MỤC LỤC
A.Phần mở đầu ...............................................................................................Error! Bookmark not defined.
1.Lí do chọn đề tài ..................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ Error! Bookmark not defined.
3. Nhiệm vụ của đề tài ............................................................................... Error! Bookmark not defined.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................... Error! Bookmark not defined.
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
B. Phần nội dung ............................................................................................Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN – ĐỘI NGŨ NHÀ VĂN VÀ CÁC CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA NHÓM TÂN DÂN ...................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1 Sự xuất hiện và các giai đoạn phát triển của nhóm Tân Dân ............... Error! Bookmark not defined.
1.1.1 Khái niệm Nhóm văn học .............................................................. Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Sự xuất hiện và các giai đoạn phát triển của nhóm Tân Dân ...... Error! Bookmark not defined.
1.1.2.1 Nhóm Tân Dân ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2.2 Vũ Đình Long – sáng lập viên nhà xuất bản Tân Dân và vai trò của ông trong sự hình thành và phát triển của nhóm Tân Dân ........................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2.3 Từ hiệu sách Tân Dân đến nhà xuất bản Tân Dân .................... Error! Bookmark not defined.
1.2 Các tờ báo, tạp chí của Tân Dân .......................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.1 Tiểu thuyết thứ bảy ........................................................................ Error! Bookmark not defined.
1.2.2 Phổ thông bán nguyệt san ............................................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.3 Ích Hữu ......................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.4 Truyền Bá ...................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.5 Tao Đàn ........................................................................................ Error! Bookmark not defined.
1.2.6 Tủ sách Tao Đàn ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.7 Tủ sách Những tác phẩm hay ........................................................ Error! Bookmark not defined.
1.3 Đội ngũ nhà văn chủ chốt và cộng tác viên của Tân Dân .................... Error! Bookmark not defined.
1.3.1 Đội ngũ các nhà văn chủ chốt của Tân Dân ................................. Error! Bookmark not defined.
1.3.1.1 Nguyễn Công Hoan .................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.1.2 Ngọc Giao .................................................................................. Error! Bookmark not defined.
1.3.1.3 Vũ Bằng ...................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.1.4 Lan Khai..................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.1.5 Lê Văn Trương ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.2 Các cộng tác viên .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.2.1 Đội ngũ cộng tác viên cựu học ................................................... Error! Bookmark not defined.
1
1.3.2.2 Đội ngũ cộng tác viên Tây học ................................................... Error! Bookmark not defined.
1.4 Mối quan hệ giữa các nhà văn và với ông chủ Tân Dân ...................... Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 2. KHẢO SÁT SÁNG TÁC CỦA NHÓM TÂN DÂN DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI VÀ ĐỀ TÀI ............................................................................................................Error! Bookmark not defined.
2. 1 Thể loại ............................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1 Tiểu thuyết .................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Truyện ngắn (đoản thiên) .............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.3 Kịch ............................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.4 Lý luận, phê bình, khảo cứu, ngôn ngữ ......................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.5 Các thể loại khác........................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2 Đề tài .................................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1 Hôn nhân, gia đình và tình yêu đôi lứa ......................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2 Xã hội ............................................................................................ Error! Bookmark not defined.
2.2.3 Người hùng và triết lí hành động .................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.4 Lịch sử ........................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.5 Thiếu nhi ....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.6 Phiêu lưu, ma quái và kiếm hiệp ................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3. KHUYNH HƯỚNG CỦA NHÓM TÂN DÂN NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC ....................................................Error! Bookmark not defined.
3.1 Quan điểm và chủ trương sáng tác của nhóm Tân Dân ....................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1 Quan điểm và chủ trương sáng tác của các nhà văn trong nhóm Tân Dân. Error! Bookmark not defined.
3.1.2 Các cuộc tranh luận giữa nhóm Tân Dân với các nhóm khác và báo chí đương thời ......... Error! Bookmark not defined.
3.2 Khuynh hướng lãng mạn và hiện thực ................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Khuynh hướng lãng mạn ............................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Khuynh hướng hiện thực ............................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.3 Sự đan xen của hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực ............ Error! Bookmark not defined.
3.3 Tính bảo thủ về mặt đạo đức, tư tưởng phục cổ và khuynh hướng quay trở về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ............................................................................ Error! Bookmark not defined.
3.3.1 Tính bảo thủ về măt đạo đức ......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.2 Tư tưởng phục cổ và khuynh hướng quay trở về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ............................................................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.4 Tính đấu tranh xã hội ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
C. Phần kết luận .............................................................................................Error! Bookmark not defined.
2
A.Phần mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
Giai đoạn trước 1945 và nhất là từ khoảng 1930 đến 1945 được nhiều nhà nghiên
cứu đánh giá là giai đoạn hoàng kim của văn học Việt Nam. Xét về thời gian chỉ hơn một
thập kỷ nhưng xét về tốc độ phát triển thì văn học Việt Nam đã tiến xa hàng trăm năm để
hòa vào quỹ đạo thế giới hiện đại.
Thật khó thống kê được chính xác có bao nhiêu công trình khoa học nghiên cứu về
văn học Việt Nam giai đoạn trước 1945. Tựu chung lại có thể thấy nghiên cứu về giai
đoạn này có một số cách tiếp cận nổi lên như sau. Trước hết, các nhà nghiên cứu tập
trung vào những gương mặt tiêu biểu nhất cho văn học giai đoạn này. Đó là những công
trình nghiên cứu về các tác gia – những người có sự nghiệp sáng tác đồ sộ, có phong cách
nghệ thuật độc đáo hoặc đại diện cho một khuynh hướng sáng tác nào đó. Thành tựu của
hướng nghiên cứu này là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Ngọc Giao.... Cách tiếp cận này có ưu
điểm là giúp nhận diện được những đặc điểm lớn nhất của một giai đoạn văn học thể hiện
trong một hoặc vài hiện tượng tiêu biểu, song cũng là thiếu sót do không thấy được sự
vận động đa chiều và cực kì phức tạp của của một tiến trình văn học, dễ bỏ qua nhiều
hiện tượng văn học độc đáo khác. Hướng tiếp cận thứ hai là dùng mô hình phương pháp
sáng tác. Với hướng tiếp cận này, các nhà nghiên cứu hình dung văn học Việt Nam trước
1945, đặc biệt là giai đoạn 1932 – 1945 như là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa hiện thực
và chủ nghĩa lãng mạn. Mô hình này có một số hạn chế vì phương pháp sáng tác ở Việt
Nam là không thuần nhất. Trong cùng một nhà văn có thể vừa tìm thấy tác phẩm theo
khuynh hướng hiện thực và cả tác phẩm theo khuynh hướng lãng mạn. Thậm chí hai
khuynh hướng này nhiều khi còn tồn tại trong cùng một tác phẩm. Hơn nữa, các phương
pháp sáng tác có nguồn gốc nước ngoài, khi vào Việt Nam không theo một con đường
3
chính thống, có hệ thống và chủ soái, và tất yếu phải bị biến đổi rất nhiều. Ở hướng tiếp
cận thứ ba là dùng mô hình thể loại, coi lịch sử văn học như là sự vận động của các thể
loại. Điển hình cho thành tựu của hướng nghiên cứu này là những công trình của
GS.Phan Cự Đệ như Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Văn học Việt Nam thế kỉ XX
(GS.Phan Cự Đệ chủ biên)... Xem xét tiến trình vận động của một nền văn học mặc dù
không thể bỏ qua sự vận động, phát triển của các thể loại song cũng là thiếu sót nếu cho
rằng thể loại là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động của đời sống văn học.
Những cách tiếp cận trên với những ưu và nhược điểm của nó cho thấy, để có thể
hình dung về sự vận động của văn học với tư cách là một thực thể sống động thì cần thiết
phải nghiên cứu đồng thời nhiều yếu tố cấu thành nên văn học, hơn thế nữa phải đặt văn
học trong bối cảnh xã hội rộng lớn mà trong đó văn học tồn tại và vận động. Chúng tôi
muốn nói tới phương pháp tiếp cận xã hội học trong nghiên cứu văn học. Trong nghiên
cứu xã hội học văn học, trước đây, giới nghiên cứu chỉ tập trung vào các yếu tố như ý
thức giai cấp, tác động của các sự kiện chính trị đến đời sống văn học... nhiều khi bị đẩy
tới cực đoan trở thành xã hội học dung tục. Việc đề cập đến những vấn đề chính trị, tư
tưởng, giai cấp ảnh hưởng trong văn học là cần thiết nhưng không phải là yếu tố quyết
định và sẽ là không đủ. Hướng nghiên cứu xã hội học văn học hiện đại chú ý nhiều tới
các yếu tố nội tại của văn học như các hoạt động: báo chí, xuất bản, các nhóm văn học,
phương thức tổ chức đời sống văn học (hội nhóm, mối quan hệ giữa các hội nhóm, nhà văn,
nhà phê bình, nhà sách, việc bán sách, quan hệ độc giả – người viết văn...). Trong các yếu tố
kể trên thì mối quan hệ giữa báo chí và văn học đã được nghiên cứu kỹ, nhiều nhất.
Giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam gần đây đã có những động thái đúng đắn và
tích cực trong việc tìm hiểu và phân tích kỹ lưỡng vai trò của báo chí trong tiến trình hiện
đại hóa văn học dân tộc nửa đầu thế kỉ XX. Các báo Nam Phong, Hà thành ngọ báo,
Đông Dương tạp chí, Tiểu thuyết thứ năm, Thanh Nghị, Phụ nữ tân văn, Đông Tây... đã
được nghiên cứu, khảo sát. Vậy việc nghiên cứu sự tồn tại và các mối quan hệ giữa các
nhóm văn học là cần thiết và không thể bỏ qua. Mỗi một nhóm văn học thường có những
4
nhà xuất bản và tờ báo để nói lên tiếng nói của mình. Nhóm Tự lực văn đoàn, Tri Tân đã
có nhiều công trình nghiên cứu kĩ lưỡng. Tuy nhiên, nhóm Tân Dân – một đối chọi với
Tự lực văn đoàn vào đương thời lại ít được đề cập. Trong các bộ giáo trình văn học Việt
Nam viết về giai đoạn trước 1945 hầu như không có một dòng nào đề cập tới Tân Dân.
Chúng tôi nhận thấy đó là một thiếu sót lớn.
Nhóm Tân Dân với Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Tao
Đàn, Truyền bá và hai tủ sách Tủ sách Tao Đàn, Tủ sách Những tác phẩm hay hoạt động
rất mạnh từ giữa thập niên 30 đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX. Trên các tờ báo và
tạp chí đó hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng đã ra đời và cũng là một mảnh đất tốt ươm tạo
cho nhiều tài năng văn chương đương thời.
Với cách tiếp cận xã hội học văn học chúng tôi muốn nhìn nhận thực thể nhóm
Tân Dân trong bối cảnh văn hóa, xã hội và chính trị ở Việt Nam trước 1945 nói chung và
trong riêng lĩnh vực văn học nói riêng ở các bình diện hoạt động văn chương, hoạt động
xuất bản, hoạt động báo chí, quan hệ nội bộ trong nhóm và sự tương tác giữa nhóm với
các nhóm, trường phái văn học khác... Trên cơ sở đó chúng tôi đánh giá Tân Dân đã có
những đóng góp gì cho văn học giai đoạn trước 1945? Đặc điểm thi pháp cũng như tư
tưởng, quan điểm về nghệ thuật của nhóm Tân Dân là gì? Với tất cả những thành công và
hạn chế (cả khách quan và chủ quan) của mình, Tân Dân có vị thế như thế nào đối với
tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945? Nhằm mục đích trả lời cho những
câu hỏi trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Nhóm Tân Dân trong đời sống văn học Việt Nam
trước 1945.
2. Lịch sử vấn đề
Như ở phần trên vừa trình bày, nhiều nhóm văn học và báo, tạp chí trước 1945 đã
được giới nghiên cứu lưu tâm và có những kết quả ban đầu khá tốt. Có thể kể đến đó là
các công trình nghiên cứu về nhóm Nam Phong, nhóm Đông Dương tạp chí, Thanh Nghị,
nhóm Tự lực văn đoàn...
5
Riêng về nhóm Tân Dân, phần lớn các nghiên cứu mới chỉ chuyên sâu về các tác
giả mà chưa nhìn nhận thành một chỉnh thế thống nhất môi trường hoạt động của các nhà
văn. Tuy nhiên rải rác đây đó cũng có những ý kiến, quan điểm đề cập tới Tân Dân như là
một nhóm văn học. Có thể kể tới đó là:
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên – Quyển 3: Văn học
hiện đại 1862 – 1945 có hẳn một chương viết về Tân Dân trong phần Giai đoạn 1932 -
1945: Chương III: Những tiểu thuyết gia viết cho nhà Tân Dân. Tác giả cho rằng “về các
nhà tiểu thuyết sau 1932, bên cạnh Tự lực văn đoàn, cũng nên xét nhóm nhà văn quy tụ
chung quanh nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình Long” (chỗ in đậm là chúng tôi nhấn
mạnh). Phạm Thế Ngũ điểm lại sự ra đời và phát triển của nhà xuất bản Tân Dân với sự
ra đời của các tờ báo, tạp chí. Trước khi điểm mặt những cây bút tiêu biểu nhất của nhóm
nhà văn này Phạm Thế Ngũ đã có kết luận như sau: “Người viết văn học sử xét về những
hoạt động của nhà Tân Dân không thể không thừa nhận một sự thật khác, ấy là công đóng
góp của nhà ấy cho văn học. Những cơ quan của nhà Tân Dân cũng đã là nơi xuất phát và
gầy nuôi lắm cây bút có ít nhiều giá trị. Nhất là sự phát đạt của công việc chứng tỏ nhà
xuất bản đã biết đem lại cho công chúng những thức ăn mà họ mong ước. Tiểu Thuyết
Thứ Bảy liền trong 10 năm, in mỗi số hàng chục ngàn, phát hành khắp Bắc Trung Nam,
được độc giả ở Nam Kỳ đặc biệt hâm mộ. Tờ Phổ Thông Bán Nguyệt San cho đến năm
tiền chiến, tổng kết in ra hàng trăm tác phẩm. Nhà Tân Dân nói chung đã có công làm
phát triển thể tiểu thuyết và quảng bá thể ấy vào những tầng lớp trung lưu và đại chúng”.
[31, tr.503]
Trong Từ điển Văn học Bộ mới (NXB Thế giới)Nguyễn Hoành Khung trong mục
Nhóm Tân Dân đã có những nhận xét như sau: “Thực ra, đây không hẳn là một nhóm văn
học có tổ chức chặt chẽ, tôn chỉ mục đích rõ ràng. Tân Dân thực chất chỉ là một cơ sở
kinh doanh văn chương, trong đó các nhà văn là những người làm thuê theo hợp đồng” và
“(Tân Dân) Không phải là một tổ chức văn học tập hợp các nhà văn gần gũi nhau về lập
trường xã hội và khuynh hướng nghệ thuật, Nhóm Tân Dân bao gồm các cây bút có màu
6
sắc khác biệt nhau”. Tuy nhiên Nguyễn Hoành Khung cũng phải thừa nhận: “Nhìn bao
quát cũng có thể thấy được vài nét chung nhất khiến họ có ít nhiều gần gũi, nhất là đặt
họ trong sự phân biệt với nhóm Tự lực văn đoàn” (chúng tôi nhấn mạnh). Tác giả đã
có những nhận định về cơ bản là đúng khi đặt Tân Dân đối lập với Tự lực văn đoàn.
Nguyễn Hoành Khung viết: “Nếu tác phẩm của mấy cây bút chủ chốt của Tự lực văn
đoàn là tiếng nói của tầng lớp trí thức “thượng lưu” Âu hóa với môi trường, nhân vật, vấn
đề, tâm lý của tầng lớp đó; thì sáng tác Tân Dân phần lớn là tiếng nói của loại trí thức lớp
dưới, phản ánh cuộc sống của hạng trung lưu và dân nghèo. Văn chương của Tự lực văn
đoàn sạch sẽ, cao cấp bao nhiêu, thì văn chương Tân Dân “bình dân” bấy nhiêu” ;
“Không ít những tác phẩm thuộc loại hay nhất của văn xuôi quốc ngữ hiện đại trước
1945, là do nhà Tân Dân xuất bản hoặc đăng tải”. Chúng tôi đặc biệt lưu ý đến nhận xét
mang tính tổng kết sau của Nguyễn Hoành Khung: “Tân Dân đã tạo điều kiện tập hợp
được một đội ngũ văn nghệ sĩ đông đảo để ra sức sáng tác. Trong điều kiện “sống và
viết” khó khăn đương thời, các nhà văn đã lấy đó làm nơi “hành nghề”, trau dồi ngòi bút.
Nhiều cây bút đã ra mắt, trưởng thành, và nổi tiếng ở đây. Trên mười năm hoạt động liên
tục, với nhiều hình thức phong phú, nhà Tân Dân đã giới thiệu cho độc giả cả nước hàng
trăm cuốn tiểu thuyết, hàng ngàn truyện ngắn, của mấy chục nhà văn đương thời. Đặt
trong hoàn cảnh xã hội thuộc địa khi đó, hoạt động của nhà Tân Dân đã có tác dụng
khách quan, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của văn học dân tộc, góp phần làm cho đời
sống văn học phong phú, sôi động và diện mạo văn học, nhất là văn xuôi, thêm đa dạng”.
Trong giáo trình Văn học Việt Nam 1900 – 1945 (NXB Giáo dục, 2003), GS.Phan
Cự Đệ trong Chương XVIII – Tình hình chung văn học lãng mạn 1932 – 1945, ngay ở
phần mở đầu khi điểm về các nhóm văn học trước 1945 ông cũng nhắc tới nhóm Tân Dân
nhưng với một danh xưng khác là nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy, nhóm Tao Đàn. Ông viết:
“Tất nhiên ngoài nhóm Phong hóa, Ngày nay còn phải kể đến các nhóm Hà Nội báo
(Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Thái Can, Nguyễn Nhược Pháp), Tiểu Thuyết Thứ Bảy
(Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Leiba, Ngọc Giao, Thanh Châu), Tao đàn (Nguyễn Tuân,
7
Phạm Hầu, Lưu Kỳ Linh)...” [5, tr.523]. GS.Phan Cự Đệ xếp các nhóm vừa nhắc trong đó
có Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Tao Đàn vào trào lưu văn học lãng mạn ở Việt Nam giai
đoạn 1932 – 1945. Ở phần cuối cùng của chương này, GS.Đệ có một kết luận như sau,
cũng nhắc đến tên của Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn...
như là các nhóm văn chương. Ông viết: “Mặt khác, nói đến công cuộc đởi mới nền văn
học những năm 30, ngoài Tự Lực văn đoàn còn phải nhắc đến các nhóm khác như Hà
Nội báo, Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Tao đàn, Thanh nghị... ” [5,
tr.556] [những chỗ in đậm là chúng tôi nhấn mạnh – VĐH].
TS.Phạm Xuân Thạch trong bài Ba thập niên đầu thế kỉ XX và sự hình thành
trường văn học ở Việt Nam cũng đã có những nhận định sơ lược về đặc điểm của nhóm
Tân Dân như sau: “Nếu như Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn chương tự nguyện có
tuyên ngôn, tôn chỉ, có tổ chức cơ cấu chặt chẽ thì nhóm Tân Dân là một tổ chức tương
đối lỏng lẻo. Linh hồn của nhóm sau là Vũ Đình Long, một chủ xuất bản, một chủ báo
đặc biệt thành công trong kinh doanh văn hóa. Ông là chủ của một tờ báo có số lượng ấn
bản lớn như Phổ thông bán nguyệt san, Tiểu thuyết thứ bảy, Ích hữu, Tao đàn và nhà xuất
bản Tân Dân. Các nhà văn cộng tác với những cơ qua xuất bản này cũng hết sức “co dãn”
và ít tính ràng buộc. Hơn nữa, quan hệ giữa họ và ông chủ bút cũng nhiều phen “cơm
không lành canh không ngọt” với nhiều vụ “đình công” do bất đồng quan điểm về nhuận
bút. Tất nhiên cũng có thể kể đến một số nhân vật chủ chốt của nhóm Tân Dân như
Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Lan Khai, Lê Văn Trương... Ngay cả Nguyễn Tuân cũng
từng có giai đoạn cộng tác với nhóm này”[41, tr.329].
Tóm lại có thể thấy, Tân Dân như là một đối tượng nghiên cứu đã được thừa nhận
nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu văn học sử Việt Nam chưa có những cái nhìn kĩ
lưỡng và chuẩn xác về vai trò, vị trí của nhóm trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam.
Về cơ bản đó chỉ là những nhận định mang tính “điểm danh”, sơ lược và nhiều khi còn
khá chủ quan. Luận văn của chúng tôi hướng đến một cái nhìn cụ thể và rõ ràng về nhóm
Tân Dân dưới các góc độ: Quá trình hình thành và phát triển – Nhân vật chủ chốt – Chủ
8
trương quan điểm – Đóng góp cho lịch sử văn học – Những ưu và nhược điểm của
nhóm...
3. Nhiệm vụ của đề tài
Luận văn của chúng tôi hướng đến làm rõ các vấn đề sau:
- Tái hiện lại một cách chính xác và sinh động nhất toàn bộ hoạt động của nhà xuất
bản Tân Dân trước 1945 trên các khía cạnh hình thành và phát triển, quản lí, mối quan hệ
giữa Vũ Đình Long với đội ngũ các nhà văn, giữa các nhà văn với nhau và giữa Tân Dân
với các nhóm, tờ báo, nhà xuất bản khác đương thời...
- Định vị nhóm Tân Dân trong đời sống văn hóa, văn học Việt Nam trước 1945
trên những mặt: đóng góp cho sự phát triển văn hóa, học thuật, hoạt động báo chí, xuất
bản; đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam trong sự thúc đẩy và phát
triển các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, lí luận...
- Xác định đặc trưng về mặt thi pháp, quan điểm sáng tác... của nhóm Tân Dân
- Xác lập và khẳng định vị trí và vai trò của Nhóm Tân Dân trong đời sống văn
học Việt Nam trước 1945.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Chúng tôi tập trung chủ yếu vào các tư liệu hiện còn lưu giữ được ở Thư viện quốc
gia Việt Nam, trong các tủ sách gia đình về các ấn phẩm của nhà xuất bản Tân Dân; các
hồi kí của các nhà văn từng hoạt động trong nhóm Tân Dân; các tài liệu của các học giả,
nhà văn đương thời với Tân Dân và hiện nay viết về văn học, văn hóa Việt Nam trước
1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
9
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng phương pháp chính là phương pháp xã hội
học văn học. Bên cạnh đó chúng tôi cũng kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu
quen thuộc trong khoa văn học như phương pháp so sánh, phương pháp tiểu sử, phương
pháp văn hóa học, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
Với luận văn này chúng tôi mong muốn sẽ là một trong những tiếng nói đầu tiên
về một nhóm văn học lớn: nhóm Tân Dân, trong đời sống văn hóa, văn học Việt Nam
trước 1945; trả lại vị trí cần phải được ghi nhận trong lịch sử văn học dân tộc mà Tân
Dân đã có những đóng góp rất lớn mà bấy lâu nay chúng ta bỏ quên.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi gồm 3 chương chính với các nội dung cụ thể sẽ được trình
bày như ở dưới đây.
10
B. Phần nội dung
Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN – ĐỘI NGŨ NHÀ VĂN VÀ CÁC CƠ QUAN
NGÔN LUẬN CỦA NHÓM TÂN DÂN
1.1 Sự xuất hiện và các giai đoạn phát triển của nhóm Tân Dân
1.1.1 Khái niệm Nhóm văn học
Có thể hiểu một cách đơn giản rằng Nhóm văn học là sự tập hợp một số các nhà
văn, nhà thơ, phê bình, khảo cứu... hoạt động trong lĩnh vực văn chương cùng làm việc
với nhau nhằm một mục đích truyền bá tư tưởng, cải tạo xã hội; hoặc cũng có thể nhằm
tìm tòi những hướng đi mới trong văn học nghệ thuật hay đơn giản hơn chỉ là sự bộc lộ
cảm xúc cá nhân, ca ngợi cảnh vật, non sông đất nước...
Sự xuất hiện nhóm văn học trong lịch sử Việt Nam sớm nhất có lẽ là nhóm (hội)
Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông thành lập năm Ất Mão (1495). Vào đầu thế kỉ 18 ở miền
Nam, tại Hà Tiên cũng xuất hiện một nhóm văn học có tổ chức gần như nhóm Tao Đàn ở
thời Hồng Đức, đó là nhóm Tao Đàn chiêu anh các do Mạc Thiên Tích thành lập. Qua
thời trung đại, bước sang thời hiện đại do những điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn
hóa và khoa học thay đổi, ở Việt Nam xuất hiện một loạt các nhóm văn học có những đặc
thù riêng biệt, khác hẳn với các nhóm văn học ở giai đoạn trung đại. Xét trước năm có thể
kể đến các nhóm như Nhóm Đông Dương tạp chí, Nhóm Nam Phong. Sau năm 1932,
một loạt các nhóm văn học được thành lập có thể kế đến như nhóm Tự lực văn đoàn
(1933), nhóm Xuân Thu nhã tập (1939), nhóm Hàn Thuyên (1941), nhóm Thanh Nghị
(1941), nhóm Tri Tân (1941)... và nhóm Tân Dân (1934). Các nhóm này mang đặc điểm
và dấu ấn của thời hiện đại, phát huy được vai trò của mình trong việc tác động đến tư
tưởng, văn hóa xã hội do gắn liền với sự tiến bộ về mặt khoa học: có nhà in và nhất là
xuất bản được sách, báo.
11
Trên Tạp chí nghiên cứu văn học số 2/2008, trong bài Một tờ tuần báo mấy nhóm
thơ văn, ở phần đầu bài viết của mình, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho rằng nhóm
văn học là :“sự kiện một số nhà văn nhất định nhóm lại với nhau, dù nhất thời hay lâu dài,
quanh một công việc gì đó, thường thường là một tờ báo hay tạp chí, để hình dung diện
mạo của cái gọi là nhóm phái trong đời sống văn nghệ”. Chúng tôi đồng ý với quan điểm
này của Lại Nguyên Ân. Nhìn lại sự hình thành và vận động của các nhóm văn học này
chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng Nhóm Đông Dương tạp chí thì gắn liền với tờ Đông
Dương tạp chí, nhóm Nam Phong thì cơ quan ngôn luận của họ chính là tạp chí Nam
Phong, nhóm Tri Tân thì có tuần báo Tri Tân, nhóm Tự lực văn đoàn thì gắn với báo
Phong Hóa và sau là Ngày nay, nhóm Thanh Nghị gắn với báo Thanh Nghị....
Như vậy, có thể thấy các nhóm văn học đều gắn liền với một tờ báo, hoặc tạp chí
nào đó. Thông qua các tờ báo, tạp chí các nhóm văn học đưa ra các tuyên ngôn, tôn chỉ
của mình được thể hiện qua các phát biểu, tranh luận và các tác phẩm văn học.
1.1.2. Sự xuất hiện và các giai đoạn phát triển của nhóm Tân Dân
1.1.2.1 Nhóm Tân Dân
Như ở phần trên, chúng tôi có đưa ra giới thuyết của mình về cách hiểu thế nào là
một nhóm văn chương. Vậy Nhóm Tân Dân là một nhóm văn học gồm các nhà văn, nhà
thơ, phê bình hoạt động văn hóa nghệ thuật tập hợp xung quanh nhà xuất bản Tân Dân
với các báo và tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Tao Đàn,
Truyền bá. Ngoài ra họ còn có Tủ sách Tao Đàn và Tủ sách những tác phẩm hay. Khái
niệm “Nhóm Tân Dân” trước đây đã được giới nghiên cứu đề cập hoặc được nhắc đến
trong các hồi ký của các nhà văn nhưng thường là sự xé lẻ thành các nhóm nhỏ hơn. Việc
này làm cho sự hình dung về hoạt động của các nhóm văn học trở nên rắc rối và không có
12
sự thống nhất. Ví dụ Nguyễn Vỹ trong cuốn hồi ký văn học Văn thi sĩ tiền chiến có nói
đến nhóm Tân Dân nhưng dưới một định danh khác là “nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy và
Tạp chí Tao Đàn”, rồi “nhóm Ích Hữu”[58]. Trong giáo trình Văn học Việt Nam 1900 –
1945, tại chương XVIII viết về Tình hình chung văn học lãng mạn 1932 – 1945 GS.Phan
Cự Đệ có đưa ra danh sách của các nhóm văn học trước 1945 trong đó có nói tới nhóm
Tiểu Thuyết Thứ Bảy gồm Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Leiba, Ngọc Giao, Thanh
Châu, nhóm Tao Đàn gồm Nguyễn Tuân, Phạm Hầu, Lưu Kỳ Linh [5, tr.523]. Ở cuối
chương sách này GS.Phan Cự Đệ còn nhắc đến nhóm Phổ Thông Bán Nguyệt San. Như
vậy có thể thấy, dù có nhiều tên gọi khác nhau như nhóm Tao Đàn, nhóm Tiếu Thuyết
Thứ Bảy, nhóm Ích Hữu, nhóm Phổ Thông Bán Nguyệt San.... thì chung quy đó cũng chỉ
là những sự nhận diện đơn điệu, chưa thấy hết sự quan hệ giữa các nhóm của các nhà
nghiên cứu trước đây. Thực chất, tất cả những tên gọi nhóm đó đều có thể quy chung về
một tên gọi bao quát nhất, chính xác nhất là nhóm Tân Dân.
Trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3, Phạm Thế Ngũ đã có
những nhận xét về nhóm Tân Dân như sau: “ (Nhóm Tân Dân) từ ngoài nhìn vào, từ thời
sau nhìn lại, thì thấy họ có những tánh chất rất tương cận, ở con người, ở sáng tác, ở văn,
ở khách hàng, nhất là nếu ta đặt họ vào cái vị trí đối lập với các nhà bên Tự lực”.[31,
tr.503-504]. Có thể nói đây là một nhóm văn chương khá đặc biệt. Nếu Nhóm Tự lực văn
đoàn gắn liền tên tuổi chỉ với hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay và một nhóm nhà văn
nhất định có quan điểm và tư tưởng nhất quán thì nhóm Tân Dân lại mở rộng sự phát
triển của mình qua rất nhiều các cơ quan ngôn luận nổi tiếng trong đó phải kể đến tờ Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San và tạp chí Tao Đàn. Hơn thế nữa, nhóm
Tân Dân quy tụ được một đội ngũ các cây bút rất hùng hậu, thuộc đủ mọi phong cách,
quan điểm và tư tưởng khác nhau. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày kĩ lưỡng ở
các phần tiếp theo của luận văn.
1.1.2.2 Vũ Đình Long – sáng lập viên nhà xuất bản Tân Dân và vai trò
của ông trong sự hình thành và phát triển của nhóm Tân Dân
13
Vũ Đình Long (19/12/1986 – 14/8/1960) cho đến nay chủ yếu vẫn được ghi nhận
trong văn học sử là kịch tác gia đầu tiên của Việt Nam hơn là một nhà hoạt động xuất
bản, văn hóa lớn đầu thế kỉ XX cũng như vai trò của ông đối với quá trình hình thành nên
một môi trường văn học chuyên nghiệp trong quá trình hiện đại hóa. Phần dưới đây
chúng tôi muốn nói tới một Vũ Đình Long với tư cách là một nhà hoạt động xuất bản lớn
của Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Con đường để Vũ Đình Long trở thành một ông chủ xuất bản lớn ở nửa đầu thế kỉ
XX cũng khá gian nan. Đến thời điểm 1934, tức khi đã 38 tuổi ông mới ra được tờ báo
đầu tiên của mình, tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Với sự khôn khéo trong kinh doanh và sự
chân tình trong tạo dựng mối quan hệ với các nhà văn, tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy đã đứng
vững và phát triển một cách rất mạnh mẽ, thậm chí cạnh tranh ngang ngửa được cả tờ
Phong Hóa của Tự Lực Văn Đoàn đang rất nổi tiếng và ra đời trước 2 năm. Nhìn lại
quãng đường trước khi hình thành nhà xuất bản Tân Dân ta thấy Vũ Đình Long đã có một
quá trình hoạt động gắn bó chặt chẽ với văn học nghệ thuật. Về gia đình, thân sinh của
ông cũng là một người ham thích ca kịch truyền thống dân tộc. Vũ Đình Long lớn lên
được đào tạo cả Hán học và tiếng Pháp. Ông đã theo học tại Trường tiểu học Pháp – Việt,
Trường trung học Paul Bert, rồi trường thuốc nhưng sau đó chuyển sang nghề dạy học.
Trong thời gian làm giáo học ông thường xuyên tham dự những buổi bàn luận văn
chương tại phòng khách Hồng Hoa – biệt thự Nguyễn Đình Thông. Chính những sinh
hoạt văn chương này đã có tác động đến sự lựa con đường của ông sau này.
Nói đến Vũ Đình Long không chỉ là nói đến một kịch tác gia nổi tiếng của văn học
Việt Nam đầu thế kỉ XX mà còn là nói đến một trong những đại diện tiêu biểu nhất trong
lĩnh vực hoạt động văn chương, báo chí và xuất bản. Trong bài viết Vũ Đình Long –
người khởi động và thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa của GS.Phong Lê [26] đã khẳng định
hai đóng góp lớn của Vũ Đình Long cho tiến trình hiện đại hóa văn học. Đó là: Tác gia
kịch nói đầu tiên trong lịch sử sân khấu Việt Nam; và là người góp công lớn tổ chức nên
thị trường văn chương..
14
Nhóm Tân Dân gắn liền với các báo và tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông
Bán Nguyệt San, Ích Hữu, Truyền bá, Tao Đàn và hai tủ sách: Tủ sách những tác phẩm
hay và Tủ sách Tao Đàn, đương nhiên để làm nên sự thành công của hàng loạt những sản
phẩm văn hóa ấy là công của đông đảo đội ngũ các nhà văn, nhà báo đương thời trong
đầu tư sản phẩm bài vở, nâng cao chất lượng các ấn phẩm.... nhưng dẫu vậy cũng không
thể không nhắc tới người ở đằng sau đảm bảo cho tất cả sự thành công đó là Vũ Đình
Long. Với tư cách là ông chủ nhà xuất bản, Vũ Đình Long buộc phải là người có tài trong
quản lí và điều hành, sự nhanh nhạy trong nắm bắt xu hướng phát triển của xã hội để có
những ấn phẩm văn hóa văn chương phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của độc giả, phải là
người có tâm mới tập hợp được một đội ngũ đông đảo đến như vậy các nhà văn có tài
đương thời làm việc cho mình.
Những nét tính cách và phẩm chất, tài năng của Vũ Đình Long đều được phản ánh
khá rõ nét qua những trang hồi kí của Ngọc Giao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng... Trước
hết đó là sự chân tình và thái độ “trọng hiền đãi sĩ” đối với các nhà văn, nhà báo tham gia
viết bài vở cho Tân Dân nên hầu hết các nhà văn có tiếng đương thời nếu không ở trong
nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì đều được Vũ Đình Long thu nạp hoạt động cho nhà Tân
Dân. Ngọc Giao trong bài viết Chủ nhà in, nhà xuất bản Tân Dân – Ông Vũ Đình Long
cho biết Vũ Đình Long “tính tình điềm đạm, nhiều cơ mưu, giỏi cả Hán văn lẫn Pháp
văn”, nhất là trong giao dịch với các văn sĩ ông trước sau luôn “trang trọng, chân thành”,
“luôn tỏ ra cực kì lịch sự, trọng hiền đãi sĩ” [10, tr.249-250].
Nét tính cách nổi bật thứ hai ở Vũ Đình Long chính là một tinh thần làm việc
nghiêm túc, cần mẫn và hăng say. Vũ Bằng kể lại trong hồi kí của mình rằng Vũ Đình
Long rất chịu khó đọc và tìm tòi những điều hay, mới lạ trên các sách báo của Pháp,
những điều quan trọng được ông ghi ra giấy và nghiên cứu thật kĩ lưỡng. Vũ Đình Long
cũng là người hết sức cẩn thận, có trách nhiệm với những sản phẩm văn hóa do mình làm
ra, hoàn toàn không phải chỉ là làm sao kinh doanh được nhiều sách, thu nhiều tiền. Các
công việc rất kì công như đọc bài vở của độc giả, các cộng tác viên rồi cách xếp đặt trang
15
báo, trình bày hình vẽ, tuyển chọn tiểu thuyết nước ngoài để dịch đăng... đều do Vũ Đình
Long trực tiếp làm [59, tr.361]. Về tinh thần làm việc hăng say, cao độ của Vũ Đình Long
nhà văn Vũ Bằng kể lại câu chuyện về sự ra đời của tờ Truyền Bá. Trước một tháng để
chuẩn bị cho sự ra đời của Truyền Bá trong đầu ông Long lúc nào cũng chỉ có hình ảnh
của tờ báo ấy. Kết quả là một bản kế hoạch rất chi tiết cho Truyền Bá hình thành: ma két
đã dựng sẵn, kế hoạch bán báo như thế nào, trình bày trang báo như thế nào, thậm chí đến
cả chỗ nào thì in loại chữ gì, các mục cho từng trang v.v.... đã được Vũ Đình Long tính
sẵn.
Một đặc điểm quan trọng ở Vũ Đình Long chính là một đầu óc năng động trong
kinh doanh. Khi được phép xuất bản tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Vũ Đình Long đã có
cả một chiến dịch mà ngôn ngữ ngày nay gọi là marketing rầm rộ bằng cách “dán nhan
nhản những quảng cáo báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy in rất mĩ thuật” [16, tr.178]. Sự đầu tư
như thế trong quảng bá cho thấy ông thực sự là một người có đầu óc chiến lược kinh
doanh bởi ông cho rằng: “Quảng cáo của tôi in đẹp, trên giấy quý, thì người đọc xong
không nỡ vứt đi, mà giữ lại, có khi còn bày ở tủ kính như một thứ trang trí. Nó sẽ được
nhiều người đọc chứ không phải một người”[16, tr.179-180]. Qua con mắt của Vũ Bằng,
Vũ Đình Long hiện ra là một người rất có đầu óc kinh doanh, sẵn sàng mạo hiểm để thử
thẩm mỹ của độc giả bằng những lối viết mới. Khi Vũ Bằng đề xuất thí nghiệm một lối
văn mới nhằm tạo sự khác biệt với lối văn đang rất thịnh hành đương thời là “có một cốt
truyện hoặc ly kỳ ít, hoặc ly kỳ nhiều, thí dụ các truyện ngắn nói về những mối tình éo le
làm cho người đọc hồi hộp và than khóc” [59, tr.359] thì Vũ Đình Long đồng ý thử
nghiệm ngay chính trên tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy đang rất nổi tiếng lúc đó. Có thể nói,
nếu không phải là người có tố chất mạo hiểm của một đầu óc kinh doanh và biết nhìn xa
trông rộng chắc chắn Vũ Đình Long sẽ không đồng ý thử nghiệm một lối viết mới khi mà
tờ báo của ông đã đứng vững trên văn đàn. Vũ Đình Long không ngừng suy nghĩ để cải
tiến chất lượng sách báo, ra hình thức nào bổ sung để thu hút độc giả, ra thêm loại ấn
phẩm nào để nhắm đến những đối tượng tiềm năng trong xã hội. Tiểu Thuyết Thứ Bảy
sau một thời gian xuất hiện và trụ vững, Vũ Đình Long quyết định mở rộng phạm vi của
16
tờ này, ra khổ lớn hơn và nhiều trang hơn kèm theo một loạt chuyên mục mới cũng xuất
hiện như “Biết Ai Tâm Sự”, “Để Cười Khi Chung Bóng”, “Ý Nghĩ Của Người Dạo
Phố”... Có một lực lượng đủ lớn để phát triển Tiểu Thuyết Thứ Bảy, đến năm 1935 Vũ
Đình Long quyết định một bước phát triển mới cho nhà Tân Dân bằng cách cho ra thêm
tờ Phổ Thông Bán Nguyệt San mà số đầu tiên ra ngày 1/12/1936. Một chi tiết khác trong
cuốn hồi ký vừa kể trên của Vũ Bằng hé lộ cho ta thấy đầu óc thương mại của Vũ Đình
Long rất năng động. Nhà Tân Dân có đại lý không chỉ ở Việt Nam mà khắp cõi Đông
Dương. Ông Long đã tính toán để làm sao cho các ấn phẩm đến ngày ra sẽ đồng loạt xuất
hiện khắp cõi Đông Dương cùng một ngày, sẽ không có nơi nào bị chậm trễ do sự vận
chuyển bưu điện. Trong tình hình giao thông vận tải lúc ấy ông Long đã có một phương
án rất hay là in báo trước rồi gửi đi khắp các đại lý ở Đông Dương cho kịp ngày phát
hành. Nhà Tân Dân sau khi có Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San thì Vũ
Đình Long tìm cách để tăng số lượng sách bán bằng cách cải cách hình thức và nội dung
của Phổ Thông Bán Nguyệt San. Đó chính là Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu ra số
đầu ngày 16/1/1938. Nhà văn Ngọc Giao cũng đánh giá Vũ Đình Long là người có đầu
óc hơn người ở việc tính toán một cách rất khoa học trong quản lý công việc, tổ chức sản
xuất bài vở và các ấn phẩm báo chí. Xin trích: “Xưởng in tổ chức rất quy củ. Năm 1937,
phá nhà in cũ, xây nhà in lớn, máy in, chữ in đặt mua tại Pháp, loại hiện đại”[10, tr.250].
Ở một đoạn khác Ngọc Giao kể: “Ông Vũ Đình Long có đầu óc làm ăn lớn về ấn loát tối
tân, cũng như tổ chức nhà xuất bản có khoc học. Xu hướng của ông là cố gắng noi theo tổ
chức văn học của Editions Flammarion và Librairie Hachette – hai nhà xuất bản vĩ đại
của Pháp”[10, tr.250]. Vào thời điểm đông nhất nhà in Tân Dân có tới 500 công nhân làm
việc không kể đội ngũ các nhà văn chủ chốt và cộng tác lên đến hàng chục người.
Với sự tính toán cẩn trọng và hơn người ở tầm nhìn cùng với sự ứng xử có văn hóa
Vũ Đình Long đã xây dựng nhà xuất bản Tân Dân thành một tổ chức văn hóa nghệ thuật
lớn mạnh vào bậc nhất ở Việt Nam. Về sự lớn mạnh khổng lồ của nhóm Tân Dân ta có
thể tưởng tượng được qua một đoạn mà Ngọc Giao kể lại như sau: “Trước một địch thủ
“sức mạnh muôn người” như Nhà xuất bản Tân Dân 93 Hàng Bông, các nhà xuất bản
17
khác trong Hà Nội hoảng sợ, song không có cách gì hạ được họ Vũ” [10, tr.254]. Nhà
Tân Dân do Vũ Đình Long đứng đầu đã có một hệ thống phát hành khắp Đông Dương
gồm hàng ngàn đại lý. Trong nước thì từ Lạng Sơn đến Cà Mau, trong xứ Đông Dương
thì tới tận Nam Vang, Viên Chăn... Sau biết bao năm tích góp từ khi còn ở quy mô hiệu
sách nhỏ, với số vốn ban đầu là 800 đồng bằng tài năng của mình Vũ Đình Long đã đưa
Tân Dân thành một tổ hợp xuất bản lớn thuộc loại hạng nhất của Hà Nội lúc bấy giờ với
lực lượng lao động lên đến hơn 500 người và trang thiết bị in ấn hiện đại nhập từ Pháp.
