng tất cả sức mạnh của nghị lực sống mà chị
đã mang sẵn trong mình. Sự đau khổ đâu dễ gì mà buông tha cho chị - một người
con gái có tâm hồn nhạy cảm, có nhiều lúc bị tình yêu làm cho mềm yếu. Hơn nữa
tình yêu lại là một thứ tình cảm thiêng liêng, có những sắc thái riêng mà con người
khó có thể quên lãng. Bởi vậy, hình ảnh của M luôn làm thức dậy nỗi đau khổ, xót
xa trong Thùy, Thùy cũng đã cố gắng đẩy xa nỗi đau khổ ấy mà chưa được nên
chị chỉ biết tự động viên và khích lệ sự nỗ lực của chính chị mà thôi: “Hãy đứng
dậy Th. ơi, dù gió mƣa giông bão đang nổi lên, dù nƣớc mắt chảy tràn thành suối
nguồn đau khổ thì cũng hãy giữ vững tinh thần. Th. hãy bằng nghị lực, bằng niềm
tin ở chính nghĩa, bằng lý tƣởng cuộc đời mình mà đi tiếp những bƣớc đƣờng gai
góc gian lao” (Nhật ký ngày 30/6/1968). Đặng Thùy Trâm luôn xác định sống và
hành động theo phương châm: “Đời phải trải qua giông tố nhƣng chớ cúi đầu
trƣớc giông tố”. Nên, cuộc sống dù có nhiều chông gai, dù phải trải qua bao nhiêu
thử thách, chị vẫn vượt lên trên tất cả bằng nghị lực sống, bằng niềm tin vào cuộc
126
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống và bằng cả sự dẻo dai của một người con gái đã được sống, đã được trải qua
cuộc kháng chiến chống Pháp và nay lại được trực tiếp góp sức mình vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta. Yêu đến mức phải đau khổ nhưng Thùy
Trâm là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, chị không chấp nhận một tình yêu
“chắp vá”, chị không dễ dàng gì để tha thứ cho người chị đã yêu hết mình mà lại
phản bội chị: “Không đâu, mình không bao giờ chịu một tình yêu chắp vá, và M.
cũng không phải là kẻ chịu van xin mình tha thứ để đƣợc một tình yêu chắp vá”
(Nhật ký ngày 5/7/1968).
Có thể nói rằng Nhật ký Đặng Thùy Trâm là bản anh hùng ca đầy máu và
nước mắt. Máu xương của dân tộc ta đã đổ, mồ hôi và nước mắt của dân tộc ta đã
rơi, đau xót biết chừng nào. Có những lúc, Thùy Trâm không muốn viết tiếp
những trang nhật ký của chị nữa. Những mất mát, đau thương lớn lao của đất nước
ta khiến chị không thể cầm lòng: “Đau xót biết chừng nào! Không lẽ quyển sổ nhỏ
này cứ ghi tiếp mãi những trang đầy máu hay sao. Nhƣng Thùy ơi! Hãy ghi đi, ghi
cho đầy đủ cả những máu xƣơng, mồ hôi nƣớc mắt của đồng bào ta đã đổ hai
mƣơi năm nay. Và ở những ngày cuối cùng của cuộc đấu tranh sinh tử này, mỗi sự
hy sinh càng đáng ghi, đáng nhớ nhiều hơn nữa. Vì sao ƣ? Vì đã bao nhiêu năm
rồi ta chiến đấu hy sinh và niềm hy vọng đã nhƣ một ngon đèn rực sáng trƣớc
mắt, ở cuối đoạn đƣờng, hôm nay gần đến đích thì ta ngã xuống” (Nhật ký ngày
4/8/1968).
