ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-----------------------------------------------------
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRƯƠNG THỊ HẢI
TRƯỚC TÁC CỦA PHAN MẠNH DANH TRONG
BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội-2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-----------------------------------------------------
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRƯƠNG THỊ HẢI
TRƯỚC TÁC CỦA PHAN MẠNH DANH TRONG
BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Ngọc Vương
Hà Nội-2012
2
Chú thích
-Trong luận văn chúng tôi trích dẫn nguyên văn các tư liệu về tác giả và
tác phẩm của Phan Mạnh Danh và để trong ngoặc kép. Song, có tài liệu
chúng tôi đã sửa lại một số lỗi chính tả cho phù hợp với quy ước chính tả hiện
thời.
- Do tư liệu thu thập được đã cũ, có nhiều chỗ khó đọc mà không có văn
bản khác để đối chiếu nên chúng tôi trích dẫn nguyên văn nhưng để ở dạng
nghi vấn bằng cách đánh dấu (?) ngay sau chữ nghi vấn. Ví dụ: vậng (?)
3
trong bài Liễu âm tống biệt trang 50.
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu ............................................................................................ 6
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 8
3. Nhiệm vụ của đề tài .................................................................................. 11
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 12
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 12
7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 12
B. Phần nội dung ........................................................................................ 13
Chương 1: TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG ................................................ 13
1.1. Giai đoạn 1 (Từ năm 1866 đến năm 1887)............................................. 14
1.2. Giai đoạn 2 (Từ năm 1888 đến năm 1915)............................................. 16
1.3. Giai đoạn 3 (Từ năm 1916 đến năm 1942)............................................. 20
Chương 2: TRƯỚC TÁC CỦA PHAN MẠNH DANH ............................ 26
2.1. Giai đoạn trước năm 1900 ..................................................................... 30
2.1.1. Đời sống xã hội và văn học................................................................. 30
2.1.2. Những trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh trước năm 1900 ....... 33
2.2. Giai đoạn từ năm 1900 đến năm 1930 ................................................... 50
2.2.1. Đời sống xã hội và văn học................................................................. 50
2.2.2. Trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh từ năm 1900 đến năm 1930 ..... 55
2.3. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1942 ................................................... 80
2.3.1. Đời sống xã hội và văn học................................................................. 80
2.3.2. Trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh từ năm 1930 đến năm 1942 ... 85
4
Chương 3: PHAN MẠNH DANH – NHÀ NHO TÀI TỬ......................... 95
TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM ............. 95
3.1. Nhìn chung về đặc điểm của lớp nhà nho tài tử trong văn học Việt Nam ... 95
3.1.1. Nhà nho tài tử và sự phát triển của văn học thế kỉ XVIII - XIX .......... 95
3.1.2. Tản Đà – Nhà nho tài tử “kiểu mới”, mô hình nhà nho thích ứng với môi
trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. ................................. 97
3.2. Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử “kiểu cũ”, mô hình nhà nho đề kháng
với môi trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, những cống hiến
của ông trong việc phục hưng nền văn học văn hóa truyền thống ............... 101
3.2.1. Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử “kiểu cũ”, mô hình nhà nho đề kháng
với môi trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX ................... 102
3.2.2. Những cống hiến của Phan Mạnh Danh trong việc phục hưng nền văn học
văn hóa truyền thống .................................................................................. 111
C. Phần kết luận ....................................................................................... 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
PHỤ LỤC
A. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Để nhận diện những đặc trưng tiêu biểu của một giai đoạn văn học
người nghiên cứu thường tìm đến cách tiếp cận các tác giả lớn đại diện cho một
tổ chức, một khuynh hướng, một trào lưu văn học nào đó. Cách tiếp cận này sẽ
giúp cho người nghiên cứu nhận diện, khái quát được những đặc điểm lớn nhất
của một giai đoạn văn học thể hiện trong một hoặc một vài đại diện tiêu biểu.
Tuy nhiên, đời sống văn học vốn vô cùng phức tạp và phong phú, bên cạnh
những cá nhân kiệt xuất, nổi bật đã được đào sâu nghiên cứu vẫn còn tồn tại
những hiện tượng văn học độc đáo khác ít nhiều cũng góp phần vào tiến trình
vận động của văn học Việt Nam thì ít hoặc hầu như chưa được nghiên cứu.
Nghiên cứu những trường hợp này là một cách để trả lại cho họ vị trí xứng đáng
trong nền văn học. Đồng thời là cách để khẳng định hay làm chính xác hóa hơn
một hay một vài đặc điểm của giai đoạn văn học mà tác giả đó tồn tại. Cũng có
khi nghiên cứu những tác giả “vô tình bị bỏ quên” này sẽ là sự bổ khuyết ở một
phương diện nào đó cho những công trình nghiên cứu trước đó. Bởi thế, tìm đến
những vùng đất còn tương đối hoang sơ và mới mẻ luôn là nhiệm vụ của người
nghiên cứu khoa học.
1.2. Từ lâu trong giới nghiên cứu văn học, đa số đều thừa nhận trong tiến
trình văn học Việt Nam từ văn học trung đại sang văn học hiện đại có một sự đứt
gẫy sâu sắc. Mặc dù, giới nghiên cứu vẫn dành cho giai đoạn văn học này một
6
danh xưng là: văn học cận đại, song việc nghiên cứu các tác giả đại diện thuộc
giai đoạn này chủ yếu hướng tới đặc điểm “văn chương yêu nước”, đặc điểm
“hiện đại hóa văn học” – dù đó là những đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn
này. Bên cạnh đó vẫn có những nhà nho âm thầm giữ gìn, bảo tồn vốn văn hóa
truyền thống của dân tộc bằng các sáng tác của mình. Và rất có thể chính những
tác giả này là những viên gạch lấp đầy vết đứt gẫy xưa nay vẫn tồn tại giữa hai
giai đoạn văn học. Nghiên cứu trường hợp Phan Mạnh Danh, chúng tôi thấy ông
có nhiều khả năng bổ khuyết vào chỗ đứt gẫy này.
1.3. Từ cuối thế kỉ XIX, Tân thư tân văn được truyền bá và gây ảnh hưởng
rộng rãi trên đất nước ta. Nhiều nho sinh của cửa Khổng sân Trình đã trở thành
lực lượng đi tiên phong trong việc bài xích nền cựu học truyền thống và chế độ
khoa cử lỗi thời. Họ tìm đến một lối văn chương mới lạ với ngôn ngữ, đề tài,
cảm hứng, thể loại khác xa với văn học truyền thống. Tiêu biểu phải kể đến các
chí sĩ yêu nước đã dùng văn chương vào mục đích đấu tranh cách mạng và chính
trị như: Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu
Trinh, Ngô Đức Kế, Đào Nguyên Phổ, Trần Quý Cáp, Nguyễn Lộ Trạch,
Nguyễn Trường Tộ… Có thể nói Tân thư trở thành làn gió mới mẻ bao trùm lên
đời sống xã hội, văn học lúc bấy giờ. Như đứng ngoài sự ảnh hưởng đó, Phan
Mạnh Danh vẫn tìm về với lối thơ cổ, dốc tâm huyết để làm mới nó. Thực tế sự
cố gắng của ông đã có những thành công đáng kể.
1.4. Ba thập niên đầu thế kỉ XX, trong các thành thị Việt Nam xuất hiện
bộ phận văn học mới phân biệt rõ rệt với bộ phận văn học truyền thống ở nông
thôn. Văn học thành thị ra đời đã làm thay đổi cả quan niệm văn học: văn học
phải đi theo hướng cận, hiện đại của thế giới; thay vì thói quen diễn đạt tư tưởng
tình cảm bằng thơ ca văn vần như trước, văn xuôi phát triển khá nhanh chóng đi
gần với tiếng nói thông tục để phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống. Những
7
thay đổi có tính chất bước ngoặt đó đưa văn học Việt Nam tiến nhanh vào quỹ
đạo hiện đại của thế giới, và văn học truyền thống ngày càng bị thu hẹp, mất vị
trí trong đời sống văn học đương thời. Trước những thay đổi chóng mặt đó, một
số nhà nho đã tỏ thái độ nuối tiếc những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc, họ
vẫn sáng tác bằng thứ ngôn ngữ cũ, vẫn những lối văn cũ thậm chí còn có ý định
phục hưng nền văn hóa, văn học cũ. Bên cạnh những thành tựu của một nền văn
học mới thì những sáng tác của họ không phải là không có ý nghĩa tích cực làm
nên tinh hoa của một giai đoạn văn học. Chúng tôi muốn minh chứng điều đó
qua nghiên cứu trường hợp Phan Mạnh Danh.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài luận văn Trước tác của
Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Qua khảo sát, cho đến nay, chúng tôi thấy nghiên cứu về tác giả Phan
Mạnh Danh và trước tác của ông vẫn còn nhiều khoảng trống chưa được giới
nghiên cứu động chạm đến. Ngoài các tập văn thơ đã được xuất bản, về tác giả
Phan Mạnh danh và thơ văn của ông mới chỉ có một số nhà nghiên cứu, phê bình
quan tâm. Có thể kể đến đó là:
2.1. Trong Từ điển văn học Bộ mới (NXB Thế giới) và trong cuốn Các tác
giả văn chương Việt Nam, tập 2, NXB Văn hóa thông tin nhà nghiên cứu Đặng
Thị Hảo và Trần Mạnh Thường đều đề cập đến Phan Mạnh Danh như là một tác
giả văn học lớn. Trong mục từ của mình, cả hai nhà nghiên cứu đã có cái nhìn
toàn diện về cuộc đời và văn nghiệp sáng tác của Phan Mạnh Danh một cách
khái quát nhưng khá đủ để đánh giá đây là một tác giả có tầm xứng đáng trong
nền văn học Việt Nam. Bài nghiên cứu có đưa ra một số nhận xét của cá nhân
người viết và trích dẫn nhận định của các nhà nghiên cứu, phê bình đương thời
về một số tác phẩm của ông như: Bút hoa thơ tập cổ, Hà Giang nhật trình,
8
Nguyệt hồ bát vịnh, Xuân mộng, Tuồng Hoa tiên… Không chỉ đánh giá cao Phan
Mạnh Danh ở phương diện sáng tác, các tác giả còn ghi nhận tài năng, công lao
của ông trong việc dịch thuật các tác phẩm Trung Quốc sang quốc ngữ, biên
soạn Thực dụng thành ngữ (gồm 4 tập) để dạy học trò… Tuy nhiên, cả hai công
trình nghiên cứu này đều chỉ dừng lại ở sự tổng thuật một cách đơn giản nhất
cuộc đời và trước tác của Phan Mạnh Danh, biến nó thành chìa khóa để mở ra
nhiều cánh cửa cho người nghiên cứu tiếp theo chứ chưa đem đến cho người đọc
một sự tiếp cận đến chân giá trị của tác phẩm và tài năng của tác giả một cách cụ
thể.
2.2. Cùng thời với Phan Mạnh Danh, Phạm Quỳnh có thể được coi vừa là
người bạn vong niên, vừa là nhà nghiên cứu phê bình văn học đã có nhiều bài
viết giới thiệu, đánh giá cao phẩm chất và tài năng của ông. Tiêu biểu là lời tựa
mở đầu cho cuốn Bút hoa giới thiệu và đánh giá giá trị của cuốn Bút hoa. Tiếp
sau đó là bài diễn văn bằng tiếng Pháp Một nhà thơ cổ điển Việt Nam đọc tại
phòng Hội nghị Huế ngày 3/5/1943 do Nguyễn Tiến Lãng dịch ra tiếng Việt in
trong cuốn Xuân mộng. Bài viết đã trình bày rất rõ ràng, mạch lạc về phẩm chất
của một “nhà nho thuần nho”,những áng “thơ thuần túy”, những ý muốn cao cả
để phục hưng nền văn hóa, văn học truyền thống; đồng thời cũng giới thuyết đôi
nét về cái ái tình của “học giả đạo Khổng” trong tập thơ Xuân mộng, về lối chơi
thơ “cầu kì hiếm có” trong cuốn Bút hoa. Tất cả những điều đó, chung cục lại
Phạm Quỳnh muốn giới thiệu với đương thời một “nhà thơ cổ điển” sừng sững
giữa cơn bão táp văn học Á Âu. Triển khai đề tài này là chúng tôi tiếp tục con
đường đi của Phạm Quỳnh nhưng ở một phạm vi rộng lớn hơn là toàn bộ trước
tác của Phan Mạnh Danh.
2.3. Trên một số báo và tạp chí lúc bấy giờ cũng có một số bài trích dẫn,
đăng thơ của Phan Mạnh Danh như Hải Phòng tuần báo, Tứ dân tạp chí... Trên
9
báo cũng xuất hiện một số bài phê bình, tiêu biểu là bài viết Thi văn tập của cụ
Phan Mạnh Danh của tác giả Song Cối in trên tạp chí Tri Tân. Sau khi kể ra
những ưu điểm, tài năng của Phan Mạnh Danh trong thơ văn Hán, thơ văn dịch
và thơ Nôm, Song Cối đã chỉ ra cả những hạn chế, nhược điểm và cho rằng “tác
giả là một tay thợ thơ rất tinh công”. Thực hư thế nào chúng tôi xin góp ý kiến
trong công trình nghiên cứu của mình.
2.4. Tạp chí Hán Nôm tập 1 số 104 năm 2011 có đăng bài viết của
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh với nhan đề Sức hấp dẫn của Truyện Kiều với
danh sĩ Bắc Hà – Trường hợp Phan Mạnh Danh, tác giả bài viết đã lược lại sự
mến mộ của danh sĩ Bắc Hà dành cho Truyện Kiều từ trước những năm 1807 cho
đến khi cuốn Bút hoa được xuất bản. Quan trọng hơn tác giả đã làm công việc
giới thiệu lại chân dung Phan Mạnh Danh - một tác giả văn học vô tình bị quên
lãng trong khoảng mấy mươi năm. Tác giả dành phần lớn bài viết của mình giới
thiệu về cuốn Bút hoa thơ tập cổ, lựa chọn những bài hay biên dịch lại để giới
thiệu với bạn đọc về lối chơi thơ của một “khách chơi thơ sành sỏi”. Như vậy,
bài viết mới chỉ chạm tới bề sâu của một trong số những trước tác của tác giả họ
Phan, đó chưa đủ để đánh giá vai trò vị trí của ông trong tiến trình vận động phát
triển của văn học Việt Nam.
Như vậy, nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới dừng lại
ở phạm vi cá nhân con người, hoặc liệt kê đánh giá sơ bộ hệ thống các sáng tác,
hoặc giới thiệu, phẩm bình một trước tác của Phan Mạnh Danh mà chưa đặt ông
vào trong tiến trình vận động của nền văn học. Thiết nghĩ, chỉ khi đặt tác giả vào
trong tiến trình hiện đại hóa văn học 30 năm đầu thế kỉ XX mới có thể chỉ ra
được những đóng góp cũng như hạn chế của ông. Triển khai đề tài “Trước tác
của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam”, chúng
tôi sẽ cố gắng tạo dựng một cái nhìn toàn diện, đa chiều về con người và trước
10
tác của Phan Mạnh Danh trong tiến trình vận động văn học Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XX.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Luận văn của chúng tôi hướng đến làm rõ các vấn đề sau:
- Nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ toàn bộ cuộc đời và văn
nghiệp của Phan Mạnh Danh.
- Chỉ rõ thế ứng xử của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn
học Việt Nam. Hoạt động sáng tác văn chương và biên soạn sách của ông lúc đó
đều nhằm mục đích duy trì và bảo tồn những giá trị văn hóa cổ truyền, nó khác
xa với xu thế thời cuộc lúc bấy giờ. Chính sự khác biệt này đã đưa ông trở thành
một trong số ít ỏi những người đã có những nỗ lực xóa mờ đi vết đứt gẫy sâu sắc
giữa hai giai đoạn văn học.
- Trên cơ sở lí thuyết về loại hình học tác giả tiến hành nhận định loại hình
tác giả đối với Phan Mạnh Danh.
- Đánh giá những công lao của Phan Mạnh Danh trong việc giữ gìn, bảo
tồn, phục hưng nền văn học văn hóa nước nhà.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để làm rõ đề tài Trước tác của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại
hóa văn học Việt Nam chúng tôi đặt mục tiêu khảo sát toàn bộ những tài liệu do
nhà thơ sáng tác và / hoặc biên tập, phiên dịch bao gồm: các tác phẩm thơ, thơ
tập cổ; kịch bản tuồng do chính Phan Mạnh Danh sáng tác; thơ văn dịch; biên
tập điển tích văn học và thực dụng thành ngữ. Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành
tiếp thu và nhận định lại một số ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình từ trước
đến nay viết về ông và thơ văn ông. Tuy nhiên, sinh thời Phan Mạnh Danh
không coi việc sáng tác thơ văn là một nghề, không lấy sự nổi tiếng làm mục
đích chính nên dù đã rất cố gắng chúng tôi cũng chỉ sưu tầm được đa số (chứ
11
không phải toàn bộ) những tư liệu về tác giả và tác phẩm. Đó là một phần hạn
chế, song cũng có thể xem là đủ để nghiên cứu trong khuôn khổ một luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu triển khai đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp như: phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp lịch đại;
phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử
cụ thể. Tùy từng vấn đề mà chúng tôi có sự lựa chọn hay phối kết hợp nhiều
phương pháp.
6. Đóng góp của luận văn
Trong dòng chảy của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ
XX, bên cạnh những nhà nho thuận theo xu thế của thời đại, và do đó có đóng
góp khá nhiều vào tiến trình vận động hiện đại hóa văn học; bên cạnh những nhà
nho nặng lòng với nghiệp khoa cử với tư tưởng đạo đức nho gia, không thích
nghi được với việc mất vị trí độc tôn của hệ tư tưởng nho giáo chính thống, do
vậy đã bỏ cuộc, tỏ thái độ bàng quan với thế sự nhân sinh; vẫn có những cá nhân
đi ngược chiều tiến trình hiện đại hóa văn học nhưng bước một cách lặng lẽ để
tìm về với những giá trị văn học cổ truyền đã bị mất đi quá nhanh chóng. Phan
Mạnh Danh thuộc trường hợp thứ ba. Ông trở thành một trong số ít ỏi những nhà
nho - tác giả xóa mờ vết đứt gẫy giữa hai giai đoạn văn học, là một tác giả quan
trọng trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam.
Chúng tôi mong muốn với quá trình nghiên cứu và làm việc nghiêm túc
luận văn sẽ là một tiếng nói trả tác giả Phan Mạnh Danh về đúng vị trí của mình
trong nền văn học; đồng thời tạo điều kiện cho những người nghiên cứu sau tìm
hiểu sâu hơn về những cống hiến của ông cho nền văn học nước nhà.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi gồm 3 chương chính với các nội dung cụ thể sẽ
12
được trình bày như ở dưới đây.
B. Phần nội dung Chương 1:
TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG
Xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên ngày nay là nơi sinh thành và
nuôi dưỡng danh tướng Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) – người đã có công lớn
trong việc giúp nhà Trần đánh đuổi giặc Nguyên Mông. Về đây, ngoài những di
tích lịch sử như: lăng Phạm Tiên Công, đền thờ Phạm Ngũ Lão lưu giữ những
chứng tích về người anh hùng cứu nước thuở nào còn có nhiều những di tích của
một nền văn hóa, văn học lâu đời đến nay vẫn được lưu giữ và bảo tồn. Đi hết
con đường về làng là cổng làng Phù Ủng cao to sừng sững, tiếp đến là Đền Mẫu,
Đình làng, nhà bia, Tam Quan… Các kiến trúc đình, đền hòa với cảnh quan thiên
13
nhiên tạo nên một không gian văn hóa đặc trưng của vùng đất này. Gần một thế
kỉ đã trôi qua kể từ khi kì thi Hán học cuối cùng ở Bắc Kì chấm dứt (1915), dù
trải qua bao năm binh lửa chiến tranh nhưng những chứng tích của một nền Hán
học vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn tưởng như đây là nền văn hóa của một đế
đô Thăng Long thu nhỏ. Trên các bức tường đình, cổng làng, Tam quan còn khắc
in khá nhiều các câu đối, các bài thơ, các bức hoành phi bằng chữ Hán. Điều đặc
biệt hơn, khi hỏi về nguồn gốc, tác giả của những câu chữ này người dân nơi đây
thường nhắc đến cái tên Phan Mạnh Danh với niềm tự hào, kính trọng.
Phan Mạnh Danh sinh ra tại Nam Định nhưng quê quán ở làng Phù Ủng, phủ
Ân Thi (nay là xã Phù Ủng, huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Trong nhiều tài liệu,
ông còn có tên bút danh là Phan Phù Giang. Cuộc đời tác giả là những chặng đường
đi về giữa hai vùng đất này, và dù ở đâu ông cũng để lại những dấu ấn khó phai
trong lòng người dân và lòng quê hương đất nước. Để nghiên cứu Tiểu sử hành
trạng của Phan Mạnh Danh, chúng tôi sẽ chia làm ba giai đoạn tương ứng với các
mốc thời gian quan trọng và sự kiện nổi bật trong cuộc đời tác giả.
1.1. Giai đoạn 1 (Từ năm 1866 đến năm 1887)
Đây là giai đoạn Phan Mạnh Danh còn ấu thơ cho đến khi trưởng thành,
chủ yếu sống tại Nam Định.
Phan Mạnh Danh sinh ngày 12/12/1866 (tức mùng 6 tháng 11 năm Bính
Dần), tại Nam Định, là con trưởng Thị độc Phan Trác Hoạt, lập nghiệp ở Nam
Định đã lâu (phỏng đoán từ Họ Phan đời thứ X: con thứ sáu của Phan Trác Miên
là Phan Trác Hoàng dời sang Nam Định, nay nhà từ đường họ ở số 224, phố Hàn Thuyên , thành phố Nam Định)1. Ông là cháu nội của cụ Phan Trứ đỗ Hoàng
Giáp (1832) triều Minh Mệnh, làm quan đến Tuần phủ Khánh Hòa. Thuở nhỏ,
1 Giaphahophan.com
14
ông có tên chữ là Trung, sau đổi thành Mạnh Danh, hiệu là Thế Vọng. Lên năm
lên sáu tuổi, cậu bé Trung đã tỏ ra là người thông minh khác thường. “Thi lễ vốn
nhà”, lên tám, chín tuổi cậu bé Trung theo học cậu là cụ cử Trần Như Sơn, Tri
huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình. Ngoài mười tuổi lại theo học anh họ là cụ cử Vũ
Cần, làm Giám lâm Ninh Bình. Lúc bấy giờ trong làng cũng có nhiều bậc danh vọng như thủ khoa Nguyễn Đình Khanh (Tác giả cuốn Ngọc Kiều Lê diễn ca)1,
cử nhân Nguyễn Đình Thành, cậu bé Trung đều được theo học nên văn chương
vốn có nề nếp. Sau Phan Mạnh Danh còn đến theo học ông Nghè Hành thiện
Đặng Xuân Bảng ở Nam Định. Ở đây vốn đã đào tạo ra nhiều bậc danh sĩ, thế
nhưng Phan Mạnh Danh cũng đứng vào hàng cao đệ. Năm 17 tuổi (1883) Phan
Mạnh Danh tham gia kì thi Hương và được vào ngay kì đệ tam.
Ngoài tài học, Phan Mạnh Danh còn nổi tiếng bởi tài hội họa. Lúc bấy giờ,
tại Quảng Đông hội quán tỉnh Nam, người ta hay tổ chức cuộc thi hội họa, trong
mấy năm liền Phan Mạnh Danh đều chiếm giải nhất. Thú chơi tranh của ông
cũng có nét độc đáo riêng. Không chỉ đơn thuần vẽ tranh tả cảnh, ngụ tình mà
ông còn vẽ tranh để ngụ ý cho thơ . Bức vẽ Học họa hồ chính là ngụ ý cho bài
thơ Chuyết đề trang 46 cuốn Bút hoa:
Muội khước thì xu dữ thế đồ,
Do năng tục sĩ hựu cuồng nô.
Khuy ban tự chủy vô toàn báo,
Tập dịch do lai phỉ nhất hồ.
Tân giới sai cường tranh cựu giới,
Cố ngô hoàng hạ vấn kim ngô.
Thiên hiềm san hậu vong nan bổ,
Tiếu đảo huy mao học họa hồ.
1 Theo Tử tấn Đào Sỹ Nhã. Cần phân biệt Ngọc Kiều Lê diễn ca của Nguyễn Đình Khanh với Ngọc Kiều Lê tân truyện của Lý Văn Phức.
15
Dịch nghĩa:
Không lấy gì làm sáng láng, cũng theo thời dấn bước trên đường đời,
Còn có thể làm kẻ sĩ tầm thường, lại là kẻ cuồng cho người sai khiến.
Nhòm qua chiếc ống tất không thấy được toàn vẹn nét vằn trên mình con báo.
Chắp nhặt miếng da dưới nách, xưa nay vốn chẳng phải cả bộ da con chồn.
Giới mới mạnh hơn đang tranh thắng với giới cũ,
Cái ta xưa chưa rảnh để chất vấn với cái ta hôm nay.
Chỉ ngại rằng sau khi in rồi, khó có dịp sửa sang, bổ khuyết,
Nhưng cứ cười ngất vung bút mà tập tành học vẽ.
(PGS.TS Trần Thị Băng Thanh dịch nghĩa)
Năm 20 tuổi (1885), Phan Mạnh Danh có gặp một nữ sỹ con nhà thế phiệt,
tài sắc gồm hai. Tri âm gặp gỡ, tình cảm gắn bó khăng khít, thư tín đi về. Thời
gian này, ông viết tập văn Nôm Mấy bức tiên hoa theo lối lục bát và song thất
lục bát. Tiếc thay “hảo sự đa ma”, tình cảnh khéo trêu người tri âm nên cuối
cùng kẻ Bắc người Nam.
1.2. Giai đoạn 2 (Từ năm 1888 đến năm 1915)
Sau khi lập gia thất, đây là thời gian dài nhất ông ngụ tại tỉnh lỵ Hưng
Yên, cũng là giai đoạn ông tham gia nhiều nhất các hoạt động đàm đạo và sáng
tác văn học.
Năm 23 tuổi (1888), ông kết duyên với con gái cụ kép Trần Xuân Luyện
cũng là một nhà thi lễ trong làng và ngụ tại quê cha đất tổ là làng Phù Ủng, phủ
Ân Thi, tỉnh Hưng Yên . Có được người vợ đảm đang, lại am tường thơ văn chữ
nghĩa nên Phan Mạnh Danh có nhiều cơ hội để chuyên tâm vào thú vui văn
chương và sau này mở trường dạy học. Được ít lâu, Tiên Thái Công tạ thế, ông
về Nam Định chịu tang. Khi đoạn tang, năm 1892, vừa dịp tỉnh Hưng Yên có
quan đốc học là Hoàng giáp Nguyễn Viết Bình và các quan Phủ, Huyện, Huấn,
Giáo đều là những bậc danh nhân (Thủ khoa Đặng Trần Vỹ, Nguyễn Tấn Cảnh,
16
Lê Thỉnh Chu, Nguyễn Đức Tú…), quan nghè Chu Mạnh Trinh mới đỗ đại khoa
(Nhâm Thìn 1892) về mở trường dạy học. Bạn bè thân hữu vốn thích văn
chương, tài học và tính tình của Phan Mạnh Danh đều khuyên mời Phan về theo
học thầy Hoàng giáp Nguyễn. Ông bèn dắt gia quyến lên Hưng Yên để cùng bạn
bè học tập.
Tuy vốn nhà thanh bạch nhưng chủ nhà lại có lòng hiếu khách, mà phu
nhân cũng là người am tường chút chữ nghĩa văn chương, học thức nhiều nên
danh sĩ mọi nơi, hễ đến chốn Nguyệt hồ ai cũng lấy nhà Phan làm nơi nhã tập,
chủ nhà cũng vui lòng khoản đãi khách văn chương.
Năm 31 tuổi (1896), ông nghĩ ra lối Kiều tập thơ cổ theo điệu thơ thổng
của đào nương. Sau hơn 4 năm miệt mài thi sĩ làm ra được một tập hơn 60 bài
liên cú và hơn 300 bài cách cú, nhan đề là Bút hoa thi thảo. Ngay từ hồi mới
soạn xong tập thơ đã được nhiều danh sĩ đề tặng thơ như Nguyễn Tấn Cảnh, Chu
Mạnh Trinh, Phạm Văn Thụ, Vũ Tuân; lại được nhiều người chép ra để lưu hành
trong Nam ngoài Bắc. Sau Phan Mạnh Danh cũng có nhiều lần sửa chữa lại,
thêm thắt vào, lựa chọn thành một bản tinh tế hơn. Trước khi in thành sách vào
năm 1942, một số bài tập Kiều của Phan cũng được đăng trên báo Tứ dân tạp
chí, Hải Phòng tuần báo…
Năm 32 tuổi (1897), ông phải đưa một người em là Phan Như Xuyên lên
Hà Giang làm Thông phán tòa sứ ở đấy. Nhân dịp này, ông viết một tập văn
Nôm song thất lục bát nhan đề là Hà Giang nhật trình (Nhật kí hành trình đi Hà
Giang).
Tháng ba năm Mậu Tuất (1898), nhân có hội đình bà Tống Thái Hậu –
một tòa cổ miếu trên bờ Nguyệt hồ tại Hưng Yên, Tổng đốc Phạm Văn Toán có
mở cuộc thi thơ Nguyệt hồ bát vịnh. Cuộc thi thu hút nhiều danh sĩ Bắc kỳ tham
gia. Yêu cầu bài làm chỉ trong một buổi tối trên những chiếc thuyền có kết hoa
17
đăng đủng đỉnh qua lại trên mặt nước Nguyệt hồ. Cuộc thi này Phan Mạnh Danh
đã chiếm giải nhất do tám bài luật thi tập cổ. Năm bài trong số tám bài này sau
được tinh tuyển trong cuốn Bút hoa.
Là một khách tài hoa lại giàu tình cảm nên câu chuyện tình thuở đôi mươi
giữa “người quốc sắc, kẻ thiên tài” cơ hồ Phan Mạnh Danh không dễ mà quên đi
được:
Vì đâu nên nỗi dở dang
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Vào hồi tháng ba nhuận năm Mậu Tuất (1898) trong một giấc mộng đêm
xuân ở trên tỉnh Lạng, ông lại thấy nàng “gót sen lững đững”, “từ đâu mà đến”,
“ân cần hỏi thăm”. Giấc mộng đã làm đề mục cho tập thơ chữ Hán là Xuân mộng
ra đời, dùng đủ 30 vần bằng. Tập thơ đã được nhiều thi sĩ văn nhân thưởng thức
như tập thơ “khiển sầu của cổ nhân”.
“Cửa Trình Chu đà nổi tiếng nho lưu / Vườn Lý Đỗ cũng vào hành thi bá”1, ấy vậy mà kì thi khoa Canh Tý (1900) Phan Mạnh Danh có tham gia những
mong sẽ trả được nợ bút nghiên, nào ngờ vì bạn là Lê Sĩ Nghị nên bị hỏng oan.
Về việc này Tôn Thất Lương có nói: “Hỏng thi là một sự thường nhưng có tài
hơn người, lại vì bạn mà hỏng thì cũng là một việc rất không may” [39]. Uất giận
thành bệnh, trên đường thuê thuyền về Hưng Yên, ngồi trong thuyền Phan Mạnh
Danh cũng có làm một bài thơ ngâm lãng để giải buồn:
ỨNG THI BỊ TRUẤT BÃO BỆNH QUY CHU
Trấp tải trần ai ngộ tích du
Phù trầm thân thế trọng hư châu.
1 Xem phụ lục 1
18
Lục nan điền hải ân thành oán,
Sầu bất đương phong bệnh hựu sầu.
Tự suyện tài sơ ưng kiến khí,
Khả lân nhan hậu thả hàm tu.
Giai âm trực đãi Hồng mai tín
Na vãn hoàng hoa, dĩ quá thu.
Môn đệ Vũ Mộng Hùng dịch thơ:
Ứng thi bị truất…
Đường trần nhẫm nhỡ mấy mươi niên,
Thân thế lênh đênh nặng chiếc thuyền.
Bể lấp chưa thành ơn để oán,
Gió đương không nổi bệnh thêm phiền.
Đành tài kém thế nên ruồng bỏ,
Thẹn mặt giầy kia khéo đảo điên.
Tin tức Hồng mai ngày những đợi,
Hoa vàng thu đổi đã bao phen.
Năm 1905, tại Hưng Yên, Tổng đốc Lê Hoan có tổ chức cuộc thi thơ Đề
Thanh Tâm Tài Nhân lục, một lần nữa Phan lại cùng với danh sĩ Bắc kì dự thi.