Có thể nói không quá rằng Vũ Đình Long đã gây dựng Tân Dân không chỉ là một nhóm
văn học hoạt động sôi động vào bậc nhất lịch sử văn học Việt Nam trong suốt một thập
niên (từ 1934 đến 1945) mà còn là có người có công rất lớn trong công cuộc tạo dựng
một môi trường hoạt động văn chương chuyên nghiệp, hình thành nên một tầng lớp văn
nghệ sĩ chuyên nghiệp ở Việt Nam. Qua những ấn phẩm của mình nhà Tân Dân mà cụ
thể hơn là Vũ Đình Long đã nâng đỡ, nuôi dưỡng và phát triển biết bao nhà văn mà sau
này đều ghi danh vào lịch sử văn học hiện đại Việt Nam là những nhà văn lớn: Nguyễn
Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Lan
Khai, Vũ Bằng... Có thể nói, trong một thập niên cuối cùng của nửa bán thế kỉ trước của
thế kỉ XX, trong cái “trường văn học” – nói theo ngôn ngữ của nhà xã hội học pháp
Pierre Bourdieu – thì nhóm Tân Dân dưới sự điều hành của Vũ Đình Long thực sự đã tạo
ra một vị trí khổng lồ mà ít có nhóm văn học nào đương thời có thể sánh được.
*
* *
Với những thông tin mà chúng tôi đã nghiên cứu được về Vũ Đình Long qua khai
thác các tư liệu từ hồi ký của các nhà văn, các nhân vật có liên quan đến cuộc đời Vũ
Đình Long và nhà xuất bản Tân Dân như đã trình bày ở trên, chúng tôi có một số kết luận
quan trọng sau: Trước hết, Vũ Đình Long đã ghi dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại với tư cách là một kịch tác gia đầu tiên. Thứ hai, Vũ Đình
18
Long là người đã gây dựng và phát triển một nhóm văn học với một lực lượng đông đảo
và hùng hậu các nhà văn có tiếng đương thời quy tụ chung quanh nhà xuất bản Tân Dân
với các ấn phẩm: Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Ích Hữu, Tao Đàn,
Truyền Bá.... Vũ Đình Long là người đã định ra những bước đi chiến lược, đặc biệt quan
trọng trong việc phát triển nhà xuất bản Tân Dân qua việc chuẩn bị kĩ lưỡng và quyết
định những thời điểm thích hợp để xuất bản các ấn phẩm văn chương phù hợp với thời
thế. Vũ Đình Long đã ứng xử dựa trên Tâm và Tài đối với các nhà văn làm việc chung
quanh mình nên đã quy tụ được một đội ngũ hùng hậu vào bậc nhất các nhà văn danh
tiếng đương thời về với Tân Dân. Thứ ba, Vũ Đình Long đã có công rất lớn trong sự phát
triển văn hóa của dân tộc nói chung và văn học nói riêng qua một khối lượng những tác
phẩm khổng lồ của nhà Tân Dân trong hàng chục năm trước và sau cách mạng, nhất là
giai đoạn trước cách mạng. Dưới sự quản lí và điều hành của ông, nhà Tân Dân đã có
công rất lớn trong việc phát triển và quảng bá văn học trong quảng đại quần chúng, nhất
là thể loại tiểu thuyết. Và điều cuối cùng là Vũ Đình Long từng có khát vọng xây dựng
một “đế chế” văn hóa của riêng mình, làm nên tên tuổi riêng Tân Dân trong dòng chảy
văn hóa dân tộc. Ông muốn nhà Tân Dân trở thành một tổ chức văn học vĩ đại như hai
nhà xuất bản vĩ đại của Pháp là Editions Flammarion và Labrairie Hachette. Với trên 10
năm tồn tại và hoạt động (tính đến thời điểm nổ ra cuộc Cách mạng tháng Tám) Vũ Đình
Long thực sự đã làm nên một Tân Dân khổng lồ trong lịch sử văn hóa, văn học dân tộc.
1.1.2.3 Từ hiệu sách Tân Dân đến nhà xuất bản Tân Dân
Vào năm 1925 Vũ Đình Long mở hiệu sách Tân Dân nhưng vẫn làm việc tại sở
học chính Hà Nội. 1936 ông thôi làm việc tại Sở học chính, dồn mọi tâm huyết mở rộng
quy mô phát triển nhà xuất bản Tân Dân và đưa nhà xuất bản này trở thành một tổ chức
văn hóa hùng mạnh. Trước khi cho ra Tiểu thuyết thứ bảy, khoảng từ 1925 – 1933, tại
hiệu sách Tân Dân, khi đó nhà xuất bản Tân Dân mới là một nhà in, Vũ Đình Long đã
cho in các tiểu thuyết kiếm hiệp, truyện bi tình với phần lớn là dịch của Tàu và sách bói
toán, xem ngày, vận hạn. Khi còn ở giai đoạn Tân Dân thư quán, Vũ Đình Long đã xuất
19
bản được nhiều tác phẩm của các tác giả sau này cũng vẫn tiếp tục cộng tác viết sách cho
nhà Tân Dân. Riêng Nguyễn Đỗ Mục đã có một loạt tác phẩm ấn hành ở Tân Dân thư
quán như Thuyền tình bể ái (sách dịch, 1926), Vợ tôi (dịch của Từ Trẩm Á, 1927), Chiếc
bóng song the (Tây song lệ ảnh) (sách dịch, 1928), Hồng nhan đa truân (sách dịch,
1929), Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải (1929), Sách xem Tết Canh Ngọ (viết cùng Sơn
Phong, Hoàng Quảng Đức, Long Thành, Thiếu Sơn, Tân Lãng Ông; tác giả ký Nguyễn
Văn Tôi - 1930), Thủy hử diễn nghĩa (sách dịch, in trong năm 1934 – 1935, gồm 5 tập)...
Ngoài ra còn có các tác giả khác như Hoàng Tăng Bí (với Nghĩa nặng tình sâu (tuồng Mị
Châu Trọng Thủy) – 1927, Văn ca trích cẩm 200 bài hát ả đào... ); Nguyễn Nam Thông
(Bai Giai (1931), Tú Xuất (1930), Thằng ăn mày giàu nhất tham nhất thế giới (1930), Vợ
lẽ của tôi (dịch của Từ Trẩm Á); Tam Lang Vũ Đình Chí (Đời Hoàng Anh (một cái hại
của tiểu thuyết), (1930), Giọt lệ sông Hương (Minh Châu lệ sử) (1930)...
Năm 1933, khi nhóm Tự lực văn đoàn xuất hiện, Vũ Đình Long đã có một cơ sở
ấn loát và xuất bản lớn, trên cơ sở đó ông mở rộng quy mô và thành lập nhà xuất bản Tân
Dân. Năm 1934 xuất bản ấn phẩm đầu tiên là Tiểu thuyết thứ bảy. Từ đó về sau, một
mình ông điều hành và quản lý nhà xuất bản Tân Dân với 5 tờ báo và tạp chí nổi tiếng
đương thời gồm: Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích Hữu, Tao Đàn,
Truyền bá và hai tủ sách: Tủ sách những tác phẩm hay và Tủ sách Tao Đàn.
Chúng ta có thể hình dung sự phát triển của nhà Tân Dân qua các mốc sau:
1925: Mở hiệu sách Tân Dân tên gọi Tân Dân thư quán
2/6/1934: Xuất bản Tiểu Thuyết Thứ Bảy.
25/2/1936: Xuất bản tuần báo Ích Hữu.
1/12/1936: Xuất bản Phổ Thông Bán Nguyệt San.
16/1/1938: Xuất bản Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu.
1938: Ra mắt Tủ sách Những tác phẩm hay.
20
1/3/1939: Xuất bản tạp chí Tao Đàn.
1940: Ra mắt Tủ sách Tao Đàn.
7/6/1941: Xuất bản phụ trương Tiểu Thuyết Thứ Bảy (mỗi tuần 1 số, 24 trang)
25/8/1941: Xuất bản báo Truyền Bá.
1/7/1943: Xuất bản Phổ Thông Chuyên San.
1943: Ra mắt báo Phổ Thông Tuổi Trẻ, cùng dạng báo Truyền Bá.
Với sự kiện cho ra đời tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tân Dân thư quán nâng cấp phát
triển lên thành một nhà xuất bản thực sự. Và từ đó, liên tục phát triển mạnh mẽ và liên
tiếp cho ra rất nhiều các ấn phẩm báo chí, văn chương và sách học thuật, quy tụ được một
đội ngũ đông đảo các nhà văn đủ mọi sở trường cùng hoạt động. Mỗi tờ báo, tạp chí, loại
sách là một sân chơi riêng, do đó nhà Tân Dân đã tạo ra những môi trường vô cùng
phong phú thu hút mọi sở trường các văn nhân thi sĩ, giới nghiên cứu thi thố tài năng
nghệ thuật và học thuật.
1.2 Các tờ báo, tạp chí của Tân Dân
1.2.1 Tiểu thuyết thứ bảy
Tiểu Thuyết Thứ Bảy là ấn phẩm ra đời sớm nhất và tồn tại lâu nhất, đăng tải một
số lượng tác phẩm lớn nhất của nhóm Tân Dân. Nếu tính từ số đầu tiên ra ngày 2/6/1934
đến số cuối cùng ra ngày 31/12/1949, bình quân mỗi tuần ra một số thì tổng Tiểu Thuyết
Thứ Bảy đã được xuất bản là trên dưới 700 số và tương đương là 700 tiểu thuyết và các
truyện ngắn, các bài viết liên quan đến văn chương, học thuật. Xét về mặt số lượng, đó
thực sự là con số không nhỏ ấn phẩm văn hóa của Tiểu Thuyết Thứ Bảy đã góp phần làm
phong phú và đa dạng cho bộ mặt văn học sử Việt Nam trước cách mạng.
Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra số đầu tiên ngày 2/6/1934 chuyên đăng tiểu thuyết và
truyện ngắn. Theo Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam của tác giả Nguyễn Thành [43] thì
chủ nhiệm là bà Nguyễn Thị Hợi; sau là Vũ Đình Long. Tòa soạn: 93 phố Hàng Bông, in
21
ở nhà in Tân Dân. Khổ in 250x160 mm (Sở dĩ trong giai đoạn đầu của Tiểu Thuyết Thứ
Bảy đứng tên chủ nhiệm là Nguyễn Thị Hợi, sau mới chuyển lại là Vũ Đình Long do quy
định của chế độ công chức đương thời. Bà Nguyễn Thị Hợi là vợ cả của Vũ Đình Long).
Sau 1945 Vũ Đình Long tục bản Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 1 bộ mới ra ngày 1.3.1949; số
cuối cùng là số 40 ra ngày 31.12.1949; xuất bản 10 ngày một kì. Chủ nhiệm: Vũ Đình
Long, in typo khổ 270x195 mm. Tiểu Thuyết Thứ Bảy có hai giai đoạn phát triển khác
nhau là trước và sau 1945. Ở luận văn này chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu Tiểu Thuyết
Thứ Bảy ở giai đoạn từ 1945 về trước, còn giai đoạn sau 1945 Vũ Đình Long có cho tục
bản Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Bộ mới) không nằm trong phạm vi khảo sát của chúng tôi.
Tôn chỉ hoạt động của Tiểu Thuyết Thứ Bảy được đăng tải rõ ràng ở số 1. Dựa vào
chương trình hoạt động của Tiểu Thuyết Thứ Bảy chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Trước hết Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra đời nhằm phục vụ nhu cầu giải trí của độc giả
vào cuối tuần, như là một món ăn tinh thần với thành phần chủ đạo là tiểu thuyết, bên
cạnh đó là truyện ngắn, các bài khoa học thường thức về lịch sử, địa lý, xã hội....
Thứ hai, Tiểu Thuyết Thứ Bảy như tên gọi tập trung đăng chủ yếu là các tiểu
thuyết (do người Việt viết hoặc dịch lại của Tây, Tàu), truyện dài, thơ, các bài viết khoa
học thường thức và những tranh luận học thuật, văn chương nghệ thuật.
Thứ ba, Tiểu Thuyết Thứ Bảy nhấn mạnh đến mục đích giáo dục, đạo đức. Tất cả
những tác phẩm đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy đều phải tốt cho đạo đức và sự giáo dục
con người, bảo vệ truyền thống gia đình.
Thứ tư, Tiểu Thuyết Thứ Bảy không chủ trương độc tôn một quan điểm, chủ nghĩa
hay khuynh hướng văn chương nào mà chủ trương đón nhận, thu nạp tất các các phong
cách văn chương, chủ nghĩa và là nơi để các tư tưởng ấy cọ xát, tranh luận với nhau bất
kể Tân học hay cựu học.
Vào thời điểm Vũ Đình Long cho ra đời tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy thì đây là tờ báo
duy nhất trong cả nước chuyên về tiểu thuyết và cũng là tờ báo bán chạy nhất [59,
22
tr.359]. Về nội dung của Tiểu Thuyết Thứ Bảy ngay từ đầu Vũ Đình Long đã tính toán để
tránh sự đánh thuế của nhà chức trách bằng cách ra dạng báo thay cho sách bởi lẽ không
có báo nào mà lại không đăng các mục tin tức, thời sự, bình luận mà chỉ tập trung vào
tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ... Sở dĩ Vũ Đình Long quyết định Tiểu Thuyết Thứ Bảy chỉ
đăng tiểu thuyết mà không có mục tin tức thời sự là vì có như thế ông mới có thể in sớm
để gửi đi khắp các đại lý Đông Dương sao cho sáng thứ bảy nào cũng kịp có báo bán.
Ngay khi ra đời với số lượng in 5000, 6000 hay 7000 bản đều bán hết, rồi dần dần
tăng lên 1 vạn bản và hơn nữa, Tiểu Thuyết Thứ Bảy bỗng chốc trở thành địch thủ lớn
của Phong Hóa. Tiểu Thuyết Thứ Bảy như một trung tâm để thu hút tất cả những cây viết
tiểu thuyết đương thời bởi lẽ nó không phân biệt đề tài hay khuynh hướng như ở Tự lực
văn đoàn. “Tiểu Thuyết Thứ Bảy như một hãng buôn truyện, đã đăng bất cứ một truyện
gì về loại nào, miễn là có truyện và văn viết sạch sẽ” [16, tr.189]. Mặc dù Tiểu Thuyết
Thứ Bảy dung nạp nhiều loại tiểu thuyết như vậy song không phải bất cứ truyện gì cũng
đăng để tranh độc giả bằng mọi cách. Như có người đã ví, Tiểu Thuyết Thứ Bảy là tờ báo
của mọi gia đình lễ giáo, nên tuyệt nhiên những tác phẩm nào có tính lãng mạn cực đoan
hay khiêu dâm đều không được Tiểu Thuyết Thứ Bảy đăng tải. Nguyễn Công Hoan thừa
nhận: “báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy không làm hại độc giả, trong khi một vài tờ báo khác
nữa đi quá mức lãng mạn đến chỗ khiêu dâm để tranh độc giả như Hà Nội báo, Tiểu
Thuyết Thứ Ba, Tiểu Thuyết Thứ Năm v.v...” [16, tr.193]. Vào ngày 7/6/1941 bên cạnh
Tiểu Thuyết Thứ Bảy còn có thêm PHỤ TRƯƠNG TIỂU-THUYẾT THỨ BẢY. Tập phụ
trương này, ra đời nhằm vào ngày kỷ niệm đệ thất chu niên của Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
mỗi tuần ra một số 24 trang giá 5 xu. Tiểu Thuyết Thứ Bảy như là một tờ báo trung tâm
của đời sống văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nhưng nó dần kết thúc vai
trò lịch sử của mình vào thời điểm phát xít Nhật đánh Pháp. Lúc này nhà Tân Dân đóng
cửa Phổ Thông Bán Nguyệt San và Truyền Bá, cơ sở từ 93 Hàng Bông chuyển về Mục
Xá – Hà Đông và chỉ còn lại tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra khổ 45x30 rồi lại 7,5x11 nhưng
“cọc cạch” và “ không còn cách nào sống lại được những buổi huy hoàng khi trước nữa”
[59, tr.380].
23
Tiểu Thuyết Thứ Bảy khi ra đời được Vũ Đình Long giao cho Ngọc Giao rồi về
sau là Vũ Bằng làm thư ký tòa soạn. Các cây bút chủ lực của Tiểu Thuyết Thứ Bảy hầu
hết đều là những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam sau này: Nguyễn Công Hoan, Lê Văn
Trương, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Ngọc Giao, Thanh Châu, Vũ Bằng, Nam Cao, Nguyên
Hồng.... Về vai trò và những đóng góp của từng nhà văn này chúng tôi sẽ đề cập kĩ ở mục
Đội ngũ các nhà văn chủ chốt của nhóm Tân Dân ở phần sau của luận văn này.
1.2.2 Phổ thông bán nguyệt san
Số đầu tiên ra ngày 1/12/1936, là tạp chí văn học, mỗi tháng ra 2 kì vào ngày 1 và
15. Mỗi số khoảng 150 trang, đăng trọn vẹn một tiểu thuyết và một vài truyện ngắn cùng
các tranh luận nhỏ về các vấn đề văn hóa, học thuật. Cũng giống như tờ Tiểu Thuyết Thứ
Bảy, mặc dù là bán nguyệt san – tức dạng báo chí, nhưng Phổ Thông Bán Nguyệt San lại
được trình bày dưới dạng một quyển sách hơn là một tờ báo. Số đầu tháng 160 đến 200
trang : 25 xu. Số giữa tháng 110 đến 140 trang: 15 xu. Cũng có khi ra luôn 2 số 25 xu hay
là 2 số 15 xu, nhưng trung bình mỗi năm là 12 số 25 xu và 12 số 15 xu. Nửa năm 12 số
2$30 - Cả năm 24 số 4$50. Ngoại quốc và chính phủ mua giá gấp đôi. Ngày 16/1/1938
Phổ Thông Bán Nguyệt San xuất bản thêm Phụ trương Phổ Thông Bán Nguyệt San còn
gọi là Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu. Ngày 1/7/1943 ra thêm Phổ Thông Chuyên
San, số cuối cùng ra ngày 1/12/1943, mỗi tháng một tập. Mỗi tập là một chuyên san về
văn học, sử học hay triết học. Mục đích là phổ thông trí thức, gây dựng một kho tài liệu
thiết yếu cho tủ sách của người học thức. Số trang mỗi tập không nhất định. Giá bán
không nhất định. Loại “ chuyên san văn học, sử học, triết học” này in trên giấy dó pha,
rất bền. Phổ Thông Bán Nguyệt San lớp cũ (chuyên in tiểu thuyết) vẫn ra, nhưng mỗi
tháng chỉ in một tập, đẹp hơn trước, “tiểu thuyết chọn lọc rất kỹ, toàn là những tác phẩm
hay, có giá trị chắc chắn”. Như vậy có thể hình dung các bước phát triển của tờ Phổ
Thông Bán Nguyệt San này như sau:
1/12/1936: Ra Phổ Thông Bán Nguyệt San số 1
16/1/1938: Ra Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu
24
1/7/1943: Ra Phổ Thông Chuyên San
1945: Đình bản Phổ Thông Bán Nguyệt San.
Về Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu chúng tôi ghi chép được những thông tin
như sau được đăng trên loại bìa màu số 1: Phổ thông bán nguyệt san BÌA MÀU, số 1 ra
ngày 16 Janvier 1938, là Tạp chí văn chương ra đầu tháng và giữa tháng. Mỗi số 180
trang: 25 xu. Số 1 đăng tiểu thuyết Con đười ươi của Lưu Trọng Lư.
Phổ Thông Bán Nguyệt San không chỉ đăng tác phẩm văn chương mà còn đăng cả
những tranh luận về văn chương, học thuật. Ví dụ ở Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu
số 1 ngoài đăng trọn vẹn tiểu thuyết Con đười ươi của Lưu Trọng Lư còn đăng bài Xung
quanh buổi diễn thuyết của chúng tôi ở Nam Định ngày 14-12-1937: Triết lý sức mạnh và
văn chương tranh đấu – Sự phá hoẵng vô ý thức của Tự lực văn đoàn và bài Một chuyện
rắc rối trong cuộc diễn thuyết về “Triết lý sức mạnh và văn chương đầu độc” ở hội Trí
tri Nam Định...
Phổ Thông Bán Nguyệt San cùng với Tiểu Thuyết Thứ Bảy trở thành hai thế mạnh
của nhà Tân Dân trong thu hút độc giả. “Phổ Thông Bán Nguyệt San: Như tên đề, nửa
tháng in một cuốn, không quá 200 trang, không trên 0,25 đ. In loại đẹp trung bình. Loại
này chạy nhất nhờ những tên sách lịch sử, diễm tình, phần lớn là li kỳ, rùng rợn, độc giả
trẻ nam nữ rất thích. Tất cả các loại trên, không in quá con số 2000 cuốn. Riêng tiểu
thuyết Lê Văn Trương thường được in tới 3000 cuốn” [10, tr.253]. Trong điều kiện đời
sống kinh tế và chính trị Việt Nam đương thời, một cuốn sách in lên đến số lượng 2000,
3000 cuốn không phải là nhỏ khi chúng ta so với điều kiện hiện nay của Việt Nam, thông
thường mỗi cuốn sách tác phẩm văn chương in không quá số lượng 1000 bản. (Cụ thể:
xem 2 tên sách gây được tiếng vang là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh do nhà xuất
bản tên tuổi Văn học năm 2007 ấn hành cũng in số lượng 1000 bản; cuốn Cơ hội của
Chúa của Nguyễn Việt Hà do nhà xuất bản có tiếng Hội nhà Văn ấn hành năm 2007 cũng
chỉ có 1000 bản).
25
Đội ngũ các cây bút chủ chốt viết cho Phổ Thông Bán Nguyệt San vẫn là những
nhà văn Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Ngọc Giao, Lan Khai, Lưu Trọng Lư...
1.2.3 Ích Hữu
Theo Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam của tác giả Nguyễn Thành [43] thì báo Ích
Hữu xuất bản hàng tuần tại Hà Nội. Số 1 ra ngày 25.2 - 2.3.1936; số cuối cùng, số 110, ra
vào 3.1938. Chủ nhiệm, quản lí: Vũ Đình Long về sau thêm Vũ Huy Thọ. Từ số 94, ngày
8.12.1937 quản lí là Lê Văn Trương. Tòa soạn báo Ích Hữu đặt tại 93 phố Hàng Bông –
“đại bản doanh” nhóm Tân Dân. Báo in ở nhà in Tân Dân: khổ 300x220mm và
450x300mm. Ở Thư viện quốc gia Việt Nam hiện có Ích hữu 1936: từ số 1 đến số 25 và
Ích hữu 1937 - 1938 từ số 94 đến 110 (thiếu số 96, 99).
Ngoài các thông tin chính trị xã hội thì Ích Hữu dành một dung lượng lớn để đăng
tải các tác phẩm văn chương gồm truyện dài, truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết dịch...
Ngọc Giao kể lại về tờ Ích Hữu như sau: “Ích Hữu: Tuần báo, nội dung tựa báo Văn nghệ
hiện giờ. Không thể thiếu được: một tiểu thuyết dài về tình yêu hấp dẫn tương tự Hồng
lâu mộng, Tây sương ký. Ích Hữu có nhiều độc giả nhờ truyện dài lịch sử Phấn son Phi
Yến do thi sĩ Thanh Tùng Tử viết với thể văn hoa mỹ. Báo in khổ rộng, chữ đẹp, minh
họa đẹp. Sau truyện Phấn son Phi Yến tiếp truyện dài Vết xe phu tử của Vũ Lang (...). Ích
Hữu được hoan nghênh nhờ nội dung đáp ứng thị hiếu người đọc qua những cây biết thật
chắc tay như Trúc Khê, Nguyễn Đỗ Mục, Vũ Lang, J.Leiba Thanh Tùng Tử... Không cần
nhiều. Mỗi tuần chỉ cần 2 hoặc 3 người đặc trách” [10, tr.252].
Qua sự khảo sát trực tiếp trên báo Ích Hữu số 1 lưu tại Thư viện quốc gia Việt
Nam chúng tôi có được mục đích, tôn chỉ hoạt động của tờ báo như sau: Ích Hữu số 1 ra
ngày 25 Février – 2 Mars 1936. Dòng chữ ICH HUU (không có dấu) in hoa đậm màu đen
và có ghi bên dưới: Tuần báo ra ngày thứ ba. Báo quán: 93 phố Hàng Bông – Hanoi –
Nhà in Tân Dân. Trang nhất in hình lớn màu nâu một người công nhân có dáng hình khỏe
mạnh, tay cầm chiếc búa chim đang quai lên rất mạnh mẽ. Ngay phía dưới là một khung
nền đen in nổi bật chữ trắng, ghi rõ giá báo là 5 xu. Ích Hữu số 1 có đăng bài Thay lời phi
26
lộ trong đó có câu đáng chú ý là Đứng đắn, có ích hoạt động vui vẻ là những tính chất
cốt yếu của Ích Hữu. Tôn chỉ hoạt động của Ích Hữu rất thiết thực và rõ ràng. Trên Ích
Hữu số 3 có bài Cùng bạn đọc với nội dung như sau: “Ngoài phần tiểu thuyết là phần giải
trí báo nào cũng phải có, Ích hữu có nhiều mục lợi ích thiết thực cho bạn trẻ và gia đình:
Muốn biết, Lời bác sỹ, Hỏi thuốc, Hỏi luật... Chúng tôi khuynh hướng về thực tế mà
chúng tôi cũng rất chú trọng về văn chương, cho nên những mục Tập ảnh, Trước đèn, Đĩa
mứt gừng, Thơ văn... đều do những cây bút có giá trị chuyên giữ”. Các chuyên mục chính
của Ích Hữu gồm:
Đĩa mứt gừng: là những bài tản văn với giọng châm biếm hài hước phản ánh rất
nhiều khía cạnh của đời sống gia đình, chính trị, lối sống của người Việt... Mục này do
bút danh Ba Phải phụ trách.
Trước đèn: đăng những bài nghị luận xã hội do Lãng Nhân Phùng Tất Đắc phụ trách.
Tập ảnh: do Linh Phượng phụ trách. Mục này chuyên đăng tải những bài viết theo
lối ký chân dung, dựng lại những chân dung nhân vật ở đủ mọi tầng lớp trong xã hội với
tất cả những cái kỳ quái, dị hợm không giống ai.
Thơ (Văn thơ): chuyên đăng tải thơ với chủ yếu là thể loại truyền thống như thất
ngôn, ngũ ngôn, lục bát...
Tiểu thuyết: đăng tiểu thuyết gồm trường thiên tiểu thuyết (đăng làm nhiều số) và
đoản thiên tiểu thuyết. Dung lượng chuyên mục khoảng 6 – 7 trang.
Dịch sách nước ngoài: Do Nguyễn Đỗ Mục phụ trách. Sách được dịch tập trung
vào các chủ đề thuật cai trị quốc của các vua chúa đời xưa bên Tàu, ở ta, luận bàn về các
tôn giáo như Nho giáo, Phật giáo... Có đăng cả nguyên văn của văn bản gốc để độc giả
đối chiếu.
Trang chiếu bóng: Đăng tải các bài viết về nghệ thuật điện ảnh gồm tin tức phim,
bình luận phim, đời tư các diễn viên...
27
Đó đây: Do Lê Văn Trương phụ trách. Chuyên đăng tải các bài viết kể về những
chuyến đi của tác giả đến các vùng đất xa lạ, gặp gỡ những con người với những phong
tục kì thú.
Ngoài ra Ích Hữu còn rất nhiều các chuyên mục hữu ích và thiết thực khác như:
Thư chị thư em, Muốn biết, Lời bác sỹ, Tin sách báo, Dại và Khôn, Muốn đẹp, Thế giới
danh nhân truyện, Những phong tục lạ, Học chữ Nho, Hỏi thuốc, Các môn thuốc kinh
nghiệm, Hỏi luật, Tâm sự, Hộp thư. Trong các ấn phẩm được gọi là báo chí của Tân Dân
thì chỉ có Ích Hữu thực sự là một tờ báo đúng nghĩa, nó đóng vai trò là cơ quan ngôn luận
của nhóm Tân Dân và có ảnh hưởng rộng rãi trong lịch sử văn hóa, văn học, báo chí Việt
Nam giai đoạn 1932 – 1945. Các cây bút viết chính cho Ích Hữu vẫn gồm Nguyễn Công
Hoan, Vũ Lang, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, J.Leiba Thanh Tùng Tử....
1.2.4 Truyền Bá
Theo Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam của tác giả Nguyễn Thành [43] thì báo
Truyền bá là tập báo của tuổi trẻ, xuất bản mỗi tháng 2 kì vào ngày 10 và 25. Chủ nhiệm:
Vũ Đình Long .Tòa soạn: 93 phố Hàng Bông. In tại nhà in Tân Dân, khổ 185x115mm.
Báo Truyền Bá ban đầu ra ngày 10 và 25, sau ra ngày thứ năm. Mỗi số 26 trang, đăng hết
một truyện dài, một truyện ngắn và nhiều bài có ích cho trẻ em. Hiện ở Thư viện quốc gia
Việt Nam chỉ còn lưu giữ được một số Truyền Bá duy nhất. Chúng tôi nghiên cứu ấn
phẩm này dựa trên những tài liệu và hình ảnh do nhà sưu tầm sách Nguyễn Tiến Dũng ở
thành phố Hồ Chí Minh cung cấp. Đây là tớ báo dành cho nhi đồng với khuynh hướng
giáo dục đạo đức và lối sống rất rõ. Trong Lời mở đầu in trên Truyền Bá số 1 khẳng định
tất cả nội dung trên báo Truyền Bá đều nhằm mục đích duy nhất là giáo dục trẻ em và nói
rõ “Những gia đình lễ giáo, tha thiết với trẻ em, sẽ là bạn của Truyền bá vậy”. Để cổ
động hơn nữa cho sự liên hệ mật thiết giữa nhà trường, gia đình và Truyền Bá, nhà Tân
Dân có những cách làm rất hiện đại là treo những giải thưởng cho học sinh và tham gia
vào các hoạt động khuyến học tại các trường công, tư thục như Giải thưởng tặng người
học trò ngoan nhất trường phát thưởng cuối năm học. Đội ngũ các cây bút chủ lực viết
28
cho Truyền Bá gồm: Thâm Tâm, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Bằng, Lê Văn
Trương, Ngọc Giao, Thanh Châu...
1.2.5 Tao Đàn
Tao Đàn là Tạp chí văn học ra một tháng hai kì vào ngày 1 và 15. Số đầu tiên, số
1, năm thứ nhất, quyển thứ nhất, ra ngày 1 Mars 1939. Mỗi số 100 trang. Tao Đàn ra
được 8 số, từ số 9 mỗi tháng 1 kì. Có 2 số đặc biệt về Tản Đà 1/7/1939 và Vũ Trọng
Phụng 12/1939. Số đầu tiên ra ngày 1/3/1939, số cuối cùng ra 8/1940. Hai nhà văn Lan
Khai và Nguyễn Triệu Luật lần lượt được Vũ Đình Long giao làm chủ bút tạp chí Tao Đàn.
Mục đích ra đời và hoạt động của tạp chí Tao Đàn được nêu rất rõ trong bài “Cùng
bạn đọc” đăng trên Tao Đàn số 1 ra ngày 1/3/1939. Qua bài viết chúng ta nhận thấy rất rõ
ràng khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa tích cực của Tao Đàn mà nói rộng ra là của Tân
Dân. Bộ biên tập Tao Đàn cho rằng, trong thời hiện tại giữa lúc thế giới đang biến chuyển
vô cùng mạnh mẽ nhưng Việt Nam dường như đứng ngoài cuộc, không được ai để ý ,
“thực là tủi nhục cho cái dân tộc đã có bốn ngàn năm lịch sử”. Những người chủ
trương Tao Đàn cho rằng, sở dĩ dân Việt Nam không có cơ hội hội nhập với thế giới hiện
đại là do không có nền văn hóa của riêng mình. Tao Đàn đã trực tiếp phê phán sự lệ thuộc
vào văn hóa của Tàu của các thế hệ trước gây nên hệ quả ngày hôm nay. Trong tư cách
văn hóa, Tao Đàn ví dân Việt Nam như mội thứ tầm gửi, trước thì gửi vào thân Tàu giờ
đang dựa vào thân Pháp, và kêu gọi thiết tha phải chấm dứt cái đời tầm gửi này của văn
hóa Việt bởi lẽ nó đe dọa một sự thôn tính tai hại cho tinh thần dân tộc dẫu văn hóa Pháp
có nhiều cái mới, cái hay. Tạp chí Tao Đàn kêu gọi “cần kíp phải tự gây cho mình một
nền văn hoá, một nền văn hoá Việt Nam và “cần phải gây ngay một phong trào quốc
văn mạnh mẽ và rộng lớn hơn từ trước đến nay”. Để làm nhiệm vụ đó những người chủ
trương Tao Đàn chủ trương thâu nạp nhiều giá trị văn hóa, tư tưởng, khuynh hướng miễn
là cùng hướng đến một mục đích chung là gây dựng cho bằng được một nền văn hóa
riêng cho Việt Nam. Ban biên tập Tao Đàn cũng nhấn mạnh đến những đặc sắc riêng của
tạp chí là sẽ rất chú trọng vào sự sáng tạo bởi họ cho rằng “Hiểu biết, dung hoà, thu
29
nhập chưa đủ. Ngày nay chúng ta đã đến cái thời kỳ cần phải sáng tác”. Tao Đàn gồm
ba phần: Nghị luận và khảo cứu; Nghệ thuật; Tạp ký. Tổng thư kí và quản lí: Lan Khai,
có giai đoạn do Nguyễn Triệu Luật phụ trách. “ Trong số 3 nhà văn lần lượt đảm nhiệm
cương vị trong Toà soạn mà ngày nay gọi là Tổng biên tập, thì Lan Khai là người đầu
tiên đứng vị trí ấy; ông bỏ nhiều công sức vun đắp xây dựng tạp chí đi đúng theo lộ trình
và mục đích đã xác định. Ông làm Tổng thư ký Bộ biên tập kiêm Quản lý từ số 1 đến số
10. Còn 3 số cuối do Nguyễn Triệu Luật đảm nhiệm, 2 số đặc biệt do Lưu Trọng Lư tập
hợp bài vở” [46].
Theo danh sách các nhà sưu tập trọn bộ Tao Đàn thì còn thiếu một số Tao Đàn đặc
biệt nằm trong loạt Tao Đàn lớp mới, hai tháng xuất bản 1 số đặc biệt. Đó chính là số về
Ba Lan: Tao Đàn lớp mới số 2 ra tháng Février 1940: Vấn đề Ba Lan. Như vậy là bên
cạnh 2 số Tao Đàn đặc biệt như đã công bố là Tao Đàn về Tản Đà (ra ngày 1/7/1939),
Tao Đàn về Vũ Trọng Phụng ( ra 12/1939) còn có thêm Tao Đàn về Vấn đề Ba Lan (ra
Février 1940). Đó là chưa kể số Tao Đàn về Nguyễn Trường Tộ định ra ngày 1/10/1939
nhưng bị Ty kiểm duyệt bãi bỏ. Đội ngũ tác giả viết cho Tao Đàn gồm hàng loạt các tên
tuổi như Phan Khôi, Trương Tửu, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Lưu Trọng Lư,
Ngô Tất Tố...
1.2.6 Tủ sách Tao Đàn
Tủ sách Tao Đàn ra đời khi Tạp chí Tao Đàn đình bản, năm 1940. Mỗi tháng ra
một quyển, không phải là tiểu thuyết mà là các sách nghiên cứu, khảo cứu. Trong số
những tác phẩm của Tủ sách Tao Đàn nổi tiếng nhất chính là bộ Nhà văn Việt Nam hiện
đại của Vũ Ngọc Phan thuộc thể loại phê bình văn học, quyển Một chuyến đi của Nguyễn
Tuân (20 Juillet 1941), các cuốn Đường thi, khảo cứu và phiên dịch thơ Đường(1940),
Thi văn bình chú: Lê – Mạc – Tây Sơn I (1941), Thi văn bình chú: Nguyễn sơ – Cận kim
II (1943) của Ngô Tất Tố, loạt sách danh nhân truyện kí về Cao Bá Quát (1940), Nguyễn
Trãi (1941) của tác giả Trúc Khê, Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải (sách đã được hội đồng
30
duyệt sách công nhận là sách giáo khoa) của Nguyễn Đỗ Mục, Cung oán ngâm khúc dẫn
giải (sách đã được nhà nước công nhận làm sách học) của Đinh Xuân Hội...
Các tác giả viết cho Tủ sách Tao Đàn gồm: Trúc Khê, Nguyễn Tuân, Lê Văn
Trương, Tản Đà, Nguyễn Đỗ Mục, Ngô Tất Tố, Vũ Ngọc Phan...
1.2.7 Tủ sách Những tác phẩm hay
Tủ sách Những tác phẩm hay của nhóm Tân Dân ra mắt lần đầu năm 1938 với
cuốn đầu tiên xuất bản là tác phẩm Lầm than của nhà văn Lan Khai. Tủ sách này hai
tháng ra một quyển tiểu thuyết thật hay. Giá bán không nhất định. (Từ cuốn Vang bóng
một thời, loại Những Tác Phẩm Hay không bán một giá nhất định như từ trước mà sẽ
định giá tùy theo số trang nhiều ít. Đại khái : 160 trang 0$40, 180 trang 0$45, 200 trang
0$50, 225 trang 0$55, 250 trang 0$60.)
Một số tác phẩm rất nổi tiếng mà Tủ sách Những tác phẩm hay đã xuất bản đó là:
Lầm than (1938) và Truyện đường rừng (1940) của Lan Khai, Cô gái làng Sơn Hạ và
Phấn hương của Ngọc Giao, Tà áo lụa của Thanh Châu, Loạn kiêu binh và Chúa Trịnh
Khải của Nguyễn Triệu Luật, Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh do Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu dịch, tập phiếm luận Trước đèn của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân, Truyện hai người của Vũ Bằng, Bảy Hựu và Cuộc sống của Nguyên
Hồng, Danh nhân Việt Nam qua các triều đại của Phan Trần Chúc... Các nhà văn viết
cho tủ sách Những tác phẩm hay gồm: Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương, Phùng Tất Đắc,
Vũ Bằng, Nguyễn Triệu Luật...
1.3 Đội ngũ nhà văn chủ chốt và cộng tác viên của Tân Dân
Có thể nói, trong hơn một thập niên phát triển, nhà xuất bản Tân Dân đã quy tụ
được một đội ngũ các nhà văn hùng hậu vào bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.
Không một tổ chức văn học nào có được một đội ngũ các văn nhân tham gia đông đảo
đến như ở Tân Dân. Nếu lấy số lượng văn nhân thi sĩ được nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan nêu trong Nhà văn Việt Nam hiện đại chúng ta thấy có tới 28 trên tổng số 79 nhà
31
văn được nhắc đến trong công trình quan trọng này đều tham gia viết cho nhà Tân Dân,
trong đó có nhiều người là trụ cột của nhóm.
1.3.1 Đội ngũ các nhà văn chủ chốt của Tân Dân
Những nhà văn chủ chốt của nhóm Tân Dân là những người hoặc tham gia điều
hành, phụ trách (làm quản lý, làm thư kí tòa soạn....) các ấn phẩm của Tân Dân; hoặc có
số lượng tác phẩm xuất bản chiếm một vị trí quan trọng trên các ấn phẩm của Tân Dân.
Dựa trên tiêu chí đó chúng tôi xác định những nhà văn sau được coi là thành viên chủ
chốt của nhóm Tân Dân: Ngọc Giao, Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Lê Văn Trương, Vũ
Bằng, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng, Đái Đức Tuấn, Nguyễn Triệu Luật.... Trong phần này chúng tôi sẽ có sự phân loại
về mặt giá trị giữa đội ngũ các nhà văn trong nhóm dựa trên những sáng tác tiêu biểu nhất
của họ, đồng thời chúng tôi cũng có sự mở rộng giá trị của một số tác phẩm mà văn học
sử chưa đề cập đến của các nhà văn.
1.3.1.1 Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là nhà văn chủ chốt của nhóm Tân Dân theo
khuynh hướng hiện thực xã hội. Trước khi viết cho Tân Dân ông đã sớm có tác phẩm
đăng trên báo như tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan (1923), rồi tham gia viết mục Truyện
thế gian rồi Xã hội ba đào ký trên An Nam tạp chí của Tản Đà và cũng thu hút được sự
chú ý của độc giả. Tác phẩm sớm nhất mà chúng tôi có được khi Nguyễn Công Hoan gia
nhập nhóm Tân Dân là truyện ngắn Godautre đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 21 ra
ngày 20 – 26 năm 1934. Mốc này được tạm xem là thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của
Nguyễn Công Hoan trong Tân Dân. Tuy nhiên, sự nghiệp của Nguyễn Công Hoan chỉ
thực sự phát triển rực rỡ khi ông được Vũ Đình Long mời tham gia viết cho ấn phẩm đầu
tiên của nhà Tân Dân là Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Quá trình Vũ Đình Long mời và trao đổi
với Nguyễn Công Hoan chúng tôi đã viết khá kĩ ở mục trên nên ở đây xin không được
nhắc lại. Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 1 ra ngày 1er Juin 1935 đăng tập truyện ngắn Kép Tư
Bền (dung lượng 150 trang) gồm 15 truyện ngắn đã thực sự gây được tiếng vang cho
32
Nguyễn Công Hoan và nhà Tân Dân. Chỉ tính riêng trên ấn phẩm Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
theo Phạm Thế Ngũ, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 53 ra ngày 1/6/1935 đăng một bảng
liệt kê tác phẩm thì Nguyễn Công Hoan đã viết được 80 truyện ngắn và 9 truyện dài. Hai
ấn phẩm chính của Tân Dân mà Nguyễn Công Hoan tham gia viết chính là Tiểu Thuyết
Thứ Bảy và Phổ Thông Bán Nguyệt San.
Trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy ông đã cho xuất bản những ấn phẩm nổi tiếng gây
được tiếng vang lớn trong đời sống văn học đương thời như tập truyện Kép Tư Bền,tiểu
thuyết Cô giáo Minh, tiểu thuyết Ông chủ, tiểu thuyết Bà chủ, tiểu thuyết Một cái chương
trình quyết thực hành... Trong các năm 1940 đến 1945 trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy xuất
hiện một loại những truyện ngắn tiếp tục mạch hiện thực trào phúng có giá trị như Công
dụng của cái miệng, Người thứ ba, Con ve, Cuộc cụ, Cái thủ lợn, Đọc văn, Rước sắc,
Phần biếu... Tiểu thuyết Cô giáo Minh (dung lượng 219 trang) đăng trên Tiểu Thuyết
Thứ Bảy năm 1936 là một trong những tác phẩm gây nhiều tranh cãi của Nguyễn Công
Hoan và nhà xuất bản Tân Dân. Sau khi Tân Dân xuất bản Cô giáo Minh đã gây ra cuộc
tranh luận giữa Tân Dân và Tự lực văn đoàn. Cùng với Tiểu Thuyết Thứ Bảy, trên Phổ
Thông Bán Nguyệt San của Tân Dân cũng đã đăng tải rất nhiều tác phẩm có giá trị của
Nguyễn Công Hoan. Có thể kể đến đó là Tắt lửa lòng, Hai thằng khốn nạn, Tấm lòng
vàng, Bước đường cùng, Lá ngọc cành vàng, Đào kép mới, Sóng vũ môn, Trên đường sự
nghiệp... Tiểu biểu nhất trong các tác phẩm vừa liệt kê chính là tiểu thuyết Bước đường
cùng đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 23 ra ngày 1er Octobre 1938. Cuốn tiểu
thuyết này sau khi ra đời đã bị cấm lưu hành trên toàn cõi Đông Dương.
Tóm lại, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn trụ cột của nhóm Tân Dân, đi theo
khuynh hướng hiện thực xã hội với một nghệ thuật trào phúng bậc thầy. Nguyễn Công
Hoan với những tác phẩm giá trị của mình đã làm nên giá trị cho nhà Tân Dân nhưng
ngược lại, chính Tân Dân đã có công không nhỏ khi thông qua hệ thống phát hành rộng
lớn của mình, đưa Nguyễn Công Hoan đến với một lượng độc giả lớn nhất có thể ở khắp
cõi Đông Dương.