Điều đọng lại trong lòng người đọc về một người con gái Hà Nội đã xung
phong ra trận tuyến để đương đầu với kẻ thù đó là người con gái ấy chưa bao giờ
có ý tưởng rút lui khỏi cuộc chiến đấu mà biết bao đồng chí của chị đang ngày
đêm tham gia, ngược lại chị luôn luôn tự hào về những gì chị đã đóng góp cho Tổ
quốc. Qua nhật ký, Thùy Trâm gửi tới người mẹ thân yêu của chị những lời tâm sự
của một cô con gái yêu xa gia đình đã gần bốn năm qua: “Ai đâu có thể vì tiền tài
127
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
danh vọng mà ra đi, còn con ngoài Đảng chắc không ai có thể làm con xa với gia
đình. Con vẫn là một chiến sĩ trong cuộc chiến đấu này.” (Nhật ký ngày
19/6/1970). Cho đến những dòng cuối cùng của cuốn nhật ký, chúng ta vẫn đọc
được niềm khát khao của Thùy Trâm, đó là được sống trong vòng tay yêu thương
của những người thân: “Không, mình không còn thơ dại nữa, mình đã lớn, đã dày
dạn trong gian khổ nhƣng lúc này đây sao mình cảm thấy thèm khát đến vô cùng
bàn tay chăm sóc của một ngƣời mẹ mà thực ra là một bàn tay của một ngƣời thân
hay tệ hơn chỉ là một ngƣời quen cũng đƣợc. Hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay
mình trong lúc cô đơn, truyền cho mình tình thƣơng, sức mạnh để vƣợt qua những
chặng đƣờng gian khổ trƣớc mắt”. Hai ngày sau khi viết những dòng nhật ký này,
Đặng Thùy Trâm đã anh dũng hy sinh trong tư thế đang đương đầu với kẻ thù:
Một vết đạn sâu hoắm ghim ngay giữa trán chị!
Giờ thì chúng ta đã hiểu tại sao Nguyễn Trung Hiếu lại nói với Frederic
rằng: “Frederic, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi”. Phải
chăng đó là ngọn lửa ấm áp của tình thương yêu mà Đặng Thuỳ Trâm dành trọn
cho mọi người quanh chị, ngọn lửa ấy đã biến thành ngọn lửa của lòng căm thù
sục sôi đối với đế quốc Mỹ xâm lược? Sau ba mươi lăm năm, Nhật ký Đặng Thùy
Trâm đã góp phần không nhỏ vào việc hoá giải sự cảm thông và cảm thương giữa
những người đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh (Kể từ hai phía ta - địch), giữa
những người đứng ngoài cuộc chiến tranh đó, giữa hai dân tộc đã từng là kẻ thù
của nhau. Mặc dù Trung Hiếu đã nói rõ lý do khiến anh can ngăn Fred đốt cuốn
nhật ký: “Chỉ vì giọng văn bắt mắt” nhưng những lời anh khẳng định về giá trị của
cuố nhật ký thì chúng ta không thể phủ nhận: “Trong cuốn nhật ký này quả có sức
mạnh, sẽ không có gì có thể cản nổi ngọn lửa của nó, nó sẽ đi vào lịch sử” [42,
tr.212]
128
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.3.3. Giá trị kiểm chứng tính chân thực của đề tài chiến tranh trong văn học.
Có thể, trước khi hai cuốn nhật ký này được xuất bản, những người không
được trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh sinh tử của dân tộc ta, đặc biệt là các
thế hệ người Việt Nam sau này sẽ có thái độ hoài nghi về tính trung thực của
những tác phẩm văn học viết về chiến tranh nhưng hai cuốn nhật ký đã khẳng định
được tính chân thật ấy của văn học. Hiện thực mà Nguyễn Văn Thạc và Đặng
Thùy Trâm viết nên trong nhật ký đều là những hiện thực điển hình mà bất kỳ một
người lính nào tham gia vào hiện thực ấy đều cảm nhận được. Tuy nhiên, những
mảng hiện thực tưởng chừng như rất nhỏ lẻ ấy lại không hề thấy xuất hiện trong
các tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học bao giờ cũng muốn xây dựng hình
tượng những nhân vật điển hình trong một hoàn cảnh điển hình nhưng dù sao mỗi
hoàn cảnh đó đều mang tính chất cá biệt để làm sáng lên hoặc làm nổi bật phẩm
chất và tính cách của nhân vật. Hiện thực cuộc chiến tranh được tái hiện qua hai
cuốn nhật ký được kéo dài theo biên độ thời gian và được mở rộng theo không
gian. Trong Mãi mãi tuổi hai mƣơi, hiện thực chiến trường hầu như ít được tái
hiện. Bởi thực tế, Nguyễn Văn Thạc chưa kịp hành quân vào sâu chiến trường thì
anh đã hy sinh. Những mảng hiện thực được tái hiện trong nhật ký của anh chủ
yếu là những điều anh được chứng kiến khi đang trong giai đoạn huấn luyện, khi
đang trên đường hành quân vào Nam. Nhưng đặt vào vị thế của anh khi ấy, chắc
hẳn, bất kỳ một người lính nào cũng có những cảm nhận và suy nghĩ giống như
anh. Những điều này, chưa được tác phẩm văn học nào đề cập đến. Các nhà văn
viết về chiến tranh chỉ chú trọng đến việc miêu tả hiện thực gian khổ và khốc liệt ở
chiến trường chứ chưa chú ý đến “những chặng đường” để đến được với chiến
trường ấy.