Trong bài thi, Phan Mạnh Danh đã làm một bài tựa chữ Hán, 21 bài thơ chữ Hán,
21 bài thơ Nôm phỏng theo những bài chữ [ý chỉ chữ Hán – TTH]. Giọng văn
kín đáo, nghiêm trang khác hẳn tập thơ Xuân mộng. Tuy không giành giải nhất
nhưng tập thơ đã chiếm được địa vị rất cao. Cụ Tam nguyên Yên Đổ và cụ Giải
nguyên Vân Đình rất thích những câu như:
Có mộng tìm đâu cho thấy bạn
19
Đứt hồn thương lắm biết chăng ai?
Hoặc câu:
Mộng tàn gối gió khi hơi lạnh
Hồn đứt chuông sương lúc tiếng rền.
Sau cuộc thi thơ Đề Thanh Tâm Tài Nhân lục, danh tiếng đồn xa, nhiều
người đến xin cho con em học. Ngôi nhà là nơi “nhã tập” thuở nào lại trở thành
trường chuyên dạy chữ Hán để đi thi, tên gọi: thầy giáo Trọng cũng “khai sinh”
từ đây. Trường tuy mới mở nhưng cũng có mấy trăm người đến học. Sau cũng có
nhiều ông văn chương có tiếng.
Năm 43 tuổi (1908), sau khi huyên đường tạ thế, ông được cử làm giáo
học trường Đệ nhất cấp của tỉnh lỵ Hưng Yên, trong dinh quan đốc học. Việc
dạy học, ông rất chuyên tâm, ông soạn ra nhiều sách giáo khoa như bộ Việt Nam
danh nhân diễn ca và quyển Vật lí học bằng chữ Nôm (1909), quyển Vạn vật học
và Ngũ đại châu địa dư bằng chữ Hán (1910); sách có rất nhiều họa đồ do chính
ông vẽ ra. Học trò nhờ sách ấy mà thi đỗ rất nhiều. Sau mấy lần được khen ngợi,
khuyến khích, ông lại được thưởng hàm.
1.3. Giai đoạn 3 (Từ năm 1916 đến năm 1942)
Đây là thời gian ông sống chủ yếu tại Nam Định những năm cuối đời.
Năm 1916, khi đã ngoài 50 tuổi, ông cáo về. Nhân lúc nhàn rỗi ông về
Nam Định sống với con trưởng là Phan Thế Roanh. Những lúc rỗi rãi, ông lại
nghiên cứu về y học, nhưng không để kinh doanh, hễ xa gần có ai cần là ông sẵn
sàng giúp đỡ. Vì thế, trong mấy năm ông lại nổi tiếng là một vị lương y.
Năm 1917, dựa vào Truyện Nôm Hoa tiên – một truyện có ý nghĩa, đủ bi
hoan ly hợp đã được diễn ca thành một áng văn tuyệt tác, có thể sánh với Truyện
Kiều, ông đã biên soạn thành một vở tuồng cổ, vừa Nôm vừa chữ, nhan đề là
Tuồng Hoa tiên.
Ở bên Tàu lúc ấy lại truyền đọc một quyển tiểu thuyết của Từ Chẩm Á
20
nhan đề là Đa tình hận. Tác phẩm nói về cái họa tự do trong nữ giới nước Tàu.
Tự nghĩ: “Sách ấy có thể đánh thức những si nam oán nữ đương trong giấc mộng
say mê” ông đem dịch Nôm vào năm 1919. Trên đầu bản dịch này ông có đề một
bài tựa bằng quốc văn theo lối biền ngẫu rất mực tài tình. Rất tiếc chúng tôi chỉ
tìm thấy phần Lời tựa và chương thứ nhất của bản dịch Đa tình hận. Vì thế phạm
vi nghiên cứu cũng sẽ chỉ dừng lại ở giới hạn tư liệu cho phép.
Dịch xong Đa tình hận ông tiếp tục dịch bộ Tình sử của Tàu. Tình sử ghi
chép nhiều “câu chuyện li kì”, mỗi chuyện lại có nhiều “thơ từ của những danh
nhân tài tử đời xưa”, “có thể làm khuôn mẫu cho người học thơ được”. Ông bắt
đầu dịch và hoàn thành bộ Tình sử vào năm 1920.
Năm 59 tuổi (1924), trong làng có nhiều việc sửa sang, vốn được nhiều
người yêu mến kính trọng, lại rất sành về hội họa và kiến trúc nên Phan Mạnh
Danh phải đảm nhận chức điền văn (thứ chỉ), để cùng với cụ Tiên chỉ là quan
Tuần phủ chí sĩ Nguyễn Đình Chuẩn lo xây dựng trong làng và cải lương hương
ước… Công việc này đã tạo điều kiện cho ông cống hiến nhiều những di sản văn
hóa, tinh thần góp phần tôn tạo và dựng xây quê hương. Công lao của ông đã
được làng Phù Ủng ghi nhận:
“Gốc phần tử ra công bồi đắp,
nào Hoa văn, nào hương ước, việc đã chu toàn” (Văn tế của đại biểu làng Phù Ủng – Hưng Yên)1
Chính vì thế, ngày nay trở về với làng Phù Ủng, dù bao thế hệ đời người
đã ra đi nhưng những di tích của ông vẫn in dấu trên mảnh đất này, và người dân
nơi đây vẫn dành cho ông tấm lòng cảm tạ chân thành.
Bận rộn với việc làng nhưng những buổi đàm đạo văn chương vẫn không
thể thiếu trong đời sống của ông. Năm 1925, trước không khí văn chương chung
của nhiều thi gia lúc đó thường làm thơ theo lối: cùng một ý nhưng đồng thời
21
làm một bài Nôm và một bài Hán. Làm thơ nhưng thực tế cũng là chơi thơ vậy. 1 Xem phụ lục 1
Theo lời các bạn trong làng nho, ông làm một tập Xuân mộng bằng quốc văn,
gồm có một bài Tình trường kí, một bài Thoại mộng hành và 30 bài luật thi, đủ
30 vần bằng, cũng như tập chữ Hán. Xét tài sáng tác thơ của ông cũng tương
đương với tài tập cổ vậy.
Năm 62 tuổi (1927), nhờ công khó nhọc lo toan việc nhà, nuôi nấng đàn
con của phu nhân, cộng thêm với tính nghiêm khắc trong giáo dục con cái của
ông, trong bốn người con trai là Phan Thế Roanh, Phan Bằng Trình, Phan Phong
Linh, Phan Châu Tuynh đã có người thành đạt. Từ đây gia tư bắt đầu thư thái,
ông bắt đầu được hưởng thú an nhàn. Ngoài lúc ngâm thơ, gẩy đàn ông còn trồng
cây, chắp núi, uốn cảnh vẽ tranh. Ai cũng phải chịu ông là một bậc tài hoa.
Nhưng không bao lâu, năm ông 65 tuổi (1930) phu nhân tạ thế. Từ đây trí
nguyện của ông chỉ đặt vào sự ngao du như các bậc tiền nhân vẫn quan niệm:
Văn phi sơn thủy vô kì khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài
Vừa lúc công việc trong làng cũng đã đỡ bận, ông cùng các con đi du
ngoạn các danh thắng nước nhà: khi vịnh Hạ Long, núi Yên Tử, khi hồ Ba bể,
vương quốc Champa, khi bãi Cửa Tùng, núi Ngân sơn, khi kinh đô Huế, động
Huyền Không… Tuổi già xem chừng lại dẻo dai hơn sau mỗi chuyến du ngoạn.
Đặc biệt, đi đến đâu ông đều có thơ đề vịnh. Những thơ văn ấy có trích in trong
Thi văn tập của Phan Mạnh Danh, và một số được trích dẫn trong cuốn Thắng
cảnh Việt Nam qua thi ca của con trai thứ ba là Phan Phong Linh.
Từ năm 70 đến 75 tuổi (1935 – 1940), ông lựa chọn nhiều tập thơ cổ và
một ít văn cổ, đem dịch ra quốc văn theo nguyên điệu, tập hợp trong cuốn Cổ thi
trích dịch.
Năm 76 tuổi (1941), làn gió phục cổ khiến thiếu niên nước nhà lại chú ý
đến sách vở của nhà nho ngày trước, ông lại cặm cụi với bút nghiên trong thư
22
phòng nhỏ tại Bút hoa trang Nam Định. Ông đã lục tìm và chép lại những bài
văn Nôm đã làm trong mấy chục năm về trước, và biên soạn thêm nhiều bài mới.
Sau cuốn sách được Nhà in Nguyễn Trung Khác in tại Nam Định với tên Thi văn
tập trích lục. Văn tập ấy có nhiều thể như phú, kinh nghĩa, văn sách, văn tế, tựa
biền ngẫu… Ông cũng cùng các con sưu tầm nhiều sách Tàu có truyện lạ thơ hay
mà nhà nho ta thường dùng làm điển trong những áng văn Nôm để đem dịch và
biên tập thành bộ Điển cố, những mong có thể giúp ích cho việc thưởng thức lối
văn cổ nước nhà. Tuổi già và cơ thể cũng bắt đầu suy nhược nhiều khiến ông
không thể tiếp tục hoàn thành tập sách. Sau này Phan Thế Roanh hoàn thành bộ
sách với nhan đề Điển cố truyện và thơ thường dùng làm văn liệu.
Cuối mùa thu năm 1941, ông được sinh phong Phụng nghị Đại phu1, Hàn lâm Thị độc2. Đến tháng trọng đông, thời tiết quá lạnh, bệnh đau mình bắt đầu
phát. Tuy nhiên, tranh thủ những lúc đỡ, ông vẫn cố làm Thơ cổ tập Kiều (cuối
1941) và Thơ cổ tập truyện Nôm (đầu 1942) để bổ sung thêm vào quyển Bút hoa.
Đầu năm 1942, quyển Bút hoa được in xong có lời đề tựa của Phạm
Quỳnh. Cuốn sách được dâng lên Hoàng đế Bảo Đại thứ 17 và được chuẩn
thưởng cho tác giả Huy chương Tam hạng Kim khánh. Sĩ phu nhiều nơi yêu
thích cuốn sách đã gửi tặng thơ đề.
Vài tháng sau bệnh càng trầm trọng, tự biết mình không qua nổi ông bảo
các con đưa từ Nam Định về nhà riêng tại tỉnh lỵ Hưng Yên, nơi ông đã ở từ năm
27 tuổi. Tối hôm mới về nhà cũ ông còn bàn bạc thuốc thang với mấy môn sinh.
Hôm sau vào hồi gần sáng, ông thấy rất đau đớn trong mình. Khi đỡ đau một
chút, ông dặn con trưởng vài lời về sách vở văn chương, rồi nh ìn qua một lượt
các con cháu đứng quanh mình, từ từ nhắm hai mắt, thở một hơi dài, kết liễu
1 Phụng nghị đại phu: Từ điển chức quan VIệt Nam trang 513 giải thích: “Thời Nguyễn đặt thụy hiệu ban cho các quan. Đây là thụy hiệu ban cho các quan trật Chánh ngũ phẩm văn giai. Những chức quan này thuộc Đường quan”. 2 Hàn lâm Thị độc: người tham gia giảng dạy sách sử, kinh nghĩa.
23
cuộc đời nhà giáo, nhà thơ, nhà dịch giả. Ông ra đi vào lúc hơn 5 giờ sáng, ngày
26 tháng 4 năm Nhâm Ngọ (dương lịch ngày 9 tháng 6 năm 1942), thọ 77 tuổi.
Sự ra đi của ông khiến cho nhiều người thương tiếc khóc than cho cuộc
đời tài năng mà lắm nỗi truân chuyên:
“Cầm kì thi họa rất mực thông minh
…
Năm xe chứa sách, túi kinh luân từng sánh gót Âu Tô
Bẩy bước nên thơ, câu cẩm tú há nhường tay Lý Đỗ
Học thiên nhân đà nức tiếng Đổng đại nho
Tài kinh tế vẫn ôm lòng Giả thái phó
Phun châu nhả ngọc giọng sánh phú Tam đô
Dọc đất ngang trời, thơm truyền văn Bát cổ” (Văn tế của môn sinh Vũ Mộng Hùng)1
Ngẫm trong một kiếp nhân sinh, dẫu có tài nhưng Phan Mạnh Danh chẳng
được “nhẹ gót thang mây”. Đó là một sự đáng buồn, song cũng chưa hẳn là
buồn, bởi biết đâu nhờ đó mà “nảy nở ra những áng thơ văn bất hủ” [6, tr.16].
Lại thêm “Dù gặp buổi Á Âu hội mới, học hành theo với trào lưu” nhưng ông
“vẫn giữ màu thi lễ nếp xưa”, vẫn nghiêm khắc dạy bảo các con “không ngoài
quy củ” nên “Mừng nay con trẻ thành danh / Trời đất dành riêng người phúc hậu” 2. Sinh thời, ông chỉ kịp chứng kiến sự ra đời của cuốn Bút hoa (1942), khi
tử hậu, may thay trong số những người con của ông cũng có người nối nghiệp
bút nghiên, nhờ đó mà các cuốn Thi văn tập trích lục, Hồng Kiều, Cổ thi trích
dịch có dịp ra mắt bạn đọc. Một số cuốn sách khác, tuy ông không trực tiếp biên
soạn nhưng có ảnh hưởng khá lớn với người biên tập, ví như cuốn Điển tích
truyện và thơ thường dùng làm văn liệu, Hán văn lược khảo của Phan Thế
24
Roanh. 1 Xem phụ lục 2 2 Xem phụ lục 2
Tiểu kết chương 1: Như vậy, ở chương 1 chúng tôi đã tiến hành dựng lại bức
chân dung con người của Phan Mạnh Danh trên cơ sở nguồn tư liệu về tiểu sử
gia đình và những sự kiện chính trong cuộc đời tác giả. Những thông tin này
cung cấp một cái nhìn logic, ngọn nguồn về những yếu tố cấu thành, tác động và
ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan, tư tưởng của Phan Mạnh Danh sau
này. Trong chương 1, chúng tôi cũng đã lần theo mốc thời gian tái hiện lại những
sự kiện quan trọng trong cuộc đời tác giả và những hoạt động văn học tiêu biểu
dẫn đến sự ra đời của một trước tác nào đó. Sự tái hiện này cũng chỉ có tính chất
sơ lược là điểm tên trước tác, còn việc thẩm bình, định giá giá trị của tác phẩm sẽ
25
được triển khai cụ thể ở chương 2.
Chương 2:
TRƯỚC TÁC CỦA PHAN MẠNH DANH
Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đôi lúc người ta nghe nhắc
đến cái tên Phan Mạnh Danh ở trên các báo hay trong một số cuộc thi đàm đạo
thơ văn. Sang đến những năm giữa thế kỉ XX, độc giả mới biết đến cuốn Bút hoa
thơ tập cổ gắn với thi sỹ Phan Mạnh Danh. Sau khi ông qua đời, con trai trưởng
là Phan Thế Roanh mới bắt đầu tập hợp và xuất bản những di cảo của ông. Từ
đây cái tên Phan Mạnh Danh mới trở nên “quen thuộc” với một bộ phận độc giả
- chủ yếu là những người còn chút ít vấn vương với nền văn học cổ truyền. Trên
văn đàn là vậy, trong đời sống chính trị xã hội thì như Phạm Quỳnh nói “ông
không hề thi đỗ, không hề làm quan”, “trong năm mươi năm không có tham dự
một chút nào vào cuộc đời chính trị trong nước”. Vì thế, nghiên cứu trường hợp
Phan Mạnh Danh chúng tôi xem ông như là một học giả, một tác giả văn học có
vai trò nhất định trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam. Chúng tôi lấy
mốc phân chia giai đoạn phát triển văn học Việt Nam (theo bộ giáo trình Văn
học Việt Nam - 4 tập của nhà xuất bản Giáo dục) làm cơ sở để hệ thống hóa và
nhận định toàn bộ trước tác của ông.
Trong phần này với từng giai đoạn chúng tôi sẽ trình bày khái quát tình
hình đời sống xã hội và văn học, sau đó giới thiệu khái quát trong phạm vi cho
phép về giá trị những trước tác của Phan Mạnh Danh trước khi đưa ra một vài
nhận định của mình. Và, để có cái nhìn toàn diện về toàn bộ trước tác của ông,
chúng tôi xin đưa ra một niên biểu các trước tác (cả tư liệu đầy đủ và chưa đầy
đủ) mà chúng tôi thu thập được. Trên cơ sở niên biểu này chúng tôi sẽ lựa chọn
26
những trước tác tiêu biểu để khảo sát và phân tích.
Niên biểu trước tác của Phan Mạnh Danh:
1885 - 1886 Tập văn Nôm lục bát và song thất lục bát Mấy bức tiên hoa. Hiện
nay văn bản đã thất lạc, trong gia tộc con cháu chỉ thuộc một vài
câu.
1888 Đàm thiên (điệu sẩm ả đào – Nôm)
1889 Vấn nguyệt (điệu sẩm ả đào – Nôm); Vọng dương (điệu sẩm ả
đào – Nôm)
1896 - 1900 Kiều tập thơ cổ, nhan đề là Bút hoa thi thảo
1897 Tập văn Nôm song thất lục bát Hà Giang nhật trình. Hiện nay đã
thất lạc, chỉ còn lại một số câu trong bài viết của Tử tấn Đào Sỹ
Nhã.
1898 Nguyệt hồ bát vịnh. Hiện nay còn lại 5 bài, có in trong cuốn Bút
hoa thơ tập cổ; Viết tập Xuân mộng bằng chữ Hán, dùng đủ 30
vần bằng.
1899 Xuân khuê (họa lại bài của Đức ông Tuy Lý Vương)
1900 Bài thơ Ứng thi bị truất, bão bệnh quy châu.
1901 Viếng tình nhân cũ (Nôm)
1903 Liễu âm tống biệt (Lối thơ thuận nghịch độc)
Tích biệt – kì nhất, kì nhị (Lối thơ thuận nghịch độc)
1905 Viết một bài tựa chữ Hán, 21 bài thơ chữ Hán, 21 bài thơ chữ
Nôm tham gia cuộc thi Đề Thanh Tâm Tài Nhân Lục. Hiện nay
vẫn còn đủ, in trong cuốn Thi văn tập trích lục.
1908 Bộ đồ vãn hành (Nôm)
27
1909 Viết bộ sách giáo khoa Việt Nam danh nhân diễn ca và quyển
Vật lý học bằng chữ Nôm. Hiện nay đã thất lạc.
1910 Viết quyển sách giáo khoa Vạn vật học và Ngũ đại châu địa dư.
Hiện nay đã thất lạc.
1913 Bình lọc nước (tức cảnh) – Nôm; Cái cối xay (tức cảnh)- Nôm
1917 Viết Tuồng Hoa tiên, cả Hán và Nôm. Hiện nay chỉ thu thập
được 3 cảnh: Kỳ biên tương ngộ, Bích Nguyệt thu kỳ, Liễu âm
khốc biệt.
1919 Dịch Đa tình hận của Từ Trẩm Á. Hiện nay chỉ thu thập được
phần mở đầu và chương 1; Tiêu tương bát cảnh (Nôm)
1920 Dịch Tình sử của Long Tử Do.
1921 Phản cung tự vấn (Nôm)
1923 Dâu bể (nôm), Duyên nợ (Nôm)
1924 Lữ huống tự trào (Nôm)
1925 Viết một tập Xuân mộng bằng quốc văn gồm: một bài Tình
trường ký, một bài Thoại mộng hành, và 30 bài luật thi dùng đủ
30 vần bằng.
1926 Xuân khuê (bài thơ Nôm, hạn chữ hạn vần)
1930 Đề trường đại học (Nôm)
1935 - 1940 Dịch Cổ thi trích dịch. In thành sách năm 1953.
1939 Trùng du Ninh Bình, Tục (Nôm)
1941 Làm Thơ cổ tập Kiều. In trong cuốn Bút hoa thơ tập cổ.
1942 Làm Thơ cổ tập truyện Nôm. In trong cuốn Bút hoa thơ tập cổ.
Các tác phẩm Tứ thời từ tức cảnh (Làm theo điệu liên hoàn của Tô Đông Pha)
không xác Dịch cổ thi (10 bài) in trong Thi văn tập trích lục
định được Dịch cổ văn (1 bài) in trong Thi văn tập trích lục
28
thời gian viết 29 bài thơ chữ Hán in trong Thi văn tập trích lục (đã trừ 5 bài
Nguyệt hồ bát vịnh)
Dịch, chú giải Trần tình văn của Cao Bá Nhạ.
Phan Mạnh Danh sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong nhiều tài liệu
tác giả có chú thích rõ là làm 30 bài Hán và 30 bài Nôm (Xuân mộng), vịnh 20
hồi trong Truyện Kiều vừa Hán vừa Nôm (Đề Thanh Tâm Tài Nhân lục), viết
Tuồng Hoa tiên vừa Hán vừa Nôm… và nhiều bài thơ Nôm khác được chú thích
rõ ràng là thơ Nôm để phân biệt với thơ chữ Hán. Nhưng trong tất cả những tài
liệu chúng tôi thu thập được (cả những trước tác đã xuất bản và những trước tác
mới ở dạng văn bản gốc in roneo) đều ở dạng văn bản Nôm phiên quốc ngữ. Nói
điều này là chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề xử lý tư liệu Nôm trong quá trình
nghiên cứu.
Theo Giáo sư Nguyễn Quang Hồng trong cuốn Khái luận văn tự học chữ
Nôm, chữ Nôm được hình thành “không sớm hơn thế kỉ X” và “không muộn hơn
giữa thế kỉ XII” [22, tr.126]. Khái niệm sau chỉ rõ đặc điểm, cách cấu tạo của
chữ Nôm: chữ Nôm là hệ thống chữ viết tiếng Việt dựa trên chất liệu chữ Hán,
với sự gợi ý từ các phương thức tạo chữ chủ yếu dựa vào các kí tự làm thành tố
biểu âm và thành tố biểu ý ở chữ Hán, từ đó với sự gia công và Việt hóa ở những
mức độ nhất định, mà hình thành hệ thống văn tự ô vuông “biểu âm – biểu ý”
cho tiếng Việt” [22, tr.329]. Trong sáng tác văn học văn bản chữ Nôm được tìm
thấy sớm nhất là từ thế kỉ XIII với bài Văn tế cá sấu của Hàn Thuyên. Từ các thế
kỉ sau, cha ông ta đã sử dụng chữ Nôm như là một công cụ để sáng tác văn học.
Có những thể loại hầu như được sáng tác bằng chữ Nôm. Song, thực tế là, việc in
sao các tác phẩm bằng chữ Nôm để lưu lại cho đời sau gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân này là do bản thân chữ Nôm được cấu tạo rất phức tạp, và số lượng
29
độc giả hiểu biết và có thể đọc được chữ Nôm rất hạn chế. Sang đến đầu thế kỉ
XX, để tiện lợi cho việc sáng tác, in ấn và lưu giữ, và tác phẩm có thể đến được
với số đông bạn đọc nhiều tác giả vẫn sáng tác bằng chữ Nôm song đó là chữ
Nôm phiên quốc ngữ. Theo giáo sư Nguyễn Quang Hồng thì đến giữa những
năm 90 của thế kỉ XX việc đưa kí tự chữ Nôm vào máy vi tính mới bắt đầu được
đề xuất. Trường hợp các tác phẩm của Phan Mạnh Danh cũng như vậy. Do đó,
với các tác phẩm Nôm của Phan Mạnh Danh chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu
trên văn bản Nôm phiên quốc ngữ.
2.1. Giai đoạn trước năm 1900
2.1.1. Đời sống xã hội và văn học
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, về mặt lịch sử được đánh dấu bằng sự kiện
Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh chống
xâm lược. Sau hàng loạt những hàng ước mà triều đình Huế đã kí với Pháp:
Hàng ước năm 1862 nhường ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo
Côn Lôn cho thực dân Pháp; Điều ước và thương ước năm 1874 nhường toàn bộ
Nam Kỳ cho thực dân Pháp thì đến Hàng ước năm 1883 và 1884 triều đình Huế
đã chính thức công nhận nền đô hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Mặc dù
triều đình Huế đã đầu hàng, thỏa hiệp với thực dân quay lại bóc lột và đàn áp
nhân dân Việt Nam, song quần chúng nhân dân vẫn không chịu khuất phục, vẫn
kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp và chống bọn phong kiến đầu hàng.
Phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi, rầm rộ khắp từ Nam chí Bắc, thu hút được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Nhưng trước sức mạnh đàn áp của thực
dân Pháp có sự hỗ trợ của triều đình phong kiến thì các phong trào yêu nước đều
lần lượt thất bại. Đặc biệt sự tan giã của phong trào Cần Vương (1895) đã đánh
dấu sự kết thúc của giai đoạn Pháp dùng vũ lực để chiến đoạt và mở ra giai đoạn
Pháp khai thác thuộc địa ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1897.
30
Cuối thế kỉ XIX, Nho học vẫn được tôn sùng, các sách Khổng, Mạnh,
Trình, Chu vẫn được coi là thiên kinh địa nghĩa. Việc thi cử vẫn có hai khoa
chính là thi Hương và thi Hội, chương trình thi vẫn có thơ, phú, kinh nghĩa, văn
sách, tứ lục. Tuy nhiên, theo quy luật tất yếu của kẻ đi xâm lược nếu muốn đồng
hóa một dân tộc theo mình thì tất yếu phải thay đổi đời sống văn hóa của dân tộc
đó, vì thế thực dân Pháp đã áp dụng hàng loạt chính sách đồng hóa văn hóa trong
đó có việc mưu toan thay thế triệt để chữ Hán bằng chữ quốc ngữ theo mẫu tự
La tinh. Nhưng mọi cố gắng của chúng đã không được nhân dân ta chấp nhận.
Cuối cùng để mua chuộc sĩ phu và nhân dân chúng phải tổ chức lại việc học chữ
Hán, duy trì các trường Hán học và tổ chức thi theo định kì… Dù mưu đồ của
thực dân Pháp không thực hiện được nhưng ít nhiều sự can thiệp của chúng đã
khiến cho chốn trường thi trở nên nhốn nháo, lộn xộn.Trần Tế Xương đã thể hiện
thái độ mỉa mai, phẫn uất của mình đối với chế độ thi cử đương thời:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợm trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
(Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu - 1897)
Cuối thế kỉ XIX, một số người trong nước có dịp đi ra nước ngoài, theo
Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (tập thứ nhất) thì năm Bính Dần (1866)
là năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là: Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn
Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương Tây… Họ là những người hiểu thời
31
thế, tiếp xúc trực tiếp với văn hóa phương Tây. Sau Nguyễn Trường Tộ đã làm
một bản điều trần đề xuất hàng loạt những cải cách đòi canh tân đất nước nhưng
không được sự đồng thuận của triều đình. Năm Mậu Thìn (1868) là năm Tự Đức
thứ 21 có người ở Ninh Bình là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần đề xuất việc
nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương Tây
vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt, đề phòng khi chiến thủ, bớt sưu dịch dân sự… đại
để là đều ích nước lợi nhà nhưng đình thần đều cho là không hợp thời rồi bỏ
không dùng. Như vậy, nhìn chung về các mặt kinh tế, chính trị trong nước vẫn
không thay đổi, nước không thể mạnh và dân không thể giàu.
Những diễn biến lịch sử trên đây có ảnh hưởng rõ rệt, trực tiếp tới sự phát
triển của văn học những năm cuối thế kỉ XIX. Sự kiện Pháp xâm lược đã làm
xuất hiện trong văn học một trào lưu văn học yêu nước. Văn học giai đoạn này
thu hút được một lực lượng sáng tác đông đảo là các nho sĩ cầm bút chiến đấu,
tiêu biểu như: Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), Nguyễn Tư Giản (1823 –
1890), Nguyễn Xuân Ôn (1825 – 1889), Nguyễn Quang Bích (1832 – 1889)
Nguyễn Thông (1827 – 1894), Hoàng Văn Hòe (1848 - ?), Miên Thẩm (1819 –
1870), Phạm Văn Nghị (1805 – 1884), Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), Trần Tế
Xương (1870 – 1907)… Ngôn ngữ chính được sử dụng vẫn là chữ Hán. Bên
cạnh đó còn có nhiều tác giả sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm như Nguyễn
Khuyến; có tác giả dường như sáng tác hoàn toàn bằng chữ Nôm như Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Tú Xương. Bộ phận này làm cho văn học Nôm có
phần phong phú và sắc sảo hơn văn học chữ Hán. Chữ quốc ngữ được phổ biến
thêm một bước nhưng mới chỉ xuất hiện một số truyện Nôm được phiên ra quốc
ngữ, biên soạn truyện cổ tích bằng chữ quốc ngữ chứ chưa có một nền văn học
sáng tác bằng chữ quốc ngữ.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn đời sống xã hội có nhiều biến động
32
như vậy đã đặt các nhà nho trước ngưỡng cửa của sự lựa chọn. Nguyễn Đình
Chiểu dù bị mù lòa nhưng ông vẫn theo dõi rất sát phong trào đấu tranh chống
giặc của quần chúng nhân dân và dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chiến đấu
ngay từ những ngày đầu. Nhiều người đã từng làm quan, sau bỏ quan, bỏ cuộc
sống yên ấm với gia đình lên rừng núi lăn lộn với nghĩa quân, xây dựng căn cứ
địa chống giặc như: Phạm Văn Nghị, Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn,
Nguyễn Quang Bích… Một số khác, ít dũng khí hơn, không trực tiếp đương đầu
với giặc, nhưng cũng quyết không sống chung với kẻ thù, hễ Pháp chiếm nơi nào
là họ dọn đi nơi khác để ở: Nguyễn Thông – sống như một ẩn sĩ, thong dong, cô
quạnh cho đến cuối đời. Một số khác, vẫn làm quan cho triều đình phong kiến và
giữ thái độ dung hòa.
Như vậy, mặc dù đời sống xã hội có nhiều biến động nhưng dù muốn hay
không các trí thức nho học vẫn phải tạo dựng cho mình một chỗ đứng bằng
nghiệp khoa cử. Các nhà thơ xuất thân từ cửa Khổng sân Trình vẫn phải sáng tác
những vần thơ, dù với nội dung yêu nước căm thù giặc hay để tả cảnh, tỏ lòng
bằng lối văn chương bát cổ vốn ăn sâu vào máu thịt của các nho sinh thuở trước.
Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn là xã hội cổ truyền phương Đông theo đúng mô
hình nhà nước phong kiến Trung Quốc.
2.1.2. Những trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh trước năm 1900
Xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, cũng đã một đôi lần đi thi, song có lẽ
do số phận và chế độ khoa cử không còn đảm bảo được tính chính thống, nguyên
vẹn nên chí của sĩ tử họ Phan không đặt hoàn toàn vào việc phải ra làm quan. Sự
hỏng thi khoa Canh Tý (1900), ông “có bất mãn, song sự bất mãn ấy cũng chỉ
thoáng qua”[6, tr.11].
Không thi đỗ, không làm quan, cả cuộc đời Phan Mạnh Danh cũng “không
hề tham dự một chút nào vào cuộc đời chính trị trong nước”[7, tr.177]. Thơ văn
33
của ông từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng thuần túy là “thơ của
một người yêu thơ và làm thơ theo đúng nghĩa của nó”.
Tập văn Nôm lục bát và song thất lục bát Mấy bức tiên hoa được viết năm
Phan Mạnh Danh 20 tuổi (1885) là tác phẩm đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác
của ông. Ngay từ tập văn này, ông đã được đánh giá là “bậc cao Nôm” [6, tr.8].
Tập văn ghi lại những tình cảm sâu nặng, thắm thiết của tác giả với một nữ sỹ-
người có ảnh hưởng đến nhiều sáng tác của ông sau này. Dù đã cố công tìm tòi
nhưng chúng tôi cũng chỉ góp nhặt được một vài câu thơ trong tập văn Nôm do
cháu nội của bà Phan Thị Hiên (em gái của Phan Mạnh Danh) là bà Trần Thị
Băng Thanh cung cấp. Có thể trích dẫn dẫn chứng như sau:
Nhớ khi thất tịch vắng người
Khi trùng dương hết mọi lời nông sâu
Khi hiên trước khi vườn sau
Hoa chào buổi sớm giăng thâu đêm rằm
Phải duyên kì ngộ ai bằng
Dù hợp tan vẫn khăng khăng một lời
…
Ta sầu mà ai chẳng tin
Thử xem ngấn áo lệ in ít nhiều.