33
1.3.1.2 Ngọc Giao
Ngọc Giao (5/5/1911-8/7/1997) tên thật là Nguyễn Huy Giao, là một cây bút
truyện ngắn chủ chốt của nhóm Tân Dân và từng làm thơ ký tòa soạn cho tờ Tiểu Thuyết
Thứ Bảy. GS.Phong Lê trong bài Ngọc Giao, người khỏi bị lãng quên sau gần nửa thế kỉ
đã đưa ra một con số thông kê với 300 truyện ngắn và hàng chục các truyện dài đủ làm
nên một gương mặt đáng cho bạn đọc đương thời quen thuộc và kính nể [10, tr.7-8].
Ngọc Giao viết cả truyện ngắn, truyện vừa và truyện dài nhưng dường như chỉ ở thể loại
truyện ngắn ông mới thành công.
Theo những tư liệu mà chúng tôi có thì Một đêm vui (262 trang) là tập truyện ngắn
đầu tiên của Ngọc Giao do Tân Dân xuất bản. Tập truyện này được in trên Phổ Thông
Bán Nguyệt San số 3 ra ngày 1 tháng 2 năm 1937. Trong khi tác phẩm được coi là mốc
đánh dấu sự tham gia của Ngọc Giao vào nhóm Tân Dân là truyện ngắn Hi sinh đăng
Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 21 ra ngày 20 – 26 năm 1934. Đây là một giả thuyết mà chúng
tôi tạm chấp nhận trong khi chưa thể tìm được những tư liệu sớm hơn. Năm 1938 ông cho
xuất bản tiểu thuyết Cơn gió bấc đăng nhiều kỳ trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy.
Phấn hương là tập truyện ngắn thứ hai của Ngọc Giao xuất bản bởi nhà Tân Dân
năm 1939 gồm 10 truyện (Theo Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại thì còn có 4 truyện
nữa là Một chuyện của lòng, Bà ngồi kể chuyện ngày xưa, Một đêm mưa móc, Thời gian).
Năm 1940 Ngọc Giao xuất bản tiểu thuyết Đất (389 trang) do Tân Dân ấn hành.
Tập truyện thứ ba mà Tân Dân xuất bản của Ngọc Giao là Cô gái làng Sơn Hạ
năm 1942, có dung lượng 206 trang, gồm 12 truyện. Năm 1944, trên Phổ Thông Bán
Nguyệt San đăng tập truyện ngắn Chuyện người trẻ tuổi của Ngọc Giao.
Ở trên chúng tôi chỉ xin điểm những tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp văn
học của Ngọc Giao trước cách mạng có gắn bó chặt chẽ với nhà xuất bản Tân Dân. Còn một
lượng lớn những truyện ngắn, bài ký và tạp văn mà do giới hạn dung lượng của luận văn
chúng tôi xin không liệt kê hết. (Xin xem Phụ lục Tác gia tác phẩm kèm theo luận văn này).
34
1.3.1.3 Vũ Bằng
Vũ Bằng (3/6/1913 – 8/4/1984) là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại.
Trong nhóm Tân Dân ông nổi lên với vai trò là người liên kết, dẫn dắt các bạn văn tập
hợp xung quanh nhà xuất bản Tân Dân mà hạt nhân là tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy.
Theo hồi kí Bốn mươi năm nói láo thì Vũ Bằng gia nhập nhóm Tân Dân vào lúc tờ
Tiểu Thuyết Thứ Bảy đã có “độc giả vững chắc”, “bán chạy nhất nước” và cũng là lúc
nhà văn đang muốn tìm tòi, thử nghiệm một lối viết mới, đặc biệt là viết tiểu thuyết học
theo “cách viết truyện của người Âu Mỹ”. Vũ Đình Long đã đồng ý “thí nghiệm” những
truyện ngắn theo lối mới của Vũ Bằng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Theo thời gian, mối
thâm giao giữa Vũ Đình Long và Vũ Bằng ngày càng sâu đậm, Vũ Bằng tăng cường viết
cho nhà Tân Dân từ 2 tuần 1 bài lên 1 tuần 1 bài.
Tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy vốn Vũ Đình Long giao cho Ngọc Giao làm thư kí,
nhưng về sau Ngọc Giao đi Sài Gòn thì công việc này được chuyển hẳn cho Vũ Bằng. Vũ
Bằng đảm nhiệm thư kí cho Tiểu Thuyết Thứ Bảy thì tờ báo này đã phát triển lên một
bước, thay từ ra khổ nhỏ thành khổ lớn với dung lượng tăng lên, nhiều chuyên mục mới
mở ra để thu hút độc giả, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, như: “Biết Ai Tâm Sự”, “Ý Nghĩ
Của Người Dạo Phố”. Đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết xuất hiện thêm một loạt những thể
loại mới gồm truyện có thật (histoires vraise), truyện cổ tích nhi đồng, truyện dài bằng
thơ, truyện ngắn bốn phương, truyện ma quỷ, truyện trinh thám.... Tất cả thể loại này đều
học theo lối viết phương Tây theo kiểu của Flammarrion, Les Mille et Une Nouvelles,
Mystère Magazine...
Tiểu Thuyết Thứ Bảy đứng vững, Vũ Đình Long ra thêm Ích Hữu (2/1936), tiếp
đó, cuối năm 1936 nhà Tân Dân ra tiếp Phổ Thông Bán Nguyệt San. Vũ Bằng được Vũ
Đình Long giao cho quản lí bài vở, kĩ thuật hai tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Phổ Thông
Bán Nguyệt San. Tuy nhiên, hai tờ báo “đội lốt” này vẫn không đủ chỗ cho các nhà văn
trong nhóm “thi thố tài năng và phơi bày ý kiến” nên Vũ Bằng đã đề nghị Vũ Đình Long
ra thêm một ấn phẩm nữa. Ngày 25/8/1941 báo Truyền Bá chính thức xuất hiện.
35
Vũ Bằng có thời gian khoảng 8 năm phụ trách việc đọc, sửa lỗi kỹ thuật và nhất là
tổ chức bài vở cho các ấn phẩm Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San,
Truyền Bá cho nhóm Tân Dân. Vũ Bằng dừng hẳn công việc này khi chiến tranh Nhật –
Pháp nổ ra, Truyền Bá rồi Phổ Thông Bán Nguyệt San đóng cửa và Vũ Đình Long
chuyển nhà in về Mục Xá, Hà Đông với tờ báo duy nhất còn lại là Tiểu Thuyết Thứ Bảy.
Trong khoảng 8 năm giữ vài trò là thư ký tòa soạn cho ba ấn phẩm quan trọng của Tân
Dân nên Vũ Bằng có nhiều cơ hội để tiếp xúc, gặp gỡ và nhất là có công trong việc phát
hiện ra những tài năng văn chương. Xin đơn cử trường hợp nhà văn Nam Cao. Nhà văn
Nam Cao chỉ thực sự nổi danh khi đăng tải truyện ngắn kiệt tác “Chí Phèo” (1941) nhưng
ít ai biết rằng, từ trước đó rất lâu, Nam Cao đã bắt đầu tôi luyện tài năng văn chương của
mình trên ấn phẩm Tiếu Thuyết Thứ Bảy của nhà Tân Dân mà Vũ Bằng chính là người
phát hiện ra Nam Cao. Vũ Bằng kể, sau khi Ngọc Giao bàn giao lại công việc của Tiểu
Thuyết Thứ Bảy đi Sài Gòn, ông chìm ngập trong đống bài vở gửi đến tòa soạn cũ mới
lẫn lộn. Và thật may mắn trong cái đống bài vở cũ đó ông đã tìm được một tác phẩm của
Nam Cao gửi đăng và Vũ Bằng phát hiện ra tố chất ở nhà văn này. Vũ Bằng đã viết thư
đăng trên mục Thư tín của báo để động viên và khuyến khích Nam Cao tiếp tục viết
truyện gửi về Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Có thể nói, đây là một giai đoạn quan trọng để hình
thành nên một tài năng lớn của Nam Cao thời gian sau đó.
Ngoài Nam Cao, Vũ Bằng cũng phát hiện và tìm ra nhiều tên tuổi văn chương sau
này như Tô Hoài, Nguyễn Tất Thứ, Bùi Hiển, Kim Lân, Lý Văn Sâm, nữ sĩ Ngân Giang,
Trần Thanh Địch.... Cùng với đội ngũ các nhà văn đã cộng tác với Tân Dân trước khi Vũ
Bằng đến và trong quá trình ông đảm nhiệm vai trò thư ký, một loạt tên tuổi của văn học
Việt Nam hiện đại như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thanh Châu, Ngọc Giao,
Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Lưu Trọng Lư,
Nguyễn Trẩm Giự, Vũ Lang... đã cùng nhau hợp lại xây dựng ba tờ báo Tiểu Thuyết Thứ
Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Truyền Bá do Vũ Bằng làm thư ký rất thành công, ví
như “một cánh vườn có trăm hoa, không hoa nào giống hoa nào, mà cả trăm hoa cùng
đua nở”.
36
Ngoài tư cách thư ký tòa soạn trong nhóm Tân Dân thì Vũ Bằng cũng tham gia
vào quá trình sáng tác và trong giai đoạn này cũng để lại những tác phẩm có giá trị mà
tiêu biểu nhất là tập hồi ký Cai (Tân Dân xuất bản, 1943). Ngoài ra còn có những tác
phẩm tiêu biểu khác như tiểu thuyết Truyện hai người (1940), tiểu thuyết Tội ác và hối
hận (1940), tập truyện ngắn Để cho chàng khỏi khổ (1941), tập truyện ngắn Ba truyện mổ
bụng (1944)... Nhìn chung trong giai đoạn này văn chương Vũ Bằng nổi lên ở đặc điểm
có cốt truyện giản dị, cách thức trần thuật linh hoạt, hiện đại, giọng văn nhạo đời và có
những phân tích tâm lí sắc sảo. Văn của Vũ Bằng có tính chất hiện đại rất rõ do ông chủ
động học theo lối văn phương Tây hiện đại. Điều đó đã góp phần cách tân ít nhiều nền
văn xuôi Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa.
1.3.1.4 Lan Khai
Lan Khai (1906 - 1945) là một cây bút trụ cột của nhóm Tân Dân với hai tư cách
vừa là người sáng tác, viết bài phê bình vừa là người quản lí. Tác phẩm sớm nhất mà
chúng tôi tìm được được lấy làm dấu mốc Lan Khai tham gia nhóm Tân Dân là Ai lên
phố Cát đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 4 ra ngày 1 tháng 3 năm 1937.
Với tư cách người sáng tác thì Lan Khai là cây bút trụ cột của Phổ Thông Bán Nguyệt
San và Tạp chí Tao Đàn. Ngòi bút của ông chủ yếu viết ở thể loại tiểu thuyết gồm: tiểu
thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lí xã hội và tiểu thuyết đường rừng.
Trong vai trò một nhà tiểu thuyết lịch sử, Lan Khai để lại nhiều tác phẩm có giá trị
như: Ai lên phố Cát (P.T.B.N.S số 4, 1937), Chiếc ngai vàng (P.T.B.N.S số 9, 1937), Cái
hột mận (P.T.B.N.S số 14, 1938), Gái thời loạn (P.T.B.N.S số 20), Đỉnh non thần
(P.T.B.N.S số 91, 92, 1941)... Ở mảng tiểu thuyết tâm lí xã hội Lan Khai cũng để lại
nhiều tác phẩm giá trị trong đó đáng kể nhất là tiểu thuyết Lầm than (Tủ sách Những tác
phẩm hay, 1938), Cô Dung (1938)... Lầm than được Lan Khai viết trong bối cảnh Mặt
trận Dân chủ bình dân (1936 – 1939) đang phát triển mạnh mẽ. Tiểu thuyết có khuynh
hướng xã hội có giá trị khác của Lan Khai do Tân Dân xuất bản là cuốn Cô Dung. Lan
Khai viết tiểu thuyết này để chống lại phong trào phụ nữ sống theo chủ nghĩa cá nhân
37
đang lan tràn trong đời sống xã hội lúc đó.
Tiểu thuyết đường rừng là mảng tiểu thuyết thành công nhất và cũng là độc đáo
chỉ riêng có ở Lan Khai. Thể loại tiểu thuyết đường rừng đã gắn liền với tên tuổi Lan
Khai trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhà Tân Dân đã xuất bản những tác phẩm thể loại
đường rừng quan trọng nhất của Lan Khai gồm: tiểu thuyết Tiếng gọi rừng thẳm (1939),
tiểu thuyết Hồng Thầu (1940), tập truyện ngắn Truyện đường rừng (gồm 9 truyện,
1940)...
Lan Khai trong nhóm Tân Dân không chỉ là một nhà tiểu thuyết mà còn là một nhà
nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học tinh tế, già dặn. Những bài viết phê bình và
nghiên cứu văn học được ông viết trong tư cách là người quản lí tạp chí văn chương Tao
Đàn. Lan Khai chính là linh hồn của tạp chí Tao Đàn trong suốt thời gian mà nó tồn tại.
Ông được Vũ Đình Long tin cẩn giao cho làm Tổng thư kí của tạp chí Tao Đàn. Có thể
kể ở đây những bài phê bình và nghiên cứu rất có giá trị của Lan Khai như Tính cách Việt
Nam trong văn chương (Tao Đàn số 4), Thiên chức của văn sĩ Việt Nam (Tao Đàn số 5),
Cái nguy mất gốc (Tao Đàn số số 6), Một quan niệm về văn chương và Bàn qua về nghệ
thuật (Tao Đàn số 7), Con người Vũ Trọng Phụng (Tao Đàn số đặc biệt về Vũ Trọng
Phụng), Phác họa hình dung và tâm tính thi sĩ Tản Đà (Tao Đàn số 9, 10)... Những bài
viết này thể hiện rõ quan niệm của Lan Khai về văn chương nghệ thuật, về tinh thần dân
tộc tích cực, về đòi hỏi ở người nghệ sĩ... Về văn chương, ông cho rằng cái gốc, cái nền
tảng phải là tính người, “phải lấy con người làm nền tảng”. Tác phẩm nào xa lạ với con
người là sự bịa đặt, giả dối và không phải văn chương. Trong văn chương phải thể hiện
và phô diễn được tâm tình và tư tưởng loài người. Ông cũng đặc biệt coi trọng về hình
thức thể hiện, bởi tất cả những tâm tình, tư tưởng của loài người được văn chương thể
hiện bằng văn tự. Lan Khai phản đối lối viết chỉ chú trọng ý, nội dung mà bỏ qua hình
thức thể hiện. Theo ông chính lối viết khác nhau mà tạo nên những phong cách nhà văn
khác nhau, những nền văn học khác nhau dựa trên cái nền tảng chung của nhân loại là
tính người. Trong một bài viết ông đã đặc biệt đánh giá cao quan niệm sau của nhà văn
38
Pháp Melchior de Vogüé (1848-1910): “... Chỉ thứ văn chương nào trau chuốt, lọc lõi,
đẹp đẽ là mới có thể sống lâu mà thôi [...] Cái đặc sắc của một văn sĩ chính là cách riêng
để diễn tả tư tưởng và tình cảm của mình vậy” (Một quan niệm về văn chương). Trong
các bài viết trên Tao Đàn Lan Khai thể hiện một tinh thần dân tộc rất tích cực. Ông nhìn
nhận thẳng thắn những điểm yếu, điểm mạnh và luôn kêu gọi khơi gợi lại một tinh thần
rực rỡ của dân tộc đã qua trong lịch sử, kêu gọi xây dựng một nền văn hóa thực chất Việt
Nam: “Công việc này, trước hết phải là công việc của văn sĩ. Ta phải biết làm rực rỡ cái
tinh thần của chủng tộc trong mọi sáng tác văn chương của ta. Đó là bước đầu tiên để đi
tới sự gây dựng một nền văn hóa Việt Nam, nghĩa là sự sáng tạo cho dân tộc Việt Nam
một cuộc sống độc lập về tinh thần” (Tính cách Việt Nam trong văn chương).
Tóm lại, vị trí của Lan Khai trong nhóm Tân Dân không chỉ là một cây bút trụ cột
với ba mảng đề tài lớn trong tiểu thuyết (lịch sử, tâm lý xã hội và đường rừng) mà còn là
một người quản lý một trong những tạp chí văn chương tinh hoa của lịch sử văn học Việt
Nam hiện đại, một nhà nghiên cứu và phê bình văn học sâu sắc. Những bài viết nghiên
cứu phê bình, những sáng tác tiểu thuyết truyện ngắn của Lan Khai đã góp phần khẳng
định giá trị của nhóm Tân Dân trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam.
1.3.1.5 Lê Văn Trương
Lê Văn Trương (1906 - 1964) là nhà văn trụ cột của nhóm Tân Dân với một số
lượng tác phẩm đồ sộ đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
Truyền Bá... Ông cũng là một trong những người quản lý trong nhóm Tân Dân với vai trò
là chủ bút tờ Ích Hữu (từ số 94 năm 1937).
Cho đến nay, Lê Văn Trương là một nhà văn giữ vị trí kỉ lục về số lượng tác phẩm
đã viết trong văn học Việt Nam hiện đại. Theo một số liệu thống kê thì toàn bộ trước tác
của ông vào khoảng hơn 200 tác phẩm mà chủ yếu là thể loại tiểu thuyết. Phần lớn trong
số này được in và xuất bản trên các cơ quan ngôn luận của nhóm Tân Dân. Tác phẩm
39
đánh dấu sự tham gia của Lê Văn Trương vào nhóm Tân Dân là truyện dài Cô Tư Thung
đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 2 ngày 1 tháng 1 năm 1937.
Có thể nói trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam tính từ thập niên 30 của thế kỉ
XX đến nay thì Lê Văn Trương là người có một tiểu sử đa dạng và hấp dẫn nhất bởi “số
kiếp lênh đênh, ly kì” (Triệu Xuân). Xuất thân trong một gia đình Hán học, lớn lên theo
học trường Tây (trường Bưởi – Lycée du Protectorat) rồi tham gia bãi khóa chống lại sự
sỉ nhục của hiệu trưởng người Pháp với sinh viên Việt dẫn đến bị đuổi học. Rời ghế nhà
trường, ông tự học tiếp và thi vào ngành bưu điện. Ông từng làm công chức bưu điện tại
Phnôm Pênh, rồi Mongkolboray (Cămpuchia). Tiếp đó ông mở đồn điền rồi làm thầu
khoán, xây dựng tại Campuchia, thậm chí tham gia cả việc buôn lậu và hàng quốc cấm.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã làm ông phải hồi hương. Và ông bắt
đầu ôm mộng làm báo viết văn. Bút danh đầu tiên của ông là Cô Lý.
Trong giai đoạn văn học 1932 – 1945 có thể nói Lê Văn Trương đã làm nên một
hiện tượng văn học độc đáo. Với số lượng tác phẩm lớn, xuất hiện liên tục trên các cơ
quan ngôn luận chiếm lĩnh thị trường văn học lớn lúc bấy giờ, quả thực Lê Văn Trương
đã có một tác động lớn đến thị hiếu của các tầng lớp độc giả đương thời. Tuy nhiên, để
đánh giá một nhà văn thì số lượng tác phẩm cũng chỉ là một tiêu chí phụ, quan trọng là
những tác phẩm anh ta viết ra có thực sự giá trị không. Đối với Lê Văn Trương, xung
quanh ông có rất nhiều các ý kiến khác nhau, khen có, chê bai có. Tuy nhiên, phải đặt
trường hợp Lê Văn Trương vào đúng thời đại mà ngòi bút này hình thành và phát triển
chúng ta mới có cái nhìn thật khách quan.
Lê Văn Trương viết rất nhiều tiểu thuyết và các truyện vừa nhưng về cơ bản có thể
phân chia ra làm ba loại gồm: 1) Loại tiểu thuyết viết về đề tài “trai tứ chiếng gái giang
hồ” mà tiêu biểu là Cô Tư Thung (P.T.B.N.S số 2), Cánh sen trong bùn (P.T.B.N.S số 51,
52), Trường đời (P.T.B.N.S số 73, 74, 75), Tôi thầu khoán hay là: Ba tháng ở Trung Hoa
(Tủ sách Tao Đàn 1940)... 2) Loại tiểu thuyết ngợi ca tình cảm mẫu tử, phụ tử, huynh đệ
trong gia đình với tiêu biểu là Một người cha (P.T.B.N.S số 12), Tôi là mẹ (P.T.B.N.S số
40
43, 44), Người anh cả (P.T.B.N.S số 86, 87, 88)... 3) Loại tiểu thuyết phê phán, đã kích
xã hội trưởng giả với những tác phẩm tiêu biểu là Một lương tâm trong gió lốc
(P.T.B.N.S số 21, 22), Trong ao tù trưởng giả (P.T.B.N.S số 28, 29), Một cô gái mới
(P.T.B.N.S số 38), Đứa cháu đồng bạc (Tủ sách Những tác phẩm hay, 1939)... Sự thống
nhất ở cả ba loại tiểu thuyết này là triết lí sức mạnh và mẫu người hùng. Những nhân vật
chính diện bao giờ cũng được mô tả như một mẫu người hùng, mạnh mẽ, dám nghĩ dám
làm, lỗi lạc và không kém phần ngang tàng. “Người hùng không chỉ oanh liệt trong phiêu
lưu mạo hiểm, mà còn gương mẫu trong nghĩa vụ gia đình, và cũng rất trong sạch cao
quý, khi lương tâm bị ném vào vũng bùn của xã hội giàu sang” (Nguyễn Huệ Chi, Từ
điển văn học bộ mới, tr.845). Phạm Thế Ngũ thì nhận xét mẫu người hùng của Lê Văn
Trương là dạng người mà “thân thể cũng như tâm hồn được tôi luyện bằng gian nan, đau
khổ, tôi luyện trong “lò lửa thế sự”[31, tr.536].
Ngoài tư cách một tiểu thuyết gia thì Lê Văn Trương còn là một ngòi bút xông xáo
trong lĩnh vực xã luận. Các bài viết của ông trên Ích Hữu thể hiện rõ những tư tưởng của
ông trong văn chương. Đó là một tư tưởng thẳng thắn, cầu thị và dám dấn thân, là thái độ
biết trân trọng nghề văn, nghề báo. Có thể kể những bài tiêu biểu của Lê Văn Trương viết
dưới dạng xã luận như: Hậu thế sẽ xét (Ích Hữu số 37), Không xá trách (Ích Hữu số 50,
51), Gió cuốn bụi đời: Tại sao tẻ lạnh đến thế này? (Ích Hữu số 87), Người ta có vì nghệ
thuật, vì tương lai của nước nhà đâu? (Ích Hữu số 87), Triết lý sức mạnh và văn chương
tranh đấu – Sự phá hoẵng vô ý thức của Tự lực văn đoàn (Phổ Thông Bán Nguyệt San –
Bìa màu, số 1, 1938)...
Tóm lại, Lê Văn Trương trong nhóm Tân Dân có thể ví như một “máy cái” trong
sản xuất tác phẩm văn học, đã thu hút một lượng độc giả cực lớn trong xã hội đương thời.
Cái tên Lê Văn Trương như là một sự đảm bảo đối với các ấn phẩm của nhà Tân Dân. Tất
nhiên, Lê Văn Trương là một hiện tượng cần được đánh giá và nhìn nhận ở những khía
cạnh tích cực hơn, nên nhìn ông ở tư cách xã hội học văn học sẽ thấy được vai trò to lớn
của ông trong lịch sử văn học, hơn là nghiên cứu ông đã khía cạnh thuần túy văn học với
41
những yêu cầu khắt khe về bút pháp, nghệ thuật. Dù sao đi chăng nữa, văn học hiện đại
Việt Nam trước 1945 Lê Văn Trương đã nổi lên như một tên tuổi sáng chói.
1.3.2 Các cộng tác viên
Các cộng tác viên là những nhà văn, học giả thường xuyên tham gia viết bài cho
các ấn phẩm của Tân Dân nhưng không đóng vai trò chủ đạo trong sự tồn tại và phát triển
của các ấn phẩm đó. Trong số các cộng tác viên của nhóm Tân Dân có rất nhiều các tên
tuổi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Chúng tôi chia đội ngũ cộng tác viên ra
thành hai tiêu chí: 1) Những người có học vấn cựu học (bút lông) và 2) Những người có
học vấn Tây học (bút sắt).
1.3.2.1 Đội ngũ cộng tác viên cựu học
Đội ngũ cộng tác viên cựu học (bút lông) là những người trưởng thành trong nền
giáo dục Hán học, am hiểu sâu sắc nền văn hóa truyền thống. Trong đội ngũ này đáng
chú ý có các tên tuổi như Mai Đăng Đệ, Phan Kế Bính, Sở Bảo Doãn Kế Thiện, Nhượng
Tống, Nguyễn Can Mộng, Phan Khôi, Tản Đà, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Nguyễn Đỗ
Mục, Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, J.Leiba Thanh Tùng Tử... Nguyễn Đỗ Mục
tham gia cộng tác với nhà Tân Dân từ khi còn trứng nước (thời kì Tân Dân thư quán)
bằng việc dịch các tiểu thuyết Tàu như Hồng nhan đa truân, Chiếc bóng song the, Vợ tôi,
Chồng tôi, Thuyền tình bể ái... Khi nhà xuất bản Tân Dân chính thức thành lập Nguyễn
Đỗ Mục vẫn là một cộng tác viên tích cực trong vài trò một nhà dịch tiểu thuyết Tàu (với
đủ thể loại từ ái tình tiểu thuyết, xã hội tiểu thuyết, giáo dục tiểu thuyết cho đến kiếm
hiệp tiểu thuyết) và viết sách nghiên cứu văn học cổ với các sách có giá trị như Chinh
phụ ngâm khúc dẫn giải (P.T.B.N.S số 144, 148), Bích câu kỳ ngộ dẫn giải (P.T.B.N.S số
156), Quốc sử diễn ca dẫn giải (Phổ Thông chuyên san số 4, 1943), Phi châu yên thủy
sầu thành lục (T.T.T.B 1935), Cô gái quần đỏ... và hàng loạt các bài viết đăng trên Ích
Hữu ở mục Dịch sách nước ngoài. Các bài viết này tập trung vào các cách trị nước của
các bậc vua chúa thời xưa, từ đó luận bàn về cách cứu quốc dân nên theo đường xưa hay
không, luận bàn về Phật học, Khổng học....
42
Trong số các cộng tác viên vừa kể trên, chúng tôi xin dành riêng một vị trí ưu ái
cho Nguyễn Triệu Luật bởi vai trò và vị trí của ông trong nhà Tân Dân là khá đặc biệt.
Cùng với Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật là cây bút tiểu thuyết lịch sử thứ hai của nhà Tân
Dân và có một lối viết khác hẳn so với Lan Khai. Hơn thế nữa, Nguyễn Triệu Luật có rất
nhiều bài viết luận bàn sâu sắc về phát triển nền văn hóa Việt Nam đăng tải trên tạp chí
Tao Đàn.
Về tiểu sử, Nguyễn Triệu Luật sinh ra trong một gia đình khoa bảng, quan lại ở
làng Du Lâm, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông từng đi dạy học rồi sau có tham gia chính trị
(tham gia tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng) và bị Pháp bắt giam. Sau khi được tha,
Nguyễn Triệu Luật bị buộc thôi việc dạy học và ông chuyển hẳn sang công việc viết văn,
làm báo. Hầu hết những tác phẩm và bài báo của ông đều đăng trên các cơ quan ngôn
luận của nhà Tân Dân. Nguyễn Triệu Luật mất tích vào năm 1946 và cho đến nay không
ai rõ về ông kể từ sau thời gian đó.
Trong nhóm Tân Dân, Nguyễn Triệu Luật là một nhà tiểu thuyết lịch sử có một lối
viết khác hẳn so với Lan Khai. Hai nhà văn lịch sử có hai phong cách khác nhau hoàn
toàn. Những tác phẩm quan trọng nhất của Nguyễn Triệu Luật có thể kể đến là Hòm đựng
người (P.T.B.N.S 1937), bộ ba tiểu thuyết Bà chúa chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải
(Tủ sách Những tác phẩm hay, 1938-1939-1940), Ngược đường trường thi (P.T.B.N.S số
46), Rắn báo oán (P.T.B.N.S số 85), Bốn con yêu và hai ông đồ (P.T.B.N.S số 134)...
Không chỉ là một nhà tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Triệu Luật còn là một nhà
nghiên cứu văn hóa, học thuật lớn. Các bài viết quan trọng nhất của ông được đăng trên
tạp chí Tao Đàn. Những vấn đề mà Nguyễn Triệu Luật quan tâm thực sự có ý nghĩa đối
với lịch sử văn hóa của dân tộc: cải cách chữ quốc ngữ, điển chế văn tự, gây dựng nền
văn hóa riêng cho dân tộc Việt... Những bài viết tiêu biểu chúng tôi xin lược kể tên gồm
Điển chế văn tự (Tao Đàn số 2), Một ý kiến thô sơ về cách điển chế văn tự (Tao Đàn số
4), Làm sao mà gây được một nền văn hóa riêng của dân tộc Việt Nam? (Tao Đàn số 5),
43
Một cách để gây cho dân tộc ta một cái nguyên tắc tinh thần (Tao Đàn số 6), loạt bài Vấn
đề cải cách chữ quốc ngữ (Tao Đàn số 11, 12, 13)...
Do giới hạn về dung lượng luận văn, toàn bộ các cộng tác viên thuộc nền học vấn
Hán học còn lại của nhà Tân Dân chúng tôi xin có phụ lục chi tiết về các tác phẩm của
đội ngũ nhà văn này.
1.3.2.2 Đội ngũ cộng tác viên Tây học
Có thể nói nhà Tân Dân quy tụ được một đội ngũ các nhà văn trưởng thành trong
nền Tân học hùng hậu nhất trong các nhóm/nhà xuất bản ở Việt Nam trước 1945. Một
loạt tên tuổi chói sáng của văn học Việt Nam hiện đại đều cộng tác viết bài cho nhà Tân
Dân. Sở dĩ Tân Dân có thể thu hút một lượng lớn văn sĩ tham gia viết bài cộng tác là vì
một đặc điểm vừa là yếu vừa là mạnh của nhóm: Dung nạp tất cả các luồng tư tưởng,
khuynh hướng, chủ nghĩa... miễn là những tác phẩm viết ra không vi phạm thuần phong
mĩ tục. Có thể đến những nhà văn như Từ Ngọc Nguyễn Lân với Khói hương (P.T.B.N.S
Số 4 bis, 1937), Ngược dòng (P.T.B.N.S số 15 bis, 1938), Hai ngả (P.T.B.N.S số 30,
1939); Tchya Đái Đức Tuấn với Thần Hổ (P.T.B.N.S số 10, 1937), Kho vàng sầm sơn I,
II (P.T.B.N.S số 69, 70), Ai hát giữa rừng khuya I, II (P.T.B.N.S số 101, 102); Thanh
Châu với Người thày thuốc (P.T.B.N.S số 17, 1938), Cùng một ánh trăng (P.T.B.N.S số
115, 1942), Tà áo lụa (Tủ sách Những tác phẩm hay, 1942); Lưu Trọng Lư với Con đười
ươi, Con voi già của vua Hàm Nghi (P.T.B.N.S số 14 bis, 1938), Từ thiên đường đến địa
ngục (P.T.B.N.S số 21 bis, 1938), Nàng công chúa Huế (P.T.B.N.S số 25, 1938), Huế
một buổi chiều (P.T.B.N.S số 33, 1939), Chiếc cáng xanh (Tủ sách Những tác phẩm hay,
1941); Nguyễn Xuân Huy với Nắng đào (P.T.B.N.S số 42, 1939); Trần Huyền Trân với
Tấm lòng người kĩ nữ I, II (P.T.B.N.S số 76, 77, 1941), Người ngàn thu cũ (P.T.B.N.S số
99, 1942); Hoàng Cầm với Thoi mộng (P.T.B.N.S số 123, 1943), Hận ngày xanh (Tủ
sách Những tác phẩm hay 1942); Mạnh Phú Tư với Sống nhờ I, II (P.T.B.N.S số 109,
110, 1942), Người vợ già (P.T.B.N.S số 118, 1942), Vết cũ I, II (P.T.B.N.S số 136, 137,
1943); Nguyên Hồng với Qua những màn tối I, II (P.T.B.N.S số 116, 117, 1942), Quán
44
nải I, II (P.T.B.N.S số 131, 132, 1943), Bảy Hựu (Những tác phẩm hay, 1941), Cuộc
sống (Những tác phẩm hay, 1942), Thâm Tâm với bài thơ bất hủ Tống biệt hành
(T.T.T.B 1940), Thuốc mê (P.T.B.N.S số 133, 1943), Gánh hát sử Nam (P.T.B.N.S số
153, 1944) cùng hàng chục truyện ngắn đăng trên Truyền Bá; Tô Hoài với Giang thề
(P.T.B.N.S số 139, 1943), Mực tàu giấy bản (Truyền Bá số 12, 1941), Dế mèn phiêu lưu
kí I, II (Truyền Bá số 16, 17, 1942), Nhà nghèo (NXB Tân Dân, 1942), O chuột (Những
tác phẩm hay, 1943), Xóm Giếng ngày xưa (NXB Tân Dân, 1944), Chuột thành phố
(T.T.T.B 1945); Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời (đăng từng truyện trên Tao Đàn
năm 1939 và sau in thành sách Những tác phẩm hay, 1940), Một chuyến đi (Tủ sách Tao
Đàn, 1941)... Ngoài ra còn tên của hàng chục các nhà văn khác như Nam Cao, Bùi Hiển,
Kim Lân, Vũ Trọng Phụng.... Do dung lượng của luận văn chúng tôi xin không kể hết tên
các nhà văn ở đây mà đưa thành mục Phụ lục ở cuối luận văn này với những tác phẩm họ
đã in trên các cơ quan ngôn luận của nhà Tân Dân.
Có thể nói đội ngũ những cộng tác viên của nền tân học này tham gia vào Tân Dân
với tất cả sự phong phú về phong cách, bút pháp. Người ta có thể thấy ở đây sự hiện diện
của cả nhà văn hiện thực và nhà văn lãng mạn, cả trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật và
trường phái nghệ thuật vị nhân sinh, cả lối viết giản dị đến mức nhiều lúc trở nên ngô
nghê và lối viết đầy tính nghệ thuật, hoa mĩ. Trong số những cộng tác viên kể trên có rất
nhiều nhà văn đã bằng những ấn phẩm của nhà Tân Dân mà xuất hiện trên văn đàn, đến
với công chúng và khẳng định được giá trị, tài năng của mình. Nhiều người trong số đó
đã được những cây bút chủ chốt của nhóm Tân Dân dìu dắt, giới thiệu và trưởng thành
(Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Tất Thứ, Lý Văn Sâm, Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Duy
Diễn, Kim Lân) [59, tr.379]. Nhiều người trong số đó, chỉ xuất hiện bằng một vài tác
phẩm do Tân Dân xuất bản nhưng lại ghi những dấu ấn khó quên trong đời sống văn học
đương thời.
1.4 Mối quan hệ giữa các nhà văn và với ông chủ Tân Dân
45
Phần này chúng tôi tái hiện lại mối quan hệ giữa đội ngũ các nhà văn với Vũ Đình
Long – với tư cách là ông chủ của Tân Dân thông qua các hồi ký và những câu chuyện kể
lại của Nguyễn Công Hoan, Ngọc Giao, Vũ Bằng, Tô Hoài... và trên các báo chí đương
thời có đề cập đến nhà xuất bản Tân Dân như báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.
Có thể nói, hầu hết các nhà văn trong nhóm Tân Dân đều đánh giá cao tài năng
quản lý của Vũ Đình Long và bày tỏ sự hài lòng đối với cách ứng xử của ông Long trong
đời sống cũng như tiền nhuận bút mà ông trả. Nguyễn Công Hoan cũng kể về sự đối đãi
rất mực của Vũ Đình Long đối với mình như sau: “Đối với tôi, Vũ Đình Long coi như
một cốt cán (...).Và thỉnh thoảng tôi lên Hà Nội, ông mời ở hẳn với ông, ăn cùng mâm,
ngủ cùng giường”[16, tr.189-190]. Vũ Bằng trong hồi kí Bốn mươi năm lói láo cũng bày
tỏ sự khâm phục trước những đức tính và tài năng của Vũ Đình Long.
Một vấn đề lớn khác đặt ra khi nghiên cứu về Vũ Đình Long với tư cách là ông
chủ xuất bản trong mối quan hệ với đội ngũ nhà văn trong nhóm Tân Dân, đó là Vũ Đình
Long có thuộc dạng những chủ tư bản bóc lột anh em văn nghệ sĩ hay không? Đây đó có
nhiều tư liệu tản mát, bài viết đưa ra một vài sự kiện để chứng tỏ rằng Vũ Đình Long là
một tay buôn chữ chứ không phải là một người hoạt động văn chương nghệ thuật. Tiêu
biểu nhất trong số đó là trường hợp Trần Huyền Trân viết bài thơ “Đời một nhà văn” năm
1940 nói về tìn trạng khốn quẫn của văn sĩ trong sự đối lập với giàu sang của “ông chủ
buôn văn”. Trần Huyền Trân chủ yếu viết đăng trên các ấn phẩm của nhà Tân Dân như
Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Truyền Bá, Phổ Thông Bán Nguyệt San nên khi đọc những dòng
thơ ai oán đó, ai cũng dễ hình dung rằng cái “ông chủ buôn văn” đang “tiệc rượu lầu cao
ngả ngốn cười” kia chính là Vũ Đình Long. Nam Trân trong bài viết “Vũ Đình Long –
chủ nhân Tân Dân động” đăng trên website An ninh thế giới cuối tuần ngày 09/03/2009
đã dựa vào những thông tin của Vũ Bằng kể lại trong bài viết "Phong Di Vũ Đình Long,
ông tiên trong động Tân Dân", in trong "Văn học, giai phẩm" tại Sài Gòn, số ra ngày
15/5/1973 đã phá được nghi án đó như sau. Vũ Bằng khẳng định: "Ông Long không uống
rượu, không hút thuốc, không say mê thứ gì cả, chỉ say mê viết kịch và làm báo, say mê
46
đọc sách báo Tây Tầu để tìm kiếm sáng kiến mới, mới luôn luôn, trước là để khuếch
trương nghề nghiệp của mình mà sau là để mong có một ngày kia theo kịp đà tiến của báo
chí Âu Mỹ và Nhật Bổn". Không nên quên rằng Vũ Bằng là người trông nom bài vở cho
các tờ báo của Vũ Đình Long suốt mười một năm trời, ông hiểu Vũ Đình Long hơn nhiều
người khác, và ông đã tâm sự rất thành thật trong bài viết của mình: "Ông Long bây giờ
đã ra người thiên cổ, mà tôi cũng không còn trẻ trung để tính chuyện gì xa xôi với các
người kế nghiệp của ông, nên tôi thấy không có cớ gì để nói tốt cho ông ấy cả".
Qua nghiên cứu các tư liệu hồi kí chúng tôi nhận thấy có đôi lần các nhà văn phàn
nàn về việc trả nhuận bút thấp của Vũ Đình Long nhưng sau đó giữa ông Long và các nhà
văn đã thu xếp được mọi chuyện ổn thỏa. Vào thời điểm đêm trước đại chiến thế giới lần
2, đời sống kinh tế trong nước trở nên khó khăn hơn bao giờ hết nhưng Vũ Đình Long
vẫn giữ nguyên mức nhuận bút cũ, các nhà văn đã kiến nghị đòi tăng thêm nhuận bút và
việc này đã được Vũ Đình Long chấp thuận ngay. Cả Vũ Bằng và Ngọc Giao đều kể lại
trong hồi kí của mình về việc này diễn ra rất nhanh chóng do Vũ Đình Long đồng ý ngay,
đều không đưa ra một chi tiết nào cho thấy sự đấu tranh căng thẳng, kiểu “đình công một
cách sôi động”, bỏ việc hay tương tự, như việc mà sau đó báo Ngày Nay đã đưa tin trong
bài Động Tân Dân (Hoàng Đạo, Ngày Nay, số 40, 27/12/1936).
Về mối quan hệ giữa Vũ Đình Long – trong tư cách một ông chủ nhà xuất bản với
đội ngũ các nhà văn tập hợp xung quanh các cơ quan ngôn luận của Tân Dân, xét cho
cùng đó là mối quan hệ đáng trân trọng. Những nhà văn có tài đều được Vũ Đình Long
trọng dụng (Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Lê Văn Trương, Lan Khai...) tuy nhiên dù sao
Vũ Đình Long cũng là một ông chủ nên việc tính toán sao cho “đầu vào thấp đầu ra cao”
cũng là lẽ thường tình. Vấn đề ở chỗ mức nhuận bút ông trả cho các nhà văn không phải
ở mức quá bèo bọt và khi các văn sĩ có yêu cầu là ông chấp nhận tăng tiền lên, không giở
mánh lới hay áp đặt gì thêm. Đây là điều khi nghiên cứu về Vũ Đình Long chúng ta cũng
nên lưu ý, không nên quy kết rằng ông bóc lột, chèn ép văn sĩ.
*
47
* *
Kết luận chương I: Tóm lại, trong chương I này chúng tôi đã phác họa lại một
cách khá đầy đủ về diện mạo của nhóm Tân Dân với các tiêu chí: Quá trình hình thành và
phát triển; Vai trò của Vũ Đình Long; Các cơ quan ngôn luận của nhóm; Các nhà văn trụ
cột và đội ngũ cộng tác viên; Mối quan hệ giữa các nhà văn trong nhóm với nhau. tái hiện
lại hoạt động xuất bản của nhóm... Tất nhiên do dung lượng của khóa luận, chúng tôi
không thể đi vào khảo sát được thật chi tiết và cụ thể, tỉ mỉ từng vấn đề mà mới chỉ dừng
lại ở những nét chung nhất, tổng quát nhất.
48
Chương 2
KHẢO SÁT SÁNG TÁC CỦA NHÓM TÂN DÂN
DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI VÀ ĐỀ TÀI
2. 1 Thể loại
2.1.1 Tiểu thuyết
Có thể nói tiểu thuyết là một trong các thể loại có số lượng nhiều nhất mà Tân Dân
đã xuất bản. Chỉ tính riêng hai ấn phẩm in tiểu thuyết là Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Phổ
Thông Bán Nguyệt San chúng ta có một số lượng tiểu thuyết đồ sộ (xin xem phần phụ lục
cuối luận văn này) mà nhóm Tân Dân đã xuất bản. Với số lượng tác phẩm đồ sộ ấy, việc
nghiên cứu một cách kĩ lưỡng và tỉ mỉ quả thật là khó có thể thực hiện trong khung khổ
một luận văn cao học. Chính vì vậy ở đây chúng tôi chỉ xin điểm những phong cách tiểu
thuyết tiêu biểu nhất của nhóm Tân Dân gồm tiểu thuyết hiện thực Nguyễn Công Hoan,
tiểu thuyết lịch sử Lan Khai, tiểu thuyết người hùng Lê Văn Trương. Ở mỗi phong cách
tiểu thuyết ấy chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra các nhà văn đã xử lí vấn đề nghệ thuật viết thể
loại tiểu thuyết như thế nào, thế mạnh cũng như điểm yếu ở mỗi nhà tiểu thuyết.
Nói đến Nguyễn Công Hoan người ta thường nói đến một nhà viết truyện ngắn bậc
thầy mà ít người nhớ rằng lượng tiểu thuyết ông viết không phải là ít. Trong nhóm Tân
Dân với vai trò là một cây bút chủ lực, ngoài những truyện ngắn rất đặc sắc (chúng tôi sẽ
nói kĩ phần này ở mục Truyện ngắn) thì những tiểu thuyết sau của Nguyễn Công Hoan
không thể không nhắc đến: Ông chủ, T.T.T.B 1935, Bà chủ, T.T.T.B năm 1935, Bơ vơ,
T.T.T.B 1936, Cô giáo Minh, T.T.T.B 1936, Tắt lửa lòng, P.T.B.N.S số 1 ra ngày
1/12/1936, Tấm lòng vàng, P.T.B.N.S số 8 ra ngày 1/7/1937, Tơ vương, P.T.B.N.S số 18
ra ngày 1/5/1938, Bước đường cùng, P.T.B.N.S số 23 ra ngày 1/10/1938, Lá ngọc cành
vàng, P.T.B.N.S số 34 ra ngày 1/5/1939, Thanh đạm, đăng một số chương trên T.T.T.B
49
năm 1939, Tay trắng, trắng tay, P.T.B.N.S số 55 ra ngày16/3/1940, Chiếc nhẫn vàng,
P.T.B.N.S số 58 ra ngày 1/5/1940, Nợ nần, P.T.B.N.S số 68 ra ngày 1/10/1940, Trên
đường sự nghiệp, P.T.B.N.S số 94, 95, 96 ra các ngày 1/10, 16/10 và 1/12 năm 1940,
Phần thưởng danh dự, Truyền Bá số 2 ra ngày 25/9/1941...