Hiện thực được Đặng Thùy Trâm tái hiện trong cuốn nhật ký của chị có phần
gần gũi với tác phẩm văn học hơn. Thế nhưng tại sao Nhật ký Đặng Thùy Trâm lại
129
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
có “sức hút” hơn hẳn các tác phẩm văn học đã được đánh giá là rất thành công với
đề tài viết về chiến tranh? Vấn đề đặt ra là: Sự thật được miêu tả một cách chân
thực, tỉ mỉ bằng tất cả tấm lòng và tình cảm của người trong cuộc hay được miêu
tả bằng trí tưởng tượng nghệ thuật của nhà văn. Sức lay động lòng người mà Nhật
ký Đặng Thùy Trâm có được phải chăng bắt nguồn từ sự cảm nhận trong chịu
đựng và đón nhận của một người phụ nữ. Hiện thực về cuộc chiến tranh chống Mỹ
cứu nước của dân tộc ta trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm chỉ được tái hiện ở một
khoảng thời gian nhất định từ ngày 8/4/1968 đến ngày 20/6/1970. Nhưng khoảng
thời gian đó cũng đủ để cho chúng ta cảm nhận được về số phận của một người
phụ nữ đa sầu, đa cảm mà lại có bản lĩnh cứng cỏi và nghị lực phi thường. Hiện
thực đó được miêu tả lại đúng như nó đã tồn tại và tiếp diễn, không hề có yếu tố
hư cấu, yếu tố “nhào nặn” để lấy lòng độc giả. Bởi Thùy Trâm không hề muốn
công bố nhật ký của chị - nếu như chị còn sống.
Đã bao giờ các tác phẩm văn học viết về chiến tranh đề cập đến số phận của
những người thuộc phe đối địch với ta chưa? Trong hầu hết các tác phẩm văn học,
những kẻ thuộc phe “địch” luôn là những kẻ vô cùng xấu xa và tàn ác. Những
nhân vật văn học kiểu này thường được các nhà văn đưa vào tác phẩm để làm nổi
bật hơn những nhân vật thuộc phe “ta”. Nhưng trong suốt cuộc hành trình ba mươi
lăm năm, cuốn nhật ký của Đặng Thùy Trâm đã giúp chúng ta nhận ra một sự thực
đằng sau cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra ấy. Đó là thân phận và bi kịch mà
những người lính Mỹ, những người lính nguỵ phải gánh chịu. Họ cũng chính là
một kiểu nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Họ vô tình tham dự vào
cuộc chiến tranh chém giết bởi họ bị mắc vào những chiêu bài “lừa bịp” mà những
người đứng đầu Chính phủ Mỹ tuyên truyền và hứa hẹn. Khi đứng giữa bom rơi,
đạn nổ, vì sự sinh tồn của bản thân, họ buộc phải cầm súng giết hại những người
thuộc phe đối nghịch với họ. Để rồi khi cuộc chiến tranh đã chấm dứt, những ám
130
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ảnh, nhưng day dứt vẫn đeo đuổi họ trong suốt phần đời còn lại.