Ngay khi Đoạn trường tân thanh (tên thường gọi là Truyện Kiều) ra đời đã
nhanh chóng có được sự đón nhận nồng nhiệt của giới văn nhân Bắc Hà. Không
chỉ đọc Kiều mà các danh sĩ còn đón đọc Kiều, bày tỏ sự say mê yêu thích
Truyện Kiều theo nhiều cách khác: bình Kiều, ngâm Kiều, lảy Kiều, đề Kiều hay
lấy Truyện Kiều để đề tựa cho một cuốn sách khác… Một số khác lại tìm đến thú
chơi tập Kiều để làm mới Kiều theo cách riêng của mình. Phan Mạnh Danh có
thể coi là một nhà tập Kiều công phu nhất. Với ông, Truyện Kiều như có một mối
34
“duyên nợ” riêng (chữ dùng của PGS.TS Trần Thị Băng Thanh) [49, tr.34]. Từ
năm 1896, Phan Mạnh Danh đã “nghĩ ra lối Kiều tập thơ cổ, theo điệu thơ thổng
của đào nương”. Chỉ sau hơn bốn năm, ông “đã làm ra được một tập hơn 60 bài
liên cú và hơn 300 bài cách cú”, đặt nhan đề là Bút hoa thi thảo (Bản thảo tập
thơ Bút hoa). Chưa dừng lại ở đó, ông còn đeo đuổi thú chơi này đến hơn bốn
mươi năm sau. Cuối năm 1941, mặc dù cơ thể đã bắt đầu suy nhược nhưng ông
vẫn cố gắng bổ sung vào tập thơ phần thơ cổ tập Truyện Kiều và thơ cổ tập
truyện Nôm. Đến lúc này cuốn sách về cơ bản đã được hoàn thiện. Đầu năm
1942, Bút hoa thi thảo được in tại nhà sách Nguyễn Trung Khác ở Nam Định.
Ngoài phần nội dung chính (bài Tự thuật, các bài Kiều tập thơ cổ, Thơ cổ tập
Kiều, Thơ cổ tập truyện Nôm) cuốn sách chỉ in thêm bài tựa của Phạm Quỳnh,
hai bức vẽ của tác giả (Tranh mẫu đơn, Học họa hồ). Năm 1953, cuốn sách được
tái bản lần hai tại Trí Đức thư xã Hà Nội với nhan đề Bút hoa thơ tập cổ, do con
trai cả là Phan Thế Roanh trình bày và giữ bản quyền. Lần in này cuốn sách còn
có thêm bức ảnh chân dung tác giả những năm cuối đời, lời giới thiệu của Tử tấn
Đào Sỹ Nhã về Tiểu sử tác giả Phan Mạnh Danh, lời ban khen của Hoàng Đế,
các bài đề từ Nôm, đề từ Hán, bài phê bình Nôm của Học giả, trí thức, danh nhân
đương thời trong cả nước bày tỏ thị hiếu của mình sau khi được mục sở thị cuốn
sách.
Trước khi tìm hiểu cách tập Kiều của thi sĩ họ Phan, ta cũng nên nói đôi
điều về thú chơi tập Kiều của người xưa.
Phạm Đan Quế là một độc giả, một nhà sưu tầm, một nhà nghiên cứu say
mê Truyện Kiều, ông đã xuất bản trên 10 đầu sách nói về Truyện Kiều và xung
quanh Truyện Kiều. Trong cuốn Thú chơi Tập Kiều tác giả nêu cách thức của lối
chơi này như sau: Tập Kiều là “lựa chọn một số câu Kiều - ở những chỗ khác
nhau trong 3.254 câu của Truyện Kiều – nối vần lại được với nhau, tình ý nhất
35
quán để tạo thành một bài thơ mới có ý nghĩa, theo một chủ đề nhất
định”[36,tr.9]. Bài tập Kiều cũng có thể dài hay ngắn tùy theo yêu cầu cụ thể, nhà
nghiên cứu Phạm Đan Quế cũng chia ra ba mức như sau:
- Từng câu Kiều dùng trong toàn bài được giữ nguyên như trong văn bản
Truyện Kiều. Ở mức này người tập Kiều chỉ có thể làm được thơ lục bát – thể
thơ nguyên gốc của Truyện Kiều.
- Trong một số câu ta có thể cắt bớt một số chữ, đảo lại một câu hay đổi một
cụm từ nhưng để thay vào đó cũng phải là một cụm từ của một câu Kiều khác. Ở
mức này, bài tập Kiều chỉ gồm các chữ trong Truyện Kiều.
- Thay đổi một số chữ trong các câu Kiều để thay vào bằng các chữ không
có trong Truyện Kiều. Ở mức này xuất hiện các từ mới, ý mới không có trong
Truyện Kiều.
Nhà Kiều học Nguyễn Quảng Tuân trong cuốn sách Tập Kiều vịnh Kiều
lại phân chia cách thức tập Kiều theo thể khác nhau, cả thảy có 7 thể:
- Tập Kiều theo nguyên thể lục bát: giữ nguyên các câu trong Truyện Kiều;
hoặc biến chế nhưng vẫn giữ nguyên thể lục bát (bằng cách cắt hai chữ cuối của
câu bát để trở thành câu lục mới, còn câu bát lại lấy câu lục cộng thêm hai chữ
cuối ở câu bát liền sau).
- Thơ đường luật
- Thơ 7 chữ, mỗi đoạn bốn câu (Mỗi câu hoặc cắt ở hai câu Kiều liền nhau
hoặc bắt một chữ ở câu tám vắt xuống câu sáu.
- Thơ bốn chữ, từng đoạn bốn câu (mỗi câu chỉ giữ lại bốn chữ)
- Hát nói
- Văn tế
- Tập Kiều dịch thơ cổ (Trường hợp Phan Mạnh Danh)
Điểm qua những cách tập Kiều như trên để khẳng định giá trị của tác phẩm
36
được coi là “tập đại thành của văn học Việt Nam” [26, tr.334], nó khiến cho bao
văn nhân của biết bao đời yêu thích, say mê, lại lấy đó để bày tỏ cái thú chơi tao
nhã cũng lắm công phu của mình. Kể làm một bài tập Kiều theo một yêu cầu nào
đó không phải dễ. Trước hết, người tập phải thuộc lòng Kiều, tùy theo đề tài mà
dốc công tìm kiếm, lựa chọn những câu, những từ có ý thích hợp, sau nữa, sắp
xếp thành một bài thơ hoàn chỉnh, có mở đầu, có kết thúc, ý tình tương
hợp.Trong lịch sử văn học, những bài tập Kiều sớm nhất được biết đến là của Lý
Văn Phức (1785 – 1849). Năm 1847, tức là sau khi Truyện Kiều ra đời khoảng 38 năm1, Lý Văn Phức vâng mệnh vua Tự Đức làm liền hai mươi bài tập Kiều,
mỗi bài gồm tám câu lục bát dựa theo nội dung của hai mươi hồi trong cuốn Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Sau Lý Văn Phức còn có nhiều bậc
cao văn khác cũng tập Kiều như:Cụ cử Lại Trì Hà Mai Khôi, Thẩm Quỳnh,
Nguyễn Khuyến, Lâm Quế Phong, Hương sơn cư sĩ Nguyễn Hữu Khanh, Phan
Bội Châu, Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Quảng
Tuân… cũng tập Kiều. So với các bài tập Kiều trên thì các bài tập Kiều của Phan
Mạnh Danh cũng khá công phu và có giá trị.
Trong cuốn Bút hoa thơ tập cổ Phan Mạnh Danh đã dành tới chín phần
mười cuốn sách để tập Kiều. Cách tập Kiều của Phan Mạnh Danh cũng theo một
lối riêng, rất lạ lẫm, trước sau không thấy ai có. Phan Mạnh Danh đã tự tạo nên
trăm nghìn cái khó cho mình khi dùng Kiều tập thơ cổ rồi lại dùng thơ cổ tập
Kiều.Trong khi Kiều tập thơ cổ, không tùy tiện cắt xén, thêm bớt từ ngữ như lối
tập Kiều thông thường mà tác giả lại nương theo lối thơ thổng ả đào và lối thơ
thổng mới. Chưa biết tỏ tường cách chơi nhưng đã thấy để tập được một bài Kiều
theo cách của Phan Mạnh Danh người tập ngoài việc thuộc Kiều còn phải thuộc
cơ man nào là thơ cổ (thơ Tàu và thơ ta), lại phải am tường nghệ thuật hát ả đào
1 Theo ý kiến của Đào Duy Anh về thời điểm Truyện Kiều ra đời là từ năm 1805 đến năm 1809, khi Nguyễn Du giữ chức quan Đông các.
37
– thứ nghệ thuật cũng lắm công phu, lắm lối lắm điệu.
Theo lối thơ thổng ả đào, tác giả giải thích cách làm như sau: “Theo lối
thơ này thì lấy trong các sách Tàu ra mỗi chỗ một câu thơ, rồi ghép lại thành một
bài thơ tứ tuyệt đủ niêm luật, bài thơ chữ ấy đọc vần xuống bốn câu Kiều liền,
mà bốn câu liền lại hình như dịch nghĩa những câu thơ chữ ấy ra. Dùng đủ ba
mươi vần bằng từ vần nhất đông đến vần thập ngũ hàm. Câu nào trích ở sách nào
đều có chua ở bên cạnh” [6, tr.49]. Theo cách này Phan Mạnh Danh đã tập được
46 bài thơ Hán (tương ứng với 184 câu thơ Hán) và chọn ra được 45 khổ thơ 4
câu Kiều liền (tương ứng với 180 câu lục bát) để “dịch” các bài Hán thi tập trên.
Có thể trích dẫn một số bài tiêu biểu:
Ngọc tác phu cơ, băng tác thần Tân liểu trai
Hối tương tịnh chất điếm phong trần. Bách mỹ
Đa nhân lợi hại tao phùng kiếp Thuyết đường
Nhược vị hồng nhan tích thử thân. Bách mỹ
Ngọc làm nên da thịt, băng làm nên tinh thần,
Hối vì đã đem bản chất trong sạch khiến cho lấm vì gió bụi.
Phần nhiều vì chuyện lợi hại mà gặp phải kiếp nạn,
Giá như có vì vẻ hồng nhan mà tiếc tấm thân này.
(PGS.TS Trần Thị Băng Thanh dịch nghĩa)
Đọc xuống đoạn Kiều lẩy như sau:
Tiếc thay trong giá, trắng ngần,
Đến phong trần cũng phong trần như ai!
Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?
Cũng có những đoạn Kiều “dịch” sát đến nỗi không cần dịch nghĩa bài thơ
38
chữ ra văn xuôi nữa. Ví như đoạn:
Trùng môn tâm tỏa vị tằng khai, Thi lâm
Hoa lạc vô nhân hồng mãn giai. Trại đào nguyên
Tối thị hồn tiêu độc lập xứ, Thăng bình truyện
Ân cần tầm phỏng xuất mao trai. Thi lâm
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng biết người ở đâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh, chợt thấy mé sau có nhà.
Hiệp vần giữa một bài Hán và một bài tập Kiều đã khó, thế mà có những
lúc, liên tiếp “hai khổ Kiều lẩy bắt vần với nhau nhưng không liền một đoạn
Kiều”. [49, tr.37]
Thùy gia tiêu tức đậu đông phong Tình sử
Khứ khứ ly ly tổng tụy dung Ỷ lâu mộng
Liệu đắc kim sinh vô ngã phận Tái sinh duyên
Lai sinh hoặc giả ký trùng phùng Tái sinh duyên
Vì ai ngăn đón gió đông?
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi!
Trùng phùng dù họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong!
Nguyệt hạ hoài nhân cảm khái trung Liểu trai
Sương kiều vọng đoạn tín nan thông Trại đào nguyên
Thiên thai, hảu dác tri hà xứ Đường thi
39
Sa thảo tiêu tiêu bán nhiễm hồng Thi lâm
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày mong mai chờ.
Bên giời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Cùng một khổ Kiều tập nhưng tác giả lại ghép được hai bài Hán thi khác
nhau mà vẫn đảm bảo được niêm luật, vần và tình ý.
Hai bài Hán thi như sau:
Dục tương tâm sự vấn Hằng Nga, Nhi nữ tình
Tranh nại vân dao lộ viễn hà. Đường thi
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự, Đường thi
Thử sinh diệc tự yếm phồn hoa. Đàm doanh
Hạo phách sơ nhân hận Tố Nga Bách mỹ
Dẫn nhân nhập thắng lộ thiên xa. Bách mỹ
Cộng ta nhân sự vô thường định, Đường thi
Sinh phạ phồn hoa tích dị ma. Thi lâm
Khổ Kiều tập như sau:
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
Người mà đến thế thời thôi
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.
Mặc dù, tác giả chú thích là “bốn câu Kiều liền này lại hình như dịch chữ
40
bốn câu thơ chữ ấy ra” nhưng chúng tôi thấy thực tế là tác giả phải xuất phát từ
một khổ bốn câu Kiều liền sau đó mới tìm 4 câu Hán thi cùng vần, cùng ý để
“phiên” Hán khổ thơ Kiều. Như vậy, không phải là Kiều “hình như dịch” thơ cổ
mà chính là Thơ cổ “hình như dịch” Kiều vậy! Ngẫm, đó là sự ngược đời bởi
những bài Hán thi kia ra đời trước và cách Truyện Kiều hàng trăm năm. Song, sở
dĩ tác giả có thể làm được sự ngược đời ấy là do bản thân Truyện Kiều đã có đủ
bi, hoan, ân, oán, tình cha con, tình vợ chồng, từ cảnh lầu xanh đến cảnh chùa
chiền, bốn mùa xuân hạ thu đông đắp đổi tuần hoàn… nên mới có thể lựa chọn
những câu thơ của các thi gia xưa mỗi khi tức cảnh sinh tình hay bầy tỏ nỗi lòng,
tâm sự của mình để ghép vào thành bài tứ tuyệt đúng niêm luật, vần, đối để
“dịch” Kiều.
Theo lối thơ thổng mới, tác giả làm được 126 bài tập Kiều, với 252 cặp
câu lục bát và 504 câu Hán thi tuyển. Tác giả giải thích cách làm như sau: “Theo
lối này thì lấy trong các sách Tầu ra mỗi chỗ một câu thơ, rồi đem hai câu ghép
lại với nhau, đọc vần xuống hai câu Kiều liền; kế đến hai câu thơ chữ lẩy nữa, lại
đọc vần với hai câu Kiều liền nối theo. Câu thơ nào trích trong sách nào đều có
chua ở bên cạnh. Các bài Kiều xếp đặt trước sau theo thứ tự trong Truyện Kiều”
[6, tr.73] .
Cách làm này có phần đơn giản hơn lối thơ thổng ả đào, bởi bốn câu thơ
chữ không cần ghép thành một bài tuyệt cú, chỉ cẩn câu thơ chữ thứ hai bắt vần
với cặp Kiều lẩy. Lại kế đến hai câu thơ chữ tiếp phải bắt vần với cặp Kiều lẩy tiếp
theo. Hai cặp Kiều lẩy này phải cùng trong một khổ Kiều liền 4 câu.
Nhân sự bách niên kham thế lệ Thi lâm
Toán lai tăng mạnh vị tài đa Nhi nữ tình
Chuyện cõi người trăm năm đáng rơi lệ,
Nghĩ lại, mệnh bị ghét vì nhiều tài.
41
(PGS.TS Trần Thị Băng Thanh dịch nghĩa)
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mạnh, khéo là ghét nhau.
Kỷ kinh thương hải tang điền biến Thi lâm
Thức mục linh nhân bất tận sầu Đường thi
Đã trải qua bao cuộc biển biến thành nương dâu,
Dụi mắt, khiến người ta sầu vô hạn.
(PGS.TS Trần Thị Băng Thanh dịch nghĩa)
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Ngoài ra, qua khảo sát chúng tôi thấy có những khi hai đoạn thổng liền
nhau là tám câu Kiều liền nhau. Trường hợp này có 12 đoạn Kiều như vậy. Xin
trích một ví dụ:
Viên lí đào yêu hồng chước chước, Thi lâm
Đẳng nhàn lộ xuất thước sào cao. Tống thi
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng, chi dám ngăn rào chim xanh.
Ký đắc kimh thoa dữ quần bố Tỳ bà ký
Khẳng tương chu phấn ô kiên trinh. Thi lâm
Đã cho vào bực bố kinh,
Đạo tòng phu, lấy chữ trinh làm đầu.
Hạ chí tang gian hoa lý khách, Bách mỹ
Ưng tri thân thế cánh hà cầu. Thi lâm
Ra tuồng trên Bộc, trong dâu,
42
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Nghĩ trục hành vân vô định chỉ, Thập tài tử
Bách niên thế sự bất thăng bi. Đường thi
Phải điều ăn sổi ở thì,
Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày.
Sáng tạo ra một lối chơi Kiều công phu, độc đáo như trên là một sự đáng
nể phục. Song, để tạo ra được “hơn 60 bài liên cú và hơn 300 bài cách cú” mà
bài nào cũng hay như nhau, cũng tài tình như nhau là một việc khó. Trong cuốn
Bút hoa thi thảo, mặc dù tác giả đã làm công việc tuyển chọn ra những bài hay
nhất, chỉ giữ lại 46 bài liên cú và 126 bài cách cú, nhưng đôi lúc, nếu tinh ý
người đọc vẫn nhận ra những bài chưa thật hay về ý và hợp về vần. Xét đến cùng
thì đó cũng là một lẽ tất yếu, bởi trong bất cứ việc gì, nhất là sáng tạo thơ thì
càng đặt ra lắm lề thói, quy định, càng lắm mối buộc ràng (trong khi chất liệu
làm ra nó có hạn) thì càng dễ tạo ra những sản phẩm dập khuôn máy móc, mà
nói hơi quá như tác giả Song Cối trong bài viết Thi văn tập của cụ Phan Mạnh
Danh [53, tr.556] là một tay “thợ thơ rất tinh công”.
Là người thích ngao du phong cảnh, những khi có điều kiện đi lại ông
thường ghi lại những cảm xúc của mình về vùng đất đến. Tập văn Nôm song thất
lục bát Hà Giang nhật trình (Nhật kí hành trình đi Hà Giang) (1897) là kết quả
của chuyến đi đưa người em là Phan Như Xuyên lên Hà Giang nhận công tác.
Rất tiếc, dù đã cố công tìm kiếm nhưng chúng tôi vẫn không tìm được văn bản.
Xin trích dẫn nguyên vẹn lời của Tử tấn Đào Sĩ Nhã giới thiệu về tập văn Nôm
này:
“Trong tập văn ấy, có tả phong cảnh miền thượng du xứ Bắc Kỳ, chỉ rõ
những đường đi lối lại lúc bấy giờ, và thứ nhất là dặn dò những người chưa từng
biết, phải giữ gìn khi đến chốn ma thiêng nước độc. Cảnh tả như vẽ, việc thuật rõ
ràng, lời văn lại chải chuốt nghe rất du dương, như những câu:
43
Có non nước đâu mà không chủ,
Huống chi là thủy tú sơn thanh;
Hễ càng u uất càng linh,
Chớ rằng điếm cỏ lều gianh mà nhờn!”
[6, tr.10]
Mặc dù không may mắn trong các kì thi tuyển người tài do triều đình tổ
chức, nhưng tài năng của Phan Mạnh Danh nổi tiếng trên văn đàn lúc bấy giờ
bởi các cuộc thi thơ, bởi lời khen ngợi của thầy dạy và môn đệ, qua các buổi đàm
đạo thơ văn... Cuộc thi thơ Nguyệt hồ bát vịnh tổ chức năm 1898 do quan Tuần
phủ Phạm Văn Toán tổ chức thu hút nhiều danh sĩ tham gia. Bài phải làm trong
một buổi tối trên những thuyền có trương đăng kết thái, đủng đỉnh qua lại trên
mặt nước Nguyệt hồ”. Phan Mạnh Danh đã làm tám bài luật thi tập cổ và chiếm
giải nhất. Rất tiếc, chúng tôi chỉ tìm thấy năm trong số tám bài luật thi này in
trong cuốn Bút hoa. Năm bài này cũng không chỉ rõ được xuất xứ từng câu.
Song, xin tạm lấy đó làm cứ liệu để phân tích.
Trong cả năm bài vịnh này, Phan Mạnh Danh đều dùng thể thơ thất ngôn bát
cú đường luật, về cơ bản đều đảm bảo được niêm, luật và cách gieo vần.
Cảnh Nguyệt hồ ở bờ phía tây, theo đường vòng cung, là một con đê, hai
bên rìa có trồng hai rặng nhãn, lá xanh rậm rạp. Ở bờ phía đông là một con
đường đá chạy dài. Ngay bên đường, trông ra hồ, có đền thờ đức Trần Hưng Đạo, quy mô rất là rộng rãi. Cách một quãng đến đền thờ bà Tống Hậu1, của làng
Mậu Dương, cũng gọi là Hoa Dương, liên tiếp mấy tòa, ẩn hiện trong đám cây cổ
thụ um tùm, như trong tranh vẽ. Sau cùng là vọng cung với giếng nước, mà
chung quanh có dinh thự của các quan tỉnh chầu vào. Cảnh ấy đã làm nảy sinh ý
tưởng cho các bài thơ tập cổ. Vịnh đền thờ bà Tống Hậu có bài thơ HOA
DƯƠNG CỔ TỰ:
1 Đền thờ bà Tống Hậu: về đời Nam Tống, Lục Tú Phu đem vua Đế Bính mà dìm xuống bể. Bà Tống Hậu theo vua bị tuẫn nạn, rồi trôi sang nước ta, thành hiển linh. Dân ta lập đền thờ ở nhiều nơi như Nghệ An, Hưng Yên…
44
Cách song khuy ảnh thượng chung thuyền,
Hoành địch đoản tiêu bi viễn thiên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu,
Giai sơn thảo thụ oán đề quyên.
Liêm trung nhược phóng tây phong nhập,
Thành thượng bình lâm Bắc Đẩu huyền.
Thắng địa uất bàn chung cổ tại,
Hoa hàm túc vũ liễu hàm yên.
Cụ Ý viên Hoàng Cảnh Tuân đã dịch Nôm ra như sau:
Đền thờ bà Tống Hậu
Cửa sổ dòm qua thoáng bóng chùa,
Ngân nga tiếng sáo quạnh trời thu.
Trào tuôn mặt bể vừng ô xế,
Cây phủ sườn non mõ quốc khua.
Gió tây thoảng lọt rèm thưa,
Chuôi sao Bắc Đẩu lửng lơ trên thành.
Đất thiêng cảnh đẹp giời dành,
Hoa tươi mưa thấm liễu xanh khói vờn.
Cụ Vân Bình Tôn Thất Lương đã có lời phê bình: “đề vịnh đền bà Tống
Hậu rất hay và rất tài; ý sâu, lời chuốt, chuyển liền, đối khéo, như một bài thơ tự
làm ra vậy” [6, tr.157] .
Những cây xanh ở ven hồ, tiếng chuông trong đền thờ Trần Hưng Đạo liền
kề đó, hay tiếng trống buổi tối ở dinh Tổng đốc cũng gợi ý cho một bài tập cổ.
Xin lấy một bài làm ví dụ:
TRẦN MIẾU HIỂU CHUNG
Bắc Đẩu hoành thiên dạ dục lan,
45
Kim lô hương tẫn lậu canh tàn.
Kim di kiếm bội thanh sơ lạc,
Lộ thấp đồng đà hiểu vị can.
Họa các xuân phong khai vạn hộ,
Ngọc giai tiên trượng ủng thiên quan,
Kinh hồi trần mộng hòa sinh khấu,
Vị tử gian du cốt dĩ hàn.
Cụ Vân Bình Tôn Thất Lương giải nghĩa:
Câu 1: Sao Bắc Đẩu đã nằm ngang trời, là cảnh đêm đã khuya.
Câu 2: Trời lạnh ở trong nhà đốt lò hương thơm để xem sách, thì hương đã tàn,
đồng hồ đã cạn.
Câu 3: Nghe tiếng chuông mới phát ra, trong khi các ngôi sao trên trời đã lần lần
rời xa nơi kiếm bội.
Câu 4: Trời đã gần sáng, giọt lộ ở những con nghê đồng ở trước cửa miếu, vẫn
còn ướt chưa khô.
Câu 5: Nhớ xưa, mỗi buổi sáng sớm, khi gió xuân thổi làm cho khoan khoái, thì
những lầu hồng gác tía mở ra hàng vạn cửa.
Câu 6: Và trước thềm ngọc nơi tiên trượng, các quan vào chầu đã đứng chật rồi.
Câu 7: Đó là nhớ xưa mà như mơ màng trong giấc mộng. Chợt thất kinh tỉnh
giấc mộng ấy, mà trở lại cái giấc mộng trần này, đứng vững như cột cờ “sinh”
mà lạy.
Câu 8: Vì biết rằng cái thằng gian nịnh kia, tuy nó chưa chết, nhưng nghe thấy
tiếng chuông này xương nó đã lạnh buốt vậy.
1 Sinh khấu: Sách Hán Thư có chép: Ông Chu Vân tâu với vua rằng: “Thần xin vua ban cho thanh kiếm của vua để chém đầu một bề tôi nịnh mà răn đe kẻ khác. Vua hỏi: bầy tôi nịnh là ai?
46
Bài này nếu chỉ là vịnh cảnh và vịnh tiếng chuông thì cũng chỉ là “một bài thơ tầm thường”[6, tr.166], đằng này tác giả dùng hai chữ “sinh khấu”1 - vốn là
một điển tích để vịnh tiếng chuông, mà thực tế là ngợi ca vị anh hùng Trần Hưng
Đạo thì thật là cao thâm, hàm súc.
Vốn là người đa tình lại giàu tình cảm nên câu chuyện tình cảm lúc tuổi
đôi mươi vẫn chưa nguôi ngoai trong lòng tác giả. Hơn mười năm sau, sau một
giấc mộng đêm xuân, ông viết tập thơ Xuân mộng bằng chữ Hán (1898), dùng đủ
30 vần bằng theo sách Thi vận tập thành. Cuốn sách Thi vận tập thành nguyên là
ở bên Tàu, các thi gia ta ngày xưa khi làm thơ Hán hoặc thơ Nôm đều lấy nó để
tra cứu. Trong tổng số 106 vần thì có 30 vần bằng và 76 vần trắc. Vần trắc
thường khó làm và nghe không mượt mà, êm tai nên người xưa thường dùng phổ
biến là vần bằng. 30 vần bằng lại chia làm hai loại: Thượng bình (gồm 15 vận:
Đông (phương Đông), Đông (mùa đông), giang, chi, vi, ngư, ngu, tề, giai, khôi,
chân, văn, nguôn, hàn, san); Hạ bình (gồm 15 vận: tiên, tiêu, hào (hỗn hào), hào
(hào kiệt), ca, ma, dương, canh, thanh, chưng, vưu, xâm, đàm, diêm, hàm). Phan
Mạnh Danh đã nương theo từng vần, mỗi vần làm một bài thơ chữ theo thể thất
ngôn bát cú đường luật. Lại lấy Xuân mộng làm đề mục thì “từ chỉ, điển cố, thần
thái, cảnh bạt đều phải hàm ý mộng ở trong, mà phải tránh dùng đến chữ mộng;
còn chữ xuân lại dùng trong khắp các bài”[7, tr.41]. Thêm nữa “bài nào cũng
phải có chữ Hảo- tên người trong mộng”[7, tr.42]. Khảo sát 30 bài thơ chữ chúng
tôi thấy tất cả các bài đều đáp ứng đủ những yêu cầu đấy.
Mộng được biểu hiện khá linh hoạt, mỗi bài mỗi vẻ. Bài Đắc đông tự1,
mộng là sự chung đúc một mối tình giữa kẻ giai nhân và người danh sĩ, dù im
Tâu: An xương hầu Trương Võ. Vua giận lắm vì Trương Võ là người được vua yêu. Quan ngự sử truyền lôi Chu Vân xuống điện, Chu Vân không chịu cứ lôi lấy một cái cột điện, thành ra cột gẫy. Sau Công bộ đến thay cái cột ấy thì vua ban rằng: “Vật dịch, nhân nhi trấp chi, dĩ sinh trực thần” Nghĩa là: chớ thay, cứ giữ lấy mà chữa đi thôi, để tiêu biểu khen bề tôi ngay. 1 Đắc đông tự: Bài thơ chữ tương ứng với bài nôm Vần nhất đông.
47
lặng nhưng vẫn “thông với nhau một mối tâm tình u ẩn”[7, tr.45]. Bài Đắc đông
tự1,tác giả bày tỏ tấm lòng ủy mị vẫn còn mộng tưởng đến người tình cũ cho dù
mĩ nhân giờ đã có gia đình lạc thú . Bài Đắc chi tự là sự mộng tưởng đến dung
mạo người tình nhân trong một giấc mộng đêm xuân. Bài Đắc vi tự, tác giả
mong muốn gặp được tình nương trong giấc mộng để “ta và tình nương” “hóa
làm gió đông và cỏ” rồi đem màu lục tươi tốt để thổi đến cho hoa đồ my. Bài
Đắc ngu tự là giấc mộng như Trang Châu mơ mình hóa thành bướm, từ đó mà có
những cảm xúc chạnh nhớ chạnh thương, cô đơn lạnh lẽo.
Bài Vần nhất đông “mộng” (giấc mộng) cùng với “huyễn” (sự huyền ảo),
“bào” (cái bọt nước), “ảnh” (cái bóng) hợp thành “lí tưởng nhà Phật được phô
diễn trong bài thơ, một cách chân, giả, phù, trầm để ngụ ý “thân là khách”” [7,
tr.45]. Bài Vần nhị đông lại toàn nói về mộng tưởng nhưng đó lại là mộng thần
tiên. Tuy vẫn gắn với chữ tình nhưng đó lại là thứ tình rất cao siêu ở nơi Đỉnh
Giáp, Non Bồng…
Chữ xuân ở mỗi bài cũng được sử dụng với nhiều dáng vẻ và cảnh huống,
có khi là xuân tiêu (đêm xuân) trong bài Đắc chi tự, xuân tín (tin tức mùa xuân) trong bài Đắc đông tự2, xuân dung (dung mạo mùa xuân) trong bài Đắc đông tự3,
xuân suy, xuân tàn (xuân hết) trong bài Đắc vi tự, Đắc hàn tự; xuân sắc (cảnh
sắc mùa xuân) trong bài Đắc giai tự, đương xuân (đang độ mùa xuân) trong bài
Đắc khôi tự, xuân phong (gió xuân) trong bài Đắc chân tự, xuân vụ tỏa (xuân
khóa kín) trong bài Đắc văn tự, xuân hận, xuân oán (nỗi hờn xuân) trong bài Đắc
1 Đắc đông tự: Bài thơ chữ tương ứng với bài nôm Vần nhị đông. 2 Đắc đông tự: Bài thơ chữ tương ứng với bài Nôm Vần nhất đông. 3 Đắc đông tự: Bài thơ chữ tương ứng với bài Nôm Vần nhị đông. 4 Đắc hào tự: bài thơ chữ tương ứng với bài Nôm Vần tam hào. 5 Đắc hào tự: bài thơ chữ tương ứng với bài Nôm Vần tứ hào.
48
san tự, Đắc hàm tự; xuân trào (sự chê cười của mùa xuân) trong bài Đắc hào tự 4, Giang nam xuân (sắc xuân nơi Giang nam) trong bài Đắc hào tự5, xuân tư
(dáng vẻ mùa xuân) trong bài Đắc ma tự, xuân dương (cảnh trời đất khi mùa
xuân) trong bài Đắc dương tự, xuân khuê (phòng xuân) trong bài Đắc thanh tự,
xuân chẩm (cái gối đêm xuân) trong bài Đắc vưu tự…
Học cách làm thơ theo lối thơ tam thập vận của Nguyên Chẩn đời Đường
(bài nào cũng có chữ Oanh) nên bài nào tác giả cũng phải đưa chữ Hảo – tên
người trong mộng vào. Chữ hảo xuất hiện cũng rất sinh động, nhiều vẻ, mỗi bài
đứng ở vị trí khác nhau.
Tập thơ Xuân mộng còn có cái hay ở chỗ, bên cạnh việc dùng chữ hảo và
ý mộng trong khắp các bài, thi sỹ còn có những bài thơ mỗi câu dùng tên một
giống điểu, thú, ngư, trùng, cũng có bài mỗi câu dùng tên một từ khúc, một vị
thuốc bắc, một thứ chè tàu, một người con gái có tiếng. Khảo sát trong 30 bài thơ
chữ có 5 bài dùng theo lối này (Đắc ngư tự, Đắc ngu tự, Đắc ca tự, Đắc hàn tự,
Đắc nguôn tự).