Nét chung nhất ở những tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan chính là bút pháp tả chân
hay có thể nói cách khác ông chính là đại diện tiêu biểu cho tiểu thuyết hiện thực Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám. Nguyễn Công Hoan được xem là nhà văn khơi nguồn
cho dòng văn học tả chân ở Việt Nam nói chung và tiểu thuyết tả chân nói riêng. Số
lượng các tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan viết không phải là ít tuy nhiên chất lượng
không đồng đều, có tác phẩm đạt đến đỉnh cao như Bước đường cùng nhưng cũng có
những tác phẩm nghệ thuật khá yếu kém như Nợ nần. Những tiểu thuyết đầu tiên của
Nguyễn Công Hoan xuất hiện trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Ông chủ, Bà chủ) đã bộc lộ rõ
nghệ thuật tả chân của nhà văn. Bằng ngôn ngữ gọn gàng dễ hiểu và lối phân tích tâm lí
sâu sắc, kết hợp với lối kể truyện hấp dẫn tiểu thuyết Ông chủ, Bà chủ đã gây xúc động
mạnh mẽ cho người đọc trước tình cảnh khốn cùng của gia đình anh Đĩ Nuôi. Nhân vật
phản diện (ông chủ, bà chủ) được Nguyễn Công Hoan miêu tả sâu sắc và sinh động là
tiêu biểu cho tầng lớp chủ đất lúc bấy giờ. Ông chủ được xây dựng là một tên dâm ô đểu
cáng và lòng dạ độc ác còn bà chủ đằng sau vẻ bề ngoài đức hạnh thì kì thực là một gái đĩ
thõa, có tiểu sử đời tư nhem nhuốc nhưng nhờ đồng tiền mà che dấu được sự thật, được
xã hội tôn kính. Lê Thị Đức Hạnh đánh giá tiểu thuyết Ông chủ, Bà chủ là một trong
những đại diện tiêu biểu của dòng văn học hiện thực Việt Nam khi viết về chủ đề nông
thôn bởi nó đã vạch trần bộ mặt thật của tầng lớp địa chủ ẩn giấu đằng sau sự giàu có,
sang trọng là sự bóc lột tàn ác đối với người nông dân. Sau Ông chủ, Bà chủ Nguyễn
Công Hoan viết tiếp tiểu thuyết Bơ vơ vẫn theo khuynh hướng hiện thực. Thông qua miêu
tả sổ phận éo le và lạ lùng của một tên cướp vốn là một đưa con hoang nhà văn đã tố cáo
sự giả dối, vô nhân đạo trong xã hội đương thời, đặc biệt là bọn quan lại. Một loạt các
tiểu thuyết khác như Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Lá ngọc cành vàng, Tắt lửa lòng
50
cũng đều viết theo lối tả chân. Đỉnh cao sự nghiệp tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan chính
là tác phẩm Bước đường cùng. Trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan chúng ta nhận thấy
một lối viết hoạt kê, hài hước đi cùng với sự tỉ mỉ. Lối viết này được nhà văn phát huy tối
đa khi ông miêu tả những nhân vật phản diện. Chẳng hạn khi ông miêu tả nhân vật Liễu
trong Tắt lửa lòng, nhà văn viết: “Tiểu thư nằm ngửa trên cái ghế nhưng để mặt nghiên,
thành ra cả cái mặt vĩ đại nhất là cái má. Vì lưỡng quyền cao và thịt má đè dí xuống nên
nó rộng rãi phẳng lì như tấm phản. Hai môi thì dày cũng nung núc những thịt, tuy trời
lạnh mà lúc nào cũng như ướt. Dưới cái trán bóng, đôi hàng mi đen như mực tàu cong vút
trên hai mắt mơ màng bí mật. Từng ấy cái mà xếp vào mặt một người con gái, tạo hóa
thật khéo chơi chua! Điệp ngồi hơn một giờ đồng hồ ruột nóng như sôi, thơ thẩn một
mình, chàng muốn ngắm tạm cô tiểu thư cho đỡ buồn ngủ nhưng không trông thấy nữa,
vì cô ta ngủ tự bao giờ, úp quyển sách lên mặt. Trên ghế sù sù một đống có mặc áo
quần”. Hoặc như khi Nguyễn Công Hoan tả nhân vật bà Tuần trong Cô giáo Minh cũng
theo lối hoạt kê, phóng đại: “Nếu người ta bảo sự béo tốt là cái dấu riêng của những
người được sung sướng thì bà Tuần hẳn là sung sướng có thừa, vì không kể các đồ phụ
tùng, bà nặng được tám mươi tư cân rưỡi. Bà đồ sộ ngồi xếp bằng tròn ở sập gụ, trên trải
chiếu đệm gấm cũ, có nhiều chỗ lõm méo, in hình hai quả dưa hấu”. Hoặc Nguyễn Công
Hoan tả mái tóc của Sanh thì “Nó lồng bồng, nó ríu mín nọ với món kia, kết cao lên
thành một cái bẫy ruồi rất nhạy”. Về sự miêu tả tỉ mỉ đương thời Vũ Ngọc Phan khi phê
bình những tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan cũng đã chỉ ra và ông cho rằng chính sự
quan sát kĩ lưỡng và miêu tả tỉ mĩ ấy đã nâng giá trị của ngòi bút tả chân Nguyễn Công
Hoan. Nhiều đoạn trong các tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan khiến người đọc cảm động là
do ông đã tả rất thực như đoạn Minh chuẩn bị về nhà chồng trong khi mẹ đẻ nằm chết
trong buồng mà bên ngoài mọi người vẫn náo nức, vui vẻ làm đám cưới; đoạn miêu tả sự
đánh lộn giữa Minh và em gái chồng... Vũ Ngọc Phan nhận xét : “Đó là những cảnh mà
Nguyễn Công Hoan tả như vẽ. Ngòi bút của ông rắn rỏi lạ thường làm cho người đọc
tưởng như thấy cái cảnh loạn đả tức cười và đáng thương ấy ngay trước mắt” [36, tr.409].
51
Trong tiểu thuyết Lá ngọc cành vàng nghệ thuật tả chân của Nguyễn Công Hoan cũng rất
thành công khi ông tả ông phủ, tả sự điên loạn của Nga...
Nhìn chung có thể thấy nghệ thuật viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan so với
khi ông viết truyện ngắn là không bằng ngoại trừ một vài tác phẩm ít ỏi. Tuy nhiên trong
thể loại tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan cũng đã ghi lại được dấu ấn khá rõ nét ở dòng
tiểu thuyết hiện thực với một lối viết chân thực, tỉ mỉ và ngả về lối hài hước, phóng đại.
Ngược với Nguyễn Công Hoan, Lan Khai lại khẳng định vai trò là một nhà viết
tiểu thuyết lịch sử. Trong số các nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước 1945 như Phan
Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Ngô Tất Tố... và cả cho đến
ngày nay, trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam có lẽ Lan Khai là nhà viết tiểu thuyết
lịch sử nhiều nhất. Các tác phẩm hay nhất của ông có thể kể đến là Ai lên phố Cát
(P.T.B.N.S số 4), Chiếc ngai vàng (P.T.B.N.S số 9), Cái hột mận (P.T.B.N.S số 14), Gái
thời loạn (P.T.B.N.S số 20), Liếp li (P.T.B.N.S số 24), Bóng cờ trắng trong sương mù
(P.T.B.N.S số 50), Cưỡi đầu voi dữ (P.T.B.N.S số 64), Cánh buồm thoát tục (P.T.B.N.S
số 79), Đỉnh non thần (P.T.B.N.S số 91, 92), Theo lớp mây đưa (P.T.B.N.S số 103), Tình
ngoài muôn dặm (P.T.B.N.S số 112)... Theo cách phân loại đương thời của Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại thì chỉ có Lan Khai mới thực sự là nhà lịch sử tiểu thuyết
trong khi các nhà văn khác như Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Trúc Khê Ngô Văn
Triện, Trần Thanh Mại... chỉ là những nhà lịch sử kí sự. Vũ Ngọc Phan cho rằng nhà lịch
sử tiểu thuyết là “nhà văn chỉ phải căn cứ vào vài việc cỏn con đã qua; rồi vẽ vời cho ra
một truyện lớn, cốt giữ cho mọi việc đừng trái với thời đại, còn không cần phải hoàn toàn
sự thật” [35, tr.503]. Khi viết tiểu thuyết lịch sử Lan Khai chủ yếu quan tâm đến khía
cạnh nghệ thuật, tức ở sự hư cấu, sáng tạo thêm chi tiết. Lan Khai cho rằng nếu nhà lịch
sử đi tìm cái “nguyên sự thực”, gác bỏ lại những điều huyền hoặc, mơ hồ thì nhà viết tiểu
thuyết lịch sử lại được quyền “biên chép tất cả để thêm hứng thú cho câu chuyện mình
kể”. Ông có quan điểm giống đại văn hòa Pháp Alexandre Dumas, rằng lịch sử chỉ là một
cái đinh để nhà văn treo bức họa của mình lên. Có thể nói so với đương thời, khi mà các
52
nhà văn khác viết về đề tài lịch sử thường cố gắng làm sao tái hiện lại thật chính xác,
chân thực thì cách viết và quan niệm như Lan Khai có thể nói là sự cách tân đáng ghi
nhận trong dòng lịch sử tiểu thuyết ở đầu thế kỉ XX. Trong tiểu thuyết lịch sử Lan Khai
bối cảnh lịch sử và nhân vật lịch sử đôi khi chỉ là cái vỏ để ông thổi vào đó tâm hồn, tâm
sự mà nhà văn muốn giãi bày, gửi gắm đến độc giả. Ngoài những nhân vật lịch sử có thật
như Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Nguyễn Huệ, Lê Ngọa
Triều... mà ông cũng đã gắn vào đó những tâm sự, tư tưởng và tâm lý mới, sai khác với
mô tả trong chính sử thì Lan Khai còn sáng tạo ra hàng loạt những nhân vật lịch sử khác
như Bàn Tuyết Hận, Ma Vạn Thắng, Bàn Tài Đoàn, Thục Nương, Yến Xuân, nàng Nhạn,
nàng Bội Ngọc, Tiên Nhân... Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Lan Khai không
chỉ là ông hoàng bà chúa trong lâu đài cung điện mà còn là cả thế giới bí ẩn và xa lạ của
các dân tộc vùng cao Bắc Việt, từ công chúa, hoàng tử, cung nữ đến người bình dân.
Ngôn ngữ tiểu thuyết Lan Khai nhìn chung được lựa chọn và có sự gia công kĩ nên mượt
mà, sâu sắc. Những đoạn văn tả cảnh qua ngòi bút Lan Khai hiện lên thật sinh động và có
sức truyền cảm mạnh mẽ đến người đọc. Nó chứng tỏ một óc quan sát tinh tế và một ngòi
bút già dặn trong lựa chọn ngôn từ ở nhà tiểu thuyết lịch sử này. Chúng tôi xin dẫn một
đoạn như thế trong tiểu thuyết Liếp Li đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa trắng số
24. Đây là lúc sự vật vừa thức dậy: “Lúc ấy, trên sự vật sương mai hãy còn kéo lê như
một tấm màn sạ. Gió mát từng cơn thoảng như thấm cái hơi nước thơm tho vào tâm hồn.
Tiếng chim rời tổ gọi nhau lẫn tiếng ve kêu ánh ỏi mở đầu ngày mới bằng một khúc nhạc
tưng bừng, ca ngợi ái tình và sự sống”. Và đây là sự chuyển đổi tinh tế của tạo vật trong
bình minh được nhà văn dùng các giác quan tinh nhạy cảm thụ: “Dần dần, theo gió cuốn,
màn sương vụt đã bay đâu mất, lộ ra một bầu trời thăm thẳm xanh trong. Về phương
Đông, sau chỏm rừng như còn ngái ngủ, sắc mây chuyển qua màu hồng rồi đỏ thẫm. Màu
lá tươi mơn mởn, sắc cát trắng phau phau, những cây hoa đại nõn nà, những cột lâu đài
sơn rực rỡ vụt hiện ra dưới ánh sáng thanh tân. Giòng sông bát ngát, nước thắm như son,
chảy cuồn cuộn như một giòng vàng lỏng”. Sự miêu tả tỉ mỉ giúp nhà văn khắc họa được
rõ nét và gây ấn tượng mạnh vào trí tưởng tượng của người đọc. Đoạn miêu tả Lí Chiêu
53
Hoàng trong Chiếc ngai vàng là một trong những đoạn như thế. Chúng ta tưởng như có
phép thần kì để nhà văn quay ngược lại thời gian vào đúng khoảnh khắc đau buồn nhất
của vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam để tả. Ông viết: “Cặp mắt nàng to, đen
quầng, nhìn say đắm như mải theo cái ảnh tượng mĩ miều. Miệng nhỏ; làn môi thắm rầu
rầu hé mở trước hàng răng ngọc, phảng phất một bông hoa tàn héo trước thời phô nhụy.
Cổ nàng cao, tròn và trắng như cuống huệ. Nàng đội chiếc mũ hình phượng bay, hai cánh
xấp xuống thái dương, những lông đuôi dát ngọc xòe lại phía sau gáy, mỏ phượng chầu ra
trước trán ngậm tua vàng. Hai món tóc mai buông xóa nỗi hằn đôi gò má hơi cao, thêm
cho dung mạo nàng một vệt buồn rất đẹp”. Khi phân tích tâm lí nhân vật, mặc dầu đôi
khi ông mắc lỗi để vào đó những suy nghĩ của người hiện đại, nhưng về cơ bản chúng tôi
nhận thấy ông khá sâu sắc trong tâm lí con người. Lối độc thoại nội tâm được Lan Khai
sử dụng khá nhiều, nhất là trong những giây phút đớn đau nhất của nhân vật hoặc những
toan tính lớn lao, bí mật bất khả lộ, giúp cho nhân vật hiện lên một cách sâu sắc và hoàn
toàn. Đây là những lời độc thoại của nhân vật Chiêu Hoàng trong sự đau đớn khôn cùng
khi biết sắp phải giã biệt người yêu, đoạn này lời của nhà văn lẫn vào lời của nhân vật:
“Trời ôi! Có thể nào như vậy được chăng? Chỉ vì một chiếc ngai vàng mà kẻ kia nhẫn tân
bách hại ta đến thế ư? Lợi danh là gì mà nó khiến cho loài người sinh lòng tham lam độc
địa đến bậc đấy? Cướp hết cơ nghiệp của liệt thánh ta, Thủ Độ còn chưa thỏa, còn muốn
cướp nốt cả hạnh phúc của đời ta nữa! Phú quý ta có tiếc gì, nhưng một người đàn bà
không thể sống không có tình yêu. Tình yêu của ta Thủ Độ sắp làm cho tan nát; hắn sẽ
giết ta một cách tàn nhẫn biết chừng nào?” (Chiếc ngai vàng).
Hầu hết các tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, đúng như Phạm Thế Ngũ nhận xét
đều có khuynh hướng lãng mạn và bao giờ trong đó cũng có mối tình trai gái đầy đau
thương, trắc trở. Ai lên phố Cát là chuyện tình giữa Lan Anh và Vũ Biểu, Chiếc ngai
vàng là Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, Gái thời loạn là Hoàng Thiếu Hoa với Thục
Nương, Đỉnh non thần là nàng Nhạn với Bàn Tuyết Hận... Viết về tình yêu vốn dĩ cần sự
lãng mạn nên các tiểu thuyết của Lan Khai đã khai thác triệt để yếu tố này. Tuy nhiên,
54
nhiều lúc quá sa đà vào cảm hứng sáng tạo, mải chạy theo tâm lí nhân vật mà nhiều khi
nhà văn mắc lỗi kĩ thuật để nhân vật của mình có những suy nghĩ và lời nói thoát ly khỏi
thời đại mà họ sinh sống. Các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan và Phạm Thế Ngũ đã chỉ ra
những trường hợp như lời tỏ tình của Trần Cảnh – lúc ấy mới 9 tuổi – với Lý Chiêu
Hoàng: “Vì nàng lắm khi tôi chẳng thấy mặt trời, nhìn khắp vũ trụ tôi chỉ thấy hình ảnh
nàng. Tình ư hay là sự cuồng vọng? Chỉ có trời mới biết. Linh hồn tôi buộc chặt với nàng
như cành kia ăn liền với cây nọ”. Phạm Thế Ngũ bình luận những lời nói đó chỉ có thể là
lời của những đôi trai gái đầu thế kỉ XX như trong Tố Tâm, Tuyết Hồng Lệ Sử... Thay cho
kết luận về tiểu thuyết lịch sử Lan Khai chúng tôi xin dẫn ra ý kiến tổng kết sau của Trần
Mạnh Tiến, một người dày công nghiên cứu Lan Khai: “Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai
ra đời trong trào lưu cách tân tiểu thuyết đáp ứng nhu cầu tiếp nhận đa chiều của bạn đọc.
Con người trong tiểu thuyết của ông không “trùng khít” với nhân vật lịch sử. Nhà văn đã
tước đi những yếu tố ước lệ, các điển tích, điển cố, những “khuôn mẫu” trong văn
chương trung đại và những trang viết của các nhà Nho đầu đầu thế kỉ XX, thay vào đó là
con người mang trong mình “cái hay cái dở” của cuộc đời. Việc thoát ra kiểu kết cấu
chương hồi, tạo tiếng nói đa thanh phức điệu, kết hợp hoà trộn linh hoạt các yêú tố sử thi,
thế sự, đời tư, kỳ ảo, tâm lí, lạ hóa, khéo sử dụng cái hài cùng các chất liệu dân gian là
những cách làm mới tiểu thuyết của Lan Khai” [51].
Gương mặt tiểu thuyết thứ ba mà chúng tôi muốn nói tới chính là thể loại tiểu
thuyết người hùng của Lê Văn Trương. Dòng tiểu thuyết người hùng của Lê Văn Trương
ra đời trên cơ sở triết lí sức mạnh mà ông tôn sùng. Các tiểu thuyết của Lê Văn Trương
cho dù có viết về dạng nhân vật nào đi chăng nữa thì những nhân vật chính đều có phẩm
chất anh hùng: một gái điếm anh hùng, một người anh cả anh hùng, một người cha anh
hùng, một người mẹ anh hùng, một kẻ phá sản anh hùng... Phạm Thế Ngũ nhận xét, mặc
dù Lê Văn Trương viết nhiều về thế giới giang hồ nhưng khác biết với những nhà văn tả
chân khác thường đi vào sự sa đọa của con người thì Lê Văn Trương “lại có khuynh
hướng nâng cao họ lên địa vị những anh hùng về thủ đoạn hoặc tâm hồn có thể làm cảm
55
động, kính phục”. Đó là mẫu người “không chỉ oanh liệt trong phiêu lưu mạo hiểm mà
còn gương mẫu trong nghĩa vụ gia đình”, và cũng rất “trong sạch”, “cao quý” khi lương
tâm bị ném vào trong vũng bùn của xã hội trưởng giả giàu sang. Theo đánh giá của Phạm
Thế Ngũ thì ông “là người có tư tưởng”, “dám đứng ra chủ trương một lý thuyết luân lý
con người hùng thể hiện được phần nào nguyện vọng của giới trung lưu”. Nhà nghiên
cứu Bích Thu thì nhận xét mẫu nhân vật người hùng của Lê Văn Trương là “không chỉ
oanh liệt trong các tình huống hiểm nghèo mà còn cao thượng, quân tử trong các quan hệ
tình cảm, đặc biệt là trong tình yêu”. Các tác phẩm tiêu biểu về mẫu nhân vật người hùng
có thể kể tới như Kẻ đến sau, Đứa cháu đồng bạc, Một người, Một lương tâm trong gió
lốc, Tôi là mẹ, Cánh sen trong bùn, Người anh cả, Trường đời... So với dòng tiểu thuyết
tả chân đương thời đây là một nét mới.
Các tiểu thuyết của Lê Văn Trương không có nhiều cách tân về mặt thể loại. Mô
hình cuộc đời nhân vật chính của ông bao giờ cũng là: Con người bình thường – Trải qua
hạnh phúc ngắn ngủi – Thất bại – Đấu tranh với cuộc đời nghiệt ngã bằng sức mạnh và
chiến thắng – Người hùng. Ngay tiểu thuyết đầu tay của Lê Văn Trương, Cô Tư Thung,
đã đi theo mô hình này: Đoàn Hữu – nhân viên thư ký: một con người bình thường trong
xã hội, yêu cô Tư Thung – vợ ông chủ nhưng bị ghẻ lạnh, đánh đập. Hai người yêu nhau
và bỏ trốn sang Phnôm Pênh, sống những tháng ngày đắm say hạnh phúc: trải qua hạnh
phúc ngắn ngủi. Khi hết tiền Tư Thung bỏ Đoàn Hữu. Đoàn Hữu đã đi làm rất nhiều nghề
khổ cực, thậm chí buôn cả hàng quốc cấm. Chàng từ chối cả mối tình với cô gái Pháp vì
vẫn yêu Tư Thung. Khi Tư Thung gặp nạn (bị đi tù và mắc bệnh hiểm nghèo) Đoàn Hữu
hết mực chăm sóc, kiên tâm chờ đời sự thay đổi và muốn cảm hóa trái tim của Tư Thung:
Đối đầu với mọi thử thách hiểm nghèo nhưng không chùn bước. Cuối cùng Tư Thung
hiểu được thực sự chân ái tình của Đoàn Hữu nhưng nàng lại sốc và chết vì cảm xúc
thăng hoa: Cảm hóa được trái tim của Tư Thung – thành anh hùng trong tình yêu. Nhân
vật Đoàn Hữu xét cho kĩ chính là một mẫu anh hùng, không phải trong chiến trận mà là
trong những tình huống sống hiểm nghèo, trong tình yêu trọn vẹn thủy chung. Các nhân
56
vật chính khác trong tiểu thuyết của ông như Vĩnh, Vân trong Tôi là mẹ, Mạnh trong
Người anh cả... cũng đều phát triển theo mô hình trên. Nhân vật bao giờ cũng phải trải
qua những biến cố khắc nghiệt của cuộc đời mà ở đó nhân vật được bộc lộ đầy đủ nhất
những phẩm chất mạnh mẽ nhất trong tâm hồn và ý trí, tình cảm để vượt qua và trở thành
một mẫu mực, người hùng.
Những tiểu thuyết của Lê Văn Trương hấp dẫn người đọc ở lối tác giả sắp xếp các
cảnh, các sự kiện, biến cố theo cách của những bộ phim thám hiểm, phiêu lưu. Chẳng hạn
trong tiểu thuyết Trường đời Vũ Ngọc Phan đã nhận thấy cốt truyện của một bộ phim
chớp bóng mạo hiểm, phiêu lưu. Khánh Ngọc con gái ông chủ thầu khoán theo cha sang
bên Tàu làm việc. Đi cùng với cô là chàng kĩ sư Giáp. Trong chuyến đi ấy có một chàng
làm công tên Trọng Khang. Bằng tài năng và sự từng trải, Trọng Khang đã khiến Khánh
Ngọc yêu say đắm. Nhưng chàng vờ không biết. Sau đó, họ cùng nhau trải qua những
hiểm nguy, gian nan mà hiểu nhau. Kết cục Trọng Khang tỏ rõ tình yêu với Khánh Ngọc
để hoàn toàn trở thành người anh hùng khi kết thúc chuyện theo kiểu “không hèn nhát
trước nguy nan, chưa đủ, phải không hèn nhát trước hạnh phúc nữa”. Những cảnh và
nhân vật xuất hiện trong Trường đời cũng “đặc sệt” lối cinema: những đám phu khuân
vác, xây dựng, ngựa thồ đông đúc, những cảnh vượt dốc, những cảnh chiến đấu bắn súng
đạn chống lại bọn cướp, cảnh người ngậm tẩu thuốc cầm roi gân bò đi lại đốc thúc phu
phen... và xen vào đó là những đại cảnh thiên nhiên hùng tráng, tươi đẹp, lạ kì. Lối viết
này cũng xuất hiện trong tiểu thuyết Tôi là mẹ. Chính sự khéo léo trong sắp xếp các chi
tiết, sự kiện và lối miêu tả đó mà tiểu thuyết Lê Văn Trương có sức hấp dẫn lớn với đa số
độc giả đương thời, nhất là tầng lớp trí thức trung lưu.
Tuy nhiên, một trong các nhược điểm dễ nhận thấy nhất trong các tiểu thuyết của
Lê Văn Trương là do ông quá tập trung vào miêu tả để làm nổi bật được sức mạnh của
nhân vật nhằm truyền đạt luân lý, đạo đức nên sa đà vào thuyết giáo luân lí, nghị luận...
nhiều khi thành dài dòng, khô cứng làm giảm và loãng không khí câu chuyện. Các nhân
vật chính diện của ông hay bị cường điệu thái quá và lý tưởng hóa nên giảm tính chân
57
thật và khách quan. Nhân vật nhiều khi trở thành cái loa phát ngôn của tác giả để giảng
giải về triết lí sức mạnh, về nghĩa vụ, bổn phận, danh dự làm người.... Hãy lắng nghe lời
của Vĩnh nói với người yêu: “Gia dĩ cái bổn phận làm chồng của anh là phải vì em mà
nghĩ đến tương lai. (...). Các đứa con yêu quý của chúng ta sau này tự anh cống hiến nhu
cầu cho nó. Vẫn hay rằng, bây giờ ba má thương chúng ta thì nuôi nấng ta hay con chúng
ta, nhưng chúng ta còn có danh dự của chúng ta, còn cái danh dự của gia đình, còn danh
dự của con chúng ta. Đã đem thân ăn nhờ thì còn gì là danh dự! (...) Cánh tay của người
chồng là phải dang ra để che chở cho gia đình. Nay có cánh tay phải đi khuất phục, nhờ
vả thì cái gia đình ấy còn gì là vinh quang” [60, tr.89]. Vừa mới tỏ tình với nhau mà
chàng trai đã giảng giải cho cô gái những lời như thế quả thực không được tự nhiên và
phù hợp với tâm lí đôi lứa đang đắm say trong tình duyên mới chớm nở. Còn đây là lời
nghị luận của Trọng Khang với một người con gái yêu mình: “Đời sống tinh thần cũng
như đời sống của cơ thể, phải để cho nó tự tìm chất nuôi thích hợp, lớn lên rồi bành
trướng ra, chứ nếu đem lý thuyết, những tư tưởng sẵn có của người khác mà nhồi vào nó
thì cũng như gà vịt bị nhà hàng đem nhồi ngô, tuy có béo đấy, nhưng chẳng ích gì. Mầm
sống của nó tự chết đi ở trong nó; sống nhờ vào tay người, có chẳng dùng được gì cả.
Xem như bao nhiêu người học thật là bao nhiêu sách, nhưng nào có được một ý nghĩ gì là
của mình, và có dùng gì được đâu” (Trường đời).
Nghệ thuật tiểu thuyết Lê Văn Trương không thật đặc sắc hay có nhiều cách tân
đóng góp về mặt phát triển thể loại nhưng nó đã trở thành một dòng riêng giữa cái nguồn
chung tiểu thuyết hiện đại Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Việc nghiên cứu đánh giá một
cách chính xác di sản tiểu thuyết của Lê Văn Trương sẽ cần phải dành nhiều thời gian và
công phu hơn trong một luận văn thạc sỹ.
*
* *
58
Ở trên chúng tôi vừa khảo sát 3 phong cách tiểu thuyết quan trọng nhất của nhóm
Tân Dân ở thể loại tiểu thuyết. Mỗi nhà văn là một đại diện tiêu biểu cho một thể loại tiểu
thuyết mà cho đến nay vị trí của họ trong văn học sử vẫn còn nguyên giá trị, không một
nhà văn nào khác có thể thay thế vị trí của họ. Ngoài 3 phong cách tiểu thuyết trên trong
nhóm Tân Dân còn những gương mặt tiểu thuyết sau rất đáng chú ý nhưng do sự nghiệp
của các nhà tiểu thuyết này không đồ sộ nên ít được giới nghiên cứu chú ý. Tuy nhiên,
giá trị đích thực của một nhà tiểu thuyết không phải là sự tỉ lệ thuận với số lượng mà anh
ta đã viết ra. Chúng tôi xin giới thiệu sơ lược những nét quan trọng nhất về những nhà
tiểu thuyết này của nhóm Tân Dân:
Lưu Trọng Lư (1911 - 1991) được ghi nhận trong lịch sử văn học hiện đại Việt
Nam là một nhà thơ lớn song cũng cần biết rằng Lưu Trọng Lư còn là một tiểu thuyết gia.
Đương thời, khi mới xuất hiện trên văn đàn Lưu Trọng Lư được Trương Tửu đánh giá là
một trong ba nhà văn có lối tả cảnh mới mẻ nhất. Nếu Thế Lữ có tính kỳ thú
(pistoresque), Lan Khai có tính xúc cảm (émotionnel) thì Lưu Trọng Lư có tính cách thần
bí (mystique) (Trương Tửu, Loạt bài Văn học Việt Nam hiện đại, tuần báo Loa từ tháng 7
– 10/1935, Dẫn lại trong sách Lưu Trọng Lư: Tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết do Lại
Nguyên Ân và Hoàng Minh sưu tầm, NXB Lao Động, 2011). Tuy nhiên về sau đó, khi
Lưu Trọng Lư viết rất nhiều các truyện ngắn và tiểu thuyết tiếp theo đăng trên Tiểu
Thuyết Thứ Bảy thì Vũ Ngọc Phan lại phê bình cho rằng Lưu Trọng Lư là “một nhà tiểu
thuyết tầm thường”. Đến Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,
phần viết về các tiểu thuyết gia nhà Tân Dân khi đánh giá về tiểu thuyết Lưu Trọng Lư
cũng giữ nguyên cách nhìn nhận như Vũ Ngọc Phan khi cho rằng “ông không có tài dựng
truyện, lại kém nghệ thuật quan sát ngoại cảnh cũng như nội tâm. Văn viết thì phẳng
lặng, có khi lôi thôi”. Gần đây nhất, Lại Nguyên Ân cùng với Hoàng Minh cho ra mắt 2
tập sách dày dặn (gần 1550 trang khổ lớn) sưu tầm những tác phẩm văn xuôi gồm truyện
ngắn và tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư, trong đó thống kê cho thấy có 27 truyện ngắn (4
truyện đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy) và 27 tiểu thuyết (17 tiểu thuyết đăng trên TTTB,
59
PTBNS), tất cả đều viết trước 8/1945. Sau cách mạng về văn xuôi Lưu Trọng Lư chỉ có
hai tác phẩm tự sự là truyện ký Chiến khu Thừa Thiên (1952) và Chuyện cô Nhụy (1961)
– tác phẩm mà Lại Nguyên Ân cho rằng chỉ là sự viết lại từ tiểu thuyết Khói lam chiều. Ở
thể tiểu thuyết, Lưu Trọng Lư dùng một lối viết đậm chất thơ, nhất là khi ông viết về
những kỉ niệm xưa cũ, những dĩ vãng một thời. Cốt truyện nhiều khi không rõ ràng, các
sự kiện biến cố không dồn dập mà thường chỉ là cái cớ để tác giả dựng lại một bức tranh
cuộc sống theo dòng suy tưởng, hồi ức của mình hoặc của nhân vật. Chính vì điều này mà
ngày nay chúng ta tìm lại được trong các tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư những nét văn
hóa, phong tục cổ truyền đã bị mai một được bảo lưu và tái hiện vô cùng tỉ mỉ, sinh động.
Một nét đặc biệt trong nghệ thuật tiểu thuyết Lưu Trọng Lư là nhà văn rất hay sử dụng
hình thức thư trong tác phẩm. Đây là một phương tiện rất hữu hiệu để nhà văn thể hiện
sâu sắc đời sống nội tâm của nhân vật.
Nguyên Hồng (1918 - 1982) cũng là một nhà tiểu thuyết viết khá nhiều cho Tân
Dân. Đó cũng là những tiểu thuyết nổi danh của văn học Việt Nam: Cuộc sống (1942),
Qua những màn tối (1942), Quán nải (1943), Đàn chim non (1942). Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết của Nguyên Hồng ngược hẳn với tiểu thuyết của các nhà văn trong Tự
lực văn đoàn, không phải các “chàng” “nàng” mà là những người dưới đáy của xã hội và
không gian không phải những trang trại, những sa-lon, biệt thự mà là những ngõ, những
chợ, những phà, những bến. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Nguyên Hồng là một thứ ngôn
ngữ đôn hậu và giàu chất lãng mạn. Trong số các tiểu thuyết kể trên, đáng lưu ý có Cuộc
sống được viết dưới dạng những bức thư, gồm 11 bức thư và đều gửi cho một người tên
Minh.
Nguyễn Triệu Luật (1903 - 1946) là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử
của nhóm Tân Dân. Như chúng tôi đã có nói ở chương I, thể loại tiểu thuyết lịch sử dưới
ngòi bút Nguyễn Triệu Luật có một nét khác biệt là ông không cố gắng sáng tạo, hư cấu
thêm nhân vật và tình tiết mà chỉ cốt sao tái hiện cho đúng, cho đủ về lịch sử. Hơn nữa,
trong tiểu thuyết của ông rất nhiều khi giảm bớt tính văn chương do các đoạn trữ tình
60
ngoại đề, thuyết minh về lịch sử quá nhiều khiến người đọc cảm thấy “khô khan, dài
dòng, mải khoe kiến thức” (Phạm Thế Ngũ) của ông. Các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
Triệu Luật vẫn viết theo lối chương hồi và với một ngôn ngữ rất cổ kính.
Đái Đức Tuấn (1908 - 1969) nổi danh với các tiểu thuyết Thần hổ (P.T.B.N.S số
10, 1937), Linh hồn hay xác thịt (P.T.B.N.S số 16, 1938), Kho vàng sầm sơn (P.T.B.N.S
số 670, 1940)... Trong nhóm Tân Dân ông là nhà văn chuyên viết thể loại tiểu thuyết thần
thần kỳ ma quái, được mệnh danh là nhà văn Liêu Trai Việt Nam. Tuy nhiên, tiểu thuyết
truyền kì của Đái Đức Tuấn không giống với trong văn học trung đại vì tất cả những điều
ma quái, bí hiểm đều được nhà văn dùng lí luận để giải thích, khám phá. Những tiểu
thuyết ma quái của Đái Đức Tuấn đều rất thành công do tài dựng truyện gây kích thích
mạnh tới tâm lý người đọc và khả năng sử dụng ngôn ngữ tạo không khí huyền bí, rùng
rợn, bí hiểm. Không gian trong tiểu thuyết Đái Đức Tuấn chủ yếu là vùng rừng núi, nơi
ma thiêng nước độc mà không phải trong không gian sinh hoạt ở các vùng khác.
Ngoài những tiểu thuyết gia kể trên chúng tôi cũng xin nhắc đến ở đây những
phong cách tiểu thuyết khá đặc sắc trong nhóm Tân Dân, do không có điều kiện chúng tôi
không thể viết kĩ. Đó là Từ Ngọc với Khói hương, Ngược dòng, Hai ngả... Thanh Châu
với Người thày thuốc, Tà áo lụa... Nguyễn Xuân Huy với Nắng đào... Trần Huyền Trân
với Tấm lòng người kỹ nữ, Người ngàn thu cũ, Lẽ sống.... Mạnh Phú Tư với Sống nhờ,
Người vợ già, Vết cũ... Phan Trần Chúc với Cần Vương, Dưới lũy trường dục, Thưởng trì
cung, Hồi chuông thiên mụ.... Hoàng Cầm với Thoi mộng...
2.2 Truyện ngắn (đoản thiên)
Có thể nói truyện ngắn (còn gọi với tên đoản thiên tiểu thuyết) thể loại có số lượng
lớn nhất mà Tân Dân đã xuất bản. Thật khó có thể có con số thống kê chính xác có bao
nhiêu truyện ngắn của bao nhiêu nhà văn đã xuất hiện trên các ấn phẩm của Tân Dân. Chỉ
tính riêng hai nhà văn trụ cột của nhóm Tân Dân là Nguyễn Công Hoan và Ngọc Giao
trong 10 năm đã có tới 10 tập truyện ngắn xuất bản gồm: 6 tập truyện ngắn của Nguyễn
61
Công Hoan là Kép Tư Bền (1935), Hai thằng khốn nạn (1937), Đào kép mới (1937), Sóng
vũ môn (1938), Người vợ lẽ bạn tôi (1939), Ông chủ báo (1940). Tiếp đến là Ngọc Giao
với 4 tập truyện ngắn gồm Một đêm vui (1937), Phấn hương (1939), Cô gái làng Sơn Hạ
(1942), Chuyện người trẻ tuổi (1944). Bên cạnh đó còn kể tới những nhà văn khác cộng
tác với Tân Dân như Nguyên Hồng với tập truyện ngắn Bảy Hựu (1941), Nguyễn Tuân
với tập Vang bóng một thời (1940), Lan Khai với tập Truyện đường rừng (1940), Tchya
Đái Đức Tuấn với 2 tập Ai hát giữa rừng khuya (1942), Oan nghiệt (1939). Đó là chưa kể
đến các nhà văn Nam Cao, Thâm Tâm, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Lưu Trọng
Lư, Vũ Trọng Phụng... đã xuất bản rất nhiều truyện ngắn đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
Phổ Thông Bán Nguyệt San, Truyền Bá, Tao Đàn...
Nếu ở thể loại tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan không được thành công cho lắm thì
ở thể loại truyện ngắn vị trí của nhà văn này được xác lập là ngòi bút bậc thầy của nền
văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ngay đương thời Vũ Ngọc Phan đã nhận xét truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan như sau: “Nguyễn Công Hoan có sở trường về truyện ngắn hơn
truyện dài. (...) ở truyện ngắn, ông tỏ ra là một người kể chuyện rất có duyên. Phần nhiều
truyện ngắn của ông linh động, lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người đọc khoái trá vô
cùng. Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho một thứ văn rất vui, thứ văn mà có lẽ từ
ngày nước Việt Nam có tiểu thuyết viết theo lối mới, người ta chỉ thấy ở ngòi bút ông mà
thôi” [36, tr.418]. Cũng như trong tiểu thuyết, ở thể loại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
cũng tỏ rõ là một nhà văn thiên về khuynh hướng xã hội với một nghệ thuật tả chân già
dặn, sâu sắc. Ngay khi tập truyện ngắn đầu tiên, Kép Tư Bền, ra đời thì Thái Phỉ đã gọi
Nguyễn Công Hoan là nhà văn của “những hạng người khốn nạn” với nghĩa là những kẻ
vừa nghèo đói đáng thương, lại có kẻ hèn mạt đáng bỉ. Kẻ ngòi đói đáng thương và kẻ
hèn mạt đáng bỉ chính là hai loại nhân vật chính trong truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan. Kẻ nghèo đói đáng thương là tầng lớp bình dân với anh cu, mẹ đĩ, con sen, thằng
ở, ông bố bà mẹ giả yếu bị con cái hắt hủi, là người chết không được chôn... Kẻ hèn mạt
đáng bỉ là tầng lớp giàu có như quan lại, nhà tư bản, địa chủ... Hầu hết các truyện ngắn
62
của Nguyễn Công Hoan đều được xây dựng dựa trên sự xung đột giàu nghèo mà qua đó
bộc lộ cái hèn mạt, đáng thương của con người. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung
so sánh những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan với nhóm Tự lực văn đoàn khi cùng
hướng về mục đích đả kích những cái xấu, cái cũ trong xã hội và rút ra cái riêng, cái đặc
sắc của Nguyễn Công Hoan như sau: “Trong khi “tiếng cười Phong Hóa” của nhóm Tự
lực văn đoàn là nhằm vào cái hủ lậu, “nhà quê”, thể hiện mối mâu thuẫn mới – cũ, “văn
minh” và cổ hủ, thì tiếng cười trào phúng của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan lại làm nổi
bật lên sự bất công có tính chất giai cấp của xã hội” [5, tr.362]. Thái Phỉ trước đó cũng đã
nhận xét về kết cấu trong những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rằng: “Ông thường
dùng trong mỗi truyện thuật đối chiếu, đem cái nghèo hèn đối với cái giàu sang, cái khổ
sở đối với cái sung sướng, cái ti tiện đối với cái cao quý. Làm cho ta thương đến một
hạng người nào, ông tất làm cho ta ghét cay ghét đắng một hạng người bởi đó mà hạng
người kia phải đau đớn ê chề”. Phạm Thế Ngũ thì nhận xét cái cười trong những truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan là “cái cười chua chát, đau đớn, cười ra nước mắt”. Quả
thật độc giả sao có thể không cười cho cái sự lừa lọc, vô ơn của những kẻ làm con và xót
xa, chảy nước mặt cho số phận của những bậc làm cha làm mẹ trong Báo hiếu trả nghĩa
cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ; cho số kiếp đáng thương của anh đào kép, của kiếp người
ngựa ngựa người... Thành tựu nổi bật nhất về mặt nghệ thuật ở thể loại truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan chính là nghệ thuật trào phúng bậc thầy. Mọi khía cạnh trong cuộc
sống thông qua con mắt tinh nhạy của Nguyễn Công Hoan đã được nhà văn phản ánh
bằng một lăng kính hài hước rất nổi bật, sinh động. Các tình huống trào phúng đều được
nhà văn sử dụng biện pháp phóng đại để tô đậm và tăng khả năng biểu cảm đến mức cao
nhất. Các truyện Kép Tư Bền, Người ngựa ngựa người, Mất cái ví, Cụ tránh bá mất giày,
Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ... là những chuyện đã được phóng đại lên
so với thực tế. Có lẽ trong cuộc sống không có những tình huống thực nào oái oăm và
tréo ngoe đến như thế. Về mạch truyện, Nguyễn Hoành Khung nhận xét các truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan thường đơn tuyến và đơn giản, ngắn gọn và có chủ đề rõ ràng và
nhất là gần gũi với kiểu kết cấu truyện kể dân gian và giàu tính kịch. Truyện nào cũng có
63
thắt nút, cởi nút rất hấp dẫn kết hợp với tài dẫn truyện khéo léo để đưa mâu thuẫn lên đến
đỉnh điểm và tiếng cười phá ra, vang lên thì cũng là lúc câu chuyện kết thúc, “tấn trò đời”
hạ màn.