Nếu những cuốn nhật ký chiến tranh đáp ứng đúng với di nguyện của những
người anh hùng liệt sĩ, không được công bố rộng rãi thì liệu hiện thực trái chiều
này của cuộc chiến tranh có được chúng ta biết đến hay không? Tại sao lại có
những kẻ biến sự hy sinh của người khác thành sự vô nghĩa như vậy? Đã có biết
bao nhiêu tác phẩm văn học viết về hiện thực hào hùng và vĩ đại của cuộc chiến
tranh ái quốc với những ngôn từ ngợi ca không ngớt nhưng những góc khuất nhỏ
bé của cuộc chiến tranh lại không được các nhà văn quan tâm tới. Tất nhiên, mặt
trái ở giữa cuộc chiến tranh chỉ là một phần rất nhỏ bé, không thể làm hoen ố được
sự vĩ đại và hào hùng của cuộc kháng chiến mà cả dân tộc ta đã dốc toàn bộ sức
lực vào đó. Trong khi văn học đòi hỏi sự chân thực một cách tối ưu, có khi đó còn
là sự chân thực đến từng chi tiết thì các nhà văn lại không mạnh dạn đề cập đến
hiện thực ấy trong các tác phẩm của mình. Như vậy, sự trung thực của các tác
phẩm văn học viết trong giai đoạn diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của dân tộc ta chỉ mang tính chất tương đối. Một phần rất nhỏ của hiện thực vẫn
được các nhà văn che giấu. Để lý giải được hiện tượng này, quả thật không phải là
điều khó.
Đọc những trang nhật ký này, có lẽ người đọc sẽ hiểu được vì sao con người
lại có niềm tin tưởng bất diệt vào tình yêu, vào cuộc sống đến thế. Điều gì đã thôi
thúc Thùy Trâm xung phong vào chiến trường – nơi chị sẽ phải đối diện với cái
chết chóc và sự hiểm nguy. Tình yêu đã khiến con người làm được điều đó: “Mình
lên đƣờng vào Nam theo tiếng gọi của Tổ quốc và tình yêu” (Nhật ký ngày
13/1/1970). Nguyễn Văn Thạc cũng vậy, anh ra trận không phải chỉ có lòng yêu
Tổ quốc thôi thúc anh mà danh dự của một người bạn trai trước một người bạn gái
luôn nhắc nhở anh không được làm những điều phải hổ thẹn với lương tâm. Cái
tên Như Anh - người bạn gái cùng học - mối tình đầu của anh đã được khắc đậm
131
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
qua từng trang nhật ký: “Mình hãy xứng đáng với Nhƣ Anh, xứng đáng với niềm
tin và sự chờ đợi của Nhƣ Anh. Đừng bỏ phí thời gian, hãy tập trung sức lực làm
việc cho say sƣa và có ích nhất” (Nhật ký ngày 7/2/1972). Vì vậy, chàng trai trẻ
Nguyễn Văn Thạc đã không ít lần băn khoăn, trăn trở trước những điều đi trượt
khỏi “đường ray” của cả dân tộc ta những năm chiến tranh: “Lẻ tẻ, có ngƣời tụt lại
phía sau – Không có quyền tụt. Không có quyền rời bỏ hàng ngũ” (Nhật ký ngày
29/11/1971). Trong một số trang khác, Nguyễn Văn Thạc viết: “Lại thêm ba
ngƣời nữa “tút” về Hà Nội. Họ không chịu nổi tình trạng nằm đợi ghê sợ này’
(Nhật ký ngày 3/12/1971), “Nhƣng có điều đáng buồn là một số sinh viên không
muốn nhập ngũ lắm. Sợ chết? Ham địa vị?” (Nhật ký ngày 4/12/1971). Hầu hết
các tác phẩm viết về đề chiến tranh không mạnh dạn phản ánh sự thực này cho dù
hiện thực đó đã xảy ra và chúng ta không thể phủ nhận.