Tập thơ đã được thi sỹ văn nhân đương thời đánh giá cao. Ưng Bình Thúc
Giạ Thị đã nói: “Trong tập thi ấy, nhiều bài hay, mà lại nhiều câu hay đến cực
điểm”[ 6, tr.10]. Có những câu “tình tứ rất thông thường, rất đúng với sự thiệt
của đời người, mà thi gia xưa nay chưa từng nói đến” [6, tr.11]
Sầu khả tửu tiêu nhưng hóa lệ
Tâm phi thạch chuyển tiện thành hôi
(Đắc khôi tự)
Buồn thì có thể lấy rượu mà tiêu buồn đi, song rượu lại hóa thành nước mắt
Lòng ta không phải là đá mà có thể xoay chuyển được, nhưng vì sầu não
cho nên nó nát ra tro.
Như vậy, trong giai đoạn này Phan Mạnh Danh chủ yếu vẫn dành nhiều
thời gian cho thú làm thơ và chơi thơ của mình, ý định “phục cổ” chưa bộc lộ ra
49
một cách rõ ràng. Cuốn Bút hoa thơ tập cổ và tập thơ Xuân mộng sau này trở
thành dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác của ông.
2.2. Giai đoạn từ năm 1900 đến năm 1930
2.2.1. Đời sống xã hội và văn học
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp đã đặt được ách thống trị trên đất nước ta.
Về hình thức, triều đình phong kiến vẫn tồn tại nhưng mất đi tính chất tự chủ mà
chịu sự ước thúc của thực dân Pháp. Trong hàng ngũ quan lại xuất hiện những
cách ứng xử khác nhau: một số “tát nước theo mưa”; một số vin vào tuổi tác,
khép áo, treo mũ từ quan về “vui thú điền viên”; một số trẻ hơn, thuộc thế hệ
“ngộ quốc biến” thì nỗ lực tìm đường mong “đền nợ nước”. Trong đẳng cấp nhà
Nho nói chung cũng có một sự phân hóa mãnh liệt: một bộ phận nhỏ nhạy bén
với chính trị, mẫn cảm với thực trạng vong quốc chuyển sang hoạt động cách
mạng trở thành những nhà nho duy tân; một bộ phận nhỏ khác kết hợp vốn cựu
học với tân học nhưng định hướng cuộc đời vào chỗ thỏa mãn những nhu cầu cá
nhân; đa số nhà Nho, nhất là những nhà Nho cấp thấp thì chìm ngập trong những
giáo điều cổ lỗ, mê muội với thời cuộc nên bộc lộ tâm trạng chán chường, vô
vọng.
Năm 1905, Tân thư, tân văn được truyền bá sâu rộng vào nước ta. Với tinh
thần chung là phê phán sự hủ bại của xã hội phong kiến, ca ngợi văn minh Âu –
Mỹ, yêu cầu cải cách đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tân
thư có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhà nho lúc bấy giờ: Lương Khải Siêu,
Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế… Mặc dù, trước khi vào Việt Nam, Tân thư
đã bị khúc xạ qua lăng kính của các nhà nho cải cách ở Trung Quốc, Nhật Bản
nên không khỏi có những sai lệch. Nhưng về cơ bản vẫn phải thừa nhận rằng
:“Tân thư đã làm thay đổi tư tưởng nho sĩ, đem lại cho họ một tầm mắt “doanh
50
hoàn” nhìn rộng toàn cầu, một quan điểm cạnh tranh sinh tồn để nhìn xã hội, gợi
ý cho họ một đường lối cứu nước mới lấy dân làm động lực” [17, tr.47]. Tuy
nhiên, do các học thuyết, tư tưởng mới ra đời không theo trình tự nội sinh mà
xuất hiện bị động do sức ép từ bên ngoài nên bản thân nó chưa được hoàn thiện
đầy đủ và phù hợp với môi trường xã hội nước ta. Những thay đổi của đời sống
xã hội đã khiến cho “cái cũ mất đi vai trò, ý nghĩa lịch sử của nó song cái mới
vẫn chưa đủ trưởng thành để đáp ứng những đòi hỏi của một tiến trình phát triển
mạch lạc tiếp tục” [57, tr.46]
Văn học là bức tranh phản ánh đời sống xã hội. Tính chất phức tạp của
văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX chính là tấm gương phản chiếu
đời sống xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Cuối thế kỉ XIX, chữa Hán và chữ Nôm
vẫn là thứ văn tự chủ yếu được các nhà nho sử dụng trong sáng tác. Từ sau năm
1903, các nhà nho trí thức đã nhận thấy tính đa tiện ích của chữ quốc ngữ nên đã
phát động toàn dân học thứ chữ mới này. Từ đây chữ quốc ngữ đã chính thức có
được “trước bạ” để dần dần trở thành chữ viết của toàn dân tộc. Các nhà Nho
truyền thống vốn quen sử dụng chữ Hán, chữ Nôm nay đã sử dụng chữ quốc ngữ
vào việc sáng tác văn chương. Báo chí quốc ngữ xuất hiện dày đặc, và do đó bản
thân báo chí lại trở thành “phương tiện truyền bá và giáo dục chữ quốc ngữ có
hiệu quả nhất” [57, tr.56].
Ngay sau khi Pháp đặt ách đô hộ, mặc dù vẫn duy trì chế độ khoa cử như
trước nhưng trong tầng lớp danh sĩ đã xuất hiện tư tưởng “giã đám”. Một số vẫn
đi thi như là để hoàn tất trọn vẹn cái sự học của mình chứ không đặt cái đích
“vinh danh”; một số có tài năng xuất chúng đi thi, thi đỗ hoặc ra làm quan rồi lại
cáo quan (Phan Châu Trinh) hoặc không chịu ra làm quan (tiêu biểu là Phan Bội
Châu đỗ thủ khoa – Giải nguyên trường Nghệ năm 1900; Trần Quý Cáp, Huỳnh
Thúc Kháng đậu tiến sĩ năm 1904)... Không chỉ tỏ thái độ ứng xử chính trị, các
51
nhà nho tiêu biểu nhất của lối văn cử tử còn dùng thơ văn để phê phán, bài xích,
khai tử cho chính nền cựu học đã đào tạo ra chính mình. Với bài “Chí thành
thông thánh” và “Lương ngọc danh sơn phú” viết trong kì thi khảo hạch ở Bình
Định năm 1905, bộ ba xứ Quảng đã vừa thể hiện lòng yêu nước, căm thù giặc
vừa tỏ thái độ mạnh mẽ, quyết liệt trong việc phủ nhận nền cựu học và chế độ
khoa cử lỗi thời. Lời kêu gọi quẳng bút lông đi để suy nghĩ, tìm tòi một hướng đi
mới để cứu nước đã có tác động mạnh mẽ tới đông đảo nho sinh và nhân dân
trong vùng. Năm sau, Huỳnh Thúc Kháng lại làm bài thơ “Cái văn chương”
bằng chữ quốc ngữ khẳng định lối học khoa cử của nho gia đã đến hồi mạt vận
cần phải thay đổi:
Cái văn chương là cái chi chi
Mút ngòi bút mà hỏi cùng vũ trụ
Những nghĩa, những văn, những thi, những phú,
Những trường thiên, đoản cú, tán, tự, bi, minh
Nếp bồng trông mòn mỏi bấy công trình
Nền khoa cử lấy hiển vinh mày mặt
Đậm lợt cáp phấn vua đôi nét
Rồi công danh phú quý dập dìu theo
Này xe, này ngựa, này võng, này hèo
Này áo gấm xiêm thêu, này đai vàng thẻ bạc
…
Tò mò hỏi, năm châu ai lớn nhỏ
“Ủa! việc ngoại dương tau có biết mô na!”
Cũng tai, cũng mắt, cũng người ta.
52
(Cái văn chương – 1906)
Giải thích nguyên nhân dẫn đến sự “giã đám” trên, trước hết là do tình
cảnh đất nước lầm than, cơ cực dưới ách đô hộ thực dân tác động trực tiếp,
thường xuyên tới các nhà nho yêu nước, thôi thúc ở họ một quyết tâm cần phải
hành động, phải tìm ra con đường cứu nước mới; sau nữa, hơn ai hết nhà nho là
người hiểu sâu sắc nhất sự lạc hậu, trì trệ của nền giáo dục cũ, theo họ đây chính
là nguyên nhân đẩy đất nước vào thảm cảnh “cha con tủi nhục, vợ chồng thở
than”. Vì thế, tất yếu, sớm muộn gì cũng xảy ra sự kiện: năm 1915 khoa thi
Hương cuối cùng đã diễn ra ở Bắc Kì và năm 1918 khoa thi Hội cuối cùng đã
diễn ra ở Nam Kì. Từ đây nước ta chấm dứt việc tuyển dụng quan lại thông qua
khoa cử Hán học. Cùng với đó, “ngày 21 -12 – 1917 toàn quyền Albert Sarraut
đã ban hành Điều lệ chung của bộ Quốc dân giáo dục ở Đông Dương, hạn chế
ngặt nghèo việc dạy chữ Nho trong nhà trường Pháp – Việt”, “ngày 14 – 7-
1919, triều đình Huế ban bố Chiếu chỉ Hoàng gia sát nhập nền giáo dục Nho học
truyền thống vào nền giáo dục Pháp quốc – Bản xứ, phù hợp với những gì mà
Albert Sarraut đã ban hành” [22, tr.436]. Chữ Hán đã không còn chiếm vị trí như
trước nữa mà thay vào đó là chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Tuy vậy, chữ Hán vẫn
không vắng bóng hẳn, “việc tự học chữ Hán (và chữ Nôm) vẫn tiếp tục diễn ra ở
các tư gia, nhất là trong các gia đình vốn có truyền thống Nho học” [22, tr.436].
Xung quanh vấn đề “có nên bỏ chữ Hán hay không”, qua nghiên cứu Giáo sư
Nguyễn Quang Hồng trong cuốn Khái luận văn tự học chữ Nôm cho rằng: rất ít
người phủ nhận Hán học, phần đông đều nhận thấy ở Hán học có cái học cử
nghiệp, nặng về từ chương thi cử thì nên bỏ, nhưng cái học về tri thức văn hóa
Trung Hoa vốn tiếp xúc lâu đời với văn hóa Việt Nam, những cái gắn với sự
hình thành và phát triển văn hóa Việt Nam thì cần phải được tiếp tục và phát
huy. Điều đó là cơ sở, căn nguyên để trong suốt vài chục năm đầu thế kỉ XX chữ
53
Hán vẫn lay lắt tồn tại, thơ văn bằng chữ Hán vẫn được sáng tác, lưu truyền và in
ấn.
Ba mươi năm đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam vẫn đón nhận những tác
phẩm “cuối mùa” viết bằng chữ Hán của đa số những tác giả có nền học vấn xuất
thân là cựu học: Nguyễn Khuyến (1835 – 1910), Cao Xuân Dục (1843 – 1923),
Đào Tấn (1845 – 1907), Phan Bội Châu (1867 – 1940), Nguyễn Thượng Hiền
(1868 – 1925), Phan Châu Trinh (1872 – 1926), Huỳnh Thúc Kháng (1876 –
1947), Ngô Đức Kế (1878 – 1929), Đào Nguyên Phổ (1861 – 1907), Chu Mạnh
Trinh (1862 – 1905), Phan Mạnh Danh (1866 -1942), Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu (1889 – 1939), Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983). Số lượng các sáng
tác bằng chữ Hán vẫn được công bố rộng rãi trên báo chí, song số lượng và chất
lượng độc giả biết chữ Hán đã bị giảm sút nghiêm trọng khiến bộ phận văn
chương Hán “bị rút gọn một cách bất ngờ” [57, tr.59].Vì vậy, nhiều tác phẩm
Hán văn, để đến được với số đông người đọc, không có cách nào khác là phải
cần đến tài năng của dịch giả hoặc, bản thân tác giả sáng tác và công bố sáng tác
bằng hai thứ văn tự. Báo chí xuất hiện và ngày càng chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống sinh hoạt tinh thần của tầng lớp thị dân đã tạo điều kiện cho đội
ngũ tác giả là nhà nho, trí thức Tây học có thể sử dụng ngòi bút của mình để
kiếm sống. Lực lượng sáng tác này chính là những người làm báo. Dần dần bằng
con đường dịch thuật, phỏng tác một số người viết báo chuyển sang viết truyện
ngắn, viết kịch. Từ đây văn chương chính thức trở thành một nghề. Tác phẩm
viết ra là để công bố cho mọi người chứ không phải là thứ văn của nhà nho xưa
viết để cho mình, viết vào văn tập, thi tập để lưu lại cho con cháu, để cất vào
danh sơn.
Ngay những năm đầu của thế kỉ XX, phong trào dịch đã xuất hiện ở nước
ta, sớm nhất là ở Nam Bộ dịch truyện cổ Trung Quốc. Sau phong trào dịch lan
54
rộng và được nâng cao hơn ở Bắc Bộ: dịch các sách Tàu, sách phương Tây (chủ
yếu là sách Pháp) và sách Hán cổ của các cụ cha ông ta thuở trước. Chính những
tác phẩm dịch này đã góp phần thay đổi quan điểm, thị hiếu của nhân dân ta
(nhất là ở thành thị) và xây dựng quan điểm, thị hiếu thẩm mỹ mới. Trong những
sách dịch của nước ngoài chiếm phần đa là các “tiểu thuyết “ngôn tình, nhu cảm”
của Trung Quốc và Pháp, những tác phẩm của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng
mạn và chủ nghĩa hiện thực phê phán Pháp”[17, tr.215]. Nói về văn học dịch,
trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Giáo sư Dương Quảng Hàm cũng nhìn
nhận ra một thực tế là: trong các sách dịch của phương Tây chưa có sách
“chuyên khảo về triết học và khoa học”, và “đó là một khuyết điểm trong nền
học vấn của ta”, độc giả nước ta “chỉ thích xem những văn giải trí mà chưa chịu
để tâm nghiên cứu các vấn đề cao sâu hoặc thiết thực” [19, tr.562].
Như vậy, trong ba thập niên đầu thế kỷ XX đời sống kinh tế, chính trị,
giáo dục, văn học ở Việt Nam có sự thay đổi theo xu hướng một số giá trị cũ bị
mất đi mãi mãi nhường chỗ cho một số giá trị mới xuất hiện, hoặc thay đổi để
phù hợp với sự đổi thay của xã hội. Điều đó tác động đến văn học khiến cho văn
học Việt Nam từ 1900 – 1930 có sự tồn tại song song của hai nền văn học cũ và
mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng, hai quan niệm văn học, hai loại
ngôn từ văn học ở hai địa bàn khác nhau. Nền văn học mới đang dần ở thế thắng
lợi tiến tới thay thế cho nền văn học cũ, song nền văn học cũ tuy đang trên con
đường suy tàn nhưng hào quang của nó vẫn có tác dụng tích cực nhất định trong
sự phát triển của văn học dân tộc.
2.2.2. Trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh từ năm 1900 đến năm 1930
Không trở thành một nhà khoa bảng nhưng chính “những áng thi văn bất
hủ” [6, tr.16] đã vinh danh Phan Mạnh Danh trở thành “bậc danh sĩ tài danh đất
Nguyệt hồ”. Do đặc điểm chữ ta và chữ Tàu đều là đơn âm ngữ nên các bậc thi
55
gia xưa đã nghĩ ra lối thơ thuận nghịch độc. Thuận nghịch độc hay hồi văn là bài
thơ có thể đọc xuôi bình thường từ câu đầu cho đến câu cuối, cũng vẫn bài thơ
đó, nếu đọc ngược lên từ chữ cuối câu cuối và chấm dứt bài thơ với chữ đầu của
câu đầu bài thơ thì bài thơ vẫn đúng niêm luật, vần điệu và có ý nghĩa. Đây là
một lối thơ rất khó làm vì mỗi khi làm một câu thơ lại phải đọc xuôi, đọc ngược
làm sao cho cả hai cách đọc xuôi, đọc ngược đều phải có ý nghĩa và hợp vận
luật. Phần nhiều đọc xuôi hay đọc ngược đều thành hai bài Nôm hoặc hai bài
chữ. Song, do đặc điểm chữ Nôm có những chữ được cấu tạo là nguyên chữ Hán
hoặc đọc cùng âm, hoặc đọc khác âm nên có thể làm ra một bài đọc xuôi thành
thơ chữ, đọc ngược thành thơ Nôm được. Cú pháp trong Việt văn và trong Hán
văn có nhiều chỗ khác nhau nên dùng chữ và đặt câu có phần công phu hơn là
làm những bài thơ thuận nghịch độc toàn Nôm hoặc toàn chữ. Tìm trong số
những sáng tác của Phan Mạnh Danh còn lưu lại được có 4 bài thơ làm theo lối
thuận nghịch độc, trong đó có một bài Hán thi đọc xuôi đọc ngược đều thành thơ
chữ (Trung tiêu đạo biệt) và 3 bài thơ đọc xuôi thành thơ chữ và đọc ngược
thành thơ Nôm (Liễu âm tống biệt, Tích biệt – kỳ nhất, kỳ nhị). Ở đây ta khoan
xét đến bài thơ chữ Trung tiêu đạo biệt. Chỉ ba bài thơ thuận nghịch độc sau đã
thấy thi nhân là một bậc kì tài. Hầu hết cả ba bài đều đảm bảo được vận luật của
một bài thơ thất ngôn bát cú đường luật (Trừ bài Tích biệt - Kỳ nhất, thơ Nôm
đọc ngược từ bài chữ là không hợp vần). Về ý nghĩa, giữa bài đọc xuôi và đọc
ngược có bài đúng nghĩa nhau (Tích biệt – kỳ nhị), có bài khác nhau ở một số câu
(Tích biệt – kỳ nhất), có bài tạo ra sự độc đáo, khác biệt từ cách lí giải sự tình ở
câu đầu hay câu cuối (Liễu âm tống biệt). Xin trích dẫn cả ba bài để cùng thưởng
thức:
LIỄU ÂM TỐNG BIỆT
Bài Nôm: Đọc ngược bài thơ chữ ở dưới.
Đình trường đoản ấy để bi thương,
56
Vầng nguyệt bên hoa luống nhuộm sương.
Canh vắng báo tàn kê giục điếm,
Bạn lìa thương chiếc nhạn rời hàng.
Thành sầu ngất vọi thêm huy lệ,
Khối giận toàn mang những đoạn trường.
Tình tự biết bao tình viễn vọng,
Xanh xanh một sắc liễu Đài Chương.
(Mùa xuân năm 1903)
Giải nghĩa bài Nôm:
1 - Cái trường đình và cái đoản đình ấy là những nơi tiễn biệt để lại một mối
thương xót.
2– Từ giã nhau rồi, về nhà trong lúc ban đêm người mỹ nhân sùi sụt ở dưới
trăng, khác nào như cánh hoa dầm sương bên bóng nguyệt.
3- Con gà ở nơi lều tranh nó gáy giục khi canh đã sắp tàn
4- Con nhạn bay ra ngoài hàng lẻ loi, lại thương bạn cũng như con nhạn ấy.
5- Thành sầu cao ngất, trông chừng không sao vượt được nên phải rơi lệ.
6- Khối giận rất sâu, cho nên đều khiến phải đứt ruột
7- Kể tự tình, thì kể sao cho xiết những tình xa xôi.
8 - Là: nhớ cội liễu Chương Đài nay đã nẩy lá xanh xanh.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa)
Bài chữ
Chương Đài liễu sắc một thanh thanh,
Viọng viễn tình bao biệt tự tình.
Trành đoạn nhưng mang toàn hận khối,
Lệ huy thiêm bội ngật sầu thành.
Hàng di nhạn chính thương ly bạn,
57
Điếm trục kê tàn báo vĩnh canh.
Sương nhiễm lũng hoa biên nguyệt vậng (?),
Thương bi để ý đoản tràng đình.
(Mùa xuân năm 1903)
Giải nghĩa bài chữ
1- Trông xa xa màu xanh khóm liễu Chương Đài đã khuất,
2- Ấy là tình ly biệt nó bao hàm với tình tương tư.
3- Ruột đã đứt, nhưng vẫn còn bận bịu vướng vít, toàn là vì khối hận,
4- Mà thành sầu cao bao nhiêu, thì càng rơi lệ nhiều bấy nhiêu.
5- Thấy con nhạn đã lẻ hàng, càng cảm tình với bạn,
6- Nghe con gà nó báo sáng, mới biết mình đã thức suốt canh dài.
7- Bông hoa ở đầu non, vầng trăng ở biên trấn xa xôi đang khi sương nặng
giọt,
8- Đau xót thay vì đâu? Vì nơi đoản tình và trường đình.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa)
TÍCH BIỆT – KỲ NHẤT
Bài Nôm: đọc ngược bài thơ chữ ở dưới
Mang sầu mượn cảnh tả tương tư,
Tin báo xuân mai luống đợi chờ.
Hàng nhạn rưới thêm đôi lệ ngọc,
Tiện hồng nhân ký một phong thơ.
Hương hoa đượm gác sương đầm thấm,
Sắc nguyệt lồng lâu liễu phất phơ.
Thương tự vì ai đành cách trở,
Trường đình ghi giận biết từ xưa.
(Mùa xuân năm 1903)
58
Giải nghĩa bài Nôm:
1- Mang mối sầu mượn phong cảnh trước mắt mà tả nỗi tương tư,
2- Hoa mai đã báo tin xuân đến, càng thêm mong đợi.
3- Trông thấy hàng nhạn lạc bầy, nên nước mắt rơi,
4- Nhân tiện có con chim hồng, lại gởi một phong thư
5- Sương đọng vào hoa, hoa nẩy hương thơm, là khi ở gác cao đầm ấm,
6- Trăng lồng bóng lầu cao, cành liễu phất phơ, càng minh mỵ đến xuân.
7- Thương nhớ, nhưng thương nhớ vì ai? Vì ai xui nên cách trở?
8- Nghĩ thế, lại nhớ ra rằng: nỗi giận này đã ghi lòng từ khi biệt nhau ở chốn
trường đình.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa)
Bài chữ:
Sơ từ biệt hận ký đình trường
Trở cách thành ai vị tự thương.
Phi phất liễu lâu lung nguyệt sắc,
Thấm đàm sương các đạm hoa hương.
Thư phong một ký nhân hồng tiện,
Ngọc lệ đôi thên sái nhạn hàng.
Từ đãi lũng mai xuân báo tín,
Tư tương tả cảnh mạn sầu mang.
(Mùa xuân năm 1903)
Giải nghĩa bài chữ:
1- Từ khi mới biết nhau cho đến nay, còn ghi nhớ cảnh trường đình,
59
2- Cách trở nhau nên đau xót, vì mình tự thương mình.
3- 4- 5- 6- (Đúng nghĩa những câu Nôm)
7- Thong thả chờ tin mai ở nơi Xứ Lũng,
8 -Chỉ bởi nỗi sầu man mác, mà đối cảnh tả lòng tương tư.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa)
TÍCH BIỆT – KỲ NHỊ
Bài Nôm: Đọc ngược từ bài thơ chữ ở dưới
Duyên bạc than hoài vị biệt nhau,
Tin mai chây vẳng cách sương thu.
Tiên hoa điểm mực hòa châu lệ,
Chữ gấm đề thơ tả mạch sầu.
Bên gối báo tàn kinh giọt gấp,
Ngoài lầu huyên động giục chuông thâu.
Sen lìa giếng ngọc, hương lìa gác,
Điên đảo vì tình ở khứ lưu.
(Mùa xuân năm 1903)
Bài Hán:
Lưu khứ ư tình vị đảo điên,
Các ly hương ngọc tỉnh ly liên.
Thâu chung xúc động huyên lâu ngoại,
Cấp lậu kinh tàn báo chẩm biên.
Sầu mạch tả thi đề cẩm tự,
Lệ châu hòa mặc điểm hoa tiên.
Thu sương cách vĩnh trì mai tín,
Nhiêu biệt vi hoài thán bạc duyên.
(Mùa xuân năm 1903)
60
Giải nghĩa bài Nôm và bài chữ: (Hai bài đúng nghĩa nhau)
1- Vì duyên bạc phải cách biệt nhau, nên cứ than thở hoài,
2- Cách mấy lần sương, cách mấy lần thu qua, cứ mong đợi tin xuân mãi,
nhưng tin thưa thớt và chậm trễ.
3- Tờ giấy hoa, đem viết thư bằng mực hòa với nước mắt,
4- Đề thơ hồi văn để tả nỗi sầu tuôn.
5- Giọt lậu báo tin canh tàn, bên gối giật mình sợ,
6- Tiếng chuông thu kêu rền ở ngoài lầu, cũng như tiếng đồng hồ bên gối.
7- Gẫm nỗi cách trở nầy như thế nào? Như hoa sen đã lìa giếng ngọc, như
hương thơm đầm ấm đã lìa gác,
8- Cho nên phải điên đảo vì tình, khi kẻ ở người đi.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa)
Nền văn học mới đã xuất hiện và dần đi vào thế ổn định, phát triển, song
có lẽ do chính sách dung hòa Âu – Á, nhiều vị khoa bảng có tiếng vẫn được
khuyến khích tổ chức các buổi xướng họa, thi thơ lớn. Hưng Yên hồi ấy là nơi có
nhiều bậc danh nho; tỉnh lại có nhiều thắng cảnh như: hồ Bán nguyệt, phố Hiến
Nam, đền Mậu Dương, tòa Văn miếu…; “các vị đường quan bấy giờ lại là những
bậc văn hay” [11, tr.59]. Vì thế trừ những kì thi Hương, Hưng Yên nghiễm nhiên
trở thành nơi gặp gỡ của các bậc danh nho ngày trước. Ở đây cũng có nhiều cuộc
thi thơ diễn ra: Cuộc thi Hoa dương bát vịnh, Văn miếu bát vịnh do Hoàng Cao
Khải tổ chức; cuộc thi thơ Hiến Nam hoài cổ do Phạm Văn Toán tổ chức, cuộc
chơi đèn có thơ đố do Nguyễn Hữu Tường tổ chức… Cuộc thi Đề Thanh Tâm
Tài Nhân lục cũng được tổ chức tại đây.
Bước sang thế kỉ XX, Truyện Kiều càng khẳng định được tầm ảnh hưởng
của mình qua việc xuất hiện hàng loạt những bài bình Kiều, vịnh Kiều... Vịnh
chính tác phẩm Truyện Kiều chưa đủ, người ta lại tìm về với lam bản Truyện
61
Kiều để làm mới nó. Năm 1905, Tổng đốc Lê Hoan có tổ chức cuộc thi thơ ĐỀ
THANH TÂM TÀI NHÂN LỤC tại tỉnh lỵ Hưng Yên. Trong cuốn Nhà thơ Chu
Mạnh Trinh của tác giả Lê Văn Ba có chú thích rõ về cuộc thi vịnh Kiều đó như
sau: Người dự thi phải làm: 1) Một bài tựa bằng chữ Hán, thể văn tứ lục. 2) Một
bài thơ đề từ (bài tổng vịnh). 3) 20 bài thơ Đường luật, hoặc chữ Hán hoặc chữ
Nôm, vịnh 20 hồi của Truyện Kiều, ở đầu mỗi bài vịnh có hai câu tổng thi (thơ
nêu đại ý bài vịnh). Ban chấm thi gồm có Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến
và Giải nguyên Dương Lâm là các vị danh sĩ đương thời. Người tham gia dự thi
có: Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (nguyên án sát Hưng Yên, lúc này đã cáo quan về
nhà nghỉ); Nguyễn Tấn Cảnh (cử nhân, tri huyện Văn Lâm, Bắc Ninh); Nguyễn
Trí Đạo (cử nhân, tri phủ Khoái Châu, Hưng Yên); Phan Thạch Sơ (tú tài, vốn là
người Tàu từ đời ông nội đã nhập tịch Việt Nam, nhà ở Hà Nội); Chu Thấp Hy
(cử nhân, người làng Đào Xá, huyện Kim Động, Hưng Yên); Nguyễn Kỳ Nam
(cử nhân, người làng Nam Dư, huyện Thanh Trì, Hà Nội); Đặng Đức Cường (cử
nhân, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định); Tú Trà (người
Nam Sang, tỉnh Hà Nam)… Phan Mạnh Danh cũng tham gia cuộc thi này. Ông
“làm một bài tựa chữ Hán, 21 bàì thơ chữ Hán, 21 bài thơ Nôm phỏng theo
những bài chữ” [6, tr.11].
Cũng theo sách này thì kết quả cuộc thi: Chu Mạnh Trinh nhất thơ chữ
Nôm; Chu Thấp Hy nhất thơ chữ Hán.
Trong cuốn Thi văn tập trích lục, trước khi trích in phần thơ dự thi, Phan
Mạnh Danh có chú thích rõ “Tại sao có tập văn này?”. Như Phan Mạnh Danh nói
thì sau khi ngồi Án sát tỉnh Hưng Yên rồi đổi sang Hà Nam lui về cố quận, Chu
Mạnh Trinh “vẫn thường qua lại chốn Nguyệt hồ”. Nhân xem cuốn Truyện Kiều
của Nguyễn Du, ông nghè Phú thị Chu Mạnh Trinh mới khởi xướng cuộc thi thơ
Đề Thanh Tâm Tài Nhân lục. Tổng đốc Hưng Yên là Lê Hoan được mời làm chủ
62
tọa (như đã nói ở trên). Còn về kết quả cuộc thi thì “tiếc thay! Cuộc thi đó bị tan
trước khi đem ra tuyên bố” [11, tr.60]. Với những cứ liệu trên, có thể nhận định
rằng: xưa nay người ta vẫn tự ý trao giải cho cuộc thi Đề Thanh Tâm Tài Nhân
lục chứ thực hư thế nào còn chưa ngã ngũ; hoặc cũng có thể giải cuộc thi thì đã
chấm xong, chỉ có điều chưa kịp công bố trước mọi người, vì lí do cá nhân mà
Phan Mạnh Danh đã khéo léo nói: “nhưng tiếc thay! Cuộc thi đó bị tan trước khi
đem ra tuyên bố”.
Với yêu cầu thứ nhất, Phan Mạnh Danh đã làm một bài tựa bằng chữ Hán
theo lối biền ngẫu. Theo lối này thì một bài tựa biền ngẫu thường gồm toàn
những câu đối ghép lại, thỉnh thoảng mới chen vào một câu đệm; những câu đối
ấy phải xếp đặt theo niêm luật riêng thì đọc lên nghe mới êm tai; số chữ trong
một câu cũng phải thay đổi cho cú điệu mỗi chỗ một khác; cũng nên lựa chọn âm
thanh khi bổng khi trầm, lúc khoan, lúc nhặt như một khúc đàn hay để người
nghe cũng tỏ được tâm tình của người viết.
Bài tựa kể những duyên do, sự tình khiến cho truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân được viết ra, ấy là: phong lưu oan nghiệt, chữ mệnh vì chữ tài mà chịu
ghen ghét, chữ tình vì chữ sắc mà phải vương mang. Tác giả vừa kể chuyện vừa
bình luận sử dụng những điển tích để thâu tóm lời văn ngắn gọn đồng thời tái tạo
lại không khí mới cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn lạ lẫm mà vẫn không làm
thay đổi cốt truyện. Không dừng lại đó, tác giả bộc lộ quan niệm của mình để
thương tiếc cho phận má hồng nói chung: Than ôi! Kẻ có tài sắc tuyệt vời
thường mắc phải nửa đời lưu lạc, là bởi nợ yên hoa ác nghiệt, gốc ở nơi hồng
tuyết nguyên do. Chớ bảo rằng: nhi nữ chuyện thường, nhi nữ nghìn thu còn để
tiếng, nếu nhi nữ lại nhận mình là tri kỉ, cũng đủ thôi hờn. Nếu kiếp tái sinh ở giữa đời này, ta có thấy cũng sinh lòng yêu mến”1. Tác giả lại tự nhận mình là
1 Lời chú giải của thi sỹ Tôn Thất Lương
63
người đồng đạo, tri âm với Thanh Tâm Tài Nhân và cụ Tiên Điền, lại chỉ tưởng
tượng đến người (tức Thúy Kiều) nên mới “vẽ vợi ra bức sông thu đem treo đây”
mà kể lể một trường xuân mộng. Bài tựa gồm toàn những câu đối, các câu đối lại
được xếp đặt theo niêm luật, số chữ trong một câu luôn thay đổi, âm thanh khi
bổng khi trầm như đã nói ở trên nên đã làm mất đi cái vẻ thô sáp của một tiểu
thuyết chương hồi, cùng với đó là tấm lòng của tác giả được bộc bạch tri âm với
Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều.