Ngược lại với Nguyễn Công Hoan, ở thể loại truyện ngắn nhà văn Ngọc Giao lại
tỏ rõ sở trường ở thể loại truyện ngắn trữ tình, nhất là những hoài cảm và thiên về khuynh
hướng lãng mạn rõ rệt. Thế giới nhân vật trong các truyện ngắn của Ngọc Giao vẫn là
những kiếp người bình dân, những anh kí, những công chức cấp thấp, những thanh niên
sống không ý chí sa vào vòng trụy lạc, những kiếp buôn phấn bán hương, xướng ca vô
loài... tuy nhiên lại gần như vắng bóng những nhân vật nông dân cùng cực, nhưng con
sen, con ở, thằng xe, đứa ăn cắp như trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hay Nam
Cao... Tuy nhiên khi viết về các nhân vật này Ngọc Giao không có cái cười lột mặt nạ
như ở Nguyễn Công Hoan, không đi vào đến tận cùng chiều sâu tâm lí nhân vật như Nam
Cao, không nhìn con người đến trần trụi như Vũ Trọng Phụng... mà ở ông là một niềm
đồng cảm sâu sắc với từng số phận đáng thương. Nói như thế không có nghĩa là ở Ngọc
Giao không có sự trào phúng như Nguyễn Công Hoan. Đọc truyện ngắn À chúng nó xỏ
ông đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 103 năm 1936 người ta không khỏi liên tưởng đến
sự tinh ranh, hài hước của Nguyễn Công Hoan. Ngọc Giao miêu tả cảnh tế thánh ở trong
đình nơi làng quê thật tài tình. Đằng sau cái không khí có vẻ nghiêm trang lại là một sự
hài hước hiếm có. Trong khi các kỳ mục, chức sắc đứng im phăng phắc một cách uy nghi
hai bên, quan đám thì “lướt thướt trong bộ áo thụng xanh nằm bò úp mặt xuống chiếc
chiếu hoa trải chính giữa để trịnh trọng bắt hai cái đầu gối làm việc”. Quan đám quỳ đến
bại cả lưng mà vẫn chưa thấy cụ Bá xướng lễ để “bộ xương lưng già của quan đám được
giãn ra một chút”, khiến cho quan sốt ruột, bực mình “thỉnh thoảng lại ngóc đầu lên hai
chân ngàu cọ quậy trong đôi hia nhung to tướng, dáng chừng ngài thấy ngứa”. Vẽ xong
chân dung hài hước của viên quan đám, ngòi bút Ngọc Giao hướng về cụ bá chủ xướng
lễ. Bằng giọng kể có vẻ kính cẩn nhưng thực chất đầy mỉa mai, hài hước người ta thấy
Ngọc Giao đã lột trần mặt nạ ẩn đằng sau dáng vẻ cụ bá: “Mọi người sốt ruột và có lẽ
64
thương tình ông chánh tế, nên tuy ở cái phút cực kì yên lặng, đáng kính cẩn này, họ dám
láo xược giục cụ bá, làm cụ giật nảy mình. Cụ mở bừng hai mắt, vội kéo dài cái giọng ả
phiến: Hưng! Thì ra từ nãy giờ cụ Bá ngủ gật”. Tiếp đó Ngọc Giao bồi cho chân dung
này thêm một nét nữa để lột mặt cái sự ngủ gật trong đám tế, “cái cớ mà người ta chưa
hiểu rõ là ba đêm nay cụ bận thức thâu canh để hầu tiếp mấy quý khách ở ngoài tỉnh vì
ngưỡng danh cụ mà về chơi ít bữa”. Trong lúc đứng tế mà đầu óc cụ cứ mải nghĩ về hai
cặp nhung hươu, bốn lạng cao và một mớ sâm Hoa Kỳ thượng hạng, những thứ mà sẽ
làm cho cụ “trở nên cường tráng”, “sống trở lại mười năm xuân cũ để sinh thêm vài cậu
con trai nữa chẳng biết chừng”. Đó đây trong các truyện ngắn của Ngọc Giao ta cũng bắt
gặp mẫu nhân vật kiểu người hùng Lê Văn Trương, lưu bạt khắp bốn phương trời và chết
trong sự chung tình. Đó là trường hợp nhân vật An trong Một gã ngang tàng đăng trên
Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 182 năm 1937. Đây là đoạn đặc tả những nét ngang tàng, mạnh
mẽ đến hoang dại của An trong đêm giông tố bên cạnh người yêu: “Anh mở to mắt nhìn
những làn chớp chạy loáng trên mây, cười khanh khách mỗi lần có sét nổ vang trời”,
“anh cứ quật roi vào lưng ngựa giục nó chạy nhanh, nghiến răng lại mà cười một cách
quái gở. Mắt anh vụt đỏ ngầu như mắt người say rượu, mặt gân guốc lộ một vẻ hung ác
khác thường. Cơn giông bão ở trong tâm hồn anh bấy lâu nay ngấm ngầm phá hoại tất cả
năng lực của anh, bây giờ gặp giông tố của trời đất mà đột nhiên nổi dậy với một sức
mạnh ghê gớm hơn, mãnh liệt hơn. Hai hàm răng nghiến vào nhau ken két, anh hầm hè
tựa kẻ nổi hung liều mạng trong một cơn tranh đấu”. An cũng từng ở Pháp, yêu một nàng
người nước Anh tên Irène và sống với nàng như vợ chồng trong một tình yêu say đắm,
cuồng nhiệt. Sau một tai nạn bất ngờ Irène chết An quay trở về nước từng trải qua mối
tình với tiểu thư đẹp nhất đất Sài Gòn tên Lệ Mai, rồi nàng tiểu thư con nhà quan quyền
thế ở Huế tên Thu Nguyệt... rồi hàng tá những cô gái khác mà kết thúc là với Thúy. Sự
kết thúc dừng lại ở Thúy không phải vì An đã quên được cô gái ngoại quốc mà chỉ vì anh
không thể quên được nàng. Trong một bữa tiệc được sắp đặt trước, anh mời tất cả những
cô gái từng bị anh phụ bạc đến rồi sau đó tự kết liễu đời mình bên tấm di ảnh Irène. An
đã chết trong tư cách một kẻ chung tình. Đọc những truyện ngắn của Ngọc Giao người ta
65
còn thấy cả hơi hướng của một chút phong cách Nguyễn Tuân trong Chạy loạn (đăng
Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 115 năm 1941) với nhân vật cụ cử sống chết vẫn ở lại ngôi nhà
xưa cũ, không chịu đi chạy loạn như muốn níu giữ lại một thời đa qua; một chút Nam
Cao trong Xóm nghèo ăn tết chó (đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 404 năm 1942) với
nhân vật mụ Một và con chó vàng khiến ta liên tưởng đến lão Hạc và cậu vàng trong
truyện ngắn Lão Hạc... Để kết luận lại phong cách truyện ngắn Ngọc Giao, chúng tôi
đồng tình với nhận định của giáo sư Phong Lê khi ông cho rằng “Ngọc Giao là sử thể
hiện hoặc thu gọn các khuynh hướng viết của Tiểu Thuyết Thứ Bảy” đó là các nhà văn
Lan Khai, Lê Văn Trương, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng,
Thanh Châu, Nam Cao, Nguyễn Bính, Tô Hoài... Chính vì sự đa dạng trong phong cách
này mà khi xếp Ngọc Giao vào khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực cũng là điều khá
phức tạp, chúng tôi xin được bàn kĩ ở chương III.
Ở thể loại truyện ngắn, ngoài hai cây bút trụ cột là Nguyễn Công Hoan và Ngọc
Giao chúng tôi xin kể đến các phong cách truyện ngắn rất thành công của nhóm Tân Dân
như Nguyễn Xuân Huy với tập Thềm nhà cũ xuất bản năm 1941 trong Tủ sách những tác
phẩm hay, gồm 11 truyện, là sự pha trộn của nhiều lối viết khác nhau đi từ mộc mạc, giản
dị đến hài hước, hóm hỉnh, từ lối đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật đến chớm lối viết
tượng trưng, siêu thực. Nhìn chung tập Thềm nhà cũ chủ yếu được viết theo bút pháp trữ
tình lãng mạn với những câu văn được gọt giũa công phu. Lan Khai không chỉ thành
công trong lĩnh vực thể loại tiểu thuyết lịch sử mà ở thể loại truyện ngắn ông cũng ghi
dấu ấn rất riêng, rõ nét ở mảng truyện đường rừng. Năm 1940, Lan Khai xuất bản cuốn
Truyện đường rừng gồm 9 truyện ngắn, nằm trong hệ thống sách Những tác phẩm hay
của nhà Tân Dân. Bằng một lối viết miêu tả tỉ mỉ và nghệ thuật kể truyện tài tình, những
bức tranh về thế giới rừng già âm u huyền bí nơi con người sống chung với ma quỷ đã
hiện lên đầy căng thẳng, kịch tính, đầy sự ghê sợ, hoang đường từ đầu đến cuối. Phạm
Thị Thu Hương trong Từ điển văn học Việt Nam, bộ mới nhận xét mặc dù truyện ngắn
đường rừng Lan Khai viết không nhiều nhưng “đó lại là những tác phẩm đặc sắc, in đậm
66
cá tính sáng tạo của nhà văn”. Các truyện trong tập Truyện đường rừng hầu hết được viết
theo theo kiểu truyền kì, mang dấu vết của những truyện cổ dân gian (Người lạ, Ma
thuồng luồng, Đôi con vịt, Người hóa hổ, Gò thần) tuy nhiên không vì thế mà các truyện
ngắn của Lan Khai trở nên cổ hay in đậm thi pháp trung đại. Nhà nghiên cứu Trần Mạnh
Tiến nhận xét Truyện đường rừng của Lan Khai đã viết theo lối hoàn hoàn hiện đại, “kết
cấu của truyện không bị gò bó theo “môtip”, thời gian trong truyện được kết cấu linh hoạt
nhưng vẫn tự nhiên hợp lí, theo sát sự kiện và hành động của nhân vật, nhiều khi đem đến
những yếu tố bất ngờ thú vị. Đặc biệt, các thành phần trong cốt truyện từ mở đầu, diễn
biến đến kết thúc đều diễn ra tự nhiên, phù hợp với logic của từng truyện”, “kết cấu
truyện lonh hoạt hơn so với lối kể chuyện của tiểu thuyết trung đại, chất tiểu thuyết được
bộc lộ khá rõ” và nhất là cuộc sống trong mỗi truyện là người đương thời mà không phải
là truyện xưa tích cũ được kể lại [50, tr.577-578]. Ở thể loại truyện ngắn sẽ là thiếu sót
nếu trong nhóm Tân Dân ta không nhắc đến nhà văn Nguyên Hồng với tập truyện nổi
tiếng Bảy Hựu được xuất bản trong Tủ sách những tác phẩm hay năm 1941. Bảy Hựu
gồm 13 truyện ngắn. Đương thời Vũ Ngọc Phan đã rất mực khen ngợi nghệ thuật của Bảy
Hựu, ông đánh giá tập truyện ngắn này mang trong nó chất giọng phóng sự, chua cay
nhưng kín đáo, “phần nhiều dùng việc thay lời, nên cái nghệ thuật của ông (tức Nguyên
Hồng) thật là sâu sắc”. Những truyện được Vũ Ngọc Phan đánh giá cao nhất là Bảy Hựu,
Sông máu, Chín Huyền và nhất là Trong cảnh khốn cùng, Đây, bóng tối. Thế giới nhân
vật của truyện ngắn Nguyên Hồng vẫn là sự tiếp nối trong tiểu thuyết đầu tay của ông, là
những kẻ khốn nạn, dưới đáy cùng của xã hội nhưng đều có phẩm chất tốt đẹp: đó là Bảy
Hựu – tên “chạy vỏ” nhưng đã chết thê thảm để bảo vệ bạn, là Chín Huyền vì cứu bạn mà
bị quan bắt vào tù... Hai nhân vật này mặc dù thuộc loại sống ngoài vòng xã hội nhưng lại
có lối sống anh hùng, hy sinh vì bạn; là hai vợ chồng chị Cu Năng chết trên dòng sông lũ
vì vớt củi nuôi con; là nhân vật gác vé rạp hát ăn đút lót 1 hào bạc nhưng run lên đau đớn
với hành vi của mình; là Quyến đang định sống dựa vào kẻ khác đã hồi tâm chuyển ý sau
khi thấy cảnh một gia đình phu mỏ đói rách, bệnh tật yêu thương nhau, nhường nhịn nhau
từng miếng cơm nắm; là giáo Tâm cảm thấy lương tâm cắn rứt khi hành nghề dạy học
67
ngoài vòng pháp luật; là số phận cay nghiệt của Mũn và Nhân yêu nhau nhưng vì nghèo
khó mà phải chia lìa. Mũn thì chết đuối trong một lần đi bán quà kiếm tiền nuôi con để lại
Nhân – đã bị mù và mấy đứa con nhỏ phải dắt nhau đi ăn xin; là anh lính châu phi gắn bó
cuộc đời với cô gái điếm Nhung để dựa vào nhau mà sống... Đây là tập truyện ngắn đầu
tay của Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám nhưng đã hứa hẹn một năng lực sáng
tác dồi dào sau này của nhà văn. Nam Cao cũng là một cây bút truyện ngắn thường xuyên
xuất hiện trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Gần 60 truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao
đã đăng trên tờ báo này trong đó có thể kể tới như Trăng sáng, Trẻ con không được ăn
thịt chó, Tư cách mõ, Một bữa no, Lão Hạc, Đời thừa, Lang rận, Quên điều độ, Một đám
cưới... (Danh sách đầy đủ xin xem Phụ lục). Tác phẩm đầu tiên Nam Cao viết đăng trên
ấn phẩm của Tân Dân là truyện ngắn Cảnh cuối cùng kí bút danh Thúy Rư trên Tiểu
Thuyết Thứ Bảy số 123 ra ngày 2/10/1936. Từ đó tên tuổi Nam Cao liên tục xuất hiện
trên các số Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở mục truyện ngắn cho đến 1945. Các truyện ngắn của
Nam Cao đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy và một số số báo Ích Hữu ngay từ đầu đã bộc
lộ khuynh hướng sáng tác hiện thực ở nhà văn này. Hai loại nhân vật được ông tập trung
vào nhiều nhất là trí thức tiểu tư sản nghèo và những người nông dân nghèo. Các truyện
ngắn của Nam Cao đều rất sâu sắc do sở trường và tài năng trong phân tích tâm lí con
người của nhà văn. Trong các truyện ngắn của Nam Cao ta nhận thấy chất giọng hài hước
chua cay ẩn sau những ngôn ngữ đầy tâm trạng và suy ngẫm triết lí. Đáng chú ý nhất
trong số các truyện ngắn Nam Cao đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy là hai truyện Giăng
sáng và Đời thừa vì nó nói lên quan điểm nghệ thuật của ông. Giăng sáng đăng trên Tiểu
Thuyết Thứ Bảy số 439 ra ngày 14/11/1942 đã lên ánh mạnh mẽ thứ nghệ thuật thoát li
hiện thực, chạy trốn trong những tháp ngà vây bọc bởi ánh trăng lừa dối. Ông đề cao thứ
nghệ thuật chân chính là nghệ thuật gắn liền với đời sống cho dù nó có đen tối, cơ cực
lầm than đến đâu đi chăng nữa. Đến Đời thừa đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 490 ra
ngày 4/12/1943 Nam Cao đã tiến xa hơn trong tư tưởng nghệ thuật qua phát ngôn nổi
tiếng của nhân vật Hộ: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo
một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết
68
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Sẽ là thiếu sót
nếu như chúng tôi không nhắc đến một cây bút truyện ngắn kì cựu khác là nhà văn Tô
Hoài. Cái duyên của nhà văn Tô Hoài đến với nhóm Tân Dân sau khi tờ Hà Nội tân văn
bị đóng cửa là do sự giới thiệu của Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Công Hoan. Ngay truyện
ngắn đầu tiên ra mắt “ông chủ” xuất bản Vũ Đình Long đã đem đến thành công lớn cho
Tô Hoài sau này, đó là truyện ngắn Con dế mèn đăng trên báo Truyền Bá số 3 ra ngày
10/10/1941. Ngay khi xuất bản truyện đã thu hút được độc giả và theo yêu cầu của Vũ
Đình Long, Tô Hoài đã viết tiếp Con dế mèn để thành kiệt tác văn học Dế mèn phiêu lưu
kí đăng trên Truyền Bá số 16, 17 ra ngày 22, 29/1/1942, tác phẩm đã tái bản đi tái bản lại
hàng chục lần cho đến nay. Sau Dế mèn phiêu lưu kí Tô Hoài tiếp tục theo đuổi thể loại
truyện ngắn về loài vật và khẳng định được tài năng của mình ở thể loại này. PGS.TS
Vân Thanh nhận xét “Thế giới loài vật là một nội dung đặc sắc và độc đáo trong văn xuôi
Tô Hoài. Có lẽ trước ông và sau ông chư ai có sức viết và tài viết như thế” [44, tr.16].
Trên ấn phẩm Truyền Bá ta tìm được rất nhiều truyện viết về loài vật của Tô Hoài như
Chó với Mèo, Võ sĩ Bọ ngựa, Bốn con gà, Hai con ngỗng, Dê và Lợn và đặc biệt loài
chuột được Tô Hoài viết rất nhiều.
Tóm lại có thể nói, ở thể loại truyện ngắn nhóm Tân Dân nổi lên với hai phong
cách lớn là Nguyễn Công Hoan và Ngọc Giao. Bên cạnh đó rất nhiều phong cách truyện
ngắn đặc sắc khác cũng góp phần phát triển thể loại truyện ngắn thêm phong phú và đa
dạng, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa của thể loại này. Các phong cách truyện ngắn
khác nhau đã làm cho thể loại truyện ngắn của Tân Dân trở nên đồ sộ về số lượng, phong
phú về giọng điệu, đa dạng về đề tài, linh hoạt về kết cấu, không gian thời gian được mở
rộng tối đa. Viết lịch sử phát triển thể loại truyện ngắn Việt Nam không thể không kể đến
những đóng góp vô cùng lớn của các nhà văn trong nhóm Tân Dân.
2.1.3 Kịch
69
Mặc dù Vũ Đình Long - người sáng lập nên nhà xuất bản Tân Dân - là một nhà
viết kịch nổi tiếng, tiên phong của nền kịch nói dân tộc nhưng có vẻ như thể loại này lại
không được phát triển mạnh mẽ như truyện ngắn và tiểu thuyết. Kịch xuất hiện khá ít ỏi
trên các ấn phẩm của nhà xuất bản Tân Dân. Người viết nhiều hơn cả là Toan Ánh, kế đó
có thể kể đến Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Công Hoan.
Toan Ánh (1916 - 2009) bắt đầu tham gia viết cho nhóm Tân Dân là truyện ngắn
Chiếc nhẫn quý đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy năm 1935. Khi Tạp chí Tao Đàn ra đời
ông có đăng trên tạp chí này 3 vở kịch gồm: Cám ơn ông, Ngả vạ và Bức tranh. Cảm ơn
ông là vở kịch vui ba hồi đăng trên Tao Đàn các số V, VI, VII. Mở đầu kịch là một tình
huống căng thẳng: Khánh bị chồng – tên Tuấn cho “mọc đuôi” (tức có tình nhân) nên
nàng tìm cách để làm cho Tuấn đau khổ. Tuấn đi công tác 1 tuần mới về nàng thuê Viết
một người đang thất nghiệp nhưng xinh trai làm tình nhân hờ cho nàng. Trong một tuần
ấy Viết từ nhận đóng vai thành ra yêu Khánh thật. Câu chuyện Khánh và Viết làm tình
nhân với nhau đồn khắp Hà Nội. Đến ngày Tuấn về nhà, chành biết chuyện thì vô cùng
đau khổ vì thực sự chàng không lừa Khánh. Trong lúc đau khổ cùng cực chàng gặp Huân
– một người si mê Khánh nhưng không được Khánh đáp lại – Huân kể rõ đầu đuôi cho
Tuấn nghe vì chính Khánh từng nhờ Huân làm tình nhân hờ nhưng Huân không đồng ý
nên Khánh mới thuê Viết. Tuấn hiểu ra mọi điều. Đúng lúc ấy Khánh về, Tuấn giải thích
cho vợ sự hiểu lầm. Hai người làm hòa và lại hôn nhau say đắm. Chỉ có Huân là đau đớn
vì chót yêu Khánh. Đây là một vở kịch vui, đơn thuần mang tính giải trí, mua vui cho
tầng lớp trung lưu, cũng tuân thủ các thủ pháp nghệ thuật của kịch: có thắt nút, cao trào
và cởi nút. Khi kết thúc cũng để lại trong lòng độc giả một chút nghĩ ngợi về số phận tiếp
theo của nhân vật Viết. Tuy nhiên tác giả tỏ ra non tay trong việc sắp xếp các tình huống
và kể chuyện. Mọi thứ trở nên quá rõ ràng, không gây kích thích và căng thẳng cho độc
giả, tính kịch chưa cao. Vở kịch thứ hai là vở Ngả vạ đăng trên Tao Đàn số VIII. Đây
cũng là một vở kịch vui ba hồi nhưng nhân vật không phải là các chàng, nàng ở Hà Nội
như Cảm ơn ông mà là các nhân vật nơi thôn quê với đĩ Tũn, ông đồ, bà đồ, ông lý, ông
70
trương, tuần đinh, ông tiên chỉ... Ngay mở đầu là không khí căng thẳng quanh cuộc đấu
khẩu giữa vợ chồng ông đồ Hải vì chuyện cãi Tũn chửa hoang. Ông trì triết bà, bà trì triết
ông hệt như cảnh vợ chồng cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng bàn cách cưới
chạy tang cho Tuyết trước cái chết đột ngột của ông cụ già đáng chết. Tiếp đó là cảnh gia
đình bàn mưu tính kế để đối phó lại lệ phạt vạ của làng. Ông đồ đa mưu túc sự đã nghĩ ra
một kế vừa không bị phạt vạ, vừa cứu được thanh danh gia đình ông, làm cho các quan
viên, các chức dịch trong làng một phen tưởng bở. Vở kịch kết thúc bất ngờ bằng cảnh
cãi nhau giữa các bậc tai to mặt lớn trong làng vì thua mưu ông đồ. Trong vở kịch này,
Toan Ánh tỏ ra thành công hơn trong diễn tả ngôn ngữ, lời nói của các nhân vật, khéo léo
dẫn dắt câu chuyện đến một kết thúc bất ngờ như kiểu truyện cười dân gian, gây hứng thú
cho người đọc. Vở kịch cuối cùng là vở Bức tranh yêu đăng trên Tao Đàn số IX, X và XI.
Đây cũng là một vở kịch vui ba hồi xoay quanh câu chuyện tình yêu giữa Hạnh – Thủy
và Nhật. Câu chuyện dàn trải, ít kịch tính và rườm rà về những chi tiết thừa. Tuy nhiên về
kết cấu thì vở kịch này khác 2 vở trước ở chỗ có thêm một đoạn Dạo đầu trước khi vào
hồi thứ nhất. Đây là một vở hài kịch mà tính kịch loãng nhất, phải chăng tác giả nên viết
dưới dạng một truyện ngắn thì khả thủ hơn.
Ngoài Toan Ánh thì Vũ Trọng Phụng cũng có đăng một vở kịch trên Tao Đàn, vở
Phân bua. Đây là một vở hài kịch, đăng lần đầu trên Tao Đàn số IV, sau đó ở Tao Đàn số
V đăng lại có bổ sung do lần đăng ở số IV thợ sắp chữ “sắp lộn một bát chữ, rất khó cải
chính”. Vở hài kịch xoay quanh câu chuyện nhà ông bà đốc. Vợ chồng con ông bà đốc
cãi nhau. Ông đốc bênh dâu mắng con trai, bà đốc bênh con trai mắng con dâu. Chung
quy câu chuyện cũng là do đôi vợ chồng trẻ ghen tuông mà thành. Vở kịch kết thúc khi
mọi chuyện được làm sáng tỏ. Nguyễn Công Hoan cũng có một vở kịch đăng liên tiếp
trên hai số Truyền Bá 51, 52 ra ngày 1 và 8/10/1942 nhan đề Tấm lòng vàng được chuyển
thể từ tiểu thuyết cùng tên đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 8 năm 1937.
2.1.4 Lý luận, phê bình, khảo cứu, ngôn ngữ
71
Đây là một thể loại rất phát triển và có số lượng các bài viết vô cùng phong phú,
đa dạng. Hầu hết những tác phẩm thuộc thể loại phê bình khảo cứu đều xuất bản thành
sách hoặc đăng trên Tạp chí Tao Đàn. Các nhà văn trong nhóm Tân Dân đã bàn đến
những vấn đề cốt tử nhất của học thuật nước nhà và các vấn đề mà họ đặt ra cho đến ngày
nay vẫn còn nguyên ý nghĩa.
Trước hết đó là vấn đề ngôn ngữ. Bàn đến vấn đề ngôn ngữ không chỉ vì nó là chất
liệu của văn học, báo chí mà nó còn là hồn cốt của dân tộc, ảnh hưởng lâu dài đến sự phát
triển của văn hóa, giáo dục và học thuật nước nhà. Hoài Thanh trên Tao Đàn số V đã viết
bài Tiếng Nam phải giữ tinh thần của tiếng Nam với chủ ý rằng tiếng Nam cho dù được
ghi âm bằng chữ Tây, hay chữ Nho thì vẫn phải giữ được hồn cốt của lối diễn đạt Việt,
không nên bắt chước lối diễn đạt của người Tây hay người Tàu vì nó không thành thực,
nó không phải là hồn Việt. Tuy nhiên ông cũng cho rằng cần tích cực học cách diễn đạt
của Tây phương để làm cho ngôn ngữ dân tộc phát triển nhưng không được thái quá. Cụ
thể hơn Hoài Thanh, Nguyễn Triệu Luật tập trung vào một vấn đề vô cùng thiết thực là
“điển chế văn tự” tức muốn có một quy tắc chung cho sử dụng chữ viết cả ba miền. Hàng
loạt các bài viết của Nguyễn Triệu Luật đăng liên tiếp trên Tao Đàn các số II, IV, VI, VII,
XI, XII, XIII bàn luận rất sâu sắc và cụ thể về cách điển chế, mẹo luật sử dụng tiếng Việt,
cải cách chữ quốc ngữ. Cùng Nguyễn Triệu Luật tác giả Tảo Trang cũng có hai bài viết
sinh động về vấn đề chữ viết là Để đi tới một bộ từ điển Việt Nam hoàn toàn: Bổ khuyết
vào tập Việt Nam tự điển do hội Khai trí tiến đức khởi thảo và bài Những chỗ thiếu sót
trong Việt Nam tự điển (cùng đăng trên Tao Đàn số 12). Trên Tao Đàn số V nhà văn Từ
Ngọc cũng có bài phân biệt cách viết Dòng hay Giòng. Trên Tao Đàn số XII còn có bài
Cho được thống nhất ngôn ngữ và văn tự nước nhà không đề rõ tên tác giả. Trên Tao
Đàn số XI có bài Một ý kiến về cải cách văn tự nước nhà: tước bỏ cái gạch nối liền của
Kinh Dinh – vấn đề mà vào ngày nay giới ngôn ngữ học cả trong và ngoài nước vẫn đang
còn tranh cãi nên để hay nên bỏ. Trên Tao Đàn số VIII có bài viết chi tiết của tác giả
Nguyễn Đình về Luật Ngã – Hỏi trong viết tiếng Việt.
72
Sau vấn đề ngôn ngữ các nhà văn trong nhóm Tân Dân đặc biệt quan tâm đến việc
xây dựng nền văn chương nghệ thuật, văn hóa và tư tưởng cho Việt Nam. Các vấn đề lí
luận và tư tưởng quan trọng nhất của văn chương nghệ thuật đều được các nhà văn thảo
luận trên một không khí dân chủ với những ý kiến sâu sắc. Hoạt động phê bình văn học
cũng được chú trọng, các gương mặt văn học đương thời đã được phê bình, đánh giá khá
xác đáng và kịp thời. Về gây dựng nền văn hóa có thể kể đến bài viết Tán thành sự gây
dựng văn hóa Việt Nam của Bùi Công Trừng trên Tao Đàn số II, bài Làm sao mà gây
dựng được một nền văn hóa riêng cho dân tộc Việt Nam?, bài Quốc túy của Lưu Trọng
Lư trên Tao Đàn số IV. Về văn chương nghệ thuật có thể kể đến những bài viết của Hoài
Thanh (Thành thực và tự do trong văn chương, Thế nào là nội dung và hình thức một tác
phẩm văn chương?, Ý nghĩa và công dụng của văn chương), Lan Khai (Tính cách Việt
Nam trong văn chương, Thiên chức của văn sĩ Việt Nam, Một quan niệm về văn chương,
Gửi một bạn trẻ theo đuổi nghề viết văn), Hải Triều (Đi tới chủ nghĩa tả thực trong văn
chương: Những khuynh hướng trong tiểu thuyết), Hoa Bằng (Mấy cái lầm trên trang văn
học Việt Nam), Lưu Trọng Lư (Con đường riêng của trí thức, Một nền văn chương Việt
Nam), Phan Khôi (Vận ngữ với thơ ca, Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn
học), Thiều Quang (Nghệ thuật với văn hóa), Tô Vệ (Văn chương dân chúng), Trương
Tửu (Văn chương Việt Nam hiện đại – tổng luận, Luân lý tư sản và ảnh hưởng của nó
trong văn chương Việt Nam hiện đại), Vũ Ngọc Phan (Ba loại văn, Thi sĩ Trung Nam,
Nhà văn Việt Nam hiện đại), 2 số Tao Đàn đặc biệt về Vũ Trọng Phụng và Tản Đà... Sau
văn chương nghệ thuật, văn hóa và tư tưởng thì lịch sử và triết học cũng là vấn đề thu hút
sự quan tâm của nhiều cây bút trong nhóm Tân Dân và được bàn bạc một cách sâu sắc, có
hệ thống. Nổi bật trong vấn đề lịch sử là các nhà văn kịch liệt lên án quyển An Nam chí
lược của Lê Tắc, cho rằng đây là một quyển sử nhục nhã của một tên bán nước. Các vấn
đề khác: Nếu Ngô Tất Tố đặt vấn đề Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà
Thục (Tao Đàn số III) thì Nguyễn Văn Tố đặt hẳn một vấn đề to tát hơn Đã đến ngày viết
quyển Nam sử chưa (Tao Đàn số I). Tân Dân cũng chú trọng xuất bản nhiều loại sách về
các danh nhân lịch sử mà cây bút chủ lực ở thể loại này là Trúc Khê Ngô Văn Triện với
73
các tác phẩm viết về Trần Thủ Độ, Bùi Huy Bích, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát... Phan
Trần Chúc thì viết sách về Danh nhân Việt Nam qua các triều đại . Về triết học thì vấn đề
được bàn luận nhiều là những tư tưởng của Khổng Tử mà trọng tâm tranh luận là tư
tưởng của Khổng Tử là duy vật hay duy tâm (Bùi Công Trừng, Ngô Văn Triện, Phan
Khôi); triết học phương Tây được tác giả Lê Chí Thiệp giới thiệu một cách hệ thống về
Triết học Bergson.
2.1.5 Các thể loại khác
Ngoài tiểu thuyết, truyện ngắn, lý luận, phê bình khảo cứu... thì các thể loại khác
cũng được các nhà văn trong nhóm Tân Dân quan tâm nhưng có số lượng tác phẩm ít. Ở
đây chúng tôi chỉ xin điểm qua mà không đi vào phân tích. Trước hết chúng tôi muốn nói
tới những bài viết ngắn đăng chủ yếu trên báo Ích Hữu dưới dạng ký: ký chân dung (với
tác giả Linh Phượng trong mục Tập ảnh trên Ích Hữu), du ký ( với các tác giả Tinh Vệ,
Hoàng Điệp), bút ký (với tác giả Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân, Phùng Tất Đắc), phóng
sự (với cây bút Yến Đình Nguyễn Đình Lạp)... Trong thể ký đáng chú ý hơn cả là tác giả
Phùng Tất Đắc với tập phiếm luận Trước đèn xuất bản trong Tủ sách Những tác phẩm
hay năm 1939 và quyển du kí của Nguyễn Tuân nhan đề Một chuyến đi xuất bản trong Tủ
sách Tao Đàn năm 1941. Ngọc Giao cũng là một cây bút viết ký và tạp văn khá thành
công. Gần đây nhất, Nguyễn Tuấn Khanh đã cho ra mắt tuyển tập Ký và Tạp văn Ngọc
Giao với tựa đề Quan báo do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, sưu tầm những bài kí và
tạp văn Ngọc Giao viết đăng trên các ấn phẩm của nhà Tân Dân. Về thơ, đây là thể loại
khiêm tốn hơn cả trong di sản văn chương của nhóm Tân Dân. Các bài thở của Lưu
Trọng Lư, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Phạm Hầu... được đăng rải rác trên tạp chí Tao
Đàn, báo Ích Hữu và Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Không có một tập thơ nào được xuất bản.
Tuy nhiên có hai bài thơ đã đi vào lịch sử văn học dân tộc là bài Tống biệt hành của
Thâm Tâm đăng Tiểu Thuyết Thứ Bảy năm 1940, bài Hai sắc hoa Ti-gôn đăng Tiểu
Thuyết Thứ Bảy năm 1937.
74
2.2 Đề tài
Nghiên cứu về một nhóm văn học không thể bỏ qua mảng đề tài. Đề tài là cơ sở
quan trọng để xác định những đặc điểm chung trong quan niệm nghệ thuật, thế giới quan
của các nhà văn trong nhóm. Trong phần này chúng tôi sẽ tìm hiểu cách lựa chọn và xử lí
đề tài của các nhà văn nhằm tìm ra những điểm tương đồng cũng như dị biệt giữa các nhà
văn trong nhóm, để thấy được sự đa dạng về phong cách và khuynh hướng sáng tác trong
nhóm Tân Dân, cũng như những đóng góp của họ. Ở mỗi mảng đề tài chúng tôi sẽ đưa ra
được chân dung của nhà văn tiêu biểu nhất. Chúng tôi khảo sát sáng tác của nhóm Tân
Dân dựa trên các mảng đề tài dưới đây.
2.2.1 Hôn nhân, gia đình và tình yêu đôi lứa
Đây là đề tài phổ biến được hầu hết các nhà văn trong nhóm Tân Dân tập trung
khai thác. Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến kịch, thơ... thể loại nào cũng hướng về các đề
tài hôn nhân, gia đình và tình yêu đôi lứa với những cách tiếp cận khác nhau.
Trước hết, hôn nhân, gia đình được nhìn nhận như là sự đấu tranh giữa cũ và mới,
những tư tưởng tiến bộ và những quan niệm lạc hậu, cổ hủ mà ở đó sự thua thiệt bao giờ
cũng thuộc về người phụ nữ. Chúng tôi xin được điểm qua những tác phẩm tiêu biểu nhất
viết về chủ đề này. Trước tiên cần nhắc đến tiểu thuyết Cô giáo Minh, tác phẩm đã phơi
bày sự mâu thuẫn giữa mẹ chồng – đại diện cho cái cũ, nếp sống cũ, với Minh – người
thuộc lớp mới dẫn đến những bi kịch trong gia đình mà Minh là người phải chịu thiệt
thòi; cũng cùng chủ đề này Nguyễn Công Hoan còn có tiểu thuyết Nợ nần kể về cuộc đời
bà Thuyết, một người vợ hiền, dâu thảo, một người mẹ rất mực thương con song phải
chịu biết bao cay đắng, khổ nhục. Bà lấy phải người chồng suốt ngày cờ bạc, rượu chè,
thuốc phiện sau còn lấy lẽ. Hắn ta không những ăn cắp tiền của vợ mà còn đánh đập vợ,
cho đến một ngày hắn tự tử để lại cho vợ đứa con thơ. Bà Thuyết sớm hôm tần tảo nuôi
con nhưng thằng con lại giống hệt tính ông bố, cũng lao vào con đường rượu chè, cờ bạc,
gái điếm. Bà Thuyết cuối cùng chết vì bệnh tả mà không có con cái bên cạnh. Ngoài hai
75
tiểu thuyết trên, ở thể loại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan cũng có nhiều tác phẩm viết
về chủ đề gia đình trong đó chủ yếu đả kích sự ăn ở bất hiếu của con cái đối với cha mẹ
(Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ), vạch trần thủ đoạn đê tiện của những
ông chồng dùng thân xác vợ để làm đường tiến thân (Xuất giá tòng phu)... Cùng mạch về
chủ đề gia đình mà trong đó những người phụ nữ là nạn nhân của những nếp sống cũ, lạc
hậu có thể kể đến tiểu thuyết Khói hương của Từ Ngọc. Tiểu thuyết Khói hương thông
qua số phận của Thủy và gia đình bà Tuần đã lên án gia đình quan lại phong kiến đề cao
vấn đề người nối dõi mà hắt hủi những người phụ nữ kém may mắn về đường con cái,
đồng thời cũng lên án sự áp đặt nghiệt ngã chuyện hôn nhân lên con cái mà không quan
tâm tới tình yêu thực sự của họ. Kết thúc tác phẩm là cái chết của Thủy và sự ra đi đến
một chân trời mới của Minh – chồng Thủy, con trai bà Tuần, sang thế giới Âu Mỹ quyết
theo những điều văn minh và đoạn tuyệt với những thành kiến cổ hủ. Một tác phẩm khác
rất tiêu biểu cho vấn đề giải phóng phụ nữ khỏi những áp bức gia đình chính là tiểu
thuyết Trở vỏ lửa ra của Phan Khôi đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 41. Đây là
cuốn tiểu thuyết đầu tay của Phan Khôi nhưng ngay khi ra đời đã thu hút được sự chú ý
của độc giả do khả năng am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật, lối kể chuyện mạch lạc và ngôn
ngữ mang đậm dấu ấn địa phương (vùng Quy Nhơn) gây hấp dẫn với người đọc. Thông
qua số phận của nhân vật Nghi, một cô gái thông minh, giàu nghị lực và có một ý chí
mạnh mẽ nhưng cuối cùng đành bỏ lại tất cả khi gần tới cái đích cuối cùng bằng một cái
chết thương tâm. “Trở vỏ lửa ra là tiếng kêu uất ức của người phụ nữ bị câu thúc trong hệ
tư tưởng gia trưởng, quyền huynh thế phụ, không được tự do lo liệu lấy cuộc đời mình”
[3, tr.875].
Tuy nhiên, không phải các nhà văn trong nhóm Tân Dân đều nhìn nhận các mối
quan hệ trong gia đình theo chiều hướng tha hóa hay tiêu cực. Rất nhiều tác phẩm đã viết
về gia đình, hôn nhân và tình yêu bằng sự ngợi ca đức hi sinh của cá nhân cho gia đình.
Đó là trường hợp các tiểu thuyết Tà áo lụa của Thanh Châu, Cô Nhung của Lưu Trọng
Lư, Người anh cả, Tôi là mẹ, Một người cha... của Lê Văn Trương, Cô Dung của Lan
76
Khai và Dứt tình của Vũ Trọng Phụng. Trong tiểu thuyết Tà áo lụa dù Phương vẫn tha
thiết yêu Bình nhưng Bình không thể yêu lại Phương vì cô đã có chồng. Kết thúc câu
chuyện là cảnh Phương chăm sóc đứa con bên nôi, nàng dựa vào đứa con để quên đi tình
yêu với Bình để giữ hạnh phúc gia đình và dần quen đi với sự vắng mặt của Quý, chồng
nàng. Cô Nhung trong tiểu thuyết Cô Nhung của văn sĩ Lưu Trọng Lư đã tự nguyện chôn
nén tình yêu ban đầu của mình với Đông để sống với bổn phận và nghĩa vụ của một
người vợ với chồng. Nhung đã thay đổi từ một cô gái ngây thơ, lãng mạn để trở thành
một người vợ trang nghiêm. Nhân vật Dung trong Cô Dung của Lan Khai cũng là một sự
hi sinh hạnh phúc đầy cao cả của riêng mình (từ chối tình yêu với Kính) để giữ trọn đạo
vợ chồng (mặc dù chồng nàng, Nhuận, đã chết) và làm tròn trách nhiệm của một người
mẹ với các con của mình. Tiểu thuyết Dứt tình của Vũ Trọng Phụng cũng đề cập đến một
sự đoạn tuyệt của người phụ nữ với tình yêu để quay trở về với gia đình của mình. Rõ nét
hơn cả là những tiểu thuyết của Lê Văn Trương đã đề cập đến gia đình như là một điều
vô cùng thiêng liêng và các cá nhân phải từ bỏ mọi quyền tự do để hướng về gia đình,
phải hi sinh cho gia đình ấy và những cá nhân đó đều là anh hùng. Tiểu thuyết Người anh
cả ngợi ca sự quên mình của Vượng. Bố mẹ mất sớm để lại cho Vượng ba người em nhỏ
dại là Đạt, Thịnh và Nhàn. Chàng đã hi sinh con đường học hành để đi làm sớm kiếm tiền
lo cho các em chu tất, đàng hoàng. Vượng hi sinh từ thói quen hút thuốc đã thành nghiện,
nhịn ăn sáng, không dám góp tiền ăn chơi hay hát cô đầu với anh em bè bạn để tiết kiệm
tiền mua quần áo cho hai em, hi sinh cả tình yêu của mình dành cho em trai...Có thể nói
Vượng đã làm quá cả trách nhiệm của một người cha, một người mẹ đối với những đứa
con. Cuối cùng Thịnh cũng thành đạt làm quan, Nhàn lấy được chồng cũng làm lên tới
bà huyện. Nhưng hai người em đã vô tâm bỏ lại Vượng trong cô đơn, nghèo đói, hắt hủi
Vượng vì anh yêu một gái cô đầu. Vượng quan niệm đã là người anh cả trong gia đình thì
phải quên đi bản thân mình, chàng nói: “Tôi cho trong gia đình, ai cũng có thể nghĩ đến
mình, duy có người anh cả là không thể” [60, tr.745] và cả cuộc đời chàng thực sự đã
thực hiện theo đúng điều đó. Khi bị các em hờ hững, bỏ rơi, Huệ (vợ Vượng) trách cứ thì
chàng mắng vợ: “Mình nên nhớ, đã là kẻ bề trên thì chỉ biết có sự trông xuống mà chẳng
77
cần đến sự kẻ dưới trông lên” nghĩa là chàng không cần các em phải đền đáp lại sự hi
sinh của chàng dành cho họ. Tác phẩm kết thúc bằng việc vợ chồng Vượng chuyển vào
Sài Gòn sống mà không hề có một chút trách cứ, oán hận nào từ chàng. Việc chàng ra đi
cũng không hẳn là vì cuộc sống riêng của vợ chồng chàng mà là sự hi sinh lần cuối cùng
để không làm tổn hại đến thanh danh các em do việc chàng lấy cô đầu làm vợ. Hai tiểu
thuyết Tôi là mẹ và Một người cha (được Lê Văn Trương đặt là Tiểu thuyết xây dựng gia
đình) đều là sự ca ngợi sự hi sinh cao độ của một người vợ, người mẹ, một người chồng,
người cha tất cả vì sự yên ấm và tồn tại của gia đình. Vân (Tôi là mẹ) và Vũ Đại (Một
người cha) đều quên đi sự hạnh phúc riêng của bản thân để vì hạnh phúc của con. Vì con
Vân từ chối tình yêu chân thành và say đắm của y sĩ Tùng mặc dù hoàn cảnh của nàng vô
cùng khó khăn, chồng thì chết để lại cho nàng một nách ba đứa con thơ dại nơi đất khách
quê người. Vì con mà Vũ Đại quên đi sự phản bội của người vợ đã lừa dối mình để dan
díu, cặp tình nhân với chính người bạn mình. Vân và Vũ Đại đều là biểu tượng cao cả của
tình mẫu tử, phụ tử trong gia đình. Có thể nói Vượng, Nhung, Dung, Đại, Vân... đều là
những hình mẫu tiêu biểu cho sự hi sinh quyền lợi, hạnh phúc cá nhân để giữ gìn và bảo
vệ hạnh phúc gia đình, làm tròn trách nhiệm và bổn phận mà mình được trao.