Hai cuốn nhật ký này không phủ nhận vai trò của các tác phẩm văn học có
nội dung yêu nước nhưng sự tác động của hai cuốn nhật ký đến thế hệ trẻ ngày
nay, rõ ràng là hơn hẳn nhiều tác phẩm văn học bởi tính trung thực mà hai cuốn
nhật ký đã tự thân mang lại. Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc đã và
đang đặt ra vấn đề lý tưởng sống của thanh niên trong thời đại ngày nay. Nhật ký
Đặng Thùy Trâm đã khiến cho những con người từng trải qua chiến tranh và chưa
bao giờ được biết đến chiến tranh tìm đến nhau để bù đắp hoặc hoàn lại cho nhau
những phần còn thiếu hụt trong tâm hồn mà chiến tranh đã làm cho đổ vỡ, tổn
thương. Chính Thùy Trâm cũng không bao giờ có thể ngờ được rằng chính những
dòng chữ đã phai màu dần theo thời gian của chị lại khiến cho nhiều người thấm
thía được hết ý nghĩa và giá trị của hai từ “Hoà bình”, “Độc lập”. Đúng như những
nhận xét của nhà báo Mỹ David Perlmutt trên tờ Charlotte Observer ngày
6/10/2005: “Tôi muốn nói tất cả chúng ta đều là cƣ dân của hành tinh này và mọi
132
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời nên đọc cuốn nhật ký này để hiểu, để đánh giá đúng đƣợc hoàn cảnh mà
cuốn nhật ký đã ra đời. Cho đến khi điều này đƣợc thấu hiểu, nhân loại mới có cơ
hội chấm dứt tất cả các cuộc chiến tranh trên Trái đất này” [42, tr.212].
Cả hai cuốn nhật ký đã mở rộng biên độ của giá trị nhân bản theo một hướng
khác. Thực tế, hiện nay đã có biết bao nhiêu phong trào học tập tấm gương của liệt
sĩ Nguyễn Văn Thạc. Các phong trào Tiếp lửa truyền thống và sức trẻ tình nguyện
của thanh niên Việt Nam vẫn đang ngày đêm được phát huy trong mọi lĩnh vực.
Khi mà khát vọng về một cuộc sống hoà bình, không có chiến tranh đang là khát
khao cháy bỏng của cả nhân loại; khi mà tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế
giới cần được củng cố và phát huy, hai cuốn nhật ký đã xuất hiện đúng thời điểm
mà nó phải xuất hiện. Hai cuốn nhật ký đã có sức lay động mạnh mẽ tới trái tim
của biết bao con người trong thời đại ngày nay. Cả hai cuốn nhật ký đã làm thức
dậy trong thế hệ trẻ ngày nay tinh thần sống của Ruồi Trâu và của chàng trai Pa-
133
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ven Ca-rơ-sa-ghin.
KẾT LUẬN
1. Nhìn lại qúa trình phát triển và phân hoá khá phức tạp của loại hình ký,
chúng ta nhận thấy ký đã có đóng góp không nhỏ về mặt thể loại và nội dung phản
ánh cho nền văn học dân tộc. Sự phân hoá thành nhiều tiểu loại của ký đã mang
đến cho nền văn học dân tộc sự phong phú, đa dạng về thể loại văn học. Việc phát
huy vai trò phản ánh hiện thực của văn học đã được thể hiện trên nhiều phương
diện và với nhiều dạng thức khác nhau. Trong đó, phải kể đến sự góp mặt của thể
loại nhật ký. Nhật ký không được coi là một thể loại lớn của văn học và không
phải là thể loại phổ biến trong văn học so với các thể loại văn học khác. Hơn nữa,
nhật ký cũng không thể hiện được rõ chức năng “nghệ thuật ngôn từ” của văn học
như hầu hết các thể loại văn học khác. Tuy nhiên, qua những đóng góp thiết thực
cho nền văn học dân tộc mà nhật ký đã có được, chúng ta cần có thái độ nhìn nhận
đúng đắn về thể loại này.