Với yêu cầu thứ hai, Phan Mạnh Danh làm một bài đề từ (bài tổng vịnh)1
Hán họa lại bài của cụ Phạm Lập Trai và một bài đề từ Nôm. Cái hay của hai bài
này là “tác giả đã đem tinh thần của tự gia mà hóa đề từ thành điểm nhãn” (Tôn
Thất Lương chú giải) nghĩa là ông đã tóm lược cả hai mươi hồi của Thanh Tâm
Tài Nhân lục (tên gọi của tác phẩm ghi lại truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bằng
chữ Hán lưu hành trong xã hội ta thuở ấy) để vẽ nên bức họa một mĩ nhân bằng
các nét điểm bút, có cốt cách tinh thần. Thi sỹ Tôn Thất Lương còn rất thích hai
câu thơ Nôm:
Túc nghiệt xui ra nhầm một bước,
Vô tình nên mới gặp hai lần.
Ông cho rằng hai câu ấy đã điểm tỉnh cho biết bao nhiêu nhà đọc Truyện
Kiều xưa nay chưa từng dòm thấy cái điệu lý: Bởi cái nợ ấy mà trước nó xui ra
chỉ lầm lỗi một bước đầu tiên, là tự vầy nên cuộc nhân duyên với Kim Trọng /
Rồi hóa ra phải chịu chữ vô tình mà gặp chàng Kim lần trước rồi lại lần sau.
Tôn Thất Lương cho rằng: khi dự cuộc thi thơ này Phan Mạnh Danh mới
chỉ là “cậu thư sinh đứng tuổi bên cạnh những nhà khoa hoạn, các bậc lão thành
vào hồi ngoại bốn chục năm nay” nên văn chương có vẻ giữ gìn, không dám viết
ra những lời bay bướm. Cộng thêm nữa, đầu đề mỗi hồi là một câu đối tóm tắt
64
những ý cốt yếu trong hồi ấy. Người làm thơ phải theo ý đầu đề: hai câu thực và 1 Đề từ: đây có nghĩa là bài tổng vịnh. Cần phân biệt với khái niệm “đề từ” trong Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi.
hai câu luận mỗi câu phải nói đến một vế, cho nên những chữ dùng phải có ý
nghĩa xa xôi, kín đáo. Vì thế tập thơ có tính cách nghiêm trang khác Xuân mộng,
dễ thiên về lối văn chương cử nghiệp.
Bài thi tham dự cuộc thi này Phan Mạnh Danh đã làm “dôi” ra so với yêu
cầu của cuộc thi: ông làm đủ 20 bài Hán và 20 bài Nôm tương ứng với 20 hồi
trong Thanh Tâm Tài Nhân lục, và “tác giả dường như bắt đầu làm tập thơ chữ” rồi mới “nương theo thơ chữ mà dịch ra Nôm”1. So với 20 bài Nôm của Chu
Mạnh Trinh phần thơ Nôm của Phan Mạnh Danh có phần thiếu đi sự bay bổng,
vẻ sinh động. Song với cách làm bài thi như thế chỉ có thể cắt nghĩa bởi chữ
“ngông”. Vì ngông nên mới “không làm đủ” theo yêu cầu của cuộc thi mà biến
cuộc thi trở thành chốn để khoe tài; hoặc Phan Mạnh Danh không coi trọng đến
yêu cầu của cuộc thi mà xem cuộc thi là nơi mình thỏa sức bộc lộ niềm yêu
thích, say mê Truyện Kiều của mình.
Từ năm 1908, Phan Mạnh Danh được cử làm giáo học đệ nhất cấp của
tỉnh lỵ Hưng Yên trong quan dinh đốc học, ông đã dành nhiều thời gian và dốc
tâm huyết của mình vào việc soạn ra nhiều sách giáo khoa: bộ Việt Nam danh
nhân diễn ca, Vật lý học bằng chữ Nôm (1909), và quyển Vạn vật học, Ngũ đại
châu địa dư bằng chữ Hán (1910). Những cuốn sách đấy đủ khẳng định ông là
người có vốn kiến thức uyên bác trong nhiều lĩnh vực khoa học. Nhờ những
cuốn giáo trạch ấy mà học trò của ông thi đỗ rất nhiều. Ngoài ra, Phan Mạnh
Danh tập hợp các thành ngữ Hán thông dụng biên soạn thành cuốn Thực dụng
thành ngữ cho người đọc thuận học tập và nghiên cứu. Bộ sách gồm 4 quyển
được biên tập khoa học theo 12 chủ đề: văn học, học vấn, ngôn ngữ, thư họa, sơn
thủy phong cảnh, qua quả trúc mộc, thảo hoa điểu thú, phu tử, tổ tiên phu phụ,
1 Lời chú giải của thi sỹ Tôn Thất Lương
65
huynh đệ sự sinh, thánh hiền hào kiệt phú quý bần tiện, thông minh ngu chuyết
cần phấn lãn nọa; biên soạn cuốn 858 chữ chỉ âm Hán tự. Những cuốn sách này
cũng được ông sử dụng trong quá trình dạy học.
Đời Hậu Lê nước ta có hai đấng thi nhân nổi tiếng là Nguyễn Du và
Nguyễn Huy Tự. Vân bình Tôn Thất Lương có làm một phép so sánh về khẩu tài
văn chương của hai thi nhân ấy qua hai tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du) và
Truyện Hoa tiên (Nguyễn Huy Tự). Cơ sở để Tôn Thất Lương làm phép so sánh
này là bản thân hai tác phẩm đều có lam bản từ một tác phẩm trong văn học
Trung Quốc: Truyện Kiều có lam bản là truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân triều Minh, Truyện Hoa tiên có lam bản là Đệ bát tài tử Hoa tiên
kí của Tĩnh Tịnh Trai tiên sinh đời Minh; hai tác phẩm đều thuộc thể loại thơ
Nôm lục bát; hai tác phẩm đều kể chuyện tài tử giai nhân, cũng đủ bi hoan li
hợp. Theo Tôn Thất Lương : “Lời văn Truyện Thúy Kiều ý bình dị và đơn giản,
dùng lời nói lưu lợi phổ thông mà đạt đến nơi thâm viễn, dù có dùng điển tích,
nhưng phần nhiều ở chốn thông thường, cho nên đã sớm phổ cập mọi người nhã,
tục, thảy đều thưởng thức; đáng gọi là vị nhân nhiều, vị kỷ ít” [54, tr.7]. Trái lại,
lời văn Truyện Hoa tiên lại “xen lẫn cả hai phần bình dị và cao thâm, dùng phần
nhiều lời nói có khi khó khăn mà chuyên chú vào sự trạng và tình ý. Khi dùng
điển tích, phần nhiều tuy ở điển thông thường mà lại chọn lấy chữ hoặc ý mắc
mỏ của điển tích mà phô bày, khiến người xem đến phải ngẩn ngơ suy nghĩ…
đáng gọi là vị kỉ nhiều mà vị nhân ít” [54, tr.8]. Có lẽ vì cái khẩu tài ấy khác
nhau mà Truyện Kiều của nguyễn Du dễ lưu truyền trong dân gian hơn chăng?
Còn giá trị thì nhiều người nói rằng Truyện Hoa tiên “sánh ngang với Truyện
Kiều”. Năm 1917, dựa vào truyện Nôm Hoa tiên, Phan Mạnh Danh đã diễn
thành một vở tuồng vừa Nôm vừa chữ nhan đề là Tuồng Hoa tiên. Trong quá
trình khảo sát tư liệu chúng tôi cũng có thấy nhiều tài liệu giới thiệu Tuồng Hoa
66
tiên như một tác phẩm đã hoàn thiện: lời nhà in Nguyễn Trung Khác ở cuối cuốn
sách Thi văn tặp trích lục giới thiệu “sắp in Tuồng Hoa tiên” của Phan Mạnh
Danh, ở đó có trích dẫn một đoạn tuồng trong cảnh “Kỳ biên tương ngộ”; trong
phần giới thiệu tiểu sử tác giả cuốn Bút hoa, Đào Sỹ Nhã cũng đánh giá rất cao
vở Tuổng Hoa tiên “câu văn điệu hát đều rất công phu, và tỏ rõ được cái tài của
thi gia sành về âm nhạc” [6, tr.13]. Do đó, chúng tôi nghi vấn rằng tác phẩm đã
được hoàn thành, song có thể do hoàn cảnh đất nước trong những năm chiến
tranh, qua nhiều lần lưu tán mà tác phẩm bị thất lạc . Hiện nay, dù đã cố công
tìm tòi chúng tôi cũng chỉ tìm thấy ba hồi Nôm trong vở Tuồng Hoa tiên do gia
đình tác giả cung cấp, đó là: (1) Kì biên tương ngộ: Kể chuyện Lương Sinh dạo
chơi trong vườn nhà Diêu gia một đêm trăng thì gặp Dao Tiên và Thái Cơ đang
chơi cờ vây, từ đó mà nảy sinh mối cảm tình với Dao Tiên (tương ứng từ câu 61 đến câu 110 trong Truyện Hoa tiên1); (2) Bích Nguyệt thu kỳ (tiếp hồi trên): Dao
Tiên sai Bích Nguyệt ra đình thu bàn cờ về, Bích Nguyệt đã gặp chàng thư sinh
họ Lương vẫn đang tần ngần đứng đó, Lương Sinh đã nhân cơ hội đó mà dò la
tin tức và bộc bạch tâm tình (tương ứng từ câu 111 đến câu 152 trong Truyện
Hoa tiên); (3) Liễu âm khốc biệt (không tìm được các hồi trước hồi này): Lương
Sinh và Dao Tiên gặp lại nhau (sau khi Lương Sinh đã thi đỗ Thám Hoa, cha của
Dao Tiên đi chống rợ Hồ và đang bị giặc bao vây), để tỏ lòng chung thủy với
Dao Tiên, Lương Sinh đã quyết định xin vua đi giải vây cứu cha Dao Tiên
(tương ứng từ câu 1202 đến câu 1310 trong Truyện Hoa tiên). Do hạn chế về mặt
tư liệu nên chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và đưa ra những nhận định trên phạm
vi tư liệu thu thập được. Nói về thể loại Tuồng (hay Hát bội) trong Việt Nam văn
học sử yếu, Dương Quảng Hàm giải thích: “Chữ Tuồng có người cho là bởi chữ
tượng 象mà ra. Tượng nghĩa là hình trạng hiển hiện ra. Vậy tuồng là hình dung,
1 Truyện Hoa tiên do Vân bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú thích.
67
dáng dấp cử chỉ của người đời xưa” [19, tr.229]. Trong tuồng người ta thường
dùng ba thể văn:
1) Thể nói lối: dùng để viết các câu nói chuyện, kể việc. Thể này là thể văn
hay dùng đến nhất trong lối tuồng.
2) Các thể văn vần: thể văn của ta như song thất lục bát (gọi là hát Nam);
hoặc thể văn của Tàu như thơ, phú (gọi là hát Bắc hay hát khách).
3) Thể văn xuôi: dùng để đặt những câu đệm lót thêm vào những câu viết
theo hai thể trên cho rõ ý.
Xét ba hồi Tuồng Hoa tiên của Phan Mạnh Danh chúng tôi thấy tác giả
vẫn nương theo cốt truyện nhưng đã chuyển thể thành công tác phẩm từ thể loại
truyện thơ Nôm sang thể loại tuồng với câu ca điệu hát đặc trưng của thể loại
tuồng (có nói lối, có các điệu hát: ngâm, tán, hát nam, hát khách); lời ca chau
chuốt mượt mà. Xin trích dẫn một đoạn làm ví dụ:
Lương Sinh
Như tiểu sinh mà nói, thực phi vô cổ mà nói, Nói
Sở dĩ hỏi, cũng phi vô cổ mà hỏi
Một gặp là duyên, xui dạ tục dễ đầy bể ái, Hát khách
Ba sinh cũng nợ, dẫu người tiên khôn thoát vòng ân.
Như lúc nãy tôi gặp được người ấy đã là may, Nói
Đến bây giờ tôi gặp được nàng đây lại càng may lắm
May chẳng qua là:
Nhân vị tiểu sinh truyền tin tức, Hát khách
Thế thì khác nào là:
Trương Sinh đắc ngộ tiểu Hồng Nương.
Bích Nguyệt
68
Đây nào phải Tây sương đâu tá, Nói
Mà là:
Ai vì chàng làm ả Hồng Nương;
Vả khuê phòng quy phạm băng sương,
Á thôi đi nào!
Xin mạc giảng phong hoa chi sự.
Đào biếc trên mây, tưởng hoa ấy thêm gầy vóc liễu, Hát khách
Người chẳng qua là đơm đó ngọn tre đó thôi
Lá hồng cuối gió,
Tưởng làm chi cho bận bụng, mượn gươm kia cắt đứt tơ mành.
Thôi, đêm khuya canh đã hầu tàn, Nói
Xin người dé ra cho tôi trở lại.
Lương Sinh
Xin nàng hãy thung dung một chút, Nói
Để tôi đây bộc bạch đôi lời;
Như người ấy mà vô tình vô ý, thì tôi chẳng nói làm chi,
Nhưng tôi suy lại xét đi, thấy người ấy thực có tình có ý lắm.
Xuân sắc lai thời, mãi lộng thiên kiều chi thác ái, Hát khách
Chẳng những thế mà thôi đâu, lại còn:
Thu ba khứ hậu, chiều yêu nhất tiếu giã lưu tình.
Bích Nguyệt
Người chẳng qua là: Nói
Tính quẩn càng thêm nghĩ quẩn,
Mà mà
Tưởng càn nên lại nói càn;
Chứ như cô tôi mà cười, chẳng qua là:
69
Quân thị khinh cuồng, học lễ bất tằng chi lễ tại, Hát khách
Cười là cười thế mà thôi, chứ có tình có ý chi đâu,
Thư phi biệt ý, vô tình hưu nhận hữu tình khan.
Bích Nguyệt vào
Lương Sinh
Như tôi bây giờ là: Nói
Nửa phần thời dùng dằng lẽ ở,
Nửa phần thời danh dở chiều về;
Sao đà tàn, trăng cũng hồ khuya,
Âu là:
Theo lối cũ trở về thư viện, xong.
Duyên ấy kiếp này mà lỡ, Hát nam
Chẳng thà không gặp gỡ là xong;
Trách ai rào đón vườn hồng,
Để cho bướm những nặng lòng vì hoa.
Lương Sinh vào
Ngoài ra, các nhân vật có thêm những hành động, lời ngâm làm sinh động
cho vở tuồng. Ví như đoạn Thái Cơ và Dao Tiên chơi cờ không có miêu tả lời
nói trong nguyên tác truyện, nhưng trong vở tuồng của Phan Mạnh Danh có
đoạn:
Ngâm:
- Này gảy sĩ canh
- Này đâm tốt ba
- Này hoàn tượng về
- Này thác pháo ra
70
- Này này ta phi mã
- Này này ta xuất xa
- Này tướng nhập cung
- Này tốt độ hà.
Như vậy, ngoài danh hiệu là một thi nhân Phan Mạnh Danh còn xứng
đáng là một nhà biên kịch tuồng. Khôi phục được toàn bộ vở tuồng sẽ là sự đóng
góp về mặt tinh hoa cho nền nghệ thuật sân khấu nước nhà. Song, trong giới hạn
luận văn chúng tôi xin dành nhiệm vụ này cho người nghiên cứu tiếp theo ở một
đề tài khác.
Chữ quốc ngữ thực sự đã đem lại những “đại tiện ích” mà đại đa số đều
thừa nhận. Nguyễn Văn Vĩnh ngay những năm đầu thế kỉ XX khi xuất bản cuốn
Tam quốc chí diễn nghĩa dịch ra quốc ngữ trong bài tựa ông viết “Nước Nam ta
mai sau này, hay dở cũng ở chữ quốc ngữ” [19, tr.547]; Thúc Ngọc Trần Văn
Giáp trong bài viết Lược khảo tiểu thuyết Tàu in trên báo Thanh Nghị số 11
tháng 4 năm 1942 lại nhận thấy: “Từ ngày có chữ quốc ngữ thật là một vật báu
cho ta” [15, tr.14]… chữ quốc ngữ không chỉ là công cụ phục vụ cho sáng tác
văn học mà còn là điều kiện để văn học dịch phát triển. Những trí thức Tây học
thông thạo chữ Pháp như Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Phạm Quỳnh (1892
– 1945) đem dịch nhiều tác phẩm chữ Pháp ra tiếng Nam và dịch đủ các lối văn:
văn luận thuyết, văn ngụ ngôn, văn truyện ký, văn tiểu thuyết và hài kịch, triết
học Âu Tây… Và dĩ nhiên, ngay trong buổi đầu thì “hai ông đều có công với
việc thành lập quốc văn” [19, tr.553]. Các nhà nho cuối mùa còn sót lại từ thế kỉ
trước, tự cho mình là không hợp với phong trào Thái tây thì “hoặc vì kế sinh
nhai, hoặc vì buồn không có việc, đem các tiểu thuyết Tàu dịch ra quốc ngữ”
[15,tr.14] tiêu biểu phải kể đến Phan Kế Bính (1875 – 1921), Nguyễn Đỗ Mục
(1866 – 1948), Trúc Khê Ngô Văn Triện (1901 – 1947) và một số dịch giả không
71
chuyên khác như: Hoa Nhân Lý Ngọc Hưng (người Hoa kiều), Nguyễn Thành
Ký (Chủ tiệm kim hoàn ở Tân An), Huyền Trí Phú (Thương gia Mỹ Tho),
Nguyễn Hữu Sanh (Nhân viên Đông Dương học hội), Trần Phong Sắc (Giáo học
Hán văn trường Tân An), Nguyễn Chánh Sắt (Chủ bút Nông Cổ Mín Đàn), Đinh
Thái Sơn (Chuyên sửa xe đạp và buôn sách quốc ngữ)… Cũng có những nhà nho
gửi gắm trong bản dịch của mình những ưu tư về tiền đồ của dân tộc, mong
muốn dịch phẩm của mình ít nhiều có tác động đến nhân tình thế thái lúc bấy
giờ. Trường hợp Phan Mạnh Danh với bản dịch Đa tình hận (1919) và Tình sử
(1920) là một ví dụ.
Theo Nhan Bảo: “Đến thế chiến thứ hai, đã có một nhu cầu thường xuyên
bức thiết về tiểu thuyết tình cảm, cả về loại tài tử giai nhân vốn quen thuộc với
độc giả qua các bản diễn Nôm, lẫn loại tiểu thuyết bình dân viết theo phong cách
mới, mệnh danh là trường phái uyên ương hồ điệp xuất hiện ở Thượng Hải vào đầu thế kỉ XX”1. Đại biểu lừng danh nhất cho loại tiểu thuyết này là Từ Chẩm Á.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết của Từ Chẩm Á được du nhập và dịch ra quốc ngữ khi
“văn quốc ngữ còn đang chập chững trau giồi, và chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh
hưởng của Hán văn”, [30]. Trong bài viết của Đào Sỹ Nhã giới thiệu về tiểu sử
Phan Mạnh Danh có nói: “Ở bên Tàu lúc bấy giờ, lại vừa xuất bản một quyển
tiểu thuyết của Từ Chẩm Á, nhan đề là Đa tình hận, nói về cái họa tự do trong
nữ giới nước Tàu. Tự nghĩ:
“Sách ấy có thể đánh thức những si nam, oán nữ đương trong giấc mộng
say mê”.
Tiên sinh [tức Phan Mạnh Danh] đem dịch Nôm vào hồi 1919”[6, tr.13].
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Nam “hiện thời vẫn chưa tìm được nguyên
tác Hán văn của Đa tình hận nên thực khó khẳng định tác giả của sách có phải là
1 Trích theo Nguyễn Nam trong bài viết “Tình sử loại lược” lưu truyền và ảnh hưởng ở Việt Nam.
72
của Từ Chẩm Á hay không” [30]. Trong bảng thống kê Danh sách tiểu thuyết,
truyện ngắn dịch đề tên Từ Chẩm Á (dịch và in trong khoảng 1923– 1931)1
Nguyễn Nam xếp Phan Mạnh Danh vào vị trí đầu tiên trong số những dịch giả
dịch tác phẩm của Từ Chẩm Á ở Việt Nam (trong số 23 bản dịch). Do còn nghi
vấn ở đây là nguyên tác Hán văn của Đa tình hận nên Nguyễn Nam chưa đưa ra
kết luận gì về vai trò mở đầu cho phong trào dịch tiểu thuyết của Từ Chẩm Á ở
Việt Nam của Phan Mạnh Danh.
Hiện nay chúng tôi cũng chỉ thu thập được bản đề tựa bằng quốc văn và
chương một của bản dịch tiểu thuyết Đa tình hận. Bài Đề tựa Bản dịch truyện Đa tình hận2 có chú thích rõ: “Đa tình hận là một bộ tiểu thuyết của Từ Chẩm Á.
Truyện có Lê Tố Trinh, một cô gái mới nước Tàu, yêu một người bạn giai là
Mẫn Minh Đạo; vì Minh Đạo không lấy nàng nên nàng giận mà tự tử”. Chương
một của bản Đa tình hận giống như lời giới thiệu các nhân vật và sự tình của
truyện: Lê Tố Trinh và Trương Tuân Chân tham gia hội Hồng thập tự (Chữ thập
đỏ) đến vùng đất Ngạo Thành để làm việc. Sau một thời gian hai người trở về,
Lê Tô Trinh đến nhà Mẫn Minh Đạo chơi; Minh Đạo thấy Tô Trinh đã thay đổi
nhiều, yểu điệu thục nữ hơn xưa; khi Tô Trinh về Minh Đạo nghĩ: “Nếu mình kết
duyên cùng người ấy [chỉ Tô Trinh] thì cũng là một đoạn lương duyên”, “còn
như Tô Mỗ (?) mà lấy Tô Trinh, thật là không vừa đôi phải lứa, nàng vẫn cố
duồng dẫy, nhưng chắc rằng khó thành được nghị ly hôn:
Thương thay cũng một thân người,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.”
Trương Cảnh Bạch là bạn của Minh Đạo lại si mê Trương Tuân Chân, hai
người cùng có tình luyến ái với nhau. Đoạn cuối chương, Cảnh Bạch và Minh
1 Xem Nguyễn Nam, Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết?, http://tonvinhvanhoadoc.vn 2 Có thể tìm đọc Đề tựa bản dịch Đa tình hận trong cuốn Thi văn tập trích lục của Phan Mạnh Danh tại Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.
73
Đạo cùng đến chỗ trọ của Tuân Chân và Tô Trinh chơi.
Khi dịch truyện này dịch giả Phan Mạnh Danh cũng nhận ra khả năng
“cảnh tỉnh mê tình” của Đa tình hận:
“Ở đời người con giai con gái, phần nhiều nhầm về một chữ tình, nào là
trộm gương dòm ngọc, nào là bẻ liễu vin hoa, ngày ngày cái án phong lưu
thường thường vẫn có. Sách này riêng về kẻ dụng tình ấy làm gương, để khỏi
phải sa nơi bể khổ, mà người làm sách cũng hiểu được tình lý ấy, cho nên muốn
dẹp sóng cuồng. Trong sách này tả những giai gái tình si, dụng tình lắm mối, và
gồm đủ cả tình ái, tình diễm, tình si, tình ảo, tình đố, tình hiệp, tình kỳ, tình ai,
tình khổ, mọi loại tình, thành ra một bộ tình sử nhỏ, thực là có thể đánh thức
những người si nam oán nữ đang trong giấc mộng say mê.” [11, tr.113].
Năm sau, Phan Mạnh Danh dịch tiếp bộ Tình sử của Long Tử Do1. Trong
Tình sử loại lược (thường gọi tắt là Tình sử), Long Tử Do tuyển lục “hơn 870
thiên tiểu thuyết bút ký các đời, liên quan đến tình yêu, phân thành 24 loại ái
tình, khởi sự với Tình trinh và kết thúc với Tình tích. Sách dành riêng quyển 23
cho các truyện liên quan đến đồng tính luyến ái (40 truyện), gọi đó là Tình
ngoại.”[29]. Trong sách này Phan Mạnh Danh có tuyển chọn 11 câu chuyện tình
kể về sáu loại ái tình là: tình cửu, tình tư, tình trinh, tình duyên, tình hiệp, tình
cảm. Ông cũng chỉ rõ mục đích của việc phiên dịch cuốn sách này “chuyên răn
kẻ nhầm mắc lưới tình, phải biết dụng tình cho chính đáng […] việc tuy phần
nhiều thuộc về giai gái, nhưng mối thì là tình, mà văn thì là sử, cũng quyền trứ
bút, cũng ý thải phong, điều thiện có thể khuyên người ta làm, điều ác có thể
khiến người ta tránh” [8, tr.5]. Ngoài phần cốt truyện, dịch giả cũng cố gắng dịch
thơ, từ, ca, phú theo đúng nguyên điệu, nguyên văn. Trong cuốn Cổ thi trích dịch
(Hán Sở, Đường, Ngũ Đại, Tống, Nguyên, Minh, Thanh) được Phan Mạnh Danh
74
biên soạn từ năm 1935 đến 1940 cũng có dịch 9 truyện trong Tình sử loại lược, 1 Long Tử Do là tên bút kí khác của Phùng Mộng Long (1574 – 1646), tự là Do Long, quê ở Trường Châu, nay là Tô Châu, Giang Tô, Trung Quốc. Ông là tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng Đông Chu Liệt Quốc.
chỉ có điều với cuốn sách này dịch giả chú ý dịch thơ hơn là kể nội dung cốt
truyện. Bộ Điển cố do Phan Thế Roanh xuất bản năm 1953 cũng có 9 truyện
được dịch từ Tình sử, trong đó Phan Mạnh Danh dịch 3 truyện (Hứa Tuấn – Liễu
Chương Đài, Vu Liêm Súy – Khách qua đường, Vân Anh – Cầu Lam).
Năm 1825 khi vừa tròn 60 tuổi, theo lời các bạn làng nho Phan Mạnh
Danh lại làm “một tập Xuân mộng bằng quốc văn [ý chỉ chữ Nôm – TTH], gồm
một bài Tình trường kí, một bài Thoại mộng hành và 30 bài luật thi đủ 30 vần
bằng như tập Hán văn” [6, tr.13]. Cả hai tập thơ này sau được ghép làm một, in
lần đầu trong cuốn Thi văn tập trích lục xuất bản tại Nam Định năm 1942. Năm
1953, năm 2007 tập thơ được in riêng thành tập Xuân mộng, lần này ngoài phần
trích dẫn các bài thơ cuốn sách có thêm lời chú giải của thi sỹ Tôn Thất Lương
ứng với từng bài rất tiện lợi và hữu ích cho mọi đối tượng độc giả.
Bài Tình trường kí viết theo lối cổ văn. Nguyên nhan đề của nó “kí” có
nghĩa là “một bài văn xuôi, ghi chép sự thực, tả có phép tắc, xếp có tầng thứ,
nhiều khi có những lời nghị luận chen vào”[7, tr.24]. Tình trường kí là ghi chép
về một câu chuyện tình dài. Trong bài này Phan Mạnh Danh đã khéo léo kể sự
tình của mình một cách gẫy gọn, khúc triết. Văn kể tỉ mỉ, “lời lẽ êm ái”, “đẹp mà
không dâm” nêu được cả cái nguyên do vì sao tình duyên đưa tới khiến nỗi
“không sao cầm lòng được ”, thế rồi từ đấy đôi bên khăng khít sớm tối bên nhau,
xuân qua đông tới chẳng khác gì Lưu Thúy Thúy với Kim Định, Thôi Oanh
Oanh với Trương Quân Thụy. Sự xa cách thấm thoắt đã hơn mười năm, chợt có
ngày gặp lại “khoảng tháng mười một năm nọ”, sự nằm mộng “thấy nàng gót sen
lững đững từ đâu mà đến”. Thi nhân đem chuyện mộng này kể với bạn là Lê
quân Sĩ Nghị thì bị “bách” làm 30 mươi bài đường luật từ vần nhất đông đến
vần thập ngũ hàm, lấy Xuân mộng làm đề mục.
75
Bài Thoại mộng hành, vẫn là tự thuật lại câu chuyện tình trong bài Tình
trường kí nhưng Phan Mạnh Danh viết theo thể hành, cũng là một thể cổ văn, đó
là “một bài văn vần, số câu không nhất định, có khi từ đầu đến cuối chỉ dùng
nguyên một vần, có khi cách mấy câu lại đổi vần. Những bài hành dùng để tự
thuật một sự tình như: Tỳ bà hành, Đào nguyên hành, Trường can hành, Mãnh
hổ hành…” [7, tr.34]. Ở Thoại mộng hành, cả bài Nôm và bài chữ tác giả đã
tuân thủ đúng theo thi pháp của thể hành.
Phần Xuân mộng tam thập thủ, so với những bài thơ chữ, làm thơ Nôm tác
giả cũng “ít được công phu bằng” [7, tr.42]. Vì thế, cũng có khi đem ý xuân để
thay vào chữ xuân , chữ hảo cũng chỉ lác đác. Khảo sát tổng số 30 bài thơ Nôm
chỉ có 4 bài có chữ hảo, 7 bài có chữ xuân. Tuy nhiên, do không đặt yêu cầu quá
cao ở chỗ buộc phải xuất hiện từ xuân, hảo nên lời thơ có phần uyển chuyển,
mượt mà hơn. Thêm nữa, cái ý mộng lại được biểu đạt dạt dào hơn. Ta thấy ở
nhiều bài xuất hiện những từ như: hình, bóng, mây, khói, giấc, hồn, ảo, chân, tơ
tưởng, phảng phất, thấp thoáng, mơ màng… và các điển cố: non Giáp, Lũng hữu,
Nam kha… Có nhiều bài từ từ ngữ đến điển cố, từ thần thái đến cảnh bạt đều
biểu hiện được cái ý mộng ở trong (Vần nhất đông, Vần nhị đông, Vần bát tề,
Vần cửu giai, Vần thập nhất chân, Vần cửu thanh, Vần thập chưng, Vần thập
nhất vưu…).
Bài Vần nhị đông:
Nhớ lúc lò hương hương lửa nồng,
Những là gối chếch, những chăn mong.
Non Bồng vầng nguyệt soi nghìn dặm,
Đỉnh Giáp từng mây bọc mấy trùng.
76
Khó kiếm đêm xuân trong một khắc,
Thêm dài ngày thẳng quá ba đông.
Thư trai sẵn phú Cao đường đó,
Sao nỡ mê hoa phụ lá hồng?
Giải nghĩa:
Câu 1: Nhớ về trước kia, tình đôi ta vẫn được ấm như một lò hương đang nghi
ngút.
Câu 2: Mà sao nay phải chịu cảnh gối chếch một mình, lạnh lùng chăn mỏng,
khiến thâu đêm trằn trọc mơ màng.
Câu 3: (Tiếp ý câu 1, 2) chỉ mơ màng cảnh Bồng lai, là cảnh tiên ở ngoài nghìn
dặm, còn lòng ta man mác như mảnh trăng khuya ở non Bồng.
Câu 4: Lòng ta nó cũng không rời với ngàn mây nơi đỉnh Giáp .
Câu 5: Khó lòng thay! Đêm xuân một khắc cùng nhau dù ngắn, song chưa dễ tìm
đâu cho thấy được,
Câu 6: Lại trông ngóng nhau, mà ngày tháng như thêm dài, một ngày đằng đẵng
tựa ba thu. Thế thì ta biết lấy chi mà giải phiền?
Câu 7: Ở chốn thư phòng ta, sẵn có phú Cao đường, ta hẳn đọc để tự an ủi.
Câu 8: Đâu có nỡ đi mê sự phồn hoa, mà bỏ lời ước hẹn cũ.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương dịch nghĩa)
Toàn bộ bài Vần nhị đông đều nói về mộng, mà giấc mộng nói ở đây lại là
mộng thần tiên. Ý mộng hiện hình trong nỗi “nhớ” về khoảng thời gian hạnh
1 Non Bồng: Non Bồng là dịch chữ Bồng đảo, tức là Bồng lai. Bồng lai là một nơi non tiên, cùng với Phương trượng và Doanh châu là ba hòn đảo trong Bột hải. 2 Đỉnh Giáp: Ngày xưa vua Sở Tương Vương đi chơi ở đầm Vân mộng (Vân mộng trạch) nằm chiêm bao thấy một thần nữ xin hầu chăn gối và tự xưng rằng: “Thiếp ở núi Vu sơn, mỗi ngày cứ buổi sớm làm mây, buổi chiều làm mưa”. Sau vua Sở Tương Vương cho lập đền thờ ở chân núi Dương đài. Vì thế, người sau muốn ám chỉ đến chuyện tình dục hoặc sự mộng tưởng mỹ nhân thì dùng chữ: vân (mây), vũ (mưa), Vu sơn, Vu Giáp, Vu phong, Dương Đài.