Đề tài tình yêu trong sáng tác văn chương đã trở thành kinh điển. Các nhà văn
trong nhóm Tân Dân cũng để lại một số lượng tác phẩm rất lớn viết về tài này. Đầu tiên
chúng tôi xin nhắc đến những sáng tác của Lan Khai về đề tài tình yêu vì ông đã mang lại
cho văn học một không khí mới lạ với những con người, không gian, cảnh vật khác lạ nơi
vùng cao Bắc Việt. Những tác phẩm viết về tình yêu đôi lứa của Lan Khai hướng đến
những nhân vật là đồng bào dân tộc miền núi với tất cả những nét hồn nhiên, chất phác và
mãnh liệt thực sự đã góp phần làm phong phú cho văn chương, nó thoát ra khỏi những
mẫu nhân vật là những nàng tiểu thư lá ngọc cành vàng, những chàng công tử hay văn sĩ
nơi thị thành hoa lệ. Chúng tôi xin nhắc đến bộ ba tác phẩm Mọi rợ, Tiếng gọi nơi ràng
thẳm và Hồng Thầu. Trước tiên chúng tôi chú ý đến tiểu thuyết Tiếng gọi nơi rừng thẳm
đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 45 năm 1939. Đây là một câu chuyện tình yêu
78
tay ba đẹp và lãng mạn giữa một cô gái người Mán với một chàng trai người Kinh và một
chàng trai người Thổ: Peng Lang – Hoài Anh – Cang Ngrào. Cang Ngrào yêu Peng Lang
bằng một tình yêu mãnh liệt nhưng lại giản đơn và thô mộc như chính tâm hồn của
chàng. Trong sự đau đớn tột cùng vì mất Peng Lang chàng Cang Ngrào chỉ biết hát lên
những câu hát đầy mộc mạc:
Anh yêu em như chén rượu đầy,
Nhưng, chén rượu mà nhơ bẩn, anh quyết đổ ngay chẳng đoái!
Cần tầu lá, lên rừng tìm cây chuối,
Lá rách rồi, còn lấy chuối làm chi?
Có tiếc, là tiếc những lời hẹn ước mọi khi,
Chỉ vì em, mà nó đã theo dòng nước trôi đi đàng nào!...
Ngược lại Hoài Anh đã chiếm được tình yêu của Peng Lang bằng những cử chỉ và
lời nói lãng mạn, những điều lạ lẫm nơi phồn hoa đô hội mà chàng mang đến nơi động
người Mán. Hoài Anh đã suy nghĩ những điều sau về Peng Lang: “ Mà Peng Lang chẳng
qua cũng chỉ là một cô gái Mán. Cũng như cảnh vật mà nơi cô sinh trưởng, Peng Lang
tính tình cổ lỗ, mọi rợ quá, thực thà đến nỗi thành ngơ ngẩn. Cô có cái tâm hồn của cây
sậy, chỉ một con chim sâu bay vụt qua cũng đủ làm cho rung động lên ngay. Cô lại có cái
vui của con khướu, tuy nhởn nhơ cười cợt nhưng hồ ai lại gần là bay vụt đi xa...” [50,
tr.127]. Đó cũng chính là những nét tính cách riêng biệt trong nữ nhân vật riêng của Lan
Khai ta khó mà có thể tìm thấy ở các sáng tác của các nhà văn khác đương thời. Chính do
sự ngây thơ, cả tin Peng Lang đã ngả vào vòng tay Hoài Anh mà quên đi Cang Ngrào
nhưng đến khi sống thực sự trong cái không gian đầy sự mới lạ, tiện nghi nơi thành thị
Peng Lang chợt nhận ra rằng nàng không thuộc về thế giới đó. Sau đêm tân hôn Peng
Lang càng thấm thía hơn hết cái tình của mình với quê hương bản quán. “Đã đành nàng
yêu Hoài Anh lắm nhưng bảo nàng bỏ cảnh Sơn lâm thì nàng thực không thể sao bỏ
79
được. Những lời êm ái dù đằm thắm đến đâu cũng chẳng bằng tiếng con vàng anh hót
giữa khoảng trời yên lặng. Những sự nâng niu êm ái đến bậc nào cũng vẫn kém làn gió
xuân êm dịu thoáng qua trên khuôn mặt vuốt ve hai vò má hồng hồng... và, miếng cao
lương sao có thể thay hẳn được những giờ mơ mộng bên bờ xuối xanh”. Peng Lang đã
quyết định rời xa Hoài Anh để trở về với làng bản. Kết thúc câu chuyện là cảnh chiếc xe
ô tô bỏ lại hai cha con Peng Lang nơi đầu bản rồi chạy tiếp đi “cuốn theo một cơn lốc bụi
đường, cuốn theo cả những cái ham muốn sai lầm của cô thôn nữ chất phác ngây thơ”.
Câu chuyện tình yêu tay ba kết thúc không theo lối có hậu, Cang Ngrào chết trong một tai
nạn, Peng Lang bỏ Hoài Anh tìm về chốn động Mán nhưng điều để lại trong tâm trí độc
giả là những suy nghĩ, tình cảm mộc mạc thơ ngây, những nét tính cách có phần ngây
ngô, nhẹ dạ trong tình yêu của một lớp người nơi vùng cao. Vũ Ngọc Phan cũng nhận xét
tình yêu trong Tiếng gọi nơi rừng thẳm là chuyện tình của hai tâm hồn đều chứa chất tình
yêu nhưng “một đằng phức tạp” (tức Hoài Anh) còn một đằng “vô cùng chất phác”
(Peng Lang và tình yêu của Cang Ngrào dành cho Peng Lang). Cùng năm 1939 Lan Khai
cho xuất bản truyện vừa Mọi rợ (đến 1940 in lại đổi thành Dấu ngựa trên sương) đăng
làm nhiều kì trên Tao Đàn (từ số VI đến số XIII). Mọi rợ là câu chuyện tình yêu mãnh
liệt nhưng đầy tội lỗi giữa Tum Điang và Tsi Na. Tum Điang và Tsi Na là hai anh em
ruột, ông bố bị tai nạn chết đột ngột hai em em phải tự xoay sở kiếm sống. Để lo tang cho
bố hai người mắc nợ Tô Chố. Trong một lần lên nương, chứng kiến cảnh hoan lạc giữa
hai con khỉ, do thiếu hiểu biết và sống bản năng Tum Điang và Tsi Na đã phạm tội loạn
luân. Sau buổi đó Tum Điang nhìn Tsi Na như một người đàn bà, người tình mà không
phải là em gái. Tuy nhiên Tô Chố lại yêu Tsi Na và hắn dùng món tiền cho nợ để ép Tum
Điang gả Tsi Na gạt nợ cho hắn. Mặc dù phản ứng dữ dội để bảo vệ tình yêu, không cho
Tsi Na rơi vào tay Tô Chố, thậm chí Tum Điang dám đánh lại cả Tô Chố nhưng với sự
ngây ngô, sợ hãi bị đi tù cuối cùng Tum Điang cũng phải nhờ người đánh tiếng gả Tsi Na
cho Tô Chố. Kết thúc câu chuyện là việc Tum Điang đi qua liếc mắt vào cửa buồng Tsi
Na và khẽ thở dài: “Ừ, thì cũng đành phải bằng lòng vậy chứ sao!”. Đây là một câu
chuyện tình yêu đầy bản năng, tồn tại trong những cộng đồng còn hoang sơ, nơi văn minh
80
chưa soi ánh sáng tới, mãnh liệt, ngây thơ nhưng đầy tội lỗi và chỉ tồn tại trong thế giới
mọi rợ. Tác phẩm cuối cùng mà chúng tôi đề cập chính là Hồng Thầu viết về chuyện tình
yêu kì lạ của 2 chàng trai người Kinh là Khôi và Cơ, lạc vào thế giới xa lạ, đầy bí hiểm
và bất ngờ của người Dao. Ở đó “các cô thiếu nữ tự nhiên ríu rít lên như một đàn chim.
Mắt họ sáng ngời, má họ ửng đỏ, miệng họ tươi cười”, “tuy áo chàm chân không mà tươi
đẹp lạ lùng”. Những cô gái ở động Dao xing đẹp đó đến với tình yêu một cách hết sức tự
nhiên và lạ lùng. Họ sẽ cùng vào tắm chung với những người đàn ông, sau đó họ mang ra
những chiếc ghế, người đàn ông nào chọn ghế của họ ngồi sẽ là chồng họ. Do không biết
phong tục Khôi và Cơ đã lấy vợ trong một tình huống trớ trêu như thế. Sống một thời
gian trong động người Dao, Khôi và Cơ đã có con nhưng họ vẫn quyết tâm tìm mọi cách
trốn khỏi nơi này. Và họ đã lập mưu thành công, trốn thoát được sự canh phòng hết sức
cẩn mật của dân làng. Tuy nhiên, đó lại là hành động làm cho Khôi ân hận suốt cuộc đời
anh. Anh đâu biết rằng người con gái Dao đó đã yêu anh và chết vì anh. Hình tượng
người phụ nữ Dao chờ chồng đến chết được Lan Khai khắc họa như một bức tượng vọng
phu qua lời kể của Khôi: “Trong khi ấy nhà tôi cứ ngày ngày ôm con lên đồi cao để
ngóng chồng như hòn đá vọng phu!”. Nàng cứ ngóng đợi Khôi như thế đến gần 1 năm thì
nàng treo cổ tự vẫn trên cái gò mà ngày ngày bế con đứng ngóng chồng, đứa con thì nàng
đã bóp chết và vùi ở gần đó. Tình yêu của người miền ngược đúng như sau này Khôi
nhận ra: “Yêu ghét, họ đều khác người dưới ra nhiều. Khác ở chỗ dù yêu hay ghét họ đều
đem tình cảm lên đến tột bực”. Và đó cũng chính là một thứ tình yêu lạ, mãnh liệt mà
Lan Khai đóng góp vào di sản văn chương viết về đề tài tình yêu.
Ngoài trường hợp Lan Khai viết về tình yêu nơi thế giới rừng già thì các nhà văn
khác trong nhóm Tân Dân đều viết về tình yêu của những con người quen thuộc, những
tầng lớp quen thuộc ở nông thôn hay thành thị rất phổ biến trong các sáng tác đương thời.
Trước hết có thể kể đền nhà văn Ngọc Giao với hai tập truyện Phấn hương và Cô gái
làng Sơn Hạ và hàng chục truyện ngắn đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Cô gái làng Sơn
Hạ kể về chuyện tình yêu giữa Vĩnh – một chàng phu mỏ đẹp trai, hát hay và Hồ - một
81
người con gái tài sắc nhưng lại ở làng Sơn Hạ, cái làng nổi tiếng vì “trai thì vừa làm nghề
chài lưới, vừa trộm cướp, gái thì đĩ thõa”. Cả hai người vì tình yêu say đắm đã bất chấp
tất cả để vượt qua những định kiến từ muôn đời. Vĩnh đã bỏ hẳn sang làng Sơn Hạ ở rể.
Trong hơn một năm Vĩnh bỏ đi ông bà đồ (bố mẹ Vĩnh) hối hận và buồn rầu, ông đồ đổ
bệnh đã cho viết thư gọi Vĩnh về và cho phép cưới Hồi. Đám cưới đã diễn ra một cách
trang trọng, hạnh phúc. Câu chuyện tình yêu của Vĩnh và Hồi là sự cổ vũ cho giới trẻ cần
phải biết vượt lên trên những định kiến xã hội thì mới có thể cùng đi đến bến bờ hạnh
phúc. Truyện Lucie kể về mối tình say đắm nhưng đầy nước mặt giữa Hoài – một chàng
trai trẻ đang dang ở con đường học hành và Lucie – một người đàn bà ngoại quốc, chồng
đã chết và có một đứa con gái. Hoài yêu Lucie bằng tất cả tấm lòng chân thành và say
đắm nhưng Lucie luôn đối xử với Hoài bằng một tình cảm rất vừa phải, không đi quá tình
bạn. Nhưng hoàn cảnh Lucie ngày càng trở nên túng bấn, sự hi sinh của Hoài dành cho
mẹ con nàng đã làm cho nàng trong một đêm đã phản bội lại người chồng đã mất, đã trao
cho Hoài tình yêu say đắm. Nhưng sau đêm ái ân ngắn ngủi đó Hoài nhận được một bức
thư của Lucie cho biết nàng đã đi tu và gửi đứa con gái ở trại tế bần. Kết bức thư là một
câu chuyện để mở, Lucie viết: “Tôi tin rằng sau này Nana (con gái Lucie) và Hoài sẽ còn
gặp nhau. Ngày ấy, tôi tin chắc Hoài vẫn chưa già”. Truyện Lỗi tình kể về mối tình đơn
phương của Trinh với Minh – quản lí một ga xép vắng khách. Minh mải chạy theo bóng
hình của mỹ nhân trên những chuyến tàu mà không để ý đến Trinh. Đến ngày Trinh đi
lấy chồng thì cả hai chợt nhận ra không thể xa nhau nhưng đã quá muộn. Câu chuyện kết
thúc bằng những giọt nước mắt cay đắng của Trinh nói với Minh và hình ảnh nàng chạy
về căn lều tồi tàn, tối om như tương lại của nàng. Truyện Những đêm sương kể về mối
tình say đắm nhưng đau đớn giữa Nghĩa và Tố Lan. Tố Lan lấy được chồng giàu có
nhưng vì nàng không có con nên bị chồng, bố mẹ chồng rẻ rúm. Tuy nhiên nguyên nhân
lại do chồng nàng “bất lực, bệnh tật liên miên, lại nghiện hút” và dòng họ nhà chồng cũng
đều hiếm muộn. Để cứu vãn gia đình, cứu vãn số phận đáng thương Tố Lan buộc tìm mọi
cách phải có con. Và Nghĩa là sự lựa chọn để cứu cánh cho đời nàng nhưng trong quá
trình đi lại hai người đã yêu nhau thật lòng. Sau đó nàng có mang và sinh con thì Nghĩa
82
có việc phải đi xa ba năm. Ba năm sau chàng quay lại thì biết tin Tố Lan đã chết, “chết
một cách khả nghi”. Tin sét đánh đó làm Nghĩa rụng rời, chàng chỉ biết gọi thầm tên
người yêu trong trái tim tê tái... Có thể nói hầu hết những truyện viết về đề tài tình yêu
của Ngọc Giao đều gợi nỗi thương cảm từ phía người đọc đối với thân phận người phụ
nữ. Họ bị bủa vây bởi định kiến, truyền thống lễ giáo và đạo đức mà không dám vượt qua
để đi đến một tình yêu tự do, để tìm lấy hạnh phúc cho riêng mình. Tập truyện ngắn
Thềm nhà cũ của Nguyễn Xuân Huy cũng có rất nhiều truyện viết về tình yêu thơ mộng,
lãng mạn, e ấp nhưng thường là sự lỡ dở như các truyện Lạc bước, Cây đa bến cũ... Tập
truyện ngắn Trong bóng tối của Thanh Châu cũng có nhiều truyện cùng chủ đề chẳng hạn
như Bó hoa quá đẹp, Rồi Xuyến đi qua, Bỏ vợ... Vũ Bằng cũng viết một tiểu thuyết về đề
tài tình yêu đó là cuốn Truyện hai người kể về tình yêu lầm lạc của chàng trẻ tuổi tên Hải
với một ả làm tiền tên Trâm. Và ở đề tài tình yêu sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến tiểu
thuyết vang danh một thời của Nguyễn Công Hoan, cuốn Tắt lửa lòng in trên Phổ Thông
Bán Nguyệt San số đầu tiên ra vào 12/1936. Đó là câu chuyện tình yêu bi sầu giữa Lan và
Điệp mà kết thúc là cái chết của Lan và nỗi đau đớn khôn cùng của Điệp. Đây là một câu
chuyện giàu kịch tính và rất hấp dẫn, đương thời đã được chuyển thể thành sân khấu cải
lương biểu diễn khắp trong Nam ngoài Bắc với các tên Lan và Điệp, Hoa rơi cửa Phật
lấy đi nước mắt của biết bao tầng lớp thị dân và công chúng.
Tóm lại, ở đề tài tình yêu, hôn nhân và gia đình các nhà văn trong nhóm Tân Dân
đã khai thác ở tất cả các khía cạnh phức tạp và đa dạng của nó. Vấn đề tình yêu, hôn
nhân và gia đình vừa được nhìn nhận trong sự tha hóa, biến chất nhưng cũng được nhìn
nhận như là những điều thiêng liêng, tốt đẹp mà các thành viên cần hi sinh quyền lợi cá
nhân để bảo vệ và giữ gìn. Có lẽ đó là sự khác biệt lớn giữa cách khai thác đề tài hôn
nhân gia đình giữa các nhà văn trong Tân Dân và Tự lực văn đoàn – nhóm văn sĩ có xu
hướng tẩy chay và đoạn tuyệt với gia đình truyền thống.
2.2.2 Xã hội
83
Viết về đề tài xã hội các nhà văn trong nhóm Tân Dân thực sự là một lực lượng
hùng hậu và để lại rất nhiều tác phẩm lớn. Các cây bút viết nhiều nhất về đề tài xã hội là
Nguyễn Công Hoan, Ngọc Giao, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng và kể cả Lan
Khai, Lưu Trọng Lư... Dưới đây chúng tôi xin điểm những vấn đề xã hội nổi bật nhất thể
hiện trong sáng tác của các nhà văn.
Trước hết đó là mâu thuẫn giàu nghèo, sự phân chia giai cấp trong xã hội. Điều
này thể hiện rất rõ nét trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan ở cả thể tiểu thuyết và
truyện ngắn. Thế giới nhân vật của ông bao giờ cũng phân chia ra làm hai giai cấp giàu
và nghèo, hai loại người đáng khinh và đáng thương. Ở nông thôn là mâu thuẫn giữa
nông dân với địa chủ (Bước đường cùng, Ông chủ), là sự bóp nặn ức hiếp của tầng lớp
quan lại với dân (Thật là phúc, Hai thằng khốn nạn, Chiếc quan tài III), là sự khốn khổ
khốn nạn của người dân nghèo (Chiếc quan tài I, Tôi nói dối bà thì tôi làm kiếp chó). Ở
thành thị, Nguyễn Công Hoan hướng ngòi bút vào tầng lớp tư sản, những ông phán, bà
phán, tầng lớp ông chủ bà chủ mới lên kênh kiệu, độc ác, gian xảo, vô nhân tính, ngu dốt
bằng việc dựng nên những chân dung châm biếm, hài hước (Ông chủ báo chẳng bằng
lòng, Cái ví ấy của ai, Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Bà chủ mất trộm,
Thằng điên...). Đi cùng với tầng lớp ông chủ bà chủ mới ấy là một đội ngũ những kẻ
khốn khổ khốn nạn: thằng xe, con sen, chị vú, những viên chức cấp thấp, những người ăn
xin... Họ đều là nạn nhân của ông chủ, bà chủ thường xuyên bị đánh đập, chửi bới vô cớ
và hứng chịu mọi sự bất công (Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Phành phạch, Thanh!
Dạ., Tấm giấy bạc một trăm), hoặc vì miếng ăn để sinh tồn mà bất chấp cả hiểm nguy,
tính mạng (Bữa no đòn, Cái vốn để sinh nhai, Thằng ăn cắp), hoặc vì sự tiến thân mà
phải làm những điều trái với lương tâm đạo đức (Xuất giá tòng phu)... Nguyễn Công
Hoan cũng viết nhiều tác phẩm châm biếm thói dâm đãng, lẳng lơ của một lớp đàn bà
mới (Oẳn tà roằn, Samandji, Đàn bà là giống yếu, Một tấm gương sáng)... Có thể nói,
qua những sáng tác của Nguyễn Công Hoan các vấn đề xã hội đương thời được tái hiện
một cách đầy đủ và vô cùng sinh động, hấp dẫn. Từ những vấn đề mang tính bản chất xã
84
hội là mâu thuẫn giai cấp, đến những vấn đề nhỏ hơn như sự tha hóa trong mối quan hệ
giữa người với người và sự tha hóa trong từng con người. Đủ mọi hạng người trong xã
hội đương thời xuất hiện trong những trang viết của Nguyễn Công Hoan, từ những bậc tai
to mặt lớn như ông Nghị, ông Tuần, ông phủ, bậc trí thức như ông chủ báo, các văn sĩ,
các bậc quan phụ mẫu, tới tầng lớp địa chủ, phú nông ở nông thôn, từ anh bần cố nông
đến anh phán, anh ký, anh tham, từ chị nhà quê đói rách đến cô tân thời thành thị, những
tiểu thư lá ngọc cành vàng, từ hạng tôi đòi con ở như con sen, thằng xe, chị vú đến thằng
ăn cắp, phu xe và gái điếm, me Tây...
Khác với Nguyễn Công Hoan, Ngọc Giao cũng viết nhiều về đề tài xã hội nhưng
ông lại chú trọng nhiều tới những thân phận con người côi cút, cô độc trong xã hội. Ông
không có cái nhìn hài hước, châm biếm và đả kích một loại người nào mà ông day dứt
với những số phận bất hạnh của họ, cũng là con người mà sao họ lại khổ đến như vậy. Đó
là người đào hát đã hết thời, người đàn bà góa chồng, người đàn ông bị xã hội ruồng bỏ,
người con gái luống tuổi mà chưa có chồng, một gia đình vì buôn quan tài mà bị đồng
loại xa lánh trong ngày tết, là số phận đáng thương của những cô gái chót xa chân vào
chốn hồng lâu...Ta có thể thấy những điều đó qua các truyện ngắn tiêu biểu của Ngọc
Giao như Mụ Từ Đoan, Người gác đêm, Xóm nghèo ăn tết chó, Ba ngày tết của lão già
bán săng, Đào Châu, Điêu tàn, Gái muộn chồng, Tết cô đầu, Ngày giỗ, Phấn hương...
Ngay đương thời Thượng Sỹ đã nhận xét rằng Ngọc Giao viết văn “truyện nào cũng làm
se lòng người đọc bằng lời văn nhẹ nhàng tả cuộc sống tối tăm, heo hút của những nhân
vật đau khổ vì sự mưu sinh vật lộn hàng ngày” (Lời tựa tập Cô gái làng Sơn Hạ xuất bản
lần 2). Quan sát những sáng tác của Ngọc Giao về đề tài xã hội ta dường như không nhận
thấy sự mâu thuẫn, đối kháng giai cấp như ở Nguyễn Công Hoan mà ta chỉ thấy tấm lòng
thương cảm, tư tưởng nhân đạo của nhà văn dành cho những kiếp người bất hạnh.
Gương mặt thứ ba mà chúng tôi muốn nói đến khi viết về đề tài xã hội trong nhóm
Tân Dân chính là nhà văn Nguyên Hồng. Cùng chung khuynh hướng hiện thực nhưng khi
đề cập đến những vấn đề xã hội Nguyên Hồng rất khác với Nguyễn Công Hoan, Ngọc
85
Giao, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Phan Cự Đệ có một nhận xét rất tinh tế rằng: “Cảm
hứng chủ đạo trong tác phẩm của Nguyên Hồng dường như chưa phải xuất phát chủ yếu
từ sự phẫn nộ, muốn lên án quyết liệt bọn địa chủ, tư sản, quan lại, muốn giải phẫu cái
ung nhọt đang tấy lên trầm trọng của một con bệnh nguy kịch là cái xã hội thực dân
phong kiến đương thời. Cảm hứng chủ đạo của nhà văn dường như bắt nguồn từ một chủ
nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với những lớp người cùng khổ. Ông là một cây bút đôn hậu,
luôn hướng đến cái cao đẹp, trong sáng, niềm tin yêu thắm thiết” (Giáo trình Văn học
Việt Nam 1900 – 1945, tr.454). Ngay đương thời Vũ Ngọc Phan đã nhận xét Nguyên
Hồng “tả những cảnh nghèo, cảnh khổ của mấy hạng người sống ngoài rìa xã hội một
cách bình tĩnh”, đó là người như Chín Huyền, Bảy Hựu... hành nghề ăn cắp, ăn trộm. Về
mặt xã hội họ là những kẻ đáng lên án, là hạng táng tận lương tâm nhưng ẩn đằng sau đó
lại là những tâm hồn đầy nghĩa hiệp, sẵn sàng hi sinh thân mình vì danh dự, tình bạn. Có
lẽ trong văn học Việt Nam, Nguyên Hồng là người đã viết về lớp người ngoài vòng pháp
luật này nhiều hơn cả và cũng là người phát hiện ra ẩn đằng sau những hành động tội ác
kia vẫn là những tâm hồn đáng trọng. Với tập truyện ngắn Bảy Hựu và các tiểu thuyết
Quán nải, Qua những màn tối, Đàn chim non... Nguyên Hồng còn viết nhiều về những
con người khốn khổ trong xã hội như những người nghiện thuốc phiện bị tù, một thày
giáo dạy học lẩn lút trong xóm lao động nghèo, một anh lính Phi tìm hạnh phúc nơi cô
gái điếm, cảnh nghèo khó của những đôi vợ chồng lam lũ vì con mà hi sinh cả mạng
sống... Có thể nói Nguyên Hồng đã “đứng về phía những con người lầm than bị đày đọa,
bị lăng nhục để bênh vực họ và để vạch ra những vết thương xã hội” (Phan Diễm
Phương) nhưng không phải kêu gọi con người hành động để lật đổ sự bất công đòi lại sự
công bằng, hay phơi trần bản chất của những bộ mặt độc ác hoặc cười nhạo, đả kích mà
bằng sự đồng cảm sâu sắc, bằng một tâm hồn đôn hậu. Đây cũng là điểm gặp gỡ giữa
Nguyên Hồng và Ngọc Giao trong khi viết về các vấn đề xã hội.
Ở trên chúng tôi vừa có những khái quát chung nhất về đề tài xã hội thông qua ba
gương mặt nhà văn tiêu biểu. Do giới hạn dung lượng luận văn, tiếp dưới đây chúng tôi
86
chỉ xin điểm những gương mặt văn sĩ khác cũng viết về đề tài xã hội, có những tác phẩm
khá đặc sắc nhưng xét về lượng thì không nhiều như những tác giả trên. Trước hết đó là
Lan Khai và hai cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng của ông: Cô Dung và Lầm Than. Về tiểu
thuyết Cô Dung mặc dù chúng tôi đã xếp vào đề tài gia đình và hôn nhân xong căn cứ
vào mục đích viết tác phẩm và lời Tựa chúng tôi nhận thấy đây cũng đồng thời là một tác
phẩm hướng về các vấn đề xã hội nổi cộm đương thời: giải phóng phụ nữ khỏi gia đình
truyền thống hay không?Cô Dung được Lan Khai thai nghén trong một thời gian khá dài,
từ 1928 đến 1938 mới hoàn thiện và xuất bản. Dựa theo lời Tựa của Thiều Quang thì vào
cuối thập niên hai mươi thế kỉ trước, phong trào phụ nữ tân tiến theo tư tưởng Âu Mỹ
tràn vào Việt Nam và được “một nhóm văn sĩ có thế lực” chủ trương và đứng ra làm
hướng đạo cho phụ nữ Việt Nam đi đến Cá nhân chủ nghĩa mà theo Thiều Quang thực
chất đó là chủ nghĩa vị kỷ, là “đem tinh thần vị kỷ thay vào tâm hồn vị tha thiên cổ của
người đàn bà”. Lan Khai viết Cô Dung là để chống lại tư tưởng này bằng cách dựng lên
một tấm gương phụ nữ Việt Nam thuần khiết, muôn thuở để cho những cô gái nào chạy
theo tư tưởng tân tiến kia phải soi vào mà sửa chữa tâm hồn. Sự thuần túy và muôn thở
của người đàn bà Việt là sự hi sinh bản thân cho gia đình, chồng con, cha mẹ. Đó là thiên
chức thiêng liêng của đàn bà Việt. Thiều Quang đã có những lời ngợi ca hết mực tác
phẩm này, rằng “Tiểu thuyết Cô Dung là đài kỷ niệm “chiến sĩ vô danh” tất cả các thế hệ
phụ nữ Việt Nam trong bao nhiêu đời, đã hi sinh cho sự tồn tại của Tổ quốc”. Cùng năm
1938, Lan Khai cho xuất bản tác phẩm Lầm than do ảnh hưởng phong trào bình dân đang
lên lúc đó. Tiểu thuyết Lầm than ra đời như một nốt nhạc lạ trong bản đàn mang âm
hưởng huyền bí của núi rừng và cổ kính của lịch sử trong sự nghiệp văn chương Lan
Khai. Là một tiểu thuyết nhưng mang đậm tính phóng sự, Lầm than đã “cho chúng ta
thấy rõ cái cuộc đời nặng nhọc, cực khổ, có đủ mọi sự hà hiếp, áp chế” của những người
phu mỏ dưới ách áp bức, bóc lột tàn nhẫn của giới chủ Tây và ta. Đây là một cuốn tiểu
thuyết có giá trị hiện thực cao, một phần đã phản ánh được sự mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân và giới chủ tư sản qua sự phản kháng mạnh mẽ của những người công nhân
dưới hình thức tự phát. Ngoài Lan Khai các cây bút khác trong nhóm Tân Dân như Nam
87
Cao, Vũ Trọng Phụng, Mạnh Phú Tư, Trần Huyền Trân, Vũ Bằng... cũng viết nhiều tác
phẩm về đề tài xã hội như nạn mại dâm, phận làm lẽ, nạn cờ bạc, nạn nghiện thuốc phiện,
kiếp cầm ca kĩ nữ... Các vấn đề mang tính xã hội được các nhà văn tiếp cận dưới nhiều
cách khác nhau nhưng nhìn chung phản ánh khá toàn diện bộ mặt xã hội đương thời với
những vấn đề thời sự nhất.
2.2.3 Người hùng và triết lí hành động
Đây là mảng đề tài riêng của Lê Văn Trương. Ông sáng tạo ra mẫu người hùng
trong văn chương Việt Nam hiện đại dựa trên cơ sở triết lý hành động đó là: Muốn có
hạnh phúc, phải hành động để giành lấy nó. Như chúng tôi đã đề cập trong chương I, Lê
Văn Trương viết rất nhiều nhưng có thể chia làm 3 dòng tiểu thuyết: tiểu thuyết viết về
gia đình, tiểu thuyết viết về “trai tứ chiếng gái giang hồ” và tiểu thuyết đả kích xã hội
trưởng giả thì điểm nhất quán trong toàn bộ sáng tác của ông chính là triết lí hành động
và mẫu người hùng. Về nội dung triết lí sức mạnh chúng tôi cũng sẽ đề cập trong chương
III, dưới đây chúng tôi chỉ xin phân tích cụ thể những kiểu người hùng trong sáng tác của
Lê Văn Trương để làm nổi bật đề tài này trong sự nghiệp của ông.
Trước hết, đó là kiểu người hùng trong gia đình: Đó là những người đóng vai trò
trụ cột trong gia đình: cha me, vợ chồng, người anh cả. Với trọng trách lớn lao những
người này phải quên đi lợi ích cá nhân, phải hi sinh bản thân để vun đắp hạnh phúc cho
con cái, anh em, gia đình. Sự hi sinh đó phải trên cơ sở tự nguyện, không đòi hỏi có sự bù
đắp hay biết ơn từ phía các thành viên khác trong gia đình. Trong tiểu thuyết Người anh
cả Vượng đã hi sinh bản thân mình còn hơn một bậc cha mẹ, chàng vui và chàng sống
cũng chỉ vì các em. Những gì có thể làm được cho các em chàng đều làm và làm một
cách tối đa. Đến khi các em trưởng thành, chúng hờ hững với chàng nhưng chàng không
hề oán giận bởi chàng cho rằng chàng là anh của chúng, tức là bậc bề trên, thì chỉ biết hi
sinh vì người khác chứ không cần người bề dưới đền đáp lại. Vân trong Tôi là mẹ sau khi
chồng chết đã một mình kiên cường bám trụ nơi đất khách quê người, trở thành trụ cột
88
cho ba đứa con thơ. Khi có một người đàn ông chân thành đến với nàng nàng cũng kiên
quyết từ chối vì nàng đã nguyện hiến cả đời nàng cho các con. Nếu nàng chấp nhận người
đàn ông kia tức nàng phải sẻ chia bớt tình cảm của các con, nàng cho đó là điều tội lỗi.
Trong bức thư trả lời y sĩ Tùng, Vân đã nói rất rõ: “TÔI LÀ MẸ! Bây giờ TÔI LÀ MẸ,
tôi chỉ có thể làm những việc mà bổn phận làm mẹ sai khiến tôi phải làm thôi. Bây giờ,
tôi chỉ còn một hạnh phúc: Hạnh phúc của đàn con tôi”, “Là mẹ, tôi không thể để cho
một người khác san sẻ cái tình yêu của chúng”. Sức mạnh làm mẹ của nàng được miêu tả
rất mãnh liệt. Khi nàng bị xúc phạm, bị làm nhục một cách vô lí và bất công và nhất là
điều đó ảnh hưởng đến danh dự các con nàng thì “Vân xông ra hăng hái như một con hổ
cái bị người đi săn tìm cách giết con. Mắt nàng chiếu ra những tia sáng dữ dội khiến ai
trông thấy cũng phải sợ hãi”, “nàng bước ra cửa bình tĩnh, bình tĩnh như một hòn núi đá,
bình tĩnh trong phong ba bão táp, tự tin ở sức mình”. Tư thế đối chọi với hiểm nguy để
bảo vệ những đứa con của Vân được Lê Văn Trương mô tả như một bậc trượng phu, anh
hùng hào kiệt đang trong tình thế sống mái. Nhân vật Vũ Đại trong tiểu thuyết Một người
cha cũng được khắc họa như một biểu tượng anh hùng của sự hi sinh vì con cái. Vũ Đại
đã biết được vợ mình ngoại tình với chính người bạn thân của ông, ông hoàn toàn có thể
giết đôi gian phu dâm phụ ấy mà không ảnh hưởng gì đến mình. Thế nhưng, khi nghĩ về
hạnh phúc của các con, ông đã không làm chuyện mà ông đã dự tính: “Ông phải cắn răng
chịu đau thương, chỉ vì ông muốn giữ cho nụ cười kia lúc nào cũng nở trên làn môi đỏ
tươi của chúng. Chỉ vì muốn cho con mắt trong sáng kia không bao giờ bị vẩn đục bởi ý
nghĩ buồn bực, chỉ vì cho những khổ mặt kia không bao giờ bị cau có vì nhục nhã, nên
ông phải gượng sầu làm vui. Ông có gan chịu hết bao nhiêu nỗi đau thương, giày vò,
nhưng tưởng tượng các con ông phải chịu một phần đau thương mà ông đã phải chịu, thì
ông đã kinh hãi”. Vũ Đại có một quan niệm rất tích cực về vai trò của người cha trong gia
đình khi cho rằng “bổn phận của người làm cha không phải chỉ ở chỗ cung đốn cho các
con sao cho đầy đủ về vật chất, chỉ gây dựng sao cho con có một sự nghiệp, mà lại còn
phải tránh cho con những nhục nhã, những đau đớn tinh thần về sau này”. Với những suy
nghĩ đó ông đã tha cho kẻ tình địch, dung thứ cho người vợ để bảo toàn hạnh phúc gia
89
đình. Nhưng quan trọng hơn tất cả là những việc đó chỉ mình ông âm thầm chịu đựng,
người vợ và những đứa con không hề biết ông đã phải trải qua những lần đấu tranh tư
tưởng ghê gớm đến như thế nào. Vượng, Vân, Vũ Đại đều xứng đáng là người hùng trong
bảo vệ hạnh phúc cá nhân, trong sự hi sinh bản thân cho gia đình.
Kiểu người hùng thứ hai là những kẻ phải phiêu bạt, lăn lộn trên cõi đời để dành
sự sống: Tác phẩm tiểu biểu nhất của Lê Văn Trương viết về kiểu người hùng này chính
là tiểu thuyết Trường đời. Nhân vật chính là Trọng Kha. Chàng đang trong tình thế khó
khăn do bị phá sản thì may mắn được nhận vào đoàn xây dựng của ông Nam Long đang
trên đường sang Trung Quốc làm đường. Trong đoàn cùng đi có Khánh Ngọc – một cô
gái mới, trưởng thành từ nền học vấn bên Pháp, con gái Nam Long và Giáp – kỹ sư cầu
cống, cũng du học bên Pháp về. Trong quá trình di chuyển sang đến địa điểm làm việc
cũng như trong quá trình thực hiện công việc đoàn người xây dựng của Nam Long phải
trải qua bao khó khăn, hiểm nguy, có những lúc cận kề cái chết nhưng nhờ có Trọng
Khang mà mọi việc đều suôn sẻ. Những hành động kiên quyết đến phũ phàng, nhưng vô
cùng gan dạ và tài trí của Trọng Khang đã làm Khánh Ngọc yêu và xa lánh Giáp. Biết
Khánh Ngọc yêu mình nhưng Trọng Khang luôn hết sức giữ gìn, cố tình vun đắp cho
Giáp và chỉ đối xử với Khánh Ngọc như bạn bè. Trong một tình huống hiểm nguy đến
tính mạng chính Trọng Khang đã cứu Giáp thoát chết và từ đó Giáp rất biết ơn chàng.
Khánh Ngọc và Giáp trở về nước trước, Trọng Khang lại cho đến khi xong công trình.
Khi chàng về nước thì biết tin Khánh Ngọc đã hủy hôn ước với Giáp và chờ chàng.
Đương thời Vũ Ngọc Phan nhận xét đây là tiểu thuyết có sức hút đặc biệt do mang trong
mình nhiều yếu tố điện ảnh và ở “giọng văn sốt sắng, nồng nàn”. Và hơn cả là Lê Văn
Trương đã xây dựng được một kiểu mẫu anh hùng tiêu biểu trong sự giành giật, chống
trọi với đời khá thành công theo triết lí của mình. Nhân vật Vĩnh trong Tôi là mẹ cũng có
nhiều nét tính cách giống Trọng Khang nhưng không được tập trung khắc họa nhiều và rõ
nét như ở Trọng Khang.
90
Một kiểu anh hùng nữa trong tiểu thuyết Lê Văn Trương là những kẻ quân tử, cao
thượng trong tình yêu: Hai mẫu nhân vật tiêu biểu cho loại nhân vật anh hùng này là
Đoàn Hữu trong tiểu thuyết Cô Tư Thung và Giáng Vân trong Cánh sen trong bùn. Đoàn
Hữu yêu say đắm Tư Thung, cả cuộc đời chàng và tương lai chàng cũng tan vỡ vì Tư
Thung để chỉ được đổi lại những giờ phút ái ân ngắn ngủi và cuối cùng là sự phản bội của
nàng. Thế nhưng cả cuộc đời chìm nổi, lăn lộn về sau của Đoàn Hữu chàng không thể
nào quên được Tư Thung. Chàng quyết chí làm giàu và từ chối hôn nhân với một cô gái
Pháp, vẫn giữ một mối chung tình với Tư Thung. Khi chàng về nước gặp ngay phải cảnh
Tư Thung bị bắt do buôn thuốc phiện. Đoàn Hữu quyết tâm cảm hóa trái tim nàng bằng
việc hàng ngày thăm nuôi nàng. Tư Thung đã thức tỉnh và nhận chân được giá trị đích
thực của tình yêu. Tuy nhiên khi ra tù Tư Thung mắc bạo bệnh và qua đời. Bằng tình yêu
chân thành, xuất phát từ trái tim si mê Đoàn Hữu cuối cùng đã làm nên chiến thắng khi
cảm hóa, chinh phục được trái tim của Tư Thung. Anh xứng đáng là một kẻ anh hùng
trong tình yêu đôi lứa. Ngược lại với Đoàn Hữu thì Giáng Vân trong Cánh sen trong bùn
lại xuất thân là một gái điếm. Nàng vì yêu Cung mà chịu bao nhiêu cay đắng, xót xa.
Nàng vì yêu cung ma quyết tâm rũ bỏ và gột sách quá khứ nhơ nhớp của mình nhưng
định kiến xã hội không cho nàng có cơ hội như những người con gái khác. Nàng phải
đoạn tuyệt với tình yêu của Cung và giải thoát bằng cái chết. Những trang nhật kí, bức
thư Giáng Vân để lại cho Cung đã nói lên tất cả tình yêu say đắm, mãnh liệt và sự hi sinh
của nàng. Cung đã ví Giáng Vân với một loài hoa thanh cao nhất qua lời nói với người
bạn rằng: “Tôi yêu gái giang hồ là “yêu qua một người” đã đem đến cho tôi cái hình ảnh
của một bông hoa sen mỹ miều và thơm tho bị đọa lạc trong bùn”. Cả Đoàn Hữu và
Giáng Vân đều là những anh hùng trong tình yêu khi họ yêu bẳng cả con tim, yêu quên
mình, biết vượt lên số phận để giành giật tình yêu cho mình.
2.2.4 Lịch sử
91
Đề tài lịch sử trong nhóm Tân Dân có hai cây bút chủ yếu là Lan Khai và Nguyễn
Triệu Luật. Cùng viết về quá khứ nhưng mỗi nhà văn lại có cách tiếp cận riêng và thái độ
riêng về các nhân vật và sự kiện lịch sử.
Trước hết chúng tôi nói về các tiểu thuyết lịch sử Lan Khai. Lan Khai khi viết lịch
sử không tập trung vào một giai đoạn chính yếu nào mà dàn trải ra cả ngàn năm lịch sử
dân tộc, từ thời Lý, Trần đến thời cận đại. Về thời Lý, Trần và sớm hơn chúng ta thấy
ông có các tiểu thuyết Chiếc ngai vàng, Cái hột mận. Cái hột mận viết về giai đoạn nhà
Lý chuẩn bị lên thay thế nhà tiền Lê. Viết về sự kiện này Lan Khai tỏ rõ sự ủng hộ và
nhiều thiện cảm với nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn, lên án sự bạo tàn của tên bạo chúa Lê
Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh). Cũng là lẽ hưng phế của các triều đại nhưng trong tiểu
thuyết Chiếc ngai vàng Lan Khai tỏ ra không mấy thiện cảm với nhân vật Trần Thủ Độ -
người có vai trò quyết định trong sự lên ngôi độc chiếm thiên hạ của họ Trần. Lan Khai
mô tả Trần Thủ Độ về ngoài hình là một võ tướng cao lớn, mắt xếch, da đen, có cử chỉ rất
đột ngột, lạnh lùng rất đáng sợ và nhất là có “cặp mắt lươn trắng dã với cái cách cười nụ
thảm thế”. Những thủ hạ của Trần Thủ Độ cũng được mô tả là những tay thủ đoạn gian
xảo: “(...) người ngồi giữa nhỏ nhắn hơi gầy; (...) khuôn mặt quắt lại như hai ngón tay
chéo; nước da vàng sỉn; cặp môi thâm, khuất bóng trong bộ râu rậm đỏ với hai mắt đưa
đẩy nhanh như chớp tỏ ra là một tính nết giảo hoạt, thâm độc lạ lùng”. Những thủ đoạn
đoạt ngôi nhà Lý của Trần Thủ Độ được chính Độ nói với các bá quan không chút ngại
ngần: “Xem thế đủ biết việc Thái Tôn (tức Trần Cảnh – V.Đ.H) trốn đi không phải là tự
Lý Chiêu Hoàng như ta vừa đổ vấy. Ta biết nhưng ta vẫn buộc tội cho Chiêu Hoàng, cốt
cho mọi người cùng ngờ vực hắn, như thế dễ cho công việc của ta sau này. Kể ra cũng
hơi tàn nhẫn thực. Lấy ngôi của người, ép người cho cháu mình rồi lại truất bỏ người đi”.
Lan Khai còn đặt vào miệng nhân vật này những câu tự phụ khi cho rằng: “Người ta ở
đời, một là lưu phương thiên cổ, hai là di xú vạn niên. Thủ Độ này dù chẳng được tiếng
trung nghĩa với nhà Lý như Quan Vân Trường khi xưa tận tâm với nhà Hán, thì cũng để
được tiếng về sau là người khôn ngoan, giảo quyệt chẳng thua chi Tào A-man”. Có lẽ cho
92
đến nay, chỉ Lan Khai là ví Trần Thủ Độ với Tào Tháo như là một biểu tượng của sự gian
hùng. Đến thời đại nhà Trần ông có những tiểu thuyết như Chế Bồng Nga, Cánh buồm
thoát tục... Đến thời Lê – Mạc thì có Ai lên phố Cát, gần hơn cả là thời diễn ra phong trào
Cần Vương thì có Đỉnh non thần, Gái thời loạn... Như chúng tôi đã khái quát về thể loại
tiểu thuyết lịch sử Lan Khai, ông chỉ dựa vào các sự kiện lịch sử để hư cấu nên một thế
giới khác, có khi là khác sự thật, theo ý chủ quan của mình.