2. Thành tựu của thể loại nhật ký trong văn học thế giới nói chung, trong văn
học Việt Nam nói riêng, cho đến nay chưa thật sự bề thế như nhiều thể loại văn
học khác. Do đó, việc xuất bản nhiều cuốn nhật ký chiến tranh từ năm 2005 đến
nay đã có đóng góp tích cực trong việc khẳng định vị trí của thể loại này trong nền
văn học dân tộc. Nhật ký chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại đã có vai
trò quan trọng trong việc phản ánh chân thực diện mạo hai cuộc chiến tranh vĩ đại
của dân tộc ta trong suốt gần ba mươi năm liên tục mà nhiều tác phẩm văn học
thuộc thể loại khác không thể diễn tả được. Nhật ký chiến tranh đã góp phần
không nhỏ vào việc ghi nhận gương mặt một thời mà chỉ có trong hoàn cảnh chiến
tranh mới bộc lộ hết được. Những góc khuất chân thực này, tuy không phải là
mảng hiên thực lớn nhưng sẽ là khiếm khuyết khi mảng hiện thực lớn về cuộc
134
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc ta được tái hiện một cách chưa trọn vẹn và toàn diện. Những cuốn nhật ký
chiến tranh của người viết không chuyên, đặc biệt có vai trò rất quan trọng trong
việc tái hiện những góc khuất ấy. Bởi chính sự chân thực và hồn nhiên mà những
cuốn nhật ký mang lại đã thực sự thu hút được bạn đọc ngày nay, đã thực sự tạo
được độ tin cậy cao đối với họ.
3. Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của
Nguyễn Văn Thạc thật sự đã đạt được nhiều giá trị mới mang tính thời đại ngay tại
thời điểm mà hai cuốn nhật ký được xuất bản. Đó là những giá trị mà có lẽ chưa
một tác phẩm văn học nào trước đó đạt được. Có thể nói rằng, cả hai cuốn nhật ký
đều đảm bảo được tính chân thực một cách tối ưu để trở thành những cuốn tư liệu
quý giá về cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam trước toàn
nhân loại. Và sự thực, Nhật ký Đặng Thùy Trâm vẫn đang được bảo quản và trưng
bày tại một trong những kho lưu trữ tư liệu chiến tranh lớn nhất của Hoa Kỳ. Từ
khi hai cuốn nhật ký được công bố, tính trung thực trong các tác phẩm văn học
viết về đề tài chiến tranh cần được kiểm chứng và chúng ta có thể coi hai cuốn
nhật ký này làm tiêu chí để kiểm chứng hiện thực đó.
Điều quan trọng hơn cả là sự xuất hiện của hai cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai
mƣơi và Nhật ký Đặng Thùy Trâm trước công chúng đã đem đến cho họ một cảm
giác vừa quen thuộc, vừa mới lạ bởi những gì tưởng như đã được ngủ yên trong
suốt mấy chục năm qua - kể từ khi cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược
của nhân dân Việt Nam chấm dứt - lại dần dần được tái hiện. Lý tưởng sống và
cống hiến sức mình cho Tổ quốc của thế hệ trẻ ngày nay đang được hồi sinh. Vấn
đề hoà giải dân tộc, hoá giải sự thù địch giữa dân tộc Việt Nam và nước Mỹ của
mấy chục năm trước đã có nhiều tiến triển. Đó là sự trở lại thăm chiến trường xưa
của các cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, đó là sự trở về quê hương của nhiều kiều
135
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bào Việt Nam đang sinh sống tại Mỹ. Nhân dân Việt Nam đã mở rộng vòng tay
nhân ái để đón nhận họ như đón nhận sự trở về của những con người biết ăn năn
hối cải, sự trở về của những đứa con một thời vụng dại đã trót rời bỏ đất mẹ mà ra
đi. Sự trở lại đó đã xoá được mối hận thù của nhân dân Việt Nam với nước Mỹ; đã
phần nào xoa dịu được nỗi đớn đau, ám ảnh về tội ác mà những người lính Mỹ
trước kia đã gây ra cho mảnh đất Việt Nam; đã làm cho những trái tim lầm lỡ
được thoả nguyện khi rời xa quê hương đất nước trong một mấy chục năm trời. Cả
thế giới lại được biết thêm nhiều điều đáng quý ở dân tộc ta. Một dân tộc nhỏ bé
đã anh dũng và kiên cường làm nên cuộc chiến thắng vĩ đại trước một tên đế quốc
sừng sỏ; một dân tộc nhỏ bé nhưng có tấm lòng bao dung, nhân đạo cả. Nếu như
tất cả các dân tộc trên thế giới này đều dành cho nhau những tình cảm nhân ái như
thế thì chắc chắn không bao giờ xảy ra chiến tranh, không bao giờ xảy ra cảnh
136
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chết chóc đau thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