77
phúc bên nhau, thắm thiết, nồng nàn như “lò hương, hương lửa nồng”, những mong ước được kết duyên vợ chồng. Điển tích “Non Bồng”1, “Đỉnh Giáp”2 đều
gợi đến cảnh thần tiên, cảnh trong cõi mộng và những câu chuyện tình trong cõi
mộng. Ý mộng nằm trong cả một câu thơ “Khó kiếm đêm xuân trong một khắc”
nghĩa là sự mong muốn có được một khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau, song đâu dễ tìm thấy được, tựa như “một khắc đêm xuân”1 đáng giá nghìn vàng. Ý mộng
đặt trong sự trông mong, đợi chờ khiến cho ngày dài hóa tháng “Thêm dài ngày
thẳng quá ba đông. Câu thơ “Thư trai sẵn có Cao đường phú” nhắc tới mộng ngữ “phú Cao đường”2. Câu thơ cuối ý mộng xuất hiện kín đáo qua từ chỉ “mê hoa”
và điển tích “lá hồng”. “Hoa” có sắc đẹp, có hương thơm, thường dùng để chỉ
người đàn bà có nhan sắc. Điển tích “lá hồng” chỉ sự hợp duyên đôi lứa, do xuất
phát từ nhiều câu chuyện như: chuyện vợ chồng Vu Hựu, vợ chồng Lư Ốc, Hầu
Kế Đồ và Nhâm thị. Ý cả câu nghĩa là: sao lỡ mê sắc đẹp của người con gái khác
mà bỏ lời ước hẹn cũ. Vậy thì mộng ở đây là mộng về quá khứ, sự hồi tưởng, nhớ lại
lời hẹn ước khi xưa.
Bài Vần thập nhất chân
Non bể bao giờ trọn ái ân,
Ấp cây một mực mãi chần chần.
Chữ duyên nhân quả thành dan díu,
Cái kiếp phong hoa để nợ nần;
Thân ở bên đèn hình ấy ảnh,
Hồn lìa trên gối ảo mà chân.
Nửa song luống những tơ cùng tưởng,
1 Một khắc đêm xuân: Đường thi có câu: “Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim” nghĩa là: đêm xuân một khắc đáng giá nghìn vàng, vì hoa có hương thơm, trăng có bóng sáng, nơi lâu đài có tiếng ca quản nghe êm ái, nơi đình viện có người đánh đu tiên, đêm dài âm thầm. 2 Cao đường phú là bài phú vịnh cảnh đền Cao đường ở đầm Vân mộng, cạnh núi Vu sơn. Bài ấy do Tống Ngọc làm ra, khi đi theo Sở Tương Vương đi chơi ở đần Vân mộng, có ý khuyên răn Sở Tương Vương. Tây sương ký cũng có câu “Thập nhị Vu phong giã hữu Cao đường lai mộng trung” nghĩa là: trong mười hai ngọn núi Vu sơn, chắc có mộng Cao đường ở trong. Thế nên người ta coi Cao đường phú là một mộng ngữ.
78
Thẹn với đôi uyên biết mấy phần.
Giải nghĩa bài Vần thập nhất chân
Câu 1: Nghĩ rằng sự thề non hẹn bể, biết bao giờ được cùng nhau trọn vẹn,
Câu 2: Nên cứ ôm lòng “ấp cây” mà chăm chăm chờ đợi không thôi.
Câu 3: Rồi lại trách vì chữ nhân quả cứ theo mà ràng buộc đến nỗi phải cùng
nhau dan díu,
Câu 4: Vả cái kiếp phong hoa nó xui nên phải mắc nợ nần nhau.
Câu 5: Sực ngó lại cái thân mình đang ngồi tựa ghế bên bóng đèn, đèn soi thân
tuy thật là thân mà lại là bóng đó. Đau đớn thay!
Câu 6: Buồn đi ngủ, ngủ thì hồn ta lìa xác như Thiến Nữ ngày xưa, chính là ảo
mà ảo chính là chân.
Câu 7: Sau khi đã tỉnh giấc chiêm bao ở bên cửa sổ nửa khép, thì bồi hồi những
mong nhớ, nhớ mong.
Câu 8: Nhìn ra ngoài hồ sen thấy đôi uyên ương bay liền cánh, ngẫm đến mình
luống chịu lẻ loi, tự thấy không bằng được đôi uyên ương, mà sinh một mối cảm
hoài vô hạn với nhân duyên vàng đá.
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa)
Ở bài này, cái ý mộng cũng theo từng câu, từng chữ mà bay ra. Sự thề non
hẹn bể vốn là niềm mong ước của đôi lứa nhưng biết bao giờ mới được trọn vẹn.
Nhưng vẫn “ấp cây” mà đợi, đã có lòng tin thì chết cũng đành như Vỹ Sinh trong
sách Trang Tử. Như vậy, vẫn là sự mơ tưởng đến nghĩa sắt cầm mà nhớ người xa
cách. Lại tưởng như duyên là do nghiệp nhân quả buộc ràng, cộng thêm sự
phong lưu đài các của đôi lứa thiếu niên nên phải mắc nợ nần nhau. Như vậy,
mộng ở đây là tư tưởng hư ảo. huyễn hoặc của Phật giáo. Sự nhớ nhung khiến
cho tác giả quên đi cả cái thân mình, ngồi bên đèn, soi thân mà hồn đã bay đi đâu
mất rồi, chỉ còn lại bóng đó. Đến khi đi ngủ thì “hồn lìa” xác tựa như chuyện
79
nàng Thiến Nương bị ốm, sau ba năm hồn và xác lại hợp làm một. Điểm này
cũng là mộng tình vì sự thoát xác của hồn là đi tìm cho được người tri kỷ. Thi sĩ
những mong được như nàng Thiến Nương kia, thoát xác là ảo, song cái sự gặp
gỡ tình nhân lại là thật. Đến khi tỉnh giấc chiêm bao cái sự nhớ mong vẫn bồi
hồi, xao xuyến nên mới có sự “tơ cùng tưởng”. Như vậy cả trước, trong và sau
khi ngủ sự nhớ nhung tới người tình cũ luôn tràn ngập trong lòng. Nhìn cảnh đôi
uyên ương bay liền cánh lại vận vào tình cảnh mình mà càng thêm cảm hoài cho
mối nhân duyên vàng đá.
Tập thơ Xuân mộng còn có cái hay ở chỗ, bên cạnh việc dùng chữ hảo và
ý mộng trong khắp các bài, thi sỹ còn có những bài thơ mỗi câu dùng tên một
giống điểu, thú, ngư, trùng, cũng có bài mỗi câu dùng tên một từ khúc, một vị
thuốc bắc, một thứ chè tàu, một người con gái có tiếng. Những bài như thế này ở
thơ chữ xuất hiện đều đặn, phong phú hơn thơ Nôm. Khảo sát trong 30 bài thơ
Nôm có 2 bài dùng theo lối này (Vần ngũ vi, Vần lục ngư), còn ở phần thơ chữ
có 5 bài dùng theo lối này (Đắc ngư tự, Đắc ngu tự, Đắc ca tự, Đắc hàn tự, Đắc
nguôn tự).
Như vậy, đây là giai đoạn Phan Mạnh Danh tham gia nhiều hoạt động văn
học và sáng tác văn học nhất. Hệ thống trước tác của Phan Mạnh Danh gian đoạn
này bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu thể hiện ý đồ sàng lọc, lựa chọn, lưu
truyền cho hậu thế những lối làm văn, chơi thơ tinh tế của thơ văn cổ trung đại.
Giai đoạn này, Phan Mạnh Danh cũng đã chú ý đến việc phiên dịch các tác phẩm
văn học Trung Quốc sang chữ Nôm. Các tác phẩm được phiên dịch phần nhiều
đều nói đến chữ “tình”, song ông dùng chữ “tình” để đề cao những giá trị đạo
đức truyền thống.
2.3. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1942
2.3.1. Đời sống xã hội và văn học
80
Từ sau năm 1930 thực dân Pháp ngày càng điên cuồng thực hiện các chính
sách đàn áp về quân sự, chuyên chế về chính trị, bóc lột về kinh tế và đầu độc về
văn hóa. Về quân sự và chính trị chúng tập chung chĩa mũi nhọn về phía Đảng
Cộng sản và các phong trào cách mạng khiến cho hàng nghìn chiến sĩ cách mạng
bị bắt giam, bị tử hình, bị đày biệt xứ; hàng trăm các cuộc khởi nghĩa bị dìm
trong bể máu… Về kinh tế, chúng kết hợp phương thức bóc lột tư bản với
phương thức bóc lột phong kiến lạc hậu: chúng biến Việt Nam trở thành thuộc
địa cung cấp nguồn nhân công rẻ mạt và nguyên liệu béo bở cho chính quốc, cho
vay nặng lãi với giá cắt cổ và thu thuế vô tội vạ… Về văn hóa, chúng kiểm duyệt
gắt gao các sách báo cộng sản, chúng thi hành chính sách ngu dân, “chúng mở
nhà tù nhiều hơn trường học, chúng bắt con em các trường tư thục từ 18 tuổi trở
lên phải đóng thuế thân để con em nghèo không được đi học. Mặc dù, qua các
nhà trường Pháp – Việt, qua sách báo học sinh sinh viên vẫn tiếp thu được một
phần nền văn hóa tiến bộ của nước Pháp trên các lĩnh vực triết học, văn học;
song, họ lại bị đầu độc bởi chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa chủ quan duy tâm, chủ
nghĩa ngụy biện, chủ nghĩa hoài nghi khiến cho họ không biết “tin vào đâu?”.
Trong lĩnh vực văn học diễn ra cuộc đấu tranh, cũng là sự tác động qua lại giữa
văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán và văn học lãng mạn. Văn học
cách mạng được Nguyễn Ái Quốc nhen nhóm lên từ những năm 20 với các vở
kịch Con rồng tre (1922), Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) thì từ đây (1930)
văn học cách mạng đã trở thành một hiện tượng quần chúng, một dòng chảy liên
tục, lớn mạnh qua các thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ. Phong trào Xô viết
Nghệ - Tĩnh đã làm xuất hiện nhiều áng thơ văn Xô viết Nghệ - Tĩnh với các thể
loại vè (Kể chuyện tranh đấu ở Nam Đàn, Kể chuyện tranh đấu ở Thanh
Chương…), hát dặm (Những ngày khó khăn ở Yên Thành, Cái nạn bang tá…),
văn truy điệu (Văn truy điệu các chiến sĩ hy sinh ở truông Cồn Đọi ngày 7 – 9 –
81
1930, Văn truy điệu các chiến sĩ hy sinh ngày 12 – 9 – 1930 ở Hưng Nguyên…).
Bằng chính sách khủng bố trắng, thực dân Pháp đã giết hại và bắt giam nhiều
chiến sĩ cách mạng ưu tú của Đảng. Không chịu khuất phục, những người cộng
sản đã biến nhà tù trở thành trường học, thành trường đấu tranh cách mạng,
thành nơi rèn luyện những cán bộ lãnh đạo của Đảng. Nhiều áng thơ văn cách
mạng cũng đã ra đời trong các nhà tù đế quốc và trở thành một bộ phận quan
trọng của thơ ca cách mạng. Từ 1929 đến 1931 Nguyễn Công Hoan đã khẳng
định sự ra đời của phương pháp hiện thực phê phán qua hàng loạt các truyện
ngắn: Răng con chó của nhà tư sản, Oẳn tà roằn, Người ngựa và ngựa người…
Năm 1932 cũng đánh dấu bước phát triển đột biến của dòng văn học lãng mạn
với sự ra đời của phong trào Thơ mới, văn xuôi Tự lực văn đoàn… Từ 1930 đến
1935 có hàng loạt các cuộc tranh luận lớn nhỏ: cuộc tranh luận về Nho giáo,
cuộc tranh luận xung quanh vấn đề “Thơ mới”, cuộc tranh luận về vấn đề mới và
cũ, hôn nhân và gia đình trên các báo Phong hóa và Phụ nữ tân văn. Tất cả các
cuộc tranh luận đó phản ánh cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, ủng hộ
chủ nghĩa cá nhân, bênh vực tình yêu lứa đôi; chống những khuôn khổ gò bó, lối
suy nghĩ và ngôn ngữ khuôn sáo trong thơ ca của một lớp người đã lỗi thời, đã
tàn tạ. Sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936 – 1939) dòng văn học cách mạng và
văn học hiện thực phê phán đã chiếm ưu thế. Văn học cách mạng thời kì này đã
có những chuyển biến về chất, bên cạnh thể loại thơ ca cách mạng đã xuất hiện
thể loại tiểu thuyết, truyện kí, lí luận phê bình (Hải Triều, Hải Thanh, Bùi Công
Trừng, Sơn Trà…). Hàng loạt các cuốn tiểu thuyết của dòng văn học hiện thực
phê phán đã ra đời, và lần đầu tiên văn học hiện thực phê phán xây dựng được
những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình (chị Dậu trong Tắt
đèn, Nghị Hách trong Giông tố, Xuân tóc đỏ trong Số đỏ…). Văn học lãng mạn
cũng trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng, tác động của hai dòng văn học trên
82
nên có những phân hóa theo hướng tiến bộ. Một số nhà văn lãng mạn có tác
phẩm thiên hẳn về khuynh hướng hiện thực (Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam,
Con trâu của Trần Tiêu, Lầm than của Lan Khai). Trong địa hạt thơ ca người ta
bắt đầu đề xuất xóa bỏ hai chữ “Thơ mới” bởi lẽ “hai chữ thơ mới là biểu hiện
một cuộc cách mệnh đương bồng bột” mà “cuộc cách mệnh về thi ca ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu”1, nghĩa là sự toàn thắng của thơ mới tới năm
1936 là quá rõ rệt khiến người ta không cần phải bàn cãi, tranh luận nữa. Thơ
mới đã giành được quyền sống.
Như vậy, trong suốt những năm 30 của thế kỉ XX trong đời sống xã hội
(chủ yếu ở thành thị) hệ tư tưởng phong kiến đã lùi vào quá khứ chỉ còn lại trong
dĩ vãng của một số người. Trên văn đàn văn học, trong hàng ngũ đông đảo thanh
niên chịu ảnh hưởng của thơ văn Pháp nhiều người lại quay về với thơ Đường.
Vẫn phê phán cái học khoa cử, những bài thơ vô nghĩa cứ học đi học lại nhưng
“nhiều thiếu niên Tây học vẫn có người xem sách nho”, “họ chỉ cốt tìm một
nguồn sống tinh thần”, “họ đi tới thơ Đường với một tấm lòng trong sạch và mới
mẻ, điều kiện cần thiết để hiểu thơ” cho nên nhiều người trong số họ đã “hiểu
thơ Đường hơn nhiều tay khoa bảng” [47, tr.42]. Thơ Đường vắng bóng đã lâu, nay (năm 1934) lại trở về trong thơ của J.Leiba2, sau đó là Thái Can, Đỗ Huy
Nhiệm, Vân Đài, Lưu Kỳ Linh, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm… Nhưng trong số
họ, mấy ai đã chạm được đến hồn thơ cũ?
Trước khi bước vào làng Thơ mới, các nhà thơ thuộc nhóm thơ Bình Định3 đều thử bút trên cánh đồng thi ca cổ truyền phương Đông. Có lẽ vì thế mà
vào những năm 1932 – 1933, khi cuộc khẩu chiến Thơ mới – Thơ cũ diễn ra rầm
rộ trên thi đàn thì các nhà thơ Bình Định vẫn khá bình thản. Hàn Mặc Tử và
1 Dẫn theo Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam, trang 29. 2 J.Leiba (1912 – 1941) tên thật là Lê Văn Bái, là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. 3 Nhóm thơ Bình Định là một nhóm thơ đã phát sinh và tồn tại trên đất Bình Định từ 1936 đến 1945, gồm 4 nhà thơ: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Quách Tấn, thường gọi là Bàn Thành tứ hữu.
83
Quách Tấn đều có chung một quan niệm “Thơ không có mới cũ, chỉ có thơ dở và
thơ hay”, nghĩa là với họ, quan niệm về thơ “bao hàm ý nghĩa mỹ học riêng,
nghiêng về chất lượng nghệ thuật của thi ca và tài thơ của thi nhân”[49]. Hàn
Mặc Tử đã so sánh thơ mới và thơ cũ bằng hình ảnh hóm hỉnh: “Thơ cũ là một
cô gái xưa chít khăn mỏ quạ, mang chiếc nón na, một cô gái không phấn son,
nền nếp trâm anh, tuy yêu kiều mà ngượng nghịu, tuy trang nghiêm mà nặng nề;
trái lại, Thơ mới là một thiếu nữ tân thời, phấn son tô, y quan sặc sỡ, nhanh nhẹn
như con chim buổi sáng đầu xuân, vừa mơ màng vừa kiều diễm” [16, tr.123].
Bước vào khuôn khổ nghiêm ngặt của thơ Đường, Hàn Mặc Tử có Lệ Thanh thi
tập (chưa xuất bản), Quách Tấn có Một tấm lòng (1939) và Mùa cổ điển (1941).
Tuy nhiên, trong nhóm thơ Bình Định sau này chỉ có thơ Quách Tấn là “cảm
được người đàn bà khó chiều kia” – tức thơ cũ theo cách nói của tác giả Thi nhân
Việt Nam. Bích Khê sau khi đọc xong bản thảo Mùa cổ điển có nhận xét: “chỉ bài
Đêm thu nghe tiếng quạ kêu cũng đã dành cho anh một địa vị xứng đáng trong
làng thơ đất Việt, huống hồ Mùa cổ điển còn bao “kỳ cú, cao tình”” và từ đây
Bích Khê “không làm thơ Đường nữa vì đã có anh rồi”; Yến Lan lại bình thơ
Quách Tấn: “Tình tuôn ra lệ, lệ đọng thành châu, từng hàng từng hàng trên mặt nhung tuyết trải”1.
Như vậy, “mối lương duyên” (chữ dùng của tác giả Thi nhân Việt Nam) từ
Một tấm lòng đến Mùa cổ điển của Quách Tấn đã nhen lên một làn gió phục cổ
vào đầu những năm 40 khiến cho “thiếu niên nước nhà lại chú ý đến sách vở của
nhà nho ngày trước” [6, tr.15]. Thế nhưng những bài thơ của Quách Tấn dù được
hoan nghênh cũng khó lòng làm sống lại hệ thống thi pháp của thơ cổ phương
Đông với những niêm, luật, vần, đối… vốn được quy định chặt chẽ. Không khí
văn chương giai đoạn này nghiêng hẳn về phía những cái mới, những cái cũ có
84
chăng cũng chỉ lóe lên như ánh hào quang của một thời kỳ đương sắp sửa tàn. 1 Dẫn theo Nguyễn Toàn Thắng, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn và Bích Khê trong không gian văn hóa Đường thi, http://vanvn.net/ ngày 25/7/2011
2.3.2. Trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh từ năm 1930 đến năm 1942
Từ năm 1930, khi đó Phan Mạnh Danh đã ở vào cái tuổi 65. Đây là thời
gian tinh thần ông được thư thái nhất sau khi trong số những người con cũng đã
có người thành tài, gia tư bắt đầu thư thái, ông có nhiều thời gian dành cho việc
đi ngao du ngắm cảnh hưởng thú vui tuổi già. Đi tới đâu ông cũng có thơ đề vịnh
đến đó. Hiện nay trong cuốn Thi văn tập trích lục còn in lại 29 bài thơ Hán (đã
trừ 5 bài Nguyệt hồ bát vịnh đã nói ở phần 2.1) trong đó phần lớn là thơ vịnh
cảnh: khi đến chùa Hương ông đã làm một chùm 6 bài thơ về quần thể di tích
chùa Hương: Hương tích tuyền độ, Xả chu đăng ngạn, Đề giải oan tự, Thiên trù
tự, Hương tích thạch động, Tiên sơn tự; đến vịnh Hạ Long ông có làm bốn bài
thơ: Hỏa huyền trung Hạ Long loan diểu vọng, Phiếm chu du Hạ Long loan, Đề
Hạ Long kì quan động, Đề Đào nương hác; vào kinh thành Huế ông có làm ba
bài thơ: Yến lịch đại đế vương lăng cảm tác, Kinh thành duyệt lãm cảm hoài,
Phiếm chu du Hương Giang; trên đường từ Huế vào Đà Nẵng ông lại có dịp
dừng chân ngắm cảnh đèo Hải Vân và tham quan động Huyền Không: Hải Vân
quan diểu vọng, Thủy sơn Huyền Không động… ngoài ra còn có các địa danh
khác được lưu dấu trong thơ ông: Xuân trọng du Yên Tử sơn ngẫu chiếm, Chapa
chấn nạp lương… Những bài thơ này đều không đề năm sáng tác, do vậy khi soi
chiếu vào hành trạng của tác giả trong cuộc đời chúng tôi phỏng đoán rằng
những bài thơ này được làm trong khoảng từ năm 1930 đến 1935 – thời gian tác
giả cùng các con đi du ngoạn các danh thắng nhiều nhất. Trong số những bài thơ
vịnh danh lam thắng cảnh ấy có nhiều bài không chỉ miêu tả cảnh mà còn ẩn
chứa cả những suy ngẫm, triết lí nhân sinh của tác giả về cuộc đời. Bài Đề Đào
nương hác là một ví dụ:
ĐỀ ĐÀO NƯƠNG HÁC
85
Giá hác trường cận hải lí. Tự tảo chí ngọ, thừa chu khả đạt. Tích nhân huề
đào nương ca xướng kỳ trung, lưu liên vong phản; triều thủy trướng dật, bất đắc
xuất, tốt tử ư thử. Chí kim hác trung thạch như vân cẩm, do tưởng kiến y thường
chi sắc; phong xuy thiên lại diệc thời văn ti trúc chi thanh. Tục danh Hang Cô
Đào.
Sinh ngộ hồng nhan, ngộ nhất sinh,
Hàm điền chung cổ hải nan bình.
Đông sơn dĩ tự cung đào tả,
Tương thủy vô tu oán bạc tình.
Vân sắc mê li nghi phục sắc,
Phong thanh ẩn ước tạp cầm thanh.
Đương kim thảng một trầm luân hận,
Ná đắc thiên thu thượng hữu danh.
Giải nghĩa bài Đề hang Cô đầu:
Hang này bề dài gần một hải lý, thuyền đi từ sớm tới trưa mới tới nơi. Xưa
có người đem cô đầu vào hát xướng ở trong, lưu niên quên cả về, rủi bị nước bể
dâng lên tràn ngập, ra không được, sau chết ở đó. Đến nay ở trong hang đã như
mây gấm, trông thấy còn tưởng vẻ y phục diềm dà, gió thổi tiếng véo von như
vẳng tiếng đờn tiếng sáo. Tục gọi nơi ấy là hang Cô đầu.
1- Sinh ra ở đời mà gặp khách hồng nhan thì cũng là nhầm một đời người,
2- May có hóa ra chim tinh vệ ngậm đá mà lấp bể kia thì lấy sao cho bằng
được.
3- Về phần các quan viên thì như Tà An đời Tấn tự cung lấy thú phong lưu
mà để lại về sau cái tiếng “Đông sơn ty trúc”,
4- Còn như các bà phu nhân ở nhà, thì khi tiếc thương như Nga Hoàng, Nữ
Anh ở sông Tiêu Tương, xin chớ oán kẻ bạc tình đã bỏ mình.
86
5- Tiếng quản huyền xưa nay còn lắng nghe ở trong trận gió trên ngành cây
ngọn cỏ,
6- Vẻ áo xiêm của tiên nữ mặc khi múa hát, nay còn tưởng tượng thấy ở nơi
vẻ ráng chòm mây.
7- Nói tóm lại, thì nếu lúc bấy giờ không gây nên cái nạn chìm đắm,
8- Thì dễ đâu mà được cái nghìn năm về sau còn để lại cái danh tiếng “Hang
Cô đầu”.
(Phê bình: Từ câu 1 đến câu 6, toàn dùng một hơi lãng mạn phóng khoáng và
những điểm nhã khiến ta như mắt thấy những tao ông chở mỹ nhân trên làn
nước biếc. Mãi đến câu thứ 7, 8 mới thấy im lặng giữa tình thi hận hải. Độc giả
nên rót rượu mà ngâm cao.)
(Thi sỹ Tôn Thất Lương giải nghĩa và phê bình)
Tham quan vịnh Hạ Long, dạo thuyền trên mặt nước xanh thẳm, len lỏi
giữa những hòn đảo lớn nhỏ đủ các hình dạng, du khách “có cảm giác đang lướt
trên làn nước Nhược” [25, tr.109] như Phan Mạnh Danh đã nói trong bài Phiếm
châu du Hạ Long loan:
Sơn thành điệp điệp thủy trùng trùng,
La tận kỳ quan nhập nhãn trung.
Thạch động tàng yên ưng tị hạc,
Thiên môn vị vũ cố tiềm long.
Hủy hoa lạc mịch phi hồng biến,
Đài lạ đê mê ỷ thúy không.
Bồng đảo mang mang hà sứ thị,
Dao thiên hảo tống nhất phàm phong.
Vũ Mộng Hùng dịch:
87
Nước nước non non biết mấy chòm,
Thu vào cảnh lạ mắt xa nom.
Hạc chừng mến khói hình xa tắp,
Rồng hãy chờ mưa khúc uốn khom.
Lác đác cỏ cây chiều đỏ ối,
Lờ mờ đài tạ bóng xanh om.
Non Bồng thăm thẳm là đâu tá?
Nhờ gió xa đưa một cánh buồm.
(Dạo thuyền chơi vịnh Hạ Long)
Ngắm cảnh Tây Hồ ở Hà Nội, Pham Mạnh Danh cũng làm bài vịnh Tây
Hồ. Cảnh hồ được thi nhân miêu tả với vẻ sầm tịch, trang nghiêm, thơ mộng.
“Người xưa” trong câu kết bài thơ lại gợi lên không khí lịch sử thời Trưng Trắc,
Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi quân Tô Định ra ngoài bờ cõi, nhưng sau bị Mã
Viện mang quân sang đánh lại, hai bà bị thua ở Tây Hồ và tự tận ở sông Hát
Giang. Bài thơ lại tái hiện được nếp sống sinh hoạt, nếp văn hóa đặc trưng của
người dân xung quanh hồ. Đó thực là một bức tranh sinh động, hiếm có. Khác
với các bài thơ vịnh cảnh khác, bài Tây Hồ được viết theo thể lục bát, có in trong
cuốn Thắng cảnh Việt Nam qua thi ca của Phan Phong Linh:
Hồ Lãng Bạc, đất Long Thành,
So cùng Bành Lãi, Động Đình kém đâu.
Cuộc đời nay bể mai dâu,
Mà hồ kia vẫn còn sâu mấy trùng.
Bốn bề khói nước mênh mông,
Đôi bên sông Nhị non Nùng bao la.
Nước non dấu cũ chưa nhòa,
Mà nay phong cảnh lại là khác xưa.
88
Sương cỏ sớm gió tùng trưa,
Đám mây phủ tán hạt mưa nặng thuyền.
Thơ Quan Thánh, kệ am tuyền,
Đá rêu yên thạch, chuông rền bồ lao.
Người đi lại, kẻ ra vào,
Họp tan buổi học xôn xao chợ chiều.
Bụi xe, dấu ngựa đã nhiều,
Má hồng mặt trắng dập dìu đua chen.
Gió đưa thoang thoảng mùi sen,
Vừng giăng thủy để ngọn đèn ngư gia.
Bãi bằng cát trắng nhạn sa,
Cánh cò bay lẫn bóng hà phất phơ.
Lâu đài ánh điện xa đưa,
Long lanh ngấn nước, tỏ mờ bóng mây.
Tiếng quyên ca, tiếng vạc bay,
Tiếng thoi dệt cửi tiếng chầy đập bông.
Một vùng bát ngát xa trông,
Thử đem giăng gió vào trong phẩm đề.
Kìa ai vui thú sơn khê,
Hỏi giăng ngâm gió chớ hề làm thinh.
Thợ Giời âu hẳn đa tình,
Đố ai vẽ được bức tranh nào tầy.
Nghìn xưa danh tiếng còn đây,
Người xưa man mác nước mây chốn nào?
Từ năm 1935 đến 1940 khi đã ngoài 70 tuổi, Phan Mạnh Danh lại lựa
chọn trong nhiều tập thơ cổ và một ít văn cổ để đem dịch ra quốc văn, theo
89
nguyên điệu. Cuốn sách có tên Cổ thi trích dịch (Hán – Sở, Đường, Ngũ Đại,
Tống – Nguyên, Minh, Thanh) in lần đầu năm 1953. Trong sách này tác giả họ
Phan cũng trích dịch nhiều truyện và thơ ca trong Tình sử loại lược của Long Tử
Do, xem ra chữ “tình” cũng vấn vít và hầu như chưa bao giờ buông tha học giả
đạo Khổng. Cũng dịch nhiều truyện trong Tình sử loại lược nhưng khác với cuốn
Tình sử dịch hồi năm 1920, lần này dịch giả tập trung hơn vào dịch thơ của
những tài tử giai nhân hơn là kể tình tiết các câu chuyện tình. Điều này hoàn toàn
phù hợp với nhan đề của cuốn sách là Cổ thi trích dịch. Còn xét về tài dịch,
chúng tôi xin mượn lời của Tử tấn Đào Sỹ Nhã: “Tiên sinh [tức Phan Mạnh
Danh] chẳng những đã lột hết được tinh thần của nguyên tác, mà lời văn chải
chuốt thanh tao, cú điệu tự nhiên, khiến người đọc quên cả là thơ văn dịch.” [6,
tr.15]
Trong làn gió phục cổ vào đầu những năm 1940, mặc dù đã tuổi già sức
yếu, Phan Mạnh Danh vẫn muốn góp một phần sức lực của mình để dóm lại lò
văn xưa kia, vì vậy, ông lại “cặm cụi với bút nghiên trong thư phòng nhỏ tại Bút
hoa trang Nam Định”, ông tìm “chép lại những bài văn Nôm đã làm trong mấy
chục năm trước, và biên soạn thêm nhiều bài mới” [6, tr.15]. Những bài này sau
được tập hợp in trong cuốn Thi văn tập trích lục (chúng tôi đã nói ở các phần
trước)
Đầu năm 1941, Phan Thế Roanh có mục đích biên soạn một bộ điển cố do
chính cổ nhân ghi chép để làm tư liệu cho đời sau khi học tập thơ văn cổ. Ý định
đó xuất phát chính ở đặc điểm thơ văn của ta ngày trước thường DỤNG ĐIỂN,
khiến cho “ý tứ dồi dào tuy lời văn thưa thớt, điều nhận xét được chứng dẫn
phân minh, câu nhạt nhẽo thì tô nên vẻ đậm đà, mà chiều thô lậu cũng đổi ra màu
thanh nhã” [38, tr.5]. Ý định đó được đem trình với cha – tức Phan Mạnh Danh
thì được ủng hộ nhiệt tình. Từ đó mấy cha con lại cùng nhau sưu tầm các sách
90
Tàu, tìm những chuyện lạ thơ hay mà nhà nho ta thường dùng làm điểm trong
những áng văn Nôm để đem dịch góp thành bộ Điển cố. Khởi thảo cuốn sách
chẳng được bao lâu thì Phan Mạnh Danh thấy trong người đã suy nhược nhiều,
cần phải nghỉ ngơi. Sau Phan Thế Roanh đã phải cùng với một số nhà biên soạn
khác cũng ưa chuộng thơ văn cổ tiếp tục công việc. Đến khi vừa đủ 80 điển, sắp
xếp theo trình tự A B C thì vì cuộc chiến tranh mà công việc bị bỏ dở và bản
thảo cũng bị thất lạc nhiều. Vì thế, vào năm 1953, khi cuốn Điển cố truyện và
thơ thường dùng làm văn liệu được in chỉ có 3 truyện do Phan Mạnh Danh dịch,
đó là: Hứa Tuấn – Liễu Chương đài, Vu Liên Súy – Khách qua đường, Vân Anh
– Cầu Lam; và ý định sắp xếp bộ Điển cố theo trật tự A B C cũng không thực
hiện được.
Những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, khi sức khỏe đã suy sụp nhiều,
khi thời tiết mỗi ngày lại thêm giá lạnh, Phan Mạnh Danh vẫn cố gắng, tranh thủ
những khi được đỡ để làm phần Thơ cổ tập Kiều (cuối năm 1941) và Thơ cổ tập
truyện Nôm (đầu năm 1942).