Khác với Lan Khai dàn trải theo suốt các thời kì lịch sử, Nguyễn Triệu Luật lại chỉ
tập trung vào thời kì duy nhất là thế kỉ 18, cuối Lê đầu Nguyễn, duy có tiểu thuyết Ngược
đường trường thi bao quát một thời kì lịch sử rộng hơn, bắt đầu từ năm 1070 thời nhà Lý
đến nhà Nguyễn. Lí giải về việc tại sao ông không chọn những giai đoạn lịch sử cổ xưa
hơn hay nhất là giai đoạn gần hơn, trong Lời Tựa lần thứ nhất cuốn Bà chúa chè Nguyễn
Triệu Luật viết: “Những chuyện đó còn gần ta quá. Gần thì ta xét bằng tính tình nhiều
hơn bằng lí trí vì mới là chuyện của cha ta, ông bà ta thôi. Xét bằng tình thì hay lệch.
Lệch từ người chép chuyện đến người nghe chuyện... Một sử gia Tây Âu nói rằng: Việc
chưa qua năm mươi năm, chưa thuộc sử”. Ở lời Tựa xuất bản Bà chúa chè trong Tủ sách
Tác phẩm hay năm 1938 Nguyễn Triệu Luật viết rõ hơn: “Lịch sử chỉ là một cuộc diễn
lại những trò cũ. Bước loạn vong, đông tây kim cổ vẫn tương tự như nhau. Đã thế thì, gần
xa âu cũng thế thôi, can chi phải xem việc gần mới biết việc gần. Con người ta, có ruột
gan ra, thì chuyện người xa muôn dặm, ngàn năm cũng đủ cảm. Mà không có ruột gan
chi, thì chuyện trong nhà, trước mắt, ruột thịt, cũng vẫn thờ ơ”. Tập trung viết về giai
đoạn cuối Lê đầu Nguyễn, Nguyễn Triệu Luật dựng lại hẳn một bức tranh lịch sử chân
thực và sinh động của cả một quá trình vận suy của nhà Trịnh. Mỗi tiểu thuyết nhằm đến
một nhân vật lịch sử nhất định, một sự kiện nhất địch, quyển viết sau nối tiếp quyển viết
trước, quyển trước là nguyên nhân của quyển sau. Đó chính là bộ ba tiểu thuyết: Bà chúa
chè, Chúa Trịnh Khải và Loạn kiêu binh. Tiểu thuyết Bà chúa chè là “khởi mào” sự suy
vong của nhà Trịnh, Loạn kiêu binh là sự suy tàn, khủng hoảng nghiêm trọng tàn phá nhà
Trịnh, Chúa Trịnh Khải là người cố gắng cứu vớt nhà Trịnh nhưng không thành. Trong
93
lời Tựa xuất bản Bà chúa chè năm 1938 Nguyễn Triệu Luật cũng nói rất rõ: “Vì mê Bà
chúa chè (tức Đặng Thị Huệ - V.Đ.H) chúa Trịnh Sâm mới bỏ con trưởng lập con thứ. Vì
bỏ con trưởng lập con thứ, triều đình mới sinh ra vây cánh. Vì bè đảng vây cánh, Kiêu
binh mới làm loạn. Vì muốn trị Kiêu binh, chúa Trịnh Khải mới giở tay không kịp, trong
nội trị bỏ bễ, ngoài vô tâm với cường lân. Nhân tâm ly tán, nhà Trịnh mới đứng vào cái
địa vị mạt vận tàn hôi. Trong việc chôn nhà Trịnh, Bà chúa chè là người đào hố; lũ kiêu
bình là lũ đứng chực đẩy người xuống hố; chúa Trịnh Khải là người bị chúng đẩy nhưng
cứ chạy quanh miệng hố mà vừa tránh vừa tìm cách đuổi lũ chôn người. Lũ chôn người
chạy tan rồi, chúa đương lúi húi một mình lấp hố thì vụt đâu có người xa chạy đến, đẩy
mạnh một cái, thế là xong đời, xong cả cơ đồ họ Trịnh. Tôi phải đem ba việc: đào hố, đẩy
người, và sa hố là ba việc dính liền nhau chép riêng ra. Độc giả đọc xong Bà chúa chè tức
là đã xem việc đào hố. Sau đây đọc Chúa Trịnh Khải và Loạn Kiêu Binh, độc giả sẽ được
xem việc sa hố và đẩy người. Xong, độc giả sẽ xem chuyện Cống Chỉnh là chuyện anh
chàng từ xa chạy lại đẩy sấp người xuống hố”. Đọc các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
Triệu Luật ngoài thưởng thức một lối văn rất trong sáng, rành mạch và rõ ràng độc giả
còn rất thích thú trước các thông tin mà ông đưa ra về các nhân vật lịch sử, các địa danh
nơi trốn, các sinh hoạt của cổ nhân. Chẳng hạn trong Bà chúa chè ông giải thích rất rõ vì
sao giữa khúc đường từ huyện Tiên Du về tổng ném có cái cầu tên gọi Cầu Vồng. Trong
các tác phẩm xuất hiện rất nhiều những chú thích về các tên gọi, các danh từ cổ như một
quyển sách giáo khoa. Chẳng hạn cũng trong Bà chúa chè trong một đoạn văn tả cảnh thế
tử “ngồi xuống ghế giở những bản khải ở các trấn và ở các phiên ra xem” thì những tên
gọi “khải”, “trấn”, “phiên” đều được đánh dấu và ghi chú dưới chân trang rất kĩ lưỡng.
Ngoài bộ ba tiểu thuyết kể trên Nguyễn Triệu Luật còn viết tiểu thuyết về Nguyễn Trãi
nhan đề Rắn báo oán (1941), tiểu thuyết Hòm đựng người viết về thân phận và cuộc đời
hai cung nữ Ấu Mai và Tố Hà ở phủ chúa Trịnh. Lan Khai giới thiệu Hòm đựng người
bằng những lời lẽ hết sức cảm động, rằng: “ (..) ta thấy tỉ mỉ cái sống u ẩn trong bí mật
của cung vi, đã chôn vùi bao nhiêu ánh sáng thanh xuân mơn mởn... ta thấy lòng dào dạt
một xót thương đối với ức vạn người đàn bà, đời ấy qua đời khác phải bắt buộc làm vật hi
94
sinh cho sự ích kỉ của các vua chúa, xót thương đến cả những lỗi lầm, những mưu mô
phản trắc, những ganh tị nhỏ nhen của một hạng đàn bà không hiểu cảnh ngộ thê thảm
của chính mình...”. Nhìn chung, khi viết về các đề tài lịch sử Nguyễn Triệu Luật chỉ cố
gắng tái hiện làm sao cho thật chính xác các sự kiện, nhân vật lịch sử nên ta khó thấy
được thái độ, sự đánh giá của ông về các nhân vật, sự kiện ấy.
2.2.5 Thiếu nhi
Nhóm Tân Dan có hẳn riêng tờ Truyền Bá là ấn phẩm dành cho tuổi trẻ và thiếu
nhi. Các tác phẩm đăng trên Truyền bá hầu hết hướng tới đối tượng thanh thiếu niên với
mục đích truyền bá những tư tưởng văn hóa, giáo dục một cách giản dị mà hữu hiệu nhất.
Mỗi tác phẩm thường là một câu chuyện về các danh nhân, về các loài vật, các câu
chuyện cổ tích... Các nhà văn tham gia viết cho mảng đề tài rất đông đảo như Tô Hoài,
Thâm Tâm, Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Ngọc Giao, Thanh Châu...
Trong số những nhà văn viết cho thiếu nhi thì Thâm Tâm và Tô Hoài viết nhiều hơn cả.
Về truyện loài vật Thâm Tâm có các truyện tiêu biểu như Cóc và ếch tranh hùng, Đời
con kiến, Hươu, rím, khách, Thỏ chuột và khỉ... Còn Tô Hoài nổi tiếng với Con dế mèn và
sau viết thành Dế mèn phiêu lưu kí, ngoài ra còn có các truyện Chú chuột, Võ sĩ Bọ ngựa,
Dê và lợn, O chuột, Hai con ngỗng... Thanh Châu ghi dấu ấn với truyện Cún số 5. Các
truyện cổ tích cũng được các nhà văn khai thác: Lan Khai viết Lấy vợ cóc, Đồng tiền Vạn
lịch; các truyện lịch sử thì có Trịnh Khả (Thâm Tâm), Ngọn cờ lau (Tô Hoài)... Các
truyện viết cho thiếu nhi đều được viết bằng một văn phong giản dị, ngôn ngữ trong sáng
và dễ hiểu.
2.2.6 Phiêu lưu, ma quái và kiếm hiệp
Đây là đề tài có một số lượng tác phẩm khá lớn và có nhiều gương mặt nhà văn
tiêu biểu tham gia viết như Lan Khai, Tchya Đái Đức Tuấn, Lê Văn Trương, Lưu Trọng
Lư.... Kể đến đề tài ma quái phải nhắc đến di sản của La Khai và Tchya Đái Đức Tuấn.
Trước hết chúng tôi nói đến là nhà văn Lan Khai với những truyện ma quái nơi đường
95
rừng đầy bí hiểm. Tập truyện ngắn Truyện đường rừng (1940) gồm 9 truyện mà truyện
nào cũng mang không khí ma quái, rùng rợn. Thế giới trong những truyện này là thế giới
kì bí, rừng thẳm núi cao, hoang dã và mang âm hưởng liêu trai, nơi người và ma quỷ sống
chung với nhau. Truyện Người lạ làm người đọc ấn tượng và kinh hãi trước vẻ đẹp vừa
hoang dã, kì dị vừa ghê rợn của người con gái ma: “Cô ta đẹp một cách dị thường, mặt
dài thon thon; da trắng mòng mọng lại có những vân đỏ và phủ một lớp lượt tơ như vỏ
đào non; lông mày rậm, vàng như râu ngô lượn tròn trên cặp mắt sáng quắc. Lạ một điều
là lòng đen mắt cô ta đỏ và trong suốt như mắt thỏ trắng. (...) Đến hai hàm răng thì ghê
quá...! Răng người đâu mà nhọn hoắt như răng mèo! Y phục không ra Kinh không ra
Mán, chẳng phải Khách chẳng phải Nùng. Toàn thân có một mùi thơm như hoắc
hương...”. Những truyện khác trong tập như Ma thuồng luồng, Đôi con vịt, Người hóa hổ,
Gò thần... đều có một không khí lạnh lẽo, rùng rợn và căng thẳng bao phủ từ đầu đến
cuối truyện. Đọc tập truyện ma quái này Vũ Ngọc Phan phải thốt lên rằng Lan Khai là
“cây bút tài tình” và cảm thấy tiếc khi nhà văn ít viết truyện ngắn. Cùng đề tài ma quái,
đường rừng trong nhóm Tân Dân còn có Tchya Đái Đức Tuấn với tập truyện kinh dị nổi
tiếng Ai hát giữa rừng khuya (1942) gồm 13 chương (truyện) nối tiếp nhau. Độc giả
không khỏi kinh hãi khi chìm đắm trong không khí âm u lạnh lẽo với hình ảnh hai oan
hồn cụt đầu múa võ (truyện Ma không đầu), kinh hãi trước nơi rừng thiêng nước độc với
nạn cướp bóc, giết người và mãnh thú ăn thịt người (truyện Hạt Đồng Giao), rợn tóc gáy
với tiếng đàn tiếng hát văng vẳng trong đêm khuya tịch mịch đầy ai oán, não nề (truyện
Ngàn khuya văng vẳng), kinh hãi và xót xa cho số phận của hai nàng Oanh Cơ và Huyền
Cơ phải hầu hạ hổ tinh... Hổ tinh còn xuất hiện trong tiểu thuyết Thần Hổ (1936) được
miêu tả rất ghê rợn. Đó là một con hổ đã thành tinh với lông bờm trắng xóa, mắt sáng
quắc, tiếng lanh lảnh như chuông, đã ăn thịt trên một trăm người. Hơn thế nữa sau khi
giết người nếu đó là cô gái xinh đẹp thì bị biến thành ma trành để hầu hạ nó (nàng Peng
Slao). Hổ trong các truyện ma quái của Tchya hay biến thành người để bắt những hồn ma
mà nó ăn thịt phải hầu hạ. Nó cũng “ân đền oán trả” như con người và trả thù một cách
khốc liệt. Trong Thần Hổ con hổ tinh đã làm dòng họ Đèo tuyệt tự khi nó đeo đuổi và
96
giết đi giọt máu duy nhất là Đèo Lầm Khẳng. Tập truyện ngắn Oan nghiệt đăng trên Phổ
Thông Bán Nguyệt San số 39 năm 1939 gồm 5 truyện thì có 3 truyện mang không khí
thần bí, quái đản mà tiêu biểu nhất là truyện Oan nghiệt.
Ở mảng các truyện phiêu lưu có thể nhắc đến Lê Văn Trương với các tác phẩm kể
về quá trình bôn ba khắp xứ Đông Dương, sang cả Trung Hoa trên con đường sự nghiệp
của ông. Tiểu biểu cho mảng đề tài này là hai tác phẩm “phiêu lưu kí sự” Tôi thầu khoán
hay là: Ba tháng ở Trung Hoa (1940) và Một cuộc săn vàng (1941) và đặc biệt là hàng
loạt những bài bút kí đăng trong mục Đó... đây (sau đổi thành Mười năm luân lạc) đăng
trên báo Ích Hữu. Qua việc kể lại những chuyến đi của mình Lê Văn Trương đã đem lại
cho độc giả những bức tranh muôn màu và sinh động về các xứ Cao Miên, Xiêm La,
Diến Điện, về văn hóa và phong tục của người Xiêm, người Cồ La... Những cảm xúc và
kinh nghiệm cá nhân được ghi lại một cách sinh động và truyền cảm nên có sức thu hút
với độc giả ưa sự khám phá, mạo hiểm, phiêu lưu.
Truyện kiếm hiệp đăng nhiều trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy chủ yếu là dịch lại từ các
tác phẩm của Trung Quốc của dịch giả Nguyễn Đỗ Mục. Vào thời này, lượng độc giả
thích thú tìm đọc những tiểu thuyết kiếm hiệp Trung Hoa không phải là ít nên việc Vũ
Đình Long cho đăng tải những tác phẩm ấy trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy cũng là điều dễ
hiểu để thỏa mãn sự giải trí của nhiều tầng lớp độc giả. Đây là thể loại dịch nên chúng tôi
chỉ nhắc đến mà không phân tích.
*
* *
Ở trên chúng tôi vừa tiến hành khảo sát một cách khái quát nhất di sản văn chương
của nhóm Tân Dân dưới góc độ thể loại và đề tài. Có thể thấy rằng nhóm Tân Dân trong
khoảng một thập kỉ hình thành và phát triển đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ ở
mọi thể loại từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, thơ ca, kịch, phê bình khảo cứu, ký... và đề
cập đến rất nhiều những vấn đề khác nhau từ lịch sử đến hiện đại, từ tình yêu gia đình
97
đến những vấn đề xã hội... Nhiều tác phẩm đã đạt đến mẫu mực về mặt thi pháp thể loại
cũng như độ sâu sắc về mặt nội dung, tư tưởng để trường tồn mãi với thời gian.
Chương 3
KHUYNH HƯỚNG CỦA NHÓM TÂN DÂN NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM CHỦ
TRƯƠNG VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC
3.1 Quan điểm và chủ trương sáng tác của nhóm Tân Dân
3.1.1 Quan điểm và chủ trương sáng tác của các nhà văn trong nhóm Tân Dân
Tuyên ngôn sớm nhất của Tân Dân chính là lời nói đầu đăng trên Tiểu Thuyết Thứ
Bảy số 1. Như chúng tôi đã phân tích ở phần trước, về cơ bản Tân Dân dung nạp rất
98
nhiều xu hướng, khuynh hướng và chủ nghĩa văn học khác nhau miễn các tác phẩm viết
ra đáp ứng được yêu cầu cơ bản nhất là “ảnh hưởng sâu xa, tốt đẹp cho tri thức, cho học
vấn, cho đạo đức, cho sự lịch duyệt của người đọc” và phải là “một cái lợi khí của giáo
dục”. Điều này cũng thể hiện rõ trong sự ưu tiên của ban biên tập khi chọn dịch những
tiểu thuyết Âu Mỹ cũng phải là giáo dục tiểu thuyết. Thấp thoáng trong lời tuyên ngôn
này chúng ta nhận thấy một mô hình đạo đức truyền thống, lễ giáo sẽ được ứng dụng vào
trong việc tuyển chọn để đăng tải các sáng tác trên các cơ quan ngôn luận của nhà Tân
Dân. Lãng Nhân Phùng Tất Đắc từng gọi tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy là “tờ báo của mọi gia
đình lễ giáo”. Những nhà văn tham gia tích cực nhất trong nhóm Tân Dân thì những sáng
tác của họ cũng mang đậm tư tưởng này: Ngọc Giao – nhà văn đạo lý; Lê Văn Trương –
đề cao trách nhiệm người làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chồng; Nguyễn Công Hoan –
không đoạn tuyệt mà dung hòa với nền đạo đức cũ... Trên Truyền Bá số ra đầu tiên, trong
lời mở đầu, chủ trương của ban biên tập trong nhóm Tân Dân vẫn là xuất bản những tác
phẩm nhằm mục đích giáo dục, “đều quy vào một mục đích này: Giáo dục” và tự nhận
mình là tờ báo của “những gia đình lễ giáo”.
Tuy nhiên, như một sự đột biến và cũng là một may mắn cho lịch sử văn học hiện
đại Việt Nam trước 1945, đó là việc nhóm Tân Dân cho ra đời Tạp chí Tao Đàn (3/1939).
Tôn chỉ hoạt động của nhóm được nêu trong bài Cùng bạn đọc đã nói rất rõ rằng: Mục
đích ra đời của Tao Đàn là xây dựng một nền văn chương nghệ thuật thực sự của dân tộc
Việt Nam. Tuy nhiên, nằm trong chủ trương chung từ đầu, bộ biên tập Tao Đàn không
chủ trương khuyến khích hay độc quyền một tư tưởng, khuynh hướng văn chương, văn
hóa nào mà muốn là nơi thâu nạp tất cả các trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật miễn là
nhằm mục đích gây dựng nền văn hóa cho quốc dân, nói theo ngôn ngữ ngày nay chính là
sự thống nhất trong đa dạng. Có thể nói đây là một chủ trương đúng đắn và phù hợp của
nhóm Tân Dân muốn hiện thực hóa thông qua Tạp chí Tao Đàn. Xét trong bối cảnh lịch
sử và văn hóa lúc đó, cả nhân loại bắt đầu lâm vào đại chiến thế giới lần 2, một bầu
không khí căng thẳng bao trùm thì còn biết trông đợi riêng gì vào một tư tưởng, một
khuynh hướng nào để cứu dân tộc. Nhóm Tân Dân chủ trương thông qua Tao Đàn để có
99
thể tập hợp thành một mặt trận chung, nơi các tư tưởng được phô bày, được cọ xát mà từ
đó tìm ra cái tối ưu nhằm gây dựng nền văn hóa thực sự của dân Việt Nam. Tao Đàn đã
bám sát và thực hiện sát sao tôn chỉ này của mình trong suốt thời gian tồn tại của nó.
Ngoài những tuyên ngôn mang tính mục đích rõ ràng như ở Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
Tạp chí Tao Đàn, Truyền Bá.. thì còn rất nhiều các bài viết thể hiện quan điểm và ý kiến
của các nhà văn (trong nhóm hay cộng tác viên) được đăng tải trên các cơ quan ngôn luận
của Tân Dân. Chúng tôi không nói rằng đây là chủ trương của nhóm Tân Dân nhưng phải
nhìn nhận rằng, vì sao mà các bài viết này lại xuất hiện trên các cơ quan ngôn luận của
nhóm. Rất nhiều vấn đề quan trọng về văn học đã được đăng tải, tranh luận trên Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Tạp chí Tao Đàn. Đó là các bài viết: Câu chuyện văn chương tả chân
chủ nghĩa; Hai cái quan niệm về văn học; Nghệ thuật với đời người; Văn học bình dân
của Thiếu Sơn đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy; Triết lý sức mạnh và văn chương đăng
trên Ích Hữu và Phổ Thông Bán Nguyệt San; các bài viết Cần phải có một thứ văn
chương mạnh mẽ hơn; Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật, tìm cái đẹp trong nghệ
thuật là phê bình; Xem truyện thần tiên thì có sao? của Hoài Thanh trên Tiểu Thuyết Thứ
Bảy.... Trong số những bài viết, tranh luận đó chúng tôi đặc biệt chú ý hơn tới bài viết
Văn học bình dân đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 43 ra ngày 23/3/1935 của Thiếu Sơn
và bài Triết lí sức mạnh và văn chương tranh đấu của Lê Văn Trương đăng trên Phổ
Thông Bán Nguyệt San bìa màu số 1 ra ngày 16/2/1938.
Trong bài Văn học bình dân Thiếu Sơn đã nêu lên một khiếm khuyết lớn của văn
học cũ, đó là dựa trên sự phân chia xã hội thành hai dạng người quân tử và tiểu nhân mà
theo đó “văn học của ta từ trước tới nay thuần là một thứ văn học quỷ quái, một thứ văn
trưởng giả, không hề nói tới cái sinh hoạt, cái hoàn cảnh, cho đến những tính tình cảm
giác của hạng lao động bình dân”. Theo Thiếu Sơn nếu nhà văn hiện nay cứ theo cái đà
đó, chỉ quan tâm đến cuộc sống trưởng giả, phong lưu đài các của tầng lớp trên của xã hội
là một thiếu sót lớn, không hình dung hết được bộ mặt sinh hoạt của loài người. Thiếu
Sơn cho rằng, viết văn học bình dân không phải là nhằm đánh đổ dòng văn học phong lưu
100
đài các mà chỉ là làm cho nền văn học được trở nên hoàn toàn. Nếu các văn sĩ đương thời
thay vì hô hào suông trên báo chí mà hãy hiện thực hóa bằng những tác phẩm cụ thể thì
đó là “một bước tiến dài trên đường tiến hoá” của văn học dân tộc. Tác phẩm được xem
là mở đầu cho dòng văn học bình dân chính là tập truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công
Hoan (Hải Triều, Kép Tư Bền, T.T.T.B số 62).
Nếu trong bài Văn học bình dân thái độ của Thiếu Sơn với văn chương phong lưu
đài các tức văn chương lãng mạn còn là sự thỏa hiệp, coi như là hai mặt của đời sống văn
học thì Lê Văn Trương trong bài Triết lí sức mạnh và văn chương tranh đấu đã có một
thái độ cực lực đấu tranh với văn chương lãng mạn. Ông đòi thủ tiêu và xóa bỏ dòng văn
học sai lầm này. Lê Văn Trương cho rằng văn học lãng mạn chỉ là “văn chương phù
phiếm, không có những tư tưởng đấu tranh lợi ích thiết thực cho sự tiến bộ của xã hội,
không quan hệ gì đến những thăng trầm của giống nòi”. Theo Lê Văn Trương thì Tự lực
văn đoàn chính là đại biểu tiêu biểu nhất của dòng văn học lãng mạn cần phải “đả đảo”,
“đánh đổ”, “thủ tiêu hiểm tượng ấy”, “bài trừ di họa ấy”. Từ triết lí sức mạnh, Lê Văn
Trương đề xuất văn chương tranh đấu. Văn chương tranh đấu là phải là những áng văn
đầy hào khí, bất hủ như Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Đại cáo
bình Ngô của Nguyễn Trãi. Văn chương tranh đấu sẽ làm cho dân tộc Việt Nam được trở
nên “có tên tuổi trên bàn cờ thế giới”.
Bài Văn học bình dân được chọn đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy – cơ quan ngôn
luận của nhóm Tân Dân – hoàn toàn không phải là một ngẫu nhiên khi chúng tôi thấy
rằng hầu hết các nhà văn trong nhóm hoặc cộng tác với nhóm đều là những trí thức trung
lưu và những tác phẩm của họ viết ra có một số lượng rất lớn là viết về những hạng bình
dân, dưới đáy xã hội mà trong đó nhiều tác phẩm sau này được thừa nhận là đỉnh cao
trong dòng văn học hiện thực. Bài Triết lí sức mạnh và văn chương tranh đấu không hẳn
là một tuyên ngôn đại diện cho toàn bộ nhóm Tân Dân nhưng rõ ràng nó là một thứ đặc
sản của riêng nhóm này với đại diện tiêu biểu là Lê Văn Trương. Nói đến Lê Văn Trương
101
người ta nói ngay đến triết lí sức mạnh và mẫu nhân vật người hùng – hiện thân của triết
lí sức mạnh.
Tóm lại, xét về chủ trương, quan điểm sáng tác của nhóm Tân Dân có thể thấy
mục đích tối thượng là gây dựng một nền văn chương lành mạnh phù hợp với đạo đức
truyền thống, không phân biệt nhóm phái, khuynh hướng, trào lưu văn chương.
3.1.2 Các cuộc tranh luận giữa nhóm Tân Dân với các nhóm khác và báo chí đương
thời
Khi nghiên cứu đời sống văn học của một nhóm/phái ta không thể bỏ qua sự tương
tác giữa nhóm được nghiên cứu và các nhóm đương thời. Sự tương tác ấy cho ta thấy một
bức tranh sinh hoạt văn chương sinh động và có được một cái nhìn toàn diện hơn về đối
tượng nghiên cứu. Sự tương tác ấy biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau, như ủng hộ
nhau (trích lục lại các bài viết của nhau, bênh vực nhau, ủng hộ quan điểm của nhau...)
hoặc tranh luận, đấu tranh với nhau về các quan điểm, tư tưởng, thậm chí còn gọi là hành
động “dìm nhau” giữa các báo.
Những cuộc tranh luận của nhóm Tân Dân chủ yếu diễn ra với nhóm Tự lực văn
đoàn. Cuộc tranh luận đầu tiên là giữa Nguyễn Công Hoan với tiểu thuyết Cô giáo Minh
(đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy từ số 79 ngày 30/11/1935) và Đoạn tuyệt của Nhất Linh.
Các tranh luận này do Nguyễn Công Hoan trực tiếp viết đăng trên Ích Hữu số 3, số 4, số
9, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy các số 92 (29/2/1936), 96 (28/3/1936), Bộ 7 và số ra ngày
4/4/1936; trên Ích Hữu số 4 Lãng Nhân Phùng Tất Đắc trong mục Trước đèn có bài Một
vụ án văn nhằm bênh vực cho Nguyễn Công Hoan và có ý phê phán Ngày nay. Đại ý
cuộc trong cuộc tranh luận này Tự lực văn đoàn cho rằng Nguyễn Công Hoan đạo văn từ
cuốn Đoạn tuyệt để viết Cô giáo Minh. Nguyễn Công Hoan và phía Tân Dân cho rằng Cô
giáo Minh là một tiểu thuyết luận đề nhằm công kích lại Đoạn tuyệt. Giữa Tân Dân và Tự
lực văn đoàn còn diễn ra cuộc tranh luận giữa Từ Ngọc với tác phẩm Ngược dòng và tác
phẩm Thoát ly của Khái Hưng; tranh luận về nghệ thuật cuốn Thần Hổ của Tchya Đái
Đức Tuấn. Ích Hữu đăng lại những lời ngợi ca nghệ thuật của Thần Hổ thì trên Ngày Nay
102
Lê Ta phê bình đây là một tác phẩm “không một câu chuyện nào ngớ ngẩn bằng”. Một
cuộc tranh luận khác cũng rất đáng chú ý đó là tranh luận về văn chương hành động hay
văn chương nghệ thuật. Như chúng tôi đã nói ở mục trên, trong bài Triết lí sức mạnh và
văn chương hành động Lê Văn Trương đã ra sức tuyên truyền thế nào là triết lí hành
động, kêu gọi xây dựng nền văn chương hành động và thủ tiêu văn chương lãng mạn với
đại diện là Tự lực văn đoàn. Lê Văn Trương đưa ra một loạt những tác phẩm nổi tiếng
nhất của Tự lực văn đoàn và kết án: Hồn bướm mơ tiên thì “gieo rắc những tình cảm ủy
mị làm hại đến tinh thần tranh đấu của thanh niên”; Lạnh lùng thì “biện hộ thứ chủ nghĩa
cá nhân sai lầm, ca tụng khoái lạc vật chất bất chính, làm hại đến phẩm giá và tiến bộ của
phụ nữ”; Đời mưa gió thì “thi vị hóa nghề làm đĩ”, “đẩy bạn gái vào con đường trụy lạc”;
Mấy vần thơ thì “chỉ mơ ước hão suốt đời làm tản mác ý định và nghị lực quyết thắng của
bạn trẻ”, làm cho thanh niên “cam chịu sống một cuộc đời thoi thóp, đê hèn, bò sát đất”;
Lối riễu cợt trò hề (Tự lực văn đoàn xây dựng hình tượng Lý Toét, Xã Xệ để đả phá chế
độ cũ – V.Đ.H) thì “mượn cớ chế nhạo hủ tục làm cho một phần thanh niên nam nữ nông
nổi đâm ra hoài nghi và không nhìn thấy ý nghĩa thiêng liêng của nghĩa vụ làm người,
làm dân”...
Ngoài những tranh luận mang tính văn chương, học thuật thì các cuộc “cãi vã”
giữa Tân Dân và Tực Lực Văn Đoàn xung quanh hoạt động xuất bản, nhất là hành động
được coi là “dìm đồng nghiệp” của Tự Lực Văn Đoàn cũng diễn ra sôi nổi và thú vị. Nó
cho chúng ta ngày nay nhìn lại một thời kì hoạt động xuất bản và sự cạnh tranh khá quyết
liệt giữa các nhà xuất bản, các nhóm phái văn học nửa đầu thế kỉ. Chúng ta còn thấy
Ngày Nay “tố” Tân Dân cạnh tranh không lành mạnh bằng cách ra sách dưới dạng báo để
hưởng lợi từ việc thuế cũng như mua giấy giá rẻ. Ngày Nay còn đưa ra cả những chuyện
nội bộ trong nhóm Tân Dân trả nhuận bút thấp cho các nhà văn, hay việc các nhà văn
đình công đòi tăng lương giảm giờ làm v.v... Tất nhiên để đáp trả Tân Dân có hẳn một
bài viết Cái thói gièm pha của bọn Phong Hóa, Ngày Nay đăng trên Ích Hữu số 56 ra
ngày 16/3/1937 chứng minh những điều Ngày Nay đưa ra là gièm pha, nói xấu đồng
nghiệp. Kế đó Ích Hữu còn lôi kéo được rất nhiều tờ báo cũng bị Ngày Nay “khai chiến”
103
mở một chiến dịch đánh trả như báo Tương Lai (có bài Một tờ báo, một việc làm đăng
trên Tương Lai số 7 ra ngày 11/3/1937; bài Không thưởng không phạt đăng trên số 8 ra
ngày 18/3/1937;bài Ngày nay nhận tội của Vũ Trọng Phụng đăng trên số 9 ra ngày
25/3/1937), Hà Nội báo (với bài Tội thứ ba của báo Phong Hóa: Dìm đồng nghiệp), báo
Loa (với bài Cái thói gièm pha của bọn Phong Hóa, Ngày Nay nhiều báo đã công nhận
đăng trên báo Loa số 10 ra ngày 19/4/1934; bài Phong Hóa xấu bụng Tứ Ly cáu đăng trên
số 31 ra ngày 13/9/1934), báo Đông Dương đại hội (có bài Gièm pha đồng nghiệp đăng
trên số 2 ra ngày 13/1/1937; bài Ngày nay chủ tâm công kích bạt mạng đăng trên số 4 ra
ngày 3/2/1937), báo Nhật Tân (bài Sống về châm chọc đăng trên số 36 ra ngày 18/4/1934;
bài Bôi nhọ và gièm pha đăng trên số 56 ra ngày 5/9/1934)... Ngoài ra nhóm Tân Dân còn
có những bài đăng trên Ích Hữu, Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Tao Đàn để “cự” lại Tự lực
văn đoàn. Không chỉ dừng lại ở việc bút chiến, chiến dịch cạnh tranh mà giữa Tân Dân và
Tự lực văn đoàn cũng có phen chạm mặt tại buổi diễn thuyết của Lê Văn Trương ở Hội
Trí Tri Nam Định ngày 14/12/1937 nhưng không dẫn đến xô xát mà chỉ dừng lại ở việc
phá rối của Tự lực văn đoàn.
3.2 Khuynh hướng lãng mạn và hiện thực
3.2.1 Khuynh hướng lãng mạn
Là một trong hai khuynh hướng sáng tác chính trong văn học Việt Nam giai đoạn
trước 1945. Các nhà văn theo khuynh hướng này “bác bỏ cuộc sống tầm thường của xã
hội”, “hướng về một thế giới khác mà thường họ tìm thấy trong các truyền thuyết và sáng
tác dân gian, trong các thời đại lịch sử đã qua, trong các bức tranh kì diệu của thiên nhiên,
trong đời sống, sinh hoạt, tập quán của các dân tộc và đất nước xa xôi”. “Họ đem những
ước vọng cao cả và những biểu hiện cao nhất của đời sống tinh thần như nghệ thuật, tôn
giáo, triết học, đối lập với thực tiễn vật chất tầm thường”[11] Các nhà văn viết theo
khuynh hướng lãng mạn nổi bật trong nhóm Tân Dân có thể kể tới là Nguyễn Tuân, Lan
Khai, Tchya Đái Đức Tuấn... Hầu hết các tác phẩm được viết theo khuynh hướng lãng
104
mạn thường khai thác các đề tài tình yêu, lịch sử, dã sử, những chuyện phiêu lưu, ma
quái, hoang đường...
Nếu Nguyễn Tuân hướng về quá khứ, tìm lại cái đẹp của một thời vang bóng trong
những phong tục, thú chơi tao nhã của tiền nhân thì Lan Khai hướng về quá khứ là để gửi
gắm vào đó những tư tưởng, quan niệm của mình về thân phận của con người, của tình
yêu trong những biến cố lịch sử và Lưu Trọng Lư lại đưa ta về với những hoài niệm, tục
lệ của mảnh đất thần kinh xứ Huế mộng mơ. Cùng hướng về quá khứ nhưng mỗi nhà văn
đem lại cho người đọc những hình ảnh về cuộc sống khác nhau, lay động những giác
quan và cảm xúc khác nhau ở độc giả. Tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được
Vũ Ngọc Phan đánh giá là “văn phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ” do Tân Dân ấn hành
thành sách năm 1940 với 11 câu chuyện như 11 bức tranh đặc tả về một thời vừa qua
nhưng đã thành dĩ vãng trong cuộc mưa Âu gió Mỹ đang thổi ào ạt ở hiện tại. Đó là
những thú vui tao nhã, thanh đạm mà cũng không kém cầu kì, cao đạo của bậc tiền nhân
là các ông quan, cụ cử, cụ nghè... những đệ tử cuối mùa của Đạo Khổng nhưng lại đang
gìn giữ những quốc hồn, quốc túy của dân tộc. Đó là cụ Sáu trong Những chiếc ấm đất,
cụ ấm trong Chén trà sương với tất cả những cầu kì và nghệ thuật trong thưởng thức trà;
là cụ phủ trong Thả thơ, ông Phó Sứ và cô Mộng Liên trong Đánh thơ cả đời gắn với thơ
ca; cụ Kép trong Hương cuội với thú uống rượu độc đáo có một không hai là thưởng thức
rượu với kẹo bọc đá cuội ướp hương lan... Những tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai lại đưa
ta về những thời xa xưa hơn, với những câu chuyện tình yêu cảm động của bậc vua chúa
như Lý Công Uẩn, Lý Chiêu Hoàng, của Quang Trung Nguyễn Huệ... hoặc của những
bậc anh hùng liệt nữ lưu truyền như Vũ Mật, Lan Anh, nàng Nhạn, Bàn Tuyết Hận...
Trong khi các nhà văn hiện thực phơi bày những nỗi đau thương, thống khổ cùng cực của
con người trong cuộc sống hiện tại thì Tchya Đái Đức Tuấn lại đưa người ta vào những
thế giới huyền bí, rùng rợn với ma, với hổ tinh, với những truyền thuyết hoang đường kỳ
ảo. Đó là câu chuyện li kì và bí hiểm, ghê rợn về mối quan hệ giữa người với hổ, với
105
những ân oán giữa Thần Hổ và dòng họ Đèo (trong Thần Hổ), là câu chuyện ma quái, hãi
hùng về số kiếp của hai nàng Oanh Cơ và Huyền Cơ (trong Ai hát giữa rừng khuya)...
Khuynh hướng lãng mạn trong nhóm Tân Dân không chỉ tập trung ở các nhà văn
viết tác phẩm về quá khứ, về những chuyện phiêu lưu, ma quái, rùng rợn mà còn thấy
hiện rõ trong các tác phẩm viết về đời sống hiện tại với những câu chuyện tình yêu say
đắm, với những khung cảnh thiên nhiên êm đềm, đẹp như mộng. Đó là trường hợp
Nguyễn Xuân Huy với tiểu thuyết Nắng đào kể về câu chuyện tình yêu say đắm, ngọt
ngào giữa Đào và Phi trên nền cảnh thiên nhiên thơ mộng của làng quê Việt Nam; là nhà
văn Thanh Châu với truyện dài Tà áo lụa kể về câu chuyện tình đắm say nhưng éo le,
trắc trở giữa Phương và Bình với những hoài niệm đẹp đẽ về một vùng quê yên ả, thanh
bình; là câu chuyện tình cảm phức tạp giữa ba chàng trai Minh, Huy và Miến với hai chị
em Ngọc, Thúy trong Huế, một buổi chiều của Lưu Trọng Lư gắn liền với cảnh sắc thiên
nhiên thơ mộng xứ Huế...
Có thể nói, các tác phẩm viết theo khuynh hướng lãng mạn trong nhóm Tân Dân
rất phong phú, đề tài mở rộng hơn rất nhiều so với các nhà văn lãng mạn trong nhóm Tự
lực văn đoàn (chỉ tập trung khai thác các câu chuyện ở thời hiện tại) từ lịch sử, dã sử đến
hoang đường, ma quái và cả cuộc sống đương thời. Những tác phẩm lãng mạn của Tân
Dân đều được truyền tải bằng một thứ ngôn ngữ đậm chất thơ, giàu hình ảnh và một nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế.
3.2.2 Khuynh hướng hiện thực
Đây cũng là một trong hai khuynh hướng sáng tác chính trong văn học Việt Nam
giai đoạn trước 1945. Các nhà văn sáng tác theo khuynh hướng này “mô tả cuộc sống
bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của chính cuộc sống và bằng
điển hình hóa các sự kiện thực tế đời sống”, “thừa nhận sự tác động qua lại giữa con
người và môi trường, giữa tính cách và hoàn cảnh”, “coi trọng những chi tiết cụ thể và độ
chính xác của chúng trong việc mô tả con người và cuộc sống”. Và quan trọng hơn qua
106
tác phẩm nhà văn phải bộc lộ được thái độ, tư tưởng của mình với một ý thức chủ động
khám phá hiện thực chứ không phải dửng dưng, ghi chép máy móc hiện thực. Các nhà
văn tiêu biểu theo khuynh hướng hiện thực trong nhóm Tân Dân có thể kể đến như
Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Lan Khai, Ngọc Giao....
Hầu hết các đề tài mà các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực hướng đến là các đề tài
về xã hội với những tệ nạn, xung đột giai cấp, cuộc sống lầm than, cực khổ của tầng lớp
bình dân và dưới đáy xã hội...
Vai trò của Nguyễn Công Hoan trong dòng văn học hiện thực Việt Nam đã được
khẳng định một cách rõ ràng với 6 tập truyện ngắn và hơn 10 tiểu thuyết đã làm nên vị
thế nhà văn hiện thực lớn của dân tộc. Tất cả các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông đều
tập trung khai thác vào đời sống đương thời với tất cả những cái nhố nhăng, nghịch đời,
đảo điên trong xã hội bằng một con mắt tinh ranh và hài hước. Với tiểu thuyết Bước
đường cùng xuất bản trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 23 ra ngày 1/10/1938 Nguyễn
Công Hoan đã ghi lại dấu ấn của một kiệt tác văn học hiện thực. Cùng với Nguyễn Công
Hoan – thành viên chủ chốt của Tân Dân – còn có các nhà văn hiện thực lớn của dân tộc
từng tham gia viết cho nhà xuất bản Tân Dân như Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao, Tô Hoài... Những tên tuổi vừa kể trên đã được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình
đánh giá, nên ở đây chúng tôi xin được nói nhiều hơn về các nhà văn viết theo khuynh
hướng hiện thực khác trong nhóm Tân Dân như Ngọc Giao, Lan Khai, Mạnh Phú Tứ,
Trần Huyền Chân, Thanh Châu... là những gương mặt ít được chú ý trong giới nghiên
cứu.
Ngọc Giao viết nhiều về các vấn đề hiện thực như cuộc sống hôn nhân gia đình
với những bi kịch chua xót. Truyện Tội lỗi ngoài ngưỡng cửa là tình cảnh xót xa của một
gia đình công chức cấp thấp. Vào cuối tháng, sau khi lĩnh lương anh ký cùng đám bạn
đang vui vẻ ở xóm cô đầu thì chị Tư vợ anh, chết gục trong nhà thương do kiệt sức trong
một ca sinh khó; Chợ chiều là câu chuyện bại hoại luân lý khi bà mẹ ngủ với người yêu
của con gái khiến cô gái phải bỏ nhà đi; truyện Một người không sống viết về bi kịch
107
người vợ phải sống trong sự lạnh lùng, vô cảm của người chồng, sống mà như không;
Anh gắng nuôi con là tấm lòng yêu thương con vô hạn của người cha và tình cảnh trớ trêu
gà trống nuôi con của Phương... Ngòi bút của ông còn hướng về số phận của những
người bất hạnh trong xã hội như bà góa, người đàn ông cô độc, cô đầu, gái muộn chồng.