2. Nam Cao (1999), Toàn tập, tập 3, Nxb Văn học.
3. Nam Cao (2010), Tuyển tập, Nxb Thời đại.
4. Nguyễn Minh Châu (2009), Di cảo, Nxb Hà Nội.
5. M. B. Khrapchencô (2002), Những vấn đề lý luận và phƣơng pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
6. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.
7. Frederic Whitehurst và nhóm tác giả ( 2006 ), Bí mật cuộc đời ngƣời Mỹ
làm “sống lại” Đặng Thùy Trâm, Nxb Văn hóa dân tộc.
8. Nguyễn Văn Giá ( 2005), Những tấm ảnh trở về, Nxb Phụ nữ.
9. Thu Hà ( 2005), “Nhật ký Nguyễn Huy Tƣởng - Những chuyện chƣa công
bố”, htttp: //w.w.w.vnexpress.net/GL Vanhoa/2005.
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( Đồng chủ biên, 1999), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư (2005), Đại
cƣơng lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục.
12. Phùng Nguyên, Thanh Hằng, “ Những kỷ vật chiến tranh”, htpp://60S.
com.vn/index/21002616/05052009.aspx .
13. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá ( Đồng
137
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chủ biên, 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
14. Thu Huyền, http://nld.com.vn/124595p0c1020/se-xuat-hien-dong-sach-nhat-
ky-thoi- chien-tranh.htm Báo Người lao động – Sẽ xuất hiện dòng sách nhật
ký thời chiến tranh, Chủ Nhật, 14/08/2005 22:10.
15. Đặng Vương Hưng ( Sưu tầm, giới thiệu, 2005), Tài hoa ra trận, Nxb Hội
nhà văn.
16. Lưu Hương,http://baoquangnam.com.vn/van-hoa-van-nghe/tac-gia-tac-pham/
22866-to-dong-nha-van-la-nguoi-viet-thu-cho-nguoi-khong-quen biet.html.
17. http : // www. 360-books.com/ebooks/component/mtree/van-hoc- truyen/
nhat-ky-dang-thuy-tram.html.
18. http://www.blogsach.com/product_info.php?products_id=376.
19. 2http://haiduongblog.wordpress.com/van-xuoi.
20. http :// www. nxbkimdong.com.vn/forum/forum_ posts.asp? TID=1853,
Nhật ký của Anne Frank
21. Phạm Thiết Kế ( 2007), Đƣờng về, Nxb Thanh niên.
22. Nhicalai Axtơrôpxki (2010), Thép đã tôi thế đấy, Nxb Thời đại.
23. Nguyễn Thế Khoa ( chủ biên ), Bùi Minh Quốc, Hoàng Minh Nhân
(2007), Dƣơng Thị Xuân Quý, Nhật ký, tác phẩm, Nxb Hội nhà văn.
24. Thụy Khuê, “ Nguyễn Huy Tƣởng (1912 – 1960)”, http://w.w.w.hopluu.
net/defau.aspx? Lang ID=0&talld=465.
25. Tôn Phương Lan, “ Nguồn tƣ liệu đáng quý qua nhật ký chiến tranh ”,
http://vn/vi/bvct/id606/.
26. Tôn Phương Lan, “ Nhà văn - Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi”,
http: // diendankienthuc.net/diendan/nhung-dua-con-trong-giadinh/1334
7-nha-van - liet- si – nguyen -ngoc -tan-nguyen-thi.html.
27. Phong Lê (2008), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb
138
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hội nhà văn.
28. Phong Lê (2001), Một số gƣơng mặt văn chƣơng - học thuật Việt Nam
hiện đại, Nxb Giáo dục.
29. Phong Lê, “ Sống mãi những trang nhật ký Nguyễn Văn Thạc - Đặng
Thuỳ Trâm” , Báo Văn nghệ, số 18 + 19 ( Ra ngày 1/5 và 8/5/2010 ).