Vẫn một lối chơi thơ tài hoa, tài tử của 40 năm trước Phan Mạnh Danh
làm 10 bài Thơ cổ tập Kiều theo Lối thơ thổng ả đào. Tác giả giải thích lối chơi
này như sau: “Theo lối này thì chọn lấy nguyên một bài thơ cổ thất ngôn tứ
tuyệt trong sách Tàu, đọc vần xuống bốn câu Kiều lảy, mà những câu Kiều lẩy
ấy lại dùng để phiên dịch bài thơ cổ kia. Bài thơ cổ nào, của thi sĩ nào và trích ở
sách nào đều có chua rõ.”[6, tr.139] Theo lối này thì đúng là tác giả đã “dùng
Kiều để dịch thơ cổ”. Các bài thơ cổ được “dịch” cũng phải lựa chọn nội dung na
ná như những câu Kiều. Bài Tích trung tác (Sầm Tham – Đường thi) được
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh đánh giá là hay nhất trong số 10 bài Thơ cổ tập
Kiều:
TÍCH TRUNG TÁC
(Sầm Tham – Đường thi)
91
Tẩu mã tây lai dục đáo thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh dịch nghĩa:
THƠ LÀM TRÊN SA MẠC
(Sầm Tham – Thơ Đường)
Ruổi ngựa về phía tây, tưởng sắp lên được trời,
Từ giã nhà đến nay đã hai lần thấy trăng tròn.
Đêm nay không biết trú ngụ ở nơi nào,
Bãi cát phẳng mênh mông vạn dặm, tuyệt không có
khói bếp.
Đoạn Kiều lẩy:
Dặm hồng bụi cuốn chinh yên,
Sân thu giăng (trăng) đã hai phen đứng đầu.
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Phan Mạnh Danh cũng lựa chọn trong số 21 truyện Nôm có tiếng của ta
như: Bích câu kì ngộ, Cung oán, Chinh phụ ngâm, Hoa tiên, Hoàng Trừu, Lục
Vân Tiên, Tống Trân, Ngọc Hoa, Thạch Sanh… để viết thành mười bài Thơ cổ
tập truyện Nôm. Cách làm lối thơ này cũng giống như làm Thơ cổ tập Kiều. Có
thể là do số lượng truyện Nôm dùng vào để “dịch” thơ cổ phong phú hơn việc
chỉ dùng một tác phẩm Truyện Kiều để “dịch” thơ cổ nên hầu hết cả mười bài
Thơ cổ tập truyện Nôm “đều đạt độ tín nhã” về ý và lời. Xin lấy một bài làm ví
dụ:
BIỆT CỐ NHÂN
92
Trịnh Cốc, Đường thi
Dương tử giang đầu dương liễu xuân,
Dương hoa sầu sát độ giang nhân.
Sổ thanh phong địch, ly đình vấn,
Quân hướng Tiêu tương, ngã hướng Tần.
Bên sông liễu mới mừng xuân, Hoa tiên
Thấy hoa mà lại bội phần nhớ thương. Ngọc Kiều Lê
Xa đưa tiếng địch lầu sương, Vọng thu
Một Tần với một Tiêu tương một giời. Lữ hoài ngâm
Như vậy, đây là khoảng hơn mười năm cuối đời trong cuộc đời Phan
Mạnh Danh. Thời gian này in dấu những cố gắng cuối cùng của ông vì mục đích
“đem cổ học để mở đường tiến hóa”. Những lí do khách quan của đời sống xã
hội lúc này cũng đã cho phép Phan Mạnh Danh phát biểu trực tiếp tâm nguyện
giữ gìn, phục hưng tinh hoa văn học cổ truyền. Những hoạt động phiên dịch,
biên tập điển cố, tập cổ, đề thơ Hán ở các nơi danh thắng đi qua… không chỉ là
để thỏa thú vui văn chương của bản thân tác giả mà còn là để làm một việc cho
muôn đời mà khi đó ít ai biết được.
Tiểu kết chương 2: Trong chương 2, chúng tôi đã hệ thống hóa lại toàn bộ
những trước tác tiêu biểu, đặc sắc của Phan Mạnh Danh tương ứng với ba giai
đoạn lịch sử văn học Việt Nam mà các nhà nghiên cứu đã phân chia. Trên cơ sở
đó chúng tôi nhận thấy rằng: Phan Mạnh Danh có một quá trình hoạt động văn
học liên tục không mệt mỏi ngay từ những trước tác đầu tiên cho đến trước tác
cuối cùng; những trước tác của ông mang đậm đặc đặc điểm của lối văn chương
truyền thống, đặc biệt đối với ông việc làm thơ cũng là một cách để chơi thơ nên
93
mỗi khi đặt bút ông thường tìm đến một lối làm thơ kì thú, độc đáo (làm một tập
60 bài thơ vừa Hán vừa Nôm trong tập Xuân mộng, vịnh 20 hồi trong Truyện
Kiều bằng 20 bài Hán và 20 bài Nôm, làm thơ thuận nghịch độc, làm thơ theo lối
liên hoàn của Tô Đông Pha…); càng về cuối đời Phan Mạnh Danh càng tỏ rõ
94
mong muốn lưu truyền lại cho đời sau nét đẹp của văn chương cổ truyền thống.
Chương 3:
PHAN MẠNH DANH – NHÀ NHO TÀI TỬ
TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM
3.1. Nhìn chung về đặc điểm của lớp nhà nho tài tử trong văn học Việt Nam
3.1.1. Nhà nho tài tử và sự phát triển của văn học thế kỉ XVIII - XIX
Bước sang thế kỉ XVIII, về cơ bản loại hình nhà nho hành đạo và nhà nho
ẩn dật đã hoàn thiện đến “trình độ cổ điển” (chữ dùng của PGS.TS Trần Ngọc Vương), và với những thay đổi của điều kiện xã hội1 tất yếu làm nảy sinh một
loại hình nhà nho mới – nhà nho tài tử. Xét về đặc điểm, nhà nho tài tử vẫn có
những đặc điểm chung giống với nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật, song cũng
có những đặc điểm riêng, đặc trưng khu biệt với hai loại nhà nho hành đạo và ẩn
dật.
Nhà nho tài tử trước hết vẫn là nhà nho kể từ nguồn gốc xuất thân, học
vấn, nhân sinh quan, thế giới quan. Sinh ra trong một gia đình vốn có truyền
thống khoa bảng là một lợi thế với nhiều nhà nho tài tử như Nguyễn Du, Cao Bá
Quát, Nguyễn Công Trứ... Lớn lên lại được học tập, đào tạo bài bản trong chốn
nho môn “cửa Khổng sân Trình” đã tạo dựng cho họ một nền tảng tư tưởng vững
chắc theo học thuyết của Nho gia. Rất nhiều người trong số họ (nếu không muốn
nói là tất cả) đều là “những học trò xuất sắc – nếu không toàn diện thì cũng là
trên một số phương diện chính” [56, tr.83] của Khổng môn. Sự khác biệt của
người tài tử so với người ẩn dật và người hành đạo thường là khi đã trưởng
thành, trực tiếp nếm trải một môi trường sống mới buộc họ phải dần dần tự phát
và biến đổi những cảm quan nhận thức đời sống. Những phẩm chất thiên phú
1 Xem thêm Trần Ngọc Vương (1995),Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, từ trang 74 – 81.
95
thuộc tính trội được người tài tử nhận thức, nắm bắt và sử dụng như là một vũ
khí để chơi ngông với đời.
Người tài tử thường rất trọng bậc anh hùng, đấng trượng phu – đó là
những nhân vật xuất chúng, vượt lên trên quần chúng cả về trí tuệ, tài năng,
những hoài bão, ước vọng to lớn. Nho giáo là học thuyết nhập thế, cứu thế dựa
trên cơ sở đức trị, dùng đạo đức để giáo hóa dân chúng không lấy “đấng trượng
phu” làm hình mẫu lí tưởng để các nho sinh học theo. Do đó, trong đời sống tinh
thần người tài tử có xu hướng tiến dần từ Nho sang Lão Trang – “bậc chí nhân”
là hình mẫu lí tưởng của học thuyết Lão Trang có nhiều đặc điểm rất gần với
“đấng trượng phu”. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng cho rằng: giai đoạn văn
học thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, “tư tưởng thị dân đòi hưởng lạc, đòi
hạnh phúc, chống lại thói an bần lạc đạo xuất hiện, và trở thành xu thế chính.
Các tài tử ra đời để thay thế các quân tử, các trượng phu[…]. Các tài tử ấy học
đạo thánh hiền, nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát đều tự xưng là tài tử.” [32, tr.45]
Người tài tử rất coi trọng “tài” và “tình”. Đây là điểm khác biệt cơ bản
giữa người tài tử với người hành đạo và người ẩn dật. Người tài tử quan niệm
“tài” theo nhiều cách. Có thể là tài kinh luân, tài cầm quân đánh giặc, tài học vấn
nhưng vẫn phải có thêm tài văn chương “nhả ngọc phun châu”, tài cầm kì thi
họa, những thứ nghệ thuật tài hoa, và phải gắn bó với với “tình” nữa mới là
người tài tử [17, tr.170]. Người tài tử có tài và biết mình có tài, có ý thức về tài
nên rất hay khoe tài, họ đòi hỏi phải có sự đãi ngộ xứng đáng với cái tài của họ.
Người tài tử có tài, muốn có sự nghiệp xứng đáng với cái tài của họ; người tài tử
cũng “đa tình” và muốn có mĩ nhân để xứng đáng với cái tình của họ. Người tài
tử không quan niệm “đa tình” là say mê sắc đẹp, mà là dễ xúc động và có nhiều
tình cảm, họ lại dễ bị lôi cuốn vì sắc đẹp và có nhiều xúc động với thân phận
96
những người tài sắc. Cả “tài” và “tình” của người tài tử đều không được xã hội
phong kiến chấp nhận. Bởi lẽ: người tài tử thường cậy tài, muốn trổ tài, thường
bất mãn với cái có sẵn, muốn xáo trộn, muốn hành động, phá phách trật tự, họ
thường tự cao, tự phụ, ngông nghênh, vòi vĩnh, không chịu yên mệnh cho nên
chế độ phong kiến sợ tài, nghi kị người có tài, tìm cách ức chế người có tài;
người tài tử đa tình thì có nhiều tình cảm, dễ xúc động, dễ phá vỡ ứng xử theo
phép tắc, vi phạm đến lễ nên chế độ phong kiến đặt ra nhiều tiêu chuẩn để kìm
chế, kiểm soát “tình” [17].
Những đặc điểm trên là tiêu chí quan trọng để nhận diện nhà nho tài tử
trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam. Dù điều kiện xã hội và văn học
có nhiều thay đổi, “tài” và “tình” có mỗi cách thể hiện khác nhau nhưng về cơ
bản nhà nho tài tử vẫn mang những đặc điểm chủ yếu trên.
3.1.2. Tản Đà – Nhà nho tài tử “kiểu mới”, mô hình nhà nho thích ứng
với môi trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Trước khi đi vào vấn đề chúng tôi muốn chỉ rõ khái niệm nhà nho tài tử
“kiểu mới” được dùng ở trên. Về cơ bản, nội hàm khái niệm nhà nho tài tử
không thay đổi, nghĩa là vẫn theo quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước đã
được khái quát thành đặc điểm được trình bày ở mục trên. Từ “kiểu mới” chỉ có
tác dụng nhấn mạnh sự thay đổi trong cách thể hiện các đặc điểm của người tài
tử để thích ứng với điều kiện xã hội mới. Tương tự, ở mục sau chúng tôi sẽ dùng
khái niệm nhà nho tài tử “kiểu cũ” để chỉ sự duy trì các đặc điểm của nhà nho
tài tử truyền thống trong điều kiện xã hội mới. Như vậy, khái niệm “kiểu cũ” hay
“kiểu mới” chỉ có tác dụng khu biệt hai cách thể hiện các đặc điểm của nhà nho
tài tử trong môi trường xã hội Âu hóa.
Tản Đà (1889 – 1939) sinh ra trong gia đình thế nho, cha mất sớm, mẹ làm
nghề đào nương. Khi bé, Khắc Hiếu sống cùng và chịu ảnh hưởng to lớn từ
97
người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tái Tích. Trong khoảng 18 năm (từ
lúc 5 tuổi về học với anh ở Nam Định cho đến khi thi hỏng năm 1912) Khắc
Hiếu theo đòi Nho học. Chính nguồn gốc xuất thân đã nghiễm nhiên đào tạo
Khắc Hiếu trước hết trở thành một nhà nho.
Không thi đỗ lại chứng kiến cảnh ý trung nhân lên xe hoa về nhà chồng
Khắc Hiếu gần như điên loạn, cậu lấy việc đi lại ngược xuôi, thăm thú khắp nơi
để xóa dịu đi vết đau trong lòng. Năm 1914, Nguyễn Tái Tích đứng ra làm chủ
hôn, lấy vợ cho Khắc Hiếu để trị căn bệnh “chán đời”. Từ đây, Khắc Hiếu phải
chịu trách nhiệm lo toan cho gia đình nhỏ của mình. Thời gian này Khắc Hiếu
viết nhiều bài đăng báo để lấy nhuận bút, bút hiệu “thâu tóm cả núi cao sông
rộng” - Tản Đà cũng được hình thành từ đây. Có thể nói, điểm khác biệt của nhà
nho Tản Đà so với các nhà nho trước là ở chỗ: Tản Đà là người sớm nhất đưa
văn chương nhập thế, coi việc viết văn là một nghề để kiếm sống. Tác giả bộc
bạch trong lời đề từ Khối tình con I:
Chữ nghĩa Tây Tàu chót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy
Một mối tơ tằm mấy đoạn vương.
Có kẹo có câu là sách vở
Chẳng lề, chẳng lối cũng văn chương.
Còn non, còn nước, còn trăng gió
Còn có văn chương bán phố phường.
Như vậy, về gốc tích và quá trình học tập có thể khẳng định Tản Đà là nhà
nho. Lập thân bằng con đường khoa cử không thành, Tản Đà cũng không tham
gia vào con đường chính trị như các nhà nho chí sĩ, duy tân đương thời; Tản Đà
cũng có quãng thời gian “chán đời”, thậm chí có lúc “sự chán đời lên đến cực
98
điểm” nhưng cũng không xô đẩy ông trở thành người ẩn dật, lánh đời. Trong đời
sống và trong tác phẩm của ông có nhiều chứng cứ biểu hiện cho phẩm chất “thị
tài” và “đa tình” của một nhà nho tài tử.
Trong hàng loạt thứ tài mà nhà nho tài tử cần có thì có khoa danh là thứ tài
quan trọng nhất để “giương oai” với đời, cũng nhờ nó mà “tiếng nói” của họ có
giá trị hơn trong xã hội. Nhưng không phải ai cũng dễ dàng vinh danh hiển đạt
ngay sau khoảng thời gian “thập niên đăng hỏa”. Ngày yết bảng khoa thi Nhâm
Tý (1912), không thấy tên mình, đồng nghĩa với không có chuyện hôn nhân, Tản
Đà cay cú, hậm hực mà rằng:
Đỗ cũng không mà cưới cũng không
Còn đeo áo đoạn để ai trông
Kìa màu Thượng Hải xanh xanh lót
Này giá Sơn Tây mấy mấy đồng.
Đang buổi khan tiền chơi cách thế
Có ai biết của giúp nhau cùng
Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi
Bán áo mà mua giấy viết ngông.
Từ đây cái “ngông” của Tản Đà được tuyên bố công khai, ông “Tự trào”
vì tài năng của mình vượt ra ngoài khuôn khổ kì thi nên mới có sự thi không đỗ
ấy, và bởi thi không đỗ nên “Không đỗ, ông càng tốt bộ ngông”. Vì “ngông” nên
Tản Đà không ngần ngại viết bài văn đòi thần Tản Viên trả núi, viết bài Hịch
thúc giục các loài hoa nở…
Bằng cảm quan nhạy cảm, Tản Đà nhận ra xã hội tư sản cũng mở ra vô số
thứ tài năng ngoài khuôn khổ truyền thống:
Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
99
Chính vì thế, khác với các nhà nho thuở trước sáng tác văn chương chỉ để
lưu vào thi tập văn tập, Tản Đà đã mạnh dạn dùng tài văn chương ấy để mưu
sinh chống lại cái sự nghèo. Đây là nét “thị tài” theo xu hướng nhập cuộc với
thời thế mà vẫn dương dương tự đắc “Rủ nhau quang gánh với đời, mà cho thiên
hạ chê cười cũng hay”. Chỉ sau chưa đầy nửa năm nhập cuộc “đổi lông ra sắt”,
“đem văn chương bán phố phường” Tản Đà đã “bước thẳng một bước từ bóng
tối tuyệt đối ra đứng giữa vầng hào quang văn chương sáng rực” [57, tr.367].
Trong khung cảnh “Thi tàn, học cũng tàn theo” thì đó là cái tài cũng đáng nể
trọng.
Ngay từ thuở còn là một nho sinh, Tản Đà đã tự đem thân mình vướng vào
vòng tình ái để đến nỗi cái đích vinh danh cũng bị buộc ràng với “lễ vật cầu
hôn”. Thoát được bể tình nơi trần thế, Tản Đà lại đem chữ “tình” “hành lạc” vào
trong thơ. Những ý trung nhân, những bóng hồng nhan tri kỉ trong thơ ông
không ai là người trần mắt thịt, họ là những tình nhân không quen biết, hay có
quen, nhưng “từ kiếp trước”, thuở ông vẫn còn là một trong số “chư tiên”.
Trong đời sống và trong văn chương Tản Đà nhiều lần nhắc tới thú vui
hưởng thụ: thơ rượu, ẩm thực và du lịch. Cho đến Tản Đà thú vui thơ rượu
không phải là mới với các thi nhân. Đối với họ có rượu, có thơ là tri túc. Song có
thể nói: “Tản Đà là nhà thơ viết bằng cảm hứng rượu – thơ với tần số lớn nhất
trong thơ ca Việt Nam, cũng là người để lại nhiều những câu, những bài tiêu biểu
bậc nhất về đề tài này” [57, tr.368]. Trong số 19 bài Hát nói của Tản Đà còn lại,
có 9 bài liên quan đến rượu, trong đó có 5 bài lấy cảm hứng chủ đạo là rượu
(Hơn nhau một chén rượu mời, Chưa say, Say, Lại say, Gặp xuân). Trong trí nhớ
của nhiều người bạn của ông là hình ảnh một “thi sĩ có một gương mặt nở nang
và thường đỏ hồng vì men rượu”. Tản Đà cũng tuyên ngôn: “Trời đất sinh ra
rượu với thơ / Không thơ không rượu sống như thừa”. Có lẽ vì thích rượu mà
100
Tản Đà cũng đặc biệt có hứng thú cao độ với nghệ thuật ẩm thực. Các nhà văn,
nhà thơ và nhiều người thân của ông đều công nhận rằng: Tản Đà là một vị
“trích tiên” sành ăn và cũng rất sáng tạo trong việc đó.
Đối với người tài tử “tài” hay “tình” đều là của “thiên phú”, mà đã là của
“thiên phú” thì Trời cho ai người ấy được. Tản Đà luôn tự tin rằng mình là
người được Trời chọn, do Trời sai để thực hiện “thiên lương” ở hạ giới, số phận
là do Trời định:
Hai chữ “thiên lương” thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong.
(Tiễn ông Công lên chầu Trời)
Như vậy, dù là một nhà nho, Tản Đà đã chọn một bước đi phá cách lấy
văn chương làm giấy thông hành để bước vào đời, trước Tản Đà chưa có tiền lệ.
Chính nét “thị tài” và biết mình có tài mới khiến ông mạnh dạn đem tài để đương
đầu với sự sống “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” hay dùng văn chương như
một thứ sản phẩm “bán phố phường”. Tuy nhiên, xét trong cả sự nghiệp sáng
tác của mình chưa lúc nào ông không mong muốn dùng văn chương để “truyền
bá thiên lương”, “tỏa bóng mây hơi nước đến dân, xã”. Thích nghi với thời
cuộc, ông đã lựa chọn cho mình con đường đi vừa là văn sĩ, vừa là kí giả. Với tất
cả những nét “thị tài” và “đa tình” nêu trên, Tản Đà xứng đáng là “đại diện lỗi
lạc cuối cùng của loại nhà nho tài tử trong xã hội tư sản hóa”. Môi trường xã
hội có những thay đổi to lớn khiến nhà nho tài tử Tản Đà không thể bộc lộ những
cách ứng xử giống với những bậc tài tử tiền bối, điều này thể hiện một sự thích
ứng cao độ giữa tính cách và hoàn cảnh. Trong văn chương, trên cơ sở cái cũ,
Tản Đà cũng vạch cho mình những lối đi táo bạo, mới mẻ xứng đáng trở thành
“nhịp cầu nối hai hệ hình văn học”, thành “con người của hai thế kỉ”.
3.2. Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử “kiểu cũ”, mô hình nhà nho đề
101
kháng với môi trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, những
cống hiến của ông trong việc phục hưng nền văn học văn hóa truyền thống
3.2.1. Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử “kiểu cũ”, mô hình nhà nho
đề kháng với môi trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX
Quan sát tiến trình lịch sử của văn học viết Việt Nam từ thế kỉ X cho đến
ba thập niên đầu thế kỉ XX, căn cứ vào chất nền của văn học, nhìn từ góc độ loại
hình tác giả, PGS.TS Trần Ngọc Vương khẳng định sự tồn tại của hai hệ hình
văn học: hệ hình văn học Hán - Nôm và hệ hình văn học mới được tạo thành từ
chữ Quốc ngữ, phần nào đó từ Pháp ngữ. Hệ hình văn học thứ nhất vận hành từ
lúc xác lập văn học viết cho đến tận cuối thế kỉ XIX và dần đi đến chung cục vào
ba mươi năm đầu thế kỉ XX; hệ hình văn học thứ hai bắt đầu manh nha từ cuối
thế kỉ XIX và trưởng thành trong khoảng ba mươi năm đầu thế kỉ XX. Như vậy,
ba mươi năm đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam chứng kiến sự chuyển đổi giữa
hai hệ hình văn học, quá trình này tất yếu không tránh khỏi tính chất giao thoa,
không mạch lạc giữa hai hệ hình văn học. Song, đứng ở góc độ loại hình tác giả
ta vẫn có thể kết luận một cách tương đối vị trí của tác giả theo các tiêu chí loại
hình (ở đây chỉ đề cập đến ba loại hình tác giả nhà nho trong văn học Việt Nam:
nhà nho chính thống, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử).
Nhà nho chính thống (hành đạo), đến đầu thế kỉ XX, với sự thay đổi của
hoàn cảnh lịch sử, nhà nho chí sĩ, trên thực tế là sự kế thừa của nhóm nhà nho
này (tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…). Sau
khi Pháp giành thắng lợi về quân sự, đặt ách đô hộ trên toàn cõi Đông Dương và
tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam có những biến động
khổng lồ làm “xóa đi cơ sở kinh tế - xã hội cho phép sự tồn tại tiếp tục của loại
hình nhà nho ẩn dật”, ở khu vực làng xã cũng “không còn tìm đâu được những
vùng biệt địa để ẩn cư, những không gian u tịch vắng bóng người qua lại để chỉ
102
bầu bạn với tùng cúc suối đá mây núi trăng sao” [57, tr.350]. Như vậy, có thể
nói: “sang đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam không còn người ẩn dật, cũng không còn
văn chương của nhà nho ẩn dật” [57, tr.351]. Chủ nghĩa thực dân cũng đem lại
những cái tích cực cho xã hội Việt Nam, đó là sự xuất hiện của đô thị với đủ mọi
hình thức dịch vụ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người. Điều kiện đó cho
phép kẻ có tài được “vòi vĩnh nhiều hơn, hưởng thụ nhiều hơn” – một mảnh đất
mới có lợi cho nhà nho tài tử. Lúc này, loại hình nhà nho tài tử, nếu muốn hiện
hữu trong xã hội Âu hóa phải tự thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh và môi
trường mới ấy (Trường hợp Tản Đà đã nói ở trên là tiêu biểu). Tuy nhiên, một số
nhà nho tài tử lại chỉ thích ứng với môi trường xã hội chuyên chế nên trong xã
hội thành thị tư bản chủ nghĩa phẩm chất “thị tài” và “đa tình” theo tiêu chí cũ
chỉ được bộc lộ ở một phương diện hạn hẹp nào đó. Ta xét trường hợp Phan
Mạnh Danh.
Theo gia phả dòng họ Phan còn lưu lại ở xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh
Hưng Yên thì đây cũng là một dòng họ lớn có nề nếp khoa bảng. Chính vì thế,
ngay từ thuở bé, Phan Mạnh Danh đã được học tập bài bản lối văn cử nghiệp từ
chính những người cậu, người anh họ và những bậc danh tiếng trong làng. Từ bé
đã nổi tiếng là thông minh dĩnh ngộ nên khi đi học cậu bé Trung được nhiều thầy
ngợi khen, bạn bè nể trọng: Hoàng giáp Nguyễn Viết Bình là thầy dạy của Phan
nhận xét: “Về kinh nghĩa, thì thày phải cho rằng con có tài đặc”; thầy Nguyễn
Đức Tú cũng nhận thấy: “Về thơ tập cổ, thì Phan Trung thật có tài xuất chúng”
[6, tr.9]. Tuy thế, sự nghiệp thi cử của Phan Mạnh Danh lại không mấy hanh
thông. Dù không thi đỗ, không làm quan nhưng xét quá trình đào tạo và tự đào
tạo của Phan Mạnh Danh cũng đủ khẳng định ông là nhà nho, hay Phạm Quỳnh
đã trân trọng gọi ông là “nhà nho thuần nho”.
Thông thường, những nho sinh của Khổng môn đi thi, thi không đỗ
103
thường trở về quê hương làm các loại thầy (nho, y, lý, số) và cuối cùng trở thành
người ẩn dật ở chốn quê nhà. Trong suốt cuộc đời mình, Phan Mạnh Danh cũng
có quãng thời gian khoảng gần 10 năm làm nghề dạy học, và một thời gian làm
lương y bốc thuốc cứu người nhưng rốt cục hoàn cảnh vẫn không đưa ông trở
thành nhà nho ẩn dật “mũ ni che tai” mà lánh đời. Ở vị trí con người cùng đồng
hành với phong trào Âu hóa, với công cuộc hiện đại hóa văn học những năm đầu
thế kỉ XX, Phạm Quỳnh coi Phan Mạnh Danh là thế hệ “bậc đàn anh”, “vì không
đương nổi cái trào lưu của thời đại nó xô đẩy quá sức mình, mà đặt mình trong
giấc mộng thi văn, để mượn cái thú ngâm nga mà giữ trọn lấy tấm lòng cao
thượng, cho khỏi những nông nỗi đau thương xung đột với đời” [7, tr.175].
Trong cuộc đời dành trọn cho thú văn chương, dù không nhập thế coi văn
chương là kế sinh nhai như Tản Đà và nhiều văn nhân, kí giả đương thời, Phan
Mạnh Danh cũng để lại nhiều tác phẩm có giá trị xứng đáng ghi danh tên tuổi
vào nền văn học Việt Nam. Vẫn duy trì quan niệm của các nhà nho xưa, cho đến
năm 75 tuổi, ông chưa hề xuất bản văn thơ, thơ của ông chỉ rất ít những người
bạn thân được biết. Mãi đến năm cuối đời, con trai của ông là Phan Thế Roanh
cố nài xin mãi ông mới cho xuất bản cuốn thì tuyển có tựa đề là Bút hoa thi thảo;
các cuốn sách khác đều được xuất bản sau khi ông đã qua đời. Sống trong cơn
triều cường của phong trào thơ Mới, trong bầu không khí bài cũ phù mới của đời
sống xã hội và văn học, lò văn cũ đã hầu như “than vạc gio tàn”, các bậc lão
thành của lối thi văn cổ chỉ còn lại như “sao Mai lác đác”, Phan Mạnh Danh vẫn
âm thầm làm công việc “dóm lại lò văn xưa”. Trước hết ở mặt thi pháp thể loại
văn học, Phan Mạnh Danh đã tuân thủ một cách gần như tuyệt đối khuôn mẫu,
công thức của các thể loại văn học trung đại. Về thơ, Phan Mạnh Danh có sở
trường nhất ở thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật –hạn chữ hạn vần. Dù làm
bằng chữ Hán hay chữ Nôm cũng “đều hay như nhau, đều tài tình như nhau”. So
sánh ba mươi bài Hán và ba mươi bài Nôm trong tập Xuân mộng khó có thể nói
104
được bên nào hay hơn, vì “bên bào cũng hết sức trôi chảy,mà hình như luôn luôn
có đối chiếu nhau, hoặc mượn lời hoặc mượn ý của nhau” [7, tr.183]. Ngoài ra,
tác giả cũng lựa chọn những phép làm thơ hay trong thơ văn cổ, tuy không
nhiều, mỗi lối chỉ một vài bài và cũng có thể chưa đến độ xuất sắc được như thơ
của những bậc tiền bối tên tuổi trước đó nhưng nó thể hiện một thái độ tích cực
trong việc lưu giữ, bảo tồn tinh hoa của nền văn học cũ. Có thể kể đến một số lối
làm thơ sau: Lối thơ thuận nghịch độc, Lối thơ liên hoàn của Tô Đông Pha…
Trước khi trích in một số bài thơ theo từng lối, tác giả đều cẩn thận chú thích rõ
lịch sử, cách làm theo từng lối. Xin lấy bài TỨ THỜI TỪ Tức cảnh làm ví dụ:
LÀM THEO ĐIỆU LIÊN HOÀN CỦA TÔ ĐÔNG PHA
TỨ THỜI TỪ Tức cảnh
Chỉ dùng có 13 chữ láy đi, láy lại mà thành ra một bài luật thi thất ngôn tứ
tuyệt. Lấy bốn chữ cuối của câu nhất làm đầu câu nhị, 4 chữ cuối của câu nhị
làm đầu câu tam, 4 chữ cuối của câu tam làm đầu câu tứ, 3 chữ cuối của câu tứ
lại làm đầu câu nhất. Ta nhận thấy không thể dùng được 4 chữ cuối câu tứ là vì
theo niêm luật, chữ thứ tư câu nhất phải là trắc, thế mà chữ cuối câu tứ lại là vần
bằng.
XEM HOA MÙA XUÂN
Rủ xem hoa, mở cửa vừa ra,
Mở cửa vừa ra lũ bẩy ba
Ra lũ bẩy ba lần dạo bước
Ba lần dạo bước rủ xem hoa.
BÓNG GIĂNG MÙA HẠ
Bóng giăng thanh, gác bóng chênh chênh
Gác bóng chênh chênh, chếch xế mành,
Chênh chếch xế mành thưa gió lọt
Mành thưa gió lọt bóng giăng thanh.
105
TIẾNG VE MÙA THU
Tiếng ve sầu vẳng suốt đêm thâu
Vẳng suốt đêm thâu lọt gió thu
Thâu lọt gió thu nghe đứt nối
Thu nghe đứt nối tiếng ve sầu.
HƯƠNG TRẦM MÙA ĐÔNG
Đỉnh hương trầm đốt gẩy đàn cầm
Đốt gẩy đàn cầm đợi thưởng âm
Cầm đợi thưởng âm, âm gió tỏa
Âm âm gió tỏa đỉnh hương trầm.
Với những độc giả sinh trưởng trong nền Hán học thì các lối làm thơ này
không hề lạ lẫm, tác giả vị tất phải dài dòng để giải thích. Song việc làm ấy
chứng tỏ đối tượng độc giả mà Phan Mạnh Danh hướng tới là một đối tượng
khác – những trí thức Tây học, những thế hệ “sinh sau” yêu thích thơ cổ nhưng
không có cơ hội để được đào tạo bài bản mà phải tự tìm hiểu. Như vậy, tác giả
đã đứng trên cương vị là một học giả của nền văn hóa cũ bắc nhịp cầu nối với
thế hệ mai sau. Có lẽ hơn ai hết, Phan Mạnh Danh hiểu được rằng: dẫu có tránh
những “nông nỗi đau thương xung đột với đời” thì những tác động của cuộc
thiên diễn “gió Á mưa Âu” đang ngày càng dữ dội ắt hẳn, sớm muộn gì cũng làm
phôi pha đi tinh hoa văn hóa văn học của hàng nghìn năm kết tụ.
Sinh trưởng trong cổ học, Phan Mạnh Danh tích lũy cho mình một vốn
thơ Đường phong phú, hiểu thơ Đường ở mức độ uyên thâm ông đã chắt lọc lựa
chọn trong hàng nghìn bài thơ Đường những câu thơ hay đưa vào tập Bút hoa.
Không kể đến mục đích chơi thơ của một khách chơi thơ sành sỏi, ở đây tác giả
còn gửi gắm tâm huyết lưu giữ, khôi phục lại truyền thống mỹ học trong văn học
cổ. Thai nghén cuốn Bút hoa thi thảo từ những năm 1896, đeo đuổi nó trong suốt
106
hơn 40 năm, đến khi về già, khi trong người đã mệt mỏi quá độ tác giả vẫn cố
gắng để bổ sung, hoàn thiện cuốn sách. Ước nguyện cùng các con biên soạn một
bộ Từ điển điển tích các truyện thường được thi gia ta sử dụng trong văn chương
để thế hệ sau tiện dùng mà tra cứu cũng thể hiện một mong ước cao cả cho xã
hội “đem cổ học để mở đường tiến hóa”.