Tết cô đầu và Phấn hương viết về cuộc sống của những cô gái phải làm nghề bán trôn
nuôi miệng nơi lầu xanh. Ngọc Giao đã viết rất cảm động và chân thực về cuộc sống của
gái lầu hồng qua cuộc đời cô gái điếm Hương bằng những câu thật xót xa: “Cuộc đời
Hương đã bị người ta giày xéo, thể chất ngọc ngà, trong trắng của Hương đã bị người ta
bỏ tiền mua như mua một món đồ cũ bầy ở hiệu tầm tầm, rồi thì... một gã đàn ông đêm
hôm ấy, tự do bịt miệng, bóp cổ nàng, hăm họa dỗ dành nàng mà hãm hiếp”. Những cô
gái trót xa chân vào chốn thanh lâu như Hương mặc dù ý thức được thể xác và nhân
phẩm của mình đang bị chà đạp, giày xéo như đồ vật nhưng các cô chỉ biết khóc và đành
buông xuôi: “Hương vội đưa tay lên che mặt, thẹn thùng với cái hồng nhan. Hương cảm
thấy hết cả nỗi nhục nhã của đời mình và nhận thấy hết cả sự đểu giả của giống người,
tuy nhiên nghề làm đĩ nó vẫn bắt nàng phải chiều chuộng, gần gũi cái giống người ấy
mãi”. Kết thúc câu chuyện là một cảnh thật mỉa mai và chua xót: “Lát sau, cơn uất ức dịu
dần, Hương xoa lại phấn, ra nhà ngoài ngồi “bày hàng” cùng các bạn đợi khách hát tất
niên” (Tết cô đầu). Gái muộn chồng, Lệ vui, Xóm nghèo ăn Tết chó, Mụ Từ đoan... là
những truyện rất cảm động viết về số phận hẩm hiu, thua kém của những kiếp người bé
nhỏ sống trong sự mặc cảm và nghèo khó. Tâm và Tình là hai chị em ruột sống nhờ vào
cửa hàng tạp hóa đang ngày càng lụi đi cho bà mẹ để lại. Cả hai đã có tuổi nhưng “chưa
bao giờ được hi vọng xuất giá theo chồng, chưa bao giờ được người con trai nào theo sau
gót (...) hai cô gái muộn chồng thường mê thấy hình như có bóng một người con trai nào
ẩn nấp đâu kia để nghe trộm tiếng thở dài ngao ngán của mình”. Kết thúc tác phẩm cũng
là một hình ảnh mang tính biểu tượng cho số phận của hai chị em cô: “Tâm mở cửa bước
vào nhà, nhọc mệt trèo lên những bậc thang gỗ mục nát như gần đổ gẫy – cái cầu thang
của một căn nhà cổ tiều tụy, tượng trưng cả một cuộc đời tối tăm, tiều tụy của chị em cô”
(Gái muộn chồng). Truyện Xóm nghèo ăn Tết chó kể về mụ Một, một bà già cô độc bị
108
con bỏ rơi. Vì buồn chán mụ nghiện rượu, nghiện thuốc phiện sống một cuộc sống lay lắt
ở ngõ xóm Khâm Thiên. Mụ đã phải bán con vàng là con chó cũng là người bạn duy nhất
của mụ để lấy tiền đi tìm con, tìm cháu. Mụ lừa bán con vàng cho dân ngõ nhưng lương
tâm mụ cũng giằng xé như khi lừa một con người. Không may con chó trốn thoát nhưng
những người dân nghèo không bắt đền mụ Một mà vẫn góp tiền cho mụ đi tìm con. Trên
chuyến tàu cuối năm lao vào bóng tối, “mụ Một co ro rét và say, gục đầu vào cánh cửa
toa. Mụ se lòng nghĩ đến con vàng của mụ bây chừ nơi mô? Con vàng lang thang, mụ
cũng lang thang một mình”. Ở cả 2 tập truyện ngắn Cô gái làng Sơn Hạ và Phấn hương
và hàng chục truyện đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy chúng tôi đều nhận thấy Ngọc Giao
có khuynh hướng hiện thực rõ nét khi ông viết rất nhiều về thân phận con người trong xã
hội cũ.
Lan Khai không viết nhiều các tác phẩm về đề tài hiện thực nhưng chỉ với tiểu
thuyết Lầm than (và sau này ông có viết thêm Mực mài nước mắt do NXB Đời Mới, Hà
Nội ấn hành 1941) cũng đủ làm nên tên tuổi ông ở dòng văn học hiện thực. Mạnh Phú Tư
ghi dấu ấn ở mảng văn học hiện thực với tiểu thuyết Sống nhờ viết dưới dạng tự truyện kể
về cuộc sống của cậu bé Dần. Dần mồ côi cha từ trong bụng mẹ và lên 6 thì mẹ cậu đi
bước nữa, từ đó Dần bắt đầu cuộc đời “sống nhờ” cay đắng, tủi nhục hết bên nội đến bên
ngoại. Sống nhờ đã có ý nghĩa lớn lao trong việc dựng nên bức tranh chân thực về quyền
sống con người bị chà đạp trong xã hội phong kiến. Nguyễn Hoành Khung nhận xét:
“Tác phẩm chủ yếu đi vào những quan hệ gia đình ở nông thôn, nghiêng về sinh hoạt
phong tục, và ở phương diện này, Sống nhờ là một tiểu thuyết có tính chân thực cao. Tác
phẩm không chỉ gợi lên niềm thương cảm xót xa đối với một đứa trẻ mồ côi mà còn phơi
trần và lên án lối sống tư hữu sau lũy tre. Chế độ tư hữu khiến cho con người trở nên ích
kỉ, nhỏ nhen, tàn ác, đối xử tồi tệ với cả những người ruột thịt và cái gia đình của họ triền
miên trong tình trạng lục đuc căng thẳng” (Từ điển văn học Việt Nam, tr.1560). Đọc
Sống nhờ ta còn thấy hình ảnh một nông thôn Việt Nam trước cách mạng đang trong quá
trình phá sản và bần cùng hóa, nạn đói kém mất mùa, nạn cường hào ác bá hoành hành...
109
Với Sống nhờ Mạnh Phú Tư đã ghi được dấu ấn đáng kể trong dòng văn học hiện thực
Việt Nam trước cách mạng (Bích Thu). Trần Huyền Trân ghi dấu ấn ở mảng văn học hiện
thực bằng tập truyện ngắn Lẽ sống in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San số 105 năm 1942.
Hầu hết các truyện trong Lẽ sống viết về cuộc sống của thị dân nghèo. Đó là những văn sĩ
chật vật kiếm miếng cơm manh áo, những day dứt suy tư của họ trước cuộc đời (Lẽ sống,
Bộ áo rét của nhà thơ, Những chiều thu nắng, Yêu), là cảnh sống lần hồi qua ngày và vô
vọng của người đàn bà bị đứa con bỏ rơi trên cái đầm nước cạnh bãi tha ma (Một buổi
chiều mua), là mạng người chỉ đáng hai hào bạc (Cơn bão rớt), là cuộc sống không lối
thoát của những cô gái làm nghề vũ nữ (Mưa dầm)... “Tập truyện Lẽ sống được viết bằng
một ngòi bút hiện thực tương đối nhất quán. Mỗi câu chuyện là một cảnh đời, một số
phận của những con người lầm than dưới đáy xã hội” (Lưu Khánh Thơ) [3, tr.458]. Tập
truyện ngắn Trong bóng tối cũng góp phần đưa Thanh Châu và đội ngũ những nhà văn
hiện thực Việt Nam trước cách mạng. Tập truyện này gồm 13 truyện chủ yếu cũng viết về
đời sống của những người dân nghèo thành thị. Đó là câu chuyện cảm động về tình mẹ
con trong Ngày sinh nhật, là tiếng sáo buồn rầu vô vọng của người mù trước đồng loại để
rồi đến một ngày anh ta như “con ve sầu kêu suốt hạ đã chết khô trên một cành đa”(Tiếng
sáo), là tình cảnh bi ai của gia đình ông bà đồ trong Hiu quạnh, là sự tàn lụi của một tài
năng họa sĩ (Lửa tàn), là sự mòn mỏi của người vợ ngóng đợi chồng trở về sau những
cuộc vui chốn lầu hồng và cũng là người mẹ mỏi mòn trong đèn đợi đứa con trai phón
đãng trong Mòn mỏi...
Nhìn chung, ở khuynh hướng hiện thực các tác giả trong nhóm Tân Dân đạt được
nhiều thành tựu, trong đó nhiều tác phẩm trở thành kinh điển, nhiều nhà văn xác lập được
vị vững chắc và đáng kể trong lịch sử văn học. Rất nhiều vấn đề được đặt ra cách đây hơn
70 năm vẫn còn gây nhức nhối với người đọc và còn nguyên ý nghĩa thời sự như tình
người đối với người, thân phận của những cô gái trót xa chân vào chốn lầu xanh, nạn
nhũng nhiễu chốn quan trường, sự phân chia giàu nghèo...
3.2.3 Sự đan xen của hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực
110
Sự phân chia các nhà văn trong nhóm Tân Dân thành hai khuynh hướng lãng mạn
và hiện thực chỉ là tương đối. Trên thực tế một nhà văn có thể vừa sáng tác theo khuynh
hướng lãng mạn vừa sáng tác theo khuynh hướng hiện thực hay ngay trong một tác phẩm
cũng vừa có yếu tố lãng mạn vừa có yếu tố hiện thực. Đây cũng là một đặc điểm điểm
chung của văn học Việt Nam. Phan Cự Đệ cũng từng thừa nhận rằng “văn học hiện thực
Việt Nam là một hiện tượng không thuần nhất” (Giáo trình văn học Việt Nam 1900 –
1945, tr.354). Dưới đây chúng tôi xin phân tích một vài hiện tượng tiêu biểu trong nhóm
Tân Dân để làm rõ tính chất này.
Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực bậc thầy nhưng không phải mọi tác
phẩm ông viết đều là văn chương hiện thực. Tiểu thuyết Tắt lửa lòng đăng trên Phổ
Thông Bán Nguyệt San số 1 năm 1936 là một tác phẩm thuộc loại lãng mạn khi nó mua
sầu chuốc não, lấy đi bao nước mắt của độc giả về mối tình éo le của Lan và Điệp. Phạm
Thế Ngũ nhận xét rằng Tắt lửa lòng là một “câu truyện có tính cách lãng mạn bi ai (...).
Việc Lan ở chùa chôn con bướm cùng con dao tây sáu lưỡi (kỉ vật của Điệp) vào một cái
mả cao nhắc ta nhớ lại bao chuyện chôn hoa khóc bướm của văn học lớp trước, lớp Tuyết
Hồng, Tố Tâm” [31, tr.508]. Ngoài Tắt lửa lòng Nguyễn Công Hoan còn viết một tiểu
thuyết lãng mạn khác là Lá ngọc cành vàng (1939). Nếu Tắt lửa lòng bị xếp vào loại lãng
mạn tiêu cực thì Lá ngọc cành vàng lại được các nhà nghiên cứu coi là lãng mạn tích cực.
Tuy nhiên ở cả hai tác phẩm được coi là lãng mạn này người ta không khỏi chú ý đến
những vấn đề xã hội được đặt ra. Đó là sự đấu tranh chống lại những lễ giáo phong kiến,
chế độ gia trưởng và đòi quyền được tự do hôn nhân.
Ngược với Nguyễn Công Hoan là một cây bút hiện thực viết tác phẩm lãng mạn
thì Lan Khai là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu nhưng trong sự nghiệp của ông lại có
những tác phẩm viết theo khuynh hướng hiện thực có giá trị. Không kể tác phẩm hoàn
toàn hiện thực như tiểu thuyết Lầm than, Cô Dung thì ngay chính những tác phẩm viết
về đường rừng của ông chất hiện thực cũng rất đậm đặc. Đọc Tiếng gọi của rừng thắm,
Mọi rợ... chúng ta được chứng kiến một bức tranh hiện thực sinh động về cuộc sống và
111
con người nơi rừng sâu núi thẳm với tất cả sự hoang sơ, mông muội cùng những nét văn
hóa, đời sống tinh thần, tâm lý rất đặc trưng. Lưu Trọng Lư cũng là một hiện tượng tiêu
biểu về sự đan xen giữa hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực trong nhóm Tân Dân.
Các truyện ngắn và tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư vừa đưa độc giả chìm đắm trong thế
giới thần tiên ma quái, lý kì, với những câu chuyện dã sử (Con đười ươi, Con voi già của
vua Hàm Nghi, Chạy loạn, Hổ với mọi...), trong những khung cảnh thiên nhiên thơ mộng
và đậm chất thơ đất thần kinh xứ Huế nhưng cũng đồng thời làm cho ta thương cảm, xót
xa cho những phận người không may mắn. Cầu sương điếm cỏ là câu chuyện thương tâm
về gia đình bác hai Thìn. Vì miếng cơm cho con, trong một ngày mưa lũ dữ dội, dù linh
cảm trước “một cuộc vĩnh biệt não nùng sắp đến” nhưng bác hai Thìn vẫn “rứt áo ra đi”,
một mình “một chiếc thuyền nan bồng bềnh trên dòng nước lũ để kiếm bữa cơm chiều
cho con” để rồi không trở về. Hai đứa con bác là cái Bẹ và thằng Tỵ từ đó phải lang thang
kiếm sống cong cay cực. Cô bé hái dâu cũng là câu chuyện bất hạnh của hai kẻ lỡ dở tình
duyên, để chàng thì nheo nhóc với một đàn con, vùi mình trong cờ bạc thuốc phiện, còn
nàng thì sống trong chuỗi ngày cô đơn, ôm mối hận tình đến chết. Trong tiểu thuyết Cô
Nguyệt chúng ta còn thấy cả một thế giới quân chủ quan liêu lỗi thời với những nạn chạy
chức, chạy quyền, bóp nặn tiền của và tài sản của những kẻ khốn khổ... Những sáng tác
của Lưu Trọng Lư chất lãng mạn biểu hiện đậm nét ở nghệ thuật ngôn từ, ở lối kết cấu
kiểu truyện không có chuyện, ở mạch triển khai theo tư tưởng, tâm lý nhân vật mà không
bám sát vào các sự kiện nhưng chất hiện thực vẫn hiện ra đằng sau những câu chuyện
tưởng như không có chuyện ấy. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong một tuyển tập văn
xuôi Lưu Trọng Lư đã nhận xét rằng: “(...) lãng mạn là nét phong cách khá nổi bật ở văn
xuôi tự sự trước 1945 của Lưu Trọng Lư. Tất nhiên điều này không ngăn cản việc ở phần
sáng tác này của ông, ta còn có thể tìm thấy những minh chứng về sự tố cáo những biểu
hiện phi nhân tính, phản xã hội của cuộc sống đương thời, - tức là những thuộc tính
thường vẫn được gắn cho văn chương “tả thực phê phán”.
112
Ở trên chúng tôi vừa phân tích một số hiện tượng tiêu biểu cho sự pha trộn giữa
hai khuynh hướng hiện thực và lãng mạn trong nhóm Tân Dân qua các trường hợp
Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Lưu Trọng Lư. Sự đan xen giữa hai khuynh hướng văn
học này còn biểu hiện ở những sáng tác của Nguyễn Xuân Huy, Nguyên Hồng (với Cuộc
sống – tác phẩm chan chứa chất lãng mạn cách mạng và có phần vượt qua khuôn khổ của
chủ nghĩa hiện thực phê phán (Phan Diễm Phương), Ngọc Giao... Chúng tôi cho rằng đây
là một đặc điểm không chỉ của riêng một nhóm nhà văn mà là của cả một giai đoạn văn
học Việt Nam trước 1945. Điều đó góp phần tạo nên sự đang dạng trong sự nghiệp của
mỗi nhà văn cũng như của cả một nền văn học, tạo điều kiện cho các nhà văn phát huy
được thế mạnh của mình trong biểu hiện cuộc sống.
3.3 Tính bảo thủ về mặt đạo đức, tư tưởng phục cổ và khuynh hướng quay trở về
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
3.3.1 Tính bảo thủ về măt đạo đức
Chúng tôi nhận thấy rất nhiều nhà văn trong nhóm Tân Dân có tư tưởng bảo thủ về
mặt đạo đức. Mô hình đạo đức mà họ hướng tới vẫn là theo mô hình đạo đức cổ truyền,
Nho giáo, luân lý. Ở đó con người cá nhân không được giải phóng mà chấp nhận số phận,
“lấy cứu cánh là bổn phận, cái bổn phận khắc khổ vạch ra bởi luân lí từ ngàn xưa”,
“chung cục vẫn rập khuân theo mẫu của luân lý”. Xu hướng bảo thủ, đề cao một chiều
đạo đức, Nho phong, tinh thần cố gắng gìn giữ đạo lý... xuất hiện ở nhiều nhà văn trong
nhóm. Không phải vô lý khi Lãng Nhân Phùng Tất Đắc gọi tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy là
“tập báo của mọi gia đình lễ giáo”. Đây là đặc điểm khác biệt với nhóm Tự lực văn đoàn.
Ngay từ 1932, Tự lực văn đoàn đã “mở ra một thời kì văn học nghiêng về những quan
niệm nhân sinh và xã hội của phương Tây”, “chủ trương một sự cách tân hoàn toàn trong
văn học”, “đấu tranh cho giải phóng cá nhân, coi cá nhân là cơ sở của xã hội” và nhất là
trong Tôn chỉ 9 điểm của họ có một nội dung đặc biệt quan trọng là: “Làm cho người ta
113
biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa”. Dưới đây chúng tôi xin phân tích những hiện
tượng văn học tiêu biểu trong nhóm Tân Dân để làm sáng tỏ luận điểm này.
Trước hết chúng tôi xin nói về trường hợp nhà văn Nguyễn Công Hoan với tiểu
thuyết Cô giáo Minh. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Công Hoan viết Cô giáo Minh là để
phản đối lại tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Nếu trong Đoạn tuyệt Nhất Linh tỏ
một thái độ khước từ dứt khoát và mạnh mẽ với cái cũ là những lễ giáo phong kiến, là
chế độ gia đình gia trưởng để khuyến khích giải phóng cá nhân, giải phóng người phụ nữ
thì ngược lại trong Cô giáo Minh Nguyễn Công Hoan lại tỏ một thái độ bảo thủ khi cho
rằng cái mới phải điều hòa với cái cũ, đứng trên lập trường đạo đức bảo thủ phong kiến
để giải quyết mâu thuẫn phụ nữ và hôn nhân gia đình. Ông đã để cho Minh – một cô gái
mới (mà theo Lê Thị Đức Hạnh thì xét cho cùng Minh cũng chưa hẳn là gái mới) cố gắng
điều hòa với bà mẹ chồng – đại diện cho cái cũ, và cuối cùng cảm hóa được bà. Nguyễn
Công Hoan viết trong tiểu thuyết Cô giáo Minh rằng: “Gia đình ta chưa thể hoàn toàn
theo gia đình Âu Mỹ. Xã hội ta trọng về luân lý gia đình. (...). Nếu ai cũng lìa bỏ gia đình
cũ cả, thì còn chi là xã hội. Cái mới chưa hẳn hoàn toàn là hay. Cái cũ chưa hẳn hoàn
toàn là dở. Chỉ có người dở với người hay. Chỉ có lẽ phải hợp thời”. Không chỉ trong tiểu
thuyết Cô giáo Minh mà trong năm 1939, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy Nguyễn Công Hoan
cũng đã đăng một số chương của tiểu thuyết Thang Đạm – tiểu thuyết ngay khi ra đời đã
bị dư luận tiến bộ phê phán mạnh mẽ do đề cao tư tưởng Nho phong qua hình tượng quan
huyện và về sau thành cụ nghè Lê Sĩ Cư. Các tiểu thuyết Tơ vương, Trên đường sự
nghiệp, Danh tiết cũng đều đề cao những mẫu phụ nữ theo tư tưởng đạo đức phong kiến
rất bảo thủ.
Trường hợp tiêu biểu thứ hai cho tính chất bảo thủ về mặt đạo đức trong nhóm
Tân Dân chính là Lê Văn Trương. Mặc dù nhà văn này đưa ra một triết lí hành động rất
mạnh mẽ nhưng ta dường như không thấy hành động nào để giải phóng con người cá
nhân ở Lê Văn Trương. Hàng loạt các tiểu thuyết của ông đều đề cao một thứ đạo đức cổ
truyền mà ở đó con người sống theo bổn phận chứ không phải cho cá nhân. Đó là Vượng
114
trong Người anh cả, Vân trong Tôi là mẹ, Vũ Đại trong Một người cha... Không phải
không có lí khi đương thời Vũ Ngọc Phan xếp Lê Văn Trương vào loại “Tiểu thuyết luân
lý” và nhận xét rằng: “Lê Văn Trương là một nhà tiểu thuyết luân lý, nhưng cái luân lý
của Lê Văn Trương là một thứ luân lý rất thông thường, vợ phải theo chồng, em phải
nghe anh, phải ở dưới quyền che chở của anh”. Đặc biệt, Lê Văn Trương tỏ rõ sự thiện
cảm của mình với những luân lý mang màu sắc phong kiến. Trong tiểu thuyết Người anh
cả ông đã để cho Vượng kể lại đầy hào hứng và tự hào về cách ứng xử đầy tính khuôn
phép và lễ giáo trong gia đình cho các em của chàng nghe: “Bác cả hiền như đất ấy, có
mắng ai, nhưng chú Lý cũng sợ bác cả lắm. Đi đâu với bác cả, chú ấy không dám mang
tráp điếu đi theo. Tôi nhớ năm nào về quê ăn Tết bao giờ thầy cũng tạt vào thăm bác cả
trước, rồi mới về nhà. Mà chú Lý thì bao giờ cũng đến thăm thầy ngay. Thầy không bao
giờ dám ngồi cùng bác cả, cũng như chú lý không bao giờ dám ngồi cùng giường với
thầy. Kể như thế cũng khí quá, nhưng tôi xem sự thủ lễ ấy cũng có chỗ hay. Nó cũng là
một đặc điểm của phong tục Á Đông. Nhờ nó mà không bao giờ có sự cãi cọ trong anh
em. Trong làng ta, hễ nhà nào có anh em chị em cãi nhau là y như người ta nhắc đến sự
trên kính dưới nhường của nhà ta. Các chị em dâu cũng ăn ở với nhau như bát nước đầy,
và một khi anh em đã như thế thì đời nào các chị em dâu dám cãi nhau. Gia đình lúc nào
cũng vui vẻ và cứ êm như ru”.
Lan Khai cũng tỏ rõ là một người bảo thủ về mặt đạo đức khi ông viết tiểu thuyết
Cô Dung – một tác phẩm mà mọi diễn biến và hành động đều diễn ra trong một môi
trường xã hội đạo lý thanh bình như nhận xét của Vũ Văn Sỹ. Như chúng tôi đã nói, Lan
Khai viết tiểu thuyết này như một sự phản ứng mạng mẽ trước phong trào giải phóng phụ
nữ đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam lúc đó. Ông đã dựng lên một bức tượng đài uy
nghi, sừng sững về phụ nữ Việt Nam với “tâm hồn thuần túy” là phải biết hi sinh cho gia
đình, phụng dưỡng chồng con, thờ cha kính mẹ và quên đi bản thân để ngăn chặn người
phụ nữ tìm đến hạnh phúc đích thực của mình.
115
Ngọc Giao cũng là một nhà văn đặc luân lý, một thứ luân lý cổ truyền từ ngàn xưa.
Chúng tôi quan sát thấy trong sự nghiệp của Ngọc Giao mặc dù đó đây chúng ta thấy ông
phơi bày những cảnh sống cơ cực, cay đắng của những phận người xong bao giờ những
kết thúc câu chuyện kiểu có hậu, hợp với luân lý mà tiêu biểu nhất là truyện Cô gái làng
Sơn Hạ. Những nhân vật trong văn chương Ngọc Giao thường không có cá tính mạnh
liệt, không đủ sức để phá phách vượt ra được những ràng buộc của truyền thống. Chúng
tôi xin nhắc lại ở đây nhận xét rất tinh tế của Phùng Tất Đắc về đặc tính luân lý trong văn
chương Ngọc Giao, rằng “ngòi bút của ông (tức Ngọc Giao) rút lại bao giờ cũng lấy cứu
cảnh là bổn phận, cái bổn phận khắc khổ vạch ra bởi luân lý ngàn xưa”. Đọc truyện ngắn
Thời gian đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy năm 1943 chúng ta thấy rất rõ điều này qua
nhân vật bà Tú. Bà Tú được miêu tả như một phụ nữ điển hình của truyền thống, cả đời
lam lũ tần tảo nuôi chồng nuôi con. Đặc biệt đức tính “kính chồng” được tác giả nhấn
mạnh: “Bà tần tảo buôn bán, ngày ngày gánh rau lên chợ Đồng Xuân bán (...) Mỗi khi
không chiều đúng ý chồng, bà lại bị mắng mỏ rày la cực nhục. Đã một lần, bà bị ông ném
cả cây điếu ống vào đầu, đau phát ốm, nhưng bà vẫn giữ mặt ôn hòa vui vẻ, gánh rau lên
chợ bán như thường và lại càng chiều quý ông hơn nữa”. Khi ông Tú qua đời, cô con
gái duy nhất bỏ nhà ra đi bà Tú chỉ biết dựa vào những hoài niệm của một thời để mà
sống. Đó là cái thời mà đạo Khổng còn thịnh, gia đình còn sống trong cảnh yên ấm an
vui, chồng ra chồng vợ ra vợ. Trong truyện ngắn Chợ chiều in trong tập Một đêm vui
(1937) sau khi thuật lại câu chuyện bại hoại trong nhà bà Hoàng kết thúc tác phẩm là cả
một đoạn văn dài Ngọc Giao lên tiếng giảng giải và cảnh báo cho những kẻ nào sống
không theo luân lý, đạo đức và kết thúc bằng câu: “Hỡi gái giang hồ! Có nên dừng chân
trước cảnh chợ chiều hôm?”. Tư tưởng này của Ngọc Giao là một sự đối lập hoàn toàn
với những gì mà các tác giả Nhất Linh – Khái Hưng gửi gắm vào nhân vật gái giang hồ
Tuyết – một đại diện tiêu biểu cho ý thức cá nhân cực đoan, suy đồi trong quan niệm
sống – trong tác phẩm Đời mưa gió.
116
Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Lê Văn Trương và Ngọc Giao là những nhà văn
đại diện tiêu biểu cho tư tưởng bảo thủ về mặt đạo đức trong nhóm Tân Dân. Xét trong
bối cảnh đương thời ta có thể coi đó là lạc hậu và phản động khi nó chống lại cái mới,
chống lại sự giải phóng con người. Nhưng ngày sau nhìn lại, với độ lùi gần một thế kỉ,
những vấn đề mà những nhà văn này theo đuổi và cổ vũ không phải không có cái lí của
nó, khi mà cùng với phong trào giải phóng con người, chạy theo lối sống cá nhân ích kỉ,
quên đi gia đình, quên đi trách nhiệm và bổn phận đã dẫn tới bao hệ lụy cho các gia đình
và xã hội.
3.3.2 Tư tưởng phục cổ và khuynh hướng quay trở về các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc
Chúng tôi đưa ra đặc điểm này của nhóm Tân Dân để nghiên cứu như là sự đối
chọi với tính hiện đại của Tự Lực Văn Đoàn. Xu hướng phục cổ, quay trở về dân tộc, coi
dân tộc là một động lực tinh thần là xu hướng phát triển mạnh vào cuối thập niên 30 và
đầu thập niên 40 của thế kỉ trước mà các tác giả nhóm Tân Dân đã thể hiện rõ trong
những sáng tác của mình ở giai đoạn này. Nếu như Tự lực văn đoàn trong cuộc đấu tranh
giữa cái cũ (truyền thống) và cái mới (hiện đại, Âu hóa), đã đứng hẳn về phía cái mới thì
ngược lại, nhóm Tân Dân lại có tư tưởng phục cổ, đề cao quá khứ với những nhân vật
lịch sử, những giá trị văn hóa tinh hoa truyền thống “vang bóng một thời”. Tuy tư tưởng
phục cổ và khuynh hướng quay trở về các giá trị văn hóa truyền thống không trở thành
một dòng văn học rõ nét và riêng biệt trong nhóm Tân Dân nhưng nó xuất hiện nhiều lần
với tần số lớn trong các sáng tác của họ.
Trước hết đó là Nguyễn Tuân với tập Vang bóng một thời. Cả một thời kì huy
hoàng của đạo Khổng rơi rớt lại đã được nhà văn họ Nguyễn tái hiện lại thật sinh động và
hấp dẫn trong những sinh hoạt cầu kì, những thú chơi thanh nhã của bậc tiền nhân và
cũng qua đó tái hiện lại nét văn hóa Việt thời kì chưa bị làn gió Âu Mỹ thổi tới. Nguyễn
Triệu Luật lại cố gắng miêu tả chính xác và chi tiết những khung cảnh đường phố, lâu
117
đài, trường thi, phủ, điện, lăng tẩm... những di sản của lịch sử trong tiểu thuyết của mình
để lay động cảm xúc của độ giả, gợi nhớ về một thời dĩ vãng. Ngay cả Nguyễn Công
Hoan trong Thanh đạm cũng dựng lại cả một không gian văn hóa xưa cũ với những sinh
hoạt trong nhà quan, mối quan hệ quan và dân... mà đương thời không còn thấy. Lưu
Trọng Lư cũng thể hiện rất rõ sự đề cao quá khứ, phục cổ trong sáng tác của mình. Chúng
tôi xin đơn cử trong tiểu thuyết Chiếc cáng xanh ông đã so sánh đàn bà lớp mới và những
người đàn bà lớp cũ như sau: “Đến nay, khi chép lại cuốn truyện này, mới hơn mười năm
thôi, mà sự đời xung quanh tôi đã thay đổi nhiều lắm. Tôi thương tiếc biết bao khi tôi
nghĩ đến cái việc ngày nay, trên đất nước tôi, đã không còn những người đàn bà cũ kĩ,
hiền lành như màu áo “cổ y”, những người đàn bà lặng lẽ mà thâm trầm gần đất cát biết
bao, sống giữa cây cối thân yêu, hồn của đất nước! Tôi vừa đau đớn vừa căm giận khi
nghĩ đến cái lớp đàn bà lòe loẹt kia, đã dám kiêu hãnh thay thế cái lớp đàn bà cũ kỹ ấy –
những người đàn bà thùy mị với những bộ răng đen nhánh. Những người đàn bà ngày
nay đã để răng trắng, và vì thế, họ có bao giờ như những người đàn bà đời xưa, dầu là
một bà quan, cũng cầm lấy cái chết để vun bón một cây trầu non, hay một cây cau mới ở
vườn... Họ có bao giờ còn nâng niu những cây cối nữa, và như thế, họ sống xa đất biết
bao... Nhưng tôi biết nói thế nào khi người ta gọi đó là sự tiến bộ ” [1, tr.209-210]. Thời
xưa cũ được nhà văn trân trọng, nâng niu ví với những gì đẹp nhất: “Tôi quên làm sao
được những thời kì đẹp đẽ của sự chăn nuôi, những cảnh đầy thơ, đầy êm ái, đầy tôn
nghiêm của nghề tầm lang. Tôi quên làm sao được những mảnh trăng rơi đầy trên những
ruộng dâu... Tôi quên làm sao được những tiếng đều đều của guồng xa. Nhưng nhờ cái gì
mà tôi nhớ mãi được cả một thời dĩ vãng và không để rơi mất một giọt thơ, một hạt
ngọc”[1, tr.216]. Nhà văn ôm mộng tưởng gầy dựng lại thế giới xưa cũ mà mình hằng
đắm say ở đứa con mình nhưng cũng phải chua xót mà nhận ra đó là điều không tưởng:
“Tôi muốn may cho nó một cái áo địa xanh. Tôi muốn sắm cho nó một cái khánh vàng
đeo ở cổ. Và điều này nữa: một vòng tràng đạc cột ở chân. Mẹ tôi đã may sắm cho tôi thế
nào thì tôi lại may sắm cho nó thế ấy. Nhưng than ôi! Thời thế đã thay đổi: cái áo địa
xanh và chiếc khánh vàng ngày nay chỉ tiêu biểu cho một nền quý phải lạc thời. Còn cái
118
tràng lục (hay là tràng đạc) ở thời này người ta cũng không buồn cột vào cổ những con
vật nữa. Nhưng trời ôi! Làm sao mà tôi quên được những tràng lục lạc ấy, và bên tai còn
nghe cái tiếng rung của nó. Không phải là tiếng lục lạc cột ở chân một đứa bé, mà là tiếng
rung của một thời, của một thế giới đã sập đổ, đã đổ rồi” (Trích trong Tuyển tập Lưu
Trọng Lư – NXB Văn học 1987 – Nguyễn Văn Long sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu;
Hoàng Trung Thông viết lời bạt, tr.220). Lưu Khánh Thơ nhận xét: “Chiếc cáng xanh là
tiểu thuyết tự truyện của Lưu Trọng Lư. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một không
khí hoài cổ.Tác giả luôn luôn quay về quá khứ với niềm nhớ tiếc khôn khuây”. Ngay
Ngọc Giao cũng tỏ rõ thái độ phản đối cuộc sống mới, ông nhìn nhận đó là nguyên nhân
gây đỗ vỡ trong gia đình, làm lung lay hết nền móng đạo đức. Trong truyện ngắn Thời
gian (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, 1943), Ngọc Giao mô tả cuộc sống hiện tại đầy trụy lạc, dâm
đãng trong khi cuộc sống cũ được tái hiện rất đẹp, nên thơ:“Cô khóa cùng chồng yêu
nhau như đôi chim yến. Cô chăn tằm, hái dâu, dệt lụa đem ra chợ bán, một lòng một dạ
kính chồng. Cả ngày thày khóa chỉ nằm làm văn từ thi phú; cũng nhiều khi được lúc an
nhàn, cô khóa lại ngồi mài mực hầu chồng, hoặc pha trà thơm cùng nhau ngồi kề vai chờ
hoa nở, trăng lên”. Những yếu tố cuộc sống hiện đại như “đường trải nhựa”, “nhà gạch
nguy nga”, “xe cộ tân thời”... là thù nghịch, là kẻ thù đã hủy hoại đi quá khứ lẫm liệt:
“Các đấng anh hùng đã hóa người thiên cổ, muôn triệu vong hồn chiến sỹ đã tan ra trong
khoảng trời bình trị, muôn triệu bộ xương chiến sĩ đã bị đè nát tiêu mòn dưới chân móng
những tòa nhà gạch nguy nga, tiêu mòn dưới những con đường trải nhựa ồn ào qua lại
những xe cộ tân thời, những gót giày da của một giống người vong quốc”. Gạt bỏ đi sự
thù nghịch xã hội hiện đại rõ ràng ở đây chất chứa những tâm sự yêu nước thầm kín của
nhà văn.Và đây là hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống mới: tiệm nhảy, đã được nhà văn tái
hiện không phải là một nơi chốn văn minh, thanh lịch mà là một nơi đĩ thõa, dâm ô: “Bà
chủ thân chinh giữ chức ả thu tiền, không hà tiện những khóe liếc lẳng lơ, không cân
nhắc những nụ cười đĩ thõa làm say lòng khách. Khúc vũ nhạc nổi lên bằng những điệu,
những lời êm ngọt nhất, khiêu khích nhất của ái tình. Uyên ương và uyên ương ôm nhau
lướt trên sóng mộng, mà kẻ dẫn đầu những con hi sinh của Dâm thần đó, chính là quỷ
119
Satan”. Nhà văn có cái nhìn tinh tế và sâu sắc khi phát hiện ra đằng sau cuộc sống xa hoa,
phù phiếm đó là những số phận cũng vô cùng bất hạnh: “Vũ nữ ngồi rải rác khoe tất cả
những áo quần mới nhất, đẹp nhất, làm bộ mặt vui tươi hơn các ngày thường, mặc dầu ba
ngày Tết, cũng có kẻ trong bọn họ, không nhà trú trọ, đã đi lang thang các phố nhưng
những cô hồn vất vưởng, mặc dầu có kẻ đã đi gõ cửa những anh nhân tình chưa vợ cũng
nghèo nàn vì sẩy lạc gia đình, để xin một li rượu ngọt uống cho lòng khỏi lạnh, cùng ngồi
lặng lặng nhìn nhau chia sẻ nỗi quạnh hiu...”. Truyện ngắn Thềm nhà cũ của Nguyễn
Xuân Huy cũng là một sự nuối tiếc trong vô vọng và một nỗi buồn thấm thía về cuộc
sống bình yên nay đã qua, tất cả đã đổi khác, chỉ còn lại “những thềm nhà xưa, nay trơ ra
dưới nắng với những đống vôi vụn và chân móng tường”. Lan Khai trong tiểu thuyết Cô
Dung cũng có ý thức sử dụng rất nhiều những câu ca dao tục ngữ để miêu tả đời sống
sinh hoạt văn hóa ở nông thôn và diễn tả tâm lí nhân vật và “dường như nhà văn muốn
đánh thức một ký ức tiềm ẩn đẹp đẽ của làng quê Việt Nam” (Vũ Văn Sỹ).
Có thể nói rằng, các nhà văn trong nhóm Tân Dân có một thái độ khá ôn hòa với
những nét văn hóa cũ, với những gì thuộc về thuộc tính và hồn cốt của dân tộc. Điều này
thực ra cũng đã được thể hiện khá rõ nét trong lời tuyên ngôn của tạp chí Tao Đàn năm
1939 khi kêu gọi các nhà văn, không phân biệt nhóm phái, tư tưởng hãy bảo vệ và gây
dựng lấy một nền văn hóa, văn học thuần Việt Nam. Tuy nhiên trong số những vấn đề mà
các nhà văn đề cập đến không phải không có sự bảo thủ, lạc hậu.
3.4 Tính đấu tranh xã hội
Chúng tôi nhận thấy tư tưởng bình dân, thân với tầng lớp dưới đáy xã hội là sợi
dây nối kết các nhà văn trong Tân Dân với nhau. Các tác phẩm của họ không chỉ phản
ánh xã hội theo cảm hứng phê phán mà còn lên án, đấu tranh cho quyền lợi và hạnh phúc
của những tầng lớp khốn khổ trong xã hội xưa. Những sáng tác của Nguyễn Công Hoan,
Ngọc Giao, Lan Khai, Nguyên Hồng, Thanh Châu, Lưu Trọng Lư, Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng... đã dựng nên một bức tranh chân thực, đầy xót xa cay đắng cho những số kiếp
con người trong xã hội cũ. Họ vừa là nạn nhân của những hủ tục thôn quê, của những tập
120
quán văn hóa truyền thống theo kiểu gia trưởng, quyền huynh thế phụ và đồng thời họ
cũng phải chịu cảnh xã hội kim tiền, tư sản đang lên ngôi làm thoái hóa và biến chất
những tình cảm thiêng liêng, quý báu. Nguyễn Công Hoan đả kích sâu cay những thảm
cảnh xã hội đó bằng tiếng cười, Ngọc Giao thì dựng nên những bức tranh u sầu với một
niềm cảm thông sâu sắc, Vũ Trọng Phụng vạch trần những u nhọt xã hội một cách không
thương tiếc và làm người ta phải rùng mình sợ hãi, Nam Cao làm người ta phải day dứt
và đau đáu không nguôi về thân phận con người, Thanh Châu đem đến cho cho độc giả
những suy nghĩ, tâm trạng và uẩn khúc của một lớp tiểu tư sản thị dân nghèo... Do điều
kiện khách quan (sự kiểm duyệt chặt chẽ của Pháp) nên trong các sáng tác của mình các
nhà văn không đứng ra kêu gọi trực tiếp phải tiến hành một cuộc cách mạng nhằm đấu
tranh lật đổ áp bức, tiêu diệt cái xấu nhưng rõ ràng đó cũng là một sự phản ứng mạnh mẽ
để đấu tranh chống lại cái xấu đang lan tràn trong xã hội. Một thái độ được xem là quyết
liệt và mạnh mẽ nhất của nhóm Tân Dân mà Lê Văn Trương (lúc này đang làm chủ
nhiệm tờ Ích Hữu) là người chủ xướng xuất hiện trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm
1938. Chúng tôi xin trích lại ở dưới đây những lời lẽ đầy mạnh bạo, quyết liệt kêu gọi
một cuộc cách mạng trong văn hóa nhằm phủ định và “đánh đổ” một nền văn chương xa
lánh những vấn đề xã hội, chạy theo sự “xùng một vật chất” và “phóng đãng” của Lê Văn
Trương đăng trên Phổ Thông Bán Nguyệt San bìa màu số 1 ra ngày 16/1/1938: “Cách
mạng văn hóa – Nhận thấy phong trào xùng mộ vật chất mỗi ngày một bành trướng, đã
gieo rắc vào xã hội Việt Nam nhiều mầm độc, làm thối nát những giá trị luân lý của nhân
sinh; nhận thấy văn chương phóng đãng và ủy mị, tôi tớ mẫn cán của những ác tập trưởng
giả, có phương hại lớn đến tinh thần tranh đấu của thành niên trong thời khắc nghiêm
trọng này. Chúng tôi đề xướng khẩu hiệu: văn hóa cách mạng và kêu gọi tất cả những
phần tử tâm huyết, trẻ trung của xã hội Việt Nam đồng lòng hiệp sức với chúng tôi thi
hành nó đến triệt để, phản công kịch liệt phong trào xùng mộ vật chất và văn chương
phóng đã, ủy mị”. Thứ “văn chương ủy mị” và “phóng đãng” được nhắc đến chính là văn
chương lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Thế giới nhân vật trong sáng tác của các nhà văn
nhóm Tân Dân về cơ bản thật khác xa với những “chàng” và “nàng” trong tiểu thuyết của
121
Tự lực văn đoàn. Các vấn đề xã hội và tư tưởng đặt ra trong di sản văn chương của nhóm
Tân Dân cũng khác hoàn toàn so với Tự lực văn đoàn vì một bên hướng về xã hội, luân lý
và đạo đức còn một bên lại hướng về con người cá nhân.
Tính đấu tranh xã hội của nhóm Tân Dân không chỉ thể hiện trong các sáng tác.
Nếu để ý kĩ phần tiểu sử chúng ta dễ dàng nhận thấy phần lớn các nhà văn trong nhóm
Tân Dân đều đã từng tham gia vào các phong trào yêu nước trước và sau 1945. Trước
1945, Lan Khai và Nguyễn Triệu Luật tham gia Việt Nam quốc dân đảng; Lê Văn
Trương từng tổ chức phong trào bãi khóa và bị đuổi học (1923); Thâm Tâm, Nam Cao,
Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng... sau này đều tham gia vào phong trào cách
mạng do Đảng Cộng sản– một tổ chức đấu tranh cho quyền sống của tầng lớp bình dân
và giai cấp công nhân, những đối tượng chủ yếu trong sáng tác của nhà văn nhóm Tân
Dân - lãnh đạo.
*
*
*
Ở phần trên chúng tôi vừa phân tích những khuynh hướng văn chương, tư tưởng
nghệ thuật của nhóm Tân Dân nhìn từ những tuyên bố, tuyên ngôn của nhóm trên các cơ
quan ngôn luận như Tao Đàn, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiểu Thuyết Thứ Bảy và thực
tiễn sáng tác của nhóm. Nhìn chung có thể thấy nhóm Tân Dân có một quan điểm văn
chương khá rộng mở, sáng tác mở ra nhiều khuynh hướng khác nhau từ hiện thực đến
lãng mạn nhưng về mặt tư tưởng nhóm Tân Dân có một điểm khác biệt, nhất là trong sự
đối sánh với Tự Lực Văn Đoàn, đó là sự quay trở về và trân trọng những giá trị của quá
khứ, ủng hộ và ngợi ca nếp sống và đạo đức cổ truyền.
122
C. Phần kết luận
Luận văn của chúng tôi đã cố gắng tái dựng lại sự hình thành và phát triển của
nhóm văn chương Tân Dân trong thời gian khoảng một thập kỉ trước cách mạng tháng
Tám (1934 -1945) qua những dấu mốc quan trọng nhất về: sự ra đời các cơ quan ngôn
luận, sự hợp tác và đóng góp của những nhà văn trong nhóm, quan điểm sáng tác cũng
như tư tưởng, khuynh hướng nghệ thuật... Chúng tôi đã tái hiện lại một bức tranh chân
thực về các hoạt động của nhóm xung quanh các cơ quan ngôn luận, trong sự cạnh tranh
với các nhóm văn chương khác về thị trường, tư tưởng... Chúng tôi cũng đã bước đầu có
những khảo sát quan trọng về thể loại và đề tài mà nhóm Tân Dân đã khai thác trong thực
123
tiễn sáng tác. Qua những nghiên cứu đó chúng tôi nhận thấy Tân Dân là một nhóm văn
học lớn, có công hàng đầu trong việc hình thành nên một thị trường văn học chuyên
nghiệp và sôi động trước cách mạng tháng Tám, và cũng chính là nơi để đào luyện nên
nhiều nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Nhóm Tân Dân đã phát triển mạnh mẽ
nhờ vào sự “mở” trong tư tưởng và quan niệm nghệ thuật, dung nạp cả cũ và mới, cả lãng
mạn và hiện thực. Về tư tưởng đạo đức, Tân Dân đặc biệt chú trọng và đề cao mô hình
đạo đức truyền thống và ngợi ca nhiều về quá khứ qua đó gián tiếp biểu hiện một tình yêu
nước kín đáo và mạnh mẽ. Trong luận văn này, mặc dù đã rất cố gắng nhưng do giới hạn
về thời gian, quy mô của một luận văn thạc sỹ nên còn nhiều vấn đề, nhiều nhân vật
chúng tôi chưa đề cập kĩ hoặc chỉ điểm tên chỉ mặt lướt qua. Trong các công trình tới
chúng tôi sẽ cố gắng phục những nhược điểm này để có một cái nhìn kĩ lưỡng và hoàn
thiện hơn về nhóm Tân Dân.