30. Phong Lê (chủ biên), Vũ Tuấn Anh, Vũ Đức Phúc (1986), Văn học Việt
Nam kháng chiến chống Pháp ( 1945 – 1954 ), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
31. Phong Lê ( 2009), Viết từ đầu thế kỷ mới, Nxb Lao động.
32. Nguyễn Thị Liễu, 2http://haiduongblog.wordpress.com/van-xuoi.
33. Lời toà soạn,http ://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail
&pid=5&catid=20&ID=1822&shname=Nhat-ky-Dang-Thuy-Tram.
34. Janine Gillion, “Hỡi ngƣời Mỹ, ngƣời ta chỉ chết một lần ”, Báo Cảnh
sát toàn cầu, số 35, tháng 12 năm 2010.
35. Phương Lựu (chủ biên, 1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
36. Phong Nam, “ Đặng Thùy Trâm trong ký ức của những ngƣời thủy thủ
tàu không số”, Báo cảnh sát toàn cầu, số 37, tháng 1 năm 2011.
37. Nguyễn Thị Việt Nga, “ Dấu ấn chiến tranh qua nhật ký chiến trƣờng
của Dƣơng Thị Xuân Quý”, http : //vannghequandoi. com.vn/index.php?
option=com_ content&view=article&id=3256&Itemid=2037.
38. Hoàng Minh Nhân ( Biên soạn, 2000 ), Nhật ký Chu Cẩm Phong, Nxb
Thanh niên.
39. Nhiều tác giả (2002), Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học 1945
– 1975, Nxb Hội nhà văn.
40. Nhiều tác giả, “ Cơn sốt ” nhật ký chiến tranh ”, http // chungta. Com /
Desktop. aspx/ PT-KyNang-SuNghiep/ Van-hoa-Trithuc/Con_sot_nhat_
139
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ky_chien_tranh/.
41. Nhiều tác giả ( 2005), 35 năm và 7 ngày, Nxb Kim Đồng.
42. Nhiều tác giả (2005), 7 ngày và 35 năm, Nxb Kim Đồng.
43. Nhiều tác giả (1997 ), Hồ Chí Minh – Tác gia, tác phẩm, nghệ thuật
ngôn từ, Nxb Giáo dục.
44. Ethel Lilian Voynich (2010), Ruồi trâu, Nxb Thời đại.
45. Nguyễn Hưng Quốc, Văn học trong một nƣớc mù chữ, http : // www.
tienve.org/ home/literature/viewLiterature.do;jsessionid =83C0A72B7E
2C7C6ABE28D56CEEB3997 ? action = viewArtwork & artworkId =
59811/17/2004.
46. Trần Đình Sử (1999), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
47. Trần Đình Sử ( chủ biên), La Khắc Hoà, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn
Xuân Nam (2008 ), Lý luận văn học, phần Tác phẩm và thể loại văn học,
tập 2, Nxb Đại học Sư phạm.
48. Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi (1997), Nhật ký (1953 – 1955), Nxb
Hội nhà văn.
49. Nguyễn Văn Thạc (2005), Mãi mãi tuổi hai mƣơi, Nxb Thanh niên.
50. Hoài Thanh ( 1999), Toàn tập, tập 3, Nxb Văn học.
51. Thanh Thảo, http: // vietbao.vn/Van-hoa/Doc-Nhat-ky-chien-tranh-Mot-tac-
pham-van-hoc-ky-la/40076114/105/.
52. Mai Nam Thắng, 2http://haiduongblog.wordpress.com/van-xuoi.
53. Lê Minh Tiến (2005)“ Nghĩ về hiện tƣợng “ Nhật ký chiến tranh””, Báo
Tuổi trẻ, ngày 18/9.
54. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập, tập 3, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
140
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55. Nguyễn Huy Tưởng ( 2006), Nhật ký, tập 2, Nxb Thanh niên.
56. Đặng Thùy Trâm ( 2005), Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nxb Hội nhà văn.
141
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57. Vũ Xuân (2005), Nhật ký Vũ Xuân, Nxb Quân đội nhân dân.