Ở phương Tây quan niệm “thi họa đồng chất” xuất hiện khá sớm. Có
người phát biểu: “họa là thơ không lời, thơ là họa có lời”; hoặc đồng nhất cả hai
về họa (đồng hình): thơ là “hình vô họa”, họa là “hữu hình thi”, hoặc quy cả hai
về thi (đồng thanh): thơ là “hữu thanh họa”, họa là “vô thanh thi”. Ở phương
Đông (điển hình là Trung Quốc) quan niệm này được xác lập từ đời Tống. Tuy
nhiên, giữa “thi” và “họa” vẫn tồn tại một sự so sánh, phân biệt “tuyên vật mạc
đại ư ngôn, tồn hình mạc thiện ư hoa” (truyền bá sự vật không gì bằng lời, lưu
giữ hình ảnh không gì bằng tranh). Dù các quan niệm được phát biểu có khác
nhau nhưng nhìn chung vẫn thống nhất ở điểm: trong quá trình tiếp xúc, thi và
họa dung hợp nhau trên một số phương diện – thơ ca có tác dụng miêu tả, tái
hiện như hội họa, mà hội họa cũng có tác dụng biểu như thơ ca. Tuy nhiên mỗi
loại hình nghệ thuật đều có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau – thơ
mạnh về biểu hiện thế giới nội tâm, họa mạnh về tính hình ảnh. Vì thế từ xa xưa
người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa thơ và họa, sáng tạo ra loại thơ đề tranh
(đề thi họa) để tăng cường ưu điểm và hạn chế khuyết điểm của hai loại hình
nghệ thuật này. Đến đời Đường thơ ca và hội họa Trung Quốc phát triển cực
thịnh, song mới chỉ có thơ vịnh tranh chứ chưa có thơ đề thẳng lên tranh. So
sánh Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam - các nền văn học vệ tinh được cấu thành
xung quanh nền văn học kiến tạo vùng - Trung Quốc thì “loại thơ đề họa ở Nhật
Bản và Triều Tiên không phát triển mạnh mẽ bằng Trung Quốc nhưng vượt hẳn
so với Việt Nam” [42]. Điều đó là do từ thế kỉ XIX trở về trước, thơ ca phát triển
107
rất mạnh nhưng riêng hội họa, thư pháp lại gần như không có khởi sắc mà chỉ
xuất hiện các loại tranh dân gian kiểu Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng… Vì
thế, loại thơ đề họa ở Việt Nam chỉ xuất hiện rải rác, thậm chí hiếm hoi như: bài
tứ tuyệt Đề Bá Nha cổ cầm đồ (Đề bức tranh Bá Nha gảy đàn cầm) của Nguyễn
Trãi (1380 - 1442) từ thế kỉ XV, bài bát cú Đề tranh Tố nữ của Hồ Xuân Hương
(1772 - 1822). Sang đến thế kỉ XX, hội họa ở Việt Nam đã phát triển với tên tuổi
nhiều họa sĩ lớn, nhưng lúc này thơ mới đã chiếm chỗ thơ cũ, thơ mới và hội họa
mới tồn tại theo hai khuynh hướng độc lập nên loại thơ đề họa ở Việt Nam cũng
không có cơ hội phát triển [42]. Học theo lối thơ vịnh tranh đời Đường, nhà họa
sĩ một thời nổi danh ở Hội quán Quảng Đông tỉnh Nam cũng góp vào ít nhất
(theo tài liệu chúng tôi thu thập được) một bức tranh ngụ ý cho bài thơ Chuyết
đề, bức họa có tên Học họa hồ. Cả bức tranh và bài thơ đã được in lại ở phần đầu
cuốn Bút hoa thơ tập cổ (chúng tôi cũng đã trích dẫn ở Chương một của luận
văn).
Một trong những thú vui hưởng thụ của người tài tử là nghệ thuật hát ả
đào. Từ Nguyễn Du (1765 – 1820), Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) , Dương
Khuê (1839 – 1902), Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905) đến Tản Đà (1889 – 1939)
đều ưa chuộng và thậm chí trở thành những nghệ nhân trong loại hình nghệ thuật
này. Trong bài viết Văn chương trong lối hát ả đào diễn thuyết tại Hội Khai Trí
Tiến Đức ngày 29/3/1923, Phạm Quỳnh có nhấn mạnh: bài viết này “bàn về lối
hát ả đào hai ba mươi năm về trước” chứ không phải lối hát ả đào hiện bây giờ
(tức năm 1923). Bài viết cũng liệt kê hàng loạt các lối hát ả đào trong giáo
phường như: lối dáng hương, lối giáo trống, lối hát nói, lối dịp ba cung bắc, lối
hát miếu, lối hát thổng, vọng cổ… và nhấn mạnh “gần đây lại có lối Sa mạc,
giọng lên giọng xuống véo von hay lắm […] nhưng lối này là lối mới”, “cô đào
ngày nay cũng hát tạp cả lý, xẩm, chèo nhưng các lối đó là lối “hát ngang” không
108
phải là chính thức trong giáo phường” [37, tr.176]. Như vậy, có thể nói: tính từ
Chu Mạnh Trinh trở về trước thì lối hát ả đào mà các nhà nho tài tử thường chơi
là lối cổ (trong giáo phường), tới Tản Đà thì lối hát ả đào đã thay đổi nhiều. Bản
thân Tản Đà ngoài sáng tác theo lối hát nói còn sáng tác cả lối xẩm, ca lý… Về
loại hình nghệ thuật này, trong số tư liệu của Phan Mạnh Danh chúng tôi thu
thập được, có thể sơ bộ đưa ra mấy nhận định sau: Thứ nhất, Phan Mạnh Danh ắt
hẳn cũng là một trong những tao nhân mặc khách ưa thích và có hiểu biết uyên
thâm về nghệ thuật hát ả đào. Bởi lẽ trong số những trước tác mà ông để lại có
một số đề cập đến lối chơi này: các cách tập Kiều trong cuốn Bút hoa có kể đến
lối thơ thổng ả đào và lối thơ thổng mới, trong cuốn Thi văn tập trích lục có trích
in ba bài làm theo điệu xẩm ả đào (Đàm thiên, Vấn nguyệt, Vọng dương); ngoài
ra trong cuốn Lịch sử và nghệ thuật ca trù: Khảo sát nguồn tư liệu tại Viện
nghiên cứu Hán Nôm, Nguyễn Xuân Diện có nói: đến thế kỉ XX ( theo chúng tôi
là khoảng những năm 20 theo nhiều tài liệu), nghề kinh doanh ca quán phát đạt,
ca quán có mặt ở khắp mọi nơi. Tiếp đến tác giả lại liệt kê những tỉnh thành ở
miền Trung và miền Bắc có hoạt động ca quán phát triển mạnh. Ở miền Bắc chỉ
có Hà Nội và Nam Định là được nhắc tới: “ở Nam Định trước cô đầu mở nhà hát
ở phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu” [12, tr.86]. Đây cũng là thời gian
Phan Mạnh Danh sống với con trai cả là Phan Thế Roanh đang là giáo sư trường
Thành Chung - Nam Định (từ năm 1927). Lúc này gia tư cũng bắt đầu thư thái
có lẽ gia đình cũng mời các nghệ nhân về hát tại gia đình (khả năng Phan Mạnh
Danh đến các ca quán là ít bởi ở các ca quán bên cạnh cô đầu hát mới xuất hiện
cô đầu rượu – đây là nguyên nhân nảy sinh nhiều lời dị nghị về thú chơi hát ả
đào, mà lúc này Phan Thế Roanh đang là giáo sư của một trường học có tiếng).
Thứ hai, lối hát ả đào mà Phan Mạnh Danh chơi đã có sự pha tạp giữa cũ và mới
nên mới có lối xẩm ả đào, hay lối thơ thổng mới (để phân biệt với lối thổng ả
109
đào). Thứ ba, Phan Mạnh Danh là người có hiểu biết về lối làm văn trong nghệ
thuật hát ả đào chứ không có thú chơi hát ả đào, vì không tài liệu nào nhắc tới
việc Phan Mạnh Danh tham gia hát ả đào ở ca quán cũng như ở gia tư. Song,
xuất phát từ đặc điểm của nghệ thuật hát ả đào là: cái thú vị nhất của nghệ thuật
ca trù (lối hát phổ biến nhất trong hát ả đào) là quá trình văn nhân sáng tạo, thể
nghiệm và thưởng thức các tác phẩm của mình nên nhận định thứ ba là không
thể có.
Phan Mạnh Danh cũng là một khách “đa tình” không kém bất cứ người tài
tử nào. Khi 20 tuổi, bắt đầu “xiêu lòng” trước một thiếu nữ tài sắc tuyệt vời,
cũng là khi Phan Mạnh Danh bắt đầu có những sáng tác đầu tiên. Đọc những câu
thơ trong tập Xuân mộng mới thấy học giả đạo Khổng những tưởng là người vô
tình, người mà ái tình khó lòng lay chuyển nay cũng yêu thương, cũng đau đớn
vì tương tư như bao kẻ khác trong nhân loại:
Nỗi tình dan díu, nỗi phân ly,
Vóc kém, xương gầy sá kể chi.
Ngoảnh mặt trông hoa càng bóng thẹn,
Cầm lòng nương gối lại hồn si.
Bi hoan từ trước âu là thế,
Hảo hợp về sau họa có khi.
Vầng nguyệt hoa đèn soi có thấu,
Tình riêng đêm ấy hỏi đêm gì?
Chỉ với tập thơ Xuân mộng, nhà nghiên cứu Đặng Thị Hảo đã đánh giá
Phan Mạnh Danh là “nhà thơ tình cuối cùng của thơ ca trung đại”, “người khép
cánh cửa mười thế kỉ văn chương phong kiến, gửi tiếng vọng vào thơ tình thế hệ
mới với một sự kì tài, độc đáo hiếm có”[21, tr.56]
Ngoài mối tình có thực nhưng đến nay đã trở thành giấc mộng, Phan
110
Mạnh Danh cũng dễ cảm thông với những khách hồng nhan, những người bạc
mệnh. Ta bắt gặp trong hàng loạt trước tác của ông những bóng hồng nhan nổi
tiếng trong lịch sử Trung Quốc như: Ngu Cơ, Tiểu Thái, Dương Quý Phi, Lương
Ý Lương, Ngọc Lan, Giả Vân Hoa, Hồng Kiều, Tiểu Thanh… Đặc biệt là trong
câu chuyện về cuộc đời các mỹ nhân ấy đều có liên quan đến chữ “tình”, sống
khổ vì tình và chết thảm thương vì tình. Truyện Kiều cũng trở thành niềm say
mê, đeo đẳng ông trong suốt hơn bốn mươi năm mà chứng tích còn lại chính là
sự ra đời của cuốn Bút hoa, tập thơ Đề Thanh Tâm Tài Nhân lục vịnh hai mươi
hồi trong Truyện Kiều. Trong số các bản dịch được công bố toàn bộ hoặc một
phần thì bản dịch nào cũng liên quan đến chữ “tình” (Đa tình hận, Tình sử, Cổ
thi trích dịch).
Ở trên chúng tôi đã xét theo những tiêu chí về đặc điểm của loại hình nhà
nho tài tử để đi đến nhận định về nhà nho tác giả Phan Mạnh Danh. Ở ông, ngoài
con người “nhà nho thuần nho” như nhận định của Phạm Quỳnh còn có nhiều
đặc điểm, tiêu biểu là “thị tài” và “đa tình” giống như nhiều nhà nho tài tử tiền
bối. Sống trong xã hội Âu hóa, lẽ ra bản thân con người sẽ bị nhào nặn, thay đổi
ít nhiều theo quy luật tất yếu “con người là sản phẩm của hoàn cảnh”, song ở
Phan Mạnh Danh những thay đổi đó là hiếm có nếu không muốn nói một cách
tuyệt đối. Ông vẫn khéo léo, âm thầm đi tiếp con đường mình đã chọn, hơn thế
còn dày công chắt lọc những tinh hoa văn hóa truyền thống để lưu giữ và bảo
tồn. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng ông là một đại biểu hiếm hoi, một nhà nho
tài tử “kiểu cũ” sống trong môi trường hiện đại hóa văn học những năm đầu thế
kỉ XX diễn ra như vũ bão nhưng lại đề kháng một cách khéo léo tránh mọi tác
động và ảnh hưởng của nó.
3.2.2. Những cống hiến của Phan Mạnh Danh trong việc phục hưng
nền văn học văn hóa truyền thống
111
Từ sau năm 1919, cái thân cử nghiệp đã chia tay với người Việt Nam, nhà
nho gặp thời ách vận, chữ Hán đến buổi lụi tàn, một điều chắc chắn là có lẽ sẽ
không ai còn cần đến chữ Hán nữa. Song theo nhà nghiên cứu Phạm Văn Khoái
thì “Chính trong giai đoạn này, trong khoảng hơn 20 năm, người ta lại bàn nhiều
đến chữ Hán nhất so với bất kỳ giai đoạn nào trước đó, số sách dạy chữ Hán
soạn và xuất bản nhiều nhất. Chữ Hán với hình bóng nhà nho văn chương cử
nghiệp thì suy tàn nhưng chữ Hán với văn hóa Việt Nam thì còn mãi” [24,
tr.265]. Có lẽ, chính vào giữa lúc giao tranh giữa cái cũ và cái mới mà cơ hồ cái
cũ có xu hướng bị mất đi mãi mãi người ta mới bắt đầu suy ngẫm cái được, cái
mất,và nhận thấy cần phải giữ gìn những tinh hoa văn hóa được tạo thành từ chữ
Hán. Không ngoài mục đích chính trị, cũng không hoàn toàn là mục đích chính
trị,Thái Tử Thiếu Bảo lãnh Lại Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh đã dành một bài
diễn văn 16 trang bằng tiếng Pháp để nói về Phan Mạnh Danh – một nhà thơ
cổ điển Việt Nam đọc trước mặt Hoàng thượng và các quan khách tại phòng Hội
nghị Huế ngày 3/5/1943. Trong bài viết này, trước sự ra đi của tác giả họ Phan
âm thầm và lặng lẽ như bao bậc nho gia khác, Phạm Quỳnh đã tỏ cái mong muốn
níu giữ, kế tục và phát huy những giá trị cổ truyền, bảo vệ nó trước những tác
động mạnh mẽ của thời cuộc. Bằng lí lẽ, Phạm Quỳnh đã cố gắng tạo một sợi
dây liên kết giữa hai thế hệ rất gần mà lại như không có liên hệ gì với nhau:
“Nếu cuộc đời của một xã hội, là ở trong sự kế tiếp liền nhau, thì bọn ta bây giờ
không có quyền bỏ mất sự liên lạc với các thế hệ người đi trước chúng ta. Dù
những thế hệ ấy chia cách nhau bằng những tính tình tư tưởng khác nhau đến thế
nào, nhưng linh hồn của người xưa cũng vẫn còn là linh hồn của chúng ta, bởi vì
những giấc mộng đã làm cho người xưa say mê cũng chính là những giấc mộng
đã ru hồn cho chúng ta từ khi chúng ta chưa oe oe tiếng khóc ra đời” để cuối
cùng ông kêu gọi mọi người hãy mau mau “thu thập những dấu vết thừa của một
112
thế hệ đã tàn và một thời kì đã hết, còn lại tới nay, trước khi mai một đi hẳn, ở
trong bóng mờ của lịch sử” [7, tr.177].
Trong suốt hàng nghìn năm Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc đã thực
hiện hàng loạt các chính sách cưỡng bức, nô dịch về mặt văn hóa trên lãnh thổ
nước ta. Song chúng đã vấp phải thái độ đề kháng gay gắt của nhân dân ta với
thứ văn hóa ngoại lai truyền vào nên kết quả không được như sự mong đợi của
chúng. Một điều ngược đời là kể từ năm 938, sau khi đất nước giành được quyền
độc lập tự chủ, các triều đại trong lịch sử nước ta lại chủ động tiếp thu có chọn
lọc một cách khá triệt để thứ văn hóa ngoại lai đã từng đề kháng trước đây.
Chính vì thế trong suốt mười thế kỷ đã hình thành ở nước ta một bề dày văn hóa
văn học với những đặc điểm cơ bản như văn hóa văn học Trung Quốc. Tuy
nhiên, dù xảy ra quá trình tiếp thu, tiếp biến văn hóa nhưng trên cơ sở điều kiện
thực tế, dân tộc ta đã có những chọn lựa, sàng lọc và cải biến những nét văn hóa
đó cho phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Sau khi thực dân Pháp xâm
lược, đặc biệt là khi chúng hoàn toàn đặt được ách đô hộ trên đất nước ta, chúng
đã mang đến một thứ văn hóa mới mẻ du nhập từ phương Tây. Chính trong cuộc
tiếp xúc văn hóa này đã làm nảy sinh sự so sánh, đòi hỏi nhận thức lại những giá
trị văn hóa cổ truyền. Khi công việc đó còn chưa ngã ngũ thì sự thắng lợi hầu
như đã ngả về phía những cái mới. Phan Mạnh Danh có lẽ cũng tự lượng sức
mình không thể đương đầu nổi với xu thế tân trào nên đã lánh mình vào thú văn
chương, lặng lẽ, âm thầm viết lại “chúc thư” của cả một thế hệ, một lớp người đã
tàn. “Chúc thư” ấy chính là những kết tinh tinh hoa của một nền văn hóa cũ đang
bị mai một và dần mất đi mãi mãi.
Cùng chung cái nôi văn hóa văn minh với Trung Quốc nhưng trong quá
trình phát triển của mình Việt Nam vẫn có những bước đi độc lập hình thành
những đặc trưng văn hóa riêng của nước mình. Trung Quốc từ cổ chí kim vẫn
113
trung thành với một loại văn tự gọi là Hán ngữ, trong khi đó ở Việt Nam, trong
khoảng mười một thế kỉ đã có sự góp mặt của ba thứ chữ: chữ Hán, chữ Nôm và
chữ Quốc ngữ ( chữ Pháp cũng có mặt ở Việt Nam theo con đường “bảo hộ” của
thực dân Pháp nhưng không có được tầm ảnh hưởng sâu rộng tạo thành truyền
thống văn hiến Việt Nam như ba thứ chữ kể trên). Từ đầu thế kỉ XX khi chữ
Quốc ngữ chính thức có được “giấy thông hành”, phổ cập trên toàn cõi Việt Nam
thì đồng thời với nó chữ Hán, chữ Nôm chính thức mất đi vị trí trong đời sống
người Việt Nam. Chữ Hán bị hạn chế, cấm đoán trong các nhà trường Pháp –
Việt mà chỉ lưu hành chủ yếu ở nông thôn, trong các tư gia nhất là trong các gia
đình vốn có truyền thống Nho học. Sự thay thế hoàn toàn bằng một thứ ngôn ngữ
văn tự mới đã vô tình “chôn vùi” đi hàng chục thế kỉ văn chương văn hóa ở Việt
Nam mà không có lấy một sự thừa tiếp. Công chúng văn học lúc này không cùng
chung tiếng nói, hay nói cách khác là “lệch pha về nặt tiếp nhận” với đội ngũ tác
giả của hàng hàng nghìn năm trước. Bản thân những người vốn là học trò chốn
nho môn là những người lên tiếng có hiệu quả nhất trong việc bài xích nền cổ
học, và cũng chính bản thân những nhà nho chính gốc ấy lại là người cất lên
tiếng nói xót xa nhất về sự ra đi nhanh chóng của những tinh hoa văn hóa cổ
truyền “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ” (Ông đồ - Vũ Đình
Liên).
Cả cuộc đời Phan Mạnh Danh đã kiên trì làm công việc “cứu vãn” văn hóa
của hàng nghìn năm trước. Ông lánh mình vào trong thú văn chương, tìm đến
những cách làm thơ, chơi thơ độc đáo, hiếm có là tinh hoa kết tụ của mười thế kỉ
văn học những mong lưu giữ lại một chút cho đời. Những hoạt động phiên dịch,
biên tập điển cố, từ điển Thực dụng thành ngữ, soạn sách Hán ngữ dạy cho học
sinh đều để thỏa một ước nguyện bắc nhịp cầu nối với thế hệ mai sau. Tuy nhiên,
đương thời ý định ấy của ông mấy ai hiểu được.
114
Như vậy, ở trên chúng tôi đã trình bay khá ngắn gọn những đóng góp của
nhà nho, tác giả Phan Mạnh Danh không chỉ trong lĩnh vực văn học mà rộng hơn
là những cống hiến âm thầm, lặng lẽ của tác giả trong việc lưu giữ, bảo tồn, phục
hưng nền văn hóa nước nhà. Đương nhiên, để làm được điều đó bản thân tác giả
phải là người có vốn tri thức uyên bác, có nhãn quan thẩm mỹ nhạy bén. Phan
Mạnh Danh xứng đáng trở thành “người thủ thành cho một truyền thống mỹ
học”.
Tiểu kết chương 3: Tóm lại, trong chương 3 dựa trên cơ sở về đặc điểm
của ba loại hình nhà nho trong văn học Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành nhận
định loại hình tác giả nhà nho đối với Phan Mạnh Danh. Trong cả đời sống và
trong văn học, Phan Mạnh Danh đều có những đặc điểm “thị tài” và “đa tình”
của một nhà nho tài tử. Cùng với Tản Đà, Phan Mạnh Danh cũng gánh trên mình
sứ mệnh của người nối hai thời đại văn học lớn trong lịch sử văn học dân tộc.
Tuy nhiên, khác với Tản Đà – người có sự thích ứng cao độ với những biến
chuyển của công cuộc hiện đại hóa văn học nói riêng và của đời sống xã hội
những năm đầu thế kỷ nói chung thì Phan Mạnh Danh lại là người có sự đề
kháng khéo léo với công cuộc hiện đại hóa văn học đó. Ông đã âm thầm viết lại
“chúc thư” của một thế hệ đã tàn, gạn lọc lấy những tinh hoa văn hóa của một
115
thời đang dần mất đi mãi mãi.
C. Phần kết luận
Trong khuôn khổ của một luận văn chúng tôi đã tạo dựng lại chân dung
tác giả văn học Phan Mạnh Danh – một tác giả đã bị lãng quên trong khoảng hơn
nửa thế kỷ nay. Những nét tiêu biểu trong tiểu sử cuộc đời, những trước tác quan
trọng còn lại đến nay là bằng chứng chân thực cho chặng đường hoạt động văn
học của ông. Với hàng loạt các trước tác có giá trị trên nhiều lĩnh vực: sáng tác
văn học, phiên dịch, biên tập… Phan Mạnh Danh xứng đáng trở thành một tác
giả, dịch giả văn học có công lao đáng được ghi nhận trong nền văn học Việt
Nam.
Xét trong cả quá trình đào tạo và tự đào tạo, trong cả cuộc đời “không có
tham dự một chút nào vào cuộc đời chính trị ở trong nước” có thể khẳng định
Phan Mạnh Danh là “nhà nho thuần nho”. Tuy nhiên, những đặc điểm “thị tài”
và “đa tình” trong đời sống và trong văn học lại khu biệt ông trở thành nhà nho
tài tử. Nối dài thêm danh sách những nhà nho tài tử trong văn học Việt Nam
nhưng sống trong bối cảnh “gió Á mưa Âu” của đời sống xã hội Phan Mạnh
Danh đã có lối ứng xử đề kháng với công cuộc hiện đại hóa văn học đang diễn ra
như vũ bão vào đầu thế kỷ XX. Những hoạt động văn học và những trước tác
của ông giai đoạn này đều đi đến mục đích lưu giữ, làm sống lại tinh hoa của một
nền văn học đã hình thành trong suốt mười thế kỷ.
Sáng tác của Phan Mạnh Danh mang đậm đặc đặc điểm của hệ thống thi
pháp văn học trung đại đặc biệt là thể loại và ngôn ngữ. Về thể loại, Phan Mạnh
Danh am tường và sáng tác trên hầu hết các thể loại thơ văn trung đại như: thơ
Đường, ký, hành, phú, kinh nghĩa, văn sách, văn tế, tựa… trong đó thể loại thơ
Đường được ông sử dụng thuần thục nhất. Về ngôn ngữ, Phan Mạnh Danh vẫn
116
kiên trì sử dụng song song hai lại ngôn ngữ văn tự chữ Hán và chữ Nôm; ông
vận dụng hoạt bát, tinh tế những điển tích điển cố trong văn học cổ phương
Đông. Điều này khiến ngôn ngữ của ông trở nên quan phương không thể đại
chúng hóa.
Hoạt động văn học của Phan Mạnh Danh kéo dài từ những năm cuối thế
kỷ XIX sang hơn bốn thập niên đầu thế kỷ XX –một thời kỳ phức tạp và nhạy
cảm trong cả đời sống lẫn văn học. Trong thời gian này, Phan Mạnh Danh đã
khéo léo bắc nhịp cầu nối, làm mờ đi vết đứt gẫy giữa hai giai đoạn văn học
bằng hàng loạt các trước tác của mình.
Ở phương diện văn hóa, Phan Mạnh Danh đã bằng các hoạt động sáng tác,
biên tập và phiên dịch đem đến cho thế hệ sau một con đường để tự “tìm về với
truyền thống”. Với ông, chữ Quốc ngữ dầu có thay thế được chữ Hán và chữ
Nôm trong đời sống sinh hoạt thì chữ Hán và chữ Nôm vẫn có những giá trị tự
trong bản thân mà không một thứ ngôn ngữ văn tự khác nào thay thế được. Hệ
thống những trước tác của ông, có thể nói là những kết tinh độc đáo của tinh hoa
văn hóa văn học của hàng nghìn năm Nho học ươm mầm, bén rễ và phát triển ở
Việt Nam.
Bên cạnh rất nhiều những mặt tích cực trong trước tác của Phan Mạnh
Danh đã được đề cập ở trên vẫn không thể phủ nhận những hạn chế vẫn còn tồn
tại trong một vài trước tác của ông. Song những hạn chế đó vẫn không làm mờ đi
những cống hiến của ông đối với nền văn học văn hóa nước nhà. Đó chính là cái
mục đích mà luận văn hướng tới để đưa Phan Mạnh Danh trở về với tấm chân
dung đích thực của một tác giả văn học.
Mặc dù đã cố gắng nhưng trong khuôn khổ một luận văn, do giới hạn thời
gian chắc hẳn có những vấn đề chúng tôi chưa kịp đề cập đến, hoặc mới điểm
117
qua sơ lược, chúng tôi sẽ cố gắng để hoàn thiện hơn trong một nghiên cứu khác.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2007), Từ điển Truyện Kiều, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
2. Phan Văn Các (2003), Từ điển Từ Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, TP Hồ Chí Minh.
3. Thiều Chửu (2005), Hán Việt tự điển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Phan Mạnh Danh, Hồng Kiều, Nxb Phan Phong Linh,7 Rue Marché Nang
tinh, Nam Định.
5. Phan Mạnh Danh (1942), Bút hoa thi thảo, Nxb Nam Định.
6. Phan Mạnh Danh (1953), Bút hoa thơ tập cổ, Nxb Trí đức thư xã, Hà Nội.
7. Phan Mạnh Danh (2007), Xuân mộng (Tôn Thất Lương chú giải), Nxb
Thanh Hoa thư xã,Hà Nội.
8. Phan Mạnh Danh (phiên dịch), Tình sử (của Long Tử Do), Nxb Nhà in
Phạm Văn Sơn, Sài Gòn.
9. Phan Mạnh Danh (phiên dịch) (1953), Tình sử (của Long Tử Do), Nxb
Thanh Hoa thư xã, Hà Nội.
10. Phan Mạnh Danh (1953), Cổ thi trích dịch, Nxb Thanh Hoa thư xã, Hà
Nội.
11. Phan Mạnh Danh (1942), Thi văn tập trích lục, Nxb Nguyễn Trung Khác,
Nam Định.
12. Nguyễn Xuân Diện (2007), Lịch sử và nghệ thuật ca trù: Khảo sát nguồn
tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Thế giới, Hà Nội.
13. Nguyễn Du (2004), Truyện Kiều, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
14. Phạm Văn Duyệt (1928), Hát ả đào, Nxb Kim Đức Giang, Hà Nội.
15. Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1942), Lược khảo tiểu thuyết Tàu, Thanh
118
Nghị, số 11, tr.14.
16. Phan Cự Đệ (1993), Hàn Mặc Tử: Tác phẩm phê bình và tưởng niệm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê
Trí Dũng, Hà Văn Đức (2005), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
18. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Đức Mậu (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Tản
Đà về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Hà Nội.
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Đặng Thị Hảo (2003), Thơ tình cổ trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ,
Thư viện Quốc gia Việt Nam.
22. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
23. Hội đồng tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
24. Phạm Văn Khoái (2001), Một số vấn đề chữ Hán thế kỷ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Phan Phong Linh, Thắng cảnh Việt Nam qua thi ca, Nxb Tủ sách văn
nghệ.
26. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế
kỉ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 –
1945, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã văn học trung đại Việt
119
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Nam, “Tình sử loại lược” lưu truyền và ảnh hưởng ở Việt Nam,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
30. Nguyễn Nam, Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết, http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn
31. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
32. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Nxb KHXH, Hà Nội.
33. Thanh Tâm Tài Nhân (2006), Kim Vân Kiều truyện, Nxb Văn học, Hà
Nội.
34. Đào Đức Nhuận, Tản mạn về thơ thuận nghịch độc, http://thuhoiquan.net/
ngày 18 / 11 / 2011.
35. Phạm Đan Quế (2002), Bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, Nxb Thanh Niên,
Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Phạn Đan Quế (2002), Thú chơi tập Kiều, Nxb Văn học, Thành phố Hồ
Chí Minh.
37. Phạm Quỳnh, (1923), Văn chương trong lối hát ả đào, Tạp chí Nam
Phong, tập 12 (số 69), tr.171-188.
38. Phan Thế Roanh (1953), Điển cố truyện và thơ thường dùng làm văn liệu,
Nxb Nam Sơn, Hà Nội.
39. Phan Thế Roanh sao lục, Phan Mạnh Danh thi văn tập (Lời chú giải của
thi sĩ Tôn Thất Lương), Nxb Thanh Hoa thư xã, Hà Nội.
40. Phan Thế Roanh (1964), Hán văn lược khảo, Nxb Chin Hoa thư cục, Sài
Gòn.
120
41. Lê Văn Siêu(2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
42. Lưu Hồng Sơn, Mối quan hệ giữa thơ ca và hội họa từ Trung Quốc đến
Việt Nam, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
43. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
44. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
46. Quách Tấn (1960), Mùa cổ điển, Nxb Tân Việt.
47. Quách Tấn (Quách Giao sưu tầm và biên soạn) (2000), Bóng ngày qua
(Bàn Thành tứ hữu), Nxb Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
48. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
49. Trần Thị Băng Thanh (2011), Sức hấp dẫn của Truyện Kiều với danh sĩ
Bắc Hà – Trường hợp Phan Mạnh Danh, Tạp chí Hán Nôm, tập 1 (số 104),
tr. 33-42.
50. Nguyễn Toàn Thắng (2011), Hàn Mặc Tử, Quách Tấn và Bích Khê trong
không gian văn hóa Đường thi, http://vanvn.net/ ngày 25/7/2011.
51. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương (Giới thiệu và tuyển chọn), Phan Bội
Châu về tác gia và tác phẩm (2003), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
53. Tạp chí Tri Tân 1941 – 1945, Phê bình văn học (sưu tầm tư liệu), Nxb
Hội nhà văn.
54. Nguyễn Huy Tự (1950), Truyện Hoa tiên (Vân Bình Tôn Thất Lương dẫn
giải và chú thích), Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
121
55. Nguyễn Quảng Tuân (2002), Tập Kiều vịnh Kiều, Nxb Văn học, Hà Nội.
56. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX những vấn đề
lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục.
57. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
58. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử
và văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
60. Trần Ngọc Vương (2010), Giáo trình Văn học Việt Nam ba mươi năm
đầu thế kỉ XX, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
122
61. Nguyễn Văn Y (sưu tập) (1973), Thơ vịnh Kiều, NXB Lạc Việt.
123
Ảnh 1: Nhà thờ họ Phan tại xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
124
Ảnh 2: Cốt của Phan Mạnh Danh khi mang từ ngoài Bắc vào Nam
Ảnh 3: Mộ cụ Phan Trứ - ông nội của Phan Mạnh Danh tại cánh đồng
125
làng xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.